Dân Chúa Âu Châu

chuongtoihonsangTình yêu Thiên Chúa

Chúa Nhật Tuần IV Mùa Chay Năm B

"Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ".

Lời Chúa: Ga 3, 14-21

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa".

Suy Niệm 1: Cựu Ước và Tân Ước

Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy Cựu Ước và Tân Ước có một sợi dây liên hệ mật thiết với nhau. Thực vậy, nếu Cựu Ước là lời hứa, là hình ảnh, là biểu tượng, thì Tân Ước chính là sự thật được chính Thiên Chúa thực hiện.

Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể, chẳng hạn như Adong là một hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô. Thực vậy, chính thánh Phaolô đã diễn tả trong bức thư thứ nhất gởi giáo dân Côrintô như sau: Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, còn Adong thứ hai là Đức Kitô thì từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy. Còn người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy... Bởi một người mà nhân loại phải chết, thì nay bởi một người mà nhân loại được sống.
Tiếp đến, Isaác, cũng là một biểu tượng cho Đức Kitô, bởi vì giữa Isaác và Đức Kitô có nhiều điểm rất tương đồng. Nếu Isaác được cha mình là Abraham rất mực yêu thương, thì Đức Kitô cũng được Cha mình là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Nếu Isaác được dâng làm hy lễ, thì Đức Kitô cũng được dâng làm hy lễ. Nếu Isaác vác củi lên núi để dùng vào việc hy tế, thì Đức Kitô cũng đã vác thập giá lên đỉnh Canvê, để rồi hiến dâng mình cho Thiên Chúa.

Và hơn thế nữa, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh để so sánh, đó là hình ảnh con rắn đồng trong hoang địa. Ngài nói: Maisen đã treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin vào Ngài thì sẽ được sống.
Chắc hẳn khi gợi lên hình ảnh này, Chúa Giêsu đã nhớ tới một biến cố đã xảy ra trong Cựu Ước được sách Dân Số ghi lại như sau: Bấy giờ dân Do Thái kêu trách Thiên Chúa và Maisen về những khó khăn gặp phải trên đường tìm về miền đất hứa. Thiên Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Trước thảm hoạ này, họ đã ăn năn hối lỗi và nói với Maisen: Chúng tôi đã phạm tội phản nghịch với Chúa và với ngài. Xin ngài hãy cầu Chúa xua đuổi lũ rắn nay đi. Và Maisen đã cầu nguyện cho dân chúng. Chúa truyền Maisen đúc một con rắn bằng đồng, treo nó lên một chiếc cột, để bất cứ ai bị rắn độc cắn, chỉ việc nhìn lên con rắn ấy là được chữa lành. Chúa Giêsu đã so sánh việc con rắn đồng bị treo lên với việc Ngài bị đóng đinh trên thập giá.
Và cũng như dân Do Thái, bất kỳ ai trong chúng ta, nếu biết nhìn lên thập giá, với niềm tin tưởng và sám hối, sẽ được chữa lành mọi vết thương do tội lỗi gây ra, sẽ được tẩy trừ nọc độc của tội lỗi. Bởi đó hãy ngước nhìn thập giá và hãy suy nghĩ đến tình thương mà Ngài đã dành cho chúng ta qua mầu nhiệm cứu độ mà chúng ta sắp sửa mừng kính.

Suy Niệm 2: Tình yêu của Thiên Chúa

Trong sinh hoạt thường ngày, chúng ta thường phân chia thành hai lãnh vực, đạo và đời. Thiêng liêng và trần tục. Phàm những gì thuộc về thế gian, thuộc về trần tục, nếu chưa phải là tội lỗi, thì tự bản chất vốn dĩ đã là thấp kém. Từ đó chúng ta dễ đi tới một quan niệm đồng hoá thế gian với tất cả những gì là xấu xa và tội lỗi. Cuối cùng thì thế gian bị coi là một trong ba kẻ thù chính của con người. Trong ba kẻ thù ấy, thì ma quỷ đứng hàng đầu, nhưng có lẽ không trực diện bằng chính kẻ nội thù là xác thịt của chúng ta và kẻ thù gần cận nữa là thế gian.
Với một quan niệm như thế, hẳn người ta sẽ ngạc nhiên nếu không phải là lúng túng trước lời khẳng định của Chúa Giêsu: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống đời đời. Phúc âm không nói: Thiên Chúa yêu thương dân Ngài, yêu thương Hội Thánh của Ngài hay yêu thương những người Ngài đã tuyển chọn, nhưng lại nói: Ngài yêu thương thế gian. Tại sao lại như thế?

Tôi xin thưa: Sở dĩ Thiên Chúa yêu thương thế gian là bởi vì chính Ngài đã tạo dựng nên nó chứ không phải là một ai khác. Thực ra nếu có cái thế gian nào tội lỗi thì phải hiểu đó là một giới nào đó, một người nào đó, một loại người nào đó sống trong thế giới loài người hay trong chính Giáo Hội mà thôi. Ngôn ngữ thông thường vốn chia xã hội thành những giới khác nhau, chẳng hạn giới thanh niên, giới nghệ sĩ, giới tu sĩ. Đồng thời người ta cũng nói đến những giới bê bối như giới xì ke, giới đầu trộm đuôi cướp. Nhưng ngay cả những giới tội lỗi này cũng chưa hẳn đã bị kết án hay bị loại trừ bởi vì Đức Kitô đã đến chỉ vì họ và cho họ: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống thế gian không phải để kết án, nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu độ.
Như vậy thì xét cho cùng chỉ có ma quỷ mới thực sự và vĩnh viễn bị lên án là kẻ thù, còn tất cả vẫn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa và có được niềm hy vọng cứu độ. Đức Kitô là ánh sáng và ánh sáng thì không bao giờ kỳ thị, phân biệt người lành kẻ dữ, chỗ cao ráo sạch sẽ, ánh sáng soi vào và làm cho vẻ cao đẹp thêm rực rỡ hơn. Nhưng ánh sáng cũng rọi vào chỗ sình lầy nhơ bẩn ấy để mà dọn dẹp, để mà tẩy uế. Chỉ có những ai từ chối ánh sáng, khép kín lòng mình, trốn tránh ánh sáng, che đậy sự thật mới không được cứu độ.
Noi gương Chúa Giêsu chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng cho trần gian, hay nói một cách khác, chúng ta cũng phải yêu mến thế gian bằng một tình thương cứu độ, nghĩa là yêu thương và sẵn sàng dâng hiến đời mình để làm cho thế gian được sáng hơn, được đẹp hơn, nhờ đó mà được tham dự vào vinh quang phục sinh của Đức Kitô.

Suy Niệm 3: Hãy đến cùng ánh sáng

(Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Hôm ấy, Chúa Giêsu ngỏ lời với Ni-cô-đê-mô:
“Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
Bóng tối che chở, yểm trợ cho kẻ bất lương
Nhờ bóng tối, phường đạo tặc có cơ hội làm ăn. Trời càng tối trộm cướp càng vui thích vì càng dễ tung hoành.
Nhờ bóng tối, nhờ đèn mờ, nhiều tay ăn chơi có thêm cơ hội làm điều tội lỗi trong các rạp chiếu phim, trong các phòng karaoke mờ ám.
Nhờ bóng tối ở các góc phố, các đoạn đường vắng, các tay cướp của giết người mới có thời cơ hành động.
Đêm đen và bóng tối là bạn đồng minh của phường trộm cướp, là chốn nương tựa của kẻ bất lương, của những tay chơi bời truỵ lạc.
Thế nên Chúa Giêsu nói: "Người đời (người ác) chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19-20)
Trong khi bóng tối bao bọc che chở kẻ bất lương, đồng loã với phường tội lỗi, thì ánh sáng lại có khả năng bảo vệ, che chở cho những kẻ ngay lành.
Ánh sáng bảo vệ người ngay lành
Trong đêm tối giữa rừng sâu, người ta cần đốt lên một đống lửa thật to. Anh lửa bừng lên giữa đêm đen sẽ xua đi những ác thú lăm le vồ xé con người.
Trên những con đường tối tăm thường có trộm cướp rình rập, người ta thắp thêm nhiều ngọn đèn đường. Ánh đèn sáng có khả năng bảo vệ khách bộ hành trong đêm tối.
Chung quanh các cơ quan trọng yếu, những kho chứa hàng quan trọng, người ta bố trí nhiều đèn điện toả sáng suốt đêm để phòng quân gian đột nhập.
Ánh sáng soi đường cho người công chính
Người Việt chúng ta thường nói: "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng." Khi phải ở gần "mực", tức ở trong môi trường thiếu văn hoá, thiếu đạo đức thì sớm muộn người ta cũng bị tiêm nhiễm những thói xấu tật hư.
Trái lại, nếu được ở gần "đèn", tức ở trong môi trường lành mạnh, môi trường đạo đức, người ta sẽ được thấm nhuần điều hay lẽ phải và được cảm hoá nên xứng danh con người.
Giai thoại về cuộc đời Thầy Mạnh Tử (372-289 trước Công Nguyên) cho thấy rõ hơn nội dung nầy.
Lúc còn nhỏ, Mạnh Tử ở gần nghĩa trang. Ngày ngày thấy người ta chôn cất người chết với những lời than khóc ai oán thì cậu bé cũng bắt chước chôn các con vật chết, cũng giả vờ kêu than khóc lóc.
Thân mẫu của Mạnh Tử không muốn con mình bị tiêm nhiễm lối sống buồn thảm ở bãi tha ma, nên mới dời nhà đến gần phố chợ. Sống nơi đây, tuy nhộn nhịp vui vẻ hơn, nhưng Mạnh Tử lại học theo thói côn đồ của một số trẻ ranh ma đầu đường xó chợ, ưa trộm cắp, chửi tục và đấm đá nhau. Người mẹ một lần nữa quyết định phải dời nhà đến gần trường để xa tránh môi trường xấu.
Từ ngày sống cạnh nhà trường, ngày ngày thấy bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến trường, Mạnh Tử cũng xin mẹ cho đi học.
Học tập chưa được bao lâu, cậu lại bị bạn xấu rủ rê bỏ học đi chơi.
Hôm nọ, khi người mẹ đang dệt vải nửa chừng chợt thấy Mạnh Tử cắp sách về nhà không muốn học nữa, bà lặng lẽ cầm kéo cắt nát tấm lụa đang còn dở dang trên khung cửi.
Quá tiếc xót tấm lụa quý, Mạnh Tử hỏi lý do, người mẹ trả lời: "Con đang đi học mà bỏ nửa chừng thì có khác chi mẹ dệt tấm lụa chưa xong mà cắt bỏ đi vậy."
Thế là từ đó, Mạnh Tử giác ngộ, ngày đêm miệt mài đèn sách và sau nầy trở thành bậc thánh hiền của người Trung Quốc.
* * *
Qua Tin Mừng Gioan được trích đọc hôm nay, Chúa Giêsu tỏ ra buồn phiền vì người đời yêu chuộng tối tăm và xa lìa ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19)
Và Người mời gọi mọi người xa lánh "bóng tối" để đến cùng "ánh sáng."
Xa lánh bóng tối là giã từ môi trường xấu, bạn bè xấu, xa lánh những cơ hội và hoàn cảnh khiến chúng ta phạm tội và đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đến cùng ánh sáng là đến cùng Đức Kitô, đón nhận giáo huấn của Người, để cho Lời Chúa trở thành ngọn đèn dọi bước ta đi; giúp chúng ta nhận ra và tẩy xoá những vết đen trong cuộc đời và giúp ta sống quang minh chính đại.
Lạy Chúa Giêsu, dù chúng con rất ước ao đến cùng ánh sáng nhưng xác thịt yếu hèn vẫn lôi kéo chúng con về với bóng tối.
Xin cho chúng con có đủ bản lãnh và quyết tâm để lìa xa "mực" và sống gần "đèn".

Suy Niệm 4: Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.

(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu báu cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm khắp triều đình.
Các hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều đình thì xu nịnh để được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng mình để bảo vệ nhà vua, để chết thay cho vua.
Nhà vua rất đơn sơ nên dễ tin vào những lời nịnh hót của họ và ban phát cho họ ân lộc dư dầy khiến ngân khố của triều đình cạn kiệt.
Cả triều đình chỉ có quan ngự y là người trung thành. Ông đã nhiều lần can gián vua, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.
Ngày nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y trình với vua là bệnh vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.

Nghe tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!
Khi không thể tìm được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong triều.
Nghe tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều trốn biệt tăm.
Túng quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng không còn ai lai vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày huyên náo, giờ nầy vắng lặng như bãi tha ma!
Bấy giờ vua chỗi dậy, tỉnh ngộ rồi cười ra nước mắt cho nhân tình thế thái.
Duyên do là quan ngự y và cũng là người trung nghĩa với vua, đã khéo dựng lên kịch bản nầy, đề nghị với vua giả vờ đau nặng, bỏ cơm bỏ cháo, để thử thách lòng người!
* * *
Cuộc đời là thế! Ai có đủ yêu thương để dám hy sinh tính mạng, dám chết thay cho người thân thiết của mình, nói chi đến việc chết thay cho kẻ thù nghịch?
Vậy mà có một Đấng đã hy sinh tính mạng cho kẻ phản bội mình. Để hiểu Đấng ấy đã hy sinh như thế nào, chúng ta hãy trở lại với câu chuyện rắn đồng thời Mô-sê.
Thời ấy, trong hành trình bốn mươi năm trong hoang địa, có lần dân Do-Thái phải lâm cảnh đói khát dày vò nên kêu trách Thiên Chúa và Mô-sê. Thế rồi dân chúng bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Người ta lại chạy đến kêu cứu Mô-sê. Bấy giờ Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê đúc con rắn đồng, treo lên trụ cờ cao, để làm phương thuốc chữa rắn cắn. Ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được cứu sống.

Ngày nay, để cứu nhân loại tội lỗi lâm cảnh điêu linh và phải chết, Thiên Chúa không thể dùng rắn đồng làm phương trị liệu mà phải dùng đến một phương thuốc khác, đó là bằng chính Thân Thể Chúa Giêsu chết treo trên thập giá.
"Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời."
Thiên Chúa Cha đã lấy mạng đổi mạng. Lấy sinh mạng vô cùng cao quý của Người Con Một yêu quý để đổi lấy sinh mạng khốn hèn của loài người tội lỗi. Thật là điều không thể tưởng tượng được.
Nhưng tình yêu của Thiên Chúa chưa dừng lại ở đó. Tình yêu cứu độ của Ngài còn vươn lên cao hơn. Không những chỉ trao ban Con Một chết thay cho chúng ta mà thôi, không những chỉ ban cho chúng ta được cùng sống lại với Chúa Giêsu mà thôi, Thiên Chúa Cha còn thương cho chúng ta được cùng lên trời, cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời. Bài đọc thứ hai, bài thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay nhắc chúng ta điều đó: "Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời." (Ep 2, 4-6)
Thế là từ thân phận của tên tử tội đáng phải chết đời đời vì tội lỗi của mình, chúng ta được Chúa Giêsu lấy mạng Ngài đổi mạng cho chúng ta, thứ tha cho chúng ta muôn vàn tội lỗi, ban cho chúng ta được sống lại trong đời sống mới, rồi lại được đưa lên trời để "cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời".
Thật là một tình yêu không còn biên giới.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta cảm nhận thật sâu sắc tình yêu cao vời và sâu thẳm của Thiên Chúa, để sống xứng đáng hơn với tình yêu đó và đừng để công trình cứu chuộc của Ngài hoá ra vô hiệu nơi chúng ta.

Suy Niệm 5: Như hoa hướng dương

(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một thời người ta đề nghị loại bỏ bài hát "Tình yêu Thiên Chúa" của nhạc sĩ Thể Thông ra khỏi danh mục những bài được phép hát trong phụng vụ. Họ cho rằng: không thể ví tình yêu Thiên Chúa như tình yêu của đôi nam nữ hẹn hò nhau giữa đêm trăng sao được. Tình yêu trăng sao là tình yêu mờ ảo, là những quan hệ không rõ ràng và bất chính. Một tình yêu đích thực phải quang minh chính đại, phải rõ như ban ngày mới đích thực là tình yêu. Bao lâu tình yêu đang còn che dấu, chưa công khai hoá tình yêu, bấy lâu vẫn còn là những quan hệ bất chính và tội lỗi.
Thường tình là thế! Ai cũng mong có được những tình yêu trong sáng, đơn sơ, chân thành. Ai cũng mong cuộc đời không còn mảng tối cần che đậy hay lấp liếm. Ai cũng muốn đến với nhau trong tình bạn trong sáng, trong tình người chân thành. Thế nhưng, "lực bất tòng tâm". Con người đến với nhau vẫn còn đó bóng tối của lợi dụng, của ích kỷ. Tình yêu con người sao vẫn còn đó những mảng tối của giả dối, thiếu chân thành. Vẫn còn đó những người thích đi đêm với nhau trong những cuộc tình vụng trộm, trong những phi vụ làm ăn bất chính. Một người con gái bình thường không thể đón nhận lời tỏ tình đại loại như: "anh yêu em, nhưng đừng cho ai biết". Thế nhưng, thực tế vẫn còn đó những cô gái tham tiền nên chấp nhận sống trong bóng tối làm vợ nhỏ, vợ bé của các đại gia. Ở đời vẫn còn đó những mối tình vụng trộm của "chồng chung vợ chạ", của vô luân thất đức. Xem ra thế lực của bóng tối quá mạnh đến nỗi đã bao trùm khắp mọi nơi và phủ kín nhiều tâm hồn con người. Nhiều người đã mất ý thức về tội. Nhiều người đã chai lỳ trước tiếng nói lương tâm. Bóng tối đã làm cho con người mất đi sự trong sáng, đơn sơ và chân thật của tâm hồn.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: "ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng". Đó là những tâm hồn đang chết dần, chết mòn vì thiếu ánh sáng, thiếu sức sống của chân thiện mỹ. Họ tự nguyện đi vào bóng tối cũng đồng nghĩa với việc khước từ sự sống để đi vào cõi chết. Adam - Eva đã rời áng sáng để lẩn trốn trong bóng tối khiến họ mất bình an, tìm lá che thân, và bản án đau khổ và sự chết đã lận vào kiếp người.
Muôn loài luôn hướng tìm về ánh sáng. Quy hướng về ánh sáng vạn vật sẽ xanh tươi. Sống dưới ánh sáng vạn vật sẽ phát triển đúng theo chủng loại của chúng. Con người được tạo dựng để trở thành ánh sáng cho trần gian, nhưng con người lại tìm về bóng tối sẽ trở thành vong thân. Con người sẽ đánh mất tính bổn thiện của thuở ban đầu tạo dựng. Con người tự nguyện nghiêng chiều và chạy theo bóng tối tội lỗi để thoả mãn dục vọng đê hèn, thoả mãn tính xác thịt yếu đuối, con người đang đánh mất dần căn tính của mình.
Mùa chay mời gọi chúng ta nhìn lại mình đang ở trong ánh sáng hay trong bóng tối u mê? Tâm hồn tôi có thực sự được mở rộng cho ánh sáng của Chúa chan hoà khắp tâm hồn, hay đang bị che kín bởi những thói hư tật xấu?

Chúng ta hãy thử đến bệnh viện của Chúa, để kiểm điểm lại mình, để được Chúa chữa lành và sửa đổi cho tốt hơn. Chúng ta có mang những bệnh tật tâm hồn cần sửa đổi trong mùa chay thánh này hay không? Như một tác giả vô danh đã kể lại một lần đến bệnh viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng mình đang bị bệnh. Ông kể rằng:
Khi đo huyết áp cho tôi, Chúa cho biết tôi đang thiếu Lòng Nhân Ái. Và khi lấy nhiệt độ, nhiệt kế đã nhảy vọt đến 400 độ Ích Kỷ.
Điện tâm đồ cho biết trái tim thiếu những rung động Yêu Thương, một số mạch máu bị tắc nghẽn, vì lớp cholesterone Ghen Ghét.
Tới khoa chỉnh hình, tôi khám phá mình đi lại khó khăn.

Tôi không thể tiến lại ôm người anh em vì lòng Kiêu Hãnh cản ngăn, cánh tay của tôi bại xuội.
Chứng Cận Thị làm mắt tôi không thể nhìn xa hơn cái vẻ bên ngoài của người khác.
Quen những tiếng ồn ào thường ngày, tai tôi bị Điếc Đặc, không còn nhạy bén với những tiếng thì thầm yêu thương.
Con xin cảm ơn Ngài, Bác Sĩ Giêsu, vị Lương Y nhân hậu! Chúa đã chữa trị cho con miễn phí hoàn toàn vì lòng thương xót.
Con cam kết khi xuất viện sẽ tiếp tục dùng toa thuốc của Chúa, một cách trung thành và đều đặn, nhờ những dược liệu tự nhiên, Chúa hướng dẫn cho con, trong sách thuốc Tin Mừng của Chúa.
Mỗi buổi sáng, khi thức dậy, con sẽ dùng ngay một chén trà Tạ Ơn. Trước khi làm việc, con sẽ nhớ uống một thìa súp Nụ Cười Thân Ái!
Và mỗi giờ, con sẽ uống thêm một viên Nhẫn Nại, với một ly nước Nhân Bản, và lạy Chúa, khi về lại nhà, con sẽ chích một mũi thuốc Tình Thương trợ lực, rồi trước khi đi ngủ, con sẽ uống thêm 2 viên Lương Tâm Bình An.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy để cho ánh sáng của Chúa chan hoà trong tâm hồn để đẩy lùi, xua tan những ký sinh trùng đang làm băng hoại tâm hồn chúng ta. Nguyện xin Chúa là Đấng đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài luôn gìn giữ, che chở chúng ta trong ân thánh của Ngài. Amen.

Suy Niệm 6: Thiên Chúa yêu thế gian

(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Thiên Chúa yêu con người ngay lúc con người đang còn trong tình trạng tội, nghĩa là, Ngài yêu con người ngay cả khi họ còn đang chống cưỡng Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho Lời Ngài nhập thể làm người, Ngài đã ban Thánh Thần thúc đẩy và mời gọi con người trở lại với Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu con người vô cùng.

I. Thiên Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái cho dù họ phản loạn bất trung

Dân Do Thái là một gương điển hình cho thấy tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển chọn Abraham, đã mời ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho; Ngài hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, sẽ ban cho ông có đất sở hữu, sẽ làm cho ông trở thành mối chúc lành. Abraham đã quảng đại đáp trả lời mời của Thiên Chúa, và trở thành ông tổ của dân tộc Do Thái.
Dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương yêu đặc biệt. Ngài đã dùng Môsê để giải phóng dân khỏi ách nô lệ bên Aicập, ban cho họ đất Canaan, cho họ những vị thẩm phán, các vua, và các tiên tri để hướng dẫn chăm sóc dân nhân danh Ngài. Thế nhưng theo sách Ký Sự (Sử Biên Niên), mọi tầng lớp dân đều phạm tội chống đối Thiên Chúa, kể cả các đầu mục, tư tế, và các tầng lớp lãnh đạo. Thiên Chúa đã sai các tiên tri như những sứ giả đặc biệt đến với dân, nhưng họ cũng chẳng nghe, nên Chúa đã để họ phải lưu đày ở Babylon.
Tuy để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng Thiên Chúa vẫn thương dân Ngài; Ngài đã dùng vua nước Ba-Tư là Kyrô cho dân Do Thái lưu đày được trở về quê cha đất tổ của mình. Những tai họa hay đau khổ xảy đến giúp dân Do Thái nhận ra những sai trái trong hành vi tư tưởng của mình, để rồi họ trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng đã để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng cũng là Đấng dẫn dân trở về quê hương.

II. Thiên Chúa yêu ta ngay khi ta còn là tội nhân

Thường người ta chỉ yêu người đẹp, chỉ mến người tốt. Nếu ai làm điều dữ mà bị nạn, người ta nói “đáng đời nó;” hơn nữa, người ta còn đòi Thiên Chúa trả oán khi bị oan nghiệt. Tuy nhiên, tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng và suy nghĩ của loài người. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng từ bi; Ngài yêu thương con người vô cùng nên ngay khi con người còn là tội nhân, thì Ngài vẫn yêu thương và tìm cách cứu độ con người. Thiên Chúa luôn tìm cách giúp ta trở lại với Ngài, để ta thành người đẹp và dễ thương thật sự. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, và cũng là Đấng giúp ta nên đẹp và tuyệt hơn.
Thực vậy, từ khi Thiên Chúa dẫn dân ra khỏi Aicập qua Môsê, dân Do Thái nhiều lần không tin tưởng, bất tuân, và làm trái ý Thiên Chúa; chẳng hạn họ đòi nước và muốn ném đá Môsê, đòi ăn thịt giữa nơi hoang địa, thờ bò vàng khi Môsê đang cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa trên núi, v.v.; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương tha thứ cho dân. Mỗi người chúng ta cũng đã phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, không chỉ một lần nhưng nhiều lần; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương, Ngài vẫn mời gọi chúng ta trở lại với Ngài, Ngài ban cho chúng ta bao nhiêu dịp để nhận ra tình yêu vô bờ bến, để chúng ta ăn năn hối lỗi trở về với Ngài.
Thiên Chúa không chấp nhất chúng ta xúc phạm đến Ngài bao nhiêu lần, và nặng nhẹ thế nào. Điều quan trọng là chúng ta trở về với Thiên Chúa. Như người Cha trong dụ ngôn người con hoang trở về, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta đã mất. Thiên Chúa hạnh phúc khi chúng ta trở lại với Ngài. Cả trời đất đều hân hoan khi một người tội lỗi ăn năm sám hối (Lc.15, 10.7).

III. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi…

Tình yêu Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Không gì có thể sánh với tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Qua những thụ tạo hữu hình, con người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa; nhưng với biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, con người nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa một cách đặc biệt và có sức thuyết phục hơn.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga.3, 16). Đức Yêsu là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Có thể nói, không bao giờ Thiên Chúa kết án con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì tình yêu, để con người được chia sẻ sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngài muốn con người trở lại với Ngài và được sống. Ngài không muốn con người phải trầm luân vĩnh cửu.
Thiên Chúa yêu con người, Thiên Chúa đã đang và sẽ làm tất cả để được con người. Nói theo ngôn ngữ nhân loại, Thiên Chúa đang cố gắng làm “hết sức và hết khả năng” để con người yêu Ngài. Trong tình yêu không có võ lực, không có áp bức. Chỉ có tình yêu chân thực khi sống trong sự thật và tự do. Võ lực, áp bức, gian dối không đi chung với tình yêu. Tình yêu đòi tự do và sự thật. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, và chắc chắn con người sẽ rung động trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ai đáp trả tình yêu, thì sống và hạnh phúc trong tình yêu. Ai từ chối tình yêu, thì không hạnh phúc và không có sự sống đích thực. Chính hành vi từ chối tình yêu, làm người ta bất hạnh. Hành vi làm điều dữ, làm người đó đau khổ, và làm người khác bị ảnh hưởng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, đâu là hành vi xấu thật sự? Khi nào người ta phạm tội?
2. Bạn có nghĩ rằng đau khổ là hậu quả của tội không? Tại sao?
3. Tại sao Đức Yêsu lại là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người?

Suy Niệm 7: Thiên Chúa yêu thương

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau chia sẻ về tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại. Các du khách có dịp viếng thăm nhà thờ chính tòa Gengiba bên Phi Châu, sẽ nhìn thấy lời chào đón này được viết ngay trên tường ngôi thánh đường: Bạn đang đứng trong nhà thờ của Đức Kitô.
Ngôi nhà thờ này đã được xây dựng ngay trên phần đất trước kia được dùng để tập trung buôn bán, trao đổi những nô lệ da đen như những súc vật. Đặc biệt là bàn thờ được đặt trên một tảng đá nơi những nô lệ bị đánh đòn. Lý do bị đánh đòn trước khi đem bán là để kiểm tra sức khỏe của họ.
Cây thánh giá bằng vàng được treo trên một chiếc cột trụ có khắc tên bác sĩ Livdy Stone, một người Anh đã từng mạnh mẽ và can đảm lên tiếng chống lại tệ nạn buôn bán nô lệ. Cột trụ này là nơi bác sĩ vẫn thường đứng để thuyết trình, để hô hào cổ vũ cho việc giải phóng nô lệ. Mãi đến ngày 16.6.1873 việc buôn bán nô lệ tại Phi châu mới bị ngăn cấm bởi một đạo luật được ban hành. Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.

Chiếc cột trụ đã trở nên như một dấu chỉ, gợi nhớ đến những hy sinh gian khổ và ngay cả cái chết để giải phóng cho những nô lệ da đen và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đối lại với thù hận là yêu thương chân thật, đối lại với bóc lột là tự do và công bằng, đối lại với chiến tranh là hòa giải và tha thứ.
Câu chuyện trên gợi lên cho chúng ta những ý nghĩ về tình thương của Thiên Chúa. Thực vậy, trong Cựu ước, Thiên Chúa đã truyền cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo lên nơi hoang địa, để những ai bị rắn độc cắn cứ việc nhìn lên con rắn đồng ấy là được chữa lành. Và như thế, dân Do Thái đã được cứu khỏi hiểm họa rắn độc trong cuộc xuất hành tìm về miền đất hứa. Sự việc trên cũng chỉ là một biểu tượng, một hình ảnh tượng trưng cho những gì Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc chúng ta.
Đúng thế, để cứu chuộc chúng ta, Ngài chỉ cần phán một lời, nhưng Ngài đã không làm thế, trái lại, Ngài đã đi cho tới tận cùng những nỗi khổ đau của thân phận con người. Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh, mọi đắng cay và sau cùng đã chấp nhận chính cái chết ê chề trên thập giá, để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi, để cứu chúng ta khỏi nọc độc của thế gian.
Đây là điều mà Chúa Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Phúc âm. Chẳng hạn qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã nói với Nicôđêmô: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một của mình để những ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống muôn đời. Nơi khác Ngài bảo: Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Trong bữa Tiệc Ly, Ngài phán với các môn đệ: Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Rồi thì Ngài cũng đã xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta…
Tất cả phải chăng để chứng tỏ một tình yêu bao la mà Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bởi đó, trong Mùa Chay này chúng ta hãy dành lấy một vài phút để suy nghĩ và cảm tạ tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem, chúng ta đã làm được những gì để đáp trả tình yêu thương ấy.

Suy Niệm 8: Nhìn lên ánh sáng

(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:
1) Nhận thức về tội lỗi của ta. Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã chịu treo trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.
2) Nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hy sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã “yêu ta đến nỗi đã ban Con Một” của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà Đức Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã hy sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.

3) Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.

Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng. Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.
2) Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không?
3) Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong mùa Chay này không?

Suy Niệm 9: Chuộng tối hơn sáng

(‘Manna’)

Cúp điện bất ngờ là điều gây khó chịu.

Trong bóng tối, người ta đi tìm hộp quẹt, tìm ánh sáng để thắp lên một ngọn nến, một cái đèn dầu. Nói chung chẳng ai thích bóng tối, vì bóng tối là dấu hiệu của lạc hậu, thiếu văn minh.
Ấy thế mà cũng có những người mê bóng tối. Bóng tối của quán bia ôm, của Karaokê, của sàn nhảy... Phải bỏ tiền ra để mua được bóng tối. Bóng tối đồng lõa, che đậy, lấp liếm, làm mặt nạ. Bóng tối trong tâm hồn cần có bóng tối ở ngoài. Nó sợ ánh sáng làm lộ chân tướng.
"Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa."
Ghét ánh sáng, chuộng bóng tối: đó là thảm kịch nơi lòng con người, bởi lẽ con người được sinh ra để sống cho ánh sáng.
Lắm khi người ta từ chối tin vào Đức Kitô, từ chối đến với ánh sáng và sự thật, chỉ vì đời họ chìm trong bóng tối và giả trá. Những lý do biện minh cho sự từ chối này thường đến sau khi đã chọn lựa.

Cần thay đổi cuộc sống để tin hơn vào Thiên Chúa, nhưng cũng cần can đảm đến với ánh sáng dù biết mình đang chìm trong bóng tối; hay đúng hơn, vì biết mình nô lệ cho bóng tối mà ta khao khát vươn tới ánh sáng.
Đừng trốn chạy ánh sáng như Ađam, Evà. Hãy để cho ánh sáng vén mở chính mình, bắt ta đối diện với sự thật trần trụi về mình, để rồi ta được rực rỡ trong niềm vui.
Chỉ có một cách ra khỏi bóng tối đó là trở lại với ánh sáng, bằng cách ngước nhìn lên...
Dân Do Thái xưa trong sa mạc đã được chữa lành nhờ tin tưởng nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ.
Ngày nay, chúng ta được cứu độ, được sự sống đời đời nhờ tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên thập giá.
Thập giá là tột cùng của nhục nhã đớn đau, nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu.
Kitô hữu không phải là người tôn thờ đau khổ, nhưng là người say mê tình yêu: tình yêu của Cha khi trao ban người Con yêu dấu, tình yêu của Con khi hiến tặng mạng sống mình.
Nhiều nơi đã đặt tượng Chúa phục sinh trên thập giá, nhờ đó bầu khí nhà thờ tươi vui hơn. Nhưng ta vẫn không được quên nhìn lên thân xác bầm tím nát tan của Đức Giêsu trên Núi Sọ.
Ước gì tôi biết nhìn lên tình yêu bị treo và trở lại với ánh sáng để ánh sáng đưa tôi vào sâu hơn trong tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong tôi có ánh sáng và bóng tối; ngoài ra còn có nhiều bóng mờ, nơi khôn g sáng hẳn hay tối hẳn. Bóng mờ dễ chuyển thành bóng tối. Bạn có thấy một số bóng mờ trong đời bạn không? Chúng nguy hiểm đến mức nào?
Thế giới hôm nay tràn ngập ánh sáng của đèn điện. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối đang rình rập các bạn trẻ. Bạn có gặp bóng tối nào không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng giây phút của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.

Suy Niệm 10: Sự thật đổi mới chúng ta

Trong cái tranh tối tranh sáng của cuộc đời. Thiên Chúa đổi mới chúng ta. Ngài ban Con Một Ngài cho chúng ta để mặc khải chân lý cho chúng ta và mở đường cho chúng ta đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Bài Tin Mừng hôm nay khó hiểu. Nó không kể lại một giai đoạn trong đời Chúa Giêsu hoặc một dụ ngôn. Đây là một suy tư về đời sống vĩnh cửu và về việc Thiên Chúa sai Con Một Ngài đến với chúng ta để cứu độ chúng ta, để đổi mới chúng ta.
Ánh sáng về con người của chúng ta.
Thật khó nói về đời sống vĩnh cửu: Chúng ta biết rất ít về cuộc sống này. Tuy nhiên một số kinh nghiệm trong cuộc đời trần gian có thể giúp chúng ta tưởng tượng ra cuộc sống ấy như thế nào.
Có những lúc trong đời chúng ta có cảm giác như đã khám phá ra một điều gì quan trọng làm cho mọi sự được sáng tỏ trước mắt chúng ta. “Đúng rồi, tôi là như vậy, và tôi muốn trở thành như vậy đó”. Lúc ấy chúng ta có cảm tưởng đã tìm thấy được sự thật về con người của mình như các triết gia hoặc như các nhà tâm lý học nói. Có lẽ đây là một kinh nghiệm hiếm có, nên khi điều này xảy ra, khi chúng ta được nối kết vào con người sâu thẳm của chúng ta, chúng ta có cảm tưởng như tìm được con đường mà ta phải đi. Lúc đó ta dễ hoạt động hơn bởi vì ta đã khám phá được mình là ai. Lúc đó ta có thể hành động theo sự thật mà ta có về mình. Nếu điều này xảy ra, và thường là trong một giai đoạn u tối của cuộc đời khi chúng ta không còn biết “bám víu” vào đâu nữa, hoặc chúng ta không còn biết cuộc đời mình có giá trị gì, thì chúng ta lại được cứu. “Mà thật, đúng thế, trước đây tôi đã không thấy điều này. Ô, nhưng mà nó làm thay đổi mọi sự!”. Lúc đó ta cảm thấy mình được đổi mới, đầy sức lực, đầy những khả năng mới, sẵn sàng sống theo sự thật mà ta vừa khám phá ra.
Cũng gần giống như vậy về sự sống vĩnh cửu là ánh sáng và sự thật. Sự sống ấy đến với chúng ta như một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta sống thực sự. Nhưng chúng ta biết rằng sự thật đôi khi quấy rầy những thói quen sống của chúng ta và chúng ta từ chối ánh sáng và những thách thức của nó. Vì thế mà Tin Mừng khắt khe với những kẻ từ chối Chúa Giêsu Kitô. Cũng như những sự thật mà đôi khi chúng ta phát hiện được trong cuộc đời chúng ta, sự sống vĩnh cửu không tự áp đặt cho ai cả. Nó chỉ tự giới thiệu mình để chúng ta lựa chọn mà thôi. Đây vừa là một lời mời gọi vừa là một hồng ân.

Một lời mời gọi sống.

Vậy Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Ngài để giúp chúng ta sống sự thật nơi con người chúng ta và chính vì thế mà Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta sự thật về con người chúng ta và về mối quan hệ giữa chúng ta với tha nhân và với Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là tin vào đời sống vĩnh cửu và mời gọi chúng ta sống theo sự thật này: Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là anh em với nhau.
Có lẽ thường thường chúng ta sống trong sự mập mờ của cuộc đời và những kinh nghiệm của chúng ta về sự thật sâu xa vẫn là điều hiếm có. Nhưng kẻ đã tìm được sự thật của Chúa Giêsu Kitô, kẻ tin vào Chúa Giêsu vì đã thực sự khám phá ra Ngài vào một ngày nào đó trong đời mình, người ấy đã tìm thấy được ánh sáng trong thâm cung của lòng mình. Ánh sáng này đôi khi có thể leo lét, nhưng kỷ niệm về việc tìm thấy nó vẫn tiếp tục soi sáng cuộc đời của họ, cho cuộc đời ấy một ý nghĩa, và dẫn đưa họ đến với tha nhân để sống theo sự thật.
Tin Mừng nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến không phải để kết án nhưng để cứu độ chúng ta, để cho cuộc đời chúng ta được đổi mới nhờ sự thật. Và chúng ta được đổi mới khi chúng ta nhìn thấy rõ hơn, khi chúng ta cảm thấy mình sống động hơn, khi những năng lực mới giúp chúng ta vạch ra những dự án mới hoặc cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục những gì mình đã bắt đầu. Chính nhờ thế, mà cuộc sống vĩnh cửu đã mở ra cho chúng ta: một con đường mới để sống với bản thân, với Thiên Chúa và với tha nhân, nhờ ánh sáng mà Chúa Giêsu mang đến cho thế giới và cho cuộc đời chúng ta.
Sống vĩnh cửu là chiêm ngắm mầu nhiệm lớn lao nơi thâm tâm chúng ta và trong lòng kẻ khác, chiêm ngắm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã đến mặc khải cho chúng ta. Sống vĩnh cửu là hành động theo sự thật. Vậy nên như Tin Mừng nói, công việc của chúng ta “sẽ được nhìn nhận như là công việc của Thiên Chúa”, công việc của những con người được tháp vào sự thật và không sợ ánh sáng bởi vì họ biết rằng ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô nhằm cứu độ mọi người chúng ta và cả thế giới.

Suy Niệm 11: Tình yêu lớn nhất

(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa… Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa lên phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội thật nặng cũng như ngăm đe nhiều điều. Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật nấy, không bao lâu, người đó lại sa ngã. Lần này, sau khi tội nhân xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe doạ: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho anh!”
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài lên giọng: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho anh nữa!”. Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân sám hối, thì Ngài bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này chứ không phải ngươi”.

Từ đó, bàn tay của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ban phép lành, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ. Du khách đến viếng, nhìn lên thánh giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe như có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.
Anh chị em thân mến, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Đức Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Ngài luôn tha thứ chứ không kết án. “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống” (Ed 33,11). “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. “Cũng như Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽkhông phải chết, nhưng được sống đời đời”. Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài, tương tự như con rắn đồng đã được Môsê giương cao trong sa mạc thuở xưa, để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng ấy đều được cứu sống.

Thánh Gioan còn nói tiếp: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa một lần nữa lại biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài không ở trên mây trên gió, nhưng được thể hiện qua hành vi “trao ban”. Điều quí nhất của Người Cha là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính Con Một dâú yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Người và cuối cùng qua việc nộp Con Một cho loài người treo lên thập giá. Đó là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy, chính lúc đó là lúc Thiên Chúa đã đặt Con của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người,đểai tin vào Người Con ấy thì được sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải để kết án luận phạt, nhưng để cứu loài người khỏi chết và cho thông phần vào cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.

Thưa anh chị em, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất của Kitô giáo. Tất cả cuộc đời cuả Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá, là ngôn ngữ Chúa muốn sử dụng để nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Ngươì Con Một yêu quí của Ngài chết thay cho chúng ta.
Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.

Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, trái lại để cảm nghiệm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài, để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta.
Một lần nữa, hãy ngước nhìn lên thập giá Chúa Kitô:
Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13).

Suy Niệm 12: Người thợ săn.

Có một thi sĩ, khi còn là một cậu con trai, đã ước mơ làm linh mục, nhưng rồi vì lười biếng, ước mơ ấy đã không bao giờ trở thành sự thật. Lớn lên, ông làm quen với ma túy, và chính ma túy đã hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông kiếm sống bằng nghề đánh giày, bán diêm quẹt và giữ ngựa. Sau cùng đã phải ngửa tay đi xin ăn và chui rúc ở gầm cầu xó chợ.
Giữa lúc ấy, nhờ lòng tốt của một cô gái nghèo, ông gặp được ông bà chủ. Họ thấy ông có tài, nên giúp ông gặp được tình thương của Chúa. Và ông đã diễn tả kinh nghiệm đời mình trong một bài thơ mang tựa đề là “Người thợ săn trên trời”.

Ông cho biết ông đã trốn chạy Chúa thế nào và Chúa đã chộp bắt được ông ra làm sao? Ông so sánh mình là như một con thỏ nhỏ, còn Chúa là như người thợ săn. Khác với người thợ săn, Chúa chộp bắt từng linh hồn, không phải để giết chết, mà là để cứu sống.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, trong đó thánh Gioan đã xác quyết:
- Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con Một Ngài, để những ai tin vào Ngài thì sẽ không bị tiêu diệt, nhưng sẽ được sống đời đời.
Làm sao chúng ta hiểu được tình thương bao la mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Thánh Phaolô đã gợi ý cho chúng ta nghĩ đến chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu ấy trong bức thư gửi tín hữu Rôma.

Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì bao la như đại dương không bờ không bến. Thực vậy, tình yêu ấy đã được trải rộng trên mọi người, không kỳ thị, không phân biệt màu da và tiếng nói. Tình yêu ấy cũng trải rộng trên cả những kẻ tội lỗi và phản bội Ngài, bởi vì Thiên Chúa muốn chia sẻ sự tốt lành của Ngài cho tất cả chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì dài lâu như chính bản tính của Ngài, bởi vì Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh cửu. Thực vậy, trước khi có thế gian, Ngài đã yêu thương chúng ta và Ngài sẽ còn yêu thương chúng ta mãi mãi, từ đời này sang đời kia.
Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa dánh cho chúng ta còn thật cao vời. Đặc tính cao vời này được biểu lộ qua những tặng vật mà Ngài đã trao ban cho chúng ta. Còn gì cao vời hơn khi được chia sẻ chính sự sống của Ngài qua các bí tích. Còn gì tuyệt diệu hơn cho bằng việc Ngài ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, để cứu độ chúng ta và ngày nay việc trao ban ấy vẫn còn được tiếp nối qua việc chúng ta lên rước lễ.

Và sau cùng tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thật là thẳm sâu, bởi vì là một Thiên Chúa quyền năng, Ngài đã hạ mình xuống mang thân phận con người. Sinh ra là một hài nhi bé bỏng nơi máng cỏ Bêlem. Chết đi như một tội nhân bị bêu xấu trên thập giá.
Từ tình yêu ấy chúng ta thấy được rằng: Thiên Chúa luôn săn đuổi chúng ta để rồi dẫn chúng ta vào trong tình yêu của Ngài. Bổn phận của chúng ta trong Mùa Chay này đó là hãy đáp trả tiếng gọi của tình yêu bằng cách chổi dậy, lên đường và trở về với Ngài.

Suy Niệm 13: Con rắn

Khi đi ngang qua các tiệm thuốc tây hay nhà thương, chúng ta thấy vẽ hình một con rắn, quấn quanh cây cột. Đó là biểu tượng của ngành y, một nghề cứu nhân độ thế. Biểu tượng này bắt nguồn từ một biến cố xảy ra cho dân Do thái trên đường về miền đất hứa.
Bấy giờ họ phàn nàn kêu trách Chúa và Môsê vì đã không cho họ bánh ăn và nước uống như hồi ở bên Ai Cập. Họ đã quá chán ngán thứ manna này rồi. Và thế là Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người.
Tuy nhiên, khi họ biết ăn năn hối cải, Ngài đã ra lệnh cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo nó lên một cây cột và hễ ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên rắn đồng là được bảo đảm an toàn tính mạng.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi con rắn đồng một hình ảnh về bản thân mình.
Thực vậy, như con rắn ngày xưa, Ngài cũng bị treo lên để những ai nhìn lên Ngài với ánh mắt tin tưởng và sám hối, thì sẽ được tha thứ và được sống đời đời.
Trong Phúc Âm, thánh Gioan đã nói đến ba lần việc Con Người phải được giương cao, ám chỉ cái chết của Ngài trên thập giá, nhưng đồng thời cũng mang ý nghĩa về sự Phục sinh và lên trời của Ngài.
Trong cái nhìn của thánh Gioan, thập giá chính là đỉnh cao trong tiến trình trở về với Chúa Cha. Đây là một tiến trình đi lên, trái ngược với tiến trình đi xuống của Ngôi Lời lúc nhập thể:
- Khi nào các ngươi giương cao Con Người lên, các ngươi sẽ biết rằng Ta là ai… Khi nào Ta được giương cao lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta.
Đức Kitô, Đấng đã chịu treo trên thập giá, đã được Phục sinh và lên trời. Chính Ngài không ngừng cuốn hút vũ trụ này về với Ngài, để dâng lại cho Chúa Cha.
Chúng ta đang ở trong Mùa chay, đây là thời gian thích hợp để chúng ta nhìn lên Đức Kitô trên thập giá.
Những người bị rắn độc cắn nơi hoang địa đã nhìn lên rắn đồng như biểu tượng của lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Họ nhìn lên với thái độ tin tưởng và đã được thoát chết.
Chúa Giêsu không cứu chúng ta khỏi cái chết phần xác, nhưng Ngài còn làm một điều lớn lao hơn nhiều, đó là cho cả hồn lẫn xác của chúng ta được sống đời đời.
Chúng ta quen hiểu sự sống đời đời là sự sống vĩnh cửu vào ngày tận thế. Tuy nhiên, theo thánh Gioan thì sự sống đời đời đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay từ lúc chúng ta còn sống trên trần gian.
Chỉ cần tin vào Đức Kitô là nguồn mạch ơn cứu độ, là quà tặng cao cả nhất của Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy sự sống của Ngài tràn vào cuộc đời chúng ta.
Chỉ cần nhìn lên những dấu đinh và trái tim bị đâm thâu qua của Ngài là chúng ta sẽ nhận ra dấu chỉ của một tình yêu và chúng ta được mời gọi để sống một cuộc đời hoàn toàn khác, như thánh Phaolô đã viết:
- Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Tôi sống cuộc sống hiện tại của tôi trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Hãy nhìn lên thập giá với tâm tình sám hối, để nhờ đó chúng ta được Chúa tha thứ và được chữa lành khỏi nọc độc của tội lỗi.

Suy Niệm 14: Thiên Chúa yêu.

Thiên Chúa quá yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Người, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Chúng ta được nghe những lời tuyệt vời này trong bài Phúc âm hôm nay. Đây là một bản tóm tắt thật hay của Tin Mừng.
Điều đầu tiên chúng ta cần ghi nhận, đó là chính Thiên Chúa đi bước đầu trong việc cứu độ.
Đôi khi, chúng ta có cảm giác rằng: trước hết Thiên Chúa phải nguôi cơn giận, sau đó Ngài mới tha thứ cho chúng ta. Chúng ta đã mường tượng ra hình ảnh Thiên Chúa như là một Đấng nghiêm khắc, nóng giận, và không biết tha thứ.
Nhưng trái lại, Đức Giêsu lại giới thiệu Thiên Chúa như là một Đấng đầy khoan dung, giàu lòng và luôn tha thứ. Nhờ sự chết của mình, Đức Giêsu đã thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Nhưng Tin Mừng hôm nay còn cho thấy chính Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến với chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước.
Thiên Chúa chọn phương pháp của tình yêu, chứ không phải của sức mạnh. Thiên Chúa hành động không vì mục đích của riêng Người, nhưng vì chúng ta. Thiên Chúa không phải là nhà độc tài tuyệt đối, một người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi bắt buộc các tạo vật của Người phải vâng phục một cách hèn hạ. Nói đúng hơn, Thiên Chúa là một người Cha, Người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi tất cả những con cái đang tản mác của Người được trở về.
Đoạn này cũng cho thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa bao hàm tất cả như thế nào. Tình yêu của Người không chỉ hướng đến một quốc gia duy nhất, mà cũng không chỉ dành riêng cho người tốt. Tình yêu của Người hướng đến tất cả các quốc gia, dành cho những con cái của ánh sáng, và cả những con cái của bóng tối nữa.
Nhưng đoạn này cũng nói về sự phán xét và kết án. Nếu Thiên Chúa chọn phương pháp đầy yêu thương, thì làm thế nào mà phương pháp đó lại có thể bao hàm cả việc phán xét và kết án? Làm thế nào mà việc kết án lại có thể hòa giải với tình yêu được? Hành động của Thiên Chúa không lôi kéo theo sự kết án ai cả. Con người đã tự kết án chính mình, bằng cách sống theo thái độ tiêu cực. Thiên Chúa đã gửi cho chúng ta một nguồn sáng. Nếu con người bị hư mất, chính bởi vì họ đã không chấp nhận ánh sáng. Lỗi không phải do Thiên Chúa, nhưng là lỗi của chúng ta.
Lần kia, một khách tham quan được hướng dẫn đi khắp chung quanh một phòng trưng bày nghệ thuật. Phòng trưng bày đó chứa đựng một số bức tranh đẹp, đã được thừa nhận là những kiệt tác thế giới. Sau khi tham quan một vòng, người du khách nói “Tôi không cho là những bức tranh cũ kỹ này có nhiều giá trị”. Hướng dẫn viên trả lời “Thưa ông, không cần phải xem xét về những bức tranh này nữa. Nhưng cần phải xét lại về những người nhìn vào chúng”.

Phản ứng của người đàn ông không phải là một lời phê phán đối với bức tranh, mà là cách đánh giá thấp kém của ông ta về nghệ thuật. Tương tự như vậy, những ai ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng, thì đã tự kết án chính mình.
Những người xấu ghét ánh sáng bộc lộ cho họ nhìn thấy bản thân họ. Họ ghét lòng tốt, bởi vì lòng tốt bộc lộ tâm địa xấu xa của họ. Họ sẽ phá hủy ánh sáng, lòng tốt, tình yêu, để tránh bị nỗi đau của sự tự phát hiện ra bản thân mình.
Thật khủng khiếp khi người ta khước từ ánh sáng, khước từ sự ban tặng tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng thật ngọt ngào khi được bước đi trong ánh sáng tình yêu của Người. Trong quá trình cứu độ, phần đóng góp của chúng ta chính là biết chấp nhận quà tặng của Thiên Chúa, trong tất cả bản tính nhân loại của mình, và cố gắng đáp trả lại bằng sự tận tụy. Chúng ta có khả năng yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước.

Suy Niệm 15: Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa

(Lm. Nguyễn Minh Hùng)

Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: "Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh. Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: "Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha!". Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: "Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con".
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: "Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ".
Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa lớn lắm, mạnh lắm. Có lẽ, nếu có so sánh với trời cao biển rộng vẫn cứ còn khập khiễng. Lòng tha thứ của Thiên Chúa lớn cho đến mức, tội lỗi đã quá sức chịu đựng của lòng người, Thiên Chúa vẫn một lòng tha thứ. Dẫu cho mọi người rất kinh nghiệm về nỗi yếu đuối của bản thân mình, nhưng vẫn khó tha thứ cho anh chị em, thì Thiên Chúa không mảy may vướng một lỗi lầm nào, lại rất dễ dàng thứ tha.

Đọc bài Tin Mừng Chúa nhật thứ IV mùa Chay, ngay câu đầu tiên, câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy", tôi bỗng nhớ tới câu chuyện cảm động bên trên, để càng cảm nhận rất nhiều lần rằng: Thiên Chúa là Chúa của tình yêu. Tha thứ là gương mặt chói ngời của tình yêu Thiên Chúa. Bởi tôi nhận ra trong câu nói của Chúa Giêsu bộc lộ cả một nỗi lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Vậy câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy", có liên quan thế nào với tình yêu tha thứ của Thiên Chúa?
Chắc anh chị em còn nhớ câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc? Sau khi xuất Ai Cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Môsê hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được cứu. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.

Hình ảnh con rắn đồng đó, là biểu trưng của Đấng Cứu Chuộc. Cũng như con rắn đồng được giương cao, Chúa Kitô sẽ giương cao như vậy. Nếu con rắn đồng nói lên lòng tha thứ, thì Chúa Kitô được giương cao, chính là lòng tha thứ của Thiên Chúa đạt đến tuyệt đối, chiếu sáng ngời ngời và lan tỏa đến bất cứ người nào đã từng được sinh làm người trong cuộc trần. Chúa giương cao, nghĩa là lòng tha thứ của Thiên Chúa được gương cao cho cả nhân loại nhìn vào mà học lấy, mà tha thứ cho nhau.
Lòng tha thứ của Thiên Chúa mạnh lắm, mạnh đến nỗi, Thiên Chúa như ném chính Người Con duy nhất và yêu quí nhất của mình cho trần gian để thực hiện hiện lòng tha thứ đối với chính trần gian vô vàn lần xúc phạm Thiên Chúa.

Trong mạch văn của bài Tin Mừng, thánh Gioan còn ghi thêm chính lời Chúa Giêsu: "Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến luận phạt trần gian, nhưng để trần gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ". Thiên Chúa luôn ở về phía chúng ta để ra tay cứu chứ không phải phạt.
Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, việc ăn chay trong mùa Chay, trước hết phải là xóa bỏ hận thù và tha thứ. Nhưng để có tha thứ, cần đến sự hòa giải. Anh chị em mất lòng nhau, anh chị em có hố sâu ngăn cách bởi hận thù, tinh thần chay tịnh đòi anh chị em phải lấy lại lòng nhau, phải lấp đầy những ngăn cách để những gì thuộc về thù hận bị chôn xuống, những gì là trao ban, là yêu thương sẽ bùng lên, vương mạnh. Anh chị em và tôi hãy nhớ rõ một điều: Làm sao có thể tha thứ nếu không bao giờ muốn hòa giải; làm sao có thể nhận được ơn tha thứ nếu không biết tha thứ.
Không biết câu chuyện về cánh tay Chúa Giêsu trên thánh giá ban phép lành để tuôn đổ ơn tha thứ cho tội nhân, thực hư thế nào, nhưng lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa đời đời vẫn thế: bền vững và cao ngất. Câu chuyện có thể không có thật, nhưng lòng tha thứ của Thiên Chúa mãi mãi vẫn thật. Vì thế dẫu cho không có thật, nó vẫn đáng quí, vì nó phản ánh một sự thật rất thật: Lòng Thiên Chúa yêu thương tha thứ. Câu chuyện càng đáng quí khi nó giúp ta ghi lòng để học lấy lòng tha thứ của Thiên Chúa mà tha thứ cho anh chị em.
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Người: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy"

Nguồn: Giáo Phận Long Xuyên