Dân Chúa Âu Châu

thu 2 tbnps snPhép lạ Phục Sinh.

Thứ hai tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH.

"Hãy đi nói với anh em đến Galilêa mà gặp Ta ở đó".

Lời Chúa: Mt 28, 8-15

Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta".

Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu". Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

SUY NIỆM 1: Phép lạ Phục Sinh

Truyện các thánh ẩn tu trong sa mạc thời Giáo Hội tiên khởi có kể lại câu chuyện như sau:

Một người đàn ông nọ nghe đồn về rất nhiều phép lạ do các bậc chân tu thánh thiện thực hiện, nhưng ông không chấp nhận một lời đồn đại nào, ông chỉ tin những gì mắt thấy tai nghe. Thế là ông lên đường để diện kiến cho bằng được vị chân tu, ông gọi một đệ tử lại và hỏi:

- Thầy của anh đã làm được bao nhiêu phép lạ rồi?

Người đệ tử trả lời:

- Không thể đếm xuể được. Trong xứ của ông, người ta xem như là phép lạ mỗi khi Thiên Chúa làm theo ý muốn của con người. Còn ở đây thì trái lại, chúng tôi coi là phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa.

Phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa. Ðó có thể là ý tưởng được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Mátthêu là tác giả duy nhất đã so sánh thái độ của hai dạng chứng nhân về việc Chúa phục sinh: một bên là những phụ nữ đã từng theo Chúa Giêsu, và một bên là những lính canh mồ do các thượng tế và biệt phái sắp đặt. Cả hai bên đều nhận lãnh một sứ điệp: những phụ nữ được các thiên thần cổ võ đã lên đường loan báo sứ điệp Phục Sinh cho các tông đồ; những lính canh mồ thoạt tiên cũng nhận lãnh các sứ điệp như thế: họ đã chứng kiến một phép lạ, nhưng thay vì tuân phục với đức tin, họ đã bóp méo và chối bỏ sự thật. Một sự kiện nhưng hai phản ứng: với sự tuân phục của đức tin, các phụ nữ đã đón nhận phép lạ và trở thành sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh; trong khi đó, với thái độ mù quáng và khước từ, những lính canh mồ đem biến sự kiện thành một bôi nhọ phỉ báng.

Hai ngàn năm qua và mãi mãi về sau, sứ điệp Phục Sinh vẫn tiếp tục được loan báo. Phép lạ Phục Sinh vẫn mãi mãi tiếp diễn. Các Tông Ðồ và những phụ nữ được Chúa hiện ra có lẽ diễm phúc hơn chúng ta. Thế nhưng, các ngài cũng không được trang bị hơn chúng ta khi đứng trước việc Chúa sống lại và hiện ra. Những lính canh mồ cũng chứng kiến các điều lạ lùng, nhưng với họ, những điều đó chưa phải là phép lạ.

Phép lạ thiết yếu không phải là một việc phi thường, nhưng trước tiên là một gặp gỡ trong đức tin. Chỉ trong đức tin, con người mới tin nhận phép lạ. Có phép lạ khi con người thực thi thánh ý Chúa. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thể hiện tình yêu của Ngài. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện và tác động trong lịch sử nhân loại. Nhưng chỉ khi nào con người tin nhận và sống theo thánh ý Thiên Chúa, con người mới nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã tuyên bố: "Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa". Có tâm hồn trong sạch chính là để cho Chúa ngự, chính là chiều theo tư tưởng và ý muốn của Ngài.

Nguyện xin ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh soi sáng và hướng dẫn tâm tư hành động của chúng ta, để trong mọi sự, chúng ta sống theo thánh ý Ngài, và như vậy, cảm nhận được phép lạ của tình yêu Ngài trong từng phút giây của cuộc sống.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 2: Kiểm duyệt tin tức

Và Đức Giêsu đón gặp các bà và nói: “Chào chị em!” các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.”

Các bà đang đi, thì kìa mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. (Mt. 28, 9-11)

Ngày nay, những phương tiện thông tin đầy quyền lực và phong phú đa dạng làm cho chúng ta không bao giờ biết được chính xác những sự kiện, những biến cố: báo chí tố cáo nhau giữa phe đảng đã kiểm duyệt tin tức để có lợi cho phe nhóm mình. Những tố cáo và cải chính xen lẫn nhau trên mặt báo hàng ngày. Không ai có thể thấy đâu là sự thật.

Bản văn Tin mừng hôm nay đem ra ánh sáng cho thấy khó có một thông tin khách quan. Xét về sự kiện phục sinh thì có nhiều lối cắt nghĩa bất đồng ý kiến nhau. Có hai lý do đáng chúng ta lưu ý về những khó khăn này:

Trước hết, phía những chứng nhân, những người tiếp nhận tin tức, Đức Giêsu đã sống lại vì Người đã hiện ra với tôi. Thánh sử Tin mừng rất cẩn thận ghi lại nhiều chi tiết tỏ cho thấy sự hiện diện của một thân xác, không phải bóng ma: Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đã ôm chân Người, chỗ khác cho thấy, Người sống lại ăn uống, đốt lửa nướng cá, cho sờ mó vào chân tay Người. Nhưng những chứng nhân này lại sợ hãi. Lúc ban đầu họ sợ hãi bị chế nhạo làm cho họ im lặng trước sự phục sinh của Đức Kitô. Vì thế sứ điệp giải phóng và phục sinh của Đức Kitô cũng đã bị bóp nghẹt trong chính con người chúng ta.

Những kẻ chứng kiến khác thì lại nói quanh co tự bảo vệ mình, bảo vệ quyền lợi mình, công việc mình hay bảo vệ cái tin bịa đặt của mình như các thượng tế và kỳ lão đút tiền cho lính canh mồ để họ loan tin các môn đệ ăn trộm xác Người. Thế lực chính trị thuê mướn thế lực tư pháp, quan tòa, luật sư để bảo vệ đảng của mình. Người ta âm mưu dựng nên những bằng chứng ma, hay mua chuộc những nhân chứng giữ im lặng.

Nhiều lần, chúng ta cũng vì sợ bị chế nhạo mà làm chứng quanh co hay để kẻ khác mua chuộc sự im lặng và lợi dụng đầu cơ những bằng chứng. Chúng ta phải giật mình hổ thẹn rằng Đức Giêsu đã bị tố cáo khiếm diện, Người bị loại trừ, bị tuyên bố là chết rồi.

Những nhân chứng mới của phục sinh không thoát khỏi sự an toàn giả tạo, nếu không quan tâm đặc biệt đến Tin mừng phục sinh, nếu không tuyên bố công khai những điều đã hiểu biết về đêm vượt qua.

SUY NIỆM 3: Hãy Về Báo Tin Cho Các Anh Em Ta

Cách đây hai thế kỷ, giả sử như có một lon bia hay có một lon thực phẩm tươi, chắc chắn người ta vẫn không dám yên tâm thưởng thức những món ăn uống tiện dụng này. Ngày nay, chúng ta yên tâm thưởng thức là nhờ công trình nghiên cứu của ông Louis Paster, nhà ký sinh trùng học người Pháp sống vào thế kỷ XIX. Ông đã nghiên cứu các vi sinh để rồi dùng chúng hoặc tiêu diệt chúng. Dùng vi sinh trong việc tiêm các thuốc chủng ngừa, chữa bệnh chó dại, hoặc tiêu diệt chúng trong các quá trình lên men trong đồ ăn, thức uống. Ðây là những đóng góp lớn lao cho toàn thể gia đình nhân loại.

Tuy nhiên, ông còn có các đóng góp khác ít được ai nhắc đến, đó là những đóng góp cho niềm tin. Trong lúc các bạn đồng nghiệp nhìn vào kính hiển vi chỉ thấy có một số tế bào liên kết với nhau, chẳng có gì hơn nữa, thì trái lại, khi nhìn vào chiếc kính hiển vi, Louis Paster lại reo lên: "Thật kỳ diệu! Còn một điều gì ẩn nấp ở đàng sau nữa: đó là Thượng Ðế".

Anh chị em thân mến!

Qua những khám phá nhà bác học thời danh Louis Paster đóng góp cho nhân loại, chúng ta có thể rút ra được nhiều điều, đặc biệt là cách nhìn các diễn biến và thái độ phải có trước các diễn biến ấy. Cùng một sự kiện, nhưng mỗi nhà bác học lại có một cái nhìn khác nhau. Cùng một tìm tòi khám phá, những mỗi người lại đạt được kết quả riêng biệt.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến hai thái độ khác nhau trước biến cố Chúa Kitô Phục Sinh. Một bên là các phụ nữ và một bên là nhóm lính canh. Ðối diện với họ đều là ngôi một trống. Với nhóm phụ nữ, ngôi một trống là dấu chỉ Tin Mừng Phục Sinh và là khởi điểm cho niềm hy vọng. Tuy lo âu, nhưng họ vội vã đi báo tin vui cho các môn đệ. Nhóm lính canh, họ cũng được nhìn thấy ngôi mộ trống và điều đó không lạ gì đối với họ. Vì thế, ngôi mộ trống không là khởi điểm và tin tưởng của niềm tin, mà còn khiến cho họ càng rời xa niềm tin, càng muốn khỏa lấp niềm tin. Lời đồn đãi ấy vẫn còn vang dội đối với người Do Thái cho đến ngày nay.

Với sự kiện Chúa sống lại, lời nói của nhóm lính canh là những chứng từ có thể đáng tin cậy, vì họ là những người canh giữ mồ đêm hôm ấy. Nếu không vì sợ hãi quyền lực của hội đường Do Thái hoặc không vì chút lợi lộc, tiền của thì chắc chắn họ sẽ là sứ giả loan Tin Mừng Phục Sinh.

Trước Tin Mừng Phục Sinh ai cũng vội vã: các bà thì loan tin cho các môn đệ, còn nhóm lính canh thì vội vã báo tin cho hội đường Do Thái. Ai cũng vội vã, nhưng tùy thái độ mỗi bên mà Tin Mừng Phục Sinh được công bố hay bị dập tắt. Người Kitô hữu cũng là những người được đối diện với Tin Mừng Phục Sinh. Họ được trao cho nhiệm vụ loan báo lại cho người khác biết tin vui này. Chắc chắn lời nói của họ là những chứng từ giá trị, vì họ đã được đón nhận sức sống Phục Sinh của Ðức Kitô.

Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước những áp lực trần thế, hoặc vì sức quyến rũ của chức tước, lợi lộc... họ đành tâm phản bội Tin Mừng. Vì thế cho đến hôm nay, họ còn hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô, về Giáo Hội.

Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh, Ðấng đã chiến thắng quyền lực của tội lỗi, ban cho mỗi người chúng ta lòng tin yêu và can đảm. Tin yêu để chúng ta nhận biết được sự hiện diện của Ngài qua các biến cố cuộc sống, dù cho có vẻ trống vắng, u buồn như ngôi mồ trống của Ðức Kitô. Và khi nhận ra được Ngài, chúng ta sẽ can đảm loan truyền Ðức Kitô cho tất cả mọi người, bất chấp mọi gian lao thử thách.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được bắt chước các tông đồ cũng như các phụ nữ nhiệt thành tìm kiếm Chúa trong yêu mến và hăm hở ra đi rao truyền tin vui Phục Sinh của Chúa Kitô. Amen.

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)

SUY NIỆM 4: ĐỪNG GIỮ THẦY LẠI! (Mt 28, 8 -15)

Để diễn tả niềm tiếc thương với người mới chết, nhất là người quá cố ấy là cha, mẹ, anh chị em hay con cháu của chúng ta, thường chúng ta hay ra mộ để cắm nhang, đốt nến... rồi khóc lóc thảm thiết... Hành vi này là lẽ thường tình và nó cũng rất nhân văn! Qua nghĩa cử này, người ta vừa biểu lộ niềm tiếc thương, vừa diễn tả tâm tình biết ơn với người đã khuất.

Cũng trong tâm trạng ấy, nên hôm nay, thánh sử Mátthêu trình thuật việc các phụ nữ đi ra mộ để khóc thương và xức thêm dầu thơm vào xác Chúa. Họ là những người đã từng lặn lội theo Đức Giêsu trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng, vì thế, tình cảm Thầy và trò thật thắm thiết, keo sơn, nên chuyện đi ra mộ để làm những việc trên là chuyện đương nhiên nơi một người có lòng mến...

Tuy nhiên, những gì diễn ra trước mắt các bà khi các bà đi ra mộ và chứng kiến đã là điều bất thường và không khỏi ngỡ ngàng! Ngôi mộ thì trống; xác thì mất; lại xuất hiện các thiên thần kèm theo lời loan báo giật gân: Chúa đã sống lại! Sự hốt hoảng, hoang mang chen lẫn vui mừng đang mãnh liệt xâm chiếm tâm hồn các bà.

Khi các bà còn đang quá bối rối, thì Đức Giêsu đã hiện ra với các bà và cất lên tiếng nói thân thương hồi nào: "Chào chị em!". Khi nhận ra Chúa, các bà hết đỗi vui mừng và sụp lạy Ngài. Hành vi này cho thấy thái độ trân trọng, yêu mến và tôn thờ mà các bà dành cho Đức Giêsu. Thái độ này đi ngược hẳn với những động thái của nhóm Thượng tế và Kỳ mục! Họ là những người vốn đã có kế hoạch xóa sổ con người Giêsu cũng như những ảnh hưởng của Ngài trên dân chúng và trong xã hội. Vì thế, họ lại tiếp tục đưa ra những kế sách mới, vu khống cho các môn đệ là đang đêm đến lấy xác Đức Giêsu và loan tin đồn là Ngài đã sống lại!

Nhưng sự thật vẫn là sự thật, vì thế, Đức Giêsu đã hiện ra trực tiếp với các phụ nữ và trấn an các bà. Đồng thời ngay lập tức, Ngài muốn cho các bà vượt qua tâm lý, tình cảm tự nhiên, để đi đến một tình cảm trưởng thành và một tình yêu sứ vụ. Vì thế, Ngài nói: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó".

Sứ điệp của Đức Giêsu trao ban cho các phụ nữ cũng chính là sứ điệp cho mỗi người chúng ta hôm nay, đó là: sống và loan truyền Chúa chịu chết, tuyên xưng Chúa sống lại cho mọi người, mọi nơi và mọi lúc.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết như mẫu gương của các phụ nữ hôm nay. Xin Chúa giúp cho chúng con khi đã yêu mến và tin tưởng vào Chúa, thì cũng can đảm ra đi chia sẻ niềm tin ấy cho người khác, để họ cũng gặp được niềm vui cứu độ như chúng con. Amen.

Ngọc Biển SSP

SUY NIỆM 5: “Chào chị em!”

Suy niệm:

Trong bốn sách Tin Mừng, các phụ nữ luôn được kể là người ra viếng mộ trước tiên.

Trong Tin Mừng Mátthêu, đó là hai bà có cùng tên Maria.

Sau khi được thiên thần giao nhiệm vụ loan báo gấp cho các môn đệ

về sự phục sinh và cuộc hẹn gặp của Thầy ở Galilê (28, 7),

các bà đã mau mắn lên đường, vội vã rời bỏ ngôi mộ trống.

Ngôi mộ này là nơi các bà đặt tình cảm thân thương,

vì đây là nơi đặt xác của người Thầy yêu dấu

Bây giờ ngôi mộ không còn xác Thầy nữa, Thầy đã được trỗi dậy rồi,

nên ngôi mộ chẳng phải là nơi các bà dừng lại mà khóc lóc than van.

Nó trở nên một bằng chứng về sự sống lại của Thầỵ

Ngôi mộ trống thực sự đã đem lại một niềm vui vô bờ bến.

Chính những mất mát lại là dấu hiệu cho một sự hiện diện viên mãn hơn.

Vì thế vừa sợ hãi lại vừa hết sức vui mừng,

các bà chạy đi loan báo cho các môn đệ điều mình vừa nghe nói.

Trên con đường hối hả đi gặp các môn đệ,

các bà không ngờ mình lại là người đầu tiên được gặp Chúa phục sinh.

Điều mới nghe thiên thần nói, bây giờ được thấy tận mắt.

Thánh Mátthêu chỉ nói một cách đơn sơ: “Đức Giêsu gặp các bà” (c. 9).

Không thấy mô tả Đức Giêsu oai phong rực rỡ như thế nào.

Có vẻ Ngài gặp các bà lần này như Ngài đã từng gặp bao lần trong quá khứ.

Các bà nhận ra ngay vị Thầy được sống lại

cũng là vị Thầy chịu đóng đinh mà mình đã đi theo từ Galilê.

Chính Đức Giêsu ngỏ lời chào trước: “Chị em hãy vui lên.”

Lời chào này cũng là lời chào bình thường hằng ngày vào thời đó.

Vì thế các bà đã bạo dạn tiến lại gần, ôm chân và bái lạy Thầỵ

Như vậy các bà có thể thấy được và đụng chạm được Đấng phục sinh.

Các bà còn có thể nghe được lời dặn dò của Ngài.

Lời này giống lời thiên thần, chỉ có điều Ngài gọi các môn đệ là anh em:

“Hãy đi và báo cho anh em của Thầy...” (c. 10).

Các môn đệ vẫn được gọi là anh em ngay cả khi họ đã bỏ rơi Ngài.

Khi gọi họ là anh em, Đức Giêsu đã muốn tha thứ mọi vấp ngã của họ.

Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho các phụ nữ trước tiên.

Nhìn thấy ngôi mộ trống chưa đủ, còn cần gặp chính Đấng phục sinh.

Khi trở về gặp các môn đệ, các bà sẽ là những người làm chứng tuyệt vời.

Không chỉ là ngôi mộ trống với lời chứng của thiên thần,

mà còn là lời chứng của chính họ, của người đã chứng kiến tận mắt và đụng chạm.

Đức Giêsu phục sinh dám nhờ các phụ nữ làm chứng,

dám nhờ các phụ nữ đi loan Tin Mừng cho các môn đệ của mình,

dù thời của Ngài người ta không tin lời chứng của phụ nữ.

Chúng ta không quên những đóng góp của các phụ nữ cho Giáo Hội từ thời đầu.

Mong vai trò ấy vẫn được đề cao và tôn trọng.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu phục sinh

lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,

xin hãy gọi tên chúng con

như Chúa đã gọi tên

chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,

xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài

như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,

xin hãy đến và đứng giữa chúng con

như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,

xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con

như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm

mà không được gì,

xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,

như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,

xin tỏ mình ra

cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,

để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,

và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.