Dân Chúa Âu Châu

Nhận lấy Thánh ThầnNhận lấy Thánh Thần.

Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".

Lời Chúa: Ga 20, 19-23

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con".

Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

Các bài suy niệm LỄ HIỆN XUỐNG – Năm B

Lời Chúa: Cv 2,1-11; 1Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23

1. Ơn đổi mới
Qua Kinh Thánh chúng ta được biết sau khi Chúa Giêsu lên trời các môn đệ thường họp nhau cầu nguyện. Nơi họp là một nhà tư và khi họp thì cửa đóng kín. Thế nhưng khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các ông đã ra khỏi nhà và bắt đầu rao giảng cho mọi người về Đức Kitô. Từ đó chúng ta nhận thấy dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một sự đổi mới đã xảy ra trong tâm hồn các môn đệ. Sự đổi mới này chính là tinh thần cởi mở với hai đường hướng rõ rệt.

Trước hết, nhờ ơn Chúa Thánh Thần đổi mới, tâm hồn các ông đã mở ra hướng về Đức Kitô như trung tâm điểm của đời sống đức tin. Các ông nhận ra Đức Kitô là nguồn ơn cứu độ, là đường, là sự thật và là sự sống. Các ông xác tín về mọi lời Ngài dạy. Lời Ngài là Tin Mừng. Và loan báo Tin Mừng là bổn phận của người tin theo Đức Kitô. Các ông không rao giảng một giáo lý nào khác, ngoài giáo lý của Đức Kitô. Các ông không đưa ra hình ảnh nào khác về Thiên Chúa ngoài hình ảnh Đức Kitô, là hình ảnh trung thực nhất của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Cùng với sự đổi mới này, các ông tỏ ra lạc quan và lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa. Thực vậy, trước khi các ông đang lo âu sợ hãi, thì giờ đây các ông sống trong hoan lạc và giờ cầu nguyện chính là giờ các ông ngợi khen Thiên Chúa. Các ông giống như người đã tìm thấy một kho tàng quý giá. Đúng thế, một khi đã thấy được vẻ đẹp tuyệt vời của niềm tin vào Đức Kitô, các ông chỉ còn ca tụng, và cảm tạ Chúa. Niềm tin là một khám phá lạ lùng. Cả những trường hợp các ông bị bắt bớ khổ nhục vì Đức Kitô các ông vẫn có những phản ứng chan chứa bình an. Các ông vui mừng khi bị oan ức vì Đức Kitô. Các ông coi những dịp xảy ra như thế là một hạnh phúc phải hân hoan đón nhận với tất cả tâm tình cảm tạ. Nguồn hoan lạc của các ông là Đức Kitô. Chính nhờ Ngài với Ngài và trong Ngài mà các ông dấn thân.

Tiếp đến các môn đệ nhờ ơn Chúa Thánh Thần đổi mới, đã mở ra hướng về tình bác ái yêu thương. Sách Tông đồ Công vụ kể lại: Sau khi Giáo Hội của Đức Kitô được thành lập với nhóm nhỏ các tông đồ. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, tình thương đã trở thành dấu chỉ thực sự của những người thuộc về Giáo Hội. Họ để mọi của cải làm của chung. Họ nâng đỡ nhau một cách chân thành và quảng đại. Đối với họ Giáo Hội là hiệp thông một cách sống động. Họ nhìn những người ngoài Giáo Hội với cái nhìn kính trọng, đầy khiêm tốn. Giáo Hội nói chung và từng tín hữu nói riêng đã tỏ ra mình là khí cụ bình an của Chúa. Họ sống như một dấu chỉ của sự hoà giải. Giáo Hội lúc đó không bao giờ cho mình là một thế lực, và tổ chức của Giáo Hội cũng nhẹ nhàng, đơn giản hơn nhằm mục đích phục vụ với tinh thần bác ái.

Hai định hướng trên đây có thể gợi ý cho chúng ta trong thời điểm hiện nay là thời điểm của cởi mở. Đây là cơ hội có nhiều tiềm năng. Nếu được vận dụng hướng về cái tốt thực sự, thì sự cởi mở sẽ giúp cho đạo đức đi lên. Còn nếu để mặc cho tự do trôi dạt, hoặc hướng về những điều xấu, thì cởi mở sẽ là như một cái đà cho phong trào phá hoại đạo đức.

Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.

2. Đổi mới
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đổi mới tâm hồn chúng con. Bài đọc thứ nhất, trích sách Tông đồ Công vụ cho chúng ta thấy: Chúa Thánh Thần đã đổi mới các tông đồ như thế nào. Các tông đồ mặc dù đã được tiếp xúc với Chúa Giêsu sống lại, nhưng xem ra vẫn chưa được an tâm cho đủ, bởi vì các ông còn âu lo, còn dao động về những sự việc đã xảy ra cho Thầy mình mà các ông đã chứng kiến. Những tiếng la ó của đám đông thù địch như vẫn còn văng vẳng đâu đây, khiến các ông phải thu mình lại trong một căn phòng mà cửa thì đóng kín. Thế nhưng các ông đã trở nên những con người hoàn toàn khác sau khi Chúa Thánh Thần đến với các ông dưới hình lưỡi lửa.

Hôm ấy là ngày lễ Ngũ tuần được mừng 50 ngày sau lễ Vượt qua của người Do Thái, để tưởng nhớ giao ước tại Sinai giữa Thiên Chúa và dân của Ngài. Từng đoàn người Do Thái từ nhiều nước khác nhau kéo về Giêrusalem vào dịp này. Như thế, việc ban Chúa Thánh Thần được diễn ra trong một khung cảnh có thể nói được là hùng vĩ. Hiện tượng ấy diễn ra dưới hình thức các tông đồ nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho các ông nói, khiến mọi người nghe đều bỡ ngỡ vì mọi người đều nghe các tông đồ nói tiếng thổ âm của mình. Hiện tượng này còn khiến chúng ta nhớ lại biến cố xảy ra tại tháp Babel, làm cho nhân loại bị phân rã. Hôm nay Chúa Thánh Thần lập lại sự thống nhất ngôn ngữ đã bị phá huỷ vì ngọn tháp kiêu căng ấy. Thời cứu độ sẽ là thời quy tụ muôn dân và các tông đồ cũng như các môn đệ của Chúa có sứ mạng loan báo Tin Mừng cho mọi người thuộc mọi ngôn ngữ, mọi tiếng nói.

Tiêu biểu cho sự đổi mới dưới tác động của Chúa Thánh Thần là thánh Phêrô tông đồ. Ông đã mở toang cửa nhà họp, đối diện với đám đông mà ông đã từng e ngại. Ông ngỏ lời với họ và nói lên niềm xác tín của mình về Đức Kitô, Đấng mà người Do Thái đã đóng đinh cách đây không lâu. Những kẻ chứng kiến không hiểu nổi sự việc đã cho rằng ông say. Đúng là Chúa Thánh Thần đã làm cho ông ra như say. Nhưng không phải là say rượu mà là say với Thần Khí của Chúa, say với niềm tin, say với lý tưởng. Hiệu lực của việc ban Chúa Thánh Thần quả là rõ ràng, nhưng đó cũng mới chỉ là điểm khởi đầu của một công cuộc hết sức to lớn, kéo dài cho tới ngày hôm nay.

Người Kitô hữu hôm nay cũng được mời gọi trở nên say như Phêrô trong ngày lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Bởi đó, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đến và đổi mới con người chúng ta, nhờ đó chúng ta trở nên hăng say với Tin Mừng cứu độ, với lý tưởng xây dựng một xã hội, một cuộc đời tốt đẹp hơn, trong lành hơn.

3. Chúa Thánh Thần.
Lễ hiện xuống chính là ngày lễ 50 của Cựu Ước. Đó là cao điểm kết thúc cho mùa mừng lễ Vượt Qua, ngoài ra đó còn là ngày lễ tạ ơn vì Chúa đã cho mùa màng tốt tươi, cũng như để kỷ hiệm ngày Chúa công bố lề luật qua Môsê trên đỉnh núi Sinai.

Đối với chúng ta hôm nay, thì lễ Hiện Xuống cũng chính là cao điểm, kết thúc cho mầu nhiệm Phục sinh. Như ngày Hiển Linh đối với ngày Giáng Sinh thế nào thì ngày lễ Hiện Xuống cũng vậy đối với lễ Phục Sinh. Tôi xin đưa ra một vài hình ảnh để so sánh.

Trong ngày lễ Phục sinh, Đức Kitô như mặt trời hừng đông ló dạng. Còn trong ngày lễ Hiện xuống thì mặt trời ấy đã đứng bóng, chói loà và đem lại sức sống. Trong ngày lễ Phục sinh thửa vườn của Giáo Hội nở bông với những tín hữu mới được lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Còn trong ngày lễ Hiện xuống, những bông hoa ấy đã kết thành trái chín vàng trên cành cây. Người làm vườn là Đức Kitô đã trồng những mầm non mới. Còn mặt trời làm cho trái chín vàng đó là Chúa Thánh Thần. Trong ngày lễ Phục sinh chúng ta mới chỉ là những trẻ nhỏ của Thiên Chúa, chúng ta cần đến sữa mẹ là Chúa Thánh Thần. Chúng ta lớn lên trong nhà mẹ là Giáo Hội, một cách vô tư và hạnh phúc như những em nhỏ. Nhưng khi chúng ta trưởng thành, Giáo Hội, người Mẹ hiền của chúng ta, không ngần ngại bảo cho chúng ta biết rằng khoảng thời gian êm đẹp và thơ mộng ấy đã qua đi, giờ đây chúng ta là những lữ khách, sẽ gặp phải nhiều đau khổ, nhiều buồn phiền. Với lễ Hiện xuống, chúng ta trở nên là những người trưởng thành. Với lễ hiện xuống Chúa Thánh Thần làm việc và tác động.

Trước khi về trời Chúa Giêsu đã hứa không để cho chúng ta phải mồ côi, Người sẽ gởi đến cho chúng ta một Đấng an ủi, để nhắc lại những điều Người đã giảng dạy. Ngày hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động trong Giáo Hội cũng như trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy nghĩ tưởng đến Ngài, và chúng ta có thể gặp gỡ Ngài ở khắp mọi nơi. Ngài ngự trị trong tâm hồn chúng ta kể từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để biến tâm hồn và thể xác chúng ta thành đền thờ cho Thiên Chúa, như lời thánh tông đồ đã khuyên nhủ: Anh em không nhớ rằng thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần hay sao. Hãy mang lấy Thiên Chúa và hãy tôn vinh Người trong thân xác anh em. Chúng ta sẽ dễ dàng trở nên thánh thiện, nếu chúng ta luôn ý thức rằng Chúa Thánh Thần đang ngự trị trong chúng ta. Còn đối với Giáo Hội, Chúa Thánh Thần luôn thánh hoá và hoạt động bằng các bí tích. Chúa Giêsu đã về trời và trở nên vị trung gian bầu cử cho chúng ta trước toà Đức Chúa Cha. Nhưng Giáo Hội trên trần gian hằng được Chúa Thánh Thần giúp đỡ và hướng dẫn. Trong bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu thực sự hiện diện, nhưng Ngài không thể tiếp nối những hành động mà ngày xưa Ngài đã thực hiện ở Palestin. Trong bí tích Thánh Thể Người chỉ là của lễ và của ăn cho chúng ta,. Thế nhưng, bí tích Thánh Thể lại chính là một dụng cụ Chúa Thánh Thần dùng để thánh hoá chúng ta.

Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Và như chúng ta đã biết Giáo Hội là nhiệm thể của Đức Kitô. Thân xác muốn sống thì phải có linh hồn. Vai trò của linh hồn thật là quan trọng, nó là nguyên lý của sự sống, nếu linh hồn lìa khỏi thì thân xác sẽ phải chết. Cũng vậy Chúa Thánh Thần là linh hồn của nhiệm thể Giáo Hội, chính Ngài trao ban và bảo tồn đời sống ơn sủng trong chúng ta. Nhờ Ngài mà chúng ta có thể cầu nguyện và làm được những việc tốt lành. Bởi đó, trong ngày mừng kính Ngài hôm nay, chúng ta hãy mặc lấy ba tâm tình sau đây: Tâm tình thứ nhất là tâm tình vui mừng. Chính vì thế mà Giáo Hội đã mời gọi chúng ta qua lời kinh Tiền Tụng: Trong niềm hân hoan chứa chan, toàn thể vũ trụ đều nhảy mừng. Tâm tình thứ hai là tâm tình tin tưởng vào sự hiện diện và vào quyền năng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội cũng như trong tâm hồn mỗi người. Chúng ta phải cảm nghiệm và nhận ra quyền năng ấy. Và sau cùng chúng ta hãy mong mỏi xin Ngài ngự đến như lời Giáo Hội tha thiết nguyện cầu: Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và đổ tràn đầy trong lòng các tín hữu những hồng ân của Ngài.

4. Ra đi-tha thứ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động. Hôm nay, Chúa Giêsu tóm tắt sứ mạng hành động đó qua 2 nhiệm vụ: Ra đi và Tha thứ.

Nhiệm vụ thứ nhất mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là RA ĐI: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nhận lãnh Chúa Thánh Thần là được sai đi. Chúa Thánh Thần là sức mạnh hành động. Người không thể bị giam hãm trong những căn phòng đóng kín cửa. Người không ưa thích những tâm hồn khép kín trong ủ rũ điêu tàn. Người đến đâu là mở tung cửa nhà ra đến đấy. Mở ra để đón lấy những luồn gió mới tươi mát. Mở ra để đón nhận mọi người đến với mình. Và nhất là mở ra để mình đến với mọi người. Một cuộc sống không giao tiếp sẽ trở nên nghèo nàn, tàn lụi. Một tâm hồn chỉ quy hướng về bản thân sẽ chẳng khác một vũng ao tù, ô nhiễm. Ra đi sẽ giúp ta nên phong phú, mạnh mẽ. Ra đi không phải là lang thang không mục đích, nhưng là đi đến những địa chỉ Thánh Thần muốn gửi ta đến. Những địa chỉ Thánh Thần muốn ta đến đó là “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Người sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Người sẽ củng cố những tâm hồn nhút nhát. Người sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Người sẽ đổ tràn vào hồn ta nguồn nhựa sống mới giúp ta hăng hái lên đường.

Nhiệm vụ thứ hai mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là THA THỨ: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Tha thứ, hoà giải luôn là một vấn đề lớn của thế giới. Trên thế giới, những cuộc chiến tranh, chia rẽ, xung khắc xảy ra hầu như hằng ngày. Con người là bất toàn, nên sống chung là có bất đồng, xung khắc. Nếu cứ mỗi lần có xung khắc, ta loại trừ đi một người bạn, thì có lẽ cuối cùng ta sẽ chẳng còn người bạn nào. Người ta không thể sống một mình. Mỗi người đều cần đến người khác. Sống chung với nhau là một nhu cầu. Vì thế, việc tha thứ, hoà giải là vô cùng cần thiết. Hoà giải hệ tại ở hai động tác: xin lỗi và tha lỗi. Hai việc đều khó làm. Vì con người đầy tự ái. Dù biết mình lỡ lầm, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận lỗi và xin lỗi. Xin lỗi đã khó, tha lỗi còn khó hơn. Chính vì thế, việc hoà giải cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần, ở đây, ta phải nhìn vào Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô như tấm gương sáng chói. Người là tấm gương sáng về sự ra đi. Cuộc đời Người là một cuộc ra đi không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu, nhưng Người vẫn lên đường đi đến với mọi dân tộc, mọi đất nước. Người tiếp xúc với tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chính kiến, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ. Người đi đến với cả những kẻ chống đối, bất hoà và thù nghịch với Người. Để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh, Người đã làm một cử chỉ ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội. Đó là Người công khai nhìn nhận những lỗi lầm của Giáo Hội để xin mọi người tha thứ. Đây quả là một hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy Giáo Hội. Đức Thánh Cha đã được ơn Chúa Thánh Thần nên đã ra đi làm hoà với mọi người. Chính cử chỉ khiêm nhường ấy đã giúp đổi mới Giáo Hội, đem đến cho Giáo Hội một khuôn mặt mới trẻ trung hơn, một sức sống mới dồi dào hơn, một phong cách hiện diện mới dễ thương dễ mến hơn.

Ta hãy biết noi gương Đức Thánh Cha. Hãy biết ra đi, không chỉ là đi hành hương viếng nhà thờ để lãnh ơn toàn xá, nhưng còn là ra đi đến với những người bé nhỏ, nghèo hèn, những người bị bỏ rơi, những người kém may mắn ở đời, những người ta không ưa thích, những người chống đối ta, cả những người làm hại ta nữa. Nhất là hãy gieo rắc sự tha thứ. Tha thứ cho anh em để anh em cũng tha thứ cho ta, để chúng ta xứng đáng trở thành con Thiên Chúa. Đức Chúa Thánh Thần muốn đổi mới Giáo Hội. Nhưng việc đổi mới phải bắt đầu từ mỗi tâm hồn. Đức Chúa Thánh Thần sẽ canh tân bộ mặt thế giới, nhưng việc canh tân phải khởi đi từ mỗi con người. Ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhân ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Người.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới tâm hồn con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Đức Chúa Thánh Thần mời gọi bạn ra đi đến với người khác. Bạn có thường đi thăm viếng những người nghèo hèn, nhất là những người bạn không có cảm tình không?

2- Bạn có muốn tha thứ, làm hoà với người khác không? Bạn đã có cố gắng nào để làm hoà trong Năm Thánh?

3- Bạn nghĩ gì về việc Đức Thánh Cha xin lỗi?

4- Bạn có sẵn sàng để Đức Chúa Thánh Thần biến đổi bạn không?

5. Lễ Hiện Xuống mới
1. Sách Công vụ Tông đồ mô tả ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như một biến cố vĩ đại làm rung chuyển từ căn nhà gia đình đến rung chuyển cả thành Giêrusalem, làm chấn động đoàn môn đệ đến vang dội cả thiên hạ. Đó là ngày lễ lớn của gia đình, của dân tộc và cả thiên hạ.

- Trong gia đình: Mọi người đang tụ họp đều nghe thấy tiếng vang dội từ trời xuống, mãnh liệt như gió bão ào ào. Tất cả đều thấy những hào quang xuất hiện tỏa sáng trên đầu mỗi người. Cả gia đình đều được tràn đầy Thánh Thần và nói nhiều thứ tiếng.

- Trong thành thánh: Người ta thấy ồn ào, mọi người tuôn đến. Họ kinh ngạc, sửng sốt và thán phục. Họ sốt sắng lắng nghe những lời chân lý lạ lùng do một tập đoàn đang rao giảng.

- Từ khắp muôn phương thiên hạ: Người Rôma, người Hy Lạp, người Ai Cập đến những người trung đông đều được nghe loan báo những kỳ công của Thiên Chúa bằng tiếng mẹ đẻ của mình, bằng văn hóa dân tộc địa phương mình.

2. Ai đã làm rung chuyển cả thế giới như thế? Thưa là “Chúa Thánh Thần”. Thánh Phaolô đã trả lời cho giáo đoàn Corintô như thế (1Cr. 12,3-7): “Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta đã được tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, biết được chỉ có một Thiên Chúa, nhờ Thánh Thần, chúng ta được thanh tẩy để xứng đáng trở nên chi thể của Đức Kitô.

Thánh Thần đã tạo dựng một cộng đoàn mới, một dân tộc mới, một thế giới mới, một nhân loại mới, sống thành một gia đình tuyên xưng Thiên Chúa là Cha mình. Họ sống thành tông đồ đoàn, thành giáo đoàn, thành Giáo Hội, thành dân tộc của Thiên Chúa, lan rộng muôn phương. Tất cả đều uống một Thánh Thần với nhiều đặc sủng, nhiều việc khác nhau, tất cả đều hợp nhất với nhau nên một thân thể Đức Kitô, tất cả đều hoạt động cho muôn dân thấy những kỳ công của Thiên Chúa đang thương yêu cứu độ họ.

Ngày nay, trước một thế giới đầy biến động và phân hóa khôn lường. Đức Giáo Hoàng Gioan 23 đã kêu gọi họp Công Đồng Vaticano II để cầu nguyện cho Giáo Hội và thế giới “Một lễ Hiện xuống mới”. Tất cả các Hồng Y, Giám Mục và Viện Phụ từ khắp mặt đất đều đồng tâm nhất trí về họp tại Vatican từ năm 1962 đến năm 1965. Có bốn kỳ họp, mỗi kỳ hơn hai tháng gồm từ 2152 đến 2391 nghị phụ với hàng ngàn chuyên gia lỗi lạc: linh mục, tu sĩ và giáo dân, soạn thảo hàng trăm văn kiện, được thảo luận đúc kết, và bỏ phiếu tán thành bốn Hiến Chế: Phụng Vụ, Tín Lý Giáo Hội, Tín Lý Mặc Khải và Mục Vụ Giáo Hội trong thế giới ngày nay, với 9 Sắc Lệnh về Truyền thông xã hội, về các Giáo Hội: Công giáo, Đông Phương, về Nhiệm vụ Giám Mục, về đời sống Dòng tu, về đào tạo Linh mục, về Tông đồ giáo dân, về Hoạt động truyền giáo, về Chức vụ Linh mục, về Hiệp nhất, và 2 Tuyên ngôn: về Giáo dục Kitô giáo, về liên lạc Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo.

Đó là một Lễ Hiện xuống mới để trở về với Đức Kitô, thực hiện tin mừng tình thương cứu độ của Ngài cho muôn dân. Muôn dân đã được nghe lời Chúa bằng tiếng mẹ đẻ của mình trong Thánh lễ, trong các phép Bí tích, không còn cảnh ngơ ngác phải nghe tiếng Latinh xa lạ.

Từng gia đình đã được gần gũi lời Hằng sống bằng những cuốn Kinh thánh quý giá in chữ viết của mình. Từng thánh đường được thấm nhuần lời Thánh ca bằng những âm điệu bản sắc văn hóa của mình.

“Họ đã được nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần… Thánh Thần đã tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung… để tất cả đều được tràn đầy một Thánh Thần duy nhất” (Bài đọc 2).

Muôn lạy Chúa Thánh Thần, xin mau mau ngự đến, cho tâm hồn tín hữu cháy lửa yêu mến Ngài, cho Giáo Hội trinh trong hiệp nhất muôn thế hệ, cho trần gian thấm nhuần muôn ơn phúc. Lạy Ngài xin đổi mới lòng trí con. Amen.

6. Lễ Hiện Xuống: Khai sinh Giáo Hội truyền giáo
(Suy niệm của Thiên Phúc)

Giải Nobel Hòa bình năm 2000 đã được trao cho Tổng Thống Hàn Quốc Kim Dae-Jung, một con người đã từ 30 năm nay đấu tranh không mệt mỏi cho công bằng, dân chủ và hòa hợp.

Tổng Thống Kim là một người Công giáo, được Đức cố TGM Seoul rửa tội vào năm 1956. Trong một đất nước chỉ có 10% dân số là Công giáo thì sự kiện này cũng đang nhắc nhở về sự dấn thân của Giáo Hội Công Giáo tại lục địa Á Châu này.

Phần thưởng này đã được các vị lả đạo và chức sắc tôn giáo ở Hàn Quốc hân hoan chúc mừng. Một vị Hòa thượng lãnh đạo một Tông phái Phật giáo lớn nhất ở Hàn Quốc nhận định như sau: “Tổng thống Kim Dae-Jung sẽ được ghi nhớ như một vị lãnh đạo nổi bật của thế giới”.

***

Lễ Hiện xuống là lễ khai sinh một Giáo hội truyền giáo. Và nỗ lực đấu tranh cho công bằng, dân chủ và hòa bình với danh nghĩa là người Công giáo như Tổng thống Kim Dae-Jung chính là một công cuộc truyền giáo.

“Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Rồi Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 21-22). Các Tông đồ đã nhận lãnh Thánh Thần để ra đi truyền giáo. Chính Thánh Thần đã làm cho các ngài hoàn toàn đổi mới.

Từ chỗ không hiểu gì cả, thì nay các ngài đã hiểu rõ tất cả.

Từ sự nhát đảm run sợ, cửa đóng then cài, thì nay các ngài mạnh dạn can đảm mở toang cửa ra.

Từ những dân chài ít họ, thì nay các ngài nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.

Bằng chứng là Pherô, trước đây run sợ trước câu hỏi của một cô đầy tớ, thế mà nay dám đứng lên rao giảng giữa những người đã giết chết Thầy mình, khiến cho 3000 người gia nhập Giáo hội với chỉ một bài giảng duy nhất.

Không những các ngài can đảm rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, mà còn dám hy sinh cả tính mạng vì danh thánh ấy. Tất cả các ngài đều đã chịu tử vì đạo. Và sau Pherô, 39 vị Giáo hoàng tiên khởi đều anh dũng chết vì đạo thánh.

Người ta tưởng các ngài say rượu, nhưng thật sự thì các ngài đang say Chúa.

Người ta nghĩ các ngài điên dại, nhưng quả thật thì các ngài đang đầy tràn Thánh Thần.

Lễ Hiện xuống không chỉ là ngày khia sinh Giáo hội, mà Lễ Hiện Xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo Hội. Người ta gọi Công đồng Vatican II là một Lễ Hiện Xuống mới, một luồng gió mới đã thổi vào Giáo Hội để canh tân cho thích hợp với độ chóng mặt của thế giới ngày nay. (năm nay 1963-2013 kỉ niệm 50 Công đồng Vatican II, năm Đức Tin của Giáo Hội Công giáo do Đức Thánh Cha Bênedictô XVI công bố)

Công đồng đã long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Đức Gioan Phaolô II nhận định: “Đã đến lúc phải dốc toàn lực trong Giáo Hội vào một cuộc loan báo Tin Mừng mới và vào sứ vụ đến với muôn dân. Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).

Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ sau khi tham dự Hội nghị toàn thể lần thứ bảy liên Hội đồng Giám mục Á Châu đã có cảm nhận rất sâu sắc này: “Giáo Hội tại Châu Á phải là một giáo hội truyền giáo”. Ngài giải thích: “Vì Chúa Giêsu là người châu Á, Giáo Hội Thiên Chúa đã được phát sinh tại châu Á, và ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, thế mà hôm nay lại rất ít người châu Á biết Chúa và tin theo Chúa” (CGDT số 1250). Quả thật, tại châu Á, đông dân nhất năm châu mà chỉ có 3% dân số tin theo Chúa. Đó là nỗi ray rứt của mỗi người chúng ta, mà cũng là thách thức từng ngày của mỗi tín hữu Kitô.

***

Lạy Chúa, xin hãy thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, văn minh và an bình cho tha nhân, nhất là khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới; nhưng trước hết, là cho những người bên cạnh chúng con bằng đời sống phục vụ và yêu thương. Amen.

7. Chứng nhân cho Chúa – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)

Ngày 12 tháng 10 năm 1999, một cậu bé nặng 3,55 kg đã chào đời lúc 00:03 tại Sarajevo, Bosnia. Cậu đã được Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Anna chào đón như là biểu tượng của người dân thứ 6 tỷ của Thế giới (C 6 B: Day of 6 billionth person). Sự chọn lựa này chỉ là ngẫu nhiên, do ông Tổng Thư ký đang công tác ở Bosnia.

Chỉ trong ngày 12-10, ước tính có khoảng 370.000 trẻ em trên thế giới chào đời, phân nửa trong số đó là trẻ em Châu Á. Các chuyên gia dân số thế giới chào đón ngày này với sự … lo lắng, vì hầu hết số trẻ ấy sẽ sống trong nghèo đói và thất học… Chỉ trong thế kỷ 20, dân số thế giới đã tăng gấp ba và nếu tính trong vòng 12 năm, dân số thế giới tăng độ một tỷ người. LHQ ước đoán dân số thế giới sẽ là 8,9 tỷ vào năm 2050. Nhà sinh thái học David Pimentel của Đại học Cornell cảnh báo: “Đến năm 2100, sẽ có 12 tỷ con người khốn khổ chịu đựng cuộc sống khó khăn trên trái đất”.

Nhưng không phải ai cũng đồng tình với nỗi lo về “ngày ảm đạm, u tối”, khi dân số thế giới đạt đến con số 6 tỷ. Nhà kinh tế học Stephen Moore lại cho rằng: “Dân số thế giới đạt 6 tỷ là món quà tặng cho sự khéo léo và khả năng sáng tạo của con người”.

***

Mỗi Lễ Hiện Xuống là một ngày khai sinh mới của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Người hằng huy động, hướng dẫn, hiệp nhất dể xây dựng Giáo Hội. Giáo hội đã có một lịch sử dài suốt 20 thế kỷ. Cần một luồng gió mạnh thổi đến, lùa vào, đổi mới mọi sự.

Công đồng Vatican II, chính là ngày “Lễ Hiện Xuống mới” của Giáo hội. Nếu ngày xưa thánh Phero đã mở tung cửa đón nhận Thánh Thần Thiên Chúa, thì ngày nay đức Thánh Cha Gioan 23 cũng đã khai mở Công đồng như một ngày “lễ Hiện Xuống mới”, đem lại cho Giáo Hội một luồng sinh khí mới, một bộ mặt mới. Để rồi từ đó, muôn dân nước được nghe Lời chúa bằng tiếng mẹ đẻ trong Thánh lễ và trong các Bí tích, được hát Thánh ca bằng ngôn ngữ dân tộc mình. Với 4 Hiến Chế, 9 Sắc Lệnh và 3 Tuyên Ngôn, giáo hội đã mở rộng ra với thế giới, để bắt kịp đà tiến triển của thời đại văn minh.

Qua làn hơi thở của Chúa, qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, hôm nay chúng ta cũng trở nên chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Thế giới hôm nay đã bước sang thế kỷ 21, với 6 tỷ người chen chúc trong đó, nhưng chỉ có trên 1 tỷ người Công giáo. Đó là trách nhiệm của mỗi người chúng ta, là nỗi trăn trở và day dứt khôn nguôi của người tín hữu: những chứng nhân của Nước Trời.

Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta ngồi lại với nhau, giải quyết tranh chấp, xây dựng hòa bình.

Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta chăm lo cho người nghèo, quan tâm đến trẻ thơ và người già yếu.

Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta đem niềm vui đến cho những người bất hạnh, mang lại nụ cười cho những kẻ khổ đau.

Thiên Chúa rất cần những chứng nhân như thế, để đổi mới bộ mặt trái đất, làm tươi mát khuôn mặt địa cầu.

Thiên Chúa rất cần những chứng nhân đi xây dựng một thế giới, nơi đó con người yêu thương nhau hơn.

Thiên Chúa rất cần những chứng nhân đi thánh hóa trần gian bằng đời sống tin tưởng, tràn đầy niềm vui.

***

Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho chúng con gặp được Người trong những nụ cười trao cho nhau, trong những hy sinh vô vị lợi, và trong nỗi thao thức xây dựng một thế giới huynh đệ hơn. Amen.

8. Ý nghĩa cuộc sống.
Chúa Thánh Thần đem lại gì cho chúng ta. Đó là câu hỏi chúng ta cùng nhau tìm hiểu. Và ơn huệ đầu tiên Ngài đem lại đó là đức tin. Chính đức tin sẽ tạo nên nơi chúng ta một cái nhìn mới.

Kể từ nay, chúng ta không còn cúi mặt nhìn xuống đất, mà còn có thể ngước mắt nhìn lên trời. Và qua những thực tại trần gian, chúng ta sẽ tìm thấy những giá trị siêu nhiên. Chúa Thánh Thần sẽ mở ra một chân trời mới, sẽ hướng dẫn chúng ta bước vào cõi sống đời đời. Hẳn rằng đã hơn một lần chúng ta băn khoăn và tự hỏi: Hỡi người, người là ai? Tại sao người lại sống trên mặt đất này. Rồi người sẽ đi về đâu? Mục đích cuộc sống của người là gì? Ý nghĩa cuộc sống của người là gì?

Có một nhà hiền triết nọ cũng đã suy tư như thế. Hôm đó, ông đi lang thang trong rừng, miệng không ngừng lặp lại câu hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Bỗng một con họa mi bay đến và nói: Ý nghĩa cuộc sống ư? Chỉ là tiếng hót véo von. Rồi nó bay đi nhưng vẫn còn vương lại những âm thanh dễ mến. Nghe vậy, chú chuột chù phản đối: Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng với bóng tối.

Thế nhưng chị bướm lại lắc đầu không chịu: Cuộc sống chỉ là hưởng thụ và vui thú. Bấy giờ bác ong mật phát biểu: Cuộc sống không chỉ là vui thú, mà còn là lao động, lao động nhiều hơn vui chơi. Cô phượng hoàng thì vỗ cánh và nói: Chẳng ai có lý hết, đời sống chính là tự do, được tung bay trên khắp khoảng trời xanh. Cụ tùng bách thì lắc đầu và bảo: Đời sống là một cố gắng để vươn cao. Nhưng cô hồng nhung lại quả quyết: Cuộc đời chỉ là những tháng ngày trau chuốt cho vẻ đẹp được thêm duyên dáng. Còn chàng mây lang thang lại thở dài: Đời sống chỉ là những lần chia ly, khổ đau, cay đắng và nước mắt. Còn bà sóng thần thì bảo: Đời là một sự đổi thay không ngừng.

Nhà hiền triết hốt hoảng và chạy trốn khỏi khu rừng để không còn nghe tiếng nói của muôn loài trước một vấn nạn chưa được giải quyết.

Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta cũng đã băn khoăn như nhà hiền triết, để rồi cảm thấy như bế tắc, không tìm ra đáp số cho bài toán.

Thế nhưng với biến cố Hiện xuống, các môn đệ đã nhìn rõ vấn đề, đã thấu suốt được những chân lý mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. Với ơn Chúa Thánh Thần chúng ta cũng sẽ nếm thử được niềm an bình và nỗi mừng vui, bởi vì chúng ta xác tín rằng: quê hương chúng ta không phải ở mặt đất này, nhưng là ở chốn trời cao. Cuộc sống tạm bợ phù du này sẽ kết thúc để rồi mở ra một chân trời hạnh phúc, kéo dài tới vĩnh cửu. Nhờ đức tin lãnh nhận, chúng ta có được cái nhìn mới và biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian, biết xử dụng chúng để xây dựng cuộc sống siêu nhiên.

Thánh Cyrillo đã so sánh: Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta như ánh sáng mặt trời tác động trên con mắt. Nếu đi từ bóng tối ra ánh sáng, chúng ta sẽ nhìn thấy nhiều vật trước kia chúng ta không nhìn thấy. Cũng vậy, với Chúa Thánh Thần chúng ta sẽ nhìn xem tất cả bằng cặp mắt siêu nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra những giá trị thiêng liêng cho cuộc sống tạm gửi này, để rồi chúng ta sẽ không dừng lại, sẽ không đầu tư cho những vui thú chóng qua, nhưng sẽ tìm kiếm và đầu tư cho hạnh phúc vĩnh cửu.

Ngày xưa Chúa Thánh Thần bay lượn trên nước và đã biến cái đám hỗn mang thành một vũ trụ có trật tự thế nào, thì bây giờ Ngài cũng bay lượn, cũng hiện diện trong tâm hồn để biến con người tội lỗi, vô trật tự của chúng ta thành một Kytô hữu đích thực, Ngài sẽ cởi bỏ con người cũ của chúng ta, biến chúng ta trở nên một tạo vật mới, một con người mới. Vậy con người mới ấy là như thế nào? Chắc hẳn bề ngoài chúng ta vẫn như trước vẫn giống với mọi người, có đầu, có mắt, có trái tim, nhưng cách thức chúng ta nhìn ngắm, cách thức chúng ta suy nghĩ, cách thức chúng ta yêu mến thì lại hoàn toàn thay đổi, như lời tiên tri Êgiêkiel đã diễn tả: Ta sẽ rảy nước tinh tuyền trên các ngươi và các ngươi sẽ được trong sạch. Ta sẽ cất khỏi các ngươi trái tim bằng đá, nhưng sẽ ban cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới và một thần khí mới.

Với Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn, chúng ta sẽ nhìn cuộc sống, nhìn những người anh em, nhìn thế giới, nhìn dòng lịch sử một cách khác. Chúng ta sẽ nhìn những khổ đau, những thử thách và những đắng cay một cách khác. Chúng ta sẽ tìm thấy được những giá trị siêu nhiên của chúng.

Bởi đó, hãy mở cửa đón nhận Chúa Thánh Thần, hãy lắng nghe tiếng nói của Ngài, hãy bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài, hãy sống theo những gì Ngài chỉ bảo. Đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài, để nhờ đó, Ngài sẽ hun đúc đức tin, để nhờ đó chúng ta biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian.

9. Bình an giữa chốn phong ba – Thiên Phúc
Ngày xửa ngày xưa có một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều hoạ sĩ đã cố công vẽ những bức tranh tuyệt đẹp để trình lên vua. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh đó nhưng chỉ thích có hai tấm và ông phải chọn lấy một.

Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình an thật hoàn hảo.

Bức tranh kia cũng có những ngọn núi nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xoá. Bức tranh này trông thật chẳng bình an chút nào.

Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ của mình… Bình an thật sự!

Nhà vua công bố: “Ta chấm bức tranh này! Sự bình an không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình an có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của bình an”.

***

Sau khi Đức Giêsu chịu chết, các tông đồ sợ người Do Thái lùng bắt, nên đã trốn vào phòng, cửa đóng then cài.

Giữa cơn phong ba bão táp, Đức Giêsu sống lại, hiện ra với các ông, như chim mẹ an nhiên đậu trên tổ canh giữ bầy con, Người mang lại cho các ông sự bình an đích thực: “Bình an cho anh em!”

Bình an của Đấng Phục Sinh không phải là thứ bình an không có sóng gió. Bình an của Người là bình an trong tâm hồn. Bình an ấy không loại trừ phải đối đầu với kẻ thù. Bình an ấy giúp ta đối diện với khổ đau và nỗi chết. Chính vì thế mà sau khi trao bình an, Đức Giêsu đã cho các môn đệ “xem tay và cạnh sườn” Người. Đó là bằng chứng của một cuộc chiến đấu đầy gian truân mà các môn đệ sẽ phải đi tới.

“Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,21-22). Nhận được bình an, lòng tràn ngập hân hoan, các môn đệ không còn nhát sợ. Với sức mạnh của Thánh Thần các ngài mạnh dạn tung cửa ra ngoài, hiên ngang rao giảng về Đức Giêsu, Đấng đã bị người ta giết chết, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại. Người đang hiện diện sống động giữa các ngài và đang hoạt động mãnh liệt trong các ngài.

Lễ Hiện Xuống nhắc nhở người tín hữu về một Thánh Thần bình an đã hoạt động trong lòng Giáo Hội suốt hơn 2000 năm qua. Người cũng đang hiện diện trong những người đã lãnh nhận Bí tích Thêm Sức để sai họ đi làm chứng nhân cho Tin Mừng.

Làm chứng cho Tin Mừng là để Thánh Thần mở toang cánh cửa tâm hồn, không còn nhát sợ nhưng can đảm chiến đấu với thử thách, khổ đau trong cuộc sống.

Làm chứng cho Tin Mừng là để Thánh Thần dẫn dắt chúng ta đến với người nghèo khổ, bất hạnh, để tận tình yêu thương và kính trọng họ cho xứng với phẩm giá con người.

Làm chứng cho Tin Mừng là để Thánh Thần là để Thánh Thần thúc đẩy chúng ta đến với những người chưa nhận biết Chúa bằng đời sống dấn thân phục vụ trong hân hoan.

Nếu mỗi người tín hữu biết mềm mại để Thánh Thần canh tân đổi mới, nếu mỗi chúng ta biết lắng nghe tiếng nói thầm lặng nhưng mạnh mẽ của Thánh Thần, thì mọi người sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu trên toàn thế giới.

***

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến như ngọn gió mát, thổi vào cuộc đời chúng con luồng sinh khí mới để cả trái đất này được thay da đổi thịt trong cùng một Thánh Thần Tình Yêu. Amen!.

10. Thần Khí sự thật và sự thật toàn vẹn
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

Tôi vẫn thường thắc mắc về ý nghĩa hay nội dung đích thực của ‘sự thật toàn vẹn’. Nhiều bản văn Thánh Kinh Anh ngữ dùng các từ ‘all truth, whole truth, all the truth’ để dịch từ ‘aletheia pase’ tiếng Hy Lạp. Đối với tôi, vấn đề chính ở đây là xác định được nội dung của ‘sự thật’ hay ‘chân lý’ mà Đức Giê-su nhiều lần đề cập tới, thậm chí có lúc còn tự đồng hóa mình với aletheia (xem Ga 14:6). Nói như thế vì tôn giáo nào cũng thường cho mình là dạy dỗ sự thật, hoặc mình thủ đắc chân lý duy nhất đúng, và đề ra cả một hệ thống thuyết giáo phức tạp để quảng diễn chân lý hay sự thật đó. Trong lãnh vực này, thiết tưởng đạo Công giáo chúng ta cũng không là ngoại lệ.

Thế nhưng nếu có thứ chân lý của hiểu biết, thì cũng có chân lý hay sự thật của cứu rỗi. Khi tuyên bố với các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô rằng: ông đã rao giảng cho họ ‘tất cả ý định của Thiên Chúa’, Phao-lô chỉ đơn thuần khảng định rằng, ông rao truyền cho họ tất cả những hiểu biết cần thiết để tiến tới ơn cứu độ (Cv 20:17-35). Ông cũng nói với các tín hữu Cô-rin-tô rằng: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu… mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì!” (1 Cr 13:2). Chính Đức Giê-su đã từng khảng định rằng: có sự thật giải thoát, có chân lý thánh hóa’ (Ga 4:22; 17:17-19). Trong cuộc đối đáp giữa Người với Phi-la-tô, thuật ngữ ‘sự thật’ đã được hai người hiểu rất khác nhau là thế. Rõ ràng ‘chân lý toàn vẹn’ không thể chỉ là hiểu biết, mà phải là ‘sự thật cứu rỗi’.

“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Có điều gì các môn đệ không chịu nổi hay chậm hiểu? Các lý luận thần học hay các tín lý trong đạo chăng? Đương nhiên là mấy ông môn đệ đó khó có thể hiểu nổi…, nhưng Đức Giê-su đâu có đòi điều này nơi những người bình dân chất phác như các ông. Không, tất cả các ông đều đang đi tìm sự cứu rỗi cho mình và cho toàn dân Ít-ra-en; tuy nhiên cũng như phần đa các người Do Thái khác, các ông cho rằng sự cứu rỗi rõ ràng hệ tại ở việc tuân giữ lề luật. Thực hiện Giao Ước với Gia-vê như thể con đường duy nhất dẫn tới giải thoát, cả về mặt chính trị lẫn thiêng liêng. Vấn đề ở đây là, làm sao các ông chịu hiểu ra rằng, sự cứu rỗi và giải thoát duy nhất phải tới từ Đức Ki-tô, từ cuộc tử nạn của Người, vì qua đó Thiên Chúa mới biểu lộ được trọn vẹn tình yêu và lòng nhân ái của Người?

Rõ ràng, khi giáo huấn các môn đệ bằng các dụ ngôn và lời giảng dạy, Đức Giê-su cố giải thích cho các ông hiểu nội dung cứu rỗi này. Người coi việc thực hiện trước mắt các ông nội dung này, qua việc chính các ông phải là những chứng nhân của cuộc tử nạn và thập giá Người chịu, là điều tối quan trọng. Tiếp theo, trong suốt thời gian sau khi sống lại, Người vẫn không ngừng giải thích cho các ông hiểu sự thật giải thoát này. Tuy nhiên xem ra các ông vẫn chưa thấm; đúng là các ông không có sức chịu nổi, và sẽ chẳng bao giờ chịu nổi, bao lâu còn bị truyền thống xã hội và tôn giáo ngàn năm bao vây. Do đó Đức Giê-su thấy cần phải “sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha… một Đấng Bảo Trợ”. Công việc chính của Đấng này là ‘làm chứng về Thầy’, là làm cho Đức Giê-su được nhận biết, nhất là qua cuộc tử nạn thập giá và phục sinh Người, như dấu chỉ chân thực nhất của mạc khải vĩ đại ‘Thiên Chúa đã yêu thế gian tới nỗi đã ban Con Một Người…’ (Ga 3:16). Phải chăng ‘sự thật toàn vẹn – all truth - aletheia pase’ hệ tại chính ở điều này, đó là sự thật của cứu rỗi giải thoát, chứ không chỉ là sự thật của hiểu biết suy tư? Và sự thật này thì chỉ Thần Khí Chúa mới ‘dẫn’ tới được! Phao-lô từng khảng định với các Ki-tô hữu gốc Do Thái đang sinh sống tại Rô-ma rằng: không có Thần Khí này, họ vẫn chỉ là ‘nô lệ và phải sợ sệt như xưa’, nhưng một khi lãnh nhận Thần Khí “Anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:14-17). Chính vì thế mà Đức Giê-su gọi Chúa Thánh Thần là ‘Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha’ (Ga 15:26). Và công việc của Thánh Thần không chỉ là dạy dỗ các tín hữu biết mọi lẽ đạo, mà phải là ‘làm chứng về Thầy…’, và ‘cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu’.

Thần học hay giáo lý, chủ yếu vẫn là công việc của trí tuệ và hiểu biết của con người. Điều mà cá nhân tôi và mọi ki-tô hữu thực sự cần là ‘sự thật toàn vẹn’, có sức cứu rỗi và giải thoát. Vì thế sống Thánh Thần liên tục là điều kiện thiết yếu để tôi vun trồng niềm tin yêu vào Thiên Chúa cứu độ trong Đức Ki-tô Giê-su… và biến đời tôi thành nhân chứng sống động của tình yêu nhân hậu đó. Vì từng là một linh mục của thần học và trí tuệ, tôi càng có khuynh hướng coi sự thật chỉ là hiểu biết và lý luận; chính vì thế mà tôi càng cần xác tín về ‘sự thật cứu rỗi’ này và nhận ra sự cần thiết tuyệt đối của nó, nhất là cho chính mình.

Lạy Đấng Bảo trợ là Thánh Thần Thiên Chúa đang hiện diện nơi thẳm sâu cõi lòng con, xin không ngừng dẫn con tới ‘sự thật toàn vẹn’ mà rất nhiều khi con bị trí tuệ làm cho quên lãng. Trong mọi hoàn cảnh, nhất là giữa những thử thách yếu đuối và sa ngã, xin hãy cứ tiếp tục ‘rên siết khôn tả’ trong con (Rm 8:26), cho tới khi con dám chân thành mở miệng thốt lên từ đáy lòng mình: ‘Áp-ba! Cha ơi!’ Amen.

11. Đấng Bảo trợ – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Một câu chuyện vui kể lại, có anh thanh niên đang học giáo lý dự tòng, khi học kinh Chúa Thánh Thần, anh học mãi mà không thuộc. Khó nhất là nhiều lần cứ lặp đi lặp lại “Chúa Thánh Thần xuống… Chúa Thánh Thần lại xuống….”. Anh sốt ruột nói với bà xơ dạy giáo lý: “Sao không thấy Chúa Thánh Thần lên mà thấy cứ xuống hoài?” Bà xơ trả lời: “Nếu Chúa Thánh Thần mà lên thì thế giới này sẽ bị hủy diệt còn ghê gớm hơn là bom nguyên tử!”

Kinh Chúa Thánh Thần nhắc lại một biến cố quan trọng trong lịch sử cứu độ: đó là ngày lễ Ngũ Tuần, khi Chúa Thánh Thần đến để canh tân Giáo Hội. Kể từ ngày ấy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện để nâng đỡ và bảo trợ Giáo Hội. Sở dĩ người tín hữu cầu xin Chúa Thánh Thần, vì họ xác tín rằng, mọi hoạt động, nếu muốn thành công, cần có ơn của Chúa Thánh Thần, vì Ngài là Đấng Bảo trợ.

“Thày sẽ sai Đấng Bảo trợ đến với anh em” (x.Ga 16, 7). Chúa Thánh Thần đã đến để quy tụ nhóm các môn đệ đang hoang mang sợ hãi, biến đổi lòng họ và làm cho họ trở thành những nhân chứng trung kiên của Đấng Phục Sinh.

Lịch sử Giáo Hội, nhất là mở miền Bắc Việt Nam, chứng minh sức mạnh kỳ diệu của Chúa Thánh Thần. Trong những năm tháng khó khăn, thiếu vắng linh mục, không có lớp giáo lý, không có những hoạt động tông đồ, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn âm thầm hoạt động. Ngài tác động nơi những ông trùm, bà quản, văn hóa rất khiêm tốn, nhưng lại mạnh mẽ lạ thường. Lý lẽ của họ rất đơn giản mà mang tính thuyết phục. Kiến thức của họ rất sơ sài mà lại là nền tảng cho một đức tin chắc chắn. Có những cụ ông cụ bà đạo đức thánh thiện truyền lại đức tin cho con cháu chỉ bằng những lời kinh đơn sơ. Nhờ những “chứng nhân đức tin” này mà biết bao ngôi thánh đường được gìn giữ, biết bao cộng đoàn đức tin được duy trì, tồn tại ….. Chúa Thánh Thần hoạt động nơi người tín hữu và ban cho họ sức mạnh, soi sáng cho họ biết những gì cần phải làm. Giáo Hội tồn tại là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, thông qua những con người bình dân và trung tín ấy. Là Đấng Bảo trợ, Chúa Thánh Thần luôn hướng dẫn và làm cho Giáo Hội phát triển.

Và hôm nay, hai mươi thế kỷ sau sự kiện Ngũ Tuần, Ngôi Ba Thiên Chúa vẫn đang từng giờ từng phút bảo trợ Giáo Hội và làm cho Giáo Hội sống. Cũng như Chúa Thánh Thần luôn làm cho vũ trụ được sống, Ngài cũng luôn luôn thông truyền sức sống siêu nhiên cho Giáo Hội “Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất” (Tv 103,29). Nếu một ngày nào đó, không có ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ, Giáo Hội sẽ trở thành xác không hồn. Chính Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội của Chúa Ki-tô lan tỏa một vẻ đẹp diệu kỳ. Vẻ đẹp ấy thể hiện qua tình hiệp nhất giữa các tín hữu, qua sức mạnh của đức tin, qua tính linh thiêng của những nghi thức phụng vụ. Chúa Thánh Thần còn làm cho vẻ đẹp Giáo Hội rạng ngời nơi khuôn mặt và cuộc đời các tín hữu, giúp họ dấn thân hy sinh, kiên vững trung thành sống chết vì Chúa.

Sách Giáo lý của Giáo Hội công giáo đã liệt kê những biểu tượng chỉ Chúa Thánh Thần như: nước, sự xức dầu, lửa, áng mây và ánh sáng, dấu ấn, bàn tay, ngón tay, chim bồ câu. Tất cả những biểu tượng trên diễn tả những nhu cầu cần thiết để con người có thể sống trên trần gian. Thế gian sẽ vắng bóng sự sống nếu không có Chúa Thánh Thần. Cuộc sống con người sẽ mất định hướng nếu không có Chúa Thánh Thần.

Ca Tiếp liên của phụng vụ hôm nay cũng diễn tả những hoạt động đa dạng của Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài luôn thực thi sứ mạng “bảo trợ” trong suốt đời sống con người và đời sống đức tin “Nếu không có Chúa hộ phù, trong con người còn chi thanh khiết?”.

Nhờ sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần mà các tín hữu được liên kết với nhau trong tình hiệp thông. “Tất cả chúng ta đã lãnh nhận cùng một Thần Khí duy nhất là Thánh Thần, nên một cách nào đó chúng ta được kết hợp với nhau và với Thiên Chúa. Mặc dầu chúng ta nhiều người và mặc dầu Đức Ki-tô đã làm cho Thần Khí của chúa Cha và của Người cư ngụ trong mỗi người chúng ta” (thánh Cyrillô thành Alexandria). Bài đọc I và bài đọc II trong Phụng vụ đều diễn tả vai trò của Chúa Thánh Thần là Đấng liên kết mọi tín hữu nên một. Lễ Ngũ Tuần hàn gắn những chia rẽ đổ vỡ của thời Ba-ben trong Cựu ước. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội sống động như một thân thể, gồm nhiều chi thể khác nhau, nhưng cùng chung một sự sống.

Việc nhận lãnh Chúa Thánh Thần giúp người tín hữu thực hiện được biết bao điều kỳ diệu. Khi Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần cho các môn đệ, Người cũng ủy thác cho các ông quyền tha tội và cầm buộc và biết bao quyền năng khác, đến nỗi các ông có thể làm được phép lạ, như chính Chúa Giêsu đã làm. Khi chúng ta được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ thực hiện được những “phép lạ” trong cuộc sống, đó là vượt lên sự chết, canh tân đổi mới cuộc đời để sống cuộc sống mới.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến canh tân cõi lòng chúng con. Xin soi sáng cho chúng con và mọi người trong thế giới hôm nay, để hết thảy cùng chung tay xây dựng một thế giới an bình hạnh phúc. Amen.

12. Xin hiệp nhất chúng con - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Trong mỗi dịp sinh nhật, người ta thường đặt những ngọn nến tượng trưng cho mỗi năm tháng cuộc đời.

Bên ánh nến lung linh huyền bí, người ta trao gửi những ước nguyện, những ưu tư trăn trở sâu thẳm nhất của cõi lòng mình. Có lần tôi hỏi một em bé mừng sinh nhật rằng: “Em ước điều gì trong ngày sinh nhật của em?”. Em trả lời: “Em ước mơ cha mẹ tha thứ cho nhau và về chung sống trong một mái ấm gia đình”.

Một điều ước thật bình dị và cũng thật thiết thực. Cha mẹ em đã ly dị. Họ không còn yêu thương nhau. Họ chia tay nhau cũng đồng nghĩa chiếc nôi êm ấm của gia đình đã tan nát. Thế nên, em mong ước cho cha mẹ đoàn tụ để xây dựng lại mái ấm gia đình đã đổ vỡ. Một mái ấm đã từng rộn rã tiếng cười và đầy ắp yêu thương mà nay không còn nữa. Một mái ấm mà “ai đi xa” cũng nhớ về mà nay chỉ còn sự tiếc nuối xót xa, vì chồng một nơi, vợ một nơi!

Hôm nay là ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống cũng là ngày khai sinh của Giáo Hội. Giáo Hội mừng sinh nhật thứ 2015 của mình. Chúng ta ước mơ điều gì? Giáo Hội còn những ưu tư, trăn trở nào mà bao nhiêu năm nay vẫn chưa hoàn thành ước nguyện? Phải chăng đó là sự hiệp nhất nên một trong Chúa? Phải chăng đó là bầu khí yêu thương mà sách Tông đồ Công vụ đã từng diễn tả: “Họ đồng tâm nhất trí với nhau. Họ coi mọi sự là của chung. Họ cử hành Thánh Thể với việc chia sẻ cơm bánh với nhau để không ai phải thiếu thốn” (Cv 2,42-46).

Thực vậy, hơn 2000 năm đã qua rồi, nỗi niềm khao khát quy tụ thành một đoàn chiên duy nhất của Thầy Chí Thánh Giêsu vẫn còn đó! Ngài khao khát cho ngọn lửa của yêu thương được bùng cháy mọi nơi, được lan toả đến mọi nhà và sưởi ấm mọi con tim đang giá băng! Thế mà lửa yêu thương vẫn còn nguội lạnh nơi nhiều gia đình, nhiều cộng đoàn và xứ đạo! Hơn 2000 năm đã qua, thế mà ngọn lửa hiệp nhất và yêu thương của Chúa Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần vẫn còn loe loét giữa thế giới mênh mông này. Đức Kitô đã bị “chia năm xẻ bảy” bởi Công giáo - Chính Thống - Tin Lành - Anh giáo. Niềm tin con một Cha trên trời cũng bị phân tán bởi Do Thái giáo - Hồi giáo và Công giáo... Đây cũng là nỗi niềm khát khao của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khi mà Ngài đặt chân đến những vùng đất được coi là cấm địa của Hồi giáo, của Do Thái giáo. Ngài đang cùng với Thánh Thần đến để tìm lại tiếng nói chung, để xây dựng lại tình hiệp nhất của những người con Một Cha trên trời. Ngài đang thực hiện lại những bước chân hào hùng của các Tông đồ khi đầy tràn Chúa Thánh Thần năm xưa. Khi được đón nhận Chúa Thánh Thần, các ngài đã tháo cởi những ràng buộc trong căn phòng đóng kín. Các ngài đi đến với muôn dân. Các ngài dùng ngôn ngữ của Thánh Thần nên ai cũng hiểu. Ai cũng cảm thấy sự gần gũi của Giáo Hội. Một ngôn ngữ của tình yêu. Một ngôn ngữ tạo nên sự hiệp nhất thay cho sự chia ly thời Babel năm xưa.

Vâng, Thánh Thần của Đấng Phục Sinh đã đến. Ngài đã mở ra cho các môn đệ chân trời mới của cuộc sống, khiến các ông phải mở tung cánh cửa đang khép kín mà đến với muôn dân, mà thổi vào lòng nhân thế tình yêu và sức sống của Chúa. Ngọn gió Thánh Thần đó vẫn tiếp tục mang lại sự đổi mới cho con người hôm nay nếu chúng ta biết mở lòng ra cho ơn Chúa tác động, nếu chúng ta dám quên đi cái tôi của mình để Chúa Thánh Thần hoạt động trong chính cuộc đời chúng ta và biến chúng ta thành sứ giả của yêu thương, của hiệp nhất và bình an.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến trong tâm hồn chúng con và nhóm lên ngọn lửa tình yêu Chúa trong lòng chúng con, để chúng ra đi xây dựng tình hiệp nhất và yêu thương cho con người hôm nay. Amen.

13. Cuộc sáng tạo mới – Lm Ignatiô Trần Ngà
Sau khi tạo dựng vũ trụ càn khôn cùng muôn vật diệu kỳ trong hoàn vũ, Thiên Chúa vẫn chưa hài lòng với tác phẩm của mình. Người muốn sáng tạo thêm một kiệt tác trổi vượt tất cả những gì Người đã dựng nên.

Thế là Ba Ngôi Thiên Chúa quyết định tạo dựng con người: “Chúng ta hãy sáng tạo con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để chúng làm chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1, 26)

Thiên Chúa lấy bùn đất, nắn thành hình một con người, nhưng hình tượng nầy vẫn còn trơ trơ bất động, vô cảm, vô tri …

Thế rồi Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi của hình tượng nầy và điều kỳ diệu đã xảy ra: khối đất vô hồn mang hình dạng con người đang nằm im lìm bất động bỗng cựa mình đứng lên trở thành người sống: có tư duy, có tình cảm, có tự do, có óc sáng tạo… mang đậm dấu ấn và bản sắc của Thiên Chúa. Thế là Thiên Chúa đã hoàn thành kiệt tác Ađam là nguyên tổ của loài người.

Con người cũ bị băng hoại vì tội lỗi

Nhưng tiếc thay, tội lỗi đã thấm nhập vào thế gian làm băng hoại con người. Kiệt tác của Thiên Chúa đã bị biến chất thảm hại nên Thiên Chúa phải theo đuổi một kế hoạch tạo dựng mới.

Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người khởi đầu công cuộc nầy. Người quy tụ những môn đệ đầu tiên, và dùng những vị nầy làm nhân tố phát sinh một dân mới.

Nhưng sau khi Chúa Giêsu sống lại và lên trời, các môn đệ cảm thấy lạc lõng bơ vơ như đoàn chiên không chủ, như rắn mất đầu. Các ngài sống âm thầm, im hơi lặng tiếng, co cụm trong phòng đóng kín vì sợ người Do-Thái, tựa như Ađam lúc chưa được hơi thở của Thiên Chúa thổi vào. (Ga 20,19)

Con người mới được tác sinh

Thế rồi “vào chiều ngày hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái, Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!"

Và như thuở ban đầu Thiên Chúa thổi hơi vào mũi A-đam để ban cho ông sự sống, thì nay Chúa Giêsu “thổi hơi vào các môn đệ và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,19. 22)

Theo ngôn ngữ Kinh Thánh (bằng tiếng Do-thái cổ), Chúa Thánh Thần được gọi là Ru-ah, nghĩa là Hơi Thở hay Thần Khí.

Thổi hơi vào các môn đệ có nghĩa là Chúa Giêsu truyền ban Thần Khí (= Chúa Thánh Thần) cho các ông.

Như hôm xưa Ađam vươn vai chỗi dậy sau khi đón nhận hơi thở của Thiên Chúa, các môn đệ một khi đã lãnh nhận Hơi Thở ban Thần Khí của Chúa Giêsu cũng được tái sinh, cựa mình chỗi dậy, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như mộ địa giam nhốt mình để đi đến với muôn dân, loan truyền Tin Mừng cứu độ cho toàn thế giới, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống vì Nước Trời...

Thế là nhân loại mới đã được tác sinh từ biến cố trọng đại nầy, khởi từ ngày hôm ấy.

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu không có làn hơi của Thiên Chúa thổi vào, A-đam chỉ là một khối đất vô tri bất động và không hề có sự sống.

Nếu không được Chúa thổi hơi ban Thần Khí, các tông đồ xưa cũng chỉ là một nhóm người bạc nhược, ươn hèn.

Và hôm nay, nếu không được đón nhận Thần Khí Chúa ban, chúng con cũng chỉ là những kitô hữu nguội lạnh, thiếu nhiệt thành và luôn đứng bên lề Hội Thánh.

Nguyện xin Chúa thổi hơi ban Thần Khí cho chúng con như đã ban cho các môn đệ năm xưa, để chúng con được đón nhận Sự Sống Mới và kiên quyết lên đường thi hành sứ mạng loan Tin Mừng cho muôn dân.

14. Chúa Thánh Thần.
Trong phần chia sẻ sáng hôm nay tôi muốn đưa ra một câu hỏi như thế này: Chúa Thánh Thần là Đấng nào? Với câu hỏi này chúng ta đi sâu vào bản tính Thiên Chúa, nhưng chỉ có đức tin mới trả lời được cho chúng ta mà thôi. Đúng thế, thánh Tôma tiến sĩ đã nói: Hiện tại chúng ta không thể nào hiểu thấu vì mầu nhiệm ấy vượt quá khả năng hạn hẹp của trí khôn con người.

Trong Cựu Ước chúng ta chỉ ghi nhận được một vài hình ảnh thật mù mờ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta phải chờ đến Đức Kitô, người Con duy nhất của Thiên Chúa đến và mạc khải, chúng ta mới thấy được cái đặc tính cốt yếu của Thiên Chúa, đó là tình yêu.

Còn về Chúa Thánh Thần, trong kinh Tin Kính chúng ta đã tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa ngôi thứ ba, là Đấng ban sự sống, Ngài bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Ngài cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, Ngài đã dùng các tiên tri mà phán dạy.

Qua Chúa Con, Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta như lời thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin nơi Con Một Ngài thì sẽ có sự sống vĩnh cửu. Ngay từ thuở đời đời, Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con và sợi dây liên kệ thắm thiết và đầy yêu thương ấy chính là Chúa Thánh Thần.

Thực vậy, Chúa Thánh Thần chính là sợi dây yêu thương nối kết Chúa Cha và Chúa Con, chi phối nhịp điệu của đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng như toả lan cho tất cả chúng ta. Như thế, qua Chúa Thánh Thần chúng ta hiểu được bản chất tình yêu của Thiên Chúa. Đồng thời Chúa Thánh Thần cũng đã trực tiếp cộng tác vào công trình cứu độ, một công trình của tình thương yêu mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn thuở trước.

Đức Kitô vâng theo thánh ý của Chúa Cha và với sự cộng tác của Chúa Thánh Thần đã chết đi để đem lại sự sống cho trần gian. Kể từ khi được diễm phúc làm con cái Thiên Chúa, chúng ta đã được Ngài yêu thương như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Nhờ Chúa Thánh Thần mà tình yêu Thiên Chúa được toả lan trong tâm hồn chúng ta. Để rồi từ đó, tất cả những tình yêu trong lành nhất của chúng ta đều là một tia sáng, một phản ánh trung thực cho tình yêu của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta chỉ có thể yêu thương một cách đúng nghĩa khi liên kết với Ngài.

Đúng thế Ngài ở giữa những cặp vợ chồng để họ biết trung thành và hy sinh cho nhau. Ngài ở giữa những người con để họ biết nói lên hai tiếng thưa ba, thưa má với tất cả tấm lòng chân thành của mình. Ngài ở giữa những người bạn để họ biết tâm đầu ý hiệp với nhau.

Trong ngày lễ Hiện Xuống hôm nay, Giáo Hội mừng kính Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mừng kính tình yêu của Thiên Chúa, được tượng trưng qua hình lưỡi lửa trên đầu các tông đồ. Giáo Hội cũng muốn chúng ta thành khẩn kêu xin: Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin hãy ngập tràn tâm hồn các tín hữu Chúa và xin thắp lên trong chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa. Ngài không phải là một vị Thiên Chúa vô danh và bị quên lãng. Trái lại Ngài luôn ở giữa chúng ta và hoạt động. Ước gì mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Ngài bằng cách thắp lên một ngọn lửa yêu thương, bởi vì chỉ có tình yêu mới có thể làm tiêu tan thù hận, thất vọng và tăm tối.

15. Quà tặng Thần khí – Peter Feldmeier
(Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

“Và họ được đầy Thánh Thần” (Cv 2,4)’

Lễ Hiện xuống mang một ý nghĩa sâu xa đặc biệt đối với từng người chúng ta, cũng như đối với các tông đồ năm xưa. Chúng ta khởi đầu với lễ Hiện xuống nơi các tông đồ, rồi đến chúng ta ngày hôm nay. Các tông đồ quy tụ lại mừng lễ ngũ tuần của người Do Thái, tưởng nhớ việc Chúa ban bố lề luật cho dân trên núi Sinai. Biến cố gợi nhắc đến việc Thiên Chúa quyền năng đã đưa dân ra khỏi Ai Cập, dùng cột lửa soi sáng ban đêm trong hành trình sa mạc và đã tỏ lộ uy quyền của Ngài trên đỉnh núi Sinai. Lễ ngũ tuần ngày xưa là dịp tưởng niệm việc Thiên Chúa tặng ban lề luật, là quà tặng đặc thù Thiên Chúa gửi trao cho dân. “Chúa bày tỏ Lời Người cho nhà Gia cóp, chiếu chỉ luật điều cho Israel. Chúa không đối xử với dân nào như vậy, không cho họ biết những luật điều của Người” (Tv 147,19-20).

Chúng ta cũng gợi nhắc việc Gioan tẩy giả công bố phép rửa “Bằng lửa và Thần khí” (Lc 3,16). Trong lễ Hiện xuống đầu tiên, Thiên Chúa cũng thực hiện lời tiên báo của Thánh Gioan. Ngài cũng đem Thần khí và lửa từ trời xuống trên các tông đồ. Bài đọc trong sách Tông đồ công vụ của phụng vụ hôm nay đã mô tả: “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho (Cv 2,1.4). Sự việc đó diễn ra, khiến mọi người hiện diện, kể cả các du khách đến từ mọi nơi, thuộc các nền văn hóa và các ngôn ngữ khác nhau, có thể nghe và hiểu những gì các tông đồ nói theo ngôn ngữ riêng của mình. Sự kiện đó biểu thị hành động uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta đừng nên nghĩ rằng các tông đồ lúc ấy đang cầu nguyện bằng tiếng lạ giống như một ơn xuất thần mà Thánh Phaolô đã nhắc tới trong thơ gửi giáo đoàn Côrinthô (1 Cor 14). Nhưng, lễ Hiện xuống đầu tiên là thời điểm Tin mừng được quảng bá rộng khắp cho mọi dân mọi nước. Qùa tặng Thần Khí là động thái cuối cùng của Mầu nhiệm Vượt qua. Cũng như Đức Kitô biến đổi tình trạng tội lỗi nơi Adam, Thần Khí cũng biến đổi tình trạng hủy diệt nơi sự kiện tháp Babel ngày xưa. Khi xây tháp Babel, con người đã tỏ ra kiêu ngạo và cố chấp, nên Thiên Chúa đã phân rẽ họ ra thành nhiều nhóm ngôn ngữ để họ không thể thông tri được với nhau. Ngược lại, khi Thần Khí được ban xuống, Ngài nối kết muôn người thuộc mọi sắc tộc và ngôn ngữ. Điều này cũng biểu thị sứ mạng của Hội thánh, đó là công bố Tin Mừng cho mọi dân mọi nước. Bởi lẽ, tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban tặng cho tất cả mọi người.

Động thái cuối cùng của Mầu nhiệm Vượt qua, mà ngày hôm nay chúng ta mừng kính, là tột đỉnh và tóm kết lễ Phục Sinh. Thiên Chúa thực hiện việc chuẩn miễn thần thiêng sâu xa nhất: Đó là ban Thánh Thần để Thần khí giờ đây thuộc về chúng ta. Đây là điểm nhấn mà Thánh Phaolô nói tới trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay. Thánh Phaolô đã khuyến cáo tín hữu Galat hãy đón nhận tự do thực sự trong Đức Kitô, chứ không phải tự do qua việc tuân thủ luật Moise. Luật lệ cựu ước rất thánh thiêng. Nó giúp tôi luyện và rèn dũa con người đi vào khuôn phép. Nhưng khi Đức Kitô đến, thời đó đã qua (Gal 3,24). Bây giờ là thời của Thần Khí, thời mà chúng ta được thông dự vào chính sự sống của Đức Kitô trong Thánh Thần.

Với suy nghĩ như thế, Thánh Phaolô đưa ra sự đối kháng giữa hoa trái của Thần khí và những công việc của xác thịt. Từ ngữ “xác thịt” (sarx) ở đây không phải chỉ nói về thân xác (soma), nhưng nói về cả tổng thể con người khi sống dưới sự khống chế của những đam mê tội lỗi. Thánh Phaolô liệt kê một loạt những đam mê thuộc về “xác thịt”, từ việc dâm dật đến những hành vi tôn thờ ngẫu tượng đang xảy ra giữa dân. Cụ thể như tội dâm bôn, sự ô uế, phong đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa chè chén... Đối nghịch với những tội lỗi theo xác thịt là hoa trái của Thần khí: Tình yêu, niềm vui, bình an, kiên nhẫn, nhân hậu, quảng đại, trung tín, hiền lành, tiết độ (Gal 5,20-23). Đây là hai phạm trù tương phản và đối kháng nhau mà Thánh Phaolô nhấn mạnh. Thánh Phaolô không nhằm đến việc nêu ra những nhân đức để chúng ta thực thi hầu hoàn thiện chính mình. Ngài muốn nói rằng, nơi một tâm hồn có những phẩm tính cao đẹp này, chính là dấu chỉ có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần bên trong. Chúng là dấu chứng cụ thể biểu tỏ sự hiện lộ của Thần Khí.

Thánh Phaolô muốn nói cho chúng ta phương cách nhận ra sự hiện diện năng động của Thánh Thần nơi các tâm hồn. Mọi người đều biết rằng, một con người bề ngoài xem ra có vẻ nghiêm túc về mặt luân lý, nhưng đôi khi đầu óc lại rất u tối, đồng thời trái tim của họ lại quá chật hẹp và sơ cứng. Tôi sợ rằng khi đến trước cổng Thiên đàng, họ sẽ nghe tiếng Chúa nói: “ Ta không biết các người là ai, hãy đi cho khuất mắt ta” (Mt 7,23). Thánh Phaolô nhắc nhở: “ Khi anh em được Thần khí hướng dẫn, anh em không còn sống dưới lề luật”. Luật bắt chúng ta phải tuân phục, còn Thần khí thì mời gọi đi vào tình yêu và sự hiệp thông. Những ai sống tràn ngập yêu thương trong Thần khí, đương nhiên sẽ hiển thị hoa trái của sự hiệp thông sâu xa này.

Mỗi lần chúng ta hát thánh thi Veni Sancte Spiritus, chúng ta khẩn nài xin Chúa Thánh Thần đến, nhưng thực sự Ngài đã đến và đã hiện hữu sẵn nơi ta. Tuy nhiên chúng ta cần phải làm hiện lộ sung mãn hoa trái của Ngài. Tất nhiên với tự do, con người có thể cản che hoặc làm suy yếu hoạt động của Thánh Thần nơi họ, nhưng chúng ta không thể chối từ một sự thật, đó là Thần khí đã được ban cho chúng ta và thuộc về chúng ta. Đó là món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa đã hiến tặng. Thánh Thần chính là quà tặng được ân ban cách nhưng không, còn chúng ta, chúng ta phải khai mở món quà đó ra và để Thánh thần tác động. Ngay bây giờ và ngay tại nơi đây, chúng ta cần phải thực hiện công việc này.

16. Ơn Bảy Nguồn – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các tín hữu thuộc Giáo Hội Công Giáokết thúc Mùa Phục Sinh trong niên lịch phụng vụ. Chữ Pentecost trong tiếng Hy Lạp nghĩa là ngày thứ năm mươi và đây cũng là tên gọi tiếng Việt là Lễ Ngũ Tuần. Lễ Ngũ Tuần bắt nguồn từ lễ Năm Mươi của người Do-thái khi xưa tại Sinai. Trong cuộc lữ hành nơi hoang địa cũng như khi đã vào miền đất hứa, dân Do-thái luôn nhớ tưởng niệm ngày Thiên Chúa ban lề luật cho dân Do-thái trên núi Sinai. Đây là ngày thứ năm mươi sau ngày Lễ Vượt Qua và năm mươi ngày sau lễ Chúa Kitô Phục Sinh.

Bắt nguồn từ câu truyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, sau khi dân chúng bị trận lụt Đại Hồng Thủy, họ đã xây tháp Babel để tránh nạn lụt. Họ nói: "Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất."(Stk 11, 4). Với lòng kiêu hãnh bởi sức người đã tạo nên sự phản bội trong tâm hồn. Họ đã bị Chúa phạt để tháp Babel sụp đổ đè chết một số người và gây phân tán khả năng ngôn ngữ không còn hiểu nhau. Sự kiêu ngạo đã tạo nên bức tường phân rẽ và thù ghét bạo hành.Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Babel, vì tại đó, Đức Chúa đã làm xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất (Stk 11,9).

Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, thánh Luca đã diễn tả biến cố này như là một Giao Ước Sinai mới. Giáo Ước với dân chúng qua ân sủng của Chúa Thánh Thần. Sau khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ và những người thân hữu tụ nhau cầu nguyện không ngừng. Khi mọi người đang họp nhau trong phòng Tiệc ly, nơi Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể, bỗng có làn gió thổi mạnh và xuất hiện các hình lưỡi lửa trên đầu các tông đồ để ban các ơn sủng: Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một (Tđcv 2,3).Các ngài đã lãnh nhận tràn đầy hồng ân của Chúa Thánh Thần, nhất là ơn ngôn ngữ. Các tông đồ đã can đảm xuất hiện trước dân chúng để loan báo tin vui. Các ngài nói tiếng bản xứ của mình, nhưng mọi người từ khắp vùng lân cận đã tụ họp lắng nghe và hiểu rõ lời giảng của các ngài: Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho (Tđcv 2,4).

Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ đã ghi chú những nhóm người đã nghe lời giảng của các tông đồ đến từ nhiều miền khác nhau: Chúng ta đây, có người là dân Parthi, Mêđi, Êlam, Mêsopotamia, Giuđêa, Cappađôcia, Pontô, Tiểu Á, Phrygia, Pamphylia, Ai-cập, Libya, Cyrênê; nào là những người từ Rôma đến đây; nào là người Do-thái và tòng giáo; nào là người đảo Crêta hay người Ảrập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa! (Tđcv 2, 9-11). Đây là sự kiện lạ tiên khởi bởi ơn ngôn ngữ qua biểu tượng của lưỡi lửa. Mọi người đã nghe các môn đệ nói tiếng thổ âm của mình. Các tông đồ nói một thứ tiếng nhưng các người được nghe, đều hiểu theo ngôn ngữ của mình. Như vậy, ơn Chúa Thánh Thần đã tác động trong từng tâm hồn để họ đón nhận tin mừng. Họ là những chứng nhân tiên khởi đã tản mát về khắp nơi đem tin mừng cứu độ đến cho nhiều người tại quê hương của họ.

Trong thơ của thánh Phaolô tông đồ gởi cho tín hữu Corintô, ngài xác tín rằng: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung (1Cor 12,7). Mỗi người lãnh nhận ơn sủng và chức vụ riêng, nhưng chỉ có một Chúa Thánh Thần. Có người được ơn khôn ngoan, có kẻ được ơn hiểu biết, có người được ơn làm phép lạ, có vị được ơn chữa bệnh, ơn nói tiên tri, có kẻ được ơn nói tiếng lạ và giải thích tiếng lạ. Tất cả mọi người đều được thanh tẩy để làm nên một Nhiệm Thể Chúa Kitô trong cùng một Chúa Thánh Thần.

Như lời Chúa Giêsu đã hứa với các tông đồ, Chúa sẽ sai Thánh Thần đến để dẫn dắt các ngài đến sự thật trọn hảo: Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến (Ga 16,13). Trải qua hai thiên niên kỷ, trên nền tảng niềm tin của các tông đồ, Giáo Hội Công Giáo vẫn duy trì kiên vững hai nguồn Thánh Kinh và Thánh Truyền cùng các giáo huấn của Giáo hội. Qua các biến cố thăng trầm, chúng ta tin Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục gìn giữ, thánh hóa và canh tân Hội Thánh ở trần gian.

Chúa Thánh Thần có những danh hiệu như Đấng Bảo Trợ, Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi, Thần Chân Lý, Chúa Thánh Linh và Ngôi Ba Thiên Chúa. Những hình ảnh biểu tượng về Chúa Thánh Thần như Nước, Gió, Lửa, Xức dầu, Áng mây, Ánh sáng, Ấn tín, Đặt tay và Chim bồ câu... Có bảy ơn Chúa Thánh Thần, gọi là ơn Bảy Nguồn: Ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn biết lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức và ơn kính sợ. Các ơn sủng của Chúa Thánh Thần giúp chúng hiểu biết sâu xa hơn về chân lý đức tin và can đảm quyết tâm thi hành sống đạo. Không phải chúng ta chỉ ngồi ca hát, khẩn cầu, van xin và ước mong, mà phải vận dụng tất cả các khả năng Chúa ban để sinh lợi trong đời sống hằng ngày. Chúa không ban ơn sủng để chúng ta cất dấu hay làm lợi cho riêng mình, nhưng là mang lại lợi ích chung cho mọi người. Ai lãnh nhận nhiều thì phải cho lại nhiều. Cái gì chúng ta nhận lãnh nhưng, không cũng hãy cho nhưng không: Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10,8).

Đức Chúa Thánh Thần ngự trong những người có ơn thánh hóa và ban các ơn cần thiết giúp ta sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Ai trong chúng ta cũng lãnh nhận ơn Chúa, nhất là ơn sự sống. Chúa Thánh Thần còn ban ơn sủng qua các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Rửa tội, Thêm Sức và Truyền Chức. Các ơn sủng siêu nhiên soi sáng giúp chúng ta bước theo đường lối và làm nhân chứng cho Chúa. Ơn Chúa không tách biệt chúng ta để trở thành một thành phần ưu tuyển nào cả. Chúng ta có thể nhận diện được hoa qủa của ơn Chúa Thánh Thần trong đời sống thường ngày của mỗi người tín hữu. Xem qủa thì biết cây. Còn hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế (Gal 5, 22-23).

Chúng ta phải tôn kính, thờ phượng và cầu xin Chúa Thánh Thần. Vâng theo ơn Người soi sáng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người. Trong mỗi giây phút sống, chúng ta đều cảm nhận được những ơn lạ. Tất cả mọi luân chuyển sinh động trong thân xác và ngoài vũ trụ đều là sự nhiệm mầu ngoài tầm tay kiểm soát của con người. Chúng ta nên phân biệt rõ ràng về vai trò của Chúa Thánh Thần và lòng ước muốn của con người. Cầu xin là việc của chúng ta, còn ban ơn sủng là thuộc về quyền năng Thiên Chúa. Trình thuật của thánh Gioan rất vắn gọn khi viết về Thánh Thần. Ngày thứ trong tuần, Chúa Giêsu đã hiện đến với các tông đồ và phán: “Bình an cho anh em” và Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20, 22).

Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta hãy cầu xin Ơn Bảy Nguồn. Để mở lòng đón nhận ơn Chúa Thánh Linh, chúng ta hãy sửa đổi những thói hư tật xấu. Chấm dứt những bê tha mê lầm. Buông bỏ những tị hiềm, ghen ghét và thù oán. Quay trở về với con đường chính thật. Mặc lấy ơn sủng tình yêu của Chúa Thánh Thần. Giống như các tông đồ xưa, chúng ta mạnh dạn bước ra khỏi phòng và ra đi làm nhân chứng. Chúng ta sẽ vui thỏa trong bình an và hoan lạc. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!

17. Nói được các thứ tiếng.
(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Lễ Ngũ Tuần là một lễ lớn của người Do Thái.

Nhiều người Do Thái sùng đạo từ nước ngoài về Giêrusalem dự lễ.

Còn Nhóm Mười Hai và mấy phụ nữ, trong đó có Đức Maria, thì cầu nguyện tại lầu trên một căn nhà trong thành.

Chính trong bầu khí của một cộng đoàn cầu nguyện mà Thánh Thần, Đấng Cha hứa ban, đến với họ.

Thánh Thần chẳng có một khuôn mặt để ta ngắm nhìn nhưng ta vẫn nhận ra Ngài nhờ những dấu chỉ khả giác: một tiếng từ trời như tiếng gió thổi dữ dội, những lưỡi lửa tản ra và đậu xuống từng người.

Bổng chốc Thánh Thần đầy tràn mọi người hiện diện.

Có cái gì đó được mở tung, để tự do bay bổng. Có ngọn gió ùa đầy nhà làm căng buồng phổi. Có ngọn lửa ấm lan tỏa trong trái tim.

Có cái gì thôi thúc người ta mở cửa, đi ra và cất tiếng.

Phải kêu to cho mọi người, chẳng có gì phải sợ, về những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho Thầy Giêsu.

Trước mặt mười hai ông đánh cá quê mùa ít học, người từ khắp nơi trên thế giới đổ về.

Họ là những người Do Thái sinh sống ở nước ngoài, nên họ đã kinh ngạc, sửng sốt, thán phục, khi họ nghe các ông nói được tiếng của vùng đất họ sống.

Ơn nói được nhiều thứ tiếng là ơn của Thánh Thần, nhằm giúp cho việc loan báo Tin Mừng nơi mọi dân tộc.

Tin Mừng bằng tiếng mẹ đẻ giúp người nghe cảm thấy gần gũi.

Rồi Tin Mừng ấy lại trở thành gạch nối liên kết mọi người, thuộc mọi ngôn ngữ, màu da, xã hội, văn hoá khác biệt.

Như thế Thánh Thần làm con người hiểu nhau, gần nhau, và giúp Hội Thánh trở thành Hội Thánh của mọi dân tộc.

Thánh Thần làm vết thương của tháp Babel được lành.

Đã có lúc những người nói cùng một thứ tiếng mà vẫn không hiểu nhau.

Lễ Hiện Xuống là lễ khai sinh một Hội Thánh truyền giáo.

Đức Giêsu đã chào đời tại Châu Á từ 2,000 năm. Làm sao để người Châu Á hiểu được Tin Mừng: đó là vấn đề mà tất cả chúng ta hết sức quan tâm.

Hiểu được là bước đầu để đón nhận và tin theo.

"Chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa" (c.11).

Làm sao chúng ta sử dụng nhuần nhuyễn các ngôn ngữ Á Châu để trình bày mặc khải của Đức Giêsu Con Thiên Chúa? Phong tục, văn hoá, tín ngưỡng, luân lý, truyền thống của họ cũng là những thứ ngôn ngữ mà ta cần trân trọng tìm hiểu.

Xin Thánh Thần giúp ta học được ngôn ngữ Việt Nam hôm nay, để nói cho người Việt hiểu và hiểu được điều họ nói.

Xin cho Hội Thánh biết khiêm tốn và can đảm học lại ngôn ngữ của những người mà Chúa sai ta đến.

Kinh Thánh đã được dịch ra 2,197 ngôn ngữ.

Chúng ta còn cần dịch ra một thứ ngôn ngữ ai cũng hiểu, đó là ngôn ngữ của phục vụ và yêu thương.

Gợi Ý Chia Sẻ

Nhờ sức mạnh Thánh Thần, những ông đánh cá đã mạnh dạn đứng lên loan báo Tin Mừng. Bạn đã nhận Thánh Thần khi được rửa tội và thêm sức; có khi nào bạn dám can đảm nói lên niềm tin của bạn không?

Gia đình, cuộc sống, nghề nghiệp của bạn cũng là những thứ ngôn ngữ. Bạn có thấy mình nói về Chúa qua những ngôn ngữ ấy không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu, xin ban cho con một thời để yêu và một thời để sống; để con sống vì tình yêu Thiên Chúa, để con yêu vì cuộc sống muôn loài.

Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp, cao quý và biết ghét những điều đê tiện, xấu xa.

Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu, và dám chết vì những điều mình ghét.

Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống để mỗi giây phút sống con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương.

Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu để từng giây phút yêu, con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.

Cuối cùng, xin cho con biết hoà nhập cả hai nên một: để sống là yêu và yêu là sống, vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.

18. Hãy nhận lấy Thánh Thần.
(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Lúc đến Êphêsô, Phaolô hỏi một số môn đệ ở đó: "Khi vào đạo, các ông đã nhận lãnh Thánh Thần chưa?". Họ trả lời: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói tới" (Cv 19,1-2).

Chúng ta đã được nghe nói và đã lãnh nhận Thánh Thần, nhưng có thể Ngài vẫn là Đấng xa lạ với ta.

Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp, nhưng nó không làm ta ý thức về sự hiện diện của Thánh Thần, Đấng đang ở trong ta và sai ta đi làm chứng.

Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, Ngài đã làm một việc quan trọng, đó là mời họ tiếp tục sứ mạng mà Ngài đã bắt đầu.

"Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19).

"Hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15).

Trong Tin Mừng hôm nay, Đấng phục sinh nói với các môn đệ: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20,21)

Đức Giêsu cho các môn đệ được tham dự vào sứ mạng của mình. Chỉ có một sứ mạng duy nhất là sứ mạng Chúa Giêsu nhận được từ Chúa Cha. Sứ mạng của các môn đệ nối dài sứ mạng duy nhất ấy.

Ai sẽ giúp các ông thực hiện sứ mạng này? Ai sẽ cho các ông sức sống để dám mở toang cánh cửa mà lên đường loan báo Tin Mừng phục sinh?

Sức sống ở nơi hơi thở.

Đức Giêsu phục sinh đã trao hơi thở của mình, hơi thở của sức sống thần linh cho các môn đệ.

Khi được trao ban Thánh Thần, họ trở thành con người mới, sẵn sàng lên đường.

Thánh Thần chẳng ở xa mỗi người chúng ta.

Ngài có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa, và muốn sống Lời Chúa trong đời thường.

Ngài có mặt khi ta gọi tên Chúa Giêsu trên môi (1Cr 12,3), và gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15).

Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng.

Thánh Thần chẳng ở xa Giáo Hội.

Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung.

Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, nhưng Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân.

Ngài hiện diện trong các bí tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để chúng trở nên Mình và Máu Đức Kitô.

Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu đáng ngờ.

Nếu chúng ta mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt, nếu chúng ta bớt cứng cỏi để cho Ngài canh tân, nếu chúng ta đừng dập tắt tiếng của Ngài, thì chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu.

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Bạn có thấy Chúa Thánh Thần soi sáng và nâng đỡ bạn trong cuộc sống hàng ngày không? Ngài có hoạt động trong nhóm của bạn không?

2. Trong thế giới hôm nay, thế giới gồm cỏ lùng và luau, bạn có thấy hoạt động âm thầm nhưng hiệu quả của Chúa Thánh Thần không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Thánh Thần,

Xin Ngài hãy đến như cơn gió mát thổi vào đời con, thổi vào Giáo Hội, thổi vào thế giới, để đem lại cho chúng con sự tươi mới nhẹ nhàng, sự tự do thanh thoát.

Xin Ngài hãy đến như dòng nước trong chảy vào đời con, chảy vào Giáo Hội, chảy vào thế giới, để cuốn trôi đi mọi nhơ nhớp, khô cằn, cứng cỏi, và làm bật dậy những mầm xanh sự sống nơi chúng con.

Xin Ngài hãy đến như ngọn lửa hồng chiếu sáng đời con chiếu sáng Giáo Hội, chiếu sáng thế giới, để chúng con không còn đồng lõa với tối tăm, nhưng mang trong tim một ước mơ nóng bỏng, đó là làm cho vũ trụ này rực sáng Tình yêu.

19. Thánh Thần Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Mùa Phục Sinh kết thúc với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Chúa Nhật kế tiếp Giáo Hội sẽ mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính nhờ Đức Giêsu mà người ta biết một cách đặc biệt về Thánh Thần Thiên Chúa.

I. Đức Giêsu đã nói về Thánh Thần

Quyển sách đầu tiên của Kinh Thánh đã đề cập đến Thần Khí của Thiên Chúa: “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St.1, 2). Trong sách Thánh Vịnh, người ta đọc thấy: “Sinh khí của Ngài, Ngài gởi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv.103, 30). Thần Khí (hơi thở) của Thiên Chúa đã được biết tới trong Cựu Ước.

Các tông đồ chỉ nhận ra căn tính của Đức Giêsu một cách đặc biệt sau khi Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết. Cùng với dân chúng, các tông đồ nhận ra Đức Giêsu là một tiên tri, là Đấng Kitô (Mt.16, 16: Đấng Thiên Chúa xức dầu, Đấng Thiên Sai) ngay khi Ngài còn sống đời tại thế; nhưng chỉ sau biến cố Đức Giêsu phục sinh từ, các tông đồ mới nhận ra Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, ngự bên hữu Thiên Chúa. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa, hay một cách chính xác hơn Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể. Chính nhờ Đức Giêsu, mà con người biết về Thánh Thần một cách rõ ràng hơn.

Tin mừng theo thánh Gioan cho thấy chính Đức Giêsu mặc khải cho con người biết về Thánh Thần một cách đặc biệt. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ sẽ được Thiên Chúa sai gởi tới nhân danh Đức Giêsu, để ở với mãi với con người (Ga. 14,16.26). Có một tương quan đặc biệt giữa Thiên Chúa, Đức Giêsu, và Thánh Thần Đấng Bảo Trợ. Không ai biết rõ Cha trừ Con và những người Con muốn mặc khải (Mt.11, 27). Cũng chính Đức Giêsu nói cho con người biết về Thánh Thần. Thánh Thần có nguồn gốc nơi Thiên Chúa Cha, và được chính Thiên Chúa Cha sai gởi (Ga.14, 16.27). Thánh Thần cũng được Đức Giêsu sai gởi nữa (Ga.15, 26).

II. Sứ mạng của Thánh Thần

Thánh Thần luôn ở với con người. Thánh Thần được sai tới, để ở mãi với con người (Ga.14, 16). Thánh Phaolô diễn tả: “anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy đền thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và đền thờ ấy chính là anh em” (1Cor.3, 16-17). Ở với con người, đó là sứ mạng chính của Thánh Thần. Hiện tại Thánh Thần đang ở với mỗi người chúng ta. Thánh Thần đang hiện diện nơi cung lòng mỗi người. Không bao giờ Thánh Thần rời bỏ chúng ta.

Thánh Thần là Đấng thánh hóa, Đấng làm cho con người nên thánh, Đấng làm cho con người thuộc về Thiên Chúa. Một ngôn từ khác để diễn tả tác động làm con người thuộc về Thiên Chúa, đó là tha tội (Ga.20, 22-23). Thiên Chúa như người cha nhân từ luôn tha thứ tội lỗi cho con người, ngay cả khi người con chưa kịp nói lời xin lỗi. Chính Thánh Thần Thiên Chúa thúc đẩy làm cho con người sám hối trở lại với Thiên Chúa. Không phải chờ cho tới lúc con người tới tòa hòa giải để nghe lời xá giải qua trung gian linh mục, Thánh Thần Thiên Chúa mới tác động tha thứ tội lỗi con người; nhưng ngay ý định thống hối, hành vi thống hối đầu tiên, đã là do tác động của Thánh Thần rồi. Vị linh mục nơi tòa hòa giải là dấu chỉ hữu hình của lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa.

Thánh Thần là Thầy dạy dỗ con người về Thiên Chúa (Ga.14, 26; 16, 12-13). Không ai có thể dạy con người về Thiên Chúa. Con người có thể nói về Thiên Chúa, hoặc lặp lại những lời về Thiên Chúa, nhưng không thể dẫn con người tới gặp gỡ và cảm nghiệm Thiên Chúa. Chính Thánh Thần Thiên Chúa đã làm điều này nơi các tín hữu (Rm.8). Thánh Thần dạy mỗi người về Thiên Chúa, làm chứng về Thiên Chúa cho con người, làm con người trở thành những chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa (Ga.15, 26).

III. Sống dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần

Vũ trụ bao la là những “lời” hoặc những “dấu chỉ” cho thấy Thiên Chúa hiện hữu và tốt lành, v.v.. Qua vũ trụ thiên nhiên, Thiên Chúa “nói” với con người một cách nào đó. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa nhập thể. Đức Giêsu cho con người biết nhiều về Thiên Chúa. Với Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, Thiên Chúa sẵn sàng đánh đổi tất cả để được con người. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng.

Thánh Thần được ban cho con người, cũng vì yêu thương. Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng tâm trí mỗi người, giúp mỗi người nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa, ý định của Thiên Chúa qua lý trí của mình. Hãy lắng nghe Thiên Chúa nói qua Kinh Thánh, qua những lời giảng dạy của những vị có thẩm quyền, qua tha nhân và cả qua những biến cố hằng ngày nữa. Thiên Chúa đang nói với con người, và Thánh Thần đang soi sáng hướng dẫn con người. “Đừng dập tắt Thần Khí” (1Thes.5, 19). Thiên Chúa có thể nói với mỗi người qua những trung gian và thời điểm khác nhau, hãy lắng nghe dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, để nhận ra và thực hiện thánh ý Thiên Chúa.

Thiên Chúa muốn chúng ta sống bình an hạnh phúc. Những gì giúp chúng ta bình an và hạnh phúc thật, đều đến từ Thiên Chúa; những gì làm chúng ta bất an, lo lắng, giận hờn thù ghét, không đến từ Thiên Chúa. Hãy tập nhận định để mỗi người được sống an bình thanh thản hơn trong Thiên Chúa. Chính Thánh Thần là nước mát rửa sạch tâm hồn con người; cũng chính Thánh Thần là lửa mến sẽ hun đốt lòng con người cháy lửa tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Thần giúp tất cả mọi người, để tất cả sống trong tình yêu của Thiên Chúa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Thánh Thần là ai? Dựa vào đâu bạn biết Thánh Thần là Thiên Chúa?

2. Thánh Thần hiện đang ở đâu? Nhiệm vụ, sứ mạng của Thánh Thần là gì?

3. Làm sao nhận ra tác động của Thánh Thần? Thế nào là sống theo Thần Khí?

20. Người thổi hơi vào các ông.
(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Những vết chân trên cát cho ta biết có người đã đi qua.

Nhìn hàng cây xa lay động, ta biết có gió.

Đức Giêsu đã ví Thánh Thần như cơn gió: "Gió muốn thổi đâu thì thổi... Chẳng ai biết gió từ đâu đến và sẽ đi đâu" (Ga 3,8).

Chúng ta chỉ thấy những dấu vết hoạt động của Thánh Thần, nhưng không thấy được chính Ngài, cũng không nắm được đường đi nước bước của Ngài.

Bài Tin Mừng hôm nay đã mô tả Thánh Thần như hơi thở của Chúa Phục Sinh.

Hơi thở là dấu hiệu của Sự Sống.

Thiên Chúa đã thở hơi vào Ađam vă cho ông sống. Đức Giêsu Phục Sinh đã thở hơi trên các môn đệ, để họ nhận một sự sống mới hoàn toàn.

Đời sống Kitô hữu là đời sống trong Thánh Thần.

Ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng mẹ, Đức Giêsu đã được đầy tràn Thánh Thần.

Khi lãnh nhận phép rửa của Gioan, Ngài đã được Thánh Thần ngự xuống và lưu lại.

Cũng chính Thánh Thần đưa Ngài vào sa mạc để cầu nguyện, ăn chay và định hướng cuộc đời.

Tại Galilê, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ mạng trong quyền năng của Thánh Thần (Lc 4,14).

Ngài đã nhờ Thánh Thần mà đuổi quỷ (Mt 12,28), và khi được hân hoan trong Thánh Thần, Ngài đã thốt lên lời ca ngợi Cha (Lc 10,21).

Quả thật Đức Giêsu là con người sống trong Thánh Thần, Đấng mà Ngài đã nhận được một cách vô hạn (Ga 3,34).

Đôi khi chúng ta cảm thấy xa lạ với Ngôi Ba, dù thực sự Ngài là người Bạn, người Thầy quá ư gần gũi và cần như hơi thở.

Tôi gọi Thiên Chúa là Cha, cũng nhờ Ngài (Rm 8,15).

Nhờ Ngài tôi biết cầu nguyện, và nếm được sự ngọt ngào của Lời Chúa.

Nhờ Ngài Hội Thánh vẫn được canh tân liên tục bằng những luồng gió bất ngờ, những lôi cuốn mạnh mẽ không sao cưỡng lại.

Xin cho tôi can đảm để cho ngọn gió của Ngài thổi tung mọi sợ hãi, rụt rè, khép kín.

Xin cho tôi lưỡi lửa để tôi ra đi loan báo Tin Mừng với trái tim bừng cháy.

Xin cho tôi hơi thở của Ngài để tôi biết sống và yêu nồng nàn.

Gợi Ý Chia Sẻ

Mọi sáng kiến canh tân đều có thể là do Thánh Thần thúc đẩy. Trong giáo xứ, gia đình, cộng đoàn hay nhóm của bạn, bạn có gặp thấy những người biết thao thức và dám đưa ra sáng kiến canh tân không?

Thánh Thần vẫn lên tiếng qua những người có trách nhiệm, qua bạn bè, qua hoàn cảnh mới cần thích nghi. Có lần nào bạn nghe được lời mời của Thánh Thần không? Bạn đáp lại ra sao?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con.

Xin cho cuộc đời Kitô hữu chúng con đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày.

Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới, cho chúng con khám phá ra những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô, và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.

Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống, thế giới hôm nay luôn bị đe dọa bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh; mạng sống con người bị coi rẻ.

Xin cho chúng con biết say mê sự sống, và gieo vãi sự sống khắp nơi.

Ước gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới, để con người có thể hiểu nhau hơn và đón nhận nhau trong yêu thương.

21. Lửa Thánh Thần – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa sẽ gửi Thánh Thần đến an ủi các môn đệ. Quả thật, các ngài không phải chờ đợi lâu. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống đầy tràn trên các ngài. Ơn Chúa Thánh Thần thật mãnh liệt. Chúa Thánh Thần đã đụng chạm đến các ngài. Chúa Thánh Thần như nguồn nhựa sống thấm tẩm vào từng chân tơ kẽ tóc làm cho các ngài thay đổi da thịt, trở thành con người mới. Các ngài đã cảm nghiệm được sự tác động ấy. Đó là cảm nghiệm về một ngọn lửa.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa thanh luyện.

Giống như ngọn lửa thanh luyện vàng và kim loại khỏi các tạp chất, ngọn lửa Thánh Thần tẩy sạch con người cũ của các tông đồ. Trước kia các tông đồ là những người nhỏ nhen ích kỉ, ham hố danh vọng, thường tranh nhau chỗ cao chỗ thấp. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài trở nên quảng đại, hy sinh quên mình, chỉ nghĩ đến phục vụ Nước Chúa. Trước kia các Tông đồ là những người nhút nhát, dễ thay đổi. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài đã trở nên cam đảm, trung thành làm cho Chúa đến nỗi dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Hơi ấm của Chúa Thánh Thần băng bó những vết thương làm cho tâm hồn các Ngài liền da liền thịt, sạch hết mặc cảm, trở nên những con người hoàn toàn mới.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa soi sáng.

Ai đã có lần đi trong hang động tối tăm mới hiểu được nỗi khổ của người mò mẫm lần từng bước dò đường đi. Những tảng đá lởm chởm, những thú vật độc ác, những vực sâu hiểm nghèo đang rình chờ cướp mạng sống của người mạo hiểm. Hạnh phúc biết bao khi có ánh sáng tới. Đường đi xuất hiện rõ ràng. Khách bộ hành an tâm mạnh dạn tiến bước.

Trước kia, các Tông đồ giống như người đi trong đêm tối, không biết đường biết hướng về đâu. Lửa Chúa Thánh Thần đến soi sáng trí khôn biến những bác ngư phủ quê mùa trở nên sáng suốt thông minh, hiểu biết Lời Chúa. Lửa Chúa Thánh Thần soi sáng đường đi, biến những môn đệ mất Thầy như bầy ong vỡ tổ trở nên những người lãnh đạo dẫn đường cho một đoàn dân mới tiến về Quê Trời.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa sự sống.

Sau ngày Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ sợ hãi tản lạc tứ phía. Các ngài phải trốn chạy. Các ngài phải ẩn nấp, Các ngài sống trong sợ sệt lo âu. Các ngài phải đóng kín cửa nhà vì sợ người Do thái. Các ngài sống như tựa như đã chết. Các ngài giống như cái xác không hồn. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ngài nhận được nguồn sống. Các ngài bừng tỉnh như sau một giấc ngủ. Các ngài mạnh mẽ như người hồi phục sau cơn trọng bệnh. Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các ngài không còn có thể bó gối ngồi một chỗ, nhưng mạnh mẽ mở cửa ra đi rao giảng Lời Chúa. Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các cộng đoàn phát triển mau chóng. Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại sự sống, sự sống lại và là sự sống mới cho các Tông đồ, cho các tín hữu.

Ngày nay chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Trong bản thân cũng như trong cộng đoàn chúng ta có nhiều tì tích hoen ố. Chỉ có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mới có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta. Thế giới hôm nay đầy những bóng tối. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho chúng ta biết đường lối mà đi. Thế giới hôm nay chứa đầy văn minh sự chết, đưa con người tới huỷ diệt. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới hồi phục, đưa ta vào sự sống mới trong Đức Kitô.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Ngọn lửa Thánh Thần có tác dụng gì trên các Tông đồ, làm cho các ngài thay đổi mãnh liệt?

2) Bạn có cảm nhận được Chúa Thánh Thần trong đời bạn không?

3) Để mình bị biến đổi, để mình bị thúc đẩy trên đường dấn thân làm việc phục vụ, dễ hay khó?

22. Đấng đổi mới - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG ĐỔI MỚI

(Cv 2,1-11)

Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.

Ngài đã đổi mới trí khôn các Tông đồ. Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều. Nhưng các ngài không hiểu. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.

Ngài đã đổi mới ý chí các Tông đồ. Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bị đe doạ, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.

Ngài đã đổi mới trái tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.

Đời sống ta có quá nhiều yếu đuối. Trí khôn ta u mê không hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa. Ý chí ta bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa. Trái tim ta nhơ uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục. Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta. Để ta thấu hiểu Lời Chúa, thấu hiểu thánh ý Chúa muốn trong đời. Để ta mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa trong đời sống và để trái tim ta được thanh luyện luôn quảng đại cho đi, dâng hiến.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Đức Chúa Thánh Thần đã đổi mới các thánh Tông đồ như thế nào?

2. Trong tôi còn những gì xưa cũ cần đổi mới?

3. Ai cũng có nhu cầu đổi mới nhà cửa, đời sống vật chất. Bạn có thấy nhu cầu đổi mới tâm hồn không?

23. Đấng ban Sự Sống - ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG

(Ga 20,19-21)

Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự sống. Ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống.

Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống. Điều này được diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống cho muôn loài.

Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại. Ngôn sứ Êdêkien đã được thấy trong một thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng Thần Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”. Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Ngươi hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên”” (Ed 37,1-10). Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.

Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).

Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.

Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình, sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?

2. Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì không?

3. Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh Thần sai bạn đi làm gì?

24. Niềm vui bởi Chúa Thánh Thần - Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Hôm nay chúng ta hãy dừng lại ở câu: “Các môn đệ được đầy tràn vui mừng”. Các ông vui mừng vì giữa lúc hoang mang lại thấy Chúa và việc ấy đã khiến các ông tìm lại niềm cậy trông. Các ông đã đặt niềm hy vọng nơi Chúa Giêsu. Thập giá đã khiến các ông bàng hoàng kinh khiếp; và nay Chúa Giêsu lại hiện ra sống động. Niềm hy vọng của các ông được bảo toàn và củng cố. Vì thế niềm vui các ông bao la. Dịp này nhắc nhớ chúng ta rằng Chúa Thánh Thần do Chúa Giêsu ban là Thánh Thần của vui mừng.

1) Phúc Âm mở đầu bằng một mầu nhiệm vui mừng Chúa Thánh Thần, từ khởi đầu cuộc sống nhân loại của Chúa Giêsu tạo ra hai lần bộc lộ niềm vui: Isave, chị họ Đức Maria, thốt lên tiếng vui mừng vì mẹ Đấng Cứu Thế đến thăm bà; Đức Maria hát lên nỗi vui sướng của mình trong kinh Magnificat. Sau đó không lâu, các thiên thần loan báo cho các mục đồng một Trẻ Thơ sinh ra, sẽ khiến cho toàn dân hân hoan… Thánh sử Gioan sau lại nói rằng cụ tổ Abraham đã nhảy mừng khi nghĩ đến ngày xuất hiện hoa quả của Thánh Thần. Cụ đã thấy và đã vui mừng (Ga 8, 5-6). Chúng ta có vui mừng niềm vui của kinh Magnificat, vì Chúa Thánh Thần do đức tin vào Đức Kitô nảy sinh trong chúng ta hay không? Ngược lại, chúng ta thử tưởng tượng nỗi buồn và u uất vô cùng, nếu chẳng may thiếu mất lòng tin vào Đức Kitô.

2) Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Hãy lãnh nhận Thánh Thần. Làm như thế Ngài thực thi một lời hứa Ngài đã báo trước cho các môn đệ sẽ có một lúc các ông sẽ không còn thấy Ngài. Đó là thời thất vọng, khóc lóc và buồn sầu. Nhưng nỗi buồn sẽ mau biến thành niềm vui: Ta sẽ gặp lại các con, tâm hồn chúng con sẽ vui mừng, vì niềm vui các con lúc ấy không ai có thể lấy đi được (Ga 16,22). Có phải giới hạn ý nghĩa lời nói ấy của Chúa Giêsu vào giai đoạn gặp gỡ trong những lần hiện ra hay không? Không, Chúa nghĩ đến sự hiện diện liên tục của Ngài trong Giáo Hội nhờ tác động của Thánh Thần. Thời của Giáo Hội là thời của niềm vui mặc dù cũng là thời tiếp tục Thánh Giá. Chúng ta có vui mừng vì nghĩ rằng nhờ Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta hay không?

3) Thánh Phaolô nói về niềm vui từ Chúa Thánh Thần đến (1Tx 1,6). Niềm vui ấy là niềm vui của cậy trông và bác ái. Có thể trong cuộc sống riêng của chúng ta và trong cuộc sống với người khác, chúng ta mắc ảo tưởng, ít nhiều chán nản, thoái chí. Chúng ta cần sống trong Thánh Thần bác ái. Biết rằng mình được yêu mến, chúng ta hãy vui mừng. Quả thực tình yêu Thiên Chúa không bao giờ thất vọng vì chúng ta. Về phía chúng ta, đừng bao giờ nản chí yêu thương anh em chúng ta. Niềm cậy trông hoà hợp với đức bác ái trong lòng chúng ta khởi đầu một con sông hân hoan do Chúa Thánh Thần khơi nguồn.

25. Chúa và nguồn sinh khí.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Các nước và các dân tộc trên thế giới đang hướng về năm 2000, khởi đầu cho ngàn năm thứ ba. Các chương trình quốc tế hay quốc gia đều được hoạch định nhằm năm 2000 như là tiêu điểm.

Bước vào ngàn năm thứ ba, điều đó mang ý nghĩa hai ngàn năm đã qua từ lúc “thời gian đã mãn”, là lúc Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, là năm sinh của Chúa Giêsu Kitô. Lịch sử nhân loại được chia làm hai giai đoạn: Trước Chúa Giêsu Kitô giáng sinh và sau Chúa Giêsu Kitô giáng sinh. Nếu có nói về một công nguyên, thì sự tính toán vẫn quy về lúc Chúa Giêsu Kitô giáng sinh.

Để chuẩn bị cho Năm Toàn Xá, Năm Thánh vào năm 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã công bố Tông thư “Tiến đến Ngàn Năm Thứ Ba” vào ngày 10.11.1994. Đức Giáo Hoàng đệ nghị ba năm cuối của thế kỷ này được hiến dâng cho từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa: Năm 1997 hiến dâng cho Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người; năm 1998 cho Chúa Thánh Thần, và năm 1999 cho Thiên Chúa Cha. Đức Thánh Cha còn muốn cho các tín hữu học hỏi thông điệp về Chúa Thánh Thần trong sinh hoạt của Giáo Hội và thế giới. Thông điệp mang tựa đề: “Chúa và Nguồn Sinh Khí” trong những năm chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000. Bởi vì, Đức Thánh Cha đã nói: “Giáo Hội không thể chuẩn bị Ngàn Năm mới bằng cách nào khác hơn là ở trong Chúa Thánh Thần”.

Thưa anh chị em,

Là “Chúa và là Nguồn Sinh khí”, Chúa Thánh Thần đã hiện diện và đã đóng một vai trò tích cực ngay từ khởi thuỷ lịch sử sáng tạo và cứu độ. Ngay đối với Chúa Giêsu trong cuộc sống ẩn dật và công khai, Chúa Thánh Thần luôn tác động trên Ngài, nhất là trong những biến cố quan trọng, như khi lãnh Phép Rửa ở sông Giođan, như khi vào sa mạc chịu ma quỉ cám dỗ, như khi cất bước rao giảng Tin Mừng khắp các làng mạc ở Palestin. Nhưng chỉ sau khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng bằng cái chết và sống lại từ cõi chết, Ngài mới có thể ban Thánh Thần. Tin Mừng hôm nay cho thấy vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện đến, thổi hơi trên các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Cử chỉ thổi hơi trên các môn đệ gợi lại hành động Thiên Chúa lúc bắt đầu tạo dựng con người. Thiên Chúa đã thổi vào Ađam hơi thở của sự sống và con người nên sống động (St 2,7). Cũng có thể, khi Chúa Giêsu thổi Thánh Thần trên các môn đệ, các ông nhận được sự sống mới. Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống” như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.

Sách Công vụ Tông đồ còn cho thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như gió thổi, như lưỡi lửa, vào chính ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, được mừng 50 ngày sau lễ Vượt Qua, để tưởng nhớ Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Israel tại núi Sinai. Dịp lễ này đã quy tụ đông đảo người Do Thái từ các nước khác nhau trở về Giêrusalem. Chính trong bối cảnh của ngày lễ trọng đại này mà hoạt động đầu tiên của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội được biểu lộ. Hoạt động đã được biểu lộ qua các Tông đồ “nói tiếng khác nhau” và “mọi người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được lời rao giảng của các Tông đồ”. Ở đây, ân sủng của Chúa Thánh Thần đã tái lập sự thống nhất ngôn ngữ đã bị chia rẽ, phân tán tại Tháp Babel khi xưa và đồng thời nói lên tính cách phổ quát đại đồng của ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến và do Chúa Thánh Thần thực hiện.

Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến vai trò hiệp nhất của Chúa Thánh Thần: “Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”. Nếu chỉ có Thánh Thần mới làm cho những kẻ tin nói được: “Đức Giêsu là Chúa”, thì cũng chỉ có Thánh Thần mới làm cho những con người khác nhau hợp nhất với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau. Vì vậy, Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta “hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận, một lòng một ý với nhau”. Bởi vì, giữa những người cùng thờ một Chúa, cùng tuyên xưng một niềm tin, cùng lãnh nhận một bí tích, cùng hy vọng một tương lai Nước Trời, mà lại chia rẽ nhau, là điều không thể hiểu nổi, là gương xấu không thể tha thứ được. Chính vì thế mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đặt năm 2000 là tiêu điểm để hoạt động cho các Kitô hữu của các Giáo Hội anh em được hiệp nhất như ý Chúa muốn.

Anh chị em thân mến,

Đời sống Kitô hữu là một đời sống theo Thánh Thần, như thánh Phaolô đã nói: “Ai sống theo xác thịt thì hướng về những điều thuộc về xác thịt, còn ai sống theo Thánh Thần thì hướng về những điều thuộc Thánh Thần. Nhưng hướng theo xác thịt là chết, còn hướng theo Thánh Thần là sống và bình an” (Rm 8,5-6). Muốn sống theo Thánh Thần, chúng ta phải nhìn ngắm Chúa Giêsu trong Tin Mừng, ước muốn nên giống Ngài, để có thể đi vào trong tình hiếu thảo của Chúa Giêsu, trong cầu nguyện, trong nghèo khó, tuân phục, trong khiêm tốn, phục vụ, trong tình huynh đệ, xả kỷ của Chúa Giêsu đối với mọi người. Hãy sống theo Thánh Thần, như vậy anh em sẽ không theo những khuynh hướng ích kỷ của xác thịt. Và đây là hiệu quả của Thánh Thần, đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần, thì hãy để Thánh Thần hướng dẫn đời ta”. (Gl 5,16.22-25).

Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người, tạo điều kiện cho mối tương quan huynh đệ giữa người với người, những gì tạo nên sự hiệp thông vô biên giới phải là những tiêu chuẩn cho hành động của chúng ta. Bởi vì những gì giới hạn hoặc chia rẽ, đều nghịch với Thánh Thần của Đức Kitô. Thánh Thần luôn chăm lo hiệp nhất Thân Thể Đức Kitô, duy trì sự hiệp thông và quy tụ mọi người hiệp nhất với Ngài.

26. Thánh Thần tác động - Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Hồng Y Carlo Martini nói: "Kinh nghiệm của Lễ Hiện Xuống (Cv 2,3-13) chính là Tin Mừng truyền thông".

Truyền thông là làm cho con người có khả năng để nghe để hiểu, có khả năng để loan báo và có khả năng để chuyển thông một sứ điệp. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã khai thông mọi tương giao, phá vỡ bức tường đã bị đóng kín từ sự kiện tháp Babel. Truyền thông Tin Mừng chính là mang tin vui đến cho mọi người.

Năm Thánh 2000, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giảng tuần tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma, trong bài giảng "Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần", ngài kể về tác động của Chúa Thánh Thần như một ân ban chuyển thông ánh sáng và niềm tin cho anh chị em người Hmong.

"Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta.

Tôi còn nhớ câu chuyện này.

Một ngày nọ, một cha sở miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmong muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:

- Anh chị em từ đâu đến?

- Chúng con từ Lai Châu, (nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.

- Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?

- Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.

- Không thể được! Không có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.

- Chúng con đã học tất cả từ một đài phát thanh phát đi từ Phi luật tân.

- Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em đâu!"

- Đó là đài phát thanh "Chân Lý".

- Một đài phát thanh Giáo Hội Công Giáo, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở thành Công giáo. Thật là điều lạ!

-Vị linh mục thật cảm kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần!

Rồi cha lại hỏi nhóm người Hmong: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?

- Thưa cha, không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.

Cả nhóm đã được rửa tội và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.

- Anh chị em sẽ không có Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?

- Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30, chúng con ngưng làm việc thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của thế kỷ XX." (Chứng Nhân Hy Vọng, trang 235-237).

Hiến chế Tín lý về Mạc khải của CĐ Vaticanô II có nói: "Mạc Khải là việc Thiên Chúa 'Truyền Thông Chính Mình' cho nhân loại" (DV 6). Với biến cố Hiện Xuống, việc truyền thông của Thiên Chúa được hoàn tất nơi Đức Kitô và tiếp tục được nối dài trong Giáo Hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Lễ Hiện Xuống khai mở những "kênh truyền thông" mới. Vì thế, "Giáo Hội Công Giáo nhận thấy mình có bổn phận dùng các phương tiện truyền thông xã hội để loan báo ơn cứu độ và dạy con người biết sử dụng chúng cho đúng đắn" (Inter Mirifica, số 3). Chúa Thánh Thần là linh hồn Giáo Hội. Ngài tác động và canh tân Giáo Hội thực thi sứ vụ loan Tin Mừng: "Giáo Hội canh tân và thanh tẩy chính mình không bao giờ ngừng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần" (Vui mừng và Hy vọng, 21). Sách Công Vụ Tông Đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy.

Suốt mùa Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ.

Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.

Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hylạp và Rôma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.

Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rôma. Giáo Hội đối diện với ba thách đố lớn là Do thái giáo, chính trị Rôma và triết học Hy lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do thái giáo, hội nhập vào triết học Hylạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rôma. Chỉ với những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.

Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh Irênê đã nói: "Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng".

Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stêphanô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giêrusalem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm "Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu".

Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng.

Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.

Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam; sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc. Họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.

Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh. Những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần. Trong mọi thử thách, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Trong mọi biến cố đau thương, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.

Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa. Thế nhưng, những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, xa lộ thông tin, kỹ thuật số, toàn cầu hoá...Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ. Xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: "Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do".

Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa.

Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây?

Lời Chúa chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: "Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con" (Ga 14, 26).

Khi được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.

Chúa Thánh Thần luôn bảo đảm cho sự nguyên vẹn của mạc khải. Ngài dẫn dắt Giáo Hội ngay giữa những kênh truyền thông mới mẻ của thế giới kỹ thuật số hôm nay. Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa. Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh, thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet...đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.

Giáo Hội luôn thao thức những vấn đề của thời đại mình đang sống. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo Hội hướng đến đại dương của "nền văn hóa mới" này.

Thư Chung HĐGMVN 2011 đưa ra định hướng: "Trong tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Việt Nam cần xác tín và sống đúng với căn tính của mình, củng cố sự hiệp thông, phát huy nhiệt tình truyền giáo, để chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ của Đức Kitô trên đất nước này". (Số 9).

Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc HĐGMVN đã đưa ra bản "Nhận định một số tình hình tại Việt Nam hiện nay" vào ngày 15/5/2012. Bản Nhận Định đã lần lượt điểm qua tình hình trong các lãnh vực về nền kinh tế Việt Nam, luật đất đai, môi trường xã hội, pháp luật, chủ quyền quốc gia về biên cương và hải đảo, môi trường sinh thái, vai trò của trí thức, giáo dục và y tế, tôn giáo. Trong mỗi lãnh vực, có nhìn nhận những thành tựu, nhưng chủ yếu là vạch rõ, nhiều lúc bằng những ngôn từ mạnh, các mặt tiêu cực bệnh hoạn đang làm cho đất nước lâm nguy. Một điều có ý nghĩa là bản Nhận Định đề ngày "15 tháng 5 năm 2012, kỷ niệm 121 năm Thông Điệp Rerum Novarum". Bức thông điệp của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII được coi như mở đường cho các đường lối, chủ trương và hoạt động xã hội của người Công Giáo từ hơn một thế kỷ nay (Năm ngoái trong Giáo Hội đã có nhiều sinh hoạt để đánh dấu tròn 120 năm ngày công bố thông điệp này; dĩ nhiên Rerum Novarum còn được bổ túc và triển khai liên tục bởi các thông điệp khác sau này, cũng thường được công bố vào các ngày kỷ niệm 15/5, để cập nhật với những biến chuyển của xã hội). Như vậy là khi chọn ngày 15/5 để đưa ra bản Nhận Định, Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình của Hội Đồng Giám Mục đã có ngụ ý kêu gọi Dân Chúa dấn thân phục vụ xã hội ngay trong các lãnh vực mà xã hội chúng ta đang mắc phải những "căn bệnh trầm kha". (Lm Vũ Khởi Phụng).

Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả "nhảy mừng trong lòng mẹ". Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.

27. Chân lý đòi hỏi rất nhiều - Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Chúa phán bảo các môn đệ: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Chúng ta lưu ý mấy nét đặc biệt về Chúa Thánh Thần, nhất là cung cách thánh Gioan nói đến Chúa Ngôi Ba.

1) Người là Thần Khí sự thật.

Ta sẽ xin Cha và Cha sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác để Người ở với các ngươi luôn mãi, là Thần Khí sự thật, thế gian không thể lĩnh nhận vì không thấy cũng không biết Người, còn các ngươi biết Người vì Người lưu lại với các ngươi và ở trong các ngươi (Ga 14,16-17). Đấng Bàu Chữa mà từ nơi Cha, Ta sẽ sai đến với các ngươi, Thần Khí sự thật từ Cha mà ra, chính Người sẽ làm chứng về Ta. Chúng ta nhớ lại, Đức Giêsu tuyên bố chính Người là Sự Thật. Tác động Chúa Thánh Thần là dẫn đưa chúng ta đến hiệp nhất với Đức Kitô. Ngôi Ba Thiên Chúa tác động trong chúng ta cách thích hợp, khiến chúng ta cảm ứng đối với Đức Kitô, với ngôi vị của người, với giáo huấn của Người. Bất cứ học thuyết, chủ thuyết, tư tưởng nào từ ngoài đến, nếu không phù hợp với sự cảm hoá tâm hồn đối với Đức Giêsu Kitô, chúng ta phải đặt nghi vấn. Chúa Thánh Thần làm chứng cho Đức Kitô trong chúng ta. Chúng ta phải làm chứng về Đức Kitô trong môi trường sinh hoạt của mình. Nếu chúng ta thật sự biết nghe lời Thần Khí sự thật, lời chứng của chúng ta sẽ phát xuất từ nguồn mạch thông thái thiêng liêng duy nhất của chúng ta là Đức Kitô. Sau này thánh Phaolô sẽ nói: Tôi chỉ muốn nơi anh em về Đức Kitô mà thôi. Có lẽ chúng ta nên cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta bảo tồn ý nghĩa chân truyền của Phúc Âm, đặc biệt trong thời buổi có nhan nhản những sự mập mờ đáng nghi trong việc sử dụng Phúc Âm.

2) Người là Thần Khí thánh thiện.

Sự thánh thiện của người Kitô hữu không có nghĩa là làm được những điều phi thường, mà phải khởi sự từ đức tin. Trong đức tin, người Kitô hữu cố gắng cách ngay thẳng nhất ở trong tình bằng hữu với Thiên Chúa. Muốn được thế, phải từ trong thâm tâm thiết tha gắn bó với sự thật – không chỉ có đức tính tri thức là thành thật ngay thẳng, đó là điều tối thiểu phải có, mà phải đón nhận cách mật thiết tác động của Chúa Thánh Thần. Như chúng ta biết, bất cứ sự thật nào cũng đòi hỏi phải tích cực, Thần Khí sự thật đòi hỏi rất nhiều nơi người Kitô hữu. Philatô bỏ chạy khi nghe Chúa đáp: Kẻ nào thuộc về sự thật thì nghe sự thật. Người ta có thể trốn tránh sự thật vì lẽ sự thật đòi hỏi rất nhiều. Trái lại, tâm trí kẻ nghe Lời Chúa Thánh Thần giống một bầu trời gió thổi càng mạnh càng vén sạch mây mù, nền trời càng trở nên quang sáng. Ở đây là một sự vâng lời thực tiễn, là thái độ không một giây phút chậm trễ sống những điều trí khôn hiểu được về chân lý. Thái độ ấy mệnh danh là cư xử theo chân lý, là “đi trong sự thật”. Thánh Gioan nhắn nhủ các tín hữu: tôi vui mừng quá đỗi vì đã gặp trong hàng con cái Bà có những kẻ đi trong sự thật (thư thứ 2,4). Được như vậy, trong con người Kitô hữu, lời nguyện của Đức Giêsu sẽ thực hiện: Xin Cha hãy thánh hoá chúng trong sự thật… (Ga 17,17).

28. Thần Khí đổi mới.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Tại một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu xuống trên vai hay đầu ai thì người ấy không được tránh né hoặc đuổi đi, nhưng phải quyết tâm thực hiện một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng của mình, để chứng tỏ rằng mình làm công việc ấy là do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.

Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một số sự kiện điển hình như sau:

- Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả là ông đã quyết tâm thực hiện một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị.

- Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một công tước vùng ấy, khiến ông ta phải ra tay nghĩa hiệp, bỏ tiền xây một hệ thống dẫn nước được đặt tên là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần”.

- Có một linh mục trẻ được chỉ định đến thay thế cho cha xứ già đã đến tuổi hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ đi tập tục đã thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để tung cánh trong bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây? Cha xứ mới chỉ tuyên bố là ngài sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ để phục vụ tốt cộng đoàn giáo xứ. Và ngài đã giữ lời hứa.

Thưa anh chị em,

Với mỗi người chúng ta hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn là Đấng thiêng liêng. Chúng ta không thể giới hạn cách thức tỏ hiện của Ngài trong hình thức của trận cuồng phong, lưỡi lửa, của chim bồ câu hay bất cứ một hình thức nào khác. Quả thực, Ngài không ngừng hiện diện và tác động nơi chúng ta cách tự do và rộng khắp. Ơn của Ngài nhằm thôi thúc chúng ta phải làm gì cụ thể trong việc đổi mới đời sống con cái đối với Thiên Chúa, góp phần phục vụ tha nhân, phục vụ cộng đoàn.

Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể lại cho chúng ta những sự lạ đã xảy ra bên trong và bên ngoài ngôi nhà nơi các môn đệ đang hội họp, có Đức Maria ở giữa. Bên trong có tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào nhà. Có những lưỡi lửa xuất hiện trên mỗi người. Họ tràn đầy Thánh Thần. Bên ngoài dân chúng bỡ ngỡ kéo đến bao vây. Sự gì đã xảy ra? Phêrô, con người nhát đảm ấy, hôm nay mở tung cửa và bước ra, theo sau là các môn môn đệ khác. Họ lâng lâng như người say rượu, khiến dân chúng bàn tán, nhưng họ không say rượu mà say Chúa! Vì hôm nay, ứng nghiệm lời tiên tri Gioel đã tiên báo: “Ta sẽ đổ Thánh Thần xuống và chúng sẽ nói tiên tri”. Phêrô giảng bài đầu tiên làm cho 3.000 người trở lại. Các Tông đồ khác cũng bắt đầu sứ mạng rao giảng, với đặc ân Thánh Thần ban cho là nói được tiếng bản xứ của mỗi thính giả từ các nơi đổ về.

Giáo Hội sinh từ ngày Thánh Thần hiện xuống. Ngày nay Giáo Hội đã có một trang sử dài gần 20 thế kỷ. Giáo Hội cũng cần một luống gió mạnh thổi đến, lùa vào hầu có thể đổi mới mọi sự. Xưa Phêrô đã mở tung cửa đón nhận Thần Khí Thiên Chúa thì ngày nay các vị đại diện Phêrô cũng đã khai mở Công Đồng “như một lễ Hiện Xuống mới”, đem lại cho Giáo Hội một bộ mặt mới, một luồng gió mới.

Mỗi lễ Hiện Xuống là một ngày khai sinh mới của Giáo Hội, Thánh Thần là ai? – Thánh Phaolô, trong bài đọc II đã giải thích gồm tóm trong ý tưởng rằng, Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội. Thánh Thần ban cho mọi tín hữu nhận lãnh Phép Rửa một niềm tin duy nhất, là “Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã sống lại”. Chúng ta phải tin, phải sống và phải loan báo. Tuy rằng đưcq tin là một, nhưng Thánh Thần sẽ ban cho mỗi người, mỗi thời đại, những đặc sủng riêng tư, thích hợp cho từng dịch vụ, từng sinh hoạt, từng nơi chốn. Thánh Thần như linh hồn của Giáo Hội, hằng huy động, hướng dẫn, thống nhất để xây dựng Giáo Hội.

Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII là một điển hình. Khi mới được bầu làm Giáo Hoàng, Ngài là một cụ già đã 77 tuổi, cục mịch như một cha xứ nhà quê, ai cũng cho là “một Giáo Hoàng giao thời”. Nhưng ai ngờ con người ấy, trong triều đại chỉ 5 năm, trở thành dụng cụ của Chúa Thánh Thần để đổi mới, để thực hiện chính sách mà Ngài gọi là “ cập nhật hóa” (aggiomento), mở cửa để Giáo Hội bắt gặp đà tiến triển của thời đại văn minh. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư “Tiến tới Thiên niên kỷ thứ ba” chuẩn bị cho toàn thể Giáo Hội mừng Đại Năm Thánh 2000 đã kêu gọi “trân trong đặc biệt tất caw những gì Chúa Thánh Thần đã nói với Giáo Hội và với Giáo Hội (Kh 2,7) cũng như những gì Thánh Thần nói với các cá nhân qua các đoàn sủng phục vụ cộng đoàn”. Đức Thánh Cha nói tiếp: “Tôi muốn nhấn mạnh những gì mà Chúa Thánh Thần gợi ý cho các cộng đoàn khác nhau, từ những cộng đoàn nhỏ nhất- như gia đình, đến những cộng đoàn lớn hơn – như các quốc gia, các tổ chức quốc tế, kể cả những nền văn hóa, văn minh và những truyền thống lành mạnh” (TMA. Số 23).

Nhiều người tín hữu ngày nay vẫn còn có thái độ như nhóm nhỏ Tông đồ ngày xưa. Họ sợ sệt, cửa đóng then cái, e rằng Thầy ra đi là đi mãi, tương lai mù mịt. Nhưng Thánh Gioan cho biết, ngay chiều Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện đến trấn an các ông: “Bình an cho các con”. Rồi Ngài thổi hơi trên các ông: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Ai lại không liên tưởng đến “ làn hơi Thiên Chúa” thổi đến trên mặt nước “trong ngày khai thiên lập địa” (St 1,2) đến làn sinh khí mà Thiên Chúa thổi vào con người trong ngày tạo dựng Ađam (St 2,7). Ngày nay, làn hơi ấy chính là Chúa Thánh Thần, là làn hơi ban sự sống (Ga 3, 5-6) và là sức mạnh tầy xóa mọi tội lỗi: “các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20,23). Qua làn hơi thở của Chúa, qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ cũng như chúng ta ngày nay phải trở nên những chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất.

Anh chị em thân mến,

Ngày lễ Chúa Thánh Thần ngày khai sinh của Giáo Hội, là ngày nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mở rộng vòng tay ôm cả thê1 giới. Chúa Thánh Thần thôi thúc bên trong để chúng ta hành động cụ thể, tỏ lộ ơn Ngài ra bên ngoài và chúng ta sẽ chỉ có thể vững tin rằng mình đang sống dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, khi mọi nỗ lực của chúng ta luôn theo sát với giáo huấn của Chúa Kitô và đều hướng đến việc kiến tạo tình yêu thương cảm thông nhau hơn. Chớ chi từ nay, chúng ta luôn biết mở mắt tâm hồn của mình để nhận diện ra bao cuộc hiện xuống của Chúa Thánh Thần trong đời mình và mở rộng tâm hồn sống theo ơn Ngài thôi thúc, hầu cuộc sống của chúng ta có thể đổi mới không ngừng trong tình yêu thương xây dựng.

29. Hơi thở của Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.

Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông. Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở””.

Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.

Anh chị em thân mến,

Sự sống của chúng ta là do Thiên Chúa ban tặng. Chính nhờ tham dự vào sự sống của Ngài mà chúng ta được sống. Bao lâu còn hơi thở là còn sống. Tắt thở là chết. Trong buổi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã thổi hơi vào Ađam, con người đầu tiên, để Ađam có sự sống, để Ađam trở nên bạn hữu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đã lặp lại hành động ấy khi Ngài xuất hiện giữa các môn đệ và thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa, là nhận lấy tinh thần của Thiên Chúa. vì Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa.

Ađam đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để sống vai trò nguyên tổ của loài người. Các môn đệ cộng đoàn Phục Sinh đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô. Mỗi người chúng ta, cũng đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa khi chúng ta được dìm trong Nước Thánh Tẩy và được xức dầu trong bí tích Thêm Sức. Hơi thở, sức sống, tinh thần của Thiên Chúa được “hà hơi” vào trong ta. Vấn đề là chúng ta có biết sống bằng hơi thở Thần Linh ấy không. Thánh Phaolô khi nói về các ơn sủng Thiên Chúa ban cho mọi chi thể thuộc thân thể Đức Kitô đã đề cao Đức Ái như một đặc ân của Thánh Thần.

“Đức Ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức Ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).

Sống đức Ái, sống yêu thương là sống bằng hơi thở của Thiên Chúa, là kết hợp với Thiên Chúa Tình Yêu, là sống trong Thánh Thần. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người sống và phát triển thực sự. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người thay đổi, canh tân, hoán cải. Ai yêu thương nhiều là người ấy thay đổi nhiều, vì tình yêu sẽ dẫn đưa chúng ta đến chốn vô cùng, vô tận của cuộc sống. Ai yêu thương nhiều và yêu thương thực tình sẽ không còn là mình nữa, mà là dụng cụ của Tình Yêu Thiên Chúa, sẽ nên giống như Thiên Chúa.

Thưa anh chị em,

Một cộng đoàn thiếu yêu thương thì không bao giờ có hợp nhất, không bao giờ có sức thuyết phục được những người chung quanh. Vì chỉ có yêu thương mới san bằng được những khoảng cách, mới lấp đầy những cách biệt, mới giúp bổ túc cho nhau giữa những cái chênh lệch, khác biệt nhau. Các tín hữu tiên khởi đã bán hết của cải ruộng đất để làm của chung, để sống giới răn yêu thương của Thầy. Đó phải là hình ảnh gợi ý cho những sáng kiến yêu thương của chúng ta. Chỉ khi nào mỗi thành viên của Hội Thánh đem hết tài năng, đặc sủng của mình đã nhận lãnh làm thành của chung của cộng đoàn, thì lúc ấy mới có sự hợp nhất thực sự của một thân thể nhiều chi thể là Hội Thánh Chúa Kitô.

Nhưng chúng ta chỉ biết sống yêu thương nếu như chúng ta biết đặt mình dưới sức tác động của Thánh Thần: Chẳng những Ngài là Đấng An Ủi, soi sáng mà Ngài còn là Đấng Thanh Tẩy chốn nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, chữa lành thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng… (Ca tiếp liên). Chỉ có Thánh Thần mới làm cho các tổ chức của con người có sức sống, có tinh thần Tin Mừng… Đổi mới tư duy, đổi mới đời sống, đổi mới cơ chế xã hội đều cần đến sức mạnh và ân sủng của Thánh Thần Thiên Chúa, vì Ngài là hơi thở của Thiên Chúa, hơi thở không ngừng làm sống mọi tạo vật.

Anh chị em thân mến,

Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận những luồng gió mới mà Thánh Thần Chúa đang thổi trong lòng các dân tộc, trong lòng con người trước ngưỡng cửa Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Chớ gì Thánh Thần Thiên Chúa cũng thổi vào lòng chúng ta, vào cộng đoàn chúng ta một luồng gió đổi mới cũng mạnh liệt như thời các Tông đồ, để Hội Thánh luôn tươi trẻ và tràn đầy sức sống.

Xin hãy đến, lạy Chúa Thánh Thần và xin canh tân bộ mặt trái đất của chúng con.

30. Ngọn gió.
Bấy giờ các môn đệ họp lại ở một nơi. Bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi khắp nhà các đấng đang ngồi. Lại thấy có hình lưỡi lửa tỏa ra, đổ trên đầu từng người một và tất cả đều được tràn đầy Thánh Linh. Qua vài dòng tường thuật ngắn ngủi trên, chúng ta cùng nhau chia sẻ về hình ảnh ngọn gió.

Hậu quả đầu tiên mà gió đem lại, đó là quét sạch bụi bặm và rác rưởi. Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng gió, nhưng lại không biết gió từ đâu mà đến và sẽ đi về đâu, những kẻ sinh bởi Thần Khí cũng thế. Thực vậy, gió thổi chỗ này, gió thổi chỗ khác. Không ai có thể vạch đường cho gió. Gió thổi theo những luật lệ riêng của gió. Cũng vậy, tình yêu chân thực sẽ vượt qua mọi thúc ép bên ngoài. Và khi tình yêu cao cả nhất là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ, thì đó cũng là lúc những thái độ bên ngoài, những nghi lễ của Môisen, những quan niệm hẹp hòi của bọn biệt phái bị sụp đổ. Tin Mừng tràn lan như một ngọn gió. Và Tin Mừng ấy thổi đến đâu, thì sẽ lật đổ mọi tượng thần nhảm nhí, làm cho trong sạch và dịu mát bầu khí luân lý và đạo đức vốn đã bị ô nhiễm. Cùng với ngọn gió của ngày lễ Hiện Xuống, một con người mới được sinh ra với một lý tưởng mới và những khát vọng mới. Một thế giới được khởi đầu đó là thế giới Kitô giáo. Thế giới cũ không thể nào chống lại sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Như một bức tường xiêu vẹo và đổ nát, không thể nào cản được sức mạnh của cơn gió xoáy.

Giáo hội khởi đầu chỉ là một nhóm nhỏ gồm mười hai tông đồ. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã hoạt động trong các ông, thôi thúc các ông ra khơi và thả lưới, lên đường và chinh phục thế giới về cho Đức Kitô. Ý tưởng này làm cho chúng ta thêm phấn khởi và cảm thấy được an ủi. Dù hoàn cảnh có đen tối, dù số phận có thê thảm, dù giông tố có nổi lên, dù bắt bớ có xảy ra, nhưng có Chúa Thánh Thần hoạt động trong cộng đoàn tín hữu, thì không có một thế lực nào, không một gian nguy thử thách nào có thể chiến thắng nổi chúng ta. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.

Trong thời gian khó khăn tại Liên Xô, chỉ có một chủng viện nhưng phải sinh hoạt âm thầm và lén lút. Ngày kia một ký giả may mắn gặp được một thanh niên hơn hai mươi bốn tuổi, với khuôn mặt sáng sủa và thân hình gầy còm vì đói. Anh cho biết mình là một đại chủng sinh, đang chuẩn bị lãnh nhận chức phó tế. Ban ngày anh phải đi làm như một người thợ, một công nhân. Ban đêm mới học. Học không sách vở, học không ánh sáng. Họ sống và cầu nguyện chung với nhau, nhưng luôn phải canh chừng. Phải chăng Kitô giáo đã tàn lụi trên đất nước Liên Xô? Không phải thế. Dù chỉ còn một nhóm nhỏ thì Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động. Để rồi cuối cùng, mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.

Biết bao lần chúng ta thất vọng khi nhìn thấy tội ác thắng thế và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Biết bao lần chúng ta hoài nghi vì thiện chí của chúng ta bị coi thường và xuyên tạc. Thế nhưng, nếu thực sự có Chúa Thánh Thần ngự trị, chúng ta sẽ không bao giờ ngờ vực, sẽ không bao giờ thất vọng. Vậy chúng ta phải có thái độ nào? Chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phaolô khuyên nhủ: Đừng làm buồn lòng Chúa Thánh Thần và đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài. Nhưng thế nào là làm buồn lòng Chúa Thánh Thần, thế nào là dập tắt ngọn lửa của Ngài? Chúng ta sẽ làm buồn lòng Chúa Thánh Thần nếu chúng ta chống lại những hành động hướng dẫn, giáo huấn và thánh hóa của Ngài. Chúng ta hãy để cho Ngài thúc đẩy, để chúng ta chỉ suy nghĩ những tư tưởng của Chúa, chỉ lắng nghe những lời Chúa nói. Chúa Thánh Thần là người nghệ sĩ, còn tâm hồn chúng ta là cây đàn. Nếu chúng ta để cho Ngài gẩy, thì tâm hồn chúng ta sẽ vang lên những khúc nhạc tuyệt vời. Chúng ta có thể nói cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là như một con đường ngập ánh nắng mặt trời, dù họ phải đi qua bóng tối của gian nan và thử thách. Hơn nữa, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một khúc hoan ca, dù họ gặp phải những cay đắng chua xót. Ngoài ra, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một ngày hội lớn, một ngày khải hoàn chiến thắng, dù họ phải luôn chiến đấu không ngừng.

Ngọn gió của Chúa Thánh Thần có thể thổi đến với tôi bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu: trong giờ kinh nguyện, trên đường phố, bên giường bệnh nhân, trong cơn cám dỗ…sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ truyền sang cho tôi. Và thật là diễm phúc, nếu tôi biết lắng nghe và tuân theo sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, bởi vì tôi sẽ được Ngài hướng dẫn và ủi an.

31. Vai trò của Thần Khí – McCarthy.
Suy Niệm 1. ƠN CỦA THẦN KHÍ

Chúng ta muốn bám chặt vào một người mà chúng ta yêu mến và phụ thuộc. Chúng ta không thể chịu nổi ý tưởng người ấy rời bỏ chúng ta. Khi Đức Giêsu nói với các Tông đồ rằng Người sắp rời bỏ họ, họ rơi vào sự u sầu. Nhưng Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em”.

Các Tông đồ khó mà hiểu được bằng cách nào Đức Giêsu ra đi thì có lợi cho họ. Những minh hoạ sau đây sẽ chiếu soi một số ánh sáng trên đề tài ấy.

Bạn hãy tưởng tượng bạn đang ngắm mặt trời lặn xuống. Và khi nó lặn, có vẻ như nó đem cả thế giới này theo nó.

Đồng thời, mặt trăng lên cao trong bầu trời. Nhưng mặt trăng mờ nhạt đến nỗi bạn phải nhìn kỹ mới thấy. Dường như mặt trăng không đóng góp điều gì cho trái đất.

Rồi bạn nhận thấy một điều đẹp đẽ và kỳ lạ. Mặt trời càng xuống thấp trong bầu trời, mặt trăng càng trở nên sáng hơn. Sau cùng, mặt trời rồi cũng biến mất khỏi quang cảnh, mặt trăng được biến đổi hoàn toàn. Và giờ đây, mặt trăng đương nhiên là vật sáng nhất trong bầu trời. Và khi bạn nhìn chung quanh, bạn ngạc nhiên và thích thú nhận thấy rằng thế giới cũ kỹ này không những đã được phục hồi hoàn toàn đối với bạn, nhưng còn được làm cho mới mẻ, sáng tươi và quyến rũ. Chỉ khi mặt trời rút lui, bạn mới có thể thấy sự đóng góp của mặt trăng.

Yêu thương đôi khi lúc có nghĩa phải sống xa cách người mình yêu. Điều này có nghĩa là người ta được tự do phát triển theo đường lối của riêng mình. Người được yêu thương cảm thấy mình đã góp phần xây dựng nên tình cảm đó và được tự do tiếp nhận từ một người khác.

Tuy nhiên, chúng ta thường bám chặt ánh đèn sân khấu. Chúng ta muốn lúc nào cũng có mặt ở đó. Chúng ta không biết nên rút lui khi nào hoặc bằng cách nào. Vì thế, bằng một thái độ vô tâm và vị kỷ, chúng ta làm chủ những người khác. Chúng ta bóp nghẹt sự phát triển của họ. Chúng ta đặt họ vào vị trí phụ thuộc, và kết quả là họ ở mãi trong tình trạng kém phát triển.

Điều này đem lại cho chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc điều Đức Giêsu muốn nói khi Người cho rằng Người ra đi thì có lợi cho các Tông đồ, nếu không có Thần Khí sẽ không đến. Nếu Người cứ duy trì sự hiện diện thể chất với họ thì chính họ sẽ không bao giờ trưởng thành nổi.

“Tôi không có gì cho người khác; nhưng tôi có bổn phận hướng người ấy về với chính cuộc đời người ấy và chấp nhận người ấy là chính người ấy” (Michel Quoist).

Không bao giờ có người nào tỏ ra tín nhiệm và tôn trọng con người như Đức Giêsu. Người đã không thống trị họ. Người đã cho họ một cơ hội để toả sáng. Người chuyển giao toàn bộ công trình của Người cho họ. Người biết rằng họ vẫn cần được giúp đỡ. Đó là lý do Người sai Thần Khí đến với họ.

Điều mà Thần Khí đã làm là biểu lộ ra bên ngoài những sự việc đã có bên trong họ. Tình yêu của Thần Khí đánh thức những năng lực có bên trong họ mà họ không biết đã có đó, vì thế họ có thể làm được những việc mà họ không nghĩ rằng họ có khả năng làm. Sau ngày Hiện Xuống, tâm hồn họ như lửa đốt và có gió thổi mạnh vào sau lưng.

Chúng ta cũng cần có Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần Người giúp đỡ chúng ta thực hiện quyền bính và những ơn đã có trong chúng ta. Chúng ta cần Người khai thác quyền bính ấy và phát huy những ơn Người ban ngõ hầu chúng ta cũng có thể trở thành nhân chứng không sợ hãi cho Đức Kitô.

Suy Niệm 2. PHÉP LẠ CỦA SỰ ĐỔI THAY

Trước khi Chúa Thánh Thần đến, các Tông đồ gần như sống trốn tránh trong một phòng trên lầu. Đức Giêsu đã giao phó cho họ một nhiệm vụ cao cả. Tuy nhiên họ đã không có cả sức mạnh lẫn ý chí để bắt tay vào việc. Nhưng sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ là những người đã thay đổi.

Vậy Chúa Thánh Thần đã làm gì cho họ và phép lạ làm thay đổi chính xác như thế nào? Mặc dù chúng ta không biết một tí gì về điều đó.

Chúng ta phải nhận thức rằng các Tông đồ là những người bị tổn thương. Họ bị tổn thương bởi nghi ngờ và đau buồn, bởi sợ hãi và thất bại, và trên tất cả bởi ý thức về sự bất toàn.

Jean Vanier là một người biết rất nhiều về điều gì giúp đỡ những người bị tổn thương thay đổi. Ông đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ khắp thế giới cho những người thiểu năng (tâm thần). Khi người thiểu năng bị nhốt trong những cơ chế, người ta đã gây ra cho tâm trí họ sự thiệt hại khủng khiếp. Một thân thể bị tổn thương sẽ lành lại một cách tự nhiên, nhưng một tâm hồn bị tổn thương thì không như thế. Một tâm hồn tổn thương sẽ chai cứng; chỉ để sống còn và vì thế đầy ắp sự tức giận và cay đắng.

Nhưng khi người thiểu năng được đưa ra khỏi những cơ chế ở đó họ cảm thấy chán ghét, và được đặt vào những cộng đoàn ở đó họ được yêu thương. Vanier đã nhiều lần chứng kiến phép lạ làm họ thay đổi.

Điều này giúp chúng ta hiểu được điều gì xảy ra cho các Tông đồ. Khi nói rằng các Tông đồ bị tổn thương, người ta không có ý nói họ bị tổn thương ở mức độ như những người thiểu năng. Nhưng dù sao họ cũng bị tổn thương. Tuy nhiên sau khi Chúa Thánh Thần đến, họ là những con người đã thay đổi. Họ rời bỏ nơi họ trốn tránh và bắt đầu rao giảng Tin Mừng.

Chúng ta không nên nghĩ rằng sự thay đổi chỉ thực hiện trong trong một lúc. Nó phải là một việc có cấp bậc và một quá trình phát triển. Sự phát triển có thể chậm chạp đau đớn. Chúng ta không dễ dàng gạt bỏ những tập quán và thái độ cũ.

Con người thay đổi khi có người mang lại cho họ niềm hy vọng; khi có người tin tưởng họ và cho họ một nhiệm vụ để hoàn thành. Nhất là, họ thay đổi khi họ được yêu thương. Họ bước ra khỏi vỏ ốc của mình và những năng lực giấu kín của họ được giải phóng từ bên trong họ. Phép lạ làm con người thay đổi là một phép lạ chân thật.

Mọi người chúng ta đều có khả năng làm điều tốt. Chúng ta có tay để có thể chăm sóc, có mắt để có thể nhìn, có tai để có thể nghe, có lưỡi để có thể nói, có chân để có thể đi và trên hết có một tấm lòng để có thể yêu thương.

Nhưng mỗi người chúng ta đều có một khuyết tật kềm hãm không cho chúng ta giải phóng bản thân chân thật và tràn đầy. Chúng ta cần có một ai đó đánh thức những gì ở bên trong chúng ta. Một ai đó kêu gọi chúng ra sống và giúp đỡ chúng ta trưởng thành.

Đối với chúng ta, những môn đệ của Đức Kitô, một ai đó chính là Chúa Thánh Thần. Quyền lực đã biến đổi các Tông đồ, quyền lực hiền hoà của Chúa Thánh Thần cũng có giá trị và hiệu lực đối với chúng ta. Thần Khí ấy đánh thức những năng lực trong chúng ta, kêu gọi chúng ta sống, giúp đỡ chúng ta trưởng thành. Nhà thơ Pablo Neruda đã nói: “Tôi muốn làm cho bạn điều mà mùa xuân làm cho cây anh đào”. Đó là điều mà Thần Khí đang thực hiện.

32. Tác động của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần làm gì cho chúng ta? Đó là vấn đề chúng ta cùng nhau tìm hiểu và chia sẻ trong một vài phút ngắn ngủi này.

Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy các môn đệ, mặc dù đã bước theo Chúa, mặc dù đã được lắng nghe những lời khôn ngoan Chúa dạy, mặc dù đã được nhìn thấy những việc lạ lùng Chúa làm, thế nhưng các ông cũng chẳng lĩnh hội được bao nhiêu và đức tin cũng chưa bén thể rễ sâu trong cõi lòng các ông.

Sở dĩ như vậy vì đầu óc các ông còn u mê dốt nát và mang nặng tinh thần thế gian.

Thực vậy, cũng như phần đông những người Do Thái khác, các ông đang trông chờ, mong đợi một đấng cứu thế trong lãnh vực chính trị và xã hội.

Đấng ấy phải hùng mạnh như Đavít với kỵ binh và cbiến mã rợp trời. Đấng ấy phải khôn ngoan như Salômon, khiến cho muôn dân nước phải nể phục. Đấng ấy sẽ đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của đế quốc La Mã, dẫn đưa dân tộc họ bước vào một thời đại hoàng kim.

Và lúc bấy giờ các ông sẽ được làm lớn và giữ những chức vụ quan trọng trong vương quốc của Ngài, cùng với một cuộc sống nhiều đặc ân và bổng lộc, giàu sang và quyền thế, theo kiểu “vinh thân phì gia”.

Chính vì thế, các ông thường tranh cãi xem ai là người cao trọng nhất, đồng thời các ông không thể nào chấp nhận được những khổ đau và cái chết tủi nhục trên thập giá mà Chúa Giêsu đã tiên báo.

Thế nhưng, sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các ông đã đổi đời, đã thoát xác, đã trở nên những con người mới, am hiều và thông suốt về giáo lý của Chúa Giêsu, nhất là về màu nhiệm thập giá, để rồi hôm nay, ngày lễ Ngũ tuần, Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai đã lên tiếng rao giảng về chính những điều trước đây ông đã không hiểu cũng như không muốn hiểu.

Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn làm gì nữa?

Nhìn vào các tông đồ, chúng ta thấy các ông không phải chỉ là những kẻ u mê và dốt nát, mà còn là nhưng kẻ hèn nhát và sợ sệt. Phúc âm đã ghi lại như sau:

Khi thấy sóng gió nổi lên, các ông đã hoảng sợ đến cuống cuồng, khiến Chúa Giêsu phải lên tiếng trách:

- Hời những kẻ hèn tin, tạo sao các con sợ hãi.

Sự sợ hãi này còn được biểu lộ một cách rõ rệt hơn nữa trong cuộc thương khó. Giuđa đã bán Chúa với giá ba mươi đồng bạc, giá bán một tên nô lệ, và chỉ bằng một phần mười giá bán một chai thuốc thơm, Mađalêna đã dùng để xức vào chân Chúa Giêsu. Phêrô đã chối Chúa ba lần trong sân nhà thầy cả thượng phẩm chỉ vì một câu hỏi vu vơ. Còn các môn đệ khác đều đã bỏ Chúa mà chạy trốn, ngoại trừ Gioan là đã theo Chúa đến cùng và đã có mặt dưới chân cây thập giá. Ngay cả sau khi Chúa đã sống lại, các ông tụ họp với nhau trong phòng, mà cửa thì đóng kín vì sợ người Do Thái.

Thế nhưng, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các ông đã hoàn toàn đổi mới: từ những kẻ hèn nhất và sợ sệt, các ông đã trờ nên những con người can đảm và hăng say rao giảng Tin mừng.

Hơn thế nữa, các ông còn sẵn sàng chấp nhận cái chết, cũng như đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho tình yêu của Đức Kitô.

Thực vậy, trong số mười hai tông đồ, thì đã có tới mười một ông hy sinh mạng sống cho Tin mừng, chỉ trừ một mình Gioan là đã chết già tại cộng đoàn Êphêsô mà thôi.

Còn chúng ta thì sao?

Rất có thể lúc này chúng ta cũng đang là những kẻ mê muội và dốt nát, chẳng hiểu biết được bao nhiều về giáo lý của Chúa.

Rất có thể lúc này chúng ta cũng đang là những kẻ hèn nhát và sợ sệt, chúng ta sẵn sàng bán Chúa và chối bỏ Ngài bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào và bất cứ vì lý do gì.

Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong tâm hồn, để biến đổi chúng ta trở thành những con người mới luôn hiểu và sống Tin mừng, cũng như luôn hăng say phục vụ Chúa nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau.

33. Đổi mới.
Cách đây 50 ngày, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giêsu Phục sinh và Chúa nhật trước, lễ Chúa Giêsu lên trời. Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống và cũng là lễ kết thúc mùa Phục sinh.

Chính hôm nay Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Hôm nay Chúa Giêsu Phục sinh thực hiện lời hứa và ban Thánh Thần cho chúng ta. Việc Thánh Thần đến vào ngày lễ Ngũ tuần là dấu chỉ Đức Kitô được tôn vinh, Ngài được ngồi bên hữu Chúa Cha, được đặt làm “Chúa”. Chúa Thánh Thần đã được hứa ban, Người tới, Người hiện diện đó và Người hoạt động để thực hiện một cuộc đổi mới, tạo dựng một nhân loại mới. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng khám phá lại hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi các tông đồ, về sự hiện diện và hoạt động của Ngài nơi mỗi người chúng ta để rồi chúng ta biết sống theo sự hướng dẫn của Ngài.

Thời Cựu ước ngôn sứ Edêkien đã tiên báo là Thần khí sẽ đến và ban cho con người một tâm hồn mới, một trái tim mới.

Thật vậy, trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu cũng đã nhắc lại lời hứa đó và báo trước là Chúa Thánh Thần sẽ đến trong lòng các tín hữu để soi sáng họ, nhắc nhở họ những lời của Thiên Chúa, và thanh tẩy họ bằng cách tha thứ các tội lỗi.

Bài trích sách Công vụ Tông đồ thuật lại. Vào ngày lễ Ngũ tuần đang khi các tông đồ họp nhau cầu nguyện thì Thánh Thần đến như một cơn gió, bất ngờ và không thể cưỡng lại. Thánh Thần phủ trên cả nhóm tông đồ đang tụ họp nhưng cũng được ban phát cho từng người dưới hình lưỡi lửa.

Thánh Thần đã thực hiện một cuộc biến đổi ngoạn mục nơi các tông đồ: từ những người nhút nhát, sợ sệt, chậm hiểu họ đã được biến đổi thành những người can đảm, xác tín và dấn thân vào công cuộc rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: Vào chiều ngày Phục sinh Đức Giêsu đã hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Hình ảnh “thổi hơi” gợi lại tác động của Giavê Thiên Chúa, lúc tạo dựng đã thổi hơi trên Ađam để ban sự sống. Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa. Vì Thánh Thần là Thần khí, là hơi thở của Thiên Chúa.

Sự sống mới mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các tông đồ cũng là sự sống bởi Thánh Thần. Nhưng đây là Thánh Thần của Đấng Phục sinh, Thánh Thần của Đấng đã chiến thắng tử thần, và vì thế, sự sống đó chính là sự sống đời đời. Chính Thánh Thần của Đức Giêsu Phục sinh đang thực hiện một cuộc tạo dựng mới, tạo dựng một nhân loại mới.

Sau khi đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự chết, nhân loại mới này đã đón nhận được sự sống mới, sự sống đời đời.

Sự sống mới này, ngày nay cũng được tiếp tục trao ban cho các Kitô hữu là những người tin vào Chúa Kitô.

Chúa Thánh Thần là hơi thở của Chúa Giêsu Phục sinh, hơi thở ấy Chúa Giêsu Phục sinh chuyển thông cho Giáo hội để Giáo hội sống chính đời sống của Người, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Qua Bí tích Rửa tội các Kitô hữu nhận lãnh Chúa Thánh Thần, được tái sinh trong đời sống mới.

Chúa Thánh Thần tẩy rửa mỗi tâm hồn khỏi tội lỗi và làm cho trở nên chi thể của Chúa Kitô và là con cái của Chúa Cha, thánh Gioan nhấn mạnh tới vai trò của Chúa Thánh Thần trong mỗi tâm hồn. Sau khi ban Thánh Thần rồi Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con tha tội cho ai, tội người ấy được tha”. Ơn tha tội phát xuất từ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần mà Giáo hội thông ban qua Bí tích Rửa tội và Hòa giải. Chính qua hai bí tích ấy mà mỗi người được giao hòa với Thiên Chúa được trở thành một tạo vật mới để sống một đời sống mới.

Chúng ta còn có thể thấy rõ tác động của Chúa Thánh Thần nơi các Kitô hữu là sự hiệp nhất. Ngày xưa, tại tháp Babel tội lỗi chia rẽ loài người làm cho mỗi người nói một thứ tiếng. Nay Chúa Thánh Thần thiết lập lại sự hiệp nhất, Thánh Thần mà các Kitô hữu lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội là Thánh Thần đem lại bình an: bình an của ơn tha thứ và hòa giải. Thật vậy, hiệu quả đầu tiên của Chúa Thánh Thần chính là làm cho mọi người tuy khác biệt về màu da chủng tộc, ngôn ngữ mà vẫn có thể hiểu nhau và hiệp nhất thành một cộng đoàn.

Lễ Hiện xuống mà chúng ta cử hành hàng năm không phải là một kỷ niệm trống rỗng: đây là một ngày lễ đổi mới chúng ta trong quyền năng và hoạt động của Thánh Thần, nếu chúng ta đón nhận Ngài. Những gì Chúa Thánh Thần đã làm nơi các tông đồ xưa kia, bây giờ Ngài cũng thực hiện nơi chúng ta.

Hôm nay khi tưởng niệm lại việc Đức Kitô Phục sinh đã ban Thánh Thần cho các tông đồ, chúng ta hãy ý thức là chúng ta cũng đã được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần nhờ Bí tích Thanh tẩy và Thêm sức. Nhờ ơn Thánh Thần, chúng ta chẳng những có sự sống tự nhiên, mà nhất là sự sống siêu nhiên tức là địa vị làm con cái Thiên Chúa như Đức Kitô vậy. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Cũng như lý trí soi dẫn cuộc đời bình thường của con người thế nào, thì chúng ta cũng xin Chúa Thánh Thần, là khôn ngoan, là sức mạnh và là tình yêu của Thiên Chúa soi sáng, sưởi ấm và củng cố tâm hồn chúng ta.

Rồi trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cố gắng sống cho đẹp lòng Chúa Thánh Thần. Và vì Chúa Thánh Thần là Thần chân lý, là Thần tình yêu, nên sự cố chấp, sự gian dối, sự chia rẽ là những điều trực tiếp phản nghịch với Chúa Thánh Thần. Trái lại, nếu chúng ta cố gắng sống khiêm nhường, chân thành và bác ái thì Chúa Thánh Thần sẽ không ngừng ở với ta. Người sẽ soi sáng chúng ta, dẫn dắt chúng ta dần dần tiến sâu vào vương quốc của Thiên Chúa, là vương quốc của tình thương và bình an, bởi vì hoa trái của Chúa Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an. Nói cách khác, Nước Thiên Chúa là đời sống trong Chúa Thánh Thần với những hậu quả cụ thể là sự công chính, bình an và hoan lạc trong mỗi tâm hồn tín hữu cũng như trong các tương quan với nhau.

Một trong những dấu hiệu cụ thể và rõ ràng nhất về sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần là tinh thần bác ái và phục vụ cộng đoàn. Trong bài đọc thứ hai thánh Phaolô đã ví Giáo hội như là thân mình của Đức Kitô trong đó các chi thể yêu mến nhau và phục vụ lẫn nhau. Nếu chúng ta cố gắng thể hiện ra trong đời sống tinh thần yêu thương, tinh thần phục vụ, thì chúng ta có thể tin chắc là chúng ta đang để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta. Đó là dấu hiệu chúng ta là con cái của Thiên Chúa.

34. Mùa xuân của Thánh Thần.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Quang cảnh thánh Gioan thuật lại ở đây, tóm tắt và thực hiện lời nói của Đức Giêsu trong diễn văn giã từ của Ngài trước lúc ra đi chịu chết. Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ ra đi, nhưng thực tại thần linh mà Ngài đã thiết lập và chính là Ngài vẫn lưu lại nơi các môn đệ. Cử chỉ hà hơi trên các môn đệ để biểu hiện ơn Chúa Thánh Thần, khơi dậy nơi họ một đời sống mới và trao ban cho họ một sứ mạng.

Theo não trạng Do Thái, sống, chính là lãnh nhận từ Thiên Chúa, một phần “hơi thở sự sống”. Người ta đi đến chỗ cắt nghĩa gió và hơi thở như một thực tại làm cho sống, ít nhiều siêu vật chất, phát xuất từ Thiên Chúa. Sách Sáng thế ký nói: “Bấy giờ, Thiên Chúa nặn hình con người từ bụi đất và hà hơi sống vào mũi nó, và người trở nên vật sống động” (Stk 2,7). Chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã sử dụng yếu tố não trạng này của các môn đệ và hà hơi trên họ để nói lên ý nghĩa một đời sống mới và một sứ mạng mới khởi sự nơi họ.

Làm sao giải thích ơn huệ Chúa Thánh Thần chiều ngày Phục Sinh và làm sao hiểu được sứ mạng Đức Giêsu giao phó cho các môn đệ?

1) Ơn huệ Chúa Thánh Thần khai mào một đời sống mới. Đây là một sự bắt đầu. Người ta có thể tự hỏi tại sao Đức Giêsu lại ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ trước biến cố Hiện xuống. Lễ Hiện xuống vẫn giữ tất cả ý nghĩa của nó như là việc biểu lộ chính thức sự khai sinh của Giáo Hội. Nhưng sự khai sinh này không phải là một cuộc nổi lên đột ngột, và chung cuộc. Trái lại nó liên tục: bắt đầu bằng việc sinh ra, nó lớn lên và không ngừng tăng trưởng mãi cho đến tận cùng lịch sử nhân loại, ví tựa như một loài có sự sống đang phát triển không ngừng. Chúa Thánh Thần đã bắt đầu sinh hạ trong nhân tính với chính Đức Kitô. Đoạn qua các các giai đoạn kế tiếp nhau, linh hồn của Giáo Hội tức là Chúa Thánh Thần, đã dần dần biểu lộ sự hiện diện sống động của mình. Mầu nhiệm hoạt động của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn các môn đệ, luôn kính trọng các định luật phát triển của sự sống: đi từ nhựa sống, ngang qua các mầm, bông hoa rồi tiến đến trái trăng. Ơn huệ Chúa Thánh Thần được trao ban cho các môn đệ đang tụ họp, là một lúc trong mùa xuân của Giáo Hội. Chúng ta lưu tâm đến mùa xuân của Chúa Thánh Thần trong chúng ta hay là tác động chín mùi của Chúa Thánh Thần?

2) Trong đoạn trích dẫn của thánh Gioan, sứ mạng trao ban cho các môn đệ là quyền tha tội. Tư tưởng truyền thống của Giáo Hội nhận ra trong các lời nói của Đức Giêsu cái nền tảng của bí tích Giải tội. Nhưng còn phải hiểu rõ thế nào là “tội”. Đó là những kháng cự với ý muốn của Thiên Chúa và các lỗi lầm đi kèm theo. Nhưng trong nhãn giới của thánh Gioan tội nặng nhất là từ-chối-có-hiểu-biết tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. một trong những khía cạnh của sứ mạng các môn đệ trước nhất là loan báo Lời Chúa. Lời đem lại cho con người niềm tin nơi Đức Giêsu, và tiếp theo là việc xét xử. Các môn đệ là các quan án; và tuỳ theo đức tin này được chấp nhận hay từ chối, họ phán quyết người nào đang ở trong tình bạn với Thiên Chúa hay xa cách Thiên Chúa; họ có quyền xét xử người nào là đáng lãnh nhận ơn tha thứ và tình bạn của Thiên Chúa, mà họ là các thừa tác viên, dựa trên việc các người này có chấp nhận hay không niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Cứu thế, (niềm tin mà trước nhất họ đã đề ra).

35. Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
"Các con hãy nhận lấy Thánh Thần..."

Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.

Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.

Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.

Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.

Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.

Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: "Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương". Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.

Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.

Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. "Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô". Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy là cùng đích.

Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: "Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết". Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: "Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.". Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.

Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.

Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.

Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: "Hãy yêu tha nhân như chính mình." Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ... Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.

Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.

Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ "tôi đang là" đến chỗ "tôi được mời gọi để trở thành..." Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: "Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành". Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.

Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.

Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.

Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.

Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. "Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen."

36. Chúa và Nguồn Sinh Khí.
Bước vào ngàn năm thứ ba, điều đó mang ý nghĩa hai ngàn năm đã qua từ lúc “thời gian đã mãn”, là lúc Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, là năm sinh của Chúa Giêsu Kitô. Lịch sử nhân loại được chia làm hai giai đoạn: Trước Chúa Giêsu Kitô giáng sinh và sau Chúa Giêsu Kitô giáng sinh. Nếu có nói về một công nguyên, thì sự tính toán vẫn quy về lúc Chúa Giêsu Kitô giáng sinh.

Để chuẩn bị cho Năm Toàn Xá, Năm Thánh vào năm 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã công bố Tông thư “Tiến đến Ngàn Năm Thứ Ba” vào ngày 10.11.1994. Đức Giáo Hoàng đệ nghị ba năm cuối của thế kỷ này được hiến dâng cho từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa: Năm 1997 hiến dâng cho Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người; năm 1998 cho Chúa Thánh Thần, và năm 1999 cho Thiên Chúa Cha. Đức Thánh Cha còn muốn cho các tín hữu học hỏi thông điệp về Chúa Thánh Thần trong sinh hoạt của Giáo Hội và thế giới. Thông điệp mang tựa đề: “Chúa và Nguồn Sinh Khí” trong những năm chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000. Bởi vì, Đức Thánh Cha đã nói: “Giáo Hội không thể chuẩn bị Ngàn Năm mới bằng cách nào khác hơn là ở trong Chúa Thánh Thần”.

Là “Chúa và là Nguồn Sinh khí”, Chúa Thánh Thần đã hiện diện và đã đóng một vai trò tích cực ngay từ khởi thuỷ lịch sử sáng tạo và cứu độ. Ngay đối với Chúa Giêsu trong cuộc sống ẩn dật và công khai, Chúa Thánh Thần luôn tác động trên Ngài, nhất là trong những biến cố quan trọng, như khi lãnh Phép Rửa ở sông Giođan, như khi vào sa mạc chịu ma quỉ cám dỗ, như khi cất bước rao giảng Tin Mừng khắp các làng mạc ở Palestin. Nhưng chỉ sau khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng bằng cái chết và sống lại từ cõi chết, Ngài mới có thể ban Thánh Thần. Tin Mừng hôm nay cho thấy vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện đến, thổi hơi trên các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Cử chỉ thổi hơi trên các môn đệ gợi lại hành động Thiên Chúa lúc bắt đầu tạo dựng con người. Thiên Chúa đã thổi vào Ađam hơi thở của sự sống và con người nên sống động (St 2,7). Cũng có thể, khi Chúa Giêsu thổi Thánh Thần trên các môn đệ, các ông nhận được sự sống mới. Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống” như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.

Sách Công vụ Tông đồ còn cho thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như gió thổi, như lưỡi lửa, vào chính ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, được mừng 50 ngày sau lễ Vượt Qua, để tưởng nhớ Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Israel tại núi Sinai. Dịp lễ này đã quy tụ đông đảo người Do Thái từ các nước khác nhau trở về Giêrusalem. Chính trong bối cảnh của ngày lễ trọng đại này mà hoạt động đầu tiên của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội được biểu lộ. Hoạt động đã được biểu lộ qua các Tông đồ “nói tiếng khác nhau” và “mọi người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được lời rao giảng của các Tông đồ”. Ở đây, ân sủng của Chúa Thánh Thần đã tái lập sự thống nhất ngôn ngữ đã bị chia rẽ, phân tán tại Tháp Babel khi xưa và đồng thời nói lên tính cách phổ quát đại đồng của ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến và do Chúa Thánh Thần thực hiện.

Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến vai trò hiệp nhất của Chúa Thánh Thần: “Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”. Nếu chỉ có Thánh Thần mới làm cho những kẻ tin nói được: “Đức Giêsu là Chúa”, thì cũng chỉ có Thánh Thần mới làm cho những con người khác nhau hợp nhất với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau. Vì vậy, Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta “hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận, một lòng một ý với nhau”. Bởi vì, giữa những người cùng thờ một Chúa, cùng tuyên xưng một niềm tin, cùng lãnh nhận một bí tích, cùng hy vọng một tương lai Nước Trời, mà lại chia rẽ nhau, là điều không thể hiểu nổi, là gương xấu không thể tha thứ được. Chính vì thế mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đặt năm 2000 là tiêu điểm để hoạt động cho các Kitô hữu của các Giáo Hội anh em được hiệp nhất như ý Chúa muốn.

Đời sống Kitô hữu là một đời sống theo Thánh Thần, như thánh Phaolô đã nói: “Ai sống theo xác thịt thì hướng về những điều thuộc về xác thịt, còn ai sống theo Thánh Thần thì hướng về những điều thuộc Thánh Thần. Nhưng hướng theo xác thịt là chết, còn hướng theo Thánh Thần là sống và bình an” (Rm 8,5-6). Muốn sống theo Thánh Thần, chúng ta phải nhìn ngắm Chúa Giêsu trong Tin Mừng, ước muốn nên giống Ngài, để có thể đi vào trong tình hiếu thảo của Chúa Giêsu, trong cầu nguyện, trong nghèo khó, tuân phục, trong khiêm tốn, phục vụ, trong tình huynh đệ, xả kỷ của Chúa Giêsu đối với mọi người. Hãy sống theo Thánh Thần, như vậy anh em sẽ không theo những khuynh hướng ích kỷ của xác thịt. Và đây là hiệu quả của Thánh Thần, đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần, thì hãy để Thánh Thần hướng dẫn đời ta”. (Gl 5,16.22-25).

Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người, tạo điều kiện cho mối tương quan huynh đệ giữa người với người, những gì tạo nên sự hiệp thông vô biên giới phải là những tiêu chuẩn cho hành động của chúng ta. Bởi vì những gì giới hạn hoặc chia rẽ, đều nghịch với Thánh Thần của Đức Kitô. Thánh Thần luôn chăm lo hiệp nhất Thân Thể Đức Kitô, duy trì sự hiệp thông và quy tụ mọi người hiệp nhất với Ngài.

37. Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm GB. Hoàng Văn Khanh)

Chiều ngày phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ đang quy tụ trong phòng Tiệc ly, cửa đóng kín vì sợ người Do thái. Ngài chúc bình an và ban Thần Khí cho các ông, để từ nay các môn đệ dấn thân loan Tin mừng và làm chứng về Đức Kitô cho mọi người, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.

1. Chúa Thánh Thần là Đấng canh tân

Biến cố chiều thứ sáu tử nạn làm tiêu tan mọi ước mơ của các môn đệ. Họ đã theo Chúa suốt 3 năm trời với hy vọng Ngài sẽ phục hưng dân tộc và thiết lập vương quốc Messia. Nhưng Ngài đã bị kết án chết thập giá. Họ chán nản buồn sầu, kẻ trở về quê cũ, số còn lại quy tụ nhau trong gian phòng đóng kín vì sợ người Do Thái. Cửa phòng khép kín mà tâm hồn họ cũng đang đóng khung trong lo âu, sợ hãi, thất vọng. Chính lúc ấy, Chúa phục sinh hiện ra, ban bình an và thông ban Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”, như Ngài đã hứa trong đêm tiệc ly: “Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với anh em” (Ga 16,7). Được đầy Thánh Thần, các môn hoàn toàn biến đổi: từ những người nhút nhát, sợ hãi, họ trở thành quả cảm, vui tươi, đầy tin yêu và mạnh dạn lên đường thực thi sứ mệnh mà Chúa Phục sinh trao phó, cũng chính là sứ mệnh mà Ngài đã nhận từ Cha: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”, đó là loan báo Tin Mừng cứu độ và làm chứng Đức Giêsu đã sống lại. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa, biến đổi các ông toàn diện, ban cho các ông nói tiếng lạ và thúc đẩy họ làm chứng nhân cho Đức Kitô phục sinh (Cv 2,1-14). Chúa Thánh Thần là Đấng canh tân tâm hồn, soi sáng lòng trí, làm vững mạnh đức tin, mang bình an và dũng lực để các tín hữu can đảm loan Tin mừng và làm chứng Đức Kitô cho mọi người.

2. Chúa Thánh Thần là Đấng hòa giải

Đức Kitô được Chúa Cha ủy thác sứ mệnh cứu độ là ban ơn tha thứ và hòa giải con người với Thiên Chúa, hầu đưa vào hiệp thông sự sống của Chúa Ba Ngôi. Chúa Giêsu trao cho các tông đồ sứ mệnh tiếp nối Ngài là hòa giải con người với Thiên Chúa: “Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha. Các con cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ”. Các Tông đồ được Chúa Giêsu thông ban quyền tha tội. Họ chỉ có thể thực hiện quyền này trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Chính vì thế, khi thông ban quyền tha tội, Chúa Giêsu đã thổi “Thần Khí” trên các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Từ nay, Chúa Thánh Thần là sức mạnh, quyền năng để các Tông đồ và Giáo hội hoạt động tiếp nối công trình cứu độ của Chúa Giêsu.

3. Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất

Vì tội lỗi và kiêu căng mà nhân loại đã bị phân rẽ (St 11,1-11). Ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã ban cho các Tông đồ nói tiếng lạ, để mọi người đều nghe như tiếng bản xứ của mình mà đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Ước mơ ngày nào của Môisê mong cho toàn dân được ơn Thần Khí mà nói tiên tri (Ds 11,26-30) cũng như sấm ngôn của Gioen về thời thiên sai (Ge 3,1-5), nay được hiện thực. Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất, liên kết mọi con người, mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ với nhau, để tất cả đều lắng nghe và đón nhận sứ điệp Tin mừng. Chúa Thánh Thần là Đấng kiến tạo sự hiệp nhất trong Giáo hội, sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu ước mong và cầu khẩn với Cha trong lời nguyện hiến tế: “Xin Cha cho họ được hiệp nhất nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”.

38. Quà tặng cho linh hồn – Arthur Tone.
Phil lớn hơn em nó là Joe 2 tuổi, chúng thích rừng, thích hồ ao xung quanh thành phố của chúng, trên vùng Michigan. Đó là lý do chính chúng ngưỡng mộ chú Bill, một người độc thân lớn tuổi. Chú thông thạo săn bắn và câu cá. Hai đứa nhỏ thần tượng hóa chú Bill. Chúng vui mừng vô cùng khi nghe tin chú Bill sắp đến ở với chúng. Chú Bill thường mua quà cho các cháu, luôn luôn là những dụng cụ dùng ngoài trời: chiếc địa bàn, con dao, đèn pin, búa, cung và tên, balô và khi chúng lớn, chú còn cho một khẩu súng trường.

Hôm nay chúng ta kỷ niệm Chúa Thánh Linh, Ngôi Ba Thiên Chúa Ba Ngôi, ban cho chúng ta bảy ơn quý giá; chúng ta gọi là bảy ơn Chúa Thánh Thần. Quà của chú Bill cho Phil và Joe luôn hữu ích cho cuộc sống ngoài trời. Ơn huệ của Chúa Thánh Thần rất cần thiết và hữu ích cho đời sống thiêng liêng. Ơn huệ của Chúa Thánh Thần là gì? Chúng ta phải sử dụng làm sao?

Tất cả là ơn huệ thiêng liêng, là sức mạnh thiêng liêng trợ giúp cho linh hồn chúng ta.

Ơn khôn ngoan là ơn giúp chúng ta nâng cao tâm hồn lên trên mọi sự vật mau qua trên mặt đất, để hướng về những sự không mau qua, những sự vĩnh cửu.

Ơn thông hiểu: như một đèn pha thần thánh, chiếu tỏa sáng lân chân lý Chúa tỏ ra cho chúng ta, giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa các chân lý ấy.

Ơn lo liệu: như một địa bàn ơn thần thánh, trong những khó khăn, bối rối trong đời sống. Chúa Thánh linh giúp chúng ta biết phải làm gì để vinh danh Chúa và cứu vớt linh hồn chúng ta cũng như anh em chúng ta.

Ơn sức mạnh: nghĩa là can đảm. Chúa Thánh Linh cho chúng ta sự can đảm thiêng liêng cần thiết để giữ luật Chúa và luật Giáo Hội. Tử đạo là điển hình cao nhất của ơn sức mạnh.

Ơn hiểu biết: là ơn giúp ta phán đoán đúng đắn các tạo vật, giúp ta biết sử dụng kiến thức đúng đắn. Ơn hiểu biết không phải chỉ để thâu thập các sự kiện về thế gian, nhưng là đặt chúng trong liên quan và trật tự.

Ơn đạo đức: là tình yêu và lòng nhiệt thành của người con đối với Cha mình, là ước muốn của người con mong làm đẹp ý Cha mình. Như một ân huệ của Chúa Thánh Thần, ơn đạo đức giúp ta tôn kính và yêu mến Chúa là Cha chúng ta. Nó giúp ta thi hành những gì đẹp lòng Chúa, yêu giúp đỡ anh em, yêu cầu nguyện và yêu lời Chúa.

Ơn kính sợ Chúa là ơn giúp ta sợ làm mất lòng Chúa. Không phải sợ hãi như nô lệ sợ chủ; nhưng sợ làm phiền lòng Đấng yêu thương chúng ta. Đấng chúng ta yêu mến. Như Kinh Thánh nói: “Kính sợ Chúa là khởi đầu sự khôn ngoan”.

Hôm nay, chúng ta vui mừng vì Chúa Thánh Linh đã cho chúng ta tất cả những ơn trợ giúp đó. Phil và Joe trong câu chuyện đã sung sướng nhận những món quà để sinh hoạt ngoài trời. Chúng ta hân hoan đón nhận ân huệ của Chúa Thánh Linh giúp chúng ta trong đời sống với Chúa.

Xin Chúa chúc lành bạn.

39. “Anh em hãy nhận Thánh Thần” - Noel Quesson.
Một cha sở già miền núi phía nam nước Ý thường dùng các ví dụ cụ thể để diễn tả mầu nhiệm trong đạo. Vào lễ Thánh Linh hàng năm, Ngài ra lệnh thả một chim câu trong nhà thờ. Và khi chim đậu xuống ai, người đó phải cố thực hiện một công tác cụ thể phục vụ cộng đoàn. Có lần chim đậu xuống một thầy hiệu trưởng, ông này đã cam kết và thực hiện một cuốn sách giá trị. Lần khác chim đậu xuống một vị công tước và công tước đã bỏ tiền xây hệ thống dẫn nước. Một Linh mục trẻ được sai tới thay thế cha sở già. Cha sở mới không thích kiểu cách cha sở cũ nhưng chưa tiện hủy bỏ. Vào ngày Lễ Thánh Linh ngài bảo cứ thả chim câu, và cho mở rộng hết các cửa, nghĩ rằng chim sẽ bay ra ngoài. Nhưng con chim bay lượn một vòng quanh nhà thờ và đậu ngay xuống vai cha sở mới, cả nhà thờ vỗ tay mừng rỡ. Cha sở mới phải lên tiếng hứa sẽ đem hết sức lực và thì giờ phục vụ giáo xứ, và ngài đã giữ lời.

Câu chuyện vui nầy diễn tả phần nào những hoạt động của Chúa Thánh Thần, Người thúc giục, soi sáng và hướng dẫn ta trong mọi ý hướng, mọi sáng kiến phục vụ anh em. Chúa Giêsu nói về hoạt động của Thánh Linh: Người như gió, muốn thổi đâu thì thổi (Ga 38). Và Chúa cũng nhắc nhở ta trong vai trò quan trọng của Thánh Linh trong việc giúp hiểu Tin Mừng, trong việc truyền bá giáo lý của Chúa: “Thầy sẽ xin Cha ban cho các con một Đấng phù trợ, Người là Thần Chân lý” (Ga 14,16): “Khi Thần Chân lý tới, Người sẽ dạy cho các con biết tất cả sự thật” (Ga 16,13).

Khung cảnh Tin Mừng chúng ta mới nghe chứng tỏ điều Chúa nói. Chúa đã phục sinh, chuyện nầy các tông đồ đều đã biết, nhưng các ông vẫn lo âu, tụ họp nhau trong phòng đóng kín cửa vì sợ. Chúa Giêsu định phó thác cho các ông nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo trên khắp hoàn vũ. Nhưng bây giờ các ông còn đang run sợ, lẩn trốn, như vậy làm sao các ông thực hiện nổi nhiệm vụ Chúa trao phó?

Trong tình trạng lo âu trốn tránh đó, Chúa Giêsu đã tới giữa công đoàn, thở hơi và các ông và nói: “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Hành động của Chúa Giêsu làm ta nhớ tới việc Chúa sáng tạo sự sống (Kn 2,7; Ed 37,9). Theo thánh Gioan thì biến cố nầy xảy ra ngay vào ngày Chúa sống lại. Tác động đầu tiên của Thánh Linh là mang tới sự sống, và Chúa Giêsu là người trước hết lãnh nhận tác động đó. Chúa Thánh Thần đã làm nên sự Phục Sinh của Chúa Giêsu trong quyền lực Chúa Cha. Danh hiệu đầu tiên của Thánh Linh là “Thiên Chúa ban sự sống”.

Chúa Thánh Thần còn đem lại cho ta ơn tha tội: “Các con tha thứ cho ai, người ấy được tha”. Thực sự ơn tha tội đã được Thiên Chúa trao ban đầy tràn kể từ cái chết cứu độ của Chúa Giêsu. Vấn đề còn lại ở phía con người, chúng ta có ý thức và sẵn sàng đón nhận ơn tha thứ của Chúa hay không.

Sau khi các tín hữu nhận lãnh sự sống và ơn cứu độ. Thánh Linh sẽ trao ban sứ mệnh, chuyển thông ơn cứu độ, sự tha thứ, sự Thánh thiện cho mọi người. Đó là nhiệm vụ của Giáo Hội và của mỗi Kitô hữu. “Giáo Hội là cơ quan mở mang cho nhân loại cộng đồng tình yêu”. Từ khi Thánh Linh hiện xuống, tình trạng đã đổi khác. Các Tông đồ không còn run sợ trốn tránh trong phòng kín, nhưng bắt đầu ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi. Các ông làm chứng lời giảng bằng chính cuộc sống và cả tính mạng của mình.

Lạy Chúa, xin ban Chúa Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người, chúng con có đủ khôn ngoan, can đảm phục vụ và làm chứng cho Chúa trước mặt thiên hạ.

40. Đấng sáng tạo.
Như chúng ta đã biết: đứng trước câu hỏi Chúa Thánh Thần là Đấng nào, sách giáo lý đã trả lời: Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi thứ ba. Câu trả lời này thật đúng, nhưng lại quá trừu tượng, khiến chúng ta khó có thể hình dung Ngài ra làm sao.

Các thánh Giáo phụ và các nhà thần học đã cố gắng dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Các ngài đã sánh ví Chúa Thánh Thần chính là sợi dây tình yêu liên kết Chúa Cha với Chúa Con.

Thánh Bernađô thì nghĩ rằng: Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau, còn Chúa Thánh Thần chính là nụ hôn ngọt ngào và mầu nhiệm mà hai ngôi ấy trao ban cho nhau.

Nhà thần học Scheeben thì lại coi Chúa Thánh Thần như là một sự tỏa lan của đời sống Thiên Chúa, như là một làn hương thơm thánh thiện của Chúa Cha và Chúa Con.

Thế nhưng ngôn ngữ của loài người thì bất lực, không thể diễn tả nổi mầu nhiệm cao vời ấy, nếu không muốn nói là nhiều khi đã bóp méo sự thật. Để có được một vài ý niệm nào đó. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những tước hiệu, vốn được Giáo Hội quen dùng để xưng tụng Chúa Thánh Thần.

Một trong những ca khúc nổi tiếng của Giáo Hội từng được hát lên để cầu xin Chúa Thánh Thần trước khi chúng ta làm một việc gì, đó là ca khúc “Veni Creator Spiritus”, Lạy Chúa Thánh Thần, là Đấng sáng tạo, xin hãy đến. Tước hiệu Giáo Hội quen dùng để xưng tụng Chúa Thánh Thần, đó là Đấng Sáng Tạo. Vậy tại sao lại như thế?

Lý do thứ nhất, như chúng ta đã biết: Trong phạm vi vật chất. Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ vì yêu thương. Nếu Thiên Chúa chỉ là Đấng Khôn ngoan và thông biết, chắc Ngài sẽ không dựng nên vũ trụ, bởi vì vũ trụ này dù có hoàn hảo đến đâu chăng nữa, thì vẫn còn cách biệt với ý muốn của Thiên Chúa. Thế nhưng Thiên Chúa còn là Đấng nhân từ và thương xót, Ngài là Tình Yêu, một tình yêu phong phú. Và chính bởi tình yêu ấy. Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ.

Người tín hữu, với con mắt đức tin, sẽ nhìn thấy nơi mọi tạo vật dấu ấn sâu đậm của tình yêu Thiên Chúa, hay nói đúng hơn, dấu ấn sâu đậm của Chúa Thánh Thần, chẳng hạn nơi những chồi non của một ngọn cây mới nhú, nơi tiếng hót véo von của một loài chim nhỏ, nơi giấc ngủ thiên thần của một em bé. Chính là Thánh Thần tình yêu đã là nguyên nhân của công cuộc sáng tạo. Chính Thần Khí của Thiên Chúa đã làm cho mọi vật được sống động.

Hơn thế nữa, Chúa Thánh Thần còn kiện toàn công cuộc sáng tạo ấy và duy trì cái trật tự tuyệt vời trong vũ trụ. Sách Sáng Thế Ký đã ghi nhận: Thánh Thần Chúa bay lượn trên nước và trên vũ trụ đã được tạo thành, như một sức mạnh để bảo tồn và duy trì sự hài hòa cân đối. Thánh vịnh 32 cũng đã xác quyết:

Một lời Chúa phán, làm ra chín tầng trời.

Một hơi Chúa thở, tạo thành muôn tinh tú.

Vũ trụ đang phát triển và sẽ còn phát triển cho đến tận cùng thời gian. Không có Chúa Thánh Thần, thì tất cả chỉ là một đám hỗn mang, vô trật tự, vô tổ chức, không mục đích và chìm ngập trong tăm tối. Nhưng với Chúa Thánh Thần, vũ trụ sẽ đi vào một đường hướng nhất định và sẽ thực hiện được mục đích cuối cùng của mình: xuất phát từ Thiên Chúa, thì sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Chúng ta gọi Chúa Thánh Thần là Đấng Sáng Tạo, bởi vì Ngài đã làm nên và duy trì cái trật tự lạ lùng trong vũ trụ.

Lý do thứ hai đó là trong lãnh vực thiêng liêng, Chúa Thánh Thần đã khởi công và còn đang tiếp tục một cuộc tạo dựng mới cho loài người ân sủng, cho con người được cứu độ của chúng ta. Cuộc tạo dựng mới này được khởi đầu qua việc Ngôi Lời nhập thể dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Thực vậy, sứ thần Gabriel đã nói với Mẹ Maria: Uy quyền Thiên Chúa đã bao phủ bà và con trẻ do bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Đấng Tối Cao.

Thiên thần Chúa cũng đã nói với thánh Giuse trong giấc mộng như sau: Hỡi Giuse, đừng sợ. Hãy nhận lấy Maria làm vợ, vì Maria mang thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần.

Chính vì thế, trong kinh Tin Kính, chúng ta đã tuyên xưng: Người đã từ trời xuống thế, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần. Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người.

Và bây giờ, Ngài vẫn còn tiếp tục công cuộc sáng tạo ấy, bằng cách hướng dẫn, dìu dắt và thánh hóa các tâm hồn trong Giáo Hội. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta: Thầy đã xin với Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ mới. Ngài là Thần chân lý và sẽ ở cùng các con luôn mãi. Chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội và chọn lựa những người điều khiển Giáo Hội của Chúa.

Chúa Giêsu đã thực hiện và hoàn tất chương trình cứu độ, nhưng Chúa Thánh Thần mới là Đấng ban phát công nghiệp ấy cho chúng ta qua các Bí tích. Với một tình yêu bao la, Ngài đã theo chúng ta từ khi chúng ta mở mắt chào đời cho đến khi chúng ta nhắm mắt buông tay vĩnh biệt cuộc sống. Ngài không phải chỉ đi bên cạnh chúng ta, mà hơn thế nữa, còn ngự trị trong chúng ta, như lời thánh Phaolô: Anh em không biết rằng thân xác anh em là đền thờ cho Chúa Thánh Thần hay sao? Không một ngày nào, không một phút giây nào mà Chúa Thánh Thần chẳng ở bên chúng ta để trao ban cho chúng ta những ân huệ của Ngài.

Thánh Augustinô đã có lý khi nói: Như linh hồn ở trong thân xác thế nào, thì Chúa Thánh Thần cũng ở trong Giáo Hội, thân thể nhiệm mầu của Đức Kitô như vậy.

Khi mùa đông qua đi, mùa xuân trở lại, chúng ta thấy như có một sức sống mới tràn lan, khiến cho cây cối đâm chồi nẩy lộc. Cũng vậy, Chúa Thánh Thần ở trong chúng ta và ban cho chúng ta sự sống của Thiên Chúa. Việc thánh hóa và tạo dựng thiêng liêng này là một kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa: Ngài đã tạo dựng chúng ta một cách tài tình, nhưng Ngài còn cải tạo chúng ta một cách tài tình hơn nữa.

Bởi đó, hãy cộng tác với Chúa Thánh Thần, hãy để Ngài hoạt động hầu biến đổi chúng ta thành những con người mới, theo tinh thần của Chúa Giêsu, ngập tràn ân sủng và tình yêu.

41. Thần Khí.
Trong tiếng Hípri, người ta dùng cùng một chữ để diễn tả “gió”, “hơi thở” và “thần khí”. Cũng như người ta không thể nhìn thấy gió mà chỉ thấy hậu quả của nó. Thần Khí của Thiên Chúa chỉ được nhận ra nơi những người được tác động và làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa.

Hơi thở thì gắn bó chặt chẽ với sự sống; hơi thở là dấu chỉ của sự sống. Với phương pháo cấp cứu miệng qua miệng, chúng ta có thể đem lại sự sống cho một người mà phổi đã ngưng hoạt động, nhờ hơi thở ta.

Trong sách Sáng Thế, chúng ta đọc thấy Thiên Chúa thổi hơi vào Ađam và ông trở nên sống động. Khi Thiên Chúa chọn những người để thi hành các sứ vụ đặc biệt, chẳng hạn như ông Samson, vua Saun, vua Đavid và những người khác nữa, thì “thần khí của Thiên Chúa” cũng được ban cho họ. “Thần khí của Thiên Chúa” được xem như nguồn mạch của sự sống và của mọi thành tựu lớn lao của dân Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.

Trong bối cảnh này, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa việc Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ. Đó là dấu chỉ ngoài sự sống thể lý, họ còn lãnh nhận một sức sống thiêng liêng và họ được sai đi thi hành một sứ vụ lớn lao. Mọi sự đều biến đổi trong cuộc sống của họ. Sự sợ hãi đổi thành vui mừng và can đảm; sự dữ của tội lỗi bị đánh bại bởi quyền năng của ơn tha thứ. Khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta cũng được lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách đặc biệt. Chúng ta được tái sinh và được tuyển chọn để thi hành một sứ vụ đặc biệt. Chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Nghe có vẻ rất tốt đẹp, nhưng chúng ta có cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Thánh Thần trong chúng ta không?

Thực ra, Chúa Thánh Thần không phải là vấn đề của cảm xúc, nhưng là việc chúng ta có mở lòng ra để Thần Khí của Thiên Chúa tràn vào cuộc sống của mình. Đó là việc chúng ta có sẵn sàng từ bỏ mọi kế hoạch, mọi ý riêng, và không tự mình hướng dẫn mình nhưng để cho Thần Khí dẫn dắt chúng ta. Dĩ nhiên, đây là một cuộc mạo hiểm nhưng là một cuộc mạo hiểm đem lại sự giải thoát. Một khi để cho Thần Khí của Thiên Chúa ban sự sống, tăng cường sức mạnh, như chúng ta đã nhìn thấy nơi cuộc đời của các thánh tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần, thì cuộc sống của họ liền được biến đổi hoàn toàn. Tại sao không để cho Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong tâm hồn bạn, sử dụng quyền năng của Người mà biến đổi toàn diện cuộc đời của bạn?

Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ và cuộc đời của các ngài đã được biến đổi hoàn toàn. Giờ đây, xin Chúa cũng ban Chúa Thánh Thần xuống trên con để con vượt thắng mọi trở ngại mà trở nên một môn đệ can đảm của Chúa giữa trần gian.

42. Sức mạnh.
Khi đến giảng cho dân chúng tại Êphêsô, thánh Phaolô đã hỏi họ: “Anh chị em đã lãnh nhận Thánh Thần chưa”? Tất cả mọi người có mặt lúc đó đều ngạc nhiên, nhìn nhau không hiểu gì hết. “Thánh Thần là gì? Thánh Thần là ai? Chúng tôi chưa hề nghe thấy ai nói đến nhân vật xa lạ đó, phương chi là đã lãnh nhận hay không”. Đó là câu trả lời của những người ở Êphêsô khi nghe thánh tông đồ hỏi họ về Chúa Thánh Thần.

Đối với chúng ta, chắc chắn khác hẳn những người ở Êphêsô, chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, vì chúng ta đã chịu phép Rửa tội và Thêm sức. Nhưng có lẽ Chúa Thánh Thần vẫn còn là một nhân vật xa lạ trong tâm tư và trong cuộc sống của nhiều người chúng ta. Nói rằng chúng ta không nghe nói hoặc không biết gì về Chúa Thánh Thần thì không đúng, may ra chỉ biết hơn những người ở Êphêsô một chút thôi. Chúng ta đã được học về Chúa Thánh Thần, nhưng học quá sơ sài, quá vội vàng một chương sách giáo lý về Chúa Thánh Thần ngày chúng ta học giáo lý để rước lễ lần đầu hay thêm sức. Rồi từ đó, có lẽ Chúa Thánh Thần đã thành một người khách quý ghé thăm một lần xa xưa mà không để lại địa chỉ, thậm chí còn có thể tưởng tượng là Chúa Thánh Thần đã đến có một lần rồi đi luôn. Trong khi đó Chúa Thánh Thần có liên hệ thật sâu xa đến đời sống của Giáo hội và cuộc đời mỗi người chúng ta.

Tất cả chúng ta đều biết Chúa Thánh Thần là ngôi thứ ba, vì thế, chắc chắn không ai hiểu lầm là Chúa Thánh Thần chỉ bắt đầu có từ lễ Hiện Xuống, và cũng không phải đợi tới ngày Chúa Giêsu Phục sinh hoặc ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần mới bắt đầu hoạt động nơi trần thế, nhưng ngay từ đầu lịch sử loài người, Ngài đã hoạt động, chỉ khác là trong Cựu ước, Ngài chưa hoạt động công khai, và người ta cũng chưa biết rõ Ngài. Với biến cố Hiện Xuống, mọi người hiểu thêm, hiểu rõ về Ngài và hoạt động của Ngài.

Quả thực, ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống thật là quan trọng, vì đánh dấu bắt đầu một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần, kỷ nguyên áp dụng ơn cứu độ. Bởi vì như Chúa Giêsu đã xác quyết với các môn đệ: Ngài vẫn tiếp tục ở với các ông, Ngài ở với các ông không bằng thân xác hữu hình nữa, nhưng cách thiêng liêng, nghĩa là bằng Chúa Thánh Thần. Như vậy, Chúa Thánh Thần nối dài sự hiện diện của Chúa Giêsu nơi trần gian, nên Ngài cũng tiếp nối công trình của Chúa Giêsu, và đưa công trình ấy đến chỗ hoàn thành, tức là công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu vẫn được tiếp tục thực hiện dưới sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.

Quả thực, chúng ta thấy lịch sử Giáo hội là một chuỗi dài những tác động của Chúa Thánh Thần. Khởi đầu với các tông đồ, ngày lễ Hiện Xuống, các ông đã lãnh nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy đã khiến cho các ông ra khỏi bản thân khép kín và sợ hãi để đi khắp nơi loan báo Tin Mừng và lấy cái chết làm chứng cho Tin Mừng. Trước đây, ai cũng nghĩ rằng: các môn đệ tầm thường ấy không thể làm nên trò trống gì, nhưng lịch sử cho thấy các ông đã thực sự làm thay đổi thế giới. Rồi xuyên suốt hai ngàn năm qua, biết bao người đã tiếp nối sứ mạng của các tông đồ để Giáo hội được đứng vững và phát triển, tất cả cũng đều nhờ vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Cho tới ngày hôm nay, sức mạnh của Chúa Thánh Thần vẫn còn được ban cho Giáo hội và mỗi người chúng ta, vẫn còn là sức sống của Giáo hội và mỗi người chúng ta. Không phải là sức mạnh chuyển núi rời sông, chuyện này từ xưa vua Pharaon của Ai Cập đã làm được, khi trưng dụng hàng ngàn nô lệ vào công việc phá núi, chuyển đá, dựng nên các kim tự tháp. Và ngày nay, người ta dùng mìn nổ, máy xúc đất, máy hút bùn, cần trục… thừa sức làm hơn các Pharaon.

Nhưng không một sức mạnh nào của khoa học kỹ thuật hay quyền lực thế gian… làm mềm được trái tim con người đã thành sắt đá, hay chuyển đổi con người từ cõi âm u, của lạnh nhạt, ghen ghét, hận thù qua miền ánh sáng của tình nghĩa, của yêu thương. Chỉ “quyền năng của Chúa Thánh Thần”, chỉ sức mạnh của lòng tin bằng hạt cải ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay có thể đẩy một Kôn-bê bước lên mấy bước để tình nguyện chết thay cho một bạn tù còn trách nhiệm với một vợ và bảy con. Hoặc là có thể đưa một bà cụ trên 80 tuổi như mẹ Têrêxa Calcútta tiếp tục đi từ nước này đến nước khác, kể cả Việt Nam, để phục vụ những con người khốn khổ nhất. Hoặc là có thể khiến một dì Hai Bến Sắn, chỉ nắm lấy tay, nói một lời, là đưa được anh người phong nào đó”dữ lắm”, không vừa ý ai là anh cắn, ngay cả đến công an cũng chịu thua anh, từ chợ Bến Thành trở về trại phong Bến Sắn.

Chỉ quyền năng Chúa Thánh Thần, chỉ sức mạnh của lòng tin ngày hôm nay cũng có thể khiến từng em bé bẻ đôi chiếc bánh ngọt chia cho bạn mình ở sân trường, hoặc là đẩy người hàng xóm vượt qua được khoảng đường hẻm, chỉ rộng không quá hai mét, nhưng sẵn tỵ hiềm cao hơn núi, nghi kỵ sâu hơn sông, để chào hỏi người hàng xóm ở đối diện nhà mình. Chính sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã giúp cho lòng chung thủy thầm kín của vợ chồng với nhau, đã giúp cho các bà mẹ gia đình chu toàn bổn phận trong âm thầm, đã tăng nghị lực, can đảm cho người bạn trẻ chống lại các cám dỗ, đã giúp cho người tín hữu ham thích cầu nguyện trong thinh lặng, kiên nhẫn trong lúc đau khổ và vui mừng vì có lương tâm ngay thẳng… Chúng ta có thể kéo dài bảng thống kê này thành một bài mô tả tất cả đời sống Kitô hữu. Đó là công trình của Chúa Thánh Thần đang tác động trong thế giới và nơi mỗi người.

Tóm lại, trong mạch sống của Giáo hội, tác động của Chúa Thánh Thần thật vô cùng quan trọng cho Giáo hội cũng như cho mỗi người để sống đức tin và bác ái. Nhưng chúng ta hãy nhớ: Chúa Thánh Thần là Đấng phù trợ, nghĩa là nâng đỡ, trợ giúp chúng ta chứ không làm thay chúng ta. Chúng ta phải cố gắng làm hết sức mình, hết khả năng mình, phải học hỏi, phải nghiên cứu, phải thực hiện hết sức mình, Chúa Thánh Thần sẽ phù trợ thiện chí của chúng ta, Ngài không làm thay chúng ta. Nói cách khác, chúng ta phải hợp tác với Chúa và sử dụng mọi phương tiện thông thường Ngài ban trước khi chúng ta cầu xin Ngài can thiệp vào một số trường hợp đặc biệt. Ai trong chúng ta cũng biết câu châm ngôn cổ xưa: “Hãy tự giúp mình trước, rồi trời sẽ giúp mình sau”, và như thế có thể nói: Chúng ta phải tự mình làm trước, rồi Chúa Thánh Thần sẽ trợ giúp cho.

43. Ngôn ngữ tình yêu.
Tôi xin bắt đầu phần chia sẻ sáng hôm nay bằng câu chuyện về ngọn tháp Babel trong Cựu ước.

Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau:

- Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, trước khi phân tán tới mọi miền trên mặt đất.

Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng này, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả.

Đây chỉ là một hình ảnh tượng trưng nói lên tính kiêu căng và tình trạng chia rẽ của con người.

Thế nhưng, nhìn vào ngày lễ hôm nay, chúng ta thấy khác hẳn. Thực vậy, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một tình trạng mới đã được nảy sinh.

Sách Tông đồ Công vụ kể lại:

Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đỗ trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.

Trong thời gian lễ Ngũ tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các nơi trở về Giêrusalem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì mỗi người đều nghe các tông đồ nói tiếng của mình.

Họ ngạc nhên và bàn tán cùng nhau:

- Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa.

Đây chính là một cuộc tụ họp đông đảo kể từ thời ngọn tháp Babel, trong đó mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau. Sở dĩ như vậy là do tác động của Chúa Thánh Thần.

Qua hình ảnh lưỡi lửa và ơn nói nhiều thứ tiếng nơi các tông đồ, tôi nhận thấy ngôn ngữ Chúa Thánh Thần đã dùng để liên kết và tạo lấy sự cảm thông chính là thứ ngôn ngữ của tình yêu.

Thiếu vắng Ngài, thiếu vắng tác động của Ngài, hay nói đúng hơn, thiếu vắng tình yêu, chúng ta không thể hiểu biết nhau, xích lại gần nhau và cảm thông với nhau, để rồi hận thù sẽ bùng nổ.

Vào năm 1887, một người Ba Lan tên là Zamenhof, đã tạo ra và cổ động cho một thứ ngôn ngữ quốc tế, để mọi người có thể sử dụng một cách dễ dàng. Tuy nhiên, thứ ngôn ngữ quốc tế này đến nay vẫn giậm chân tại chỗ và thế giới vẫn còn tràn ngập những hận thù và chiến tranh. Sở dĩ như vậy vì người ta không sử dụng thứ ngôn ngữ của tình yêu và không đặt tình yêu làm nền tảng cho mọi mối liên hệ.

Tôi nghĩ rằng tình yêu chân chính, được coi như là hoạt động của Chúa Thánh Thần, sẽ là một thứ ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được. Nó không phải chỉ được nói bằng lời, bằng tiếng, mà còn được nói bằng thái độ, bằng cử chỉ, bằng việc làm và bằng cả cuộc sống ngập tràn tình bác ái của mình.

Thực vậy, ai trong chúng ta cũng có thể hiểu được một ánh mắt thông cảm, một cử chỉ thân thiện, hay một việc làm giúp đỡ. Thứ ngôn ngữ tình yêu này không phải chỉ giúp chúng ta hiểu được nhau, mà hơn thế nữa, còn giúp chúng ta hiểu được chính Thiên Chúa và tiến đến với Ngài. Vì Thiên Chúa là gì, nếu không phải là tình yêu như thánh Gioan đã định nghĩa.

Rất nhiều khi nhờ những hành động bác ái yêu thương mà những kẻ tội lỗi biết đường ăn năn trở về cùng Chúa.

Trong đời sống gia đình cũng như trong sinh hoạt xã hội, đừng nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù, của đấm đá. Đừng nói với nhau bằng ngôn ngữ của chia rẽ, của nghi kị.

Nhưng hãy nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của tình yêu, ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần. Vì ngôn ngữ của tình yêu chính là ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần, là thứ ngôn ngữ tạo được sự cảm thông và là thứ ngôn ngữ bất cứ ai cũng có thể hiểu được.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa.

44. Sức mạnh.
Có một câu chuyện kể rằng: Một hôm thần dữ Satan triệu tập tất cả các sứ giả của hắn lại, để sai đến trần gian với sứ mạng duy nhất là giải thích cho con người biết Thiên Chúa đã chết rồi. Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả trở về. Thần dữ Satan ngạc nhiên hỏi: “Tại sao các ngươi thực hiện công tác nhanh như thế, hay là có chuyện gì trục trặc?”. Các sứ giả đồng thanh đáp: “Thưa ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi chúng tôi đi qua trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên Chúa đã chết thật rồi. Họ ghen ghét nhau, họ gian tham, trộm cắp, sa đọa, họ chém giết nhau... không có gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này, mà ngược lại như là loan báo Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy chúng ta đâu cần tốn công thuyết phục con người nữa”.

Con người sống như thể Thiên Chúa đã chết. Đó là một lời cảnh tỉnh nghiêm trọng đáng cho chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, suy nghĩ để kiểm điểm lại đời sống của mình. Vài chục năm gần đây, người ta tỏ ra lo ngại cho Giáo hội, khi thấy có một số đông Kitô hữu tại nhiều nước Au Châu dửng dưng với đạo. Đạo hầu như chẳng còn ảnh hưởng gì đối với họ; đạo hầu như đứng ngoài cuộc sống của họ. Phải chăng Kitô giáo đã qua những ngày hưng thịnh và đang đi vào giai đoạn lụi tàn? Phong trào “thời mới”, một phong trào mang tính tôn giáo huyền bí hàm hồ, đang phát triển tại Mỹ và Au Châu xác tín rằng: kỷ nguyên Kitô giáo sắp qua đi và một kỷ nguyên mới với một tôn giáo mới đang xuất hiện.

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến trần gian để thi hành sứ mạng cứu chuộc loài người. Ngài đã sống kiếp người như chúng ta, Ngài đã giảng dạy, loan báo Tin Mừng. Cuối cùng, Ngài đã chấp nhận đau thương và chết nhục nhã trên thập giá để hoàn tất sứ mạng cứu chuộc của Ngài. Ngài đã chết thật, nhưng không phải là chết luôn, trái lại, Ngài đã sống lại và sống mãi. Ngài vẫn hiện diện trên trần gian dưới nhiều hình thức, đặc biệt là qua Chúa Thánh Thần.

Quả thực, ngay từ khi tại thế, Chúa Giêsu đã sống dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, nhưng Ngài chưa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Chúa Giêsu phải ra đi, rồi mới cử Thánh Thần đến với họ được, nghĩa là Ngài phải được tôn vinh, mới có thể ban Thánh Thần cho họ. Vì thế, ngay buổi chiều ngày Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra thổi hơi vào các môn đệ và ban Thánh Thần cho họ; đồng thời ban cho họ quyền tha tội. Như vậy, Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần, và các tông đồ đã nhận được Chúa Thánh Thần ngay chiều ngày Phục sinh.

Tuy nhiên, để đánh dấu việc các tông đồ thực sự thoát khỏi tình trạng “khép kín” vì sợ hãi hay nuối tiếc quá khứ, và “mở cửa” lao mình về phía trước để công bố Tin Mừng Phục sinh cho các dân tộc, đem ơn hòa giải đến cho mọi người, hầu qui tụ mọi người vào trong đại gia đình của Thiên Chúa... Chúa Thánh Thần đã hiện xuống với các tông đồ một cách long trọng và rõ ràng với những dấu hiệu bề ngoài như gió thổi mạnh, lưỡi lửa xuất hiện trên đầu họ. Gió và lửa là những dấu hiệu để chứng tỏ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Và liền theo đó, mọi người được tràn đầy Chúa Thánh Thần.

Như vậy, Chúa Thánh Thần đã đến với các tông đồ, đã biến đổi họ thành những con người mới, đã tác động nơi họ để họ trở thành những chứng nhân cho Đức Kitô và loan báo Đức Kitô cho mọi người. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa và ngọn lửa Ngài đậu trên đầu các tông đồ không gì khác chính là ngọn lửa tình yêu. Chính ngọn lửa đó đã thúc giục các tông đồ mở toang cánh cửa đã đóng kín vì sợ hãi, để mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng tình yêu. Từ đó cho đến nay, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hoạt động nơi từng con người thiện chí, từng Kitô hữu, đang hăng say hoạt động để đem chân lý, bình an, yêu thương và hy vọng đến với những người chung quanh.

Mỗi người Kitô hữu hôm nay cũng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi chịu phép Rửa tội và Thêm sức. Nhưng chúng ta đã cộng tác với Chúa Thánh Thần thế nào? Chúng ta có để Chúa Thánh Thần gọt giũa, loại bỏ khỏi chúng ta tính ích kỷ, hẹp hòi không? Chúng ta đã làm gì và đang làm gì cho thế giới này, cho những người sống chung quanh chúng ta được sưởi ấm bởi ngọn lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận? Thật là đau đớn cho Thiên Chúa và Giáo hội khi những người mang danh Kitô hữu, những môn đệ của Chúa, lại sống ích kỷ, ghen ghét nhau, cạnh tranh nhau... Nếu ngày nay biết bao người chưa biết đến tình yêu thương của Chúa, có lẽ một phần trách nhiệm là do chúng ta; có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà nhận rằng: vì chúng ta chưa sống tốt, chưa làm chứng nhân, vì trong chúng ta còn nhiều ích kỷ, nhỏ nhen, hẹp hòi...

Mừng lễ Chúa Thánh Thần, Giáo hội nhắc nhở chúng ta vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống từng người chúng ta, và mời gọi chúng ta cùng cộng tác với Chúa Thánh Thần để đổi mới chính mình, đổi mới cuộc sống của mình, để cuộc đời chúng ta trở thành chứng tá cho Thiên Chúa tình yêu. Chúng ta phải dùng chính cuộc sống tốt lành của mình để làm chứng cho Thiên Chúa hằng sống, để xác quyết rằng: Thiên Chúa đang sống và đang hành động trong trần gian.

45. Cầu nguyện.
Trong các Tin Mừng, chúng ta có được một phần trong lời cầu nguyện long trọng của Đức Giêsu tại bữa Tiệc Ly. Ở đây, Người cầu nguyện cho các môn đệ, mà Người sắp bỏ lại, để thực hiện công trình của Người. Tương tự như Chúa Cha đã sai Đức Giêsu đi vào thế gian này, Đức Giêsu cũng sai các môn đệ đi khắp thế giới. Họ phải mang lời của Người đến với những kẻ khác. Trong suốt bữa Tiệc Ly, khi biết rằng chẳng bao lâu nữa. Người sẽ rời bỏ họ, Đức Giêsu đã cầu nguyện với Cha trên trời cho họ. Người cũng cầu nguyện cho cả chúng ta nữa. Người cầu xin những ơn gì vậy?

Người cầu xin cho họ giữ được lòng trung thành “Xin giữ các môn đệ mà Cha đã ban cho con trong danh Cha”. Công việc của chúng ta không phải là sự thành công, nhưng chỉ cần lòng trung thành mà thôi.

Người cầu xin cho sự hiệp nhất giữa họ: “Để họ nên một như Cha và Con là một”. Sự không hiệp nhất giữa các môn đệ ảnh hưởng xấu đến việc làm chứng của họ.

Người cầu xin cho họ được thánh hiến trong sự thật: “Xin cho họ được thánh hiến trong sự thật”. Sự thật ở đây là Đức Giêsu chính là Đấng mặc khải về Thiên Chúa vô hình.

Và Người cầu xin cho họ được chiến thắng vượt lên trên sự dữ: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần”. Các môn đệ được sai đi để thách đố thế gian, để chuyển từ bóng tối đến ánh sáng. Trong việc mang lời chứng, họ phải chuẩn bị để chịu sự ghét bỏ của thế gian.

Như vậy, Người cầu xin cho lòng trung thành, hiệp nhất, sự thật và chiến thắng vượt lên trên sự dữ.

Người nhìn thấy trước rằng cuộc sống sẽ khó khăn đối với họ, nhưng Người không cầu xin cho họ được miễn phải chịu đựng thử thách và đau khổ, nhưng cầu xin cho họ giữ được lòng trung thành, bất chấp những yếu tố đó. Người không đưa ra cho họ một lối giải thoát khỏi các vấn đề, nhưng cầu xin cho họ sức mạnh để đương đầu với những vấn đề đó.

Thật sai lầm khi than phiền với Thiên Chúa về những rắc rối của chúng ta. Thiên Chúa ở với chúng ta trong những lúc chúng ta bị thử thách. Chúng ta phải hướng tới Người, trong những lúc gặp rắc rối, để được an ủi, sức mạnh, kiên nhẫn và hy vọng.

Đây là cách Mà Đức Giêsu đã cầu nguyện cho các tông đồ của Người, và cũng là cách mà chúng ta nên cầu nguyện. Chúng ta cầu xin không phải để được miễn chịu thử thách, nhưng xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta đương đầu với bất cứ thử thách nào, mà cuộc đời gửi đến chúng ta.

46. Yêu thương nhau.
Một người đàn ông đi đến cổng thiên đàng, tại đó, ông gặp thánh Phêrô và Kẻ Biện Hộ cho ma quỉ. Cả hai người đều xem xét bản báo cáo của ông ta.

Kẻ biện hộ cho ma quỉ nói “Ông ta không phải là một người nhiệt thành lắm. Ông ta quá lơ đễnh và vô tư. Ông ta có thể làm được nhiều điều tốt đẹp hơn cho bản thân”.

Thánh Phêrô nói “Đúng vậy. Ông ta có thể kiếm được nhiều tiền, nhưng ở đây, tôi nhận thấy rằng ông ta là một người hàng xóm tốt, luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác”.

Kẻ biện hộ cho ma quỉ nói “Nếu ngài hỏi tôi, tôi sẽ nói rằng ông ta quá hào phóng về tài sản riêng của ông ta. Người ta nhìn vào ông ta như là một người quá dễ tiếp cận, thậm chí còn hơi điên rồ nữa”.

Thánh Phêrô nói “Có lẽ ông ta hơi hào phóng. Và sự thật là đôi khi, người ta lợi dụng được ông ấy. Nhưng đó không phải là một tội”.

Kẻ biện hộ cho ma quỉ vội vàng bổ sung “Ồ, ông ta cũng phạm tội nữa. Đôi khi, ông ta vẫn có thể dập tắt được cơn nóng giận của ông ta, và khi làm như vậy, ông ta vẫn có thể sử dụng một số ngôn ngữ chọn lựa chứ”.

Đến đây, thánh Phêrô trả lời “Nhưng tôi nhận thấy ông ta không hề giữ lòng hận thù hoặc bất mãn. Ông ta nhìn vào mối hận thù như là một thứ thuốc độc vậy. Đối với ông ta, bất cứ lối trả thù nào cũng đều đáng căm ghét cả”.

Kẻ biện hộ cho ma quỉ kháng cự lại “Nhưng ông ta không phải là một người đạo đức cho lắm. Không có dấu hiệu nào cho thấy ông ta được gọi là một con người thánh thiện. Và chắc chắn rằng không một người nào có thể được vào thiên đàng, mà không sống thánh thiện”.

Thánh Phêrô phản đối “Đúng vậy, nhưng sống thánh thiện có nghĩa là gì vậy? Đối với tôi, rõ ràng chúng ta đang giải quyết cho một người không có khả năng gây đau khổ cho người khác, một con người có lòng thương xót, hết sức trung thực trong tất cả mọi hành động, tôi sẽ để cho ông ta vào”.

Kẻ biện hộ cho ma quỉ kêu lên “Xin ngài chờ một phút! Tôi chưa nói xong. Ông ta còn một tội khác nữa, mà tôi sắp nói ra đây”

Thánh Phêrô nói cụt ngủn “Tôi không muốn nghe nói về bất cứ lỗi nào của ông ta nữa. Tôi chỉ thích một điểm duy nhất: Ông ta là một con người tử tế, một người biết yêu thương. Đó là một điều quan trọng. Và thế là đủ rồi”.

Với câu nói đó, ngài để cho người đàn ông này đi vào thiên đàng.

Thánh Gioan nói với chúng ta rằng Thiên Chúa là tình yêu (Bài đọc 2). Chính Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước. Thiên Chúa không yêu thương chúng ta bởi vì chúng ta tốt lành. Và bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên chúng ta phải yêu thương nhau. Chúng ta bày tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa, bằng cách yêu thương nhau.

Thánh Phêrô nói “Tình yêu thương che lấp được rất nhiều tội lỗi...”. Khi Phêrô chối Đức Giêsu, Người đã không hề xua đuổi ông đi. Người vẫn tiếp tục yêu thương ông. Và Người đòi hỏi Phêrô phải đáp trả lại điều gì? “Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy”. Nói cách khác, Người đòi hỏi ông phải chứng tỏ lòng mến của ông, bằng cách chăm sóc những anh chị em trong cộng đoàn.

Cuộc sống của Kitô hữu không phải là sự theo đuổi các nhân đức đưa dẫn tới sự hoàn thiện của tình yêu, nhưng là một quá trình bắt đầu bằng tình yêu, và phát triển đến mức độ hoàn hảo, khởi sự từ điểm bắt đầu này. “Căn bệnh lớn nhất của thế giới ngày nay, đó là sự thiếu vắng tình yêu” (Mẹ Têrêsa). Tình yêu là tất cả mọi sự. Tình yêu đòi hỏi điều tốt đẹp nhất nơi chúng ta, và mang lại cho chúng ta điều tốt đẹp nhất.

47. Hiện hữu mới.
Trong thời Thế Chiến II, có rất nhiều binh lính đóng đô trên những hòn đảo ngoài Thái Bình Dương. Trong thời điểm đầu của thế chiến, các binh lính phải sống trong những túp lều và ăn uống trong những dãy nhà bê bối không có tủ lạnh hay những tiện nghi.

Những chuyên viên dinh dưỡng của chính phủ muốn cho các binh sĩ này có những thức ăn như sữa và trứng. Thế nhưng, điều này không thể thực hiện, bởi vì không có tủ lạnh để chứa. Nếu những binh sĩ muốn những thức ăn như thế, thì những thức ăn này phải được biến đổi thành trạng thái khác mà không cần đến tủ lạnh.

Và như thế, một loại thức ăn mới đã được biến chế: thức ăn bột. Trứng và sữa đã được biến dạng thành bột, đóng hộp, và di chuyển đến những binh sĩ ngoài Thái Bình Dương.

Chỉ cần quậy thức ăn bột với nước lã là các binh sĩ sẽ có trứng và sữa trong một hình thể mới - một hình thể mà có thể dọn bữa hằng ngày mà không cần đến tủ lạnh.

Câu chuyện trứng sữa có liên quan gì đến Ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống chúng ta mừng kính hôm nay?

Lễ Hiện Xuống đánh dấu một thời điểm mà Thiên Chúa bắt đầu ngự trị giữa dân Ngài trong một hình thức hoàn toàn mới mẻ.

Qua 30 năm, Thiên Chúa đã ngự giữa dân Ngài bằng hình thức con người Chúa Giêsu. Thế nhưng, Chúa Giêsu thật sự là một con người, sự hiện diện của Ngài giữa dân Thiên Chúa bị giới hạn chỉ trong quãng cuộc sống nhân loại mà thôi.

Quả thật, nếu Thiên Chúa còn tiếp tục ngự trị giữa chúng ta sau quãng đời sống của Chúa Giêsu, thì sự ngự trị này phải bằng một hình thức khác với thân xác nhân loại.

Lễ Hiện Xuống đánh dấu một thời điểm khi Thiên Chúa khởi đầu ngự trị giữa chúng ta trong một hình thức hoàn toàn mới lạ, không phải qua con người thể xác của Chúa Giêsu, nhưng trong sự hiện diện thần linh của Chúa Thánh Thần.

Và như thế, câu truyện biến chế sữa và trứng cho chúng ta một khái niệm về việc biến dạng của sự hiện diện Thiên Chúa giữa chúng ta được bắt đầu vào Ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

Tuy thế, Lễ Hiện Xuống còn đánh dấu sâu xa hơn cuộc biến dạng của sự hiện diện Thiên Chúa giữa chúng ta. Nó còn đánh dấu sự biến dạng của sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa chúng ta. Giờ đây Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta cũng trong một hình thể khác.

Giờ đây, Ngài hiện diện giữa chúng ta không phải như là một người sống bên chúng ta, nhưng mà là một người sống trong chúng ta.

Đấy chính là những gì Chúa Giêsu có ý muốn nói khi Ngài phán dạy các môn đệ của Ngài, "Ta ra đi, thì ích lợi hơn cho các ngươi." Và lại một lần nữa, khi Ngài dạy họ, "Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu; Ta sẽ "lại" đến với các ngươi."

Và như thế, Lễ Hiện Xuống đánh dấu một thời điểm khi Thiên Chúa và Chúa Giêsu khởi đầu ngự trị giữa chúng ta trong một hình thức hoàn toàn mới lạ.

Ngoài việc là ngày khởi đầu của sự hiện diện mới của Thiên Chúa giữa từng cá nhân chúng ta, nó còn chính là ngày khởi đầu của sự hiện diện mới của Thiên Chúa giữa chúng ta nói chung. Vì chưng, Chúa Giêsu ngự trong chúng ta, chúng ta được liên kết với Ngài trong một hình thức mới. Chúa Giêsu phán với các môn đệ của Ngài trong bữa Tiệc Ly:

"Đến ngày ấy "khi Thánh Thần đến" các con sẽ nhận biết rằng Ta ở trong Cha và các con ở trong Ta cũng như Ta ở trong các con vậy."

Và qua việc liên kết mới của chúng ta với Chúa Giêsu đó, giờ đây chúng ta hiệp thành một nhiệm thể với Ngài. Thánh Thần liên kết chúng ta nên những gì mà Thánh Phaolô gọi là Thân Thể Chúa Kitô.

Quả thật, Lễ Hiện Xuống không chỉ là ngày khởi sự của sự hiện diện mới của Thiên Chúa giữa từng cá nhân chúng ta, nó còn chính là ngày khởi sự của sự hiện diện mới của Thiên Chúa giữa chúng ta nói chung.

Nó chính là ngày sinh nhật của Thân Thể Chúa Kytô, là Giáo Hội. Nó cũng chính là ngày sinh nhật của một gia đình Thiên Chúa mới.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận biết rằng mối dây liên kết mới này nói cho chúng con một trách nhiệm mới. Trách nhiệm đó là việc truyền bá Phúc Âm không chỉ trong giáo xứ chúng con nhưng còn khắp tận cùng trái đất.

48. Suy niệm của Lm. Lê Quốc Thăng.
Từ Pentêkostê chỉ có 2 lần được nhắc đến trong Cựu ước (Tobia 2, 1 và ở 2 Mcb 12, 31- 32). Từ này xuất xứ từ tiếng Hy-lạp, là một tính từ để chỉ thứ “50”; hiểu ngầm từ Hêmera, tức là “ngày thứ 50”. Từ này dùng để dịch từ Hipri hag schabu’ôt, tức là ngày lễ lớn của người Do-thái: Xh 23, 14- 17; Đnl 16, 16: “mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của anh em phải đến trình diện Đức Chúa, ở nơi Người chọn: vào dịp lễ bánh Không Men lễ Ngũ Tuần và lễ Lều. Người ta sẽ không đến trình diện Đức Chúa hay không nhưng mỗi người sẽ đem lễ vật theo khả năng, tuỳ theo phúc lành Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em.

Lề luật ban đầu còn mù mờ nhưng thường gắn bó với mùa gặt (Xh 34, 22). Theo Đnl 16, 9 người ta tính 7 tuần lễ từ ngày lưỡi liềm cắt giá lúa đầu tiên. Theo Lv 29, 15- 16 người ta tính 7 tuần lễ sau ngày dâng giá lúa đầu tiên lên Đức Chúa. Như thế lễ này là lễ Tạ ơn sau mùa gặt, hơn là dính dáng đến Lễ Vượt Qua. Điều này nhắc dân chúng về việc Đức Chúa đã ban Đất hứa, đã định cư và được mùa. Nghi thức chính yếu của nghi lễ này là dâng các của lễ Đầu Mùa: Ngươi cũng sẽ giữ tục lệ mừng lễ mùa gặt, lễ dâng của đầu mùa, do sức lao động của ngươi làm ra do công ngươi giao nắng ngoài đồng” (Xh 23, 16). “Ngươi sẽ mừng lễ các Tuần, dâng lúa mì đầu mùa” (Xh 34, 22). Sách dân số gọi ngày này là “Ngày hoa trái đầu mùa”. “Ngày hoa trái đầu mùa, khi dâng tiến Đức Chúa lễ phẩm mới vào lễ các Tuần” (Ds 28, 26). Theo sách Lêvi người ta dâng 2 bánh dậy men và nhiều lễ vật khác: “Các ngươi phải đem đến hai chiếc bánh để làm nghi thức tiến dâng, bánh làm bằng chín lít tinh bột và trộn men mà nướng: “đó là của đầu mùa dâng Đức Chúa” (Lv 23, 15- 20).

Chúng ta thấy lễ Ngũ Tuần chỉ là một lễ gắn liền với mùa gặt của dân định cư, không dính dáng gì đến lịch sử cứu độ. Nhưng sau thời lưu đày ở Babylon, nhiều địa phương đã gắn lễ này với giao ước Sinai. Tác giả quyển 2 Sử biên niên (16, 10- 15) cho thấy dân chúng lập lại lời thề trung thành với giao ước Sinai, vào tháng thứ ba dưới triều đại vua Asa. Nhóm Qumran cũng lấy lễ Ngũ Tuần làm ngày lễ lập lại lời giao ước Sinai.

Theo phụng vụ phương Tây, lễ này gắn kết với lễ Đầu Mùa: Đấng Phục sinh dâng lên Thiên Chúa Cha của lễ đầu mùa của mình trong ngày lễ Hiện xuống và mời tất cả môn-đệ của mình vào bàn Tiệc Thánh. Vì thế cho đến mãi thời Trung Cổ, lễ này là một trong ba ngày lễ buộc phải rước lễ. Chủ đề mùa gặt cũng như chủ đề về Thánh Thần như là hồng ân của ngày cánh chung được nổi bật trong thánh lễ này. Tại Rôma, thánh lễ này là thời điểm thứ hai để làm phép rửa tội cho các em bé, Giáo Hội Rôma chỉ rửa tội một lần trong đêm vọng phục sinh. Nhưng nếu có dự tòng nào bị bệnh đi xa chưa về kịp phải đền tội, phụ nữ ở cử, trọn ngày có thắng…thì rửa tội cho họ vào ngày lễ Hiện xuống.

I. Gợi Ý Bài Giảng

1. Chúa Thánh Thần Với Thế Giới: Giáo Hội luôn khẩn cầu: ‘Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến đổi mới mặt Địa cầu’ Trong Hiến Chế Gaudium et Spes số 38, Công đồng Vat. II đã minh xác: “Đức Kitô hoạt động trong lòng con người nhờ quyền năng Thánh Thần của Người không những bằng cách khơi dậy những khát vọng đời sau, nhưng còn từ những khát vọng đó cổ võ, tinh luyện và củng cố những ước vọng quảng đại thúc đẩy gia đình nhân loại biến cải cuộc sống của mình trở nên nhân đạo hơn và qui phục trái đất về cùng đích ấy. Quả thực ơn Chúa Thánh Thần tác động mỗi người một khác: có những người được gọi làm chứng nhân tỏ tường cho sự mong đợi quê trời bảo tồn chứng tích sống động trong gia đình nhân loại, một số khác được gọi để hiến thân phục vụ con người trong phạm vi thế trần, dùng sự phục vụ ấy chuẩn bị chất liệu cho nước trời. Người giải thoát tất cả, để sau khi từ bỏ lòng vị kỷ và tập trung mọi năng lực trần thế cho cuộc sống con người, tất cả hướng về ngày mai, ngày mà nhân loại trở nên của lễ đẹp lòng Thiên Chúa.” Thế giới này, với biết bao nỗ lực của nhân loại đang xây dựng những điều tốt đẹp, chắc chắn sẽ không bị phá hủy nhưng được đổi mới nhờ Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đang hiện diện và tác động nơi những con người đang hết lòng cổ võ, xây dựng hòa bình và công lý; Chúa Thánh Thần đang hiện diện và tác động trong những gì là Chân-Thiên-Mỹ nơi các tôn giáo và các nền văn hóa.

Giáo Hội và các Kitô hữu có trọng trách làm cho ơn Chúa Thánh Thần nảy sinh những hoa trái tốt đẹp cho con người và thế giới hôm nay. Cần phải đọc ra sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần nơi các tôn giáo, các nền văn hóa, nơi những anh em ngoài tôn giáo mình để biết tôn trọng và nhiệt thành cộng tác trong công cuộc xây dựng thế giới.

2. Chúa Thánh Thần Với Giáo Hội: Giáo Hội được khai sinh vào ngày lễ Ngũ Tuần, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ. Khi Chúa Giêsu thổi hơi trên các Tông đồ và ban Chúa Thánh Thần cho thấy rằng: sức sống và hơi thở của Giáo Hội là Chúa Thánh Thần. Nhờ Chúa Thánh Thần Giáo Hội mới trường tồn, nơi Ngài Giáo Hội mới phát triển và không ngừng canh tân. Lịnh sử Giáo Hội đã minh chứng điều đó, một Công Đồng Vaticanô II thành công rực rỡ không ai có thể phủ nhận đó chính là luồng gió Chúa Thánh Thần thổi vào Giáo Hội. Mọi hoạt động của Giáo Hội đều phát xuất và được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng chính là tác nhân chính thúc đẩy Giáo Hội ra khơi theo lệnh truyền của Thầy Chí Thánh. Sức sống và tình yêu của Ngài giúp cho Giáo Hội và từng người trong Giáo Hội, đặc biệt là các vị Thừa sai có khả năng hội nhập, đi vào trong từng con tim của con người, vào từng dân tộc, từng nền văn hóa khác nhau để thực sự trở nên muối men và ánh sáng cho con người và cho thế giới. Có Chúa Thánh Thần Giáo Hội sẽ không đứng bên lề thế giới nhưng sẵn sàng nhập cuộc cùng thế giới để làm cho hướng đi của nhân loại ngày càng tiến về một trời mời đất mới.

3. Chúa Thánh Thần Với Kitô Hữu: Thánh Tông đồ khẳng định: anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Là đền thờ có nghĩa là nơi cư ngụ, Chúa Thánh Thần đang ở trong mỗi người. Ngài ở trong chúng ta không phải một cách thụ động như khách tạm trú qua đường nhưng rất tích cực hoạt động nơi mỗi người. Kinh Thánh đã cho thấy sự họat động của Ngài như thế nào: hướng dẫn, ban ơn trợ lực, ban sự sống, thánh hóa, bầu chữa, an ủi … Toàn bộ cuộc sống của người Kitô hữu đều được Ngài chi phối bao bọc. Mỗi người cần phải khám phá ra sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời mình. Tôi đã thấy Ngài hiện diện ở đâu? Ngài đã và đang làm gì nơi tôi? Không chỉ khám phá sự hiện diện và các hoạt động của Ngài mà còn phải biết kiểm điểm đời sống xem đã bước theo Thần khí hay chưa? Đã bước theo như thế nào? Như Thánh Phaolô dạy dỗ: “Hãy sống theo Thần khí…nếu chúng ta sống nhờ Thần khí, thì cũng hãy nhờ Thần khí mà tiến bước” (Gl 5, 16. 25). Đời Kitô hữu là đời sống và làm việc theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

49. Sự thật trọn vẹn.
(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Ai trong chúng ta cũng muốn biết sự thật, và căm ghét sự lừa lọc dối trá. Nhưng không dễ gặp được sự thật nơi người khác, cũng như nơi chính mình.

Để nói lên một sự thật, cần phải trả giá. Dám nghe một sự thật nhỏ, cần một can đảm lớn!

Đời người là một cuộc ruổi dong tìm sự thật.

Sự thật vừa đáng sợ, lại vừa đáng yêu.

Khi sống ở đời, Đức Giêsu đã nói và làm nhiều điều, để cho các môn đệ thấy sự thật về mình. Ngài cho họ biết mọi điều Ngài nghe được từ Cha. Tuy vậy, Ngài vẫn còn nhiều điều phải nói với họ mà bây giờ họ không kham nổi (x. Ga 16,12).

Đức Giêsu không có thái độ bao cấp. Ngài chẳng đòi các môn đệ phải hiểu hết con người Ngài. Thánh Thần sẽ giúp họ làm điều đó sau khi Ngài phục sinh.

”Khi nào Thần Khí sự thật đến,

Người sẽ dẫn anh em tới sự thật trọn vẹn” (Ga 16,13)

Để biết sự thật trọn vẹn về Đức Giêsu, để hiểu việc làm và lời nói của Ngài, chúng ta cần có Thánh Thần làm người hướng đạo.

Đức Giêsu là một mầu nhiệm sâu thẳm khôn dò. Nhờ Thánh Thần, ta thấy Đức Giêsu luôn luôn mới. Càng đến gần, ta càng thấy Ngài siêu việt. Càng biết rõ Ngài, ta càng thấy Ngài lôi cuốn.

Nhờ Thánh Thần, Lời Chúa Giêsu luôn luôn mới. Đó không phải là những dòng chữ chết khô, nhưng là ánh sáng cho mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Nhờ Thánh Thần, Hội Thánh luôn luôn mới. Ngài là luồng gió mát lúc Hội Thánh gặp khó khăn, là luồng gió mạnh làm Hội Thánh chuyển mình thức tỉnh.

Chúa Thánh Thần không sống cho mình, nhưng cho Đấng sai mình là Đức Giêsu Kitô (x. Ga 15,26). Ngài chỉ mong cho Đức Kitô được tôn vinh (x. Ga 16,14)

Chúa Thánh Thần là phát ngôn viên của Đức Kitô. Ngài chỉ nói những gì Ngài đã nghe Đức Kitô nói. Ngài không loan báo điều gì mới lạ, nhưng chỉ giúp ta nhớ lại, hiểu và sống Tin Mừng.

Chúng ta cũng là những chứng nhân của Đức Kitô như Thánh Thần. Cần làm chứng như Ngài trong thái độ khiêm nhu từ bỏ.

Dù chúng ta là Kitô hữu, là người công giáo, chúng ta vẫn trên đường tìm kiếm sự thật trọn vẹn.

Sự thật bao giờ cũng lớn hơn suy nghĩ của ta. Sự thật ở nơi người khác tôn giáo, khác quan điểm...

Đừng tìm cách làm chủ hay độc quyền sự thật.

Hãy để cho sự thật chiếm lấy mình.

Hãy mềm mại để Thánh Thần dẫn vào sự thật, sự thật về Thiên Chúa, về Đức Kitô, về tôi và tha nhân.

Có những sự thật rất thường, rất nhỏ, nhưng khó nuốt.

Chỉ khi chấp nhận chúng, tôi mới gặp được Đức Kitô.

Ngài là Sự Thật viết hoa, Sự Thật đem lại tự do (x. Ga 8,32).

Gợi Ý Chia Sẻ

Chúa Thánh Thần hoạt động ở khắp nơi. Ngài đem lại sức sống cho mọi người. Có khi nào bạn thấy Ngài hoạt động nơi những người ngoài Kitô giáo không? Có khi nào bạn thán phục vì lối sống siêu thoát của một phật tử không?

Sự thật vừa đáng sợ lại vừa đáng yêu. Bạn có sợ biết sự thật về mình không? Bạn có can đảm nói sự thật một cách đầy yêu thương không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con. Xin cho cuộc đời Kitô hữu của chúng con đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày. Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới, cho chúng con khám phá ra những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.

Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, thế giới hôm nay luôn bị đe dọa bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh; mạng sống con người bị coi rẻ. Xin cho chúng con biết say mê sự sống, và gieo vãi sự sống khắp nơi.

Ước gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới để con người có thể hiểu nhau hơn và đón nhận nhau trong yêu thương.

50. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ - JKN
Câu hỏi gợi ý:

1. Bạn quan niệm thế nào về Thánh Thần? Ngài có đóng vai trò gì quan trọng trong đời sống Kitô hữu của bạn không? Cụ thể là gì?

2. Kế hoạch phát triển Giáo Hội của Thiên Chúa là «men trong bột». Nếu Thánh Thần kêu gọi bạn trở nên «men» cho mọi người, bạn có đáp lại lời mời gọi ấy không?

3. Muốn thật sự gặp gỡ Thánh Thần, phải thực hiện sự gặp gỡ ấy thế nào?

Suy tư gợi ý:

1. Thánh Thần hoạt động mạnh mẽ, nhưng… bị quên lãng

Từ khi Giáo Hội khai sinh, vai trò và hoạt động của Thánh Thần mới được chú ý tới nhiều, qua sự ý thức và nhấn mạnh của Giáo Hội, đặc biệt của Đức Giêsu, của các tông đồ. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã hứa ban Đấng Bảo Trợ, An Ủi cho Giáo Hội: «Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi» (Ga 14,16). Và Đấng Bảo Trợ ấy chính là Thánh Thần: «Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em» (Ga 14,26). Đức Giêsu đã ra đi để giao lại nhân loại và Giáo Hội cho Thánh Thần: «Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em» (Ga 15,26). Chính vì thế, hiện nay chúng ta đang sống trong thời hoạt động của Thánh Thần, Ngài đang hoạt động mạnh mẽ trong Giáo Hội và trong chính tâm hồn ta. Nhưng ta ít chú ý tới Ngài. Chúng ta thường tập trung quan tâm của mình vào Chúa Cha, nhất là Đức Giêsu. Vì thế, Thánh Thần trở thành vị Thiên Chúa bị quên lãng. Do đó, chúng ta ít hợp tác với Thánh Thần, và Thánh Thần không biến đổi ta một cách hữu hiệu được. Vì dù hoạt động mạnh mẽ thế nào, Thánh Thần vẫn luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Thánh Thần luôn luôn mời gọi, nhưng con người vẫn luôn luôn có thể làm ngơ vì không quan tâm, hoặc từ chối lời mời gọi đó. Chính vì thế, công việc của Thánh Thần thật hết sức khó khăn.

2. Kế hoạch của Thiên Chúa

Thánh Thần là Đấng tiếp tục công trình của Đức Giêsu trong thế giới và Giáo Hội. Ngài luôn luôn thúc đẩy sự đổi mới trong Giáo Hội, để Giáo Hội ảnh hưởng tốt đến thế giới. Nhưng để được làm điều ấy, Thánh Thần luôn luôn phải hoạt động trong mỗi cá nhân. Cá nhân có thay đổi thì Giáo Hội mới thay đổi, cá nhân có nên thánh thì Giáo Hội mới thánh thiện. Tất cả mọi đều bắt đầu từ những cá nhân, và lan truyền từ cá nhân này sang cá nhân khác. Kế hoạch của Thiên Chúa để xây dựng Nước Trời là chiến lược «men trong bột» (x. Mt 13,33), «muối ướp đời» (x. Mt 5,13) hay «đèn sáng cho trần gian» (x. Mt 5,14). Men là một chất có hoạt tính, có khả năng biến đổi chất bột tiếp xúc với mình trở nên giống như mình. Mất hoạt tính này, men không còn là men nữa, nó trở thành một thứ bột vô dụng. Muối hay đèn cũng có hoạt tính tương tự. Một hình ảnh khác là lửa, nhưng lửa có tác dụng lan truyền mạnh mẽ và nhanh chóng. Chính vì thế, Thánh Thần khi hiện xuống trên các tông đồ đã lấy hình lưỡi lửa làm biểu trưng cho mình.

Trong quá trình phát triển từ xưa đến nay, Giáo Hội vẫn theo chiến lược «men trong bột», nhưng phải nói rằng Giáo Hội đã phát triển theo chiều rộng nhiều hơn chiều sâu. Nội dung lan truyền chủ yếu là danh nghĩa, hình thức tôn giáo bên ngoài, hơn là đ¨ªch thực sống tinh thần Tin Mừng bên trong. Biết bao Kitô hữu chỉ giữ đạo theo tập tục (siêng năng đọc kinh, dâng lễ, chịu các bí tích), nói chung là chuộng những thực hành thấy được, và lấy đó làm đủ, mà ít sống đạo, ít đi vào chiều sâu tâm linh, ít khi thật sự gặp gỡ Thiên Chúa. Việc thờ phượng Thiên Chúa chưa đúng với tinh thần «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật» (Ga 4,24), mà còn mang nặng tính thể lý, bên ngoài, nên còn nhiều tính giả dối, không trung thực (ngoài và trong khác nhau). Vì thế, Giáo Hội dường như không còn phát triển mạnh như những thế kỷ trước nữa, thậm chí dừng lại hoặc sút giảm về mặt tỷ lệ dân số (mặc dù số lượng vẫn tăng theo đà phát triển dân số).

Chiến lược «men trong bột» đòi hỏi phải có những cá nhân thật tốt, thật nhiệt thành. Những cá nhân tốt ấy sẽ ảnh hưởng tốt sang những cá nhân khác bằng gương sáng, bằng những hoạt động nhiệt thành và tích cực, biến họ nên tốt, nên nhiệt thành như mình. Nhờ đó, những cá nhân tốt càng ngày càng được nhân lên. Càng nhiều cá nhân tốt thì Nước Trời càng phát triển, càng lớn mạnh. Nhưng ai sẽ là men đây? Thánh Thần luôn mời gọi chúng ta trở nên «men,», không chỉ là «men» mà còn là «men tốt». Mỗi khi lắng đọng tâm hồn lại, chúng ta đều nghe thấy tiếng Ngài mời gọi.

3. Làm sao trở thành men tốt?

Trong chiến lược phát triển Nước Trời, «men trong bột» phải có một «hoạt tính» rất mạnh, nghĩa là có khả năng biến đổi người khác nên tốt và nhiệt thành giống như mình. Như vậy, chính mình phải là người tốt và nhiệt thành đã, chính mình phải thật sự sống tinh thần Tin Mừng đã. Muốn thế, ta phải tiếp xúc với Thánh Thần, nguồn phát sinh «hoạt tính» ấy. Nhưng làm sao tiếp xúc với Thánh Thần? Bằng cách kêu cầu Ngài với những kinh hay những bài ca về Thánh Thần chăng? Phải nói đó là những cách thấp nhất để tiếp xúc với Thánh Thần, thường chỉ dành cho những người chưa thể cầu nguyện tự phát hay chưa biết cách cầu nguyện. Muốn có một đời sống nội tâm thật sự, muốn tiến triển trên con đường tâm linh, ta cần phải tiếp xúc với Thánh Thần một cách thật sự và hữu hiệu.

4. Làm sao để tiếp xúc với Thánh Thần thật sự và hữu hiệu?

Muốn tiếp xúc với Ngài, trước hết phải biết Ngài ở đâu, bản chất của Ngài thế nào. Thánh Thần là thần khí (spirit = tức tinh thần), hiện diện khắp nơi, tràn đầy trong vũ trụ, trong không gian và thời gian. Chúng ta có tinh thần, và tinh thần của ta cũng là thần khí. Một cách nào đó, tinh thần của ta phần nào đồng bản chất với Ngài. Chính vì thế, muốn gặp gỡ Thánh Thần, phải gặp bằng chính thần khí hay tinh thần của ta. Đức Giêsu đã nhắc nhở: «Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật» (Ga 4,24). Nếu ngày xưa thánh Phaolô nói: «Chúng ta, những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, mới thật là những người được cắt bì» (Pl 3,3), thì ngày nay ta cũng có thể nói: chỉ những ai thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí mới là người Kitô hữu đích thực. Đó là những người thờ phượng Thiên Chúa bằng tinh thần, bằng tâm hồn, bằng ý thức và bằng tình yêu, bằng việc thật sự gặp gỡ và sống trong Thánh Thần, chứ không phải chỉ bằng những nghi thức bề ngoài, dù những nghi thức này lắm khi cũng cần thiết. Thờ phượng Thiên Chúa bên ngoài mà không có bên trong là thờ phượng trong giả dối, không phải là trong chân lý.

Thánh Thần tuy tràn lan trong vũ trụ, nhưng lại hiện diện «đặc sệt» và tràn đầy nhất trong tâm hồn ta: «Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?» (1Cr 3,16); «Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần mà chính Thiên Chúa đã ban cho anh em» (1Cr 6,19). Vì thế, muốn gặp gỡ Thánh Thần, không gì tốt hơn là gặp Ngài trong chính bản thân mình, bằng tinh thần của mình. Việc gặp gỡ Ngài rất dễ dàng: chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài. Điều quan trọng trong việc gặp gỡ Thánh Thần là những ý thức và tâm tình có thực bên trong, chứ không phải là những lời cầu nguyện phát biểu ra, dù là phát biểu trong tâm trí. Tuy nhiên, nếu những lời ấy tự nhiên bộc phát ra từ đáy lòng, thì cũng là điều rất tốt. Tuyệt đối không nên sáng tác ra bất kỳ lời nào khi không có những tâm tình đích thực bên trong, vì cầu nguyện như thế là thờ phượng trong giả dối. Lời bộc phát ra phải luôn luôn phù hợp với tâm tình có thực bên trong mới là thờ phượng trong chân lý.

5. Ý thức và tâm tình phải có khi tiếp xúc với Thánh Thần

Khi hồi tâm để tiếp xúc với Thánh Thần, ngoài việc ý thức sự hiện diện thật sự của Ngài trong tâm hồn ta, ta nên ý thức rằng Ngài là nguồn sức mạnh, nguồn yêu thương của ta. Hãy giục lòng tin tưởng rằng: nếu năng tiếp xúc với Ngài thì sức mạnh và khả năng yêu thương vô biên của Ngài sẽ truyền sang ta, như năng lượng từ dòng điện truyền sang dụng cụ điện, làm dụng cụ ấy hoạt động. Thường xuyên tiếp xúc với Ngài như vậy, nội lực và tình thương của ta ngày càng tăng lên một cách cảm nghiệm được.

Ngoài ra, ta cần tan hòa trong Thánh Thần bằng tâm tình «tự hủy» (kenosis), «tự sát tế» của Đức Giêsu. Nghĩa là có sự quyết tâm muốn quên mình, xóa bỏ mình trước Thiên Chúa và tha nhân, không tự coi bản thân mình, ý riêng của mình, và những gì của mình là quan trọng. Tâm tình ta cần có là: «Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga 3,30), nhỏ đi chừng nào tốt chừng nấy.

Song song với tâm tình «tự hủy» cần phải có là tâm tình «vị tha». Nghĩa là có sự quyết tâm sống cho Thiên Chúa và tha nhân, đặc biệt sẵn sàng làm tất cả những gì Thánh Thần đề nghị để gieo tình thương và hạnh phúc nơi nơi, cho tất cả mọi người chung quanh ta.

Và cuối cùng là lắng nghe tiếng của Thánh Thần vang dội trong lòng mình. Tiếng của Ngài ngày càng trở nên rõ ràng và mạnh mẽ nếu ta luôn luôn quảng đại đáp lại lời mời gọi của Ngài. Tiếng của Ngài sẽ dần dần yếu đi nếu ta bỏ lơ hay không đ¨¢p lại lời mời gọi ấy.

Thường xuyên gặp gỡ Ngài như thế, chắc chắn cuộc đời của ta sẽ biến đổi và trở nên men tốt, muối tốt và ánh sáng rực rỡ cho xã hội, Giáo Hội và đặc biệt cho môi trường chung quanh ta. Và đó chính là cách ta «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật».

Cầu nguyện

Lạy Cha, Cha đã ban Thánh Thần cho thế giới. Nhưng dường như sự hiện diện của Ngài trong thế giới ít được người Kitô hữu quan tâm đến trong đời sống thực tế của mình. Nếu có thì thường chỉ được nhắc đến trong phụng vụ. Xin Cha giúp con năng tiếp xúc với Thánh Thần để được tan hòa trong Ngài và nhận được tràn đầy sức mạnh và khả năng yêu thương của Ngài. Nhờ đó con trở nên muối men cho đời, cho những người chung quanh con, để biến họ nên tốt lành và hạnh phúc hơn.

51. Ân huệ Chúa Thánh Thần - Lm. Nguyễn Hữu An.
Khi hai người quý mến nhau, hay thương yêu nhau, để biểu lộ tình yêu họ sẽ tặng cho nhau những món quà quý giá: một cánh hoa, một tấm thiệp, một món quà... Một tặng phẩm hay một ân huệ mà một người đem tặng cho người khác là do lòng quảng đại và nhân hậu. Quảng đại vì người tặng hoàn toàn tự nguyện. Nhân hậu vì tình thương được thể hiện qua tặng phẩm.

Sự sống, sức khoẻ, tài năng, bình an, của cải, con cái... là những ân ban của Thiên Chúa cho con người. Ân huệ lớn nhất, ơn trọng đại nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại là Chúa Thánh Thần.

Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là Ân Ban lớn lao cho Giáo Hội và cho Đức Maria.

1. Ân huệ Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội

Đức Kitô là người đầu tiên đã quan niệm tình yêu một cách vị tha chưa ai từng nghe thấy: “ Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng mình vì bận hữu” (Ga 15, 13). Vì yêu thương con người, Ngài đã chịu khổ nạn, đã phục sinh và trao ban sự sống mới cho nhân loại. Đó là sự sống thần linh, là Chúa Thánh Thần.

Hôm nay đây trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông Đồ đang họp nhau cầu nguyện trong nhà Tiêc Ly cùng với Đức Maria. Chúa Thánh Thần đã Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi người, ban tràn đầy sức sống mới. Quyền năng Chúa Thánh Thần đến trên Giáo hội với sức lay động và chuyển thông.

Sức lay động vì Chúa Thánh Thần đã đến như thể cuồng phong thổi vang dậy đầy nhà. Ghế bàn không bay bổng, tường - mái nhà vẫn nằm yên, nhưng lòng người đã được lay động. Quyền năng Chúa Thánh Thần như gió mạnh đã làm bật tung các ổ khoá, các cửa to cửa nhỏ của ngôi nhà các Tông Đồ đang ẩn náu. Quyền năng Thánh Thần tung họ ra khỏi pháo đài để với hai bàn tay không và một trái tim đầy nhiệt huyết họ đi vào thế giới rao giàng Tin Mừng Đức Giêsu Phục Sinh.

Được sức lay động và đầy lửa Thánh Thần, các Tông Đồ cùng lên tiếng cao rao những kỳ công của Thiên Chúa. Thánh Phêrô, lòng đầy Thánh Thần, đã hùng hồn thuyết giảng vể Chúa Giêsu Thương Khó và phục sinh. Có 3.000 người xin được Rửa Tội. Giáo Hội được khai sinh từ đó vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Thánh Thần đến, Giáo Hội khai sinh.

Tác động của Chúa Thánh Thần trên Giáo Hội thật mãnh liệt. Chỉ một nhóm Tông Đồ nhỏ bé, sợ hãi, co cụm, hoang mang, lúc nào cũng cửa đóng then cài. Thế mà giờ đây khi được tràn đầy Thánh Thần họ đã trở nên mạnh mẽ phi thường, hiên ngang, can trường làm chứng và loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Các Ngài được trang bị bằng quyền năng Thánh Thần để bẻ gãy sức mạnh của sự dữ, tội lỗi.

Dù bị đe dọa đòn vọt, dù gông cùm tù tội, các ngài vẫn trung kiên một niềm tin vào Chúa. Các Ngài đã lấy máu đào minh chứng cho lời rao giảng. Dù bị đàn áp bách hại, Giáo Hội vẫn lớn mạnh không ngừng. Hai mươi thế kỷ qua, con thuyền Giáo Hội do người dân chài Galilê cầm lái vẫn lướt qua mọi thăng trầm của lịch sử với muôn vàn thử thách giông tố để luôn đi tới.

Vậy thì bí quyết ẩn tàng trong đó và lý do tồn tại vĩnh cửu của Giáo Hội là gì nếu không phải chính là sức mạnh là quyền năng Chúa Thánh Thần.

Ngày nay, Giáo Hội vẫn chỉ có một sức mạnh đặc biệt, đó là quyền năng Chúa Thánh Thần. Với quyền năng này Giáo Hội không bao giờ chịu đóng chặt cửa để an hưởng hay cố thủ. Nhưng luôn ra khỏi tháp ngà để rao truyền Tin Mừng, dấn thân vào cuộc sống muôn mặt của thời đại, đồng hành và thích ứng với nhân loại trong thế giới ngày nay.

Công Đồng Vatican II là một Lễ Hiện Xuống Mới của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần vẫn luôn thổi sinh khí mới và ban cho Giáo Hội những ân huệ lớn lao. Mẹ Têrêxa Calcutta, Cha Thánh Piô, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là những gương mặt vĩ đại đã và đang làm bừng lên sức sống tình thương, hoà bình của Chúa Thánh Thần trong thế giới sục sôi vì chiến tranh và hận thù này.

2. Ân huệ Thánh Thần cho Đức Maria

Ngày Lễ Ngũ Tuần, Đức Maria cũng tràn đầy Thánh Thần. Khi các Tông Đồ ra đi rao giảng tin mừng thì Đức Mẹ lại rút vào nơi thanh vắng, thinh lặng sống ẩn dấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa (Col 3, 3). Chính Đức Mẹ đã khai sáng trong Giáo Hội ơn gọi sống đời ẩn dật và cầu nguyện bên cạnh đời sống tông đồ hoạt động.

Điều đó cho chúng ta thấy, trong Giáo Hội hoạt động cho dù vì Nước Trời chưa phải là tất cả. Giáo hội còn cần đến những tâm hồn cầu nguyện để lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần trước khi dấn thân vào sứ vụ. Thư Mục Vụ năm 1999 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã xác định: “Người loan báo Tin mừng phải là một nhà chiêm niệm trong hoạt động” (Số 14). Giáo Hội cần lời cầu nguyện cũng như cần hoạt động cho công cuộc Truyền Giáo. Đức Mẹ là nguyên mẫu cho đời sống cầu nguyện này. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu suốt đời sống trong Dòng Kín, thế mà Giáo Hội đã đặt Ngài làm Bổn Mạng các xứ Truyền Giáo.

Lễ Ngũ Tuần kết thúc chu kỳ Phụng Vụ mùa Phục sinh với Ân Huệ Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội cầu nguyện và hoạt động. Mỗi người tín hữu được mời gọi sống hai chiều kích ấy mỗi ngày để hoa trái Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, hiền hoà, tiết độ... được trổ sinh trong tâm hồn và cuộc sống chúng ta (Gl 5, 23 - 23).

52. Dưới tác động Thánh Thần.
Suốt các Chúa Nhật Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ. Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.

Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hy-lạp và Rô-ma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.

Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rô-ma, phải đối diện với ba thách đố lớn là Do-thái giáo, chính trị Rô-ma và triết học Hy-lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do-thái giáo, hội nhập vào triết học Hy-lạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rô-ma. Chỉ với những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.

Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh I-rê-nê đã nói: “Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng”

Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stê-pha-nô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giê-ru-sa-lem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm “Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu”.

Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng. Đoạn sách Công Vụ Tông Đồ của Chúa Nhật hôm nay kể lại vị sứ giả đầu tiên đã mang Tin Mừng đến cho người ngoại giáo, đó là người Do-thái nói tiếng Hy-lạp, phó tế Phi-lip-phê. Ngài tới thủ đô Sa-ma-ri rao giảng làm phép lạ, chữa lành nhiều bệnh tật. Người ta vui mừng đón nhận và xin theo Đạo (Cv 8, 5 - 8). Sau khi xứ Sa-ma-ri được đón nhận Tin Mừng, các Tông Đồ đã cử Phêrô và Gioan đến cũng cố Niềm Tin cho các tân tòng (Cv 8, 14 - 24).

Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội, càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.

Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc, họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.

Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh, những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần, trong mọi thử thách Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ, trong mọi biến cố đau thương luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.

Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa, thế nhưng những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, bùng nổ thông tin, toàn cầu hoá... Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ, xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: “Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do”.

Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa. Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây? Bài Phúc Âm chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14, 26).

Khi người tín hữu chúng ta được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14, 21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga, 14, 27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, người tín hữu làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.

Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả “nhảy mừng trong lòng mẹ” Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bê-lem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.

53. Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến!
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

40 ngày sau Đại lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm cao cả Chúa về Trời, tiếp đến là cầu nguyện thiết tha: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến.

Giáo hội xin Ngài đến để làm gì? Thưa, để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường... (Ca tiếp liên).

Đúng 10 ngày sau khi Chúa về Trời, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả, Ngài là Đấng mà Đức Giêsu đã hứa với chúng ta (x. Ga 16, 7). Ngài "hiện diện" trong lịch sử Giáo hội, và hành động không biết mệt mỏi. Giáo hội sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng cho đến muôn đời, giao tiếp với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới, và con người ở mọi nơi mọi thời sẽ còn tiếp tục sửng sốt và bỡ ngỡ, (x. Cv 2, 6), vì những người rao giảng Tin Mừng luôn đầy Thánh Thần. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy (x. Cv 2, 6), và vì thế, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ luôn đồng hành với Giáo hội để Ngài tiếp tục làm nhiệm vụ đổi mới và canh tân. Thần Chân Lý đã "nhập thể" trong Hội Thánh. Như lời ca nhập lễ diễn tả: "Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia."

Sách Tông đồ Công vụ thuật lại: "Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói" (Cv 2, 4). Thật là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần trong ngày Ngài hiện xuống trên các thánh Tông đồ và những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng ta có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quân Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thiên Đàng.

"Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp" (Cv 2, 2).

Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: Ngôi nhà, sách Tông đồ Công vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)

Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần trong hòa bình và trật tự, người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.

Những "Hoa quả của Thần khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực" (Gal 5, 22).

Phải khẳng định rằng "Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến "để ở với Giáo hội luôn mãi" (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: "Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế". Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Chúng ta đọc thấy trong sách Tông đồ Công vụ (...) Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên những người chịu phép rửa tội và làm cho họ ngập tràn niềm vui. Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên các Tông đồ; kể từ ngày hôm đó, Giáo hội, Vương Quốc của Đức Giêsu lan rộng khắp địa cầu, chính Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con điều khiển Giáo hội. Bằng sự thánh thiện, Ngài kiện toàn nơi tâm hồn con người ngay từ lúc khởi đầu Ơn Cứu Chuộc. Thánh Tôma Aquinô nói: "Ngài là linh hồn của thân thể nhiệm mầu là Giáo hội" (Tổng luận Thần học, I-II, q.106, a.1c.). Ngài ngự trong Giáo hội cách thường hằng, Ngài không ngừng trao ban sự sống và thánh hóa Giáo hội như lời Thánh Phaolô nói: "Vì Ngài lưu lại nơi các ngươi và ở trong các ngươi" (Ga 14, 17). Vì là Thần khí Sự Thật, "khi nào Ngài đến, Ngài sẽ hướng dẫn trong Chân Lý" (Ga 16, 13) và gìn giữ khỏi mọi sai lầm. Chính Ngài làm bừng lên trong Giáo hội sự phong phú siêu nhiêu: làm nảy sinh và triển nở những nhân đức anh hùng nơi tâm hồn các thánh trinh nữ; các thánh tử đạo, các thánh hiển tu, ẩn tu, đó là một trong những dấu chỉ sự thánh thiện. Tóm lại, Chúa Thánh Thần hoạt động trong tâm hồn nhân thế; nhờ linh hứng trong Hội Thánh, nhờ máu châu báu của Đức Giêsu Kitô đổ ra,"tinh tuyền, không vết nhơ, không tì ố" (Ep 5, 27), ngõ hầu tất chúng ta xứng đáng trình diện trước tòa Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu trong ngày thẩm phán.

Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên "sự biểu lộ và phương thế" của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Thiên Chúa là Tình Yêu, số 33).

Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ!" Amen.

54. Sống trong Thần Khí – AM Trần Bình An
Vào ngày 18/5/1996, tôi được thụ phong Linh mục. Có ai đó nói với tôi rằng, vào dịp này bất cứ điều gì tôi cầu xin đều được lãnh nhận. Vì vậy tôi thưa với Chúa Giêsu, khi tôi nằm sấp trên nền cung thánh: “Lạy Chúa Giêsu, con biết con sẽ là một Linh mục theo ý nghĩa bí tích, nhưng con cũng muốn được rửa trong Thánh Thần theo ý nghĩa Lễ Ngũ Tuần.” Hai ngày sau khi lãnh chức, ngày 20/5/1996, tôi dự một nghi lễ cầu nguyện tại một giáo xứ địa phương, và tôi được rửa trong Thánh Thần.

Vào ngày được truyền chức, bạn tôi, Mary Beth, nói rằng em bé người hàng xóm của cô ấy bị bệnh nặng. Và những tháng sau khi chào đời, bé vẫn phải ở trong bệnh viện. Cô ấy xin tôi cầu nguyện cho nó. Tôi đã bỏ dở bữa tiệc và đi đến bệnh viện. Tôi nhớ hình ảnh đủ thứ ống dây cắm vào em bé. Tôi hỏi bố mẹ nó: “Anh chị có tin nếu tôi xức dầu cho em bé, thì nó sẽ được chữa lành không?” Họ đáp “có”, và tôi đã xức dầu cho nó. Ba ngày sau tôi gọi điện thoại và được biết em bé đã khỏi bệnh cách lạ lùng. Tôi nghĩ đó là biểu tượng cho bí tích đầu tiên tôi cử hành là xức dầu cho em bé bị bệnh nặng và nó được bình phục. Từ ngày đó việc cầu nguyện chữa lành là phần quan trọng trong thừa tác vụ của tôi. (Lm Stefan P. Starzynski, Tiếp tục tác vụ chữa lành của Chúa Giêsu)

Trong Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay Chúa Giêsu trao ban Đức Chúa Thánh Thần cho các tông đồ qua nghi thức biểu tượng “thổi hơi.”Ngay từ khi nhập thế và nhập thể, Chúa Thánh Thần đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trên từng chặng đường cứu độ.

Nguồn Sống

Chinh từ Thần Khí phát sinh nguồn sống vạn vật. Thần Khi Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. (St 1, 2) Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. (St 1, 7)

Đức Mẹ Maria đã thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. (Mt 1, 18). Khi Chúa Giêsu vừa chịu phép rửa bới ông Gioan Tiền Hô, thì Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. (Mt 3, 16). Sau đó, Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ. (Mt 4, 1)…

Đấng Bảo Trợ

Ngay sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh, Người đã hiện ra và trao ban cho các môn đệ Thần Khí. Nhưng còn thiếu sự cộng tác, thiếu sự chuẩn bị đón nhận, thiếu sự hiệp thông, nên Thần Khí Chúa chưa thật sự tác động trên các ngài. Do vậy, mà cửa vẫn khóa, then vẫn cài chắc chắn, vì các ngài còn mãi hoảng sợ, kinh hãi người Do Thái, tâm hồn vẫn mất bình an và niềm vui.

Chỉ khi các ngài cùng nhau hiệp ý, đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, thì Thần Khí Chúa mới thật sự xuống với các ngài. Tái sinh, đổi mới, cùng bảo trợ các ngài.

Sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh, vào chiều ngày Thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông, chúc bình an và sai đi rao giàng. Nói xong, người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần… (Ga 20, 19-22)

Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín…(Ga 20, 26)

Trở về Giêrusalem, các tông đồ đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu. (Cv 1, 14) Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần. (Cv 2 1-4)

Sống trong Thần Khí

Các Kitô hữu cũng được Chúa Thánh Thần ngự xuống khi lãnh nhận các phép Bi tích Rửa Tội và Thêm Sức. Thế nhưng tôi chẳng thấy được tái sinh, được biến đổi và được bảo trợ. Hình như tôi chẳng nhận được Bảy Ơn căn bản của Chúa Thánh Thần: Khôn ngoan, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, hiểu biết, đạo đức và kính sợ Chúa. Phải chăng Chúa Thánh Thần bỏ rơi tôi, quên tôi rồi sao?

Không, chính vì tôi chưa sẵn sàng đón nhận Ngài, chưa trân trọng kính mời Ngài đến thăm. Phải chăng tôi đang bị những nhân khí, âm khí và tà khí hiệp lực, vây hãm chặt chẽ và nặng nề.

Nhân khí là những bản năng, những ham muốn vinh thân phì gia, những đam mê xác thịt. Âm khí là những khuynh hướng thế gian sa đọa. Tà khí là những cám dỗ ma quỷ, kiêu căng, hận thù, ganh ghét, giận dữ. Tất cả chúng biến tôi thành kẻ nô lệ xác thịt, nô lệ xã hội thực dụng và hưởng thụ, nô lệ ma quỷ kiêu căng, chống lại sự thật, sự công chính và sự sống viên mãn.

Tôi trở nên nhạy cảm với thú vui trần gian, xa dần Thần Khí, rồi dửng dưng và chống lại Thần Khí. Tôi đánh mất dần nhận thức tội lỗi. Tôi đương nhiên thuộc về cộng đồng, mà ngôn sứ Isaia đã phải thất vọng thốt lên: "Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng tâm hồn chúng thì xa Ta." (Is 29. 13).

Tôi thường vào mạng internet lùng sục, ngấu nghiến coi những tin tức giật gân, những xì căng đan các thần tượng, những chuyện tình, tiền, tù, tội. Thay vì truy cập vào các trang web nhà đạo, để tìm hiểu, học hỏi Lời Chúa, để suy tư nguyện ngẫm, nâng tâm hồn lên bằng những hạt giống tốt lành, có thể củng cố, phát triển, bồi dưỡng các nhơn đức Tin, Cậy, Mến,...

Tôi không có thì giờ hằng ngày đến với kinh nguyện, chầu lễ. Nhưng tôi vẫn thường xuyên vui vẻ thoải mái hằng giờ bên bạn bè đàn đúm. Yên tâm sống đạo bình thường như bao người khác. Riết rồi sống tầm thường và tầm bậy lúc nào chẳng hay.

Mẹ Têrêsa đã thuật lại kinh nghiệm nội tâm này: “Tôi luôn ý thức tôi không thể làm gì. Vì thế, tôi để mặc cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong tôi và Người muốn làm gì tùy ý. Đó là thành công của tôi”. Nhờ đó, một mình Mẹ đã lập 5 loại dòng tu khác nhau trên thế giới ngay cảở Liên xô, Rumani, Cuba, Albani... để làm việc truyền giáo..

Ngày lễ hôm nay, xin Chúa Thánh Thần ban cho tất cả chúng con được ơn tái sinh, biến đổi để trở nên con người mới phù hợp với thời đại. Xin Chúa Thánh Thần đến an ủi kẻ âu lo, bệnh tật, tù đày, đau khổ... và đến giúp đỡ cho các thanh niên thiếu nữ và trẻ em biết sống cuộc sống của Chúa Kitô phục sinh. (ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Bài giảng 43: Chúa Thánh Thần, Chúa Nhật 19/5/1991)

Xin Mẹ dạy chúng con luôn biết cầu nguyện, khấn xin Chúa Thánh Thần luôn đổ tràn hồng ân trên chúng con. Amen.

Lời nguyện:

Chúa Thánh Thần hằng gìn giữ, hướng dẫn, thánh hóa và canh tân Hội Thánh.Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh, luôn được tràn đầy Bảy ơn Đức Chúa Thánh Thần, mà hướng dẫn cộng đoàn dân Chúa. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.

Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ và phán: "Các con hãy nhận lãnh Thánh Thần"..Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho các Kitô-hữu, vâng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, mà trung thành sống đạo và trở nên ánh sáng cho trần gian. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.

Chúa Giêsu phán: "Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con Đấng Bàu Chữa"..Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho những người nghèo khổ, đau yếu, bệnh tật, được ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ ủi an, mà vững tin trong đời sống đạo. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.

Chúa Thánh Thần làm cho các Tông đồ hiểu Lời Chúa, và can đảm loan báo Tin Mừng..Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho các Kitô-hữu, chân thành sống đạo Chúa, sống Đức Tin trong ơn sức mạnh can đảm của Chúa Thánh Thần. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.

Chúa Thánh Thần hiệp nhất các Kitô-hữu..Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng con, nhờ tác động Chúa Thánh Thần, trở nên một cộng đoàn yêu thương, và cùng giúp nhau tiến về nhà Cha trên trời. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.

55. Suy niệm của Lm Nguyễn Minh Hùng.
SỨC MẠNH NÂNG ĐỠ ĐỨC TIN TRONG Ý THỨC TRUYỀN GIÁO

Ai mà không ít là một lần thấm thía nỗi đau, nỗi bất hạnh? Bạn và tôi, khi sống trong cuộc đời này, lại không có những lần đức tin bị thử thách đó sao. Chẳng hạn khi ta phải bước đi trong lầm lũi, đi trong thất bại và chán nản: Đó có thể là cái chết bất ngờ của một người thân, một cơn bạo bệnh, một tình yêu bị phụ bạc... Đó cũng có thể là cái nghèo, cái dốt, là đứa con chưa ngoan, vợ chồng thiếu tin tưởng nhau... Trong hoàn cảnh khó khăn như thế, đức tin bị chùn bước chăng?

Suy nghĩ về tính bấp bênh của thân phận, ta sẽ nhận ra ơn Chúa Thánh Thần là một mãnh lực lớn biết bao nhiêu giúp ta vượt qua và tin vững vàng. Nhất là những lúc ta phải sống chứng nhân cho Tin mừng của Chúa Kitô, dẫu là đang trong hạnh phúc hay khi rơi vào nỗi ô nhục, chán chường. Bởi thế, ta có thể nói mạnh rằng: CHÚA THÁNH THẦN LÀ SỨC MẠNH NÂNG ĐỠ ĐỨC TIN TRONG CHÍNH Ý THỨC TRUYỀN GIÁO NƠI MỖI NGƯỜI.

Ngày xưa, các thánh tông đồ cũng thế. Chúa Thánh thần đã nâng đỡ đức tin các thánh tông đồ nhiều lắm. Người đã từng hiện diện với các ông trong từng bước chân truyền giáo. Chính Chúa Thánh Thần đã làm cho kết quả của ơn gọi truyền giáo mà các thánh tông đồ nói riêng, các môn đệ Chúa Kitô nói chung, thực hiện trở thành một kết quả lớn lao, không phải chỉ một nơi chốn hay một khoảnh khắc nào, nhưng lan tỏa khắp thế giới, qua mọi thời, mọi thế hệ…

Vì tính người mỏng dòn, nên đức tin cần được tôi luyện. Các thánh tông đồ đã được tôi luyện như thế: Chúa Giêsu, người mà thánh Phêrô đã từng đại diện anh em mình tuyên xưng là Con Thiên Chúa; người đã từng hiển dung trước mặt Phêrô, Gioan, Giacôbê; người đã từng làm phép lạ như “Đấng có uy quyền” trước mặt các ngài, bây giờ chỉ là một người bị đánh bại thê thảm. Có ai có thể tưởng tượng nỗi một Giêsu mà mình muốn đặt hết hy vọng vào đó như một cứu chúa, một nhà giải phóng để đưa dân tộc Do thái thoát khỏi bàn tay đô hộ của đế quốc La mã, bây giờ lại bị chính quyền kết án, bị các nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái treo lên thập giá, phơi thây giữa trời giữa đất, xuống không nổi. Trong hoàn cảnh đó niềm hy vọng của các tông đồ như một tim đèn chực tắt. Đức tin đang lụn dần. Có lẽ trong lòng các môn đệ của Chúa Giêsu lúc đó chỉ còn có thể réo lên ba tiếng “Mất tất cả!”.

Bài Tin Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay chứng minh điều đó. Thánh Gioan kể lại: Một buổi chiều Chúa nhật, các thánh tông đồ tụ họp và “đóng kín” cửa lại - tôi xin nhấn mạnh động từ “đóng kín”. Vì các thánh tông đồ không “đóng kín” để tránh sự ồn ào, không “đóng kín” để tạm quyên đi những lo toan đời thường, không “đóng kín” để gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng “đóng kín” vì “sợ người Do thái”. Và bởi “sợ”, nên dù “đóng kín”, các ngài vẫn ở trong tâm trạng rối bời.

Nhưng khi Chúa Thánh Thần đến, đức tin của các thánh tông đồ trở nên mạnh mẽ. Chính Chúa Thánh Thần đã phá vỡ tâm trạng rối bời này. Ý thức truyền giáo phát triển từ con số không, bỗng vượt quá sức người bé bỏng của các ngài, và tỷ lệ thuận với lòng can đảm phát xuất từ một đức tin dũng mãnh: Tin vào Đấng phục sinh. Từ đây, chính nhờ Chúa Thánh Thần tác động, làm cho các ngài mạnh dạn loan báo Lời Chúa, dám sống, dám chết cho đức tin dũng mãng ấy. Như vậy Người không chỉ nâng đỡ cách nhất thời, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào mà các ngài gặp phải như: bị chống đối, bị sỉ nhục, bị tù đày, nhất là bị sát hại.

Lẽ nào, sau khi nhận ra thái độ truyền giáo của các tông đồ, chúng ta lại trở về với cuộc sống đời thường mà không có gì thay đổi? Ngay từ bây giờ, ta hãy sắm cho mình một ý thức truyền giáo bằng chính trách nhiệm hằng ngày của ta: đó là trách nhiệm của một linh mục, một người buôn bán, một người dạy học, một công nhân, một học sinh... Ta cũng có thể thể hiện tinh thần truyền giáo trong những việc làm hết sức nhỏ bé như: tha thứ cho một người mất lòng ta, chào hỏi những người ta quen biết...

Nếu ta có một ý thức truyền giáo trong trách nhiệm và trong những việc làm từ ngày này qua ngày khác như thế, không những đức tin không bị lung lạc giữa các môi trường ta sống, mà còn vững mạnh và có sức thu hút nữa. Bởi vì Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi ta, làm cho nó trở thành khí cụ đưa công việc truyền giáo thầm lặng của mọi người đạt hiệu quả.

Tôi muốn dừng lại ở đây bằng chính lời của Đấng Phục sinh nói với chúng ta: “Bình an cho anh em”. Nguyện xin Chúa Kitô ban ơn bình an ấy cho ta. Nhưng Chúa Thánh Thần chính là Nguồn Bình an. Bởi thế, xin Chúa Kitô ban ơn bình cũng có nghĩa là xin Người ban Chúa Thánh Thần cho ta.

Ơn bình an rất cần cho những người sống đời truyền giáo, ơn bình an cũng rất cần cho những biến động, những thăng trầm của cuộc đời. Xin dâng tất cả lên Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh nâng đỡ đức tin, và là Nguồn Bình an vô giá.

56. Như một lần Thêm Sức
(Suy niệm của PM Cao Huy Hoàng)

Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Tin Mừng (Ga 20,19-23) gợi lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu ban Bí tích Thêm Sức đầu tiên cho các Tông đồ, và mời gọi chúng ta nhớ lại Bí tích Thêm Sức chính chúng ta đã lãnh nhận, cùng mong ước mỗi chúng ta dùng ơn Thánh Thần mà sinh hoa kết trái trong đời sống Đức Tin.

Mỗi tín hữu được lãnh Bí tích Thêm Sức như Ấn Tín Chúa Thánh Thần với nguồn Bảy Ơn cao trọng ơn Khôn Ngoan, ơn Hiểu Biết, ơn Biết Lo Liệu, ơn Sức Mạnh, ơn Thông Minh, ơn Đạo Đức và ơn Biết Kính Sợ Chúa. Bí tích Thêm Sức chỉ lãnh nhận một lần trong đời, nhưng hiệu quả thì trường cửu, ấn tín không hư mất.

Như vậy, ơn Chúa Thánh Thần đã ban sẵn sàng cho mỗi tín hữu như một vốn liếng quý giá, như gói tư trang thiêng liêng để mỗi tín hữu được trưởng thành hơn, vững vàng hơn khi bước vào cuộc đời để sống Đức Tin và làm chứng cho Thiên Chúa.

Thế nhưng, thiết tưởng, trong khi Chúa Thánh Thần không hề quên chúng ta, thì ngược lại chúng ta quên Chúa Thánh Thần. Bởi, ơn thì đã nhận, nhưng nhận rồi để đấy hay cất đâu đấy, không dùng, hoặc không ý thức mình cần phải dùng, nên mới có nguy cơ chuốc lấy những thất bại trong hành trình Đức Tin.

Còn tệ hơn nữa, đôi khi ta không dùng ơn Khôn Ngoan của Chúa Thánh Thần để xua trừ sự dại dột trong ta, mà còn kiêu căng cậy dựa, khoe khoang tự đắc về sự khôn ngoan của mình, nên chi, chúng mình đã tự lao đầu vào vực trầm luân dại dột.

Các Ơn khác của Chúa Thánh Thần cũng vậy, phải là nguồn sức thiêng kỳ diệu giúp chúng ta vượt qua những thử thách, gian nan và anh dũng bước đi trong ân sủng, trong bình an chứ? Tại sao các tín hữu của Chúa lại vong ân bội nghĩa đến mức vô tâm vô tình với 7 Ơn cao trọng như thế?

Mỗi khi làm việc gì, ta đọc, ta hát kinh Đức Chúa Thánh Thần, hoặc kinh “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con đặng biết việc phải làm…”, nhưng trong thực tế, chúng ta lại muốn làm việc chúng ta thích làm, hơn là chịu làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí.

Đến khi vỡ chuyện rồi, thất bại rồi, có người vẫn chưa ngộ ra lý do vì chúng ta đã cậy sức mình quá lẽ, mà không cậy vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Mẹ tôi dặn: “Mỗi khi con cầu nguyện với Chúa Thánh Thần và thinh lặng lắng nghe Ngài hướng dẫn, ấy là một lần con được thêm sức”.

Cụ thể hơn, trong suốt cuộc đời, từ trẻ làm Nữ Hộ Sinh ở Bệnh viện Grall Qui Nhơn, cho đến lúc về già làm “Bà Mụ Vườn”, mẹ tôi vẫn thầm thĩ nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần trong từng ca giúp người ta sinh nở. Có lần mẹ tôi kể cho chị em chúng tôi: “Bệnh viện thì xa, phương tiện không có, mà thai có dấu hiệu nguy tử trong bụng rồi, mẹ chỉ còn cách xin Chúa Thánh Thần giúp cho biết phải làm gì để cứu sống cả mẹ cả con. Và chỉ trong một thoáng rất nhanh, Người đã giúp Mẹ có giải pháp tức khắc. Kết quả là tốt đẹp. Mẹ tròn, con không được vuông lắm, nhưng cứu kịp. Chúa Thánh Thần tinh thông mọi nghề nghiệp, mọi công việc và Người có đủ giải pháp tốt nhất cho mọi tình huống con à!”

Lời mẹ tôi dặn ngày ấy, tôi nghĩ, đã được rút ra từ những kinh nguyện Chúa Thánh Thần và kinh nghiệm sống của mẹ trước những thách đố hết sức gay go của đời sống Đức Tin.

Vâng, bóng tối ngập tràn thế gian. Tội lỗi chồng chất. Đau thương ngút ngàn. Mỗi tâm hồn, mỗi gia đình đều có mảng tối đang bao vây, đang che chắn ánh sáng của Tin Mừng, ánh sáng thiêng liêng của nguồn Bình An. Nhưng dù cửa nhà ta, cửa cõi lòng ta có đóng kín như cửa nhà các môn đệ Chúa Giêsu vì sợ hãi hay vì một lý do nào khác, thì Chúa Giêsu vẫn có thể hiện đến và ban Thánh Thần của Thiên Chúa cho chúng ta.

Tại sao chúng ta đóng kín cửa, vô tâm với Chúa Thánh Thần, hoặc không màng đến nguồn trợ lực thiêng liêng, quý giá của Chúa Thánh Thần? Vì cảnh nghèo khổ cơ bần chăng? Hay vì những đau thương quá sức chịu đựng của kiếp người không còn phẩm giá, nhân vị, hoặc trong tình trạng thấp dưới mức bình thường? Vì bị xem thường, đàn áp, có la đến khản giọng khàn hơi cũng không hề nghe được lời đáp cứu chăng?

Trong phút giờ bi đát ấy, có bao giờ ta khẩn thiết kêu cầu đến Chúa Thánh Thần: “Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!” Và có lúc nào chúng ta nhận ra mình đang có được Chúa Thánh Thần là “Đấng an ủi tuyệt vời, là khách trọ hiền lương của tâm hồn, là Đấng uỷ lạo dịu dàng, là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là niềm an ủi trong lúc lệ rơi” như một lần được thêm sức chưa?

Hãy khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình, để khẩn khoản sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Hãy thinh lặng cung kính đi vào lối sâu thẳm của thượng trí Thiên Chúa để nhận ra trí hiểu biết bé nhỏ nông cạn của mình. Hãy loại trừ tính chủ quan kiêu căng về khả năng, quyền lực của mình, để đón nhận Ánh Sáng Người soi dẫn.

Xin chia sẻ một chút, chúng tôi là một nhóm làm công việc hơi chuyên biệt, và may mắn là chúng tôi có một anh trưởng nhóm rất đạo đức, quen gọi là anh Ba. Anh Ba có nhiều sáng kiến hay, kế hoạch mới, và cũng đã có nhiều sáng kiến, kế hoạch luôn thành công tốt đẹp. Tuy nhiên, không phải là tất cả. Một lần, anh Ba đưa ra một kế hoạch, một dự phóng để anh em bàn bạc. Đa số không thuận vì thấy không khả thi. Anh Ba mời mọi người vào phòng cầu nguyện, xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Sau một giờ thinh lặng cầu nguyện, anh Ba trở lại phòng họp và tuyên bố: “Như vậy là đúng ý Chúa Thánh Thần rồi. Chúng ta chỉ việc bắt tay vào thực hiện thôi”. Hơn một năm thực hiện, xảy ra bao điều bất ổn, có thể nói là kế hoạch ấy… thất bại! Chúng tôi ngồi lại với nhau để rút kinh nghiệm: Đừng áp đặt ý chủ quan của mình thành ý của Chúa Thánh Thần. Nhưng cũng qua lần thất bại ấy, chúng tôi như được thêm một lần thêm sức.

Quả thực, nếu thành tâm với Chúa Thánh Thần trong hành trình Đức Tin, cách nào đó, chúng ta được ơn nhận ra sự can thiệp kỳ diệu của Chúa Thánh Thần trong mọi tình huống và mỗi lần ấy, như một lần thêm sức.

Anh N., hơn 30 năm ca trưởng nhiệt thành của một giáo xứ trong 5 giáo xứ kỳ cựu nhất giáo phận, có tuổi hơn một thế kỷ, tâm sự với tôi chuyện gia đình:

“Anh ơi, em bị cha sở phạt “thẻ đỏ” rồi anh H. ơi, phải “ra sân” hội đồng mục vụ, “ra sân” cả bên ca đoàn nữa, chỉ vì con gái em nó lỗi luật. Đã vậy, nhà trai không cho con họ theo Đạo, đòi cưới luôn, không phép tắc. Để giữ thai đứa cháu ngoại 4 tháng, vợ chồng em đành buông xuôi, mặc họ tổ chức đám cưới bên nhà họ. Mình không làm gì. Em đã trình bày với cha sở, nhưng cha khuyên em nên nhận… “thẻ đỏ” để làm gương! Một tháng nay rồi. Phó thác hết cho Chúa, nhưng vẫn không thấy bình an. Mấy ngày đầu nản lắm, tủi nhục tư bề, đau khổ triền miên, vợ chồng em mất ăn mất ngủ. Sau một tuần kinh nguyện, em ngộ ra điều này: nơi đâu có tội lỗi, nơi đó có ân sủng. Ân sủng chắc chắn không qua con đường Bí tích, vì tình trạng tội lỗi của con gái em, nhưng em tin và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, Người sẽ giúp con gái của em làm chứng cho Chúa trong gia đình nhà người ta. Vậy, em yên tâm được một chút rồi, mới gọi điện chia sẻ với anh đây”.

Ước gì mỗi chúng ta nhận ra điều kỳ diệu của Chúa Thánh Thần trong thế giới hôm nay, như anh bạn ca trưởng đã khám phá chiều kích mới của ân sủng: Sự can thiệp Chúa Thánh Thần trong mọi tình huống, như một lần thêm sức.

Lạy Chúa Thánh Thần, “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con đặng biết việc phải làm, cùng khi làm, xin Chúa giúp đỡ, cho mỗi kinh mỗi việc chúng con từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”.

57. Người trồng cây sồi - Lm Mark Link.
"Lễ Hiện Xuống thách đố chúng ta phải cụ thể hóa bí tích thêm sức thành việc phục vụ của Kitô giáo."

Vào năm 1983, trong khi Israel chiếm đóng Lebanon, thì tại Evanston thuộc tiểu bang Illinois, có một cậu bé 13 tuổi làm lễ Bar Mitzvah để được công nhận đã tới tuổi trưởng thành. Sau nghi lễ, cậu bé liền đọc lá thư cậu tính gởi cho Thủ Tướng đương thời của Israel là Menachem Begin. Cậu giới thiệu cho các bạn về lá thư đó như sau:

"Nghi Lễ Bar Mitzvah tôi vừa lãnh nhận đánh dấu thời điểm tôi trở thành một người Do Thái trưởng thành... Tôi có bổn phận nói lên cảm nghĩ của mình... Vì vậy tôi tính viết một lá thư gởi cho Thủ Tướng Begin. Tôi xin đọc cho các bạn nghe:

"Trọng kính Thủ Tướng Begin, nhân dịp cháu nhận lãnh nghi lễ Bar Mitzvah cháu cảm thấy mình có bổn phận nói lên cảm nghĩ về cuộc chiến ở Labanon..."

"Cháu hiểu được lý do khiến ngài đã hành động, tuy nhiên cháu vẫn nghĩ rằng chiến tranh là một phương cách sai trái. Nếu điều này có xảy ra lần nữa, cháu khuyên ngài nên là kẻ dấn thân đầu tiên vào việc tìm kiếm hoà bình... Bằng cách đi đến từng quốc gia Ả Rập giống như ngài Sadat đã đến Israel. Nếu Israel sống hoà bình với người Ả Rập thì PLO (Mặt trận giải phóng Palestine) sẽ không còn căn cứ để gây tổn thương và giết chóc dân Do Thái ở Israel nữa."

Kết thúc lá thư, cậu bé viết: "Thay vì mua những vật trang hoàng bàn ăn, cũng như kẹo và hạt dẻ để ăn tiệc mừng lễ Bar Mitzvah của cháu, cháu đã xin gia đình gởi món tiền ấy cho bệnh viện ở Netanya tại Israel, nơi những người Do Thái bị thương trong chiến tranh hiện đang điều trị. Kính thư. Peter Burgh"

Trong ngày lễ Hiện Xuống hôm nay, lá thư vào dịp lễ Bar Mitzvah cũng như món tiền Peter gởi đến bệnh viện Do Thái nói lên điều gì với chúng ta đây?

Nghi thức Do Thái Bar Mitzvah uỷ nhiệm cho thanh niên Do Thái một vai trò tích cực hơn trong cộng đồng Do Thái. Nghi thức ấy mời gọi họ vào việc phụng sự và trách nhiệm dành riêng cho người đã trưởng thành. Nghi thức Do Thái Bar Mitzvah khá giống với Bí Tích Thêm Sức Kitô giáo. Bí tích Thêm Sức cũng uỷ nhiệm cho thanh niên Kitô giáo vai trò tích cực hơn trong cộng đồng Kitô Giáo. Mời gọi họ vào việc phụng sự và trách nhiệm dành riêng cho người trưởng thành.

Lá thư và món tiền của Peter Burgh cho thấy nỗ lực thi hành những trách nhiệm mới mẻ dành cho người trưởng thành nơi cậu ta. Chúng trình bày cho thấy nỗ lực dấn thân ngay vào dịp nhận nghi thức Bar Mitzvah của cậu.

Đây là một trong những mục đích chúng ta mừng lễ Hiện Xuống hàng năm. Lễ Hiện Xuống tác động như một lời mời gọi chúng ta phụng sự. Lễ này nhắc nhở kitô hữu trên toàn thế giới phải dấn thân ngay sau nghi thức Thêm Sức của mình. Phải chuyển nghi thức ấy thành hành động cụ thể.

Đối với một số kitô hữu, điều này có nghĩa là được mời gọi đảm nhận vai trò phụng sự thuộc cấp cao hơn, tức là làm chứng cho Phúc âm một cách rõ ràng công khai truyền hoặc giảng Phúc Âm và thi hành quyền lãnh đạo công khai trong cộng đồng Kitô giáo. Còn đối với những Kitô hữu khác, việc dấn thân này lại mang ý nghĩa việc phụng sự thuộc tầng cấp thấp hơn, tức là làm chứng cho Phúc âm một cách ít rõ ràng hơn. Chẳng hạn như cầu nguyện và hy sinh cho cộng đồng kitô giáo giống trường hợp Peter Burgh đã làm đối với cộng đồng Do Thái của cậu ta.

Việc phục vụ của người kitô hữu khác biệt nhau bởi vì ân sủng thiêng liêng của người kitô hữu cũng khác nhau. Thánh Phaolô đã nêu ra điểm này trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corintô như sau: "Có nhiều loại ân sủng thiêng liêng khác nhau nhưng cũng đều do một Thần Khí ban cho. Có nhiều phương cách phục vụ khác nhau nhưng chỉ có một Đức Chúa được phụng sự. Có nhiều khả năng phụng sự khác nhau nhưng chỉ có một Thiên Chúa ban cho mỗi người một khả năng phục vụ riêng" (1 cr 12: 4-6).

Lễ Hiện Xuống mời gọi mỗi người chúng ta thực hành các ân sủng thiêng liêng mà chúng ta nhận lãnh vào dịp lễ Thêm Sức của chúng ta. Lễ Hiện Xuống mời gọi chúng ta hành động và bảo chúng ta phải dấn thân ngay sau nghi thức lãnh nhận bí tích Thêm Sức và chuyển biến nó thành hành động.

Tôi xin minh hoạ điều ấy bằng câu chuyện sau:

Vào thập niên 1930, có một du khách trẻ đi thám hiểm, dãy núi Alpes thuộc nước Pháp. Anh ta đi đến một dải đất trọc rộng mênh mông. Dải đất này vừa hoang vắng, vừa cấm lai vãng, lại vừa xấu xí nữa. Đúng là một nơi mà qúi bạn sẽ vội vã đi ngay.

Đột nhiên người du khách trẻ dừng sững lại trên lối đi. Ngay giữa vùng đất hoang vu mênh mông là một ông già đang khom lưng mang trên túi hạt sồi, tay cầm một ống sắt dài bốn bộ (cỡ 1m2). Ông ta đang dùng ống sắt ấy đâm xuống làm thành những chiếc lỗ trong đất đoạn bốc ra từ chiếc túi những hạt sồi rồi đặt vào mỗi lỗ một hạt. Ông nói với chàng du khách: "Tôi đã trồng hơn 100 ngàn hạt sồi. Có lẽ chỉ một phần mười số hạt sẽ mọc lên". Vợ con ông đã chết cả rồi, và ông dồn những năm cuối đời để làm việc này. Ông nói: "Tôi muốn làm một điều hữu ích."

Hai mươi năm sau, người du khách về lại miếng đất hoang vu dạo trước. Điều trông thấy trước mắt khiến chàng sửng sốt đến nỗi chàng không thể tin vào mắt mình. mảnh đất hiện được phủ rợp bởi một cánh rừng xinh đẹp rộng hai dặm và dài năm dặm. Nơi đây có chim chóc ca hát, các loài thú nô đùa và hoa rừng ngát hương.

Người du khách đứng lặng ở đó vừa nhớ lại mảnh đất hoang vu trước đây bây giờ đã thành mảnh đất xinh đẹp. Tất cả là đều do có người chăm sóc nó.

Lễ Hiện Xuống có một lời mời gọi hành động. Lễ này mời gọi chúng ta góp phần mở rộng Nước Chúa trên traí đất. Quí vị cũng như tôi có thể thay đổi một phần của nó như ông già đã làm.

Chúng ta đã nhận lãnh túi đựng hạt sồi và khúc ống sắt khi chúng ta chịu bí tích Thêm Sức. Bây giờ chúng ta phải làm nên một cái gì với những vật dụng trên. Chỉ cần một ít can đảm -- giống như lòng can đảm của Peter Burgh biểu lộ trong việc viết thư cho Thủ tướng Begin hoặc lòng can đảm của ông già trong việc trồng hạt sồi.

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện.

"Xin hãy đến!

Lạy Chúa Thánh linh, xin Ngài hãy đến!

Xin hãy đến làm ánh sáng hứơng dẫn chúng con.

Xin hãy đến làm sức mạnh nâng đỡ chúng con.

Xin hãy đến, lạy Chúa Thánh linh.

Xin Ngài hãy đến!

Xin hãy giúp chúng con đổi mới bộ mặt trái đất.".

58. Nguồn Ơn Bảy Nguồn Tái Tạo Thế Giới
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)

Ngày xưa, cách đây hơn 2.000 năm, có một chú bé người Phi châu tên là Emmanuel dễ thương và hay thắc mắc, tò mò. Ngày nọ, chú đã hỏi vị thầy giáo trong làng: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Nói thực là Thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đến với nhà trí thức, các bậc trưởng thượng trong vùng cũng với câu hỏi đó, nhưng tất cả chẳng ai biết. Và thế là chú lang thang từ vùng này qua xứ nọ để tìm cho được câu trả lời cho vấn nạn: “Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ nào?”. Nhưng từ Đông sang Tây, từ châu lục này đến châu lục kia… Emmanuel vẫn chưa nhận được câu trả lời.

Thế rồi một đêm nọ, sau khi đã kiệt sức vì muôn dăm đường dài, Emmauel cũng đến được một thành phố nhỏ nọ, tên là Bêlem. Chú bé cố đi tìm một chỗ nghỉ đêm trong quán trọ. Nhưng các quán trọ đều cửa đóng then cài vì đầy người. Thế là chú bé Emmanuel đành lặn lội ra giữa cảnh đồng hoang tìm một cái hang ngoại thành để qua đêm. Tới mãi khuya chú mới tìm được một cái hang đang còn leo lét bóng đèn dầu. Nhưng khi bước vào, thì ra trong hang đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi bé tí mới sinh đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng ta đang mong chờ con”.

Chú bé quá sửng sốt! Làm sao bà nầy biết tên chú? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà nói: “Đã từ lâu con đi tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây, hành trình của con kể như đến đích, vì đêm nay chính mắt con đã thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ ngôn ngữ nào. Ngài nói bằng “ngôn ngữ tình yêu”. Bởi vì “Thiên Chúa đã yêu thế gian đên nổi đã ban Con Một” (Ga 3,16).

Trái tim Emmanuel trào dâng xúc động. Chú vội vã quỳ gối xuống trước hài nhi và mừng rỡ khóc lên. Giờ đây, chú đã biết rằng thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất cứ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được…

Và thế là Emmanuel vui mừng ở lại hang Bêlem vài ngày để giúp Đức Maria và Thánh Giuse, sau đó đã lên đường loan báo cho mọi người “Tin Mừng” vừa mới nhận được: Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ tình yêu. Emmanuel đã ra đi trong tâm niệm rằng: “Nếu tôi muốn kể cho mọi người biết Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức ngôn ngữ của tình yêu. Bởi đó chính là thứ tiếng duy nhất mà mọi người trên thế gian đều hiểu được. Và kể từ ngày đó, trên muôn dặm đường dài cuộc sống, Emmanuel đã dùng “ngôn ngữ tình yêu’ để nói và sống với mọi người…

Thế giới mà chúng ta đang sống hôm nay có quá nhiều thứ ngôn ngữ: ngôn ngữ chính trị, ngôn ngữ ngoại giao, ngôn ngữ làm ăn, ngôn ngữ thương mại, ngôn ngữ bụi đời… Và cũng vì có quá nhiều thứ ngôn ngữ mà lại thiếu vắng ngôn ngữ tình yêu nên đã xảy ra bao nhiêu là tấn thảm kịch: chiến tranh, khủng bố, bạo lực, bóc lột, kỳ thị, hận thù… Đứng trước một thế giới như thế, phải chăng sứ điệp của ngày Lễ Hiện Xuống là một nhắc bảo, một gọi mời để tất cả chúng ta hãy tìm lại thứ ngôn ngữ của Thiên Chúa đã dùng để nói với chúng ta: ngôn ngữ tình yêu.

Quả thật, ngôn ngữ của chính trị, ngoại giao, thương mại, kinh tế, đảng phái… không bao giờ là ngôn ngữ của yêu thương, hoà bình, khoan dung, tha thứ. Nếu có chăng, thì chỉ là những hư từ rỗng tuếch, mị dân, giả dối để che đậy những âm mưu đen tối bên trong.

Cũng vì lẽ đó mà ngang qua biên giới của các dân các nước trên thế giới hôm nay, vẫn còn ngổn ngang những tháp “Babel dang dở của tình liên đới, hoà bình, hiệp nhất”.

Ai cũng biết, nhân loại đã có một thời thất bại khi cùng nhau xây tháp Babel. Lý do đơn giản vì “ngôn ngữ bất đồng” và không ai hiểu được tiếng nói của nhau (x. St 11,1-8).

Trước khi xảy ra sự kiện đó, Kinh Thánh đã nói với chúng ta rằng: có một nguyên do đã làm cho con người thay đổi cái ngôn ngữ thuở ban đầu Thiên Chúa đã dạy cho: nguyên do đó chính là tội lỗi. Chính tội lỗi đã khiến Ađam không còn nhìn nhận Eva như “xương bởi xương mình, thịt bởi thịt mình” để bao bọc, chở che, mà sẵn sàng đỗ thừa để khỏi dây dưa hệ luỵ: “chính người đàn bà…”. Cũng chính tội lỗi đã khiến người anh ruột Cain đã không còn nói với em là Abel bằng ngôn ngữ của huynh đệ tình thâm, máu mủ ruột thịt, nhưng bằng ngôn ngữ của ghen tương, đố kỵ đến nổi ra tay sát hại em ruột giữa cánh đồng.

Quả thật khi con người không còn nói Lời của Thiên Chúa, không còn sử dụng ngôn ngữ của Thiên Chúa, ngôn ngữ của những người con cùng một Cha, ngôn ngữ của anh chị em trong một mái nhà của gia đình Thiên Chúa… thì tội lỗi và sự chết đã nhập vào thế gian.

Và Thiên Chúa đã hoạch định cả một chương trình kỳ diệu để “Lời của Thiên Chúa”, để ngôn ngữ của Thiên Chúa được sử dụng trên trần gian hầu mang sự sống lại cho nhân loại.

Phải chăng, để khởi đầu cho lộ trình dài thăm thẳm đó, Thiên Chúa đã dùng dòng nước vĩ đại của cơn Đại Hồng Thuỷ để thanh tẩy địa cầu; tiếp theo là ngọn lửa hỏa hào với cuồng phong sấm nổ trên đỉnh núi Sinai để hình thành một dân tộc của Giao ước tiến về hứa địa. Nước đại hồng thuỷ hay lửa trên đỉnh Sinai đều là những chuẩn bị và báo trước dòng nước sống và lửa thanh tẩy của Thánh Thần trong thời Giao ước mới.

Thật vậy, kể từ phép rửa khai mạc sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu nơi dòng sông Giođan; hay chính xác hơn, kể từ khi có những dòng “máu và nước tuôn ra từ trái tim của Đấng Bị Đóng Đinh”, Lời của Thiên Chúa đã tái lập sự sống, ngôn ngữ của Thiên Chúa đã chiến thắng tội lỗi, sự chết, hận thù, chia rẽ… Kể từ dạo ấy, kẻ nào “đến với Ngài và tin vào Ngài thì từ nơi họ sẽ tuôn chảy một nguồn nước sống”. Nguồn nước sống ấy chính là sức mạnh của Chúa Thánh Thần, sức mạnh tác sinh sự sống từ cõi chết, sức mạnh tẩy sạch tội khiên, sức mạnh dựng xây hiệp nhất.

Trước cửa nhà các Thánh Tông đồ hôm nay, sách Công vụ Tông đồ đã mô tả thật chính xác, thật sinh động về cuộc khai trương một “công trình Babel mới” mà tất cả các công nhân trên công trường này cho dù muôn phương cách biệt, muôn sắc tộc, màu da… đều có thể nghe và hiểu chung một sứ điệp, một Tin Mừng do các Tông đồ loan báo, những người được chính Đức Kitô ban tặng Thánh Thần trước tiên ngay khi Ngài vừa mới sống lại: “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần…”; những người mà hôm nay, Chúa Thánh Thần đã long trọng tuôn xuống bằng những hình lưỡi lửa để biến đổi toàn diện con người các ông và trao cho các ông sứ vụ loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh: “… vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2,11).

Một nhân loại bị phân tách và chia rẽ của tháp Babel ngày xưa giờ đây được Chúa Thánh Thần quy tụ về một mối nhờ hồng ân của nhiệm tích Thánh Tẩy. Từ đây, đoàn Dân Mới này sẽ nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của Tin Mừng, ngôn ngữ tình yêu của con cái Thiên Chúa.

Thế nhưng xem ra, sau 2.000 năm, Hội Thánh, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, miệt mài với công trình xây dựng Vương quốc Thiên Chúa, dạy dỗ và quảng bá ngôn ngữ của Tin Mừng của Đức Kitô, xem ra nhân loại chưa đón nhận và thực hiện được bao nhiêu. Người ta còn dành lại cho mình quá nhiều thứ ngôn ngữ ích kỷ, kiêu căng, hẹp hòi và thù ghét.

Vì thế, “Ngày Lễ Ngũ Tuần” lại cần thiết biết bao phải được thể hiện trên mọi miền Giáo Hội, trên mọi cộng đoàn Dân Chúa. Tất cả mọi thành phần Hội Thánh cần phải được Ngọn Lửa của Thánh Linh thanh tẩy thường xuyên để tẩy sạch những cáu bẩn của kiêu căng và tự ái, của giả hình và thoả hiệp, của mị dân và trần tục, của khiếp nhược và bất khoan dung…

Nói cách khác, phải để Chúa Thánh Thần làm nguyên lý sự hợp nhất trong Giáo Hội chứ không phải nhân danh một thế lực hay một trào lưu, một ý thức hệ nào, bởi vì mọi đặc sủng và ơn thánh đều bắt đầu từ một Thần Khí, một Chúa là Thiên Chúa duy nhất.

Khẳng định trên đây của Thánh Phaolô không phải chỉ mang tính thời sự trong bối cảnh của cộng đoàn Kitô Côrintô đang gặp sự chia rẽ mà phải chăng, đang rất thời sự trong bối cảnh Giáo hội Việt Nam và Hội Thánh hoàn vũ. Qua ơn thánh của Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, mọi tín hữu phải ý thức trở lại sự hiệp nhất này, sự hiệp nhất trong Chúa Giêsu Kitô, Con Người mới, Ađam mới, ông tổ của một nhân loại mới.

Chính trong ý hướng này, chúng ta cùng lặp lại lời cầu nguyện trong kinh Ca tiếp liên để cầu cho nhau và cho Hội Thánh:

Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan,

và chữa cho lành nơi thương tích.

Xin uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng,

chỉnh đốn lại chỗ trật đường.

Xin Chúa ban cho các tín hữu,

là những người tin cậy Chúa, được ơn bảy nguồn.

Xin ban cho họ được huân nghiệp nhân đức,

được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời.

Amen. Alleluia!

59. Nóng sốt, âm vang và dữ dội- Lm Vincent Travers.
Điều đã xảy ra vào ngày Lễ Hiện Xuống lần thứ nhất có thể nói được là đoạn cuối của một câu chuyện mà thật ra đã bắt đầu vào ngày lễ Giáng Sinh lần thứ nhất. Giáng Sinh là câu chuyện Chúa sinh xuống trần với loài người chúng ta như thế nào để giúp đỡ chúng ta sống như Ngài mong muốn. Giáng Sinh là lễ Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Hiện Xuống là lễ Thiên Chúa ở trong chúng ta.

Trước khi Chúa Giêsu trở về trời vào ngày Thăng Thiên, Ngài đã nới với bạn hữu của Ngài nên trở lại Giêrusalem chờ đợi cho tới khi một việc quan trọng sẽ xảy đến. Và họ đã chờ đợi như thế. Họ đã trải qua hầu hết ngày giờ ở nơi căn phòng lầu trên nào đó trong kinh thành Giêrusalem. Chúng ta có thể phác họa cảnh tượng họ bàn tán với nhau về những biến cố thích thú xảy ra trong ít tuần trước đó, họ đọc kinh cầu nguyện, vui sướng hợp quần với nhau và dùng hết ngày giờ để chờ đợi - chờ đợi biến cố đó, cho dù như thế nào - như Chúa Giêsu đã hứa sẽ xảy ra ngày sắp tới và biến đổi cuộc đời của họ.

Ngày trọng đại

Và rồi cuối cùng, mười ngày sau lễ Thăng Thiên, ngày trọng đại đã đến khi Chúa Giêsu đã giữ lời hứa. Khi họ đang cùng nhau cầu nguyện, một việc kinh hoàng xảy ra. Thánh Luca, người thuật lại câu chuyện đó, cố gắng tìm những ngôn từ để diễn tả sự việc lạ lùng đó. Giống như cơn bão dữ dội thổi qua, giống như toàn bộ căn nhà bốc cháy. Họ như bị cướp đi và như ở trên lửa bỏng chẳng khác nào những nhân tình trẻ tuổi. Sự nhiệt tình của mối tình đầu thật kỳ diệu nếu được trường tồn, nhưng thường giảm bớt cường độ và hy vọng thay thế vào đó bằng một điều gì sâu lắng và mãnh liệt hơn. Vào ngày Hiện Xuống các tông đồ cảm thấy mình tràn đầy một năng lực phi thường và lập tức họ nhận biết chính là Đức Thánh Linh mà Chúa Giêsu đã hứa. Họ chứng nghiệm việc Đức Thánh Linh đến như điều gì nóng sốt, âm vang và dữ dội. Đối với một số vị điều đó xem ra bối rối, ngay cả làm cho họ hoảng hốt. Điều nên ghi nhớ là sự hăng say cảm nhận được vào giai đoạn nhất thời đó không duy trì được lâu nhưng đã có thật. Điều đó giúp các tông đồ tiếp tục và bắt đầu một điều gì vĩ đại hơn. Không thể bỏ qua ở đây sự kiện đã xảy ra rất khoan khoái và tăng sinh lực. Kết quả là các tông đồ và thế giới xưa cũ sẽ không bao giờ như thế nữa. Điều đó có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay?

Lời kêu gọi tỉnh thức

Vào một sáng Chúa nhật, một người mẹ vội vàng chạy vào phòng ngủ của con trai. Anh ta còn ngủ. Bà đánh thức dậy và nói: “Hôm nay Chúa nhật. Đây là lúc thức dậy và đi nhà thờ.” Từ dưới chăn đắp anh ta lầu bầu nói: “Con không muốn đi nhà thờ.” Bà mẹ nói: “Con nói gì? Con không muốn đi nhà thờ? Thật là vớ vẩn. Con phải đi nhà thờ.” Anh ta đáp lại: “Con nói cho mẹ biết hai lý do tại sao con không muốn đi nhà thờ. Trước hết, con không thích những người ở nơi nhà thờ và thứ đến, họ không thích con.” Bà mẹ trả lời lại: “Rõ ràng thật ngớ ngẩn. Con phải đi nhà thờ và mẹ nói cho con hai lý do tại sao con phải đi. Trước hết, con đã năm mươi mốt tuổi rồi. Thứ đến, con là cha xứ.”

Sau khi Đức Thánh Linh hiện đến giống như Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ: “Hãy ra khỏi nơi đây. Các con đã ba mươi hay bốn mươi tuổi rồi. Các con là những tông đồ và là những kể loan báo Tin Mừng. Hãy đi loan truyền tin mừng về tình yêu và lòng lân tuất của Chúa. Sứ vụ của các con là tiếp nối công việc mà Thầy đã khởi đầu.” Và Thánh Luca nói với chúng ta rằng họ đã lập tức cầm lên cây gậy mà Chúa Giêsu đã trao phó. Họ đã mở toang cửa ra và tuôn tràn xuống những nẻo đường đông đúc ở Giêrusalem với một mùa xuân trên những bước đi mà trước đó chưa có. Họ đi từ nhãn cầu nầy đến nhãn cầu khác và nhìn vào mặt đám đông. Khi người ta hỏi nhà thám hiểm David Livingstone chuẩn bị đi tới đâu, ông trả lời: “Tôi chuẩn bị đi bất cứ đâu, bao lâu còn hướng về phía trước.” Đó là tâm trạng của các tông đồ khi họ xông ra các đường phố Giêrusalem dưới tác động và ảnh hướng của Đức Thánh Linh.

Lễ Hiện Xuống ngày nay

Sứ vụ của Chúa Giêsu là cho mọi thời và mọi lứa tuổi. Điều đã khởi đầu ở Giêrusalem có nghĩa là còn tiếp tục ngày nay. Các tông đồ đã chết và đã qua đi. Họ đã đi vào lịch sử. Họ đã làm phần việc nhỏ bé của họ. Những người khác đã thế chỗ họ qua thời gian. Ngày nay đến lượt chúng ta tiếp tục điều mà Chúa Giêsu đã bắt đầu ở Giêrusalem. Đó là ơn gọi của chúng ta và không có ơn gọi nào cao quí hơn nữa. Thực tế, Chúa Giêsu đang nói: “Thầy nói cho các con hai lý do tại sao các con nên tiếp tục sứ vụ của Thầy: Các con đã trưởng thành đủ và Thầy đã chọn các con!”

J.R. Moehringer, một phóng viên của LA Times đã đoạt giải Pulitzer mấy năm trước đây về một bức ảnh đầy cảm hứng của một cộng đoàn sinh sống ở một ven sông hẻo lánh ở Alabama là những con cháu mà tổ tiên xưa kia là nô lệ. Ông đã bắt đầu câu chuyện như thế nầy: Bà Mary Lee Bendolph hy vọng phà không tới. Nhưng nếu phà tới, bà sẽ bước lên. Bà run rẩy khi từ dưới đất bước lên phà vì bà không biết lội và bà không thể quên bao nhiêu lần bà đã đi qua con sông nâu dị hợm đó để rồi chỉ gặp thêm nhiều điều dị hợm hơn ở bên kia bờ sông.

Nhưng nỗi lo sợ không bao giờ quật ngã Mary Lee Bendolph được và không giòng sông nào có thể ngăn chặn bà được. Bà sẽ lên phà đó nếu nó tới, bởi vì có điều gì đó nói với bà là bà phải leo lên và vì hết thảy những người mà bà yêu thương nhất đều lên phà với bà. Nếu có một điều mà bà đã học được trong cuộc sống khó khăn của bà, đó là: “Khi đến lúc sang sông, bạn đừng đặt câu hỏi. Bạn chỉ vượt qua sông mà thôi.”

Lễ Hiện xuống là điều thiết thực đã đem xuống trên mặt đất

Đôi khi người ta nói tôn giáo như thể điều gì không thực dụng, chỉ toàn trên mây gió và không chút liên hệ đến thế giới hiện thực. Đối với nhiều người, không có điều nào trong tôn giáo mơ hồ hơn, tối nghĩa hơn hay không thể nắm bắt với thế giới hiện thực hơn cho bằng điều liên quan đến Đức Thánh Linh. Không có điều gì xa vời chân lý hơn. Thật ra Đức Thánh Linh là điều chính xác mà ở đó tôn giáo hiện thực và thực dụng đã đâm rễ chắc chắn ở trên mặt đất. Thánh Thần Ngôi Ba Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa trừu tượng, được che giấu ở nơi xa xôi nào đó trên thiên đàng. Đó là Thiên Chúa ở trong tâm tưởng chúng ta, ở trong tính khí và nhân cách chúng ta, ở trong bản năng và huyết quản chúng ta. Điều đó có nghĩa là mỗi một ý tưởng đứng đắn, độ lượng, ân cần, cao thượng và nhạy cảm xuất hiện trong đời sống chúng ta là chính Thiên Chúa đang hoạt động ở trong chúng ta. Giờ đây chúng ta tự hỏi có điều gì có thể thực tế hơn, thực dụng hơn và có tính cách trần thế hơn? Mầu nhiệm Hiện Xuống mời gọi chúng ta hòa nhịp với Thiên Chúa hằng sống, hiện thực và linh hoạt ở trong cuộc sống chúng ta. Vấn nạn ở đây không phải là sự hiện diện của Thiên Chúa mà là sự đáp ứng của chúng ta đối với điều đó.

Một chị trẻ tuổi nghe tin bà hàng xóm ngoại bát tuần sống một mình, đang đau nặng. Chị quyết định qua ngủ đêm bên cạnh giường bà đó. Ý tưởng cao quí đó từ đâu tới? Từ Chúa Thánh Linh tới. Theo Thánh Phaolồ: “Chúng ta không thể nói Chúa Giêsu là Chúa, trừ khi chúng ta ở dưới ảnh hưởng của Đức Thánh Linh.” Nhưng Đức Thánh Linh không phải là một Thần Trí hung ác và vô tri. Thần Trí thì dịu hiền tự bản chất và sẽ không áp đăt ngược với ý muốn chúng ta. Chị trẻ tuổi đó đã đáp ứng một cách tự do bởi tác động của Thần Trí vì chị hòa điệu với sự hiện diện dịu hiền và sống động của Thiên Chúa ở bên trong chị.

Lễ Hiện Xuống đem đến cho chúng ta linh đạo cho mỗi ngày và ở bất cứ đâu. Lễ Hiện Xuống có thể biến đổi đời sống chúng ta và làm cho chúng ta có thể vượt bất cứ sông nào ở trước mặt chúng ta, nhìn vào mặt bất cứ đám đông nào và cứ tiến tới, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào vì lợi ích của Tin Mừng.

Ở cạnh bàn của Chúa

Một cô giáo cho học sinh xem bức tranh của Leonardo da Vinci vẻ Buổi Tiệc Ly và hỏi: “Chúa Giêsu nói điều cuối cùng nào với các tông đồ ở căn phòng lầu trên ở Giêrusalem?” Không em nào có thể trả lời đúng ý cô giáo hết. Cô bảo Chúa Giêsu nói như thế nầy: “Nếu các con muốn ở trong bức tranh, các con phải ở cạnh bàn nầy!” Một linh mục tuyên úy lao xá Mountjoy đã kể lại câu chuyện đó vào một buổi sáng nhân Lễ Hiện Xuống. Sau Thánh Lễ, một tù nhân đã theo cha vào trong phòng thánh và xin xưng tội. Khi xưng tội xong, anh ta mỉm cười và nói: “Giờ đây con ở cạnh bàn của Chúa!” Và đó là nơi thuộc về chúng ta.

Phỏng theo bài suy niệm “HOT, LOUD AND VIOLENT” (Nóng Sốt, Ầm Ĩ và Dữ Dội) của cha Vincent Travers O.P. trong sách “IN STEP WITH GOD” (Đồng Hành Với Chúa).

60. Lễ Hiện Xuống (Ga 15, 26)
Có phải Ngài là Thánh Linh không? Xin đứng dậy. Liệu Ngài là ngọn lửa đại náo môn đệ trong phòng tiệc ly xin biểu hiện? Họ đang sợ hãi ẩn lánh thế lực đạo đời vì cái chết của thày mình đấy? Có phải Ngài là Thần khí gây sức mạnh cho mấy người Galilea không? Vì bỗng nhiên họ từ nhát đảm chuyển sang mạnh bạo rao giảng Đấng chịu đóng đinh và sống lại cho đám đông Do thái ở sân đền thờ, làm náo động cả một thành phố? Xin khẳng định mình. Liệu đúng Ngài thay đổi cuộc sống của vô vàn vô số tín hữu, đã can đảm làm chứng cho Đức Kitô Phục sinh? Xin xuất đầu lộ diện: Chúng tôi chẳng thể chờ đợi lâu hơn! Phải chính Ngài khuấy rối lương tâm thiên hạ để họ không ngủ quên trong tội lỗi mà trở về đường ngay nẻo chính? Liệu có đúng chúng tôi khám phá ra Ngài thọc gậy bánh xe các tổ chức, các cơ chế trần tục, hướng dẫn họ theo ý muốn của Thiên Chúa? Có đúng Ngài gợi hứng các công việc Bác ái yêu thương nơi sinh hoạt nhân loại? Tóm lại Ngài chính là kẻ gây nên những náo lọan luân ly, phong hóa không ai có thể phủ nhận? Đúng vậy Ngài thực hiện tất cả những hoạt động đó. Ngài là Đấng muôn hình vạn trạng như thần Sheva của An Độ. Ngài là sự hiện diện của Chúa Giêsu trong các công đoàn tín hữu, trong Hội thánh. Ngài làm tròn lời hứa của Chúa Giêsu: “Này đây Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 20)

Vậy tại sao trong diễn từ cuối cùng, Chúa Giêsu lại mô tả Ngài cách khác: Đấng dịu ngọt, êm ái, Đấng bào chữa, Thần sự thật, Đấng an ủi, Đấng Đức Chúa Cha hứa ban. Thế ra Ngài linh họat đến vậy ư? Vừa mạnh mẽ, oai quyền, vừa nhân hậu từ bi, vừa yêu thương ngọt ngào. Chúng con không thể đóng khung Ngài vào một ngôn từ nào cả. Theo thánh Gioan thuật lại lời Chúa Giêsu, xem ra Ngài là nguyên lý nội tại, thùc đẩy tín hữu nên thánh, nên trọn lành. Là gió, là bão, là ngọn lửa cháy trong tâm can con người, là kẻ dẫn đường cho những linh hồn quyết chí theo Đấng Cứu Thế, chứ đâu có ồn ào ngọan mục như các biểu tượng? Ngài xem ra dịu dàng êm ái, âm thầm chứ đâu có hấp dẫn đám đông như ngày lễ Ngũ tuần?

Thưa Thánh Thần, có lẽ Phaolô trong thư gửi công đoàn Galata mô tả tính chất của Ngài đúng hơn: Đấng kêu gọi anh em đến” tự do”. Vĩ đại quá, choáng ngợp quá: “tự do” là khát vọng ngàn đời của con tim nhân loại. Không dập tắt được, ngay cả cái chết. Người ta đã từng hô vang: Tự do hay là chết. Ngài đã nghe thấy tiếng kêu than ấy, cho nên đã gọi họ đến bến bờ “Tự do”. Tự do khỏi tội lỗi, khỏi xác thịt, khỏi lỗi lầm, khỏi nô lệ (trong muôn vàn hình thức của nó). Ngài đúng là sự hiện diện khác của Chúa Kytô, Đấng đã lấy máu mình giải phóng nhân loại. Thánh nhân còn thêm: Thánh Thần mang tình yêu của Thiên Chúa xuống cho mọi con tim, mọi cộng đòan Hội thánh. Từ sự mô tả này, chúng con có ấn tượng Ngài là nguồn mạch sự sống, là máng chuyển muôn ơn Chúa trong thực thể mỗi người chúng con. Do đó, chúng con có trách nhiệm dùng đời sống, lời nói, việc làm tỏ rõ tình yêu của Thiên Chúa cho thế giới nhiễu nhương này.

Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa, Ngài là ai? Sao mà vĩ đại thế? Sao mà danh tiếng thế? Mọi người mọi nơi từ hang cùng ngõ hẻm, đến thành thị phải biết đến Ngài, phải thờ phượng yêu mến Ngài để được hạnh phúc. Ngài đúng là gió mát, lửa thiêng chung quanh nhân loại, chung quanh Hội thánh. Không linh hồn nào được thiếu thốn gương mặt của Ngài. Ngài thâm nhập vào hữu thể từng người, như dầu thơm, nước mát làm tươi trẻ các linh hồn. Sự hiện diện của Ngài lặng lẽ, kiên trì, êm ái hướng dẫn chúng con từ bên trong, khi chúng con khao khát thánh thiện, ước mong Thiên Chúa và phục vụ tha nhân hằng ngày.

Tuy nhiên, những mô tả trên đều là cố gắng nhốt Thánh Thần vào não trạng con ngừơi, cố gắng định nghĩa Ngài ra sao, ở đâu và thế nào. Chúng ta sẽ hoàn toàn thất bại. Bởi “gió muốn thổi đi đâu thì thổi” (Ga 3, 7). Cố gắng của chúng ta, ngay cả của Kinh thánh so với thực chất của Thánh Linh thì chỉ là những phác họa bề mặt. Thánh Thần là một Màu Nhiệm, không thể hiểu, không thể mô tả. Cho nên, chỉ có lòng yêu mến, thờ lạy là đúng nhất. Cố gắng mô tả Thánh Thần trong một thể hiện thì giống như người ta gom gió vào bị. Một việc làm vô ích hoàn toàn. Những gì chúng ta rút ra được từ những mô tả trên chỉ mang ý nghĩa: Thánh Thần là quà tặng của Chúa Giêsu cho nhân loại qua mọi thời đại. Nó tăng cường đức tin qua những thử thách, giúp đỡ các cộng đòan vượt rào cản của văn hóa, sắc tộc, ngôn ngữ, giới tính và hiệp nhất mọi khác biệt để cùng nhau truyền bá Tin Mừng Chúa Giêsu bằng gương lành việc tốt.

Xin nhìn kỹ hơn vào các bài đọc hôm nay. Chúng đều tập trung vào Thánh Thần và các ơn huệ của Ngài. Mấy tuần gần đây, chúng ta được phụng vụ cho nghe nội dung Huấn Từ cuối cùng của Chúa Giêsu trong Phúc âm Gioan. Chúa Giêsu sửa sọan tâm lý các môn đệ cho việc Ngài ra đi, Ngài hứa không để các ông mồ côi, nhưng sẽ sai Thánh Thần đến với các ông. Thánh Thần mà Ngài gọi là Đấng Bảo trợ (Paraclitus) hay trạng sư. Nghĩa khác của Parclitus là kẻ an ủi, đỡ nâng. Chúng ta thử mường tượng, không có Chúa Giêsu các ông sẽ ra sao? Làm được chi? Cho nên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần là tối cần thiết. Ngài sẽ an ủi, khích lệ các ông khi Chúa Giêsu vắng mặt. Đối với các ông, Thánh Thần là Chúa Giêsu khác. Ngài sẽ lấy những gì của Chúa Giêsu mà ban cho các ông, nói năng với các ông và các thế hệ tin hữu tương lai. Nghe lời khuyên bảo của Thánh Thần là nghe Chúa Giêsu.

Như vậy, Chúa Kytô hứa, sẽ trở lại với các ông bằng Thánh Thần. Đức Giêsu bị giới hạn bởi thân xác trần thế, thì Thánh Thần hoàn toàn tự do không hề bị giới hạn. Vậy thì Ngài ở trong mọi người đã lãnh nhận Chúa Giêsu. Hơn nữa những điều Chúa Giêsu không thể dạy dỗ các môn đệ trong thời của họ: “Thày còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể chịu nổi.” Thì Thánh Thần sẽ tiếp tục công bố cho thế hệ mai sau, cho chúng ta và cho mọi linh hồn đến tận cùng thời gian. Cho nên, ngay lúc này, cũng như thời Chúa Giêsu hơn 2000 năm trước. Thánh Thần dạy dỗ Hội thánh từ kho tàng của Chúa Giêsu. Từ ấy đến nay, mọi sự đã thay đổi nhiều. Nhưng Thánh Thần là chiếc cầu nối tiếp công trình của Chúa Giêsu qua mọi thế hệ. Không thời nào phải thiếu thốn. Thời nào cũng có các môn đệ đầy Thần khí, mạnh dạn rao giảng Tin Mừng cho thế giới.

Khi còn ở với các môn đệ, Chúa Giêsu biết thế gian sẽ ghét cay ghét đắng họ. Họ sẽ bị đồng bào tẩy chay, các tư tế, thượng phẩm ghét bỏ và bách hại. Cho đến muôn đời các kẻ tin kính Ngài sẽ phải chung số phận. Thánh Thần sẽ kiện cường họ, ban cho họ nghị lực để vượt qua khó khăn. Họ sẽ khám phá ra rằng, tự thân chẳng thể chịu đựng nổi. Nhưng với Thánh Thần họ sẽ là các chiến sĩ, các anh hùng của Chúa Kytô. Thánh Thần sẽ đưa họ vào sự thật toàn vẹn, họ chinh phục và toàn thắng thế gian. Vì: “Sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 17, 17). Thánh Thần sẽ hướng dẫn mọi linh hồn sống xứng đáng danh hiệu của mình và nhìn tỏ trách nhiệm phải sống ra sao, hành động thế nào trong mỗi thời đại của Hội thánh. Họ sẽ yêu mến mọi người như Chúa Giêsu truyền dạy với tấm lòng đơn sơ và chân thành.

Bài đọc Công vụ kể lại: Mọi người tề tựu trong ngày lễ Ngũ tuần, ngay cả các binh lính Rôma để nghe rao giảng phúc âm trong ngôn ngữ riêng của mình. Lễ Ngũ tuần có nghĩa 50 ngày sau lễ Vượt qua. Những người Do thái đạo đức lên đền thờ Giêrusalem để mừng lễ. Nguyên thủy, nó là lễ nông nghiệp. Người ta dâng kính Thiên Chúa những hoa màu ruộng đất, và cảm tạ Ngài vì những thu họach mùa màng. Nhưng cũng có nhiều ý nghĩa khác nữa. Người ta cảm tạ Thiên Chúa vì quà tặng Lề Luật ở núi Sinai. Đây là quà tặng vĩ đại Thiên Chúa ban cho dân tộc. Như vậy lễ 50 cũng được cử hành ân huệ được Thiên Chúa tuyển chọn và lập giao ước. Thời điểm Sinai là bước ngoặt lớn trong lịch sử Do thái. Đánh dấu một kinh nghiệm đặc thù khi Thiên Chúa chọn Israel làm dân Ngài. Đồng thời các dân tộc khác bị loại trừ khỏi giao ước.

Nhưng tại lễ Hiện Xuống của người tín hữu, Thánh Thần làm một công việc mới. Nó là thời gian cử hành mùa gặt thiêng liêng, rộng lớn hơn, đa dạng hơn, ý nghĩa hơn, thực chất hơn, mà Thiên Chúa, qua Thánh Thần gom góp một dân tộc mới. Các môn đệ được Thánh Thần thúc đẩy rao giảng và thực hiện các kỳ công của Thiên Chúa, nhờ đó Ngài thiết lập giao ước mới với Hội thánh, mở rộng cho hết mọi dân, mọi sắc tộc, ngôn ngữ, phong tục, văn hóa. Không giới hạn nào được đặt ra: “Kỳ quan của Thiên Chúa không còn giời hạn vào dân tộc Do thái nữa. Nó được công bố cho tòan thể địa cầu, nhờ dân tộc mới mà chúng ta được gọi là dân Thiên Chúa. Dân này có lối sống mới, phong hóa mới, xây dựng nên trời mới đất mới ngay trên cõi đời này” Như vậy là tin vui mừng cho nhân loại, đầy dẫy tội lỗi và khổ đau.

Cho nên, có những kẻ xấu miệng gọi chúng ta là người mộng mơ. giữa thanh thiên bạch nhật. Vâng đúng thế, như mục sư Luther King Jr tuyên bố: “Tôi có một giấc mơ” (I have a dream). Người tín hữu thực sự có một giấc mơ. Giấc mơ to lớn hơn của mục sư King nhiều. Chúng ta mơ đến một thế giới hòa bình, thánh thiện, không còn bạo lực, không còn áp bức chiến tranh, không còn tham lam mờ tối. Thế giới mọi người bình đẳng và yêu thương nhau. Thế giới trong đó các chính phủ chăm lo cho người nghèo đói, thấp cổ, bé miệng, vô gia cư, vô tổ ấm. Thế giới mọi người đủ ăn, đủ mặc, nước sạch, vệ sinh và các nhu cầu khác được đáp ứng tốt đẹp. Đối diện với các thảm cảnh hiện nay, người tín hữu tin cậy vào Chúa Phục sinh mà mơ mộng những giấc mơ lý tưởng nhưng hiện thực cho mọi người.

Việc này không phải là viển vông vì cũng là giấc mơ của Thiên Chúa. Ngài có đủ quyền năng để biến nó thành sự thật, cảm thấy được, sờ mó được. Ngày xưa Ngài đã làm những kỳ công, ngày nay tại sao không? Cho nên lễ hôm nay, nhắc nhở các tín hữu bổn phận của mình. Thiên Chúa không hề thất vọng với chúng ta, với thế giới. Ngài tiếp tục đổ ân huệ, đổ Thánh Thần xuống trên mọi linh hồn. Thúc đẩy họ hòan thành giấc mơ của Ngài bằng nhiều ngôn ngữ và hành động hơn những điều Công vụ kể hôm nay. A men. (Fr. Jude Sicilianô, OP)

61. Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
ĐỨC GIÊSU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ

Thánh Thần chính là làn hơi của Thiên Chúa, Người như là gió.

1.- Ngữ cảnh

Dựa theo bố cục tổng quát của TM Ga, đoạn văn này nằm trong chương 20 là chương cuối cùng của phần B (Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm theo lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin Mừng.

Trong tình trạng tranh tối tranh sáng lúc bình minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã được mở và trống không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày Phục Sinh (20,2.17). Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các môn đệ Người. Người gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ của nỗi sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống của Người. Đức Giêsu đã đưa các môn đệ ra khỏi tình trạng bế tắc do phản bội, do sợ hãi. Và Người đã trao sứ mạng để các ông trở thành sứ giả đi khắp nơi mà ban ơn tha tội, ban sự bình an.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Lời chào "bình an" thứ nhất với việc chứng minh sự Phục Sinh (20,19-20);

2) Lời chào "bình an" thứ hai với sứ mạng và trao ban Thánh Thần (20,21-23).

3.- Vài điểm chú giải

- Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần (19): Cuộc hiện ra xảy ra tại Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Lc 24,33-49 cho biết Đức Giêsu hiện ra vào buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều, Người đã ngồi ăn với hai môn đệ tại Emmau, rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem ngay trước khi Đức Giêsu hiện ra với cả nhóm. Rất có thể tác giả dùng từ ngữ "ngày ấy" mà chỉ ngày Chúa Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà Đức Giêsu ban Thánh Thần để ở lại mãi mãi với các môn đệ (xem thêm cc. 14,20; 16,23.26).

Tác giả dùng công thức "Ngày thứ nhất trong tuần" cho cả hai lần hiện ra ở đây (lần sau đúng một tuần sau) rất có thể là vì ông muốn nhắc đến thói quen của các Kitô hữu cử hành Thánh Thể vào "ngày thứ nhất trong tuần" (Cv 20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).

- các cửa đều đóng kín (19): Lý do nêu ra trong bản văn là "vì các ông sợ người Do-thái", nhưng có lẽ tác giả cũng còn muốn cho thấy là thân thể Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đóng kín.

- Bình an cho anh em (19): Trong tiếng Do-thái, shalôm (= bình an) là một lời chào thông thường. Nhưng trong văn cảnh long trọng ở đây, lời của Đức Giêsu có ý nghĩa khác, không phải chỉ là "Cầu chúc anh em được bình an", như thể họ còn phải chờ đợi sự bình an đến trong tương lai. Ở đây, lời Đức Giêsu nói là một nhận định về thực tại: chắc chắn họ đang có sự bình an của Người.

- Như Chúa Cha đã sai Thầy (21): Trong các Tin Mừng khác, cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc 24,47), nhưng ở đây, mẫu mực cho việc sai đi là quan hệ của Con với Cha (một đề tài thần học của Ga, xem 17,18).

- Người thổi hơi vào các ông... Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động này nhắc nhớ đến làn hơi sáng tạo của Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là Thánh Thần. Trên thập giá, Người đã "trao Thần Khí" (paredôken to pneuma; trước đây, vì không quan tâm đến thần học của tác giả Ga, người ta đã dịch là "trút hơi thở") (19,30): Người đã trao ban Thánh Thần cho những người đứng dưới chân thập giá, đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của Thiên Chúa, và cho người môn đệ Người thương mến, tượng trưng các Kitô hữu.

- Anh em tha tội cho ai...; anh em cầm giữ ai... (23): Câu này có vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng Hy-lạp (Bản LXX), Truyện Bilơam: chẳng hạn so sánh Ga 20,23 // Ds 22,6 LXX. Theo bản văn Híp-ri, vua Balác xác tín rằng "kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc họa/bị nguyền rủa" (Ds 22,6 Híp-ri), nghĩa là sẽ bị nguyền rủa qua lời nguyền Bilơam tuyên bố. Ông không bận tâm với quyền năng của Thiên Chúa Israel, là Đấng có đồng ý thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa (Ds 22,12; 23,8). Ngược lại, trong bản văn Hy-lạp, lời của Balác ở 22,6 có một ý nghĩa hàm hồ: có thể hiểu "được phúc" (eulogêntai) và "mắc họa/bị nguyền rủa" (kekatêrantai) vừa theo nghĩa một hậu quả sẽ xảy ra trong tương lai gần (bản văn Híp-ri: dạng phân từ và vị hoàn), vừa theo nghĩa một lời thú nhận không chủ ý rằng chỉ những ai đã được Thiên Chúa chúc phúc hoặc bị Thiên Chúa nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa. Đó chính là điều Thiên Chúa đã nói với Bilơam: "Ngươi không được đi với chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc (estin gar eulogêmenon)". Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang sống trong tình trạng được chúc phúc, từ đó chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa được, kẻ ấy đã đang bị Thiên Chúa nguyền rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông có lý, mà ông không biết.

Dạng hoàn thành apheôntai ("được tha") và kekratêntai ("bị cầm giữ") ở Ga 20,23 có thể được hiểu như thế.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Sau khi Đức Giêsu đã bị bắt, bị xử tử và được an táng, tình trạng của các môn đệ thật đáng thương: các ông về nhà đóng kín tất cả các cửa, vì sợ người Do-thái. Các ông hoàn toàn mất bình an. Trong khi các môn đệ còn ở trong tình trạng bế tắc cùng cực, Đức Giêsu Phục Sinh đã đến với họ, tự mình đi vào ngày giữa lòng tình trạng thê thảm đó.

* Lời chào "bình an" thứ nhất với việc chứng minh sự Phục Sinh (19-20)

Khi hiện ra với các ông, điều đầu tiên Đức Giêsu nói là: "Bình an cho anh em!" (19,19). Nhưng nói mà thôi thì không đủ, Người còn cho các môn đệ thấy rằng các ông có Người đang sống giữa các ông. Người không chỉ nói về bình an, Người cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết thương. Vậy Người chính là Đấng đã chết trên thập giá, nhưng nay Người đã trở lại với cuộc sống trong tư cách vừa là Đấng Tử Nạn vừa là Đấng chiến thắng cái chết. Các vết thương cũng là dấu chỉ cho thấy tình yêu vô biên của Người. Trong cùng một lúc, Người cho các ông được gặp Người như Đấng Chịu Đóng Đinh và Đấng Phục Sinh. Do đó, Người chính là sự bình an và nguồn mạch tuôn trào niềm vui cho các môn đệ (c. 20).

Đoạn văn này còn có một ý nghĩa sâu xa hơn. Lời Đức Giêsu chào "Bình an cho anh em" (eirênê hymin) khiến chúng ta nghĩ đến ý nghĩa Thần Khí học của đoạn văn: eirênê lần đầu tiên được dùng ở Ga 14,27, ngay sau một lời nhắc đến Đấng Bảo Trợ sẽ đến (14,26). Câu tiếp theo "Thầy ra đi và đến với anh em" (14,28) là một quy chiếu về việc Đức Giêsu ra đi và Thánh Thần đến (x. 16,7). Như thế, lời Đức Giêsu nói về sự bình an của Người ở c. 27 rất có thể cũng phải được giải thích như là một quy chiếu về việc ban Thánh Thần trong tương lai, do chỗ các động từ "Thầy để lại" (aphiêmi) và "Thầy ban" (didômi) đều có nghĩa tương lai, cũng như "Thầy đến" (erchomai) ở c. 28. Các lời hứa – sai Thánh Thần, ban bình an, và lại đến – nay đã được hoàn tất.

Một chi tiết nữa cũng liên hệ đến Thánh Thần, là "cạnh sườn" (pleura); từ này tạo một liên kết với cuộc đóng đinh và hành vi người lính đâm cạnh sườn Đức Giêsu (19,31-36). Rất có thể coi nước chảy từ cạnh sườn Đức Giêsu là một biểu tượng về Thánh Thần: nước và Thánh Thần được đặt song song tại 3,5 và cái chết của Đức Giêsu là một điều kiện cần thiết để Thánh Thần đến (7,39; 16,7). Ở 7,38-39, tác giả Ga minh nhiên đồng hóa những dòng nước hằng sống, sẽ chảy ra từ Đức Giêsu, với Thánh Thần. Điều này được hoàn tất ở 19,34. Bây giờ, khi Đức Giêsu cho các môn đệ xem cạnh sườn bị đâm, Người không chỉ chứng minh Người là con chiên Vượt Qua đã chết trên thập giá, nhưng nay đã sống lại; Người còn cho thấy rằng Thánh Thần đã tuôn trào ra từ Người và bây giờ có thể được ban cho các môn đệ.

* Lời chào "bình an" thứ hai với sứ mạng và trao ban Thánh Thần (21-23)

Sau khi chúc bình an lần thứ hai, Đức Giêsu nói đến việc sai phái các môn đệ (c. 21). Trước đây, tác giả TM IV cũng đã nói đến một việc sai phái các môn đệ tương tự việc Chúa Cha sai phái Đức Giêsu (13,20; 17,18). Thiên Chúa sai phái Đức Giêsu đi nói các lời của Thiên Chúa và giảng dạy (3,34; 7,16; 8,26; 12,49; 14,24), để thực hiện ý muốn và các công việc của Thiên Chúa (4,34; 5,30.36; 6,38-39; 9,4), và cứu độ thế gian (3,17). Từ ngữ "như" (kathôs) ở 20,21 khiến nhớ lại nhiều đoạn trong TM IV cho hiểu rằng các môn đệ phải làm việc như các ngôn sứ của Đức Giêsu, y như Đức Giêsu đã làm việc như là ngôn sứ của Cha Người. Như Đức Giêsu đã thấy Chúa Cha, họ cũng đã thấy Đức Giêsu; qua việc thấy Đức Giêsu, họ cũng đã thấy Chúa Cha (14,7-9). Bởi vì Đức Giêsu đã cho họ tất cả được biết những gì Người nghe được từ Chúa Cha (15,15), những gì họ đã nghe được từ Đức Giêsu bây giờ là lời của Chúa Cha (14,24). Các lời (rhêmata) đã được Chúa Cha ban cho Đức Giêsu, Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ (17,8). Như Đức Giêsu đã làm chứng về những gì Người đã thấy và nghe (3,11.32), các môn đệ Người cũng phải làm chứng về Người (15,27). Như một cành nho không thể sinh hoa trái tự mình (aph' heautou) nhưng chỉ nhờ ở lại trên cây nho, họ cũng phải ở lại trong Đức Giêsu, "vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (15,4-5). Đức Giêsu đã ban cho họ vinh quang (doxa) mà Chúa Cha đã ban cho Người (17,22). Như vậy, các đặc điểm ngôn sứ trong sứ mạng của Đức Giêsu nay được gán cho các môn đệ sau khi Người đã chết, sống lại và lên trời vinh hiển.

Nói xong, Người "thổi hơi vào" (enephysêsen) các môn đệ; nói như thế là tác giả giải thích rằng hơi thở của Đức Giêsu là Thánh Thần. Y như sự cố Thần Khí xuống đã đánh dấu khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu (1,32-33), nay ân ban Thần Khí khai mạc sứ mạng của các môn đệ. Trước đây Đức Giêsu đã nói đến Thần Khí sự thật, Đấng ở lại (menei) với các môn đệ (14,17) như Ngài đã ở lại (emeinen) trên Đức Giêsu (1,32). Đây là Thần Khí ngôn sứ, theo như Đức Giêsu đã giải thích: "Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến (16,13). Ở đây nhiều đặc tính ngôn sứ được áp dụng cho Thần Khí: Ngài vừa nghe vừa nói/loan báo những điều giấu kín, và Ngài là trung gioan truyền tải sứ điệp. Ngài sẽ làm chứng cho Đức Giêsu và như thế cung cấp cho các môn đệ một điển hình (15,26-27).

Động từ emphysian ("thổi hơi vào") ở Ga 20,22 đã được dùng tại St 2,7 LXX là chỗ nói về việc Thiên Chúa thổi hơi mang sức sống vào Ađam. Dựa vào đó, có những nhà chú giải đã giải thích rằng, chức năng của Thần Khí là rửa sạch các môn đệ khỏi tội lỗi và làm cho họ thành một cuộc tạo dựng mới. Nhưng ở đây Thần Khí được ban cho các môn đệ không phải vì lợi ích cá nhân họ, nhưng vì những kẻ khác.

"Anh em tha tội ai... anh em cầm giữ ai..." (c. 23): Câu này nói đến quyền tha và buộc tội. Dưới ánh sáng của Chu kỳ Bilơam (Ds 22–24), các thì hoàn thành của Ga 20,23 không có ý nói là Thiên Chúa cứ "nhắm mắt" phê chuẩn bất cứ hành vi tha tội và cầm tội nào mà các môn đệ tự do công bố. Đúng hơn, các thì này diễn tả điều này: nhờ Thánh Thần ngôn sứ được ban cho các ông, các môn đệ sẽ có khả năng tha tội cho những người và chỉ cho những người mà Thiên Chúa hoặc Đức Giêsu đã tha tội cho.

+ Kết luận

Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này vì Người về cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang sống giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng của sự bình an của các ông, hoặc nói theo thư Êphêxô, "chính Người là bình an của chúng ta" (Ep 2,14). Các ông có thể ra đi thực hiện chương trình cứu độ, nhớ Thánh Thần của Người.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đức Kitô mà chúng ta gặp trong Lời Chúa, trong các buổi cử hành Phụng vụ, trong giờ cầu nguyện giữa cộng đoàn anh chị em, là Đức Kitô Phục Sinh. Người ban cho chúng ta bình an và Thánh Thần, và sai chúng ta đi hân hoan chia sẻ niềm tin và niềm hy vọng ấy. Chúng ta cần phải để Người đưa chúng ta ra khỏi ngôi mộ của sợ hãi, của ích kỷ, của những sai lầm, để tin tưởng đi vào lòng thế giới. Quả thật, Đức Giêsu không giải thoát các môn đệ khỏi những ưu phiền (x. 16,33), nhưng ban cho chúng ta sự vững vàng, không lay chuyển và sự tin tưởng an bình.

2. Các môn đệ của Đức Giêsu cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá; các ông cũng phải nhận biết rằng Người vẫn mang những vết tích của cuộc Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính là "Con Chiên đứng như thể đã bị giết" (Kh 5,6). Các vết thương ấy là dấu chứng tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng là dấu cho thấy sự tàn ác của loài người: dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn luôn tin tưởng dấn thân; dấu của sự tàn ác con người, để họ có cái nhìn thực tế, biết rằng mình dấn thân vào trong thế giới nào.

3. Khi ban Thánh Thần trên các môn đệ, Đức Giêsu đã thổi hơi vào các ông và bảo: "Hãy nhận lấy Thánh Thần". Thánh Thần chính là làn hơi của Thiên Chúa, Người như là gió. Người ta không thấy gió, người ta không biết gió bắt nguồn từ đâu và đến đâu thì dừng lại. Cho dù các nhà khí tượng học có bao trước được các trận bão, ta vẫn có cảm tưởng mình bị một sức mạnh vừa huyền bí vừa mạnh mẽ bao trùm. Gió thổi và gây tiếng động. Gió bẻ gãy và nhổ bật lên. Gió tàn phá, nhưng cũng làm cho đất đai ra phì nhiêu. Có khi gió quạt mát, có lúc gió thiêu đốt. Về làn gió Thánh Thần cũng thế. Người mạnh mẽ, Người len lỏi vào mọi sự. Nếu chúng ta mở lòng ra với Người, Người sẽ bẻ gãy, Người nhổ tung và phá hủy tất cả những gì chống lại tình yêu Thiên Chúa; Người cũng làm cho các con tim nên dồi dào phong phú. Người liên tục làm việc trong lòng chúng ta, như thánh Phaolô đã nói: "Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà [liên tục] kêu lên: 'Áp-ba, Cha ơi!'" (Gl 4,6).

4. Nếu chúng ta chờ đợi một sự biến đổi đột ngột, tức khắc và lạ lùng sau khi được rửa tội, chắc chắn chúng ta phải thất vọng. Thánh Thần triển khai các hành động của Người như một hạt giống nhỏ bé trong tim chúng ta. Hạt giống ấy sẽ lớn lên dần dần trong âm thầm thinh lặng, nhưng chắc chắn sẽ kết quả.

62. Vị thông ngôn quyền năng nhưng thầm lặng.
(Suy niệm của P. Ngô Suốt)

Ngày xưa, sau khi sống lại, trong một lần hiện ra với các Tông đồ, Chúa đã hứa ban Thánh Thần xuống cho các ngài. Hôm nay Chúa đã thực hiện lời hứa, ban xuống Đấng có quyền tha tội Chúa phán:“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”(Ga 20:22-23). Hôm nay được coi là sinh nhật của Giáo Hội, chúng ta cùng tìm hiểu xem Ngài là ai, và ảnh hưởng thế nào đối với từng người chúng ta nói riêng, cũng như Hội Thánh Công Giáo nói chung.

Trong ba ngôi Thiên Chúa, Ngôi Ba được gọi bằng nhiều tên nhất: Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, Thần Chân Lý, Đấng An Ui, Đấng Bào Chữa, Đấng Ban Sự Sống v.v. nhưng Ngài cũng là vị Thiên Chúa bị lãng quên nhiều nhất.

Trong Kinh Thánh chúng ta chỉ nghe Thiên Chúa Cha phán, Chúa Giêsu dạy dỗ, nhưng Chúa Thánh linh tuyệt nhiên không phán lời nào. Có thể do sự thầm lặng mà nhiều khi chúng ta quên Ngài, trong khi Ngài là tất cả, Ngài là Thần khí, là hơi thở của Thiên Chúa, nếu không có Ngài chúng ta chỉ như một cái xác biết đi, đắm chìm trong mê muội, thiếu Ngài vũ trụ này sẽ náo loạn, đi đến chỗ sụp đổ hoàn toàn. Khi chúng ta mở máy vi tính mà thấy hiện lên hàng chữ “Missing Interpreter” (thiếu bộ phận giải thích) là ôi thôi rồi, máy chết cứng. Chúng ta cũng vậy, nếu cơ thể thiếu hơi thở, cơ thế ấy chết; linh hồn không có “thần khí” linh hồn cũng coi như chết, tha hồ đắm chìm trong tội lỗi.

Cả chiều dài của cuộc đời Chúa Kitô tại thế gian, và mãi mãi, chúng ta thấy rõ một điều là: Chúa Kitô hướng dẫn, dạy dỗ chúng ta từ bên ngoài, còn Chúa Thánh Linh là kẻ tác động chúng ta từ bên trong. Trong sách Tông Đồ Công vụ hôm nay Thánh Luca thuật lại việc Chúa Thánh Thần hiện xuống với những hiện tượng kỳ lạ, biểu thị cho chính Người, Người như cơn gió mạnh ùa vào nhà, như lưỡi lửa đậu trên đầu các Tông đồ, khiến các Ngài nói được nhiều thứ tiếng. Đúng ra các Ngài vẫn nói thứ tiếng Do Thái mộc mạc, nhưng Chúa Thánh Linh -Vị Thông Ngôn quyền năng- đã giải thích, làm cho mọi người hiểu được, như đang nghe tiếng nói nước mình.

Khi xưa các Tông đồ không hiểu về ý nghĩa cái chết và sự sống lại của Thầy mình, không hiểu về ba ngôi Thiên Chúa. Mãi đến hôm nay, khi Chúa Thánh Thần đến giải thích, soi lòng dạy dỗ các Ngài, các Ngài mới hiểu ra, các Ngài hăng hái lên đường, đem cả mạng sống mình làm chứng cho Tin Mừng (trong 12 Tông đồ, chỉ có Thánh Gioan là chết già, còn lại 11 vị đều tử đạo).

Thánh Phaolô còn đi xa hơn, Ngài cho biết không ai có thể gọi Giêsu là Chúa nếu không nhờ Thánh linh, bạn có thể phát âm chữ Giêsu, nhưng bạn không biết Giêsu là Đức Kitô con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, Chủ tể vũ trụ nếu không có Thánh linh. Đức Cha Fulton Sheen viết: “Hôm nay bạn tin vào Thiên tính của Đức Kitô đó là nhờ Thánh linh, tôi chỉ cung cấp cho bạn những động lực chính, đáng tin, nhưng phần còn lại là do Thánh linh. Chiếc viễn vọng kính không tỏ lộ chính mình nhưng tỏ lộ chi tiết của những vị sao phía trên, Chúa Thánh thần cũng vậy, Ngài không cho biết về Ngài nhưng về Đức Kitô. Chúng ta thử nghĩ với nền văn minh hiện nay nhờ vô tuyến, làn sóng điện, ánh sáng, chúng ta có thể liên lạc đi mọi nơi trên trái đất một cách nhanh chóng, tại sao Thiên Chúa toàn năng của chúng ta ở Thiên quốc không thể rút ngắn khoảng cách để thì thầm với chúng ta qua Thần khí của Ngài!”

Rất nhiều người không hiểu về Đức Kitô, về sự cứu chuộc của Ngài, họ xem Ngài như những người bình thường khác, tại sao? Xin thưa vì họ không có Thần khí. Tại sao họ không có Thần khí? Xin thưa vì họ không giữ giới luật của Chúa. “Nếu yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta” rồi Chúa Thánh Linh sẽ đến và làm cho họ hiểu.

Mục đích của Chúa Thánh linh như một họa sĩ, Ngài vẽ Chúa Kitô trên đồi Canvê, Ngài làm cho Chúa Kitô trở thành hiện thực, sống động để cho chúng ta hiểu mà tin theo Ngài. Sau khi tin Ngài, giữ giới luật của Ngài, Chúa Thánh linh sẽ tiết lộ, thôi thúc chúng ta nên nói và nên làm những gì.

Trên đời này không ai ghét Chúa Kitô bằng Phaolô. Phaolô bắt bớ, tra tấn, nếu cần sẽ giết chết những ai tin theo Chúa Giêsu (Thánh Stêphanô là một đơn cử). Thế mà sau khi lãnh nhận Thần Khí, Phaolô trở thành “Lửa” và có thể nói trên đời này không ai khôn ngoan, thánh thiện, nhiệt tình và liều lĩnh rao giảng Tin Mừng như Thánh Phaolô. Cuối cùng Ngài cũng tử đạo.

Mỗi người chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần: một lần Chúa nói với những người Pharisiêu “ Hãy phá đền thờ này đi, Ta sẽ xây lại trong 3 ngày”. Ngài muốn nói cơ thể Ngài là đền thờ, là nơi Chúa cư ngụ. Vì Ngài là con Thiên Chúa làm người, nên thân xác Ngài là đền thờ tối cao. Chúng ta nhờ ân sủng được kết hiệp với Ngài trong linh hồn chúng ta, chúng ta cũng trở thành đền thờ. Thiên Chúa được tôn vinh hai lần, một lần với Cha Ngài khi Ngài được ngồi bên hữu, và một lần được tôn vinh bởi chúng ta. Ngài nói “Người sẽ tôn vinh Ta” (Ga:16:14), Thánh linh sẽ tôn vinh Ngài qua chúng ta bằng cách làm chúng ta trở thành nhân chứng cho Ngài, mỗi lần chúng ta tuyên xưng Ngài bằng suy nghĩ và hành động của mình.

Mục đích then chốt của Chúa Thánh Linh: Ngài đến để hợp nhất, thánh hóa và ở lại trong Giáo hội, bởi vậy dù cho vật có đổi sao có dời thì Giáo hội vẫn tồn tại. Đây cũng là lý do chúng ta đặt niềm tin tuyệt đối và chỉ tin vào Chúa Giêsu Kitô, con Thiên Chúa hằng sống và Giáo hội do Ngài thành lập. “Ở đâu tội lỗi càng nhiều thì ở đấy ân sủng càng dồi dào”. Giáo hội Hoa kỳ đang trải qua thời kỳ đen tối, chúng ta hãy chờ xem, nhưng chắc chắn sẽ có những biến cố trọng đại xảy đến, vì vị thông ngôn vô cùng quyền năng nhưng thầm lặng của chúng ta biết, Ngài phải làm gì để củng cố, duy trì Giáo hội của Ngài một cách tốt đẹp nhất.

Tóm tại, dù chúng ta có nhìn nhận hay phủ nhận về sự hiện diện của Chúa Thánh Linh, thì Ngài vẫn hiện hữu, vẫn thương yêu chúng ta. Ngay từ thuở chưa có trời đất, vạn vật thì thần khí Thiên Chúa đã bay lượn trên mặt nước, Ngài xuất hiện trước khi vạn vật được tạo thành. Rồi đến khi Chúa Giêsu xuống thế. Chính Chúa Thánh Linh đã hoạt động trước tiên, Thánh Thần Thiên Chúa đã bao trùm trinh nữ Maria. Chúng ta có thể nói rằng phép lạ đầu tiên của Tin Mừng là phép lạ của Chúa Thánh Thần làm cho Đức Bà thụ thai, và sinh con nhưng vẫn còn trong trắng. Ngài là Tình Yêu, vì Ngài ban phát tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa cho chúng ta, và cũng chính Ngài làm cho chúng ta hướng tâm hồn đến Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài có thể làm cho trái tim chai cứng, lạnh lùng của mỗi người biết rung động, biết mở ra trước những nhu cầu của anh em đồng loại. Cũng chính Ngài làm cho chúng ta: không chỉ hướng về Chúa Kitô mà còn nhìn nhân loại với cái nhìn của Đức Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vì là sinh nhật của Giáo Hội, mà Chúa Kitô là đầu của thân thể mầu nhiệm này, nên cũng có thể nói rằng hôm nay là sinh nhật thứ hai của Chúa Kitô. Giáo Hội Công Giáo đã trải qua nhiều thăng trầm, tai biến. Nhưng nhờ Chúa Thánh Linh nên mới tồn tại. Đức cố Tổng Giám Muc Fulton J. Sheen viết: “Không phải lúc nào trong lịch sử, Giáo hội cũng phi thường, được vẻ vang cả. Nói đúng hơn, Giáo hội đã trải qua hàng ngàn lần phục sinh sau hàng ngàn lần bị đóng đinh. Hồi chuông xử tử Giáo hội lúc nào cũng ngân vang, nhưng nhờ bởi sức mạnh của Thần Linh nên “giờ hành quyết” muôn đời bị đình hoãn”.

Để kết thúc xin mượn lời nguyện sau đây của Thánh Gregory Tiến sĩ:” Lạy Chúa, hôm nay Ngài đã soi lòng, dạy dỗ các môn đệ trung thành của Ngài bằng ánh sáng của Chúa Thánh Linh; xin thương ban cho chúng con cùng một Thánh Linh: để chúng con biết phân biệt, nhận xét và phán đoán tất cả mọi sự việc một cách chính xác; luôn luôn được vui thú trong Đấng Ủi An đến từ Thiên Chúa”.

63. Quyền năng tha tội - Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Trong một lần giáo huấn, Đức Giêsu đã quả quyết với các Tông đồ: “Sự gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc. Sự gì các con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 18: 18). Và hôm nay, sau ngày phục sinh, trong một lần hiện ra với họ, Chúa Giêsu đã phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại” (Gn 19:22-23). Khi nói lên lời đó, Ngài chính thức thiết lập Bí tích Giải tội, uỷ thác cho Hội thánh quyền năng tha thứ và cầm buộc. Quyền năng này không chỉ được trao ban cho các Tông đồ nhưng còn thông chuyển đến các đấng kế vị là các Giám mục và những linh mục hiệp thông với các ngài.

Qua lời tuyên bố thiết lập Bí tích Giao hoà, Chúa Giêsu muốn nói với các thừa tác viên đầu tiên và những người kế nghiệp rằng: một khi dưới đất họ đọc lên lời tha tội “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” thì lập tức trên trời Ngài sẽ chuẩn y, và dù tội con người có thẫm như máu đào cũng sẽ được biến đổi tinh trắng như bông.

Trong Tông thư Reconciliation and Penance (“Hoà Giải & Đền Tội), Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đã khẳng định: “Khơi dậy lòng sám hối và thay đổi tâm hồn nhân thế cùng trao ban cho con người tặng phẩm giao hoà chính là sứ mạng đặc thù của Hội thánh khi tiếp nối công trình cứu độ của Đấng Sáng lập”.

Thời Giáo hội sơ khai, việc xưng tội để đón nhận ơn giao hoà với Thiên Chúa và chữa lành tâm hồn thường được các Kitô hữu chân thành thực thi, không cần đến sự thúc giục của các vị chủ chăn, dù rằng lúc ấy lắm việc đền tội kéo dài rất lâu và không kém khắt khe.

Đến thế kỷ 13, để gia tăng ơn ích thiêng liêng cho các linh hồn, Đức Giáo hoàng Innocent ra sắc lệnh buộc mọi người Công giáo đến tuổi lớn khôn phải xưng tội một năm ít là một lần.

Có người đặt vấn đề: Tại sao lại phải đi xưng tội với một linh mục? Tới thẳng với Chúa không được sao?

Đến với Chúa để tìm ơn tha thứ cho bao tội mình phạm là điều rất đúng. Nhưng đến với Ngài như thế nào là điều ta cần thi hành theo lời chỉ dẫn của Chúa Giêsu. Không lý nào Chúa lại trao quyền tha tội cho các linh mục khi chính Ngài có thể tha thứ và không cần đến họ. Thử hỏi nếu ta được trao cho chiếc chìa khoá của một căn nhà với đặc quyền mở cửa cho kẻ ra người vào. Chiếc chìa khoá và đặc quyền đó có ý nghĩa gì khi ta khám phá ra rằng ai ai cũng có một chiếc chìa khoá như vậy và họ ra vào lúc nào tuỳ ý.

Lẽ dĩ nhiên Đức Giêsu có trăm muôn ngàn cách tha thứ tội lỗi con người, nhưng phương cách Ngài “làm người” để cứu thế và “chọn con người” để thi hành quyền năng tha tội là một ý định tỏ tường. Tuy nhiên, bên cạnh ý định của Thiên Chúa cũng có đó một số lý do khiến cho việc xưng tội với một linh mục trở nên cần thiết.

Catholicism and Life (“Công Giáo & Sự Sống”) có chỉ ra những lý do như sau:

Thứ nhất, vì “có những tội được tha và có những tội bị cầm” nên hối nhân phải xưng tội mình ra thì linh lục mới có thể xác định được tội nào được tha và tội nào bị cầm.

Thứ hai, việc xưng tội với một linh mục sẽ giúp cho con người trở nên khiêm tốn. Người ta dễ chừa tội hơn khi biết rằng nếu mình phạm, mình sẽ phải xưng.

Thứ ba, chắc chắn hối nhân sẽ đón nhận được ơn thánh hoá từ bí tích Hoà giải. Nhưng trước đó, họ sẽ nhận được những lời khuyên hữu ích từ vị linh mục, giúp họ thăng tiến hơn trên đường thiêng liêng.

Thêm vào đó, có không ít khuynh hướng nhiệm nhặt hay buông thả khiến cho có người quá khắc khe, thấy điều chi cũng tội, hay có người quá lỏng lẻo đến nỗi bao tội tày trời cũng cho là chẳng có gì ghê gớm. Thậm chí có khi còn biện minh để lương tâm thấy tội nhẹ bớt hay không còn tội lỗi gì nữa. Vì vậy, nếu không có sự trợ giúp của vị linh mục làm sao người ta có thể quân bình với chính mình và chân thành với Thiên Chúa được.

Cuối cùng, khi ban ơn tha tội, vị linh mục thay mặt Chúa sẽ bảo đảm ơn tha thứ cho hối nhân. Đối với người đi “xưng thẳng” với Chúa, ai sẽ đoan quyết cho điều đó? Chắc chắn không ai hết.

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh cáo những người cho mình không cần bí tích Giải tội như sau: “Thật là điên rồ và kiêu căng đối với những ai tự ý coi thường phương thế trao ban ơn sủng và cứu thoát mà chính Chúa Giêsu thiết lập, nhất là đối với những kẻ cho rằng không cần đến bí tích giải tội để được tha tội”.

Có nhiều người vì ý thức lệch lạc nên coi thường xưng tội, nên không còn thấy cần đi xưng tội nữa. Thậm chí có người xấu hổ ngại ngùng khi phải thú nhận tội mình với kẻ khác. G.K. Chesterton, một nhà văn trở lại Công giáo đã viết: “Không việc gì phải xấu hổ về những dại dột của mình… Đã là con người không ai không có lỗi lầm, nhưng lỗi lầm kinh khủng nhất của con người là cho mình không có lỗi”. Thánh Gioan Tông đồ viết thẳng thừng hơn: “Nếu ta nói: ta không có tội là ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong ta” (1 Gn 1:8). Trái lại, “Nếu ta xưng thú tội lỗi mình thì Người trung tín và công chính đủ để tha thứ tội lỗi cho ta, và tẩy ta khỏi mọi bất chính” (1 Gn 1:9). Một điều luôn gắn liền với Bí tích Giải tội là “ấn toà” mà tất cả mọi linh mục phải tuân giữ. Không một điều gì nghe trong toà mà cha giải tội lại được phép nói ra cho người thứ ba, dù tính mạng của mình bị đe doạ hay an ninh quốc gia được bảo toàn.

Lịch sử Giáo hội ghi nhận biết bao hình ảnh hào hùng của những con người dám lấy máu đào bảo vệ đức tin, trong đó có hình ảnh của những linh mục dám lấy mạng sống bảo vệ “ấn toà giải tội”.

Cha Gioan Nepomucene là mẫu gương tiêu biểu trong thế kỷ 14. Ngài là cha giải tội của Hoàng hậu Jane, nước Bohemia. Vua Wenceslaus là người đa nghi và ghen tuông. Vì muốn biết Hoàng hậu đã làm điều chi thầm lén nên nhà vua yêu cầu cha Gioan thuật lại những gì nàng xưng ra với ngài.

Tưởng rằng quyền lực và uy thế của mình có thể khui được ít nhiều bí mật nơi miệng cha Gioan, nhưng vua đã lầm. Vị linh mục của Chúa nhất quyết không hé lộ bất cứ điều gì. Kết quả, ngài bị nhốt vào hầm tối. và một đêm kia, bị nhận nước cho đến chết.

Ba trăm năm sau, khi khai quật lăng mộ cha Gioan, những người hữu trách đã ngỡ ngàng chứng kiến thân thể ngài mục nát hoàn toàn, ngoại trừ chiếc lưỡi vẫn nguyên vẹn như lúc còn sống. Ngày nay, trên chỗ ngài bị giết người ta dựng lên một tượng đài, phía dưới chân có khắc dòng chữ: “Nơi đây vị chứng nhân của Ấn toà Giải tội đã nằm xuống”.

Gần đây nhất là biến cố cha Demoulin, người pháp, bị kết tội giết người vào năm 1899 và phải ở tù chung thân. Số là ông quản nhà thờ đã gây nên án mạng rồi dấu vũ khí trong phòng cha. Để bịt miệng ngài, ông xin xưng tội và thú nhận phạm tội giết người. Thế rồi, vì không thể tiết lộ danh tánh phạm nhân, nên cuối cùng cha Demoulin bị toà kết án chung thân khổ sai.

Sau 25 năm, thân thể cha Demoulin tàn tạ theo thời gian và sự khốn cực lao tù. Ông quản ngày nào đang hấp hối trên giường bệnh và tha thiết xin gặp một linh mục. Thế rồi trước khi nhắm mắt lìa đời, ông đã kịp xưng thú với mọi người về tội sát nhân năm xưa, đồng thời xin ơn tha thứ qua bí tích giải tội mà ông đã lợi dụng để đưa một linh mục vô tội vào tù (x. Catholicism and Life).

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao ban cho các Tông đồ món quà vô giá là Chúa Thánh Thần và quyền năng tha tội. Sứ mạng của các ngài và những người kế vị là làm nảy sinh hoa trái cho toàn nhân loại. Biết khiêm tốn mở lòng đón nhận ơn tha thứ, con người sẽ tìm thấy bình an và sự sống đích thực, dù thần chết có đang hăm he rình chờ. Biết tìm đến cùng toà cáo giải, tâm hồn sẽ được chữa lành và ngập tràn hân hoan.

64. Chú giải của Noel Quesson.
Chiều tối ngày thứ nhất trong tuần

Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, chiều tối ngày Phục sinh, ngay sau khi Đức Giêsu sống lại, các môn đệ đã được ban Chúa Thánh Thần và Hội Thánh phát sinh từ hơi thở của Đức Giêsu. Trong bài tường thuật này, so với bài của Thánh Luca trong Công vụ Tông Đồ, hình như Đức Giêsu chiếm chỗ quan trọng hơn Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan đã thường cho chúng ta thấy màu sắc thần học dưới hình thức những biểu tượng Kinh Thánh trong Tin Mừng của Người.

“Ngày đầu tuần”.

Một thế giới bắt đầu, một tạo dựng mới. Đây là một sáng thế ký mới. Chúa đã “nắm được con người trong tay”, và nhồi nắn lại con người với một thứ đất sét mới.

Và từ ngày đó, các Kitô hữu đã luôn luôn tập họp lại, từ “ngày thứ nhất trong tuần” này đến “ngày thứ nhất trong tuần” kia, nghĩa là từ Chúa nhật này đến Chúa nhật khác. Hội Thánh được hình thành từ những cuộc tập họp như thế trong suốt thời gian và ngày nay vẫn còn tiếp tục. Cũng cần phải có những buổi họp mặt Chúa nhật để hình thành một Kitô hữu, dần dần theo tiến độ những lần Đức Giêsu “hiện đến”. Chúng ta đã xa rời sự bắt buộc phải xem lễ ngày Chúa nhật với vẻ pháp lý của nó: Bây giờ, việc xem lễ là một điều cần thiết cho cuộc sống “Chúng bị bắt buộc phải thở, để lấy hơi lại”. Và không phải chỉ một năm một lần mà thôi.

Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ

Sự sợ hãi! Thế giới chúng ta luôn luôn ở trong sự sợ hãi. Nguy cơ về nguyên tử, đó là mối lo sợ!

Trước khi đi xa hơn trong việc cầu nguyện, tôi cần phải nhìn thẳng vào trong chính cuộc đời của tôi xem tôi sợ những gì? Nơi Chúa “hiện ra vào ngày Phục sinh”, là nơi các môn đệ đã tự khoá cửa lại, để tự bảo vệ; nơi các ông sợ hãi. “Nơi Chúa Thánh Thần có thể hiện ra trong đời tôi, đó chính là vết thương nội tâm của tôi, chỗ yếu nhược của tôi, nơi tôi có thể bị nguy hiểm hay đau khổ. Tình trạng “khoá chặt cửa” của tôi như thế nào? Những hoàn cảnh, tội lỗi, lo âu nào đang giam giữ tôi?

Thánh Phao lô đã có ý thức thực tại này như là một cái chết: “Cái chết đang tác động trong chúng ta. Nhưng chúng ta không mất can đảm, vì trong chúng ta, dù là con người bên ngoài đang đi đến sự hư mất, con người bên trong vẫn mỗi ngày mỗi đổi mới – Những nguy nan chóng qua của ta thật nhẹ nhàng so với sự cao quý khôn lường của vinh quang đời đời mà Chúa chuẩn bị cho ta” (2Cr 4,12-16.17).

Đức Giêsu đến đứng giữa các ông.

Không phải ngẫu nhiên mà Thánh Gioan đã liên kết việc Đức Giêsu Phục sinh với việc ban Chúa Thánh Thần. Trong Kinh Tin Kính chúng ta khẳng định rằng: Chúa Thánh Thần là “Chúa, Đấng ban sự sống”. Ơn ban sự sống này, chính Đức Giêsu đã được nhận trước tiên, khi giải thoát Đức Giêsu khỏi quyền lực của sư chết, Chúa Thánh Thần đã làm được một kỳ công lớn lao.

Nơi chúng ta là tạo vật hữu hạn, không phải là Chúa “tinh thần” và “thể xác” luôn được liên kết, lúc thịnh cũng như lúc suy. Nhưng dù tinh thần của chúng ta có mạnh đến đâu, nó cũng sẽ bị một thất bại cuối cùng, nó không thể giữ lại thân xác của nó: “Con người” có nghĩa là “hay chết”. Nhưng đứng trước vũ trụ được tạo dựng và hay chết này, Đức Kitô chẳng những có khả năng giới hạn của trí khôn nơi con người mà còn có những khả năng vô hạn của Thiên Chúa.

Nơi Đức Kitô có một thần trí thức hơn hẳn trí khôn con người thường bị cái chết khống chế – Đức Kitô có được quyền năng Chúa Thánh Thần, là Đấng ban sự sống.

Đức Giêsu phá vỡ mọi rào cản. Việc người đột nhiên xuất hiện với các môn đệ đang ở trong phòng đóng kín có nghĩa là Người không bị một trở ngại nào ngăn cản không cho đến “ngự giữa các môn đệ của Người”.

Sáng hôm đó, Người đã nhận được một “hơi thở” mới, làm Người trở nên một “thân thể linh thiêng”, một thân thể sinh động do sự sống của Chúa Thánh Thần (1Cr 15,44). Trước khi trực tiếp ban hơi thở đó cho các bạn hữu mình Đức Giêsu “được Phục sinh và tôn vinh nhờ quyền năng Thiên Chúa, Cha Ngài, đã nhận từ Chúa Thánh Thần” (Cv 2,23). Chính Thánh Phêrô nói lên mạc khải lạ lùng này trong ngày Lễ Hiện Xuống – Vâng, sự Phục sinh là công trình của Chúa Thánh Thần.

Người đưa cho các ông xem tay và cạnh sườn.

Bạn đang tìm nơi Đức Giêsu xuất hiện vào ngày Phục sinh chăng? Bạn thấy khó nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần chăng?

Vậy thì bạn hãy cố tìm ra những vết sẹo, những vết thương trong tim bạn, trong cuộc đời bạn, cũng như trong thế gian và trong Giáo Hội.

“Chúc anh em được bình an”. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.

Từ sợ hãi đến vui mừng, nhờ sự bình an

“Như Chúa đã sai Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em”.

Các ông đã tự “ở trong nhà đóng kín”, bây giờ các ông “được sai đi”.

Việc phái các ông đi thi hành nhiệm vụ không hẳn được coi dưới góc độ của một tổ chức nào đó. Đây không phải là một bảng quảng cáo được dựng lên. Đức Giêsu cũng không nhắm đến những công cụ thực tiễn mà Giáo Hội sẽ tìm ra được để truyền giáo. “Chỉ có một điều quan trọng đối với Người: Nguồn gốc của sứ mạng này. Đó là “mối liên hệ mật thiết kết hợp Đức Giêsu với Chúa Cha”. Nói cho cùng, chỉ một sứ mạng: Sứ mạng của Chúa Cha, cũng là sứ mạng của Chúa Giêsu, và trở thành sứ mạng của Giáo Hội.

Nói xong Người thổi hơi vào các ông.

Ở đây Thánh Gioan dùng ngôn ngữ của Thánh Kinh, ám chỉ đặc biệt đến hai đoạn văn nổi tiếng:

+ Sự tạo dựng lúc đầu: “Chúa thổi vào mũi (của Adong) hơi thở sự sống”(St 2,7).

+ Sự tạo dựng sau cùng: “Hãy thổi lên đống xương khô này và chúng sẽ sống lại”(Ed 37,9).

Đã có một sự tạo dựng trong quá khứ, sự phát sinh sự sống vào lúc khởi đầu thời gian; và sẽ có một sự tạo dựng trong tương lai, sự sống lại cuối cùng, vào ngày kết thúc. Nhưng cũng có một sự tạo dựng luôn luôn hiện thực: “Hơi thở” của Chúa vẫn đang tác động. “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống”.

Hơi thở sự sống! Các bạn không nhận thấy sự tài tình khi mô tả sự hiện diện của Thiên Chúa và hoạt động của Người trong thế giới bằng việc thông thường và căn bản nhất là “thở” sao?. Tất cả những sinh vật đến những dã thú to lớn, tất cả đều thở bằng khí oxy, được ban cho chúng ta trên hành tinh này, và chính tôi cũng đang thở hơi thở của những sinh vật. Đây là một hình ảnh cảm kích của Thiên Chúa duy nhất. Đấng làm cho chúng ta sống! Với Nicôđêmô, Đức Giêsu đã dùng hình ảnh đơn giản này: “Gió thổi đến nơi nào nó muốn và làm cho người ta sống” (Ga 3,6-8).

Anh em hãy lãnh nhận

Tôi cầu nguyện với những lời này. Tâm thức con người ngày nay không thích “nhận lãnh”. Người ta khước từ, không muốn lệ thuộc kẻ khác. Đó là điều tội lỗi nhất: cao vọng được như “thần thánh”. Nhưng điều đó không thuộc quyền con người. Dù muốn dù không con người vẫn phải lệ thuộc và hoàn toàn lệ thuộc: Để sống con người phải nhận sự sống. Tôi nhận sự giúp đỡ của cha mẹ tôi, tôi nhận sự sống từ không khí tôi thở. Tôi tùy thuộc hàng ngàn sự vật, hàng ngàn con người, hàng vô vàn điều kiện khác.

“Anh em hãy nhận lãnh Chúa Thánh Thần”.

Chúng ta phải nhận lấy “Chúa Thánh Thần”. Lạy Chúa xin cho chúng con biết đón nhận những ân huệ Chúa trao ban: Chúa Thánh Thần.

Nhân loại phải đón nhận mối thông hiệp Thần Khí giữa Chúa Cha và Chúa Con. Nhiều nhưng chỉ một. Như thế, chúng ta nhận ra rằng, trong sứ vụ của Giáo hội, không chỉ có Chúa Cha và Chúa Con mà Chúa Cha sai đến, mà là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.

Theo Công đồng Vatican II, Giáo Hội là sự quảng diễn cho con người nhận biết cộng đồng tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa

Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.

Vai trò và nhiệm vụ của Giáo Hội là loan báo sự tha thứ và ơn cứu rỗi. Sự tiến triển trong trang Tin Mừng này của Thánh Gioan thật là cảm kích. Một cộng đồng con người có kinh nghiệm của người được sống lại. Từ kinh nghiệm đó sai gởi cộng đồng này đi làm nhiệm vụ. Sự trao ban Chúa Thánh Thần giúp cho sứ mạng này có thể được thi hành. “Sứ mạng” này là để loan truyền sự cứu rỗi - sự tha thứ – sự thánh thiện.

Như vậy vai trò của Giáo Hội là giải thoát! Là cống hiến cho con người tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Nói cách khác, về mặt tiêu cực, rõ ràng vai trò đó không có nghĩa là Giáo Hội có thể hành xử một thứ quyền võ đoán. Không bao giờ đặt câu hỏi: “Chúa có tha thứ cho tôi không?” Thập Giá của Đức Giêsu đã trả lời cho vấn nạn đó rồi. Nhưng câu hỏi luôn phải nêu lên là: “Tôi có lãnh hận ơn tha thứ đó không?”.

65. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Một trường phái triết học tuy không mới lắm nhưng vẫn mang tính thời sự, đó là “hiện tượng luận”. Cái nhìn triết học này chủ yếu căn cứ vào các hiện tượng lặp đi lặp lại, trong tự nhiên lẫn xã hội, để rồi rút ra những quy luật nào đó khả dĩ giúp ta đặt vấn đề, dù rằng có thiên về tính chủ quan nhưng vẫn phản ảnh một điều gì đó rất thật của cuộc sống. Theo cái nhìn này, xin được nêu lên một vài hiện tượng như sau: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần năm xưa, khi hiện ra với các môn đệ tại nhà Tiệc ly mà không có ông Tôma ở đó, Chúa Giêsu đã thổi hơi trên các ngài và ban Thánh Thần. Hôm ấy các cánh cửa của căn phòng được đóng kín vì các vị sợ người Do Thái hãm hại. Một tuần sau, các vị cũng tề tựu ở đó, có Tôma ở cùng, thế mà các cửa vẫn đóng kín (x.Ga 20,26). Một hiện tượng khác: Các em thiếu niên 13-14 tuổi xét chung đang ngoan ngoãn, siêng năng tham dự Thánh Lễ, chuyên cần học giáo lý, sau khi được Giám Mục đặt tay ban Thánh Thần qua bí tích Thêm Sức, thì một số không ít lại trở chứng, ngang bướng, lười tham dự Thánh Lễ và hay bỏ học giáo lý. Một hiện tượng khác: Đang là chủng sinh thì sống phải phép, lịch sự đủ đầy, bỗng sau khi được đặt tay ban Thánh Thần qua Nghi thức phong chức linh mục, thì có đôi vị lại hành xử theo cung cách cha chú, ta đây.

Là Kitô hữu Công giáo, chúng ta tin nhận tính “tại sự” (ex opere operato) theo thần học bí tích. Tuy nhiên tính “tại sự” ấy của bí tích không cấm chúng ta đặt vấn đề rằng cớ sao trong nhiều trường hợp như chiều ngày thứ nhất trong tuần của năm nào tại căn nhà Tiệc Ly, Thánh Thần đã được ban tặng mà hiệu quả dường như chưa thấy? Vấn nạn xem ra tuy khó có lời giải, nhưng dựa vào lời của Đấng Cứu Thế chiều hôm ấy, chúng ta có thể thấy được vấn đề. “ Hãy nhận lấy Thánh Thần!” Chúa đã thổi hơi ban Thánh Thần, nhưng các Tông đồ phải biết đón nhận. Ai trao cho chúng ta một tặng phẩm mà chúng ta không nhận hay chưa nhận thì cũng là chưa có, nói đúng hơn, là chưa có hiệu quả. Mặt trời đã mọc lên nhưng các cánh cửa căn nhà còn đóng kín thì căn nhà vẫn chìm trong bóng tối. Theo toán học thì ngoài điều kiện cần, phải có điều kiện đủ, thì kết quả mới xảy ra. Triết học gọi đó là nguyên nhân và cơ hội, còn thần học thì phân biệt nguyên nhân tác thành hay còn gọi là nguyên nhân đệ nhất và nguyên nhân đệ nhị. Anh em Phật tử lại dùng hai từ nhân và duyên.

Để hồng ân Thánh Thần mà chúng ta được trao ban, phát sinh hoa trái, thiết tưởng không thể thiếu thái độ sẵn sàng đón nhận, vì đây chính là duyên, là nguyên nhân đệ nhị, là cơ hội, là điều kiện đủ. Để sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần cách hiệu quả, không gì hơn, hãy nhớ lại những gì Chúa Kitô và các Tông đồ nói về Thánh Thần, đặc biệt qua vài Danh xưng của Người. Người là Thiên Chúa thật trong Ba Ngôi Thiên Chúa, là Thần Chân Lý, là Đấng An ủi, Đấng Bảo Trợ, là Nguyên lý của các đặc sủng… Qua các Danh xưng của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể thấy một vài điều kiện để có thể sẵn sàng đón nhận Người.

1. Sự khiêm nhu: Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý. Người dẫn chúng ta đến sự thật, Người soi sáng cho chúng ta nhận thức sự vật hiện tượng, nhận thức chính bản thân ta và tha nhân, nhận biết Thiên Chúa và chương trình ý định của Người cách đúng đắn. Để tiếp cận với chân lý, trên hết và trước hết cần phải có sự khiêm nhu chân thành. Người khiêm nhu thì chân nhận mình còn mù mờ, thấy sự việc như trong sương, trong chiếc gương đồng (x.1Cor 13,12). Người khiêm nhu thì sẵn sàng biết lắng nghe và chân thành học hỏi. Người khiêm nhu còn can đảm nhìn nhận con người bất toàn và đầy thiếu sót lẫn sai lầm của chính mình. Thiếu nữ Maria, làng quê Nagiarét, nhờ biết khiêm nhu cách sâu thẳm, nên đã đón nhận ân sủng Thánh Thần cách đầy tràn (x. Lc 1,26-38). Trái lại, chính lòng kiêu căng đã làm cho nhiều biệt phái và luật sĩ khôn ngoan, thông thái năm xưa không thể tiếp nhận chân lý (x.Lc 10,21)

2. Sự tín thác vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa: Người biết tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa thì sẽ dễ dàng đón nhận Đấng Bảo trợ, đặc biệt trong những cơn gian nan thử thách. Các Thánh Tử đạo là những người làm chứng cho chúng ta về điều kiện này. Dù xuất thân bởi nhiều hoàn cảnh khác nhau, dù khác nhau về trình độ học vấn, dù khác nhau cả về mức độ đạo đức hay chức vị, danh phận…thì các ngài vẫn bình an trong cơn gian khổ, bách hại, vì luôn có Đấng Bảo trợ, Thần An ủi ở cùng. Sự bình an trong cơn gian nan, khốn khó là một trong những nét trỗi vượt của các thánh Tử đạo so với những anh hùng dân tộc. Cũng là chịu hy sinh cách anh dũng vì “chính đạo”, nhưng các anh hùng dân tộc thì phẩn uất, căm thù kẻ làm hại mình, còn các thánh Tử đạo thì hân hoan, an bình và còn cầu nguyện cho cả kẻ giết mình. Được như vậy là nhờ các ngài luôn tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Sự tín thác này được thể hiện bằng niềm tin rằng chính sự sống của mình là do Chúa ban tặng, tin nhận rằng Thiên Chúa không chỉ là Đấng quyền năng đã dựng nên mình từ hư vô mà còn là Người Cha nhân hậu chăm sóc mình đến từng sợi tóc (x.Mt 10,30; Lc 12,7), là Đấng trọn lành cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân (x. Mt 5,44-45)

3. Có tấm lòng vì ích chung: Một người có tấm lòng vì ích chung, cách riêng vì ích lợi của những người nghèo, những người cô thế, kém phận thì rất dễ sẵn sàng hiến thân theo khả năng và hoàn cảnh cách hết mình. Và họ sẽ nhận được nhiều đặc sủng như chữa bệnh, làm phép lạ, nói tiên tri, phân định thần khí…do Thánh Thần ban tặng (x. 1 Cor 12,7-11). Tấm lòng vì ích chung có thể nói là đối nghịch với tâm hồn ích kỷ, chỉ biết lợi ích riêng mình. Khi đã có tấm lòng vì ích chung thì ta sẽ dễ dàng xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng cái khác biệt của tha nhân. Trái lại khi đã đặt cái tôi của mình lên trên hết, thì ta sẽ có nguy cơ tìm cách bắt kẻ khác phục vụ mình, làm theo ý riêng mình cách độc đoán, độc tài và có thể là độc ác nếu ta có chút quyền hay chút tài lực.

Gió muốn thổi đi đâu thì thổi (x.Ga 3,8). Không ai thấy gió nhưng người ta có thể nhận ra gió qua các hiệu ứng của nó như lá bay, cây lay… Xem quả thì biết cây (x.Mt 7,16-20). Mừng Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, một lần nữa xin hãy kiểm định xem chúng ta đã trổ sinh những hoa trái nào. Giả như chúng ta chưa sinh hoa kết trái tốt lành là dấu chứng tỏ rằng chúng ta chưa đón nhận hồng ân Thánh Thần mà Chúa Kitô đã ban tặng. Nếu chúng ta chưa sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần thì cũng là dấu chứng tỏ rằng chúng ta chưa thật sự khiêm nhu, chưa biết tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, chưa biết mưu cầu ích chung, nhất là ích lợi của của người nghèo, người kém phận…

66. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

Chủ đề: Chúa Thánh Thần là nguyên lý hợp nhất

I. Dẫn vào Thánh lễ

Lễ Hiện xuống hôm nay kết thúc mùa Phục sinh. Chúng ta hãy nhìn lại những bước mà Phụng vụ đã dẫn chúng ta đi qua: Đức Giêsu đã nhập thế sống với loài người, Ngài đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, rồi Ngài chịu nạn chịu chết, nhưng Ngài đã sống lại và lên trời. Hôm nay Ngài sai Chúa Thánh Thần đến để thánh hóa loài người. Như thế, Chúa Thánh Thần là Đấng hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa tuôn đổ đầy tràn Thánh Thần xuống trên chúng ta, để chúng ta hoàn thành sứ mạng cứu độ bản thân chúng ta và mọi người.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta có lỗi vì ít nghĩ đến Chúa Thánh Thần là Đấng Thiên Chúa đã ban để hỗ trợ chúng ta.

Chúng ta thường làm việc theo suy nghĩ riêng chứ không theo sự soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Chúa Thánh Thần muốn mọi người hiệp nhất với nhau, nhưng chúng ta thường chia rẽ.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I: Cv 2,1-11

Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.

Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.

Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Đức Giêsu thực hiện lời hứa ấy: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giêsu.

2. Đáp ca: Tv 103

Tv này ca tụng những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm do "sinh khí" của Ngài, tức là do Chúa Thánh Thần.

3. Bài đọc II: 1 Cr 12,3b-7.12-13

Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu đoàn kết hiệp nhất nhau trong Chúa Thánh Thần:

Trong Giáo Hội sơ khai, Chúa Thánh Thần ban nhiều đặc sủng khác nhau cho các tín hữu. Nhưng mọi đặc sủng đều nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn.

Vì thế, một mặt các tín hữu phải tránh chia rẽ nhau, mặt khác phải tận dụng mọi ơn ban của Chúa Thánh Thần để xây dựng thân thể Giáo Hội.

4. Tin Mừng: Ga 20,19-23

Buổi chiều chính hôm lễ phục sinh, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các môn đệ (Theo quan điểm của Luca thì Thánh Thần được ban hôm lễ Ngũ tuần).

Chúa Thánh Thần được ban đồng thời với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai các ông ra đi. Từ đó, ta có thể thấy được những ý nghĩa sau:

Ơn ban cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là Bình an, đặc trưng của thời Messia.

Ơn cao trọng thứ hai của Chúa Thánh Thần là Tha tội: chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật.

Ơn ban Thánh Thần nhằm giúp Giáo Hội ra đi loan Tin Mừng cứu độ.

IV. Gợi ý giảng

1. Lưỡi lửa

Bài tường thuật của Sách Công vụ hôm nay là đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu Ước.

Ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Nôe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không quy tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.

Hôm lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó: tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu? Nhờ chính Chúa Thánh Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất.

2. Lưỡi lửa mà con người hôm nay cần

Nói là một sinh hoạt cần thiết trong cuộc sống chung: hằng ngày khi gặp người khác, chúng ta chào nhau, hỏi thăm nhau, trao đổi ý kiến với nhau, thảo luận, tranh luận v.v. Chính vì để phục vụ cho sinh hoạt cần thiết này mà khoa học kỹ thuật ngày nay đã phát minh ra máy khuếch âm, máy ghi âm, điện thoại v.v.

Nhưng nói với nhau là một chuyện, còn hiểu nhau là một chuyện khác. Hai chuyện này chưa hẳn luôn đi đôi với nhau. Nói với nhau thì nhiều nhưng hiểu nhau chắc không được bao nhiêu. Dịch một ngoại ngữ thì dễ hơn là hiểu được ý thật, lòng thật của người đang ở sát bên cạnh mình.

Có đặt mình trong bối cảnh như thế, chúng ta mới thấy được "lưỡi lửa" mà bài sách Cv hôm nay mô tả là cần thiết thế nào cho con người hôm nay. Ngày xưa, những người có mặt hôm lễ Ngũ tuần tuy nói nhiều ngôn ngữ khác nhau nhưng đều hiểu nhau. Đó là hiệu quả bởi "lưỡi lửa" của Chúa Thánh Thần. Lưỡi hình lửa là tiếng nói của tình yêu. Tiếng nói chân thật nhất là tiếng xuất phát từ cõi lòng. Tiếng nói dễ hiểu nhất là tiếng của tình yêu.

Xin "lưỡi lửa" hiện xuống tràn đầy trong mỗi người chúng ta và trong cộng đoàn chúng ta.

3. Thổi hơi

Bài tường thuật tạo dựng loài người trong sách Sáng thế kể rằng sau khi Thiên Chúa đã lấy bùn đất nắn thành hình người, Ngài đã thổi hơi vào đó, và thế là con người đầu tiên xuất hiện. "Hơi thở" của Thiên Chúa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguyên lý tạo dựng.

Nhưng con người đã phạm tội, bị đuổi khỏi vườn Địa đàng, hạnh phúc ban đầu đã bị đánh mất.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại thổi hơi trên các tông đồ. Phải chăng đây cũng là một đối ảnh của câu chuyện trong sách Sáng thế? Và nếu đúng là thế, thì hôm nay Thiên Chúa tái tạo lại con người, cũng bằng "hơi thở" là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý của sự tái tạo.

4. Hiệp nhất trong đa dạng

Giáo Hội ngày nay là một Giáo Hội đa dạng: đủ thứ linh đạo, đủ loại dòng tu, đủ cách làm tông đồ, quá nhiều hội nhóm, quá nhiều khuynh hướng, quá nhiều ý kiến... Có những kẻ bi quan đã cho rằng Giáo Hội đang trong thời kỳ khủng hoảng. Nhưng thực ra, sự đa dạng này thể hiện một sức sống phong phú.

Nhưng miễn là đa dạng đừng dẫn tới chia rẽ và chống đối phá hại nhau. Miễn sao đa dạng mà vẫn hiệp nhất.

Muốn được như vậy, chúng ta phải lưu ý tới những giáo huấn rất sâu sắc của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay:

Mỗi người, mỗi nhóm hãy ý thức rằng "đặc sủng" của mình là ơn ban của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là tài sản hay tài năng riêng của mình.

Đừng khó chịu, trái lại hãy vui mừng khi thấy những người khác, nhóm khác cũng được ban cho những đặc sủng khác. Đó là dấu Chúa Thánh Thần yêu thương Giáo Hội.

Tận dụng "đặc sủng" Chúa Thánh Thần ban để góp phần mình vào việc xây dựng Giáo Hội, đồng thời ý thức rằng đó chỉ là một phần nhỏ mình góp cho Giáo Hội nên vẫn tôn trọng phần góp của người khác và hy vọng Giáo Hội được nhiều người khác góp phần xây dựng hơn nữa.

5. Chúa Thánh Thần, Đấng bị quên lãng

Chúa Thánh Thần là Đấng bị quên lãng. Đúng vậy, Thiên Chúa có 3 Ngôi là Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế nhưng thường chúng ta chỉ nhớ tới Chúa Giêsu và Chúa Cha thôi, ít khi nhớ tới Chúa Thánh Thần.

Thế nhưng Chúa Thánh Thần lại là Đấng rất kỳ diệu, Ngài mà hoạt động nơi ai thì làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu nơi người đó. Ngài mà hoạt động nơi nào thì cũng làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu ở nơi đó. Xin đan cử 2 bằng chứng.

- Bằng chứng thứ nhất là đoạn sách CvTđ mà chúng ta vừa nghe: Chúa Thánh Thần hoạt động nơi các tông đồ. Trước đó các tông đồ đã từng theo Chúa Giêsu 3 năm, đã từng nghe biết bao lời dạy dỗ của Chúa Giêsu, đã từng thấy biết bao phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng con người của các ông hầu như chẳng chịu ảnh hưởng tốt nào cả: vẫn lo tranh dành quyền lợi, vẫn sợ chết nên trốn kín trong nhà. Thế rồi Chúa Thánh Thần ngự đến trên các công và sau đó các ông được biến đổi hẳn: nhiệt thành với Tin Mừng, can đảm rao giảng Tin Mừng. Có ai ngờ một người như Phêrô đã từng run sợ chối Chúa bây bẩy trước những tên đầy tớ của vụ Thượng tế mà bây giờ lại đứng ra trước một đám đông rao giảng hùng hồn khiến cho liền ngay sa đó có 3 ngàn người xin theo đạo.

- Bằng chứng thứ hai là một bức thư rất đặc biệt. Bức thư này là của một cô gái nước ngoài gởi cho một LM. LM này trước đó có biên thư cho cô gái để trình bày những khó khăn trong bổn phận của mình. Cô gái biên thư khuyên vị LM ấy hãy can đảm, hãy cầu nguyện và mỗi ngày hãy dâng lễ sốt sắng. Cô gái còn cho biết nếp sống hằng ngày của cô: ngoài những giờ làm ăn, cô tranh thủ thời giờ đi dạy giáo lý cho 2 lớp tại một trường học, buổi tối cô tham gia cầu nguyện với một nhóm giáo dân từ 8 đến 10 giờ. Một cô gái giáo dân mới hơn 20 tuổi mà nhiệt thành làm việc tông đồ như vậy và còn nhiệt thành đến nỗi dám đưa ra những lời khuyên dạy đối với một LM! Do đâu mà cô nhiệt thành sốt sắng như vậy? Thưa vì cô đang sinh hoạt trong một nhóm giáo dân giúp nhau sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Nghe những bằng chứng trên, chắc chúng ta cũng mong muốn Chúa Thánh Thần hoạt động nơi chúng ta để làm những điều kỳ diệu nơi chúng ta. Nhưng làm sao để được như vậy? Xin đề nghị 2 điều:

- Một là chúng ta hãy cầu nguyện cùng với Chúa Thánh Thần. Chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều. Nhưng khi cầu nguyện chúng ta chỉ nói cho Chúa biết mình đang sống như thế nào, mình đang cần những ơn gì và xin Chúa ban ơn đó cho ta. Cầu nguyện như vậy là sai lầm, vì đâu phải nhở chúng ta nói mà Chúa mới biết chúng ta cần gì. Chúa là Đấng biết tất cả mọi sự kia mà. Điều quan trọng nhất không phải là ta nói cho Chúa biết ta muốn gì, mà là xin Chúa cho ta biết Chúa đang muốn gì nơi ta. Do đó ta phải cầu nguyện cùng với Chúa Thánh Thần, để Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta biết ý Chúa và giúp ta sau đó làm theo ý Chúa. Có cầu nguyện như vậy thì sau đó cuộc đời ta mới biến đổi.

- Điều thứ hai có liên quan tới việc Xưng tội. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, có một điểm hơi lạ. Đó là Chúa Giêsu vừa ban Chúa Thánh Thần vừa ban quyền tha tội cho các tông đồ: "Chúng con hãy nhận lãnh Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai... " Tại sao Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần và ban ơn tha tội chung nhau? Thưa vì 2 điều đó liên hệ chặt chẽ với nhau. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn lãnh Bí Tích Giải Tội cho có hiệu quả tốt thì chúng ta phải Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thộn. Ta hãy nhìn lại cách xưng tội bấy lâu nay của chúng ta. Mỗi khi xưng tội chúng ta làm 5 việc: một là xét mình xem mình có những tội gì; 2 là sau đó đọc một kinh ăn năn tội; 3 là vào toà xưng tội, kể cho kỹ hết mọi tội đừng sót tội nào; 4 là nghe cho rõ Cha giải tội dạy đọc bao nhiêu kinh; 5 là trở ra đọc cho hết bấy nhiêu kinh đó. Rồi trở về. Kết quả như thế nào? Chúng ta thấy an tâm hơn đôi chút. Nhưng cũng sống bình thường như trước, cũng phạm lại bấy nhiêu tội ấy, lần sau đi xưng tội cũng xưng bấy nhiêu tội ấy. Nghĩa là hầu như không có gì thay đổi. Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thần nghĩa là trong phần xét mình trước khi vào toà xưng tội, chúng ta hãy xét mình cùng với Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng cho ta chẳng những thấy được mình đã phạm những tội gì mà còn tại sao mình phạm những tội đó; xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta thấy những tội mà mình không thấy, Td nhiều người đâu có nghĩ rằng việc mình đang tính kế hại người là có tội, nhiều người đâu có nghĩ việc mình sống ích kỷ với nhà hàng xóm là có tội. Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thần nghĩa là sau khi xưng tội chúng ta xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta biết từ nay mình phải sửa đổi như thế nào. Có như vậy mỗi lần chúng ta đi xưng tội xong, cuộc sống của mình mới thay đổi tốt đẹp hơn.

6. Chúa Thánh Thần, Đấng biến đổi

Bài trích sách Tông đồ Công vụ thuật lại biến cố ngày Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ có nhiều điều rất phi thường: gió thổi ào ào như giông tố, những cục lửa có hình như cái lưỡi đậu trên đầu mỗi vị, sau đó các tông đồ nói tiếng lạ nghĩa là chỉ cần nói một thứ tiếng mà đủ mọi sắc dân khác nhau đều có thể hiểu. Những điều phi thường đó khiến cho đám đông dân chúng bở ngỡ kinh hoàng... Rồi hàng ngàn người đã xin lãnh phép Rửa Tội...

Nhưng điều quan trọng không phải là những biến cố phi thường ngoạn mục đó, mà chính là một cuộc biến đổi bên trong các tông đồ, rất âm thầm nhưng lại rất toàn diện: các ông là những người đã từng sát cánh ngày đêm với Chúa Giêsu, cùng ăn,, cùng đi, cùng làm với Chúa Giêsu suốt 3 năm trời, được Chúa Giêsu dạy dỗ rất nhiều, được chứng kiến biết bao việc làm của Chúa Giêsu... Nhưng vốn tầm thường các ông cũng vẫn còn là những kẻ tầm thường. Tầm thường đến nỗi Thầy vừa bị bắt là tất cả bỏ chạy tan hoang, trốn chui trốn nhủi trong phòng đóng kín cửa không ai dám ló đầu ra ngoài. Tại sao thế? Vì bấy lâu nay các ông đi theo Chúa với tính toán vụ lợi, các ông hiểu giáo lý của Chúa một cách phàm tục: Đi theo Chúa như đi theo một chính trị gia đang lên hương với hy vọng sau này tới ngày thành công sẽ được chia chác địa vị quyền lợi; Chúa dạy giáo lý về nước Trời mà các ông thỉ chỉ hiểu về một nước thế tục. Cái chết của Chúa Giêsu đã làn tiêu tan mọi tham vọng chính trị, những quyền lợi các ông mong chờ cũng thành mây khói luôn, và cả sự an toàn của bản thân các ông cũng đang bị đe doạ nữa. Vì thế các ông sợ sệt, ẩn trốn.

Khi người ta theo Chúa với đầu óc vụ lợi, thì người ta tầm thường

Chúa Thánh Thần đến làm một cuộc thay đổi toàn diện: thay đổi lối nghĩ, lối nhìn, lối hiểu, lối tính toán của các ông: Hiểu giáo lý của Chúa cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước nữa; từ đó các ông quyết định vẫn theo Chúa nhưng không phải vì tính toán vụ lợi mà vì tình yêu hy sinh xả thân hoàn toàn. Cuộc thay đổi ấy đã giúp các ông hết tầm thường, biến các ông trở nên những kẻ trung thành, những cột trụ của Giáo Hội, đến nỗi dù đe doạ, dù tù đày, dù tra tấn, dù gươm giáo, các ông cũng vẫn can đảm và hăng say loan truyền niềm tin vào Chúa.

Ngày nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, điều chính yếu chúng ta mong ước cũng không phải là có những hiện tượng lạ gió thổi ào ào, lưỡi lửa trên đầu và nói tiếng lạ.... mà chúng ta mong chờ chính sự biến đổi sâu xa và toàn diện ấy trong tâm hồn chúng ta.

Đó cũng chính là ý tưởng của ĐGH Phaolô VI trong bài huấn dụ của ngài hôm 29.11.1972. Ngài mô tả trong Giáo Hội có nhiều người theo đạo chỉ vì óc vụ lợi và hiểu giáo lý một cách phàm tục. Chính vì thế mà theo ngài, Giáo hội ngày nay cần có một lễ Hiện Xuống mới, để xin trích dẫn nguyên văn lời ngài "làm cho Giáo Hội được sống động, như có một luồng gió thiêng liêng làm căng buồm con thuyền Giáo Hội, là nguồn suối bên trong ban tràn đầy ánh sáng và sức mạnh cho Giáo Hội..."

Chắc chúng ta cũng ở trong tình trạng của các tông đồ trước ngày được Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Chúng ta cũng đã từng theo đạo mười mấy, hai ba chục năm trời, đã từng Rửa tội, đã bao nhiêu lần xưng tội rước lễ, đã từng lãnh bí tích thêm sức, đã bao nhiêu lần nghe giảng dạy đủ mọi điều giáo lý, Tin mừng.. nhưng con người của chúng ta vẫn cứ mãi tầm thường. Đầu óc chúng ta còn đầy tính toán vụ lợi và tinh thần phàm tục: chúng ta theo đạo để xin Chúa ban ơn cho mình, được làm ăn thành công, được khỏi nỗi buồn khổ này, được đạt đến niềm mơ ước kia. Rồi khi nào cầu xin không được hay cứ gặp khốn khó thì ta chán muốn bỏ đạo, khi gặp nguy hiểm thì ta trốn chui trốn nhủi, không dám đến nhà thờ như các tông đồ xưa trốn kín trong phòng không dám ló đầu ra. Chúng ta cũng cắt nghĩa giáo lý theo kiểu cách phàm tục, không muốn tin những điều siêu nhiên, mầu nhiệm về Thiên Chúa, về linh hồn, về thiên đàng hoả ngục, về bí tích; chúng ta đòi hỏi Giáo Hội có những giải pháp dễ dãi cho cuộc sống và chống đối những chỉ dẫn của Giáo Hội mà ta cho là khắt khe, chẳng hạn về việc vợ chồng ly dị, về các phương pháp ngừa thai v.v....Tóm lại, giữ đạo một cách vụ lợi và phàm tục như thế nên cuộc sống đạo của chúng ta nó thờ ơ, thụ động, dật dờ làm sao ấy. Ta sống đạo nhưng sống như một cái xác không hồn, không hứng khởi.

Muốn cho các xác lờ đờ này thực sự có sức sống sinh động, nghĩa là muốn cho cuộc sống đạo của chúng ta được hăng hái, tích cực, phấn khởi, thì cần phải có Chúa Thánh Thần hiện xuống trên chúng ta. Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi chúng ta toàn diện như các tông đồ ngày xưa: làm cho chúng ta hiểu giáo lý Chúa một cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước làm cho chúng ta theo Chúa không phải vì vụ lợi muốn được điều này điều nọ mà chi vì chúng ta thực sự tin Chúa, yêu Chúa và sẵn sàng hy sinh tất cả vì niềm tin yêu đó.

V. Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Thể theo lời Đức Giêsu cầu xin, Chúa Cha đã ban Thánh Thần để quy tụ chúng ta thành Giáo Hội. Chúng ta cùng dâng lời cảm tạ và cầu xin.

1. Lễ Hiện xuống là ngày khai sinh Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin / Chúa Cha ban Thánh Thần để soi sáng / hướng dẫn / và nâng đỡ các vị mục tử / trong việc điều khiển con thuyền Hội Thánh / vượt qua mọi phong ba bão táp ở trần gian.

2. Nhiều nơi trên thế giới ngày nay vẫn còn đang sống trong cảnh chiến tranh loạn lạc / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha cử Thánh Thần đến / đem yêu thương vào nơi oán thù / đem niềm vui cho người đau khổ / đem hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.

3. Ngày hôm nay / bạo lực và hận thù vẫn còn đang làm cho biết bao gia đình phải tan nát / biết bao người phải lâm vào cảnh khốn khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha ban Thánh Thần là nguồn tình yêu / để đổi mới lòng trí con người trên khắp địa cầu.

4. Đường lối Thiên Chúa thì nhiệm mầu / Lời Người thì cao siêu / nhiều khi chúng ta không thể hiểu tường tận được / Vì thế chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha / ban Thánh Thần cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / để Người chỉ bảo và nhắc nhở chúng ta / những điều Chúa Giêsu đã dạy lúc còn ở với các môn đệ.

CT: Lạy Chúa Cha nhân hậu, không bao giờ chúng con có thể khám phá được hết những kỳ diệu của tình yêu Chúa dành cho chúng con trong cuộc sống. Ước gì Thánh Thần Chúa thâm nhập lòng trí chúng con, và biến đổi cuộc đời chúng con nên một lời ca tụng tình thương của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ...

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta và cầu nguyện thay cho chúng ta bằng những tiếng than van khôn tả. Vậy chúng ta hãy cùng Chúa Thánh Thần dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha sau đây.

- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, cách riêng là sự chia rẻ nhau. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, và được hiệp nhất với nhau trong Chúa Thánh Thần. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."

- Trước lúc rước lễ: Chúng ta sắp được ăn cùng một tấm bánh là chính Đức Giêsu. Xin Chúa giúp chúng ta hiệp nhất với nhau. "Đây Chiên Thiên Chúa..."

VII. Giải tán

Anh chị em đã được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần và được thêm sức bởi hơi thở tình yêu của Ngài. Giờ đây anh chị em hãy ra về như những sứ giả của Tin Mừng và Bình an đối với mọi người anh chị em sẽ gặp gỡ.

67. Xin Ơn Hiệp Nhất
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

Con người luôn mơ ước bình an hạnh phúc. Hạnh phúc không đơn thuần là không có hận thù, không có chiến tranh mà hạnh phúc còn là biết đem yêu thương vào trong những hận thù, chia rẽ. Đây cũng là lời cầu nguyện của thánh Phanxico thành Assisi trong lời kinh Hòa Bình mà có lẽ nhiều người đã từng hát. Lời kinh ấy gọi mời cầu nguyện với Chúa cho con người biết xóa bỏ hận thù, kỳ thị, tranh chấp, nghi kị, kết án lẫn nhau… để trở nên những ‘Khí cụ bình an của Chúa…Biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi ngừơi…biết đem yêu thương vào nơi oán thù…Đem an hòa vào nơi tranh chấp…’

Chung quy của lời cầu nguyện là cầu mong cho có sự hiệp nhất yêu thương. Hiệp nhất trong yêu thương. Khi có hiệp nhất người ta mới có thể xây dựng thế giới an hòa, thịnh vượng theo như mong ước của con người. Lịch sử cứu độ đã từng chứng minh về những cái chết thương tâm khi con người chia rẽ nhau. Cain đã giết chết em của mình là Abel. Tháp Babel đã không thể hoàn thành vì loài người chia rẽ đến mức độ ngôn ngữ bất đồng mà Thánh Kinh bảo rằng họ chia rẽ nhau: “Không còn nói cùng một thứ tiếng” nữa… và cũng từ đó chiến tranh luôn xảy ra trên thế giới khiến nhân loại không còn là một gia đình yên vui, êm ấm, thuận hòa.

Nguyên nhân của sự bất đồng thường là do thiếu hiểu biết và kiêu căng mà ra. Người Việt Nam dường như ai cũng biết câu chuyện về 5 Người mù xem voi. Họ bất đồng với nhau vì bản thân họ khuyết tật. Họ chia rẽ nhau vì ai cũng cố chấp và bảo thủ không nhìn nhận sự bất toàn của mình. Thật buồn cười khi ông thứ nhất quả quyết rằng con voi là cây cột nhà vì ông đang sờ vào chân của nó. Ông khác lại khẳng định rằng con voi là cái quạt vì ông đang sờ vào tai của nó. Ông kia lại tuyên bố rằng con voi như cái chổi vì ông đang sờ vào cái đuôi của nó. Và cứ như thế, không ai chịu nghe ai và cuộc tranh cãi, ẩu đả diễn ra.

Xem ra con người luôn có cái nhìn phiến diện. Con người bị giới hạn rất nhiều về khả năng. Và dường như không ai hoàn hảo đến độ có thể hiểu biết mọi sự. Nhưng đáng tiếc, là con người lại kiêu căng đến độ cho mình thông hiểu mọi sự. Đó là lý do gây nên những mâu thuẫn, những đố kỵ, ghen ghét cho cuộc sống chung của loài người.

Các tông đồ năm xưa đã tìm được sự hiệp nhất dưới mái nhà tràn đầy Chúa Thánh Thần. Các ngài nói, các ngài hành động không phải do ý mình mà là do tác động của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã làm mới con người các ngài qua hình ảnh lưỡi lửa đậu trên đầu các tông đồ. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần đã làm nên một cộng đoàn các tông đồ hiệp nhất yêu thương.

Nhờ Chúa Thánh Thần mà các tông đồ đã tìm được tiếng nói chung với nhau. Khi phải quyết định một điều gì các ngài thường nói: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định”. Như thế, các ngài làm điều gì cũng dước tái động của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần mang lại sự hiệp nhất nơi tông đồ đoàn.

Dưới mái nhà hay nơi hội đoàn có lẽ cũng cần phải làm việc dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Không ai theo ý riêng mình. Không ai áp đặt ý mình lên tập thể mà là để Chúa Thánh Thần dẫn dắt thì gia đình, cộng đoàn chắc chắn sẽ có bình an. Vì Chúa Thánh Thần là thần chân lý sẽ dẫn con người tới sự thật. Chính Ngài sẽ giúp mỗi người sống theo sự thật, theo chân lý. Và như vậy niềm vui của sự bình an hiệp nhất sẽ đến với gia đình và cộng đoàn.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến đổi mới tâm hồn chúng con. Xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng nói của sự thật để nhờ đó chúng con được sống trong bình an. Xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng con đi trong chân lý vẹn tuyền để chúng con làm chứng cho tình yêu của Chúa giữa thế gian. Amen.

68. Thời đại Chúa Thánh Linh - AM. Trần Bình An
Một ngày nọ, một Cha sở Miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmông muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:

“Anh chị em từ đâu đến đây?”

“Chúng con đến từ Lai Châu (Tây Nam giáp Điện Biên Phủ). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay”

“Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?”

“Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.”

“Không thể được, không có một Linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng anh chị em. Còn anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép rửa tội được?’

“Chúng con đã học tất cả từ đài phát thanh phát đi từ Phi Luật Tân.

“Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công Giáo nào có chương trinh phát bằng thổ ngữ anh chị em đâu!”

“Đó là đài phát thanh “Nguồn Sống.”

“Một đài phát thanh Tin Lành, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở lại Công Giáo. Thật là điều lạ!”

Vị Linh mục thật cảm kích bật thốt lên: “Đây là một lễ Hiện Xuống Mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần! Chúa Thánh Thần!” Rồi cha lại hỏi đám người Hmông:

“Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?”

“Thưa cha không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.” Cả nhóm đã được Rửa Tội và chịu phép Thêm Sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.

“Anh chị em sẽ không có Thánh lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ, anh chị em sẽ làm thế nào?

“Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình, để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung, và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật, chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30, chúng con ngưng làm việc, thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh lễ qua đài phát thánh Chân Lý, phát từ Manila.”

Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta. (TGM Fx Nguyễn Văn Thuận, Chứng Nhân Hy Vọng)

Trong thời đại thông tin toàn cầu, Lời Chúa được phát đi bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, thậm chí cả những thổ ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam, như tiếng Hmông, Sê Đăng, Gia rai,… Đó là dấu chỉ rất rõ ràng một Lễ Hiện Xuống Mới trên Giáo Hội Việt Nam. Những giọt máu đào của các vị Tử Vì Đạo tiền nhân hào hùng, đã nhờ Chúa Thánh Thần, biến thành những hạt giống Đức Tin đâm chồi nảy lộc trên cao nguyên Tây Bắc xa xôi, hẻo lánh.

Tin Mừng theo Thánh Gioan của lễ Hiện Xuống hôm nay, thuật lại khi các Tông Đồ đang còn hoảng hốt, lo âu, sợ hãi, cửa đóng then cài, thì Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra, chúc bình an đến hai lần. Bình an trong bối cảnh khốn quẫn, khắc nghiệt, cũng như bình an ra đi phiêu lưu rao giảng. Đức Giêsu trao ban Thánh Thần làm Đấng Phù Trợ an ủi: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”

Đấng Phù Trợ

Trong hai chương 15 và 16 Tin Mừng Thánh Gioan, Đức Giêsu ân cần, cặn kẽ giới thiệu tầm quan trọng vô cùng của Đức Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng Phù Trợ và là Thần Chân Lý của các Tông Đồ và tín hữu Kitô. Với làn gió mạnh, những Lưỡi Lửa biểu hiện, Đức Chúa Thánh Thần đã tác động tích cực đến các Tông Đồ vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2, 1-13). Các ngài liền mở toang cửa, can đảm bước ra ngoài, rao giảng cho toàn thể đông đảo dân chúng tứ phương, vốn bất thân thiện, đang tham dự đại lễ tại Giêrusalem. Lạ lùng thay, bất cứ dân nước nào, dân tộc nào hiện diện, cũng hiểu được lời rao giảng nhiệt thành của các Tông Đồ.

Đức Chúa Thánh Thần đã thực sự nâng đỡ, trợ giúp, hồi sinh, cải hoá, đổi mới tâm hồn, cũng như phục sức, tăng lực cho các Tông Đồ, vốn rất yếu đuối, sợ hãi, thất vọng sau cuộc khổ nạn của Thầy Giêsu. Biến đổi thật ngoạn mục, thật kinh ngạc, các ngài trở nên chứng nhân anh dũng của Đức Giêsu - Chịu - Đóng - Đinh.

Ngài còn hiệp nhất tất cả Kitô hữu nên một Hội Thánh trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa. “Vì chưng trong cùng một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta được tràn đấy một Thần Khí duy nhất.” (1Cr 12, 13)

Ngài đem lại những điều tích cực, thiết yếu và khởi sắc cho những mối tương quan nhân loại, giữa cộng đồng, gia đình, bằng những hoa thơm trái ngọt quý giá: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ.” (Gl 5, 22-23)

“Con hãy hợp tác để tạo nên “Mùa Xuân Mới” cho Hội Thánh. Con hãy chuẩn bị các tâm hồn đón nhận “Một lễ Hiện Xuống Mới” trong Hội Thánh. Con hãy nên cánh cửa mở ra, để đón làn gió mát dịu ngập tràn, làm tươi sáng Hội Thánh.” (Đường Hy Vọng, số 657)

Thần Chân Lý

Nhờ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, các lời giảng dạy của Chúa Giêsu trước kia mới được giải mã, ngời sáng, như gạt giống được gieo vào lòng đất tốt đủ độ ẩm yêu cầu, mới có thể nảy mầm đâm chồi, xanh tốt vươn lên. Ngài soi sáng mở lòng các Tông Đồ nhận biết chân lý muôn thuở, sự thật về Đức Giêsu, ý thức về Thiên Chúa Ba Ngôi, Giao Ước mới, Luật mới, cũng như sứ vụ phải thực hiện. Đồng thời, Ngài đã khai sinh ra Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, hiện diện trong môi trường thế gian thù nghịch, như ánh sáng xua tan bóng tối.

Thần Chân Lý sẽ giảng giải cho tất cả những người thiện tâm, mong đợi chính đạo, sự thật và sự sống, Ngài còn đóng vai trò ngôn sứ, tiên báo, cảnh giác. Ngài cũng tôn vinh Chúa Giêsu: ‘Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.” (Ga 16, 13 -14)

Ngài còn là Trạng Sư, tận tình bào chữa, bảo vệ, bênh vực người Kitô hữu trước thế gian thù địch, đố kỵ, ganh ghét, đổ vạ cáo gian. Hơn nữa Ngài còn thánh hoá người Kitô hữu trở nên con cái Thiên Chúa."Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói." (Lc 12, 11-12)

“Thời đại mới, nhu cầu mới, phương pháp mới. “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế,” và Ngài ban cho Hội Thánh lễ Hiện Xuống mới. (Đường Hy Vọng, số 296)

Lạy Đức Chúa Thánh Thần, xin tái hiện xuống chúng con hằng ngày, hằng giờ, để chúng con luôn được tái sinh, luôn can đảm sống theo Lời Chúa, Tông truyền và giáo huấn Hội Thánh, xin thánh hoá chúng con trở nên chứng nhân hy vọng đích thực và chân truyền.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đầy ơn phúc Đức Chúa Thánh Thần, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con cũng được lãnh nhận tràn trề bảy Ơn Đức Chúa Thánh Thần: “khôn ngoan, hiểu biết, lo liệu, sức mạnh, thông thái, đạo đức, và kính sợ Thiên Chúa,” để chúng con luôn nồng nàn kính mến, tôn thờ Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân. Amen.

69. Sống trong Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, hiện diện và hoạt động trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Trong thời đại Tân Ước, Ngài chính là ân huệ của Đấng Phục Sinh và là nguồn sức mạnh nối kết muôn dân và các tín hữu nên một trong cùng một phép Rửa và một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô.

Thật thế, Chúa Thánh Thần đã hiện diện và đã đóng một vai trò tích cực ngay từ khởi thuỷ, Ngài hiện diện và thánh hoá trong lịch sử sáng tạo và cứu độ. Ngay đối với Chúa Giêsu trong cuộc sống ẩn dật và công khai, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và tác động trên Ngài, nhất là trong những biến cố quan trọng, như khi lãnh Phép Rửa ở sông Giođan, hay như khi Chúa Giêsu vào sa mạc chịu ma quỉ cám dỗ, như khi cất bước rao giảng Tin Mừng khắp các làng mạc ở Palestin. Thế nhưng, chỉ khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng bằng cái chết và sống lại từ cõi chết, chính Ngài mới có thể ban Thánh Thần. Trình thuật Phúc âm Thánh Gioan hôm nay cho thấy vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện đến thổi hơi vào các môn đệ và bảo: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20, 22). Cử chỉ thổi hơi trên các môn đệ gợi lại hành động Thiên Chúa lúc bắt đầu tạo dựng con người. Thiên Chúa đã thổi hơi vào ông Ađam hơi thở của sự sống và con người nên sống động. Cũng thế, khi Chúa Giêsu thổi Thánh Thần trên các môn đệ, các ông nhận được sự sống mới. Thánh Thần là "Chúa và là Đấng ban sự sống" như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.

Sách Công vụ Tông Đồ còn cho thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như gió thổi, như lưỡi lửa, vào chính ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, được mừng 50 ngày sau lễ Vượt Qua, để tưởng nhớ giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel tại núi Sinai. Dịp lễ này đã quy tụ đông đảo người Do Thái từ các nước khác nhau trở về Gierusalem. Chính trong bối cảnh của ngày lễ trọng đại này mà hoạt động đầu tiên của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội được biểu lộ. Hoạt động được biểu lộ qua việc các tông đồ " nói tiếng khác nhau" và "mọi người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được lời rao giảng của các tông đồ" (CVĐ 2, 1 - 12). Ở đây, ân sủng của Chúa Thánh Thần đã tái lập sự thống nhất ngôn ngữ đã bị chia rẽ, phân tán tại tháp Babel khi xưa và đồng thời nói lên tính cách phổ quát đại đồng của ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến và do Chúa Thánh Thần thực hiện.

Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolo đã nhấn mạnh đến vai trò hiệp nhất của Chúa Thánh Thần: " Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta đã được tràn đầy một Thánh Thần duy nhất"(1Cr 12, 13). Nếu chỉ có Thánh Thần mới làm cho những kẻ tin nói được: "Đức Giêsu là Chúa", thì cũng chỉ có Thánh Thần mới làm cho những con người khác nhau hợp nhất với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau. Vì vậy, Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta "hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau" "(1Cr 1, 10). Bởi vì, những người cùng thờ một Chúa, cùng tuyên xưng một niềm tin, cùng lãnh nhận một bí tích, cùng hy vọng một tương lai nước trời, mà lại chia rẻ nhau, là điều không thể hiểu nổi, là gương xấu không thể tha thứ được.

Đời sống Kitô hữu là đời sống theo Thánh Thần, như Thánh Phaolô đã nói: "Ai sống theo xác thịt thì hướng về những điều thuộc xác thịt, còn ai sống theo Thánh Thần thì hướng về những điều thuộc Thánh Thần. Nhưng hướng theo xác thịt thì chết, còn hướng theo Thánh Thần là sống và bình an" (Rm 8, 5). Muốn sống theo Thánh Thần, chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu, ước muốn nên giống Ngài, sống hiếu thảo như Ngài, sống yêu thương mọi người, sống khiêm tốn, hiến lành và phục vụ mọi người. Hãy sống theo Thánh Thần, chúng ta sẽ được lãnh nhận những hiệu quả của Thánh Thần. Và hiệu quả của Thánh Thần, đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, trung tính, hiền hoà, tiết độ. Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần, thì hãy để Thánh Thần hướng dẫn đời ta". (Gl 5, 22 - 25).

Sống trong thế giới vật chất này, con người vẫn còn cảm thấy bất an, lo lắng, lo sợ, loa toan,...Và vì thế, con người vẫn luôn khát vọng tìm nguồn bình an. Nhưng sự bình an bên trong không thể mua được bằng tiền bạc, vật chất. Do đó, đối với người Kitô giáo, Chúa Thánh Thần chính là nguồn bình an đích thực, đã hiện hữu và luôn sẵn sàng giúp con người được sống bình an. Chính Chúa Thành Thần sẽ ban cho con người sự sống viên mãn, hạnh phúc đích thực trong Chúa Kitô. Ai sống trong Chúa Thánh Thần thì được sự sống vui tươi, hoan lạc và bình an vĩnh cửu.

Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người, tạo điều kiện cho mối tương quan huynh đệ giữa người với người, những gì tạo nên sự hiệp thông vô biên giới phải là những tiêu chuẩn cho hành động của chúng ta. Bởi vì những gì giới hạn hoặc chia rẽ, đều nghịch với Thánh Thần của Chúa Kitô. Thánh Thần luôn chăm lo hiệp nhất Thân Thể Đức Kitô, duy trì sự hiệp thông và qui tụ mọi người hiệp nhất với Ngài.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Khi xưa Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần, thì hôm nay xin cho chúng con cũng biết đón nhận Chúa Thánh Thần, để chúng con cũng được biến đổi trở thành tông đồ nhiệt thành làm chứng cho Chúa trong thời đại hôm nay. Amen.

70. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Anh chị em thân mến.

Tôi đã được xem qua câu chuyện ngắn, mà nó gây ấn tượng cho tôi rất lâu. Câu chuyện mang tên Lòng mẹ, của một tác giả nhỏ còn cắp sách đến trường. Nội dung chuyện diễn tả người mẹ và đứa con gái. Gia đình nghèo, người mẹ hằng ngày nhờ vào gánh chè vào lúc đêm để nuôi sống gia đình và lo cho con ăn học.

Vào một ngày lễ của nhà trường, người mẹ cũng cố gắng lo cho con mình một bộ áo dài mới để mặc với các bạn. Đứa con cũng rất ngoan, người mẹ cũng tự hào về con mình. Khi đã mặc bộ đồ mới vào, người con rất cảm động. Nhưng nhìn lại chiếc xe đạp, cô bé không khỏi ngậm ngùi. Chiếc xe đó nó lớn tuổi hơn cô, nên giờ đây cô hơi ngần ngại. Nhưng vì thương mẹ nên cô lặng thinh không muốn làm cho mẹ phải khổ thêm.

Khi trở về, cô có vẻ như mệt nhoài và chạy vội ra sau, vừa chạy vừa khóc. Người mẹ lo lắng, chạy theo xem chuyện gì xảy ra với con mình. Cô khóc lóc, chỉ vào chiếc quần mới và chỉ vào chiếc xe. Ngưới mẹ lặng thinh, an ủi con. Sau đó, mọi chuyện tưởng như đi vào quên lãng. Một hôm cô bé đi học về, tưởng trong nhà mình có khách, vì cô nhìn thấy một chiếc xe đạp mới, dựng trong nhà. Cô hỏi mẹ xe của ai.

Người mẹ âu yếm nhìn con và nói đó là xe của con. Cô bé rất vui mừng cảm động. Cũng từ hôm ấy, mẹ cô về rất khuya. Cô học bài xong ngồi chờ mẹ mãi, vẫn chưa thấy. Một hôm chờ lâu quá cô sốt ruột, nên chạy đi tìm mẹ. Cô đến chỗ mẹ thường bán, hỏi thăm thì nhìn thấy gánh chè mẹ đã bán hết và gởi đó. Cô được biết: thời gian gần đây, sau khi đã bán hết chè, mẹ cô phải đi làm thêm một công việc là đi quét rác. Cô chợt hiểu ra, vì lo cho cô có chiếc xe đạp mới mà mẹ phải vất vã như thế. Cô vội chạy đi tìm mẹ với những dòng nước mắt tuôn trào.

Tôi suy nghĩ: Động lực nào đã thêm sức cho người mẹ như thế. Động lực nào đã làm cho người con hiểu được tình mẹ. Một sức mạnh vô hình mà người ngoài không thể nhìn thấy được. "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".

Các môn đệ được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Người đời chẵng ai nhìn thấy các ngài được thêm điều gì. Nhưng bên trong con người các ông đã thay đỗi hoàn toàn. Từ những người nhút nhát, vào phòng đóng kín cửa, lo sợ bị người khác nhìn thấy, lo sợ cho bản thân bị nguy hiểm. Nhưng giờ đây con người của Các Ông đã hoàn toàn thay đỗi. Thay vì cửa được đóng kín, giờ đây lại mở tung ra.

Thay vì sợ người khác nhìn thấy, giờ đây các ông đứng giữa đám đông để rao giảng. Thay vì sợ nguy hiểm cho bản thân, giờ đây các ông vui mừng vì được chịu đau khổ do những điều mình rao giảng. Người đời chẵng nhìn thấy điều gì. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ và các môn đệ cũng biết rõ điều gì đang xẩy đến với mình, nên các Ngài không thể ngồi yên. Các ngài phải hoạt động, phải chạy đi, phải rao giảng.

Mỗi người trong chúng ta cũng đã được nhận lãnh Chúa Thánh Thần, đặt biệt trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức. Hằng ngày trong đời sống, ơn Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong con người của mình. Nhưng chúng ta có nhận ra, có nhìn thấy được không? Hay chúng ta cũng như bao nhiêu người khác không thể nhìn thấy được biến chuyển trong con người của chính mình. Thiên Chúa đã làm tất cả những gì cần thiết, những gì có thể làm được, Ngài đã làm cho chúng ta rồi. Còn phần của mỗi người, hãy nhìn vào chính mình chúng ta sẽ nhìn thấy ơn Chúa Thánh Thần hoạt động.

Hiện tại, ơn Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện trong mỗi người chúng ta. Nhưng có những nơi ơn Chúa đành phải chịu số phận bị đóng kín cửa. Vì nỗi lo sợ, nếu khi mở tung cửa tâm hồn họ sẽ bị mất mát đi một phần lợi ích riêng tư. Đó là những người sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến chính mình, còn những người khác ra sao họ không cần biết. Cũng có những người đã mở cửa nhưng không dám bước ra khỏi nhà, không dám đi đến những nơi cần thiết. Họ sợ liên lụy bản thân. Đó là những người hèn nhát. Còn có những người, họ biết rất rỏ những công việc phải làm, biết đâu là tốt, đâu là xấu. Nhưng họ vẫn nằm yên bất động. Đó là những người lười biếng.

Còn chúng ta, có giống được cô bé trong câu chuyện, chạy vội đi tìm mẹ để chứng tỏ lòng yêu thương và biết ơn của mình. Đó cũng là tâm tình của các Tông Đồ khi được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Xin Chúa ban sức mạnh cho mỗi người biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.

71. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Năm mươi ngày hoan lạc phục sinh đã khép lại và giờ đây, chúng ta được bao phủ bởi ân huệ từ trời của Chúa Cha gởi đến qua Chúa Giêsu là Thánh Thần. Thánh Thần đến ban sự dũng cảm, can đảm, làm nhân chứng, sự thông cảm, hiệp nhất và tự do... cho tất cả con cái Thiên Chúa.

Thánh Luca tường thuật việc trao ban Thánh Thần xảy ra vào ngày lễ Ngũ Tuần. Truyền thống Do Thái tin rằng Thiên Chúa ban lề luật trên núi Sinai cũng vào ngày lễ Ngũ Tuần. Còn thánh Gioan tường thuật việc trao ban Thánh Thần vào chính ngày lễ phục sinh. Tuy nhiên chúng ta tránh việc nhấn mạnh một trong hai khía cạnh trong ngày lễ Ngũ Tuần là trao ban Thánh Thần. Thánh Gioan nói đến việc Chúa Giêsu phục sinh ban tặng Thánh Thần và khơi màu sứ mạng của Giáo hội.

Nếu như ngày Thiên Chúa ban lề luật cho dân Do Thái là ngày khai sinh một cộng đồng dân tộc sống trong đường lối của Thiên Chúa. Thì Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay cũng đánh dấu một bước ngoặc quan trọng, là ngày sinh ra một cộng đoàn mới là cộng đoàn Giáo Hội.

Chuyện kể rằng: Ngày xưa, có một nhóm người có thế lực muốn bắt tay xây dựng một ngọn tháp đến tận trời. Họ tập hợp các kiến trúc sư, các thợ nề và một lực lượng lao động đông đảo. Để chuẩn bị cho việc xây cất, họ đã mua một số lượng lớn vật liêu gồm: đá gan-nít và xi-măng. Những nhà tổ chức có cùng một ý kiến và nói cùng một ngôn ngữ. Các kế hoạch đã được soạn thảo và các đề án bắt đầu được thi công.

Tuy nhiên, có sự trục trặc trong công việc là tiếng nói. Những người chủ chỉ thích một điều duy nhất là làm vinh danh họ. Ngọn tháp được trở thành đài kỹ niệm biểu dương cho quyền lực của họ. Vì thế, lòng ganh tỵ giữa các kiến trúc sư và từng người muốn rời bỏ vị trí làm việc của mình. Họ làm việc cách ẩu tả nên có nhiều tai nạn xảy ra. Các công nhân bị la mắng, bị hành hạ cách thậm tệ. Vật liệu bị mất cấp liên miên. Chi phí cho công trình bị thâm thủng. Ngân hàng bắt đầu lên tiếng phản đối. Các nhà đầu tư thu hồi vốn lại. Sự nghi ngờ cũng lan tràn khắp nơi. Những người thợ xây dựng không còn nói chung một ngôn ngữ. Ngọn tháp phải dừng lại và bỏ hẳn.

Đây là câu chuyện hiện đại mà kịch bản giống với câu chuyện tháp Babel. Ngọn tháp là biểu tượng cho những cố gắng của nhân loại trong ý định muốn tạo một thiên đường ở trần gian mà không phải trông cậy vào quyền năng của Thiên Chúa. Sau khi tổ tông loài người ăn trái cấm. Thiên Chúa đuổi hai ông bà ra khỏi vườn địa đàng. Khi đó, họ đã làm gì? Họ đã có sự "hiểu biết" và tự xây dựng một thiên đường bằng chính nổ lực của mình và loại trừ Thiên Chúa. Nhưng thiên đường đó là gì?

Sự nỗ lực của con người vẫn còn đó. Chúng ta có những sa lộ rộng lớn, có những chiếc phản lực siêu âm, có những lò năng lượng nguyên tử, người ta có thể điều khiển tàu vũ trụ bay vào không gian... Nhưng chúng ta vẫn chưa thể sống bình an với người khác.

Lễ Ngũ Tuần mang một ý nghĩa đảo ngược hoàn toàn với những gì xảy ra nơi tháp Babel. Chúng ta cũng có một nhóm người tụ hợp với nhau, những con người tầm thường mà họ không chút tự tin vào khả năng hạn hẹp của mình. Nhưng lại có một niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Họ cũng bắt đầu xây dựng một "ngọn tháp" với thể loại hoàn toàn khác biệt. Ngọn tháp này làm nên một cộng đoàn mới, ngọn tháp vươn lên trời nhờ những bậc thang thiêng liêng.

Các Tông Đồ cũng bắt đầu xây dựng cộng đoàn mới này. Họ cùng nói một ngôn ngữ mới là ngôn ngữ của tình yêu và cùng nhau hoạt động. Một ngôn ngữ mà tất cả những người thánh thiện đều có thể hiểu. Nó rạng ngời trên những khuôn mặt và được cảm nhận qua những bàn tay siết chặt với nhau.

Hôm nay là ngày kỷ niệm một biến cố vĩ đại đã xảy ra. Đó chính là ngày khai sinh của Giáo Hội, là cộng đoàn của những người theo Chúa Giêsu. Trong ngày này, chúng ta hãy tạ ơn vì Chúa Thánh Thần đã đến với chúng ta và tạ ơn vì Giáo hội sơ khai đã khai mở những bước chân đầu tiên. Cộng đoàn này được xây dựng không phải từ những con người thánh thiện, nhưng từ những con người tội lỗi. Trải qua bao thăng trầm, dù đối diện với những khó khăn và thất bại, nhưng cộng đoàn này vẫn tồn tại và từng bước được xây dựng thêm.

Ngày hôm nay, chúng ta tụ hợp nơi đây không phải như con người kỳ thị và cạnh tranh nhau nhưng như là những người bạn. Cái nhân tố thông thường để chia cắt hay phân biệt con người là giai cấp, màu da, tuổi tác và của cải. Chúng không có giá trị ở đây! Ở đây, chúng ta là một gia đình sống dưới bàn tay che chở của Thiên Chúa.

Lễ Ngũ Tuần đã thay đổi tai hoạ của tháp Babel đã làm cho nhân loại trở nên lộn xộn và chia rẻ thành một gia đình hiệp nhất. Chúa Thánh Thần đã làm cho mọi người nhận ra một Thiên Chúa Thật và làm cho tất cả nhân loại thuộc nhiều ngôn ngữ thành một tiếng nói là cùng tuyên xưng một niềm tin.

Đây là một kỳ công mà nó được được bắt đầu vào ngày lễ Ngũ Tuần. Vì vậy, chúng ta không chỉ tìm chổ nương tựa nơi toà tháp là cộng đoàn Giáo Hội, mà chúng ta cần phải có bổn phận xây dựng nó.

72. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Tờ báo tuổi trẻ Chủ Nhật ra ngày 29.4. 2001, có đăng tải một câu chuyện ngắn như thế này: Có một vị vua nọ treo một phần thưởng rất lớn cho bất kỳ họa sĩ nào vẽ được một bước tranh đẹp nhất về sự bình an.

Chỉ năm ngày sau, rất nhiều bức tranh được đưa tới. Và trong số nhiều bức tranh đó, có hai bức tranh tuyệt đẹp mà nhà vua phải chọn lấy một để trao giải. Bức tranh thứ nhất thể hiện một hồ nước êm ả, nước trên mặt hồ nhìn như thể là một tấm kiếng to lớn soi rõ những ngọn núi chót vót bao quanh. Phía trên nó là một bầu trời trong xanh với những cụm mây trắng mịn màng. Đúng là một bức tranh tuyệt hảo về sự bình an.

Bức tranh thứ hai cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi ấy lại trần trụi xấu xí. Còn bên trên nó là một bầu trời giận dữ, sấm sét bảo bùng cộng với những cơn mưa như thác đổ, tạo thành một dòng chảy hãi hùng, sẳn sàng tiêu diệt tất cả. Thế nhưng ông vua lại phát hiện ra nơi bức tranh này có một chi tiết nhỏ nữa: Đó là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe đất của một tảng đá. Và trong bụi cây đó, ở giữa một dòng thác ầm ầm tuôn đổ, một con chim mẹ vẫn an nhiên đùa giỡn với chim con trên tổ của mình.

Cuối cùng nhà vua đã công bố: Bức tranh thứ hai là bức tranh được chọn để trao giải. Bởi vì sự bình an không có nghĩa là không ồn ào nguy hiểm, không khó khăn cực nhọc. Thế nhưng sự bình an đúng nghĩa là cho dù đang phải ở trong những phong ba bão táp, ta vẫn thấy đượcsự yên tĩnh an bình trong trái tim của mình.

Thưa anh chị em! Bức tranh mà Đức vua đã chọn nó có phần giống giống như bức tranh mà Thánh Gioan đã vẽ lại trong bài Phúc âm mà chúng ta mới vừa nghe xong: Giữa những phong ba bão táp đang chụp xuống đầu các môn đệ sau những ngày mà Thầy của mình bị giết chết, Đức Giêsu hiện ra với các ông như chim mẹ ngang nhiên đậu trên tổ để canh giữ bầy con mình: "Bình an cho các con".

Bình an của Chúa ban cho các môn đệ không phải là một thứ bình an không có sóng gió, hay đối diện với kẻ thù. Có lẽ vì thế mà sau khi ban bình an cho các học trò của mình, Đức Giêsu đã cho họ xem tay và cạnh sườn như thể là bằng chứng của một sự chiến đấu đầy gian truân mà các môn đệ của Chúa sẽ phải đi tới. Và vì biết rằng các học trò của mình sẽ không đủ sức để vượt qua những sống gió đó, nên Đức Giêsu tiếp tục ban tặng cho họ một sức mạnh đặt biệt hơn, đó là Chúa Thánh Thần.

Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ của Chúa đã có một sự đổi mới lạ lùng. Nơi bài đọc thứ nhất, sách Tông Đồ Công Vụ đã thuật lại rằng: Các môn đệ Chúa Giêsu ngày xưa, đa số là những người quê mùa kém cỏi, ít học chậm hiểu.

Ròng rã theo Đức Giêsu ba năm trời, nghe không biết là bao nhiêu những lời dạy dỗ củaNgười, chứng kiến nhiều phép lạ mà Chúa đã làm, vậy mà dường như đâu cũng vào đó. Các ông cũng chẳng hiểu về Chúa về Thầy của mình là bao nhiêu. Chúa nói một đàng, các ông lại hiểu một nẽo. Chúa dạy các ông hãy khiêm tốn phục vụ lẫn nhau, nhưng liền sau lời dạy đó, các ông ôm thơ dệt mộng được chức được quyền, tranh giành với nhau xem ai sẽ làm lớn, còn ai phải làm nhỏ. Rồi lúc Đúc Giêsu bị bắt các ông bỏ chạy hoảng loạn, mỗii người một nơi.

Thế nhưng khi Đức Giêsu đến với các ông rồi, khi các ông có được Chúa Thánh Thần rồi, các ông đã thay đổi hoàn toàn. Từ những con người nhúc nhát sợ hãi, trở thành những con người can đãm anh hùng. Từ những con người kém cõi khờ khạo, trở thành những con người thông minh giỏi dắn, có khả năng thu hút nhiều người, và làm cho tất cả mọi người đều có thể nghe và hiểu lời dạy của các ông. Và cuối cùng như sách Tông Đồ Công Vụ đã kể lại, các ông đã mạnh dạn dùng cái chết của mình để làm chứng cho tin mừng Chúa Phục Sinh.

Đức Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ cũng là ban cho Hội Thánh, cho mọi người chúng ta. Chúa Thánh Thần đang hiện diện, đang đổi mới Hội Thánh, cũng là đang hiện diện và đang đổi mới cuộc đời chúng ta. Thế nhưngchúng ta hãy thử một lần nhìn lại xem: Tôi đã có hàng bao nhiêu năm được học giáo lý, được nghe lời Chúa, được tham dự Thánh lễ, nhưng rồi cuộc sống của tôi có được biến đổi chút nào không, hay là còn tệ hơn những người xung quanh mình?

Trời có mưa một chút tôi có can đảm khoác cái áo mưa vào, để đến nhà thờ đọc kinh xem lễ, giữ ngày chúa nhật không? Mỗi lần đến nhà thờ này, là tôi đến để thờ phượng Chúa thật sự, hay là tôi đến chỉ để xin ơn này ơn khác: xin cho được thoát khỏi những nỗi buồn này, đạt được những ước vọng kia. Và rồi xin mãi mà không dược thì đâm ra buồn phiền, thất vọng không còn muốn đến nhà thờ nữa.

Thưa anh chị em! Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống ngày hôm nay, điều quan trọng mà chúng ta cầu xin với Chúa Thánh Thần, không phải là một cơn gió ào ào cùng với những đốm lữa bùng cháy trên đầu mọi người, giống như các Tông đồ ngày xưa. Nhưng chúng ta hãy cầu xin có được một sự biến đổi mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần nơi con người của mình.

Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta trong cung cách sống đạo hàng ngày đối với Chúa. Chúng ta gọi Chúa là Cha, thì phải hoàn toàn tin tưởng vào Cha chứ không phải là bắt Cha làm theo ý mình. Một người Cha thương con thật sự thì cũng không phải là lúc nào cũng chiều theo ý con mình mà ban cho chúng tất cả những gì chúng xin.

Bởi vì người cha biết rằng: có những điều khi cho nó, thì chỉ làm nó ra hư hỏng, là đưa nó vào chỗ chết. Chúng ta cũng xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta trong cách sống hằng ngày đối với những người xung quanh mình. Bởi vì cho dù họ có nghèo nàn, kém cỏi, tệ bạchơn mình đi nữa, thì trong niềm tin, trong ngôi nhà Giáo hội, chúng ta là những anh em của nhau. Và như Chúa đã nói trước: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của thầy: là các con sống yêu thương nhau".

73. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
"Người thổi hơi vào các ông và bảo: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20, 22)

Chúng ta ít biết về Chúa Thánh Thần, nên cũng ít cầu nguyện với Người. Đó là một thiếu sót lớn. Chúa Thánh Thần vừa là nguồn mạch mọi ơn sủng, vừa là Đấng ban phát các ơn cần thiết cho ta. Đương nhiên, khi hoạt động, Chúa Thánh Thần luôn kết hợp mật thiết với Chúa Cha và Chúa Con. Khi xuống thế làm người, không có việc nào của Chúa Giêsu làm mà không được sự hỗ trợ của Chúa Thánh Thần.

Tại sao như thế? Thưa, vì cả Ba Ngôi kết hiệp mật thiết với nhau trong bản tính và trong quyền năng, nhất là vì: Ba Ngôi là một. Sau Phục sinh, vai trò của Chúa Thánh Thần còn hiện rõ hơn nữa, để giúp cho Hội Thánh vững mạnh và phát triển. Chính Chúa Giêsu trước khi ra đi, đã ban Chúa Thánh Thần lại cho các tông đồ.

Hơn nữa, Chúa Thánh Thần là căn nguyên sự sống và hoạt động của Hội Thánh: Khi ta lãnh nhận phép Rửa tội,nhất là Bí Tích.Thêm sức, Chúa Thánh Thần đến và hoạt động trong ta, sống trong ta nữa. Người thông ban cho ta sự sống của TC cách dồi dào, biến đổi ta, giúp ta nên trưởng thành mạnh mẽ hơn, kết hợp mật thiết với Chúa.

Chính Chúa Thánh Thần dạy dỗ, nâng đỡ, phù trợ và nuôi ta lớn lên trong đời sống làm con cái Thiên Chúa - Chúa Thánh Thần hoạt động trong người tín hữu, trong Hội Thánh nói chung, bằng bảy ơn Thánh Thần, để soi sáng, hướng dẫn và giúp Hội Thánh, vì Chúa Thánh Thần chính là Đấng bàu chữa, Đấng đem lại sự hiệp nhất, Đấng của tình yêu.

Ta có thể lấy ví dụ để dễ hiểu về Chúa Thánh Thần: cũng như thân xác ta cần hơi thở để sống, cần có nhịp đập con tim để máu lưu thông nuôi cơ thể thế nào, thì Chúa Thánh Thần cũng được ví tương tợ như vậy; Người chính là hơi thở, là nhịp đập của con tim của Hội Thánh, của người Kitô hữu.

Thân xác ta không có hơi thở, chỉ là cái xác chết. Con người không có nhịp đập con tim, không có máu lưu thông trong huyết quản, đó chỉ là hồn ma có cử động, không phải là con người nữa. Chúa Thánh Thần quan trọng đối với Hội Thánh, với chúng ta cũng tương tợ như thế. Trong đời sống đức tin, người Kitô hữu cảm nhận về Chúa Thánh Thần còn quá ít!

Một người Tin lành, khi trở về công giáo, đã nói: "tôi đã tìm hiểu hết các đạo, kể cả công giáo, tôi thấy công giáo cũng có những khuyết điểm, nhưng cuối cùng tôi theo công giáo, vì tôi nhận ra dù có khuyết điểm, nhưng Hội Thánh công giáo luôn có Chúa Thánh Thần hiện diện nơi họ".

Qua lịch sử của Hội Thánh, các thánh là những chứng nhân hùng hồn nhất về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh, trong người tín hữu. Vì có Chúa Thánh Thần, họ dám hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống. Các tông đồ trước ngày lễ Ngủ tuần, nhút nhát bao nhiêu, nhưng sau đó họ can đảm bấy nhiêu. Chính Chúa Thánh Thần biến đổi họ nên những con người hoàn toàn khác.

Chúa Thánh Thần là nguồn mạch ơn sủng, là Đấng ban phát mọi ơn, là hơi thở, là nhịp đập của con tim, là Người không thể thiếu cho ta; ta có tin tưởng và năng chạy tới, cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Bằng mọi cách, ta có cố gắng sống theo sự chỉ dẫn của Chúa Thánh Thần không?

Thánh Phaolô nói: "Thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần". Chúa Thánh Thần rất quan trọng và cần thiết cho ta nhưng ta có cố gắng sống sao cho xứng đáng là đền thờ của Ngài không?

74. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Dưới vòm trời, vạn sự đều phải chịu luật mòn của thời gian: Một đôi guốc mang lâu ngày sẽ mòn, mất hình thù guốc. Một chiếc áo mặc lâu ngày sẽ mòn, mất hình thù áo. Một ngọn núi cao, cái mà con người tưởng chừng như không có gì có thể làm thay đồi được nó. Vậy mà, với thời gian, khi đứng lâu ngày dưới gió bão mưa sa, ngọn núi cũng mất đi phần nào hình thù của nó... Không những các vật hữu hình bị luật mòn của thời gian chi phối, mà ngay cả các sự vật vô hình cũng bị một số phận tương tợ như vậy, chẳng hạn như: lời nói, tình cảm con ngưòi... cũng bị mòn, bị vo tròn bóp méo, làm mất hẵn ý nghĩa của nó.

Có một điều rất quen thuộc, rất cần thiết với con người, điều đó cũng vô hình nữa, nhưng không bị bào mòn theo thời gian, đó là: Hơi thở của chúng ta, cái mà con người gọi là không khí đó. Nếu không khí mà cũng chịu luật mòn của thời gian, thì vũ trụ này không không còn tồn tại bất cứ một sinh vật nữa, kể cả con người. Bởi khi đó vũ trụ này không có sự sống.

Ngay trang đầu tiên của sách sáng thế ký, khi nói về việc Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đã có "THẦN KHÍ THIÊN CHÚA" bay lượn trên mặt nước (St 1,1). Hình ảnh bay lượn trên mặt nước, như đang muốn nói với chúng ta rằng: Thánh Thần Thiên Chúa chính là "hơi thở", là sự sống trên mặt đất này. Và do đó mọi vật đang hít thở sự sống là chính Chúa

Từ sáng sớm đến chiều tối, chúng ta làm được bao nhiêu công việc, chúng ta biết rất rõ. Gặp gỡ bao nhiêu người, bàn bạc những chuyện gì chúng ta cũng đều kiểm soát được hết. Vậy còn hơi thở của chúng ta, chúng ta có nhớ mình đã thở bao nhiêu hơi trong một ngày không? Hơi thở quá quen thuộc, quá gần gũi thân thương với chúng ta, đến nỗi chúng ta đã quên mất là: "chúng ta đang thở, vạn vật trên mặt đất này đang thở".

Như vậy, chúng ta đang sống trong Chúa Thánh Thần, vạn vật trong vũ trụ này đang sống trong Chúa Thánh Thần. Mà hễ sống trong Chúa Thánh Thần, cuộc sống của chúng ta phải sinh hoa trái,đó là: Chúng ta phải sống bác ái, sống trong niềm vui, biết nhẫn nhục, phải có lòng nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà và tiết độ... Nhưng rồi nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta cũng đồng thời hít thở Thánh Thần.

Nhưng lại không buôn theo Thánh Thần, không để cho Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời của chúng ta. Cho nên, thay vì sống bác ái, chúng ta sống thù nghịch nhau. Thay vì sống hiền hoà, chúng ta thích sống hung dữ...

Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, một lần nữa đưa chúng ta trở về với ngôi nhà tiệc ly. Ở đó, chúng ta nhìn ngắm cuộc đổi đời của các Thánh Tông Đồ. Chúng ta nhớ lại coi, bao nhiêu năm theo chân Chúa Giêsu, các ngài cũng hít thở chính sư sống của Thánh Thần đó chớ. Nhưng rồi chúng ta thấy đó, một Phêrô chối Chúa, Giuda thì tự tử, Giacôbê và Gioan thì đòi chức quyền...cuộc sống các ngài cũng đã không xin hoa trái được, chỉ vì các ngài đã không để cho Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời các ngài.

Sự kiện ở nhà tiệc ly hôm nay, các Thánh Tông Đồ như được sinh lại. Hãy cùng với Mẹ Maria và các thánh tông đồ, chúng ta để cho Chúa Thánh Thần qua những ngọn lửa của Ngài thiêu đốt chúng ta khỏi những mê muội. Xin Người cũng tái sinh chúng ta trong tình yêu của Ngài. Xin Người là chính hơi thở, là chính sự sống của đời con chúng ta. Amen.

75. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
1. Nếu như được một điều ước duy nhất, có lẽ nhiều người sẽ phải đắn đo suy nghĩ, nhưng cũng không ít người sẽ nhanh chóng ước ngay rằng làm sao có được một cuộc sống bình an. Điều này cũng dễ hiểu, bởi lẽ trong cuộc sống, nhất là hiện thời, có nhiều lý do khiến cho ta có quá nhiều bất an. Các môn đệ của Đức Giêsu sau cuộc tử nạn của Thầy mình, đang trong tình trạng khép kín, bối rối... Trong lúc bất an như vậy; một luồng sinh khí mới đến với các ông, Đức Giêsu Phục Sinh hiện đến để ban Chúa Thánh Thần và những ơn của Người cho các ông, đặc biệt đó là ơn bình an.

2. Chúng ta dễ nhận ra qua các bài Kinh Thánh hôm nay có 2 tường thuật về việc trao ban Chúa Thánh Thần: Theo Thánh Gioan, ngay buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần (chính hôm lễ Phục Sinh), Đức Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Trong khi đó theo Luca, qua sách Tông Đồ Công Vụ (Bài đọc I) cho ta thấy Đức Giêsu ban tặng Chúa Thánh Thần hôm lễ Ngũ Tuần, tức 50 ngày sau khi Chúa sống lại (Cv 2,1 tt), và được tường thuật với nhiều chi tiết hơn.

Sự khác biệt này được giải thích như thế nào? Thưa Thánh Gioan gom góp vào một ngày những sự kiện mà Thánh Luca đã phân chia rải rác trong thời gian 50 ngày: Đức Giêsu sống lại (Ga 20,1tt; Lc 25,1tt), lên trời (Ga 20,17; Cv 1,9) và ban tặng Thánh Thần (Ga 20,22; Cv 2,1tt). Thực ra, Chúa Thánh Thần đã hoạt động ngay từ thời sáng thế: "Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng... và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước"(St 1,1-2); Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn các tổ phụ các tiên tri mà chúng ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Thời Tân Ước, Ngài vẫn luôn hoạt động: nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần mà Ngôi Hai nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, và chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn hoạt động của Đức Giêsu nơi trần thế...

3. Giờ đây chính Đức Kitô Phục Sinh lại trao ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ, môn đệ như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, việc trao ban Chúa Thánh Thần như được hoà quyện với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai đi rao giảng. Cho nên có thể nói đây là những ơn đặc biệt mà các tông đồ, môn đệ Đức Giêsu có được khi nhận lấy Chúa Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh.

Trong một cuộc gặp gỡ ngắn mà hai lần Đức Kitô nhắc tới "bình an", cho nên có thể nói "bình an" là ơn cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần, rất cần thiết cho con người. Khi nói tới bình an thường được hiểu là bình an bên ngoài (như không có chiến tranh, không có hận thù giết chóc, bắt bớ...), nhưng có một thứ bình an cần thiết hơn, quan trọng hơn đó là bình an sâu thẳm trong tâm hồn.

Nhờ việc nhận Thánh Thần, các tông đồ, môn đệ của Đức Giêsu đã có thứ bình an đó. Thật vậy, chúng ta thấy rõ dường như các ngài không có được sự bình an bên ngoài: bị tra tấn đánh đập vì Đức Giêsu, vì Tin Mừng, ngay cả phải thiệt thân... Nhưng nhờ có ơn bình an của Chúa Thánh Thần, thì những đau khổ vì danh Đức Kitô lại trở thành niềm vui, danh dự... như Phaolô đã nói: khốn cho thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng Đức Kitô (x. 1 Cr 9,16).

Ơn bình an của Chúa Thánh Thần vẫn luôn được trao ban trong Hội Thánh, điều này càng thấy rõ vào những thời, những nơi Giáo Hội gặp khó khăn: đã có hơn 70 triệu anh hùng trung kiên với Đức Kitô, qua 20 thế kỷ, các vị này không cho rằng việc đầu rơi máu chảy là bất hạnh, mà đó là niềm vui, tự hào... bởi các ngài có được sự bình an sâu thẳm.

Khi h iểu rằng bình an thực là như thế, chúng ta mới có thể cảm nhận được một ý nghĩa khác của việc Đức Giêsu trao ban Thánh Thần: đó là bình an qua việc được tha thứ. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta có được cảm nghiệm bình an trong tâm hồn khi đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa qua bí tích Giải Tội, nhất là khi ta lỗi phạm càng nặng. Vì thế Đức Giêsu muốn bình an của Chúa Thánh Thần được lan toả từ các tông đồ và những người kế vị các ngài trong chức linh mục, qua việc tha tội: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha..." (Ga 20,23). Không chỉ qua Bí Tích Giao Hoà, mà việc tha thứ cho nhau rất cần thiết trong đời sống của Kitô hữu, khi chúng ta tha thứ cho nhau là dấu hiệu Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi ta.

Những ai được diễm phúc đón nhận sự bình an của Chúa Thánh Thần không phải để thụ hưởng mà phải ra đi, phải chia sẻ: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con ". Đức Giêsu đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, giờ đây đến nhiệm vụ của Giáo hội, của mọi người chúng ta. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại rằng sau khi nhận ơn Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói được nhiều ngôn ngữ khác lạ của người nghe, tức Hội Thánh phải biết nói ngôn ngữ của mọi thời, mọi nơi; nói cách khác Hội Thánh, tức chính chúng ta, phải rao giảng Tin Mừng mọi thời, mọi nơi. Có như vậy mới có thể đem bình an của Chúa đến cho mọi người, bởi nếu không có ai rao giảng thì làm sao tha nhân có thể nghe danh Chúa và tin vào Ngài được (x. Rm 10,14)?

4. Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp tốt để mỗi chúng ta nhìn lại, như các tông đồ, môn đệ xưa đã lãnh nhận dồi dào ơn Chúa Thánh Thần, cũng thế qua bí tích Rửa Tội, nhất là qua bí tích Thêm Sức, Đức Kitô Phục Sinh đã đổ tràn Chúa Thánh Thần trên mỗi Kitô hữu, nhưng chúng ta đã cộng tác và làm cho ơn này phát triển như thế nào. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy tự hỏi:

Tôi có được sự bình an trong tâm hồn, một niềm vui sâu xa trong tâm tình phó thác nơi Thiên Chúa dù có những nghịch cảnh trong cuộc sống hay không?

Tôi có là khí cụ bình an của Đức Kitô qua đời sống yêu thương, tha thứ đối với nhau hay không?

Tôi có cảm nhận được niềm vui khi giới thiệu Đức Kitô cho người khác bằng lời rao giảng và nhất là bằng đời sống chứng nhân như: bác ái, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm... hay không (x. Gl 5,22-24)? Nếu chúng ta có được những điều đó, hãy cảm tạ Thiên Chúa, đó là dấu chỉ có sự hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi ta, một cuộc Hiện Xuống mới đang tái diễn; nhờ đó đem lại cho chúng ta sự bình an thật đời này và sự sống đời đời: "Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an" (Rm 8,6).

76. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
1. Thánh Thần là Ruah

Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp để chúng ta cùng nhau đào sâu và chia sẻ kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần. Nhưng thật là khó để nói về Thánh Thần. Chính sách Giáo lý của Giáo Hội Công giáo nhận định rằng: "Nói về Chúa Thánh Thần là rất khó. Bởi vì Chúa Thánh Thần nói cho ta biết về Chúa Cha, dạy cho ta biết về Chúa Con, nhưng Người không nói gì về chính mình".

Vì thế, trong bài suy niêm và chia sẻ này, tôi xin mạn phép tạm bỏ qua những gì mà thần học, triết học...nói về Chúa Thánh Thàn. Ở đây chỉ xin mượn một từ trong Kinh Thánh đã dùng, để chia sẻ một chút về Thánh Thần. Đó là từ Ruah (Hip). Chính từ ngữ này đã làm nên tên gọi của Chúa Thánh Thần. Ruah có nghĩa là: khí, gió, hơi thở.

Chúng ta sống mà không thể không thở. Thế mới cho thấy hơi thở là rất cần cho sự sớng con người. Có lẽ vì thế mà Kinh Thánh đã dùng hình ảnh hơi thở để diễn tả về Thánh Thần. Thánh thần là hơi thở của Thiên Chúa, là hơi thở làm cho ta được sống. Và sự sống đó không phải chỉ là sự sống của thân xác mà còn là sự sống thần linh nữa. Chính sự sống này làm cho ta có phẩm giá vượt lên trên các sinh vật khác.

Vì thế, chỉ khi nào ta cảm thấy cần đến sự sống ấy, lúc đó ta mới thấy cần Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, khi ta khao khát sống là ta khao khát Chúa Thánh Thần. Xuyên qua khát khao đó, ta sẽ cảm nhận được hoạt động và tác động của Thánh Thần, vốn là Đấng khơi nguồn và là Đấng ban sự sống đó, cách mãnh liệt.

2. Hít thở Thánh Thần.

Ngày hôm nay có rất nhiều phương pháp dưỡng sinh giúp ta được khoẻ mạnh. Trong số nhữgn phương pháp đó có 1 phương pháp rất đơn giản mà người ta thường nói tới đó là phương pháp hít thở 3 thì. Phưong pháp này khuyên chúng ta: chỉ cần 3-5 phút mỗi ngày, ta nên tìm một nơi thanh vắng, trong bầu không khí trong lành, vào lúc sáng sớm khi thức dậy hoặc khi đêm về, ta ngồi đó và thực hiện 3 động tác:

1. Nhẹ nhàng hít vào thật sâu

2. Ngưng

3. Từ từ thở ra.

Ta cần có những giây phút như thế để mình hít thở thật sâuThần Khí của Thiên Chúa. để Thần Khí của Thiên Chúa thấm vào lòng ta, thấm vào tâm hồn ta, thấm vào trái tim ta, thấm vào suy nghĩ của ta, càng sâu càng tốt. Những giây phút hít thở như thế, người công giáo gọi là những giây phút cầu nguyện. Rất hữu ích!

Thưa anh chị em và các bạn! Ngày xưa, sau khi Chúa sống lại, các tông đồ họp nhau lại và cùng với Mẹ Maria. tất cả cùng cầu nguyện. Chính trong gây phút cầu nguyện đó, Thánh Thần được ban xuống. Chúng ta cũng vậy, chính trong những phút giây tập trung cầu nguyện là ta hít thở Thần Khí của Chúa. Chính lúc đó hoa trái của Thầ Khí thiên Chúa sẽ trổ sinh trong ta. Hoa trái mà trong thơ gởi giáo đoàn Galát, Thánh Phaolô nói rằng: " hoa trái của Thần Khí là: bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nhục, nhân hâu, từ tâm, trung tín, hiền hoà và tiết độ".(Gl 5,22-23b)

3. Thay cho lời kết,

Xin mượn tâm tình của một lời kinh như một lời gởi gắm đến anh chị em và các bạn. Ước gì tâm tình ấy cũng phải là tâm tình của mỗi chúng ta. Lời kinh ấy thế này:

Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu!

Xin ban cho con một thời để yêu và một thời để sống.

để con sống vì tình yêu Thiên Chúa,

để con yêu vì cuộc sống muôn loài

Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp cao quý

và biết ghét những điều đê tiện xấu xa.

Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu,

và dám chết chống lại những điều mình ghét.

Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống

để mỗi giây phút sống,

con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương.

Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu,

để từng giây phút yêu

con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.

Cuối cùng,

Xin cho con biết hoà nhập cả hai nên một:

để sống là yêu và yêu là sống

vì hiểu được rằng:

Thiên Chúa Hằng Sống cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.

77. Việc làm - Lm. Vũ Đình Tường
Nói đến Thánh Thần mà không nói đến việc làm; đến công việc của Thánh Thần là một thiếu sót. Công việc chính của Thánh Thần là sáng tạo và đổi mới tâm hồn các tín hữu. Đổi mới và sáng tạo phát xuất từ tâm hồn lan ra bên ngoài như thế toàn thể con người trở thành tạo vật mới trong Đức Kitô Phục Sinh. Họ trở nên con cái sự sống lại, con cái sự sáng, con cái Đức Kitô Phục Sinh nên thừa hưởng sự sống đời đời của Đức Kitô.

Thánh Thần Thiên Chúa không đến để làm thay, làm dùm mà là hướng dẫn, khuyến khích, tác động tâm hồn các tín hữu để họ trở nên tạo vât mới. Hướng dẫn không phải theo ý riêng, muốn sao được vậy, mà là hướng dẫn theo khuôn mẫu Đức Kitô đã vạch ra trong cuộc đời rao giảng của Ngài nơi trần thế. Nói cách khác Lời Chúa là đèn soi giúp con người đổi mới. Thánh Thần Thiên Chúa giúp sưởi ấm tâm hồn, làm chất xúc tác thúc đẩy con người đó mạnh dạn tiến đến đổi mới bằng cách sống thể hiện Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Công việc của Thánh Thần là giúp Kitô hữu trở thành con người mới, không phải chỉ một lần mà đổi mới mỗi ngày trong suốt cuộc đời của họ nơi trần thế. Ngày nào thiếu đổi mới là ngày đó còn thiếu sót. Một ngày thiếu sống Lời Chúa ngày đó việc đổi mới bị đình chỉ, một khi không đổi mới có nghĩa là con người cũ lại tái xuất hiện. Đời sống nội tâm của Kitô hữu không phát triển đều hoà vì tình trạng nay sống Lời Chúa mai không. Hôm nay Lời Chúa sưởi ấm tâm hồn, ngày mai để nguội lạnh nên đời sống nội tâm lúc nóng, lúc lạnh, lúc tiến, lúc thoái tạo nên tình trạng dậm chân tại chỗ, không tiến cũng chẳng lui đó chính kinh nghiệm nhiều người vấp phải. Việc đổi mới cần làm liên tục, nhẹ nhàng, kiên tâm bền chí mới có kết quả xác thực. Việc đổi mới cần thể hiện mỗi ngày trong cuộc sống và kéo dài trọn đời người bởi Lời Chúa là đèn soi, từ bỏ đèn sẽ bước đi trong đêm tối, trong tối tăm và sẽ bị vấp ngã. Từ bỏ con người cũ để trở thành con người mới. Từ bỏ nếp sống cũ để trở thành con cái Thiên Chúa là điều dễ dàng, dễ thực hiện, nhưng kiên tâm trong việc từ bỏ, trung thành trong việc đổi mới hàng ngày là điều nhiều Kitô hữu không thực hành được vì Lời Chúa chưa thực sự bám rễ sâu trong tâm hồn. Một tâm hồn trưởng thành là tâm hồn thấy thiếu thốn, bất an nếu ngày đó thiếu được đón nhận lời Chúa. Lời Chúa được dùng làm thực phẩm tâm linh hàng ngày. Một ngày nhịn là một ngày đói.

Là con cái Thiên Chúa chúng ta sống trong tình yêu Chúa. Tình yêu Chúa biến chúng ta thành anh chị em trong đại gia đình Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha nhờ tác động của Thánh Thần hướng dẫn. Vì là con nên đồng hưởng chiến thắng vinh quang của Đức Kitô, Đấng sống lại từ cõi chết. Là con Thiên Chúa chúng ta tự hào là không cám dỗ nào mà không thắng được vì chúng ta không chiến thắng đơn độc nhưng nhờ sức mạnh Phục Sinh chúng ta chiến thắng được tất cả các sự dữ, các cám dỗ, vượt qua mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. Thánh Thần giúp chúng ta kết hợp với sức mạnh Lời Chúa. Thánh Thần hướng dẫn chúng ta đi trên con đường lành thánh. Thánh Thần ban sức mạnh Lời Chúa cho chúng ta khi chúng ta kêu cầu tới Ngài. Tất cả những điều trên thực hiện được nhờ vào cuộc tử nạn và sống lại của Đức Kitô. Sức mạnh Phục Sinh chiến thắng tất cả mọi khó khăn, thử thách nơi trần gian kể cả sự chết cũng bất lực trước sức mạnh Phục Sinh.

78. Mở lòng đón nhận Ơn Thần Khí - Anmai, CSsR
Nhiều lần nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta đã quên đi sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Đôi khi ta có cảm giác như Ngài không còn hiện diện nữa thì phải. Nếu như chúng ta đánh mất đi sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời, quả thật đó là điều đáng tiếc trong cuộc đời của mỗi người chúng ta

Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng kính Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Chúa Giêsu, sau khi Ngài lên Trời, trở về cùng Cha là Đấng đã sai Ngài xuống trong trần gian này Ngài đã không để chúng ta mồ côi. Bằng chứng cụ thể trong Tin mừng theo Thánh Gioan mà chúng ta vừa được nghe đấy, Chúa Giêsu đã hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Phải nói rằng Chúa Giêsu quá tinh tế, quá lo lắng cho con cái của mình. Chúa Giêsu hiểu con cái của mình, may mà có Thầy ở bên mà nhiều khi con yếu tin huống chi là khi Chúa ra đi. Biết các môn đệ sẽ bị hụt hẫng, sẽ bơ vơ và nhất là quên các lời của mình dạy nên Chúa đã lo lắng hết sức mình là xin cùng Cha để Ngài gửi Thánh Thần xuống.

Thật sự, không phải Thánh Thần chỉ mới xuất hiện sau khi Chúa Giêsu về Trời nhưng Chúa Thánh Thần đã xuất hiện từ ngày tạo thiên lập địa.

Chúa Thánh Thần trong Cựu Ước:

. Thánh Thần tích cực lôi kéo vũ trụ ra khỏi tình trạng hỗn mang lúc ban đầu. "Đất trời trông không mông quạnh, và tối tăm trên mặt uông mang, và Thần Khí là là trên mặt nước" (St 1, 2).

. Thánh Thần trong mầu nhiệm tạo dựng con người. Thánh Thần là Đấng ban sự sống thể lý cho con người: "Chính hơi thở của Thiên Chúa đã làm ra tôi, khí Shadday đã cho tôi sự sống" (G 33, 4).

. Thánh Thần phục sinh kẻ chết về thể lý cũng như tinh thần. Người phục hồi sự sống cho những bộ xương khô, biểu tượng của sự chết: "Ta sẽ ban Thần Khí của Ta xuống trong các ngươi. Và các ngươi sẽ được sống" (Ed 37, l4).

. Thánh Thần, Đấng bảo tồn toàn thể sự sống trên trái đất. Khi Giavê Thiên Chúa rút hơi thở Người lại, thì không tạo vật nào còn sống: "Nếu Người chỉ nghĩ đến Người, nếu Người rút về làn khí hơi thở của Người, thì mọi xác phàm sẽ chết cùng một lúc, và con người sẽ trở về với cát bụi" (G 34, 14-15)

Chúa Thánh Thần trong các Tin mừng:

Thánh Thần và biến cố Nhập Thể của Chúa Giêsu

Có hai điều nổi bật trong các bài tường thuật biến cố Nhập Thể của Đức Kitô:

- Các Tin Mừng Nhất Lãm, đặc biệt là Matthêu và Luca khẳng định Đức Maria là một Trinh Nữ, khi thiên thần truyền tin. Matthêu ứng dụng cho Maria sấm ngôn của Is 7, 14 (bản LXX) về một mgười nữ sẽ sinh con được đặt tên là Emmanuel.

- Cả Matthêu lẫn Luca đều nhấn mạnh tác động siêu nhiên của Thánh Thần trong lúc Đức Maria chịu thai Đức Giêsu:

"Xảy ra là Bà dã có thai do tự Thánh Thần" (Mt 1, 18. 21).

"Thánh Thần sẽ đến trên người và quyền năng Đấng Tối Cao trên người rợp bóng" (Lc 1, 35).

Luca: Tác động của Thánh Thần rộng rãi hơn.

Các tác động của Thánh Thần nơi Đức Kitô

Đức Kitô được xức dầu Thánh Thần khi chịu phép rửa.

Cả bốn Phúc Âm đều nói tới sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa và đều mô tả sự kiện ấy như một biến cố đặc biệt mở đầu thời gian rao giảng của Đức Kitô (Mt 3, 1)

Biến cố Đức Giêsu chịu phép rứa có giá trị mạc khải sứ vụ và chân tính của Ngài. Trong biến cố ấy, Thánh Thần đáp xuống và lưu lại nơi Đức Giêsu, Người làm chứng cho sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu là sứ vụ thanh tẩy trong Thánh Thần. Thánh Thần không thể đến trên Đức Giêsu cách nhất thời nhưng lưu lại trong Ngài, và vì thế tất cả sứ vụ của Ngài đếu thể hiện trong quyền năng của Thánh Thần.

Thánh Thần và việc Đức Giêsu chịu cám dỗ.

Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Đức Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ, và khẳng định Ngài được Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách (Lc 4, 1)

Satan tìm cách lung lạc tinh thần Đức Giêsu, mong Ngài thay đổi quan điểm về sứ vụ. Nhưng Đức Giêsu vẫn giữ vững tinh thần và lập trường, vì Ngài được đầy Thần Khí (trong biến cố phép rửa).

Thánh Thần và dấu lạ Đức Kitô thực hiện.

Tin mừng Luca ứng dụng sấm ngôn Messia của Is 61, 1-2 cho sứ vụ của Đức Giêsu (4,18-22). Tất cả các việc làm, đặc biệt là những phép lạ, đều là dấu chỉ sứ mạng Thiên Sai của Ngài.

Nhờ Thần Khí mà Ngài làm những điềm thiêng dấu lạ: chữa bệnh tật, xua trừ ma quỷ, cho kẻ chết sống lại (x. Mt 11, 5)

Và đó là bằng chứng Nước Thiên Chúa đang đến (Mt 12, 28; Lc 11, 20...).

Thánh Thần và cái chết của Đức Giêsu Kitô.

Cuộc chiến khốc liệt nhất mà Đức Giêsu phải đương đầu chống lại Satan, đầu mục của thế gian, là cuộc Khổ Nạn và cái chết bi thảm của Ngài. Danh tánh của Thánh Thần không được minh nhiên đề cập đến trong các bài tường thuật cuộc Khổ Nạn, nhưng hoạt động của Thánh Thần vẫn tiềm tàng và mạnh mẽ nơi Đức Giêsu, trong những giờ phút cam go nhất như trong vườn Cây Dầu và trên thập giá. Chính nhờ Thánh Thần và trong Thánh Thần mà Đức Kitô hiến thân làm của lễ hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa, như Chiên Con "hiến tế" để xoá tội trần gian (Dt 9, 14).

Thánh Thần và sự phục sinh của Đức Kitô.

Rất nhiều đoạn trong các thư khẳng định Đức Kitô sống lại từ trong cõi chết nhờ tác động của Thánh Thần. Phục sinh là chứng từ vững chắc nhất về sứ vụ và chân tính của Đức Giêsu Kitô. Thánh Thần, vì thông phần vào sự phục sinh thân xác Đức Giêsu, cũng là tác giả của chứng từ Phục Sinh.

Phaolô minh nhiên gán sự phục sinh Đức Giêsu Kitô cho tác động của Thánh Thần: "...được đặt làm Con Thiên Chúa quyền năng, theo Thánh Khí, do tự phục sinh từ cõi chết, Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Rm 1, 4).

Thư Phêrô cũng rõ ràng không kém: "Người đã bị giết chết về xác thịt, nhưng đã được tác sinh về Thần Khí" (1Pr 3, 18). Tóm lại, cả cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu đều diễn tiến trong Thánh Thần; Thánh Thần làm chứng về Ngài và loan báo mầu nhiệm của Ngài.

Nhìn lại lịch sử của Giáo hội, chúng ta thấy tác động, ảnh hưởng của Thánh Thần trên Giáo hội sơ khai là gì.

Khi Chúa Giêsu chịu chết, các ông nhát đảm và đã tỏa đi muôn phương vì mất định hướng, mất đi Lẽ Sống của mình. Khi Chúa Giêsu sống lại, lòng của các ông cũng tin đó nhưng cũng chưa vững lắm. Chỉ khi Chúa Thánh Thần đến và ngụ trên các ông, lòng tin của các ông khác hẳn.

Qua sách Công vụ tông đồ chúng ta thấy đó, đến ngày lễ Ngũ Tuần, khi mọi người đang tề tựu cầu nguyện như mọi lần thì Thánh Thần đến và tuôn đổ muôn ơn trên các ông và rồi họ nói các thứ tiếng tùy theo khả năng mà Thánh Thần ban cho.

Thế đấy! Từ khai sơ của Giáo Hội, Thánh Thần đến và ban cho mỗi người một ơn riêng tùy khả năng của mình.

Ngày nay cũng vậy, Chúa Thánh Thần đã đến và ban cho mỗi kitô chúng ta qua sự đặt tay và cầu nguyện của linh mục chủ sự trong bí tích Thanh Tẩy, qua sự đặt tay và cầu nguyện nhất là xức dầu Thánh từ tay Giám mục trong bí tích Thêm Sức. Chúa Thánh Thần đã xuống muôn ơn lành trên mỗi người chúng ta nhưng chúng ta đã không nhận ra và có thể chúng ta đã nhận ra nhưng chúng ta chôn vùi, chúng ta dập tắt ơn của Thần Khí đang hoạt động trong ta.

Nếu chúng ta mở lòng ra để đón nhận Thần Khí của Chúa, tức khắc hoa quả của Thần Khí sẽ đến và ở lại trong tâm hồn, trong cuộc đời của ta ngay. Nhìn vào một người, ta có thể nhận ra là người ấy có hoa quả của Thần Khí không? nếu có, chúng ta sẽ nhận ra nơi người ấy sống theo Thần Khí. Hoa quả của Thần Khí trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Galat chúng ta vừa nghe rất rõ ràng. Hoa quả ấy là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Và ngược lại, nếu không có Thần Khí thì người ấy sẽ hướng về những ước muốn của xác thịt. Nếu hướng theo xác thịt thì sẽ gây ra những tính xác thịt là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thồ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần, nguồn mạch của tình yêu, nguồn mạch của bình an, hoan lạc, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâp, trung tín, hiền hòa, tiết độ đến và ở lại trong tâm hồn mỗi người chúng ta để sau khi cùng nhau cử hành Thánh Lễ Hiện Xuống này, mỗi người chúng ta sẽ được biến đổi để khi chúng ta trở về với môi trường sống của chúng ta, hoa quả của Thần Khí sẽ tỏa lan trên mọi người chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc.

79. Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
LỄ NGŨ TUẦN, NGÀY HỘI CỦA THÁNH THẦN và GIÁO HỘI

Lễ Ngũ Tuần đánh dấu sự hiện xuống của Chúa Thánh Thần trên các thánh Tông Đồ và trên Giáo Hội sơ khai.

Biến cố này xảy ra năm mươi ngày tiếp theo sau biến cố Chúa Giêsu sống lại (Trong ngôn ngữ tiếng Hy Lạp, pentêkostê có nghĩa là thứ năm mươi). Giáo Hội Công Giáo mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống năm nay vào Chúa Nhật ngày 31 tháng 5.

Biến cố ngày lễ Ngũ Tuần chỉ có thể được hiểu trong mối quan hệ với biến cố lễ Chúa Phục Sinh và Chúa Lên Trời. Chịu chết để cứu độ nhân loại (Thứ Sáu Tuần Thánh), sống lại (vào ngày Phục Sinh) và về cùng Chúa Cha (Lên Trời), Đức Kitô phái Thánh Thần đến cho nhân loại (dịp lễ Ngũ Tuần). Do đó, ngày lễ này khép lại Mùa Phục Sinh vốn được kéo dài trong suốt bảy tuần lễ và cũng là sự đăng quang của Mùa Phục Sinh.

Vào ngày ấy, «các Tông Đồ đang hội họp cùng với nhau. Bỗng nhiên, từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho. (...) Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình » (Cv 2, 1-6).

Hơn nữa, đây cũng là dịp thực hiện lời hứa của Chúa Giêsu Phục Sinh đối với các Tông Đồ vào thời điểm lên trời xảy ra mười ngày trước đó: « Anh em sẽ lãnh nhận một sức mạnh, sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ đến trên anh em. Và anh em sẽ là những chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong vùng Giuđê và Samari cho đến tận cùng bờ cõi trái đất ».

Thực tế cho thấy, các Tông Đồ khi nhận được sức mạnh của Thánh Thần liền can đảm rời khỏi gian phòng mà trước đây họ tự giam hãm trong nỗi sợ sệt. Ngay lập tức họ bắt đầu làm chứng cho Chúa Phục Sinh, rao giảng giáo huấn của Ngài cho muôn dân và làm phép Rửa Tội. « Trong dịp lễ Ngũ Tuần, Giáo Hội được khai sinh không do ý muốn của loài người, nhưng là bởi sức mạnh của Thánh Thần ». Trong thực tế, tiếp theo biến cố này các cộng đoàn tín hữu đầu tiên được ra đời, được củng cố, phát triển và lan truyền rộng rãi.

Trình thuật trong sách Tông Đồ Công Vụ mang hàm ý: gió và lửa, cũng như các trình thuật khác trong Kinh Thánh, biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa. Những lưỡi lửa chứng tỏ sự ngự xuống của Thánh Thần trên các Tông Đồ. Và khả năng của họ làm cho tất cả những người nghe hiểu được mà theo như bản văn liệt kê một cách rất cụ thể và chính xác rằng đây là những người dân « Pácthia, Mêđia, Êlam, Mêxôpôtamia, Giuđê, Capađôkia, Pontô và Asia, có người là dân Physia, Pamphylia, Ai Cập, và những vùng Libya giáp giới Kyrênê; nào là những người từ Rôma đến đây; nào là người Do Thái cũng như người mới trở lại đạo; nào là người đảo Kêta hay người Arập ». Hết thảy đều đều nghe các Tông Đồ rao giảng bằng tiếng bản xứ của mình.

Cũng vậy, Tin Mừng có liên quan đến tất cả nhân loại, ơn Chúa Thánh Thần cho phép các Tông Đồ đáp trả lời mời gọi của Chúa Phục Sinh: trở nên những chứng nhân của Ngài cho đến « tận cùng trái đất ».

Cũng như các Tông Đồ, các Kitô hữu được mời gọi không được khép kín nơi bản thân mình như người đứng bên ngoài cuộc sống và ở ngoài thế giới, trái lại phải là những người công bố Tin Vui trong Phúc Âm một cách mạch lạc và tự do. Bổn phận này được đặc biệt nhắc đến trong Công Đồng Vatican II về vai trò của người giáo dân, cũng như trong tông huấn Christideles laici của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề ngày 30 tháng 12 năm 1998.

Nguồn mạch được tỏ hiện trong biến cố Lễ Ngũ Tuần, Bí Tích Thêm Sức thường xuyên được cử hành trong dịp lễ này. Trong nghi thức, giám mục đặt tay trên người lãnh nhận, cử chỉ biểu lộ ơn Chúa Thánh Thần. Ngày nay, người lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức có thể là những thiếu niên cũng như những người trưởng thành.

(Nguồn: La Pentecôte, fête de l'Esprit Saint et de l'Eglise)

80. Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương
CHÚA THÁNH THẦN, NGƯỜI LÀ AI và NGƯỜI LÀM GÌ?

Một người bạn linh mục kể với tôi một câu chuyện vui như sau: Một ngày nọ, Chúa Cha nói với Chúa Con: "Cha muốn đi thăm lại Sinai, nơi Cha đã tới đó một lần rồi". Chúa Con nói: "Con muốn đi thăm Giêrusalem, nơi mà người ta đã giết Con, nào chúng ta cùng đi". Còn Chúa Thánh Thần thì nói: "Tôi muốn tới tham quan Vaticăng" Chúa Cha hỏi: "Tại sao", Chúa Thánh Thần trả lời: bởi vì... Tôi chưa bao giờ tới đó lần nào cả"!!!

Đây chỉ là một câu chuyện tưởng tưởng thôi, nhưng có lẽ nó cũng nói với chúng ta một điều gì đó về sự lãng quên Chúa Thánh Thần ở trong Giáo Hội như các nhà thần học cảnh tĩnh