Dân Chúa Âu Châu

daylacontayeudauChúa Nhật Tuần II Mùa Chay Năm B

Biến hình trên núi.

"Ðây là Con Ta rất yêu dấu".

Lời Chúa: Mc 9, 2-10

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"

Suy Niệm 1: Vinh quang

Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều đặt biến cố Chúa Giêsu biến hình vào giữa hai lần loan báo trước về cuộc khổ nạn. Điều này rất quan trọng, bởi vì nó cho chúng ta hiểu rằng: Cuộc biến hình này có liên quan trực tiếp tới biến cố vượt qua và như vậy có nghĩa là vinh quang mà ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến trên đỉnh Taborê hôm nay, báo trước vinh quang phục sinh của Ngài mai sau.
Tuy nhiên, cuộc biến hình này, mới chỉ là sự thay đổi hình dạng bên ngoài, đặc biệt là sự thay đổi màu áo, mà theo thánh Macrô, trở nên trắng tinh, không có thợ giặt nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Còn trong mầu nhiệm phục sinh, Đức Kitô không phải chỉ thay hình đổi dạng, mà Ngài hoàn toàn đổi mới. Thân xác phục sinh của Ngài là thân xác “có thần khí”. Bởi đó mà Ngài có thể đi qua mọi cửa nhà đóng kín, hay có thể bất thần xuất hiện trên đường Emmau, rồi ngay sau đó lại xuất hiện tại Giêrusalem. Chính với thần khí đó, mà hôm nay Đức Kitô hiện diện trong Giáo Hội, trong thế giới và trong tâm hồn mỗi người tín hữu của Ngài.

Nhưng điều đáng cho chúng ta suy niệm, đó là không một sự biến hình nào mà lại không đòi hỏi một sự trả giá. Trong Tin Mừng theo thánh Luca, Ngài đã hai lần nhắc đến quy luật này: Đức Kitô phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang của Ngài. Ở đây, với sự kiện biến hình, Ngài cũng nói với các môn đệ: Có lời chép về Con Người rằng Ngài phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê. Vậy thì đã rõ, mục đích của cuộc biến hình này chính là giáo dục đức tin cho các môn đệ. Cũng như Chúa đã báo trước cho các ông biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết, thì bây giờ Ngài cũng cho các ông thấy trước vinh quang phục sinh của Ngài.

Thật vậy, khác với sự mong đợi của nhiều người và của chính các môn đệ, là Đức Kitô sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, nối nghiệp vương đế của nhà Đavít, Ngài khẳng định rằng Nước của Ngài không thuộc về thế gian này và Ngài đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Cái chết của Ngài là một sự dâng hiến, chứ không phải là một thất bại, đó là một sự hy sinh tự nguyện, để rồi chính Ngài có quyền phục hồi lại được. Đó là lý do tại sao Ngài đã ba lần báo trước về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài.

Từ đó chúng ta đi đến kết luật đó là đừng bao giờ chờ đợi một cuộc chiến thắng mà không phải trả giá, chờ đợi một sự thành công mà không đòi đổ mồ hôi, nước mắt và gian khổ. Nhưng trái lại, cũng đừng bao giờ bi quan thất vọng mỗi khi gặp phải gian nan thử thách. Chúa mời gọi chúng ta hãy vác thánh giá mình mà đi theo Ngài, nhưng không phải với bộ mặt đưa đám hay với những rên xiết thở than, nhưng với bộ mặt cương quyết rắn rỏi, với thái độ hiên ngang vì tin tưởng vào lời Ngài đã nói: Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian.

Suy Niệm 2: Đau khổ.

Việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết, hay nói một cách khác, mầu nhiệm thập giá của Ngài mãi mãi vẫn là một điều khó chấp nhận, một cớ vấp phạm cho người Do Thái, một sự điên rồi đối với dân ngoại. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất, đó là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, để làm của lễ toàn thiêu dâng kính Ngài. Việc đòi hỏi này thật là mâu thuẫn với lời Chúa đã phán hứa với ông. Nhưng Abraham đã không thắc mắc, đã không phản đối, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng, và thi hành đúng theo lệnh truyền của Chúa và kết quả: Ông được gọi là kẻ công chính, còn Isaac con ông thì được cứu sống, chứ chẳng bị sát tế.

Hình ảnh của Abraham là biểu tượng cho tình thương của Chúa đối với chúng ta. Thực vậy sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với chúng ta đã đòi Chúa làm một việc tương tự như Abraham, đó là không dung tha con mình, nhưng phó thác con mình cho tất cả chúng ta. Ngày xưa, Isaac không bị giết, mà Abraham vẫn được kể là kẻ công chính. Còn bây giờ, Đức Kitô đã bị giết. Ngài đã chết thực sự, nhưng sau đó Ngài sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha, hoàn tất công trình cứu độ nhân loại và đã trở thành Đấng công chính hoá loài người.
Tiếp đến là cuộc chuẩn bị gần, như chúng ta thấy qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chính vì muốn để cho các môn đệ thân yêu giữ vững niềm tin khi thấy mình bị đau khổ và chịu chết một cách nhục nhã trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã tỏ lộ phần nào vinh quang của Ngài trên đỉnh Tabor. Nếu lưu ý một chút, chúng ta sẽ thấy ba môn đệ được Chúa đưa lên đỉnh Tabor hôm nay cũng chính là những môn đệ mà Ngài sẽ đưa vào vườn cây dầu trong cơn hấp hối. Qua đó chúng ta thấy, mọi biến cố, dù vui hay buồn, cũng đều là những dịp Chúa gửi đến để kêu mời chúng ta tiến sâu trong tình thân với Ngài.

Do đó, hãy biết đọc các dấu chỉ thời đại, hãy biết nhìn những sự kiện xảy ra dưới ánh sáng đức tin và trong yêu mến Chúa nồng nàn. Các môn đệ lúc đầu đã không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của việc Chúa biến hình. Trong đời sống thường ngày cũng vậy, đứng trước những khó khăn hay dễ dàng, gian khổ hay vui mừng, được an ủi hay bị bỏ rơi, chúng ta khó mà thấu hiểu được ý nghĩa của nó, khó mà khám phá ra được tình thương và sự công bình của Chúa. Thế nhưng, chúng ta hãy kiên tâm bền chí, trong kinh nguyện và trong suy niệm Lời Chúa, trong đời sống và trong hành động, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim của chúng ta. Hãy biết tìm ra thánh ý Chúa được gởi gắm qua những sự kiện hằng ngày, nhất là nơi những đau thương, gian khổ và thập giá vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.

Suy Niệm 3: Biến hình

(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.

Giai đoạn thứ nhất: lên núi.

Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.

Giai đoạn thứ hai: biến hình.

Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.

Giai đoạn ba: xuống núi.

Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.

Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.

Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?
2- Cầu nguyện có thể làm con người 'biến hình'. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?
4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn 'biến hình' không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?

Suy Niệm 4: Sống thân mật với Chúa

(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy là một tình yêu tha thứ. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và đón nhận những đứa con hoang đàng trở về. Tình yêu ấy là một tình yêu mong đợi. Thiên Chúa mong đợi ta hiểu biết tình yêu của Người, đền đáp tình yêu của Người, đến sống thân mật với Người.
Niềm khao khát sống thân mật được tỏ bày qua việc Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Chỉ chọn riêng ba người vì sự thân mật không thể có giữa đám đông. Sự thân mật chỉ có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là mối tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người, muốn có cuộc trò chuyện riêng tư với từng người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao. Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân mật không thích những chỗ ồn ào. Tình thân mật được phát triển ngoài thiên nhiên, trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại sau lưng những phiền toái trần tục, để dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, núi cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa là đến gặp Chúa. Trong gặp gỡ thân mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều về Chúa và về bản thân ta.
Trước hết Chúa cho ta hiểu biết về Người.Chúa đưa ta vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống của Ba Ngôi là tình yêu, một tình yêu không ngừng trao tặng và không ngừng nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và là nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rởi Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta yêu dấu”, thánh Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở xuống nữa. Chúng ta nhớ lại hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Sau khi cho ta hiểu biết người, Chúa cho ta hiểu biết chương trình của Người.Chương trình của Chúa là chương trình của tình yêu. Tình yêu được minh chứng qua sự hy sinh quên mình. Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Tình yêu ấy được diễn tả qua hành động của Abraham mà ta nghe đọc trong bài đọc thứ nhất. Chúa Con, vì yêu thương ta, đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Đức Giêsu.
Sau cùng, trong thân mật với Chúa, Chúa cho ta hiểu biết về bản thân mình.Gần bên Chúa quyền năng, ta thấy mình chỉ là cát bụi. Sống trong trái tim dịu dàng của Chúa, ta thấy mình quá độc ác dữ tợn. Hưởng nếm tình yêu của Chúa rồi, ta thấy mình chỉ là phường bội nghĩa vong ân. Uống vào suối nguồn sự sống của Chúa, ta khám phá ra những mầm mống chết chóc mà ta ấp ủ trong mình. Tiếp cận với nguồn ánh sáng tinh tuyền của Chúa, ta thấy mình chỉ là bóng tối nhơ uế.
Hiểu biết những sự thực về Chúa và về bản thân, ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Đức Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường Thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con. Amen.

CÂU HỎI GỢI Ý

1) Bạn đã có kinh nghiệm về sống thân mật với Chúa chưa?
2) Sống thân mật với Chúa ta sẽ hiểu biết gì?
3) Trong mùa Chay này, bạn có dành thời giờ để sống thân mật với Chúa không?

Suy Niệm 5: Nhìn vào mặt tốt

(Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu…
Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn!
Không lẽ cuộc đời của Thầy Giê-su lại kết thúc bi đát đến thế ư?
Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giê-su trong vương quốc vinh hiển của Người; lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giê-su mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Người đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su.”
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phê-rô thưa với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giê-su trong giờ phút vinh quang của Người trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gioan vững bước theo Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giê-su cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giê-su bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các vị đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giê-su cho các ông thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho họ thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.
***
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền hoành tráng của nó, người ta sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh hạnh của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.
Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì hoa hồng chẳng còn gì hấp dẫn.
Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ; nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó.
Sự kiện Chúa Giê-su tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.
Nhờ ngắm nhìn cụm hoa hồng rực rỡ kiêu sa và thưởng thức hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Ước gì chúng ta cũng biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những mặt trái, mặt xấu của họ.
Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh dễ thương hơn; tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.

Suy Niệm 6: Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa

(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Người xưa có câu: "chọn mặt gửi vàng". Nghĩa là để tin tưởng một ai cũng cần xem mặt, xem hoàn cảnh, gia cảnh người đó để đánh giá về họ có đáng tin hay không? Thế mà, vẫn sai lầm. Vẫn chọn sai người. Vì "Sông sâu còn có kẻ dò - Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng".
Vâng, lòng người nham hiểm hơn núi sông, biết người còn khó hơn dự đoán thời tiết. Thời tiết còn có xuân hạ thu đông và sáng - trưa - chiều - tối, còn con người, giữa mảng tối và sáng thật khó phân biệt. Thời tiết còn có hiện tượng bên ngoài để suy đoán những điều sẽ xảy ra, còn lòng người vẫn cò thể đóng kịch đến mức độ "nói vậy mà không phải vậy". Có ai đó nói không ngoa rằng: con người là một diễn viên tài ba nhất, vì họ có thể đóng kịch để lừa dối nhau suốt cả đời mà vẫn không bại lộ. Thực vậy, có người bên ngoài ôn hậu hiền lành, trong lòng lại kiêu căng ngạo mạn, không có việc gì lợi mà không dám làm; có người bộ dạng như quân tử, thực ra là tiểu nhân; Có người bên ngoài nhu mì, nhưng nội tâm cương trực; Có người xem có vẻ kiên trinh, thực tế lại nhút nhát. Điều này cho thấy con người thật phức tạp, khó mà biệt được thực hư một người.

Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều nghe biết về Chí Phèo trong truyện của Nam Cao. Chí Phèo là đứa con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Chí Phèo đem lòng yêu Thị Nở. Thị Nở là một cô gái xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi đời ngoài 30, dở hơi, nghèo và rất xấu. Xấu ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người ta tránh thị như tránh một con vật rất ghê tởm.
Ấy vậy mà cả hai con người ấy vẫn nhận ra bản chất tốt đẹp của nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một người hiền lành. Hiền như đất. Vẫn thường cho Thị xin lửa và có lần con cho Thị xin rượu về bóp chân. Ngược lại, Chí Phèo cũng thấy Thị Nở là một người có duyên. Thị Nở đã biết nấu cháo hành nóng cho Chí Phèo ăn, giúp cho Chí Phèo tỉnh cơn say và làm sống lại nơi Chí Phèo ý thức về sự lương thiện của bản thân mình.

Cuộc sống con người luôn phức tạp. Phức tạp đến nỗi khó lòng đánh giá nhau từ bên ngoài. Thực tế, vẫn có những người thân phận chẳng ra gì như Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và thậm chí là quái thai của xã hội. Thế nhưng, ngay cả nơi những con người ấy bản chất tốt đẹp mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ vẫn không hư đi, khả năng nhận ra những điều tốt đẹp nơi người khác của họ cũng không mất đi. Vì thế, không gì có thể khiến chúng ta tuyệt vọng về con người. Con người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Là tinh hoa của trời đất. Là chóp đỉnh của quá trình sáng tạo vũ trụ và vạn vật. Con người dù tội lỗi mấy đi chăng nữa, cũng không thể xoá nhoà hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình. Con người dù tha hoá mấy đi chăng nữa, cũng không thể huỷ hoại bản chất tốt đẹp của mình. Con người dù có bị dục vọng thống trị mấy đi chăng nữa, cũng vẫn không ngừng toả sáng bản chất của mình là "nhân linh ư vạn vật".
Vâng, con ngừơi chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Không ai xấu, vì khi tạo dựng, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Bản tính giống hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn nơi con người đó. Họ làm việc xấu chứ con người họ vẫn cao qúy, vẫn mang phẩm giá làm người, thế nên ta vẫn phải yêu thương và tôn trọng. Hãy yêu thương để giúp họ phục hồi phẩm gia cao đẹp của con người mà bấy lâu nay họ bị phủ lấp bằng tội lỗi và đam mê. Bên cạnh đó, có những người có thể rất xấu về diện mạo nhưng tâm hồn họ lại thanh cao. Họ có thể là những con người có "duyện lặn vào trong" dầu rằng bên ngoài chẳng có gì hay ho.

Như thế điều quan yếu là hãy biết nhận ra điều tốt nơi nhau. Cho dù họ có xấu đến đâu, mình vẫn có thể tìm ra điều tốt nơi họ. Hơn nữa, nhân vô thập toàn. Ai trong chúng ta mà không bị tội lỗi, tật xấu, đam mê mù quáng làm mất đi hình ảnh đẹp trong lòng anh em hay trước mắt mọi người. Mỗi người chúng ta đều cần người khác đánh giá tốt về mình thì chính chúng ta cũng hãy nói tốt và nghĩ tốt với tha nhân.
Khi Chúa hiển dung trong bản tính Thiên Chúa để củng cố niềm tin nơi các tông đồ. Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cũng phải biết tỏ ra phẩm giá cao quý nơi mỗi người chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa qua cách đối như con cái sự sáng để tạo niềm tin nơi nhau. Đồng thời cũng phải biết tôn trọng nhau vì đều được tạo dựng giống hình ảnh Người. Chúa Giêsu Ngài hoà nhập vào đời nhưng Ngài không đồng hoá mình như bao tội nhân. Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Con người chúng ta không thể đồng hoá mình với con vật như thuyết Duy Vật đã nói, để rồi sống theo bản năng, chiều theo tính xác thịt nhưng luôn biết chế ngự tính xác thịt nơi bản năng con người. Chúa hiển dung là lời mời gọi chúng ta hãy toả sáng hình ảnh của Chúa trong đời sống của mình khi thống trị tật xấu và đam mê. Hãy chế ngự tính hư nết xấu trong con người cùa mình. Hãy để hình ảnh Chúa tỏ hiện nơi chúng ta qua đời sống thanh sạch, công bằng, bác ái và yêu thương. Con người không thể là con vật thuần tuý vì con người không chỉ có thể xác mà còn có hồn thiêng bất tử, nên không thể chiều theo thể xác mà đánh mất linh hồn, hay tự huỷ trong những đam mê tội lỗi. Con người phải hơn con vật khi biết chế ngự tính hư nết xấu, làm theo lẽ phải và hướng về sự thiện.
Ước gì hình ảnh Chúa đừng đánh mất nơi chúng ta. Ước gì hình ảnh Chúa luôn tỏ hiện qua đời sống thanh cao, luôn biết sống theo công lý và tình thương. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết gìn giữ phẩm giá cao đẹp của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Xin đừng để những đam mê mù quáng làm hoen ố hình ảnh tốt đẹp ấy nơi mỗi người chúng ta.

Suy Niệm 7: Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu

(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Có nhiều tôn giáo tin nhận Thiên Chúa hiện hữu, nhưng Kitô giáo là tôn giáo đặc biệt nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Chính khi nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, đến độ dám cho Con Yêu Dấu của Ngài nhập thể làm người ở giữa con người.

I. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa

Đức Giêsu đã cùng với ba môn đệ lên núi. Ngài đã biến hình, áo Ngài trở nên trắng như tuyết. Tin Mừng Mác-cô không nói gương mặt Đức Giêsu biến đổi như thế nào, chỉ dùng chữ “biến hình;” tuy nhiên, người ta nghĩ rằng nếu áo của Ngài như vậy, thì gương mặt và thân xác của Ngài cũng phải “ra khác” một cách rất đặc biệt. Cựu Ước cũng đề cập đến gương mặt của Môsê trở nên sáng láng sau khi ông gặp gỡ Thiên Chúa, nên ông phải che mặt khi gặp gỡ dân Do Thái (Xh.34, 29-35). Thánh Phaolô đã giải thích gương mặt của Môsê được biến đổi vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Vậy khi Đức Giêsu biến hình, hàm chứa Ngài là người phản ánh Thiên Chúa một cách rất đặc biệt.

Tiếng từ trong đám mây nói với ba môn đệ: “Đây là Con Ta, Đấng rất được yêu. Hãy nghe Ngài.” Như vậy, Thiên Chúa nhận Đức Giêsu là Con của Ngài, và là Đấng được yêu đặc biệt. Thực ra, tước vị “con Thiên Chúa” cũng được dùng để chỉ nhiều người (G.38,7), dân Israel (Hos.11, 1), vị vua thiên sai (Tv.2, 7). Với Đức Giêsu, Ngài được Thiên Chúa gọi là người Con, được yêu đặc biệt; tuy nhiên, ngay lúc trên núi này, chắc ba môn đệ chưa thể nào nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa như các ngài đã nhận ra sau khi Đức Giêsu phục sinh và hiện ra cho các ông, tuy nhiên lúc này Đức Giêsu vẫn là một người rất đặc biệt.

Đức Giêsu nhận mình là Con Người. Đức Giêsu thật sự là người như tất cả mọi người. Một người cảm thấy gì thì Đức Giêsu cũng cảm thấy như vậy. Ngài cũng bị cám dỗ như bao người, dù là cám dỗ về miếng ăn, về danh vọng và về quyền hành (Mt.4, 1-11); và không chỉ vậy, Ngài còn bị cám dỗ về đức tin nữa: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34). Đức Giêsu, nếu có điều gì khác chúng ta, thì đó là Ngài không phạm tội (Dt.4, 15). Ngài đã dùng tự do để vâng phục Thiên Chúa, còn chúng ta lại dùng tự do Thiên Chúa ban để phản lại Ngài.
II. Abraham đã sẵn sàng hiến tế con mình cho Thiên Chúa

Abram, tổ phụ dân Do Thái, là một con người rất đặc biệt. Thiên Chúa đã mời gọi ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho. Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, có đất làm cơ nghiệp, và trở thành một mối chúc lành cho nhiều người. Abram đã tin và đã đi theo lời mời của Thiên Chúa. Đặt mình vào hoàn cảnh của người thời đó, ta nhận ra Abram đã tin vào Thiên Chúa một cách rất đặc biệt. Thời đó người ta chưa có luật lệ như hiện tại, người ta phải dựa vào gia đình họ hàng để bảo vệ mình và tài sản khỏi bị người khác đánh cướp. Thế mà Abram dám rời bỏ gia đình, ra đi với tài sản và vợ là Saray. Nếu không tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì không ai dám làm điều đó vì rất nguy hiểm, người ta không chỉ mất tài sản nhưng còn mất cả mạng sống mình. Abram đã dám làm.
Thiên Chúa đã đổi tên Abram thành Abraham, Saray thành Sara; và đã cho ông bà có một người con tên là Isaac. Thiên Chúa cũng nói với Abraham rằng dòng giống ông sẽ nhờ Isaac mà có; thế mà giờ đây Thiên Chúa lại bảo ông đem người con duy nhất của mình đi hiến tế làm của lễ dâng Thiên Chúa. Tại sao Thiên Chúa lại “đổi ý” như vậy? Tại sao Thiên Chúa không “nhất quán” với chính Ngài: đã hứa cho dòng dõi của ông nhờ Isaac mà có, mà bây giờ lại đòi ông phải hiến tế Isaac? Làm sao có thể vâng lời Thiên Chúa được?
Một lần nữa, Abraham đã tin và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn sao Abraham cũng làm, vì ông tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả, ngay cả phục sinh Isaac. Chắc chắn Abraham đã có những suy nghĩ cám dỗ bất tuân, nhưng ông đã chiến thắng chính mình bằng niềm tin phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Qua hành vi này, ông trở thành cha tất cả những người tin (Rm.4, 18tt). Cả cuộc đời của Abrahm là một chuỗi những hành vi tin. Ngay cả khi vợ ông là bà Sara chết, ông vẫn chưa có đất để chôn (St.23), tuy vậy ông vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ông điều Ngài đã hứa.

III. Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Ngài

Khi Đức Giêsu còn tại thế, chẳng ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, kể cả các tông đồ. Chỉ sau khi Ngài sống lại, và với ơn Thánh Thần soi sáng, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm, nên mới nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa thật đặc biệt. Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng thật đặc biệt, là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu lại hiểu biết về Thiên Chúa và về con người một cách thâm sâu hơn.
Con người là ai mà được Thiên Chúa yêu thương đến như vậy! Sao Thiên Chúa lại trao phó Con của Ngài cho con người như thể “trao trứng cho ác” như vậy? Một người ít hiểu biết nhất cũng nhận ra con người gian ác sẽ giết Con của Ngài, như vậy tại sao Ngài vẫn trao gởi Người Con của Ngài cho con người? Tại sao Thiên Chúa tin con người đến độ như vậy? Cho đến cùng, Kitô hữu nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng: Thiên Chúa tin vào con người dù thật sự không thể tin được.
“Thiên Chúa không dung tha chính Con Ngài nhưng phó thác Con của Ngài vì tất cả chúng ta.” Nhìn Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục thê thảm trên thập giá, người ta có cảm tưởng như thể Thiên Chúa yêu thương con người hơn cả Đức Giêsu. Thật ra không phải Thiên Chúa yêu thương con người hơn Con của Ngài; nhưng điều đó lại cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Theo thánh Phaolô, một khi Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho ta, thì Ngài không còn tiếc gì với ta nữa. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng!
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Nơi Abraham có điều gì bạn kính phục?
2. Bạn có nhận thấy Thiên Chúa tin và phó thác vào con người khi cho Con Ngài nhập thể không? Tại sao?
3. Đức Giêsu có bị nghi ngờ về đức tin không? (chẳng hạn, không biết mình có sống lại thật không? nếu bạn nghĩ có, tại sao bạn nghĩ như vậy? xin đưa bằng chứng hoặc lý luận bảo vệ ý kiến của bạn.)

Suy Niệm 8: Lên núi cầu nguyện

(Tôma Nguyễn Xuân Hiệp)

Chuyện kể rằng: Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, rất hợp tính và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện. Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hằng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng, ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo. Mười năm sau, người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hợp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa. Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh ta. * Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua. * Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác. * Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi, có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa. Sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước. Vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế. Muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải biết từ bỏ những thói quen xấu, những cám dỗ đam mê và đồng thời biết nổ lực luyện tập những nhân đức tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết đứng, chứ không còn là một thân cây tươi tốt sống động vươn mỗi ngày. Sở dĩ người anh trở nên tầm thường, khô cằn vì suốt 10 năm qua anh ta luôn tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái xấu nào và cũng không nổ lực tập một nhân đức nào. Tức anh ta không chịu “lên núi” trong đời sống hằng ngày để cầu nguyện, để gặp Chúa, để được biến đổi.

Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta theo Chúa Giêsu “lên núi cầu nguyện”. Bài đọc 1, sách Sáng Thế tường thuật lại biến cố “lên núi” của Tổ phụ Abraham đầy giân truân vất vả, cả sự dâng hiến mạng sống người con một yêu dấu theo thánh ý Thiên Chúa. Chính bởi đức tin mạnh mẽ và quả cảm vượt thắng tất cả mà ông được gặp gỡ Thiên Chúa và được chúc phúc. Bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi giáo đoàn Rôma: hãy tín thác vào Thiên Chúa Tình Yêu, cho dẫu hành trình đức tin như một cuộc “leo núi” đầy khó nguy. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước và thể hiện tình yêu qua Người Con Một: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”. Bài Tin Mừng, thánh sử Maccô đã tường thuật lại biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt các môn đệ thân tín là: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Qua biến cố ấy, Chúa Giêsu muốn để lại cho các tông đồ và mỗi chúng ta bài học hữu ích trong hành trình đức tin của người kitô hữu là phải “lên núi” “Đức Giêsu lên núi cầu nguyện” (Mc 9, 28). Đây là bài học căn bản và nền tảng mà Chúa Giêsu muốn dạy mỗi người chúng ta: Phải cầu nguyện, kết hiệp và tìm thánh ý Chúa sau và trước những công việc làm. Để thực hiện điều ấy, “Đức Giêsu lên núi”, tức phải vứt bỏ những vướng bận lo toan thành công thất bại, phải dành thời giờ cho việc leo núi, vượt thắng những cám dỗ đam mê, phải nổ lực phấn đấu không ngừng với thân xác nặng nề để leo lên độ cao khó khăn vất vả trong đời sống tâm linh mới có thể sống tương giao với Thiên Chúa và để lắng nghe thánh ý của Người. Nếu thiếu vắng đời sống tương giao kết hiệp với Thiên Chúa trong thinh lặng, trong thẳm sâu tâm hồn để kín múc sức sống thần linh từ Thiên Chúa, thì xem chừng cách cầu nguyện ấy đã đi vào vết xe đổ của kiểu cầu nguyện đầy hình thức bên ngoài mà Chúa Giêsu đã từng lên án những người Biệt Phái. Đó là kiểu cầu nguyện kể lể, huênh hoang báo cáo kết quả cho cấp trên là Thiên Chúa. Hay kiểu cầu nguyện xem Thiên Chúa chỉ là chỗ dựa tinh thần tạm thời. Khi gặp thất bại, gian truân thì sốt sắng đến với Thiên Chúa như chiếc phao cứu sinh của đời sống tâm lý để giải tỏa những xung đột, những bế tắc, để vượt qua những bĩ cực thương đau. Sự sốt sắng cầu nguyện hy sinh ấy là vì con người, chỉ dừng lại ở nhu cầu ích lợi cá nhân chứ chưa đi vào mối tương giao kết hiệp với Thiên Chúa để tìm thánh ý Người. Nhà thần học Bonneffeur bảo: Đó là kiểu cầu nguyện ngoại giáo; một kiểu cầu cạnh tư lợi. Người không biết Chúa và cả những người vô thần cũng làm như thế. Một kiểu cầu an! Còn Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải vượt thoát những vướng bận lo toan của đời thường để kết hiệp với Chúa, để tìm thánh ý Chúa trong từng biến cố, từng phút giây. Phải kết hiệp với Thiên Chúa cách liên lỉ mọi lúc mọi nơi, mọi công việc. (x. Mc 18,1-8. 9-14) Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn mỗi người chúng ta biết “lên núi” mỗi ngày, biết từ bỏ những cám dỗ đam mê, những vướng bận đời thường, mà sống kết hiệp với Thiên Chúa qua Thánh lễ, kinh nguyện, xét mình, tĩnh tâm, lãnh bí tích Giao hòa …. Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor hôm nay là hình ảnh tiên trưng hành trình vác thập giá lên núi Canvê và phục sinh của Chúa Giêsu. Và đó cũng là hành trình đức tin của mỗi người tín hữu chúng ta. Mỗi người chúng ta phải “lên núi” mỗi ngày mới có thể “biến hình”, mới có thể phục sinh sáng láng như Đức Giêsu Kitô. Amen.

Suy Niệm 9: Được biến đổi hình dạng

(‘Manna’)

Đức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Đức Giêsu: núi của Bài Giảng về các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình, núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.
Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên núi Tabo, để củng cố niềm tin của họ, trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi Tabo chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời, báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Đức Giêsu được Cha biến hình. Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt, và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất, nay được Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Đức Chúa cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.
Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình: tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18). Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày. Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao. Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa để rồi được sai xuống núi hành đạo. Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình". Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.

Suy Niệm 10: Hai khuôn mặt một tình yêu.

(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tuỳ sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân mình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.
Thưa anh chị em,
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha, cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ơ giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác âý chịu lăng nhục vào đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.

Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thật giá trên núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.

Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa”. Người con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh. Cảnh tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, “người Cha của mọi kẻ có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.

Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ ó thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu, “Người Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”, đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.
Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gằng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta,góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.

Suy Niệm 11: Đức tin và đau khổ

Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Abraham trong bài đọc 1. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Abraham và Sara, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Abraham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết bao.

Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Abraham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương tâm của một người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.

Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là “Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa lành. Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng ngài lại mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau…

Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: “Chạy trời không khỏi nắng”, nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ lụy của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị gì không? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.

Suy Niệm 12: Chúa biến hình

Tại sao ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lại được diễm phúc chứng kiến cảnh tượng Chúa biến hình trên đỉnh Taborê. Nhiều nhà chú giải cho rằng vì Chúa muốn củng cố niềm tin còn non yếu nơi các ông.
Thực vậy, mới mấy ngày trước đây khi Ngài loan báo về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu, thì Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Lạy Thầy, không thể như thế được. Và Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô: Hỡi Satan, hãy cút đi, con chỉ làm cản trở đường đi nước bước của Thầy, vì những tư tưởng của con không xuất phát từ Thiên Chúa, mà chỉ xuất phát từ con người.
Sau lời quở trách ấy, thì có lẽ giờ đây các ông đang cần một liều thuốc bồi bổ tinh thần. Từ đó chúng ta đi vào phạm vi đức tin và chúng ta có thể xác quyết: hành trình của đức tin giống như hành trình của một chiếc tàu đi biển. Có lúc được nâng lên cao, có lúc lại bị hạ xuống. Thường nó có những điểm cao và những điểm thấp của nó. Có lúc lên núi thì cũng phải có lúc xuống đồi. Có những lúc bùng sáng, thì cũng có lúc như muốn tàn lụi. Hãy nhìn vào ba vị tông đồ thân tín nhất của Đức Kitô và chúng ta sẽ thấy được như vậy.

Thực thế, đức tin của các ông hôm nay rực sáng như một ánh đuốc trong đêm tối, nhưng có những lúc ngọn lửa ấy như muốn tàn lụi. Đúng thế, chỉ một vài tháng sau, tại vườn cây dầu tại dinh thượng tế, tại đỉnh cao đồi Canvê, các ông người thì chối Chúa, kẻ thì bỏ Chúa mà chạy trốn. Đức tin của chúng ta cũng vậy, có những lúc lên cao và có những lúc xuống thấp… Khi lên cao, chúng ta cảm thấy gần gũi Chúa đến độ chúng ta tưởng rằng mình có thể đụng chạm tới Ngài, chúng ta thấy rằng ơn thánh của Ngài luôn ấp ủ bao bọc và nâng đỡ chúng ta. Trái lại khi xuống thấp, chúng ta cảm thấy như Chúa xa lìa chúng ta, không còn đón nhận những lời chúng ta kêu xin. Chúa không còn gần gũi chúng ta, mà chỉ là một nhân vật xa lạ, một ý niệm trừu tượng, chẳng ăn nhập gì với cuộc sống chúng ta. Vậy thì trong những lúc bị xuống thấp như thế chúng ta phải làm gì?

Tôi xin thưa, hãy noi gương bắt chước tổ phụ Abraham. Niềm tin của ông có phần yếu ớt và bị lu mờ khi Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy sinh đứa con duy nhất là Isaac, đem nó lên núi mà sát tế để dâng kính Ngài. Điều đó làm cho ông đau khổ và bối rối. Thế nhưng ông vẫn một lòng cậy trông và phó thác vào Chúa. Cuối cùng, Chúa đã không để cho ông phải thất vọng. Ngài đã chúc phúc và ban cho ông nhiều hồng ân hơn cả lòng ông mơ ước. Đôi khi Thiên Chúa cũng thử thách đức tin của chúng ta. Tâm hồn chúng ta thì chất đầy những đắng cay, bản thân chúng ta thì khổ đau buồn phiền, thế nhưng hãy tin tưởng và cậy trông vào Chúa như Abraham ngày xưa, bởi vì Ngài sẽ nâng đỡ và phù trợ chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy ghi nhớ tư tưởng sau đây của thánh Giacôbê tông đồ: Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Ngài đã hứa ban cho những kẻ yêu mến Ngài.

Suy Niệm 13: Giây phút tột đỉnh

Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ tuổi như sau: "Vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình của cô. Nhà bếp tràn đầy những ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa và nói năng vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh mì và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình của cô. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nào nói được."
Maslow gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác.
Ý tưởng về giây phút tột đỉnh giúp chúng ta thấu hiểu những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm mà bài Phúc Âm hôm nay tả lại. Họ đã cảm nghiệm được những giây phút tột đỉnh.
Chỉ trong một vài phút quí báu, họ đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và tuyệt mỹ.

Điều đó đưa đến một câu hỏi. Tại sao câu truyện Phúc Âm về cuộc biến hình của Chúa Giêsu lại đặt giữa những bài đọc buồn tẻ ủ rũ của Mùa Chay? Tại sao nó không được đặt giữa những bài đọc vui mừng của Mùa Phục Sinh?

Câu trả lời nằm trong ý nghĩa việc biến hình xảy ra. Nó xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu nói cho các môn đệ biết Ngài phải đi lên Giêsusalem chịu đau khổ và chịu chết.
Khi Phêrô nghe Chúa Giêsu nói về việc này, ông đã kêu lên: "Xin Thiên Chúa thương! Những sự đó sẽ không xảy ra cho Ngài."
Chúa Giêsu liền nói với Phêrô: "Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi không phải ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
Phêrô, Giacôbê, và Gioan cần có mũi chích tinh thần sau khi cuộc mạc khải khiếp sợ của Chúa Giêsu.
Có thể đấy cũng chính là lý do mà Giáo Hội đặt bài đọc biến hình giữa những bài sầu buồn của Mùa Chay. Giáo Hội cũng muốn cho chúng ta mũi chính tinh thần này trước khi xoay sự chú ý của ta đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.

Giáo Hội muốn cho chúng ta một sự gì đó để nhìn vào trong những giờ đau khổ của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và cái chết trên thập tự.
Trong mỗi một người chúng ta, cũng có một phần của Adong và một phần của Thiên Chúa.
Như Chúa Giêsu trên Núi Tabor, chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút ngây ngất, khi Thiên Chúa chiếu sáng qua chúng ta gần như làm cho ta bị loà luôn. Trong những giây phút này, chúng ta cảm thấy thật là gần gũi với Thiên Chúa y như là chúng ta cảm thấy chúng ta có thể với tay chạm đến Thiên Chúa.
Và chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút lo buồn, khi phần của Adong vùng vẫy mãnh liệt, đến nỗi phần của Thiên Chúa trong ta bị lung lay và gần chết đi. Chúng ta cảm thấy xa lìa Thiên Chúa, đến nỗi ta hỏi rằng không biết Thiên Chúa có hiện hữu hay không.
Trong những giây phút ngây ngất chúng ta sung sướng trong lời Thiên Chúa Cha phán với chúng ta những gì mà Thiên Chúa Cha đã phán với Chúa Giêsu: "Đây là Con Ta tuyển chọn." Những lúc lo buồn, chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm những gì Chúa Giêsu đã cảm nghiệm trong vườn cây dầu: cánh tay Thiên Chúa Cha sẽ nâng đỡ chúng ta.

Suy Niệm 14: Trên đỉnh Taborê

Sau khi nghe đọc đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi:
- Tại sao Chúa Giêsu lại tỏ lộ sự việc lạ lùng ấy cho ba môn đệ thân tín nhất.
Tôi xin trả lời:
- Đó là để soi sáng và củng cố đức tin cho các ông.
Đúng thế, các tông đồ, những người bạn nghĩa thiết của Chúa đã không muốn hiểu và không muốn chấp nhận những lời tiên báo của Chúa về cuộc tử nạn và cái chết của Ngài.
Cách đây mấy hôm, Chúa Giêsu cũng đã nói với các ông:
- Con Người sẽ phải lên Giêrusalem ở đó sẽ bị bắt bớ, bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.
Phêrô đã kéo Ngài ra một chỗ và can ngăn, nhưng Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời:
- Hãy cút đi hỡi Satan, ngươi chẳng hiểu gì về những việc của Thiên Chúa, mà chỉ hiểu những công việc của người đời mà thôi.
Có thể những lời nói xa nói gần, nói bóng nói gió của Chúa về cuộc tử nạn đã làm cho niềm tin tưởng của các ông bị chao đảo và mối cậy trông của các ông bị tắt ngấm, để rồi sau cùng đứng trước nỗi thống khổ của thập giá, các ông sẽ trở nên những kẻ bị phá sản, không còn hy vọng, không còn can đảm, không còn nghị lực.
Bởi đó, khi tỏ lộ vinh quang của mình trên đỉnh Taborê, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin tưởng và giúp các ông chiến thắng trong những giờ phút tăm tối. Cũng như chuẩn bị các ông sẵn sàng đón nhận những bắt bớ, những cấm cách sẽ xảy đến sau này.

Đúng thế, nếu đọc tiếp Phúc Am chúng ta sẽ thấy: liền sau đó trong cuộc tử nạn các ông, người thì chối bỏ, người thì chạy trốn. Sở dĩ như vậy là vì các ông chưa hiểu. Một mai, khi đã nghĩ lại và nhất là nhớ đến vinh quang Taborê, các ông sẽ can đảm trong mọi cơn gian nguy thử thách và sẽ hy sinh cho đến giọt máu cuối cùng vì tình yêu của Đấng đã bị đóng đinh vào thập giá.
Sự việc Chúa Giêsu biến hình đã tạo được một tiếng vang cho đến tận cùng bờ cõi trái đất, nó sẽ đem lại cho chúng ta một bài học, một niềm an ủi trong những giờ phút đen tối.
Thực vậy, khi gặp phải những khổ cực đớn đau, những đắng cay chua xót, chúng ta hãy nghĩ rằng: Nếu chúng ta trung thành với Chúa, chúng ta sẽ được nhìn thấy vinh quang Ngài trong cõi sống ngàn thu. Vinh quang ấy không phải chỉ kéo dài trong thoáng chốc của một kiếp phù du, nhưng sẽ kéo dài mãi mãi, kéo dài đời đời.
Sống trên trần gian, chúng ta giống như những kẻ bị lưu lạc nơi đất khách quê người, chúng ta không bao giờ nhìn thấy Thiên Chúa, hay như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Hiện tại chúng ta chỉ nhìn thấy một cách mơ hồ như trên một tấm gương, nhưng rồi chúng ta sẽ hiểu biết Ngài một cách trọn vẹn, sẽ yêu mến Ngài mãi mãi và trái tim nhỏ bé của chúng ta sẽ ngập tràn hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc vượt trên những điều chúng ta có thể nghĩ tưởng được.
Vì thế mà thánh Phaolô cũng bảo:
- Những đau khổ đời này thì nhỏ nhoi không thể nào sánh ví được với vinh quang mai hậu.
Nếu chúng ta trung thành yêu mến và phụng sự Chúa, thì phần thưởng bội hậu sẽ được dành để cho chúng ta. Lúc bấy giờ, thân xác của chúng ta, người bạn tâm phúc của linh hồn, cũng sẽ được dự phần vinh quang, cũng sẽ được chia sẻ niềm vui bất tận.
Vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.

Suy Niệm 15: Từ Tabor đến Golgotha

(Thiên Phúc)

Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc”.Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?
Tất cả nguyện trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.

Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Moi sê và một cho Elia” (Mc 9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.

Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi, Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng chung thủy, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruổi trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thắm đẫm mồ hôi trong vườn Giếtsimani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Teresa thành Lisieux: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê”. Thánh Bernadette cầu nguyện:“Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục Sinh sẽ bừng sáng. Amen.