Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
19/03 Người Công Chính
- Viết bởi Mt 1, 16. 18-21. 24a
Người Công Chính.
Thứ hai tuần 5 Mùa Chay – THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MARIA. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
"Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền".
* Thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Maria, có sứ mạng “chăm sóc Đức Giêsu như một người cha”. Nhưng Chúa đã muốn người chủ Thánh Gia ở Nagiarét tiếp tục sứ mạng ấy trong Hội Thánh, thân thể của Chúa Kitô. Đức Maria là Mẹ của Hội Thánh thì thánh Giuse là Đấng che chở Hội Thánh.
Lời Chúa: Mt 1, 16. 18-21. 24a
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thánh Giuse, người đi trong đêm tối
(Suy niệm của TGM. Ngô Quang Kiệt)
Trong các bức vẽ thánh Giuse, tôi thích nhất bức tranh vẽ Thánh Giuse đưa Ðức Mẹ và Chúa Giêsu trốn sang Ai Cập. Bầu trời đen thẫm, một vài tia chớp lóe lên ở cuối chân trời vừa soi đường cho Thánh Giuse, vừa báo hiệu cơn giông bão sắp tới. Ðức Maria bồng Chúa Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa. Cả người, cả lừa như lẩn vào màn đêm. Bức tranh không chỉ đẹp ở nét vẽ gợi cảm mà còn đẹp về ý nghĩa. Ngắm nhìn bức tranh, tôi thấy hiện lên cả cuộc đời Thánh Giuse, một đời bước đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối đức tin, Ngài đã sống chung với Ðức Maria và Chúa Giêsu, những con người của huyền nhiệm. Một người bình thường đã là một thế giới huyền bí. Một con người của huyền nhiệm lại càng sâu xa bí ẩn hơn bội phần. Ði bên những huyền nhiệm cũng như đi trong đêm tối, Thánh Giuse không hiểu gì hết. Không hiểu mà vẫn phải đón nhận. Không hiểu mà vẫn phải tin, phải yêu. Không hiểu mà vẫn phải đồng hành hết suốt cuộc đời. Thánh Giuse giống như một người lính canh, được cấp trên giao cho một chiếc hộp đóng kín. Người lính canh chỉ có nhiệm vụ canh giữ mà không được phép mở ra. Trong hộp có gì? Có thể là một kho tàng quí giá. Nhưng cũng có thể chỉ là một chiếc hộp rỗng không. Không biết, nhưng vẫn phải canh giữ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối im lặng. Ngài đi trong sự im lặng của Ðức Maria người bạn yêu quí. Trước những mầu nhiệm cao cả, Ðức Maria đã lặng thinh không nói. Ngài đi trong sự im lặng của Ðức Giêsu. Thiên Chúa làm người là một mầu nhiệm ẩn giấu vì Ðức Giêsu không hề hé lộ thân phận. Ngài đi trong sự im lặng của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ trực tiếp nói với Ngài. Chỉ có vài lần mà chỉ là những tiếng vọng mơ hồ giữa đêm khuya trong giấc ngủ, vẫn là ngôn ngữ của im lặng. Ngài đi trong im lặng của chính mình. Im lặng đáng sợ nhất là khi phải đối đầu với nguy hiểm, với nghi ngờ, với những vấn đề hệ trọng của đời sống. Im lặng khó hiểu. Khi những gì thân thiết nhất trong đời trở nên bí ẩn, cách xa. Im lặng nguy hiểm. Nó có thể đốn ngã cây cổ thụ, làm chao đảo những niềm tin vững mạnh nhất.
Trong cả 4 Phúc Âm không thấy ghi lại lời nào của Thánh Giuse. Ngài bước đi trong âm thầm lặng lẽ. Thánh Giuse đã đi trong đêm tối lãng quên. Ngài bị lãng quên trong một làng quê nhỏ bé, trong thân phận nghèo hèn của bác thợ mộc. Người ta không bao giờ nhắc đến Ngài. Nếu có nhắc đến cũng chỉ để chê bác ái, dè bĩu, hạ thấp thân phận của Ðức Giêsu: "Giêsu con của bác Giuse thợ mộc tầm thường ấy mà. Có làm gì nên chuyện". Ngài bị lãng quên luôn luôn ở phía sau, luôn luôn chìm trong bóng tối.
Phúc Âm kể về Ðức Maria, sách Tông đồ Công vụ kể về Ðức Maria. Nhưng từ khi Ðức Giêsu khôn lớn không ai nói gì về Thánh Giuse nữa. Ngài chìm vào đêm tối quên lãng. Ngài luôn luôn đóng vai phụ, như hình ảnh người dắt lừa đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối thử thách thân phận nghèo hèn. Sống trong im lặng và lãng quên, nhưng những thử thách Ngài phải đương đầu lại rất cam go. Rất hiền lành, nhưng phải đương đầu với Hêrôđê hung hãn. Mình giữ mình chưa xong, lại còn phải che chở cho một hài nhi sơ sinh và một sản phụ yếu ớt. Nhưng những thử thách khốn khó về thể lý, dù cam go thế nào cũng còn chịu được, những thử thách đức tin mới thật là khủng khiếp. Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa ư? Ðức Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa ư? Thật khó mà tin được. Sao Con Thiên Chúa quyền uy dường ấy lại bé nhỏ yếu ớt nghèo hèn thế này? Sao Vua Trời vinh hiển lại phải trốn chạy một ông vua trần thế. Các thử thách làm cho đêm tối càng đen hơn, càng dày hơn, càng sâu hơn.
Tuy đêm có đen, tuy chân có mỏi, tuy lòng có xao xuyến nhưng Thánh Giuse vẫn bước đi. Tuy thử thách còn nặng nề nhưng Thánh Giuse vẫn chiến đấu. Cha Teilhard de Chardis nói "Người chiến đấu giống như người bơi lội ngoài biển ban đêm. Ban đêm người bơi lội vùng vẫy làm dao động mặt nước biển có ánh sáng lóe lên chung quanh mình".
Thánh Giuse đã chiến đấu. Những chiến đấu mạnh mẽ cũng làm lóe lên ánh sáng soi bước cho chân Ngài đi.
Ði trong đêm tối đức tin. Ngài có ngọn lửa đức mến soi đường. Ðêm đen lắm nhưng Ngài cứ yêu mến Chúa, cứ gắn bó với Chúa và cứ bước đi với Chúa.
Trong đêm tối im lặng, Ngài đốt lên trong tâm hồn ngọn đèn thao thức, lắng nghe đón chờ. Niềm thao thức khiến tâm hồn Ngài nhạy bén như một phần mỏng. Lời Chúa chỉ thoáng nhẹ như làn gió thoảng phím đàn đã rung lên. Ý Chúa chỉ mờ ảo trong giấc mơ Ngài đã đọc được và mau mắn thi hành.
Trong đêm tối lãng quên, Ngài có đèn khiêm nhường dẫn lối. Khiêm nhường chìm vào quên lãng, khiêm nhường phục vụ. Khiêm nhường sâu thẳm. Ngài cũng có tâm tình như thánh Gioan Tẩy Giả: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi".
Trong đêm tối thử thách Ngài thắp lên ngọn đèn tin yêu phó thác. Tin vững vàng vào lời Chúa, hoàn toàn phó thác cho Chúa, để Chúa dẫn đường qua đêm đen mù mịt.
Lạy Thánh Giuse, con cũng đang đi trong đêm đen. Xin hãy thắp lên trong con những ngọn đèn của Thánh Cả, soi đường cho con đi đến nơi bình an.
SUY NIỆM 2: Người Công Chính
"Ông Giuse, bạn bà là kẻ công chính và không muốn làm ố danh bà, nên đã định bỏ bà cách kín đáo".
Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của vị thánh mà Giáo hội mừng kính hôm nay: Thánh Giuse, bạn Ðức Trinh Nữ Maria, bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.
Ðược Tân Ước gọi là "công chính", Thánh Giuse không những là người đã giữ đức công bình và trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng và một người cha.
Ðược gọi là "công chính", theo ý nghĩa của Kinh Thánh, là được Thiên Chúa công chính hóa, được Thiên Chúa cho tham dự vào sự công chính, sự thánh thiện của Người. Vì thế, người được công chính hóa xứng đáng để Thiên Chúa yêu thương, thương yêu thật sự vì Thiên Chúa không bao giờ đóng kịch, giả vờ như người nào đó đáng được thương yêu nhưng trong thực tế không phải thế.
Trong chiều hướng tư tưởng này, gọi thánh Giuse là kẻ công chính, Kinh Thánh muốn nói là: Ngài được Thiên Chúa công chính hóa và được Thiên Chúa yêu thương vì thật sự Ngài xứng đáng. Lần giở lại những trang Tân Ước có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay những đặc tính làm cho Ngài xứng đáng được Thiên Chúa yêu thương.
Trước tiên, là đặc tính hoàn toàn vâng phục Thánh ý Chúa. Trong trường hợp cuộc đời Thánh Giuse, Tân Ước diễn tả Thiên Thần là người thông báo cho Ngài biết ý Chúa. Vì thế, nghe lời Thiên Thần truyền, Thánh Giuse đã bỏ ý định ly dị Ðức Maria cách kín đáo. Ngược lại, Giuse đã trỗi dậy ngay trong đêm khuya để đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập cũng như đem Con Trẻ và Mẹ Người về nước Israel, đến sinh sống tại thành Nagiaréth và âm thầm nhưng ân cần lấy sức lao động nuôi sống gia đình trải qua những tháng năm dài sau đó.
Tiếp đến Tân Ước nhắc đến Thánh Giuse trong biến cố thất lạc và tìm gặp Ðức Giêsu trong đền thánh. Qua đó chúng ta khám phá ra một đặc tính khác của Ngài hay nói đúng hơn một đặc tính mà các thánh ký viết Phúc Âm chú ý nhấn mạnh nơi Thánh Giuse: Không một lời nói nào của Ngài được ghi lại trong Tân Ước. Nhưng Thánh Giuse đã hùng hồn nói trong hành động, những hành động xem ra vô lý và đầy nguy hiểm, nhưng Ngài đã khiêm tốn, can đảm và kiên trì làm để thực hiện hoàn toàn thánh ý của Thiên Chúa.
Qua đó, Thánh Giuse xứng đáng là chủ gia đình của Nagiaréth, một gia đình thánh thiện, vì gồm ba tâm hồn luôn sẵn sàng lắng nghe và thực hành những gì Thiên Chúa muốn. Và cũng qua đó, Thánh Giuse trở nên công chính, được Thiên Chúa thực sự yêu thương.
Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa đã trao tặng Thánh Giuse cho gia đình Nagiaréth và đặc biệt cho Giáo Hội Việt Nam. Nhờ lời cầu bàu cho Thánh cả Giuse, xin Chúa chúc lành cho những người chồng, cho những người cha, giúp họ can đảm và kiên tâm chu toàn bổn phận trong gia đình. Xin Chúa cũng chúc lành cho mọi gia đình và Giáo Hội Việt Nam, giúp mọi người sống xứng đáng với ơn gọi làm chứng nhân cho tình yêu Chúa.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – R. Veritas)
SUY NIỆM 3: Trung Thành Với Thánh Ý Thiên Chúa
Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Cả Giuse, mặc dù thánh nhân chỉ xuất hiện vài lần trong các sách Tin Mừng. Nhưng chừng ấy cũng đủ để Giáo Hội có cơ sở để tôn vinh Người trong vai trò cha nuôi của Chúa Giêsu và là bạn trăm năm của Ðức Maria.
Thánh Giuse là mẫu người thầm lặng ít nói. Các sách Tin Mừng không ghi lại lời nào của Người, ngay cả lúc tìm gặp Chúa Giêsu trong đền thờ, thì cũng chính Ðức Maria là người lên tiếng nói với Chúa Giêsu. Thánh Giuse ít nói nhưng người chăm chú lắng nghe các lệnh truyền của Chúa và mau mắn làm theo, nhiều khi các lệnh truyền ấy có vẻ ngang trái bất ngờ. Khi nhận Ðức Maria làm vợ và đưa Mẹ về nhà mình; khi đem gia đình trốn sang Ai Cập; khi hồi hương trở về Nazareth, thánh Giuse luôn luôn trung thành với thánh ý Thiên Chúa mà không đòi hỏi một điều kiện nào. Hễ Thiên Chúa gọi thì Người lắng nghe; Thiên Chúa nói thì Người vâng lời. Thánh Giuse đúng là một người sống đức tin bằng hành động, không lý luận, không thắc mắc, tâm hồn và thân xác Người luôn sẵn sàng dâng hiến để thánh ý Thiên Chúa được thi hành. Và quả thật, nhờ sự cộng tác đắc lực của thánh Giuse, mà kế hoạch nhập thể của Chúa Giêsu được diễn ra hết sức tốt đẹp. Không đòi hỏi được tuyên dương, thánh Giuse đã làm trọn sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó cho Người.
Lạy Thánh Cả Giuse, nhiều khi con ham nói mà ít chịu lắng nghe tiếng Thiên Chúa, ham suy luận mà ít chịu vâng phục cách triệt để thánh ý Thiên Chúa. Xin thánh nhân dạy con biết noi gương Người, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thinh lặng và biết sống đức tin bằng hành động. Xin thánh nhân nâng đỡ những người cha trong gia đình để họ sống trọn sứ mạng làm chồng, làm cha. Xin thánh nhân phù trợ Giáo Hội Việt Nam trong vai trò hướng dẫn những người Kitô và làm chứng cho đức tin Kitô giữa lòng dân tộc.
SUY NIỆM 4: Khủng hoảng gia đình
Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh đến vai trò của gia đình trong cuộc sống của mọi người chúng ta. Theo Công đồng, thì gia đình chính là trường học đầu tiên dạy chúng ta những bài học làm người. Thực vậy, mỗi khi nghĩ về gia đình tôi thường cảm thấy một cái gì thật êm đẹp và ấm cúng, những điều mà bà mẹ dạy cho con khi nó còn ngồi trên gối, những bài học mà người cha đã chỉ bảo cũng như những kỷ niệm, những mẫu gương của đời sống gia đình. Tất cả những cái đó sẽ không bao giờ tàn phai trong cõi lòng chúng ta. Một khi cá nhân đã được canh tân, thì xã hội và Giáo Hội cũng được mang lấy một bộ mặt mới. Chính vì vậy gia đình đã góp một phần rất lớn vào công cuộc xây dựng một Giáo Hội thánh thiện và một xã hội lành mạnh. Gia đình là viên gạch, là nền tảng cho xã hội, gia đình là một tế bào sống của Giáo Hội hay nói một cách khác, gia đình chính là một Giáo Hội được thu nhỏ lại.
Thế nhưng hơn bao giờ hết, hiện nay gia đình lại rơi vào một tình trạng khủng hoảng trầm trọng và bị lung lay đến tận gốc rễ. Nào là tình yêu bị đe doạ với những bộ luật cho phép được ly dị, xoá bỏ những hôn nhân trong đời. Nào là những thai nhi không được bảo đảm với những phương thuốc ngừa thai và phá thai. Bên Âu châu, vợ chồng thay đổi nhau như thay đổi áo. Có những cô đào đã trải qua bảy tám đời chồng mà vẫn chưa tìm thấy một nơi để dừng lại. Cha mẹ thì đau khổ vì con cái, nhưng con cái lại cảm thấy bực bội trước những cấm đoán của cha mẹ. Giữa cha mẹ và con cái có một vực thẳm ngăn cách mà không có lấy một nhịp cầu thông cảm. Con cái nhiều lúc cảm thấy ngột ngạt trong bầu khí gia đình vì những sự la hét, chửi bới của cha mẹ, để rồi thoát ly gia đình, đi bụi đời, sống một cuộc sống lang thang, để rồi giết hại đời minh trong những vui thú tệ hại như cần sa, như ma tuý. Nếu chịu khó ngồi xuống và trong yên lặng hãy suy nghĩ về thực trạng đó, chúng ta sẽ tìm thấy nhiều lý do tạo nên. Nhưng trong giây phút này tôi chỉ muốn nêu lên một lý do chính yếu đó là thiếu sự nhường nhịn.
Thực vậy, bá nhân bá tánh, mọi người đều có một tính tình riêng, và hơn thế nữa nhân vô thập toàn, mọi người đều có những sai lỗi của mình. Nơi đó trong một nếp sống chung, không thể nào tránh khỏi những bực bội, những buồn phiền, những sai lỗi của người khác. Ngay như đến Thánh gia cũng không thoát khỏi cái định luật chung ấy: Bấy giờ Giuse nhận thấy Maria mang thai không bởi hành động của mình. Sự kiện này đã làm cho Giuse đau khổ không ít, chắc hẳn Giuse cũng đã trải qua những đêm không ngủ để tìm hiểu, để đặt ra những câu hỏi và tìm lấy những câu trả lời, Giuse đã âm thầm chịu đựng. Nếu như chúng ta, thì sẽ phải làm cho ra lẽ. Và trong sự ghen tương, chúng ta sẽ đánh đập người vợ ấy một trận nên thân, rồi đuổi người vợ ấy về với cha mẹ, hay lôi người vợ ấy ra toà để ly thân, ly dị, vì chúng ta không thể chấp nhận được một sự chia sẻ tình yêu như vậy, và chắc hẳn gia đình chúng ta sẽ tan rã. Chính trong sự yên lặng và nhường nhịn, Giuse đã tìm ra chân lý, Giuse đã hiểu được sự thật, Giuse đã vượt qua cơn sóng gió, để rồi chấp nhận và yêu thương Maria như người bạn trăm năm của mình.
Kinh nghiệm bản thân cũng cho ta thấy, một sự nhịn là chín sự lành: Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa chẳng đời nào khê. Chính sự nhường nhịn ấy sẽ tạo nên tình yêu và một bầu khí ấm cúng trong gia đình. Làm sao mà người chồng có thể còn bực tức trước một cử chỉ yêu thương như thế: chồng giận thì vợ làm lành, miệng cười hớn hở thưa anh giận gì. Chúng ta hãy học cùng thánh Giuse để biết yêu thương nhường nhịn lẫn nhau, giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ và con cái. Đồng thời chúng ta hãy xin Thánh Giuse sửa đổi những sai lỗi trong gia đình chúng ta.
Có một người vợ trẻ âm thầm chịu đựng những đau khổ do một ông chồng chơi bời trác táng gây nên ông ta bỏ nhà ra đi không kể ngày và đêm. Người vợ trẻ ấy chỉ còn biết tìm an ủi trong việc tíao dục đứa con duy nhất và xin thánh Giuse hoán cải người chồng của mình. Một buổi tối ông ta trở về nhà nghe thấy có tiếng nói chuyện. Ông ta nhìn qua khe cửa và thấy được một cảnh tượng cảm động: Người vợ đang dạy đứa con cầu nguyện: Con hãy cầu xin cho ba con, người mà má hằng yêu thương và con cũng sẽ yêu thương, con hãy xin thánh Giuse hướng dẫn ba con. Ông ta vô cùng xúc động trước cảnh tượng đó và đã dứt khoát trở về với mái ấm gia đình. Chúng ta cũng hãy xin thánh Giuse phù trợ cho gia đình chúng ta.
SUY NIỆM 5: Suy Niệm về Thánh Giuse
(Suy niệm của Cao Huy Hoàng)
Tháng 3 về, chúng ta cùng tạ ơn Thánh Giuse là Đấng bảo trợ mỗi gia trưởng chúng ta trong thời gian qua, và còn sẽ bảo trợ chúng ta trong suốt cuộc đời làm chồng, làm cha, làm ông nội, ông ngoại.
Tỏ lòng tri ân ấy, Chúa không muốn chúng ta chỉ nói lên bằng lời, mà còn phải nói lên bằng cuộc sống gia trưởng theo mẫu gương gia trưởng nhân đức của Ngài. Vì thế, suy niệm về những ngày đời thánh thiện của Thánh Giuse, làm bài học quí giá cho mỗi gia trưởng là thật cần thiết.
Đón nhận nhau trong đức tin
Thiên Chúa đã chọn Thánh Giuse cộng tác vào chương trình cứu chuộc, chương trình mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại, nên có thể nói, người được Thiên Chúa chọn hẳn phải là một người đủ phẩm cách đẹp lòng Thiên Chúa. Và điều đẹp lòng Chúa nhất là Tin vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Quả thật, nếu đức tin của Mẹ Maria được thể hiện bằng sự khiêm tốn và vâng phục để Thiên Chúa thực hiện mầu nhiệm nhập thể: “Nầy tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như Lời sứ thần truyền. Xin hãy thành sự trong tôi, như Lời Ngài đã phán”, thì Thánh Giuse âm thầm không nói gì, không trả lời gì, mà Ngài chỉ làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà: ‘Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần’. Điều Thánh Giuse đã làm là một câu trả lời “vâng phục” bằng “đức tin” hùng hồn nhất (x. Rm 1,5; 16,26; 2Cr 10,5-6).
Thế thì, Lời chúc của Elizabet dành cho Mẹ Maria “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45) cũng chính là lời mà mọi miệng lưỡi phải chúc tụng Thánh Giuse như vậy.
Thánh Giuse và Mẹ Maria đã đón nhận và thực hiện thánh ý của Thiên Chúa là đón nhận nhau, và cả hai cùng đón nhận Phôi Thai Đấng Cứu Thế bằng một đức tin. Từ đó, làm thành một cộng đoàn mới của Thiên Chúa, trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Việc thánh Giuse đón Đức Maria về làm vợ trong lúc Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, quả là một gương đức tin hùng hồn vào Thiên Chúa quyền năng: Thiên Chúa chọn cho Giuse một người vợ. Thiên Chúa chọn cho Maria một người chồng. Thiên Chúa chọn cho Đấng Cứu Thế những người làm Cha Mẹ. Vì quả thực, nếu để tự Giuse chọn, có lẽ Giuse không chọn Maria, vì ngại những tiếng đời dị nghị. Nhưng việc ấy không xảy ra theo ý của Giuse, mà đã xảy ra ngược lại theo ý của Thiên Chúa.
Còn chúng ta, có tin rằng Thiên Chúa đã tham gia vào việc chọn lựa của mình không? Có nhiều người đã sống với nhau bao nhiêu năm rồi, mới ngộ ra là có bàn tay Thiên Chúa định liệu cho việc của Chúa nơi gia đình mình. Có nhiều người cho là chuyện ông trời xe định, nồi nào vung nấy. Nhưng thiết tưởng đức tin công giáo đòi hỏi chúng ta phải xác tín ngay từ buổi đầu của cuộc hôn nhân rằng Thiên Chúa tham dự vào việc tuyển chọn cho mình một người bạn đời theo ý Chúa. Và từ ấy, cuộc sống của vợ chồng trải ra trong sự quan phòng của Thiên Chúa, để tiếp tục công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa và tiếp tục thực hiện chương trình cứu rỗi của Ngài. Chỉ trong đức tin, cuộc sống của hôn nhân mới có đủ nghị lực để vượt qua những thử thách và bền vững cho đến cùng.
Như vậy, việc đón nhận nhau trong đức tin là bài học trước tiên của đời sống gia đình công giáo. Đón nhận một người bạn đời về chung sống với nhau nên nghĩa vợ chồng, đón nhận con cái Chúa ban trong ánh sáng đức tin, có thể nói là đón nhận tình yêu Thiên Chúa, hồng ân của Thiên Chúa nhằm đến việc thực hiện chương trình mạc khải của Thiên Chúa nơi gia đình là: Tình yêu và cứu độ.
Nhìn lại đời sống gia đình chúng ta, mỗi người có thể suy xét lại và trả lời trước mặt Chúa, rằng ngày ấy con yêu nàng, con cưới nàng làm vợ, có phải vì Đức Tin là để có một gia đình nhằm thực hiện chương trình của Chúa, hay có một gia đình thực hiện chương trình của chúng ta. Chúng ta đã đón nhận nhau vì Chúa hay vì ta? để sống cho Thiên Chúa hay cho chúng ta?
Thánh thiện trong đức cậy
Mẹ Maria đã tin tưởng và ký thác toàn thân mình cho Thiên Chúa để Ngài thực hiện ơn cứu độ, thì thánh Giuse cũng cậy trông hoàn toàn vào sức mạnh của Thiên Chúa để vượt thắng những nguy cơ làm mất đi vẻ đẹp tinh tuyền thánh thiện của gia đình Con Thiên Chúa. Việc giữ đức khiết tịnh cho mình và cho người bạn đời, thiết tưởng phải việc ưu tiên hơn cả. Bởi vì thánh ý của Thiên Chúa đã khởi đầu bằng việc Con Thiên Chúa làm người trong lòng một trinh nữ. Và trinh nữ ấy đã khấn nguyện giữ mình đồng trinh đến trọn đời. Như thế, đời sống gia đình của Thánh Giuse, Mẹ Maria và Con Thiên Chúa phải là một đời sống tinh tuyền tuyệt đối nơi cả ba con người.
Với loài người, thì không thể, nhưng với Thiên Chúa thì việc gì cũng có thể. Và chúng ta tin rằng, đức cậy trông nơi Thánh Giuse phải là tuyệt hảo. Chính vì đức trông cậy và nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa, mà Thánh Giuse vượt thắng những yếu hèn của đời người, gìn giữ được đức công chính, vẻ đẹp nguyên tuyền của mình trong trắng thanh cao như nhành huệ, đồng thời bảo bọc được sự đồng trinh trọn đời của người bạn đời chí thiết.
Hình ảnh người con mà đức tin cho biết là “Con Thiên Chúa” trong gia đình, có thể nói là yếu tố quan trọng vào bậc nhất trong việc hình thành đức cậy trông nơi Thánh Giuse. Người “con làm việc của Cha trên trời” và “càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan” là hoa trái của đức cậy trông mà Thánh Giuse đã miệt mài ký thác.
Gia đình chúng ta hôm nay quên nhắm đến hạnh phúc do sự công chính, thánh thiện mang lại, mà chỉ nhắm đến hạnh phúc do những giá trị trần thế ban phát cho. Thật đáng trách cho mỗi gia trưởng chúng ta, khi không hướng gia đình đến đời sống thánh thiện thuần khiết, lại còn vướng vào những trào lưu tục hóa làm mất đi vẻ thánh thiện nguyên tuyền của hôn nhân công giáo. Thêm vào đó, lại không hướng niềm cậy trông vào Chúa mà lại đặt hy vọng nơi những thực tại hão huyền.
Chu toàn trách nhiệm trong đức mến
Hoa trái của Đức tin là đức mến. Đức Mến thôi thúc thánh Giuse chu toàn vai trò làm chồng làm cha trong gia đình. Từ việc đưa vợ về làm sổ bộ, lo cho vợ sinh nở, đưa vợ con trốn sang Ai cập, hồi cư, cắt bì và đặt tên cho con, dâng con vào đền thờ, tìm con khi lạc mất, cùng vợ con kiếm có cái ăn cái mặc… tất cả đều được thể hiện với tình yêu mến.
Chúa Giêsu lớn lên và trưởng thành mặt nhân tính trong cung lòng Mẹ Maria, thực ra trong trái tim yêu thương của Mẹ Maria và trong tấm lòng từ ái của Cha Thánh Giuse. Cả hai đầy tình yêu thương và tính trách nhiệm.
Tình thương đích thực bắt nguồn từ Thiên Chúa, và cụ thể nơi vợ chồng Maria, Giuse: Tình thương đó là hy sinh cho người mình yêu được hạnh phúc. Sự hy sinh ấy bao gồm cả tự do, ý chí, sự sống, thời gian và tất cả những gì tưởng như mình phải được, cũng bằng lòng mất đi. Sự hy sinh ấy được thể hiện với lòng khiêm cung, lịch sự, khoan dung, nhẫn nại. Và sự hy sinh ấy chính là nét họa bản tính của Thiên Chúa trong tâm hồn mỗi con người có lòng yêu mến Ngài.
Cả Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria đều đã thắm đẫm tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu nhau bằng tình yêu của Thiên Chúa, nên việc chu toàn trách nhiệm với đứa con được sinh ra cũng chính là chu toàn trách nhiệm mà Thiên Chúa giao phó trong nhiệm cuộc của Ngài.
Tình mến không vị kỷ. Tình mến không huênh hoang. Tình mến không nóng nảy…. là tình mến của Thánh Giuse. Tình mến chứa chan sự công chính thánh thiện, tràn đầy niềm hân hoan, vẻ dịu dàng, nét khiêm tốn là tình mến của Thánh Giuse. Tình mến ấy phải là tình mến chuẩn mực cho các gia trưởng hôm nay.
Nghĩ về mình, có thể có đôi người trong chúng ta đang được niềm vui mừng vì đã theo gương nhân đức của Thánh Giuse trong đời sống gia đình, nhưng thiết tưởng, đa số trong chúng ta chưa chọn lấy tình mến chuẩn mực của Ngài làm tiêu chí sống đời vợ chồng gia đình. Thật đáng tiếc.
Tháng 3 lại về, tháng kính Thánh Giuse, cho chúng ta một cơ hội nhìn vào gương sống của thánh quan thầy các gia trưởng mà suy nghĩ về:
* Mầu nhiệm gia đình, trước tiên, phải xác tín gia đình là một mầu nhiệm trong nhiệm cuộc sáng tạo và cứu rỗi nhân loại.
* Đức tin của chúng ta, Đức tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng, đã chọn lựa và chỉ định cho chúng ta người bạn đời, để sống với nhau mà thực hiện thánh ý Chúa.
* Đức trông cậy của chúng ta, đức trông cậy duy nhất nơi sức mạnh của Thiên Chúa mới giúp chúng ta sống công chính thánh thiện và bình an hạnh phúc.
* Đức mến của chúng ta, đức mến phải được mặc lấy lòng khoan dung từ bi nhân hậu của Thiên Chúa mà chu toàn bổn phận Chúa giao phó trong sứ mệnh sáng tạo và cứu rỗi ngay trong chính gia đình mình.
Nguyện xin Thánh Giuse cầu thay nguyện giúp cho mỗi gia trưởng chúng con biết noi gương nhân đức Ngài, mà thăng hoa cuộc lữ hành trần thế của chúng con trên đường công chính.
SUY NIỆM 6: Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II Nói Về Gương Thánh Giuse
Anh chị em rất thân mến,
Ngày 19 tháng 3, chúng ta cử hành Lễ Thánh Giuse. Vào trung tâm của Mùa Chay, Phụng vụ trình bày cho chúng ta vị thánh vĩ đại này như là gương mẫu để noi theo, và như là Ðấng bảo vệ để chúng ta cầu khẩn.
Trước hết, thánh Giuse là mẫu gương sống Ðức Tin cho chúng ta. Như Tổ Phụ Abraham, thánh Giuse đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa; vì thế Ngài là mẫu gương khích lệ, nhất là khi chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Chúa, dựa trên "Lời Ngài" đã phán, mà không nhìn thấy được rõ ràng Ý Ðịnh của Chúa.
Hơn nữa, chúng ta được mời gọi noi gương Ngài, trong việc khiêm tốn thực thi sự vâng phục, một nhân đức chiếu sáng nơi Ngài trong nếp sống thinh lặng và trong việc làm ẩn khuất. Trường học Nazareth quý giá biết bao cho con người thời nay, bị bao vây bởi một nền văn hóa rất thường đề cao vẻ bề ngoài và sự thành công, đề cao sự độc lập và một quan niệm sai lầm về tự do cá nhân. Ngược lại, thật là cần thiết biết bao, việc phục hồi lại giá trị của sự đơn sơ và vâng phục, sự tôn trọng và yêu mến đi tìm thánh ý của Thiên Chúa.
Thánh Giuse đã sống phục vụ cho vị hôn thê của mình và cho Con Thiên Chúa; và như thế, đối với các tín hữu, thánh Giuse trở thành chứng tá hùng hồn cho biết phải cai trị hay phục vụ như thế nào. Ðặc biệt, tất cả những ai, trong gia đình, trong trường học và trong giáo hội, có trách vụ sống làm cha, làm người hướng dẫn, đều có thể nhìn về thánh Giuse, để được huấn luyện sống tốt lành. Nhất là tôi nghĩ đến những người cha, mừng lễ của họ vào đúng ngày lễ dành cho thánh Giuse. Tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai mà Thiên Chúa đã thiết lập trong giáo hội để thực hiện "tình cha thiêng liêng".
Nguyện xin thánh Giuse, vị thánh mà dân Kitô tin tưởng khẩn cầu, luôn hướng dẫn những bước tiến của đại gia đình Thiên Chúa. Xin thánh nhân hãy đặc biệt trợ giúp cho những ai đang chu toàn vai trò làm cha tự nhiên hoặc thiêng liêng. Xin thánh Giuse hãy cùng đồng hành với những lời khẩn cầu của chúng ta và xin Mẹ Maria khẩn cầu cùng Chúa cho chúng ta, Mẹ là vị hôn thê đồng trinh của thánh Giuse và là Mẹ của Ðấng Cứu Chuộc.
+ Gioan Phaolô II
(bản dịch của Nguyễn Việt Nam)
SUY NIỆM 7: Yên lặng, làm việc và vâng phục
Cuộc đời thánh cả Giuse có thể được tóm kết trong ba nhân đức, đó là yên lặng, làm việc và vâng phục.
Trước hết thánh cả Giuse là một con người yên lặng.
Phúc Âm đã không để lại một lời nói nào của thánh cả. Phải chăng đó cũng là một sự kiện đặc biệt đáng cho chúng ta suy nghĩ. Thực vậy, thế giới hôm nay là một thế giới của âm thanh, của ồn ào. Con người thời nay thường nhìn sự vật theo những lời quảng cáo và đánh giá kẻ khác theo những lời tuyên bố nóng bỏng. Nhất là nhìn vào đời sống, chúng ta thấy rằng mình đã sai lỗi quá nhiều trong lời nói. Đúng thế, với lời nói, chúng ta có thể vấp phạm bất kỳ lúc nào, bất kỳ ở đâu, bất kỳ với ai và bất kỳ về vấn đề nào. Bởi đó, có người đã đưa ra một so sánh thật buồn cười: nếu mỗi lần chúng ta nói hành nói xấu người khác, mà Chúa khiến chúng ta phải hắt hơi, thì chắc hẳn tiếng hắt hơi của chúng ta đã át cả tiếng ồn ào của xe cộ, của thác nước, của sóng biển. Chúng ta thường nói nhiều và đã nói nhiều thì cũng thường nói bậy và nói sai, như người xưa đã bảo: đa ngôn thì đa quá. Hơn thế nữa, nói nhiều thì cũng thường hay nói dai và nói ẩu khiến cho người khác phải buồn phiền, tình yêu thương bị sứt mẻ và sự cảm thông không còn nữa. Ném một nắm lông vịt vào trong gió, thì làm sao nhặt lại được. Một lời nói ra, bốn ngựa đuổi theo cũng không kịp. Bởi đó, hay thận trọng trong lời nói, bởi vì:
– Lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Và nhất là chúng ta hãy học cùng thánh cả Giuse bài học yên lặng. Hãy biết yên lặng trong những giây phút căng thẳng và sóng gió, bởi vì nếu biết yên lặng đúng lúc, thì có thể chặn đứng được 90% những đổ vỡ đáng tiếc, vì yên lặng là vàng, là thái độ khôn ngoan nhất của con người và là phương thuốc chữa lành những tội lỗi xấu xa.
Tiếp đến thánh cả Giuse là một con người cần cù lao động.
Phúc Âm cũng không để lại cho chúng ta nhiều chi tiết về vấn đề này. Nhưng chắc chắn ngài là một người thợ siêng năng và nổi tiếng. Thực vậy, khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai, những người cùng quê với Ngài đã ngạc nhiên trước sự khôn ngoan của Ngài và họ đã bàn tán: Bởi đâu Ngài được như thế? Ngài chẳng phải là con bác thợ mộc đó ư? Tại Nagiarét, thánh cả Giuse đã làm việc bằng đôi tay của mình để phục vụ Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Với chúng ta cũng vậy. Lao động và sản xuất đó là những ngôn từ được nghe nói đến rất nhiều và chúng thực sự có một chỗ đứng quan trọng trong cuộc sống hôm nay. Con người sinh ra để làm việc, như cánh chim sinh ra để tung bay. Nhờ làm việc, con người biến đổi bộ mặt trái đất và đem lại cho cuộc đời một ý nghĩa. Nó là như một thứ muối mặn làm tăng thêm hương vị cho cuộc sống.
Nhưng cụ thể hơn, đó là nhờ làm việc chúng ta mới có được chén cơm manh áo, như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Ai không làm thì không đáng ăn.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện ngụ ngôn về nàng ve và chị kiến: Nàng ve chỉ biết ca hát suốt cả mùa hè, đến khi mùa đông tới thì liền bị chết đói và chết rét. Trong khi đó, chị kiến cần cù tích trữ từng hột gạo, thì dù gió bấc có thổi cũng không lo sợ bị túng thiếu.
Sự nghèo túng gõ cửa nhà người làm việc, nhưng không bao giờ dám bước vào. Hay như ca dao cũng bảo:
– Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ mang phần đến cho.
– Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ.
Với xã hội, thì lao động là một cách thức chúng ta trả nợ cho đời, đồng thời cũng là một cách thức chúng ta góp phần xây dựng quê hương đất nước. Thực vậy, sống trong xã hội, chúng ta liên hệ mật thiết với nhau và nương tựa vào nhau nhiều lắm. Chẳng hạn hằng ngày chúng ta hưởng dùng đường sữa, xăng dầu…do công lao của người khác, thì bây giờ đến lượt chúng ta phải đóng góp bằng những sản phẩm do công sức lao động của chúng ta đem lại.
Còn đối với Thiên Chúa, thì lao động chính là một cách thức chúng ta cộng tác với Ngài trong cộng cuộc sáng tạo như lời Ngài đã phán: Hãy làm chủ cá biển, chim trời và mọi loài trong vũ trụ.
Sau cùng, thánh cả Giuse là một con người luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Phúc Âm đã kể lại ba lần thiên thần hiện ra trong giấc mộng để báo cho thánh cả biết ý định của Thiên Chúa và lần nào thánh cả cũng đã cúi đầu xin vâng mà không hề phản đối. Lần thứ nhất thánh cả đã xin vâng, đón nhận Maria về nhà làm bạn mình, dù đang phân vân và nghi ngờ. Lần thứ hai thánh cả đã xin vâng đưa Mẹ Maria và Hài nhi Giêsu lên đường trốn sang Ai Cập. Và lần thứ ba thánh cả đã xin vâng trở về Palestine, định cư tại Nagiarét. Cả ba lần, thánh cả đều vâng lời mau mắn, không đặt vấn đề, không hỏi tại sao.
Còn chúng ta thì khác, chúng ta thường tìm ý mình hơn là ý Chúa. Và mỗi khi gặp phải những tai ương hoạn nạn, chúng ta thường kêu trách và xúc phạm đến Chúa, vì chúng ta cho rằng Chúa bất công và vâng lời chỉ là một hành động hèn nhát, mất tự do và chôn vùi nhân phẩm. Vì thế, hãy sống yên lặng, làm việc và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, để chúng ta sẽ trở nên là những tôi tớ trung thành và khôn ngoan như thánh cả Giuse ngày xưa.
SUY NIỆM 8: Thánh Giuse, người công chính – TGM. Ngô Quang Kiệt
Khi mừng lễ thánh Giuse, tôi thường tự hỏi. Không biết thánh Giuse, người sống cách đây 2000 năm có còn thích hợp với thời đại chúng ta không? Không biết thánh Giuse, Đấng đã coi sóc một gia đình gồm toàn những đấng thánh có thể làm gương mẫu cho gia đình chúng ta, những gia đình gồm toàn những con người phàm trần không?
Tin Mừng hôm nay nói thánh Giuse là người công chính. Nhìn vào cuộc đời thánh Giuse, ta có thể hiểu được nội dung tính từ công chính. Công chính trước hết là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi công chính là không dám nhận những gì không phải của mình. Thánh Giuse định trốn đi khi biết Đức Maria mang thai. Theo lối giải thích xưa kia thì thánh Giuse trốn đi vì nghi ngờ Đức Maria. Nhưng theo các nhà chú giải thời mới thì thánh Giuse định bỏ trốn vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm cha nuôi Đấng Cứu Thế. Chức vị làm cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giuse thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thế, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế, nên Ngài bỏ trốn.
Công chính là chu toàn nhiệm vụ của mình. Nhiệm vụ của thánh Giuse là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Chu toàn với sự tế nhị, kính cẩn, nâng niu, hãy nhìn cảnh Thánh Gia trốn sang Ai cập, Đức Maria bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp đẽ hơn. Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giuse kính cẩn nâng niu Đức Maria và Đức Giêsu, ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà Chúa bảo thức dậy trốn sang Ai cập, ngài cũng thức dậy lên đường ngay tức khắc.
Những nhiệm vụ của thánh Giuse xem ra tăm tối, không có gì vinh quang. Nhưng thánh Giuse vẫn chăm chỉ chu toàn, và không đòi cho mình nhiệm vụ nào khác. Chẳng hạn sau này các Tông đồ được mọi người kính phục, thánh Giuse vẫn không ghen tị và đòi cho mình quyền đó. Ngài thật là người công chính.
Sau cùng, công chính là trung tín với nhiệm vụ. Thánh Giuse được Chúa trao cho nhiệm vụ gìn giữ Đức Maria và Đức Giêsu, gìn giữ gia đình, ngài đã hết sức chu toàn trong hoàn cảnh thuận lợi cũng như trong hoàn cảnh khó khăn. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải lao động vất vả để nuôi sống gia đình. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải chung sống với súc vật trong ngày Đức Maria hạ sinh Đức Giêsu. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse phải vất vả bồng bề Đức Giêsu chạy trốn sang Ai cập. Vì trung tín với nhiệm vụ mà thánh Giuse kiên trì tìm kiếm khi Đức Giêsu đi lạc 3 ngày trong Đền thờ. Trung tín không hề xao nhãng, không hề lẩn tránh, không hề lùi bước trước nhiệm vụ khó khăn, thánh Giuse thật là người công chính.
Ngày nay thánh Giuse vẫn hợp thời, vẫn là gương mẫu cho con người, vẫn là niềm mơ ước của con người. Vì thế giới ngày nay đang thiếu vắng sự công chính. Người ta gian tham nhận những gì không phải của mình. Không phải chỉ gian tham tiền bạc mà còn gian tham chức quyền, danh vọng. Vì thiếu công chính mà người ta hãm hại người khác, chiếm đoạt tiền của, danh dự của người khác. Vì thiếu công chính mà người ta sống giả dối, làm hàng giả, nói dối, mượn bằng giả. Vì thiếu công chính nên người ta trốn tránh nhiệm vụ. Chỉ thích những việc nhàn tản, phô trương, trốn tránh những việc nặng nhọc, hèn kém.
Các gia trưởng nhiều khi lười biếng, ham vui mà thiếu trách nhiệm với gia đình, với vợ con. Sự trung tín ngày nay đang là một vấn đề lớn, người ta bất tín, lừa đảo, gian dối trong đời sống xã hội, trong kinh doanh buôn bán, người ta thiếu trung tín cả trong gia đình. Chỉ một vài thử thách, thiếu thốn, người ta sẵn sàng từ bỏ nhiệm vụ, từ bỏ người thân.
Nên thánh Giuse vẫn còn là gương mẫu cần thiết cho người thời nay. Những đức tính của ngài, sự công chính của Ngài rất hữu ích để chấn chỉnh, xây dựng xã hội hôm nay.
Thánh Giuse, người đi trong đêm đen
Trong các bức tranh vẽ thánh Giuse, tôi thích nhất bức tranh vẽ thánh Giuse đưa Đức Mẹ và Đức Giêsu trốn sang Ai cập. Bầu trời đen thẫm. Một vài tia chớp loé lên ở cuối chân trời vừa soi đường cho Thánh gia, vừa báo hiệu cơn giông bão sắp tới. Đức Maria bồng Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa. Cả người cả lừa như lẩn vào màn đêm. Bức tranh không chỉ đẹp ở nét vẽ gợi cảm, mà còn đẹp về ý nghĩa, Ngắm bức tranh, tôi thấy hiện lên cả cuộc đời thánh Giuse: một đời bước đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối đức tin. Ngài đã sống chung với Đức Maria và Đức Giêsu, những con người của huyền nhiệm. Một người bình thường đã là một thế giới huyền bí. Một con người của huyền nhiệm lại càng sâu xa bí ẩn hơn bội phần. Đi bên những huyền nhiệm cũng như đi trong đêm tối. Thánh Giuse không hiểu gì hết. Không hiểu mà vẫn phải đón nhận. Không hiểu mà vẫn phải tin, phải yêu. Không hiểu mà vẫn phải đống hành cho đến mãn đời. Thánh Giuse giống như người lính canh được cấp trên trao cho một chiếc hộp đóng kín. Người lính canh chỉ có nhiệm vụ canh giữ mà không được phép mở ra. Trong hộp có gì? Có thể là một kho tàng quý giá. Nhưng cũng có thể là chiếc hộp rỗng không. Không biết. Nhưng vẫn phải canh giữ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối im lặng. Ngài đi trong sự im lặng của Đức Maria, người bạn yêu quý. Trước những mầu nhiệm cao cả, Đức Maria đã lặng thinh không nói. Ngài đi trong sự im lặng của Đức Giêsu. Thiên Chúa làm người vẫn là một mầu nhiệm ẩn dấu và Đức Giêsu không hề hé lộ thân phận. Ngài đi trong sự im lặng của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ trực tiếp nói với Ngài. Chỉ có vài lần. Mà chỉ là những tiếng vọng mô hồ, giữa đêm khuya, trong giấc ngủ. Vẫn là ngôn ngữ của im lặng. Im lặng đáng sợ. Nhất là khi phải đối đầu với nguy hiểm, với nghi ngờ, với những vấn đề hệ trọng của đời sống. Im lặng khó hiểu khi những gì thân thiết nhất trong đời lại trở nên bí ẩn, cách xa. Im lặng nguy hiểm. Nó có thể đốn ngã thân cổ thụ, làm chao đảo những niềm tin vững mạnh nhất. Ngài đi trong im lặng của chính mình. Trong cả bốn Phúc Âm, không thấy ghi lại lời nói nào của thánh Giuse. Ngài bước đi trong âm thầm lặng lẽ.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối lãng quên. Ngài bị lãng quên trong làng quê nhỏ bé, trong thân phận nghèo hèn của bác thợ mộc. Người ta không bao giờ nhắc đến Ngài. Nếu có nhắc đến, cũng chỉ để chê bai, dè bỉu, để hạ thấp thân phận của Đức Giêsu: “Giêsu con của bác Giuse thợ mộc tầm thường ấy mà. Có làm gì nên chuyện”. Ngài bị lãng quên vì luôn luôn ở phía sau, luôn luôn chìm trong bóng tối.
Phúc Âm kể về Đức Maria. Sách Tông Đồ Công Vụ kể về Đức Maria. Nhưng từ khi Đức Giêsu khôn lớn không ai nói gì về Thánh Giuse nữa. Ngài chìm vào đêm tối quên lãng. Ngài luôn luôn đóng vai phụ, như hình ảnh dắt lừa đi trong đêm tối.
Thánh Giuse đã đi trong đêm tối thử thách. Thân phận nghèo hèn. Sống trong im lặng và lãng quên, nhưng những thử thách Ngài phải đương đầu lại rất cam go. Rất hiền lành, nhưng phải đương đầu với Hêrôđê hung hãn. Mình giữ mình chưa xong, lại phải che chở cho một hài nhi sơ sinh và một sản phụ yếâu ớt. Nhưng những thử thách, khốn khó về thể lý dù cam go thế nào cũng còn chịu được. Những thử thách đức tin mới thật là khủng khiếp. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa ư? Đức Giêsu là Con Thiên Chúa ư? Thật khó mà chấp nhận được. Sao này? Sao Vua Trời vinh hiển lại phải trốn chạy một ông vua trần thế. Các thử thách làm cho đêm tối càng đen hơn, càng dầy hơn, càng sâu hơn.
Tuy đêm có đen, tuy chân có mỏi, tuy lòng có xao xuyến nhưng Thánh Giuse vẫn bước đi. Tuy thử thách có nặng nề, Thánh Giuse vẫn chiến đấu. Cha Teilhard de Chardin nói: người chiến đấu giống như người bơi lội ngoài biển ban đêm: “Ban đêm, người bơi lội vùng vẫy trong làn nước biển có chất lân tinh, làm ánh sáng loé lên chung quanh mình”.
Thánh Giuse đã chiến đấu. Những chiến đấu mạnh mẽ cũng làm loé lên chung quanh Ngài những làn ánh sáng soi bước chân Ngài đi.
Đi trong đêm tối đức tin, Ngài có ngọn lửa đức mến soi đường. Đêm đen lắm, nhưng Ngài cứ yêu mến Chúa, cứ gắn bó với Chúa, và cứ bước đi với Chúa.
Trong đêm tối im lặng. Ngài đốt lên trong tâm hồn ngọn đèn thao thức, lắng nghe, đón chờ. Niềm thao thức khiến tâm hồn Ngài nhạy bén như một phím đàn mỏng. Lời Chúa chỉ thoáng nhẹ như làn gió thoảng, phím đàn đã rung lên. Ý Chúa chỉ mờ ảo trong giấc mơ, Ngài đã đọc được và mau mắn thi hành.
Trong đêm tối lãng quên, Ngài có đèn khiêm nhường dẫn lối. Khiêm nhường chìm vào quên lãng. Khiêm nhường phục vụ, khiêm nhường sâu thẳm. Ngài có cùng tâm tình như Thánh Gioan Tẩy Giả: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”.
Trong đêm tối thử thách, Ngài thắp lên ngọn đèn tin yêu phó thác. Tin vững vàng vào Lời Chúa. Hoàn toàn phó thác cho Chúa. Để Chúa dẫn đường qua đêm đen mù mịt.
Lạy Thánh Giuse, con cũng đang đi trong đêm đen. Xin hãy thắp lên trong con những ngọn đèn của Thánh Cả, soi đường cho con đi đến nơi bình an.
SUY NIỆM 9: Thánh Giuse, gương mẫu thời đại – TGM. Ngô Quang Kiệt
Khi chọn một vị thánh bảo trợ, ta đặt mình dưới sự chở che cứu giúp của Người và cũng mong noi gương bắt chước đời sống đức hạnh của Người. Tất cả những ai xin thánh cả Giuse bảo trợ chắc chắn sẽ được Người chở che gìn giữ, như xưa Người đã gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria trong cuộc đời dương thế. Nhưng ít có ai noi gương được đời sống của Người. Đó là một đời sống thánh đức chiếu toả ra những nét đẹp cao quý mà ta khó bắt chước.
Nét đẹp thứ nhất ở nơi thánh Giuse mà ta khó bắt chước, đó là đức tính ít nói. Lần giở những trang Tin Mừng, ta thấy diễn tả nhiều hành động của thánh cả Giuse, nhưng không thấy trích dẫn lời nói nào của Người. Người làm nhiều nhưng nói ít. Còn ta, ta thương nói nhiều và làm ít. Tục ngữ Việt nam có câu: Đa ngôn đa quá. Ai nói nhiều sai lỗi nhiều. Thực vậy trong đời sống có biết bao hiểu lầm phát sinh từ những lời nói thiếu trung thực. Biết bao đổ vỡ do những lời nói thiếu trách nhiệm gây nên. Biết bao lời nói trống rỗng không chứa đựng nội dung xây dựng. Biết bao lời nói làm vẩn đục tâm hồn, vẩn đục môi trường đạo đức, làm ô nhiễm bầu khí bác ái. Thánh Giacôbê thật chí lý khi nói: “Ai không sai lỗi trong lời nói thì đó là người hoàn hảo. Người ấy có khả năng kiềm chế toàn thân” (Gc 3,2). Thánh Cả Giuse đã kiềm chế được lời nói, chứng tỏ Người hoàn toàn làm chủ được bản thân. Sự im lặng của Người là sự im lặng của kẻ mạnh. Sự im lặng của Người là sự im lặng của một đời sống nội tâm phong phú. Sự im lặng của Người là sự im lặng hoạt động đem lại những kết quả tốt đẹp.
Nét đẹp thứ hai ở nơi thánh Cả Giuse mà ta khó bắt chước, đó là sự vâng lời tuyệt đối. Người luôn vâng lời Chúa, dù lệnh Chúa truyền chỉ mơ hồ trong cơn mê ngủ, dù lệnh Chúa truyền nhiều khi rất khó chấp nhận. Làm sao chấp nhận được một phụ nữ đã có thai làm bạn? Không bao giờ Người thắc mắc, chối từ. Không bao giờ Người tỏ ý ngần ngại trước những mệnh lệnh khó khăn. Trong mọi nơi mọi lúc, Người luôn vâng lệnh Chúa một cách mau chóng, tức khắc, vui tươi. Thấy Đức Maria đã mang thai, Người muốn trốn đi, nhưng khi Chúa tỏ ý muốn Người ở lại nhận Đức Maria làm bạn, Người vâng lệnh ngay tức khắc. Khi Chúa muốn Người đưa Đức Giêsu và Đức Maria trốn sang Ai cập, Người đã thức dậy và tức khắc lên đường giữa đêm khuya. Thật là một sự vâng lời tuyệt đối. Còn ta, trước những lệnh truyền của Chúa, ta có thái độ nào? Nếu ta không chối từ thì cũng uốn nắn theo ý riêng. Ít nhất cũng thắc mắc, giảm nhẹ. Nếu có vâng lời thì cũng ngần ngại, chậm trễ thi hành. Sự vâng lời tuyệt đối nói lên đức tin mãnh liệt vào Chúa. Vì hoàn toàn tin tưởng nên hoàn toàn phó thác. Vì hoàn toàn phó thác nên hoàn toàn vâng phục. Dù không hiểu, nhưng cứ dấn bước lên đường. Sự vâng lời tuyệt đối nói lên một lòng mến yêu tha thiết. Vì mến yêu tha thiết nên sẵn sàng làm bất cứ điều gì, cho dù không hiểu, cho dù khó khăn. Thánh Cả Giuse có lòng tin tưởng tuyệt đối và lòng yêu mến tha thiết đối với Chúa, nên đã vâng lời Chúa một cách tuyệt đối.
Nét đẹp thứ ba ở nơi thánh Cả Giuse mà ta khó bắt chước, đó là sự khiêm nhường quên mình. Đọc trong Tin Mừng, ta không bao giờ thấy Người xuất hiện ở những nơi công khai được nhiều người biết đến, trái lại Người luôn có mặt ở những nơi tối tăm âm thầm. Người không làm những việc lớn lao trọng đại, nhưng chỉ chu toàn những bổn phận nhỏ bé thông thường. Một hình ảnh quen gặp là bức vẽ hoạ cảnh Thánh gia trốn sang Ai cập. Đức Mẹ bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse đi bộ, dắt lừa âm thầm trong đêm tối. Tôi có cảm tưởng Người đã tự nguyện hạ mình xuống để Chúa được tôn vinh. Người đã tự nguyện sống âm thầm để Chúa được nhận biết. Người đã tự nguyện lùi vào bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Người đã chấp nhận bị quên lãng để Chúa được yêu mến. Còn chúng ta, chúng ta thường làm ngược lại. Ta luôn muốn nâng mình lên, nên Chúa thường bị hạ xuống. Ta luôn muốn phô trương bản thân, nên Chúa bị chìm trong âm thầm. Ta luôn muốn xuất hiện trong ánh sáng, nên Chúa bị đẩy lùi vào bóng tối. Ta luôn tìm cho mình được yêu mến, nên Chúa bị chôn vùi trong quên lãng.
Những nhân đức của thánh Cả Giuse thật khó bắt chước, nhưng đó là những đức tính rất cần cho thời đại chúng ta. Thế giới ngày nay quá ồn ào, cần có những con người hành động. Thế giới ngày nay đã chán ngán những lý thuyết, cho dù rất hay, rất đẹp, nên cần có những con người thực hành, làm chứng nhân. Thế giới ngày nay đang đánh mất niềm tin yêu phó thác, cần có thánh Cả Giuse như mẫu gương trung tín và khôn ngoan. Thế giới càng ngày càng tiến đến hưởng thụ, cá nhân chủ nghĩa, đang cần những con người khiêm nhường, phục vụ, quên mình. Nếu ta biết noi gương những nhân đức của thánh Cả Giuse, ta sẽ có thể thánh hoá bản thân, củng cố gia đình và góp phần cải tạo xã hội.
Lạy thánh Cả Giuse, xin hãy chở che gìn giữ giáo phận chúng con. Amen.
SUY NIỆM 10: Uy quyền và thương xót – TGM. Ngô Quang Kiệt
Hãy đến cùng Giuse
Thánh cả Giuse được chọn giữa muôn người để làm cha nuôi Chúa cứu thế. Ngài là một người khiêm nhường về công chính, được diễm phúc chăm lo cho Chúa Giêsu mọi thứ, từ nhà ở đến của ăn thức uống, đã dâng Chúa Giêsu vào đền thờ và cứu thoát khỏi cơn thịnh nộ của Hêrôđê. Ngài đã làm việc bằng đôi tay chai cứng để đem lại một đời sống vật chất ấm no cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Ngoài tước vị là cha nuôi Chúa Giêsu, ngài còn là bạn thanh sạch Đức Maria. Điều đó phải giả thiết rằng, ngài hội đủ những nhân đức trổi vượt. Và sự thánh thiện của ngài phải tương xứng với sự thánh thiện của Mẹ Maria. Chắc hẳn thánh cả Giuse đã thương yêu mẹ Maria bằng một tình thương trong trắng. Đã an ủi Mẹ trong những giây phút đau khổ, đã hướng dẫn Mẹ trên những nẻo đường xa lạ, và đã bảo vệ Mẹ khỏi mọi mưu toan hãm hại.Chính vì thế mà Đức Hồng y Fulton Sheen đã quả quyết:
– Mẹ Maria và thánh cả Giuse đã đem vào trong cuộc hôn nhân của các ngài không chỉ lời hứa trong sạch mà còn là hai trái tim ngập tràn thương yêu, không ai có thể có được.
Thực vậy, không một người chồng, cũng như không một người vợ nào có thể yêu thương nhau đến thế. Và Mẹ Maria cũng không thể trao gửi trái tim mình cho một người nào xứng đáng hơn. Đó là một cuộc hôn nhân thực sự, nhưng được miễn trừ những quyền lợi xác thịt, đồng thời cân bằng về nhân đức.
Từ hai tước vị này chúng ta thấy ngài thực sự là đấng quyền thế.
Đúng thế, ngài là đấng quyền thế nơi cõi lòng Chúa Cha vì Chúa Cha đã cho ngài tham dự vào chức vụ làm cha, cũng như trao phó cho ngài sứ mạng cao cả, xứng với niềm tin tưởng tuyệt vời.
Ngài còn là đấng quyền thế nơi cõi lòng Chúa Con, là Đấng ngài đã yêu thương và chăm sóc suốt những tháng năm sống nơi trần thế.
Sau cùng, ngài còn là đấng quyền thế nơi cõi lòng Mẹ Maria, vì ở dưới đất các ngài đã yêu thương và làm đẹp lòng nhau thế nào, thì bây giờ ở trên trời, chẳng lẽ Mẹ Maria lại không thể đoái nhìn đến lời cầu bầu của thánh cả Giuse hay sao?
Là đấng quyền thế mà thôi chưa đủ, ngài còn là đấng đầy lòng xót thương.
Như chúng ta thường nghe nói:
– Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Thánh cả Giuse là đấng đã trải qua mọi khổ cực, mọi cay đắng của kiếp người, nên ngài cảm thông với chúng ta hơn hết. Bởi vậy, cùng với Mẹ Maria và Chúa Giêsu, thánh cả Giuse, sẽ đặc biệt chăm sóc đến chúng ta và bầu cử cho chúng ta trước ngai toà Thiên Chúa.
Chính vì thế, hãy chạy đến cùng thánh cả Giuse trong mọi cơn gian nguy thử thách, vì ngài là đấng quyền thế và đầy lòng xót thương.
SUY NIỆM 11: Thánh Giuse thinh lặng – GM. Bùi Tuần
Đọc Phúc Âm để tìm hiểu thánh Giuse, tôi thấy một bầu khí âm thầm bao phủ Ngài. Có một chọn lựa khiêm nhường trong bầu khí đó. Khiêm nhường ấy đầy khó nghèo và khôn ngoan.
Ngắm nhìn các ảnh tượng thánh Giuse, tôi thấy lòng sùng kính các nơi dành cho thánh Giuse thực rất phong phú và đa dạng.
Nhưng năng lui tới thánh Giuse trong đời sống hằng ngày, nhất là qua các giờ phút cầu nguyện, gẫm suy, tôi thấy thánh Giuse rất gần gũi, rất sống động, nhất là rất dễ thương. Có một điểm dễ thương nơi Ngài đã gây ấn tượng sâu sắc nơi tôi, đó là sự thinh lặng của Ngài.
Sự thinh lặng của Ngài là trường dạy tôi về tu đức, mục vụ và truyền giáo. Tôi gọi đây là sự thinh lặng thánh. Bởi vì không phải thinh lặng nào cũng tốt cả. Ai cũng biết có vô số thứ thinh lặng tiêu cực. Như thinh lặng vì kiêu căng. Thinh lặng vì lập dị. Thinh lặng vì dốt nát. Thinh lặng vì sợ sệt. Thinh lặng vì bất cần. Thinh lặng vì dửng dưng. Thinh lặng vì hờn giận. Thinh lặng vì ích kỷ vv… Trái lại, sự thinh lặng của thánh Giuse là một hoạt động thường xuyên tích cực.
Trước hết sự thinh lặng của thánh Giuse tích cực ở chỗ Ngài luôn vâng phục đức tin.
Ngài tin con trẻ mà thiên thần báo mộng sẽ sinh ra bởi Đức Maria, đúng thực là “Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Cho dù gặp muôn vàn thử thách, Ngài vẫn vững tin: Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta đó chính là Con Thiên Chúa giáng trần. Con trẻ đó chính là Đấng cứu thế.
Ngài tin Thiên Chúa thương yêu Ngài một cách hết sức đặc biệt. Ngài biết tình thương đặc biệt Chúa dành cho Ngài là hoàn toàn nhưng không, chứ không phải do công phúc nào của Ngài.
Ngài tin vào sứ vụ Chúa trao phó cho Ngài là vô cùng lớn lao. Sứ vụ đó là bảo vệ Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Ngài biết Chúa Giêsu sẽ làm chuyện lớn, nhưng bề ngoài chưa thấy có gì là lớn. Thực nhiệm mầu. Ngài chỉ biết tin. Ngài chưa hiểu hết. Nhưng không thắc mắc. Một sự kín đáo trong niềm tin đầy khiêm tốn, với nhận thức sâu sắc về tình trạng khó nghèo, bất xứng của mình, đó là một sự thinh lặng đáng kính phục.
Bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu trong hoàn cảnh thời đó nơi đó đầy khó khăn là một trách nhiệm rất nặng nề, đòi nhiều khôn ngoan sáng suốt và đức tin vững vàng. Ngài đã tin vững vàng và khôn ngoan sáng suốt trong thinh lặng. Thinh lặng đó không phải vì sợ. Nhưng vì vâng phục đức tin.
Tin Mừng là một mầu nhiệm “vốn được giữ kín từ ngàn xưa” (Rm 16,25) sẽ được biểu lộ, sẽ được thông báo cách nào, lúc nào, bởi ai, cho ai, thì phải tuỳ ở Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí mà thôi. Chúa muốn như vậy (Rm 16,27).
Tôi thiết nghĩ thánh Giuse đã có đức tin như thế, và đã vâng phục đức tin đó. Vì thế mà Ngài khiêm tốn thinh lặng, Ngài tin rằng: Sứ mạng Chúa trao cho Ngài không phải là loan báo, mà là bảo vệ và giữ kín.
Ngoài ra, sự thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực ở chỗ Ngài được âm thầm đào tạo để có một sự tự do mới.
Đọc Sách Thánh và chuyện các thánh, tôi thấy Thiên Chúa có một lối đào tạo độc đáo đối với các người của Ngài. Khi Thiên Chúa tính chuyện trao cho ai một sứ mệnh khó khăn, Ngài thường đưa họ vào sa mạc. Hoặc sa mạc địa lý là nơi vốn thanh vắng. Hoặc sa mạc tâm hồn là nơi phải thinh lặng.
– Ông Môisen vào sa mạc Madian.
– Thánh Gioan tiền hô vào sa mạc Giuđê.
– Thánh Phaolô vào sa mạc Syria.
– Thánh Benedictô lên núi Subiacô.
– Thánh Phanxicô khó khăn vào hang Assisi.
– Chính Chúa Giêsu vào sa mạc 40 đêm ngày.
Đối với thánh Giuse, sa mạc là tâm hồn thinh lặng của Ngài. Trong sự thinh lặng của sa mạc tâm hồn, Chúa đào tạo cho Ngài có một sự tự do mới. Đó là một sự tự do biết chọn Chúa là tất cả, chọn ý Chúa là trên hết. Một sự tự do sẵn sàng dứt bỏ ý riêng, để mau lẹ thực thi ý Chúa.
Đọc Phúc Âm, tôi gặp thấy một cách nói hay được dùng, khi thuật lại việc phục vụ của thánh Giuse, để vâng phục ý Chúa. Cách nói đó là sẵn sàng và mau lẹ. Ngài sẵn sàng đón Maria về nhà mình (Mt 1,24). Ngài mau lẹ đang đêm, đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập (Mt 2,14). Ngài liền vội vã chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài về đất Israel (Mt 2,21). Những thái độ đó, được sự thinh lặng đào tạo, chứng tỏ thánh Giuse có một tâm hồn rất tự do. Không phải tự do đối với của cải và ý riêng, mà là tự do cho Chúa và cho những việc Chúa muốn.
Tôi có cảm tưởng là Chúa đôi khi cũng muốn bản thân tôi và những người thuộc về Ngài, phải bắt chước thánh Giuse xưa, có lúc phải vào sa mạc mà tế lễ Chúa. Tế lễ trong sa mạc là tế lễ trong tình trạng rất thiếu thốn: Không có nhà thờ, bàn thờ, đồ thờ. Không có những trang trọng vật chất. Không có cả những nhân đức cần có. Chỉ còn tập trung vào một mình Chúa đầy tình yêu thương xót. Chỉ còn chính bản thân mình là của lễ mà thôi. Thiếu tất cả, nhưng được tất cả. Chỉ còn thinh lặng tôn thờ và vâng phục với lửa thiêng của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mình như tia hy vọng. Sẽ rất nghèo, nhưng cũng rất vui mừng. Vì thấy mình được thông công vào việc Chúa cứu độ.
Sau cùng, tôi thấy thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực trong sự hiện diện phong phú của Ngài giữa đời.
Kinh nghiệm cho thấy: Nhiều khi sự hiện diện thinh lặng vẫn có sức gây được cảm tưởng tốt về Tin Mừng, hơn một sự hiện diện nhiều lời. Nhất là khi sự hiện diện đó có Chúa ở cùng. Tôi có cảm tưởng là thời nay tại Việt Nam này, dân chúng vẫn trân trọng và khát khao những người, tuy không nói, nhưng toả ra được ánh sáng tâm linh, lửa thiêng tâm hồn, hương thơm từ những giá trị nội tâm. Họ thinh lặng nhưng có chiều sâu tâm hồn, biết phân định, biết phấn đấu, biết sắp xếp, biết thanh luyện, biết ý tứ, biết tế nhị.
Điều đó không có nghĩa là thinh lặng luôn luôn có giá trị hơn nói. Tôi thiết nghĩ chọn thinh lặng hay chọn nói là một chọn lựa tuỳ ơn gọi. Các ơn gọi và các ơn thánh rất khác nhau. Con đường tốt hơn ta nên chọn là con đường mà sứ vụ Chúa trao cho ta, con đường mà hoàn cảnh chỉ cho ta, con đường mà ta thấy thích hợp cho tính tình và khả năng của ta, con đường mà ta cho rằng có thể thực hiện tốt hơn việc mến Chúa yêu người trong những hoàn cảnh cụ thể, đúng với yêu cầu của thời điểm.
Riêng tôi, trong năm Mân Côi này, tôi xin thánh Giuse cho tôi và mọi người chúng ta
– biết thinh lặng hơn để nghe ý Chúa,
– biết thinh lặng hơn để suy niệm các mầu nhiệm Mân Côi,
– biết thinh lặng hơn để đón nhận ơn cứu độ,
– biết thinh lặng hơn để cộng tác vào chương trình cứu độ,
– biết thinh lặng hơn để khám phá ra những kỳ diệu Chúa Thánh Thần đang làm trong các linh hồn,
– biết thinh lặng hơn, để đón nhận những bất ngờ Chúa gởi đến với đức tin sáng suốt.
Hình như nhiều linh hồn đang được ơn ấy. Họ là những người đơn sơ tỉnh thức và thinh lặng như thánh Giuse. Họ đang thinh lặng gieo rắc hạt giống Tin Mừng giữa xã hội Việt Nam hôm nay.
SUY NIỆM 12: Vài suy nghĩ về sự thinh lặnh nơi thánh Giuse – GM. Bùi Tuần
Thánh Giuse là người thinh lặng. Tôi nghĩ là ngài cũng đã nói năng như mọi người bình thường. Nhưng, khi soi dẫn các thánh sử viết Phúc âm, Chúa Thánh Thần đã chủ ý không muốn ai ghi lại lời nói nào của thánh Giuse.
Sự kiện đó phải được coi là một lựa chọn tốt, đề cao sự thinh lặng của thánh Giuse như một vẻ đẹp. Hơn nữa đó cũng là một bài học đạo đức cho các thế hệ mai sau. Như vậy, thánh Giuse là một trường học dạy thinh lặng. Nói đứng ra thầy dậy ở trường này là Chúa thánh Linh. Vì thế mọi tài liệu bàn về sự thinh lặng của thánh Giuse, nhất là bài này, chỉ nên được coi là những gợi ý yếu ớt đọc thì cứ đọc, nhưng việc quan trọng cần làm để hiểu và để học, chính là cầu nguyện với Chúa Thánh Linh.
Riêng trong bài này, xin chia sẻ vài suy nghĩ riêng tư. Có nghĩa là những suy nghĩ này đã ảnh hưởng đến đời tôi, từ đó tôi có phần nào kinh nghiệm.
Điểm phát xuất những suy nghĩ sau đây của tôi là hình ảnh con trẻ Giêsu tại Nagiarét sống bên Đức Mẹ và thánh Giuse thinh lặng. “Con trẻ dần dần đã lớn lên đầy khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được người ta thương mến” (Lc 2,52). Theo cái nhìn đó, Thánh Gia là một cộng đoàn Hội Thánh cực nhỏ. Chúa Giêsu, tuy là con, nhưng là vai chính trong kế hoạch cứu độ, đổi mới con người. Đức Mẹ và thánh Giuse là những người cộng tác gần gũi nhất. Đây là những cộng tác viên đắc lực đưa lại kết quả cao. Bởi vì đã góp phần làm cho trẻ Giêsu được nổi tiếng là phát triển về khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Chúa và được người ta mến thương.
Vậy, cộng tác đắc lực của thánh Giuse là gì? Thưa chính là sự cộng tác thinh lặng. Tất nhiên đây là sự thinh lặng tích cực. Thinh lặng tích cực đó được thể hiện như thế nào? Trước hết tôi nghĩ ngay tới sự thinh lặng tu thân.
Thinh lặng tu thân
Phong tục Á châu rất coi trọng việc tu thân. Những người muốn cải cách tôn giáo, chủ trương cứu độ, đổi mới con người và xã hội, thường phải xây dựng uy tín cho mình trước hết bằng việc tu thân. Thời này vẫn là thế. Thời xưa còn hơn bây giờ.
Thánh gia là một cộng đoàn đề cao tu thân. Một cách tu thân bình dân, phổ thông nhưng chất lượng cao. Trong cái ấy, thánh Giuse là một người tu tại gia. Nội dung tu thân của Thánh Gia nói chung và của thánh Giuse nói riêng là thực hiện trước những gì mà chúa Giêsu sẽ rao giảng sau này. Có thể tóm gọn lại là tu thân nhắm mục đích trở nên một tạo vật mới, dần dần nên giống Chúa là tình yêu và kết hợp với Ngài là Tình yêu. Muốn được thế phải thực thi thánh ý Chúa, hết tình yêu mến Ngài và chân thành yêu thương mọi người.
Như vậy, tu thân là hằng ngày vun tưới chăm sóc những hạt giống tình yêu Chúa đã gieo sẵn trong lòng mình. Tu thân là hằng ngày học hành tập luyện, để biết tự do chọn điều lành và tự do bỏ điều xấu. Lựa chọn tốt nhất và quan trọng nhất là chu toàn bổn phận phục vụ của mình.
Phục vụ tốt là đáp ứng đúng nhu cầu, bằng đúng việc, với đúng cách, vào đúng lúc. Tất cả trong tình mến Chúa và yêu người với mức cao nhất.
Nhìn thoáng qua tu thân là như thế, chúng ta có thể tưởng tu thân là việc đơn sơ. Đúng là đơn sơ, nhưng chính là một cuộc phấn đấu thinh lặng cam go và thường xuyên với chính mình. Bởi vì có một vấn đề gai góc đứng đàng sau việc tu thân đó là một sự thực phũ phàng mà thánh Phao lô đã thực thà thú nhật: “Vẫn biết rằng Lề luật là Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thực vậy tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì diều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm… Tôi biết là sự thiện không có ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi… Theo con người nội tâm, tôi vui thích luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác. Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể của tôi” (Rm 7,14-23).
Như thế, tu thân đòi phải học hành, tập luyện để biết phân định điều lành điều dữ. Biết rõ rồi, lại phải biết can đảm chọn lựa điều lành một cách tự do. Chọn rồi, lại phải kiên cường thực hành điều mình đã tự do chọn lựa. Để được thế phải phấn đấu nhiều lắm, phải từ bỏ mình nhiều lắm, phải cầu nguyện nhiều lắm.
Tôi dám chắc là Thánh gia nói chung và thánh Giuse nói riêng đã thực hiện việc tu thân một cách trọn vẹn từng ngày, từng tháng, từng năm. Suốt 30 năm tu thân trong thinh lặng, đúng là một hành trình phát triển ơn khôn ngoan và ân sủng, đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta thương mến.
Suy nghĩ trên đây co phép tôi rút ra một kinh nghiệm về mục vụ và truyền giáo. Đó là người có chức vụ cộng tác với Chúa vào kế hoạch cứu độ, đổi mới con người và xã hội, sẽ phải quan tâm rất nhiều đến việc tu thân nơi chính mình. Tu thân một cách thinh lặng là một yếu tố quan trọng có sức cứu độ. Rất mong kinh nghiệm này của thánh Giuse được sống lại mạnh mẽ nơi mỗi người tín hữu, nhất là nơi các tông đồ ngày nay, bất kỳ là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân.
Thinh lặng gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện
Kinh nghiệm cho thấy: Sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa được ban dồi dào cho những người thực sự tu thân. Và kinh nghiệm còn cho thấy: Sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa còn được trao ban rất dồi dào cho những người gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện.
Một nơi thuận lợi để Chúa gặp gỡ con người, chính là nơi thinh lặng: “Ta sẽ dẫn nó vào sa mạc và sẽ nói với lòng nó” (Ose 2,14). Sa mạc là biểu tượng nơi yên tĩnh. Nơi yên tĩnh là không gian thinh lặng, và nhất là tâm hồn thinh lặng.
Ai cầu nguyện suy gẫm và chiêm niệm trong thinh lặng sẽ dễ gặp được Chúa. Và khi Chúa đã đến với lòng họ, Chúa lại làm cho lòng họ càng thinh lặng hơn. Để rồi lúc đó sự thinh lặng trở nên đầy sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trong gặp gỡ thinh lặng này, con người không còn tìm hiểu Chúa nữa, mà là có chính Chúa. Họ cảm nghiệm được Chúa là tình yêu, là hạnh phúc của mình. Lúc đó con người sẽ thấy mọi sự đều rất đơn giản. Bất cứ việc gì tốt mình làm mặc dù bề ngoài coi là rất bé nhỏ, rất âm thầm, nhưng nếu làm với một tình mến lớn lao, chỉ vì Chúa, thì sẽ là việc rất giá trị có sức cứu độ, đổi mới bản thân, đổi mới con người và xã hội.
Trong cuộc gặp gỡ ấy, con người cũng sẽ thấy rõ mình hơn. Mình chẳng là gì, chẳng thể làm gì có sức cứu độ nếu không có sự hỗ trợ của Chúa. Do đó mà phải chết đi cho chính mình để quyền năng Chúa ngự trị hoàn toàn trong con người của mình, từ lớp ý thức đến lớp tiềm thức và vô thức sâu thẳm, từ trí khôn cho đến ý chí và tình cảm, ký ức, trí vẽ và mọi tiềm năng sáng tạo.
Người học hành cần thinh lặng. Người nghiên cứu suy nghĩ cần thinh lặng. Người sáng tạo cần thinh lặng. Người tìm minh triết cần thinh lặng. Người hồi tâm cần thinh lặng. Phương chi người muốn gặp gỡ, lắng nghe Chúa càng cần phải thinh lặng. Bởi vì Chúa muốn được thờ phượng trong tinh thần và trong chân lý, chứ không hài lòng với những hình thức ồn ào. Và bởi vì Chúa chỉ nói nhỏ nhẹ với những tâm hồn thinh lặng. Và bởi vì ơn đổi mới con người cũng chỉ được thực hiện nơi những con người khiêm tốn, thinh lặng.
Thánh Giuse, cần cù, nhiệt thành, tâm hồn khát khao tuân phục thánh ý Chúa, không bị ràng buộc bởi bất cứ kiêu căng ích kỷ nào. Đoá là một thinh lặng thuận lợi co việc cầu nguyện sống thân mật với Chúa, lắng nghe được ý Chúa.
Thời gian thinh lặng cầu nguyện nơi thánh Giuse là suốt đời mình. Dài mấy chục năm. Đó là một cộng tác quí báu vào công trình cứu độ của Chúa. Đây là một gương sáng rất quan trọng ma mọi người đang cộng tác với Chúa tại Việt Nam hôm nay cần suy nghĩ và bắt chước.
Bởi vì tôi thấy hiện nay sự thinh lặng cầu nguyện đang có chiều hướng giảm dần, nhường chỗ cho những hình thức thờ phượng và hoạt động tôn giáo nhiều khi quá ồn ào, trình diễn, chiếu lệ, phô trương, cạnh tranh, lố lăng. Thinh lặng cảm thương thân phận con người đau khổ
Bất cứ ở đâu và ở thời điểm nào, lịch sử những người làm cách mạng chân chính đều làm chứng họ là những trái tim rực cháy lửa cảm thương số phận dân mình. Họï sống không những vì dân, cho dân, nhưng nhất là gân dân, giữa dân và như dân. Dân nói đây là lớp dân khổ đau. Họ đồng cảm nỗi lo nỗi khổ của lớp người đau khổ lo âu. Họ cùng trải quạ những hoàn cảnh khó khăn bế tắc như lớp người nghèo khổ nhất.
Trong ba năm đi rao giảng, Chúa Giêsu tỏ ra Ngài đã có những thương cảm đặc biệt sâu sắc đối với mọi thứ người đau khổ. Riêng đối với những người tội lỗi, Chúa Giêsu đã không ngại yêu thượng gần gũi, tìm đến, với tất cả tấm lòng cảm thương lạ lùng chưa từng thấy “Thầy không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32).
Tôi nghĩ là trước đó thánh Giuse cũng đã âm thầm cộng tác với Chúa Giêsu trong lãnh vực cảm thương. Suốt mấy chục năm tại Nagiareth, thánh gai nói chung và thánh Giuse nói riêng đã được dân nghèo coi như những người thân thương của họ. Và nhất là những người tội lỗi đã coi các Ngài như những người hiểu họ, thương họ, cảm hoá được họ và lôi kéo họ về đàng lành.
Những cảm thương của thánh Giuse dành cho những người tội lỗi là rất sâu sắc. Bởi vì ngài được Đấng cứu độ chia sẻ cho sự thực về những nỗi kinh hoàng mà những kẻ tội lỗi sẽ phải gánh chịu. Nói cho đúng ra, thì không phải Chúa sẽ phạt họ, nhưng chính những việc xấu của họ sẽ kết án họ. An rất nặng nề, rất đáng sợ.
Vì cảm thương số phận người tội lỗi, thánh Giuse coi việc cứu con người khỏi xiềng xích tội lỗi là ưu tiên, hàng đầu. Xiềng xích do tính xấu xác thịt, xiềng xích do thói xấu thế gian, xiềng xích do ác quỉ Sa tan, tất cả làm nên một hệ thống mãnh lực ghê gớm nô lệ hoá con người tội lỗi.
Giải cứu họ là cả một thách đố lớn. Khuyên bảo dạy đỗ chỉ là một phương cách thô sơ nhất. Trừng trị, đe doạ cũng vẫn chỉ là một cách may ra sinh kết quả tạm thời. Sau cùng Chúa Giêsu đã hết sức cầu nguyện và tự hiến mình chịu chết để đền tội thay cho tội nhân.
Những tội nhân sẽ chỉ được cứu, nếu họ biết đón nhận ơn tha thứ và cộng tác vào việc cứu độ của họ. Thực tế cho thấy rất nhiều người đã không biết đón nhận ơn cứu độ, đã không cộng tác vào ơn cứu độ. Đây là một thảm hoạ kinh hoàng, mà thánh Giuse đã thinh lặng cảm nhận. Do đó ngài đã âm thầm hiến dâng đời mình để cam lòng chịu mọi hy sinh cùng với Chúa Giêsu dấn thân vào con đường cứu độ. Giai đoạn sau cùng của Chúa Giêsu là sự thinh lặng chịu chết trên cây thánh giá. Thánh giá là khí cụ cứu độ. Tôi nghĩ là thánh Giuse cũng đã phần nào chia sẻ tất cả những chặng đường cứu độ của Chúa Giêsu. Chia sẻ một cách thinh lặng nhưng đã gây được kết quả tốt cho nhân loại. Sám hối, sửa mình, đổi mới cách sống, trở về đàng lành, đó là những việc rất cần có ơn thánh giá mới thực hiện được
Thinh lặng bảo vệ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa
Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa có kế hoạch riêng của Ngài. Trong kế hoạch đó, Thiên Chúa chọn một số người. Mỗi người được trao nhiệm vụ nhất định, để thi hành tại những nơi nhất định và trong thời điểm nhất định. Thánh Giuse được trao trách nhiệm bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Chắc là ngài cũng biết nhiều chuyện về Chúa Giêsu và Đức mẹ Nhưng ngài thinh lặng. Ngài là người bảo mật tối đa. Ngài là người thận trọng tuyệt đối với trật tự mầu nhiệm mà Thiên Chúa đã phần nào soi sáng cho ngài. Đó là phải tuân phục thánh ý Cha trên trời, như con trẻ Giêsu đã mạc khải: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha của con sao (Lc 2,49).
Với sự thinh lặng và thận trọng đó, thánh Giuse lùi vào bóng tối. Chính nhờ vậy mà tất cả Tin Mừng đều tập trung vào Chúa Giêsu. Tập trung vào Chúa Giêsu, đó là điểm căn bản của kế hoạch cứu độ. Điểm căn bản này đã được thánh Giuse thực hiện một cách triệt để, khi ngài khiêm tốn ẩn mình vào thinh lặng hoàn toàn.
Phải chăng đây cũng là gương để chúng ta chỉnh đốn lại cách sống đạo. Khi mà nhiều nơi mục vụ xem ra càng ngày càng bớt tập trung vào Đức Kitô để đến nỗi trên thực tế, nơi nhiều người và nhiều cộng đoàn, Chúa Giêsu thực sự trở nên mờ nhạt, cô đơn, giữa những sùng kính phụ thuộc càng ngày càng đua nhau phát triển tưng bừng.
Thiết tưởng một sự kiện như thế giữa một tình hình Hội Thánh đang có nhiều vấn đề phức tạp không là dấu chỉ của một lòng đạo phát triển khôn ngoan và ân sủng.
Khi tĩnh tâm tại các tu viện chiêm niệm, tôi cảm thấy thấm thía một nhu cầu khẩn cấp hiện nay của tu đức, mục vụ và truyền giáo. Nhu cầu khẩn thiết đó là sự thinh lặng mà tích cực tôi vừa trình bày ở trên. Thinh lặng tu thân, thinh lặng gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, thinh lặng cảm thương số phận những người khổ đau tội lỗi, thinh lặng bảo vệ kế hoạch cứu độ của Chúa. Những đấng hiện nay đang gây được ảnh hưởng rộng lớn trong việc đổi mới con người, xã hội và Hội Thánh như thánh nữ Têrêsa thành Lisieux, Mẹ Têrêsa Calcutta, Anh Charles de Foucauld, đều là những người đã thinh lặng nhưng tích cực trong bốn lãnh vực nói trên. Thiết tưởng các vị đó đã đi con đường thinh lặng của thánh Giuse. Thời nay, nhất là tại Việt Nam này, người ta quá nhàm chán với những thứ người ồn ào la lối về cái rác nơi mắt người khác, còn cái xà nơi mắt mình thì lại không thấy (Lc 6,41-42).
Con đường thinh lặng mà tích cực đang mở rộng. Chúa tha thiết mời gọi chúng ta đi vào. Nguyện xin thánh Giuse giúp đỡ chúng ta biết mộ mến con đường đó. Hy vọng bằng con đường đó, chúng ta chứng minh được chúng ta là những người thực sự có sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa, đẹp lòng Chúa và đáng được người ta mến thương, tin cậy.
SUY NIỆM 13: Người gia trưởng gương mẫu
Truyện Thánh Giuse theo Phúc Âm thì ngắn gọn lắm: Thánh Giuse là chồng của Đức Mẹ, Mẹ của Chúa Cứu Thế. Khi Mẹ Maria đã đính hôn với Thánh Giuse thì một hôm, Thiên Thần của Thiên Chúa có tên là Gabriel hiện đến và loan tin rằng Mẹ sẽ thụ thai và hạ sinh Chúa Cứu Thế, Con Thiên Chúa. Chín tháng sau, những điều loan báo đây được thực hiện đầy đủ. Khi Chúa Giêsu sinh ra thì Thánh Giuse trở thành Cha Nuôi, Đấng Bảo Vệ và Thày Dạy của Ngài. Thánh Giuse giữ vai trò là Quản Gia, là Gia Trưởng trong thánh gia thất Nazareth.
Tình yêu và sự trung tín của Ngài đối với gia đình thì mọi người đều biết. Ngài đã sống với bà vợ trẻ. Ngài chấp nhận sự đầu thai và hạ sinh nhiệm lạ. Để bảo vệ Mẹ Maria và Hài Nhi, Ngài đã vội vã và can đảm trốn sang Ai Cập ngay lúc ban đêm. Khi Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, Ngài dẫn Mẹ Con lên đền thánh. Lúc trở về đã mất liên lạc với Chúa Giêsu và Thánh Cả đã phải vất vả lo lắng tìm kiếm 3 ngày trời. Thời đó không có cảnh sát, không có Internet, không có các phương thế truyền thông như ngày nay… tất cả phải dùng sức lực mà tìm mà kiếm.
Có hai chi tiết trong đời Thánh Cả chúng ta muốn nhắc lại ở đây: Việc mang Con đi trốn và việc đi tìm Con.
Đem Con đi trốn
Thánh Giuse biết được người Con siêu việt này là Con Thiên Chúa nhưng thực tế Ngài lại tỏ ra rất yếu đuối, bất lực. Khi người ta đe doạ sẽ giết chết thì đã không tự động trốn thoát, hay tấn công lại kẻ thù của mình. Trái lại đã cậy dựa vào sự che chở của Thánh Giuse. Lý do để trốn cũng đã đòi hỏi nơi Thánh nhân một niềm tin tuyệt đối vào Lời của Chúa. Dù trước mặt Ngài Chúa Giêsu chỉ là một em nhỏ sơ sinh rất yếu đuối, nhưng Ngài tin tưởng không chút hồ nghi: Đây là Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng mà các tiên tri đã loan báo và là Đấng giải thoát Dân Chúa khỏi nô lệ.
Ra đi trong đêm tối: mù mịt không biết tương lai như thế nào. Người Con thần thánh này mới sinh ra đã chạy rồi thì còn cứu ai được? Đi về Ai Cập như là một chuyến đi đày biệt xứ, những gì sẽ xảy ra ở đó, sinh sống làm sao, ở chỗ nào, đâu có thân nhân gì bên đó… Một đêm đen dày đặc trước mặt và Giuse đã can đảm với đức tin như đèn sáng soi, Ngài đã băng mình vào bóng đêm như người con nhỏ sà vào lòng mẹ với trọn niềm tin tưởng.
Những người con Chúa ban cho mỗi gia đình là hồng ân của Chúa. Thông thường chúng ta ghi nhận điều đó vì Chúa phú bẩm vào trái tim chúng ta tình yêu tự nhiên đối với con cái. Nhưng cũng có những lần, những lúc, những trường hợp chúng ta khó nhìn nhận những người con là hồng ân của Thiên Chúa, là phúc lành của Ngài ban cho gia đình. Nhưng các em trở nên gánh nặng cho gia đình và trở nên đối tượng cho những cuộc bắt bớ của tệ đoan xã hội. Có lẽ các bậc phụ huynh còn gặp những cảnh khó khăn hơn mang con trốn trong đêm tối. Nhưng niềm tin mà Thánh Giuse phải nắm giữ chắc chắn lớn hơn vì người Con yếu đuối trước mặt Ngài là Chúa Trời Đất, Chúa của cả bạo chúa Herod. Ngài nêu gương cho ta và khích lệ ta nên vững tin dù trước những hoàn cảnh coi như phải chết đi để giữ vững niềm tin.
Tìm Con đi lạc
Một biến cố cuối cùng mà Thánh Kinh nói đến việc làm của Thánh Cả Giuse đó là việc Ngài, với tư cách là gia trưởng, hướng dẫn Đức Mẹ và Thiếu Niên Giêsu đi lên Đền Thánh dự lễ hội trong dịp Lễ Vượt Qua. Người Con mới lớn được dẫn đi lễ chầu tại trung tâm tôn giáo của Dân Chúa, không biết vì lý do gì đã không đi chung với Cha Mẹ. Trên chuyến đi trở về Nazareth, sau khi đi được một ngày đường Cha Mẹ mới khám phá ra Chúa Giêsu không đi với ai nên Ông Bà đã phải tất tưởi trở lại Thành Thánh để tìm người Con mà Thiên Chúa đã trao phó cho Ông Bà.
Không biết ai sẽ chịu trách nhiệm về việc đi lạc này nhưng chắc chắn Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải đau khổ rất nhiều khi lạc mất người Con quí trọng này. Mặc dù tin nhận Con mình là Thiên Chúa nhưng Thánh Giuse và Đức Mẹ đã dồn hết nỗ lực để đi tìm, đi kiếm… Sau ba ngày mới thấy con. Trong những ngày sầu khổ đó chắc hẳn đức tin của Thánh Giuse bị thử thách rất nhiều.
Trong câu truyện này chúng ta thấy một sự rất gần gũi giữa hoàn cảnh của Thánh Gia và của các gia đình chúng ta ngày nay. Vấn đề con cái đã là vấn đề lớn chi phối các gia đình. Chúng ta nên làm gì? Hãy bắt chước Thánh Giuse: Đi tìm. Tìm con trong mọi góc xó, mọi nẻo đường, mọi cơ hội. Tìm để gặp con trong lối suy tư, trong ý định tuổi trẻ của chúng. Tìm gặp con nơi học đường, trong chúng bạn, trong các sinh hoạt hàng ngày hay trong những biến cố ngoại thường. Có lẽ nhiều cha mẹ đã lạc con ngay trong học đường, không biết con học gì, nhà trường ra sao, các thầy cô như thế nào, chương trình học có gì trở ngại cho con em không? Hay nhiều cha mẹ đã lạc con trong lũ bạn bè vô danh vì cha mẹ chẳng biết con chơi với ai, chơi ở đâu, lúc nào.
Muốn đi tìm thì phải hy sinh, phải quên mình, bỏ ăn, bỏ ngủ như Thánh Giuse và Đức Mẹ. Kiên nhẫn và không đầu hàng. Các Ngài lạc mất một ngày mà phải tìm đến ba ngày. Chúng ta tìm con để gặp được các em có lẽ không phải ba ngày nhưng là một cuộc tìm kiếm trường kỳ. Sau cùng chắc chắn những cha mẹ tìm con cái sẽ gặp.
Cha Mẹ không biết việc của con sao? Làm sao Cha Mẹ biết được. Con là một Mầu Nhiệm đối với Cha Mẹ. Cả đời Cha Mẹ là một cuộc tìm kiếm không ngừng đề gặp Con. Chúng ta cũng có thể nói được như vậy đối với những người con mà Thiên Chúa ban cho chúng ta.
Nguyện xin Thánh Cả Giuse giúp chúng ta theo gương Ngài thực hiện việc phục vụ trong gia đình, cố gắng để mang con đi trốn, và nhất là đi tìm con.
SUY NIỆM 14: Thánh Giuse, người sống theo lời Chúa
Không biết từ bao giờ, người Công giáo chúng ta vẫn thường gọi thánh Giuse là “Thánh Cả”. Khi gọi thánh Giuse với danh xưng như thế, phải chăng chúng ta muốn nói đến sự cao trọng, lớn lao của ngài. Thế nhưng, đọc suốt Thánh Kinh, chúng ta không bắt gặp một lời nào của thánh Giuse. Thánh Kinh chỉ ghi lại những việc làm của thánh Giuse như: đón Đức Maria về nhà, đưa Mẹ Maria về Bêlem đăng ký sổ bộ, đưa Thánh Gia trốn sang Ai Cập rồi trở về định cư tại Nazareth, cùng với Đức Maria dâng Con lên Đền thờ và cuộc hành hương lên Giêrusalem khi Hài Nhi Giêsu lên 12 tuổi. Những việc làm này nhìn qua thật đơn giản nhưng lại có một điểm chung, đó là tất cả đều làm theo lời dạy của Thiên Chúa. Và phải chăng, đây là điều làm cho thánh nhân trở nên cao trọng.
Thật vậy, chúng ta chỉ có thể trở nên cao trọng khi sống theo lời Chúa. Vì lúc đó, chúng ta không chỉ là thắng một trận chiến, hay thắng một người nào khác từ bên ngoài, nhưng là chiến thắng chính mình. Và đây mới thực sự là cuộc chiến thắng vinh quang nhất. Kinh nghiệm cuộc sống cũng cho chúng ta thấy rằng, chỉ khi chúng ta làm chủ được mình, chúng ta mới thật sự là người trưởng thành như lời cha ông chúng ta vẫn thường nói: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. “Bình thiên hạ” nhìn bên ngoài là một việc lớn, nhưng để làm việc này, thì trước đó cần phải chu toàn một việc quan trọng và nền tảng hơn, đó là “tu thân”, nghĩa là phải tập làm chủ mình, hay nói theo cái nhìn đức tin là vượt thắng bản thân, để sống theo lời Chúa.
Luôn cố gắng sống theo lời Chúa cũng là một đặc điểm của vua Đavít. Vua Đavít mặc dù là một vị đế vương, nhưng vẫn luôn cố gắng sống theo Lời Chúa mà câu chuyện chúng ta vừa nghe trong bài đọc một là một ví dụ cụ thể. Lúc đó, sau khi đã bình ổn được đất nước, chấm dứt thù trong, giặc ngoài, và đã xây dựng cho mình một dinh thự nguy nga, vua Đavít đã muốn xây một Đền Thờ cho Thiên Chúa. Ông đã bàn bạc việc này với ngôn sứ Nathan. Nhưng thánh ý Thiên Chúa lại khác. Qua ngôn sứ Nathan, Thiên Chúa đã cho nhà vua biết rằng: không phải vua xây nhà cho Chúa, nhưng chính Chúa sẽ xây nhà cho vua, nghĩa là làm cho ngôi báu, cho triều đại của nhà vua được vững bền như lời Chúa phán: “Ta sẽ là Cha của ngươi, và ngươi sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi”.
Lời hứa này trước mắt là nói đến vua Salomon, con của Đavít, một vị vua nổi tiếng vì sự khôn ngoan. Chính vua Salomon đã xây đền thờ Giêrusalem và xây dựng một triều đại huy hoàng. Nhưng theo truyền thống từ xa xưa, dân Chúa vẫn coi đây là lời hứa tiên báo về triều đại của Đấng Messia. Như thế, nhờ luôn lắng nghe và sống theo lời Chúa, vua Đavít đã nhận được lời hứa trở nên tổ phụ của Đấng Cứu Thế. Lời hứa đó, hôm nay đã trở nên hiện thực với lời sứ thần của Thiên Chúa báo mộng cho thánh Giuse: “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình,…bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu”. Với việc giao cho thánh Giuse, một người thuộc dòng dõi vua Đavít đặt tên cho Đức Giêsu, Thiên Chúa đã thực hiện trọn vẹn lời hứa của mình với vua Đavít.
Tin Mừng thuật tiếp: “Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền”. Thánh Giuse đã làm như lời thiên thần truyền mà không một lời thắc mắc hỏi han. Điều này cho thấy một đức tin vững chắc vào Thiên Chúa của thánh Giuse. Thánh nhân đã dám làm những điều mà theo suy nghĩ tự nhiên là không thể, đó là nhận lãnh sứ mạng làm cha của Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa của mình. Đây không phải là một đức tin mù quáng, nhưng là một đức tin của người tin rằng Thiên Chúa có thể làm những điều mà con người không thể. Và chỉ có đức tin đó mới có thể làm cho chúng ta trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô nói về tổ phụ Abraham: “Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế”. Vì vậy, ông đã được kể như sự công chính”.
Tin tưởng, lắng nghe và thực hành tất cả những điều Thiên Chúa dạy là những điều mà thánh Giuse đã làm trong suốt cuộc sống của mình. Chính vì thế, thánh nhân được gọi là “Thánh Cả”, hay nói theo cách nói của Thánh Kinh, thánh nhân còn được gọi là: “Người Công Chính” và được giao một nhiệm vụ quan trọng là trở thành thầy dạy đầu tiên và là “người gìn giữ Đức Giêsu trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ” như chúng ta vừa nghe trong lời nguyện Nhập lễ.
Tóm lại, chính nhờ đức tin mà thánh Giuse có thể sống phó thác hoàn toàn cuộc đời của mình trong bàn tay Thiên Chúa, sẵn sàng làm mọi điều Chúa dạy. Và nếu chúng ta cũng luôn sống theo lời Chúa như thế, chúng ta sẽ có một giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa.
Mừng lễ thánh Giuse hôm nay trong tư cách là một người Gia trưởng như tên gọi của ngày lễ đã diễn tả: THÁNH GIUSE BẠN ĐỨC TRINH NỮ MARIA, gợi lên cho từng người chúng ta nhiều bài học.
Trước hết, theo nghĩa rộng, tôi thiết nghĩ đây là ngày lễ của tất cả từng người chúng ta đây, không trừ một ai. Bởi vì nếu gia trưởng là người đứng đầu và chịu trách nhiệm cho một tập thể, thì phải chăng, từng người chúng ta cũng đang là một gia trưởng cho chính con người của chúng ta với một tập thể có rất nhiều các bộ phận khác nhau: từ khối óc cho đến con tim; từ con mắt cho tới tay chân, miệng lưỡi… Do đó, chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm về những suy nghĩ, tình cảm, lời nói và hành động của chúng ta. Vì thế, bài học đầu tiên, chúng ta học được nơi thánh Giuse là hãy đặt trọn vẹn con người của chúng ta dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa, như lời của thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Galata: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Đời sống của tôi lúc này trong thân xác, tôi sống nó trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì tôi” (Ga 2, 20). Cụ thể, trước mỗi lời nói, hành động, chúng ta hãy suy nghĩ, Chúa có muốn tôi nói và làm điều đó không?
Kế đến, đó là ngày lễ của tất cả những người chịu trách nhiệm về một cộng đoàn: cộng đoàn đó có thể là một gia đình, nhưng cũng còn là một giáo xứ, một dòng tu, một đoàn thể, một giới, hay đơn giản hơn: một lớp giáo lý. Trong tư cách là người chịu trách nhiệm trên những người khác, chúng ta hãy nói gương thánh Giuse, sẵn sàng bỏ ý riêng để thực hiện ý Chúa. Khi gặp những điều trái ý, chúng ta không vội vàng, không nóng nảy, nhưng bình tĩnh tìm hiểu thánh ý của Thiên Chúa, rồi giải quyết mọi sự theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Giờ đây, nhờ lời bầu cử của Thánh Cả Giuse, xin cho từng người, từng gia đình chúng ta luôn siêng năng học hỏi và sống lời Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Nhờ đó, gia đình và cộng đoàn của chúng ta sẽ luôn sống trong bình an và tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
Nguồn: tgp saigon
SUY NIỆM 15: Thánh Giuse, Nhạy Bén Và Kiên Quyết
Tác giả: Lm Nguyễn Hữu An
Trong nghi thức làm phép ảnh tượng các thánh, thừa tác viên Giáo Hội cầu nguyện:“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa không chê bác việc tạc vẽ tượng ảnh các thánh, để mỗi lần con mắt thể xác chiêm ngưỡng ảnh tượng đó, chúng con cũng dùng con mắt ký ức để suy niệm các hành vi và đời sống thánh thiện của các Ngài mà bắt chước. Chúng con nài xin Chúa làm phép + và thánh hóa tượng ảnh này để tôn kính và tưởng niệm đến…Xin Chúa đoái thương, để ai siêng năng tôn kính…trước tượng ảnh này, thì nhờ công nghiệp và sự che chở của Người, được Chúa ban ơn thánh ở đời này và vinh hiển ở đời sau. Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con”.
Người Kitô hữu tôn kính các thánh qua các ảnh tượng. Con mắt thể xác chiêm ngưỡng vị thánh thì con mắt ký ức suy niệm hành vi và đời sống thánh thiện của ngài để noi gương bắt chước.
Bước vào tháng kính Thánh Giuse, chiêm ngắm và học nơi Ngài hai nhân đức cần thiết cho đời sống đức tin.
Nhạy bén
Đọc Phúc Âm, ta thấy Thánh Giuse có tâm hồn mở ra với tiếng gọi của Thiên Chúa và rất nhạy bén trước ý định của Người.Trong bất cứ hoàn cảnh nào, hễ biết là ý Thiên Chúa, Thánh Giuse vui lòng lãnh nhận và mau mắn thi hành.
-Thấy Maria có thai,Giuse phải đau khổ lắm.Người Hôn Thê đạo hạnh mà Ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng Ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, Ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định : “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác “ vì là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” ( Mt 1,19).Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình”(Mt 1,20). Nhận ra thánh ý Thiên Chúa “ Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về”(Mt 1,24).
– Cuộc sống đang bình yên tại Bêlem thì chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày.Trước mắt là gian truân vất vả, nhưng Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14).
– Khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng.Vậy mà một lần nữa Chúa lại bảo ông phải bỏ lại tất cả để ra đi.Thật mau mắn trước Thiên ý “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel” (Mt 2,21).
Trước Thánh ý Thiên Chúa, Giuse nhạy bén lắng nghe và vâng phục chu toàn.Từ Nazareth qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ông đi là ông đi, bảo ông về là ông về, bảo ông làm thế nào là ông làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự.Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”(Lc1,38).
Để nhạy bén với tiếng gọi của Thiên Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, Ngài lắng nghe Chúa. Thiên Chúa mà Giuse gắn bó là Đấng đã gọi Ngài. Thánh Giuse hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững.Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, Ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình.
Kiên quyết.
Phúc Âm nói rất ít về thánh Giuse. Nhưng có một điều chắc chắn đã giúp Ngài chu toàn bổn phận bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Điều đó là đức tính kiên định.
Nhạy bén tình hình thực tế nên thấy mối đe dọa cho Hài Nhi, Ngài mau mắn lên đường lánh nạn. Đường xa vạn dặm từ Do thái sang Ai cập mà vợ yếu con thơ, núi đồi hiểm trở, cướp bóc rình rập, nhưng Thánh Giuse luôn kiên quyết đã quyết định là làm cho đến cùng để bảo vệ gia đình.
Đọc Phúc Âm ta thấy rõ đức tính ấy. Từ khi đưa Đức Maria đang mang thai về quê hương Bêlem để khai sổ kiểm tra cho đến khi định cư tại Nazareth, Thánh Giuse luôn kiên quyết bảo vệ gìn giữ gia đình. Về quê quán, đường xa xôi cách trở. Khi đến nơi “Maria đã đến ngày sinh nở”, và phải sinh con “nơi hang đá bò lừa” vì “hai ông bà không tìm được nhà trọ”(Lc 2,7). Chỉ ít lâu sau được lệnh “Thiên sứ báo tin phải lên đường, đưa con trẻ và mẹ Người trốn sang Ai Cập” (Mt 2,13). Vâng theo ý Chúa, “ngay đang đêm, Giuse chỗi dậy đem con trẻ và mẹ Người lên đường đi Ai cập” (Mt 2,14). Định cư tại Ai cập cho đến khi nhận được lệnh thiên sứ “hãy đưa con trẻ trở về quê hương”, Giuse “lại chỗi dậy đưa gia đình về lại quê hương Nagiaret”. Bất cứ hoàn cảnh nào, dù gặp những thử thách gian truân, Thánh Giuse vẫn can đảm kiên cường vượt qua. Ngài là cột trụ gia đình, kiên nhẫn làm việc đổ mồ hôi nước mắt, bằng sức lao động để nuôi sống và đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho tất cả chúng ta soi.Tấm gương của một con người luôn nhạy bén tình hình thực tế và khi đã nghe tiếng gọi của Thiên Chúa thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá.Tấm gương của một con người luôn kiên định xin vâng trước Thiên ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.
Nhờ hai đức tính nhạy bén và kiên quyết mà Thánh Giuse đã trở thành đấng bao bọc che chở Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế của Người rất hiệu quả. Đó cũng là bài học quý giá cho đời sống đức tin và trách nhiệm mà Chúa giao phó cho chúng ta. Luôn nhạy bén với tiếng Chúa gọi, nhạy bén với tiếng lương tâm, với các biến cố đời sống, với những biến chuyển của thời đại và với những lời nhắn nhủ của anh chị em mình. Nhạy bén trước những mối nguy hiểm đe dọa những nguy cơ rình rập đời sống, cần kiên quyết để vượt qua. Bất cứ việc gì, đã quyết định là làm cho đến cùng với tinh thần trách nhiệm.
Thánh Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”.Thánh Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống đời thường đã biến thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động.
Lạy Thánh Giuse, xin cho mỗi người chúng con học nơi Ngài, luôn biết nhạy bén và kiên quyết sống theo hướng dẫn của đức tin. Amen.
18/03 Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt
- Viết bởi Ga 12, 20-33
Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt.
Chúa Nhật tuần 5 Mùa Chay năm B.
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".
Lời Chúa: Ga 12, 20-33
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu". Philip-phê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đáp: "Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha".
Lúc đó có tiếng từ trời phán: "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: "Một thiên thần nói với Ngài". Chúa Giêsu đáp: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta". Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY B
Lời Chúa: Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33
MỤC LỤC
1. Yêu thương là cho đi
Yêu thương là cho đi, là chia sẻ, là dám chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau. Hoa hồng nào mà chẳng có gai, tình yêu nào mà chẳng có những hy sinh gian khổ của nó.
Mẹ Têrêsa thành Calcutta kể lại rằng:
Hồi đó, nhằm lúc thiếu đường trong thành phố, thì ngày kia có một cậu bé bốn tuổi, đem đến cho mẹ một chén đường và nói: Thưa mẹ con đã nhịn đường suốt cả một tuần lễ nay, xin mẹ dùng ít đường này cho các trẻ mồ côi của mẹ. Một cử chỉ thật anh hùng biết bao đối với một em bé 4 tuổi. Em đã học biết yêu thương kẻ khác đến mức hy sinh tất cả những gì mình cần thiết.
Một dịp khác, đang lúc mẹ đang vo gạo thì có một người đàn ông đến gặp mẹ và nói: Thưa mẹ, gần đây có một gia đình người Hindu gồm tám đứa con, nhưng đã cả tuần lễ nay họ không có gì để ăn. Lập tức mẹ bưng rá gạo đi theo người đàn ông đó đến nhà người Hindu kia. Bước vào túp lều xiêu vẹo, mẹ đã gặp được trên những nét mặt xanh xao đó cơn đói đang hành hạ. Không cầm lòng được, mẹ đã đưa cả rá gạo cho người đàn bà. Bà này cảm động cầm lấy rá gạo rồi lập tức chia làm hai phần, bưng nửa ra đi, lát sau mới trở lại.
Mẹ thấy vậy bèn ngạc nhiên hỏi: Bà đi đâu vậy và đem gạo cho ai? Không chút do dự người đàn bà trả lời: Họ cũng đói lắm. Nhưng họ là ai? Là những gia đình Hồi giáo, cũng có những người con đói khổ như con. Họ ở bên kia đường và cả tuần lễ nay họ cũng chẳng có gì để ăn.
Từ những câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy, yêu thương chính là cho đi, chính là chia sẻ. Không phải những gì mình dư thừa, nhưng cả những gì cần thiết cho đời sống của mình. Sức mạnh của tình yêu chính là khả năng chấp nhận những hy sinh gian khổ cho người khác được hạnh phúc. Trong chiều hướng này, chúng ta nhận thấy tình yêu Thiên Chúa thực lớn lao biết bao, bởi chưng, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người chịu đựng mọi vất vả túng thiếu và sau cùng chịu chết một cách ô nhục trên thập giá, để cứu chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc vĩnh cửu: Ta đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Và rồi Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
2. Giờ của Chúa
Từ đầu mùa Chay cho đến giờ, chúng ta đã chuẩn bị tham dự vào biến cố quan trọng nhất của lịch sử nhân loại. Hôm nay chúng ta nghe Chúa Giêsu loan báo về những gì sắp xảy đến, nhưng thay vì mở ra một cảnh tượng hùng vĩ thì Ngài lại tỏ lộ chính những tâm tình thầm kín nhất của Ngài.
Thực vậy sau khi Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào thành Giêrusalem, thì có mấy người Hy Lạp đến tìm Philipphê và nhờ ông giới thiệu mình với Chúa Giêsu. Lúc đầu có lẽ Philipphê cảm thấy hơi ngại ngùng, nhưng sau đó cũng đã dẫn họ đến với Chúa Giêsu. Lạ thay, Ngài không tỏ ra chấp nhận hay từ chối họ, nhưng lại mạc khải cho họ một điều khác. Và chính trong sự mạc khải này, Ngài đã cho biết những tâm tình thầm kín của Ngài. Ngài nói: Đã đến giờ Con Người được vinh quang.
Giờ mà Ngài đã tiên báo lần đầu tiên, khi xuất hiện trước quần chúng tại tiệc cưới Cana. Giờ mà Ngài vẫn mong chờ trong suốt ba năm giảng dạy. Chính vì thế, bây giờ không còn phải là lúc tiếp nhận hay từ chối những người Hy Lạp, nhưng là lúc phải hoàn thành sứ mạng cao cả và phổ quát của Ngài.
Tuy là giờ vinh quang, là giờ Ngài hằng mong đợi, nhưng điều lạ là Chúa Giêsu nói tới giờ đó không phải với một giọng điệu nao nức, nhưng trái lại, hình như đượm vẻ lo âu. Ngài biết rõ con đường nào mình sẽ phải đi qua đến tiến tới vinh quang. Như hạt lúa phải mục nát đi, thì mới trổ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình, thì sẽ được sống đời đời. Qua đó, Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Điều kiện để tiến tới vinh quang là phải chấp nhận thập giá.
Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy, thập giá không phải là một cái gì thơ mộng, ngọt ngào, nhưng là một cái gì cay đắng ê chề. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng hoang mang và run sợ, nên Ngài đã lên tiếng cầu nguyện: Lạy Cha xin cất chén đắng này cho con. Đồng thời Ngài còn thêm: Nhưng không theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi. Nơi khác Ngài cũng đã thốt lên: Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng cũng chính vì giờ này mà Con đã đến.
Đó là một sự chấp nhận thật can đảm. Lời cầu nguyện của Ngài vừa là một tiếng xin vâng, vừa là một tâm tình phó thác cho Chúa Cha, Đấng sẽ biến cái chết của Ngài thành sự phục sinh vinh quang. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết bước vào con đường mà Chúa đã đi qua hay không? Bởi vì có trải qua đau khồ thập giá thì chúng ta mới tiến đến vinh quang phục sinh.
3. Giờ Chúa đến.
Đọc lại Phúc âm chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không bước vào cuộc khổ nạn như bước lên sân khấu để trình diễn một vở kịch, trong đó cái chết sẽ chỉ là cái chết giả vờ. Trái lại, Ngài đã từng băn khoăn lo lắng khi giờ phút trọng đại ấy đến gần.
Mặc dù luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn quí trọng sự sống, Ngài vẫn muốn được sống, vẫn muốn thoát khỏi những khổ đau và cái chết, bởi vì Ngài cũng là một người như mọi người.
Đức Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư và sắp chết, đã nhắn nhủ các linh mục của ngài như sau: “Chúng ta nói rất hay về sự đau khổ. Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây tôi xin các linh mục đừng nói gì về vấn đề ấy nữa, bởi vì chúng ta không hề biết đau khổ là gì. Tôi đã phải khóc lên vì nó”.
Có thể người ta sẽ chê Đức Hồng y chưa hiểu biết ý nghĩa của sự đau khổ, chưa sẵn sàng chịu đau khổ, nên mới buồn, mới khóc và không dám nói tới nó nữa. Nhưng Đức Hồng y đã chân thật với chính mình. Không nói hay ít nói về sự đau khổ không có nghĩa là không sẵn sàng chấp nhận, không yêu mến đón nhận nó như chén đắng Thiên Chúa trao cho. Chén đắng vẫn là chén đắng, chúng ta vui nhận, nhưng không thể vui sướng coi đó như là một chén nước ngọt. Chúng ta chấp nhận đau khổ vì yêu mến chứ không vì thích chịu khổ đau.
Chúa Giêsu yêu mến sự sống bởi vì chính Ngài đã tạo dựng ra sự sống, Chính Ngài là sự sống nhưng lại sẵn sàng dâng hiến nó như một tặng vật cao quí nhất, hầu đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Ngài ví mạng sống ấy như hạt lúa vàng gieo vào lòng đất, để làm nẩy sinh trăm hạt lúa mới. Ngài biết rằng hạt lúa ấy sẽ phải chết sẽ phải mất đi, nhưng Ngài chấp nhận sự mất mát đó, chấp nhận cái chết đó để rồi tìm lại sự sống của mình trong trăm ngàn hạt lúa mới khác được sinh ra từ cái chết của Ngài.
Đức Kitô mong muốn không phải là được chết nhưng là thực hiện thánh ý Chúa Cha. Cái chết không phải là cứu cánh nhưng chính là vinh quang Thiên Chúa và ơn cứu độ cho nhân loại, mới là cái đích mà Ngài nhắm tới. Giờ mà Ngài mong đợi không phải là giờ chết, nhưng là giờ hoàn tất sứ mạng Chúa Cha đã trao phó, đó là làm cho mọi người được sống nhờ cái chết của Ngài và làm cho toàn thể nhân loại được yêu thương hợp nhất với nhau khi cùng hướng nhìn về cây thập giá. Bởi đó Ngài nói: Phần Ta, khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta (Ga 12,32). Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta, giờ đây Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy yêu thương và hiến dâng cuộc đời chúng ta cho anh em, để nhờ đó mọi người đều được hiểu biết, đều được yêu thương và đều được chia sẻ phần hạnh phúc của gia đình những người con cái Chúa.
4. Giờ Con Người được tôn vinh
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
‘Ad Magiorem Dei Gloriam’ là một khẩu hiệu được nhiều dòng tu lựa chọn, tuy nhiên, ‘vinh quang Thiên Chúa – Gloria Dei’ hệ tại ở điều gì, và khi nào thì Thiên Chúa thật sự được tôn vinh thì vẫn là một điều cần minh định. Không ít lần ta được nghe giải thích, giờ phút vinh quang của Đức Giêsu chính là khi Người phục sinh vinh hiển. Người ta thường chú giải câu “nếu chết đi, hạt lúa mới sinh được nhiều hạt khác” như sau: ‘Chúa Giêsu để di thể của Người chôn vùi trong lòng đất, để khi ra khỏi mồ, chính thân thể đã được vinh quang ấy sẽ là tụ điểm của tất cả mọi người tín hữu (lời chú giải Ga 12:24 trong ‘Christian Community Bible’). Chúng ta quá quen thuộc với câu nói thường được nhắc đi nhắc lại: ‘Qua thập giá tới vinh quang – Per Crucen ad Lucem’. Câu nói đó hàm ý, cái chết của Đức Ki-tô trên thập giá chỉ là phương tiện trung gian, là con đường đưa tới vinh quang mà thôi, còn tự nó chẳng vinh quang chút nào hết, toàn là đau đớn và nhuốc khổ! Nói như thế quả là hợp lý theo lối nhìn thường tình nhân loại, tuy nhiên hình như đó không phải là điều mà Đức Giêsu đã xác quyết. Đọc kỹ một chút Tin Mừng Gio-an chương 12 ta nhận ra ngay: Đức Giêsu công khai khảng định: chính giờ chết thập giá, khi Con Người được ‘giương cao lên khỏi đất … là lúc ngài được tôn vinh’.
Tại sao thời điểm chịu chết lại là giờ phút Con Người được tôn vinh? Cứ theo thói tự nhiên thì không có cách nào lý giải hết, bởi vì “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này!” Trong tư cách người phàm, Đức Giêsu cũng đã quằn quoại trước giờ tử nạn, và các Thánh Sử đã không hề muốn che đậy điều này; “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14:34); ‘Lòng xao xuyến bồi hồi… Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22:44). Thế thì vì lẽ nào mà cái giờ phút kinh hoàng tột độ đó, khi mà chính Người còn mong trốn thoát, lại có thể được Người gọi là đỉnh điểm (kairos) ‘được tôn vinh’? Và không chỉ tôn vinh riêng Người, mà còn là giờ phút cả Chúa Cha cũng được tôn vinh nữa, ‘Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha… Bấy giờ có tiếng phán từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Có thể ai đó trong chúng ta cho rằng đó chỉ là một kiểu nói, một lối diễn tả bóng bảy. Nếu quả đúng là như thế thì chẳng có gì đáng bàn thêm! Tuy nhiên tác giả Gio-an lồng tuyên bố mang tính mạc khải này trong một khung cảnh trang trọng hiếm thấy: một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Đức Giêsu qua trung gian các môn đệ Phi-líp-phê và An-rê; họ chân thành muốn tìm hiểu về Thầy Giêsu, nhân vật được họ nể phục. Câu tuyên bố họ nhận được sau đó quả là một cú sốc, như sau này Phao-lô sẽ nhận xét: “… người Hy-lạp tìm kiếm lẽ không ngoan… sẽ cho là điên rồ”. Nhưng rồi cũng chính Phao-lô mạnh dạn khảng định thêm: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng Ki-tô chịu đóng đinh ấy, chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa…” (1 Cr 1:23-24)
Như vậy Ki-tô hữu chân chính sẽ không phải là người lên tiếng khảng định ‘per Crucem ad lucem’ theo lẽ thường tình, mà phải là những người có khả năng xác quyết với niềm thâm tín sâu xa nhất ‘Crux est lux – Thập giá chính là vinh quang!’ Như môn đệ Gio-an, chỉ khi ngước nhìn lên thập giá, họ mới nhận rõ một điều ‘Thiên Chúa là tình yêu… Chúa Cha yêu thế gian đến nỗi…’ Nơi thập giá mỗi Ki-tô hữu nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa Tình Yêu rạng ngời, “chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Gio-an đã coi chứng từ thập giá là quan trọng hơn hết trong niềm tin của mình: “người xem thấy việc này đã làm chứng, và chứng của người ấy xác thật. và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Chưa nhận ra được vinh quang Thiên Chúa nơi thập giá thì cũng chưa thể nói là mình đã trọn vẹn xác tín rằng ‘Thiên Chúa là tình yêu’, vì đây chính là mạc khải độc nhất vô nhị mà Đức Giêsu cất công đến trần gian để khai mở bằng thập giá của Người. Vì thế cho nên Người mới gọi giờ phút thập giá là ‘Kairos’, “giờ Con Người được tôn vinh… và chính vì giờ này mà con đã đến”. Giờ phút quan trọng nhất đời Đức Giêsu chính là ‘khi được giương cao lên khỏi mặt đất’ (‘ám chỉ Người phải chết cách nào’) vì chính lúc đó ‘tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi’, chứ không phải lúc sống lại ra khỏi mồ hay lên trời hiển vinh. Như vậy niềm tin Ki-tô hữu trước hết và trên hết phải là niềm tin Thập giá trước cả niềm tin phục sinh, vì phục sinh, xét cho cùng, cũng chỉ là Thập Giá tình yêu chiến thắng. “Ave Crux Gloria!”
Tôi cử hành vinh quang thập giá ra sao trong mỗi Thánh Lễ để, cho riêng cá nhân tôi, Thánh Lễ sẽ trở thành một lời ca tụng và cảm tạ vinh quang đích thực mà Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu đã mạc khải cho tôi được biết: ‘Thiên Chúa là tình yêu’?
Lạy Đức Giêsu bị giương cao trên thập giá, con tôn thờ Thánh giá Chúa, con suy tôn Thiên Chúa vinh quang của tự hiến, xót thương và cứu độ. Xin cho con có khả năng luôn đọc được nơi thập giá Chúa chịu đóng đinh một chữ T và chữ Y sáng ngời (T là hình tượng thập giá và Y là hình tượng Giêsu chết treo trên đó), một Tinh Yêu vinh quang, vinh quang không phải cho ai khác mà là cho chính sự thấp hèn của con. Càng nhìn nhận mình tội lỗi yếu hèn, hình như con lại càng có khả năng nhận ra vinh quang sáng chói của thập giá. Xin gia tăng nơi con khả năng sống niềm tin thập giá này, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
5. Đã đến giờ Con Người được tôn vinh - ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Đức Giêsu được tôn vinh như thế nào?
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải do một số người Hy lạp xin đến gặp Ngài, tôn vinh Ngài, cũng không phải do dân chúng cởi áo trải đường, phất cành lá vạn tuế tung hô Ngài trong dịp đại lễ Vượt Qua rước Ngài vào thành Giêrusalem. Ngài biết rõ họ, chỉ mấy ngày nữa họ sẽ hô hào nhau: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi”.
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải Ngài sắp lên làm vua cai trị muôn dân. Ngài nhận mình là vua, nhưng nước Ngài không thuộc thế gian này. Nếu nước Ngài thuộc thế gian này, quân của Ngài sẽ chiến đấu, không để người Do thái dễ dàng bắt nộp Ngài (Ga. 18, 36). Trước kia, tướng quỷ đã hứa hiến cho Ngài hết các nước thiên hạ cùng vinh quang của chúng. Ngài đã thẳng tay đuổi chúng: “Satan hãy cút đi” (Mt. 4, 9-10).
Như vậy, Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng giàu sang, danh vọng, quyền thế vinh quang trần gian.
Đức Giêsu được tôn vinh như Ngài khẳng định: “Hạt lúa gieo xuống đất phải chết đi, mới sinh được nhiều bông hạt. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, ai coi thường mạng sống mình đời này, thì sẽ được cuộc sống đời sau”. Ngài từ trời gieo xuống đất, phải chịu chết đi mới cứu được muôn dân. Ngài không khư khư bảo vệ mạng sống mình, sẵn sàng nộp mạng cho quân dữ hành hạ, đánh đập, đóng đinh chết đi để cho quân dữ được hả dạ, được xả mọi uất ức hận thù dằn vặt, đè nén tâm can họ, hơn nữa, để cho họ được an tâm khỏi bị lương tâm cắn rứt dày vò vì tội giết người, Ngài đã xin Cha tha cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”. Đó là vinh quang của Ngài, không một phàm nhân nào làm được, chỉ có Ngài và những ai phục vụ Ngài, mới có lòng nhân ái cao cả đó thôi.
Đức Giêsu được tôn vinh hơn hết là do chính Chúa Cha cứu Ngài khỏi giờ này: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến”. Giờ này là gì? Chính Đức Giêsu đã giải thích: “Giờ đây là giờ diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây là giờ thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài”. Giờ phán xét: đây chưa phải lúc thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, đây là lúc thế gian phải đứng trước một chọn lựa dứt khoát “theo Thầy, phục vụ Thầy để tôn vinh danh Cha thì sẽ được Cha Thầy yêu quý”. Không theo Thầy, theo thủ lãnh thế gian, theo satan, sẽ bị tống ra khỏi nước trời. Đây là giờ quyết liệt bước vào cuộc chiến đẫm máu đến nỗi “Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người vì Người đã tôn vinh Thiên Chúa” (Bài hai).
Giờ đây Đức Giêsu đã sẵn sàng được nâng lên khỏi mặt đất, Ngài không còn thuộc về đất nữa. Như Phù Đổng Thiên Vương nhẩy lên ngựa sắt phi đến phá giặc Ân, Đức Giêsu cũng nhảy lên thập giá với đinh sắt, lưỡi đòng, Ngài xông pha chiến đấu với quân dữ, với tội ác, với tử thần, với satan. Ngài mong gấp rút dứt điểm cuộc chiến này nhanh chóng đến nỗi “tâm hồn Ngài xao xuyến” như trước đây Ngài đã nói: “Thầy phải chịu một phép rửa, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn thành” (Lc. 12, 50).
Thủ lãnh thế gian giằng co kéo dài thời gian để phá hoại nhân loại, giống như trường hợp của Ađam Hussein, thủ lãnh nước Iraq, lợi dụng kéo dài thời gian để đốt phá hết mỏ dầu vùng Vịnh khiến cho nhân loại lâm nguy, thiếu năng lượng sẽ gây ra khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Phe đồng minh đã phải gấp rút giải quyết cuộc chiến trong bốn mươi ngày (từ 17 tháng 01 – 26 tháng 02 năm 1991).
Đức Giêsu đã gấp rút chấm dứt cuộc chiến: chỉ sau ba ngày, Ngài đã chiến thắng vinh quang, giải thoát cho nhân loại khỏi thời đại nô lệ satan, nô lệ tử thần kéo dài từ Adam Evà cho đến giờ này.
Còn chúng ta, giờ này chúng ta cũng phải gấp rút động viên toàn lực tham gia vào cuộc chiến với Ngài. Trừ khử mọi tính hư tật xấu của mình vì đã theo thủ lãnh thế gian. Phải tiêu diệt tội lỗi mình chết đi để tâm hồn trổ sinh nhiều bông hạt. Hãy suy tôn phục vụ Đức Giêsu, để Ngài ở đâu, ta được ở đó với Ngài. Ngài đã lên cao, Ngài sẽ nâng ta lên với Ngài.
Làm sao ta có thể như hạt lúa gieo xuống đất, chưa tối đã lăn ra ngủ, sáng dậy chẳng biết ai cho mình ngủ, ai cho mình thức, ai cho mình sống? Làm sao miệng dám: “Lạy Chúa, xin tôn vinh Cha, khi ta chẳng thèm dâng lễ tạ ơn Cha, biết ơn Cha mà cứ đòi hết ơn này đến ơn khác. Làm sao dám xin Cha cứu khỏi chết, khi ta vẫn sống ích kỷ, chẳng thèm giơ tay cứu giúp ai. Làm sao dám giơ tay cho Ngài kéo lên cao, khi ta sống lười biếng, chẳng ghi khắc vào tâm khảm lề luật Ngài.
Lạy Chúa, xin thương con bởi lòng Ngài nhân hậu, lấy lượng hải hà xóa tội con, xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Xin tái tạo lòng con nên trong sạch, đổi mới tinh thần cho con bền vững trung kiên, để con dù phải trải qua nhiều đau khổ, con biết chết đi như hạt lúa gieo vào lòng đất mới sinh nhiều bông trái tôn vinh danh Cha.
6. Hạt lúa mì mục nát – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Cha Dieudonné Bourgignon, người Bỉ, đã từng bị Đức Quốc Xã bắt giam trong trại tập trung Dachau thời Đệ Nhị Thế Chiến kể lại:
Vào một đêm cuối tháng bảy, một tù nhân khu trại 4 thuộc trại giam Auschwitz đã trốn thoát. Phòng hơi ngạt của trại này đã từng thủ tiêu 6 triệu người Do thái; 1/3 dân Do thái trước Thế Chiến. Sáng hôm sau, viên sĩ quan hằn học tuyên bố: "Tất cả những người có mặt phải đứng nghiêm trong hàng ngũ". Đoàn tù nhân phải chôn chân không mủ nón đứng dưới ánh nắng đổ lửa của mùa hạ miền nam Ba Lan. Buổi chiều khi các tù nhân khu giam khác đi làm về. Viên sĩ quan nói: "Mười trong số những người này phải trả nợ". Lập tức tên sĩ quan duyệt qua hàng tù nhân chỉ ra mười người, trong đó có một đàn ông kêu rên thảm thiết vì thương người vợ trẻ và đàn con thơ dại.
Maximilien Kolbe nghe lời ai oán của bạn tù đã thốt lên: "Tôi xin chết thay cho người này". Đoàn người sững sờ. Tên sĩ quan không ngờ diễn tiến của biến cố. Hắn tò mò muốn hiểu rõ: "Tại sao muốn chết?" Maximilien Kolbe điềm tỉnh trả lời: "Tôi là linh mục Công giáo".
Mười tử tội tiến chầm chậm vào cõi địa ngục. Người ta bỏ rơi họ trong phòng tối không ăn uống cho đến chết. Những giờ phút tăm tối lê thê. Ngày 18-8-1941, mười người còn lại bốn, đang thoi thóp hấp hối. Một người trong đó là Kolbe. Tất cả được nhận mũi thuốc độc ân huệ.
***
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt' (Ga.12,24) Để có một quyết định anh hùng như cha Maximilien Kolbe quả không dễ dàng chút nào. Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống? Đành rằng chết để sinh nhiều bông hạt, nhưng có ích gì khi chính tôi bị tan rã? Vì thế, chúng ta không muốn chết như hạt lúa, chúng ta chấp nhận trơ trọi một mình.
Vậy sức mạnh nào thúc đẩy chúng ta dám chết cho anh em? Động lực nào thúc giục chúng ta hiến thân cho đồng loại? Chính Đức Giêsu đã cho ta giải đáp: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga.15,12). Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Đức Giêsu đã nên lời yêu thương con người. Chính vì Người đã không xuống khỏi thập giá nên không ai có thể nghi ngờ tình yêu của Người. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Người trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Đức Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Cái chết của cha Kolbe và tất cả những cái chết hiến thân cho tha nhân đều nói lên lời yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa. Tác giả Anthony Padovano viết: "Chúng ta được cứu rỗi không chỉ vì cái chết thể xác của Đức Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Người sẵn sàng chấp nhận cái chết".
Điểm quan trọng là ở giây phút định mệnh, đối mặt với cái chết, Đức Giêsu luôn tha thiết cầu nguyện với Cha và Người dạy chúng ta hãy học kinh nghiệm nơi Người: "Các con hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc.22,40). Cầu nguyện không là liều thuốc giảm đau, ngăn chặn nao núng sợ hãi, nhưng cầu nguyện là thái độ sống thực, sống tin yêu, phó thác. Khi cầu nguyện chúng ta không mong Chúa đổi ý, cứu ta thoát chết, cũng không xin Người ru ngủ để ta chết êm ái.
Ở giây phút quyết liệt, cầu nguyện chính là gặp gỡ Chúa với nỗi xao xuyến, giằng co của cái chết nhưng trọn vẹn tâm tình hiến dâng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng ta gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa Tình yêu.
Chúng ta không thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta, nhưng chúng ta có thể đón tiếp cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa vĩnh hằng.
Chính lúc Đức Giêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi người tín hữu hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đường.
***
Lạy Chúa, chúng con sợ nói về cái chết và tất cả những gì dính líu tới cái chết, nhưng chúng con cũng hiểu rằng sẽ có một ngày chúng con giáp mặt Chúa trong phút định mệnh. Xin giúp chúng con sống can đảm từng ngày, để chúng con dầy dạn với thử thách quyết liệt sau cùng của cuộc đời. Amen.
7. Trao ban là nhận lãnh
(Suy Niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Người đời thường nghĩ rằng: cho đi là mất. Họ tưởng rằng cho người khác một số tiền, một tài sản nào đó… thì họ sẽ bị mất mát, thiệt thòi. Thế nên lắm kẻ chủ trương rằng tốt nhất là đừng dại dột đem cho mà hãy khư khư giữ lấy cho mình. Tư duy nầy sẽ hình thành nơi ta một con người ích kỷ, chỉ chăm lo cho bản thân mà không quan tâm trợ giúp người khác.
Đây là một tư duy sai lầm, tai hại. Trái với chủ trương vị kỷ nầy, Chúa Giêsu dạy sống vị tha, biết xả thân cho người khác.
Cho đi thì còn, giữ lại là mất; chính lúc trao ban là lúc nhận lãnh.
Để làm rõ sự thật nầy, Chúa Giêsu dạy: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
Quả vậy. Hạt lúa nào cố tự bảo vệ sự nguyên vẹn của mình thì hạt lúa đó sẽ dần dần bị hư mốc, rốt cuộc chẳng còn gì; còn hạt lúa nào chấp nhận bị phân huỷ dưới bùn đất thì sẽ đâm mầm, mọc thành cây, nở thành bụi và sẽ trổ hoa kết hạt dồi dào: từ một hạt sẽ biến thành trăm hạt khác.
Từ đó, Chúa Giêsu dạy rằng cuộc sống của con người ở đời nầy cũng như thế: “Ai yêu quý mạng sống mình (tự bảo toàn mình như hạt lúa trong kho) thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này (sống xả thân như hạt lúa chịu phân huỷ trong lòng đất) thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”
Khi nói: “coi thường mạng sống mình ở đời nầy”, Chúa Giêsu không có ý dạy chúng ta coi rẻ mạng sống, nhưng là mời gọi chúng ta sẵn lòng chấp nhận xả thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Làm như thế không phải là thiệt thòi mất mát nhưng là cách để triển nở dồi dào phong phú.
Minh hoạ sau đây chứng tỏ sự thật nầy:
Tôi có hai cánh tay, hai cánh tay cùng thuộc về thân mình tôi nhưng mỗi cánh tay lại có một nếp sống khác nhau, một chủ trương khác nhau. Cánh tay trái của tôi theo chủ nghĩa vị kỷ, còn cánh tay phải theo chủ nghĩa vị tha.
Vì theo chủ nghĩa vị kỷ, luôn luôn quy về mình, nên tay trái của tôi rất ít tham gia vào công việc chung mà cứ để cho tay phải đảm đương mọi việc. Khi ăn cơm, tay trái dành cho tay phải cầm đũa. Khi viết bài, tay trái dành cho tay phải cầm bút. Khi cầm búa đóng đinh hay cầm cây kim may áo, nó chẳng chịu tham gia mà nhường cho tay phải làm hết.
Hậu quả của thói ích kỷ nầy là nó trở nên yếu đuối và thua kém tay phải trong mọi việc. Nếu tổ chức một cuộc thi giữa hai cánh tay thì khi thi viết, tay phải viết nhanh, viết đẹp, viết rõ ràng nên được điểm 10, còn tay trái viết chậm, nguệch ngoạc như mèo cào, như gà bới, nên không được điểm nào.
Khi thi đóng đinh thì tay phải đóng đinh nhanh gọn, chính xác; còn tay trái đóng trật lất. Khi thi may vá thêu thùa thì tay phải may nhanh, thêu đẹp; còn tay trái thì lóng ngóng chẳng làm được việc gì. Nói tóm lại, dù thi bất cứ môn gì, tay phải cũng dành được điểm mười còn tay trái chỉ được số không!
Cả hai cánh tay phải và trái đều thuộc về thân mình tôi, cùng được chăm sóc, nuôi dưỡng như nhau, thế mà tay trái vì theo thói ích kỷ, chẳng bao giờ muốn hi sinh phục vụ toàn thân, chẳng dấn thân chăm lo cho người khác, nên nó trở nên yếu đuối và thua kém trong mọi lĩnh vực. Trong khi đó, vì tay phải theo chủ nghĩa vị tha, luôn chấp nhận đảm đương mọi công việc nặng nề khó nhọc, lúc nào cũng sẵn sàng hi sinh phục vụ toàn thân và phục vụ nhiều người … nên nó mạnh mẽ hơn, khéo léo hơn, tài giỏi hơn, vượt xa tay trái về mọi mặt.
Nhờ tự huỷ mình đi như hạt lúa, Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Cuộc đời của Đức Giêsu là một minh chứng cho chân lý nầy. Người là Một Hạt Lúa chấp nhận tự huỷ đi. Dù là Thiên Chúa thật đồng hàng với Chúa Cha nhưng Người đã không đòi cho được đồng hàng với Thiên Chúa Cha, trái lại Người đã hủy mình ra không, mang lấy thân phận giòn mỏng của kiếp người, chấp nhận chết ô nhục trên thập giá, chịu mai táng trong lòng đất, để phục vụ và cứu rỗi muôn dân. Nhờ đó, Người được phục sinh vinh quang, được lên trời vinh hiển, được tôn vinh làm vua trên trời dưới đất (Philip 2, 6-8).
Thánh Phao-lô tóm lược cuộc đời tự huỷ của Chúa Giêsu như sau: Vì chấp nhận tự huỷ như thế, “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ và …tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Ki-tô là Chúa". (Phi-líp-phê 2, 9-11)
Đón nhận bài học của Chúa Giêsu
Một ngọn nến phải chấp nhận tiêu hao thì mới có thể toả sáng. Một máy bay phải tiêu hao nhiên liệu mới có thể cất cánh. Một vệ tinh, một tàu vũ trụ phải tiêu hao một số năng lượng khổng lồ mới có thể được phóng lên không gian...
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết khôn ngoan chấp nhận hi sinh, sẵn sàng tiêu hao thời giờ, sức khoẻ, trí tuệ, nghị lực để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, nhờ đó cuộc đời chúng con sẽ phát triển vạn lần tươi đẹp.
8. Hạt lúa gieo vào lòng đất
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu chúng ta có một lượng vàng trong tủ, làm sao để nó hoá thành năm? Nếu có trăm triệu, làm sao cho số vốn đó đẻ ra gấp mười? Hầu như đó là chuyện không thể làm được bằng những phương cách hợp pháp.
Giá như có bí thuật nào làm được điều đó, thì ai cũng muốn thủ đắc cho bằng được với bất cứ giá nào.
Vậy mà hôm nay, Chúa Giêsu tặng không cho ta một bí quyết làm gia tăng một giá trị không chỉ gấp năm, gấp mười, mà là đến gấp trăm!
Thật khó tin! Làm gì có chuyện thần kỳ như thế trên cõi đời nầy?
Thưa, dù điều nầy rất khó tin, nhưng hoàn toàn có thật. Bí quyết nầy rút ra từ hạt lúa.
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy phận mình thật là diễm phúc, so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp, ngụp lặn dưới bùn. Chúng tỏ lòng thương hại các hạt thóc bạn dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Thật đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi được ở nơi khô ráo, thì các anh lại phải ngụp lặn trong sình. Đang khi chúng tôi được ngước mắt nhìn ánh dương rực rỡ, được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường, được ngắm nhìn người qua kẻ lại nói cười vui vẻ, thì chung quanh các anh chỉ là tăm tối và tanh hôi. Cuộc đời chúng tôi đang lên hương, còn cuộc sống các anh đang lụi tàn! Thật bất hạnh thay cho các anh!"
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân người dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy thành ba. Sau đó, mấy chiếc xe ào đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác thành bụi tro. Những hạt lúa may mắn còn sót lại thì hoá thành mồi ngon cho chim chóc và các loại côn trùng!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh đang ngụp lặn trong bùn, thì qua vài ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống, rồi thành những cây lúa xanh tươi cứng cáp. Cây lúa lớn dần, nở bụi sum suê. Không đầy ba tháng sau, nó trổ thành những bông lúa, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng, đem lại sức sống cho bao người.
Từ một hạt lúa đơn độc, nó đã được chuyển hoá thành trăm! Thật nhiệm mầu!
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài chuyển hoá đời mình như thế.
"Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Rồi Ngài nói rõ hơn: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời."
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận mang thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Ngài chấp nhận khổ hình, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận chết treo trên thập giá như một tên tử tội khốn nạn nhất. Người đời tưởng rằng đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt, họ đã giúp Ngài chiến thắng. Qua thập giá, Chúa Giêsu đạt đến vinh quang, được phục sinh vinh hiển và được hiển trị đời đời! Giờ tử nạn cũng chính là giờ Ngài được tôn vinh.
Chúa Giêsu không muốn chúng ta sống như hạt lúa đơn độc trên vệ đường, chỉ biết sống cho mình rồi rốt cuộc phải tiêu vong. Ngài muốn chúng ta bước theo Ngài để chuyển hoá gấp trăm.
Để được như thế, chúng ta hãy nên như hạt lúa bị chôn vùi, nghĩa là hãy chấp nhận hy sinh quên mình vì hạnh phúc người khác; hãy cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu, cùng vác thập giá hằng ngày với Chúa Giêsu, chấp nhận cống hiến tài sức để phụng sự Chúa và phục vụ muôn người.
Nhưng sự việc đâu có giản đơn. Xác thịt con người vẫn nặng nề và không dễ dàng chịu khuất phục. Phải có rất nhiều can đảm mới có thể đáp lời Chúa mời gọi. Ôi, lạy Chúa, xin giúp sức cho con!
9. Chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Quốc Toản, CMC)
Trong cuộc sống có nhiều điều quan trọng mà ta không thể trông thấy như gió, tư tưởng, lòng can đảm, tình yêu và ơn thánh Chúa. Tuy nhiên, ta có thể biết chúng hiện hữu qua hiệu quả hay tác dụng của chúng. Thí dụ khi thấy cây ngả nghiêng - ta biết có gió.
Trong Tin Mừng hôm nay, một số người Hy-lạp (Dân ngoại) muốn gặp Chúa Giêsu. Tại sao họ muốn gặp Chúa? Họ là mối lo cho người Do-thái hơn cả quân Rôma. Đối với họ, cách sống của người Do-thái thật là bất thường. Tuy nhiên, họ lại muốn gặp Chúa. Phải có một điều gì làm cho họ muốn gặp Chúa? Có lẽ họ đã nghe các tông đồ và dân chúng nói nhiều về Chúa. Cũng có thể họ muốn gặp Chúa là vì họ đã chứng kiến sự biến đổi nơi cuộc sống của các tông đồ và những người đã theo Chúa Giêsu.
Như những người Dân ngoại xưa, nhiều người ngày nay cũng muốn gặp Chúa Giêsu; một Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc sống của những người đã theo Ngài, một Chúa Giêsu làm cho người ta muốn dấn thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, một Chúa Giêsu thấu hiểu tâm hồn và biết con người phải chiến đấu khó khăn thế nào để thi hành một việc tốt, và một Chúa Giêsu luôn sẵn sàng thí mạng sống vì phần rỗi nhân loại.
Những sự việc này sẽ không bao giờ trở thành sự thật nếu chúng ta không thấy những hậu quả hay tác dụng của sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống của những người theo Chúa Kitô. Ta đọc hoặc nghe về những vị thánh, những người có cuộc sống đã chiếu giãi sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa như Phanxicô, Têrêxa, Mẹ Têrêxa Calcutta... Ta cũng biết những người có cuộc sống thánh thiện như Tu sĩ Văn, Cha Minh Đăng, Cha Bửu Diệp... Hoặc chúng ta biết những người thân yêu, bạn bè đang đau khổ không kém Ông Gióp trong Cựu Ước, nhưng họ vẫn vững niềm tin cậy trông nơi Chúa cho dù đôi lúc họ cũng muốn buông xuôi.
Việt Nam ta có câu, "Có qua có lại, mới toại lòng nhau." Đúng thế! Không chỉ có chúng ta muốn gặp Chúa Kitô, nhưng còn rất nhiều người khác cũng muốn gặp Chúa Giêsu. Do đó, ta không thể chỉ ngồi để hưởng gương lành hoặc ân sủng nhờ niềm tin của người khác. Ta cần trở nên dấu chỉ cho tha nhân nhận biết sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống. Ta có thể bắt đầu bằng việc đồng hành và giúp những người chưa nhận biết Chúa qua cử chỉ bác ái yêu thương và nâng đỡ; trung thành trong đời sống cầu nguyện; giúp đỡ tha nhân không vì để được khen, nhưng là vì họ mang hình ảnh Thiên Chúa; đồng hành và cảm thông với những người đau khổ không phải bằng lời nói nhưng bằng sự hiện diện.
Như những người Hy-lạp trong Tin Mừng, ngày nay cũng có rất nhiều người muốn gặp Chúa Giêsu. Nhưng, ngày nay Chúa không hiện diện cụ thể để cho họ gặp Ngài diện đối diện như thời xưa. Cách duy nhất để họ nhận ra Chúa là qua chính những hậu quả và tác dụng của lời Chúa nơi hành động của chúng ta là những môn đệ của Ngài. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể canh tân đức tin nơi mỗi người và giúp ta biết chia sẻ đức tin đó cho mọi người qua lời nói và đời sống trào tràn tình yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy tìm Chúa Giêsu nơi tha nhân và để tha nhân nhận gặp Chúa nơi chúng ta.
10. Cho đi thì còn, giữ lại thì mất
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu ra một nghịch lý gay gắt người đời khó hiểu được: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời." (Ga 12,25)
Ai nâng niu sự sống mình thì sẽ đánh mất nó.
Người đời cho rằng muốn bảo tồn được mạng sống thì phải nâng niu cưng chiều nó tối đa, phải dành ưu tiên cho mình trong tất cả mọi sự. Còn Chúa Giêsu thì chủ trương ngược lại: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất!" (Ga 12, 25).
Làm sao hiểu được chân lý nầy?
Nếu tim chỉ sống cho riêng mình mà không bơm máu nuôi toàn thân thì tim sẽ bị ứ đầy máu và ngừng đập.
Nếu phổi chỉ phục vụ bản thân, không đưa dưỡng khí nuôi toàn cơ thể, thì phổi chết.
Nếu bao tử và ruột chỉ chăm lo cho mình, giữ lại tất cả dinh dưỡng cho mình mà không chuyển đi nuôi những bộ phận khác, bao tử và ruột tự kết án tử cho mình.
Ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được nó.
Người đời cho rằng: "mạng sống hơn đống vàng" nên người ta chăm sóc, bảo bọc, che chở nó bằng mọi giá. Trong khi đó, Chúa Giêsu dạy, muốn bảo tồn mạng sống thì hãy hy sinh nó đi: "ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35).
Đây là chân lý hết sức hệ trọng nên được các tác giả Tin Mừng nhắc lại nhiều lần: Gioan 12, 25b / Matthêu 10,39/ Matthêu 16, 25/ Luca 9,24/ Luca 17,33.
Làm sao hiểu cho được những nghịch lý nầy?
Sở dĩ tim sống khoẻ vì tim rất quảng đại và hy sinh, luôn luôn bơm hết dòng máu quý báu của mình để cống hiến cho toàn thân được sống. Lẽ sống của tim là liên tục cho đi những gì đã lãnh nhận.
Sở dĩ hai buồng phổi sống trong tình trạng sức khoẻ sung mãn vì phổi vị tha, không tìm ích riêng cho mình, nhưng luôn luôn chuyển đi dưỡng khí trong lành cho những phần chi thể khác.
Sở dĩ bao tử và ruột hoạt động tốt là vì chúng luôn trao ban và dâng hiến: một khi tiếp nhận được thức ăn, bao tử và ruột chuyển hoá thành chất dinh dưỡng và chuyển hết cho những bộ phận chung quanh, không giữ lại gì cho riêng mình.
Nói chung, lẽ sống của từng cơ quan là hy sinh, là quên mình, là dâng hiến tất cả cho những cơ quan khác cũng như cho toàn thân.
Ở Israen có hai biển hồ: một là biển hồ Galilê, hai là biển chết.
Biển hồ Galilê tiếp nhận nước từ sông Jordano rồi xả xuống phía hạ lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận được. Nhờ đó, nước hồ lúc nào cũng trong lành, trở nên môi trường thích hợp cho tôm cá sinh sôi nẩy nở, cung cấp nước uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh những cánh đồng và vườn cây ăn trái, đem lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại sung túc cho bao triệu người qua các thời đại. Vì thế, nó đáng được gọi là biển sống.
Xuôi về phía nam chừng 200 km dọc theo sông Jordano, người ta gặp thấy một biển hồ khác rộng lớn hơn biển hồ Galilê gần năm lần nhưng bị gọi tên là biển chết; vì tuy cùng nhận nước từ sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó giữ lại tất cả cho mình, không cho chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành nước ao tù, mặn đến độ không sinh vật nào sống được. Chung quanh biển nầy, không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật nào có thể lập cư...
Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa được giữ nguyên trong kho, được bảo quản kỹ càng, thì nó chỉ là hạt lúa trơ trọi, một hạt lúa cô đơn, một hạt lúa chết dần mòn. Còn hạt lúa nào chịu huỷ mình đi trong ruộng sình sẽ vươn lên phơi phới và sinh được gấp trăm.
Cuộc đời của Đức Giêsu cũng là một minh chứng hùng hồn cho chân lý Người dạy. Chúa đã chịu gieo mình xuống cõi đời ô trọc, chịu hy sinh, chịu đủ thứ khổ nhục, cuối cùng chịu chết trên thập giá và mai táng trong mồ. Trước mắt người đời, Chúa Giêsu đánh mất tất cả và thất bại hoàn toàn!
Thế nhưng qua khổ nạn và sự chết, Người đã phục sinh, lên trời vinh hiển. Nhờ gieo mình xuống và tự hủy đi như một hạt lúa gieo vào bùn đất, Chúa Giêsu đã sống lại khải hoàn đem lại ơn cứu độ cho muôn người và cho họ được hưởng phúc trường sinh.
Quy luật sinh tồn là thế: chỉ khi cho đi, mới là lúc được nhận lại dồi dào; chính khi hiến mình là lúc nhận lại bản thân. Vì thế, khi sắp chịu huỷ mình trên thập giá và chịu mai táng trong mộ, Chúa Giêsu gọi đó là giờ Người được tôn vinh: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!" (Ga 12, 23).
Thế là nghịch lý trên đây giờ đã được sáng tỏ và trở thành chân lý soi dẫn cho cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con sẵn sàng hiến thân để phụng sự Chúa và nhân loại, như hạt lúa bị chôn vùi cho nhiều hạt khác được phát sinh, để trở thành "biển sống Galilê" và không bao giờ là "biển chết".
11. Hành trình tự hủy
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã kể lại một giai thoại như sau. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng có tiếng khóc ngân xa nghe rất não nuột. Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ. Nó hỏi: “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Câu hỏi đột ngột khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời đứa con như thế nào. Bà bật dậy, ngồi vào bàn và mở cuốn Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan chương 13 câu 1, bà đọc thấy thánh ký đã viết: “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết trước giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở trần gian và Người yêu thương họ đến cùng.” Gấp sách lại, bà trở về giường và nói với đứa con: “Con ơi, chết là trở về với Cha và yêu thương đến cùng”.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta đến gần sát với cái chết của Đức Giêsu hơn. Con đường dẫn tới núi sọ và huyệt đá chính là con đường yêu thương trong hành trình tự hủy. Cuộc hành trình tự hủy đó giống như định luật của hạt lúa được gieo vào đất. Hạt lúa sẽ thối đi, sẽ chết đi nhưng sẽ sản sinh nhiều bông hạt khác.
‘Giờ’ Con Người được tôn vinh.
Cao điểm của hành trình tự hủy là ‘Giờ’ mà Con Người được tôn vinh. Chủ đề ‘Giờ’ được thánh ký Gioan nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong sách Tin mừng của Ngài. Trong phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã vén mở thực tại này khi trả lời Đức Mẹ: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi, ‘Giờ’ của tôi chưa đến (Ga 2,4)”. Đó là ‘Giờ’ mà Chúa Giêsu không phải làm phép lạ biến nước thành rượu, nhưng biến rượu thành máu của Ngài, máu đổ ra trên Thánh giá để khai mở nguồn ơn cứu độ. Khi đàm đạo với thiếu phụ Samari bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu cũng nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Sự Thật (Ga 2, 23)”. Liền sau đó, Chúa nói tiếp: “Giờ đã đến”. Đó là ‘Giờ’ Chúa Giêsu khai mở một nền phụng tự mới qua máu của Ngài đổ ra trên Thánh giá. Đặc biệt, khi đến thời điểm cận kề cái chết, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, ‘Giờ’ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha để con Cha tôn vinh Cha (Ga 17, 1)”. Cũng tương tự, trong bài Tin mừng hôm nay, khi loan báo về cái chết của mình, Đức Giêsu đã trả lời các môn đệ: “Đã đến ‘Giờ’ con người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Vì vậy, xuyên suất trong Tin mừng thứ 4, Thánh Gioan luôn nhấn mạnh đến ‘Lễ Vượt qua’ cuối cùng, đó là giờ ‘Con người được treo lên để ai tin vào người con sẽ không phải chết nhưng có sự sống đời’. Thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Nhưng muốn cho con người được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã đi vào hành trình tự hủy và chấp nhận cái chết nhuốc khổ như một tên tử tội đốn mạt.
Giờ Chúa Cha được tôn vinh cũng là giờ mà Đức Giêsu bị nhấn xuống tận đáy bùn đen trong xã hội loài người và đón nhận cái chết thảm khốc. Đây là nghịch lý của tình yêu được thánh Gioan nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần. Hình ảnh về hạt lúa được gieo vào lòng đất được Chúa Giêsu vay mượn để nói về cái chết của Ngài. Hạt lúa sẽ thối rữa trong lòng đất để sản sinh những hạt lúa khác. Cũng vậy, phải đi qua Thập giá mới đạt đến vinh quang. Phải đi vào lộ trình của mầu nhiệm tự hủy, chúng ta mới vươn đạt tới sự sống. Đây là nghịch lý cao cả mà Giáo hội mời gọi chúng ta quy hướng về trong suốt tuần lễ này, tuần lễ cuối cùng của mùa Chay, trước khi bước vào Tuần Thánh. Chúng ta suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu không phải chỉ qua ngắm nguyện, qua việc đi Đàng Thánh giá hay qua các cử hành phụng vụ. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải can đảm đi vào hành trình tự hủy cùng với Chúa Giêsu, bởi vì những ai cùng chết với Đức Kitô sẽ được cùng sống lại với Người (2 Tm 2, 11).
Bản chất đời sống Kitô hữu là đi sâu vào hành trình tự hủy song song với mầu nhiệm Thập giá, như Chúa đã nói: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo”. Vác thập giá không phải đơn thuần chỉ là chịu đựng những nghịch cảnh hay những đau khổ, nhưng đó là lộ trình từ bỏ tận căn cách liên lỉ, từ bỏ chính cái tôi ích kỷ nơi con người mình, tức là phải chết đi cho con cũ của chúng ta mỗi ngày. Một cha xứ nọ có sáng kiến tổ chức một Thánh lễ an táng và mời cả cộng đoàn đến tham dự. Trong giây phút tiễn biệt người quá cố lần cuối, cộng đoàn đến trước quan tài và quan tài được mở ra cho mọi người nhìn mặt người chết lần cuối. Nhưng bên trong quan tài ấy không có một xác chết nào cả, chỉ có một tấm gương phản chiếu chính gương mặt của người đến phúng viếng. Ở phía dưới có ghi hàng chữ ‘Bạn hãy tập mai táng chính mình’. Chúng ta phải tập chết mỗi ngày, nhưng không phải là chết về thể lý mà chết trong hành trình tự hủy cách liên tục.
Cuộc chiến nội tâm.
Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái đã viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã phải lớn tiếng rơi lệ mà dâng lời nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết (Dt 5, 7). Mang kiếp con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng khiếp sợ khi đối diện trước cái chết. Sự sợ hãi dâng cao đến độ mồ hôi và máu toát ra. Theo một số nhà khoa học phân tích, đây là hiện tượng thể lý khi sự sợ hãi dâng lên tột điểm, thần kinh sẽ căng ra và các mạch máu thấm vào những lỗ chân lông để rỉ ra bên ngoài. Nhưng trong cơn sợ hãi tột cùng ấy, Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cái chết của Ngài trở nên căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta (Dt 5, 9).
Sự giằng co và cuộc chiến đấu nơi Đức Giêsu trở thành bài học quý giá cho mọi người ngày hôm nay. Nhiều lúc chúng ta cũng muốn vươn lên, nhưng bản tính yếu đuối của kiếp người lại kéo ghì chúng ta đi xuống. Trong những giây phút hấp hối bi thương nơi vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã chiến thắng những cám dỗ muốn thoái lui để hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa Cha. Cũng vậy, trong cuộc lữ hành đức tin trần thế, đặc biệt trong suốt mùa chay thánh này chúng ta cần suy niệm, học hỏi và bắt chước gương mẫu kiên định nơi Đức Giêsu.
Kết luận
Trên giường hấp hối, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang đi về cõi sống”. Sở dĩ thánh nữ có cái nhìn lạc quan như thế khi đối diện trước cái chết vì Ngài đã thâm tín sâu xa và sống triệt để điều mà chị Thánh đã tâm niệm và viết lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn: “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình yêu vượt thắng mọi thời gian và không gian. Ơn gọi của tôi không là gì khác tình yêu”. Trong tình yêu, con người sẽ trở thành bất tử. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống sung mãn ơn gọi tình yêu để ngày càng đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy cùng với Chúa Giêsu.
12. Sống đẹp giữa đời – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người xưa thường đề cao lối sống của người quân tử. Người quân tử thấy chuyện bất bình thường ra tay cứu giúp. Người quân tử luôn sống hào hiệp, sống vì đại nghĩa nên hy sinh bản thân. Thế nhưng, con người ngày nay lại an phận thủ thường. Người ta ngại hy sinh cho người khác. Người ta sợ "mang hoạ vào thân". Người ta tìm an nhàn cho bản thân nên chẳng dại gì "ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng". Xem ra lối sống của người quân tử thấy chuyện bất bình ra tay giúp đỡ chỉ còn trên trang giấy học trò. Lối sống ấy đã mất dần trong thời đại hôm nay.
Người ta kể rằng: Ở bên Trung Quốc, có một chiếc xe bus chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Chúng bắt cô dừng xe và muốn "vui vẻ" với cô. Tất nhiên là cô tài xế kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Lúc ấy một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng tay, nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Và cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường.
Một giờ sau, ba tên du côn và cô tài xế tơi tả trở về xe để tiếp tục lên đường...
"Này ông kia, ông xuống xe đi!" cô tài xế la lên với người đàn ông vừa tìm cách giúp mình.
Người đàn ông sững sờ, nói:
"Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?"
Cô gái nhăn mặt nói: "Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy."
Điều bất ngờ là hành khách, vốn lờ lảng hành động man rợ mới đây của bọn du côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe. Thậm chí một vài hành khách khỏe hơn đã lôi người đàn ông xuống xe.
Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình. Cô lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên hết cỡ. Xe lên đến đỉnh đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi. Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút.
Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra trong hai mắt cô.
Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô tài xế:
"Chạy chậm thôi, cô định làm gì thế hả?"
Cô tài xế không nói tiếng nào nhưng xe chạy ngày càng nhanh hơn. Tên du côn tìm cách giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài, rơi xuống vực như mũi tên bật khỏi cây cung.
Hôm sau, báo địa phương loan tin một tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn". Một chiếc xe cỡ trung rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều thiệt mạng.
Trong thành phố, có một người đàn ông đọc bản tin trên báo đã khóc!
Quả thực, con người ngày xưa khi thấy chuyện bất bình, người ta thường lăn xả để hoà giải cho nhau, nhưng xem ra hôm nay, ít ai dám can thiệp vào chuyện người khác. Ít ai dám xông pha để bảo vệ kẻ yếu đang bị ức hiếp. Người ta ngại dấn thân vào chuyện của người khác. Xem ra con người ngày nay thường có xu hướng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình nhiều hơn là cho đồng loại. Con người ngày nay thích an nhàn nên ngại hy sinh".
Thế mà, hôm nay Chúa Giêsu lại bảo: "kẻ nào giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai chịu chịu từ bỏ cuối cùng sẽ được lại". Đó là chân lý, là định luật tất yếu của cuộc đời. Nếu thế giới này không có những con người dám quên đi bản thân thì làm sao có những phát minh khoa học, làm sao có những kỳ quan để lại cho đời sau? Có lẽ thế giới hôm nay sẽ thiệt hại biết bao, nếu không có những người dám quên đi sự an nhàn cá nhân, sự yên vui vị kỷ, những lợi lộc cá nhân để sống vỉ lợi ích tha nhân! Thế giới này đang mắc nợ những con người đã tận tuỵ làm việc quên mình để xây dựng thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Thế giới hôm nay rất cần những con người quân tử để cuộc đời được phong phú và yên vui hơn.
Chính Chúa Giêsu, Ngài đã sống điều đó. Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã trở nên bất diệt khi Ngài trở thành hạt lúa chịu nghiền nát để trổ sinh muôn vàn bông lúa. Ngài đã trở nên vĩ đại khi Ngài dám chết vì bạn hữu. Thực vậy, người vĩ đại trong cuộc đời chúng ta không phải là những người nổi tiếng, không phải là các ngôi sao điện ảnh hay ca nhạc mà là chính những người đang hy sinh vì chúng ta. Họ là những người cha "chân lấm tay bùn" đang đổ mồ hôi nơi nương đồng, đang miệt mài nơi công trường. Họ là những người mẹ đang lặn lội ngược xuôi nơi bến chợ, đang hao gầy vì đàn con. Họ là những người anh, người chị đang bôn ba đó đây để bòn nhặt từng đồng tiền để phụ giúp gia đình. Đó là những con người cao cả, là những hạt lúa miến đang chịu nghiền nát vì tha nhân để trở thành tấm bánh cho anh em. Đó là những con người dám quên đi niềm vui riêng của bản thân để lo cái lo của đồng loại, để sống có ích cho tha nhân.
Nhưng thật đáng tiếc! Ý niệm phục vụ tha nhân. Ý niệm sống vì người khác đang mất dần trong thế giới hôm nay. Người ta đang lo cho bản thân. Người ta đang chạy theo danh lợi thú để thoả mãn nhu cầu của chính mình. Có mấy ai dám quên mình để sống cho thân nhân? Có mấy ai chịu nghiền nát đời mình để đem lại niềm vui cho tha nhân?
Thiết tưởng, mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống cao đẹp hơn. Hãy hy sinh niềm vui của mình, những đam mê sở thích của mình để đem lại niềm vui cho những người chúng ta yêu mến. Thiết tưởng mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống đúng với phẩm giá làm người của mình là biết sống vì hạnh phúc tha nhân. Chúa đã tạo dựng Eva vì niềm vui của Adam. Chúa cũng tạo dựng chúng ta vì niềm vui của thân nhân. Xin Chúa là Đấng đã chết cho người mình yêu, giúp chúng ta biết quảng đại hy sinh để kiến tạo niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Amen.
13. Hạt lúa chết đi
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Vài hôm trước ngày bị hạ sát, Tổng Giám Mục Oscar Romero phát biểu với một phóng viên nhà báo: "Ông có thể nói với dân chúng rằng, nếu họ thành công trong việc ám hại tôi, tôi sẽ tha thứ và ban phép lành cho những ai làm điều ấy. Hy vọng họ sẽ nhận ra rằng họ đã phí uổng thời giờ. Một vị Giám mục sẽ chết, nhưng Giáo Hội của Thiên Chúa, tức là Giáo Hội của dân chúng sẽ chẳng hề bị hủy diệt."
Vào lúc 6 giờ 25 chiều ngày 24/3/1980, tại nguyện đường của Bệnh Viện Chúa Quan Phòng, một bệnh viện dành cho bệnh nhân ung thư, Tổng Giám Mục Romero cử hành Thánh Lễ cầu hồn cho thân mẫu của một ký giả bạn thân, vừa mới qua đời. Đức Cha Romero đọc đoạn Phúc Âm Thánh Gioan: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác." (Gioan 12, 23-24) Đức Cha triển khai chủ đề ấy trong bài giảng ngay sau đó, áp dụng nó vào tình cảnh khốn cùng mà dân nước El Salvador phải cam chịu dưới ách thống trị của độc tài quân phiệt.
Ngài tâm sự với cộng đoàn nhỏ bé đang dự lễ: "Điều quan trọng là đừng yêu mình đến nỗi không dám dính líu vào những việc liều lĩnh, mà lịch sử đòi hỏi nơi chúng ta... Kẻ nào né tránh sự nguy hiểm, kẻ ấy sẽ mất sự sống mình. Nhưng bất cứ ai vì lòng yêu mến Chúa Kitô hiến thân phục vụ tha nhân, kẻ ấy sẽ được sống giống như hạt lúa mì chết, nhưng thật ra chỉ chết về mặt bề ngoài." Ngài còn nói: "Tôi tin trong sự chết có sự sống lại. Nếu người ta giết tôi, tôi sẽ được sống lại trong dân Salvador của tôi."
Kết thúc bài giảng, Đức Cha Oscar Romero tiến lên giữa bàn thờ chuẩn bị bánh và rượu để dâng hy lễ Chiên Thiên Chúa, thì tiếng súng nổ, một loạt đạn từ dưới cuối nhà nguyện bay vèo lên. Tổng Giám Mục Romero trúng đạn, máu chảy lai láng. Người ta vội đưa ngài đi cấp cứu, nhưng ngài đã tắt thở.
Giết chết Tổng Giám mục Oscar Romero, thế lực quân phiệt, tài phiệt bạo ngược chưa thỏa lòng. Họ còn cho binh lính mai phục trên nóc nhà thờ, đặt chất nổ và xả súng bắn vào đoàn người đang dự lễ an táng Đức Cha, ngay trước tiền đường nhà thờ chánh toà, khiến thêm 37 người nữa bị tử nạn và hàng trăm người bị thương. Nhưng ai là thủ phạm các vụ tàn sát trên thì "chỉ có Chúa biết". (Theo Romero: A life của James A. Brockman)
Trong Thánh lễ cuối cùng trước khi được Chúa thương gọi về, Đức TGM Oscar Romero đã công bố bài Tin Mừng hôm nay. Đồng thời ngài áp dụng trung thành Lời Chúa Giêsu phán dạy: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25). Trong tiểu sử Đức TGM Oscar Romero, không nhắc đến tâm hồn ngài cảm thấy thế nào trước nguy hiểm đe dọa, có lẽ tác giả muốn bỏ qua sự yếu đuối của thân xác. Còn Thánh sử Gioan không hề che đậy, cặn kẽ mô tả Đức Giêsu khủng hoảng trước cuộc tử nạn.
Khủng hoảng
"Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” Tâm hồn Đức Giêsu bất an, nôn nao, lo lắng, khiếp hãi, khủng hoảng vô cùng trước mối đe dọa sống còn. Cuộc chiến giữa bản năng sinh tồn và ý chí dấn thân vâng phục vô cùng khủng khiếp, nghiệt ngã, khiến Đức Giêsu phải đổ mồ hôi hột giữa đêm khuya lạnh giá trong vườn Cây Dầu. (Lc 22, 44)
Dẫu vậy, Đức Giêsu luôn xác tín linh hồn quan trọng và thiết yếu hơn thể xác, vốn yếu đuối, hèn mọn, mỏng dòn và mau hư nát. Há tiếc chi cái xác phù du, sợ chi cái chết đe dọa, kẻ thủ ác bạo tàn? Đáng sợ là mất cả chì lẫn chài trong hỏa ngục do Thiên Chúa phán xét công minh vào ngày chung thẩm: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10, 28)
Thư gửi Do Thái, thánh Phaolô cũng khẳng định: “Thật vậy, nếu chúng ta cố tình phạm tội sau khi đã học biết sự thật, thì không còn hy lễ nào đền tội được nữa, mà chỉ còn sợ hãi đợi chờ cuộc phán xét và ngọn lửa nóng bừng tiêu hủy các đối tượng của Thiên Chúa.” (Dt 10, 26-27)
“Chúng ta phải học lấy bài học của Chúa Kitô: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình.” (Lc 9, 23) Đúng thế hãy từ bỏ chính mình, từ bỏ những dễ dãi, từ bỏ những quan điểm cá nhân, và hãy chỉ theo tư tưởng của Chúa Kitô, Đấng có thể dẫn chúng ta tới cái chết, nhưng chắc chắn cũng sẽ dẫn chúng ta tới sự phục sinh.” (ĐTGM Oscar Romero, 19.6.1977, L’Amour Vainqueur)
“Đừng nhát sợ! Hãy xem Công vụ các Thánh Tông Đồ: đói khát, rách rưới, trộm cướp, roi đòn, đắm tầu, vu vạ, tù ngục, chết chóc,... Nếu con sợ, đừng làm Tông đồ.” (Đường Hy Vọng, số 167)
Cầu nguyện
Trong cơn gian nguy cùng cực, chỉ có duy nhất Thiên Chúa là Đấng ra tay cứu độ. Đức Giêsu đã hốt hoảng van nài trông cậy: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.” (Ga 12, 27) Vừa xin cứu giúp, vừa xác tín vâng phục sứ vụ, Đức Giêsu trở nên gương mẫu tuyệt đỉnh về cầu nguyện cho tín hữu. Tin cậy mến hoàn toàn, không chút vấn vương hoài nghi, bởi chưng “ không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15, 5)
Cầu nguyện luôn là cầu nối mật thiết và quan trọng với Thiên Chúa, hiệp nhất với Ngài trong tư tưởng, lời nói đến hành động. Qua lời cầu nguyện, Ngài sẽ thông ban ơn phù trợ, sức mạnh, ơn bền vững trước cơn thử thách, trước cuộc khổ nạn. “Cầu nguyện là một dạng năng lực mạnh nhất mà chúng ta có thể khơi lên.” (Bác sĩ Alexis Carrel)
Đức Giêsu luôn tha thiết mời gọi các môn đệ, các tín hữu luôn sốt sắng tỉnh thức và cầu nguyện, để chống trả cám dỗ và sự dữ, hầu được hưởng cứu độ. “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 21, 36)
“Ai nói được mãnh lực của lời cầu nguyện? Sốt sắng như các Tông đồ và Đức Mẹ trong nhà tiệc ly, phó thác như Chúa Giêsu ở vườn Cây Dầu, quyết định như Maisen giang tay trên núi, được tha thiết như người trộm lành, khiêm tốn như người thu thuế.“ (Đường Hy Vọng, số 135)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết từ bỏ mình, hy sinh, hiến thân cho Chúa, phục vụ tha nhân. Xin Chúa cho chúng con luôn tỉnh thức, nhận biết và chế ngự những cám dỗ xác thịt, thế gian và ma quỷ. Xin Chúa ban hồng ân Chúa Thánh thần cho chúng con sức mạnh chiến đấu với sự dữ và trung thành với Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc, Mẹ đã trải qua Bảy Sự Thương Khó đau đớn, kính xin Mẹ che chở, phù hộ chúng con trước phong ba bão táp cuộc đời và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
14. Hạt giống vô sinh hay hữu sinh?
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
“Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu chết đi nó mới sinh nhiều hạt khác.” (Ga, 12, 24)
Nhưng hỡi ơi, hiện nay, đã xuất hiện loại hạt giống biến đổi gien chỉ sống duy nhất trọn một chu kỳ. Sau khi trồng tỉa, thì sản phẩm thu hoạch được, gọi là hạt thương phẩm, chỉ dùng chế biến tiêu thụ, chứ không thể làm giống được nữa. Vì Công ty phát minh đã cấy vào hạt giống gien vô sinh, có tác dụng hủy diệt mầm sống sau khi đã ra hạt (Terminator Seed). Thậm chí phấn của nó bay qua phối hợp với giống khác, thì giống đó cũng sẽ mang gien vô sinh.
Hơn nữa, hạt giống còn được cấy ghép DNA của một loại vi khuẩn chịu được sức nóng và độc chất của thuốc diệt cỏ cực mạnh. Nhờ dĩ dộc trị dộc mà cây giống lai tạo ấy hoàn toàn kháng được độc dược ấy.
Rồi Cty đăng ký chủ quyền các loại gống do họ biến đổi gien, và chủ quyền hợp pháp với tất cả vật gì, cây gì có mang DNA của họ, nếu nó di truyền tới đâu, họ cũng có chủ quyền đến đó.
Chẳng thế, mà Cty đó mới công khai hãnh diện: “Ai làm chủ hạt giống sẽ làm chủ thực phẩm, ai làm chủ được thực phẩm sẽ làm chủ thế giới!”
Vừa thâu tóm lợi nhuận kếch xù, vừa có quyền lực chi phối nhu cầu sinh tồn của toàn thiên hạ, thì câu tuyên bố xanh rờn, đầy tham vọng đó chẳng có gì quá đáng. Chỉ đáng buồn cho cả nhân loại đang bị êm ái đầu độc, đẩy vào hố sâu diệt vong vì từ hạt giống vô sinh ấy.
Trở lại huấn dụ của Chúa Giêsu, hạt lúa gống này phải thuần chủng, chắc mẩy, để gieo giống nào thì sẽ gặt giống nấy. Thực vật chịu mục nát để tái sinh mầm giống mới. Nhân thân mỗi người cũng phải lột xác biết bao nhiêu lần, mới trở nên con người trưởng thành hữu dụng. Tâm hồn cũng thế, vượt qua biết bao hoang mạc đầy cám dỗ, mới trong sáng, hướng thượng.
“Ai yêu quý mạng sống của mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống của mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”(Ga 12, 25 )
Bước đâu tiên, Chúa Giêsu nâng nhận thức con người lên một tầm cao mới: Sự sống vĩnh cửu, hay tương lai mịt mờ đen tối sau phút lâm chung. Nhãn tiền, đó chính là những thành quả hiện nay từ những giọt máu đào của các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã minh chứng hùng hồn, không thể nào phủ nhận.
“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và thầy ở đâu, thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy.” (Ga 12, 26)
Bước kế tiếp, Chúa Giêsu cụ thể hóa yêu cầu theo Ơn Gọi của Người, cùng phần thưởng dành cho kẻ tuân thủ. Hãy tuân theo giáo lý tình yêu của Người ở bất cứ nơi nào, với bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, bới chưng nơi nào Người chẳng hiện diện, người nào chẳng phải hình bóng Người, và môi trường nào dù khắc nghiệt mấy đi nữa cũng chẳng thiếu Người can dự.
Lạy Chúa Giêsu xin mở nhãn quan cho con luôn biết thân phận yếu đuối, biết chết đi những ham muốn, những ý riêng nhỏ nhen, đừng trở nên hạt giống vô sinh, mà là hạt giống tốt, nảy chồi đâm lộc đến sự sống vĩnh cửu.
Lạy Mẹ dấu yêu, xin giúp con can đảm dập nát hạt giống tội lỗi, để mầm giống Lời Chúa nảy nở, đơm hoa kết trái trong con. Amen.
15. Hạt lúa mì gieo vào lòng đất
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Quốc Phong)
“Hạt lúa mì gieo vào lòng đất, nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác” (Ga 12,24)
Có mấy người Hi-lạp đến gặp Philiphe để xin gặp Chúa Giesu, vì họ muốn đi gặp để biết thật sự Chúa Giesu là ai, theo như những lời đồn đại của người ta. Có lẽ họ mong đợi sẽ được gặp một người vĩ đại, một nhà triết gia khôn ngoan, có thể chia sẻ với họ về những tư tưởng lớn lao. Nhưng ngược lại, họ lại tìm thấy một người Giesu đang đau khổ, bối rối và sợ hãi: “Bây giờ tâm hồn thầy xao xuyến, thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12,27). Chúng ta cũng là những người đang đi tìm Thiên Chúa, đi tìm chân lý và ý nghĩa cho cuộc đời mình, liệu rằng chúng ta có bị bất ngờ và thất vọng không, khi Thiên Chúa mà chúng ta muốn tìm kiếm, không phải là một nhân vật vĩ đại, nổi tiếng, hay một nhà triết học, một nhà tư tưởng lừng danh, hay là một người giàu có, danh giá, mà Ngài lại ẩn mình trong những người bé nhỏ và nghèo hèn nhất của xã hội, những người bệnh tật, những người bị bỏ rơi, … và có thể đã có những lúc chính chúng ta không thèm nhìn, không tiếp nhận và thậm chí xua đuổi Ngài ra khỏi cuộc đời của chúng ta.
Nhưng có lẽ chúng ta lại bất ngờ và thất vọng hơn nữa, khi chúng ta nhận được câu trả lời từ chính Chúa Giêsu cho các người hilap khi xưa và cũng là cho chúng ta hôm nay: “nếu các ngươi muốn hiểu Thầy, hãy nhìn hạt lúa mì kia, nếu các ngươi muốn nhìn thấy Thầy, hãy chiêm ngắm thập giá”. Ngài nói với mỗi người chúng ta: “Các con muốn hạnh phúc ư, hãy vác thập giá như Thầy đã vác”. Con đường mà Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta, cũng chính là con đường thập giá mà chính Ngài đã đi trọn vẹn, dường như đối với chúng ta trong thế kỷ này, hơi bị mâu thuẫn và khó chấp nhận được. Vì sao vậy? thưa là bởi vì, thế giới mà chúng ta hay thường gọi là “thế gian” đang giới thiệu và hứa hẹn với chúng ta một con đường “kiếm hạnh phúc” khác hẳn. Đó là một con đường “tự do tuyệt đối” do con người làm chủ nhân độc quyền, một “khoa học kỹ thuật đỉnh cao” có khả năng chinh phục và điều khiểnvũ trụ, một “tiến bộ vượt bậc của ngành y học và sinh học”, một cuộc sống “hưởng thụ mọi nhu cầu”, … thế gian đang chào mời và hấp dẫn chúng ta bằng cách tạo ra nhiều “nhu cầu” và bảo đảm với chúng ta rằng, chúng ta sẽ hạnh phúc khi được thỏa mãn các nhu cầu đó. Và chúng ta ít nhiều bị ảnh hưởng bởi sự hấp dẫn của nó, và nhiều người trong chính gia đình chúng ta, trong giáo xứ chúng ta đang đi theo “lý thuyết” này. Nhưng tiếc thay cho đến bây giờ, lý thuyết này đang mất dần đi hiệu lực và sức mạnh của nó, vì những sự dữ đang hoành hành thế giới với sức phá hoại không tưởng nổi.
Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vào một con đường hoàn toàn khác hẳn, có vẻ đi ngược lại các xu hướng tự nhiên của con người. Nhà thần học gia nổi tiếng Karl Rahner có nói: “để biết được Thiên Chúa là ai, chỉ bằng cách là tôi phải qui gối xuống chân thánh giá”. Chính Chúa Giêsu đã đi vào trong con đường này, và Ngài mời gọi mỗi người chúng ta, nếu muốn hạnh phúc, hãy đi theo Ngài vào đó. Chúa Giesu là một hạt lúa mì, chết đi và sinh nhiều hạt mới, bước vào con đường thập giá và đã phục sinh, Ngài đã dùng cái chết của Ngài để tiêu diệt sự chết và tôn vinh Tình Yêu bất diệt mà Thiên Chúa dành cho con người.
Không có con đường rộng nào dẫn đến thiên đàng đâu, mà chỉ có con đường hẹp mới dẫn đên Nước Trời thôi. Vấn đề là chúng ta có dám đi vào con đường hẹp không, để được hạnh phúc với sự giúp sức và đảm bảo sẽ chiến thắng của chính Chúa Giesu và Giáo hội của Ngài. Con đường này chính là con đường “tình yêu” đích thật, không phải thứ tình yêu “tôn thờ cảm xúc” như một bộ phận lớn giới trẻ đang quan niệm và tìm kiếm. Một tình yêu dẫn dắt chúng ta đến tìm gặp Đấng là Nguồn Mạch của Tình yêu, để rồi tìm gặp được chính chúng ta trong mầu nhiệm tình yêu đó, với tư cách là “con Thiên Chúa” và chúng ta sung sướng gọi Thiên Chúa “Abba, Cha ơi, Bố ơi”. Một tình yêu đưa chúng ta đến gặp một Thiên Chúa Tha Thứ, một người Cha nhân hậu không bao giờ trách tội con mình, nhưng là tha thứ luôn luôn và quên hết mọi lỗi lầm của chúng ta.Một tình yêu mang chúng ta đi vào một Thiên Chúa của giao ước và trung thành cho đến cùng, Ngài đã yêu chúng ta và Ngài đã yêu chúng ta đến cùng, đó là chết thay, trả cái nợ mà đáng lẽ chúng ta phải trả: “đó là sự chết”.
Chỉ có “Tình Yêu” này mới có thể làm chúng ta thỏa mãn cơn khát vô tận của con tim chúng ta, và cũng chỉ có con đường “thập giá” này mới đưa chúng ta vào trong sự “hạnh phúc” đích thật. Ước gì trong tuần cực thánh sắp tới, chúng ta xin ơn được trở về với Thiên Chúa, trở về với chính chúng ta, để xin Người tha thứ và ơn can đảm đứng lên, bước theo Chúa vào trong con đường thập giá mỗi ngày, với sự đồng hành và giúp sức của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, vì Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Xin cho mỗi người chúng ta dám can đảm chết đi con người cũ, chết đi cho Chúa và cho anh em, để chúng ta có khả năng trổ sinh bông hạt dồi dào.
16. Bây giờ tâm hồn Ta xao xuyến
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu là một người hoàn toàn như tất cả mọi người. Trong cuộc sống trần thế, Ngài cũng sợ hãi, bồi hồi xao xuyến, khóc lóc cầu xin Thiên Chúa giải phóng Ngài khỏi chết. Tuy nhiên, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa; nơi Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng.
I. Tâm hồn Ta bồi hồi xao xuyến
Đức Giêsu biết những gì đang chờ đợi Ngài. Cái chết đang đến gần khi Ngài quyết định lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua. Là người Do Thái, theo luật phải lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua; nhưng nếu lên, chắc sẽ chết vì những người lãnh đạo tôn giáo đang ghét, nên sẽ giết Ngài. Đức Giêsu phải chọn lựa. Các tông đồ cũng ý thức điều này. Theo các ông thì không nên lên Yêrusalem dịp này: “Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” (Ga. 11,8). Nhưng nếu Thầy quyết định đi, thì các tông đồ cư xử làm sao? Thomas khuyến khích các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga. 11,16). Có những người trong chúng ta có kinh nghiệm chọn lựa trong những tình huống tương tự, và đã chọn điều phải chọn cho dù nguy hiểm đến cả tính mạng.
Một vài người Hylạp gốc Do Thái về dự lễ muốn gặp Đức Giêsu. Họ cậy nhờ Philíp để được gặp Đức Giêsu. Philíp đã nói với Anrê; và cả hai đã đến nói với Đức Giêsu. Trong hoàn cảnh bình thường, có lẽ cứ dẫn họ đến gặp Đức Giêsu, tuy nhiên trong hoàn cảnh này, hai môn đệ ý thức cần phải hỏi ý kiến Đức Giêsu, vì có thể có những hậu quả xấu không lường được. “Giờ đã đến”. Giờ mà làm Đức Giêsu lo sợ, bối rối xao xuyến. Đồng ý cho họ gặp, là dường như “chọn chấp nhận cái chết”. Có nên xuất hiện như Đấng người ta chờ đợi không? Có nên cho họ gặp không? Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết. Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt” (Ga. 12, 24). Ngài chọn điều sinh lợi cho nhiều người, cho dù phải chết.
Ông già Aleazar không muốn giả bộ ăn thịt heo để khỏi chết, vì nếu sống mà làm gương xấu thì sống làm gì (2Mac. 6, 18-31)? Yoan Tẩy Giả phản đối Hêrôđê khi ông lấy vợ của anh; dĩ nhiên khi phản đối những người có quyền hành như vậy, ông biết điều gì có thể xảy tới cho mình; tuy vậy, ông đã phản đối Hêrôđê. Yoan Tẩy Giả đã chọn nói điều phải nói, cho dù phải chết. Hôm nay Đức Giêsu cũng đã chọn lựa điều tương tự. Đứng trước chọn lựa này, Đức Giêsu bồi hồi xao xuyến như bao người khác.
II. Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc
Đức Giêsu là người như mọi người. Ngài đã làm nghề để kiếm sống, nuôi mình và nuôi mẹ. Ngài cũng bị cái đói hành hạ như bất cứ ai bị đói (Mt. 21, 18). Ngài bị đói khủng khiếp đến độ muốn biến đá thành bánh. Chỉ khi bị đói cùng cực, người ta mới bị cám dỗ mơ tưởng như vậy. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ “nổi tiếng”, vì vậy cám dỗ nhẩy từ trên đỉnh đền thờ đã đến trong đầu Đức Giêsu. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ có quyền hành để bắt mọi sự phải theo ý mình. Chỉ satan mới có cách hành xử không tôn trọng tự do của con người; còn Thiên Chúa, Ngài luôn tôn trọng tự do của con người, ngay cả khi con người dùng tự do để chống đối Ngài.
Đức Giêsu đã phải chọn lựa liên lỉ trong cuộc sống. Ngài đã chống lại cám dỗ, trong hoang địa (Mt. 4, 1-11) và trong cuộc sống thường ngày, cả qua những người theo Ngài (Mt.16, 22-23; Ga.11, 8). Ngài cũng sợ toát mồ hôi, và sợ đến độ toát mồ hôi máu: “Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc. 22,44). Thư gởi tín hữu Do Thái nói Đức Giêsu không chỉ sợ toát mồ hôi máu, mà còn khóc lóc rơi lệ cầu xin Thiên Chúa cứu Ngài khỏi chết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết” (Dt. 5,7).
Đức Giêsu thật sự là người như mỗi người chúng ta. Không có cám dỗ nào con người bị mà Ngài không bị. Không có ai bị cám dỗ mãnh liệt như Ngài. Ngài cũng học vâng phục, và chấp nhận vâng phục ngay cả phải chết. Ngài bị cám dỗ cả về đức tin: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc. 15,34). Khi bị cám dỗ về đức tin, Ngài đã phó thác cho Thiên Chúa tương lai và vận mạng của Ngài. Đức Giêsu gần và giống mỗi người hơn người ta tưởng.
III. Ta viết luật của Ta trong tim chúng
Thiên Chúa đã ký giao ước với con người, để bảo vệ con người. Qua dấu chỉ cầu vồng, Thiên Chúa giao ước với Noe và tất cả tạo vật, để không bao giờ dùng lụt hồng thủy tiêu diệt con người nữa; qua thập giới tại núi Sinai, Thiên Chúa giao ước với dân Do Thái, để làm dân Do Thái thành dân tư tế, thành dân riêng của Thiên Chúa. Thiên Chúa loan báo qua tiên tri Giêrêmia, Ngài sẽ ký kết với dân một giao ước mới, và Ngài sẽ khắc ghi luật Ngài trong tim con người, để không ai phải dạy ai về Thiên Chúa nữa. Đức Giêsu chính là giao ước mới: “Rồi cùng một thể thức ấy, Ngài cầm lấy chén đầy rượu, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: tất cả các con cầm lấy mà uống, này là chén máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”.
Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa giao ước ở với và yêu thương con người mãi mãi. Đức Giêsu vừa là dấu chỉ giao ước, vừa là diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, vừa là bảo đảm Thánh Thần hiện diện nơi con người. “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1Cor.3, 16)? Thánh Thần Tình Yêu đang ngự trong tâm hồn, trong tim mỗi người.
Nhờ Đức Giêsu và Thánh Thần, con người nhận ra Thiên Chúa là tình yêu. Con người được gọi để sống yêu thương. Chính khi yêu thương, con người trở nên giống Thiên Chúa, và được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, cho dù người đó ở bất cứ đâu. Chính khi yêu thương, con người gặp gỡ Thiên Chúa, và cảm nghiệm hạnh phúc. Đây là điều có vẻ mâu thuẫn, nhưng đó là sự thật, và được biểu lộ qua cái chết của các anh hùng tử đạo và cái chết của Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, Đức Giêsu giống bạn ở điểm nào, và khác bạn ở điểm nào?
2. Bạn có cảm nghiệm Thiên Chúa ở với bạn không? Nếu được xin chia sẻ.
17. Giờ đã điểm – Lm Vũ Đình Tường
Người ta thường ví von: sống kể ngày, chết kể năm. Khi nói đến cái chết người ta không nói đến ngày, tháng năm mà lại nói đến giờ chết. Nói đến giờ chết vì nó xảy ra trong khoảng khắc, trong giờ phút nào đó. Một khi giờ đã điểm không ai có thể chống cự, có cố gắng cũng chỉ dùng máy trợ tim, giúp tim đập với hy vọng bập bùng theo từng nhịp tâm đập. Hy vọng bởi vì không thể dự đoán biến chứng nào sắp xảy đến, phản ứng nào đang rình rập và giờ phút nào là giờ phút giờ đã điểm.
Điều chắc chắn giúp các Kitô hữu vững tin vào Chúa là giờ chết của ta không phải là bị huỷ diệt, tắt ngủm hơi thở là hết, là chết. Theo mạch văn của Kinh Thánh, giờ con người thế gian sợ hãi lại là giờ người Kitô hữu vững tin vào Chúa, làm Vinh Danh Thiên Chúa. Không niềm tin chết là hết, vinh quang tàn lụi. Có niềm tin chết là bắt đầu cuộc sống mới, vinh danh bắt đầu sáng chói. Phải chăng đây chính là giờ mà Chúa Nhật đầu mùa chay nhắc đến trên núi thánh. Áo trắng như tuyết, mặt mày sáng rực như ánh hào quang. Cái chết của người không có niềm tin chính là danh vọng đang có biến mất, chấm dứt. Cuộc đời đổi trắng ra đen. Cái chết của người Kitô hữu trái lại biến đổi đời mình đang từ không danh vọng lại được ban cho danh vọng. Rõ là đang đen ra trắng. Trắng như tuyết, chói lọi như ánh sáng hừng đông vì họ chết trong ánh sáng Đức Kitô, Người là sự sáng đến trong thế gian để ban ánh sáng chói lọi cho những ai tin vào Ngài. Ánh sáng chói lọi này bắt đầu toả sáng khi giờ người đó điểm cũng chính là lúc họ kết hợp, nên một với Đức Kitô để Ngài sống lại vinh hiển thế nào thì chúng ta những người tin theo cũng được sống lại với Người như vậy.
Nói như thế không có nghĩa người Kitô hữu không buồn sầu khi nghe tin người thân qua đời, hay chính mình mang bệnh nan y. Không phải thế, người Kitô hữu không vô cảm đến phũ phàng, vô tình như thế. Đứng trước cái chết dù là của người thân hay cái chết thương tâm của một người chúng ta không khỏi tiếc thương bởi vì đó là dấu hiệu của chia lìa, ngăn cách. Dù là ngăn cách một thời gian cũng là ngăn cách. Chúng ta khóc thương vì gắn bó tình cảm con người bị chia sẻ, vì cảm thấy mất mát dù là mất tạm bợ. Chúng ta khóc thương, đau buồn xúc động vì đó là phản ứng tự nhiên của cảm xúc con người. Cảm xúc đó cần được bộc lộ, diễn tả thể hiện tình yêu chân thành. Bản tính thự nhiên là như thế. Điểm khác biệt là Kitô hữu khóc, thương và nhớ nhưng không bao giờ tuyệt vọng. Trái lại Kitô hữu luôn sống trong hi vọng, hi vọng ngày gặp lại người thân, ngày tái đoàn tụ trên thiên quốc. Ngày mà Đức Kitô diễn tả như hạt lúa mì chết đi để biến thành cây lúa mới với bông lúa vàng trĩu hạt, mỗi hạt vàng ươm, đầy hạt gạo thơm, của mùa thu hoạch tràn đầy niềm vui, hạnh phúc.
Nước không thể bốc hơi nếu nhiệt độ không biến thể lỏng thành thể khí. Gió không lay động cành cây nếu không khí không chuyển động. Chúng ta không tiến vào vinh quang Thiên Chúa nếu không có cảnh chia li giữa ta và trái đất. Giờ phút chia li đó mang lại niềm đau nhưng cần thiết giúp ta trở về với Đấng Sáng Tạo nên ta.
18. Con người – Lm. Vũ Đình Tường
Chúng ta có cha có mẹ và cha mẹ yêu thương chúng ta, chăm sóc, bảo vệ. Sau này khôn lớn chúng ta lại tiếp tục coi sóc con của chính mình, bảo vệ và yêu thương chúng. Khi tự nhận mình là ‘Con Người’ Đức Kitô không có í nói đến mối liên hệ gia đình giữa cha mẹ và con cái. Đức Kitô ngụ í nói về sứ mạng của Ngài. Sứ mạng đó là Ngài đến để phục vụ mọi người. Con Người đến để phục vụ mọi người.
Khi tự nhận mình là ‘Con Người’ Đức Kitô muốn nói đến bản tính nhân loại của Đức Kitô. ‘Con Người’ đến dậy cho người ta biết khác biệt giữa sống làm người và sống nên người. ‘Con Người’ đến mang lại ơn an bình, mang tình yêu Chúa đến cho tha nhân, xoa dịu vết thương, chữa lành bệnh tật, an ủi kẻ yếu đau và kết thân cùng kẻ cô đơn cùng khổ. Biết cảm thông với nỗi khổ của mọi người, kẻ khốn cùng, chia sẻ thống khổ của đồng loại. Sống như thế là sống nên người. Sống như thế là hiện thân của tình yêu Chúa cho tha nhân. Tình yêu Chúa biến đổi cuộc sống chúng ta. Tình yêu Chúa biến đổi cách nhìn, cách suy nghĩ và hướng chúng ta đến điều tốt lành. Sống theo í Thiên Chúa không nhằm mục đích thành công nhưng nhằm mục đích thành nhân, thành người có tư cách, có nhân, có nghĩa.
Khi tự nhận mình là ‘Con Người’ như mọi người điều này ngụ í nói Đức Kitô còn một bản tính khác nữa đó chính là bản tính Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Ngài vừa là Thiên Chúa thật vừa là ‘con Người thật’. Tương tự như thế chúng ta là con người nhân loại và khi tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa chúng ta thực sự trở thành con Thiên Chúa.
Thánh danh ‘Con Người’ có nguồn gốc từ tiên tri Daniel 7,13-14 khi tiên tri nói về hình ảnh con người có quyền trên toàn vũ trụ. Con người đó được ban cho quyền năng trên khắp bầu trời và quyền năng trên tất cả các loài thụ tạo dưới đất. Quyền năng đó vô cùng tận và nước cúa Ngài tồn tại muôn đời, không thế lực nào phá nổi. Mọi ngôn ngữ đều qui phục Ngài. Điều tiên tri này thể hiện nơi con người Giêsu Kitô, sau khi Ngài sống lại từ cõi chết. Điều này xác định bản tính Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Khi Đức Kitô tự xưng là ‘Con Người’. Dân Do Thái lúc đó hiểu Ngài muốn nói cho họ biết Ngài là Đấng Thiên Sai.
Ngài dùng hai hình ảnh diễn tả mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô. Cả hai hình ảnh đều diễn tả một cách nhiệm mầu ơn cứu chuộc và ơn tái sinh. Đức Kitô hay ‘Con Người’ nhân danh nhân loại hoàn thành sứ mạng qua cái chết và sự phục sinh vinh hiển. Chết để tái sinh. Hình ảnh đầu là hình ảnh hạt lúa gieo vào lòng đất nó thối đi, rồi nên mầm, trổ sinh bông trái gấp trăm. Hình ảnh thứ hai là hình ảnh treo lên cây, hình ảnh của thập tự để kéo nhân loại lên cùng Ngài. Cả hai hình ảnh đều diễn tả sự chết và cả hai hình ảnh đều diễn tả sau chết không phải là thối nát, hư mất mà là thay hình, đổi dạng tiến vào cuộc sống vinh quang. Kitô hữu đi con đường chính ‘Con Người’ đã đi, cuối đường cũng thay hình đổi dạng tiến vào cuộc sống trường sinh, vui sống cạnh ‘Con Người’ vinh quang.
19. Nếu hạt giống chết đi – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Con người muôn đời vẫn ưu tư về đau khổ và cái chết. Đó là một cản trở lớn cho niềm tin vào Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa toàn năng và thương yêu con người, tại sao người lành phải đau khổ? Bởi đó niềm tin Thiên Chúa cũng gặp bế tắc. Bế tắc đó chỉ có thể được khai thông nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã đem lại cho đau khổ và cái chết một ý nghĩa lớn lao nhờ chia sẻ sâu xa thân phận bi đát của con người. Thân phận con người cũng như hạt giống phải chết đi mới sinh nhiều hoa trái. Đau khổ và sự chết của Đức Giêsu trở thành cần thiết cho một mùa màng lớn lao tức là ơn cứu độ muôn dân. Người chính là hạt giống Thiên Chúa gieo xuống trần gian. Cát bụi trần gian đã vùi lấp con người nhỏ bé của Người. Nhưng người sẽ trỗi dậy, vươn cao như bầu trời, đem niềm hi vọng đến muôn dân.
BỨC TRANH VÂN CẨU
Người Hi lạp ái mộ, “muốn gặp Đức Giêsu”(Ga 12,21). Như thế họ đã có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào Chúa. “Trong Tin Mừng Gioan, gặp có nghĩa là tin. Đức Giêsu cho biết họ sẽ gặp Người nếu họ tin vào Người ngang qua cái chết” (Disciples in Mission 1999:22). Nghĩa là họ sẽ gặp Người trong vinh quang trên khổ giá. Bởi vậy thay vì trả lời trực tiếp, Đức Giêsu đã nói lên một sự thật. Giờ gặp Người là lúc Người bước vào vinh quang: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12:23). Nhưng vinh quang đó phải ngang qua khổ giá. Đúng hơn, chính trên khổ giá, chính lúc chương trình cứu độ được thực hiện, vinh quang Thiên Chúa tỏa sáng. Niềm tin của những người Hi lạp phải ngang qua thập giá mới đạt được. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói với các môn đệ về sự thật trên bước đường theo Chúa.
Muốn theo Chúa, tiên vàn “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26). Thầy leo lên khổ giá, môn đệ không thể đứng dưới nhìn lên như khách bàng quan. Khi leo lên khổ giá, Thầy sẽ trở thành một sức mạnh thu hút tất cả môn đệ lên theo. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Nghĩa là “Người sẽ kéo các tín hữu đi theo Người lên thập giá bằng cách để cho họ phải bị thù ghét, phải chịu bách hại như Người” (Thánh Kinh Tân Ước 1995:448). Thày đã hi sinh cuộc sống trần gian cho môn đệ. Nếu muốn tiếp tục làm môn đệ Thày, họ không thể không biết đến thang giá trị giữa sự sống trần gian và sự sống vĩnh cửu. Thày nói rõ: “Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Tại sao phải hi sinh tới mức đó? Hi sinh như thế có thực tế không? Theo Thầy làm gì cho khổ? Phục vụ Thày có được lợi gì đâu?
Nhưng Đức Giêsu nói: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy” (Ga 12,26). Theo Thầy để bước lên khổ giá, tức là bước vào vinh quang, sẽ chiếm được tình yêu Chúa Cha như Thầy. Đó là điều quả quyết: “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy” (Ga 12,26). Còn gì giá trị hơn tình yêu của Chúa Cha? Đó là nguồn suối duy nhất phát sinh mọi hồng ân, tự do và hạnh phúc. Chính vì giá trị tuyệt vời đó, Đức Giêsu đã nhận được tất cả sức mạnh để xông vào cuộc chiến với Satan. Người mạnh đến nỗi “giờ đây thủ lãnh thế gian sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12,31).
Dù sao, trong tình thế hiện tại, Đức Giêsu cũng vẫn là con người. Đứng trước cái chết, Thầy cũng cảm thấy luống cuống. “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12,27). Thầy rùng mình kinh khiếp. Tất cả thân thể Thầy nổi da gà. Thầy nhìn vào mình quá kỹ. Bởi thế Thầy không thấy lối thoát. Thày thấy chóng mặt, quay cuồng với những ưu tư về chính mình. Chợt một tia sáng bừng lên dẫn theo một tiếng nổ long trời (Ga 12,29). “Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ‘Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!’ (Ga 12,28). Đó là tiếng Chúa Cha trả lời tâm nguyện vâng phục của Chúa Con (c.28), một sự vâng phục dẫn Đức Giêsu vào màn đêm tăm tối của đau khổ. “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5, 8-9). Nhưng chính lúc đất trời nối liền, quyền lực âm phủ tiêu tan. “Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này” (Ga 12,31), một cuộc phán xét sẽ cho thấy tất cả bộ mặt thật của ác thần. Thật là khủng khiếp!
Đối với những ai vâng phục như Đức Giêsu, không hề có phán xét. Trái lại một giao ước mới, giao ước tình thương sẽ được thiết lập (Gr 31,31). Họ sẽ nghe những lời âu yếm: “Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31,33). Như thế một tương quan mới đã được thiết lập. “Chính nhờ đau khổ, cái chết và phục sinh của Đức Giêsu và Thánh Linh hiện xuống, dân Chúa đã bước vào một tương quan mới” (Disciples in Mission 1999:22) với Thiên Chúa tình yêu.
RAU NÀO SÂU ẤY
Cuộc đời Đức Giêsu quả thật như “bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” (Cung Oán Ngâm Khúc). Nhưng ngược với nàng cung phi bị ngã gục dưới thực tế đau buồn, Đức Giêsu đã trỗi dậy, “đem lại một ý nghĩa mới cho đau khổ và cái chết, vì qua đó, Người đã đem lại ơn cứu độ cho toàn thế giới” (Disciples in Mission 1999:23). Đó là một chiến thắng lớn lao, đem lại nguồn hứng khởi cho nhân loại. Đức Giêsu là một hạt giống đã chết đi, sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24) là cộng đoàn các Kitô hữu. Từ đó, nhờ sự kết hợp với Người, Kitô hữu sẽ cống hiến cho thế giới cả một mùa màng vô cùng tốt đẹp. Nói khác, “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Thầy chính là năng lực, là ý nghĩa sau cùng của mọi nỗ lực thắng vượt đau khổ và sự ác.
Thực ra, tự bản chất, đau khổ vô nghĩa. Sở dĩ đau khổ có ý nghĩa vì đó là một phương tiện để Đức Giêsu chứng tỏ tình yêu của Người với Chúa Cha và nhân loại. Ngày nay vẫn có nhiều môn đệ Chúa Kitô biết lợi dụng những đau khổ như là con đường đi tới vinh quang. Dù phải vào tù hay có thể bị lây nhiễm những bệnh nguy hiểm, họ vẫn một lòng xả thân cho đồng loại. Họ là những người đang chiến đấu cho quyền làm người, đang âm thầm hi sinh cho những người nghèo, chăm sóc những người già, bệnh tật, những trẻ em mồ côi. Không có những gương hi sinh như thế, không biết nhân loại sẽ đi tới đâu.
Những môn đệ Chúa Kitô đó đang nỗ lực thiết lập nền tảng giao ước mới trong lòng mọi người, đang lợi dụng “cơ hội tuyệt vời để khởi đầu xây dựng một mối tương quan vĩnh hằng và thân mật với Thiên Chúa” (xc. Gr 29,11; 32,38-40) (Life Application Study Bible 1991:1345). Họ đang học vâng lời như Đức Giêsu, dù có phải hi sinh chính mạng sống. Chính sự vâng lời ấy sẽ kiện toàn con người và đưa họ tới mức hoàn hảo hay trưởng thành như Đức Kitô. Nói khác, vâng lời không hề gợi lên ý hướng tiêu cực, nhưng hoàn toàn đẩy con người vào một chiều hướng giao ước mới đặt nền tảng trên Đức Kitô (Dt 8,6). Vâng lời như thế, họ sẽ thấy phải “từ bỏ luật lệ khắc nghiệt của cái tôi muốn lấy mình làm trung tâm” (Life Application Study Bible 1991:1905). Trung tâm cuộc đời phải là Thiên Chúa, Đấng giải thoát con người khỏi những ràng buộc của cái tôi cồng kềnh. Rời xa trung tâm đó, con người chìm vào những tham vọng ngông cuồng của văn hoá sự chết, “phủ nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng sự sống. Khi kinh tế thống trị, người ta đổ xô đi tìmnhững giải pháp dễ dãi như phá thai, chết êm dịu.” (Igor Kowalewsky: Zenit 4/4/03) Tự do không có nghĩa là buông thả. Trái lại, “tự do xây trên chân lý là nền tảng duy nhất bảo đảm xã hội dân chủ tự do.” Chân lý đó là Đức Kitô. Khi xây dựng trên nền tảng đó, “cộng đoàn và gia đình Công giáo chiếu sáng như những mẫu mực của cộng đoàn sự sống và tình yêu để canh tân nền văn hoá hiện đại.” (Igor Kowalewsky: Zenit 4/4/03)
20. Mùa gặt tươi tốt – Cố Lm. Hồng Phúc
Với Phụng vụ hôm nay, Giáo hội đọc lại cho chúng ta những lời ca thán của tiên tri Giêremia, những lời não nuột thống thiết khi đạo quân Babylone bao vây Giêrusalem, dân Chúa lâm cảnh lưu đày. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa tình thương, giữa đêm tối vẫn lóe lên ánh sáng, giữa bao đổ vỡ thất vọng vẫn tái xuất niềm hy vọng. “Đây tới ngày Ta ký kết với dân Ta Giao ước mới, Ta sẽ là Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta… Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng nữa.” Những lời ấy sẽ thực hiện nơi Chúa Giêsu khi Ngài đến cứu độ chúng ta, sẽ cho “chúng ta uống vào chén tân ước vĩnh cửu, chén máu của Ngài sẽ đổ ra cho chúng ta và nhiều người được tha tội.”
Trong Thư gửi Giáo đoàn Hebrô, niềm hy vọng ấy lại được nhắc lại cho nhóm giáo dân tiên khởi, cũng đang hoang mang run sợ khi nhìn thấy cảnh hoang tàn đổ nát. Từng đoàn người bị phát lưu đi cùng đế quốc, sau biến cố năm 70 thành Giêrusalem bị bình địa, đền thờ bị phá hủy, “không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào.” Chúa Giêsu, Phaolô viết, “Mặc dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu và khi hoàn tất Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho những kẻ tùng phục Ngài.” Chúa đã đi qua con đường sự chết để vào chốn vinh quang và trở nên nguồn gốc ơn cứu độ cho chúng ta hết thảy.
Chúa Giêsu là câu hỏi ngàn đời, cho người Do thái, người ngoại bang cũng như cho chúng ta ngày nay hết thảy.
Hôm nay, Gioan cho biết có một nhóm người Hy lạp đến Giêrusalem trong dịp lễ Vượt qua, tìm cách được gặp Chúa. Họ là những người ngoại bang, nhưng lại có cảm tình với Do thái giáo. Họ đến nhờ hai vị Tông đồ Anrê và Philiphê, hai Tông đồ biết chút ít ngôn ngữ, giới thiệu để được gặp Chúa Giêsu. Gặp đây không phải là chỉ nhìn thấy, nhưng theo từ ngữ của Gioan muốn nói, là được thấu hiểu phần nào con người bí ẩn của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không đáp ứng trực tiếp điều họ mong muốn. Nhưng Ngài lại cho họ thấy giờ vinh quang của Ngài, giờ mà Ngài đi vào cuộc tử nạn, mọi người đều thấy. Và để giải thích, Ngài tự ví như hạt lúa gieo vào trong lòng đất, phải được mục nát đi, rồi mới vươn lên, sinh hoa kết quả. Thì xác thánh của Ngài cũng bị chôn vào mồ, rồi mới phục sinh sống lại trong vinh quang.
Theo từ ngữ Thánh Kinh, giờ là cuối điểm của một sứ mạng. “Giờ của người đàn bà” (Gio. 16,21) là giờ sinh đẻ, “Giờ của Chúa Giêsu” là giờ tử nạn vì là giờ Ngài hoàn tất sứ mạng cứu chuộc. Hình ảnh hạt lúa vùi xuống đất, bừng lên đầy nhựa sống là hình ảnh mầu nhiệm phục sinh thì mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng phục sinh. Chúng ta trong đời, có phải là hạt giống hứa hẹn một mùa gặt tươi tốt cho chính mình và cho kẻ khác không?
Gioan không tường thuật cuộc hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn Giệtsêmani, mồ hôi chan hoà lẫn máu. Nhưng đã nhìn thấy cuộc ấy diễn ra trong sân đền thờ. Chúa phán: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này? Nhưng chính vì thế mà con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha.” Và câu trả lời của Chúa Cha đã vang vọng như trong khi Ngài vừa chịu phép rửa và khi Ngài biến hình. Dân chúng xao xuyến. Nhưng Chúa giải thích: “Bây giờ là lúc thế gian bị xét xử… Còn Ta khi bị đưa lên cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta.”
Cây Thánh giá sẽ được tôn vinh, sẽ làm dụng cụ cứu rỗi nhân loại.
Thánh Phanxicô Xaviê khi rao giảng cho dân chúng luôn luôn cầm trong tay một cây Thánh giá lớn. Một hôm đang giảng cho dân từng từng lớp lớp đứng trên bãi biển, mệt quá cây Thập giá rời khỏi tay và rơi tỏm xuống biển. Ngài buồn rầu cầu nguyện. Thì bỗng nhưng có một con cua từ dưới biển bò lên, hai càng gậm cây Thánh giá. Ngài vui mừng cám tạ ơn Chúa. Vị Thánh Quan Thầy xứ truyền giáo ấy đã rửa tội gần một triệu người.
“Tôi mong đợi Chúa, vì Chúa giàu ơn cứu độ
Và giải thoát Israel khỏi mọi gian ác”
(Tv. 129 – Đáp ca)
21. Giao ước và những ràng buộc
(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Ai phụng sự ta phải theo ta” (Ga 12,26)
Giao ước khác với hợp đồng. Khi ký hợp đồng, bản ký kết mang tính pháp lý, trói buộc đôi bên vào những nghĩa vụ và quyền lợi. Nếu hợp đồng xuôi thuận, cả hai bên đều có lợi. Nhưng sự cam kết này không mang tính cá nhân riêng lẻ, vì đã được luật pháp công khai bảo hộ. Tôi đã từng ký hợp đồng vay tiền mua xe mà không hề gặp mặt trực tiếp nhân viên ngân hàng. Tôi cũng ký nhiều hợp đồng khác để thuê nhà, nhưng chưa hề giáp mặt với ông chủ của những ngôi nhà đó. Người ta không cần có mặt để ký hợp đồng, vì đã có luật lệ ràng buộc. Nhưng ký giao ước thì hoàn toàn khác, chuyện đó rất riêng tư. Nó chỉ dựa trên sự quen biết hay mối tương giao thân hữu mà thôi.
Khi Đức Chúa Giavê ký giao ước với dân Israel trên núi Sinai, dường như có vẻ rất riêng tư và thân tình. Môise đã lấy máu con vật sát tế để rảy trên dân chúng như một động thái của việc ký kết giao ước, và máu đó thanh tẩy dân chúng. Nhiều người trong dân đã hiểu việc đó, và lề luật được ban bố sẽ gắn kết đời sống họ với Đức Chúa Giavê (Tv 119).
Nhưng khi đọc lại sách các vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai, chúng ta thấy các thế hệ về sau, nhiều người trong Israel và cả các lãnh đạo tôn giáo đã dần quên giao ước ngày xưa và họ cũng chẳng bao giờ nhắc đến. Giao ước trên núi Sinai đã không còn hiệu lực để trói cột họ với Thiên Chúa nữa.
Đó là nội dung bài đọc thứ nhất trong phụng vụ hôm nay. Giêrêmia loan báo trước về một giao ước mới, hoàn toàn mới,sẽ được ký kết giữa Thiên Chúa và dân Ngài, thay cho giao ước cũ. “Không giống như giao ước Ta đã ký kết với cha ông các ngươi, khi Ta cầm tay đưa dẫn họ thoát khỏi đất Ai Cập. Vì cha ông các ngươi đã xé bỏ giao ước, mặc dầu Ta là Chúa tể của họ”. Đức Chúa phán như thế. Còn giao ước mới thì khác. Thiên Chúa công bố “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của ta. Vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta”.
Giao ước mới này đi vào nội tâm một cách sâu xa hơn. Thiên Chúa khắc ghi giao ước vào tâm hồn, vào con tim của họ, và dân chúng sẽ nhận biết Chúa. Ezekiel và Isaia (Ez 16,59; 36,25; Is 55,3; 59,21; 61,8) cũng nói về giao ước mới, một giao ước diễn bày sự thông hiệp với Chúa, và Thần khí Chúa sẽ khơi dậy nguồn sáng mới trong tâm tư của dân Ngài.
Thánh Phaolô (xem 2Cor 3.5) và tác giả thơ Do Thái (xem 8,8) đều quy chiếu vào Đức Giêsu như là Đấng hiện thực tròn đầy lời hứa của giao ước mới này. Bài giảng trên núi của Đức Giêsu phản ánh lời mời gọi biến đổi nội tâm cách sâu xa, khác với giao ước cũ thời xưa. Khi Đức Giêsu công bố một cách chính thức bản giao ước mới trong bữa tiệc ly, chúng ta sẽ thấy rõ hơn chiều sâu và tính cách nội tâm hóa của giao ước mới. Lời tiên báo năm xưa về giao ước mới, phải rất lâu về sau mới trở thành hiện thực, xuyên qua Đức Giêsu, và cách thái thể hiện giao ước sẽ ngập tràn vinh quang ngời sáng vượt sức tưởng tượng của chúng ta.
Đối với các Kitô hữu, giao ước mới này vừa khai sáng vừa gợi mở ra những thách đố. Đức Giêsu và giao ước mới biểu thị cho lời công bố chung cuộc của Thiên Chúa và ơn cứu độ trường cửu. Sự thách đố này được gợi lên trong tâm khảm và cõi lòng chúng ta, vì giao ước được viết bằng chính máu cứu độ của Đấng Cứu thế. Tôi nhớ lại trong cuốn phim “Người chết đi lang thang” (The Dead Walking), có một mẩu đối thoại rất hay giữa hai nhân vật chính: Nữ tu Helen Prejean và tên tử tội Matthew Poncelet. Poncelet là một con người ngạo mạn, cố chấp không chịu sám hối và luôn tỏ ra hung tợn. Anh ta cũng biết mình là một tín hữu, đã gây nên tội ác, nhưng hắn đã nói với nữ tu Helene là hắn không sợ chết. Anh ta nói: “Giữa tôi và Thiên Chúa không có gì phải ầm ĩ. Tôi biết ông Giêsu đã chết trên Thập giá cho chúng tôi, và nếu tôi có phải ra trước tòa phán xét, thì ông Giêsu cũng sẽ ở đó để cứu tôi. Tôi chẳng cần sám hối làm gì.” Nữ tu Helene trả lời: “Anh Mattheu, không phải thế đâu. Ơn cứu độ không phải là một tấm vé phát không, tặng ban cho cả những ai không muốn đón nhận. Không phải vậy, Đức Giêsu đã phải trả giá rất đắt để đem ơn cứu độ cho chúng ta. Anh phải cộng tác, phải mở lòng ra để cộng tác và đón nhận, thì ơn cứu độ mới phát sinh hiệu quả cho anh. Đó là việc anh phải làm.”
Câu trả lời đó hướng chúng ta đến ý nghĩa của bài Tin mừng hôm nay. Khi gợi nhắc về mầu nhiệm Thập giá và chân tính đích thực của người môn đệ, Đức Giêsu nói với chúng ta “Qủa thật, nếu hạt lúa mỳ rơi xuống đất không chết đi, nó sẽ vẫn chỉ là hạt lúa. Nhưng nếu nó chết đi, nó thối đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác. Ai yêu sự sống mình sẽ mất nó. Ai phụng sự ta phải theo ta”.
Bản giao ước mới này phải đi vào cuộc sống chúng ta, trở nên một phần trong ta và biến đổi tâm hồn của ta. Đối với các Kitô hữu, chúng ta phải tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu trên con đường Thập giá, để có thể bội thu trong mùa gặt, ngay trong cuộc sống hôm nay và cả trong cuộc sống mai sau. Ở đây, chúng ta thấy có một nghịch lý tương phản và đối xứng nhau: Bản giao ước mới là một quà tặng vô giá được trao ban một cách nhưng không, nhưng nó cũng đòi hỏi chúng ta phải trả giá, bằng việc chúng ta phải trao dâng tất cả, từ bỏ tất cả, như hạt giống mục thối trong lòng đất, để có thể chiếm hữu được món quà cao quý này.
22. Hạt lúa mì mục nát trổ sinh hoa trái
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
"Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất, không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác "(Ga 12:24). Thoạt nghe, ta có thể cho rằng đó là lời phát biểu tầm thường, vì ai quan sát cũng đều thấy và biết như vậy. Tuy nhiên Chúa Giêsu không chỉ nói đến cái tiến trình biến đổi của thực vật, như cỏ cây hoa lá mà thôi. Cái luật đó còn được áp dụng cho cả loài người về đời sống thể lý, tinh thần và thiêng liêng nữa.
Phúc âm hôm nay ghi lại, Chúa cầu nguyện với tâm hồn xao xuyến, xin cho được thoát khỏi chén đắng nghĩa là được thoát khỏi án tử hình. Tuy nhiên Người cũng cầu nguyện xin cho được vâng theo thánh ý Chúa Cha, tức là chấp nhận cái chết trên thập giá để làm giá cứu chuộc loài người. Qua miệng tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã hứa với dân Người một giao ước mới và vĩnh cửu, để thay thế cái giao ước cũ trên núi Si-nai, cái giao ước mà dân Chúa đã không tuân giữ. Giao ước mới này không được viết trên bia đá, cũng không phải bằng máu chiên cừu, mà Môi-sen đã dùng để phê chuẩn giao ước cũ, nhưng được phê chuẩn bằng máu con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của lời truyền phép mà linh mục chủ tế đọc trong thánh lễ: "Đây là máu tân ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội". Theo thơ gửi tín hữu Do Thái, ta được biết vâng lời và chấp nhận khổ giá là một phần của cái giao ước mới. Cái sứ điệp mà Đức Kitô đến để công bố trong giao ước mới đưa tới sự chết. Vì vâng lời, nên Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Chúa Giêsu với tư cách là Thiên Chúa, không thể chịu đau khổ vá chịu chết. Chúa chỉ chịu đau khổ và chịu chết trong cái thân xác loài người của Người mà thôi. Vì thế khi sống lại, Chúa cũng sống lại trong cái thân xác loài người của Ngưòi. Còn xét về bản tính Thiên Chúa, thì trước sau, Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn là một, không hơn không kém, không thêm, không bớt, không thể chết đi, cũng không thể sống lại.
Để chia sẻ sự sống mới với Chúa Kitô, ta phải sẵn sàng chết đi với Người. Đó là trường hợp các vị tử đạo đã làm, nghĩa là chấp nhận cái chết vì đức tin vào Chúa để được hưởng sự sống mới. Ta cũng có thể hiểu cái chết ở đây theo nghĩa bóng. Có những văn sĩ cũng đã dùng quan niệm chết đi theo nghĩa bóng như "chia ly là chết cho mình một nửa".
Theo nghĩa bóng của cái chết thì người tín hữu phải sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính mê nết xấu, chết đi cho tính tham lam ích kỷ, chết đi cho tính thù hằn giận ghét, chết đi cho tính kiêu căng tự phụ, chết đi cho thái độ sống chết mặc bay để có thể được tham dự vào đời sống mới với Đức Kitô. Sẵn sàng chịu chê cười nhạo báng và chịu bách hại vì tin yêu Chúa là chết đi một phần. Sẵn sàng trả cái giá trong cách sống, cách nói năng và hành động để làm môn đệ Chúa cũng là chết đi cho mình một phần. Sẵn sàng chịu mất mát, mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị xã hội, nếu những sự việc trên làm cản trở cho bước đường làm môn đệ, làm sứt mẻ mối liên hệ vơi Chúa, cũng là chet đi cho mình một phần. Nói tóm lại chỉ khi nào người ta tham dự vào cuộc hi sinh khổ hình của Chúa, người ta mới có thể chia sẻ cuộc phục sinh vinh hiển với Người (2 Tim 2:11).
Theo cái định luật đào thải của bộ máy tiêu hoá, thì cái gì vào, nó phải ra. Nếu không sẽ bị ứ đọng. Theo cái định luật cung cầu của kinh tế, thì có nhập cảng, phải có xuất cảng. Nếu không, quốc gia sẽ không có ngoại tệ. Về đời sống tâm lý và đời sống thiêng liêng cũng có định luật. Khi người ta chỉ sống cho mình, không cho đi, thì cái liên hệ với người khác sẽ bị cằn cỗi, và đời sống liêng liêng sẽ không được vươn lên. Tất cả những định luật đó: định luật tự nhiên, định luật tâm lý, định luât kinh tế, nguyên tắc làm giàu cho đới sống tinh thần và đời sống thiêng liêng đã được Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ và trong tâm khảm loài người.
23. Hạt lúa mục nát đi mới trổ sinh bông trái
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Danh tiếng Đức Giêsu lúc này đã phải vang dội như sóng bạc đầu, nhất là việc Người vừa làm cho ông Ladarô đã chết bốn ngày sống lại ở Bêtania cách Giêrusalem có hai dậm. Vì thế mà một số người hành huơng Hy lạp xin ông Phi-líp-phê, có tên Hy-lạp cho yết kiến Đức Giêsu, có lẽ với hi vọng được sự thông cảm của người cũng có tên Hy lạp. Ông Phi-líp-phê lại hỏi ý kiến ông An-rê cũng mang tên Hy-lạp. Nhóm người Hy lạp đây không phải là người Do thái nói tiếng Hy lạp, nhưng là người Hy lạp sống ở Do thái, đã phải nghe đồn thổi về việc Ladarô được Đức Giêsu cho sống lại (Ga 12,17). Trước khi đế quốc La mã thống trị Do thái, thì đế quốc Hy lạp đã đặt chân ở đây. Người Hy lạp được tiếng là chuộng triết học, kiến trúc và nghệ thuật. Có lẽ vì những lí do đó mà họ đến viếng thăm Đền thờ Giêrusalem với kiến trúc đồ sộ nguy nga và xin được gặp Đức Giêsu.
Dịp này các thượng tế và nhóm người Pharisêu đang tìm cách hạ sát Đức Giêsu vì họ sợ ảnh hưởng của Người. Phúc âm ghi lại, họ sợ thiên hạ theo ông ấy hết (Ga 12,19). Còn Đức Giêsu thì gián tiếp trả lời nhóm người Hy lạp khi bảo các môn đệ rằng: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24). Thoạt nghe, người ta cho rằng đó là lời phát biểu có tính cách tầm thường, vì ai quan sát cũng đều thấy và biết như vậy. Tuy nhiên Đức Giêsu không chỉ nói đến tiến trình biến đổi của thực vật, như cỏ cây hoa lá mà thôi. Luật đó còn được áp dụng cho cả loài người về đời sống thể lý, tinh thần và thiêng liêng nữa.
Phúc âm còn ghi lại, Đức Giêsu cầu nguyện với tâm hồn xao xuyến: Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha (Ga 12,27-28). Khi Giuđa phản đối việc bà Maria xức dầu thơm cam tùng hảo hạng lên chân Đức Giêsu, Người cũng đã ám chỉ về cái chết của Người khi bảo cứ để bà yên, hầu giữ lại dầu thơm cho ngày mai táng Người (Ga 12,7). Đức Giêsu còn ám chỉ Người sẽ phải chết cách bị treo lên khỏi mặt đất (Ga 12,32), nghĩa là trên thánh giá.
Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã hứa với dân Người một giao ước mới và vĩnh cửu, để thay thế giao ước cũ trên núi Sinai, giao ước mà dân Chúa đã không tuân giữ. Giao ước mới này không được viết trên bia đá và không phải bằng máu chiên cừu, mà Môsê đã dùng để phê chuẩn giao ước cũ, nhưng được phê chuẩn bằng máu con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của lời truyền phép mà linh mục chủ tế tuyên xưng trong thánh lễ: Đây là máu Tân Ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Theo thư gửi tín hữu Do thái, ta được biết vâng lời và chấp nhận khổ giá là một phần của giao ước mới (Dt 5,8-9).
Sứ điệp mà Đức Giêsu đến để công bố trong giao ước mới đưa tới sự chết. Và vì vâng lời, nên Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Xét theo bản tính Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chịu đau khổ và chịu chết. Người chỉ chịu đau khổ và chịu chết trong thân xác loài người của Người mà thôi. Vì thế khi sống lại, Đức Giêsu cũng sống lại trong thân xác loài người của Người. Còn xét về bản tính Thiên Chúa, thì trước sau, Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn là một, không hơn không kém, không thêm, không bớt, không thể chết đi, cũng không thể sống lại.
Theo định luật đào thải của bộ máy tiêu hoá, thì cái gì vào, nó phải ra. Nếu không sẽ bị ứ đọng. Còn theo định luật cung cầu của kinh tế, thì có nhập cảng, phải có xuất cảng. Nếu không, quốc gia sẽ không có ngoại tệ. Về đời sống tâm lý và đời sống thiêng liêng cũng có định luật. Khi người ta chỉ sống cho mình, không cho đi, thì mối liên hệ với người khác sẽ bị cằn cỗi, và đời sống liêng liêng sẽ không được vươn lên. Tất cả những định luật đó: định luật tự nhiên, định luật tâm lý, định luật kinh tế, nguyên tắc làm giàu cho đới sống tinh thần và đời sống thiêng liêng đã được Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ và trong tâm khảm loài người.
Để chia sẻ sự sống mới với Đức Kitô, ta phải đi theo tiến trình của kiếp sống con người: sinh lão bệnh tử. Trường hợp các vị tử đạo đã làm, là chấp nhận cái chết vì đức tin vào Chúa để được hưởng sự sống mới. Tuy nhiên rất ít người được phúc tử vì đạo. Đa số loài người trải qua cái chết tự nhiên. Ta cũng có thể hiểu cái chết ở đây theo nghĩa bóng. Có những văn sĩ cũng đã dùng quan niệm chết đi theo nghĩa bóng như "chia ly là chết cho mình một nửa" để nói lên sự mất mát về tình cảm và tinh thần.
Như vậy theo nghĩa bóng của cái chết thì người tín hữu phải sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính mê nết xấu, chết đi cho tính tham lam ích kỷ, chết đi cho tính thù hằn giận ghét, chết đi cho tính kiêu căng tự phụ, chết đi cho thái độ sống chết mặc bay để có thể được tham dự vào đời sống mới với Đức Kitô. Sẵn sàng chịu chê cười nhạo báng và chịu bách hại vì tin yêu Chúa là chết đi một phần. Sẵn sàng trả giá trong cách sống, cách nói năng và hành động để làm môn đệ Chúa, cũng là chết đi cho mình một phần. Sẵn sàng chịu mất mát, mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị xã hội, nếu những sự việc trên làm cản trở cho bước đường làm môn đệ, làm sứt mẻ mối liên hệ với Chúa, cũng là chết đi cho mình một phần. Nói tóm lại chỉ khi nào người ta tham dự vào cuộc hi sinh khổ hình của Chúa, ta mới có thể chia sẻ cuộc phục sinh vinh hiển với Người (2 Tim 2,11).
Lời cầu nguyện xin cho được chết đi cho tội lỗi:
Lậy Chúa Giêsu! Chúng xin cảm tạ Chúa
đã đến thế gian, chấp nhận hi sinh thánh giá
để cứu chuộc tội lỗi loài người, gồm tội riêng con.
Xin cho con được sẵn sàng chết đi cho tội lỗi
và các thứ tính mê nết xấu
để con được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.
24. Chúa Nhật 5 Mùa Chay B
Chúa nhật hôm nay được coi như là Chúa nhật cuối cùng của thời gian chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Phục Sinh. Bước qua tuần tới là chúng ta bước vào Tuần Thánh, tuần lễ quan trọng nhất đối với chúng ta là những người sống niềm tin Kitô giáo. Và để giúp mỗi người chúng ta bước vào Tuần Thánh một cách vừa sốt sắng vừa ích lợi, Phụng vụ Lời Chúa trong ngày Chúa nhật cuối cùng này sẽ cho chúng ta thấy được ý nghĩa và giá trị của cuộc khổ nạn mà mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trước mặt mọi người.
Nơi bài đọc thứ nhất, Lời Chúa qua miệng tiên tri Giêrêmia phán rằng: "Đã tới ngày Ta ký kết giao ước mới với dân Israel. Giao ước này không giống như giao ước mà Ta đã ký kết với tổ phụ chúng trong ngày Ta dẫn dắt chúng ra khỏi Ai cập, mà chúng đã nhiều lần phản nghịch. Giao ước mới này sẽ không còn ghi trên bia đá, nhưng là ghi vào tận đáy lòng của chúng. Cốt lõi của giao ước này chính là tình thương và sự tha thứ, nhờ đó mà mọi người từ lớn tới nhỏ đều nhận biết Ta. Và Ta, Ta sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng nữa." Vậy thì thử hỏi rằng: Bao giờ thì Thiên Chúa sẽ thực hiện việc ký kết mà Người vừa tiên báo? Thưa đó chính là ngày hôm nay, bằng chính cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.
Tác giả bức thư gửi tín hữu Do thái, nơi bài đọc thứ hai khẳng định là: "Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu chính là một biến cố đem lại ơn cứu rỗi cho tất cả mọi kẻ tùng phục Người." Còn nơi bài Phúc âm, Thánh Gioan như muốn diễn tả nỗi thao thức của Chúa Giêsu về cái chết mà Người sắp phải chịu: "Khi nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ lôi kéo mọi người lên cùng Ta." Và để cho mọi người có thể hiểu được điều mà Người mới vừa tuyên bố, Đức Giêsu đã dùng một hình ảnh quen thuộc, hình ảnh một hạt lúa được gieo trồng xuống đất, để nói về giá trị của cuộc khổ nạn mà Người sắp phải chịu: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình.
Nhưng nếu nó chết đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt." Vâng! Đúng là như vậy; Nếu hạt lúa được gieo xuống mà không chấp nhận chết đi, thì nó vẫn mãi mãi là một hạt lúa khô cằn đơn độc. Trái lại, nếu nó chấp nhận chết đi, chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ đem lại ích lợi cho mọi người. Bởi vì nó sẽ trở thành một cây lúa tươi tốt và trổ sinh nhiều bông hạt khác. Cho nên sự sống được từ bỏ kia không những là không mất đi cách vô ích, mà ngược lại nó sẽ tồn tại mãi mãi. Như thế thì Chúa Giêsu hoàn toàn có lý khi tuyên bố rằng: "Nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được nó cho sự sống đời đời." Hạt lúa mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây, không ai khác hơn là chính Người. Từ Thiên cung ngự xuống, Người đã chấp nhận chết đi nơi mình những gì "là Chúa" và "của Chúa", để trổ sinh những hoa trái của ơn cứu chuộc, đó là đem lại cho mọi người sự sống đời đời.
Quả thật, nếu nhìn lại cuộc đời của Đức Giêsu nơi các tác giả Phúc âm, chúng ta đều thấy rằng: Người chính là Thiên Chúa quyền năng từ trời xuống thế làm người, chấp nhận một kiếp sống nhạt nhẻo tầm thường tại làng quê Nagiarét. Đến lúc khởi sự công việc rao giảng Nước Trời, Người lại chọn một cách thức cũng nghèo nàn: không tiền bạc, không phương tiện, không thế lực, cũng không có đến một lời giới thiệu hay sự bảo trợ nào của những người có uy tín trong xã hội. Và rồi trong suốt ba năm giảng dạy, Người đã nếm trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, mọi tâm trạng của một con người thấp cổ bé miệng: bị hiểu lầm chống đối, bị khước từ đánh đập và bị xử tử bằng một bản án dành cho những tội phạm nguy hiểm nhất. Và cuối cùng trên thánh giá, Đức Giêsu gục đầu như một kẻ thất bại hoàn toàn.
Thế nhưng đó chính là lúc Người chiến thắng, đó chính là lúc thế gian bị xét xử khai trừ, vì đó chính là lúc mà như Người đã báo trước: "Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến". Rồi gần với chúng ta hơn nữa là nếu hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở nên cơm bánh nuôi sống con người, thì Đức Giêsu cũng vậy, Người chấp nhận bị chôn vùi, bị nghiền nát trong cuộc khổ nạn, để trở thành tấm bánh trên bàn thờ nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta. Như thế, hạt lúa mà Đức Chúa Cha gieo vào trần thế này đã chết; Đức Giêsu đã chết.
Thế nhưng cái chết đó không phải là vĩnh viễn, mà cái chết đó đã được phục sinh và tồn tại mãi mãi để đem lại sự sống vĩnh cữu cho con người. Ngày hôm nay chúng ta sống trong một bối cảnh hoàn toàn khác với những người Do thái thời xưa. Chúa đã chết rồi và Chúa cũng đã phục sinh rồi. Chúng ta đã biết; chúng ta đã tin điều đó, và chính vì đã tin điều đó mà bây giờ chúng ta mới có mặt trong ngôi nhà thờ này. Vậy thì xin hỏi rằng: Việc tìm hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu có còn cần thiết nữa không? Thưa cần! ngày hôm nay Giáo hội cho chúng ta đọc lại câu chuyện này, trước khi mừng kỷ niệm cuộc khổ nạn của Chúa, chính là để nhắc cho chúng ta nhớ lại căn nguyên, nguồn gốc ơn cứu rỗi của mình.
Đồng thời cũng là để cho chúng ta nhìn vào đó mà suy nghĩ, chọn lựa một nếp sống mang lại ích lợi cho phần rỗi linh hồn của mình và cho những người chung quanh. Hạt lúa mà không chấp nhận chết đi cuộc sống riêng tư của nó, thì nó sẽ nên trơ trọi lẽ loi. Đời sống gia đình mà không chấp nhận chôn vùi những ý riêng, những sở thích cá nhân, thì những thành viên sống trong đó vẫn mãi mãi là mhững hòn đá nằm cạnh nhau mà thôi. Đời sống đức tin mà không chấp nhận nghiền nát những cái gọi là tính toán, hẹp hòi, ích kỷ, thì cuộc sống sẽ đơn điệu nhàm chán, và dần dần việc sống đạo sẽ trở một gánh nặng cho mình.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho nhau, để mỗi người chúng ta sớm nhận ra những điều mà mình cần phải để cho nó chết đi, để nhường chổ cho những điều tốt đẹp được tỏ hiện. Bởi vì con người tội lỗi có chết dần đi, thì con người vốn được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa mới dần dần được sống lại; Đó cũng chính là cách tốt nhất để chúng ta chuẩn bị bước vào Tuần Thánh sắp tới đây.
25. Thuốc bất tử – Lm. Trịnh Ngọc Danh
Thời Chiến quốc, có một người đem dâng cho vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, đi ngang qua một viên quan canh cửa. Viên quan này hỏi:
- Vị thuốc này có ăn được không?
Người kia đáp:
- Ăn được.
Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn. Chuyện đến tai vua. Vua truyền bắt viên quan đem giết.
Viên quan kêu:
- Thần đã hỏi người đem dâng thuốc là có ăn được không. Người ấy bảo: “ăn được”, nên thần mới dám ăn. Như thế là thần vô tội mà lỗi là ở người dâng thuốc. Hơn nữa, người đem dâng thuốc nói là thuốc “ bất tử”, nghĩa là thuốc ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới vừa ăn xong, lại sắp phải chết; vậy là thuốc “tử” chứ đâu phải thuốc “bất tử”? Nhà vua giết thần, thực là oan uổng cho một người vô tội; điều đó có nghĩa là thiên hạ dối lừa nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha chết cho viên quan.
Một khát vọng
Chẳng ai muốn chết, và ai cũng muốn sống lâu, sống trường thọ; nhưng oái ăm thay! chết lại là số kiếp của con người, ai cũng phải một lần đi qua kết cuộc ấy.
Sống được trên trăm tuổi đã là tuổi hiếm thấy trên thế gian; vì thế người ta mới ghi vào sổ kỷ lục những ai sống trên trăm tuổi: cụ già sống được 110 tuổi một tháng, đạt kỷ lục trường thọ hơn cụ già sống 110 tuổi 20 ngày! Càng về cuối đời, người ta không tính sống được bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng nhưng tính hơn nhau từng ngày. Sống lâu trường thọ đến thế là một điều khâm phục, một niềm tự hào. Thọ là một trong ba nguyện ước con người thường cầu chúc cho nhau: Phúc- Lộc- Thọ.
Những mỹ phẩm mà người ta rao bán: làm trẻ mãi không già, thực ra chỉ có thể che lấp đi được những nếp nhăn nheo cằn cỗi trên thân xác, nhưng không thể níu kéo hay xoá đi tuổi già của thời gian. Và giả như ai đó phát minh ra được một thứ thuốc kéo dài tuổi thọ đến 100 hay 200 năm, chắc chắn người ấy sẽ trở thành nhà tỷ tỷ phú, và nếu chế được một thứ thuốc trường sinh bất tử thì chắc người ấy sẽ là người giàu nhất thế giới.
Thế mới biết: làm sao cho được “trẻ mãi không già”, được “sống lâu, bất tử” là khát vọng, nhưng đồng thời cũng là tuyệt vọng của con người.
Muốn sống, phải chết
Người đời bảo: chết là hết; thế mà có một người dám quả quyết: muốn sống, phải chết đi để được sống mà không phải sống trường thọ 2,3 trăm năm mà sống bất tử, sống đời đời: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”. Người ấy là Chúa Giêsu.
Nhưng chết bằng cách nào? Là tự tử? Là hủy hại thân thể? Không. Chết là “thối đi”, là “ghét sự sống ở đời này”; đó là cái chết cho những tiêu cực nơi tâm hồn.
Như thế, chết là hãm mình trước những cám dỗ của dục vọng, của ý riêng, là vượt thắng 7 mối tội đầu, là hy sinh vì 10 điều răn Chúa dạy, là từ bỏ những gì không thuộc ý muốn của Thiên Chúa; vì “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái nghịch với Thần Khí; còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái nghịch với xác thịt… Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ; đó là dâm bôn, ô uế, phóng đảng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những việc khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ”. ( Gl 5, 17.19-20.22-23)
Chết là canh tân đổi mới, là cải thiện tâm hồn, là thay đổi não trạng, thay đổi cách suy nghĩ sao cho hợp với thánh ý của Thiên Chúa: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng các đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” ( Rm. 12,2)
Chết là chấp nhận hy sinh, chịu “thối đi” nơi con người thể xác để cho hạt giống đức tin và Tin Mừng có điều kiện nẩy sinh và mang lại nhiều hoa trái cho người và cho đời.
Người không chịu “thối đi”, không dám “ghét sự sống của mình ờ đời này”, là người gạt bỏ sự siêu nhiên ra khỏi cuộc đời của người Kitô hữu, không còn tìm thánh ý Chúa, không còn hành động cho sáng danh Chúa; là cho rằng hy sinh, khiêm nhường, nhịn nhục là dại dột, chỉ vâng phục khi nào mình thấy hợp lý, có lợi cho bản thân.
Người không chịu “thối đi”, không dám “ghét sự sống của mình ở đời này” là người chỉ xem hạnh phúc trần thế là cứu cánh của cuộc sống; là người vẫn dự lễ, đọc kinh tối sáng, vẫn làm những công việc bác ái, nhưng cuộc sống của họ lại xa lạ với Tin Mừng. Trọng tâm của cuộc đời của họ là quyền hành, lạc thú, tiền của. Bạn hữu của họ là những người giàu sang quyền thế, ngay cả những kẻ bóc lột, tham nhũng… Họ không nghĩ đến đời sau, bình thản như thể họ sẽ sống muôn đời trên cõi đời này và thiên đàng đối với họ là trần gian.
Đó là những hạt giống không chịu “thối đi”, không chịu mục nát, những hạt giống “sống trơ trọi một mình”, nên không “sinh nhiều bông trái” cho đời, cho người, không manh ích lợi gì cho ai và như thế, cuộc sống của họ “sẽ mất”.
Thuốc bất tử
Phương thuốc bất tử mà Chúa Giêsu muốn mang đến cho con người là: sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 1,15).
Trước tiên, phải sám hối, chịu “thối đi”, chịu “mất mạng sống mình” mới chỉ là những thứ chúng ta phải kiêng khem, phải hy sinh, phải hãm mình như người mắc bệnh tiểu đường phải kiêng ăn ngọt, người cao máu phải kiêng ăn mặn.
Kế tiếp, là tin vào Tin Mừng như lời Chúa đã phán: “Ai nghe lời Ta và tin Đấng đã sai Ta, thì được từ cõi chết mà qua cõi sống”. (Ga. 5,24); hay “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời”. (Ga. 6,55)
Tóm lại, bài thuốc bất tử mà Chúa muốn ban cho chúng ta là Thập gía. Chúa Giêsu đã chấp nhận chết đi để trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại được nhìn lên Ngài và được sống.
Hạt lúa phải chịu nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc tư nạn đau thương để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ, đồng thời trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thập giá đã trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống đời đời cho chúng ta.
Cách thức để đi đến chiến thắng vinh quang lại là cách thức đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian.
Đáp lời kêu gọi của Thầy Chí Thánh: “Hãy đến mà xem”, “Hãy theo Ta”, chúng ta đã “đến mà xem”, đã “theo Thầy”, nhưng còn một điều kiện nữa để được sống bất tử là “vác thánh gía mình mà theo Thầy”, không biết chúng ta đã thực hiện điều kiện ấy chưa! đã chịu “thối đi”, đã “ghét mạng sống mình” được bao nhiêu!
26. Hạt lúa mì – Lm. Phạm Quốc Hưng
Thập giá là hình ảnh được dùng nhiều hơn cả để nhắc chúng ta nhớ đến Chúa Giêsu và tình yêu hy sinh tận tuyệt của Người, cũng như tinh thần mỗi Kitô hữu phải có trong đời sống của mình. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh khác, dù rất đơn sơ bé nhỏ gần gũi nhưng lại giàu ý nghĩa, để diễn tả tâm tư và lối sống của Người. Chúa Giêsu còn chỉ ra đó tất cả một bí quyết hay một quy luật căn bản mà mỗi Kitô hữu phải theo để trở nên giống Người, để đạt đến ơn cứu độ và vinh quang đích thực.
Đó là hình ảnh hạt lúa mì.
Người nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống của mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12:23-25). Chúa Giêsu nói những lời này khi Người sắp bước vào Cuộc Thương Khó. Thật thích hợp khi Giáo Hội cho chúng ta được nghe những lời này một tuần trước Chúa Nhật Thương Khó.
Thánh Sử Gioan chia Tin Mừng của người thành hai phần: sách các dấu chỉ và sách vinh quang. Phần sách các dấu chỉ thuật lại các phép lạ của Chúa Giêsu, và phần sách vinh quang thuật về Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Thánh nhân muốn cho mọi người nhận biết rất rõ rằng: với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu, vinh quang đích thực được thể hiện nơi tình yêu hy sinh phục vụ, tình yêu xả kỷ vị tha, tình yêu thí mạng vì người mình yêu. Và chỉ có tình yêu này mới đem lại sự sống thật, sự sống thần linh, sự sống đời đời.
Đây là một quan niệm khác hẳn lối suy tư tự nhiên của con người. Thật vậy, con người tự nhiên bao giờ cũng sống theo bản năng sinh tồn của mình. Với ảnh hưởng của tội tổ, con người nhiều khi sống theo bản năng rừng rú của mình, sống theo luật rừng: mạnh được yếu thua, mạnh dùng sức yếu dùng mưu, miễn sao đem lại ích lợi cho bản thân mình, miễn sao làm cho mình được sống sung sướng, giàu sang, quyền lực, bất chấp luân thường đạo lý, bất chấp thiệt thòi của người khác.
Đây cũng là một quan niệm đi ngược với sự trông mong của người Do thái về “Con Người”, về Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia. Họ nghĩ Đấng Mêsia phải là một lãnh tụ chính trị đầy tài năng và quyền uy, và dùng tài năng và quyền uy của mình để đánh đuổi ngoại bang, chinh phục các dân tộc lân bang, đem lại vẻ vang cho dân tộc được tuyển chọn.
Trong Tin Mừng Gioan, mầu nhiệm nhập thể được đặt làm nền tảng cho toàn bộ công cuộc cứu độ. Sự hiệp nhất giữa thần tính và nhân tính của Ngôi Lời Nhập Thể được diễn tả cách tuyệt vời: Cuộc Khổ Nạn với bao đau thương nhục nhã của Thập Giá bao giờ cũng gắn liền với Cuộc Phục Sinh đầy ánh sáng vinh quang. Vì vậy, khi Chúa Giêsu bắt đầu bước vào Cuộc Khổ Nạn, thì cũng là lúc Người bắt đầu bước vào Vinh Quang hay bắt đầu bày tỏ vinh quang đích thực của Người.
Với Chúa Giêsu, giờ của Chúa là giờ của Cuộc Thương Khó, giây phút vinh quang là giây phút chịu khổ nạn trên thập giá. Với thế gian, thập giá là hình cụ ghê sợ và nhục nhã nhất để trừng phạt những người tử tội. Chúa Giêsu đã biến thập giá thành Thánh Giá, và Thập Giá của Chúa Giêsu chính là Ngôi Báu của Người. Điều này đã được xác định khi Chúa Quan Phòng định cho Philatô ghi trên thập giá hàng chữ: “Giêsu Nazareth-Vua Dân Do Thái”. Giây phút Chúa Giêsu được treo trên thập giá là giây phút Người bước lên Ngôi Báu của Người.
Không phải Chúa Giêsu chỉ chịu đau khổ vì yêu thương khi bắt đầu bước vào Cuộc Khổ Nạn, nhưng đó luôn là đặc nét chính trong cuộc đời Chúa Giêsu. Tác giả Thư gửi tín hữu Do thái trong bài đọc hai đã xác định điều này trong bài đọc hai của Phụng Vụ hôm nay: “Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người đã chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai vâng phục Người” (Dt 5:7-9).
Thánh Anphong Liguori thuật rằng có một nữ tu đau đớn bệnh tật rất nhiều năm. Một hôm đau đớn quá, Chị kêu trách Chúa Giêsu: “Xưa Chúa chỉ phải vác thánh giá và hấp hối mấy giờ trên thánh giá, nay sao Chúa để con đau đớn lâu năm thế?” Chúa Giêsu liền hiện ra quở trách Chị: “Con nói sao? Cha chỉ có đau khổ ít giờ mà thôi ư? Cha đã bắt đầu đau khổ từ giây phút nhập thể!” Thánh nhân nói rằng vì có linh hồn hoàn bị, Chúa Giêsu từ giây phút nhập thể đã nhìn thấy và cảm nhận trước nơi linh hồn Người những đau khổ Người sẽ phải chịu trên thân xác sau này.
Vì vậy, Đức Cha Fulton J Sheen hay nói mọi người sinh ra trên đời để sống, nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa và là Sự Sống Đời Đời sinh ra trên trần gian để chịu đau khổ và chịu chết để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Vì vậy, cả đời Chúa Giêsu đều hướng về Đồi Canvê, đều hướng về Thánh Giá. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Đức Cha còn xác quyết rằng bài giảng nào càng hướng về Thập Giá bài giảng ấy càng có tính thần thiêng.
Liền sau khi nói về quy luật chết để sống, mất để được, Chúa Giêsu liền nói về thân phận của những ai muốn trở thành môn đệ đích thực của Người: “Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó” (Ga 12,26). Ở đây, Chúa Giêsu cho thấy các môn đệ đích thực của Người, những ai thực sự phụng sự Người, phải là những người cùng bước theo Người trên con đường thập giá, là con đường chính Người đã đi trước. Và chỉ có những người này, những người cùng ở trên thập giá với Người, mới được cùng ở với Người trên Nước Trời để chia sẻ vinh quang đích thực vì cùng được Chúa Cha tôn vinh.
Chính Thánh Thể nơi Bánh Thánh và Rượu Thánh-trung tâm đời sống Công giáo cũng không ngừng nhắc chúng ta về quy luật thần thiêng này. Để trở nên tấm bánh, những hạt lúa mì phải chấp nhận chịu nghiền tán và hòa trộn với nước rồi chịu nướng trong lò lửa. Để hóa thành rượu nho, những trái nho chín phải chịu vắt trong bồn đạp nho và trải qua thời lên men. Vì vậy, cùng với cầu nguyện, việc hy sinh hãm mình là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống Kitô hữu. Một trong những lý do chính đem lại sự suy đồi trong đời sống đức tin của nhiều tín hữu ngày nay là sự khước từ sự khôn ngoan của thập giá, sự chối bỏ tinh thần hy sinh hãm mình và vâng phục.
Bài thánh ca “Thân Lúa Miến” của Mi Trầm được dùng trong phần tiến lễ có giá trị tuyệt vời vì nhắc nhớ chúng ta về lý tưởng hy sinh bác ái, xả kỷ vị tha của đời người Công giáo đích thực.
Thánh Giuse-Maria Escriva đã giúp chúng ta sống Tin Mừng hôm nay với những lời sau: “Nếu hạt lúa không chết đi, nó không sinh hoa trái. Bạn có muốn trở thành hạt lúa miến phải chết đi bằng những hy sinh hãm mình, để đem lại một mùa lúa phong phú không? Xin Chúa Giêsu chúc lành cho ruộng lúa của bạn”.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Chúa Giêsu, trở nên như hạt lúa mì, chết đi cho ý riêng và những đam mê trần thế, để sống cho Chúa và tha nhân qua việc quảng đại hy sinh hãm mình và yêu thương phục vụ. Amen.
27. Chúa Nhật V Mùa Chay.
Nói về tình yêu, trong chúng ta, ai cũng nhớ đến mối tình cao đẹp trong câu chuyện xưa có tên: "Trần Minh Khố Chuối." Ngày nay được các nghệ sĩ đỗi tên là:"Bên cầu dệt lụa." Câu chuyện diễn tả mối tình cao đẹp của đôi bạn Trần Minh và Nguyệt Nga. Hai người đã vượt qua không biết bao nhiêu khó khăn gian khổ, để tìm hạnh phúc cho nhau. Tôi thiết nghĩ: Nếu Trần Minh vì quá tự ái, nuôi mối hận riêng tư trong lòng, tìm cách trả thù thì cũng không được một kết cuộc tốt đẹp như thế. Còn nếu Nguyệt Nga cứ giữ mãi danh phận của một tiểu thư đài cát, không dám hy sinh cho tình yêu thì họ cũng không thấy được bông hoa tình yêu. Nhưng vì họ đã biết vun trồng, biết chấp nhận những nghịch cảnh, biết vượt qua chính mình, biết cùng góp sức từ bỏ đi những gì là riêng tư, nên họ nhận được phần thưởng tốt đẹp và xứng đáng.
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không tối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi,thì sẽ trổ sinh nhiều bông hạt." Chúa Giêsu đã nói lên một chân lý, để dạy cho con người cách sống ở đời, nhưng đặt biệt, Ngài còn muốn kêu gọi mọi người thực hiện để tìm hạnh phúc đích thực và vững bền. Ngài không chỉ nói suông nhưng Ngài đã thực hiện những gì mình đã nói, đã dạy. Ngài đã để cho thân xác hay hư nát của Ngài tiêu tan đi cho đến độ Ngài không cần gìn giữ nó cho riêng Mình nữa mà Ngài dám hy sinh nó cho những người mình yêu thương. Sự hy sinh của Ngài làm cho những người đương thời không thể hiểu được. Mọi người tưởng rằng Ngài đã chết thật, nhưng đang lúc đó, Ngài đã chứng tỏ một sức sống mãnh liệt cho tình yêu. "Ai tìm mạng sống mình thì sẽ mất..."
Nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta cũng nhìn thấy biết bao người đã hy sinh đời sống của mình, họ đám từ bỏ tất cả để đạt cho được mục đích mà mình muốn. Nhưng nhìn chung, tất cả những gì con người ước muốn chỉ thỏa mản những đòi hỏi riêng tư, không có giá trị lâu dài. Con người càng đòi hỏi và niềm khát vọng mỗi ngày càng dâng cao. Nên con người không tìm được hạnh phúc trong những khát vọng ích kỷ cá nhân. Đáp ứng những khát vọng chỉ là đi tìm chính mình, lo bảo vệ mình mà thôi. "Ai tìm mạng sống mình thì sẽ mất."
Mỗi người chúng ta nhìn vào chính mình xem: Bao nhiêu lần vì tự ái, chúng ta không thể nào nghe người khác khi họ chỉ cho chúng ta thấy những thiếu sót, sai phạm, để chúng ta sửa đỗi cho tốt hơn. Đó là những lúc chúng ta không dám chết đi cho lòng tự ái, tính kiêu căng của mình. Còn bao nhiêu lần nữa, chúng ta thấy được những tật xấu của mình, thấy được những điều bê tha, thấy được những điều không nên làm, thế mà chúng ta vẫn làm. Đó là chúng ta chưa dám chết cho những ý riêng, chưa dám chết cho những dục vọng của chính mình. Có những lần chúng ta nhìn thấy những điều không hợp lý, những điều bất công, nhưng, chúng ta đành lánh mặt đi nơi khác cho được yên thân. Đó là lúc chúng ta chưa dám chết cho sự hèn nhát của chính mình. Cũng có những lúc chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm của chính mình trong cuộc sống, nhưng chúng ta vẫn không chu toàn được, vì thiếu sự cố gắng. Đó là những lúc chúng ta chưa dám chết cho sự lười biếng của chính mình.
Đối với Thiên Chúa. Có những lúc chúng ta cảm nhận được sự ngọt ngào trong những lần thành công, trong niềm hạnh phúc mà mình đạt được. Lời Chúa dạy, chúng ta biết rất rỏ, chúng ta vẫn không thi hành. Chúng ta chưa dám chết đi cho những gì là riêng tư của chính mình, thì làm sao chúng ta đạt được bông hoa hạnh phúc của tình yêu bất tận. Đôi bạn tình Trần Minh, Nguyệt Nga đã dám hy sinh những gì là riêng tư, nên họ mới đạt được hạnh phúc chung cuộc. Còn chúng ta, Thiên Chúa đã yêu thương, đã lo lắng cho chúng ta tất cả mọi việc, nhưng rồi, chúng ta chỉ biết lo cho những ích kỷ, những kiêu căng, sự lười biếng; thì làm sao chúng ta có thể nhìn thấy được những bông hoa của tình yêu bất diệt được để mà tận hưởng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng t a biết hy sinh, biết chịu khó thêm một chút nữa, để bông hoa tươi đẹp của cuộc sống được nở rộ chung quanh chúng ta.
28. Hạt giống nảy mầm.
Vào một đêm giông bão có một người đàn ông đứng tuổi cùng bà vợ ghé vô một khách sạn nhỏ và hỏi viên thư ký: Xin anh làm ơn cho chúng tôi một phòng. Viên thư ký trả lời: Thưa ông, tất cả mọi phòng đều có người thuê, nhưng tôi không nỡ để ông bà phải ra đi vào lúc một giờ sáng như thế này. Người chồng hỏi lại: Anh nói chi? Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi. Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu? Tôi sẽ tìm được, xin đừng lo lắng cho tôi. Sáng hôm sau, ông khách trả tiền phòng và nói với viên thư ký: Anh là một người quản lý có tài, khả dĩ có thể làm chủ một khách sạn lớn. Rất có thể một ngày nào đó, tôi sẽ xây cho anh một cái.
Hai năm sau, viên thứ ký nhận được một bức thư, kèm theo vé máy bay khứ hồi đi Nữu Ước và tấm danh thiếp của người khách trong đêm giông bão. Người khách dẫn viên thư ký tới một đại lộ, chỉ vào một ngôi nhà cao tầng và nói: Đây là khách sạn tôi đã xây để cho anh quản lý. Không nói nên lời, người thanh niên rất đỗi ngạc nhiên, ấp úng cám ơn. Mạnh thường quân của anh là Astoria, chủ nhân của một mạng lưới khách sạn tại Mỹ. Và khách sạn ông dành cho anh ta là một khách sạn tiện nghi nhất thời bấy giờ.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào Lời Chúa phán với chúng ta qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Hạt lúa rơi xuống đất, có mục nát, thì mới sinh nhiều hoa trái. Anh chàng thư ký đã chôn vùi những tiện nghi của mình, bằng cách nhường lại căn phòng ấm cúng cho hai vợ chồng người khách lạ. Và sự hy sinh ấy đã đem lại phần thưởng cho anh. Anh được quản lý một khách sạn sang trọng và nổi tiếng trên thế giới.
Hạt giống phải chết đi, phải mục nát trước khi nẩy mầm, đâm bông và kết trái. Điều đó cũng đúng cho bình diện thiêng liêng. Bởi vì, chúng ta, những người tin theo Chúa đều biết rằng mọi cố gắng, mọi hy sinh, mọi gian khổ của chúng ta rồi sẽ sinh hoa kết trái, nhất là khi những cố gắng, những hy sinh và gian khổ ấy được thi hành vì lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em đồng loại. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận những hy sinh gian khổ vì chúng ta, bằng cách chịu chết trên thập giá, để rồi từ đó Ngài đã có được hoa trái của sự phục sinh vinh quang.
Mùa chay sắp kết thúc, những cũng chưa quá muộn để chúng ta chôn vùi bản thân, từ bỏ chính mình vì Đức Kitô và vì anh em, bởi vì có cùng chết với Đức Kitô, thì rồi chúng ta mới sẽ được sống lại trong vinh quang với Ngài.
29. Theo Chúa trở nên hạt lúa
Minh họa lời Chúa – Chúa Nhật 5 Mùa Chay năm B
(HN sưu tầm -thanhlinh.net)
1. Cái chết được nối dài
Ngày 30 tháng 4 năm 1938, một chuyến xe lửa chạy từ miền bắc xuống miền nam Columbia bất ngờ bị trật đường rầy, làm nhiều người chết và bị thương.
Trong số những người quằn quại nằm đó, có Cha Phênisê thuộc dòng Thánh Gioan. Ngài bị thương nặng, một phần ruột lòi ra ngoài.
Nhận ra Cha, các y tá đã ân cần chăm sóc. Nhưng Ngài ra hiệu cứ đi lo cứu giúp các nạn nhân khác. Rồi lấy hết sức bình sinh, ngài nhét ruột bào, dùng khăn buộc ại và đi tìm những hành khách Công giáo đang bị thương nặng để giải tội cho họ. Được một lúc ngài té xuống. Các y tá chạy lại. Ngài thều thào nói trong đau đớn:
“Cám ơn Chúa đã cho tôi có thời giờ làm những điều cần thiết cho anh em. Bây giờ các cô có thể mang xác tôi đi”.
Chiếc xe cứu thương vội chở cha tới bệnh viện gần đó, nhưng chỉ vài giờ sau Ngài đã trút hơi thở cuối cùng, khi tuổi đời mới ba mươi sáu.
----------
Tình yêu và cái chết của Cha Phênisê là một trong muôn vàn tấm gương sáng chói của tình yêu cao cả mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng con người.
Cái chết ấy chỉ là nối dài hay đúng hơn là một thể hiện của một cái chết đã trở thành linh hồn của Kitô giáo. Đó là cái chết của Đức Kitô, Đấng đã tự nguyện chết thay cho nhân loại, để nhờ đó nhân loại được cứu sống…
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai quý mạng sống mình thì sẽ mất: còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga,12,24-25).
Đó là ý nghĩa đặc biệt và cũng là chương trình hành động của người Kitô hữu trong mùa chay. (Trích “Như lòng Chúa khoan dung”).
2. Đau khổ sinh ích cho tôi
Thi sĩ người Anh tên Francis Thompson đã viết:
“Không có gì bắt đầu và kết thúc mà không phải trả giá bằng đau khổ. Vì chúng ta được sinh ra trong đau khổ của kẻ khác và chết trong đau khổ của mình”.
Nhiều người kêu trách Thiên Chúa vì đã để cho đau khổ xảy ra trên trái đất. Tuy nhiên theo Kinh thánh, đau khổ bắt đầu từ tội lỗi đầu tiên của ông bà nguyên tổ. Chính đau khổ do tội lỗi này, Chúa Giêsu đã chấp nhận chết trên thánh giá, để cứu rỗi nhân loại. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm.8,28).
Đau khổ nào sinh ích cho tôi cuộc sống? (Trích “Viễn tượng 2000”)
“Chúa Giêsu không đến để khử trừ đau khổ, nhưng để đổ đầy nó bằng sự hiện diện của Người” (Paul Claudel).
3. Hạt lúa có chết đi
Mấy năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết bài báo nhan đề: “Khi chúng ta dám tin vào Thiên Chúa”. Trong đó bà thuật lại lúc bà bị bệnh nhiễm trùng phổi trầm trọng, nằm liệt giường suốt 6 tháng trời, không ăn uống gì được. Bà chạy thầy chữa thuốc hết cách và nhờ nhiều người cầu nguyện, mà bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng hoàn toàn.
Giữa lúc đó, có người tặng bà tập sách nhỏ kể chuyện một nữ tu truyền giáo mắc một chứng bệnh suốt 8 năm trường. Ngày ngày ngoài ra việc chữa trị, chị cầu xin Chúa cho chị khỏe lại để giúp việc Chúa. Một hôm chị khóc với Chúa: “Lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi. Nhưng nếu Chúa muốn con tàn phế, con xin vâng theo thánh ý Chúa…” Vài tuần sau chị đượng bình phục.
Bà Catherine từ đó noi gương chị nữ tu, hằng ngày cầu nguyện: “Lạy Chúa, con mệt mỏi quá rồi! Nhưng con xin vâng theo thánh ý Chúa…” Và sức khỏe bà bắt đầu hồi phục.
------------
Câu chuyện của nữ tu truyền giáo và của bà Catherine Marshall giúp chúng ta hiểu Lời Chúa trong Tim mừng Chúa nhật hôm nay: “Nếu hạt lúa không chết đi, nó chẳng đem lại hoa trái nào”. Nếu chúng ta không chết cho ý riêng mình, chúng ta cũng chẳng sinh được bông trái…”
Câu chuyện đó cũng nhắc chúng ta nhớ câu chuyện của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu khi Người cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Lc.22,42), nhờ đó mà chúng ta được cứu rỗi, được sống muôn đời…
Nếu muốn sống và trổ sinh bông trái, chúng ta phải bắt ý riêng chết đi như hạt lúa để sinh được bông trái là hạnh phúc phần xác và cuộc sống vĩnh cửu phần hồn.
Phải chăng đó là điều Chúa mời gọi chúng ta thực hiện trong Mùa Chay. (Theo “Sunday Homilies”).
4. Hạt giống gieo vào lòng đất
Bà và cô cháu gái dang phân loại hạt giống, chuẩn bị cho vụ mùa tới. Cô bé nhận xét khi kiểm tra những hạt giống trong tay:
-Những mong đợi nhỏ bé và mong manh phải không bà? Có phải mỗi hạt là một niềm hy vọng không?
-Phải, mỗi hạt là một niềm hy vọng. Nhưng vì là hy vọng, cần có những điều kiện để đi tới thành đạt.
-----
Chúa cho chúng ta niềm hy vọng được an bình mỗi khi đau khổ, được sức mạnh khi thử thách, được ánh sáng cho những ngày đen tối. Nhưng chúng ta phải có niềm tin và can đảm tiến về phía trước.
Hạt giống nhỏ bé phải chịu chôn vùi trong đất và phơi mình dưới mưa nắng, thì khả năng tốt đẹp của nó mới thành hiện thực. (Trích “Minh họa Lời Chúa)
Hạt giống gieo xuống đất phải thúi đi mới sinh nhiều bông hạt.
Apraham tin Chúa đem sát tế con một, được Chúa cứu sống con ông và được ban phát tràn đầy, cho dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển.
Chúa Giêsu chịu sát tế trên Thập giá, bao nhiêu người được cứu độ.
Mùa Chay là mùa chết cho tội lỗi, để được sống lại nên người mới, người hoàn hảo hơn, xứng đáng làm người con Chúa hơn.
5. Ai là hạt lúa?
Sau khi lật đổ đươc nhà độc tài là tổng thống Marcos nước Phi-luật-Tân, dân chúng lũ lượt kéo nhau đi xem dinh tổng thống, nơi mà hai ông bà Marcos đã sống đế vương hơn 20 năm. Mọi người đã dở khóc dở cười sau khi tận mắt nhìn thấy cảnh giàu sang sung sướng của cặp vợ chồng bạo chúa. Nhiều người bưng mặt khóc sướt mướt khi đứng trước cuộc sống xa xỉ của ông bà Marcos, trong khi biết bao người phải đói khát,, không cửa không nhà, không đủ cơm ăn áo mặc!...
----------------
Giàu sang tự nó không phải là một tội. Nhưng làm giàu trên xương máu của người khác đúng là một tội ác tầy trời. Thay vì mình phải hy sinh làm hạt lúa thúi đi để trổ sinh nhiều bông hạt nuôi sống tha nhân, thì lại bắt đồng bào mình phải làm hạt lúa chết đi để bản thân mình được sống giàu sang xa xỉ.
Muốn trở nên Bánh Sự Sống cho nhân loại, Chúa Giêsu đã phải nghiền nát. Chúng ta ăn bánh sự sống đó mà không biết hy sinh cho anh chị em chúng ta sao? Chúng ta đã nhận lãnh Bánh Tình yêu, nhưng lại không muốn chia sẻ tình yêu với anh chị em chúng ta sao?
Mùa Chay, Chúa mời gọi chúng ta noi gương Chúa trở nên hạt giống thúi đi, để đem lại bông trái cho anh chị em chúng ta được hưởng.
(Theo “Tất cả là hồng ân”).
1) SẴN SÀNG CHỊU CHẾT ĐỂ BẠN TÙ ĐƯỢC SỐNG
Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!
Người tù nhờ Cha Kôn-bê thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck) về sau đã kể lại tình trạng nhà tù vào lúc đó như sau: “Sau khi Cha Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh dành thực phẩm tiếp tế... thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh mục đã dám hy sinh tính mạng chết thay cho một người không quen biết.
2) GIÁ ĐẮT PHẢI TRẢ CHO THÁI ĐỘ VÔ CẢM:
Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.
Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài xế đã lên tiếng yêu cầu tên cầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh đập tàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia lại, nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi rậm gần đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên trên xe.
Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe để tiếp tục cuộc hành trình... Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: "Này ông kia, yêu cầu ông xuống xe đi!". Người đàn ông ngạc nhiên nói: "Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã lên tiếng bênh vực cô mà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?"
Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: "Nếu ông không xuống, tôi sẽ không cho xe chạy." Điều bất ngờ là các hành khách trước đó đã im lặng thì bây giờ lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: "Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế hả?" Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề đường và rơi xuống vực như tên bắn.
Hôm sau, môt tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc đã xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn": Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu. Tài xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông đã đọc được bản tin và bật khóc!
1) Mầu nhiệm hạt lúa trong thiên nhiên:
Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường. Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đên nhão nhét trong ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: "Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”
Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên đường và một cơn gió ào tới thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!
Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnh kia chỉ ít ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng cáp. Cây lúa lớn dần và không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúa với hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên lương thực nuôi sống loài người. Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã biến thành trăm hạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!
Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
30. Hạt lúa mục nát – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.
“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.
2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?
3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?
31. Hạt lúa trơ trọi – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt"
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên.
Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ, nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để người khác được sống? Chết để sinh nhiều bông hạt ư? Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ? Chính vì thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi một mình. Tôi cô đơn với tôi, để được yên ổn. Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem lại đớn đau, nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi là.
Tiếc thay, lúc giữ được tất cả tôi lại thấy mình mất tất cả, vì mất ý nghĩa của cuộc sống. Tôi như con thú chỉ biết chăm lo cho bộ lông của mình.
Dần dần qua những kinh nghiệm đau thương, tôi mới nhận ra rằng: chỉ có một cách giữ chặt, đó là buông ra và trao hiến. Tôi bắt đầu được khi chấp nhận mất.
Sự sống đời đời đã bắt đầu, hạnh phúc đã hé nụ ngay lúc này, ngay ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ, tôi chỉ giàu có và triển nở mọi mặt khi quảng đại ra khỏi lớp vỏ của mình, ra khỏi những bận tâm, tính toán, xây đắp cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại vang vọng trong tôi: "Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân..."
Nhưng hiến thân, quên mình, hy sinh, từ bỏ, đón lấy cái chết như hạt lúa vùi sâu, những điều đó đã làm chính Đức Giêsu dao động.
"Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này chăng? Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến." (c. 27)
Đã có những giây phút giằng co, ngần ngại, đã có những cuộc chiến Vườn Dầu ở trong tôi. Nếu tôi kiên trì tỉnh thức và cầu nguyện, tôi sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát. Sau nhiều lần dám liều mất tất cả để rồi ngỡ ngàng thấy mình được lại quá nhiều, tôi sẽ dễ dàng chọn cái mất trước mắt như con đường dẫn đến cái được vĩnh hằng.
Xin Đức Giêsu bị đóng đinh kéo tôi lên với Ngài, kéo tôi lên khỏi đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?
Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng chúng con ít khi nghĩ đến những hại giống đã âm thầm chịu nát tan để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người, chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen.
32. Hạt giống sinh hoa kết quả
1. Trong khi giảng dạy, Đức Giêsu thường dùng những hình ảnh quen thuộc với dân chúng để giải thích chân lý Ngài muốn mạc khải. Đoạn Tin Mừng hôm nay, Ngài sử dụng hình ảnh hạt giống được gieo, để cho chúng ta thấy tại sao Ngài phải bước vào cuộc Vượt qua: "Nếu hạt lúa mì rơi vào lòng đất, mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trội một mình. Còn nếu nó thối đi thì mới sinh nhiều bông hạt". Thậy vậy, hạt giống được gieo vào lòng đất nếu bị phân hủy ("thối") mới có thể đem lại sự sống mới; nếu không bị phân huỷ hẳn là trơ trội một mình, không sinh ích gì, ai trong chúng ta cũng dễ dàng đón nhận sự thật này.
2. Đức Giêsu, Chúa chúng ta là hạt giống đặc biệt đem sức sống mới cho loài người. Ngài có thể cứu độ chúng ta bằng nhiều phương cách; nhưng Ngài đã chấp nhận "bị phân huỷ" tức hy sinh đi những cái gì "là Chúa" và "của Chúa" để cứu chuộc chúng ta. Ngài bỏ trời cao xuống gian trần, làm người như bao con người khác, ngoài trừ tội lỗi. Hơn thế nữa, chấp nhận làm thân phận của người nghèo. Ba mươi năm sống ẩn dật, ba năm đi rao giảng thì bị công kích, chống đối. Cuối cùng chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá (x. Plp 2,6-8). Biến cố này xem ra là một thất bại nặng nề trước mặt người đời, nhưng là giờ phút quyết định cuộc giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của Satan.
3. Hình ảnh về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu được gợi lên rất rõ như một hạt lúa mì bị tan rữa trong lòng đất, nhưng sẽ dẫn tới một mùa lúa bội thu, phong phú. Cái chết của Đức Giêsu không dừng lại ở sự cằn cỗi, mất mát, như người đời tưởng, mà cái chết của Ngài có sức mạnh qui tụ mọi người, mọi dân, mọi nước: " Khi nào Ta được treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta ". Nếu ông Tertulianô cho rằng: "Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu", thì máu Đức Giêsu có giá trị tuyệt đối, là hạt giống mẹ của các hạt giống đức tin.
4. Đức Giêsu không chỉ là hạt giống đức tin của Thiên Chúa, mà Đức Giêsu muốn chúng ta, những môn đệ của Ngài, cũng hãy là hạt giống đức tin. Trước hết, hạt giống ấy phải phân huỷ để sinh hoa kết quả cho chính mình. Nghĩa là phải theo quy luật hy sinh của hạt lúa giống ấy để đạt tới hạnh phúc đời đời: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời". "Sự sống" ở đây là sự sống đời này và tất cả những gì liên quan đến nó như tiền tài, danh vọng, thú vui, nếu như chúng ta quá bận tâm, bám víu vào nó, mà sao lãng sự sống đời đời thật là một đại hoạ! Thánh Phanxicô Assise, trong lời kinh Hoà Bình, đã cảm nghiệm chân lý sâu sắc này và đã ca lên:"Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời". Kế đến, qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào hạt giống Giêsu, chúng ta phải có trách nhiệm mang hạt giống đức tin đến cho tha nhân nữa.
5. Cuộc Vượt qua của Đức Giêsu vừa như là hạt giống âm thầm, vừa là biến cố vinh quang của Chúa, nhưng tất cả điều đem lại sức sống mới cho nhân loại. Điều này làm cho chúng ta nhớ rằng mọi Kitô hữu trong hoàn cảnh sống của mình đều có trách nhiệm chia sẻ hạt giống đức tin cho tha nhân. Chúng ta cùng suy nghĩ về hai người con Chúa, thánh Phanxicô Assise và Cố ĐGH Gioan Phaolô đệ nhị, sống hai thời khác nhau, địa vị khác nhau, nhưng cả hai đều là những hạt giống đức tin nhiệt thành:
Chuyện kể rằng một ngày kia thánh Phanxicô Assise ( + 1226) rủ một thầy dòng nữa cùng đi truyền giáo, hai người đi hết phố này sang phố khác rồi trở về, thầy cùng đi chúng mới hỏi: Chúng ta đâu có giảng thuyết lời nào đâu mà gọi là đi truyền giáo? Phanxicô mới trả lời: Sự hiện diện của chúng ta, cách ăn mặc và nếp sống nghèo khó của chúng ta đó chính là một hình thức chúng ta giới thiệu Chúa cho người khác rồi!
Đức Cố GH Gioan Phaolô đệ nhị cũng là một người rất nhiệt thành trong công việc truyền giáo, những năm đầu triều đại Giáo Hoàng của ngài, ngài đã chọn việc đi thăm viếng nhiều quốc gia, chúng ta không biết bao nhiêu người gia nhập đạo Công Giáo trong triều đại của ngài, nhưng lễ tang của ngài vào những ngày của tháng 04 năm 2005 vừa qua, rất đông đại diện các quốc gia đến tham dự, rất nhiều người tiếc xót khi vĩnh biệt người đại diện của Thiên Chúa ở trần gian này! Chắc hẳn qua đó nhiều tâm hồn suy nghĩ về Thiên Chúa, về Đức Giêsu mà Đức Gioan Phaolô đệ nhị và chúng ta tôn thờ.
6. Lạy Đức Giêsu, giờ Vượt qua của Ngài, tuy âm thầm lặng lẽ, tuy xem ra thất bại, nhưng vinh quang và đã tuôn ban nguồn ơn cứu rỗi cho muôn dân. Xin cho mỗi người chúng con biết tích cực đón nhận hồng ân cứu rỗi, đồng thời cũng biến chúng con thành những hạt giống đem nguồn sống thật đến cho tha nhân. Amen.
33. Tôi sẽ lôi kéo mọi người – Yvon Daigneaut.
Mở đầu.
Trong khi bài Tin Mừng được tuyên bố, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói một lời khó hiểu: “Khi tôi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ lôi kéo mọi người đến với tôi”. Lời này ám chỉ hai điều: việc Ngài sắp bị đóng đinh thập giá và tầm ảnh hưởng vô biên từ cái chết của Ngài trên thập giá. Vì không có thói quen nhắc đến những nguyên nhân trừu tượng và những ý niệm tổng quát không thể kiểm chứng được, Chúa Giêsu mời chúng ta lưu ý đến một biến cố sắp xảy ra liên quan đến Ngài cách tuyệt đối –bởi Ngài là người độc nhất bị nâng lên khỏi mặt đất- và sẽ liên quan đến chúng ta một cách cũng tuyệt đối như thế bởi vì hết thảy mọi người sẽ được lôi cuốn bởi biến cố này và sẽ dấn thân vào đó.
Biến cố thập giá.
Thập giá không phải là một biến cố anh hùng mà Chúa Kitô ao ước đương đầu bằng tất cả bầu nhiệt huyết cách mạng. Đây là một biến cố khá nhỏ nhen, bần tiện, với một hậu cảnh tôn giáo chính trị khó hiểu, mà Chúa Giêsu đã tìm cách tránh trong một thời gian dài, nhưng vẫn không trốn thoát nó. Khi Ngài thấy biến cố này đang đến và Ngài không thể hoãn lại lâu hơn nữa, Ngài đã đón nhận nó bằng tác động vâng phục hoàn toàn tự do của một người con, sẵn sàng tự hiến như Chúa Cha đã yêu cầu Ngài.
Vì trong cơ bản thập giá là cuộc tự hiến hoàn toàn mà Chúa Con dâng lên Cha Ngài bằng hành vi vâng phục được thể hiện trong một vụ án bất công, kèm theo sự ruồng bỏ của những kẻ thuộc về Ngài, trong một cái chết gây ra bởi nỗi đau đớn tột cùng do việc bị đóng đinh thập giá. Qua hành vi vâng phục này Chúa Giêsu hiến mình trong một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Cha Đấng có thể cứu Người khỏi chết và khỏi quyền lực tối tăm đang tấn công Ngài.
Chúa Giêsu không chấp nhận thập giá vì Ngài, Ngài chấp nhận nó vì chúng ta. Chính thập giá của thế giới mà Ngài đã mang, thập giá mà sự bất tuân của chúng ta và việc chúng ta từ chối Chúa Cha đã áp đặt cho chúng ta, nó là công trình tay chúng ta làm ra, hoa quả trổ sinh từ những bất chính của chúng ta. Khi chấp nhận thập giá chung của loài người, khi mang nó như thể nó thuộc về bản thân Ngài, Chúa Giêsu đã sống nó trong một tiếng kêu hy vọng và tin tưởng mà Chúa Cha sẽ đón nhận. Sự hiến dâng và lời khẩn cầu của Ngài đã cứu Ngài và cứu chúng ta nữa cùng với Ngài.
Thập giá là nguồn mạch sự sống.
Sự cứu độ của chúng ta, với tư cách là cộng đồng nhân loại và với tư cách cá nhân, chỉ nằm trong việc trở về với Thiên Chúa, trong ý muốn vâng phục của con cái, hoa quả của một Giao Ước Mới. Và chúng ta không thể thực hiện được điều này bằng sức riêng mình, vì việc từ chối ban đầu chống lại tình yêu Thiên Chúa tiếp tục đè nặng trên chúng ta và áp đặt cho chúng ta một gánh nặng ngày càng khiến chúng ta tê liệt.
Trái lại, nếu Ai Đó có thể giao hòa chúng ta lại với Thiên Chúa, vì Ngài và vì chúng ta hết thảy, bằng việc đón nhận trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, dù là trong một biến cố đầy thử thách như biến cố thập giá, lúc đó ta sẽ tìm lại được tình thân hữu với Thiên Chúa. Lòng chúng ta sẽ có khả năng thương yêu và giao hòa, có khả năng vui vẻ đón nhận ơn sự sống. Sự sống sẽ tuôn trào từ thập giá cách tràn trề đến nỗi làm cho chúng ta phải ngỡ ngàng. Nhờ chấp nhận thập giá của loài người, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta sự sống mà Chúa Cha đổ tràn trên Ngài trong cuộc Phục Sinh: thông ban Thánh Thần; ân sủng; sự hiệp thông đời đời với Thiên Chúa; qui tụ loài người thành một cộng đoàn mới; hoàn tất việc tạo dựng trong công chính, bình an và tự do.
Kết luận.
Chúa Giêsu nói: “Ta sẽ lôi cuốn hết thảy mọi người!”. Ảnh hưởng của thập giá luôn luôn lan rộng. Không nỗi đau khổ nào của loài người được tách rời ra khỏi thập giá, không niềm hy vọng nào nảy sinh trong lòng lại bị chối bỏ. Thập giá của Chúa Giêsu làm cho thế giới này được sống. Như từ một nguồn suối, sự sống đang tuôn trào từ thập giá, đang thấm nhuần và biến đổi thế giới này.
34. Chúng ta đang sống ở giờ nào? – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Trong Phúc Âm của thánh Gioan, Chúa Giêsu thường hay nói đến “giờ” của Người. Giờ của Người đây, tức là lúc Người đạt tới đỉnh sự mệnh Cứu thế của Người, nghĩa là cuộc Khổ nạn và sự Sống lại của Người. Không nên tách rời hai việc đó. Cái chết là sự vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, như sự Phục Sinh đem lại cho nó một ý nghĩa bằng cách đề cao và tăng thêm sự sống. Giờ của Chúa Giêsu vừa là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, vừa là ngày Chúa Nhật Phục Sinh và giờ đó, ngày nay vẫn tiếp trong mỗi người Kitô hữu là một kẻ cũng bị đóng đinh và Phục Sinh. Ở đây, Chúa Giêsu dùng dịp mấy người ngoại giáo đến gặp Người để nói về Giờ của Người. Những người ngoại giáo này là những người “Hy lạp” có cảm tình với đạo Do Thái. Họ đến Giêrusalem để hành hương, mặc dầu họ chưa thuộc về dân của Abraham. Đồng thời Chúa Giêsu cũng nói đến Giờ của Người, tức là sự Cứu chuộc, cũng dành cho người này. Tại sao vậy? Người nói đến sự Cứu chuộc bằng cách đem so sánh với hạt lúa gieo xuống đất chết đi trổ lên thành bông khác. Hạt giống chết đi, chính là Người, Đức Giêsu. Những hạt lúa được tăng gấp lên trong bông lúa là tất cả các dân tộc, hết thảy mọi người, tất cả những người “ngoại giáo” sẽ trở thành tín hữu.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, chúng ta nêu lên ba đề tài suy tư:
1) Hết thảy mọi Kitô hữu được kêu gọi sống “Giờ của Chúa Giêsu”. Chúng ta phải lưu ý điểm này là trong Phúc Âm của thánh Gioan, hai tiếng Vinh quang, và Chết rất gần nhau, hầu như nhập làm một. Điều này gợi lên cho chúng ta hai ý: thứ nhất, người Kitô hữu không được miễn trừ việc khai tử nơi mình, những gì chống lại sự sống thật. Phép rửa tội đã dấn thân họ trong một mầu nhiệm của sự chết. Họ không hơn Thày họ. Họ phải chết về thể xác, song họ cũng phải qua một cái chết tinh thần nào đó. Cái chết tinh thần được mệnh danh là sự từ bỏ chính mình. Thứ hai, họ có được phép vì thế, mà phải tỏ ra vẻ khắc khổ và buồn sầu không? Trái lại là khác, họ cũng đồng thời phải sống mầu nhiệm Phục Sinh-Vinh quang và hoan lạc. Sự từ bỏ của người Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự hiệp nhất với cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, trong việc bắt chước Chúa Giêsu. Đức Giêsu Kitô đã liên kết trong “Giờ” của Người cái thực tại bất khả phân của sự đau khổ và sự tôn vinh của Người. Người Kitô hữu, người của sự từ bỏ cũng vậy, họ cùng lúc phải là người của sự hoan lạc tinh thần. Phải chăng “Giờ” của Chúa Giêsu là đánh dấu mỗi giờ trong cuộc đời chúng ta?
2) Mỗi người Kitô hữu đều được kêu gọi trở thành hạt giống gieo xuống đất. Điều này làm nên phần riêng của tình trạng việc cứu rỗi thế giới. Dầu bên ngoài có được kêu gọi hay không, mỗi người Kitô hữu do sự kết hiệp với Đức Kitô cũng có được mời gọi tham gia vào việc cứu rỗi hết mọi người anh em mình. Nếu họ không thể hành động được, người đó hãy nuôi dưỡng ý chí tán dương mà của lễ thầm kín của sự cầu nguyện, đau khổ và cái chết của người đó kết hiệp cùng Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa, để cứu rỗi nhiều anh em mình. Nếu họ có sứ mệnh hoạt động thì họ phải nhớ rằng sự hiệu nghiệm của các hoạt động mình tùy thuộc trước hết và trên hết sự hiệp thông của mình với lời cầu nguyện và cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu.
3) Chúa Giêsu nói: “Ai yêu sự sống mình thì mất nó, còn ai ghét sự sống mình đời này thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời!” Điều quan trọng là phải hiểu Đức Kitô muốn nói gì. Đây không phải là chuyện tương phản giữa yêu và ghét. Chúa Giêsu nói bằng ngôn ngữ đó, sự tương phản nhiều khi chỉ là 1 cách so sánh. Chúa Giêsu nói: “Ai yêu sự sống đời này hơn số phận vĩnh cửu của mình sẽ mất hết.
Vậy để được sống đời đời, phải biết từ bỏ ít nhiều thỏa mãn thế tục. Như vậy người ta gặp lại ở đây đề tài: phải biết chết cho mình, để đạt tới đời sống đích thật. Người Kitô hữu theo Chúa Giêsu trong sự đau khổ và trong cái chết của Người, nghĩa là trong lễ tế của Người, và cũng theo sát Người trong cuộc Phục Sinh và Vinh quang Người, trong lúc chờ đợi thực hiện cho mình lời hứa của Thày Chí Thánh: Ta ở đâu, môn đệ Ta cũng sẽ ở đấy (Gio 14,3).
35. Quy luật sự sống.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cái chết của ông Y Rabin, Thủ Tướng Israel ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước vùng Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha thứ cho người Hồi Giáo. Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động. Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống và sự điệp của Ngài?
Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá giữa hai tên trộm cướp. Thời Đế quốc Rôma cai trị Palestine có biết bao người đã chết như thế, nhưng cái chết của Chúa Giêsu có lý do sâu xa hơn bất cứ một cái chết nào. Chúa Giêsu đã có thể lẩn tránh được một cái chết như thế: Ngài đã làm cho kẻ chết sống lại được, thì việc thoát tay kẻ thù đối với Ngài không phải là chuyện khó. Ngài cũng có thể tránh được một cái chết như thế bằng cách thay đổi thái độ đối với những kẻ đang tìm cách hãm hại Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hành động như thế. Các sách Tin Mừng thuật lại rằng Ngài đã tự nộp mình cho kẻ thù. Ngài chết để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết. Một cuộc giải phóng vượt lên trên và bao trùm mọi thứ giải phóng khác. Từ nay, với cái chết của Chúa Giêsu, sự chết không còn là một thực tại đáng sợ nữa, nhưng nó là cửa ngõ dẫn vào cuộc sống vĩnh cửu.
Thánh Gioan hôm nay đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực của cái chết của Chúa Giêsu: hình ảnh của một hạt giống bị mục thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác”. Cũng vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không kết thúc ở một cái chết cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu sung mãn của sự sống lại, một sự sống có khả năng tập họp mọi dân nước trong Nước Trời.
Tuy nhiên, là Thiên Chúa nhưng cũng là con người và như mọi con người, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua những giờ phút xao xuyến trong tâm hồn khi phải đương đầu với kẻ thù và cái chết nhuốc hổ trên thập giá: “Bây giờ tâm hồn Con xao xuyến, Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này…” Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ xin Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi “Giờ” đen tối hay khỏi “uống chén đắng” này. Trong bài đọc 2, chúng ta còn được Thánh Phaolô cho thấy tâm trạng của Chúa Giêsu khi đứng trước “Giờ” của thập giá: “Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết…” Cuối cùng, Chúa Giêsu đã không xin Cha cứu Ngài khỏi chết mà xin cho Danh của Cha được tôn vình. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin Thiên Chúa hãy tỏ ra Ngài là một người Cha, bằng cách hoàn tất công trình yêu thương của Ngài đối với con người, ngang qua cái chết và sống lại của Con của Ngài. Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận “Giờ” của sự phục vụ cho tới hơi thở cuối cùng trên thập giá, nhưng đồng thời cũng là “Giờ” Con Người bước vào vinh quang. Có điều “vinh quang” ở đây không theo ý nghĩa thường tình của chúng ta. Vinh quang ở đây đòi phải trải qua khổ nhục. Vinh quang của hạt lúa đã trổ bông, nặng trĩu và chín vàng, nhưng là sau khi bị chôn vùi dưới bùn rồi nứt nẻ, bứt phá khỏi hình thức hẹp hòi của vỏ trấu, để giờ này mới trở thành nguồn sống, và lại sẵn sàng nẩy mầm, phát triển, tăng gấp mãi.
Thánh Gioan đã diễn tả chân lý này như một quy luật tất yếu cho sự sống phát sinh và đạt tới ý nghĩa cuối cùng: Hạt lúa và bất cứ thứ hạt giống thực vật nào, đều mang ý nghĩa và sứ mạng truyền sinh, tăng gấp nguồn sống ẩn chứa trong bản thân. Thế nhưng, muốn thể hiện ý nghĩa và sứ mạng này, nó phải qua tiến trình biến dạng hoàn toàn, phải chết đi. Chúa Giêsu đã chấp nhận quy luật này, và vẫn đang “lôi kéo mọi người theo Ngài”.
Thưa anh chị em,
Là quy luật, là chân lý Chúa Kitô mạc khải, làm sao con người chúng ta có thể tránh né? Mặc dầu biết rõ mình phải nứt nẻ, bứt phá, lột xác, phải chết đi, mới góp phần làm phát sinh sự sống. Thế nhưng chúng ta vẫn thường coi trọng và bảo vệ cái cũ, những gì là quen thuộc, dễ dãi, dễ chịu hơn là đổi mới. Sống giữa một xã hội đang chủ trương đổi mới, thế mà chỉ mới đặt lại vấn đề đổi mới một số tư tưởng, cách làm ăn, tổ chức đời sống xã hội… cũng đủ làm chúng ta e ngại, lo âu. Nói chi đến thay đổi cả nếp sống trước đây vẫn được tôn trọng. Định luật của sự sống là đổi mới. “Hat lúa phải mục nát đi trong lòng đất mới nảy sinh nhiều bông hạt”. Chúa Giêsu đã nói đến cái chết của Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự sống mới cho mọi người. Ngài phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn dân trở thành tín hữu và tất cả đều được cứu chuộc.
Còn chúng ta, được mời gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng đừng quên định luật căn bản của sự sống, đó là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga 12,25). Đi theo Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ cuộc sống và cả cái chết của Ngài. Bài học của thập giá đó là đã có những cái chết không uổng công mà trái lại còn nảy sinh nhiều hoa trái, đó là cái chết vì tình thương, vì hạnh phúc, vì sự cứu độ của kẻ khác, vì sự giải phóng con người đồng loại, vì những cái gì còn đáng quý hơn cả chính mạng sống của mình, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin…
Ở đây, Chúa Giêsu đặt chúng ta trước một thang giá trị. Chính khi con người biết vượt ra khỏi cái vỏ ích kỷ để sống một cuộc sống quảng đại, vì người khác, dù có phải vì thế mà hy sinh cả mạng sống của mình, con người đã thực sự bước vào cuộc sống mới. Điều Chúa đòi hỏi nơi những kẻ muốn đi theo Ngài thì Ngài thực hiện nơi chính bản thân Ngài.
Anh chị em thân mến,
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta. “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (x. Tin Mừng 2,8-12). Ai ham sống, sợ chết, sẽ đánh mất tất cả. Người dám theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc sống hiện tại, sẽ được cuộc sống muôn đời.
36. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu.
(Suy niệm của Noel Quesson)
“Phần tôi, một khi được nâng lên khỏi mặt đất. Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”.
Năm 1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà tù Ốt-suýt (Auschwits) của Đức quốc xã. Đó là một nhà tù nổi tiếng khủng khiếp, và đã có quy định là nếu một người trốn trại thì sẽ có mười người khác thế mạng. Giám thị trại giam tập họp tù nhân lại và đếm ra 10 người. Một trong đám mười người bị tử thần điểm danh này bỗng òa khóc: “Trời ơi, vợ tôi, con tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa!”. Cha Maximilianô Kônbê (Maximiliano Kolbe) cũng là tù nhân ở trại lúc đó, nghe tiếng than của người tù. Cha động lòng thương, Ngài tiến lại kéo anh tù ra, và đứng vào chỗ anh cho đủ mười người. Cha Kônbê và 9 bạn tù bị bỏ đói hai tuần lễ và kết thúc cuộc sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hỏa táng và sử dụng như phân bón.
Người tù thoát chết tên là Phanxit (Francis Gap Wniczek) kể lại chuyện này. Anh nói sau cái chết của Cha Kônbê, tinh thần trại giam thay đổi hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất thân ái, chia sẻ từng mẩu bánh, từng muỗng canh, ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh mạng sống để cứu một người anh em.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong Thánh cho Cha Kônbê vào tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài làm bổn mạng của thời đại khó khăn. Giáo Hội mong ước các tín hữu noi gương Cha Kônbê, và cũng là noi gương Chúa Giêsu, sẵn sàng hy sinh cho anh em đồng loại.
Chúa Giêsu đã chọn cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng ta là những tội nhân đáng phải chết, mà Chúa đã chết thay cho chúng ta. Chúa chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Người đối với ta như Người đã nói: Không có tình yêu nào lớn lao bằng hy sinh mạng sống vì người mình yêu.
Chúa Giêsu cũng có nhân tính, cũng là người như chúng ta, cũng biết đau khổ và cái chết là tận cùng của đau thương. Chúa cũng thấy ngại ngùng lo sợ, cơn hấp hối đã bắt đầu: “Tâm hồn Ta xao xuyến”, “Xin Cha cứu con khỏi giờ này”. Nhưng Chúa can đảm trở lại ngay. Nhưng không, “Con tới chính vì giờ này. Lạy Cha xin làm vinh quang Cha”.
Đường khổ giá không phải chỉ dành cho Chúa. Các Môn đệ Chúa phải hy sinh vì anh em, để chứng tỏ mình yêu thương mọi người, có vậy mới chứng tỏ được rằng mình yêu Chúa.
Can đảm bước theo Chúa trên đường Thánh giá là xây dựng vinh quang cho mình mai sau. Lời Chúa và cuộc sống của Chúa đã bảo đảm điều đó.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con trên đường theo Chúa hôm nay, biết sẵn sàng chia sẽ cuộc sống với những người anh chị em đau khổ.
37. Suy niệm của Lm. Vũ Thái Hoà.
Hạt lúa phải được vùi xuống đất để sinh nhiều bông hạt
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh ngay sau khi Đức Giêsu vào đền thánh Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, được dân chúng cầm nhành lá thiên tuế tiếp đón và tung hô. Vì thế những người Pharisêu bảo nhau: "Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!" (c.19). Bằng chứng là, theo câu đầu của Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, có một số người Hy Lạp đến gặp ông Philípphê để xin cho "được gặp ông Giêsu".
Chúa Giêsu trả lời họ: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!" Giờ vinh quang của Con Người chính là giờ của thập giá, giờ Đức Giêsu vâng lời Chúa Cha hoàn tất công cuộc cứu thế. Chúng ta tưởng như Đức Giêsu không màng tới mấy người Hy Lạp muốn đến gặp Người, nhưng thực ra Người muốn trả lời với họ một cách sâu xa rằng: qua sự tôn vinh của Người, nghĩa là qua cuộc Thương Khó của Người, không những các người Hy Lạp, mà tất cả các dân tộc trên thế giới "được gặp Đức Giêsu", được lãnh ơn cứu độ: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác." Đức Giêsu chính là hạt lúa gieo xuống đất: nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Người mà toàn thể nhân loại được cứu độ. Đức Giêsu không những chiến thắng sự chết, nhưng quan trọng hơn nữa, chính qua sự chết, Người ban sự sống: "Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi". Nếu trước đó tội lỗi và sự chết lôi kéo con người xuống, thì giờ đây, thập giá của Đức Kitô sẽ lôi kéo mọi người lên và ban ơn cứu độ cho toàn nhân loại.
Đức Kitô kêu mời mỗi người chúng ta theo gương Người, trở thành như hạt lúa: cần phải được vùi xuống đất, chết đi để sinh nhiều bông hạt. Không phải chết về thể xác, nhưng chết về những tính xấu trong con người của chúng ta: ích kỷ, kiêu căng, bất công, thù oán... Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được dìm vào trong nước thanh tẩy, nghĩa là được dìm trong cái chết của Đức Kitô và cùng sống lại với Người, sống một đời sống mới (Rm 6,3-5).
Trong đời sống mới này, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cần phải theo sát gót Người: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy". Theo Thầy Chí Thánh vác thập giá mỗi ngày, hy sinh quên mình phục vụ tha nhân, ngay cả đến việc hy sinh mạng sống của mình vì Đức Kitô.
Ước gì, trong Mùa Chay thánh này, chúng ta sống như hạt lúa: biết hoán cải lòng mình để sống thánh thiện hơn, mến Chúa hơn, và sống bác ái hơn với mọi người, để chuẩn bị tích cực mừng đại lễ Phục Sinh sắp tới.
38. Hạt lúa.
Chuyện cổ Ấn Độ kể lại như sau:
Một chàng thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Và rồi Chúa đã đến với anh qua vóc dáng của một con người đẹp đẻ, uy quyền và dễ mến. Ngài đề nghị với anh:
- Con hãy đi theo Ta một đoạn đường.
Chàng thanh niên cảm thấy hạnh phúc khi cùng bước đi với Chúa. Được một lúc, Chúa bảo:
- Ta khát, con hãy đi tìm cho Ta một chút nước.
Chàng thanh niên hăm hở đi tìm. Đi mãi đi hoài mà chẳng thấy. Cuối cùng anh cũng đến được bên dòng sông. Anh đang chuẩn bị múc nước thì một cô gái xuất hiện. Cô gái đẹp đến độ làm cho chàng thanh niên mê mẩn tâm thần, thậm chí quên cả việc đem nước về cho Chúa. Anh làm quen, trò chuyện với cô gái và hai người lấy nhau, sinh con đẻ cái.
Thế rồi một năm kia, lũ lụt xảy ra. Mưa đổ xuống và nước dâng lên. Chỉ một mình anh may mắn bám vào cành cây là được cứu thoát. Còn tất cả vợ con, nhà cửa và sản nghiệp anh đã chắt chiu vun trồng và tích lũy, đều bị dòng nước cuốn trôi. Giữa lúc anh đang tiếc nhớ khóc thương cho số kiếp bẽ bàng và cay đắng của mình, thì Chúa hiện ra và nói với anh:
- Con có mang nước về cho Ta không đó. Con làm gì lâu thế, bắt Ta phải chờ hoài.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó Chúa nhắn nhủ chúng ta:
- Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình. Còn nếu nó chết đi, thì mới sinh nhiều bông hạt.
Lời nói này trước hết được thực hiện nơi chính bản thân Ngài. Thực vậy, như một hạt lúa được gieo vào lòng đất, thì khi đi vào trần gian mang lấy thân phận con người, Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, và nhất là đã chấp nhận chết đi một cách nhục nhã trên thập giá, để rồi từ đó trổ sinh hoa trái của sự phục sinh vinh hiển. Đúng như lời thánh Phao lô đã diễn tả:
- Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá, vì thế Thiên Chúa đã nâng Ngài lên, ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Còn chúng ta thì sao? Nhiều lúc chúng ta cũng đã hành động giống như chàng thanh niên, đó là chúng ta mặc dầu muốn theo Chúa, nhưng lại muốn có một cuộc sống dễ dãi và tiện nghi. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại bắt Chúa phải chiều theo ý riêng mình. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại dễ dàng quên Chúa để thỏa mãn những tham vọng cá nhân, để rồi sẽ bán Chúa như Giuđa, và chối Chúa như Phêrô. Chúng ta không còn nhớ tới lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Hay như lời Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay:
- Hạt lúa phải chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt.
Thế nhưng, cho tới lúc này, liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những tham vọng bất chính hay chưa. Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những ước muốn vẩn đục hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những toan tính gian tham và độc ác, oán ghét và hận thù hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho con người cũ với những khuyết điểm và tội lỗi hay chưa? Trong thinh lặng, mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống và tự tìm lấy câu trả lời cho riêng mình.
39. Chết đi
Trong cuộc sống của người Kitô hữu, người ta nhận thấy có nhiều nghịch lý. Một trong các nghịch lý đó là chúng ta phải học biết chết đi để sống cho người khác. Điều này nghe có vẻ chói tai nhưng lại là một sự thật. Ví dụ hùng hồn nhất là cái chết của hàng triệu chứng nhân đã hiến dâng mạng sống mình như những vị tử đạo vì đức tin Công giáo, trong nhiều thế kỷ vừa qua. Điều này được nổi bật lên qua câu nói: “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu”.
Tôi muốn phản tỉnh về cách dâng hiến của cuộc sống của chúng ta. Tôi tin việc mỗi người chúng ta sống xứng đáng là một chứng nhân Kitô giáo là điều ngày càng trở nên cần thiết hơn. Điều này làm chứng cho khả năng của Tin Mừng có thể trả lời cho những vấn đề của thế giới ngày hôm nay. Tôi đang nói về giá trị làm chứng của cuộc sống hàng ngày của các thánh. Ở đây tôi không có ý nói đến các vị được Giáo Hội phong thánh, nhưng đúng hơn là giá trị làm chứng của cuộc sống của những ai dấn thân sống thực sự căn tính Kitô hữu của mình một cách trọn vẹn.
Chúa Giêsu nói về một hạt giống phải chết đi để cây có thể mọc lên và cho một vụ mùa bội thu. Điều tương tự cũng xảy ra cho mỗi người trong chúng ta. Nếu chúng ta muốn cuộc sống của mình đem lại một vụ mùa bội thu cho Nước Thiên Chúa, thì trước hết chúng ta phải quyết định chết đi cho chính mình, nghĩa là làm chết đi mọi khát vọng và ước mơ không phù hợp với kế hoạch mà Thiên Chúa đã vạch ra cho cuộc sống của chúng ta. Điều này không phải là một việc dễ làm. Tôi nghĩ ít ai chịu hy sinh chỉ vì thích hy sinh. Tuy nhiên, việc chúng ta đang làm thì khác. Chúng ta hy sinh chính mình là để cho Nước Thiên Chúa ngự đến, không chỉ trong cuộc sống của chúng ta mà thôi nhưng còn trong cuộc sống của những người khác nữa. Điều này thì đáng giá hơn cả việc chúng ta tự hy sinh chính mình.
Chúng ta được mời gọi để trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới. Chúng ta sẽ không đáp trả được lời mời gọi này, nếu chúng ta không chấp nhận hy sinh. Chúng ta hãy chọn lựa hy sinh với niềm vui để có thể đáp trả được lời mời gọi này và dâng hiến tất cả cho Chúa Giêsu và Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con quảng đại trong việc dâng hiến cuộc sống để phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Xin giúp con đừng tính toán thiệt hơn nhưng xin cho con cảm nghiệm được niềm vui sống trọn vẹn cho một mình Chúa mà thôi.
40. Chết để sống
Trong khi đưa chúng ta tới gần Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta đọc bài Tin Mừng hôm nay cùng với những lời ngôn sứ Giêrêmia loan báo giao ước mới và lời thư gửi tín hữu Do Thái nói về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, là để bảo cho chúng ta biết: chúng ta phải nhìn vào cái chết của Chúa, không phải chỉ như một biến cố đã qua trong lịch sử, cũng không phải chỉ như một biến cố đau buồn đưa tới tuyệt vọng. Chúa Giêsu chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống, Chúa chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ, để chúng ta nhìn lên Ngài và được cứu sống.
Trước hết, bằng một lời mạc khải long trọng, Chúa Giêsu lấy thí dụ hạt lúa gieo xuống đất, phải qua con đường nào để sinh ra những hạt lúa khác: hạt lúa phải chết đi, nghĩa là nó phải đánh đổi cái dạng hiện thời của nó để trở thành cây lúa, Chúa nhấn mạnh vào sự đánh đổi cái hiện tại của hạt lúa. Ý nghĩa của thí dụ này có lẽ chúng ta đều đã hiểu, Chúa muốn nói rằng: Ngài phải đi vào cõi chết để đem muôn người vào sự sống mới. Tuy nhiên, Chúa không áp dụng ngay vào bản thân Ngài mà lại nêu lên qui luật chung để áp dụng cho tất cả những ai muốn bước theo Ngài, phục vụ Ngài: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Sự đối chọi giữa yêu và ghét ở đây, chúng ta cần hiểu cho đúng, theo kiểu nói của văn chương Kinh Thánh, cặp “yêu – ghét” có nghĩa là khư khư giữ lấy và từ bỏ, coi nhẹ: kẻ khư khư bám lấy mạng sống của mình, bám lấy như một cái tuyệt đối, thì giống như hạt lúa trơ trọi một mình, không đánh đổi hiện tại để hướng tới tương lai. Mạng sống hiện tại, chẳng ai giữ được mãi nếu không chấp nhận đánh đổi thì mất là mất luôn, trái lại, ai không bám lấy mạng sống hiện tại, nhưng coi nhẹ để dám đánh đổi thì sẽ giữ được, vì nó được biến đổi thành cuộc sống vĩnh cửu. Như vậy, đánh đổi ở đây có nghĩa là qui hướng cuộc sống hiện tại về cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đem đến.
Gương mẫu tuyệt vời về sự đánh đổi này là Chúa Giêsu. Nhìn vào cuộc đời Chúa, chúng ta thấy Ngài đã đánh đổi trọn vẹn, trước hết, Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, sang giàu, ngay từ giai đoạn đầu tiên của một con người: sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn nhất, thiếu thốn nhất và bị đe dọa nhất, Ngài đã từ bỏ để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, khiêm hạ trong một gia đình lao động ở xứ Nagiarét cũng vô danh. Vào giai đoạn công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh, với hai bàn tay trắng, và suốt ba năm, Ngài thực sự trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị từ khước, bị chụp mũ. Cuối cùng, cách thế để đi đến chiến thắng vinh quang cũng lại là một cách thế đau thương, khốn cực nhất của trần gian.
Hơn nữa, Ngài còn phải trải qua những giây phút giằng co, đau khổ vì quyền tự do tuyệt đối của Ngài. Tự do của con người thường bị hạn chế bởi nhiều yếu tố: hoàn cảnh, xã hội, thiên nhiên… nhưng tự do của Chúa thì trọn vẹn, không bị hạn chế gì hết, chính sự tự do tuyệt đối này mà cái bi thiết nhất của Ngài là Ngài có thể từ chối với Chúa Cha con đường thập giá, nghĩa là Ngài có thể nhảy xuống khỏi thập giá, có thể sai thiên thần đến diệt bọn lý hình, có thể thâu hồi về tay Ngài tất cả những bất công, bạo tàn của tòa án… nhưng Ngài đã không làm, Ngài đã không thay đổi ý kiến vào những giờ phút cuối cùng. Thực vậy, sau những giờ phút giằng co quyết liệt, Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con mà chỉ theo ý Cha mà thôi”. Tóm lại, Chúa Giêsu đã hoàn toàn hy sinh, từ bỏ, hoàn toàn đánh đổi cuộc đời mình, đánh đổi đến cấp độ thực sự bị dìm vào cái kinh hoàng của một con người không còn một chút gì, đến nỗi như hoàn toàn rơi vào cái trần trụi đau thương khủng khiếp. Nhưng tất cả chỉ vì một lý do này, là Ngài muốn mình phải chết đi, như một hạt lúa, để trổ sinh vô số bông lúa vàng.
Nhìn về chúng ta, chúng ta hãy nhớ: Thiên Chúa muốn chúng ta trong khi sống ở đời này, một đàng chúng ta phải ân cần làm việc để tận hưởng hoan lạc, thì đồng thời chúng ta cũng phải lo thu tích công nghiệp cho đời sau. Và hơn thế nữa, phải nghĩ đến tương lai vĩnh cửu hơn là hiện tại chóng qua, phải biết biến đổi những kết quả đời này thành hạt giống để gieo vào đất ở trên trời. Như vậy là tạm thời chịu thiệt thòi, nhưng sẽ được lợi lãi vô kể và nếu điều đó không luôn luôn bảo đảm hoàn toàn việc rỗi linh hồn dưới mọi khía cạnh, thì ít là cũng bảo đảm số phận đời đời, bởi vì nếu hy sinh là định luật của hạt lúa, thì nó càng là định luật của con người: hạ mình để lên cao, chết để sống lại, hy sinh để làm ích, làm mất đời sống thấp kém, mau qua, nghèo nàn để chinh phục đời sống cao quý, đầy đủ, vinh quang và bất diệt. Đó là bổn phận thiết yếu của tất cả mọi người.
Mỗi người hãy tự nhủ: tôi là một giấc mơ yêu thương của Thiên Chúa, vì thế, tôi phải trở thành một người lý tưởng, tốt đẹp như ý Chúa muốn. Đời tôi là một tấm vải, tôi dệt đời tôi, sợi này đến sợi khác, ngày này qua ngày khác, tôi phải dệt làm sao để trở thành tấm vải tuyệt đẹp, nghĩa là chúng ta phải sống, làm việc, sinh hoạt, giao tiếp và chu toàn những bổn phận tầm thường hằng ngày với một tâm hồn phi thường, một tinh thần trách nhiệm và một lương tâm ngay lành, đồng thời trung thành cải thiện chính mình mỗi ngày một chút, bằng cách mỗi ngày tự kiểm điểm lại những khuyết điểm, và đề ra những quyết định cho ngày hôm sau, với châm ngôn: “Ngày hôm nay phải hơn ngày hôm qua”, hoặc như một giám mục đã nói: “Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài, phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp, sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh”.
41. Ta là Sự Sống Lại và là Sự Sống
Trong cuốn sách, Tình Yêu Vô Điều Kiện, cha John Powell kể lại một câu truyện về Tommy, một trong những học sinh của cha.
Tommy là một người tự xưng là vô thần. Anh không tin bất cứ một sự kiện gì cả. Anh đặc biệt lên án ý tưởng rằng Thiên Chúa có thể yêu thương nhân loại một cách vô điều kiện.
Sau cùng, mùa học đã tới lúc mãn khóa. Khi Tommy nộp bài thi cuối năm, anh nói với cha một cách nhạo báng, "Cha thử nghĩ coi, tôi có thể tìm thấy Thiên Chúa không?" Cha đáp lại, "Không, Tommy ơi, anh không thể tìm thấy Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa sẽ tìm thấy anh." Anh chỉ nhún vai và bỏ đi.
Vài năm sau, cha được tin là Tommy đang sắp sửa chết vì bệnh ung thư. Trước khi cha có thể liên lạc với Tommy, Tommy đã liên lạc với Cha.
Khi Tommy đến gặp cha, cha nhận thấy thân xác của anh đã rã rời và bộ tóc của anh đã rụng hết do các thuốc chữa ung thư mà anh uống. Tommy nói:
"Con đến với Cha, vì những gì Cha đã nói với con trong buổi học sau cùng. Cha nói, con không thể tìm thấy Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa sẽ tìm thấy con.
"Đúng thế, khi bác sĩ cho con biết con chỉ còn một thời gian ngắn để sống, con đã làm một việc mà con không bao giờ nghĩ là con sẽ làm. Con đã bắt đầu cầu nguyện rất nhiều với Thiên Chúa. Thế nhưng không có chuyện gì xảy ra cả. Không một ai trả lời con.
"Con cố gắng nhiều hơn nữa! Thế nhưng cũng vậy, không gì xảy ra cả. Không ai trả lời con cả. Sau cùng, sau khi đã cố gắng thêm một vài lần nữa, con đã đầu hàng bỏ cuộc.
"Con nghĩ rằng, thật là bất hạnh cho một người chết đi mà không có tình yêu; thật là bất hạnh cho một người chết đi mà chưa nói với người mình yêu thương rằng mình thật sự thương yêu họ. Con đã quyết định làm việc đó.
"Con bắt đầu từ một người khó chịu nhất: chính là ba con. Một đêm nọ, trong khi chúng con ở nhà một mình, con đã nói với ba về việc con cảm nghĩ thế nào về ông. Sau đó, ông đã làm việc mà con không thể ngờ. Ông đã khóc và ôm con vào lòng. Chúng con đã nói chuyện suốt đêm, mặc dù ba con phải dậy đi làm sáng hôm sau.
"Khi nói với mẹ con và các anh em con rằng con yêu mến họ thì thật dễ dàng hơn. Giống như ba con, họ cũng khóc và ôm chầm lấy con.
"Sau đó, một sự kiện bất ngờ xảy ra. Không biết từ đâu, Thiên Chúa đã đến với đời sống của con. Ngài đến với một sức mạnh và quyền lực mà con không thể nào không nhận thức được. Đúng thế, thưa Cha, Ngài đã tìm thấy con! Ngài đã thật sự tìm thấy con!"
Ít lâu sau, Tommy đã qua đời, nhưng anh đã khởi sự một cuộc sống trong một phương thức khác. Anh khởi sự sống trong cách thức mà Chúa Giêsu đã nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống."
Trong trường hợp phép lạ của Lazarô, điểm quan trọng không phải là việc Chúa làm cho một người bạn sống lại. Điểm quan trọng là, Chúa Giêsu muốn dùng phép lạ này để dạy dỗ cho ta điều gì.
Chúa Giêsu muốn dùng nó để nói lên một cách tượng hình những gì mà Ngài đã nói với Martha: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Ta, thì dù có chết, cũng sẽ sống."
Những gì mà Chúa Giêsu đã làm cho Tommy và Lazarô, thì Ngài cũng muốn làm cho chúng ta. Ngài muốn ban cho chúng ta một sự sống mới. Ngài muốn chia sẻ cho chúng ta chính sự sống của Ngài. Ngài muốn làm cho chúng ta sống lại trong đời sống vĩnh cửu.
Đây chính là sứ điệp của Mùa Chay. Nó có ý nói về việc mở rộng tâm hồn của chúng ta với tha nhân, giống như Tommy đã làm với gia đình của anh, hầu qua đó Chúa Giêsu có thể thực hiện cho chúng ta những gì Ngài đã có thể làm cho Tommy.
Nó có ý nói về việc đón nhận một đời sống mới từ Chúa Giêsu trong ngày hôm nay, hầu chúng ta có thể đón nhận đời sống vĩnh cửu từ Chúa Giêsu trong ngày sau cùng.
42. Hy sinh
Hy sinh và gian khổ là điều kiện cần thiết cho tình yêu cũng như cho sự phát triển. Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh vừa sống sộng lại vừa gần gũi để nói lên sự thật trên.
Ngài nói:
- Một hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, cần phải mục nát đi thì mới nẩy mầm, đâm bông và kết trái, bằng không thì nó chỉ trơ trụi một mình, làm mồi cho chuột bọ mà thôi. Chính sự mục nát ấy đã làm phát sinh ra sự sống mới.
Trong lãnh vực con người cũng thế. Để chúng ta được khôn lớn cho tới ngày hôm nay, thì cha mẹ chúng ta đã phải gánh chịu biết bao nhiêu gian khổ. Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi lại còn nuôi dưỡng chúng ta từng giờ, từng phút. Chính vì thế mà ca dao Việt Nam đã từng ca tụng:
- Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Có lẽ chính bản thân chúng ta cũng đã cảm nhận được kinh nghiệm ấy. Chẳng hạn như ngày hôm nay, các em nhỏ phải cắp sách tới trường. Việc học hành đòi hỏi các em phải siêng năng, phải chăm chỉ, phải cố gắng. Tất cả những kiến thức các em vất vả thu lượm được, sẽ là như một số vốn để các em đầu tư cuộc đời của mình và mai ngày sẽ đem lại cho các em những thành công rực rỡ.
Từ những thí dụ cụ thể trên chúng ta đi vào cuộc sống của Chúa Giêsu, và thấy được những gì?
Nếu đọc lại Phúc Am chúng ta thấy Chúa Giêsu bỏ trời xuống đất, mặc lấy thân phận con người, đã sống một cuộc đời nghèo túng và nhất là đã chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá. Thế nhưng, Chúa Giêsu nhằm tới những gì qua những hy sinh gian khổ ấy?
Tôi xin thưa, với những hy sinh gian khổ ấy Chúa Giêsu cho chúng ta thấy tình yêu của Ngài thật bao la. Khi suy gẫm về mầu nhiệm thập giá, thánh Phaolô đã phải kêu lên:
- Chúa đã yêu thương tôi, và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Chúng ta thường ca tụng những người dám hy sinh mạng sống mình vì kẻ khác.
Chẳng hạn cha Maximilien Kolbe đã chết thay cho một bạn tù được sống. Cha Đamiêng đã hy sinh đến sống với những người phong cùi ở Molokai. Chúa Giêsu cũng thế, Ngài đến sống với chúng ta và chết vì chúng ta như lời Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Tiếp đến, Chúa Giêsu đã chấp nhận những hy sinh gian khổ ấy là để cho chúng ta được sống và được sống vĩnh cửu. Trong Phúc Am có lần Ngài đã phán:
- Ta đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Trong bữa tiệc ly Ngài cũng nói với các môn đệ:
- Này là Mình Ta sẽ nộp vì các con. Này là Máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội.
Với cái chết ô nhục trên thập giá, Ngài giao hòa chúng ta với Thiên Chúa, tẩy xóa mọi dấu vết của tội lỗi, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Thiên Chúa, cũng như quyền được thừa hưởng phần gia nghiệp nước trời.
Chính vì thế, chúng ta hãy suy nghĩ và cảm tạ tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta phải làm gì để đáp trả tình yêu thương bao la ấy.
43. Từ bỏ
Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay hướng chúng ta dần dần tới cái chết đau thương và sự phục sinh vinh quang của Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh: hạt lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái chết của Ngài. Nhưng hạt lúa gieo xuống đất để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa thế nào?
Một hạt lúa gieo xuống đất là nó chấp nhận chết đi để mưu ích cho con người, nghĩa là nó trở thành một cây lúa xanh tươi, để rồi sau này sẽ nhân thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức triệu hạt lúa khác, một cách vô định hay bất tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói ngoa khi tuyên bố: “Nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Như vậy, nếu không chấp nhận chết đi, thì hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách ích kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu nó chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng cách chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang các bông hạt sau này, nghĩa là sự sống từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng nó sẽ tồn tại mãi mãi.
Chúa Giêsu là một hạt lúa đầu tiên như thế. Ngài đã làm chết đi nơi mình những gì “là Chúa” và “của Chúa” để cứu chuộc chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đích thực. Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, giàu sang, danh vọng và quyền uy để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba mươi năm trời, không ai để ý tới, không có một ưu đãi nào dành cho con nhà giàu, nhà sang. Rồi khi hoạt động công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh. Ngài đi theo con đường của một người không có thế lực, không có bất cứ phương tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời với hai bàn tay trắng, không một lời giới thiệu, gửi gắm của người có uy quyền. Và suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị khước từ, bị mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi: “Bụt nhà không thiêng”.
Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến thắng vinh quang cũng lại là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai cũng vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất sợ và ghê sợ tử hình. Nhưng Chúa đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông Te-tu-li-a-nô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu”, thì máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu chấp nhận chết đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Kitô khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh thế gian ra ngoài và trở thành Đấng phán xét cả nhân loại. Thập giá trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Tóm lại, Chúa Giêsu đã chết, nhưng không chết luôn mà đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho con người.
Là Kitô hữu, chúng ta chỉ có thể lập công phúc, được cứu rỗi, được sống muôn đời và hữu ích cho người khác… Khi biết từ bỏ sự sống tạm bợ, tức là từ bỏ tất cả những gì mà người đời gọi là “sống”. Có người từ bỏ được tiền của, danh vọng nhưng lại không bỏ được ý riêng mình; có người bỏ được ý riêng của người khác chứ không chịu bỏ ý riêng mình; có người từ bỏ nhiều mà không từ bỏ tất cả; có người bỏ được những cái to lớn nhưng lại không bỏ được những cái nhỏ mọn hay những cái cần phải bỏ; có người bỏ được lúc này nhưng lại không bỏ được lúc khác…
Từ bỏ là một nhân đức của anh hùng. Là một nhân đức được thử luyện mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả hơn ngàn lý do để chối bỏ. Vì thế, chúng ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ bỏ mà chúng ta đã bỏ quên hoặc coi thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ chúng ta có thấy mình cần từ bỏ gì không: một thói quen không tốt, một tật xấu, một tội lỗi hay bất cứ thứ gì không đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần Kitô, không đúng với cung cách một người con của Chúa.
44. Tổn thương
Một số người cứ khăng khăng rằng vị anh hùng của họ không bao giờ tỏ ra bất cứ dấu hiệu yếu đuối nào, không bao giờ biểu lộ sự ngập ngừng, nghi ngờ, không chắc chắn hoặc sợ hãi gì cả. Trong mọi lúc và mọi hoàn cảnh, vị anh hùng phải mạnh mẽ, can đảm và không hề nao núng. Nhưng những vị anh hùng thực sự lại không hề giống như vậy.
Chẳng hạn như trường hợp của Martin Luther King, ông là một nhà lãnh đạo phong trào quyền lợi dân sự tại Mỹ – đó là một công việc khó khăn mà ông đã miễn cưỡng đảm nhận. Công việc này đem lại cho ông những gian khổ, bị lăng mạ, cầm tù và đe dọa đến mạng sống của ông. Cuối cùng, công việc này đòi hỏi cả đến sinh mạng của ông – ông đã bị ám sát chết.
Trong suốt cuộc đấu tranh đó, ông đã từng có nhiều lúc tinh thần bị xuống dốc. Ông kể lại cảnh một đêm kia, ông xuống đến tận cùng của sự choáng váng. Căn nhà của ông đã bị đánh bom. hậu quả là ông cảm thấy mình không thể tiếp tục được nữa. Ông quá mệt mỏi vì những lời xỉ nhục và xúc phạm. Trong tình trạng kiệt quệ vì thất vọng này, ông lao mình xuống quì gối trước mặt Thiên Chúa và cầu nguyện:
“Lạy Chúa, con đã đảm nhận một vai trò mà con tin tưởng là đúng đắn. Nhưng bây giờ, con sợ hãi quá rồi. dân chúng đang mong đợi con làm lãnh đạo. Nếu con đứng trước mặt họ, mà không tỏ ra có sức mạnh, hoặc can đảm, thì họ cũng sẽ bị nao núng. Nhưng con đã cạn kiệt sức lực của con rồi. Con không còn gì nữa. Con không thể đương đầu với tình trạng này lâu hơn được nữa”.
Ông nói rằng vào lúc đó, ông cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa theo một cách thế mà trước đây, chưa bao giờ ông cảm thấy. cảm nghiệm này đã đem lại cho ông khả năng để tiếp tục cuộc đấu tranh.
Martin Luther King không được như một vị anh hùng, bởi vì ông chứng tỏ rằng con người ông không được làm bằng đá. Vì không bao giờ tỏ ra yếu đuối, hoặc dễ bị tổn thương, nên một điều đơn giản là chúng ta không thể tin tưởng vào các vị anh hùng. Chúng ta cũng không thể coi họ như là những mẫu gương cho chúng ta. Chúng ta không thể đồng nhất với họ hoặc bắt chước họ. Mặt khác, khi gặp gỡ một người nào đó do dự, miễn cưỡng và sợ hãi, chúng ta lại cảm thấy rằng người đó dễ tin tưởng hơn. Sự miễn cưỡng này chính là yếu tố cốt lõi của vấn đề. Vị thánh hoặc vị tử đạo nào cứ hăm hở tìm kiếm số phận của họ, thì không bao giờ có vẻ thật. Chúng ta thích nhìn thấy một con người thật đằng sau vẻ anh hùng.
Chính bản thân Chúa không đến với cái chết với bất cứ sự đảm bảo nào. Trong vườn Giệtsimani, Người cũng có giây phút xuống tinh thần tới mức thấp nhất, khi linh hồn Người bị lo lắng quá mức, đến nỗi Người đã thốt lên “Linh hồn Thầy buồn đến chết được”. Thánh Gioan không giải thích về nỗi thống khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu. Nhưng chúng ta bắt gặp một tiếng vang rõ rệt trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giêsu nói “Tâm hồn Thầy xao xuyến”.
Trong một số khía cạnh, nỗi thống khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu là phần an ủi nhất trong Tin Mừng, bởi vì điều đó chứng tỏ rằng Đức Giêsu đang ở khía cạnh nhân loại nhất của Người. Cho đến lúc bấy giờ, Người vẫn kiên quyết tiến tới số phận của Người. Nhưng bây giờ, khi giây phút khủng khiếp đến, Người quá đau khổ, đến nỗi mồ hôi của Người rơi xuống mặt đất, giống như những giọt máu. Người không nhìn vào nỗi đau khổ và cái chết bằng sự bình tĩnh mang tính khắc kỷ. Người kinh sợ trước viễn cảnh đó. Nhờ đâu mà Người có được sức mạnh để đương đầu với tâm trạng kinh hãi đó? Nhờ lời cầu nguyện, và do đó, chính là nhờ ở Thiên Chúa. Có người định nghĩa về lòng can đảm là “Lòng can đảm chính là nỗi sợ hãi đã được thốt ra bằng lời cầu nguyện”.
Nếu không cảm thấy sợ hãi, khi có nguy hiểm đe dọa, thì bạn không phải là con người nữa. Lòng can đảm không phải là không abo giờ cảm thấy sợ hãi, mà chính là có cảm giác sợ hãi, nhưng vẫn cứ tiến tới, bất chấp nỗi sợ hãi đó. “Một người không biết sợ hãi, thì không phải là người anh hùng, nhưng người nào chế ngự được nỗi sợ hãi, mới đích thực là người anh hùng”(Solzhenitsyn).
Nỗi thống khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu ban cho chúng ta niềm an ủi và hy vọng trong những giây phút tinh thần bị sa sút. Chúng ta không cần phải giả vờ cho rằng con người mình được làm bằng đá hoa cương. Chúng ta không được che giấu sự yếu đuối và nỗi sợ hãi của mình. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải hướng về Thiên Chúa, trong lời cầu nguyện bằng cảm nghiệm của tâm hồn. Và chúng ta cũng phải tìm kiếm sự an ủi nơi con người nữa, Như Đức Giêsu đã làm như vậy, khi Người yêu cầu Phêrô, Giacôbê và Gioan tỉnh thức và cầu nguyện cùng với Người.
45. Con đường Thập Giá mà Chúa Giêsu đã đi qua
Sự chết là một phần của sự sống. Sinh vật được sinh ra để rồi chết đi. Tuy nhiên, đối với người Công giáo, con người chết không phải là hết. Con người chết để bước vào sự sống mới. Chính Chúa Giêsu Kitô đã mạc khải chân lý này. Và chính Ngài chết và đã sống lại. Như thế, Ngài mặc khải cho sự chết một ý nghĩa mới. Chết là để bước vào cõi sống.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Thánh Gioan đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực cái chết của Chúa Giêsu. Hình ảnh của một hạt giống bị thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt khác" (Ga 12, 24). Cũng vậy con đường khổ giá của Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không dừng lại ở cái chết mà sẽ dẫn đến sự sống lại sung mãn nhằm mang ơn cứu độ cho con người. Tuy nhiên, trong thân phận xác phàm, đứng trước cuộc thương khó Chúa Giêsu cũng sợ hãi và đau đớn. Ngài cũng phải trải qua những giờ phút xao xuyến, lo âu, đau đớn khi phải đương đầu với con đường khổ giá. Thánh Phaolo đã nói: "Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết" (Dt 5, 7). Nhưng cuối cùng, Ngài không xin Cha cứu khỏi chết nhưng xin cho Danh Cha được tôn vinh. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin cho Ngài hoàn tất, chu toàn công trình cứu chuộc con người, đi qua cái chết và sống lại.
Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận "giờ' của sự phục vụ cho đến cùng trên thập giá, nhưng cũng đồng thời là "giờ" con Người bước vào vinh quang. Vinh quang đòi hỏi trải qua khổ giá. Vinh quang của hạt lúa trổ bông, nặng trĩu và chín vàng nhưng sau khi nó bị chôn vùi vào lòng đất rồi trở nên mầm sống mới, lại sẵn sàng sinh trưởng và tăng gấp mãi.
Sự chết và sống lại là hai mặt của một cuộc sống. Chúa Giêsu đã nói đến cái chết của Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự sống mới cho mọi người. Ngài phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn dân trở thành môn đệ của Ngài và mọi người được ơn cứu chuộc. Thế nên, chúng ta được mời gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta đừng quên nguyên tắc căn bản của sự sống đó: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất còn ai bằng lòng để mất sự sống mình ở đời này vì Chúa Giêsu thì sẽ giữ lại được cho sự sống muôn đời" (Ga 12, 25). Đi theo chúa Giêsu, đòi hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ cái chết và sự sống của Ngài. Chúa Kitô đã chết đi để sinh ơn cứu độ cho chúng ta. Chúa Kitô chết vì hạnh phúc vì sự sống nhân loại.
Đi vào cuộc khổ nạn là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai cũng sợ đánh đập, sợ tòa án và tử hình. Nhưng Chúa Giêsu đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông Tetulianô đã nói: "Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu" thì máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu. Như thế, Chúa Giêsu chấp nhận mình chết đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Kitô khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài trở thành Đấng phán xét cả nhân loại. Thập giá trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Ngài đã chết và đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho con người.
Giống như hạt lúa mì phải chết đi để mang lại hoa quả, cũng vậy, nếu chúng ta muốn sống một cách trọn vẹn, mang lại kết quả, và nhận ra được tiềm năng đầy đủ của mình, trong tư cách là con người, và là con cái Thiên Chúa, thì chúng ta phải chết đi cho bản thân mình. Như hạt giống phải thối đi mới sinh trưởng và phát triển. Hạt giống phải trải qua quá trình mục nát mới sinh nhiều bông hạt. Muốn mùa gặt, ta phải gieo trồng. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả. Cũng vậy, người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cày bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử. Do đó, đời sống con người giống như hạt giống, phải chấp nhận được vùi sâu trong khổ luyện và hy sinh. Nó giúp cho người ta tiến thân, tiến bộ, tiến đức và tiến bước.
Như hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt thì chúng ta cũng phải mục nát bằng cách chết cho tội lỗi, biết từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi để dứt lìa những điều trái luật Chúa và Hội Thánh. Chấp nhận những "cái mất" hiện tại, ta sẽ có những "cái được" trong tương lai. Nếu ta dám chấp nhận những "cái mất" chóng qua, ta sẽ có những "cái được vĩnh cửu". Khi dám từ bỏ tội lỗi, chúng ta dễ dàng đến với Chúa, làm theo ý Chúa. Tuy nhiên từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được Thiên đàng.
Chúng ta đã thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta: "Nếu cùng chết với Chúa Kitô, chúng ta sẽ cùng sống lại với Ngài. Nếu chúng ta chịu đau khổ vời Ngài, ta sẽ được thống trị với Ngài" (1Tm 2, 8 - 12). Ai ham sống, sợ chết sẽ đánh mất tất cả. Người làm theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc sống hiện tại sẽ được sống muôn đời. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi, chính khi chết đi, chúng ta mới có thể được sống trọn vẹn hơn. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, và tội lỗi. Mỗi lần chúng ta trải qua một giai đoạn cuộc đời, để rồi chuyển sang một giai đoạn khác, thì có điều gì đó nơi chúng ta chết đi, và một điều gì đó mới mẻ được sinh ra. Chúng ta cảm nếm được cái chết trong những giây phút cô đơn, đau khổ, thất vọng và thất bại. Chúng ta đang chết dần, trước thời hạn phải chết của mình, khi chúng ta sống trong sự hận thù, và cô lập. Mỗi ngày, chúng ta đều đang tạo ra cái chết cho riêng mình, bằng lối sống của chúng ta. Chính khi biết quên mình, thì chúng ta mới được tự do nhất và hạnh phúc nhất. Khi chúng ta chết đi cho bản thân mình, thì sẽ nhận thấy giây phút thực sự được chết thật là dễ dàng. Giờ chết sẽ trở thành một giờ phút vinh quang. Chính khi chết đi, chúng ta được sinh ra trong cuộc sống đời đời.
Chúng ta phải nhìn vào cái chết của Chúa, không phải chỉ như một biến cố đã qua trong lịch sử, cũng không phải chỉ như một biến cố đau buồn đưa tới tuyệt vọng nhưng chính Chúa Giêsu chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ, để chúng ta nhìn lên Ngài và được cứu sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám sống cho Chúa, can đảm từ bỏ, chấp nhận hy sinh, đi con đường mà Ngài đã đi và vui lòng vác thập giá hằng ngày mà tiến bước theo Chúa trong niềm tin sẽ được phục sinh giống như Ngài. Xin cho chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống. Amen.
46. Mất và được
Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Thật ra, không phải cứ thu vào là được và buông ra là mất. Nhưng có khi được mà lại mất, mất mà lại được. Mất trước để được sau. Mất ít mới được nhiều. Mất nhỏ để được lớn. Có thể nói đây là quy luật trong đời sống hằng ngày. Lời Chúa hôm nay giúp ta hiểu rõ quy luật này, để ta vui vẻ đón nhận tất cả những nghịch cảnh trong cuộc đời với niềm tin tưởng, hy vọng như thánh giá trổ sinh ơn cứu rỗi.
Khi biết giờ của mình đã đến, giờ mà Đức Giêsu sắp bước lên Thập gía. Theo cái nhìn của người đời là bi thảm, nhưng đối với Thiên Chúa là bước vào sự sống vĩnh cữu: "Nếu hạt lúa mì rơi vào lòng đất và không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi, nhưng nều nó chết đi thì sẽ sinh nhiều hoa trái." (Ga 12, 24)
Đời người không có gì đau thương và mất mát hơn là cái chết. Nhưng may mắn cho chúng ta là những người đặt niềm tin vào Đức Kitô, Đấng đã hiến dâng mạng sống để cứu độ chúng ta. Ngài đã cho chúng ta một niềm hy vọng đằng sau cái chết, đó là sự sống đơì đời. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cữu, mọi người chúng ta phải trải qua thử thách nghiệt ngã là cái chết. Nghĩa là phải mất trước rồi mới được sau. Đây quả là một thách đố.
Bởi vì chính Chúa Giêsu cũng từng trăn trở, thổn thức và nao núng trước giờ phút tang thương này. Nhưng sức mạnh nào đã thôi thúc Ngài đi vào cuộc thương khó một cách can đảm? Phải chăng là động lực của tình yêu, và tin rằng cái chết của Ngài sẽ mang lại cho nhân loại mùa ơn cứu độ: "Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người đã hy sinh mạng sống cho người mình yêu."(Ga 15, 12). Nghĩa là khi biết cái chết mang lại mang lại hạnh phúc cho tha nhân thì chúng ta không còn gì phải sợ. Vì tình yêu thì cao quý và mãnh liệt hơn sự chết. Chết cho niềm tin, cho tình yêu là cái chết tận hiến. Cái chết này sẽ không mất nhưng là cửa ngõ dẫn ta vào cuộc sống vĩnh hằng, vào vương quốc của Thiên Chúa. Thật là một điều khó tin, một nghịch lý của cuộc sống. Sự sống bắt đầu bằng cái chết. Chúng ta sẽ không thể có được Đức Giêsu Phục Sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ hình và mai táng.
Khi Chúa Giêsu nói: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống ở đời này thì sẽ giữ lại được sự sống đời đời.", không có nghĩa là Ngài dạy chúng ta ghét bỏ hay khinh khi sự sống thể lý. Trái lại chúng ta phải học để biết yêu chính mình, vì chúng ta không thể yêu Chúa và yêu tha nhân nếu như chúng ta không biết yêu mình. Nhưng yêu mình cũng không có nghĩa là bám díu hay quá lo lắng vào sự sống của con người thể xác. Mà hãy quên đi hay vượt lên trên cái "tôi", là từ bỏ chính mình, chết cho chính mình, cống hiến cuộc đời vì Tin Mừng và vì chính nghĩa là cách vượt ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của bản thân. Thì cuộc sống chúng ta sẽ trổ sinh hoa trái bình an, tự do và hạnh phúc. Thế giới sẽ nghèo nàn nếu như mỗi người chỉ biết lo cho chính mình, đặt lợi ích của mình là tất cả. Nhưng xã hội sẽ được ướp đầy hương vị yêu thương nếu chúng ta biết chết đi cho sự hưởng thụ riêng tư.
Qua cái chết và sự Phục Sinh, Chúa Giêsu đã cho chúng ta một tấm gương mẫu mực khi Ngài hiến mạng sống mình vì hạnh phúc nhân loại. Điều này không đơn giản, chính Ngài đã thật sự lo sợ khi giờ chết đến. Giờ đây, chúng ta không sợ. Vì hiểu rằng:Thánh giá là cái giá phải trả cho sự nên thánh. Mọi khó khăn vất vả chỉ là thử thách và thử luyện ta trên con đường nên thánh. Ta không thể đổi thánh giá khác nếu ta đặt niềm tin tương vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Thánh giá tôi đang vác không nặng nhưng thích hợp và vừa sức của tôi. Vấn đề là thay gì đổi thánh giá thì ta hãy đổi thái độ, đổi tâm tình. Khi yêu thì mọi sự đều ra nhẹ nhàng, không còn cảm thấy nhọc nhằn cho dù có nặng thật.
Lạy Chúa! Xin hãy đổ đầy trái tim con tình yêu của Chúa để con sẵn sàng đón nhận tất cả những gì Chúa gởi đến trong niềm an vui, tin tưởng và phó thác.
47. Mất và được
Ít có phong cảnh nào đẹp cho bằng cảnh một cánh đồng tràn ngập những thân cây lúa mì non. Khi nhìn ngắm những thân cây đó đong đưa trước gió, và nhảy múa dưới ánh nắng, đem lại cho tâm hồn chúng ta một niềm vui. Nhưng quá trình những thân cây này tồn tại được thật là lạ lùng.
Ngoài ra phải chôn hạt lúa mì vào lòng đất lạnh ẩm ướt, giống như trong một ngôi mộ vậy. Thế rồi nó phải chết đi. Nếu nó không chết đi thì nó sẽ không mang lại sự sống mới nào. Nhưng khi nó chết đi, thì từ ngôi mộ của hạt giống cũ, nụ chồi của một cây lúa mì mới đâm ra một cách lạ lùng. Đó là một nghịch lý đáng ngạc nhiên – sự xuất phát từ cái chết.
Giống như hạt lúa mì phải chết đi để mang lại hoa quả, cũng vậy, nếu chúng ta muốn sống một cách trọn vẹn, mang lại kết quả, và nhận ra được tiềm năng đầy đủ của mình, trong tư cách là con người, và là con cái Thiên Chúa, thì chúng ta phải chết đi cho bản thân mình.
Sự chết là một phần của sự sống. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi, chính khi chết đi, chúng ta mới có thể được sống trọn vẹn hơn. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả vờ, và tội lỗi. Mỗi lần chúng ta trải qua một giai đoạn cuộc đời, để rồi chuyển sang một giai đoạn khác, thì có điều gì đó nơi chúng ta chết đi, và một điều gì đó mới mẻ được sinh ra. Chúng ta cảm nếm được cái chết trong những giây phút cô đơn, bị khước từ, đau khổ, thất vọng và thất bại. Chúng ta đang chết dần, trước thời hạn phải chết của mình, khi chúng ta sống trong sự cay đắng, hận thù, và cô lập. Mỗi ngày, chúng ta đều đang tạo ra cái chết cho riêng mình, bằng lối sống của chúng ta.
Khi Đức Giêsu nói “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, ai ghét mạng sống mình ở thế gian này, thì sẽ giữ được nó”, thì Người không bảo chúng ta phải ghét năm tháng mình, hoặc cuộc sống của mình. Chúng ta phải học biết yêu biết chính mình. Thiên Chúa muốn chúng ta biết thương xót bản thân. Không ai có thể yêu mến chúng ta được, nếu chúng ta không biết yêu mến chính mình. Chúng ta sẽ không có khả năng yêu mến bất cứ ai khác, trừ phi chúng ta biết yêu mến con người của mình. Tất nhiên, chúng ta phải phân biệt giữa tình yêu chính đáng đối với bản thân, và thói ích kỷ.
Quên mình, vượt lên trên bản thân mình – điều đó có nghĩa là đánh mất, là khước từ, là chết đi cho chính mình. Chính khi biết quên mình, thì chúng ta mới được tự do nhất và hạnh phúc nhất. Chính khi ra khỏi con người của mình, tự cống hiến bản thân vì những lý do bên ngoài mình, thì chúng ta mới phát triển và mang lại hiệu quả. Chúng ta có thể được sống lâu hơn, nếu chúng ta coi mọi sự là thoải mái, nếu chúng ta biết tiết kiệm cuộc sống. Chúng ta sẽ tồn tại lâu hơn. Nhưng liệu chúng ta sẽ được sống lâu hơn chăng?
Thật là một thế giới nghèo nàn, nếu mọi người đều coi sự an toàn bản thân, được che chở, tiến thân một cách ích kỷ là yếu tố đầu tiên và sau cùng, nghĩa là không có ai được chuẩn bị để vượt ra ngoài bản thân mình. Luôn luôn do con người đã được chuẩn bị để chết đi cho sở thích cá nhân, nên những điều quí giá nhất mà nhân loại được sở hữu đã được sinh ra.
Đức Giêsu đã đem đến cho chúng ta một gương mẫu. Người trao tặng cuộc sống của Người, để phục vụ Cha của Người trên trời và cả chúng ta nữa. Nhưng Người không hề cảm thấy đó là điều dễ dàng. Khi giờ chết thực sự đến, tâm hồn Người tràn đầy nỗi sợ hãi.
Cuộc sống của Đức Giêsu không tách biệt khỏi Người. Người trao tặng nó đi – trao tặng nó vì tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với chúng ta. Tình yêu chính là chấp nhận rằng con người mình có thể chết đi bằng một cái chết khác, trước khi người ta thực sự chết đi. Con đường yêu mến là con đường thánh giá, nhưng chính con đường thánh giá lại đưa đến sự sống lại.
Nhưng ai chết đi cho bản thân mình, thì sẽ nhận thấy giây phút thực sự được chết thật là dễ dàng. Giờ chết sẽ trở thành một giờ phút vinh quang. Chính khi chết đi, chúng ta được sinh ra trong cuộc sống đời đời.
48. Nghịch lý mất được
Không biết ở phương Tây thì sao, chứ còn ở tại Việt Nam, ở đây đó vẫn thường xảy ra tình trạng bị cúp điện. Nhất là vào mùa khô nạn cúp điện càng xảy ra thường xuyên hơn. Lý do có thể là mùa khô không đủ nước để cung cấp cho nhiều nhà máy thủy điện sản xuất điện. Biết thế nên trong phòng, lúc nào tôi cũng chuẩn bị vài cây nến phòng khi cúp điện. Và đúng như thế, vào một tối nào đó, đang ngồi đọc sách bỗng cúp điện. Tôi vội vàng đốt ngọn nến lên để có ánh sáng tiếp tục đọc sách. Quyển sách đang hấp dẫn không thể bỏ ngang được. Tôi xin bắt đầu câu chuyện Tin Mừng hôm nay từ ngọn nến đó. Khi nhìn ngọn nến đang cháy sáng tự nhiên tôi có vài cảm nhận: - Muốn có ánh sáng phải có nến. - Muốn có nến phải có sáp.
- Muốn nến đó được cháy liên tục thì sáp phải tiêu hao dần.
- Để có nhiều ánh sáng, đòi hỏi sáp càng phải bị tiêu hao nhiều.
- Và để tận dụng hết nguồn sáng, cây nến phải được đặt trên cao. Không biết đấy có phải là một qui luật không, nhưng không thể làm khác được. Tôi lại liên tưởng tới một ngọn nến khác có tên là Têrêsa Calcuta. Chấp nhận tiêu hao cả thời gian, sức lực, con người để những người nghèo, cô đơn, bệnh tật, bị bỏ rơi được chăm sóc, nâng đỡ. Tôi lại liên tưởng tới một ngọn nến khác có tên gọi là Maximilien Kolbe: Vào năm 1941, ngài bị bắt một lần nữa. Mục đích của Đức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử tuyển chọn, là các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập trung Auschwitz.
Vào ngày 31 tháng 07 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt một người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. "Tên này." "Tên kia." Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng.Trong khi một người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng. "Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con." Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng. "Mày là ai?" "Là một linh mục." Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng. Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis GaGiowniczek.
Trong "hầm tử thần" tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15 tháng 08) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như bao người khác. Và còn nhiều ngọn nến khác nữa vẫn đang thắp sáng cho đời. Tất cả những ngọn nến ấy có hoàn cảnh khác nhau, màu da khác nhau, địa vị vị khác nhau, nhưng lại có một điểm chung là tan biến, là hy sinh và từ bỏ.
Hình ảnh của những ngọn nến đó làm tôi nhớ đến một câu nói của Chúa Giêsu trong TM: "Nếu hạt lúa mà rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi thì nó sinh nhiều bông hạt" (Ga 12, 24) Những ngọn nến như thế, những khuôn mặt như thế, những con người như thế làm cho tôi càng hiểu thêm về điều mà Kinh thánh gọi là Kenosis (tự huỷ) của Chúa Giêsu, mà chính thánh Phaolô đã viết nên thành lời của một ca khúc thánh ca bất hủ. Thánh Phaolô viết thế này: "Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh tự." (Pl 2, 6 - 8) Tôi nhớ một nhà tư tưởng nào đó đã nói: "Muốn hiểu môt sự vật, bạn hãy lên cho thật cao và phải xuống cho thật sâu".
Muốn biết chiều cao của một ngọn núi, ta phải lên thật cao trên đỉnh của nó và đồng thời ta cũng phải xuống cho thật sâu của vực thẳm. Tương tự như thế, Chúa Giêsu đã lên thật cao trong địa vị là Thiên Chúa và Người cũng đã xuống thật sâu trong thân phận con người. Và còn hơn thế nữa, Người đã chấp nhận hủy mình ra không, để từ cái không đó trở thành nguồn ơn cứu rỗi cho con người. Đấy là Kenosis (tự hủy). Thế nhưng, chính Kenosis ấy lại trở thành một điều gây khó hiểu cho nhiều người. Người ta không thể hiểu được: Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống. Tại sao tôi phải hy sinh, phải chịu mất mát, chịu thiệt thòi cho người khác và vì người khác? Đúng như lời một triết gia đã nói: "Tha nhân là hoả ngục của tôi", dại gì tôi phải hy sinh cho họ.!!! Cái khó hiểu và cái khó chấp nhận đó tôi tưởng nó có nhiều lý do vừa khách quan vừa chủ quan.
Xã hội hôm nay là một xã hội thực dụng và hưởng thụ trong một nền kinh tế thị trường. Người ta chỉ biết nghĩ đến mình mà quên đi người khác. Chính vì chúng ta đang bị nhận chìm trong một quan niệm, một lối sống thực dụng và hưởng thụ như thế nên càng ngày người ta càng mất ý niệm về sự hy sinh, sự cho đi, lòng quảng đại và sự chia sẻ mà chỉ lo củng cố cái tôi của mình mà thôi. Tôi là số một, tôi là trên hết. Người ta quên mất tha nhân là ai.
Họ có nhu cầu gì, họ khao khát và ước muốn cái gì. Cho nên người đời có thể không hiểu thế nào và cũng không thể chống lại cái gọi là Kenosis là tự hủy, là hy sinh, là từ bỏ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta hiểu thế nào, hiểu đến mức độ nào? Nói cách khác, tình yêu nào đòi chúng ta sống đời bác ái? Sức mạnh nào thúc đẩy ta dám chết cho anh chị em? Động lực nào thúc giục ta hiến thân cho đồng loại? Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình" (Ga 15, 12) Tình yêu cao quí hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết và cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương cho con người. Chính lúc gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi con người hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đàng.
Đúng như một triết gia nào đó đã từng nói: chỉ có con vật mới quay lưng trước nổi đau của đồng loại để chăm sóc cho bộ lông của mình, còn con người thì không như thế. Hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố: " Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt". (Ga 12, 24). Chúng ta không ngạc nhiên khi nghe câu này. Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ. Thế nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình. Tại sao tôi phải chết để người khác được sống? Vì thế, chúng ta không muốn chết như hạt lúa. Tôi chấp nhận trơ trọi một mình.
Tôi chấp nhận cô đơn để được yên thân. Tôi sợ mất mát vì mất mát đem lại đớn đau nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi đang là... Nhưng Chúa Giêsu còn nói thêm: " Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ỏ đời này, thì sẽ Giữ lại được cho sự sống đời đời". (Ga 12, 25) Cuối cùng, tôi xin mượn một lời cầu nguyện như một lời nhắn nhủ đến anh chị em và các bạn. Lời cầu nguyện thế này:
"Lạy Chúa Giêsu,
Khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hại Giống
đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp
chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao Giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống
cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ
vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người,
chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con
đừng tự khép mình trong lớp vỏ
để cố Giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,
nhưng dám đi ra
để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,
chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua
đi từ cõi chết đến nguồn sống,
đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở
trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân". Amen.
49. Giờ phút cao quí
Stephen Roche là một trong những tay đua xe đạp vĩ đại nhất của Ailen. Giây phút tuyệt vời nhất của anh là trong ngày anh chiến thắng giải đua vòng quanh nước Pháp vào năm 1980. Tuy nhiên, khi suy nghĩ về giây phút tuyệt vời nhất của một người, chúng ta nghĩ gì về giây phút đó trong những điều kiện rất phổ biến. Chúng ta nhận thấy đó là giây phút chiến thắng và vinh quang. Và chúng ta có khuynh hướng nói về điều đó một cách khá thoải mái. Chúng ta chỉ tập trung vào giây phút vinh quang, mà quên đi nhiều giây phút khác đưa đến giây phút vinh quang này, đó là những giây phút của mồ hôi, máu và nước mắt. Vinh quang không thể tách rời khỏi lao nhọc. Vậy thì lao nhọc là một phần của vinh quang.
Đức Giêsu cũng nói về “Giờ của Người”. Người nói về giờ này đến mấy lần, trong suốt sứ vụ công khai của Người. Nhưng Người luôn luôn nói như thể giờ đó chưa xảy đến. Tuy nhiên, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Người lại nói rằng cuối cùng, giờ đó sắp diễn ra. Ý Người muốn đề cập đến loại giờ gì vậy? Đó là giờ chết của Người. Đó là giờ mà Người tự trao ban chính bản thân Người, như một sự hy sinh trọn vẹn thân mình Người vì chúng ta. Theo quan điểm trần thế, thì đó là một giờ phút của thất bại. Tệ hại hơn, người ta còn coi như đó là giây phút của ô nhục và đáng khinh miệt. Nhưng bằng cách cho Người sống lại từ cõi chết, Thiên Chúa đã biến chuyển thành giây phút của chiến thắng đối với Đức Giêsu, và một giây phút của ân sủng đối với chúng ta. Đây là giây phút cao quí nhất của Đức Giêsu. Đây là giây phút mà tất cả những gì Người đã thực hiện trên trần thế đều được hoàn tất. Tất cả cuộc đời của Người đều đưa dẫn và chuẩn bị cho Người đến với giây phút này.
Thời điểm xuống thấp nhất lại chứng tỏ rằng đó là một thời điểm biến chuyển. Đây là một nghịch lý lớn lao. Giây phút chết đi là giây phút xuống đến tận cùng, tối tăm nhất và đau đớn nhất trong cuộc sống của một hạt giống. Tuy nhiên, đây chính là giây phút sự sống mới được nảy sinh.
Đối với chúng ta, cũng tương tự như vậy. Những khi tinh thần của chúng ta xuống đến mức thấp nhất, vẫn có thể chứng tỏ rằng đó là những thời điểm biến chuyển. Những giây phút thành công vĩ đại sẽ sớm phai tàn, và thường để lại nỗi trống trải trong tâm hồn con người. Trái lại, những giây phút tối tăm, yếu đuối và thất bại lại có thể chứng tỏ rằng đó là những giây phút của sự thay đổi và phát triển lớn lao – chẳng hạn như một người nghiện rượu bị sa đọa đến tận cùng rồi, nhờ ơn Chúa đã được biến đổi cuộc đời.
Khi suy niệm về giây phút tuyệt vời nhất đối với Đức Giêsu, sẽ giúp chúng ta biết đánh giá cuộc sống của mình một cách khác hẳn. Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng những sự kiện dường như thất bại lớn, lại đều là những lúc hình thành nên cuộc sống mà chúng ta có hiện nay. Chúng ta không thể tách rời những điều đụng chạm đến chúng ta với những điều giúp ích cho chúng ta.
Để có thể tồn tại được trong lúc tinh thần bị sa sút, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều lòng tin. Lòng tin bao hàm việc gieo trong nước mắt. Chúng ta sẽ không thể chịu đựng nổi, trừ phi có một niềm hy vọng âm thầm pha lẫn trong nỗi buồn của chúng ta: đó là niềm hy vọng rằng sau những năm tháng phấn đấu, mùa gặt sẽ đến. Vào một lúc nào đó, chúng ta không thể nhận thấy được điều này. Chúng ta chỉ có thể thấy được khi hồi tưởng lại mà thôi.
Van Gogh nói “Việc hội họa đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì ngay từ lúc đầu, người ta không thể biết được rằng công việc đó sẽ thành công. Trong những năm đầu phấn đấu đầy gian khổ, công việc này thậm chí còn có thể là một việc gieo trong nước mắt. Nhưng chúng tôi sẽ kềm chế những giọt nước mắt đó, bởi vì chúng tôi có một niềm hy vọng âm thầm về một mùa gặt trong một tương lai xa xôi”.
Không chỉ công việc hội họa mới đòi hỏi người ta phải có nhiều lòng tin; cuộc sống cũng đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì cuộc sống thường bao hàm việc gieo trong u sầu, trong cảnh tối tăm, và đôi khi, hầu như trong thất vọng nữa. Nhưng nếu biết gieo vãi điều thiện hảo, thì chúng ta sẽ được hưởng một mùa gặt, và được gặt hái trong niềm vui, một niềm vui khiến cho tất cả nỗi đau biến thành ngọt ngào, giúp chúng ta chịu đựng được trong suốt thời gian gieo vãi. Tác giả Thánh Vịnh nói “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126, 5-6).
Cuối cùng, điều tốt sẽ chiến thắng. Sự sống sẽ chiến thắng. Thiên Chúa có tiếng nói sau cùng.
50. Suy niệm của Lm. Lâm Thái Sơn
Chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu
Theo như Phúc Âm hôm nay, trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp “muốn được gặp Chúa Giêsu”. Họ đến từ một đất nước phát sinh những suy luận, triết thuyết, nghệ thuật và thần thánh đa dạng, dĩ nhiên họ muốn gặp Chúa Giêsu không vì tính hiếu kỳ, nhưng có lẽ vì không thỏa mãn trong việc tìm kiếm “chân thiện mỹ“ dựa vào triết lý, hay vì các tín ngưỡng không giúp họ đạt đến sự tuyệt đối thỏa đáng.
Họ đến thờ phượng Thiên Chúa trong dịp đại lễ của người Do Thái. Tuy nhiên kỳ đại lễ này đã bị khuấy rối bởi nhiều tin đồn đáng ngại cộng thêm cuộc biểu tình của dân chúng: gần đây tin đồn Đức Giêsu đã cải tử hoàn sinh ông Ladarô gây hoang mang cho các bậc Thượng tế trong Đền Thờ và làm cho nhiều người bỏ họ mà chạy theo Đức Giêsu; thêm vào đó, Ngài còn được toàn dân ủng hộ đón rước như một vị Vua với những lời tung hô “vạn tuế Vua dân Do Thái, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa!”. Các sự việc này gây phẫn nộ và tạo cơ hội cho đám người Pha-ri-sêu thực hiện chương trình mưu sát kẻ xách động quần chúng. Đến lúc phải chọn lựa: đối với đoàn kỳ mục, các thượng tế và kinh sư thì vụ án này được chấp thuận; còn dân chúng thì lập trường hay thay đổi (nay ủng hộ, mai đả đảo); và ngay cả trong giới lãnh đạo Do Thái cũng có một số người đã tin vào Đức Giêsu, nhưng họ không dám xưng ra, vì sợ bị nhóm Pharisêu khai trừ khỏi Hội Đường, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh quang của Thiên Chúa (Ga 12,43).
Chính trong bối cảnh này mà có mấy người Hy Lạp đề nghị ông Philípphê và Anrê dẫn họ đi gặp Chúa Giêsu. Đức Giêsu là ai? Vị ngôn sứ này là người thế nào (?) mà có biết bao lời đồn đãi xấu có tốt có làm phấn khởi giới hạ lưu và làm run chuyển giới lãnh đạo buộc những người này phải ra tay đối phó. Cho dù tình trạng có sôi động cũng không ngăn cản đuợc ý định của những nhà thám hiểm điều vô tận: họ muốn được nhìn tận mắt, nghe tận tai, thấu hiểu sứ điệp cũng như những công trình và dấu chỉ xác thực kể cả bản thân của vị ngôn sứ đó! Họ đến thật đúng lúc, vì đã đến giờ kết thúc sứ mệnh: đấy là giờ của sự thật, giờ mà tội lỗi của trần gian dẫn đưa Đức Giêsu đến thập giá, và cũng là giờ mà thập giá đó lại trở thành bệ ngai của vinh quang.“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh“. Tuy Phúc Âm không nói đến phản ứng của những người Hy Lạp này, nhưng luận thuyết của Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời mới về sự sống vĩnh cửu: “hạt lúa gieo vào lòng đất sẽ mang lại nhiều hạt khác“ và “khi Con Người được giương cao lên khỏi mặt đất thì Ngài sẽ kéo mọi người lên với Ngài“.
Qua cuộc khổ nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu mạc khải cho nhân loại biết rằng Thiên Chúa là Tình Yêu, một tình yêu tột độ, vì “không có tình yêu nào cao trọng bằng dâng hiến mạng sống cho người mình yêu“. Luật chủ yếu của Thiên Chúa là luật của hạt lúa: “nếu hạt được gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác“. Chúng ta không cần suy nghĩ viễn vông mà chỉ cần đặt mình trước Thập giá và nhìn ngắm, lúc đó ta sẽ hiểu thế nào là yêu thương thật sự, thế nào là chết đi để phát sinh sự sống; cũng như ta cứ gieo hạt vào lòng đất và chờ đợi nó mọc lên cây thì sẽ hiểu thế nào là đau thương trong gieo vãi và gặt hái trong hân hoan; cũng như các Thánh nhân hoặc những anh hùng: họ hy sinh vì chân lý, tranh đấu cho chính nghĩa, tuy chết đi nhưng vẫn sống mãi trong lòng Giáo Hội và Dân Tộc, ngàn đời Lịch Sử vẫn truyền tụng họ. Vì thế, cái chết thật sự không phải là cái chết thể chất mà chính là từ chối yêu thương, không biết hy sinh chỉ sống lẻ loi ích kỷ “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời“
Muốn thật sự đứng về phía sự “sống”, ta nên hành động như những người Hy Lạp kia luôn khát khao tìm kiếm chân thiện mỹ, tức nhiên “phải tìm gặp Đức Giêsu”. Cần tận dụng tất cả trí khôn tâm sức để hiểu biết, yêu thương và phục vụ, sống không vì lề luật tỉ mỉ hình thức, nhưng vì một Người, Đấng đang kêu gọi và sai đi, đang đối thoại và sống hiệp thông. Phải thành tín và đam mê, ta mới thiết lập được với Thiên Chúa một giây liên đới tâm đầu ý hiệp, như lời Thánh Vịnh hôm nay: “xin Chúa dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan... xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy”
Chúng ta có phải thuộc về nhóm người muốn đi gặp Đức Giêsu? Tuy nhiên, ai đã tìm gặp Ngài cũng vẫn còn phải tự chất vấn, bởi vì: giới Pha-ri-sêu đã thấy và nghe nhưng không tin theo Ngài; bậc kỳ mục đã tin nhưng không dám nhìn nhận Ngài; dân chúng đã tin và theo Ngài nhưng không đi đến cùng.
“Chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu”. Ta nên thường xuyên đến gặp gở Ngài qua các Bí Tích, qua việc học hỏi Phúc Âm để khám phá điều mới lạ và chấp nhận dấn thân trong một thế giới và thực tại mà Ngài muốn cho ta khám phá. Bước theo Ngài là chấp nhận những nguy cơ mà chính Ngài đã đảm lấy, từ sự hiểu lầm của những tín đồ đến sự chống đối và lên án của giới hữu trách. Dấn thân theo Ngài là chết cho những tham vọng ích kỷ, tư lợi vật chất, dự tính phàm trần, chết cho những gì gọi là ưu tiên của riêng mình nhưng lại quá xa cách những hệ trọng cấp bách Phúc Âm. Ta phải chọn hoặc thủ lãnh thế gian hoặc Đấng đã bị đóng đinh. Chắc hẳn đến một lúc nào đó, sẽ có người đến hỏi chúng ta, như những người Hy Lạp đến hỏi Philípphê và Anrê “chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu”. Vậy chúng ta sẽ có đề nghị gì cho những người đó?
51. Chúa Nhật 5 Mùa Chay Năm B
Trong bài đọc 1, tiên tri Giêrêmia đã tiên báo: Chúa sẽ thiết lập giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa. Giao ước đó làm cho Ngài trở thành Chúa của họ, và họ sẽ là dân riêng của Ngài. Giữa cảnh lưu đày biền biệt nơi đất khách quê Người, còn thành thánh Giêrusalem thì bị hoang tàn, tiên tri Giêrêmia đã khơi lên cho họ niềm hy vọng lớn lao, Thiên Chúa sẽ quên đi lỗi lầm của họ, Ngài sẽ ký kết với họ một giao ước mới, giao ước tình yêu. Chúa Giêsu chính là Đấng thiết lập giao ước mới đó.
Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan kể lại, khi có một số người Hy lạp đến tìm Chúa Giêsu, Ngài vui mừng thốt lên " đã đến giờ Con Người được tôn vinh một khi được gương lên cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi ". Tại sao Chúa Giêsu lại vui mừng hớn hở như thế? Có phải rằng vì Chúa Giêsu biết đằng nào mình cũng phải chết, nên chết quách cho rồi không? Không phải thế, không phải Chúa Giêsu " ham chết sợ sống " như thế đâu. Tâm trạng vui mừng của Chúa Giêsu, cho ta thấy tấm lòng của Ngài. Ngài đã chờ đợi, đã mong muốn đến ngày này để Ngài thiết lập một Giao ước mới, Giao ước Tình yêu với nhân loại. Để nhờ đó nhân loại được ơn cứu độ. Ơn làm cho con người trở thành con Thiên Chúa, được thừa hưởng Nước Trời.
Nhưng trong thân phận con người, Chúa Giêsu cũng lo sợ trước cuộc khổ nạn Ngài phải chịu " lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đến ". Tâm trạng vừa vui mừng vì ơn cứu độ sắp được thực hiện, vừa lo sợ trước cái chết, dằn vặt tầm hồn, làm Chúa Giêsu xao xuyến trong lòng.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2, đã mô tả tâm trạng và cái chết của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu đã lớn tiếng và rơi lệ mà dâng lời khẩn nguyện lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết, Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trãi qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi bản thân tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
Chúa Giêsu chính là " hạt lúa gieo vào lòng đất, có chết đi, mới sinh nhiều hạt khác ". Chúa Giêsu không chỉ chết đi một lần trên thập giá, nhưng thập giá chính là đỉnh cao; Chúa Giêsu vốn là Con Thiên Chúa, là Chúa thật, nhưng đã "chết đi " để mặc lấy thân xác con người, một người nghèo không có một nơi đàng hoàng để sinh ra. Phải chạy trốn trước sức mạnh và uy quyền của Hêrôđê. Vốn là Chủ tể của vũ trụ, Người đã từ bỏ mọi sự, chọn lấy sự thiếu thốn và nguy hiểm, sống trong âm thầm, khiêm nhượng. Khi bước vào cuộc sống công khai rao giảng, Chúa Giêsu chọn một đời hoạt động bấp bênh, Ngài đã trãi qua mọi hoàn cảnh, bị khước từ, bị công kích, bị chụp mũ " Ngài hoạt động với hai bàn tay trắng con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi gối đầu ". Cuối cùng Chúa Giêsu đã chọn cho mình cái chết đau thương, nhục nhã nhứt làm đỉnh cao cho "sự chết đi" của Ngài.
Chúng ta đang bước theo Chúa Giêsu, chúng ta hãy cám ơn Chúa vì tình yêu lớn lao Chúa đã dành cho chúng ta, Chúa không ngừng tha thứ cho chúng ta dù chúng ta cứ mãi phạm tội. Trong tâm tình của Mùa chay chúng ta hãy học nơi Chúa Giêsu bài học " chết đi " mỗi ngày với những tánh hư, tật xấu, những ham muốn bất chính, những tội lỗi của chúng ta để mỗi ngày chúng ta trở nên giống Chúa hơn. Để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Chúa.
52. Sự yếu đuối của con người
(Viết theo Flor Mc Carthy)
Người ta quan niệm rằng: Người hùng là người cứng rắn không bao giờ tỏ ra sự yếu đuối của mình, hay tỏ ra bất lực, nghi ngờ về một vấn đề quan trọng. Họ luôn tự tin trong mọi công việc cũng như tỏ ra không bao giờ sợ hãy. Vì họ quan niệm rằng: anh hùng thì phải mạnh mẽ trong mọi hoàn cảnh và dũng cảm, không hề nao núng. Nhưng thật ra anh hùng không phải như thế.
Chuyện kể rằng Martin Luther King là một nhà lãnh đạo trong cuộc nội chiến Mỹ. Vì chính nghĩa nên ông ta đã gặp nhiều khó khăn, đến nỗi nhiều lần ông lưỡng lự và không còn tự tin để quyết định. Vì ông ta biết rằng, nếu ông tiếp tục tranh đấu có thể ông ta sẽ bị tù tội, lăng nhục và có thể đe doạ đến tính mạng. Đúng như ông dự đoán, người ta đã ám sát ông.
Trong suốt thời gian tranh đấu. Nhiều lúc, ông cảm thấy xuống tinh thần tinh thần và chán nãn vì nhà thì bị ném bom, gia đình phải ly tan. Bản thân ông hoàn toàn sụp đổ. Ông chán nãn và lòng tự trọng bị tổn thương. Trong tình trạng kiệt sức và thất vọng, ông ta đã quỳ gối trước mặt Chúa và cầu nguyện: "Lạy Chúa, con đang tranh đấu cho những gì con tin là đúng. Nhưng giờ đây con cảm thấy sợ. Mọi người nhìn con với tư cách như là một nhà lãnh đạo. Nếu con hiện diện trước mặt họ với một tâm thế yếu đuối và sợ hãi thì họ sẽ loại trừ con. Nhưng giờ đây con đã kiệt sức. Con không thể bước thêm được nữa và không thể đối mặt với bất cứ điều gì. Ông ta nói rằng: "Giây phút lắng động mà ông đã trãi qua trước mặt Chúa đã khiến ông nói lên nnhững lời mà ông chưa bao giờ nói được.". Nhờ đó mà ông đứng vững và tiếp tục chiến đấu.
Martin Luter King, quả thật không kém một anh hùng. Vì ông ta đã tỏ ra mình không phải được dựng nên bằng đá. Anh hùng, người mà không bao giờ tỏ ra mình yếu đuối và nao núng thì không đáng tin.Và họ cũng không dáng kể ta chiêm ngưỡng, và nhận như một tấm gương để sống. Vì chúng ta không nhận ra sự thật về con người họ mà ta bắt chước. Trái lại, khi chúng ta gặp một người nào mà họ luôn lo lắng trước những định mệnh, và nhận ra nơi họ sự sợ hãi, chúng ta cảm thấy những người như vậy là đáng tin hơn. Các vị thánh cũng như các vị anh hùng tử đạo, họ chưa bao giờ cảm thấy mình có khả năng như vậy. Chúng ta yêu mến và thích nhìn ngắm những con người đằng sau sự anh hùng của họ.
Chính Chúa Giêsu đã không đi đến cái chết với sự tự tin và hoàn toàn quả quyết. Có những lúc tinh thần của Người xuống đến tột đĩnh như trong vườn Giêtsêmani khi linh hồn của người chìm sâu vào những nỗi khắc khoải khiến Ngài phải thốt lên: "Linh hồn Thầy xao xuyến". Thánh Gioan đã không tường thuật sự đau đớn của Chúa Giêsu trong vườn Giếtsêmani trong Tin Mừng của Ngài. Nhưng chúng ta bắt gặp một âm thanh vang dội trong Tin mừng ngày hôm nay khi Chúa Giêsu nói: "Linh hồn Thầy xao xuyến."
Đây quả thật là một sự an ủi và khích lệ chúng ta. Vì nó cho thấy Đức Giêsu cũng là một con người thật nên Ngài cũng có những lúc yếu đuối và sợ hãi như chúng ta. những nỗi sợ hãi ập đến làm cho Ngài vô cùng buồn bả đến nỗi mồ hôi đã đỗ ra như những giọt máu. Ngài không nhìn cuộc thương khó và cái chết với một con tim gỗ đá. Vì Ngài cũng khiếp sợ. Nhưng bởi sức mạnh nào đã làm cho Ngài phải đương đầu, chấp nhận và chiến thắng nó. Phải chăng Ngài đã nhận sức mạnh từ những phút giây cầu nguyện và từ Thiên Chúa? Người ta quan niệm: " Can đảm là sợ hãi được nói lên trong khi cầu nguyện."
Chúng ta không phải là người nếu chúng ta không cảm thấy sợ khi bị đe doạ trước những gì nguy hiểm. Can đảm không phải là không bao giờ cảm thấy sợ hãi. Nhưng chính khi cảm thấy sợ hãi nhưng tiếp tục vượt qua mới là can đãm thật. "Một người không biết sợ thì không phải là anh hùng, nhưng anh hùng là người biết vượt qua nỗi sợ". (Solzhenitsyn)
Sự đau đớn của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu đã cho chúng ta một lời an ủi và một niềm hy vọng trong khi chúng ta đương đầu với những khó khăn. Chúng ta không cần phải giả vờ là chúng ta được dựng nên bằng đá. Chúng ta cũng không cần phải dấu những yếu đuối và sợ hãi của mình. Như Chúa Giêsu, chúng ta hãy hướng về Thiên Chúa bằng những lời cầu nguyện chân thành. Và phải nhìn nhận rằng: chúng ta cũng cần có người để an ủi. Như Chúa Giêsu đã choọn Phêrô, Giacôbê và Gioan để họ cùng đi cầu nguyện với Người.
53. Suy niệm của Lm Nguyễn Minh Hùng.
HẠT LÚA MÌ GIEO XUỐNG ĐẤT
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, nó sinh nhiều bông hạt". Lời Chúa nói hôm nay làm ta nhớ tới các thánh Tử đạo đã hy sinh mạng sống để hạt giống đức tin sinh nhiều hoa trái. Giáo Hội Việt Nam, chỉ là một Giáo Hội còn non trẻ, đã hiến dâng bao nhiêu người con suốt ba thế kỷ bắt đạo, cho đến nay, con số ấy vẫn không ai biết chính xác. Bất cứ ở đâu trên mảnh đất châu Á này, nếu Đức tin được rao giảng, thì ở đó lại thấm đẫm dòng máu các anh hùng Tử đạo. Con số các thánh Tử đạo càng tăng lên theo cấp số nhân nếu ta quay nhìn cả Giáo Hội hoàng vũ qua mấy ngàn năm nay. Hình như không có thời buổi nào, không có thế kỷ nào, không có Giáo Hội địa phương nào mà không bắt đầu được sinh ra từ máu Tử đạo. Những năm gần đây, Đức Thánh Cha đã phong khá nhiều vị thánh, hầu hết các vị thánh ấy là các thánh Tử đạo của thời đại mới. Máu các thánh Tử đạo cứ tiếp tục đổ xuống, càng đổ bao nhiêu, đức tin càng lớn, sức sống của Giáo Hội Chúa Kitô càng căng tràn và mạnh mẽ bấy nhiêu. Chúa Kitô, Hạt Lúa Mì Anh Trưởng đã rơi xuống đất, làm nảy sinh vô vàng hạt lúa, và những hạt lúa từ thời đại này sang thời đại khác cứ tiếp tục trổ sinh bông hạt. Bởi thế có một nguyên tắc rất kỳ diệu, rất nhiệm mầu, nhưng đã trở nên rất bình thường: Giáo Hội càng bị bắt bớ khốc liệt, người Công Giáo càng bị giết hại đẫm máu, thì Giáo Hội càng sống mãnh liệt và mau chóng lan rộng, đức tin của người Công Giáo càng được tôi luyện và trưởng thành bấy nhiêu.
Trong xã hội cũng có bao nhiêu vị anh hùng hiến dâng mạng sống vì công lý, vì hòa bình. Năm 1968, cả thế giới chấn động khi nghe tin Mục sư Martin Luther Kinh, người đã đấu tranh không mệt mỏi cho quyền bình đẳng của người da đen bị sát hại. Năm 1995, cả thế giới sững sờ thương tiếc thủ tướng Israel, ông Y Rabin, bị người Dothái quá khích giết. Họ không chấp nhận đường lối ôn hòa của ông đối với người Palestin.
Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn còn xúc động nhớ lại cái chết của ông Mahatma Gandhi, vị cha già của dân tộc An, đã từng bị một thanh niên An giáo quá khích sát hại. Anh ta không chấp nhận việc ngài đã tha thứ và dạy hãy tha thứ cho người Hồi giáo. Và còn biết bao nhiêu người vì tình yêu con người, tình yêu đồng loại đã hiến dâng mạng sống như thế. Họ đã chết nhưng tên tuổi, sự nghiệp của họ vẫn sống muôn đời.
Các thánh tử đạo và những tâm hồn xây dựng hòa bình ấy chính là hình ảnh của hạt lúa mì được gieo trong lòng thế giới. Hoa quả của đức tin, hoa quả của hòa bình đang tươi nỡ khắp nơi trong Giáo Hội và trên thế giới.
Ngày nay có biết bao anh chị em nhìn vào tấm gương của các ngài mà dấn thân xây dựng, gìn giữ, bảo vệ đức tin và kiến tạo hòa bình, làm nảy sinh tình yêu khắp nơi, quên cả sức lực, quên cả bản thân để danh Chúa rạng ngờ, Nước Chúa trị đến, cuộc sống bình an, thịnh vượng hơn. Những năm gần đây, đa số những vị được phong thánh là các vị tử đạo của thời đại mới. Hóa ra, những hạt lúc mì cứ rơi xuống, rồi lại sinh hoa kết quả, hết lớp này đến lớp khác. Ngày nào đức tin còn bị bắt bớ, thế giới vẫn tồn tại bất công, sự sống bị chà đạp, ngày ấy vẫn còn những hạt lúa mì rơi xuống và vô vàn bông lúa mì trỗ sinh.
Chúa Kitô, Đấng đã sống cho tình yêu, chết cho tình yêu, và sống lại vì tình yêu, luôn là mãnh lực cuốn hút muôn người hiến dâng mạng sống, và lưu danh ngàn đời. Chúa Kitô, hạt Lúa Mì cao cả làm trổ sinh vô vàn bông hạt tươi tốt...
54. Sự sống – Lm. Thu Băng
Lời Tin Mừng hôm này Chúa Giêsu nói đến Mầm sống lúa mới chỉ được trổ sinh khi hạt húa thực sự bị hủy đi, khiến tôi nhớ đến một tư tưởng chi phối khá mạnh nơi con người ngày nay là sự sống của các thai nhi mà Công đồng Vaticanô II đã phải dùng một Thông Điệp để nói về sự sống. Vậy sự sống là gì?
Romain Rolland viết: "Sự sống là cái mà không thể dùng trí khôn và con mắt mà nhận thức hay diễn tả. Sự sống là cái làm cho thụ tạo trở nên sống động". Nhìn một ngọn cây rung động, ta thấy nó chứa một sức sống mơn mởn vươn lên. Nhìn con vật đùa dỡn trước sân cỏ, ta thấy có một sức đánh động nó ngó ngoáy, ve vẩy. Nhìn con người ta lại thấy nó có một sức linh hoạt hơn nữa, khác với loài cây cỏ, khác với loài động vật hay xác chết.
Các nhà bác học chỉ có thể giải thích được sự cấu tạo của vật thể, chỉ có thể biết con người gồm có tim, óc, phèo, phổi.... Nhưng đến sự sống thì con người bất khả thuyết minh.
Trong một cuộc triển lãn nghệ thuật, điêu khắc gia Michel Angelos đã mất ngủ để suy nghĩ về câu nói của một nhà phê bình trứ danh, khi ông ngắm nhìn pho tượng đá Môsê: "Pho tượng tuyệt tác, linh động, sắc sảo như người, nhưng thiếu một điều.....". Ba đêm trời suy nghĩ không ra, Michel Angelos xin đến gặp nhà phê bình để hỏi cho ra lẽ. Nhà phê bình cười rồi bảo: "Bức tượng đá đẹp, nhưng tiếc một điều là nếu nó có thêm chút sự sống nữa thì toàn vẹn". Angelos nghe xong lời ấy có vẻ bất mãn, liền nói lên cách tự nhiên: "Sự sống ai mà tạo nên được".
Ngày nay trong các phòng triển lãm đặc biệt tại Kansas City, tôi đi tham quan, đến một gian hàng người ta chơi cái trò suy đoán "Thực hư": Trong gian phòng người ta trình bày 4 người đang ngồi đọc báo và mời các khách tham quan nhận ra trong 4 người áy ai là thật ai lả giả. Nhiều người đoán cô gái tóc đen là người thật, lại hóa ra cô là người giả. Nhiều người đoán cậu thanh niên có đôi mắt xanh, tay có từng cái lông tơ là người giả, lại hóa ra chàng trai thật 100%. Nhờ kỹ thuật vượt mức, người ta đã làm nên những vật không khác gì vật thật, nhiều cái còn đẹp và tinh vi hơn cả vật thật nữa. Tôi trồng một vườn hoa vào cuối mùa đông, có cắm xen lẫn một số bông hoa giả, nhiều người đã khen tôi mát tay, khéo trồng hoa, đến mùa Đông rồi mà hoa còn nở tươi thật là tươi. Có người phải rờ tay vào xem mới biết là hoa giả.
Sự sống thật là quí hóa, không ai tạo được, ngoại trừ Thiên Chúa. Bác Sĩ, Lương Y không dám rút ngắn cơn hấp hối của bệnh nhân. Hình phạt lớn nhất của tội nhân là tình phạt "tử hình", cắt đứt sự sống của tội nhân. Liều thuốc trường sinh vốn là liều thuốc tiên, là ước mơ của nhân loại. Vị Hoàng Đế khét tiếng của Trung Quốc dạo chơi trên bờ Vạn Lý Trường Thành cùng bày mỹ nữ và các quân thần, để ngắm nhìn công trình vĩ đại mình thực hiện, nhìn ngắm sự hưng thịnh của đất nước được mình bảo vệ. Bỗng chốc ông òa lên khóc nức nở. Các quan vấn an và hỏi căn do tại sao Hoàng Đế nhỏ châu lệ? Hoàng đế trả lời: "Đất nước ta hưng thịnh, trù phú thế này, quê hương ta đẹp đẽ biết bao! và dân ta hiền hòa thanh lịch.... Thế mà tuổi ta đã về chiều. Tiếc rằng ta không còn sống được bao lâu để cai dân trị nước". Một vì Đại Thần đứng phía sau cười nắc nẻ, khiến vua bực tức hạch tội: "Tại sao ngươi cười ta?" Vị Đại Thần tâu: "Nếu các vị Tiên Đế trước cứ sống lâu trên ngai, thì bây giờ đã đến phiên bệ hạ trị nước chưa?".
Được ngồi trên ngai mà ham ước sống đã đành, mà cả những người nghèo khổ đói rách cũng ham sống nữa. Một trong những chuyện hay của Lã Phụng Tiên có kể: Ngày đó một gã tiều phu già luống tuổi, đang ngồi nghỉ mệt bên lề đường. Ông than cho kiếp con người ông bạc phước, đày đọa kiếp thân tàn, làm ăn cực nhọc cả đời. Ông muốn chết cho xong kiếp sống lầm than. Bỗng thần chết xuất hiện giúp ông thực hiện ý muốn. Vừa trông thấy thần chết cầm hái từ thần, ông nhanh trí đánh trống lảng: "Xin nhờ Thần đưa giúp tôi bó củi lên vai, nghỉ lâu quá rồi". Bước đi mau chân ông lão không dám ngoái cổ lại nhìn sự thật đàng sau.
Sự sống ai cũng nhận thức là quí, nhưng không hiểu được.
Sự sống không thuộc về trần gian, người trần gian không ai có thể làm nên được. Cũng không ai phát sinh từ cục đá mà ra, nhưng từ ý muốn của Đấng tạo thành. Chúa nặn con người từ bùn đất, rồi Ngài thổi sinh khí vào, bỗng nó trở nên sống động. Thân xác Lazarô chết 4 ngày đã lên mùi hôi thối, nhưng với quyền năng của Chúa, Ngài đã cho nó trở lại trạng thái bình thường và cho sống lại. Vật sống chính là sinh khí của Thiên Chúa, phát sinh từ Thiên Chúa. Ta nghe tiếng "Chết" đầu tiên khi Chúa phán cùng Adam, Evà: "Khi nào các ngươi ăn trái Ta cấm, các ngươi sẽ chết", thế nhưng Adam, Evà ăn vô thể xác vẫn sống. Ông bà Tổ Tông không chết theo cách ta hiểu là hết thở. Ông bà vẫn sống, vẫn hoạt động, nhưng cái chết Chúa tuyên án đây là: Mất sự tương giao với Thiên Chúa, là bẻ gẫy, là cách xa Thiên Chúa. Con người phạm tội đã chết trong một hình thức sống.
Tai điếc là tai chết, mặc dù tai vẫn còn, âm thanh vẫn còn, nhưng không còn tác dụng với tai nữa, không còn liên lạc giữa tai và âm thanh nữa. Tai điếc là tai đã chết. Người mù cặp mắt vẫn còn, màu sắc, ánh sáng vẫn có, nhưng ánh sáng và màu sắc không còn tác dụng với mắt. Mắt đã chết. Cũng thế, con người là loài sinh linh hiện hữu, con người vẫn sống đầy mặt đất, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa hằng hữu, Ngài vẫn hiện hữu trên chúng ta, nhưng con người và Thiên Chúa không còn liên lạc, không còn tác dụng với nhau nữa, vì sự tội đã phá vỡ sự tương quan đó. Con người chết. Nhưng lòng thương Chúa không bỏ con người, Ngài ban Con Một Ngài xuống trần làm nhịp cầu nối lại tình liên đới cha con. Đó là ý nghĩa đích thực khi Ngài phán: "Ta là sự sống". Do đó kẻ tin và đón nhận thì dù có chết cũng được sống. Mỗi khi chúng ta phạm tội, là chúng ta đã chết trong cái xác sinh động còn sống thôi. Cái chết theo chúng ta hiểu là một sự thay đổi hình thức. Chết là cánh cửa đóng lại với bên này và mở ra cho đời sau. Chết là con đò chở người từ bến đời này qua bến đời sau. Nếu ta phạm tội đời này thì con đò cũng chở chúng ta về bến xa Chúa là địa ngục. Nếu chúng ta được ân nghĩa với Chúa ở đời này, thì cửa mở ra cho đời sau là cửa ân nghĩa thiên đàng.
Con người vốn thiết tha với cõi đời này là vì nó thực tế, nó hiển nhiên. Con người sợ đời sau vì nó mập mờ, không biết đến bến nào. Nhưng nếu ta chỉ sống có cái xác trên trần gian thôi, thì chưa phải là sống thực. Vậy phải ráng có sự sống thực, có Chúa Kitô là sự sống, có lề luật là thành lũy tránh sự dữ, có yêu thương nhau làm bảo đảm sự sống ở đời này và bảo đảm sự sống vui của đời sau. Ước gì chúng ta luôn sống trong thể xác linh động này, sống trong bình an của tâm hồn, sống trong ân phúc liên đới mật thiết với Chúa, để khi dù thân xác ta chết, ta vẫn được sống đời đời. (Jn. 12:20-33) 3-2003
55. Giá trị của đau khổ – Lm. Minh Vận.
Vào một đêm giông bão, gió thổi mịt mù, mưa rơi như trút, một ông già với bà vợ chạy vào văn phòng của một khách sạn nhỏ ở Philadelphia. Ông già tỏ dấu khiêm tốn nhã nhặn hỏi viên thư ký: "Anh có thể cho chúng tôi một phòng nhỏ không? Vì tất cả các khách sạn lớn đều đã chật rồi". Viên thư ký trả lời: "Thưa ông, tất cả các phòng đều đã có người mướn, nhưng tôi không thể để cho những người dễ thương và đáng kính như ông bà phải ra đi trong mưa gió vào lúc một giờ sáng như thế này được. Ông bà có thể ngủ trong phòng của tôi". Ông khách vội hỏi lại: "Thế thì cậu ngủ ở đâu?" Viên thư ký đáp: "Thưa, ông đừng lo, tôi sẽ tự liệu mà". Vừa nói, viên thư ký trẻ vừa dẫn hai ông bà khách lên phòng của mình. Sáng hôm sau, khi xuống trả tiền phòng, ông khách nói với viên thư ký đã nhường phòng cho mình: "Cậu là viên thư ký quảng đại, đáng làm quản lý một khách sạn lớn nhất của Hoa Kỳ. Có lẽ mai ngày, tôi sẽ xây khách sạn đó cho cậu".
Hai năm sau, viên thư ký trẻ này nhận được một bức thư, kèm theo một vé máy bay khứ hồi đi New York, với lời ghi chú của ông khách trong một đêm mưa gió nọ tại Philadelphia, muốn gặp chàng tại New York. Khi chàng tới gặp ông khách cũ, ông dẫn chàng tới một góc đại lộ số 5 đường 34, chỉ vào ngôi khách sạn mới xây nguy nga đồ sộ và nói với chàng: "Đây là ngôi khách sạn tôi đã xây cho cậu làm quản lý". Nghẹn ngào vì cảm động, chàng thư ký trẻ tuổi tên là George C. Boldt đó, chỉ biết lắp bắp lời: "Xin hết lòng cảm ơn ông". Ông khách già chủ ngôi khách sạn đó là William Walford Astoria. Và ngôi khách sạn sang nhất trong thời bấy giờ là Walford Astoria.
I. NGƯỜI CÓ CÔNG MỚI ĐÁNG THƯỞNG
Một sinh viên đại học, muốn vượt qua được các kỳ thi tuyển, muốn đoạt được mảnh bằng bác sĩ, kỹ sư, luật sư, muốn được thành công trong bất cứ nghề nghiệp nào, một chức vụ nào trong xã hội, đều cần phải chuyên chăm học hành, phải chịu khó, hy sinh, vất vả, phải thức khuya dậy sớm.
Một quân nhân, muốn được trọng thưởng, cần phải tham dự các cuộc chiến thắng vẻ vang nơi các trận địa, và khải hoàn trở về với danh nghĩa một vị anh hùng dân tộc, được dân chúng ca ngợi. Một sĩ quan quân đội, muốn chiếm được những tấm huy chương vàng bắc đẩu bội tinh, với tấm bằng tưởng thưởng; hoặc muốn được thăng quan tiến chức, cũng cần phải lập được nhiều thành tích vẻ vang, nhiều chiến công oanh liệt.
Không khi nào người ta lại trọng thưởng cho những kẻ lười biếng, những kẻ ăn không ngồi rồi, những kẻ chơi bời lêu lổng. Trái lại, những ai càng biết chịu khó, vất vả, hy sinh, chịu tủi nhục, càng lập được nhiều thành tích, càng đáng được trọng thưởng, được tôn trọng, được tán dương. Vì công trạng bao giờ cũng tương xứng với huân nghiệp đã lập.
II. ĐỂ ĐƯỢC PHỤC SINH VINH QUANG
Chúa Kitô, trong bài Tin Mừng hôm nay đã quả quyết: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt". Cũng chỉ vì muốn cho chúng ta được sự sống đời đời, mà Chúa đã phải quả quyết với chúng ta rằng: "Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời".
Đây là một bài học rất thực tế, một hình ảnh rất cụ thể ngay trong thiên nhiên: Nhà nông gieo hạt giống xuống đất, sau ít lâu thấy làn vỏ mục thối, một mầm sống trồi lên, và với ngày tháng trôi qua, mần sống đã vươn lên thành cây, phát sinh bông hạt nặng trĩu và một cánh đồng lúa chín vàng, ngào ngạt hương thơm, đem lại cho nhà nông một mùa gặt phong nhiêu và một niềm vui dào dạt. Trái lại, nếu hạt giống gieo xuống đất mà cứ trơ trơ, không đời nào có thể phát sinh bông hạt, khiến cho nhà nông phải thất vọng.
Chính Chúa Kitô, "Khi còn sống ở trần gian này, Người cũng đã phải lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Đấng có thể cứu Người khỏi chết" và "Dầu là Con Thiên Chúa, Người cũng đã phải chịu muôn vàn thống khổ, phải chịu chết tất tưởi để khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên Ơn Cứu Độ đời đời cho tất cả chúng ta" (xem Heb 5:7-9). Như thế, Người đã phải chịu chết, Người mới đem lại cho chúng ta sự sống, sự sống siêu nhiên, sự sống vĩnh cửu của Người.
Để được phục sinh vinh hiển, Chúa Kitô đã phải trải qua sự chết. Nếu chúng ta muốn được phục sinh vinh hiển với Chúa, được Chúa cho tham dự sự sống thật của Người. Để được đồng hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa, chúng ta cũng cần phải chết với Chúa, đồng chung đau khổ, hy sinh, tủi nhục với Người. Không có hy sinh đau khổ thập giá, không thể có danh dự vinh quang được. Vì: "Per Crucem ad Lucem"-"Từ Thập Giá tới Nguồn Sáng".
III. ĐỂ ĐAU KHỔ CÓ GIÁ TRỊ CỨU RỖI
Với cái nhìn có vẻ bi quan, người ta gọi trần gian là nơi khổ ải, là thung lũng nước mắt; nhưng với cái nhìn lạc quan phấn khởi thì, trần gian lại là nơi lập công, là trường tập đức. Theo Thánh Phaolô thì thời gian sống trên trần gian, còn được mệnh danh là: "Thời cơ thuận tiện, là ngày cứu độ". Nhưng dù theo quan niệm nào đi nữa, thì chắc chắn: Trần gian chưa phải là nơi an hưởng hạnh phúc, cũng chưa phải là nhà vĩnh cửu; mà mới chỉ là nơi tạm trú, là đàng dẫn tới quê hương chân thật và vĩnh cửu là Thiên Quốc. Chúng ta sống trên trần gian chỉ là những lữ khách đang trên đường tiến về quê hương bất diệt, là nơi chúng ta sẽ được đồng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, sung mãn tràn đầy với Chúa là Cha đầy yêu đương của chúng ta.
Dù muốn hay không thì khi còn sống trên trần gian, chúng ta còn gặp muôn vàn điều trái ý, khó khăn, nghịch cảnh; nhưng nếu chúng ta biết vui lòng lãnh nhận, vui tươi chịu đựng vì lòng yêu mến Chúa, hợp với Giá Máu Cứu Chuộc của Chúa Kitô, thì những đau khổ đó sẽ giúp chúng ta đạt được Ơn Cứu Độ, có giá trị đền tội và lập công, thánh hóa mình và thánh hóa tha nhân. Trái lại, nếu miễn cưỡng, cực chẳng đã phải chịu, thì đau khổ sẽ chẳng đem lại ích gì cho chúng ta, lại còn làm cho chúng ta phải ngã quỵ.
Kết Luận
Tấm lòng hào hiệp và quảng đại hy sinh của một viên thư ký, trong một khách sạn nhỏ dành cho ông bà khách, giữa đêm khuya bão tố trong câu truyện chúng ta vừa nghe, đã khiến ông bà khách cảm phục và đã ban cho cậu một phần thưởng trọng hậu đến thế; thì những hy sinh đau khổ chúng ta vui lòng lãnh nhận vì lòng kính mến Chúa, còn đáng được Chúa trọng thưởng chúng ta gấp trăm ngàn lần hơn nữa. Vả nữa, phần thưởng đời này chỉ có cùng có hạn, nhưng phần thưởng Chúa ban cho chúng ta đời sau sẽ vô cùng vô tận.
Lạy Mẹ, Mẹ đã can đảm và quảng đại lãnh nhận mọi đau thương thống khổ của sứ mạng Đồng Công để hiệp thông với Chúa Cứu Thế Con Mẹ, lập nên Giá Cứu Độ cho chúng con; xin Mẹ cho chúng con cũng được can đảm theo gương Mẹ, chấp nhận tất cả mọi nỗi gian truân Chúa gởi đến, để chúng con cũng được thông phần với Chúa và Mẹ, hầu cứu độ tha nhân như sứ mạng Chúa đã ủy thác cho chúng con.
56. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An.
GIỚI THIỆU CHÚA
Trên các chương trình tivi đều có mục quảng cáo. Người ta giới thiệu sản phẩm, cái gì cũng nhất, cái gì cũng đẹp cũng bền. Thông tin quảng cáo đã tác động mỗi ngày nhiều lần vào người xem tạo nên một ấn tượng mạnh. Từ đó trong tiềm thức, khách hàng sẽ tìm mua sản phẩm ấy. Quảng cáo là giới thiệu những gì là độc đáo nhất. Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Muốn giơí thiệu một người thì phải biết về người đó, tuỳ theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy.
Trong Phúc Âm có đề cập đến việc giới thiệu. Có ba lời giới thiệu tiêu biểu:
- Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là con Ta yêu dấu, làm đẹp Ta mọi đàng”. (Mt 4, 17).
- Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha: ”Ai thấy Thầy là thấy Cha”. (Ga 14, 9)
- Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xoá tội trần gian... Người đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi vì có trươc tôi... Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần”. (x. Ga 1, 29-34).
Trong khi toàn miền Giêrusalem và Giuđê đang coi Gioan như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Gioan đã từ giã sự nổi danh của mình lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài. Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình, nhưng nhìn thẳng vào Chúa. Đây là cách giới thiệu chính xác nhất khi một người muốn giới thiệu cho người khác về Thiên Chúa.
Trong ba câu đầu của Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay (Ga 12, 20-33), Thánh Gioan Tông Đồ đã kể lại lời giới thiệu về Chúa Giêsu. Khi Người long trọng tiến vào Giêrusalem để mừng Lễ Vượt Qua lần cuối cùng và cũng là chuyến từ giã thế gian để về cùng Cha, có những người Hy Lạp khi được nghe giới thiệu, họ đã muốn tìm gặp Người. Họ là dân ngoại có cảm tình với Do Thái Giáo “Họ lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa dịp Lễ Vượt Qua”. Việc họ tìm đến với Chúa Giêsu mang tính biểu tượng: dấu chỉ báo trước sự lên đường đến với Đức Kitô của muôn dân; dấu chỉ loan báo giờ Ơn Cứu Độ đã đến.
Những người dân ngoại này tìm gặp Chúa Giêsu không phải chỉ để trông thấy mà thôi, nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với Người, đàm đạo với Người. Họ đang bước tới trên con đường Đức Tin.
Họ đến gần Philípphê và xin ông giới thiệu để gặp Chúa Giêsu. Philípphê đi nói với Anrê. Cả hai ông đến thưa với Chúa. Ở đây ta thấy tầm quan trọng của vai trò trung gian, của người giới thiệu, đến với Chúa cần có người giới thiệu, người dẫn đường.
Hôm nay, trong Giáo Xứ chúng ta có nghi thức tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng vào Giáo Hội. Đây là nhừng người lương dân thiện chí muốn trở nên người Kitô hữu. Họ khao khát chân lý. Họ mong muốn tìm gặp Chúa Kitô và đón nhận tình yêu của Người. Sau sáu tháng học tập về Giáo Lý, họ được tiếp nhận vào cộng đoàn và chuẩn bị lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy trong Đêm Vọng Phục Sinh để trở thành con cái Chúa.
Kính thưa anh chị em
Dự Tòng, trở thành một Kitô hữu không chỉ là gia nhập một cộng đoàn Giáo Xứ, chấp nhận Giáo Lý của Chúa và Giáo Hội mà còn quan trọng hơn là gặp gỡ Thiên Chúa và khám phá ra tình yêu vô tận của Người trong chính cuộc đời mỗi người.
Thật ra, mỗi người Dự Tòng đã được Thiên Chúa yêu thương. Người hiện diện trong cuộc đời mỗi người từ lầu rồi, mặc dù anh chị em chưa bao giờ nghĩ tới để nhận ra Người. Anh chị em tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng thực ra Thiên Chúa tìm kiếm anh chị em trước. Nhờ Người mà cuộc tìm kiếm của anh chị em thành tựu và hôm nay chúng ta đang đối diện với Người, gặp gỡ Người.
Một cuộc gặp gỡ, một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng. Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, kể từ nay cuộc đời anh chị em sẽ thay đổi dần. Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời anh chị em. Hãy đón nhận Người với lòng tri ân cảm tạ. Cùng với Người anh chị em hãy bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là cách tốt nhất để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho anh chị em.
Kính thưa cộng đoàn, hôm nay Giáo Xứ chúng ta tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng. Hạt giống Đức Tin đã ươm mầm và mọc lên. Biết bao công sức, bao nỗ lực của các Hội Đoàn, bao người đã dày công chăm sóc cho những hạt giống Đức Tin ấy để hôm nay Thiên Chúa cho mọc lên.
Những Dự Tòng đây đến với Chúa, tin vào Người là nhờ lời giới thiệu và gương sống chứng tá của tất cả chúng ta. Có biết bao người trở lại vì trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về Đạo của Chúa. Có những người theo Đạo vì trước kia đã học trường Đạo. Có người khác theo Đạo vì đã có một ân nhân là người Công giáo. Cũng có những người cảm phục một tấm gương chứng tá của Phúc Âm. Có người lại nhận thấy đời sống người Kitô hữu trong gia đình, làng xóm tràn đầy tình bác ái.
Hôm nay Giáo Xứ chúng ta hân hoan thu hoạch một mùa lúa do công lao của biết bao người. Tạ Ơn Chúa và tri ân những người truyền giáo âm thầm cho Giáo Hội. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng Chúa ban. Khi giới thiệu Chúa cũng chính là lúc chúng ta thánh hoá bản thân mình.
Thiên Chúa là tình yêu. Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương. Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô rất ngắn. Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa chưa chắc đã cần nói nhiều. Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Khuôn mặt đúng nhất của Chúa là tình yêu thương “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi ban Con Một của Ngài” (Ga 3, 16) và tình yêu thương ấy là: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13).
Chúng ta hãy là hạt lúa, đến mảnh đất nào thì gieo mầm xanh tình thương để mảnh đất ấy bừng lên sự sống xanh tươi, hứa hẹn một mùa gặt tốt đẹp.
57. Từ bỏ
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần Thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay hướng chúng ta dần dần tới cái chết đau thương và sự phục sinh vinh quang của Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh: hạt lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái chết của Ngài. Nhưng hạt lúa gieo xuống đất để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa thế nào?
Một hạt lúa gieo xuống đất là nó chấp nhận chết đi để mưu ích cho con người, nghĩa là nó trở thành một cây lúa xanh tươi, để rồi sau này sẽ nhân thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức triệu hạt lúa khác, một cách vô định hay bất tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói ngoa khi tuyên bố: "Nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời". Như vậy, nếu không chấp nhận chết đi, thì hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách ích kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu nó chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng cách chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang các bông hạt sau này, nghĩa là sự sống từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng sẽ tồn tại mãi mãi.
Chúa Giêsu là một hạt lúa đầu tiên như thế. Ngài đã làm chết đi nơi mình những gì "là Chúa" và "của Chúa" để cứu chuộc chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đích thực. Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, giàu sang, danh vọng và quyền uy để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba mươi năm trời, không ai để ý tới, không có một ưu đãi nào dành cho con nhà giàu, nhà sang. Rồi khi hoạt động công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh. Ngài đi theo con đường của một người không có thế lực, không có bất cứ phương tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời với hai bàn tay trắng, không một lời giới thiệu, gửi gắm của người có uy quyền. Và suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị khước từ, bị mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi: "Bụt nhà không thiêng".
Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến thắng vinh quang cũng lại là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai cũng vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất sợ và ghê sợ tử hình. Nhưng Chúa đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông Te-tu-li-a-nô đã nói: "Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu", thì máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu chấp nhận chết đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Ki-tô khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh thế gian ra ngoài và trở thành Đấng phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Tóm lại, Chúa Giêsu đã chết, nhưng không chết luôn mà đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho con người.
Là Ki-tô hữu, chúng ta chỉ có thể lập công phúc, được cứu rỗi, được sống muôn đời và hữu ích cho người khác... khi biết từ bỏ sự sống tạm bợ, tức là từ bỏ tất cả những gì mà người đời gọi là "sống". Có người từ bỏ được tiền của, danh vọng nhưng lại không bỏ được ý riêng mình; có người bỏ được ý riêng của người khác chứ không chịu bỏ ý riêng mình; có người từ bỏ nhiều mà không từ bỏ tất cả; có người bỏ được những cái to lớn nhưng lại không bỏ được những cái nhỏ mọn hay những cái cần phải bỏ; có người bỏ được lúc này nhưng lại không bỏ được lúc khác...
Từ bỏ là một nhân đức của anh hùng. Là một nhân đức được thử luyện mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả hơn ngàn lý do để chối bỏ. Vì thế, chúng ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ bỏ mà chúng ta đã bỏ quên hoặc coi thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ chúng ta có thấy mình cần từ bỏ gì không: một thói quen không tốt, một tật xấu, một tội lỗi hay bất cứ thứ gì không đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần Ki-tô, không đúng với cung cách một người con của Chúa.
58. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Ý thức trước về ý nghĩa và giá trị của việc Đức Giêsu chịu nạn
I. Dẫn vào Thánh lễ
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Chay, tuần sau sẽ là Tuần Thánh. Để giúp chúng ta vào Tuần Thánh một cách sốt sắng, hôm nay Phụng vụ Lời Chúa giúp chúng ta thấy được ý nghĩa và giá trị việc chịu nạn sắp tới của Đức Giêsu.
II. Gợi ý sám hối
Chính vì tội lỗi chúng ta mà Đức Giêsu đã phải chịu chết cách đau đớn và nhục nhã trên Thánh Giá.
Đức Giêsu đã lấy chính máu mình để thiết lập Giao ước mới giữa Thiên Chúa với loài người. Thế mà chúng ta thường xuyên vi phạm Giao ước ấy.
Đức Giêsu đã dùng Thập giá để cứu chuộc chúng ta. Thế mà chúng ta không yêu mến những thánh giá hằng ngày của chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Gr 31,31-34
Ngày xưa ở Sinai, Thiên Chúa đã thiết lập Giao ước với dân Israel, theo đó Ngài hứa là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng sự Ngài như là Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên hai bia đá.
Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, dẫn đến hậu quả là họ phải bị mất nước và bị lưu đày.
Ngôn sứ Giêrêmia loan báo Thiên Chúa sẽ lập một giao ước mới: Giao ước mới này không ghi trên đá mà ghi tận đáy lòng con người; tinh thần của Giao ước này là tình thương và tha thứ: "Mọi người từ lớn chí nhỏ đều nhìn biết Ta" và "Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng".
Đức Giêsu là Đấng thực hiện lời tiên báo đó.
2. Đáp ca: Tv 50
Trong tâm tình chân thành sám hối, tác giả Tv 50 nài xin Chúa một mặt tẩy sạch các tội lỗi của mình, và mặt khác tạo cho mình một quả tim mới.
Một quả tim mới để khắc ghi Giao ước mới. Đó cũng là tâm tình hợp với lời tiên báo của Giêrêmia.
3. Tin Mừng: Ga 12,20-33
Đức Giêsu đang nghĩ tới việc Ngài sẽ chịu nạn chịu chết để cứu độ loài người. Việc một số người Hy Lạp - tức là người ngoại - xin gặp Ngài khiến Ngài ý thức rằng giờ cứu độ ấy đã điểm. vì thế mặc dù tâm hồn Ngài xao xuyến nhưng Ngài cũng hân hoan tuyên bố "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta". Nghĩa là Đức Giêsu coi cái chết của Ngài là vinh quang cho Ngài và nguồn cứu độ cho mọi người.
4. Bài đọc II: Dt 5,7-9
Tác giả thư Do thái hiểu rằng cuộc chịu nạn của Đức Giêsu là "căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài".
IV. Gợi ý giảng
* 1. Biện chứng giữa chết và sống
Chết và sống không hẳn là 2 điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Vài thí dụ:
Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới thành chất bổ dưỡng cho cây.
Nơi sinh vật: các thức ăn phải "tiêu" mới "hóa" thành lương thực.
Trong cõi nhân sinh: những người già chết đi để nhường đất và hoa màu của đất cho các thế hệ sau dùng đó mà sống.
Ngọn nến: sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói: hạt lúa có thối đi thì cây lúa mới nẩy mầm.
Đức Giêsu chết để cho con người sống. Sự chết của Ngài là nguồn sự sống cho chúng ta.
* 2. "Đã đến Giờ Con Người được tôn vinh"
"Giờ" này không phải là một khoảnh khắc chiếm một chỗ xác định rõ trong dòng thời gian, không đo bằng đồng hồ, không tính theo toán học gồm 60 phút, mà là một thời điểm vô cùng quan trọng đánh dấu bắt đầu một thời đại mới sẽ kéo dài đến mãi mãi.
Đó là lúc Đức Giêsu bước lên Thập giá. Khi đó mọi trục trặc vướng víu trong liên hệ giữa loài người với Thiên Chúa được tháo gỡ hết, tương giao giữa loài người với Thiên Chúa được thông suốt, nhờ thế tình thương và sức sống dồi dào của Thiên Chúa được chuyển thông dào dạt cho loài người.
Chính vì thế, Đức Giêsu nói "Đã đến giờ con người được tôn vinh". "Con người" đây vừa là Đức Giêsu mà cũng vừa là loài người, vì mọi người đều là "con người". Chẳng những Đức Giêsu được tôn vinh mà mọi người cũng được tôn vinh nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.
* 3. Các vai trong vỡ tuồng thập giá
Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta thấy rõ những người có liên hệ trong cái chết của Đức Giêsu.
Hai vai chính là Chúa Cha và Đức Giêsu: Đức Giêsu thưa "Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha"; và tiếng từ trời vọng xuống "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Cuộc đối thoại bằng những lời lẽ cao siêu này vượt quá tầm hiểu biết của những người có mặt ở đấy hôm đó. Vì thế có người cho là tiếng sấm và có người cho là tiếng thiên thần. Cái chết của Đức Giêsu là kết quả của một sự đối thoại và thỏa thuận giữa Chúa Cha và Đức Giêsu để thực hiện chương trình yêu thương của Thiên Chúa đối với loài người.
Nhưng loài người cũng có liên quan: Đức Giêsu nói "Tiếng đó phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi" -- Cuộc đối thoại trên là một mặc khải cho loài người: Tuy họ không hiểu tại sao Đức Giêsu chết, cũng chẳng hiểu tại sao chết mà là tôn vinh, nhưng họ được nói cho biết cái chết ấy là vì họ và cho họ.
Do đó, đương nhiên mỗi người cũng có liên hệ: "Hãy theo Ta. Ta ở đâu thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó" à Thập giá là con đường dẫn đến tôn vinh. Mỗi người chúng ta có đi theo Đức Giêsu trên con đường thập giá thì mới đến được chỗ Đức Giêsu ở và mới được tôn vinh như Ngài.
* 4. Hạt lúa mì mục nát.
Cha Dieudonné Bourgignon, người Bỉ, đã từng bị Đức Quốc Xã bắt giam trong trại tập trung Dachau thời Đệ Nhị Thế Chiến kể lại:
Vào một đêm cuối tháng bảy, một tù nhân khu trại 4 thuộc trại giam Auschwitz đã trốn thoát. Phòng hơi ngạt của trại này đã từng thủ tiêu 6 triệu người Do thái; 1/3 dân Do thái trước Thế Chiến. Sáng hôm sau, viên sĩ quan hằn học tuyên bố: "Tất cả những người có mặt phải đứng nghiêm trong hàng ngũ". Đoàn tù nhân phải chôn chân không mủ nón đứng dưới ánh nắng đổ lửa của mùa hạ miền nam Ba Lan. Buổi chiều khi các tù nhân khu giam khác đi làm về. Viên sĩ quan nói: "Mười trong số những người này phải trả nợ". Lập tức tên sĩ quan duyệt qua hàng tù nhân chỉ ra mười người, trong đó có một đàn ông kêu rên thảm thiết vì thương người vợ trẻ và đàn con thơ dại.
Maximilien Kolbe nghe lời ai oán của bạn tù đã thốt lên: "Tôi xin chết thay cho người này". Đoàn người sững sờ. Tên sĩ quan không ngờ diễn tiến của biến cố. Hắn tò mò muốn hiểu rõ: "Tại sao muốn chết?" Maximilien Kolbe điềm tỉnh trả lời: "Tôi là linh mục Công giáo".
Mười tử tội tiến chầm chậm vào cõi địa ngục. Người ta bỏ rơi họ trong phòng tối không ăn uống cho đến chết. Những giờ phút tăm tối lê thê. Ngày 18-8-1941, mười người còn lại bốn, đang thoi thóp hấp hối. Một người trong đó là Kolbe. Tất cả được nhận mũi thuốc độc ân huệ.
*
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt' (Ga.12,24) Để có một quyết định anh hùng như cha Maximilien Kolbe quả không dễ dàng chút nào. Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống? Đành rằng chết để sinh nhiều bông hạt, nhưng có ích gì khi chính tôi bị tan rã? Vì thế, chúng ta không muốn chết như hạt lúa, chúng ta chấp nhận trơ trọi một mình.
Vậy sức mạnh nào thúc đẩy chúng ta dám chết cho anh em? Động lực nào thúc giục chúng ta hiến thân cho đồng loại? Chính Đức Giêsu đã cho ta giải đáp: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga.15,12). Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Đức Giêsu đã nên lời yêu thương con người. Chính vì Người đã không xuống khỏi thập giá nên không ai có thể nghi ngờ tình yêu của Người. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Người trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Đức Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Cái chết của cha Kolbe và tất cả những cái chết hiến thân cho tha nhân đều nói lên lời yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa. Tác giả Anthony Padovano viết: "Chúng ta được cứu rỗi không chỉ vì cái chết thể xác của Đức Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Người sẵn sàng chấp nhận cái chết".
Điểm quan trọng là ở giây phút định mệnh, đối mặt với cái chết, Đức Giêsu luôn tha thiết cầu nguyện với Cha và Người dạy chúng ta hãy học kinh nghiệm nơi Người: "Các con hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc.22,40). Cầu nguyện không là liều thuốc giảm đau, ngăn chặn nao núng sợ hãi, nhưng cầu nguyện là thái độ sống thực, sống tin yêu, phó thác. Khi cầu nguyện chúng ta không mong Chúa đổi ý, cứu ta thoát chết, cũng không xin Người ru ngủ để ta chết êm ái.
Ở giây phút quyết liệt, cầu nguyện chính là gặp gỡ Chúa với nỗi xao xuyến, giằng co của cái chết nhưng trọn vẹn tâm tình hiến dâng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng ta gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa Tình yêu.
Chúng ta không thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta, nhưng chúng ta có thể đón tiếp cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa vĩnh hằng.
Chính lúc Đức Giêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi người tín hữu hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đường.
*
Lạy Chúa, chúng con sợ nói về cái chết và tất cả những gì dính líu tới cái chết, nhưng chúng con cũng hiểu rằng sẽ có một ngày chúng con giáp mặt Chúa trong phút định mệnh. Xin giúp chúng con sống can đảm từng ngày, để chúng con dầy dạn với thử thách quyết liệt sau cùng của cuộc đời. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Chết đang khi sống
Nhiều người coi sống và chết là hai sự việc nối tiếp nhau: khi không còn sống nữa thì chết. Nghĩ như thế là vì người ta chỉ biết có mỗi một sự sống, là sự sống của thể xác, và cũng chỉ biết có mỗi một sự chết, cũng là sự chết của thể xác.
Thực ra, sống và chết là hai việc đi song song với nhau trong cùng một đời người. Bởi vì có tới hai sự sống và hai sự chết: sự sống chết của con người thể xác và sự sống chết của con người đích thực. Câu nói của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này hàm chứa hai sự sống chết đó: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời". Nói cách khác cho dễ hiểu hơn: ai cố bám víu vào sự sống của con người thể xác thì sẽ đánh mất sự sống của con người đích thực; còn ai dám để cho sự sống của con người thể xác chết đi thì đồng thời bồi dưỡng cho sự sống của con người đích thực.
Bởi đó, có người dám nói: "Chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn". Thực vậy,
mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi.
mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi.
mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung bạo chết đi.
mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.
Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh. (Viết theo Flor McCarthy)
* 6. Tâm sự của Đức Giêsu
Tôi cảm động vì lời Đức Giêsu thổ lộ tâm sự: "Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến".
Đức Giêsu đã tâm sự rất thật thà. Ngài nói thật với các môn đệ rằng Ngài xao xuyến trước cái chết sắp tới. Không phải vì Ngài đã từng khuyến khích họ mạnh dạn hy sinh mà nay Ngài phải che dấu cảm xúc xao xuyến của mình. Ngài cũng không muốn làm bộ anh hùng bất khuất. Cảm thấy thế nào, Ngài nói thế đó.
Tôi cũng muốn tìm hiểu xem vì sao mà Ngài xao xuyến.
Chắc hẳn Ngài xao xuyến vì không cam tâm chịu chết. Một con người mới 30 tuổi đang tràn đầy sức sống mà phải chết ư?
Ngài còn xao xuyến hơn vì phải chết cách đau đớn. Chết đóng đinh trên thập giá là khổ hình tàn bạo nhất trong các hình thức xử tử.
Nhưng Ngài xao xuyến sâu xa hơn nữa là vì sự nhục nhã khi phải chịu xử tử như thế. Gần giống như một võ sĩ vô địch mà phải nhận chỉ thị phải thua một võ sĩ hạng thấp hơn mình, không chỉ phải thua bằng tính điểm mà còn phải thua bằng "knock out" nhục nhã. Ngài chết như thế thì những kẻ thù ghét Ngài sẽ hả hê như thế nào? Và những môn đệ thân yêu của Ngài sẽ hoang mang như thế nào?
Bởi vậy, Đức Giêsu đã thốt lên lời van xin: "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này". Tuy thế, Ngài mau mắn thưa tiếp: "Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha".
Đức Giêsu thật tội nghiệp! mà cũng rất đáng phục!
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trước ngưỡng cửa cuộc tử nạn và tôn vinh của Đức Giêsu, Hội thánh muốn giúp chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã trở nên như hạt lúa mì bị chết đi để sinh nhiều hạt khác. Chúng ta cùng dâng lên Chúa những lời cầu sau đây:
1. Đức Giêsu đã dạy: nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình / Chúng ta cầu xin Chúa cho Hội thánh trong lòng thế giới / không khép kín để tự vệ / nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ mọi người.
2. Đức Giêsu đã dạy: "Khi Tôi được treo lên, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi". Chúng ta cầu xin Chúa cho các thủ lãnh trên thế giới đừng ai từ chối hoặc chống lại công trình cứu độ do tình thương của Chúa.
3. Đức Giêsu đã dạy: "Hạt lúa có chết đi, thì mới sinh được nhiều hạt khác" / Chúng ta cầu xin Chúa cho những người tàn tật ốm đau, già yếu, bị tù đày / biết dùng đau khổ mình đang chịu để sinh ích lợi cho nhiều người khác.
4. Đức Giêsu đã dạy: "Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ được ở đó" / Chúng ta cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta biết noi gương phục vụ của Chúa / để luôn quan tâm chu toàn mọi trách nhiệm của mình trong gia đình, trong họ đạo và trong xã hội.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã hy sinh mạng sống để chúng con được sống thật. Xin Chúa đánh tan thói ích kỷ, sợ khó, và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con, để chúng con trở thành môn đệ thực sự của Chúa, biết sẵn sàng hy sinh phục vụ mọi người chung quanh chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Qua kinh Lạy Cha, chúng ta sắp cầu xin cho "Nước Cha trị đến. Ý Cha thể hiện". Nước Thiên Chúa đến nhờ thập giá Đức Giêsu; Ý Thiên Chúa được thể hiện trọn vẹn nhất nơi Đức Giêsu và khi Ngài chịu chết trên thập giá. Chúng ta hãy hợp một lòng một ý với Đức Giêsu trên Thập giá để dâng lên Chúa Cha những lời cầu xin trên.
Chúc bình an: Đức Giêsu đã chịu chết để hòa giải con người với nhau. Vậy lẽ nào chúng ta vẫn giữ mãi hận thù? Qua việc chúc bình an, anh chị em hãy thực lòng làm hòa với nhau.
VII. Giải tán
Trong Thánh lễ hôm nay Đức Giêsu đã dạy "Ai phụng sự Ta hãy theo Ta, và Ta ở đâu kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó". Tuần này, anh chị em hãy phụng sự Chúa, hãy đi theo Chúa, để có thể ở nơi Chúa ở.
59. Con đường hạt lúa – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Con đường Chúa Giêsu đã đi qua là con đường hạt lúa: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Thật, Thầy bảo anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái" (Ga 12,23-24).
Hạt lúa được gieo trên ruộng đồng. Hạt lúa mục nát rồi mới nẩy mầm, đâm bông và kết hạt. Không mục nát, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Sự mục nát làm trổ sinh sự sống mới, hứa hẹn mùa gặt tương lai.
Nhìn một cánh đồng lúa xanh tươi, uốn lượn theo gió, trải dài trong nắng, căng tròn sức sống, ta nghĩ đến muôn vàn hạt lúa đã mục nát để lên xanh đồng lúa bát ngát.
1. Con đường hạt lúa Giêsu.
Từ khi nhập thể, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa gieo vào lòng đất nhân loại. Thánh Phaolô trình bày mầu nhiệm tự huỷ: "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế". Như hạt lúa bị mục nát: "Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự". Như hạt lúa nẩy mầm, lớn lên, đơm bông sinh hạt: "Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Pl 2,6-11).
Phúc Âm Marcô viết: "Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại" (Mc 8,31). Chúa Giêsu nói, Người phải chịu nhiều đau khổ. Phải có nghĩa là bắt buộc. Những kẻ gây đau khổ cho Chúa là những người có địa vị trong tôn giáo và xã hội, những người được coi là thuộc loại trí thức, chức cao, quyền trọng, gây nhiều ảnh hưởng trong dân.
Con đường Chúa đi, quá nhục nhã ê chề nên các môn đệ không thể chấp nhận. "Phêrô liền kéo riêng Chúa Giêsu ra và bắt đầu can trách Người. Nhưng khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Chúa, mà là của loài người" (Mc 8,32-33). Chính bản thân Chúa sẽ như hạt lúa chịu nhiều đau thương tơi tả. Mục nát là chặng đường phải đi qua để có mùa gặt trù phú.
Con đường Chúa đi thật quá hãi hùng: "Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường đi Giêrusalem...Người lại kéo riêng nhóm mười hai ra và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy ra cho mình: Này, chúng ta lên Giêrusalem, và ở đó con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại" (Mc 10,32-34). Con đường mở mang Nước Trời sao quá khổ đau, bị nhạo báng, bị khạc nhổ, bị đánh đập. Hạt lúa Giêsu đã đi hết chặng đường đau khổ, mục nát trong cõi chết để đạt tới sự sống vinh quang.
2. Con đường hạt lúa các môn đệ.
Các môn đệ theo Chúa nên cùng đi trên con đường Chúa đã đi "Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta" (Mc 8,34). Thánh Phaolô kể về con đường đi của người môn đệ: "Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa" (CV 20,22-24). Người môn đệ của Chúa coi vinh dự là "đựơc thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết" (Pl 3,10-11). Thánh Phaolô trở thành hạt lúa Tin mừng. Trải qua tiến trình đau khổ mục nát, thánh nhân đã đứng ở vị trí đầu sóng ngọn gió trên cánh đồng truyền giáo mênh mông.
Xuyên suốt dòng lịch sử Giáo hội, biết bao hạt lúa môn đệ đã chịu mục nát để Giáo hội lớn mạnh không ngừng "Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu". Từng thế hệ chứng nhân như những hạt giống tốt, chết đi trong lòng đất các nền văn hoá, và đã trổ sinh rất nhiều hạt lúa mới. Tất cả làm nên cánh đồng lúa thiêng liêng, mùa màng tươi tốt trong cuộc sống đạo và truyền giáo.
3. Con đường hạt lúa chúng ta hôm nay.
Con đường hạt lúa như Chúa Giêsu hay như thánh Phaolô và các tông đồ là những con đường kiễu mẫu cho chúng ta đi theo.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Muốn sống một cách trọn vẹn, trổ sinh hoa trái tốt lành, ta phải chết đi cho bản thân mình. Chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả dối hận thù ghen ghét. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những gì đưa đến sa ngã.
Định luật căn bản của sự sống là: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời" (Ga 12,25). Chết vì tình thương, vì hạnh phúc đồng loại, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin là những cái chết làm trổ sinh muôn ngàn nét đẹp cho đời.
4. Hạt lúa âm thầm và hạt lúa mục nát
Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương con người mọi nơi và mọi thời. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Chúa trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Chúa Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Nếu "Hạt lúa âm thầm mọc lên" (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá, thì "Hạt lúa phải mục nát đi" (x. Ga 12,24) là con đường gian truân vất vả để làm nên một mùa gặt phong nhiêu.
60. Xin tôn vinh danh Cha - Lm Kiều Công Tùng.
Trước khi bước vào Tuần Thánh, Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay hôm nay Giáo Hội lập lại nguyện ước của những người Hy Lạp ngày xưa: “Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” để nhắc nhở chúng ta đâu là đích đến của chặng đường Mùa Chay mà chúng ta đang trải qua.
Những người Hy Lạp tìm gặp Đức Giêsu chắc không phải chỉ để chiêm ngưỡng Người mà thôi, vì như thế họ đâu cần đến Philípphê làm người môi giới. Rõ ràng là họ còn muốn đi xa hơn việc nhìn ngắm, họ muốn được gặp gỡ và trò chuyện với Chúa. Có thể nói, họ đang ở trên một hành trình Đức Tin. Diễn từ của Đức Giêsu ngay sau đó về “cái mất” và “cái được” như muốn dẫn họ đi xa hơn trong cuộc hành trình: “Hạt lúa gieo vào lòng đất... nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 24-25). Chân lý xem ra nghịch lý ấy đã được minh chứng bằng chính cuộc đời Đức Giêsu, Hạt Giống đem lại Mùa Cứu Độ.
Trong những câu kế tiếp, thánh Gioan như muốn đặt các yếu tố của cả hai sự kiện Chúa hấp hối và Chúa Hiển Dung của Phúc Âm Nhất Lãm trong cùng một trình thuật. Những lời của Chúa Giêsu “Bây giờ, linh hồn Thầy xao xuyến... Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12, 27) như đang làm vang lên những lời Người nói với môn đệ và cầu xin cùng Chúa Cha trong Vườn Cây Dầu. Tiếng vọng từ trời “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa” (Ga 12, 28) không còn là lời giới thiệu của Chúa Cha trên đỉnh Ta-bo mà đã trở thành lời chuẩn nhận cho sự dâng hiến tuyệt vời của Người Con, lời tôn vinh “Hạt Lúa” đã chấp nhận chết đi. Ở giữa những yếu tố đó, Thánh Gioan còn khéo léo xen vào một lời nguyện với tâm tình phó thác: “Chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”.
Tác giả A. Marchadour nhận xét: những lời ấy vang lên như “một bản tóm lược Kinh Lạy Cha” vậy. Lời kinh được dâng lên với một thái độ vâng phục hoàn toàn, thái độ đã làm nên ý nghĩa cho cái chết của Đức Giêsu, như lời thư gửi tín hữu Do Thái: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5, 8–9).
Rõ ràng tiến trình từ khi “hạt giống” được gieo xuống cho đến khi đem lại mùa màng, hay từ khi là “hạt bụi” cho đến lúc trở thành “cát bụi tuyệt vời” phải trải qua rất nhiều hy sinh, từ bỏ và cả chết đi nữa. Chính Đức Giêsu khi ở trong hoàn cảnh ấy đã phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy xao xuyến!” Và Người cũng chỉ cho chúng ta rằng tỉnh thức và kiên trì cầu nguyện lúc này thật cần thiết. Việc kết hợp cùng Thiên Chúa trong kinh nguyện sẽ đem lại cho người ta một sức mạnh phi thường lướt thắng những nỗi sợ bị thua thiệt mất mát. Kinh Lạy Cha mà Đức Giêsu dạy chính là bảo bối cho người Kitô hữu, là nhịp cầu giữa “mất” và “được”, giữa “xao xuyến” và “tôn vinh”.
Qua bài diễn từ, Chúa Giêsu như muốn nói với những người Hy Lạp và với cả chúng ta hôm nay rằng muốn gặp Người, ta phải hướng mắt nhìn lên Đấng được tôn vinh khi đã chấp nhận chết đi. Điều này có nghĩa là mọi cái nhìn về Đức Giêsu khi Người chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ra với Lời Chúa và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng vị kỷ muốn giữ lại tất cả cho bản thân, mà người ta mới có thể tiến đến gần Thiên Chúa, sau khi đã nỗ lực để Danh Cha được tôn vinh bằng một cuộc sống hoàn toàn vâng phục theo Thánh Ý Cha.
Dù muốn hay không thì cuộc sống một đời người luôn gặp những điều trái ý, khó khăn, nghịch cảnh. Có người đã nhìn khá bi quan về cuộc sống ấy như là “chốn bể dâu” hay “nơi khổ ải”. Còn Thánh Phaolô lại tuyên bố: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2Cr 6, 2). Phải chăng ông đã học được cái nhìn lạc quan từ lời kinh của Đức Giêsu: “Chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. Chớ gì mỗi Kitô hữu chúng ta, những môn đệ đang lần bước đi theo Thầy Giêsu trên hành trình Đức Tin cũng có những lời “Kinh Lạy Cha biến cách” cho riêng mình.
61. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Để mô tả một sứ mệnh, người đời thường nêu lên những chương trình, kế hoạch to lớn mà họ sẽ thực hiện trong cuộc sống. Tuy nhiên chẳng có ai nói về cái chết của họ như phần cốt yếu trong sứ mệnh cả! Đối với Chúa Giêsu, cuộc Thương khó và cái chết của Người mới là tột đỉnh của sứ mệnh. Cái chết của Người cần thiết để chu toàn sứ mệnh, sứ mệnh của “Con Một” được Chúa Cha ban cho nhân loại để minh chứng sự thật “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian” như thế nào. Bài Tin Mừng tuần trước cho ta hình ảnh cái chết cứu độ của Chúa Giêsu: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14). Chúa Nhật hôm nay, bài Tin Mừng lại đề cập đến cái chết cứu độ của Chúa Giêsu qua một hình ảnh sống động và quen thuộc: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
a) Cái chết đem lại sự sống
Qua hai hình ảnh, con rắn đồng treo cao trong sa mạc và hạt lúa gieo vào lòng đất, Chúa Giêsu đều muốn nói lên ý nghĩa và hiệu quả cái chết của Người, là cứu sống và ban sự sống. So sánh giữa con rắn đồng trong sa mạc với Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đồi Gôn-gô-tha thật vô cùng ý nghĩa. Rắn lửa sa mạc đã làm cho nhiều người Ít-ra-en phải chết. Cũng thế, trong vườn địa đàng con rắn Xa-tan quỷ quyệt đã cắn nguyên tổ loài người và gieo nọc độc là tội lỗi và sự chết cho nhân loại. Thiên Chúa thực hành nguyên tắc dĩ độc trị độc, đã dùng hình ảnh con rắn đồng để cứu sống dân Ít-ra-en. Giờ đây, Người lấy chính cái chết của Con Một Người trên thập giá để đánh bại cái chết và tội lỗi, đem lại sự sống cho nhân loại.
Hình ảnh hạt lúa gieo xuống lòng đất cũng hết sức linh hoạt. Hạt lúa muốn trở thành một cây lúa và sinh bông hạt cần phải trải qua một tiến trình kỳ lạ. Trước hết nó phải nằm trong bàn tay người gieo hạt. Ông ta vung nó xuống đất. Nằm trong lòng đất, nó phải chờ đợi những yếu tố cần thiết để bắt đầu một cuộc biến đổi: một khoảng đất màu mỡ, hơi ẩm của đất, ánh nắng mặt trời... Tất cả sẽ ảnh hưởng tới lớp vỏ bên ngoài, làm cho nó vỡ ra và mục nát. Lúc vỏ trấu vỡ ra là lúc hạt lúa thấy mình sắp sửa không còn là hạt lúa nữa! Rồi mầm sống dấu ẩn bên trong được đánh thức dậy, nảy nở, biến thành một mầm xanh, thoát ra khỏi lớp vỏ đã vỡ và từ từ chui lên khỏi lòng đất để đón lấy ánh mặt trời. Biến thành cây lúa, nó không còn là hạt lúa nữa. Nhưng chính nó sẽ đem lại nhiều hạt lúa khác.
Nếu đem so sánh hình ảnh trên với cuộc đời Chúa Giêsu, ta sẽ thấy một tiến trình y hệt. Chúa Cha đã gieo hạt lúa Giêsu xuống trần gian, đặt trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria. Người đã sinh ra, lớn lên và sống ẩn dật tại Na-da-rét. Người đã lên đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Sau hết, qua cái chết cứu chuộc, Người đã cứu mọi người khỏi tội lỗi, phục hồi cho nhân loại sự sống đời đời mà ma quỷ đã cướp đi khi nguyên tổ không tuân phục Thiên Chúa. Đặc biệt, cuộc Thương khó, cái chết trên thập giá, an táng trong mồ và sự Phục sinh của Chúa Giêsu quả thực là những diễn tiến y hệt như tiến trình biến đổi của hạt lúa. Như hạt lúa phải chết đi để đem lại sự sống cho những hạt lúa khác thì Chúa Giêsu cũng phải chết đi để chia sẻ sự sống đời đời cho toàn thể nhân loại.
b) Những bài học về hạt lúa
Không phải Chúa Giêsu chỉ nói về sứ vụ của Người là chết để loài người được sống, nhưng Người còn đưa ra những bài học vô cùng ý nghĩa về cái chết của hạt lúa.
Bài học đầu tiên là về sự ưu tiên của sự sống đời đời, được trình bày qua nghịch lý sống và chết, tạm bợ và vĩnh cửu. Sống ở đời này, nếu ta chỉ lo lắng hưởng thụ mà không lấy cuộc sống để phục vụ, ta sẽ mất cuộc sống vĩnh cửu mai sau, tức là chết muôn đời. Nếu ta lấy cuộc sống đời này như một cơ hội để phục vụ, làm điều lành mặc dù phải chịu thiệt thòi, thì ta sẽ được sự sống muôn đời.
Bài học thứ hai về gương phục vụ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã phục vụ mọi người vì Người nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi người khác. Phục vụ người khác là phục vụ chính Thiên Chúa ở trong họ. Giờ đây, Chúa Giêsu đã đồng hóa Người với anh chị em. Người khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Ta là môn đệ Chúa Giêsu nên là người phục vụ Chúa trong anh chị em. Sống đời phục vụ, ta sẽ được Thiên Chúa Cha “quý trọng” như Người đã quý trọng Con Một Người.
Bài học thứ ba là biết xử sự sao cho đúng khi ta cảm thấy xao xuyến vì phải chấp nhận hy sinh. Chúa Giêsu biểu lộ hoàn toàn những tâm tình hãi sợ, xao xuyến khi thấy cái chết tủi nhục đến gần. Cảm giác “biết nói gì đây?” đã cho ta thấy Người như bị tê liệt, hoảng hốt. Nhưng đó cũng chính là lúc Chúa Giêsu biểu lộ trọn vẹn sự tín thác của Người nơi bàn tay quan phòng của Chúa Cha. Người chỉ còn nhìn thấy một điều ưu tiên phải làm, tức là làm cho Danh Cha được tỏ rạng. Tất cả ý nghĩa cuộc đời của Chúa Giêsu ở trần gian này là để tôn vinh Danh Cha. Cái chết của Người sẽ là hành vi cuối cùng làm cho Danh Cha được chiếu sáng tột đỉnh. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha đã biểu lộ sự tuân phục tuyệt đối. Lập tức Chúa Cha nhìn nhận việc tôn vinh Chúa Giêsu đã làm cho Người và đáp lại với lời hứa chính Người sẽ tôn vinh Chúa Giêsu qua cuộc Phục Sinh vinh hiển.
c) Cuộc phán xét thế gian này đang diễn ra
Nói đến cái chết của Người, Chúa Giêsu nhắc nhở ta hướng đến một trời mới đất mới: quyền lực ma quỷ và thế gian sắp bị đánh bại. Cái chết của Người sẽ dứt khoát làm cho “thủ lãnh thế gian này bị tống ra ngoài”. Sau chiến thắng ở vườn Địa đàng, thế gian này đã biến thành lãnh thổ của Xa-tan rồi. Nó tha hồ tung hoành và khống chế con người. Nhưng sau chiến thắng của Chúa Giêsu nhờ cái chết, Xa-tan không còn đất đứng nữa. Con đường đi đến với Thiên Chúa đã được nối lại để ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Tuy nhiên ta nên hiểu cuộc phán xét thế gian, hoặc chiến thắng của Chúa Giêsu là điều đang tiếp tục xảy ra và sẽ kết thúc vào ngày thế mạt khi Người trở lại để phán xét muôn loài. Do đó, ngay bây giờ và tại thế gian này, Chúa Giêsu mời gọi ta tham dự vào cuộc chiến thắng ấy bằng cách để cho Người “kéo ta lên với Người”. Đừng chống cự, nhưng ta cứ theo Người, để cho Người kéo ta vào trong mối thâm giao với Người và ngày sau được chung hưởng vinh phúc với Người. Nhưng ngay bây giờ, ta hãy để cho Người kéo ta lên với Người trên thập giá, bắt chước Người cam chịu mọi gian nan thử thách, nhưng vẫn luôn trung thành và hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi suy nghĩ về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu không? Tôi đã cầu nguyện về cái chết của Người như thế nào? Cái chết ấy ảnh hưởng gì đến đời sống đức tin của tôi?
Bài học nào về hạt lúa Chúa dạy làm cho tôi phải suy nghĩ nhất? Tại sao? Tôi sẽ thực hành như thế nào?
Điều gì ngăn cản tôi, không để cho Chúa Giêsu kéo tôi lên với Người? Tôi sẽ nghe Chúa nói gì về tình trạng này?
Cầu nguyện
“Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá
bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khát khao nóng bỏng
có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con
nói lên lòng tin của con
vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha
và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân
và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau
như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy
con đang thuộc về Cha mãi mãi.”
- Cha Karl Rahner
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 63)
62. Học Yêu – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng, Lề luật của Ta” (Gr 31,33). Chắc hẳn Lề luật mà Thiên Chúa muốn khắc ghi vào tâm khảm dân của Người chính là Luật của tình yêu. Sau này chính Con Một Người nhập thể đã khẳng định rằng mọi lề luật và lời ngôn sứ gồm tóm trong điều này là anh em hãy làm cho tha nhân những gì anh em muốn tha nhân làm cho mình (x.Mt 7,12).
Một trong những khao khát đượm tình hiện sinh của con người đó là được sống và sống mãi. Cái khát vọng này như đã trở thành vô vọng với cả những người quyền cao chức trọng, với các vua chúa xưa nay. Sở dĩ nó đã trở thành vô vọng, vì người ta quá băn khoăn về cuộc sống đời này trong sự vị kỷ. “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”(Ga 12,25 ). Sự coi thường ở đây không phải là thái độ lơ là, vô trách nhiệm, mà là một sự hiến mình vì tha nhân trong tình yêu.
Quy luật của tình yêu đã được thánh Phanxicô Axidi phác họa trong lời kinh hoà bình: “Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính khi quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chắc hẳn thánh nhân thuộc nằm lòng lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Thật, Thầy bảo thật với anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
Đã là quy luật thì có tính khách quan cần phải tuân thủ. Để tuân thủ quy luật nào đó thì trước hết phải nhận biết nó. Thế nhưng không phải mọi quy luật đều hiện hữu cách minh nhiên dễ thấy, dễ nhận ra. Định luật vạn vật hấp dẫn đã có từ khi vũ trụ hình thành thế mà đến cuối thế kỷ XVII Isaac Newton mới phát hiện. Việc khám phá định luật này là kết quả của một quá trình nghiên cứu mà việc thấy quả táo rơi chỉ là điểm khởi đầu. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã khẳng định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục…” (Dt 5,9), nói đúng hơn, đó là Chúa Giêsu đã trải qua nhiều đau khổ mới học biết thế nào là yêu thương.
Yêu thương không hẳn chỉ là cho đi những gì mình có. Với quyền năng của Đấng tạo thành, có từ đời đời với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Chúa Kitô có thể biểu lộ tình yêu bằng việc cung cấp lương thực cho con người. Người cũng đã biểu lộ tình yêu bằng việc giáng phúc thi ân chữa lành bệnh tật, cho người què được đi, người mù được thấy người điếc được nghe… Người cũng đã biểu lộ tình yêu khi làm chủ thiên nhiên hay làm chủ cả quỷ thần. Người lại đã từng biểu lộ tình yêu khi làm cho một số người sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên, nếu chỉ cho đi những gì mình có bằng khả năng và quyền hạn của mình thì cũng chưa hẳn đã là yêu đến cùng.
Yêu thương cách đích thực là cho đi những gì mình là. Phút giây nhập thể trong cung lòng Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa đã tự nguyện cho đi thân phận của một vị Thiên Chúa. Lời đáp ca trong Thánh Lễ Truyền Tin, nói đúng hơn là Thánh Lễ mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể: “Hy sinh và lễ vật, thì Chúa chẳng ưng, này Con xin đến để thực thi ý Người” (x.Tv 40). Suốt ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nỗ lực không ngừng cho đi cái thân phận của Đấng Thiên Sai, Đấng từ trời mà xuống, để sống kiếp “không chỗ tựa đầu”(x.Lc 9,58). Vì yêu thương Chúa Giêsu đã đau xót đến tột độ đến nỗi mồ hôi tuôn ra pha lẫn máu trong vườn cây dầu, để rồi cho đi thân phận một con người, thân phận của vị vua trên các vua và cả thân phận Con Thiên Chúa của mình bằng cái án bất công và cái chết ô nhục trên thập giá. “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mt 27,40). “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”(Lc 23,37). Người vẫn ở đó, trên thập giá cho đến hơi thở cuối cùng.
Mất những tất cả gì mình có, thật đau xót, nhưng dẫu sao vẫn còn chính mình. Mất tất cả những gì mình là, đúng là một điều tồi tệ, vì chẳng còn gì, ngay cả bản thân. Thế nhưng khi cái điều tồi tệ ấy khi được thực hiện bằng sự ý thức và tự do vì hạnh phúc của tha nhân, thì nó trở thành tiền đề cho tiến trình yêu thương và phát triển. Khi bị mục nát đi, chẳng còn là hạt lúa thì cây lúa mọc lên và các gié lúa trĩu hạt hình thành.
Đã yêu là phải tuân thủ quy luật của tình yêu. Để biết được quy luật thì phải học hỏi, tìm tòi. Học mà thôi, vẫn chưa đủ, cần phải tập luyện liên lỉ. Có đau đớn và cũng có xót xa. Có xao xuyến và cũng có hy sinh. Nhưng không thể không tập luyện. Để được sống và sống dồi dào, để sinh được hoa trái và hoa trái tồn tại, khởi đầu xin hãy tập cho đi những gì mình có và tiến dần đến chỗ trao ban những gì mình là, vì người mình yêu, vì người yêu mình, vì cả người ghét mình lẫn kẻ bách hại mình.
63. Chuyện tình có hậu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hàng năm theo niên lịch phụng vụ, để chuẩn bị cho đại lễ Giáng Sinh, Hội Thánh không chỉ dành quãng thời gian mùa Vọng mà còn dành một tuần đặc biệt từ 17-24/12 như thời gian chuẫn bị gần. Tuần đặc biệt này có các bài đọc riêng để giúp tín hữu y thức hơn. Để đón mừng đại lễ Phục Sinh, đón mừng mầu nhiệm Khổ Nạn -Phục Sinh của Đức Kitô thì có những ngày mùa chay thánh và tuần lễ chuẩn bị gần khởi từ chủ nhật thứ V mùa chay. Xin chia sẻ đôi nét suy nghĩ được gợi ý từ hai bài đọc của ngày thứ hai tuần đặc biệt này: bài trích sách tiên tri Đaniel kể về chuyện bà Suzana và bài trích tin mừng thánh Gioan về chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang.
Thưở còn "làm chú" trong Tiểu Chủng Viện dù phải nghe một bài đọc rất dài, bài trích sách tiên tri Daniel nhưng không ai trong chúng tôi cảm thấy oải vì chuyện kể về bà Suzana vừa hấp dẫn vừa lôi cuốn trí tò mò của các chú thiếu niên đang độ tuổi nhổ giò. Hơn nữa, ai cũng hể hả như vừa theo dõi một cuốn phim hay, một câu chuyện đậm tính bi hài mà lại kết thúc có hậu: kẻ gian ác phải chết còn người vô tội thì được cứu sống. Câu chuyện bà Suzana còn trên môi miệng những chú tinh nghịch trong các giờ chơi những ngày sau đó: nè,cho tao biết cây chò hay cây sồi? Sự tinh nghịch của chúng tôi cũng có phần do thích thú trước trí thông minh của cậu bé Đanien biết phân biệt điểm khác nhau giữa sự thật và điều dối trá. Sự thật vì chỉ có một nên phải tương đồng còn điều dối trá thì dễ khác biệt. Đây là một trong những chìa khoá giúp các nhà điều tra tìm ra sự thật hoặc phát giác sự giả dối. Hai người gian dối nếu không quá lanh mưu hay lưu manh thì rất dễ lộ tẩy do những khác biệt trong lời khai về một vấn đề hay một sự kiện. Đanien đã khôn ngoan tách hai ông lão dù tóc đã bạc nhưng tuổi mãi ở tầm 35 riêng ra để tra xét. Và thế là sự dối trá đã lộ ra nơi chính lời khai của hai ông. Người thì nói bà Suzana phạm tội dưới gốc cây sồi ông kia lại bảo dưới gốc cây chò. Thú thật khi chọc ghẹo nhau, lũ mới lớn chúng tôi đã tự thú nhận trí tò mò của mình về những chuyện " rồi ai cũng sẽ biết". Tuy nhiên phải nhìn nhận điều này rằng tính có hậu của câu chuyện làm ai ai cũng hể hả. Kẻ gian ác, dù là vị vọng hay quyền cao chức trọng cũng phải chết, phải bị nghiêm trị còn người vô tội cần được cứu sống, người thấp cổ bé miệng và người bị bóc lột, bị áp bức cần được giải phóng. Chúa đã thực thi điều ấy và chúng ta đương nhiên phải làm như vậy. Phải có công bình và cần giữ công lý nghiêm minh.
Trên núi cây dầu, trời vừa tảng sáng, một đoàn người trai gái, già trẻ, lớn chức, bé quyền đủ cả, mặt hí hửng dẫn một chị phụ nữ ngoại tình đến gặp Chúa Giêsu: " Thưa thầy hạng phụ nữ này theo luật Môsê thì phải ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy thế nào?". Thánh Gioan nhận ra đây chính là một mũi tên nhắm hai mục đích mà mục đích chính là Chúa Giêsu. Những tưởng rằng trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan, Chúa Giêsu thế nào cũng bị sập bẫy, một cái bẫy tinh quái, hiểm độc do các luật sĩ và biệt phái giăng ra để thực hiện âm mưu thâm độc của mình. Các ông này không ngần ngại thức trắng đêm để bắt tại trận tội yếu đuối, bất trung của người phụ nữ để làm mồi nhử, hãm hại Chúa Giêsu. Nếu tội của người phụ nữ là một thì tội các ông này phải đáng mười vì đâu phải do yếu đuối như chị phụ nữ kia mà là do lòng nham hiểm ác độc, một sự ác độc nham hiểm tột độ đến nỗi không chừa một thủ đoạn bỉ ổi nào.
Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất và khi bị gặn hỏi nhiều lần Ngài đã đứng lên rồi ôn tồn: "Ai trong các ngươi xét mình vô tội hãy ném đá chị này trước đi'. Rồi Ngài lại cúi xuống tiếp tục lấy ngón tay viết lên đất. Không biết Chúa Giêsu viết những gì nhưng chắc chắn khó có ai đọc ra vì trời vừa tảng sáng và khoảng cách giữa Ngài với đám đông chắc không thể gần vì có sự ngăn cách của người phụ nữ, nhất là đám đông đứng đối diện thật khó mà đọc được những gì Ngài viết. Xét theo công lý như cảm nghĩ của con người thì những người có mặt sáng hôm ấy ( trừ Chúa Giêsu ), tất thảy đều phải chết, nhất là những kẻ lòng dạ nham hiểm, ác độc.
Tư tưởng của ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của ta cũng không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của ta và đường lối của ta vượt cao hơn tư tưởng và đường lối các ngươi bấy nhiêu. Mạc khải của Thiên Chúa dần hé mở qua lời của tiên tri Isaia. Mạc khải ấy nay hiện thực và nên hoàn hảo nơi chính Đức Giêsu: kẻ có tội, người gian ác không phải chết. Đám đông hung dữ hôm ấy lẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đã được cứu sống bằng lòng nhân hậu của Chúa Giêsu. "Ta cũng không kết tội chị hãy về và đừng phạm tội nữa". Chúa Giêsu không chỉ khoan dung với chị phụ nữ mà còn tế nhị đánh thức lương tri của đám đông hiểm độc bấy giờ. Thánh Gioan đã tường thuật rằng sau khi ngẩng lên nói: "Ai trong các ngươi......" thì Ngài lại cúi xuống viết dưới đất. Giả như lúc bấy giờ sau khi nói, Chúa Giêsu vẫn ngước mắt nhìn chằm chằm vào đám đông thì thử hỏi có được mấy ai tự nguyện rút lui, nhất là người rút lui đầu tiên. Hình như Chúa Giêsu không muốn nhìn, Ngài tế nhị tạo cơ hội cho những người hôm ấy nhìn nhận tôi lỗi mình và rút lui trong danh dự. " Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tôi lỗi của loài người, để họ còn ăn năn hối cải' ( Kn 11,23 ).Kẻ gian ác đã được cứu sống đúng như lời Chúa đã phán: "Ta lấy mạng sống ta mà thề: Ta đâu muốn cho kẻ dữ phải diệt vong, nhưng là muốn nó bỏ đường tà để được sống". ( x.Ed 18,23 ).
Lẽ công minh theo cảm nghĩ của con người, một kết cục có hậu mà thường ai cũng thích khi xem phim hay đọc tiểu thuyết đó là kẻ gian ác phải chết và người công chính được cứu sống. Tuy nhiên đây chỉ là lẽ công minh hay là sở thích của đám đông dân thường. Với các hiền triết, các nhà đạo đức thì dường như có cao hơn một bậc. Nên khoan dung với người có tội, cần lượng thứ cho người gian ác để giúp họ hoán cải, ăn năn. "Buông đao thành Phật. Quay đầu là bờ". Những lời giáo huấn trong Phật giáo cho ta hay chân lý này. Các quốc gia tiến bộ đã và dần bỏ án tử hình. Án hình giam giữ cũng là một trong những cách thế giúp tội nhân có cơ hội ăn năn và sửa đổi. Kẻ gian ác không bị diệt trừ ngay nhưng cần được giáo huấn để đổi thay.
Tuy nhiên để thực hiện điều này thì một người công chính, duy nhất xứng là công chính đã không được cứu sống. "Người này đích thực là người công chính" (Lc 23,47). Để kẻ gian ác được cứu sống thì Giêsu Kitô, người công chính đích thực đã phải chết. Chuyện thật nghịch lý nhưng rất đượm tình. Chết cho người công chính thì xưa nay vốn hiếm, ở đây Thiên Chúa lại tự nguỵên hy sinh vì chúng ta là những tội nhân. Tình yêu thật khó lý giải vì Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Có nhiều người dễ biện minh rằng nếu ta hành xử như thế thì có thể làm cho nhiều người lạm dụng tình yêu và không chịu đổi thay hay vươn lên. Cũng có thể lắm nhưng ngược với khôn ngoan loài người như Tào Tháo đã quan niệm: thà ta phụ người chứ không để người phụ ta hay thà giết lầm hơn bỏ sót thì với tình yêu đích thật phải chăng phải là thà yêu lầm còn hơn bỏ sót. Dẫu có lầm thì cái lầm trong tình yêu cũng thật đáng yêu vậy.
64. Suy niệm của Gs. Phạm Văn Lưỡng.
“ĐÃ ĐẾN GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH”
I. BỐI CẢNH BÀI TIN MỪNG
Trình thuật Tin Mừng hôm nay diễn ra trong bối cảnh người Do Thái lũ lượt tiến về Giêrusalem để mừng đại lễ Vượt Qua theo luật dạy. Khi “nghe tin Đức Giêsu cũng tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Israel!” (Ga 12, 12-13). Họ đâu ngờ rằng, trong đại lễ này, chính Đức Kitô, là Chiên Vượt Qua Mới, sẽ biến thành lễ Vượt Qua Mới để cứu chuộc nhân loại.
Ngay đầu trình thuật (câu 20), tác giả Gioan kể rằng, không chỉ có người Do Thái lên Giêsusalem thờ phượng Thiên Chúa mà còn có mấy người Hy Lạp là những người ngoại giáo cũng đến đền thờ để tỏ lòng tôn kính thờ phượng Người. Câu 21-22, tác giả Gioan kể tiếp, những người Hy Lạp này đã qua trung gian các môn đệ Philipphê và Anrê mà xin được gặp Đức Giêsu. Từ "gặp" trong Kinh Thánh có nghĩa là "tin". Những người ngoại giáo này đã tin vào Người, Sự kiện này cho thấy chương trình Cứu Độ là phổ quát, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc chứ không chỉ hạn hẹp trong dân Do Thái. Đức Giêsu trả lời khi hai môn đệ hỏi Người:
"Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga 12, 23) hàm ý Ơn Cứu Độ phổ quát ấy giờ đây bắt đầu được thực hiện. Từ câu 23, tác giả Gioan không còn nói gì đến những người ngoại giáo này nữa, cũng chẳng cho biết lời yêu cầu của họ có được toại nguyện hay không, nhưng để tập trung bài trần thuật của mình vào Đức Giêsu Kitô, Đấng được tôn vinh nhờ mầu nhiệm khổ nạn, thập giá mà Người sẽ phải Vượt Qua để vào vinh quang Phục Sinh.
II. GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH:
1. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Từ "giờ" được sử dụng hai mươi sáu lần trong Tin Mừng của Gioan, thường thường ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được thực hiện. Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, "giờ" này còn chưa đến. Chúng ta lấy một ví dụ: Thân mẫu của Đức Giêsu, trong khi muốn cậy nhờ đến Con mình ở tiệc cưới Ca-na, được nghe trả lời rằng: "Giờ của con chưa đến" (Ga 2, 4)... Mãi đến đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu mới mặc khải "giờ" của Người đã đến.
2. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Giờ, vừa là sự chết, vừa là sự tôn vinh. Giờ, vừa là Thứ Sáu Tuần Thánh, vừa là Chúa Nhật Phục Sinh. Để diễn tả sự phong phú từ cái chết của mình được mời gọi tiến đến vinh quang, Đức Giêsu đi từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát đi để mang lại nhiều hoa trái. Đây là một bài học thực tế, một hình ảnh rất cụ thể ngay trong thiên nhiên: Nhà nông gieo hạt giống xuống đất, sau ít lâu thấy làn vỏ mục thối, một mầm sống trồi lên, và với ngày tháng trôi qua, mầm sống đã vươn lên thành cây, phát sinh bông hạt nặng trĩu và một đồng lúa chín vàng, ngào ngạt hương thơm, đem lại cho nhà nông một mùa gặt phong nhiêu và một niềm vui dào dạt (trích bài suy niệm của Lm. Minh Văn CMC). Cũng như hạt giống, Đức Giêsu cần phải được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa trái là ơn cứu độ cho mọi người, kể cả lương dân.
3. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Cái chết của Đức Giêsu không chỉ là một sự bắt buộc phải kinh qua để tiến đến vinh quang phục sinh, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát triển Giáo Hội.
Cái chết của Đức Giêsu quả là thời điểm kiến tạo con người Kitô hữu, bởi vì "Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó" (Ga 12, 26). Quả vậy, các câu 25 – 26 nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Đức Giêsu:
"Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thướng mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời (Ga 12, 25)... Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy" (Ga 12, 26)... Ai yêu quý mạng sống mình, theo ngôn ngữ của Gioan, là kẻ ưa thích sự tối tăm, yêu thích thế gian này và sự vinh quang riêng mình.
Ở đây vẫn còn là vấn đề Đức Tin, dù nó không rõ ràng như trong Tin Mừng Nhất Lãm nhằm nhấn mạnh mối tương quan với Đức Giêsu: "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8, 35). Tương quan với Đức Giêsu còn được nêu rõ qua câu: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy". Môn đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Đức Giêsu đi, nghĩa là cũng như Người đi vào cái chết để dự phần vào vinh quang phục sinh. Trong trường hợp này, Đức Giêsu đã nói: "Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
4. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Giờ khổ nạn và thập giá gần kề, tâm hồn Đức Giêsu xao xuyến! Người đã cầu nguyện với Cha. Chúng ta cùng lắng nghe hai lời cầu nguyện của Người: "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" và "Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha". Đức Giêsu đã chọn lời cầu nguyện thứ hai. Nghĩa là Người đã chu toàn cách tuyệt hảo sứ mệnh Chúa Cha giao phó: thí mạng sống mình để cứu rỗi toàn thế giới. Trốn tránh giờ đó là hủy bỏ mọi giá trị của nó đã từng được gói ghém trong mầu nhiệm nhập thể. Còn chấp nhận giờ đó là làm vinh danh Chúa Cha. Vì vậy, nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu mà chương trình cứu độ phổ quát của Người được thực hiện.
5. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Sự chết của Đức Giêsu sẽ mang lại nhiều bông hạt. Người ta thấy dân chúng tuốn đến với Người: Ban đầu là dân Do Thái (Ga 12, 9.12.17.18.34), rồi đến dân ngoại làm nên hoa trái đầu mùa (Ga 12, 20 – 22). Đó cũng là điều được nói lên ở câu 32: "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi". Khởi đầu của việc Đức Giêsu được giương cao là khi Người chịu đóng đinh trên thập giá.
6. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23)
Giờ Con Người được tôn vinh cũng là giờ thế gian bị xét xử. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt để bắt đầu cuộc sáng tạo mới. Số phận mọi người tùy thuộc giờ Đức Giêsu là giờ phán xét, giờ phân chia: giờ này ai từ chối Đức Giêsu thì bị xếp vào phe của Sa-tan, thủ lãnh thế gian, đối thủ lợi hại của Đức Giêsu, và bị luận phạt như nó.
III. KẾT LUẬN:
Bản văn Tin Mừng hôm nay với những gợi ý nêu trên, nhằm gửi đến mỗi người chúng ta tín thư sau:
Giờ của Đức Giêsu là trung tâm điểm của lịch sử ơn cứu độ. Giờ này đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu chuộc nhân loại. Cả cuộc sống của Đức Kitô đều qui hướng về Giờ đó. Từ Giờ đó mà có sự phán xét nhân loại, có sự phân chia những kẻ tin hay không tin mầu nhiệm Đức Kitô chết và phục sinh vinh quang. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống; còn ai từ chối thì bị luận phạt và phải chết.
Để tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu và mừng Đại Lễ Phục Sinh của Người trong những ngày sắp tới, mỗi chúng ta hãy sẵn sàng mở toang cánh cửa lòng mình ra với tình yêu chân thật và sâu thẳm để đón nhận Đức Kitô, Đấng đã chết khổ hình thập giá và phục sinh vinh hiển, nguồn Ơn Đức Độ của chúng ta.
Xin được đưa ra một vài gợi ý áp dụng vào thực tế cuộc sống Kitô hữu:
1. Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Bạn và tôi, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?
2. Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn và tôi có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
3. Đức Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát để trở nên Thánh Thể – bánh trường sinh cho nhân loại, cho bạn và cho tôi. Nếu lãnh nhận thứ bánh ấy mà không có sự đồng cảm với Đức Kitô thì có nghĩa gì đâu? Cánh cửa nguồn ơn cứu độ đã mở rộng từ lâu lắm rồi... phải chăng bạn và tôi vẫn đi vào mà lại không nhận ra là mình đi đâu?
65. Lẽ sống chết – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời” (Ga 12:25).
Từ một câu chuyện có thật:
Anh Sundar được sinh ra trong một gia đình theo Ấn giáo. Lớn lên, được nghe biết về Chúa Giêsu, anh đã xin rửa tội theo Kitô giáo, sau đó tình nguyện ở lại Ấn độ làm thừa sai, chứng tá cho niềm tin của mình.
Một chiều kia, Sundar cùng với một tu sĩ Phật giáo phải băng qua vùng núi Himalaya để đi đến một tu viện. Trời lạnh buốt và màn đêm như sắp bao phủ không gian. Sundar và nhà tu kia được báo cho biết họ sẽ bị lạnh và có thể mất mạng nếu không kịp về đến tu viện trước khi trời tối.
Đang lúc đi vào một đoạn đường hiểm trở, với những vách đá cheo leo, thì chợt, họ nghe có tiếng cầu cứu. Một người đàn ông đã trợt chân rơi xuống khe núi từ khi nào. Chân anh ta bị gãy, không thể nào leo lên được, và đang nằm chờ chết.
Người tu sĩ kia lên tiếng nhắc nhở Sundar:
- Chớ dừng lại. Ý trời đã định cho hắn như vậy rồi, ta không nên can dự vào làm chi. Phần chúng ta, phải đi gấp lên nếu như không muốn bỏ mình nơi này.
Sundar đáp lại:
- Theo tôi, ý Trời đã định cho ta đi ngang qua đây để cứu giúp kẻ không may này đấy. Tôi không thể bỏ rơi anh ta.
Nói xong Sundar tìm cách trèo xuống khe núi. Vị tu sĩ kia vội vã tiếp tục cuộc hành trình.
Nơi khe núi, nhìn đôi chân bị gãy, biết nạn nhân không thể tự bước đi được, Sundar phải dùng tấm mền bó anh lại, cõng lên lưng, nặng nhọc lần mò trèo khỏi khe núi, tìm trở lại con đường lúc nãy.
Sau mấy tiếng đồng hồ vất vả, Sundar và nạn nhân đến được lối mòn dẫn về tu viện. Lúc này tuyết rơi mỗi lúc một dày. Trời tối. Cóng lạnh. Sức lực hầu như khô cạn. Đang lúc tưởng chừng không còn bước thêm được nữa thì Sundar chợt thấy có ánh lửa phát ra từ một cánh cửa sổ của tu viện.
Mừng quá! Sinh khí dường như được phục hồi. Sundar hăng hái dấn bước về phía có ánh lửa. Chợt anh vấp té, bổ nhào trên tuyết lạnh.
Không phải anh đuối sức. Nhưng vì vấp phải một vật gì đó nằm chắn ngang đường đi. Sundar quì xuống, lấy tay gạt lớp tuyết phủ bên trên thì nhận ra đấy là xác của người tu sĩ đã cùng đi với mình ban chiều. Thương cho người bạn đồng hành xấu số, Sundar âm thầm dâng lên Chúa một lời nguyện…. Và rồi từ thẳm sâu của tâm hồn, anh chợt nghe vang vọng một câu Phúc Âm: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời.” (Theo lời kể của William Bausch)
“Sự sống thoát thai từ nỗi chết,” một linh mục đã nói như thế. Mà đúng lắm, trong thực tế của đời người, để sự sống tiếp diễn, sự chết đã phải xảy ra không ngừng. Khi chấp nhận nỗi đau thương mất mát trong cái chết, mầm sống mới được phát sinh ra và triển nở. “Nếu hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, nó sẽ trơ trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó mới sai hoa lắm quả” là vậy.
Khi chỉ biết lo cho sự sinh tồn của mình mà làm ngơ trước nỗi khổ đau của kẻ khác, khi chỉ chú trọng đến lợi ích riêng tư hơn là nhu cầu của tha nhân, tôi đã tự đóng khung trong chiếc vỏ trấu để rồi cứ trơ trọi giữa giòng đời. Nhưng nếu biết chết đi con người vị kỷ, tôi sẽ có được một mầm sống mới làm phát sinh bao niềm hy vọng của một mùa gặt thành công.
Thói ích kỷ trong tôi càng chết đi, hình ảnh Thiên Chúa càng rạng sáng. Càng cương quyết chiến đấu với chính mình, dung nhan Thiên Chúa càng được hiện tỏ.
Thánh Kinh có kể lại: Trong một cuộc hành hương thánh địa nhân dịp lễ Vượt qua, có sự hiện diện của một số người Hilạp. Họ là những người ngoại, có lẽ đang khao khát tìm ra Lẽ Sống của cuộc đời. Khi nhìn vào Do thái giáo, họ thấy thấp thoáng bóng hình của Lẽ Sống mà họ đang kiếm tìm. Thế rồi trong dịp hành hương đền thờ Giêrusalem lần này, họ nghe nói về một con người có tên Giêsu, nơi Ngài biết bao nhiêu tâm hồn đã tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống-từ những cô gái điếm cho đến các kẻ thu thuế tội lỗi, từ những người khốn khổ bần cùng đến các quan lính của ngoại bang…
Thế rồi những người Hilạp đã tìm hỏi và xin được “trông thấy” Đức Giêsu. Đây không phải là một sự trông nhìn thuần tuý, vì đứng đâu mà lại không thấy được Ngài. Song, họ muốn gặp gỡ, trao đổi, hiểu biết, và nhất là muốn bước vào một tương quan thân thiết với Đức Giêsu.
Trong ngôn ngữ thần học của Thánh sử Gioan, sự “trông thấy” đó luôn đi kèm với “niềm tin”. Như sau này, khi vào mồ Chúa trong ngày Phục sinh, Gioan “đã thấy và tin” (Ga 20,8).
Thế nhưng trước khao khát chân thành của người Hilạp, Đức Giêsu lại trả lời với các môn đệ, những trung gian của niềm tin: “Giờ đã đến!”
Ngài đã chẳng trả lời “cho gặp” hay “không cho gặp”, Ngài chẳng bảo “đang bận” hay “đợi lúc khác.” Song Ngài tuyên bố: Giờ đã đến!” Mà đây là giờ gì nếu không phải là giờ tử nạn.
Thế ra để mang lại ý nghĩa cho cuộc đời con người, để tăng thêm sức sống cho các tâm hồn đang khát khao tìm kiếm Lẽ Sống, để trả lời cho tất cả mọi câu hỏi của nhân loại, Chúa Giêsu lại nói đến giờ chết. Phải chăng đó chính là giờ cao điểm của cuộc sống Ngài: bước vào sự chết để diễn tả tột cùng hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương con người-yêu thương đến độ chấp nhận cái chết “hầu thế gian được sống,” để nhân loại “thấy” được Lẽ Sống đích thật của cuộc đời.
Nhưng chính trong cái chết của Chúa Giêsu lại mang mầm một cuộc phục sinh vinh quang. Bởi vì đây là cái chết diễn tả tình yêu. Mà tình yêu thì chẳng bao giờ chết. Tình yêu sẽ bất diệt. Nghe có vẻ nghịch lý, nhưng những giá trị của yêu thương lắm khi không thể đo lường hay lý giải được. “Con tim có những tiếng nói mà lý trí không hiểu thấu” là vậy.
Thế nhưng, ai có dám chết cho yêu thương-yêu thương Thiên Chúa và bao người đang sống bên mình-họ sẽ dần dần khám phá ra chân dung của sự không-thể-hiểu-thấu kia. Chính khi biết tự hủy những đam mê, ích kỷ, tự mãn, tự kiêu, tự ái…, con người sẽ cảm nhận sâu xa tại sao.
“Chính lúc trao ban lại là khi nhận lãnh,
Chính lúc quên là lúc gặp lại bản thân,
Chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
Chính lúc chết đi là khi vui sống muốn đời.”
Và niềm vui sống này chỉ được trao ban cho những ai biết quên mình vì Yêu Thương.
66. Hạt lúa chết đi – Lm Mark Link, SJ
Chủ đề: "Nếu muốn sống và phát sinh hoa trái,
chúng ta cũng phải bắt ý riêng mình chết đi tựa như hạt lúa mì bé nhỏ."
Câu chuyện bà Catherine Marchall và chị nữ tu truyền giáo:
Vài năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết một bài báo nhan đề "Khi Chúng Ta Dám Tin Vào Thiên Chúa". Bài báo thuật lại rằng bà bị liệt giường suốt 6 tháng không ăn uống được vì một bệnh nhiễm trùng phổi trầm trọng. Mặc dù được điều trị bằng vô số thuốc men và được bao nhiêu người cầu nguyện cho, bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng hoàn toàn.
Một hôm có người biếu bà một cuốn sách nhỏ kể chuyện một nữ tu truyền giáo bị một chứng bệnh kỳ lạ. Chị nữ tu này bị cơn bệnh đó dày vò suốt 8 năm trời và chị không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại để cho tấm thảm kịch này đến với mình. Ngày nào chị cũng cầu xin cho mình được khoẻ mạnh để chu toàn công việc truyền giáo của mình. Nhưng lời cầu xin của chị vẫn chưa được Chúa nhậm lời. Một ngày kia, thất vọng quá chị khóc lóc với Chúa: "Lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi! Nhưng không sao; nếu Chúa muốn con trở thành tàn phế, thì đó là do ý của Chúa!". Thế rồi hai tuần sau, chị nữ tu đó được hoàn toàn bình phục.
Catherine Marshall để cuốn sách đó sang một bên. Câu chuyện kỳ lạ ấy khiến bà bối rối. Bà nói: "Dẫu sao tôi vẫn không quên được câu chuyện ấy!". Thế rồi một buổi sáng nọ, bà Catherine kêu cầu Chúa bằng những lời tương tự như lời cầu nguyện của chị nữ tu ấy: "Con kêu xin Chúa ban sức khoẻ cho con, con đã mỏi mệt quá rồi! Xin Chúa hãy quyết định là Chúa muốn cho con khoẻ mạnh hay bệnh tật đi!". Về sau, Catherine kể lại rằng, vào lúc ấy, sức khoẻ bà bắt đầu hồi phục lại.
Ý nghĩa của câu chuyện giúp hiểu bài tin mừng hôm nay
Câu chuyện vị nữ tu truyền giáo và câu chuyện của bà Catherine Marshall giúp chúng ta hiểu những gì Đức Giêsu đang muốn nhắn nhủ trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai câu chuyện đó chứng tỏ lời Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa không chết đi, nó sẽ chẳng đem lại hoa trái. Nói cách khác, nếu chúng ta không chết ý riêng của mình đi, chúng ta cũng không thể sinh hoa trái cho Thiên Chúa được. Nếu chị nữ tu không chết ý riêng của mình đi để nói lên câu: "Lạy Chúa, con đã tuyệt vọng rồi; nhưng không sao!" thì có lẽ bà ta vẫn mãi mãi là một phế nhân. Nhưng chị đã chết ý riêng của mình, nên đã bình phục và sinh hoa trái.
Nếu Catherine Marshall đã không hy sinh ý riêng mình để nói lên câu: "Lạy Chúa xin hãy quyết định điều Ngài muốn", thì có lẽ bà vẫn nằm lại trong tình trạng bệnh hoạn. Nhưng bà đã hy sinh ý riêng, nên bà cũng được lành bệnh và kết sinh hoa trái.
Câu chuyện của chị nữ tu và của bà Catherine Marshall khiến chúng ta nhớ lại câu chuyện của Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani. Trong cơn hấp hối tại đó, Ngài đã thốt lên cùng Thiên Chúa: "lạy Cha…. không phải ý con… nhưng xin theo ý Cha" (Lc 22: 42). Giả như Chúa Giêsu không bắt ý riêng Ngài phải chết đi trong mảnh vườn ấy, thì anh chị em cũng như tôi sẽ không được cứu khỏi tội lỗi mình.
Tất cả những câu chuyện về chị nữ tu, về Catherine Marshall và về Đức Giêsu đều dạy cho chúng ta cùng một bài học. Chúa dạy ta biết sẵn lòng làm chết ý riêng mình đi nếu chúng ta muốn mang lại hoa trái cho Thiên Chúa. Chúa dạy ta phải biết sẵn lòng tín thác vào Chúa và giao phó bản thân mình trong tay Ngài nếu chúng ta muốn đạt được sự sống đời đời.
Những câu chuyện có ý nghĩa gì đối với ta? Nói một cách cụ thể, tất cả điều này có ý nghĩa gì đối với cuộc sống thường nhật của anh chị em và tôi?
Chúng ta hãy xem xét vài sự kiện có khả năng xảy ra:
Giả như cuộc hôn nhân của chúng ta bị tan vỡ và chúng ta cần sự trợ giúp từ bên ngoài, nhưng vì quá kiêu căng chúng ta không muốn yêu cầu điều ấy. Như vậy "bắt ý riêng chết đi" có nghĩa là bắt lòng kiêu ngạo của ta chết đi và sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp.
Hoặc giả như chúng ta được bạn bè thân tín cho biết chúng ta đang ngày càng bê tha rượu chè, nhưng chúng ta cứ tiếp tục không nghe dù tình trạng bê tha gia tăng rõ ràng. Như thế chết cho ý riêng có nghĩa là nhìn nhận vấn đề của chúng ta và tìm kiếm phương thuốc điều trị.
Giả như một bạn bè hoặc một người thân trong gia đình xúc phạm đến chúng ta một cách nào đó, khiến chúng ta cứ giữ mãi mối ác cảm với người ấy, thì "Chết cho ý riêng mình" có nghĩa là thật lòng tha thứ cho người ấy và lại tiếp tục dùng tình thương cư xử với y.
Chết cho ý riêng mình là điều không dễ
Chị nữ tu đã không cảm thấy dễ dàng khi nói với Chúa rằng chị chấp nhận làm một kẻ tàn phế nếu ý Ngài muốn như thế. Catherine Marshall đã không cảm thấy dễ dàng khi thưa với Chúa bà sẽ chấp nhận bất cứ số mệnh nào ngài quyết định cho bà. Đức Giêsu đã không cảm thấy dễ dàng trong việc ưng thuận thi hành bất cứ điều gì Cha Ngài muốn. Nhưng cả ba người - chị nữ tu, Marshall và Đức Giêsu đã tin Thiên Chúa và phó mình trong tay Ngài. Họ đã chết "cho chính mình’ và từ đó đem lại kết quả là sinh nhiều hoa trái cho Thiên Chúa.
Kết luận:
Tin Mừng trong các bài đọc hôm nay là. chúng ta có thể làm được như thế. Chúng ta có thể noi gương vị nữ tu, bà Catherine Marshall và Đức Giêsu. Và chúng ta cũng có thể đem lại nhiều hoa trái cho Thiên Chúa.
Có thể chúng ta phải chiến đấu giống như vị nữ tu và Catherine đã làm, hoặc có thể chúng ta phải hấp hối như Đức Giêsu, nhưng nếu chúng ta làm như họ, chúng ta cũng sẽ mang hoa trái về cho Thiên Chúa và được sống vĩnh cửu.
Điều quan trọng là biết đặt cuộc sống chúng ta vào tay Thiên Chúa trong niềm tín thác trọn vẹn
Điều quan trọng là cứ để cho Thiên Chúa thực hiện bất cứ điều gì Ngài muốn đối với cuộc đời của chúng ta. Và đó chính là Tin Mừng trong bài Phúc Âm hôm nay.
Tin Mừng đó là nếu chúng ta bắt chước hạt lúa mì và biết "chết cho chính mình", chúng ta cũng sẽ đem lại nhiều hoa trái. Tin Mừng đó là nếu chúng ta bắt chước gương chị nữ tu, bà Catherine Marshall, và gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ mang lại hoa trái cho Thiên Chúa và đạt được sự sống đời đời.
Chúng ta hãy cầu nguyện để kết thúc. Xin anh chị em cùng im lặng cầu nguyện với tôi.
Lạy Thiên Chúa là cha chúng con. Trong khi chúng con chuẩn bị cùng bẻ bánh với nhau, xin hãy giúp chúng con nhận ra rằng.
Nếu những hạt lúa mì không bị xay thành bột và nếu những trái nho riêng lẻ không bị ép thành rượu, chúng con sẽ không thể chia sẻ với nhau tiệc thánh này.
Xin giúp chúng con bắt chước hạt lúa và chùm nho, biết dâng chính đời sống chúng con cho Ngài để tuỳ Ngài định đoạt theo thánh ý Ngài.
67. Suy niệm của JKN.
Đức Giêsu loan báo
Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong việc buôn bán, muốn thu tiền vào, trước hết người ta phải bỏ tiền ra để đầu tư (mua hàng). Tại sao phải làm điều trái ngược như vậy? Đó là chuyện lạ hay là lẽ thường tình? Muốn hạnh phúc, có cần phải chịu đau khổ trước không? Có hạnh phúc nào không đòi hỏi phải đau khổ không?
2. Bạn có rút được qui luật gì về sự sống và sự chết, hạnh phúc và đau khổ không? Giữa hai thái cực ngược nhau ấy, có sự liên hệ mật thiết nào không?
3. Lời Đức Giêsu: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” có mâu thuẫn hay phi lý không? Bạn có kinh nghiệm nào về chân lý này không?
Suy tư gợi ý:
1. Định luật đời sống: muốn thu vào phải biết bỏ ra, muốn hạnh phúc phải chấp nhận đau khổ
Trên đời, ta thấy sự vật luôn luôn biến đổi và có chiều hướng tiến hóa. Nhưng tiến hóa không phải theo kiểu thẳng một đường, mà theo kiểu hình “sin” hay hình lưỡi cưa, nghĩa là vẫn có tiến có lùi, nhưng tiến nhiều lùi ít, để rồi nhìn chung là luôn luôn có tiến hóa. Do đó, muốn tiếp tục tiến, nhiều khi cần thiết phải biết lùi: lùi một để tiến hai, hoặc lùi hai để tiến ba, v. v... Cũng như muốn đóng đinh, không thể chỉ đập búa xuống, mà còn phải nhấc búa lên. Nếu không nhấc búa lên thì tuyệt đối không thể tiếp tục đập xuống. Nâng búa lên tuy chẳng làm đinh lún thêm chút nào, nhưng cũng cần thiết và quan trọng không kém gì đập búa xuống, mặc dù chỉ động tác đập xuống mới có tác dụng hữu ích. Nâng búa lên tuy vô ích nhưng lại rất cần thiết!
Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hóa khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy mà có hàng bán ra để thu tiền vào và có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giàu có. Nếu người ấy không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có thêm là phải cho ra hay cho đi. Nhưng đời thường, hễ thu vào thì vui, còn cho ra thì buồn. Vì thế, kẻ thiểu trí chỉ muốn thu vào mà không muốn bỏ ra, nên thu vào chẳng được bao nhiêu. Người ngu chỉ muốn hưởng sướng mà không chấp nhận chịu khổ nên chẳng sướng được nhiều. Còn người khôn thì sẵn sàng bỏ ra để thu vào cho nhiều, sẵn sàng chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc hơn. Bỏ ra càng nhiều thì thu vào cũng càng nhiều. Cũng vậy, càng chấp nhận đau khổ thì càng có khả năng hưởng thụ hạnh phúc. Những người thiểu trí thường không nhận ra qui luật này.
2. Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau
Bài Tin Mừng hôm nay giúp ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” Và Ngài cho ta biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh, hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của từng cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau? Đời sống kinh tế mới khó khăn lên một chút là người ta đã lo hạn chế sinh sản, lo ngừa thai phá thai rồi! Do đó, chết là điều kiện tối yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Đúng thế, hạnh phúc và sự no ấm của con cái chính là thành quả của những vất vả, cực nhọc của cha mẹ. Sự yên vui của người dân là do sự hy sinh xương máu của những chiến sĩ xả thân bảo vệ quê hương. Vinh quang của một học sinh thi đậu xây dựng trên những ngày vất vả cắp sách đến trường, những đêm thức khuya cặm cụi với bài vở. Ngược lại, có biết bao đau khổ phát sinh vì những hạnh phúc mà chính mình hay người khác đã hưởng quá sớm, hoặc đã hưởng một cách trái đạo. Thật vậy, dân chúng nghèo đói là do các quan trên tham nhũng. Gia đình túng thiếu, vợ con cảm thấy cay đắng là vì người chồng đàng điếm, rượu chè. Biết bao thanh thiếu niên làm hỏng cả một cuộc đời chỉ vì sa đà vào nghiện hút, vì biếng học ham vui.
Vì thế, Đức Giêsu nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Trên thương trường, người buôn bán muốn thu thêm tiền vào thì lại phải chấp nhận bỏ tiền ra đầu tư. Cũng vậy, trong đời sống, người muốn được hạnh phúc thì phải chấp nhận đau khổ. Người buôn bán muốn thu tiền vào mà lại không chịu bỏ tiền ra đầu tư thì chẳng thu được đồng nào, mà còn bị mất tiền vì phải tiêu dùng cho những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, tìm hạnh phúc mà không muốn trải qua đau khổ, thì cuối cùng chẳng những không đạt được hạnh phúc mà nhiều khi phải chuốc lấy những đau khổ nặng nề. Chẳng hạn những người muốn giàu có mà không chịu lao tâm khổ trí, không muốn làm lụng vất vả, bèn dùng những cách bất chính như trộm cướp, tham nhũng… thì thường đi đến những hậu quả hết sức bi đát (như tù tội, bị trả thù, sạt nghiệp...).
Còn rất nhiều câu Kinh Thánh khác nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó một vài câu ta thường nghe như: “Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng. Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương” (Tv 126,6). “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
3. Giải thoát khỏi nỗi sợ chết, sợ đau khổ, sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc chết (vì Chúa, vì lương tâm) là bí quyết để sống thanh thản, bình an và hạnh phúc
Về câu nói của Đức Giêsu: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”, tôi có kinh nghiệm sau đây, xin chia sẻ với mọi người. Tôi cũng như mọi người, rất ham sống sợ chết. Trong mọi trường hợp, tôi luôn luôn nghĩ đến sự an toàn của bản thân tôi trước tiên. Vì thế, mỗi khi thấy chuyện gì nguy hiểm xảy đến cho tôi là tôi run sợ, lo lắng, bất an. Tình trạng lo lắng ấy có thể kéo dài nhiều ngày tháng, khiến tôi không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Nhưng cách đây vài năm có xảy ra một trường hợp: tôi phải chọn lựa dứt khoát giữa sự an toàn bản thân và tiếng lương tâm. Phải dứt khoát, vì chọn làm theo sự thúc đẩy của lương tâm thì thật là nguy hiểm cho bản thân, và chắc chắn còn liên lụy đến gia đình: cha mẹ, anh em, vợ con; còn chọn an toàn cho bản thân thì bị lương tâm cắn rứt, chịu không nổi. Sau khi bị lương tâm dằn vặt nhiều ngày chịu không nổi vì chưa làm theo sự đòi hỏi của nó, tôi quyết định làm theo tiếng lương tâm, bất chấp mọi sự. Thà chấp nhận nguy hiểm còn hơn để lương tâm bất an! Thế rồi những khó khăn xảy đến... trong nhiều ngày tháng… Như một phản ứng tự vệ, tôi phó thác mạng sống và sự an nguy của tôi trong tay Chúa. Khi hồi hộp lo âu, tôi lẩm nhẩm hát trong trí: “Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì, tôi không còn e sợ nỗi gì (...) Dầu tôi đi qua trong thung lũng tối đen hiểm nguy, lòng tôi không lo ngại tai họa gì: vì Chúa ở cùng tôi, cây trượng và cây gậy Chúa khiến tôi an lòng” (Tv 23). Thế rồi mọi khó khăn đều qua!
Nhiều lần phải chọn lựa tương tự như vậy, lần nào tôi cũng làm theo sự đòi hỏi của lương tâm. Dần dần tôi cảm thấy nhu cầu đòi hỏi an toàn cho bản thân giảm đi, khiến hiện nay, khi gặp nguy hiểm cho bản thân, tôi cảm thấy an tâm hơn trước rất nhiều. Giữa những nguy hiểm, tôi tập sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, kể cả mạng sống. Lạ lùng thay, dần dần tôi cảm nghiệm được một sự thanh thản, bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Và tôi khám phá ra thật sự có bàn tay quan phòng của Thiên Chúa luôn bảo vệ tôi, luôn lo lắng cho tôi tất cả những nhu cầu cần thiết.
Qua kinh nghiệm trên, tôi khám phá ra rằng: lúc nào cũng nghĩ trước hết đến sự an toàn bản thân chỉ tạo cho ta một thói quen sợ sệt, lo lắng, mất bình an. Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu như: sự sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự... sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và hạnh phúc sẽ đến. Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước rất nhiều: một thứ bình an hạnh phúc thường hằng và bền vững, khác với thứ bình an trước đó. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ Thiên Chúa, không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi nữa. Qua kinh nghiệm này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không còn ảnh hưởng tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận chết bất kỳ lúc nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết. Điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả là đúng!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu cho con thấy tương quan mật thiết giữa sống và chết, giữa hạnh phúc và đau khổ. Xin cho con đủ tình thương để chấp nhận đau khổ hầu làm cho những người chung quanh con hạnh phúc. Con biết rằng nếu con làm được điều ấy, con sẽ thấy cuộc đời này tràn đầy ý nghĩa và hạnh phúc. Xin cho con đủ dũng cảm để làm điều ấy.
68. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
ĐỂ ĐƯỢC ƠN NGHĨA CHÚA CẦN CHẾT ĐI CON NGƯỜI TỘI LỖI
Sau khi đã đi được nửa đường với lời mời gọi "Hãy Vui Lên" tuần trước khuyến khích chúng ta tiếp tục tiến lên không ngừng nghỉ trên con đường ăn năn đền tội, cải đổi đời sống để chuẩn bị Lễ Phục Sinh. Việc đền tội này xảy đến trong Mùa Chay lúc mà sự mệt nhọc không làm giảm bớt, nhưng đúng hơn gia tăng niềm vui được đến gần mục đích.
Giao ước mới được ký kết
Kể từ khi dân Israel quay lưng lại với Thiên Chúa, thờ bò vàng(x. Xh32), giao ước giữa Thiên Chúa vớidân Ngài bị nhiều lần gián đoạn, do dân lỗi lời giao ước. Vì thế Chúa đã dùng miệng các tiên tri để phán dạy và trao ban một điều căn bản mới.
Trong Cựu Ước, Giêrêmia là người duy nhất nói về "giao ước mới", nên lời của ông rất quan trọng, tại sao vậy? Vì lời ấy trình bày một sự thay đổi căn bản trong tương quan giữa Thiên Chúa với con cái Israel.
Nếu Luật của Thiên Chúa trước kia được khắc vào đá và Môisen phải đọc và truyền cho dân, dân đã lỗi phạm do vô tình hay hữu ý, khiến Chúa nổi giận. Nay Chúa ban hành Luật với một cách thức và công thức mới. Thiên Chúa sẽ ghi tạc vào lòng con cái Israel (Gr 31,33). Mỗi người sẽ nhận được trực tiếp và cá nhân vớiChúa (Gr 31,34)không qua trung gian: "Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em" (Gr 31,34) theo nghĩa Kinh Thánh là hiệp thông vớiChúa cách sâu xa nhất. Công thức của hai bên: "Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta" (Gr 31,34), đây là nét đặctrưng của giao ước kể từ khi Xuất hành (x. Xh 6, 7) sẽ được áp dụng cho từng người trong dân. Một giao ước "khiến mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Chúa, vì Chúa sẽ tha thứ tội lỗi cho dân" (Gr 31, 34 ). Giao ước mới này sẽ được Đức Kitô thực hiện và hoàn tất trong "giai đoạn" vượt qua.
Hoán cải tận con tim
Điều cần thiết hơn cả để đi vào trong giao ước là hoán cải, hoán cải để được Chúa thứ tha và làm mới lại giao ước. Tác giả Thánh Vịnh khơi dậy lòng thương xót của Thiên Chúa khi thứ tha tội lỗi cho dân. Trong Kinh Thánh có nhiều hình ảnh về sự tha thứ như:Thiên Chúa xóa, rửa và tẩy sạch, nên cũng có nhiều cách thế diễn tả sự đổi thay nơi con người được tha thứ. Nhưng sâu xa hơn cả là sự tái sinh: “Xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con” (Tv 50, 12-13). Quả tim trong Kinh Thánh không chỉ là nơi chứa đựng cảm xúc nhưng còn là nơi chất chứa sự thông minh và đưa ra những quyết đoán nữa. Người có lòng trong sạch thì luôn hướng trọn về Chúa. Thần khí (trong tiếng Do Thái ) là hơi thở, sự sống và nguyên lý sáng tạo. Tác giả Thánh Vịnh thưa với Chúa khi nói về các vật sống: "Người rút lại hơi khí của chúng, chúng liền tắt thở, chúng sẽ trở về với đất bụi! Người sai khí của Người, chúng được tạo thành và Người đổi mới mặt đất" (Tv 103, 29-30). Giống như các tội nhân được tha thứ, từ tội nhân, họ có thể trở thành chứng nhân của lòng thương xót Chúa.
Hãy là hạt lúa mì rơi xuống đất
Khi những người Hy Lạp đến xin được gặp Chúa Giêsu tại Giêrusalem trong dịp lễ Vượt Qua, họ nói với ông Philipphê rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu" (Ga 12, 24). Ước muốn nơi những người Hy Lạp mong gặp Chúa Giêsu và lắng nghe Lời Người đã nhận được câu trả lời long trọng của Chúa Giêsu như sau: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga 12, 23). Thử hỏi Chúa Giêsu muốn nhắc đến "giờ" nào đây? Khung cảnh lúc đó giúp chúng ta biết rõ rằng: Đây là "Giờ" Mầu nhiệm và long trọng về cái chết và sống lại của Chúa.
Bằng một ẩn dụ về hạt lúa mì, Chúa Giêsu dùng với hình ảnh giầu biểu cảm về mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm của sự biến đổi từ cõi chết qua cõi sống, tự nhiên nói lên tất cả. Chúng ta ghi nhận sự đảo ngược ý nghĩa của lễ Phục Sinh: mất sự sống mình, để lấy lại. Đây là hình ảnh dễ hiểu, phát xuất từ kinh nghiệm tự nhiên. Chắc chắn, "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình" (Ga12, 24). Để sinh tồn nói phải mục nát. Tiếp theo là sự so sánh ít thuyết phục của Chúa Giêsu khi chúng ta chưa có kính nghiệm về chính mình: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời" (Ga12, 25). Nhưng nếu chúng ta suy tư về cái chết của người khácthì sẽ thấy không ai mang được điều gì mình đã chiếm hữu hay yêu thích khi còn sống. Sự mất mát này còn lớn hơn đối với những người đã đặt đời mình vào mọi sự ở trần gian.
Không giống như các Phúc Âm Nhất Lãm, nơi Tin Mừng Gioan không có cảnh Chúa Giêsu hấp hối trong vườn Giệtsimani. Nhưng cảnh này cách nào đó: ở đây Chúa Giêsu nói "xao xuyến" và nói đến "giờ" của mình. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? (Ga12, 27) Người xin Chúa Cha "cứu khỏi giờ này?" (Ga12, 27) Người không trối giờ này, khi xin Cha tôn vinh "danh Cha", thể hiện vinh quang Cha, nghĩa là sự sống và quyến năng thần linh của Cha nơi Đức Giêsu. Một dấu chỉ trao ban được Chúa Cha chấp nhận. Bản văn kết thúc với một "lời tiên tri" của Chúa Giêsu tuyên bố Người phải chết cách nào. Lời này đã có từ câu đầu của Tin Mừng: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga 12, 23).
Mong gặp Thấy Chúa Giêsu giống như nhóm người Hy Lạp xưa kia. Chúng ta đã nhìn thấy Chúa qua đôi mắt đức tin, nhìn nhận Người là Đấng Thiên Sai, đã chịu đóng đinh chết và đã sống lại. Vậy chúng ta hãy để cho Chúa chiếm lấy và đã trở thành môn đệ Người.
"Khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta" (Ga12, 32). Thật vậy, chính từ trên thập giá mà Chúa Giêsu sẽ mạc khải cho thế gian biết tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại đang cần ơn cứu rỗi. Thiên Chúa là Chúa duy nhất của chúng ta, chúng ta là dân Ngài. Giao ước tình yêu bền vững giữa Thiên Chúa và nhân loại đã được thực hiện cách trọn vẹn trong hy tế Vượt Qua của Chúa Kitô.
Nhờ tham dự vào Mầu Nhiệm Thương Khó của Chúa Kitô, mà chúng ta có thể sống sự phong phú của hạt giống gieo xuống đất, và được Chúa đón nhận vào trong Vương Quốc trên trời. Amen.
69. Vượt qua sự chết để vào cõi sống
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Việc dân Do Thái suy tôn khi đón rước Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem và việc dân ngoại đến xin gặp mặt là dấu hiệu tiên báo đã đến “Giờ” Đức Giêsu được tôn vinh. Được tộn vinh nghĩa là vào trong vinh quang qua khổ nạn thập giá, giống như hạt lúa phải chết đi thì mới phát sinh ra nhiều hạt khác. Từ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu sẽ phá hủy bức tường ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại để ban ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, và đến ngày tận thế thủ lãnh sự tối tăm là Xa-tan sẽ bị ném vào hỏa ngục đời đời.
CHÚ THÍCH:
- C 20-22: + Mấy Người Hy lạp:Đây là lương dân theo văn hóa Hy-lạp, có thiện cảm với đạo Do Thái hoặc mới theo đạo Do Thái. Họ lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua (x. Ga 11,55). Được chứng kiến cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem của Đức Giêsu, họ đã mạnh dạn đến xin gặp Người. + Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giêsu: Sở dĩ hai ông Phi-líp-phê và An-rê cùng đến thưa Đức Giêsu điều này vì cả hai ông đều nói thạo tiếng Hy-lạp, và cả hai đều sống ở Bết-xai-đa, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống.
- C 23-25: + Đã đến Giờ:Tin Mừng nhiều lần nói đến “Giờ”: Giờ của Ta (x. Ga 2,4), Giờ của Người chưa đến (x. Ga 7,30; 8,20), Đã đến Giờ Người phải rời khỏi thế gian (x. Ga 13,1), Giờ phải uống chén đắng (x. Mc 14,35), Giờ của kẻ thù và của tối tăm (x. Lc 22,53), Giờ Đức Giêsu bị bỏ rơi (x. Ga 16,32), Giờ Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + được tôn vinh: là Giờ Chúa Cha tôn vinh Chúa Con (Ga 17,1). Được tôn vinh nghĩa là Đức Giêsu phải trải qua cuộc khổ nạn rồi sống lại để vào trong vinh quang cùng với Chúa Cha. + Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất: Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn hạt lúa để giải thích: Hạt lúa có chết đi mới gây được một mùa gặt bội thu. Cũng vậy, Đức Giêsu cũng phải trải qua cuộc thương khó và bị giết chết, rồi mới được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Từ cạnh sườn của Người bị đâm thâu, Hội Thánh được sinh ra và phát triển. + Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này...: Coi thường hay ghét mạng sống mình nghĩa là yêu mến ít hơn. Đây là một câu có hai vế đối nghịch nhau: Ai chăm lo hưởng thụ ở đời này thì sẽ mất sự sống vĩnh cửu đời sau. Còn ai chấp nhận gian nan thử thách đời này, thì sẽ được sống vĩnh cửu ở đời sau (x. Mc 8,35; Mt 16,25; Lc 9,24).
- C 26-28: + Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy: Ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu thì phải đi con đường khổ nạn mà Người đã đi và sẽ được cùng Người sống lại. +Tâm hồn Thầy xao xuyến: Đứng trước cuộc tử nạn gần kề, Đức Giêsu cảm thấy bất an xao xuyến, vì Người có nhân tính giống như loài người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ Người vô tội (x. Ga 8,46; 1 Ga 3,5). + Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì Giờ này mà con đã đến: Mang thân phận loài người, Đức Giêsu cũng sợ hãi, đau khổ trước cái chết như mỗi người chúng ta. Người đã cầu xin Chúa Cha cứu mình khỏi “Giờ khổ nạn” ấy. Nhưng Người sẵn sàng chấp nhập vâng theo Ý Chúa Cha, nghĩa là cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ. Lời cầu xin này cũng được lặp lại trong vườn Câu Dầu (x. Lc 22,42-44). + Có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”: Tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống như khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (x. Mt 3,17) và biến hình (x. Mt 17,5). Từ trước đến nay, Thiên Chúa đã tôn vinh Danh Ngài nhờ những “dấu chỉ” do Đức Giêsu thực hiện. Từ đây, Thiên Chúa sẽ lại tôn vinh Đức Giêsu khi cho Người từ cõi chết trỗi dậy tại Giê-ru-sa-lem.
- C 29-30: + Đó là “tiếng sấm!”... “Tiếng một thiên thần!”: Chỉ mình Đức Giêsu mới nghe được tiếng Chúa Cha. Còn các người khác chỉ nghe thấy âm thanh rền vang mà không hiểu nội dung nói gi? nên kẻ thì cho đó là tiếng sấm, kẻ khác lại nghĩ là tiếng thiên sứ nói với Đức Giêsu. Sự kiện này tương tự như trường hợp Sao-lô sau khi bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (x. Cv 9,3-7; 22,9). + Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài: Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu là Giờ phán xét và kết án: Những kẻ không tin sẽ bị liệt vào hàng ngũ Xa-tan đối nghịch với Thiên Chúa. Họ sẽ chịu chung số phận là bị loại ra khỏi Nước Trời do Đức Giêsu thiết lập.
- C 31-33: + Được nâng cao lên khỏi mặt đất:Đức Giêsu sẽ bị treo trên thập giá (x. Ga 8,28), rồi được đưa lên trời (x. Ga 3,13; 6, 62), sau khi từ cõi chết trỗi dậy (x. Ga 20,17). + Tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi: Đức Giêsu sẽ đưa các tín hữu lên trời hưởng vinh quang với Người. Với điều kiện họ cũng phải bỏ mình, vác thập giá mà theo Người (x. Mt 16,24); nghĩa là uống chén đắng như Người đã uống (x. Mt 20,23).
CÂU HỎI: 1) Đức Giêsu đã tuyên bố điều gì trước sự kiện dân Do thái hoan hô đón rước Người vào thành Giê-ru-sa-lem và một số lương dân đến xin gặp mặt? 2) “Giờ” của Đức Giêsu được Tin Mừng nhắc đến bao nhiêu lần? 3) “Giờ được tôn vinh” của Đức Giêsu nghĩa là gì? 4) Từ “ghét” sự sống mình ở đời này nghĩa là gì? 5) Tại sao Đức Giêsu xao xuyến bất an trước giờ tử nạn? 6) Đức Giêsu đã cầu xin với Chúa Cha thế nào để nêu gương vâng phục ý Cha cho chúng ta? 7) Thế gian bị phán xét và ma quỷ thủ lãnh thế gian sẽ hoàn toàn bị đánh bại vào lúc nào? 8) Muốn được Chúa Giêsu cứu độ, đưa lên thiên đàng hưởng vinh quang với Người thì ngay từ bây giờ các tín hữu phải làm gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sẵn sàng chịu chết để bạn tù được sống
Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!
Người tù nhờ Cha Kôn-bê thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck) về sau đã kể lại tình trạng nhà tù vào lúc đó như sau: “Sau khi Cha Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh dành thực phẩm tiếp tế... thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh mục đã dám hy sinh tính mạng chết thay cho một người không quen biết.
2) Giá đắt phải trả cho thái độ vô cảm:
Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.
Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài xế đã lên tiếng yêu cầu têncầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh đậptàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia lại,nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi rậm gần đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên trên xe.
Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe để tiếp tục cuộc hành trình...Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: "Này ông kia, yêu cầu ông xuống xe đi!".Người đàn ông ngạc nhiên nói: "Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã lên tiếng bênh vực cômà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?"
Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: "Nếu ông không xuống, tôi sẽ không cho xe chạy."Điều bất ngờ là các hành kháchtrước đó đã im lặng thì bây giờ lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: "Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế hả?" Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề đường và rơi xuống vực như tên bắn.
Hôm sau, một tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc đã xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn": Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu. Tài xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông đã đọc được bản tin và bật khóc!
3. SUY NIỆM:
1) Mầu nhiệm hạt lúa trong thiên nhiên:
Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường.Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhão nhét trong ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: "Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”
Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên đường và một cơn gió ào tới thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!
Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnhkia chỉ ít ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng cáp. Cây lúa lớn dầnvà không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúavới hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắngmặt trời, và được vinh dự trở nên lương thực nuôi sống loài người.Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã biến thành trămhạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!
Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
2) Con đườnghạt lúa của Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã trỗi dậy từ trong cõi chết và mở ra một con đường cứu độ cho loài người chúng ta là “Phải qua đau khổ để vào vinh quang”.
Tông đồ Phao-lô đã diễn tả mầu nhiệm hạt lúa Giêsu qua ba giai đoạn như sau:
+ Mầu nhiệm Nhập Thể giống như hạt lúa được gieo vào lòng đất: "Đức Giêsu Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế"(Pl 2,6-7).
+ Mầu nhiệm Tử Nạn giống như hạt lúa phải trải qua giai đoạn bị mục nát: "Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự"(Pl 2,8).
+ Mầu nhiệm Phục Sinh giống như hạt lúa đã được biến đổi gia tăng gấp bội:"Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Ki-tô là Chúa" (Pl 2,9-11).
Tin Mừng Mát-thêu cũng trình bày mầu nhiệm hạt lúa của Đức Giêsu như sau: "Từ lúc đó, Đức Giêsu Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Nghe vậy, các môn đệ không muốn chấp nhận. "Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23).
3) Con đường hạt lúa của các môn đệ.
Đức Giêsu đã mời gọi mọi người đi con đường thập giá của Người: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,24). Nhóm 12 Tông đồ sau khi nhận được Thánh Thần đã chấp nhận đi theo con đường hạt lúa của Đức Giêsu. Phao-lô Tông Đồ dân ngoại đã bày tỏ với các kỳ mục ở Ê-phê-sô như sau: "Giờ đây,bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi" (Cv20,22-23).
Sau các Tông đồ, đến lượt các Ki-tô hữu cũng đã chọn đi con đường của hạt lúa là chấp nhận bị mục nát, chịu chết vì danh Chúa để từ đó Hội Thánh không ngừng được phát triển như lời ông Téc-tu-a-nô đã nói: "Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu".
4) Con đường hạt lúa của các tín hữu hôm nay.
Để đi được con đường tử nạn và phục sinh này, đòi chúng ta phải được ơn Thánh Thần trợ giúp. Mỗi người chúng ta cần noi gương các Tông đồ năng cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a để xin ơn Thánh Thần biến đổi.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy áp dụng mầu nhiệm cây lúa bằng việc thực hành theo kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” cụ thể như sau:
- Mỗi ngày quyết tâm làm một việc phục vụ tha nhân như: quan tâm giúp đỡ người thân làm việc nhà, để loại trừ thói xấu ích kỷ lười biếng nơi mình.
- Can đảm lên tiếng bênh vực công lý thay vì thái độ im lặng để diệt trừ thói xấu vô cảm hèn nhát trong ta.
- Khiêm tốn năng khen ngợi tha nhân cách thành thật để loại trừ thói xấu kiêu ngạo tự mãn nơi bản thân mình.
- Tập làm luật sư bào chữa lỗi lầm cho tha nhân thay vì làm quan tòa kết án họ, để loại trừ thói xấu ganh ghét đố kỵ những ai hơn mình.
- Tập mỉm cười thân thiện và đi bước trước chào hỏi tha nhân ngay từ khi sáng sớm để loại trừ thói quan liêu cửa quyền, ưa xử dụng bạo lực và nói năng hách dịch làm thất nhân tâm.
- Tập thói quen mở rộng vòng tay thân ái để mỗi ngày một “thêm bạn bớt thù”. Mỗi gia đình công giáo sẽ kết thân với một gia đình lương dân để mở mang Nước Chúa.
4. THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể trong những ngày Mùa Chay này, để noi gương Đức Giêsu, giống như Cha Kôn-bê xưa đã làm, đó là: hy sinh bản thân và khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là những bệnh nhân hay những người gặp cảnh đáng thương?
5. LỜI CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu, Khi đóng đinh Chúa trên cây thập giá, bọn đầu mục Do Thái tưởng đã hoàn toàn chiến thắng. Nhưng Giờ Tử Nạn đối với Chúa không phải là sự thất bại, nhưng là Giờ được Chúa Cha tôn vinh. Cũng như hạt lúa có chết đi mới sinh được nhiều hạt lúa mới, thì nhờ sự chết trên thập giá, Chúa đã được Chúa Cha tôn vinh bằng việc cho phục sinh, đặt làm Chúa tể muôn loài. Rồi Hội Thánh cũng noi gương Chúa để chấp nhận bị đế quốc Rô-ma bách hại suốt 300 năm, và cuối cùng đã được tôn vinh, qua việc chinh phục được cả Đế quốc tin theo Chúa và gia nhập vào Hội Thánh.
- Trong những ngày Mùa Chay này, xin đổ ơn Thánh Thần giúp chúng con sẵn sàng đón nhận những đau khổ thập giá với thái độ tin yêu và hy vọng, noi gương Chúa xưa. Xin cho chúng con ý thức rằng: thập giá là con đường duy nhất để nhờ đó chúng con xứng đáng nên hoàn thiện noi gương Chúa, và ngày sau còn được Chúa tôn vinh lên Quê Trời hưởng hạnh phúc đời đời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
70. Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long.
ÁNH SÁNG CỦA THẬP GIÁ
Đã đến “giờ”. “Giờ” này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người thực hiện.
1.- Ngữ cảnh
Câu truyện này nằm trong bối cảnh thời gian và thần học là tuần lễ cuối cùng trong sứ vụ của Đức Giêsu, tuần lễ Vượt Qua (x. Ga 12,1.12; 13,1; 18,28; 19,31) mà cuộc hy sinh của Đức Kitô, là Con Chiên Vượt Qua, sẽ biến thành lễ Vượt Qua mới và vĩnh viễn có sức giải phóng tất cả mọi người. Việc xức dầu ở Bêtania (12,1-11) chính là mở đầu mang tính tiên tri. Hành vi của Maria, chị của Ladarô, xức chân Đức Giêsu bằng dầu thơm cam tùng quý giá, đã loan báo việc mai táng Người (12,7). Quả thật, người ta không xức dầu lên chân một người sống như thế, mà thường xức cho một thi hài vào lúc làm nghi thức tắm rửa. Ta ghi nhận rằng theo TM Mc (14,3-9), người phụ nữ chỉ đã xức dầu lên đầu Đức Giêsu, và đấy là cử chỉ tiêu biểu trong việc xức dầu tấn phong ai làm vua và tấn phong đấng Mêsia.
Hôm sau, khi Đức Giêsu vào Giêrusalem (12,12-19), dân chúng đã tung hô Người như là “vua Israel”. Tác giả TM IV coi việc dân chúng cầm nhành lá thiên tuế hoan hô reo hò như là mức độ cuối cùng của sự sai lầm của dân chúng và Đức Giêsu im lặng để sửa chữa những niềm hy vọng thiên sai lầm lạc. Người cỡi lên một con lừa nhỏ vào lúc ấy – chứ không ngay từ đầu như trong các TMNL –, Đức Giêsu muốn cho họ thấy là giống như ông hoàng khiêm tốn mà ngôn sứ Dacaria đã loan báo (Dcr 9,9-10), Người hoàn toàn không có một mưu đồ chính trị nào. Cuộc Vượt Qua sắp tới của Người, tức cuộc Thương Khó, cái Chết, cuộc Phục Sinh, sẽ cho thấy rõ ràng kiểu “vinh quang” Người đang theo đuổi. Chỉ sau kinh nghiệm này các môn đệ mới nắm được bản chất đích thực của cuộc khải hoàn của Đức Giêsu (c. 16).
Đám đông thì vẫn không hiểu (cc. 17-18). Nhưng những lời hoan hô của họ khiến người Pharisêu phải phản đối và tranh luận với nhau: “Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!” (c. 19b). Ở đây, tác giả TM IV vẫn vận dụng khả năng khôi hài quen thuộc của ngài. Nỗi lo sợ của người Pharisêu là thật hơn họ tưởng: cả người ngoại cũng đã xuất hiện (cc. 20-23).
Nhận định của người Pharisêu (c. 19b) khiến ta nghĩ ngay đến nhận định của thượng tế Caipha: “Các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân…” (11,50). Chính ông này cũng đã nói tiên tri mà không biết: trong tư cách là thượng tế, ông đã nói tiên tri là Đức Giêsu phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác (11,52).
Sự kiện mấy người ngoại đến xin gặp Đức Giêsu là một đỉnh cao trong cấu trúc văn chương và thần học của các ch. 11–12 của TM IV: kế hoạch cứu độ phổ quát, thậm chí ra ngoài biên giới dân tộc Do Thái, đang bắt đầu được thực hiện, ít nhất ở dạng mầm mống. Tất cả những điều đó chứng tỏ rõ ràng là giờ của cuộc Thương Khó đã được loan báo, giờ đưa tới vinh quang.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Người Hy Lạp đến gặp (12,20-22);
2) Đức Giêsu công bố về Giờ và dạy về thân phận của Người và của các môn đệ ([“Đã đến giờ”], 12,23-26);
3) Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 12,27-30);
4) Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”, 12,31-33).
3.- Vài điểm chú giải
- mấy người Hy Lạp (20): Những lời mỉa mai ở c. 19 được ứng nghiệm tức khắc. Đây không phải là những người Do Thái Hải ngoại (diaspora; x. Ga 7,35), đã di cư ra khỏi Paléttina và bị phân tán trong các vùng dân ngoại, nhưng là những người ngoại giáo không cắt bì, thuộc về hạng người “kính sợ Thiên Chúa” (x. Cv 10,2.22.35; 13,16.26), tin vào vị Thiên Chúa duy nhất và tuân giữ đức công bình. Họ đã đến Giêrusalem không phải để du lịch mà là để hành hương, vì bị thúc đẩy bởi thao thức tìm ra chân lý.
- Họ đến gặp ông Philípphê (21): Họ ngỏ ý muốn với Philípphê bởi vì ông này nói tiếng Hy Lạp (tên Philípphê và tên Anrê là hai tên Hy Lạp), và cũng như họ, ông là người Bếtxaiđa, là vùng có đa số dân cư là người ngoại.
- Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu (21): dịch sát là “muốn được thấy”, có nghĩa là “nói với Đức Giêsu”, trò chuyện với Người, để biết Người, khám phá ra chân tính của Người.
- Giờ (23): Đây là giờ Thương Khó, Chết và Phục Sinh, để Con Người được tôn vinh. “Giờ” đây là đỉnh cao của sứ mạng của Người và cũng là lúc kết án “thế gian” này với thủ lãnh của nó.
- tôn vinh (23): “Vinh quang” (doxa) là sự tỏa rạng sự hiện diện của Thiên Chúa, là ánh huy hoàng, vừa đáng sợ vừa thu hút, của Hữu thể thần linh. Vinh quang này ở trong Ngôi Lời nhập thể, nhưng tính khiêm hạ của mầu nhiệm Nhập Thể đã chế giảm đi ánh huy hoàng của vinh quang này, cho dù các lời nói và các công việc của Đức Giêsu lại là “dấu chỉ” đầu tiên của vinh quang này (x. 2,11). Cuộc Thương Khó, thay vì che phủ vinh quang này, lại vén mở cho thấy vinh quang này ở mức viên mãn: kể từ khi cái vỏ bọc nhân loại bị phá vỡ, sự hiện diện thần linh, như được giải phóng, mới xâm nhập tất cả nhân tính của Ngôi Lời để làm cho nhân tính này sống lại và lên trời.
- nếu hạt lúa gieo vào lòng đất (24): Câu này được vọng lại trong 1 Cr 15,36. Rất có thể đây là một câu tục ngữ quen thuộc tác giả đã dùng để áp dụng cho trường hợp Đức Giêsu: chỉ cái chết của Đức Giêsu mới có thể đưa lại ơn cứu độ cho người khác.
- Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất (25): Câu này trở đi trở lại ở nhiều dạng (x. Lc 9,24 so sánh với Mc 8,35 và Mt 16,25; Mt 10,39 so sánh với Lc 17,33). Các TMNL áp dụng câu này cho những đau khổ và mất mát của đời môn đệ. Hẳn là tác giả TM IV cũng đang nghĩ tới những đau khổ của cộng đoàn của ngài (x. 15,18-21).
- Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó (26): Sự đồng nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ sẽ được nêu bật hơn trong các diễn từ cáo biệt (x. 13,13.16; 15,20). Phần kết “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” lại xuất hiện trong ngôn ngữ tình yêu trong các diễn từ cáo biệt (14,23; 16,27). Xem Mc 8,38; Mt 10,32 so sánh với Lc 12,8.
- Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến (27): Tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Đức Giêsu hấp hối tại Vườn Ôliu, nhưng đăt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (tetaraktai, c. 27a). “Tâm hồn” (psychê) đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
- Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha (28): x. Lc 11,2. Câu này diễn tả sự duy nhất trong kế hoạch của Đức Giêsu với ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu sẽ tôn vinh Thiên Chúa trên thập giá và cũng sẽ được Chúa Cha tôn vinh (x. 13,31-32; 17,4).
- có tiếng từ trời (28): Dân chúng không thể “nghe” được lời Thiên Chúa đáp lại Đức Giêsu, nên họ nghĩ đó là tiếng một thiên thần. Giống như trong truyện Ladarô, việc Đức Giêsu cầu nguyện cũng là một tấm gương cho họ.
- Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa (28): Hành vi “tôn vinh” đầu quy về những “dấu lạ” Đức Giêsu đã làm và nhờ đó đã làm chứng về Chúa Cha, khi tôn vinh Ngài nơi Đức Giêsu. Hành vi “tôn vinh” thứ hai quy về cái chết và cuộc tôn vinh Đức Giêsu.
- mà vì các người (30): Như thế, tác giả đã biến truyền thống về “cơn hấp hối riêng tư” của Đức Giêsu thành một cuộc bày tỏ công khai công việc phục vụ vì vâng lời của Đức Giêsu.
- Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này (31): Cuộc phán xét (x. 3,18-19) lên cao điểm với cuộc đóng đinh. Tiếng sấm trong lời Thiên Chúa nói trong câu trước báo trước việc Thiên Chúa sẽ đến uy hùng mà tống “thủ lãnh của thế gian này” ra ngoài. Ở đây, tác giả dùng từ ngữ “thế gian” không phải để chỉ đối tượng được Thiên Chúa yêu thương, như trong 3,16, nhưng như một biểu tượng cho tất cả những gì là không tin và thù nghịch với Thiên Chúa (x. 8,24; 15,18-19; 16,8-11). Satan như là thủ lãnh của “thế gian” ở trong thế đối lập với Thiên Chúa, là một hình ảnh quen thuộc của nền văn chương khải huyền Do Thái. Nhưng tác giả chỉ dùng hình ảnh Satan để giải thích việc Giuđa phản bội thôi (6,70; 13,2.27) và trong những câu nói loan báo chiến thắng của Đức Giêsu (14,30; 16,11).
- một khi được giương cao lên khỏi mặt đất (32): Các truyền thống Kitô giáo tiên khởi coi việc Đức Giêsu bị đóng đinh như là việc Người được tôn lên bên hữu Thiên Chúa và coi đây là nền tảng cho quyền chủ tể của Người trên vũ trụ (x. Pl 2,9-11). Rất có thể cặp từ ngữ “được tôn vinh – được giương cao” của tác giả được lấy từ Is 52,13, nơi mà Người Tôi Tớ của Đức Chúa được “vươn cao”, và “được suy tôn”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Câu chuyện chúng ta đọc hôm nay xảy ra chỉ vài ngày trước các biến cố thuộc lễ Vượt Qua cuối cùng của Đức Giêsu.
* Người Hy Lạp đến gặp (20-22)
Một vài người Hy Lạp đã muốn gặp Đức Giêsu, không phải chỉ để nhìn thấy Người, nhưng là để biết Người, khám phá ra “căn cước” của Người. Câu 20 dường như cho hiểu rằng những người ngoại quốc kia đang thực hiện một hành trình thiêng liêng dài, và bây giờ cần “gặp” Đức Giêsu. Hành trình vào dịp lễ Vượt Qua đã đưa họ đến Giêrusalem không phải như du khách, mà là để cầu nguyện, để gặp Thiên Chúa, để khám phá ra điều Thiên Chúa muốn họ làm. Họ cảm thấy là Thiên Chúa muốn họ đến nói chuyện với Đức Giêsu. Họ không đến gặp Đức Giêsu trực tiếp, trước hết họ đến gặp các môn đệ, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để có thể gặp Đức Giêsu. Họ ngỏ lời với Philípphê, ông này lại nói với Anrê, và cả hai đã đến thưa với Đức Giêsu. Những người kia đã ngỏ lời với Philípphê vì ông (cũng như Anrê) có tên gọi Hy Lạp và phát xuất từ vùng giáp ranh của Galilê với thế giới Hy Lạp. Philípphê và Anrê đã ở trong số những môn đệ đầu tiên, vì muốn biết Đức Giêsu, đã đến với Người và đã là những người đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm và đưa những người khác đến với Người (1,35-46). Trong truyện này, ta thấy được bổn phận họ phải chu toàn trong đời sống: làm trung gian để cho nhân loại có thể gặp Đức Giêsu.
Chúng ta không biết là sau đó chuyện gì đã xảy ra, những người Hy Lạp đã gặp Đức Giêsu, hay đã về nhà mà vẫn chưa được gặp Người. Bản văn chỉ cho thấy Đức Giêsu không ngỏ lời trực tiếp với họ. Nhưng bây giờ, chỉ còn ít ngày nữa trước khi Người chịu chết và bởi vì những người này đã đến với Người, Người xác định tầm quan trọng và hiệu năng của cái chết của Người trên thập giá và gửi đến dân Do Thái lời kêu gọi cuối cùng.
Như vậy, ta hiểu việc người ngoại đi tìm một trung gian dường như có một ý nghĩa biểu tượng. Thế giới ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp Đức Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao giảng của các tông đồ: người ngoại đã “thấy” Đức Giêsu nhờ Tin Mừng được rao giảng cho họ. Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Đức Giêsu và việc “gặp” Đức Giêsu, tức đi vào Vương quốc nhờ lời rao giảng của các tông đồ, còn có cuộc Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Đức Giêsu, tức “giờ” của Người (c. 23). Chỉ khi đó mọi hàng rào được dựng lên bởi các chủ trương đặc thù bè phái mới đổ hết. Cũng chỉ khi đó mới bắt đầu những kinh nghiệm đầu tiên về niềm tin chân chính vào Đức Kitô hằng sống, vào Đức Kitô “Đức Chúa” (x. Ga 20,18.20.28.29; 21,7.12.17), là những kinh nghiệm không thể có được trước Phục Sinh (Vượt Qua).
Lời thỉnh cầu của những người ngoại vô tình lại là một cử chỉ đón tiếp khải hoàn. Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận, như trong cuộc đón tiếp của người Do Thái khi Người vào Giêrusalem. Nhưng trước hết, Người phải điều chỉnh ý tưởng lệch lạc đám đông Giêrusalem có về vinh quang và cuộc khải hoàn của Người (x. 12,12-16). Việc người Hy Lạp đến như thế giống như một bài học biểu tượng, bổ túc cho truyện đi vào Giêrusalem. Lời Đức Giêsu nói (cc. 23-26) là một trả lời gián tiếp cho nguyện vọng được những người ngoại ấy diễn tả ra: chính là nhờ cuộc Thương Khó của Người mà Đức Kitô, một khi đã bị sát tế, sẽ dễ dàng cho họ gặp được.
* Đức Giêsu công bố về Giờ và về thân phận của Người và của các môn đệ (“đã đến giờ”, 23-26)
Kể từ câu 23, tác giả TM IV chẳng còn nói gì đến những người ngoại kia nữa, hay đến thỉnh nguyện của họ có được thoả mãn hay không nữa. Ta gặp kiểu viết tương tự trong cuộc gặp gỡ Nicôđêmô: đến một lúc nào đó, bài tường thuật thôi nói về ông, để nhường chỗ cho những lời nói của Đức Giêsu và những suy tư của tác giả.
Sự xuất hiện của những người ngoại giáo và thỉnh nguyện của họ khiến Đức Giêsu hiểu rằng giờ mà Người hằng mong đợi, mà TM IV cho thấy đang đến gần (2,4; 7,6.8.30; 8,20), thực sự đã đến. Đây là giờ của “Con Người”, giờ Đức Giêsu chiến thắng bằng cách đi qua thập giá, giờ Người được “tôn vinh” (x. 3,14; 8,28; 12,32). Cái chết của Đức Giêsu không phải chỉ là kết quả của sự tàn bạo của loài người và cũng không phải là kết thúc ô nhục của Đức Giêsu. “Giờ” của Người đã được Chúa Cha quyết định.
Đức Giêsu, Con Người, sẽ được tôn vinh bằng chính cái chết của Người. Cái chết này minh chứng một cách sáng ngời và thuyết phục rằng Con Thiên Chúa được liên kết với Chúa Cha bằng một dây vâng phục dù phải trải qua thử thách nào và rằng Người hiến mình cho chúng ta không dè giữ. Cái chết của Người cho thấy tình yêu vô biên của Người, bởi vì Người sống hoàn toàn cho Chúa Cha và hoàn toàn cho loài người chúng ta.
Sự phong phú của công trình của Người tùy thuộc cái chết của Người; và Người buộc các môn đệ Người hành động như chính Người đã hành động. Đức Giêsu nhắc lại kinh nghiệm sống mỗi ngày: thiên nhiên không sản sinh ra gì cả nếu trước đó không có một cái chết nào đó. Chỉ khi một hạt lúa mì bị hủy đi, nó mới trở thành một khối lượng lúa lớn. Chính là vì Người đã chịu cái chết và đã tỏ chính mình ra trong cái chết, mà Đức Giêsu sẽ quy tụ lại quanh Người một đoàn người đông đảo (x. 12,32). Đã chết rồi, Người không biến mất khỏi loài người, nhưng lại trở thành trung tâm của một cộng đoàn mênh mông. Người không ra sức bám lấy cuộc sống của Người. Cuộc sống trần thế đối với Người không phải là một sự thiện tối cao phải cứu lấy bằng mọi giá. Chỉ những ai liên kết với Người khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau này. Chỉ kẻ nào đã theo Đức Giêsu trong cuộc sống, mới sẽ đạt tới mục tiêu và mới có phần phúc khi được Chúa Cha nhìn nhận.
* Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 27-30)
Phân đoạn này nhắc tới hoạt cảnh Vườn Ghếtsêmani trong các TMNL (chẳng hạn Mc 14,34-36). Rõ ràng tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Vườn Ôliu. Tuy nhiên, ngài đăt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác, ngài giải thích hoạt cảnh ấy và sửa chữa đôi chút. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (27a). “Tâm hồn” đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống, mạng sống mà người ta phải “ghét” và chịu mất để cứu được; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
Nhưng rồi từ đó tác giả triển khai các điểm theo cách riêng. Câu hỏi: “Thầy biết nói gì đây?” cho thấy là Đức Giêsu bị đăt vào thế lưỡng nan là xin Cha Người: “Xin cứu con khỏi giờ này” hay là: “xin tôn vinh Danh Cha”. Và Người chọn tức khắc cách cầu nguyện thứ hai. Ngoài ra, trong TM IV, Đức Giêsu luôn “năng động [tích cực]” trong cuộc Thương Khó của Người. Người làm chủ tình hình (x. Ga 18,6), Người ý thức trọn vẹn về vai trò Người đảm nhận, Người hoàn tất tuyệt vời sứ mạng Cha Người đã giao: hy sinh mạng sống để cứu độ toàn thể thế giới. Ở tại ngưỡng cửa cuộc Khổ Nạn, ta không thể tưởng tượng ra một lời cầu nguyện nào khác trên môi Đấng được Thiên Chúa sai đến, ngoài lời này: “Xin tôn vinh Danh Cha” (x. Ga 17,4). Nếu Người trốn “giờ” này (hiểu là “những gì sẽ xảy ra vào
17/03 Dư luận về Chúa Giêsu
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Dư luận về Chúa Giêsu.
Thứ bảy tuần 4 Mùa Chay.
"Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao?"
Lời Chúa: Ga 7, 40-53
Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: "Ông này thật là tiên tri". Kẻ khác nói: "Ông này thật là Ðấng Kitô". Người khác nữa lại nói: "Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?"
Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người. Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người.
Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ rằng: "Tại sao các ngươi không điệu nó tới?" Các người thừa hành thưa rằng: "Chẳng hề có ai nói như người ấy". Các người biệt phái trả lời rằng: "Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề luật". Nicôđêmô là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với họ rằng: "Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?" Nhưng họ trả lời rằng: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa". Sau đó ai về nhà nấy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Dư luận về Chúa Giêsu.
Blondin là một trong những tên tuổi của ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh ta là đã có thể đi trên một sợi dây qua thác Nirgara là thác dài nhất và cao nhất thế giới. Trong một dịp biểu diễn, anh quay sang hỏi một cậu bé gần đó: “Em có tin là tôi có thể mang một người trên vai và đi xuyên qua dòng thác không? Giữa tiếng thác đổ ầm ầm, cậu bé thét lên: “Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó”. Thế nhưng khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai, thì em đã lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự đảm bảo của người biểu diễn.
Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Phần các con, các con bảo Ta là ai?”. Cũng như Phêrô khi đại diện cho các Tông đồ, chúng ta cũng sẽ trả lời: “Thày là Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng trong thực tế, thái độ sống của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa. Thái độ của chúng ta có lẽ cũng giống như của những người Do Thái trong Tin Mừng hôm nay: người thì xem Ngài như một tiên tri, kẻ nhận Ngài là Chúa Kitô, đa số thì dựa vào những hiểu biết trong Kinh Thánh để lý giải về thân thế của Ngài.
Sự hiểu biết mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có về Ngài không phải là một hiểu biết trên lý thuyết hoặc chỉ là lời tuyên xưng trên môi miệng, mà phải là vác Thánh giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Liền sau khi Phêrô tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và Ngài đề ra như một mệnh lệnh: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập giá và đi theo Ta”. Danh hiệu Kitô gắn liền với Thập giá. Không thể tuyên xưng Chúa Kitô mà lại chối bỏ Thập giá của Ngài, không thể tự cho mình biết Chúa Kitô mà không liên kết với Ngài trong cuộc tử nạn. Thánh Phaolô đã nói lên kinh nghiệm của ngài: “Phần tôi, tôi chỉ biết có một Đức Kitô chịu đóng đinh”. Biết theo nghĩa Kinh Thánh là môt sự kết hợp thâm sâu. Biết do đó phải là một cam kết. Biết Đức Kitô như thánh Phaolô diễn tả chính là nên một với Chúa Kitô trong mầu nhiệm tử nạn. Biết Đức Kitô chịu đóng đinh chính là bổ túc nơi mình những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Ngài.
Mùa chay là mùa thanh luyện, chúng ta được mời gọi để sống một cách ý thức hơn bản sắc đích thực của người kitô hữu, đó là để Đức Kitô chiếm hữu và sống bằng chính sức sống của Ngài. Điều đó cũng có nghĩa là người kitô hữu không chỉ mang danh hiệu của Đức Kitô, lời tuyên xưng của họ không chỉ đọng lại trên môi miệng, mà phải là một cuộc sống kết hiệp với Ngài, với những cố gắng không ngừng của từ bỏ, quảng đại, yêu thương và phó thác.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Ðón nhận sự thật
Những người chống đối Chúa Giêsu kiên quyết bảo vệ lập trường sai lầm của mình. Họ tự hào rằng mình am hiểu Kinh Thánh, rằng mình thông thạo lề luật, và họ khư khư căn cứ vào sự hiểu biết của họ để mô tả hình ảnh của một Chúa Kitô theo trí tưởng tượng của họ và kết quả là họ đã không gặp được Ngài.
Nhóm người tán thành Chúa Giêsu thì ứng xử theo lối khác. Họ lắng nghe những lời Chúa Giêsu nói, quan sát những việc Chúa Giêsu làm. Họ thấy cả những lời nói và việc làm này có một sự thật, một tình thương, một sức giải phóng tâm hồn. Thế là họ tin vào Người, họ không lý luận bằng chữ nghĩa, họ chỉ nghe ngóng với con tim. Lời lẽ của họ thật là đơn sơ: "Ông này là vị ngôn sứ. Ông này là Ðấng Kitô". Người ta có thể nói rằng hãy nhắm mắt lại để thấy, hãy bịt tai lại để nghe. Quả thật, có nhiều điều chúng ta chỉ có thể thấy được, nghe được, hiểu được bằng cách vượt lên khỏi lối nhìn, lối nghe và lối hiểu thông thường dựa vào hình tướng bên ngoài.
Lạy Chúa, lắm lúc con cũng thường đánh giá mọi chuyện dựa theo cái vỏ bên ngoài của chúng và giải thích chúng dựa theo những kiến thức tôn giáo xã hội mà mình thụ đắc được, những lúc đó, con tưởng mình đã nắm gọn chân lý trên tay và con lớn tiếng phê phán chỉ trích đủ điều, con không ngờ rằng nhiều lúc mình chỉ như gã mù xem voi. Mù vì thiên kiến hẹp hòi, mù vì kiêu căng tự mãn, mù vì những ghen ghét giận hờn. Làm nô lệ cho những tật xấu, những tội lỗi, những mù quáng tinh thần này, con không thể nào gặp được Chúa. Xin Chúa cho con biết đón nhận sự thật với tâm hồn đơn sơ và một con tim đổi mới, cởi mở. Xin ban cho con Thánh Thần Chúa, thanh tẩy con với mọi tội lỗi, giúp con thoát khỏi mọi sự mù quáng để nhận ra Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Họ chia rẽ vì Người
Trong dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói: “Ông này thật là vị ngôn sứ.” Kẻ khác rằng: “Ông này là Đấng Kitô.” Nhưng có kẻ lại nói: “Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao? nào kinh thánh đã chẳng nói: Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao?” Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ. (Ga. 7, 40-43)
Không phải hôm qua họ đã chia rẽ vì Đức Giêsu. Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta thấy họ chia rẽ nhau. Họ đã chia rẽ ở thời Đức Giêsu, họ vẫn còn chia rẽ nhau cho đến ngày nay. Một ngày nào đó, chỉ cần đến Đền thờ Mộ Thánh ở Giê-ru-sa-lem, thì thấy rõ sự chia rẽ đó. Tất cả đều nói về Đức Kitô, nhưng lại tranh luận xem những phần nền nhà này, bến đậu kia là đất thuộc về tôn giáo nào! Xin Người mau chóng lập lại trật tự đi.
Hẳn đó không phải là điều Đức Kitô đến dạy chúng ta. Nhưng đó là sự kiện thật như Đức Kitô đã nói: “Tôi mang gươm giáo đến, ai thuận với Tôi và ai chống lại Tôi”. Không có chuyện nửa vời. Thuận với Người thì phải từ bỏ những lý lẽ của lý trí, ít ai chịu bỏ. Muốn nhận biết Người cần phải trở nên bé nhỏ và khiêm nhường mới hợp với giáo lý và những đòi hỏi của sứ điệp Đức Giêsu và đi sâu hơn vào mầu nhiệm của Người.
Bản văn thánh Gio-an cho chúng ta thấy những ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề Đức Giêsu, còn xa mới đi tới nhất trí.
Kết cục, chính các vệ binh có nhiệm vụ giữ an ninh trật tự công cộng, tuy ít học, nhưng đã có những suy nghĩ rất chính xác và rất rõ nét: “Xưa nay chưa hề có ai nói năng như người ấy”. Câu nói ngây ngô trước những ông biệt phái, đã xúc phạm nặng nề đến các ông nhưng nhận xét của những kẻ mà các ông coi là dân đen lại thật sáng suốt và có lương tri rất tốt.
Các ông trách họ tàn tệ: “Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong hàng thủ lãnh và giới trí thức biệt phái có ai tin vào tên ấy đâu? Chỉ có bọn hạ lưu cặn bã như các anh mới phạm sai lầm xét đoán như thế thôi”. Các ông biệt phái luôn luôn có thái độ kiêu ngạo, khinh bỉ quá khích đối với những người đã khâm phục sự khôn ngoan của Đức Giêsu.
Đức Kitô sẽ không bao giờ đạt tới kết quả là quy tụ được tất cả loài người. Xin đừng ngạc nhiên vì Người đã tiên báo về chính Người: “Tôi sẽ là dấu chỉ gây ra sự mâu thuẫn”.
Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ hiểu dấu chỉ đó, chúng ta sẽ chịu đau khổ vì thế, nhưng chúng ta sẽ sẵn sàng chấp nhận: “Cùng chịu hấp hối với Người cho đến tận thế”. Câu nói tuyệt vời của Pascal.
G.F.
SUY NIỆM 4: TẠI SAO LẠI VẤP NGÃ? (Ga 7, 40-53)
Đã có lần Đức Giêsu nói Ngài đến không phải để đem bình an, nhưng là đem chia rẽ: cha chống lại con trai, và ngược lại. Con dâu chống lại mẹ chồng và mẹ chồng chống lại nàng dâu. Anh em chống đối nhau...
Hôm nay, sự xuất hiện và lời giảng dạy của Ngài cũng làm cho dân chúng trong mọi tầng lớp chia rẽ.
Họ chia rẽ bởi vì có những nhận định về Đức Giêsu khác nhau. Kẻ thì cho rằng Ngài là vị ngôn sứ; người khác lại khẳng định Ngài là Đấng Kitô, nhưng lại có nhóm phủ nhận tính Kitô nơi Ngài vì cho rằng Ngài không xuất thân từ dòng dõi vua Đavít và từ Bêlem, làng của vua Đavít mà lại từ Galilê!
Rồi đến những nhận định về tài giảng dạy của Ngài, trong đó phải kể đến nhóm vệ binh, họ nói: "Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!" Nicôđêmô, một người trong nhóm Pharisêu thì đứng lên bênh vực Ngài nhưng không mạnh mẽ, mà chỉ khơi khơi...
Trước những phản ứng đó, các thượng tế và người Pharisêu không tin vào dân chúng và tỏ ra tức tối khi dân này ca ngợi Đức Giêsu...
Lý do họ không tin vào đám dân này là vì họ gọi những người ấy là lũ dân xứ này. Với họ, những người dân này chỉ như là hạng bọt bèo, hạ đẳng, không đáng để họ khinh miệt chứ đừng nói gì đến chuyện tin hay không! Họ còn khinh bỉ những người thường dân này đến độ coi họ không có chút học thức hay đạo đức gì, bởi vì nếu có thì không thể tin vào Đức Giêsu được, chỉ những người ngu xuẩn mới tin vào Đức Giêsu mà thôi!
Trong thời đại hôm nay, vẫn còn có nhiều người như Pharisêu và Thượng Tế, họ vẫn tự hào là người học cao hiểu rộng, có một số vốn kiến thức đây đó, rồi từ đó sinh ra tự tôn, kiêu ngạo, để rồi Đức Giêsu là Đấng chỉ để họ bàn tán, còn tin và yêu mến cũng như thực hành những điều Ngài dạy thì không có. Hay có những người cho mình là đạo đức, sống đạo tại tâm, không cần đi lễ, nhà thờ hay cầu kinh sớm tối, cho rằng những chuyện đó là dư thừa, phù phiếm...
Nghĩ như thế, ấy là lúc chúng ta tách đạo ra khỏi đời sống, mà đạo của chúng ta là đạo sống, tức là gắn liền với mọi chiều kích cũng như các mối tương quan trong xã hội, chứ không phải là một mớ ý niệm, định nghĩa...
Trong khi đó, nhiều người bình dân học vụ thì họ lại nhận ra Thiên Chúa cách rõ nét ngang qua tình thương của Ngài ban cho họ trên cuộc sống.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đứng về phía sự thật và can đảm làm chứng bằng cả cuộc sống. Mặt khác, Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn để được ơn cứu độ từ Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trong Mùa Chay này biết ý thức rằng: “Đức tin mà không có hành động thì đức tin chết”. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Ông này là Đấng Kitô
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm qua cho thấy người Do Thái không tin Đức Giêsu là Kitô
vì đối với họ, Đấng Kitô phải là người mà họ không biết xuất thân từ đâu.
Còn Đức Giêsu thì họ tự hào đã quá biết gốc gác của Ngài (Ga 7, 27).
Bài Tin Mừng hôm nay lại tiếp tục cuộc tranh luận về căn tính của Đức Giêsu.
Đức Giêsu gây ra một sự chia rẽ trong dân chúng
đang nghe Ngài giảng tại Đền thờ Giêrusalem (cc. 40-45).
Có những người tin Ngài là Vị Ngôn sứ được ông Môsê tiên báo (Đnl 18, 15).
Có người lại cho Ngài là Đấng Kitô (c.41).
Có người không đồng ý như thế, vì Đức Giêsu xuất thân từ Galilê,
còn Đấng Kitô thì phải xuất thân từ Bêlem, quê của vua Đavít (c.42).
Thật ra chuyện gốc Đức Giêsu ở đâu, chẳng quan trọng mấy.
Chuyện quan trọng là Đức Giêsu Nazareth ấy xuất thân từ Thiên Chúa.
Đức Giêsu còn gây ra sự chia rẽ trong giới lãnh đạo.
Các thượng tế và người Pharisêu đã sai các vệ binh đi bắt Đức Giêsu (c.32).
Nhưng họ đã không tuân lệnh các nhà lãnh đạo ấy,
chỉ vì họ bị ngây ngất trước lời giảng dạy đầy quyền uy của Đức Giêsu.
“Xưa nay chưa hề có ai nói năng như người ấy” (c. 46).
Nhận xét của họ còn đúng mãi đến tận thế.
Trước chuyện bất phục tùng của các vệ binh, người Pharisêu cảm thấy bực bội.
Họ không thể hiểu được tại sao các vệ binh lại có thể bị lừa dối dễ đến thế.
Vì khinh bỉ những người tin vào Đức Giêsu,
Họ gọi những người này là bọn dân đen, dốt nát không biết Lề Luật.
Ai không biết Lề Luật thì cũng chẳng thể giữ Lề Luật,
nên đây đúng là những người bị Thiên Chúa nguyền rủa (c. 49).
Thật ra không phải là không có thủ lãnh nào trong dân tin vào Đức Giêsu.
Ông Nicôđêmô là một thủ lãnh (Ga 3,1) đã đến gặp Đức Giêsu ban đêm.
Ngay bây giờ ta sẽ thấy ông dám lên tiếng để bênh vực cho Ngài (c. 50).
Ông đòi Đức Giêsu phải có tiếng nói trước khi bị kết tội (x. Đnl 1, 16-17).
Khi kết án Ngài cách vội vã, Thượng Hội Đồng Do Thái đã phạm luật.
Nhưng tiếng nói của ông Nicôđêmô đã không được nghe nghiêm túc.
Bất chấp vai vế của ông, ông cũng bị chế nhạo:
“Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao?” (c.52).
Người Galilê là hạng người bị coi khinh vì ít giữ Luật so với người Giuđê.
Nhưng đừng quên từ Galilê cũng có ngôn sứ Giôna, con ông Amíttai (2V 14, 25).
Thái độ của những thượng tế và người Pharisêu thật đáng ta suy nghĩ.
Họ khép lại trong thành kiến với Đức Giêsu.
Họ vùi dập bất cứ ai có cái nhìn ngược với họ, dù là vệ binh hay Nicôđêmô.
Họ không ngại châm biếm hay khinh miệt những người khác quan điểm.
Xin Chúa cho ta hồn nhiên như các vệ binh,
và can đảm nói sự thật như ông Nicôđêmô.
Cầu nguyện :
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen. (R. Tagore)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
16/03 Nguồn gốc của Chúa
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Nguồn gốc của Chúa.
Thứ sáu tuần 4 Mùa Chay.
"Chúng tìm cách bắt Người, nhưng chưa tới giờ Người".
Lời Chúa: Ga 7, 1-2. 10. 25-30
Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.
Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu".
Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta". Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Do lai của Chúa.
Không ai trong chúng ta đã chọn lựa được sinh ra; không ai trong chúng ta đã chọn lựa chủng tộc, cha mẹ, dân tộc để sinh ra. Nếu được chọn lựa để sinh ra một lần nữa, có lẽ đa số chúng ta sẽ chọn lựa cho mình một cuộc sống khác.
Thế nhưng, với Chúa Giêsu thì không như thế. Ngài là người duy nhất trên trần gian đã chọn lựa cho mình tất cả để sinh làm người. Ngài đã chọn một người mẹ, một nơi sinh và những hoàn cảnh trong đó Ngài sẽ trưởng thành. Nếu phải chọn lại một lần nữa, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ không thay đổi cuộc sống ấy, một cuộc nghèo khổ, tăm tối. Dĩ nhiên, chúng ta không thể hiểu được hoàn toàn tại sao Chúa Giêsu đã chọn lựa một cuộc sống như thế.
Cuộc sống nào cũng là một mầu nhiệm. Cuộc sống của Con Thiên Chúa làm người lại càng là một mầu nhiệm đối với chúng ta hơn. Vào thời Chúa Giêsu, đa số những người Do Thái đều có một suy nghĩ giống nhau về thân thế của Chúa Giêsu. Họ biết rõ Ngài là con bác thợ mộc Yuse, và Mẹ Ngài là bà Maria. Họ cũng biết rõ từ Nazaret không bao giờ có thể xuất phát một nhân vật tài ba nào cho dân tộc. Họ biết quá rõ về Ngài, nhưng chỉ biết theo sự hiểu biết và phán đoán của con người mà thôi.
Qua các thời đại, nhiều người đã tốn hao bút mực để viết về cuộc đời Chúa Giêsu. Đối với nhiều người, Ngài có thể là một vĩ nhân, một con người ý thức mình có sứ mệnh đặc biệt. Nhưng Ngài cũng chỉ là một người như mọi người, nghĩa là cũng sinh ra, sống một thời gian rồi cũng qua đi như mọi người. Trong khi đó, đối với kitô hữu, Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa. Họ tin ở lời Chúa như được ghi trong Tin Mừng hôm nay: “Ta không tự mình mà đến, nhưng có Đấng sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài và Ta bởi Ngài và chính Ngài đã sai Ta”. Tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người chính là biết nhìn xuyên qua cuộc sống lam lũ tăm tối của Ngài để nhận ra quyền năng Thiên Chúa của Ngài. Tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa cũng chính là nhận ra giá trị của cuộc sống âm thầm ấy như một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
Chọn lựa cuộc sống nghèo hèn ấy và sau này tiếp tục sống thiết thân với những người cùng khổ bất hạnh, Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho chúng ta thấy phẩm giá cao cả của con người. Dù nghèo hèn đến đâu, mỗi người sinh ra trên đời cũng đều có giá trị cao cả bất khả nhượng. Chọn lựa cuộc sống nghèo hèn và chấp nhận cái chết thê thảm nhất, Chúa Giêsu cũng muốn nêu bật giá trị và ý nghĩa của cuộc sống con người. Cái nghèo hèn trở nên sự giầu sang, cái mất mát trở thành lợi lộc, cái yếu đuối trở thành sức mạnh mang lại sự sống.
Mùa chay, mùa của hoán cải, chúng ta được mời gọi thay đổi trước tiên cái nhìn của chúng ta. Tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận Ngài, là đi vào cái nhìn của Ngài. Mùa chay là mùa quay trở lại với anh em. Ước gì cái nhìn của chúng ta đối với anh em không dừng lại theo những tiêu chuẩn thông thường của người đời, nhưng được mặc lấy ánh mắt tôn trọng, cảm thông, bao dung, tha thứ của Chúa. Ước gì cái nhìn của chúng ta về cuộc sống không đóng khung trong những phán đoán thông thường của người đời, nhưng được hướng dẫn bởi những tâm tình tin tưởng, phó thác, lạc quan của chính Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Tin nhận Chúa Giêsu
Sự cứng lòng của những người Do Thái không tin đã nhốt kín họ trong những định kiến mê muội đối với những hành động khẳng khái của Chúa Giêsu. Thay vì khách quan đặt lại vấn đề để tìm ra nguyên do nào đã thúc đẩy Chúa hành động bất chấp nguy hiểm như thế, họ chỉ một mực bưng tai bịt mắt khư khư giữ lấy lập trường riêng của mình. Họ đem lòng dạ quanh co xấu xa của họ ra xét đoán tha nhân và những sự việc xảy ra chung quanh. Họ không nhận ra được sự thật mà Chúa Giêsu đã mang đến; cũng không nhìn thấy hình ảnh của Ðấng Thiên Sai nơi Chúa Giêsu. Thật ra, đó chỉ là những hình ảnh thô thiển do cái nhìn chủ quan của họ tạo ra. Còn Ðấng Cứu Thế đích thực đang đứng trước mặt họ thì họ lại khước từ.
Lạy Chúa Giêsu, xin giải thoát con khỏi sự mù quáng tinh thần, nhất là đừng để con vì những lợi lộc ích kỷ mà xa Chúa, hay tệ hại hơn chống đối và từ bỏ Chúa. Xin thương mở rộng tâm hồn và đôi mắt con cho con được nhìn ra Chúa. Xin Chúa thay đổi cái nhìn của con để con biết tôn trọng và lắng nghe tiếng Chúa nơi tất cả mọi người con gặp hàng ngày.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Các ông biết Tôi ư?
Lúc giảng dạy trong đền thờ, Đức Giêsu nói lớn tiếng rằng:
“Các ông biết tôi ư?
các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư?
Tôi đâu có tự mình mà đến.
Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật.
Các ông, các ông không biết Người.
Phần tôi, tôi biết Người,
Bởi vì tôi từ nơi Người mà đến
Và chính Người đã sai tôi,”(Ga. 7, 28-29)
Đây là một trong những điều chúng ta khó tin Đức Kitô: Chúng ta biết Người. Chúng ta biết lý lịch của Người theo khía cạnh nhân loại. Chúng ta biết chỗ sinh ra, cha mẹ và những nơi Người đã sống. Đấy là cái khó mà những người đồng thời của Chúa gặp phải: “Ông này chúng ta biết xuất thân từ đâu rồi. Còn Đấng Kitô khi Ngài đến thì chẳng ai biết Ngài xuất thân từ đâu cả”. Trước sự phản đối này, Đức Kitô đáp: “Tôi không tự mình mà đến: Đấng đã sai Tôi là Đấng chân thật. Các ông không biết Ngài!”.
Và Đức Kitô đòi chúng ta phải tin vào Người. Người có quyền đòi chúng ta tin vì Người thuộc phạm vi Thiên Chúa mà chúng ta không biết, nếu không có đức tin, không có lời Người.
Tính cách lưỡng diện này của Đức Kitô: vừa là loài người, vừa là Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta biết thế, nhưng cái gì ngăn cản chúng ta tin vào Người, cậy trông Người?
Nếu dừng lại một lát, chúng ta sẽ nhận ra rằng: Chúng ta biết rất ít về Đức Kitô, dù sau khi đã được Phúc âm mặc khải cho chúng ta. Điều chúng ta biết về Người là giáo huấn Người để lại cho chúng ta. Và giáo huấn đó thì quá giản dị, quá trong sáng, quá là là mặt đất đến nỗi làm chúng ta hơi thất vọng, nếu chúng ta đòi Người làm những điều phi thường! Những điều mà như chúng ta nghĩ sẽ có thể thành công dễ dàng nếu có một chút can thiệp siêu việt, siêu phàm của Thiên Chúa. Đây chính là phạm vi Đức Kitô đòi hỏi chúng ta phải sống để khám phá và phát triển trong tâm hồn chúng ta, nhưng chúng ta lại từ chối.
Đức Kitô nhắc nhở chúng ta không phải chỉ biết Người theo phạm vi loài người mà chính là theo phạm vi Thiên Chúa, như chúng ta, không phải chỉ sống theo khía cạnh là người này phải làm lụng vất vả để kiếm bánh ăn mỗi ngày: bánh cho xác, bánh cho con tim, cho trí óc mà còn cần thứ khác siêu việt hơn. Thứ khác đó thuộc phạm vi đức tin mà chúng ta phải khám phá. Thứ khác đó chính là Đức Kitô, Người đang sống trong chúng ta. Chính là ơn thánh, chân lý mầu nhiệm mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, Người an ủi chúng ta, không vượt xa mà hoàn toàn ở trong chính chúng ta.
J.M
SUY NIỆM 4: CÓ ĐỨC, CÓ TÀI VÀ CÓ HẠNH (Ga 7, 1-2; 25-30)
Hôm nay, Đức Giêsu trở lại Galilê vào một dịp Lễ Lều của người Do Thái.
Lễ Lều là một trong những lễ mà người Do Thái coi trọng, vì thế nó đã trở thành luật buộc đối với họ. Mục đích của Lễ Lều là tạ ơn Chúa sau vụ mùa, nhất là sau mùa hái nho. Tạ ơn Chúa vì Chúa cho vụ mùa bội thu. Hai là dịp nhắc cho con cháu nhớ lại những năm tháng ngược xuôi dòng rã trong sa mạc trước khi vào đất hứa. Họ thường mang những hoa màu ruộng đất do công khó của mình làm nên để tạ ơn và cầu xin cho vụ mùa tiếp theo được mưa thuận gió hòa.
Nhân dịp này, Đức Giêsu xuất hiện, và chẳng mấy chốc, Ngài đã lên tiếng giảng dạy trong đền thờ. Sự kiện Ngài xuất hiện đã làm cho dân chúng không khỏi ngạc nhiên và bàn tán xôn sao vì đã trở thành cái gai trong mắt những nhà lãnh đạo.
Tại sao biết bao nhiêu lời chứng mà Đức Giêsu đã trưng dẫn cho họ về Ngài mà họ cũng không tin? Nào là Gioan tiền hô; Thiên Chúa Cha; Kinh Thánh... Rồi đến ngay cả những việc Ngài làm minh định điều đó mà họ vẫn không tin.
Thưa! Đơn giản vì cái tôi của họ quá lớn. Họ tự tôn là thành phần đặc quyền đặc lợi, ưu tuyển, nên không thể chấp nhận được giáo huấn cũng như bản tính thần linh của Đức Giêsu. Ngược lại, họ đã kết tội Đức Giêsu, cái tội mà chắc chắn sẽ chết, đó là nói lộng ngôn, phạm thượng. Là kẻ phản loạn, không giữ luật ngày Sabát... Chính vì tâm trí họ ra mù quáng mà sự hiện diện và lời dạy của Đức Giêsu không hề thức tỉnh lương tâm của họ.
Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng thấy không ít người có tâm tưởng như những người Do Thái, Họ học hỏi Kinh Thánh, giáo lý không phải vì lòng yêu mến và mong muốn được biến đổi cho bằng học để biết rồi sinh ra chê bai, trách móc và tự kiêu... hoặc đôi khi học để rồi tìm cách bách hại lại những người tin Chúa!
Những não trạng mù quáng ấy đôi khi lại là lựa chọn của mỗi chúng ta khi chúng ta tách rời hiểu biết ra khỏi cuộc sống.
Như thế, chúng ta hãy cẩn trọng vì: “Có học mà không hạnh là kẻ ác”; “Có hạnh có đức mà không có học là đần”.
Mong sao, chúng ta “có tài, có đức, có hạnh” trong việc giữ đạo và sống đạo trong thế giới hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Giờ của Người chưa đến
Suy niệm :
Lễ Lều là một đại lễ hàng năm qui tụ đông đảo dân chúng lên Đền thờ.
Đây là một lễ rất vui, kéo dài cả tuần (Lv 23, 34-36).
Mục đích chính là để tạ ơn Chúa vì hoa trái mùa màng Ngài ban,
và còn để nhớ lại tình thương Chúa trong thời gian 40 năm đi trong hoang địa.
Lễ Lều là một lễ hội tưng bừng và long trọng bậc nhất.
Những người tham dự cắm trại trong các lều làm bằng cành lá,
được dựng trên mái nhà, gần nhà hay ngoài đồng.
Mỗi buổi sáng có lễ rước nước từ hồ Silôam để rưới lên bàn thờ.
Mỗi tối, tiền đình phụ nữ nơi Đền thờ rực rỡ ánh nến và vang tiếng múa hát.
Đức Giêsu đã không muốn bỏ qua lễ hội này,
dù lên Đền thờ Giêrusalem bây giờ thật là nguy hiểm đến tính mạng,
vì người Do thái, nghĩa là giới lãnh đạo Do thái giáo, đang tìm cách giết Ngài.
Đức Giêsu đã chọn giải pháp lên Đền thờ một cách kín đáo (c.10).
Nhưng vào giữa kỳ lễ, Ngài đã giảng dạy công khai, không chút sợ hãi (c. 14).
Đức Giêsu dám đối mặt với thế lực đang đe dọa Ngài.
Ngài bình tĩnh giảng ngay nơi Đền thờ,
trước những thượng tế, những người Pharisêu, và dân cư ngụ ở Giêrusalem.
Họ chẳng dám làm gì Ngài, vì giờ của ngài chưa đến (c. 30).
Xảy ra cuộc tranh luận giữa Ngài với dân cư ngụ ở Giêrusalem.
Chẳng có chút thiện cảm nào với Ngài, họ chỉ muốn làm hại Ngài.
Họ tin vào điều này một cách vững chắc :
“Khi Đấng Kitô đến, chẳng ai biết Người đến từ đâu” (c. 27).
Nguồn gốc của Đấng Kitô, đối với họ, phải là một điều bí ẩn.
Họ không tin Đức Giêsu là Kitô, bởi lẽ họ “biết ông này đến từ đâu.”
Chắc họ đã nghĩ Đức Giêsu là dân vùng Nazareth,
làm nghề thợ mộc, sống với cha mẹ là Giuse và Maria.
Tự hào về cái biết đúng nhưng không đủ ấy của họ,
đã khiến họ ngừng lại nơi nguồn gốc trần thế của Đức Giêsu.
Đức Giêsu thật là Đấng Kitô.
Và đúng như dân Giêrusalem đã tin, nguồn gốc của Ngài thật không dễ biết.
Đức Giêsu biết nguồn gốc của mình.
Ngoài gốc nhân loại, Ngài còn gốc thần linh, gốc từ trời.
Ngài không tự mình mà đến, nhưng từ Thiên Chúa chân thật mà đến.
Ngài xuất thân từ Thiên Chúa và được Thiên Chúa sai đi (cc. 28-29).
Dân Giêrusalem không thấy được trọn vẹn con người Đức Giêsu.
Họ đã giết Đấng Kitô đang ở gần bên họ, vì họ mơ một Đấng Kitô bí ẩn khác.
Làm sao tôi có thể nhận ra Đức Kitô cao cả
đang ở bên những người tầm thường tôi gặp mỗi ngày ?
Cầu nguyện :
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ thất vọng đến hy vọng,
từ sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình.
Xin hãy đổ đầy bình an
trong trái tim chúng con,
trong thế giới chúng con,
trong vũ trụ chúng con. Amen. (Thánh Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
15/03 Chứng Của Chúa Cha
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chứng Của Chúa Cha.
Thứ năm tuần 4 Mùa Chay.
"Có người tố cáo các ngươi, đó là Môsê, người mà các ngươi vẫn tin tưởng".
Lời Chúa: Ga 5, 31-47
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật. Phần Ta, Ta không cần chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời gian. Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống.
Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được? Các ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin tưởng. Vì nếu các ngươi tin Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi vì chính Môsê đã viết về Ta. Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết, thì làm sao các ngươi tin lời Ta được?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chứng Của Chúa Cha.
Sau khi bị những người Do Thái chỉ trích Ngài vi phạm luật ngày Hưu lễ vì đã chữa bệnh cho một người bị liệt đã 38 năm, Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài có quyền hành động như thế, bởi vì Ngài là cộng tác viên của Thiên Chúa. Và giờ đây Ngài nại đến một chứng từ mà người Do Thái không thể phủ nhận, đó là chứng từ của Thiên Chúa Cha được bày tỏ qua các phép lạ Ngài làm cũng như qua Lề Luật Môsê. Quả vậy, các phép lạ Chúa Giêsu làm chứng thực rằng chính Thiên Chúa đã sai Ngài đến, chính Thiên Chúa đã hành động với Ngài và trong Ngài. Do đó, đây là chứng từ không những do Chúa Cha mang đến, mà còn do ngay của Chúa Giêsu nữa, vì “cứ xem quả thì biết cây”.
Tiếp đến, chính qua Kinh Thánh, Chúa Cha cũng làm chứng cho Chúa Con một cách đặc biệt. Đây là một chứng từ có tính cách trực tiếp và có giá trị đối với người Do Thái, vì mọi người Do Thái đều công nhận Kinh Thánh là lời của Thiên Chúa.
Trong khi toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu thế, nhưng vì thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, các người Do Thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa và lắng nghe lời Ngài qua khuôn mặt và lời nói của Chúa Giêsu và do đó không đón nhận Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến. Và không phải Chúa Giêsu là người sẽ tố cáo họ về tội bất trung này, nhưng là chính Môsê. Bởi vì qua Lề Luật, Môsê đã nói về Đấng Mêsia tức là về Chúa Giêsu, vậy mà về điểm căn bản này, họ cũng đã từ chối không chịu tin theo lời dạy bảo của ông.
Như vậy, điều cốt yếu để được cứu độ là tin vào Chúa Giêsu, nhận ra hình ảnh và lời nói của Chúa Cha nơi Ngài. Có tin vào Chúa Giêsu, lời Thiên Chúa mới ở trong chúng ta. Trong Mùa chay này, chúng ta hãy để cho Lời Chúa lưu lại trong chúng ta bằng cách năng suy gẫm Lời Chúa, để giữa cuộc sống của chúng ta và Lời Chúa biểu lộ được khuôn mặt, tinh thần và tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta một tình yêu nồng nàn để có thể nhận ra và lắng nghe được tiếng nói của Chúa và luôn sống trong đường lối của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Tôi biết rõ các ông
Chúa Cha, Đấng đã sai tôi,
Chính Người cũng đã làm chứng cho tôi.
Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người,
Cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người.
Các ông không giữ lời Người ở lại trong lòng,
Bởi vì chính các ông không tin
Vào Đấng Người đã sai đến
Các ông nghiên cứu kinh thánh,
Vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được
Sự sống đời đời
Mà chính kinh thánh lại làm chứng về tôi!. (Ga. 5, 37-39)
Một lần nữa, Chúa còn làm cho chúng ta ý thức về sự thật tỏ tường mà chúng ta đã từ chối. Nếu chúng ta liệng bỏ đời sống do Thiên Chúa ban, thì chính chúng ta lên án chính mình. Đức Kitô sẵn lòng hiện diện và luôn hoạt động, dù Người không cần gì phải bảo vệ.
Tất cả sứ điệp của Đức Kitô tóm lại trong hai thái độ nền tảng và bất khả phân ly này là: đức tin và tình yêu. Hoặc là chúng ta đón nhận cả hai hoặc là không. Đó là điều căn bản. Đừng lấy làm lạ khi người ta thấy khó theo Đức Kitô. Thật đáng buồn khi bị Ngài từ chối do những thái độ sống nửa vời, sống khô khan, hòa hoãn bủn xỉn, hẹp hòi.
Đức tin đặt nền tảng trên sự thật vào Đấng chúng ta tin, vào Đức Kitô của Chúa Cha: “Lời Ngài làm chứng về Tôi là lời chứng thật”.
Đức tin đặt nền tảng trên công việc mà Đức Kitô đã hoàn tất nhân danh Chúa Cha: “Chính những việc Tôi làm đó làm chứng cho Tôi rằng Chúa Cha đã sai Tôi”.
Đức tin đặt nền tảng trên Kinh thánh, chúng ta biết rằng Thánh kinh đã được linh ứng bởi Thiên Chúa: “Chính Kinh thánh lại làm chứng về Tôi”.
Chúng ta có đức tin không? Làm sao chúng ta có thể nói: “Tôi tin”, nếu chúng ta không sống theo Đức Kitô, mà giáo huấn của Người từ Chúa Cha đến với chúng ta? Chúng ta không tin Thiên Chúa nếu không tin Đức Giêsu Kitô. Tóm lại, Đức Giêsu đã nói với chúng ta rằng: “Các ông không tin Chúa Cha vì các ông không tin Đấng Chúa Cha sai đến”.
Chúng ta nghe lời cảnh cáo của Đức Kitô, lời bày tỏ một lòng thương xót lớn lao đối với những người là anh em bạn hữu của Người. Và những lời này chắc chắn cũng nói với các bạn và tôi nữa. Chúng ta hãy nghe lời Đức Kitô sắp kêu lên một lời than thở dường như thất vọng: “Quả thật, Tôi biết rõ các anh, tình yêu Thiên Chúa không ở trong các anh”.
Và Người nói tiếp: “Không, các anh không tin Tôi, nhưng lại tin kẻ lường gạt đến đầu tiên”. Có phải Người đã chết vì điều đó chăng? Đức Kitô đã nói với chúng ta rằng: “Phải, Tôi chết vì những trò dại dột của các bạn, vì những mê tín dị đoan của các bạn, để các bạn có ánh sáng. Thật khó khăn tin vào Tôi, Tôi rõ ràng hiển nhiên như thế đó. Tôi chết đi để cho các bạn có thể được gặp Cha chúng ta, ước mong các bạn là tín hữu trung thành”.
J.M
SUY NIỆM 3: CHỨNG BỞI GIOAN TIỀN HÔ (Ga 5, 31-47)
Mạng sống của Đức Giêsu ngày càng bị đe dọa cách quyết liệt! Lòng căm tức và chủ tâm loại trừ Đức Giêsu ra khỏi xã hội ngày càng leo thang! Đức Giêsu biết rõ điều đó, nhưng không vì thế mà Ngài im hơi lặng tiếng để yên thân! Không! ngược lại, Đức Giêsu luôn tìm dịp thuận tiện để đưa họ vào một thực tại vô cùng quan trọng.
Thực tại đó là: biết Ngài là Thiên Chúa; Thiên Chúa Cha với Ngài là một và Ngài có quyền như Thiên Chúa.
Khi mặc khải như thế, nỗi tức giận của những người Dothái nổi lên. Nhưng Đức Giêsu đã gợi lại cho họ về hình ảnh, vai trò và sứ vụ của Môisê, để họ thêm cơ sở nhằm xác tín về Ngài, nhưng lòng trai dạ đá đã làm cho họ lu mờ và cố chấp, nên Đức Giêsu đã khẳng định số phận của họ và kết án họ ngay tại chỗ đứng của họ. Ngài nói: “Kẻ tố cáo các ông chính là ông Môsê, người mà các ông tin cậy. Vì nếu các ông tin ông Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi. Nhưng nếu điều ông ấy viết mà các ông không tin, thì làm sao tin được lời tôi nói?".
Những người Dothái trong bài Tin Mừng hôm nay họ đã buộc Thiên Chúa vào chính những ý niệm của họ về Người, chứ không phải lòng mến của họ nơi Thiên Chúa. Họ thường xuyên dùng chính Kinh Thánh để bảo vệ lập trường của họ chứ không nhìn Kinh Thánh như là lời hướng dẫn họ phải làm!
Như vậy, dân Dothái được ân huệ lớn lao nhất là từ nơi ấy, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa xuất hiện, hơn nữa, họ được hưởng sự hiểu biết từ bao đời về Đức Giêsu, lẽ ra họ phải tin và trung thành với Giáo huấn của Ngài, đằng này họ lại bị lĩnh án gay gắt vì sự cứng lòng.
Ôi sự cứng lòng đã làm cho tâm hồn người ta ra mê muội, ù lỳ và cố chấp! Con người là thế! Không ai muốn người khác hơn mình!
Trong thực tế hôm nay vẫn thường xuyên xảy ra như vậy! Chính định kiến cá nhân, phe phái mà không ngừng xảy ra chiến tranh, bạo lực, đàn áp, bóc lột... Những người đó đã giết chết anh chị em mình, bóp chết sự thật để cho sự ích kỷ, bạo tàn hoành hành khắp nơi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban cho mình, đó là được trở nên con cái Thiên Chúa, được Đức Giêsu đổ máu để cứu chuộc, thì chúng ta phải sống sao cho xứng đáng đặc ân cao quý này.
Đừng bao giờ đọc Kinh Thánh với thái độ khép kín hay biến Kinh Thánh để làm luận cứ để hậu thuẫn cho những lập trường bảo thủ của mình thay vì lòng yêu mến và mong được biến đổi nhờ Lời Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa là chân lý, là lời hằng sống. Xin cho chúng con biết tin tưởng, yêu mến và thực hành Lời Chúa dạy để được sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 4: Chúa Cha làm chứng cho tôi
Suy niệm :
Để hiểu được bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần đọc từ đầu chương năm.
Đức Giêsu chữa anh bất toại bên hồ nước gần Đền thờ Giêrusalem (cc. 1-9).
Anh được khỏi và vác chõng đi vào ngày sabát theo lệnh Đức Giêsu.
Chuyện đó dẫn đến việc người Do thái chống đối Ngài (c. 16).
Khi nghe Ngài nói: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”
họ tìm cách giết Ngài, vì cho rằng Ngài mắc tội phạm thượng,
dám gọi Thiên Chúa là Cha và coi mình ngang hàng với Thiên Chúa (c. 18).
Không chút sợ hãi, Đức Giêsu khẳng định quyền mình đã nhận được từ Cha:
quyền làm cho kẻ chết sống lại và quyền phán xét trong ngày sau hết (cc. 19-30).
Dù có quyền, lúc nào Ngài cũng là Con làm theo ý Cha, Đấng sai Ngài.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu như người bị đứng trước tòa, bị kết án tử.
Vì không được tự làm chứng cho chính mình,
nên Ngài phải tìm những lời chứng để biện hộ cho lời nói, việc làm của Ngài.
Trước hết là lời chứng của Gioan Tẩy giả (cc. 33-35).
Ông là ngọn đèn làm chứng về ánh sáng, về Đức Giêsu (Ga 1, 8-9).
Nhưng người ta đã không đón nhận lời chứng ấy.
Kế đến là những công việc Cha giao mà Ngài đã hoàn thành (c. 36).
Lẽ ra chúng phải là lời chứng thuyết phục cho thấy Ngài được Cha sai.
Cuối cùng là lời chứng của Chúa Cha (cc. 37-40).
Cha làm chứng bằng những lời của Cha trong Kinh Thánh (c. 39).
Nhưng họ không giữ lời Cha ở lại trong lòng,
nên chẳng tin, cũng chẳng muốn đến với Đấng được Cha sai (c. 38. 40).
Những lời chứng trên đây trở nên vô ích
đối với những ai không có lòng yêu mến Thiên Chúa (c. 42),
không tìm vinh quang Thiên Chúa mà chỉ tôn vinh lẫn nhau (c.44).
Đức Giêsu đã phải chấp nhận sự từ khước này
mà Ngài biết cuối cùng sẽ dẫn đến cái chết.
Làm sao ta có thể ra khỏi những thành kiến để đón lấy sự thật,
ra khỏi những tư lợi ích kỷ để dám tin vào tình yêu,
ra khỏi cái tôi chật hẹp để dám sống cho người khác.
Hãy tin vào Giêsu, Đấng được Cha sai (c. 38).
Hãy đến với Giêsu để được sống (40).
Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.
R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
14/03 Công Việc Của Cha
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Công Việc Của Cha.
Thứ tư tuần 4 Mùa Chay.
"Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tuỳ ý Người".
Lời Chúa: Ga 5, 17-30
Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy". Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng:
"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Công Việc Của Cha.
Một họa sĩ chuyên vẽ chân dung nọ di chuyển đến một thành phố nhỏ với hy vọng tìm được nhiều khách hàng. Vừa đến trước cửa thành, ông gặp ngay một người say rượu. Hai bên trao đổi với nhau và người say rượu đồng ý cho người họa sĩ vẽ chân dung của mình. Dù say túy lúy, gương mặt hốc hác, quần áo xốc xếch, người say rượu vẫn còn có thể ngồi yên để nhà họa sĩ làm việc. So với những khách hàng khác, thì đây là bức chân dung mà nhà họa sĩ phải tốn nhiều thời giờ nhất để vẽ. Đứng ngắm tác phẩm vừa được hoàn thành, người say rượu không thể cầm được sự ngạc nhiên: thay cho gương mặt chán đời của mình, anh thấy trong vức chân dung một nụ cười tươi tỉnh lạc quan; thay cho cách ăn mặc cẩu thả của mình, anh thấy mình được khoác lên một bộ quần áo lộng lẫy. Nhìn vào bức chân dung một lúc, anh lắc đầu và nói: “Người trong hình không phải là tôi”. Nhà nghệ sĩ trả lời một cách khéo léo vì đã biết nhìn xuyên qua bề ngoài để thấy vẻ đẹp nội tâm: “Thưa ông, đây là con người mà ông phải đạt đến”.
Mùa chay là mùa của thanh luyện, của hoán cải. Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về: trở về với Chúa, với anh em, với bản thân. Tựu trung tội lỗi là một chối bỏ Thiên Chúa, khước từ anh em, đánh mất bản thân. Qua những việc làm của Mùa chay, như cầu nguyện, sám hối, hãm mình, thực thi bác ái. Giáo Hội muốn chúng ta tìm lại được chính bản thân như Thiên Chúa mong muốn. Bản thân ấy chúng ta chỉ có thể nhận ra khi nhìn ngắm Chúa Giêsu.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của Chúa Giêsu, Đấng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa: “Ta đến không phải để làm theo ý Ta, nhưng là làm theo ý Đấng đã sai Ta”. Nên một với Thiên Chúa, thể hiện sự nên một ấy đến cùng, đó là con đường mà Chúa Giêsu đã chọn lựa và đi cho đến cùng. Thực thế, cái chết của Chúa Giêsu gắn liền với mầu nhiệm Ba Ngôi. Người Do Thái kết án Ngài không những vì Ngài không tuân giữ ngày hưu lễ, mà còn vì Ngài tự cho mình ngang hàng với Chúa Cha. Cái chết của Chúa Giêsu là một mạc khải về Chúa Cha. Cái chết của Chúa Giêsu nói lên tiếng xin vâng trọn vẹn với Chúa Cha. Qua cái chết ấy, quyền năng và tình yêu của Chúa Cha được tỏ bày.
Mùa chay thường gợi lại một thực hành có tính truyền thống trong Giáo Hội, đó là hãm dẹp thân xác, tức là tham dự vào cái chết của Chúa Giêsu từng ngày qua những hy sinh, quên mình, để cũng được chia phần vinh quang Phục Sinh của Ngài, nghĩa là mỗi ngày một biến đổi để trở thành con người mới cho đến khi đạt được tầm mức viên mãn của Ngài. Đó là bức chân dung mà mỗi Kitô hữu đều mang trong mình và mỗi ngày họ cố gắng họa lại bằng cả cuộc sống của họ. Cùng với Chúa Kitô, Đấng đã nên một với Chúa Cha trong tất cả mọi sự cho đến chết, xin cho từng giây phút cuộc sống chúng ta luôn là một thể hiện thánh ý của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Không ngừng yêu thương
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời cho những người biệt phái cách Ngài chữa lành cho người đang làm việc gần bên giếng nước rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy". Thiên Chúa Cha nhân từ luôn luôn trao ban điều tốt cho con người mà Ngài đã tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Giờ đây đến phiên mình xuống trần để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng muốn liên lỉ làm việc, làm điều tốt cho con người, bất luận đó là ngày Sabát hay không. Ngày Sabát là cho con người chứ không phải con người cho ngày Sabát.
Cũng trong dịp này Chúa Giêsu mạc khải cho những kẻ chống đối Ngài mối tương quan giữa Thiên Chúa Cha và Chúa Con, tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động nhân từ mà Chúa Con thực hiện cho con người, cho mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã mạc khải chân tính tình yêu đời đời đó và mời gọi con người hãy đáp trả, hãy cộng tác với chương trình yêu thương này để được sống đời đời: "Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta thì được sống đời đời, khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống".
Hãy nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa, ta sẽ thấy giá trị khác, kích thước khác: "Cha Ta làm việc liên lỉ và Ta cũng làm việc như vậy". Chúa Giêsu đã không bao giờ ngừng yêu thương con người, cả khi con người chống đối Ngài.
Lạy Chúa, xin cho con luôn hướng mắt nhìn lên Chúa, đặt đời con vào trong viễn tượng cuộc sống đời đời để con được luôn can đảm, kiên trì chu toàn thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Lời Hằng Sống
Thật, tôi bảo thật các ông:
Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi,
Thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử,
Nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống
Thật, tôi bảo thật các ông:
Giờ đã đến- và chính là lúc này đây-
Giờ các kẻ chết nghe tiến Con Thiên Chúa
Ai nghe thì sẽ được sống. (Ga. 5, 24-25)
Người Do thái không tha thứ cho Đức Giêsu về sự vi phạm ngày Sa-bát khi Người chữa kẻ tê liệt. Người còn nói cho họ nghe Người làm như Cha Người hằng làm việc. Nên Người cũng không nghỉ làm việc dù là ngày Sa-bát.
Lời quả quyết đó càng làm họ tức giận hơn. Làm sao Đức Giêsu dám tự cho mình là Thiên Chúa nếu như Thiên Chúa không phải là Cha mình. Họ càng không ngớt nổi giận vì Đức Kitô nói thêm rằng: “Cha Tôi và Tôi cũng nhất tâm làm tất cả, và ai không tôn vinh Con thì không tôn vinh Cha”. Người còn chủ trương rằng lời Người có sức mạnh ban sự sống đời đời cho những ai nghe theo, như thế là tột bậc rồi.
Thật là một chủ trương đầy phấn khởi và hào hùng! Tuy nhiên, lời Đức Giêsu không chỉ là lời Thiên Chúa, mà còn là lời nhập thể hoàn toàn. Lời Người nói với chúng ta như anh em, như bạn tri kỷ, như sư phụ hoàn toàn biết rõ thân phận con người xác thịt của chúng ta. Người còn phối hiệp toàn diện với xác thân này ngay từ khi xuống thế. Do đó lời Người nắm bắt được mọi tâm tư nguyện vọng của chúng ta và thấy được tiếng lòng rung động kỳ diệu của con tim, khối óc của những ai nghe lời Người. Người cũng biết rõ những hoàn cảnh của mọi người nam nữ chúng ta trở lại với cái gì.
Lời hằng sống đã được công bố trong bài giảng trên núi chứa đựng toàn bộ kế hoạch của Phúc âm về sự gắn bó của chúng ta vào Đức Kitô và được làm thành bản hiến chương nước Thiên Chúa. Lời hằng sống đầy thương xót tha thứ làm sáng lên niềm hy vọng và tình yêu cho mọi người và được thốt ra từ miệng lưỡi của Đức Giêsu trước người đàn bà ngoại tình làm cho Ma-đa-lê-na thống hối, phụ nữ Sa-ma-ri bị chinh phục, ông Gia-kêu thấp bé hoán cải và người trộm lành ăn năn trở về. Cũng như Phê-rô khóc lóc vì chối Thầy. Lời hằng sống chứa đựng trong những dụ ngôn đầy hình ảnh tiêu biểu giáo huấn soi sáng, dẫn dắt chúng ta đến với Thiên Chúa.
Lời hằng sống loan báo những đau khổ để chuẩn bị các môn đệ và mọi người biết can đảm mạnh mẽ theo Đức Kitô qua mọi thời đại, sẵn sàng chịu vác thập giá khổ nạn như là nguồn hy vọng được sống lại vinh quang. Lời hằng sống nhất là đã trở thành lời hứa hấp dẫn của tế lễ Thánh Thể đưa lại sự hiện diện và tình yêu của Đức Kitô tồn tại mãi mãi.
G.F
SUY NIỆM 4: “TIN VÀ GIỮ LỜI TA THÌ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI” (Ga5,17-30)
Tin Mừng hôm qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu chữa người bệnh bại liệt ba mươi tám năm. Sau khi chữa anh được khỏi, Đức Giêsu truyền cho anh vác chõng mà về. Điều đáng chú ý là khi trên đường về, những người không ưa Đức Giêsu đã chặn anh lại và hỏi nguyên cớ làm sao mà anh được khỏi bệnh, ai là người đã chữa anh?
Hỏi như thế, không phải để chia vui với anh, cũng không phải cùng anh tạ ơn Chúa! Nhưng hỏi như vậy là để tìm cho rõ xem ai dám cả gan chữa bệnh ngày Sabát?
Tin Mừng hôm nay cho thấy giữa Đức Giêsu và người Dothái trở nên gây cấn hơn khi Ngài tuyên bố: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Nói như thế, Ngài minh định rằng: Thiên Chúa không nghỉ ngày Sabát thì Ngài không có lý do gì nghỉ và không làm việc thiện trong ngày này cả! Nhưng điều quan trọng hơn là Ngài mặc khải cho biết: Ngài đến để thực thi thánh ý của Cha Ngài. Cuối cùng, điều làm cho người Dothái chói tai, khiếm họ không chịu nổi, khi nghe Đức Giêsu nói: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết hướng tới sự sống đời đời. Khi hướng về sự sống đời đời, mọi việc chúng ta làm hay nói đều được tình yêu chi phối chứ không chỉ vì luật mà làm cho chúng ta xa rời tình yêu!
Xin Chúa ban cho chúng ta biết khiêm tốn để tin tưởng vào Đức Giêsu, yêu mến và trung thành với Ngài. Hãy biết ăn năn sám hối để được tha thứ và đáng hưởng sự sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Không thể làm gì tự mình
Suy niệm :
Văn Cao chẳng những là một nhạc sĩ tài hoa,
mà còn là một họa sĩ, một văn sĩ, một thi sĩ.
Có một bài thơ rất ngắn ông làm năm 1967, mang tựa đề là Không Đề.
Con thuyền đi qua
để lại sóng
đoàn tàu đi qua
để lại tiếng
đoàn người đi qua
để lại bóng
tôi không đi qua tôi
để lại gì?
Theo Văn Cao, chỉ ai đi qua mình, dám vượt qua cái tôi của mình,
người ấy mới có gì để lại cho hậu thế.
Đức Giêsu đã sống mầu nhiệm vượt qua suốt đời.
Ngài không sống cho mình, nhưng cho Thiên Chúa Cha.
Giới lãnh đạo Do Thái giáo coi Đức Giêsu là kẻ phạm thượng
vì Ngài đã dám nói: “Cha tôi vẫn làm việc, và tôi cũng làm việc” (c. 17).
Thật ra Đức Giêsu chẳng bao giờ phạm thượng đến Cha.
Ngài không hề tự coi mình là Thiên Chúa (c. 18).
Đơn giản Ngài là Con, vâng phục Cha.
Đơn giản Ngài là người được Cha sai, chẳng hề làm theo ý riêng.
Sống tùy thuộc trọn vẹn vào Thiên Chúa Cha,
đó là nét nổi bật nơi con người của Đức Giêsu.
Con không thể làm hay nói bất cứ điều gì tự mình.
Con chỉ làm điều mình thấy Cha làm (c. 19).
Con chỉ nói điều mình nghe Cha nói (Ga 8, 26).
Người ta tưởng Con bị vong thân,
nhưng chính khi lệ thuộc vào Cha mà Con được tự do trọn vẹn.
Con thật là mình khi sống đúng bản chất của Con là quy hướng về Cha.
Mà bản chất của Cha là trao cho Con tất cả những gì Cha có.
Cha chẳng giữ cho riêng mình những gì có thể trao được.
Đơn giản vì Cha yêu Con (c. 20).
Cha cho Con được quyền tùy ý ban sự sống như Cha (c. 21).
Cha cho Con được như Cha, nghĩa là có sự sống nơi chính mình (c. 26).
Cha cho Con có toàn quyền xét xử (cc. 22. 27),
và có quyền gọi kẻ chết ra khỏi mồ để chịu phán xét (c. 28).
Cha muốn mọi người phải tôn kính Con như tôn kính Cha (c. 23).
Con được quyền năng như Cha là vì Con đã nhận tất cả từ Cha.
Tuy được chia sẻ mọi giàu sang của Cha,
nhưng Con chẳng quên Cha là nguồn cội, là cùng đích.
Mùa Chay, ta hãy đến với Giêsu, người Con yêu dấu, người được Cha sai.
Hãy sống lệ thuộc vào Thiên Chúa để được tự do hoàn toàn như Giêsu.
Tôi không đi qua tôi, để lại gì?
Ta sẽ để lại được nhiều điều cho đời, nhờ biết vượt qua mình như Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự :
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
13/03 Chữa Người Bất Toại 38 năm
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chữa Người Bất Toại 38 năm.
Thứ ba tuần 4 Mùa Chay.
"Tức khắc người ấy được lành bệnh".
Lời Chúa: Ga 5, 1-3a. 5-16
Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm.
Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?" Người đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi". Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về". Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng". Anh ta trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi: "Ai là người đã bảo anh "Vác chõng mà đi?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chữa Người Bất Toại
Cuốn phim Mỹ với tựa đề: “Cái chết của một thiên thần” mang một ý nghĩa sâu sắc. Tại một vùng quê hẻo lánh bên Nam Mỹ, nơi mà lòng đạo đức bình dân thường pha trộn những mê tín dị đoan, một thanh niên nọ đã ngụy tạo ra một phép lạ thu hút được rất nhiều người. Anh lén rạch da lấy máu mình và cho vào tượng Thánh giá mà chỉ anh mới biết cách tháo ráp. Mỗi lần anh ôm Thánh giá vào lòng thì máu từ mão gai của tượng chảy ra. Dân chúng từ khắp nơi, nhất là những kẻ tàn tật, mù lòa đổ vào để chứng kiến phép lạ. Đoàn người làm thành một đám rước Thánh giá lên trên một ngọn đồi, tại đó người thanh niên quỳ cầu nguyện bên cạnh Thánh giá và máu lại chảy ra từ mão gai trên đầu Chúa.
Trong khi phép lạ ngụy tạo này diễn ra mỗi ngày, thì một đám người bất lương muốn lợi dụng cơ hội để làm tiền. Họ biết chắc đây chỉ là một sự lừa bịp, nhưng họ chưa khám phá được bí quyết của người thanh niên. Sau một thời gian theo dõi, họ đã bắt giữ người thanh niên và tra khảo anh khai ra bí mật ấy. Không chịu nổi cuộc tra tấn, người thanh niên đành thú nhận sự thật và đó cũng là lúc khởi đầu của những hình ảnh đẹp nhất trong cuộc đời anh. Trước đám đông đang chuẩn bị cuộc rước, người thanh niên tháo gỡ tượng Chúa Giêsu khỏi Thánh giá và cho mọi người thấy sự lường gạt của anh từ bao năm qua. Với tất cả thành tâm thống hối, anh vác Thánh giá tiến lên đồi. Đám người bất lương bắn xối xả vào người anh, anh ngã gục, nhưng đoàn người lại tiếp tục vác Thánh giá lên đồi, nhiều người tàn tật, mù lòa bỗng cảm thấy được chữa lành.
Câu chuyện trên đây có thể giúp chúng ta nhận ra phần nào sứ điệp mà Mẹ Giáo Hội muốn gửi đến chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay. Đám đông trong câu chuyện trên chờ đợi những dấu lạ từ pho tượng của Chúa Giêsu, nhưng dấu lạ lại chỉ xảy đến chính lúc họ biết khước từ những hiện tượng bên ngoài ấy để nhận ra khuôn mặt đích thực của Chúa Giêsu trên Thánh giá và thông hiệp vào chính cuộc khổ nạn của Ngài.
Phép lạ xảy ra cho người bất toại trong Tin Mừng hôm nay có thể là hình ảnh của lòng tin cần được thanh luyện. Từ 38 năm qua, con người tàn tật này chờ một phép lạ, nhưng một phép lạ gắn liền với một hiện tượng bên ngoài là nước hồ lay động đã không bao giờ xảy đến. Chỉ khi người tàn tật này gặp gỡ Chúa Giêsu, xưng thú nỗi bất lực của mình, và tin tưởng ở lời Ngài, thì lúc đó phép lạ mới thực sự được thực hiện.
Ngày nay, để cảm nhận được phép lạ của Thiên Chúa, chúng ta cũng cần vượt qua não trạng chỉ chờ đợi những hiện tượng khác lạ trong thiên nhiên. Người ta thích đổ xô tới nơi có hiện tượng lạ thường. Dĩ nhiên, trong một số trường hợp. Thiên Chúa đã thực hiện điều đó. Thế nhưng điều quan trọng cho đức tin chúng ta không phải là những hiện tượng khác thường ấy, mà là chính sự gặp gỡ thân tình với Chúa Giêsu. Gặp gỡ Ngài, tin ở lời Ngài, kết hiệp với Ngài nhất là trong mầu nhiệm khổ nạn, con người mới cảm nhận được tác động của Ngài.
Mùa chay là mùa của thanh luyện. Giáo Hội mời gọi tín hữu kết hiệp với Đức Kitô Tử nạn bằng cách sống tâm tình tin tưởng phó thác của Ngài, nhờ đó niềm tin của họ được thanh luyện và họ sẽ cảm nhận được tình yêu của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Ðừng phạm tội nữa
Việc Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát là một trong những nguyên nhân khiến cho người Do Thái tức tối. Họ chống đối Chúa ra mặt. Thậm chí còn muốn trừ khử Ngài cho rảnh mắt.
Trong bài Tin Mừng trên đây, chúng ta thấy có ba tuyến nhân vật: một là Chúa Giêsu, hai là người mắc bệnh nan y, và ba là những người Do Thái.
Hôm nay chúng ta đặc biệt lưu ý đến thái độ của người Do Thái và thái độ của Chúa Giêsu. Nhìn vào thái độ của người Do Thái, chúng ta hãy xét mình xem chúng ta có quá cứng nhắc trong các nguyên tắc, các luật lệ, đến độ vô cảm trước những nhu cầu bức thiết của anh chị em chung quanh hay không, chúng ta có lên án những người vì phục vụ lợi ích của anh chị em đồng loại mà làm những việc có vẻ như bất chấp luật lệ hay không. Phản ứng nông cạn của những người Do Thái trong bài đọc trên đây là một lời nhắc nhở để chúng ta nhớ lại cung cách sống của mình trong các tương quan với kẻ khác. Chúng ta đừng để mình rơi vào trường hợp đáng buồn như những người Do Thái.
Nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta cũng có thể xét mình theo thái độ của mình đối với anh chị em. Chung quanh chúng ta không bao giờ thiếu những người bất hạnh. Họ đau khổ trước nỗi bất hạnh của mình và chờ mong một ai đó chia sẻ nỗi khổ với họ. Con tim chúng ta có đủ can đảm để nhận ra tình cảnh khốn khổ của anh chị em mình hay không? Lời và việc làm của chúng ta có mang theo đủ tình thương để xoa dịu nỗi đau khổ của họ hay không? Chúng ta có đủ can đảm và quảng đại vượt qua những trở ngại bên ngoài để giúp đỡ người ấy ra khỏi tình cảnh khốn khó của họ hay không? Hình ảnh Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta can đảm dấn thân chia sẻ nỗi đau khổ với anh chị em chung quanh.
Lạy Chúa, xin cho con học được những bài học thiết thực khi suy niệm bài Tin Mừng của ngày hôm nay. Xin cho con biết kiên trì hy vọng lúc gặp đau khổ, biết lưu tâm chia sẻ những nỗi đau khổ của những người khác và biết uyển chuyển linh động khi đáp ứng những nhu cầu bức thiết của anh chị em chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Người hay chữa bệnh ngày sa-bát
Đức Giêsu bảo: “Anh hãy chỗi dậy, vác chõng và bước đi!” Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và bước đi.
Hôm đó lại là ngày sa-bát. Người Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: “Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được phép vác chõng!” (Ga. 5, 8-10)
Một lần nữa chứng tỏ một điều chắc chắn này: Xưa kia luật lệ con người rất khó thay đổi, và hầu như không cải tiến được, vì nó ăn sâu vào bản tính nhân loại. Ngay cả ngày nay cũng vậy, người ta gắn bó với nhiều luật lệ từng chi tiết và trở thành một thứ hình thức cực đoan, đến nỗi bị tiêu diệt vì luật lệ. Chúng ta có dám phản đối lối giữ luật nô lệ đó không? Chừng nào chúng ta mới được soi sáng, chừng nào chúng ta mới sống theo tinh thần của luật và không theo lối từ chương lệ cổ, ước chi lòng thành tâm làm cho chúng ta phải sống thế nào cho cân xứng. Sự gắn bó với những điều phụ thuộc làm cho chúng ta mù quáng về những điều cốt yếu. Những người Do thái giữ ngày Sa-bát thời Đức Kitô cũng vậy.
Đây trong một ngày Sa-bát, họ thấy người vác chõng. Mọi người đều biết anh là kẻ bị tê liệt lâu năm nằm ở hành lang hồ Bết-đa-tha. Người ta không biết ngạc nhiên, trong chốc lát, anh đã đi được. Sự lạ lùng nào đã xảy ra cho anh, sao anh đã được khỏi? Nhưng người ta chỉ chú ý đến việc anh vác chõng xúc phạm đến luật nghỉ lễ ngày Sa-bát: một gương mù quá tệ, bất trung chừng nào, ai dám xúc phạm lề luật? Chính ông Giêsu đó, loại người Na-gia-rét chẳng có gì tốt cả, nhưng dám làm nổ tung luật lệ, dám cho mình là Con Thiên Chúa, cho mình bằng Thiên Chúa, còn gọi Thiên Chúa là Cha riêng của mình.
Người Do thái không quan tâm tìm hiểu chân lý đó, mặc kệ chân lý! Họ chỉ biết có luật và mù quáng trung thành giữ luật thôi.
Kêu gọi chúng ta đừng bỏ ngày Chúa nhật để đi tìm thú vui bỉ ổi, chúng ta phải thấy rõ sự cần thiết làm vinh danh Chúa. Còn một cách giữ ngày Sa-bát nữa là yêu thương người lân cận, tuy luật không nói tới, nhưng tình yêu tha nhân là bằng chứng lòng yêu mến Thiên Chúa, đức thờ phượng và lời cầu nguyện của chúng ta.
Đoạn Tin mừng này kêu gọi chúng ta về trách nhiệm đối với anh em mình, họ đang cần chúng ta. Thường người ta tự hỏi sao ngày Chúa nhật không được sống thoải mái! Nhưng ta lại không tự hỏi: Tại sao không dùng ngày Chúa nhật để thực hiện tình bác ái, giúp đỡ bệnh nhân và kẻ nghèo khó, đi dâng lễ. Đó là những cách nhỏ bé chúng ta có thể để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày của Ngài.
J.M
SUY NIỆM 4: “ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA” (Ga 5, 114)
Nếu nói đạo là con đường, thì đạo Công Giáo là con đường dẫn đến sự thật. Sự thật đó là tình yêu. Vắng tình yêu, đạo Công Giáo không còn là con đường và đương nhiên không phải là đạo đúng nghĩa!
Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã đề cao tinh thần sống đạo hơn là việc giữ đạo. Việc bề ngoài chỉ có ý nghĩa khi nó được tình yêu từ bên trong tâm hồn thúc bách. Bằng không, nó chỉ là một sự phù phiếm, mê tín mà thôi.
Hôm nay, Đức Giêsu đã vì tình yêu, mà Ngài vượt lên trên lề luật để cứu chữa một người ốm đã ba mươi tám năm.
Tuy nhiên, chính trong hành động yêu thương này mà Đức Giêsu bị những người Dothái không ưa chống đối. Họ cho rằng Đức Giêsu đã không tuân giữ lề luật và thường xuyên vi phạm ngày Sabát.
Đối với Đức Giêsu, luật vì con người chứ không phải con người vì luật. Hơn nữa, khi Đức Giêsu chữa anh này khỏi bệnh thì đồng thời Ngài cũng chữa anh khỏi những hệ lụy của nó mà người ta thường gán cho là tội. Không dừng lại ở đó, Ngài còn nhắc cho anh biết là hãy vác chõng mà về và đừng phạm tội nữa.
Vác chõng là việc anh phải làm để chu toàn bổn phận của chính mình. Đừng phạm tội là lời nhắc cho anh về việc từ nay anh đã được giải thoát khỏi tội và anh đã được thuộc về Chúa. Ngài đã tẩy rửa tâm hồn và thân xác anh sạch thì anh phải lo giữ nó, kẻo trở thành khốn khổ khi bệnh tình tái phát. Tội ở đây có ý muốn nói đến ảnh hưởng của sự dữ, thuộc về Ma Quỷ.
Mùa Chay là cơ hội để chúng ta quay trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ, đồng thời cũng là dịp thuận tiện để ta hối cải, từ bỏ con đường cũ để làm lại cuộc đời.
Chúa không chấp nhận chúng ta ù lỳ trong tội, nhưng Ngài mời gọi chúng ta: “Hãy đứng dậy vác chõng mà ra đi”, đó là dứt khoát với con đường tội lỗi của mình, nếu không, chúng ta có thể sẽ khốn khổ hơn khi phạm tội.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm để sống điều mình quyết tâm trong Mùa Chay thánh này. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Muốn trở nên lành mạnh
Suy niệm :
Các Tin Mừng Nhất lãm chẳng khi nào nói đến chuyện
Đức Giêsu chữa bệnh cho ai ở vùng Giêrusalem.
Riêng Tin Mừng Gioan nói đến chuyện Ngài chữa bệnh cho một anh bất toại
tại một cái hồ, gần Cửa Chiên dẫn vào khuôn viên Đền thờ Giêrusalem.
Hồ Bếtdatha này khá lớn, có hình chữ nhật, được ngăn làm hai phần.
Chính vì thế có đến năm hành lang, nơi đây người bệnh nằm la liệt.
Họ mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền khác nhau,
nhưng ai đến đây cũng nuôi hy vọng khỏi bệnh.
Giữa bao người ốm đau tàn tật đó, dường như Đức Giêsu chỉ thấy một mình anh.
Ngài biết anh mắc bệnh đã lâu, nằm trên chõng một thời gian dài.
Ba mươi tám năm, thời gian bằng một nửa đời người.
Chính Đức Giêsu là người đến với anh và mở lời bằng một câu hỏi:
“Anh có muốn trở nên lành mạnh không ?” (c. 6).
Câu hỏi có vẻ thừa này thật ra lại chạm đến nỗi khát khao sâu thẳm của anh.
Nó đụng đến chờ đợi mòn mỏi của anh từ nhiều năm qua.
Anh bất toại không trả lời câu hỏi của Đức Giêsu, người với anh vẫn còn xa lạ.
Nhưng anh lại muốn trải lòng cho người lạ này thấy cái ngõ cụt của mình,
những lý do khiến mình phải nằm ở đây lâu đến vậy.
“Tôi không có người đem tôi xuống hồ, khi nước động”: đó là lý do thứ nhất.
Tôi không có được sự trợ giúp từ phía bạn bè thân thuộc.
Tôi cô đơn, trơ trọi một mình.
Giá mà tôi có ai đó giúp tôi lúc cơ may đến…
“Lúc tôi tới đó, thì người khác đã xuống trước tôi rồi” : đó là lý do thứ hai.
Khi phải lê đi bằng chính sức của mình, thì tôi bao giờ cũng là người đến sau.
Tôi đã cố gắng nhiều lần, nhưng luôn phải cam chịu thất bại.
Bây giờ tôi còn dám tin vào mình nữa không ?
Anh bất toại mong có một người bạn đem anh xuống nước đầu tiên.
Anh mơ thấy ngày trồi lên từ hồ nước, ướt sũng, nhưng đi lại bình thường.
Anh chẳng tin rằng ngày ấy là hôm nay.
Người bạn anh mong đang ở gần, kéo anh ra khỏi nỗi cô đơn.
Anh sẽ được khỏi bệnh mà người vẫn khô ráo.
“Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi !”: đây là lời mời hay mệnh lệnh ?
Bất ngờ, nhanh chóng và dễ dàng, anh đã đứng lên và đi được.
Cái chõng đã vác anh, bây giờ anh vác nó.
Hãy nhìn những bước đi đầu tiên của người ba mươi tám năm bất toại.
Anh đã trở nên lành mạnh, dù anh không xin hay bày tỏ lòng tin nào (cc. 6, 9,14).
Giêsu đến với anh như một người bạn làm anh trở nên lành mạnh (cc. 11,15).
Vì chữa bệnh cho anh này vào ngày sabát, Ngài đã bắt đầu bị chống đối (c.16).
Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi tôi: Con có muốn trở nên lành mạnh không?
Con có muốn ra khỏi sự bất toại kinh niên của mình không ?
Ngài mời tôi đứng lên và mạnh dạn bước đi, bỏ lại quá khứ tội lỗi.
Sau khi được chữa lành, ngài dặn tôi đừng phạm tội nữa (c. 14).
Cầu nguyện :
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
12/03 Chữa lành con trai một sĩ quan cận vệ
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chữa lành con trai một sĩ quan cận vệ.
Thứ hai tuần 4 Mùa Chay.
"Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi".
Lời Chúa: Ga 4, 43-54
Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình". Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.
Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ðược tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin". Viên quan chức trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi". Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.
Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt". Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin. Ðó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chữa con một quan chức
Một thiếu nữ có giọng hát thiên phú, cô luyện giọng với một giáo sư âm nhạc tài ba, cô đã hát được những giai điệu tuyệt hảo. Thế nhưng khi trình diễn, cô vẫn thấy giọng hát của cô chưa được truyền cảm. Vị giáo sư âm nhạc giải thích cho cô: “Tôi đã dạy cô tất cả những gì tôi biết, nhưng cô còn thiếu một điều mà tôi không thể cung cấp cho cô được, điều đó đến từ cuộc sống: chỉ có kinh nghiệm của cuộc sống, chỉ có những điều làm tan vỡ cõi lòng mới làm cô hát với tất cả cảm xúc”.
Bước vào tuần 4 mùa chay, Giáo Hội mỗi lúc một tha thiết mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu để được xứng đáng chung phần vinh quang Phục Sinh của Ngài. Cuộc sống với những khổ đau mà chúng ta đang trải qua quả là một cuộc tử nạn dai dẳng. Là người kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống ấy. Sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không có nghĩa là tự đày đọa mình vào cuộc sống khổ lụy. Đau khổ tự nó không phải là một giá trị để tìm kiếm. Sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là mặc lấy tinh thần tin yêu phó thác của Ngài. Thất vọng, buông xuôi, nổi loạn, trách móc là cơn cám dỗ chung của mọi người. Chúa Giêsu có lẽ cũng không thoát khỏi những giờ phút thử thách ấy. Thế nhưng ý hướng duy nhất của Ngài lúc đó là niềm tín thác và tha thứ. Chỉ có thái độ như thế mới đem lại giá trị cho đau khổ và biến cuộc tử nạn của Ngài thành của lễ đẹp lòng Thiên Chúa.
Đó cũng chính là tâm tình mà Giáo Hội mời gọi chúng ta mặc lấy khi cho chúng ta nghe và suy niệm về lòng tin của viên bách quản Caphanaum. Dù chỉ là một người ngoại giáo, dù chưa một lần chứng kiến phép lạ nào của Chúa Giêsu, nhưng ông đã tìm đến để xin Ngài chữa lành cho đứa con của ông, hay đúng hơn là để xoa dịu nỗi đau khổ của người cha phải chứng kiến con mình quằn quại trong đau khổ.
Đau khổ là lửa thử niềm tin con người, đau khổ có thể đưa con người đến thất vọng, chối bỏ, và lộng ngôn, nhưng đau khổ cũng có thể là khởi điểm của tin yêu phó thác. Nguyện xin Đấng là đường, là sự thật và là sự sống củng cố niềm tin chúng ta giữa những đau khổ đè nặng trên thân xác và tâm hồn chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Ðức tin đưa tới phép lạ
Chúa Giêsu chữa lành con trai người quan chức tại Caphacnaum khi Ngài ở Giuđa về Galilê và thánh sử Gioan ghi rõ đây là phép lạ thứ hai Ngài thực hiện tại Cana. Phép lạ thứ nhất là hóa nước thành rượu vào giai đoạn đầu đời rao giảng công khai. Hóa nước thành rượu theo lời đề nghị của Ðức Maria, mẹ Ngài, để cứu vãn danh dự cho gia chủ tiệc cưới. Chữa lành người con một quan chức nhà vua, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đến vì mọi người và ở mọi tầng lớp xã hội. Ngài đã ra tay để mang lại hạnh phúc cho mọi người không cần biết họ là ai và điều kiện đón nhận phép lạ là đức tin. Ðức tin của con người cộng với ơn của Thiên Chúa tạo nên phép lạ.
Mỗi ngày sống hôm nay của chúng ta là sự lạ lùng Thiên Chúa thực hiện. Không nhận ra được sự lạ lùng ấy là vì chúng ta không có đức tin. Không có thì không phải Thiên Chúa không ban ơn đức tin cho chúng ta đâu mà là do chúng ta không muốn lãnh nhận ơn ấy vì sợ sệt, sợ phải sống theo Tin Mừng, sợ nên thánh, sợ phải sống tốt hơn. Chẳng hạn như sự kiện cha sở đề nghị chia sẻ Lời Chúa thì rút lui, tránh né. Nhưng quả thật là họ dự lễ chứ chưa dâng lễ. Ðã từ lâu họ quen cảnh linh mục chủ tế, công bố Tin Mừng và giảng trong khi họ mơ mơ màng màng với giấc ngủ chưa dứt, những suy nghĩ viễn vông. Nay phải tiếp cận Lời Chúa và để cho Lời Chúa soi dọi trong mọi ngõ ngách trong lòng họ, nhắc họ ra khỏi tình trạng ươn lười và khoán việc cho người khác thì họ thấy sợ. Không lạ lùng gì họ không thể và không bao giờ có thể chứng kiến được những kỳ diệu Thiên Chúa làm trong đời sống họ mỗi ngày.
Lời loan báo Tin Mừng cũng trở nên vô nghĩa ngay trong nhà thờ đông nghẹt người đến dự lễ chứ không dâng lễ. "Ông hãy về đi, con ông sống rồi", viên quan chức tin không đòi hỏi gì hơn. Vào trường hợp chúng ta, có lẽ chúng ta chần chờ để xin thêm một vài dấu chỉ nào đó chứng minh lời Chúa thật sự có kết quả. Ông về nghe tin con đã khỏe, ông hỏi giờ và nhận ra giờ đó Chúa đã chữa lành cho con ông. Có lẽ gia nhân không biết gì. Chuá vẫn thế, Ngài có những thực hiện kỳ diệu một cách rất bình thường, một câu nói đơn giản, quyền lực vượt không gian và thời gian để mang lại kết quả mong muốn miễn là chúng ta tin.
Lạy Chúa, chúng con có đạo nhưng hổ thẹn: Có người chỉ một lần nghe, gặp Chúa và tin ngay. Họ thấy được tình yêu thương họ, nhận ra được những hành động vì tình yêu thương Chúa. Còn chúng con tuần nào cũng gặp gỡ Chúa, mà chúng con đến với Chúa như cái xác không hồn của chúng con. Nguyện xin Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống củng cố niềm tin chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Giờ của Đức Giêsu
Đức Giêsu bảo: “Ông cứ về đi, con ông sống.” Ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình, và ra về. Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con ông sống rồi. Ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: “Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt.” (Ga. 4, 50-52)
Một quan chức nhà vua có đứa con đau nặng, ông nghe tin Đức Giêsu đang ở trong miền gần đó. Ông tự nhủ: “Đây là lúc Người có thể chữa con mình”. Ông chỉ nghe theo niềm cậy trông của ông và ông tìm đến Người. Ông gặp Người, và khẩn khoản nài xin Người. Đức Giêsu kêu trách ông như mọi người chỉ muốn xin điềm lạ và những điều phi thường. Nhưng sự hất hủi đó không làm ông tủi hờn chút nào. Ông càng khẩn xin như không nghe thấy gì: “Lạy Ngài, xin xuống trước khi con tôi chết”. Đức Kitô cảm động và nói với ông: “Được rồi, ông cứ về đi, con ông sống đấy”.
Mừng như điên, lập tức ông tin lời Đức Giêsu, ông về như bay, và giữa đường ông gặp đầy tớ báo tin con ông đã khỏi. Ông hỏi: “Nó khỏi giờ nào?”. Họ đáp: “Lúc bảy giờ hôm qua”. Ông tự nhủ: “Đúng vào giờ Đức Giêsu nói với mình”. Đó là cú đánh ân huệ. Giờ ban ơn cứu chữa ông và cả gia đình ông. Giờ của Đức Giêsu. Giờ ban ơn trở lại. Giờ cứu độ.
Đối với người được đức tin, chính là giờ của Đức Giêsu. Người đến để cải tạo và làm cho họ trở thành dụng cụ bác ái đối với người lân cận. Biết đón nhận thánh ý Thiên Chúa và những đường lối quan phòng của Ngài trong mọi thứ thử thách như trong bệnh tật, đau khổ về gia đình như xé nát tâm can, trong xao xuyến lo âu về tương lai yêu quý, trong bấp bênh về đời sống kinh tế, đó là sống cái giờ của Đức Giêsu, và như Đức Giêsu đã chấp nhận với bao nỗi sầu khổ của thân phận làm người và chỉ mình Người mới có thể làm cho chúng ta cảm nghiệm sâu xa được mầu nhiệm khổ nạn khi vâng theo thánh ý Thiên Chúa như Người đã cảm nghiệm được suốt cuộc đời Người và nhất là lúc bị đóng đinh trên thập giá.
Giờ của Đức Giêsu, cũng chính là những cơ hội cho chúng ta được dịp an ủi, nâng đỡ, khuyến khích, soi sáng và đem bình an cho người khác. Vì mỗi lần chúng ta cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ đói rách ăn mặc, thăm hỏi kẻ tù đầy, an ủi kẻ tuyệt vọng, thì đó là chúng ta đã làm cho chính Chúa, Người đã nói trong Tin mừng như vậy.
G.F
SUY NIỆM 3: TIN ĐẾN CÙNG (Ga 4,43 – 54)
Trong toàn bộ Tin Mừng, chúng ta thấy những người có địa vị cao trong xã hội và tôn giáo đa số đều mắc phải thói tự kiêu, vì tự cho mình là người biết hết mọi chuyện, nên thường coi khinh anh em đồng loại! Nếu không bị chứng bệnh tự phụ trên thì cũng rơi vào tình trạng nghi ngờ về những chuyện phi thường...
Tuy nhiên, hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật một viên sĩ quan cao cấp của triều đình đã lặn lội cả mấy chục kilômét để đến gặp Đức Giêsu và xin Ngài chữa cho con ông được lành bệnh. Ông là một phó vương nơi cung triều, còn Đức Giêsu thì chỉ là người bình dân. Một hình ảnh trái ngược với giới lãnh đạo và thượng lưu thời bấy giờ!
Qua hành động của viên sĩ quan, chúng ta thấy được hai điều:
Trước hết, thái độ của ông quan này là khiêm tốn. Ông đã không để ý đến địa vị chức quyền, không nghĩ đến giai tầng trong xã hội, nhưng chỉ một lòng tin tưởng và phó thác nơi Đức Giêsu và sống trong niềm hy vọng được nhận lời.
Thứ hai, vị quan này rất kiên trì. Ông không thối trí nhụt lòng khi nghe thấy câu trách móc nặng nề của Đức Giêsu: "Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu!". Nếu vị quan này mà kiêu ngạo, cố chấp hay tự trọng thái quá, có lẽ đã bỏ mà đi, đằng này, ông lại càng khẩn thiết hơn: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất!". Câu nói này thể hiện sự thành khẩn và niềm tin chân thành của viên sĩ quan.
Thế nên, từ xa, Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa cho con ông khi tuyên bố: “Con ông sống”. Thấy mọi sự diễn ra đúng thời gian mà Đức Giêsu tuyên bố con ông không chết, viên sĩ quan và cả gia đình ông đã tin vào Đức Giêsu.
Như vậy, câu chuyện Tin Mừng hôm nay nhắm vào niềm tin của viên sĩ quan.
Lúc đầu là một niềm tin và hy vọng về nhu cầu của mình. Dần dần biến thành tình yêu và kính phục khi nhu cầu được giải quyết cách nhiệm mầu. Cuối cùng, tình yêu đã hoàn toàn làm chủ và quy phục trong đức tin.
Đây cũng mẫu gương và là tiến trình trong đời sống của mỗi Kitô hữu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy vượt qua những tự hào thái quá để khiêm tốn như viên sĩ quan. Cần có một thái độ tin tưởng tuyệt đối nhưng chân thành và niềm hy vọng đầy tin yêu nơi Thiên Chúa như viên sĩ quan.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ có đức tin trong lòng mến mới có thể giúp cho chúng con đến gần Chúa và tin tưởng vào Ngài mà thôi. Vì thế, xin Chúa ban cho chúng con có được đức tin chân thành để được hưởng ơn cứu độ của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 4: Con ông sống
Suy niệm:
Trong các sách Tin Mừng, chúng ta thường gặp nỗi sợ hãi, lo lắng
của những bậc cha mẹ trước căn bệnh hiểm nghèo của con mình.
Ông trưởng hội đường Giairô khẩn khoản nài xin Đức Giêsu
“Con bé nhà tôi gần chết. Xin Thầy đến và đặt tay trên nó” (Mc 5, 23).
Bà dân ngoại gốc Canaan kêu lên: “Xin thương xót tôi,
vì con gái của tôi bị quỷ ám trầm trọng lắm” (Mt 15, 22).
Người cha có đứa con bị động kinh cũng nài van Đức Giêsu:
“Xin Thầy chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi” (Mc 9, 22).
Trong bài Tin Mừng hôm nay viên sĩ quan, có lẽ của vua Hêrôđê, cũng năn nỉ:
“Xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất !” (c. 49).
Bệnh tật và cái chết đang đe dọa đứa con khiến cha mẹ khổ đau và bối rối.
Họ không muốn mất đứa con đã trở nên một phần của đời họ.
Họ vội vã đến với Đức Giêsu như đến với một nơi có thể cấp cứu kịp thời.
Họ tin vào sự hiện diện của Ngài, vào sự chữa lành mà Ngài đem lại.
Lòng tin của viên sĩ quan đã lớn lên từ từ.
Ông tin nhờ nghe người ta nói về những gì Đức Giê su đã làm ở vùng Giuđê.
Ông gặp Ngài vì tin Ngài có thể chữa đứa con trai đang nguy tử của ông
bằng cách đi với ông về nhà ở Caphácnaum (c. 49).
Nhưng sau đó ông tin vào uy quyền của lời Đức Giêsu :
“Ông cứ về đi, con ông sống!”
nên ông vâng lời đi về nhà một mình (c.50).
Chẳng cần sự hiện diện, chỉ cần lời của Ngài nói từ xa cũng đủ con ông khỏi bệnh.
Lòng tin của ông được vững vàng hơn khi ông kiểm chứng và biết rõ
chính vào giờ Ngài nói thì con mình được chữa lành (c. 53).
Bây giờ hẳn ông đã tin trọn vẹn vào chính con người Đức Giêsu.
Lòng tin ấy lôi cuốn cả gia đình ông tin theo.
Sau khi dấu lạ xảy ra, không thấy nói gì về thái độ ngạc nhiên của gia quyến.
Kết quả tuyệt vời của dấu lạ là chính lòng tin của mọi người trong nhà.
Họ sẽ được ông kể cho nghe từng chi tiết câu chuyện gặp gỡ.
Trong tiệc cưới ở Cana, lòng tin của Đức Maria đã dẫn đến dấu lạ đầu tiên.
Dấu lạ này đã khiến các môn đệ Đức Giêsu tin vào Ngài (Ga 2, 11).
Trong dấu lạ thứ hai này ở Cana, lòng tin của viên sĩ quan, của một người cha,
đã dẫn đến lòng tin của những người thân thuộc.
Lòng tin thật sự bao giờ cũng có khả năng thu hút, lôi kéo, lan rộng.
Ngay trước đoạn Tin Mừng này,
chuyện người phụ nữ Samari cũng cho ta thấy điều đó.
Từ lời chứng của chị, dân thành Xykha đã tin vào Đức Giêsu (Ga 4,39).
Đời chúng ta cũng có những lúc tưởng như tuyệt vọng,
khi ta thấy tuột khỏi tay mình những gì rất quý mà mình muốn ôm giữ.
Hãy nhìn lên thánh giá để khỏi mất lòng tin.
Hãy chấp nhận đi vào những nẻo đường lạ lẫm mà Chúa đang mời gọi.
Như viên sĩ quan, ta sẽ gặp tin vui ngay trên đường về nhà.
Cầu nguyện :
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
11/03 Thiên Chúa yêu thương đến nỗi ban Con Một mình
- Viết bởi Ga 3, 14-21
Thiên Chúa yêu thương đến nỗi ban Con Một mình.
Chúa Nhật tuần 4 Mùa Chay năm B.
"Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ".
Lời Chúa: Ga 3, 14-21
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời.
Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ.
Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY B
Lời Chúa: 2Sb 36,14-16.19-23; Ep 2,4-10; Ga 3,14-21
MỤC LỤC
1. Tình thương của Thiên Chúa
Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Sau khi đã tốn nhiều sức lực tinh thần cũng như những cực nhọc thể xác, để cùng với những người cộng tác sáng chế ra bóng đèn điện đầu tiên. Thomas Edison trao bóng đèn điện ấy cho một người bạn trẻ tuổi nhất trong hóm leo lên các bậc thang gắn bóng vào chuôi mà thử nghiệm. Nhưng rủi thay, vì quá xúc động, người bạn trẻ ấy khi vừa leo lên tới bậc thang cuối cùng đã đánh rơi chiếc bóng đèn xuống đất khiến nó bể vỡ tan tành. Thế là cả nhóm lại phải cố gắng không ngừng làm việc suốt 24 tiếng đồng hồ nữa để tạo ra chiếc bóng đèn thứ hai cho kịp với chương trình thử nghiệm. Sau khi hoàn tất xong chiếc bóng đèn thứ hai này, trước sự ngạc nhiên của mọi người, Edison lại trao chiếc bóng đèn ấy cho người bạn trẻ đã từng làm vỡ chiếc bóng đầu tiên, để người bạn trẻ này lại leo lên gắn bóng vào chuôi như lần trước.
Cử chỉ cao đẹp này đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của người bạn trẻ đó. Hành động tha thứ và tin tưởng của Edison đối với người bạn trẻ đã một lần sơ sót làm bể chiếc bóng đèn đầu tiên, đã làm cho nhiều người phải kính phục và có lẽ cũng đang thôi thúc mỗi người chúng ta bắt chước Edison, thực hiện những cử chỉ tha thứ và tin tưởng như vậy đối với những người chung quanh chúng ta trong cuộc sống thường ngày. Đồng thời hành động này còn nhắc nhở mỗi người chúng ta nhớ đến tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Ngài luôn luôn tha thứ và tin tưởng con người mặc dù con người hay lầm lỗi, sa ngã, vấp phạm và làm hư hỏng chương trình của Ngài.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã xác quyết: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời. Ngài sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ. Hay như thánh Phaolô cũng đã viết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta còn ngồi trong tội lỗi. Chính sự tha thứ và tin tưởng của Thiên Chúa đã khơi dậy trong lịch sử nhân loại không biết bao nhiêu tâm hồn hối cải, làm lại cuộc đời và bắt đầu sống một cuộc sống mới, cao đẹp hơn, lợi ích hơn. Thiên Chúa luôn tha thứ cho con người để khởi dậy những điều tốt đẹp, vậy thì tại sao mỗi người chúng ta lại không thể dễ dàng tha thứ cho nhau, tin tưởng lẫn nhau để xây dựng xã hội mỗi ngày một tốt đẹp hơn lên.
2. Cựu Ước và Tân Ước
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy Cựu Ước và Tân Ước có một sợi dây liên hệ mật thiết với nhau. Thực vậy, nếu Cựu Ước là lời hứa, là hình ảnh, là biểu tượng, thì Tân Ước chính là sự thật được chính Thiên Chúa thực hiện.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể, chẳng hạn như Adong là một hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô. Thực vậy, chính thánh Phaolô đã diễn tả trong bức thư thứ nhất gởi giáo dân Côrintô như sau: Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, còn Adong thứ hai là Đức Kitô thì từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy. Còn người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy... Bởi một người mà nhân loại phải chết, thì nay bởi một người mà nhân loại được sống.
Tiếp đến, Isaác, cũng là một biểu tượng cho Đức Kitô, bởi vì giữa Isaác và Đức Kitô có nhiều điểm rất tương đồng. Nếu Isaác được cha mình là Abraham rất mực yêu thương, thì Đức Kitô cũng được Cha mình là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Nếu Isaác được dâng làm hy lễ, thì Đức Kitô cũng được dâng làm hy lễ. Nếu Isaác vác củi lên núi để dùng vào việc hy tế, thì Đức Kitô cũng đã vác thập giá lên đỉnh Canvê, để rồi hiến dâng mình cho Thiên Chúa.
Và hơn thế nữa, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh để so sánh, đó là hình ảnh con rắn đồng trong hoang địa. Ngài nói: Maisen đã treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin vào Ngài thì sẽ được sống.
Chắc hẳn khi gợi lên hình ảnh này, Chúa Giêsu đã nhớ tới một biến cố đã xảy ra trong Cựu Ước được sách Dân Số ghi lại như sau: Bấy giờ dân Do Thái kêu trách Thiên Chúa và Maisen về những khó khăn gặp phải trên đường tìm về miền đất hứa. Thiên Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Trước thảm hoạ này, họ đã ăn năn hối lỗi và nói với Maisen: Chúng tôi đã phạm tội phản nghịch với Chúa và với ngài. Xin ngài hãy cầu Chúa xua đuổi lũ rắn nay đi. Và Maisen đã cầu nguyện cho dân chúng. Chúa truyền Maisen đúc một con rắn bằng đồng, treo nó lên một chiếc cột, để bất cứ ai bị rắn độc cắn, chỉ việc nhìn lên con rắn ấy là được chữa lành. Chúa Giêsu đã so sánh việc con rắn đồng bị treo lên với việc Ngài bị đóng đinh trên thập giá.
Và cũng như dân Do Thái, bất kỳ ai trong chúng ta, nếu biết nhìn lên thập giá, với niềm tin tưởng và sám hối, sẽ được chữa lành mọi vết thương do tội lỗi gây ra, sẽ được tẩy trừ nọc độc của tội lỗi. Bởi đó hãy ngước nhìn thập giá và hãy suy nghĩ đến tình thương mà Ngài đã dành cho chúng ta qua mầu nhiệm cứu độ mà chúng ta sắp sửa mừng kính.
3. Tình yêu của Thiên Chúa
Trong sinh hoạt thường ngày, chúng ta thường phân chia thành hai lãnh vực, đạo và đời. Thiêng liêng và trần tục. Phàm những gì thuộc về thế gian, thuộc về trần tục, nếu chưa phải là tội lỗi, thì tự bản chất vốn dĩ đã là thấp kém. Từ đó chúng ta dễ đi tới một quan niệm đồng hoá thế gian với tất cả những gì là xấu xa và tội lỗi. Cuối cùng thì thế gian bị coi là một trong ba kẻ thù chính của con người. Trong ba kẻ thù ấy, thì ma quỷ đứng hàng đầu, nhưng có lẽ không trực diện bằng chính kẻ nội thù là xác thịt của chúng ta và kẻ thù gần cận nữa là thế gian.
Với một quan niệm như thế, hẳn người ta sẽ ngạc nhiên nếu không phải là lúng túng trước lời khẳng định của Chúa Giêsu: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống đời đời. Phúc âm không nói: Thiên Chúa yêu thương dân Ngài, yêu thương Hội Thánh của Ngài hay yêu thương những người Ngài đã tuyển chọn, nhưng lại nói: Ngài yêu thương thế gian. Tại sao lại như thế?
Tôi xin thưa: Sở dĩ Thiên Chúa yêu thương thế gian là bởi vì chính Ngài đã tạo dựng nên nó chứ không phải là một ai khác. Thực ra nếu có cái thế gian nào tội lỗi thì phải hiểu đó là một giới nào đó, một người nào đó, một loại người nào đó sống trong thế giới loài người hay trong chính Giáo Hội mà thôi. Ngôn ngữ thông thường vốn chia xã hội thành những giới khác nhau, chẳng hạn giới thanh niên, giới nghệ sĩ, giới tu sĩ. Đồng thời người ta cũng nói đến những giới bê bối như giới xì ke, giới đầu trộm đuôi cướp. Nhưng ngay cả những giới tội lỗi này cũng chưa hẳn đã bị kết án hay bị loại trừ bởi vì Đức Kitô đã đến chỉ vì họ và cho họ: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống thế gian không phải để kết án, nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu độ.
Như vậy thì xét cho cùng chỉ có ma quỷ mới thực sự và vĩnh viễn bị lên án là kẻ thù, còn tất cả vẫn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa và có được niềm hy vọng cứu độ. Đức Kitô là ánh sáng và ánh sáng thì không bao giờ kỳ thị, phân biệt người lành kẻ dữ, chỗ cao ráo sạch sẽ, ánh sáng soi vào và làm cho vẻ cao đẹp thêm rực rỡ hơn. Nhưng ánh sáng cũng rọi vào chỗ sình lầy nhơ bẩn ấy để mà dọn dẹp, để mà tẩy uế. Chỉ có những ai từ chối ánh sáng, khép kín lòng mình, trốn tránh ánh sáng, che đậy sự thật mới không được cứu độ.
Noi gương Chúa Giêsu chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng cho trần gian, hay nói một cách khác, chúng ta cũng phải yêu mến thế gian bằng một tình thương cứu độ, nghĩa là yêu thương và sẵn sàng dâng hiến đời mình để làm cho thế gian được sáng hơn, được đẹp hơn, nhờ đó mà được tham dự vào vinh quang phục sinh của Đức Kitô.
4. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày.. mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người". Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam".
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào...
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: "Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng".
***
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô: "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa" (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. "Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ xấu xa" (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối? Có lối nào để trở về với ánh sáng? Đức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc đời. Đức Giêsu đã từng nói: "Đức tin của con đã chữa con" (Mc.10,52).
Đức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc.
Đức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm.
Đức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
***
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen.
5. Giương cao con rắn
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Thiên Chúa có bộ mặt nào? – Thánh thiện, quyền phép, thông minh hay công thẳng…? Ai mà biết được khuôn mặt thật của Người nếu như Người không đích thân mặc khải cho biết!
Người Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Đức Chúa; họ gọi Ngài là Gia-vê (theo ký tự YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, lại vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải phóng kiêu hùng, sau khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô địch thời bấy giờ. Thế nhưng Đức Giê-su lại khảng định rằng, khuôn mặt đó chưa hoàn toàn chính xác! Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ dựa trên suy đoán của loài người, vì thật sự đã có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài thế nào đâu; “không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11:27)
Vấn đề ở đây là: diện mạo Thiên Chúa mà ‘Con Người muốn mạc khải cho’ là thứ diện mạo nào? Trước hết Đức Giê-su đưa ra một hình ảnh có sẵn trong Cựu Ước, nhưng rất ít được người Do Thái thời đó quan tâm: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc”. Quả vậy câu truyện được kể trong chương 21 sách Dân Số đã không được các luật sĩ và biệt phái thời đó quan tâm giải thích. Họ cho rằng đó chỉ là một giai thoại mang tính sự kiện lịch sử; dân phạm tội kêu trách Mô-sê, và thế là Đức Chúa đã báo oán qua việc cho rắn độc bò ra cắn hại dân khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Rồi Mô-sê chủ động khẩn cầu cho dân, và Đức Chúa truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống!” (Ds 21:6-9) Câu chuyện không nhằm vẽ lên khuôn mặt Đức Chúa từ nhân và xót thương; có vẻ ngược lại là đàng khác, Ngài lộ rõ diện mạo nghiêm khắc, trừng phạt; ‘Dân kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê… và Đức Chúa cho rắn độc bò ra cắn chết họ’. Nếu dân có được cứu thì chẳng qua là do lời khẩn cầu của Mô-sê, tôi trung của Ngài. Còn tại sao lại giương cao con rắn là biểu tượng của hình phạt, để ‘hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó’ thì được cứu sống, thì không ai giải thích nổi, vì… đơn giản Đức Chúa muốn như thế! Khi Đức Giê-su dùng chính hình ảnh này để công bố mạc khải vĩ đại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” thì xem ra lại càng rối mù hơn. Ni-cô-đê-mô, hay bất cứ người Do Thái nào cũng vậy thôi, sẽ cho điều đó là hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận, nhất là sau dẫn chứng sự kiện hình phạt rắn độc cắn: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”.
Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, tất cả đều biết một điều căn bản: Tin Mừng chính yếu hệ tại ở điều này, đó là Thiên Chúa yêu thương thế gian, là Thiên Chúa không lên án, là Thiên Chúa không đánh phạt, một khi Đức Ki-tô đã được giương cao trên thập giá. Đó là diện mạo đích thực của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã thân hành vẽ lên bằng chính thập giá của Người. Chỉ cần ‘tin vào Con của Người’, chỉ cần ngước nhìn lên Thập Giá cứu độ với lòng khiêm tốn và cậy trông, chỉ cần ‘sống theo sự thật và đến cùng ánh sáng’, thì cũng đã đủ để bất cứ ai, cho dầu tội lỗi tới mấy, cũng sẽ không bị lên án chết. Và ‘sự thật’ của Tin Mừng đơn giản chỉ là, căn cứ lời quả quyết của môn đệ Gio-an - người được coi là hiểu biết Thiên Chúa tình yêu rõ hơn ai hết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Và thật lạ lùng, bản án nếu có bị tuyên, sẽ không căn cứ vào tội lỗi đã phạm, mà chỉ dựa trên một điều duy nhất xem ra chẳng mấy nhằm nhò gì: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” ‘Bóng tối’ và ‘ánh sáng’ Gio-an đề cập tới sẽ không mang nội dung luân lý của tội lỗi hay nhân đức, mà chỉ là từ khước hoặc tin nhận Tin Mừng về một ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian tới nỗi…’. Nói cách khác, bóng tối là vẫn nhắm mắt tin vào một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt, một Thiên Chúa chỉ biết lên án và trừng trị. Ai cứ cố chấp ở lì trong bóng tối đó, chắc chắn sẽ bị lên án thôi. Lý do là vì mọi việc người ấy làm, cho dầu trong cái nhìn của con người có là tốt lành thánh thiện tới mấy đi nữa, thì cũng vẫn chưa phải là được thực hiện trong Thiên Chúa tình yêu xót thương và cứu độ. Còn ánh sáng đơn giản sẽ là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, để mở lòng đón nhận ơn cứu độ đầy từ tâm của Thiên Chúa.
Trong tư cách Ki-tô hữu, nhất định mỗi người chúng ta phải sống theo sự thật, và chân thành đi trong ánh sáng của ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian…’ thôi, đặc biệt trong thời khắc cuối của mùa chay thánh, để trong niềm tin vào Đức Ki-tô thập giá cứu độ, chúng ta không còn chút sỡ hãi nào bị lên án nữa.
Lạy Chúa Giêsu được giương cao trên thập giá, xin cho con biết không ngừng chiêm ngắm Thánh Giá để thấu hiểu, ‘Thiên Chúa đã yêu con tới nỗi đã phó nộp…’, và để nhờ nhận biết trong tin yêu điều này, con sẽ ‘không bị lên án’, cho dẫu có tội lỗi và bất toàn tới mấy. Xin cho con cùng với Phao-lô, biết tập trung trọn đời mình vào duy nhất một mình Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh mà thôi. Amen.
6. Nào ta hãy mừng vui
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Laetare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh, nghỉ để nhìn lại những gì đã làm trong ba tuần đầu của Mùa Chay, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới.
"Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan." (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia : "Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi : Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…... ".
Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay. Làm sao không thể vui mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ vì coi thường lời Chúa, bất trung, tội lỗi và nhạo báng các tiên tri nên mất nước, lâm vào cảnh nhà tan cửa nát phải đi lưu đầy, nay được trở về tái thiết quê hương. Mừng vui lên vì Chúa dừng cơn thịnh nộ đổ xuống trên dân nay được thay bằng lòng từ bi và tha thứ, " Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: Đây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố : Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên " (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).
Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng?
Vì tội lỗi của dân mà đền thờ Chúa bị quân thù đốt cháy, tường thành Giêrusalem bị phá huỷ, các lâu đài và mọi đồ vật quý giá bị hỏa thiêu. Nay họ "được kêu gọi tái thiết đền thờ Giêrusalem, được mời gọi đón nhận lại Thiên Chúa đến ở giữa họ, đón nhận sức mạnh của tình yêu và tha thứ" (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23). Đoạn Tin Mừng Gioan ghi lại hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể : "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài ... để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ" (Ga 3,16-17).
Thiên Chúa đã dựng nên con người, ban bố những giới răn, không phải như những ách trói buộc, nhưng là như nguồn tự do, để con người cư xử khôn ngoan, sống theo công lý và hoà bình, biết đặt tin tưởng nơi tha nhân và cùng nhau thực hành các việc công chính dựa theo ý của Chúa để được hạnh phúc.
Vui vì được yêu thương và được cứu
Chúng ta đang ở tuần thứ IV trên hành trình tiến về lễ Phục Sinh, hành trình cùng với Chúa Giêsu bước trong "hoang địa". Đây là quãng thời gian chúng ta lắng nghe tiếng Chúa và cũng là để vạch trần mặt nạ của những cám dỗ trong lòng chúng ta. Ở phía chân trời của hoang địa này chúng ta thấy nổi lên cây thập giá. Thập giá Chúa Kitô là đỉnh điểm của tình yêu đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu khẳng định : "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (Ga 3,14-15). Lời trên nhắc lại cuộc xuất hành của người Do thái từ đất Ai Cập. Trong hành trình, một số người bị rắn độc cắn và bị chết. Khi ấy, Thiên Chúa ra lệnh cho ông Môisê làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây sào : ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa lành (x. Ds 21,4-9). Ám chỉ Đức Giêsu sẽ được giương cao trên thập giá để bất cứ ai đang ở trong hiểm nguy của tội lỗi, nhìn lên Người với lòng tin thì sẽ được cứu độ, đúng như Gioan nói: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ " (Ga 3,17).
Theo thánh Âugustinô thì : "Người thầy thuốc là người đến để chữa bệnh. Nếu người bệnh không tuân theo đơn thuốc và chỉ dẫn của thầy thuốc, anh ta tự làm hại mình. Đấng Cứu Thế đến thế gian...nếu anh không muốn được Ngài cứu chuộc, anh tự phán xét chính mình" (Sul Vangelo di Giovanni, 12,12: PL 35, 1190). Tình yêu Thiên Chúa là vô biên và Người đã ban Con Một để chuộc tội cho con người. Phần chúng ta, mỗi người cũng phải chịu trách nhiệm về mình. Thực vậy, mỗi người phải nhận biết tình trạng bệnh tật của mình để được cứu chữa; từng người phải nhìn nhận chính tội của mình để ơn tha thứ của Thiên Chúa, đã thể hiện trên Thập giá, hiện thực trong tâm hồn và cuộc sống mỗi người. Thánh Âugustinô viết tiếp: "Thiên Chúa lên án tội lỗi và nếu anh cũng làm tương tự, anh được hiệp thông với Thiên Chúa. Khi anh bắt đầu tách mình khỏi những gì đã làm, khi đó anh khởi sự nhưng việc tốt lành bởi đã từ bỏ những việc bất chính. Nên hoàn thiện bắt đầu từ việc nhận ra những sai sót của mình."
Chúa Giêsu là sự sáng thế gian
Ánh Sáng đã đến thế gian, nhưng nhiều người ưa thích đêm tối hơn là ánh sáng. Có biết bao nhiêu đen tối ở trên thế giới hiện nay, những đám mây của sự dữ vẫn còn bao phủ trên mặt đất này. Những vụ thảm sát tàn bạo tại Irắc và Siria, những cuộc tranh chấp giữa các bộ lạc, lòng tham lam làm hoen ố con tim, đưa đến cảnh bóc lột người nghèo, lòng tham vơ vét khai thác các tài nguyện không nghĩ gì đến các thế hệ tương lai; bên cạnh đó là tính ích kỷ khiến con người khép kín, trở nên vô cảm đối với Thiên Chúa và tha nhân, thay vì những lý tưởng cao thượng của quảng đại và từ bỏ, thì người ta đi tìm khoái lạc, hưởng thụ, tìm hạnh phúc qua xì ke, dâm đãng, đưa đến cảnh huỷ hoại gia đình, tàn sát các bào thai, gạt bỏ người già và em nhỏ.
Để chống lại não trạng trên, Sứ điệp Mùa Chay năm nay có chủ đề là xóa bỏ sự "thờ ơ toàn cầu hóa". Đức Thánh Cha Phanxicô mong ước : " Nơi nào có sự hiện diện của Giáo hội, đặc biệt là nơi những giáo xứ và cộng đoàn, sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót giữa biển cả thờ ơ" (Sứ điệp MC 2015). Dửng dưng với Thiên Chúa và đồng loại là điều cần phải loại bỏ trong xã hội hiện đại hôm nay. Chúng ta cần tạo ra một não trạng mới coi tha nhân như là anh chị em đáng được yêu thương tôn trọng và giúp đỡ trên cuộc hành trình tiến đến tự do, sự sống và hy vọng.
Thánh Phaolô nói: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian thuận tiện để mỗi người quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân.
Mùa Chay là lúc thuận tiện để khích lệ mọi thành phần Dân Chúa gia tăng sức lực thực hiện công việc bác ái nhiều hơn nữa. Giữa biển cả thờ ơ của xã hội hôm nay, mỗi người, mỗi giáo xứ và cộng đoàn thực thi đức ái, nhất định Giáo hội sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót.
7. Nhìn lên Thánh Giá
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Thánh giá chính là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ.
Hình ảnh con rắn xuất hiện ngay từ những trang đầu của sách Sáng thế (x. St 3) và được nhắc lại trên 40 lần. Kinh Thánh trình bày về rắn với cả hai ý nghĩa tốt và xấu. Phần nhiều rắn mang ý nghĩa xấu, rắn được đồng hóa với chính Satan, thủ lãnh của ma quỉ đã dụ dỗ nguyên tổ phạm tội (x. St 3, 1-15). Đôi khi, rắn được trình bày với ý nghĩa tốt như là biểu tượng của sự khôn ngoan: " Hãy khôn ngoan như con rắn!" (Mt 10,16), rắn đồng cứu người trong sa mạc (Ds 21, 4-9).
Trong truyền thuyết Hy Lạp, Thần Chữa Bệnh có tên là Asklepios được biểu tượng bằng con rắn. Ngày nay, hình con rắn quấn quanh cây cột được dùng làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y. Hai ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị bệnh tật cho con người.
Biểu tượng của ngành Y Dược cũng còn bắt nguồn từ một biến cố trong Kinh Thánh "con rắn đồng được giương cao" với ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.
Ý nghĩa cứu độ bắt đầu bằng những biến cố trên đường về miền đất hứa. Trong sa mạc, người Do thái đã phạm tội thờ thần ngoại và đúc bò vàng để thờ lạy, họ hay phàn nàn kêu trách Chúa. Họ bị phạt nặng. Đức Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Họ sợ hãi xin ông Môsê cứu chữa. Ông Môsê khẩn cầu cho dân. Đức Chúa nói với ông : "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống". Ông Môsê "làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống" (Ds 21, 4b-9).
Rắn đồng được giương lên cao, người bị rắn cắn nhìn vào được chữa lành. Đó là cái nhìn của lòng tin. Sách Khôn Ngoan giải thích (để tránh lối giải thích ma thuật): "Hễ ai nhìn lên thì được cứu vớt, cứu không phải do vật được nhìn, mà do Chúa, Đấng Cứu Độ của mọi người" (Kn 1, 6-7). Nhìn lên con rắn đồng là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát xuất ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Thiên Chúa yêu thương tha thứ và ban ơn. Ngài cứu sống dân dù họ đã từng bất trung, oán trách, nổi loạn chống đối.
Và đó là ý nghĩa của lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô trong Tin Mừng hôm nay: "Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi". Chúa ý ám chỉ Người sẽ chết cách nào, sẽ bị treo lên thập giá đau thương. Ở đây, sự so sánh nằm ở từ "treo lên"; Đức Giêsu bị treo lên cây thập giá, cũng như con rắn đồng bị treo lên trước toàn dân. Và ở từ "sống". Ai bị rắn độc cắn trong hoang địa, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống; những ai tin và tìm kiếm sự sống vĩnh cửu, sẽ tìm thấy trong Đức Giêsu. Người ban sự sống. Không phải sự sống nhân tính, mà "sự sống vĩnh cửu". Ân huệ vô biên đó là do: "Thiên Chúa yêu thương".
Khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Thập giá để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Thập giá là tột cùng của đau khổ và ô nhục, nhưng Thập giá lại là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu cao cả. Nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thập giá để con người nhận biết thân phận tội lỗi và từ đó tin vào tình thương của Thiên Chúa.
1. Nhận biết thân phận tội lỗi con người.
Dân Do thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập. Hành trình gian truân trong sa mạc, họ nổi loạn chống lại Thiên Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi.
Đức Giêsu chịu treo trên Thập giá là vì tội lỗi nhân loại. Thánh Phêrô viết những lời thật sâu xa: "Tất cả tội lỗi của chúng ta, Đức Giêsu đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. " (2Pr 2,24a ). Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của con người. Người chịu chết cho con người được sống "Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành" (2 Pr 2,24b). Nhìn ngắm Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của mình.
2. Tin vào tình thương của Chúa.
Con người phạm tội đáng phải chết. Thiên Chúa thương yêu tìm mọi cách để cứu sống. Thiên Chúa "yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời". Thiên Chúa biểu lộ tất cả tình thương đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.Tình yêu của Ngài được thể hiện qua hành vi "trao ban". Điều quí nhất của Người Cha là Người Con.Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại chính Con Một dấu yêu của Ngài. Đức Giêsu đến trần gian để phục vụ: "Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người". Người đã tự nguyện chết cho con người được sống: "Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh mạng sống cho bạn hữu"; "Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội". Nhìn lên Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá, chúng ta cảm nhận tình thương của Chúa thật bao la và diệu kỳ.
3. Chiêm ngắm Thánh giá tình yêu
Người Kitô hữu mỗi ngày nhìn thấy thập giá, nghe nói về thập giá. Thập giá trên tháp chuông, thập giá trên bàn thờ, thập giá bày bán trong tiệm, thập giá treo trên tường, thập giá cắm trong nghĩa trang, thập giá trong nghệ thuật, thập giá trong thi ca.
Có những người đã nhìn vào thập giá như một đơn vị kinh tế để xác định giàu nghèo: thập giá vàng thì quí hơn thập giá gỗ. Thập giá cũng tùy theo loại to nhỏ mà có giá trị khác nhau. Người có tiền thì mua thập giá bằng vàng. Người không có tiền thì cố gắng bằng mọi cách để có được thập giá vàng để khoe mình đã đạt được mức độ giàu có nào đó. Có những người khác dùng thập giá để xuống đường. Họ vác thập giá không phải để chịu đóng đinh như Chúa Giêsu, nhưng để biểu tình và đòi đóng đinh kẻ khác.
Nhiều người đã trần tục hóa thập giá Chúa Giêsu. Thập giá để khoe khoang trang điểm. Thập giá là đơn vị kinh tế phân biệt giàu nghèo. Thập giá là phương tiện tranh đấu. Thập giá là duyên cớ lòng tham. Vậy đâu là ý nghĩa thật của thập giá?
Không biết tự bao giờ, Thập giá đã được ngành tư pháp Rôma chọn làm án tử cho kẻ tội đồ và trở thành biểu tượng cho cái chết nhục nhã. Nhưng kể từ ngày thứ sáu Tuần Thánh, khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thập giá trở thành Thánh giá và mang lấy ý nghĩa mới. Thánh giá là ơn cứu độ Thiên Chúa đem đến trần gian. Thánh giá là dấu chứng tình yêu khơi nguồn sự sống. "Khi nào Ta bị treo lên, ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta". Với tình yêu cứu độ, Thánh giá đem lại sự sống đời đời. Từ Thập giá đau thương, Chúa Giêsu đã đưa tình yêu tự hiến, tình yêu tận hiến và dâng hiến vào Thánh giá cứu độ.
Thánh giá, tình yêu tự hiến
Thánh giá với Chúa Giêsu chịu đóng đinh chính là đỉnh cao tình yêu tự hiến. Thánh Phaolô diễn tả quá trình tự hiến khởi đi từ mầu nhiệm Nhập Thể và kết thúc nơi mầu nhiệm Cứu Độ. Chúa Giêsu vốn phận là Thiên Chúa, nhưng lại hủy mình ra không mà nhận lấy phận tôi đòi. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Nhập Thể. Người lại còn tự hạ vâng lời Chúa Cha cho đến chết, không nhẹ nhàng trên gối ấm nệm êm mà đau thương trên cây Thập giá, để giải thoát muôn người. Đó là tình yêu tự hiến trong mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh. Tình yêu tự nguyện hiến mình cho vinh quang Chúa Cha và mưu ích cho phần rỗi thế gian. (x.Pl 2,6-11).
Thánh giá, tình yêu tận hiến
Với Chúa Giêsu, Thánh giá là dấu chứng tình yêu tự hiến. Với Thiên Chúa, Thánh giá còn là một dấu chứng của một tình yêu bao la và bao dung sẵn sàng hiến ban tất cả những gì cao quý nhất và cao giá nhất cho hạnh phúc của mọi tâm hồn: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một" (Ga 3, 16). Trong mầu nhiệm của Đấng chịu đóng đinh trên Thánh gía, chúng ta nhận ra độ cao, sâu, rộng, dài của một tình yêu cho đi đến cùng. Chúa Cha đã hiến ban Con Một của mình trên Thánh giá. Thiên Chúa yêu thương đã hiến ban tất cả cho nhân trần.
Thánh giá, tình yêu dâng hiến
"Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta". Khi Chúa Giêsu bị treo lên, Thánh giá phát huy sức mạnh cứu rỗi. Dân chúng được thanh tẩy tội lụy vì được bao bọc bởi tình yêu bao dung tha thứ: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Anh trộm lành đựơc vào Thiên đàng vì được đặt vào tình yêu thánh hóa gieo hy vọng:"Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên đàng với Ta". Những người chứng kiến cuộc Thương khó về đấm ngực ăn năn và người đội trưởng thốt lên: "Qủa thật người này là Con Thiên Chúa", vì họ được soi sáng trong tình yêu kiếm tìm sự thật. Tất cả đã gặp nơi Thánh giá Chúa Giêsu một sức mạnh thánh hiến.
Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy siêng năng chiêm ngắm Thánh giá. Đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Hãy nhìn lên Thánh giá với tâm tình sám hối và tin yêu, nhờ đó chúng ta được Chúa thứ tha và được múc nguồn sự sống dồi dào.
8. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An
TẠI SAO “CON NGƯỜI CŨNG SẼ PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO NHƯ VẬY”?
Sách Dân Số (21, 4b-9) kể chuyện, dân Do thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng : “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? …”. Vì thế, Thiên Chúa đã cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Sau đó dân hối lỗi chạy đến với Môsê và ông đã cầu khẩn cùng Chúa. Thiên Chúa thương xót, đã truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, và bất cứ ai, hễ bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được chữa lành.
Bài Tin Mừng, trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu khẳng định : “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô (Ga 3,14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12,7-10).
Con rắn cám dỗ Eva và bà đã sa ngã thua cuộc, để lại cho nhân loại tội tổ tông truyền. Con rắn đồng ông Môsê treo lên trong sa mạc giúp cứu sống người bị rắn độc cắn. Bà Eva nhìn lên và nghe theo lời con rắn “phán”. Dân Do thái nhìn lên con rắn đồng và nghe theo Lời Chúa truyền. Chúng ta nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô sẽ được sự sống và ân sủng chứa chan.
Dịp hành hương Thánh Địa, chúng tôi có lên núi Nebo bên đất nước Jordanie. Chiêm ngắm tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn, biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê dựng nên, nhìn về Thánh địa và dâng lễ tại nhà nguyện trên núi.
1- Núi Nebo
Núi Nebo là một dãy núi ở Vương quốc Jordanie, cao khoảng 817m. Cựu ước đã đề cập đến nơi này. Trên núi Nebo, Thiên Chúa đã cho Môsê nhìn về Đất Hứa. Từ đỉnh núi nhìn bao quát bức tranh toàn cảnh về Thánh Địa và thành phố bờ Tây sông Giođan là Giêricô, thậm chí vào một ngày rất đẹp trời người ta có thể nhìn thấy cổ thành Giêrusalem.
Theo chương 34 của sách Đệ Nhị Luật, Môsê đã đi lên núi Nebo từ đồng bằng Môáp đến đỉnh Pisgah đối diện với Giêricô để nhìn về Đất Hứa.Giavê phán với Môsê: Đó là đất Ta đã thề với Abraham, ysaac và Giacop rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó! . Và Môsê đã chết trong xứ Môab. Người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-pơor, nhưng không biết được mộ ông cho đến ngày nay.(Đnl 34,4-6).
Theo truyền thống Kitô giáo, Môsê đã được chôn cất trên núi này, tuy nhiên người ta vẫn không xác định được nơi chôn cất ông. Một vài truyền thống Hồi giáo cũng khẳng định điều tương tự, nhưng ngôi mộ của Môsê thì họ cho là ở Maqam El- Nabi Musa nằm về phía nam cách Giêricô 11 km và về phía đông cách Giêrusalem khoảng 20km trong hoang địa Giuđêa. Các học giả tiếp tục tranh luận xem ngọn núi hiện nay được gọi là là Nebo có phải là ngọn núi ngày xưa được đề cập trong bộ Ngũ kinh của Cựu ước không.
Theo sách Maccabê (2 Mcb, 2,4-7): Tiên tri Giêrêmia đã giấu Nhà tạm và Hòm Bia Giao Ước trong một cái hang trên núi Môsê đã lên và được chiêm ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.
Ngày 20/03/2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến núi Nebo trong cuộc hành hương Thánh địa. Ngài đã trồng một cây ô liu bên cạnh nhà thờ theo phong cách Byzantine như là một biểu tượng cho hòa bình.
Ngày 9/5/2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã đến thăm địa danh này, đọc bài diễn văn ở đây và ngài nhìn về thành Giêrusalem từ đỉnh núi Nebo.
Nghệ sĩ người Ý, Giovanni Fantoni đã thực hiện tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn. Đây là biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê làm theo lệnh của Chúa để cứu sống người bị rắn cắn (Ds 21,4-9) và là thánh giá trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh (Ga 3,14) .
Trên đỉnh cao nhất của ngọn núi mang tên Syagha, người ta khám phá ra di tích ngôi nhà thờ và một tu viện vào năm 1933. Ngôi Nhà thờ được xây dựng lần đầu vào nửa bán thế kỷ thứ IV để kỷ niệm nơi Môsê qua đời. Thiết kế nhà thờ theo phong cách một Vương cung Thánh đường. Nó được mở rộng vào cuối bán thế kỷ thứ V và được xây dựng lại năm 597. Ngôi Nhà thờ đầu tiên được nhắc đến trong bản báo cáo về một cuộc hành hương của một người phụ nữ tên Aetheria vào năm 394. Người ta đã tìm thấy 6 ngôi mộ trống rỗng từ những phiến đá tự nhiên nằm dưới sàn khảm đá của nhà thờ.
Trong ngôi nhà nguyện hiện đại được xây dựng để bảo địa danh này và cung cấp nơi thờ phượng, người ta có thể nhìn thấy thấy những di tích của những sàn nhà khảm đá từ nhiều thời kỳ khác nhau. Một trong những bức tranh khảm đá lâu đời nhất là một tấm ghép với những hình chữ thập có viền hiện nay được đặt ở phía đầu Đông của bức tường phía Nam.
2. Tại sao lại treo con rắn?
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3,1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho Evà và Adam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: chẳng chết chóc gì đâu! Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chết (St 2,17).
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa : kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa đó là để cho mình bị rắn cắn, là mang nọc độc vào người.
3. Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”?
Trong Vương cung Thánh đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có 2 cột đá thật ấn tượng và giàu ý nghĩa; "cột rắn": một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột thập giá”.
Sách Dân Số (21,9) là một lời tiên báo rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm Thâp giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt “đến nỗi Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa
Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, một hy lễ dâng lên Chúa Cha và cũng là sự tự hiến cho loài người, trở nên lương thực nuôi sống chúng ta. Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.
Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu ngay từ những lời nói đầu tiên đã đặt mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan trực tiếp với hình ảnh con rắn biểu tượng của Tội và Sự Dữ : Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá.Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn.Theo Thánh Phaolô: Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) và Người “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21 ; Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô : “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7,13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Máccô, Đức Giêsu dạy, (chứ không phải báo trước) cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (Mc 8, 31).
Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh Giá để nhìn thấy:
Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
Đầu đội mạo gai của Người tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị; chân tay của Người bị đinh nhọn đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính và hành động theo thú tính; cạnh sườn của Người bị đâm thủng thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng là hủy diệt. Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!
4. Tại sao “nhìn lên” có khả năng chữa lành?
Theo lời của Đức Chúa, Môsê đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên thì được chữa lành. Hình phạt bị rắn độc cắn là rất nặng nề, còn ơn chữa lành thật nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống.
Nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37) với lòng tin chúng ta đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Thánh Giá Đức Kitô chịu đóng đinh được các giáo phụ gọi là Cây Sự Sống vì đã mang đến cho nhân loại Sự Sống của Thiên Chúa.
Thánh Giá mang lại cho nhân loại Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa. Sự bất tuân của Ađam đã mang đến án phạt và sự chết cho toàn thể nhân loại. Giờ đây sự vâng phục của Chúa Giêsu mang lại Ơn Tha Tội của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Vì sự vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tha hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Ơn tha thứ đã được ban một cách tràn đầy và cho mọi người, không trừ một ai. Ơn Tha Thứ ấy phát xuất từ Tình Yêu của Chúa Cha. Tình Yêu lớn hơn tội lỗi. Tình Yêu khỏa lấp muôn vàn tội lỗi. Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên Thánh Giá biểu lộ Gương Mặt đích thực của Chúa Cha giàu lòng thương xót.
Thánh Giá mạc khải Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại chúng ta. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến nỗi sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa Cha, dâng hiến sự sống mình lên Chúa Cha. Thánh Giá cũng biểu lộ Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì những người mình yêu.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Nhìn lên Thánh Giá, chúng ta yêu mến và tôn thờ Chúa Cứu Thế. Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Đức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy năng nhìn lên Thánh Giá, đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Nhìn lên Thánh Giá với niềm tin vào tình yêu tha thứ, tình yêu vô bờ bến của Đấng Chịu Đóng Đinh, chúng ta được dồi dào ân sủng và được sự sống đời đời.
9. Từ bóng tối tới ánh sáng
Mỗi khi đọc Kinh thánh, nếu chịu khó để ý một chút, chúng ta sẽ thấy tên tuổi của nhân vật Nicôđêmô được kinh Thánh nói tới ba lần, vào ba hoàn cảnh và ba thời điểm khác nhau:
Lần thứ nhất: ông ta chủ động đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm. Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay sẽ nói với chúng ta về cuộc gặp gỡ này.
Lần thứ hai: khi các thủ lĩnh tôn giáo Do Thái đang bàn tính để tìm cách giết Chúa Giêsu. Nicôđêmô vốn là thành viên của Thượng Hội đồng Do Thái Giáo, ông đã phản đối quyết định đó với ý kiến rằng: "Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" (Ga 7, 15)
Lần thứ ba: lúc táng xác Chúa Giêsu. Ông cũng đến để tẩn liệm thi hài Chúa Giêsu bằng cách thức sang trọng như tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan kể: " Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Chúa Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn theo tục lệ chôn cất của người Do Thái." (Ga 19, 39-40). Sở dĩ tôi liệt kê ba lần như thế vì tôi muốn làm nổi bật lên khuôn mặt của Nicôđêmô và con người của ông. Con người ấy đã đi qua một hành trình mà tôi tạm gọi là hành trình từ bóng tối tới ánh sáng, mà ba lần ở trên là ba cột mốc quan trọng trọng trong hành trình đó.
Ở lần thứ nhất , xét về phương diện thời điểm thì đây là giai đoạn mang một bầu khí căng thẳng do Chúa vừa đuổi quân buôn bán ra khỏi đền thờ.(x. Ga 2, 13-25). Sự căng thẳng này chưa kịp lắng dịu thì Nicôđêmô đã lén lút đến gặp Chúa Giêsu vào ban đêm. Ông ta gặp Chúa lúc đêm tối nhằm giữ kín sự việc và để tránh dòm ngó, soi mói của người khác, đặc biệt là của giới lãnh đạo Do Thái Giáo, đồng nghiệp của ông. Chi tiết ban đêm mà Thánh Gioan mô tả sẽ nói cho chúng ta biết điều đó. Và còn hơn thế nữa, hàm chứa trong chi tiết ấy tôi còn khám phá thêm điều này của Nicôđêmô: Ông đang ở trong đêm tối. Và từ trong đêm tối đó, ông đang dò dẫm, âm thầm tìm đến nguồn sáng. Nicôđêmô là ai?Kinh thánh bảo rằng ông là một thủ lãnh của người Do thái( x. Ga 3,1).
Tức là môt người có địa vị trong xã hội. Và gắn liền với địa vị đó, chắn chắn ông là người có nhiều kiến thức và là một người có trình độ, chính những cái đó sẽ cho ông có khả năng là một người Giàu có.
Tóm lại, cuộc sống ông đầy đủ, bảo đảm, và an ninh. Vậy ông còn thiếu cái gì? Bên ngoài xem ra ông đầy đủ. Ông có tất cả.nhưng những cái mà ông đang có đó không thể làm cho ông được sống thoả mãn. Vì thế, tự trong thâm tâm của ông vẫn luôn nói với ông rằng ông vẫn còn thiếu một cái gì đó. Cái đó là cái gì nếu không phải là sự sống đời đời. Nên ông vẫn phải đi tìm. Và ông hy vọng rằng nơi Chúa Giêsu, ông sẽ khám phá và có được sự sống ấy. Và thế là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và anh tân tòng Nicôđêmô bắt đầu. Chắc chắn cuộc nói chuyện này rất dài và rất lâu. Tôi không muốn đi sâu vào cuộc đối thoại này vì sợ làm mất nhiều thì giờ của anh chị em.
Nhưng thay vào đó là điều tôi muốn nhấn mạnh trong bài chia sẻ này là: Chúng ta có thể khám phá ra điều gì về Nicôđêmô qua ba lần được Thánh kinh mô tả? Là gì, nếu không phải đấy là ba giai đoạn của một hành trình hoán cải mà Nicôđêmô đã đi qua.
Lần xuất hiện đầu tiên cho thấy ông là người cởi mở, nhiều thiện chí và là một người thật sự muốn tìm kiếm chân lý.
Lần xuất hiện thứ hai chứng tỏ ông là một người công chính, một mực khăng khăng rằng không được kết án Chúa Giêsu trước khi đưa ra xét xử công khai. Và lần xuất hiện thứ ba cho thấy rằng ông là một người giàu có nhưng quảng đại và có lòng thương xót nữa. Dám bỏ tiền ra mua số lượng lớn là một trăm cân mộc dược và trầm hương, là những thứ quý hiếm. Chúng ta đang sống trong bầu không khí của mùa chay. Ai trong chúng ta cũng biết mùa chay là mùa hoán cải. Vì thế để gọi là hoán cải, chúng ta cần làm lại hành trình của Nicôđêmô. Hành trình đó được khởi đi từ một khao khát được sống. Khao khát đó sẽ giúp cho ta:
1. Ra khỏi chính mình để đi tìm, để tiếp cận, để gặp gỡ Chúa Giêsu là Đấng ban sự sống và là Sự Sống.
2. Một khi đã khám phá Sự sống đó, sẽ dẫn chúng ta tới sự can đảm để bảo vệ cho sự sống ấy.
3. Cuối cùng là lòng quảng đại để sống cho, sống vì và sống với Sự Sống đó.
- Đó là những Giá trị của Tin Mừng.
- Đó là hành trình của Mùa chay.
- Đó là hành trình của hoán cải.
- Đó là hành trình của bóng tối đến ánh sáng, hành trình đi từ bống tối của sự chết đến ánh sáng của Sự sống. Amen.
10. Hãy đến cùng ánh sáng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, Chúa Giêsu ngỏ lời với Nicôđêmô:
“Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
Bóng tối che chở, yểm trợ cho kẻ bất lương
Nhờ bóng tối, phường đạo tặc có cơ hội làm ăn. Trời càng tối trộm cướp càng vui thích vì càng dễ tung hoành.
Nhờ bóng tối, nhờ đèn mờ, nhiều tay ăn chơi có thêm cơ hội làm điều tội lỗi trong các rạp chiếu phim, trong các phòng karaoke mờ ám.
Nhờ bóng tối ở các góc phố, các đoạn đường vắng, các tay cướp của giết người mới có thời cơ hành động.
Đêm đen và bóng tối là bạn đồng minh của phường trộm cướp, là chốn nương tựa của kẻ bất lương, của những tay chơi bời truỵ lạc.
Thế nên Chúa Giêsu nói: "Người đời (người ác) chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19-20)
Trong khi bóng tối bao bọc che chở kẻ bất lương, đồng loã với phường tội lỗi, thì ánh sáng lại có khả năng bảo vệ, che chở cho những kẻ ngay lành.
Ánh sáng bảo vệ người ngay lành
Trong đêm tối giữa rừng sâu, người ta cần đốt lên một đống lửa thật to. Anh lửa bừng lên giữa đêm đen sẽ xua đi những ác thú lăm le vồ xé con người.
Trên những con đường tối tăm thường có trộm cướp rình rập, người ta thắp thêm nhiều ngọn đèn đường. Ánh đèn sáng có khả năng bảo vệ khách bộ hành trong đêm tối.
Chung quanh các cơ quan trọng yếu, những kho chứa hàng quan trọng, người ta bố trí nhiều đèn điện toả sáng suốt đêm để phòng quân gian đột nhập.
Ánh sáng soi đường cho người công chính
Người Việt chúng ta thường nói: "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng." Khi phải ở gần "mực", tức ở trong môi trường thiếu văn hoá, thiếu đạo đức thì sớm muộn người ta cũng bị tiêm nhiễm những thói xấu tật hư.
Trái lại, nếu được ở gần "đèn", tức ở trong môi trường lành mạnh, môi trường đạo đức, người ta sẽ được thấm nhuần điều hay lẽ phải và được cảm hoá nên xứng danh con người.
Giai thoại về cuộc đời Thầy Mạnh Tử (372-289 trước Công Nguyên) cho thấy rõ hơn nội dung nầy.
Lúc còn nhỏ, Mạnh Tử ở gần nghĩa trang. Ngày ngày thấy người ta chôn cất người chết với những lời than khóc ai oán thì cậu bé cũng bắt chước chôn các con vật chết, cũng giả vờ kêu than khóc lóc.
Thân mẫu của Mạnh Tử không muốn con mình bị tiêm nhiễm lối sống buồn thảm ở bãi tha ma, nên mới dời nhà đến gần phố chợ. Sống nơi đây, tuy nhộn nhịp vui vẻ hơn, nhưng Mạnh Tử lại học theo thói côn đồ của một số trẻ ranh ma đầu đường xó chợ, ưa trộm cắp, chửi tục và đấm đá nhau. Người mẹ một lần nữa quyết định phải dời nhà đến gần trường để xa tránh môi trường xấu.
Từ ngày sống cạnh nhà trường, ngày ngày thấy bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến trường, Mạnh Tử cũng xin mẹ cho đi học.
Học tập chưa được bao lâu, cậu lại bị bạn xấu rủ rê bỏ học đi chơi.
Hôm nọ, khi người mẹ đang dệt vải nửa chừng chợt thấy Mạnh Tử cắp sách về nhà không muốn học nữa, bà lặng lẽ cầm kéo cắt nát tấm lụa đang còn dở dang trên khung cửi.
Quá tiếc xót tấm lụa quý, Mạnh Tử hỏi lý do, người mẹ trả lời: "Con đang đi học mà bỏ nửa chừng thì có khác chi mẹ dệt tấm lụa chưa xong mà cắt bỏ đi vậy."
Thế là từ đó, Mạnh Tử giác ngộ, ngày đêm miệt mài đèn sách và sau nầy trở thành bậc thánh hiền của người Trung Quốc.
* * *
Qua Tin Mừng Gioan được trích đọc hôm nay, Chúa Giêsu tỏ ra buồn phiền vì người đời yêu chuộng tối tăm và xa lìa ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19)
Và Người mời gọi mọi người xa lánh "bóng tối" để đến cùng "ánh sáng."
Xa lánh bóng tối là giã từ môi trường xấu, bạn bè xấu, xa lánh những cơ hội và hoàn cảnh khiến chúng ta phạm tội và đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đến cùng ánh sáng là đến cùng Đức Kitô, đón nhận giáo huấn của Người, để cho Lời Chúa trở thành ngọn đèn dọi bước ta đi; giúp chúng ta nhận ra và tẩy xoá những vết đen trong cuộc đời và giúp ta sống quang minh chính đại.
Lạy Chúa Giêsu, dù chúng con rất ước ao đến cùng ánh sáng nhưng xác thịt yếu hèn vẫn lôi kéo chúng con về với bóng tối.
Xin cho chúng con có đủ bản lãnh và quyết tâm để lìa xa "mực" và sống gần "đèn".
11. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo Hội hằng rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín vững chắc rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế giới đau khổ bệnh tật này qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin Mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Chúa Giêsu nói với ông cụ Nicôđêmô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sự sống vinh cửu."
Tình yêu chúng ta đối với tha nhân không phát xuất từ đâu khác hơn là tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa dành cho thế gian này bao la bát ngát đến nỗi Ngài hiến tặng mạng sống mình cho tất cả, chẳng loại trừ ai... Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đi đó ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.
Chính khi nhìn vào thập tự giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Canvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết dân Do Thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc tình yêu của Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Nhiều ngôn sứ đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng vẫn hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giờ phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa. Lịch sử dân Do thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xảy ra mỗi khi chúng ta phủ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta cũng phải đối diện với việc chọn lựa đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống chia lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng với tình yêu của Thiên Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.
Hôm nay chúng ta đã đi được nửa con đường mùa Chay. Đây là lúc chúng ta duyệt xét lại những dốc lòng hồi đầu mùa Chay, và tự hỏi cuộc sống chúng ta đã hân hoan đáp lại tình yêu Thiên Chúa chưa? Tình yêu của Ngài có tìm được cách diễn tả qua nếp sống chúng ta chưa? Chúng ta đang làm gì để mang tình yêu của Ngài vào cuộc đời của bạn bè chúng ta? Mùa Chay là một lời mời gọi chúng ta bước ra khỏi nơi tối tăm của tội lỗi mà bước vào ánh sáng kỳ diệu của Đức Kitô.
12. Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc châu báu cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm khắp triều đình.
Các hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều đình thì xu nịnh để được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng mình để bảo vệ nhà vua, để chết thay cho vua.
Nhà vua rất đơn sơ nên dễ tin vào những lời nịnh hót của họ và ban phát cho họ ân lộc dư dầy khiến ngân khố của triều đình cạn kiệt.
Cả triều đình chỉ có quan ngự y là người trung thành. Ông đã nhiều lần can gián vua, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.
Ngày nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y trình với vua là bệnh vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.
Nghe tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!
Khi không thể tìm được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong triều.
Nghe tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều trốn biệt tăm.
Túng quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng không còn ai lai vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày huyên náo, giờ nầy vắng lặng như bãi tha ma!
Bấy giờ vua chỗi dậy, tỉnh ngộ rồi cười ra nước mắt cho nhân tình thế thái.
Duyên do là quan ngự y và cũng là người trung nghĩa với vua, đã khéo dựng lên kịch bản nầy, đề nghị với vua giả vờ đau nặng, bỏ cơm bỏ cháo, để thử thách lòng người!
* * *
Cuộc đời là thế! Ai có đủ yêu thương để dám hy sinh tính mạng, dám chết thay cho người thân thiết của mình, nói chi đến việc chết thay cho kẻ thù nghịch?
Vậy mà có một Đấng đã hy sinh tính mạng cho kẻ phản bội mình. Để hiểu Đấng ấy đã hy sinh như thế nào, chúng ta hãy trở lại với câu chuyện rắn đồng thời Mô-sê.
Thời ấy, trong hành trình bốn mươi năm trong hoang địa, có lần dân Do-Thái phải lâm cảnh đói khát dày vò nên kêu trách Thiên Chúa và Mô-sê. Thế rồi dân chúng bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Người ta lại chạy đến kêu cứu Mô-sê. Bấy giờ Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê đúc con rắn đồng, treo lên trụ cờ cao, để làm phương thuốc chữa rắn cắn. Ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được cứu sống.
Ngày nay, để cứu nhân loại tội lỗi lâm cảnh điêu linh và phải chết, Thiên Chúa không thể dùng rắn đồng làm phương trị liệu mà phải dùng đến một phương thuốc khác, đó là bằng chính Thân Thể Chúa Giêsu chết treo trên thập giá.
"Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời."
Thiên Chúa Cha đã lấy mạng đổi mạng. Lấy sinh mạng vô cùng cao quý của Người Con Một yêu quý để đổi lấy sinh mạng khốn hèn của loài người tội lỗi. Thật là điều không thể tưởng tượng được.
Nhưng tình yêu của Thiên Chúa chưa dừng lại ở đó. Tình yêu cứu độ của Ngài còn vươn lên cao hơn. Không những chỉ trao ban Con Một chết thay cho chúng ta mà thôi, không những chỉ ban cho chúng ta được cùng sống lại với Chúa Giêsu mà thôi, Thiên Chúa Cha còn thương cho chúng ta được cùng lên trời, cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời. Bài đọc thứ hai, bài thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay nhắc chúng ta điều đó: "Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời." (Ep 2, 4-6)
Thế là từ thân phận của tên tử tội đáng phải chết đời đời vì tội lỗi của mình, chúng ta được Chúa Giêsu lấy mạng Ngài đổi mạng cho chúng ta, thứ tha cho chúng ta muôn vàn tội lỗi, ban cho chúng ta được sống lại trong đời sống mới, rồi lại được đưa lên trời để "cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời".
Thật là một tình yêu không còn biên giới.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta cảm nhận thật sâu sắc tình yêu cao vời và sâu thẳm của Thiên Chúa, để sống xứng đáng hơn với tình yêu đó và đừng để công trình cứu chuộc của Ngài hoá ra vô hiệu nơi chúng ta.
13. Yêu đến quên mình
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Khi yêu, người ta thường đòi hỏi quá cao nơi người mình yêu. Họ đòi người yêu phải chung thủy, phải hy sinh, phải quan tâm. Đôi khi còn đòi hỏi người mình yêu phải đánh đổi cả tính mạng vì yêu.
Có một anh chàng nói với cô gái:
- Nếu mình chia tay em có buồn không?
- Đương nhiên là có
- Buồn đến mức độ nào?
- Đương nhiên là không đến mức độ có thể chết
- Vậy mình chia tay đi “!
Hóa ra tình yêu luôn phải có tính bất tử. Nếu yêu nhau mà không đạt đến mức độ sẽ chết vì thiếu người mình yêu thì chưa phải là tình yêu chân thành. Đó cũng là tình yêu mà Xuân Diệu bảo rằng: “Người đi một nửa hồn tôi chết – Một nửa hồn kia bỗng dại khờ”.
Thế nhưng, có người bảo rằng: “Không phải cứ là tình yêu thì phải vĩnh cửu, phải sống chết ở bên nhau, người ta yêu nhau là để được hạnh phúc bên nhau, chứ không phải để chết bên nhau, nếu chết vì yêu thì không những kẻ đó thật bất hạnh mà còn là kẻ ngu ngốc nhất trên đời”.
Thực ra cái chết ở đây không phải là cái chết chung, cũng không phải là liều mạng chết, mà là một tình yêu dâng hiến để vì người mình yêu có thể làm mọi sự, kể cả hy sinh tính mạng mình.
Một học sinh đã tuyên bố với bạn bè: Cuối cùng rồi cũng có người con gái dám liều mình vì tao. Cả phòng nhao nhao:
- Ai vậy mày, nhỏ nào nói nghe coi?
- Nhỏ Hồng bên lớp sử chứ ai!
- Nhỏ nói gì với mày?
- Nhỏ nói “Yêu ông ư? Tui thà nhảy lầu còn hơn”.
Cái chết nhảy lầu này không phải là cái chết vì yêu mà là cái chết chốn chạy tình yêu. Một cái chết không phải vì tình mà là sợ tình. Họ chạy chốn tình yêu chứ không tự nguyện đến với tình yêu. Chỉ có trong tình yêu người ta mới dám sống chết cho nhau. Có yêu nhau người ta mới hiến dâng mạng sống để mang lại hạnh phúc cho người mình yêu. Có yêu nhau người ta mới chẳng quản ngại khó khăn đến mức độ: “Yêu nhau mấy núi cũng trèo – Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.
Đây chính là tình yêu cao vời của Đức Ky-tô dành cho nhân loại. Ngài không trốn chạy khi gặp gian truân. Ngài không lùi bước khi đối đầu với hiểm nguy. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng, cho dù phải trả giá bằng cái chết đau thương. Chính Ngài đã đề cao tình yêu tự hiến này khi Ngài nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu”. Ngài đã dốc cạn đến giọt máu cuối cùng cho người mình yêu khi lưỡi đòng đâm thấu trái tim Ngài, “nước và máu chảy ra”. Ngài đã hoàn tất một đời người khi dâng hiến chính thân mình làm giá chuộc cho người mình yêu.
Thiên Chúa vẫn yêu bạn, yêu tôi. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.
Xem ra chúng ta đều là những con nợ ân tình của Chúa. Chúng ta nợ Chúa vì nhiều lần Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta, nhiều lần Chúa chịu đóng đinh vì tội lỗi chúng ta. Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen.
14. Như hoa hướng dương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một thời người ta đề nghị loại bỏ bài hát "Tình yêu Thiên Chúa" của nhạc sĩ Thể Thông ra khỏi danh mục những bài được phép hát trong phụng vụ. Họ cho rằng: không thể ví tình yêu Thiên Chúa như tình yêu của đôi nam nữ hẹn hò nhau giữa đêm trăng sao được. Tình yêu trăng sao là tình yêu mờ ảo, là những quan hệ không rõ ràng và bất chính. Một tình yêu đích thực phải quang minh chính đại, phải rõ như ban ngày mới đích thực là tình yêu. Bao lâu tình yêu đang còn che dấu, chưa công khai hoá tình yêu, bấy lâu vẫn còn là những quan hệ bất chính và tội lỗi.
Thường tình là thế! Ai cũng mong có được những tình yêu trong sáng, đơn sơ, chân thành. Ai cũng mong cuộc đời không còn mảng tối cần che đậy hay lấp liếm. Ai cũng muốn đến với nhau trong tình bạn trong sáng, trong tình người chân thành. Thế nhưng, "lực bất tòng tâm". Con người đến với nhau vẫn còn đó bóng tối của lợi dụng, của ích kỷ. Tình yêu con người sao vẫn còn đó những mảng tối của giả dối, thiếu chân thành. Vẫn còn đó những người thích đi đêm với nhau trong những cuộc tình vụng trộm, trong những phi vụ làm ăn bất chính. Một người con gái bình thường không thể đón nhận lời tỏ tình đại loại như: "anh yêu em, nhưng đừng cho ai biết". Thế nhưng, thực tế vẫn còn đó những cô gái tham tiền nên chấp nhận sống trong bóng tối làm vợ nhỏ, vợ bé của các đại gia. Ở đời vẫn còn đó những mối tình vụng trộm của "chồng chung vợ chạ", của vô luân thất đức. Xem ra thế lực của bóng tối quá mạnh đến nỗi đã bao trùm khắp mọi nơi và phủ kín nhiều tâm hồn con người. Nhiều người đã mất ý thức về tội. Nhiều người đã chai lỳ trước tiếng nói lương tâm. Bóng tối đã làm cho con người mất đi sự trong sáng, đơn sơ và chân thật của tâm hồn
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: "ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng". Đó là những tâm hồn đang chết dần, chết mòn vì thiếu ánh sáng, thiếu sức sống của chân thiện mỹ. Họ tự nguyện đi vào bóng tối cũng đồng nghĩa với việc khước từ sự sống để đi vào cõi chết. Adam - Eva đã rời áng sáng để lẩn trốn trong bóng tối khiến họ mất bình an, tìm lá che thân, và bản án đau khổ và sự chết đã lận vào kiếp người.
Muôn loài luôn hướng tìm về ánh sáng. Quy hướng về ánh sáng vạn vật sẽ xanh tươi. Sống dưới ánh sáng vạn vật sẽ phát triển đúng theo chủng loại của chúng. Con người được tạo dựng để trở thành ánh sáng cho trần gian, nhưng con người lại tìm về bóng tối sẽ trở thành vong thân. Con người sẽ đánh mất tính bổn thiện của thuở ban đầu tạo dựng. Con người tự nguyện nghiêng chiều và chạy theo bóng tối tội lỗi để thoả mãn dục vọng đê hèn, thoả mãn tính xác thịt yếu đuối, con người đang đánh mất dần căn tính của mình.
Mùa chay mời gọi chúng ta nhìn lại mình đang ở trong ánh sáng hay trong bóng tối u mê? Tâm hồn tôi có thực sự được mở rộng cho ánh sáng của Chúa chan hoà khắp tâm hồn, hay đang bị che kín bởi những thói hư tật xấu?
Chúng ta hãy thử đến bệnh viện của Chúa, để kiểm điểm lại mình, để được Chúa chữa lành và sửa đổi cho tốt hơn. Chúng ta có mang những bệnh tật tâm hồn cần sửa đổi trong mùa chay thánh này hay không? Như một tác giả vô danh đã kể lại một lần đến bệnh viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng mình đang bị bệnh. Ông kể rằng:
Khi đo huyết áp cho tôi, Chúa cho biết tôi đang thiếu Lòng Nhân Ái. Và khi lấy nhiệt độ, nhiệt kế đã nhảy vọt đến 400 độ Ích Kỷ.
Điện tâm đồ cho biết trái tim thiếu những rung động Yêu Thương, một số mạch máu bị tắc nghẽn, vì lớp cholesterone Ghen Ghét.
Tới khoa chỉnh hình, tôi khám phá mình đi lại khó khăn.
Tôi không thể tiến lại ôm người anh em vì lòng Kiêu Hãnh cản ngăn, cánh tay của tôi bại xuội.
Chứng Cận Thị làm mắt tôi không thể nhìn xa hơn cái vẻ bên ngoài của người khác.
Quen những tiếng ồn ào thường ngày, tai tôi bị Điếc Đặc, không còn nhạy bén với những tiếng thì thầm yêu thương.
Con xin cảm ơn Ngài, Bác Sĩ Giêsu, vị Lương Y nhân hậu! Chúa đã chữa trị cho con miễn phí hoàn toàn vì lòng thương xót.
Con cam kết khi xuất viện sẽ tiếp tục dùng toa thuốc của Chúa, một cách trung thành và đều đặn, nhờ những dược liệu tự nhiên, Chúa hướng dẫn cho con, trong sách thuốc Tin Mừng của Chúa.
Mỗi buổi sáng, khi thức dậy, con sẽ dùng ngay một chén trà Tạ Ơn. Trước khi làm việc, con sẽ nhớ uống một thìa súp Nụ Cười Thân Ái!
Và mỗi giờ, con sẽ uống thêm một viên Nhẫn Nại, với một ly nước Nhân Bản, và lạy Chúa, khi về lại nhà, con sẽ chích một mũi thuốc Tình Thương trợ lực, rồi trước khi đi ngủ, con sẽ uống thêm 2 viên Lương Tâm Bình An.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy để cho ánh sáng của Chúa chan hoà trong tâm hồn để đẩy lùi, xua tan những ký sinh trùng đang làm băng hoại tâm hồn chúng ta. Nguyện xin Chúa là Đấng đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài luôn gìn giữ, che chở chúng ta trong ân thánh của Ngài. Amen.
15. Nô lệ tự nguyện
Ngày nay, có lẽ con người khao khát, tìm kiếm tự do hơn bao giờ hết. Đây thật là một nhu cầu cần thiết và không thể thiếu. Người ta dị ứng hoặc không thích nghe đến từ " luật" vì nó làm cho ta cảm thấy bị bó buộc. Nhưng có những thứ tự do sẽ dẫn chúng ta đến nô lệ. Và có thứ nô lệ làm cho người ta được tự do, được cứu độ. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết thế nào là tự do đích thực.
Bài đọc I cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về tự do. Khi dân Do thái muốn sống và làm theo sở thích, theo bản năng, đi trong tội lỗi, họ nghĩ như vậy mới tự do nhưng kết quả họ phải chịu sống trong cảnh nô lệ tủi nhục nơi đất khách Babilon.
Đức Kitô là ánh sáng tình yêu mà Thiên Chúa đã tặng ban cho nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ chúng ta không phải bằng khả năng của ta nhưng bằng tình thương của Ngài. Đứng trước tình yêu bao la đó, chúng ta có hai thái độ: Tin hay không tin. Nếu tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, chúng ta sẽ được sống. Trái lại, nếu từ chối, chúng ta sẽ bị luận phạt.
Người thời đại không muốn bị trói buộc hay uốn mình trong một khuôn khổ. Nghĩa là người ta chỉ thích làm theo những gì mình muốn: Muốn ăn, muốn nói, muốn chơi, muốn làm gì tuỳ theo sở thích. Nhưng tự do đó sẽ biến chúng ta thành nô lệ sống buông thả theo bản năng, và trở thành một con người vô kỹ luật, vô ý thức. Chính những thứ đó sẽ làm mất nhân cách và phẩm giá của chúng ta.
Nhưng, có thứ nô lệ sẽ mang lại cho chúng ta tự do và hạnh phúc. Đó là nô lệ cho Thiên Chúa và lề luật của Ngài. Kỳ thực, khi đó người ta không cảm thấy mình nô lệ, trái lại cảm thấy tự do, hạnh phúc: "Chúng tasống dưới chế độ Lề luật nhưng thật sự chúng ta là con cái của tự do.". Lề luật Chúa không làm cho chúng ta trở thành tên nô lệ nhưng nhằm mang lại hạnh phúc. Vì nô lệ tội lỗi, thì phải chết; còn nô lệ phục vụ Thiên Chúa thì sẽ được nên công chính, thánh thiện và sự sống đời đời. Khi có niềm vui và hạnh phúc, chúng ta không thể là nô lệ.
Là người chắc chắn không ai muốn sống trong bóng tối, nhưng sống theo ánh sáng thì ai cũng ngại. Chấp nhận Đức Kitô thì dễ, nhưng sống theo giáo huấn của Ngài thì không mấy ai thích: " Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy". Và điều này sẽ làm cho chúng ta mất tự do. Nhưng tự do là gì, nếu không phải đi trong đường lối của Thiên Chúa, khi đó chúng ta sễ được tự do vì:" Sự Thật sẽ giải phóng các con." Ga 8, 32. Lề luật giúp cho con người sử dụng tự do một cách có ý thức và trách nhiệm. Sống nuông chìu theo sở thích bản năng, vô kỹ luật thì cũng giống như ngựa không dây cương, hay thuyền không bánh láy, chúng ta không thể điều khiển cuộc đời mình, cuối cùng trở thành nô lệ cho tội lỗi. Cũng như Krisnamuti nói: "Chỉ có chân lý mới đem lại sự tự do cho chúng ta, chứ không phải ước vọng của chúng ta muốn được tự do."
Lạy Chúa Giêsu! Xin cho chúng con nhận ra Chúa là Chân Lý, và xin ánh sáng Chân lý Chúa luôn chỉ đường dẫn lối để chúng con xua tan bóng đêm tội lỗi nơi tâm hồn chúng con. Amen.
16. Phận người yếu đuối và tội lỗi
(John W. Martens - Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
“Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,17).
Một trong những thời điểm đen tối nhất trong lịch sử dân Do thái chính là việc thành phố Giê-ru-sa-lem và Đền thờ bị những đội quân của đế quốc Babylon phá hủy, rồi tiếp sau đó là cuộc lưu đày sang Babylon. Theo người ghi chép biên niên sử, biến cố này chẳng phải là chuyện mà Thiên Chúa muốn, “nhưng là vì dân chúng cứ tiếp tục nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, coi thường Lời của Người, nhạo báng các tiên tri, cho tới khi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đổ lên dân của Người, và vô phương cứu chữa.” Chỉ khi đó, quân đội Babylon mới đến tấn công họ.
Quân Babylon ngạo mạn đến đánh chiếm đất Ít-ra-en. Trẻ già đều bị họ giết mà “chẳng chút xót thương, bất kể là phụ nữ, người già hay kẻ yếu đuối”. Tài sản và của cải bị cướp được chuyển hết về Babylon; Đền thờ bị thiêu hủy bình địa, các bức tường của thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ; còn những ai không bị giết thì bị bắt đi lưu đày ở Babylon và trở thành những nô lệ.
Thế rồi bên bờ sông Babylon, họ ngồi than khóc tội lỗi của mình, và Thiên Chúa lại đến với dân Do thái bị lưu đày, và yên ủi họ rằng sẽ đến một ngày họ sẽ được trở về quê hương của mình. Sau khi vua Cyrus của Ba Tư cùng quân đội của nhà vua chiến thắng đế quốc Babylon, dân Do thái được phép quay trở về quê hương của mình để xây dựng lại, và điều này đã “hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa đã nói qua miệng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a”. Thế là dân Do thái đã bước từ nơi tăm tối sang miền ánh sáng.
Chuyện Thiên Chúa đến cứu độ dân của Người như vậy chẳng phải do dân Do thái giờ đây đã biết sống công chính, nhưng vì Thiên Chúa dủ lòng thương xót dân của Người. Qua Ét-ra, Nê-hê-mia và Hắc-gai, chúng ta biết dân Do thái cần phải quay trở về và tuân giữ những lề luật của Thiên Chúa mà đã họ lãng quên, canh tân đổi mới cuộc sống và tái xây dựng lại Đền thờ đã bị phá hủy. Thiên Chúa không chờ đợi cho đến khi họ phải đạt tới một cuộc sống công chính trước đã, nhưng chỉ cần hội đủ những điều kiện để sự công chính có thể nở hoa.
Đây chính là điều mà tác giả thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô đã nói tới. Thánh Phao-lô đã nói về việc Thiên Chúa đến với con người “ngay cả khi chúng ta phải chết vì tội lỗi của mình”. Thiên Chúa đến để ban thưởng cho chúng ta, không phải vì chúng ta đã đạt tới một mức độ công chính cần thiết nào đó, nhưng vì Thiên Chúa xót thương và Người muốn đặt chúng ta “đồng ngự trị trên nước trời với Đức Ki-tô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô”. Tất cả những chuyện này đã xảy ra như vậy là do sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô viết rằng: “Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa”. Ơn cứu rỗi là một quà tặng, là một ân ban. Vì thế, chúng ta được dạy rằng tất cả chúng ta được cứu độ là “nhờ đức tin” (pistis) vốn tự nó là một quà tặng. Ơn cứu rỗi không thể là chuyện do chúng ta đạt được, do mua bán hay mặc cả được, nhưng đức tin là sự đáp trả thiết yếu về phía con người. Đức tin là “quà tặng nhưng không” của Thiên Chúa, cho phép chúng ta sống đúng theo hình ảnh của Thiên Chúa, vì chúng ta “được tạo dựng trong Đức Giê-su Ki-tô để làm các việc lành (ergois agathois) mà Thiên Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành”.
Trong Tin mừng theo Thánh Gio-an, Đức Giê-su nói với chúng ta rằng “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”. Hạn từ “tin” trong Ga 3,16 ở đây là động từ của “pistis”, cùng một hạn từ được dịch ra là “đức tin” ở trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô. Tất cả những ai tin (pisteuôn) vào Người Con của Thiên Chúa, thì đang làm cho mình trở thành hình ảnh của Thiên Chúa để được thông dự vào sự sống vĩnh cửu, hay theo lối nói của thư Ê-phê-xô, là “đồng ngự trị trên nước trời” với Đức Ki-tô.
Chính Đức tin này cho phép chúng ta (dẫu chúng ta còn sống trong tình trạng tội lỗi) vẫn có thể nhìn ra rằng “sự sáng đã đến trong thế gian” và “những ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động (erga) của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa". Thư gửi tín hữu Ê-phê-xô thì nói rằng chúng ta được tạo dựng để làm “các việc lành”, trong khi Tin mừng Gio-an lại nói những ai sống trong “sự sáng” thì thực thi “những việc làm” của họ trong Thiên Chúa. Cũng một hạn từ Hy lạp (ergon) được dùng cho “các việc lành” trong thư gửi Ê-phê-xô và “những hành động” trong Tin mừng Gio-an.
Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa là ơn mà chúng ta không xứng đáng, lại được khởi sự với đức tin. Nhưng sự đáp trả của chúng ta trước ân ban của Thiên Chúa sẽ được thể hiện qua các việc lành, “để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa.” Những việc làm này tất nhiên không phải để chúng ta xứng đáng được ơn cứu rỗi, nhưng là sự đáp trả trong niềm vui trước ân ban cứu độ do lòng thương xót của Thiên Chúa.
Suy tư: Bạn hãy suy nghĩ xem cách nào để ân ban nhưng không của Thiên Chúa này sẽ giúp bạn thực hiện được những việc lành.
17. Nhìn lên Thập Giá
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất Hành trong Cựu Ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu truyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê. Chúa liền cho rắn bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Mô-sê cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời".
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửa bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi". Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng".
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm". Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Ba-ra-ba, vì Ba-ra-ba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?
Kể từ khi thập hình của người Rô ma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành Thánh giá và bóng Thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của Thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trên nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục Sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu Thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.
18. Thiên Chúa yêu thế gian
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa yêu con người ngay lúc con người đang còn trong tình trạng tội, nghĩa là, Ngài yêu con người ngay cả khi họ còn đang chống cưỡng Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho Lời Ngài nhập thể làm người, Ngài đã ban Thánh Thần thúc đẩy và mời gọi con người trở lại với Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu con người vô cùng.
I. Thiên Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái cho dù họ phản loạn bất trung
Dân Do Thái là một gương điển hình cho thấy tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển chọn Abraham, đã mời ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho; Ngài hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, sẽ ban cho ông có đất sở hữu, sẽ làm cho ông trở thành mối chúc lành. Abraham đã quảng đại đáp trả lời mời của Thiên Chúa, và trở thành ông tổ của dân tộc Do Thái.
Dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương yêu đặc biệt. Ngài đã dùng Môsê để giải phóng dân khỏi ách nô lệ bên Aicập, ban cho họ đất Canaan, cho họ những vị thẩm phán, các vua, và các tiên tri để hướng dẫn chăm sóc dân nhân danh Ngài. Thế nhưng theo sách Ký Sự (Sử Biên Niên), mọi tầng lớp dân đều phạm tội chống đối Thiên Chúa, kể cả các đầu mục, tư tế, và các tầng lớp lãnh đạo. Thiên Chúa đã sai các tiên tri như những sứ giả đặc biệt đến với dân, nhưng họ cũng chẳng nghe, nên Chúa đã để họ phải lưu đày ở Babylon.
Tuy để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng Thiên Chúa vẫn thương dân Ngài; Ngài đã dùng vua nước Ba-Tư là Kyrô cho dân Do Thái lưu đày được trở về quê cha đất tổ của mình. Những tai họa hay đau khổ xảy đến giúp dân Do Thái nhận ra những sai trái trong hành vi tư tưởng của mình, để rồi họ trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng đã để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng cũng là Đấng dẫn dân trở về quê hương.
II. Thiên Chúa yêu ta ngay khi ta còn là tội nhân
Thường người ta chỉ yêu người đẹp, chỉ mến người tốt. Nếu ai làm điều dữ mà bị nạn, người ta nói “đáng đời nó;” hơn nữa, người ta còn đòi Thiên Chúa trả oán khi bị oan nghiệt. Tuy nhiên, tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng và suy nghĩ của loài người. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng từ bi; Ngài yêu thương con người vô cùng nên ngay khi con người còn là tội nhân, thì Ngài vẫn yêu thương và tìm cách cứu độ con người. Thiên Chúa luôn tìm cách giúp ta trở lại với Ngài, để ta thành người đẹp và dễ thương thật sự. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, và cũng là Đấng giúp ta nên đẹp và tuyệt hơn.
Thực vậy, từ khi Thiên Chúa dẫn dân ra khỏi Aicập qua Môsê, dân Do Thái nhiều lần không tin tưởng, bất tuân, và làm trái ý Thiên Chúa; chẳng hạn họ đòi nước và muốn ném đá Môsê, đòi ăn thịt giữa nơi hoang địa, thờ bò vàng khi Môsê đang cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa trên núi, v.v.; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương tha thứ cho dân. Mỗi người chúng ta cũng đã phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, không chỉ một lần nhưng nhiều lần; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương, Ngài vẫn mời gọi chúng ta trở lại với Ngài, Ngài ban cho chúng ta bao nhiêu dịp để nhận ra tình yêu vô bờ bến, để chúng ta ăn năn hối lỗi trở về với Ngài.
Thiên Chúa không chấp nhất chúng ta xúc phạm đến Ngài bao nhiêu lần, và nặng nhẹ thế nào. Điều quan trọng là chúng ta trở về với Thiên Chúa. Như người Cha trong dụ ngôn người con hoang trở về, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta đã mất. Thiên Chúa hạnh phúc khi chúng ta trở lại với Ngài. Cả trời đất đều hân hoan khi một người tội lỗi ăn năm sám hối (Lc.15, 10.7).
III. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi…
Tình yêu Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Không gì có thể sánh với tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Qua những thụ tạo hữu hình, con người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa; nhưng với biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, con người nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa một cách đặc biệt và có sức thuyết phục hơn.
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga.3, 16). Đức Yêsu là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Có thể nói, không bao giờ Thiên Chúa kết án con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì tình yêu, để con người được chia sẻ sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngài muốn con người trở lại với Ngài và được sống. Ngài không muốn con người phải trầm luân vĩnh cửu.
Thiên Chúa yêu con người, Thiên Chúa đã đang và sẽ làm tất cả để được con người. Nói theo ngôn ngữ nhân loại, Thiên Chúa đang cố gắng làm “hết sức và hết khả năng” để con người yêu Ngài. Trong tình yêu không có võ lực, không có áp bức. Chỉ có tình yêu chân thực khi sống trong sự thật và tự do. Võ lực, áp bức, gian dối không đi chung với tình yêu. Tình yêu đòi tự do và sự thật. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, và chắc chắn con người sẽ rung động trước tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ai đáp trả tình yêu, thì sống và hạnh phúc trong tình yêu. Ai từ chối tình yêu, thì không hạnh phúc và không có sự sống đích thực. Chính hành vi từ chối tình yêu, làm người ta bất hạnh. Hành vi làm điều dữ, làm người đó đau khổ, và làm người khác bị ảnh hưởng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, đâu là hành vi xấu thật sự? Khi nào người ta phạm tội?
2. Bạn có nghĩ rằng đau khổ là hậu quả của tội không? Tại sao?
3. Tại sao Đức Yêsu lại là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người?
19. Tuyệt vọng trong hy vọng
"... ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16).
Phật giáo có câu: "đời là bể khổ" nghĩa là con người từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời chỉ gặp toàn là đau khổ, tội lỗi, chết chốc... Đây là một trong những ưu tư mà con người phải mang lấy. Đặc biệt hơn khi đối diện với cái chết, con người dù tài giỏi đến đâu cũng đành bó tay và cúi đầu im lặng. Không khéo sẽ dẫn con người đến chổ tuyệt vọng. Nhưng là con người thì ai cũng mong cho mình một cuộc sống an vui, một gia đình ấm no và hạnh phúc. Nhưng đó chỉ là mộng ước, còn thực tế thử hỏi có mấy ai được như vậy?
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn tích cực, mang đầy ý nghĩa và niềm hy vọng từ những đau khổ, tội lỗi và chết chốc trong cuộc sống. Như thánh Phaolô dạy, "Niềm hy vọng của tôi là Thập giá Đức Kitô" (Gl 6,14). Với tôi, sống là chiến đấu; chết là chiến thắng. Tôi hoàn toàn tin tưởng ký thác vào lòng từ bi nhân hậu cho tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, Đức Kitô đã chiến thắng sự chết và phục sinh vinh hiển ngay trong trần gian này. Đây là đích điểm mà tôi tin tưởng khi phải trực diện với biết bao nghiệt ngã của đau thương, biết bao sóng gió vùi dập lên cuộc đời, và nhất là mai đây phải ngậm ngùi trong tuyệt vọng của cái chết. Và lời hứa của Ngài là chìa khoá mở ra một chân trời hy vọng: "...ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời"(Ga 3,16). Chìa khoá này, giúp tôi xác tín một cách chắc chắn rằng: không có sự chết và càng không có sự chết trong khi chỉ có những người đang sống trên thế giới này và thế giới bên kia. Mặc dầu sự chết là một thực tại, nhưng chết chỉ trong chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi. Bước đi từ tạm thời sang vĩnh cửu. Bước đi từ hữu hạn sang vô hạn.
Và cũng chính lời hứa ấy đã âm thầm len lỏi và lấn sâu vào lòng của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, đến nỗi Ngài phải thốt lên trên giường hấp hối: "Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống". Hơn thế nữa Thánh Phanxicô đã xác tín niềm tin về cái chết của mình rằng: "Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi, lúc con người nằm yên giấc ngủ, mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai". Quả thế, với những người không có niềm tin thì chết là tuyệt vọng. Ngược lại, với tôi chết là chiến thắng là khởi điểm cho một cuộc sống mới: sống với Chúa, sống bên Chúa, sống trong Chúa và sống như Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Vua tình yêu, Ngài đã chiến thắng sự chết trong đau khổ, trong thất vọng trên giường thập giá. Xin cho con ý thức rằng: Chấp nhận mọi nghịch cảnh đau thương trong cuộc đời mà trên giường hấp hối, trước khi chết con chưa làm được. Nói lời yêu thương mà trong cơn nguy tử con không thể nói được. Hiến thân cho anh em khi còn sống mà trong nấm mồ con đang bất lực. Xin cho con tin tưởng vững vàng trong giay phút hiện tại, để rồi mai đây con không tuyệt vọng mà mãi mãi ra đi trong hy vọng và trong vinh quang bất diệt.
20. Chuyện thưởng phạt
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Chúa hạ con xuống rồi Người lại nâng con lên. Chúa dìm con xuống hố sâu và Người lại nhấc con lên…Bàng bạc đâu đó cái ý tưởng này trong các lời ca, trong nhiều cái nhìn tu đức và cả trong một vài kiểu cách diển tả của Thánh Kinh, đặc biệt là Cưụ Ước. Khi dân được tuyển chọn bất trung, phản bội, Thiên Chúa trừng phạt dân, thông thường bằng cách đày ải dân vào kiếp nô lệ ngoại bang để bày tỏ cơn thịnh nộ. Nhưng rồi sau đó Người lại giải thoát dân để bày tỏ lòng thương xót.
Lời mạc khải là Lời của Thiên Chúa, nhưng lại được trình bày bằng ngôn ngữ nhân loại, qua những con người cụ thể của một thời gian, không gian, nền văn hoá nhất định. Chắc chắn khó có thể tránh khỏi chuyện gán cho Thiên Chúa những tâm tình, ý nghĩ, đường lối, cung cách hành xử mang đậm nét con người. Vì thế chuyện “suy bụng ta ra bụng người” một cách nào đó vẫn bàng bạc ít nhiều trong các trang Kinh Thánh.
Thiên Chúa đày ải và lại giải phóng dân để dân không chỉ để cho dân nhận ra quyền năng và tình yêu của Người mà còn để dân phải gắn bó, trung thành với Người ư? Không lẽ chuyện vừa đấm vừa xoa, chuyện kế sách “cây gậy và củ cà rốt”, chuyện dìm người ta xuống nước cho gần chết ngạt rồi sau đó thả tay ra cho người ta hít thở để người ta rối rít cám ơn mình… cũng là “chuyện tình” giữa Thiên Chúa với nhân loại ư? Chắc chắn tuyệt đối không phải thế. Nếu giả như Thiên Chúa cũng hành xử với con người theo kiểu cách mà nhiều nhà cầm quyền khôn ranh, hay nhiều thể chế độc tài gian ác đã hành xử thì Người chỉ đáng cho chúng ta kính sợ hay kinh sợ mà không bao giờ đáng được kính mến.
Để có cái nhìn tương đối khá chính xác và “gần” chân lý hơn, thiết tưởng không gì hơn hãy lắng nghe những lời do miệng Con Thiên Chúa làm người phán: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” ( Ga 3,15 ).
1. Thiên Chúa không phải là tác giả của sự dữ. Là Đấng toàn thiện, nên sự dữ không thể và không bao giờ do Thiên Chúa gây ra. Thế mà con người rất nhiều khi gặp phải sự dữ thì lại gán ghép cho Thiên Chúa. Xưa kia, khi đi trong hoang địa, dân Chúa đã phản loạn và khi rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người thì người ta cho rằng Thiên Chúa trừng phạt họ bằng cách “cho” rắn bò ra cắn chết họ. Cái ý nghĩ về chuyện “trời phạt” đã từng có trong tâm thức của con người xưa nay. Nhờ lời mạc khải, đặc biệt là lời hoàn hảo của Đấng Cứu độ, chúng ta mới biết rằng Thiên Chúa không phải là ông thần thích báo thù hay trừng phạt. Tuy nhiên, có nhiều lúc Người lại “để” cho sự dữ xảy ra mà không ra tay ngăn cản để cảnh tỉnh con ngưòi về tình trạng tội lỗi của họ hoặc để thanh luyện tình yêu của họ đối với Người, giúp họ ngày càng yêu mến Người cách vô vị lợi và chân thành hơn.
Không kể những sự dữ mang tính mầu nhiệm mà ta không thể suy thấu, thì có thể nói hầu hết các sự dữ xảy ra là do hậu quả của tội lỗi của con người gây ra cho nhau hay cho chính bản thân mình. Con người ta, khi “chẹt chân thì dễ há miệng” và “hữu sự thì dễ vái tứ phương”. Như thế, những sự dữ vẫn có đó ý nghĩa của nó với kiếp người chúng ta. Những sự khốn khó ở đời này vẫn còn đó vai trò của người thầy dạy giỏi. Cho dù đôi khi cái khó bó cái khôn, nhưng sự thường thì “gian nan rèn nhân đức”. Dưới khía cạnh nhân bản thì gian khổ là cơ hội giúp ta rèn luyện sự nhẫn nại, sự bền chí…còn dưới chiều kích đức tin, thì gian khổ giúp ta biết khiêm nhu và tín thác vào tình yêu và của Thiên Chúa. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.” ( Ep 2,8-9 )
2. Thiên Chúa là Đấng đầy lòng xót thương. Có thể nói đây là ý chính của phần Phụng Vụ lời Chúa mà Hội Thánh dọn cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa Chay B này. Trong cảnh tha hương lưu đày, dân Chúa xưa luôn hướng về Đền thánh Giêrusalem. Khi bày tỏ nổi lòng của dân: “Giêrusalem, lòng này nếu quên người thì lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm” ( Tv 136 ), tác giả Thánh Vịnh mời gọi dân suy đến tấm lòng của Thiên Chúa. Các sứ ngôn sau khi cảnh báo dân về tội phản nghịch của họ cùng với các hình phạt sẽ phải hứng chịu thì liền sau đó thường bày tỏ lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa. “ Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” ( Hs 14,5 ). Cố nhạc sĩ họ Trịnh đã từng ca thán: “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người”. Thế nhưng Kinh Thánh khẳng định rằng dù cho có người mẹ nào nhẫn tâm bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ chẳng bao giờ bỏ loài người. Thánh Phaolô nói với tín hữu Ephêsô: “Thưa anh em, Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” ( Ep 2,4 ).
Thiên Chúa không thể bỏ con người. Một lời khẳng định xem ra khá hàm hồ, nhưng thật chính xác vì “Thiên Chúa không thể chối bỏ chính Người, vì Người là Tình Yêu ( x.1Ga 4,8 ). Dù trời cao hay đất thấp, dù thiên thần hay thiên phủ…không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu ( x.Rm 8,39 ). Như thế, nếu chúng ta vẫn chìm trong bóng tối thì chính chúng ta phải chịu trách nhiệm vì đã khước từ ánh sáng.
Thiên Chúa là Đấng ân thưởng. Và chính chúng ta là những người luận phạt. Nếu chúng ta chọn ánh sáng tức là tin vào Chúa Giêsu và sống theo lời của Người thì chúng ta được Thiên Chúa ân thưởng. Trái lại nếu chúng ta chối từ Chúa Kitô thì chúng ta, chứ không ai khác, là người kết án, luận phạt chính bản thân mình.
21. Tin Chúa - Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc sống có niềm tin là cuộc sống hạnh phúc. Không phải hạnh phúc lúc nào cũng giống nhau. Có lúc ta vui nhiều, lại có lúc ít vui. Có niềm vui dạt dào lại có niềm vui nhè nhẹ, thoang thoảng. Vui dù ít, dù nhiều đều là hạnh phúc, kết quả của niềm tin. Niềm tin nơi mỗi người lại khác nhau. Có người đặt niềm tin trên thành công, kẻ khác trên vật chất, kẻ khác nữa trên danh vọng, kẻ khác dựa vào tôn giáo. Bởi đặt niềm tin khác nhau nên niềm vui cũng đến rồi đi khác nhau. Niềm vui qua mau bởi chính nguồn gốc của niềm tin không vững chắc. Gốc không vững, chắc chắn ảnh hưởng đến ngọn, hoa lá cành. Như thế cần đi tìm một nguồn gốc vững chắc cho niềm tin vì niềm tin bảo vệ hạnh phúc. Niềm tin vạch đường, vẽ ra viễn tượng cho cuộc sống tương lai. Người ta sống thực hiện, mong đạt được giấc mơ của niềm tin. Đạt được ước mơ của niềm tin mang lại hạnh phúc, nguồn vui. Hạnh phúc bền lâu nếu gốc của niềm tin vững chắc. Hạnh phúc mau tàn, chóng qua nếu gốc của niềm tin biến chuyển ảnh hưởng bởi điều kiện xã hội.
Niềm tin vững chắc là niềm tin tôn giáo bởi niềm tin này cao hơn vật chất nên vật chất dù biến đổi cũng tác hại rất ít đến niềm tin tôn giáo. Có nhiều tôn giáo khác nhau. Về phương diện đạo đức tôn giáo thường có những điểm giống nhau nhưng niềm tin tôn giáo không giống nhau. Căn bản là niềm tin mà niềm tin khác nhau tạo thành tôn giáo khác nhau. Bởi khác biệt về niềm tin nên mới có tôn giáo này, tôn giáo kia. Chính vì khác biệt mà cần chọn lựa, không phải chọn lựa tôn giáo thích hợp cho mình mà chọn lựa tôn giáo có nguồn gốc vĩnh cửu bởi ai cũng đi tìm hạnh phúc vĩnh cửu.
Nicodemus sanh ra trong gia đình quí tộc, giầu có, thành công trên đời. Ông chan chứa danh vọng, đầy quyền chức thuộc hàng lãnh đạo. Bao kẻ ước mơ mong sống thử một ngày như ông nhưng không được trong khi đó Micodemusvui với những gì mình có nhưng vẫn thấy thiếu hạnh phúc vĩnh cửu. Cuộc sống đạo đức không thoả mãn ước mơ tâm hồn. Có lẽ ông có cảm tình với Đức Kitô khi Ngài thanh tẩy đền thờ, dùng giây thừng đuổi kẻ buôn bán.
Ba lần ông đến gặp Đức Kitô mong tìm nơi Ngài điều đang thiếu. Lần đầu có lẽ vì sợ tai tiếng, giữa đêm ông gõ cửa xin gặp Đức Kitô. Trong cuộc đối thoại ông không hiểu làm sao người lớn lại có thể tái sanh trong nước hằng sống. Đức Kitô đã mở trí ông. Có thể nói ông được thanh tẩy không phải bằng nước mà chính Lời Chúa soi sáng tâm hồn. Lần thứ hai trước toà ông công khai lên tiếng phản đối cách phán xét, xử án bất công với Đức Kitô. Kêu gọi họ phải tuân thủ luật lệ hiện hành. Lần thứ ba là kinh nghiệm đau đớn nhất. Ông cùng với bạn mình hiện diện tháo đinh Đức Kitô.
Nicodemus hy vọng gì nơi người bị đóng đinh, chết trên thập giá?
Qua cái chết của Đức Kitô mắt ông nhìn thấy ánh sáng chân lí và bắt gặp niềm vui bất diệt nơi Ngài. Tình thương Đức Kitô dành cho những phụ nữ đứng bên đường than khóc làm mềm tim ông. Lòng nhân ái Đức Kitô dành cho kẻ trộm biết thống hối tăng thêm đức tin cho ông. Lòng mến Đức Kitô dành cho bà Veronica trao khăn cho Chúa lau mặt thôi thúc tâm hồn ông tin Chúa. Chính ông rủ người bạn quí tộc Joseph of Arimathia đến chôn cất Đức Kitô. Người bạn này dành phần mộ riêng mình cho Đức Kitô. Nocodemus tặng Đức Kitô đủ số lượng mộc dược cho việc an táng.
Nicodemus có được niềm tin không phải lúc Đức Kitô đang lừng danh nhưng lúc Đức Kitô chết đau thương trên thập giá. Chính đau khổ của thập giá mở mắt đức tin ông.
22. Đón nhận ánh sáng – Peter Feldmeier
(Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Thiên Chúa yêu trần gian đến độ trao ban chính con một yêu dấu của Ngài” (Ga 3,16)
Có một đội bóng rổ khá nổi tiếng ở Denver Hoa Kỳ đã chọn câu Kinh thánh Ga 3,16 để quảng bá thương hiệu cho mình. Cầu thủ Tim Tebow còn cho xăm câu Kinh thánh đó trên khuôn mặt, sát dưới đôi mắt của anh ta. Đây là câu Kinh thánh được trích dẫn trong bài Tin mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban con một, để ai tin vào con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Đó là lời huấn dụ Đức Giêsu ngỏ trao cho Nicôđêmô, khi Ngài khải thị về ánh sáng: “Ánh sáng đã đến trong thế gian” (3,19).
Ngài còn chỉ dẫn cho ông biết, là người ta phải được sinh ra từ trên cao. Nicôđêmô lắc đầu không hiểu. Ngài hướng dẫn tiếp, là con người phải được tái sinh bởi nước và Thần khí. Lại một lần nữa, Nicôđêmô ngơ ngác chẳng hiểu tý nào.
Làm sao Nicôđêmô, và ngay cả chúng ta, có thể hiểu và thoát ra khỏi bóng tối? Trong đáp án cuối cùng, Đức Giêsu đã nói cho Nicôđêmô: “ Như Môsê đã giương cao con rắn đồng trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải bị treo thân như vậy, để những ai tin vào Ngài sẽ có được sự sống đời đời”. Sau này, như được nhắc đến trong Tin mừng Gioan, Đức Giêsu tiếp tục giải trình: “Khi các ông treo Con Người lên, các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu (8,28)”, và Ngài tiếp tục vén mở sứ mạng cứu thế của Ngài: “ Khi tôi được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12,32). Ở đây, Đức Giêsu nói về Thập giá của Ngài như là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa và là biểu tượng ơn cứu rỗi cho mọi người.
Nhưng điều gì khiến Thập giá minh thị sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa và lôi cuốn chúng ta? Nguyên do nào để khi chúng ta nhìn lên Thập giá, chúng ta được cứu chữa? Đối với Đức Giêsu, Thập giá chính là “Giờ” và “Vinh quang” của Ngài” (Ga 13,23; 17,1). Thập giá là sự diễn bày sâu sa nhất tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến độ trao ban chính con một của Ngài”. Đức Giêsu đã tự hiến thân, đã dâng trao cho chúng ta trọn vẹn, và trên Thập giá Ngài biểu tỏ ánh sáng của tình yêu linh thánh Thiên Chúa ban trao cho con người. Ánh sáng và vinh quang ở đây chính là hành vi tự hiến, tự biến mình ra hư không. Ngài trở nên quà tặng vô giá để ban trao cho ta. Đấng Cứu thế trên Thập giá đã bày tỏtình yêu thâm sâu tuyệt vời nhất, và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Nhưng chúng ta phải làm gì để đáp lại tình yêu đó?
Tin mừng hôm nay vạch dẫn cho chúng ta một phương thức: Đó là Tin vào Ngài. Tin vào Thiên Chúa và Tin vào tình yêu của Thiên Chúa là câu trả lời duy nhất. Nhưng tin ở đây không phải là một hành động suy lý. Những lý lẽ thần học khiến đầu óc chúng ta dễ chấp nhận và khẳng quyết “Đức Giêsu là Chúa”. Nhưng đây không phải là thái độ của Đức tin. Ngay cả ma quỷ cũng chấp nhận sự thật về uy quyền của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và chúng run sợ trước uy quyền đó (Giacôbê 2,19). Đức tin mà Chúa Giêsu mời gọi, thách đố chúng ta một cách thẳng thắn, đó là “Tin Vào” (Pisteu) Ngài. Đây là một tư thế nội tâm, một hành trình tiến sâu vào trong qũy đạo tình yêu của Thiên Chúa và phó thác trọn vẹn cho Ngài: “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ thầy cũng sẽ ở đó (Ga 12,26)”.
Trong Tin mừng Gioan, Thánh sử nêu bật hai chủ đề chính “Tin” và “ Yêu”. Hai phạm trù này không thể tách rời nhau. “Tin” là đi vào quỹ đạo của Đức Giêsu, đón nhận quà tặng vô giá nơi Ngài, hiểu biết Ngài và sống sung mãn tình yêu trong Ngài. “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy(15,9)”. Ngài còn dặn dò các môn sinh: “ Như Thầy yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau (13,34)”.
Bạn đã từng trao tặng ai một món quà gì hay chưa, không phải chỉ là món quà vật chất, nhưng quý giá hơn, là chính món quà tinh thần? Ví dụ, có ai xúc pham đến bạn, bạn tha thứ cho họ, tha thứ vô điều kiện và tha thứ hoàn toàn,tận sâu từ trong đáy lòng? Có bao giờ bạn đã cho đi, cho đi chính con người của bạn, đến độ quên đi chính mình? Có bao giờ bạn để cho tình yêu linh thánh chiếm ngự tâm hồn,khiến bạn không còn nghĩ gì tới mình nữa, và hoàn toàn để tình yêu ấy chiếm đoạt? Bạn đã từng làm như thế chưa? Khi bạn đã trải nghiệm việc thực hành như vậy, thì quả thật, bạn đang chạm đến mầu nhiệm Thập giá.
Thập giá là biểu tượng tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa. Ai nhìn lên Thập giá và tin vào Ngài sẽ có sự sống đời đời. Chúng ta hãy học nơi thái độ đức tin của Nicôđêmô. Sau khi được Chúa khải thị về vinh quang Thập giá, ông đã tin. Từ một người biệt phái, ông đã trở nên môn đệ, và ông đã liều lĩnh giang rộng vòng tay để ôm đón xác Chúa từ trên cao Thập giá, đem đi chôn cất. Dưới chân Thập giá, Nicôđêmô đã diễn bày đức tin của mình.
23. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Trong cái rủi lại có cái may. Từ một thực tại xấu, Thiên Chúa có thể rút ra một thực tại tốt. Từ cuộc đổ vỡ trong công cuộc tạo dựng nhân loại, Thiên Chúa lại tái tạo nó đẹp đẽ hơn theo hình ảnh Con Một Người là Chúa Kitô. Tái tạo hay phục hồi là một đề tài lớn của Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay và Phục Sinh. Nhưng động lực tình yêu khiến Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo này mới là cao điểm suy niệm. Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua biến cố lịch sử Người giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ, nhưng đó chỉ là hình bóng tiên báo tuyệt đỉnh tình yêu qua hành động Thiên Chúa “sai Con của Người đến thế gian, để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
1. Lịch sử Israel: yêu cho roi cho vọt (bài đọc Cựu Ước – 2 Sb 36:14-16.19-23)
Một đoạn sách Sử biên niên tiêu biểu như bài đọc Cựu Ước hôm nay cũng đủ để phác họa tất cả lịch sử dân Chúa với ba nét chính: Israel bất trung với Thiên Chúa và không chịu hối cải – Thiên Chúa trừng phạt họ, thường là họ bị phát lưu hoặc bị lân bang đánh phá – Thiên Chúa thương xót tha thứ và tái thiết Israel. Lịch sử dân Chúa không chủ yếu xây dựng trên những cột mốc năm tháng, nhưng trên mối quan hệ yêu thương thăng trầm và đổi thay giữa Thiên Chúa và dân Israel. Lịch sử khởi đầu bằng một sự tuyển chọn từ phía Thiên Chúa. Người đã kêu gọi Áp-ra-ham làm tổ phụ của một dân riêng với hy vọng dân này sẽ luôn luôn nhìn nhận Người là Đức Chúa của họ và phụng thờ Người, đồng thời tuân giữ luật pháp Người ban cho họ là Mười điều răn. Mà đã tuyển chọn và kêu gọi thì cần phải có sự đáp lại của Israel. Do đó, mỗi khi dân Chúa quay mặt về phía các tà thần và không đáp lời gọi sống theo luật Chúa là họ đã lỗi phạm sự trung thành đối với Người. Với thân phận làm Cha, Thiên Chúa muốn con cái Người luôn luôn ngoan ngoãn nên mới sửa dạy, sửa dạy bằng những hình phạt nhằm đánh thức lương tâm và giúp họ sống theo đường lối của Người. Việc sửa dạy này đòi hỏi kiên nhẫn và đầy lòng bao dung khoan thứ. Ta có cảm tưởng Thiên Chúa chạy đua với lỗi phạm của loài người. Tội lỗi loài người càng nhiều thì lòng nhân từ thứ tha của Chúa càng tăng gấp bội. Điều này thánh Phao-lô đã phát biểu trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (5:20).
Tuy nhiên ta cũng đọc thấy trong lịch sử dân Chúa không biết bao lần Người đã trừng phạt Israel. Phải chăng Thiên Chúa ghét bỏ Israel? Không bao giờ. Trái lại những trừng phạt ấy luôn luôn nhằm hai mục đích. Về phía Thiên Chúa, chúng là dấu chỉ biểu lộ lòng thương xót của người Cha nhân từ không bao giờ nỡ hủy diệt hay loại bỏ những gì Người đã tuyển chọn. Về phía loài người, trừng phạt của Chúa nhắm mục đích nhắc nhở kêu gọi họ hãy bỏ đường tà mà trở về sống theo luật pháp Chúa. Cha mẹ nuông chiều con cái, chúng sẽ dễ hư mất. Trái lại, răn bảo, la mắng hoặc đôi khi đánh đòn sẽ là những phương tiện nhắc nhở chúng sống cho đúng theo ý tốt của cha mẹ. Cũng vậy, những lần dân Chúa bị ngoại bang xâm chiếm và bắt đi làm nô lệ là những lần giúp họ nhìn lại lỗi lầm bất trung của họ và lối sống đi ngược với Lề Luật. Những khổ đau nhục nhằn của kiếp sống lưu đày là những ngọn roi tuy làm cho người ta đau đớn nhưng lại đầy yêu thương và nhân từ của vòng tay người Cha hoang đàng về tình thương yêu con cái.
Để hiểu rõ hơn mục đích của những trừng phạt này, ta cứ đọc kỹ ba đoạn Kinh Thánh trong bài đọc Cựu Ước hôm nay. Đoạn thứ nhất (2 Sb 36:14-16) cho thấy lỗi lầm to lớn của dân Israel làm cho Thiên Chúa “bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa”. Đoạn tiếp theo (2 Sb 36:19-21) cho thấy mức độ vô phương cứu chữa. Làm sao có thể tái thiết Giê-ru-sa-lem và nhất là thoát ách nô lệ của vương quốc Ba-tư! Đoạn thứ ba (2 Sb 36:22-23) ghi lại sự kỳ diệu của việc Thiên Chúa can thiệp. Ai có thể ngờ được Thiên Chúa dùng chính bàn tay của kẻ thù Israel để tạo điều kiện và hô hào dân Israel xây dựng Nhà Chúa tại Giê-ru-sa-lem? Nhất là lời động viên dân Chúa trong sắc chỉ của vua Ky-rô càng khiến ta suy nghĩ: “Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên…!” Rõ ràng là Thiên Chúa không “quá giận mất khôn” như ta nghĩ. Nhưng Đấng thấu suốt lòng dạ con người biết con cái mình sẽ hối lỗi ở mức độ nào của sự trừng phạt. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã nói đến cái biết này của Thiên Chúa: “Cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn” (2 Sb 36:21). Đất có được nghỉ một thời gian thì sau đó mới có thể trồng trọt phì nhiêu. Cũng vậy, những năm tháng lưu đày sẽ là thời gian để Israel tăng triển lòng tin và trung thành với Thiên Chúa. Đó cũng chính là điều thường xảy ra trong cuộc đời tín hữu. Gian nan cuộc đời thường là những nhắc nhở hoặc chuẩn bị ta thêm lòng tín thác nơi tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa định nghĩa tình yêu là gì (bài Tin Mừng – Ga 3:14-21)
Con người tốn bao nhiêu giấy mực để định nghĩa tình yêu mà cũng chẳng nói hết được ý nghĩa của nó. Còn Thiên Chúa có lối định nghĩa tình yêu hoàn toàn khác, nhưng lại vô cùng sâu sắc và thực tế. Tình yêu chỉ có thể định nghĩa đầy đủ bằng hành động, chứ không thể diễn tả bằng lời nói suông. Cho nên đối với Thiên Chúa, yêu là ban tặng. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
Thiên Chúa yêu thương Israel nên đã cứu họ thoát khỏi cái chết đời này, cái chết trong nô lệ cho ngoại bang, như bài đọc I hôm nay đã nhắc tới. Đó là hình bóng nói đến tình yêu của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại đang bị kiềm tỏa do cái chết đời đời bởi tội lỗi. Thiên Chúa yêu nhân loại nên tìm đủ mọi cách để cứu vớt nhân loại khỏi cái chết đời đời ấy. Với dân Israel, Người dùng vị thủ lãnh của nước Ba-tư để giải phóng dân Người và tái thiết Giê-ru-sa-lem. Còn với toàn thể nhân loại, Thiên Chúa đã trao nộp Con Một là Chúa Kitô cho họ, để Ngài phải hy sinh mạng sống mà cứu họ khỏi cái chết vĩnh cửu. Trên thế gian, người ta yêu thương và tặng quà, có thể là những món quà thật đắt tiền, nhưng chẳng ai dám lấy mạng sống con ruột mình để làm quà tặng cả. Vậy mà Thiên Chúa đã làm như thế. Với Người, Con Một thật đáng quý giá chừng nào, nhưng Người lại đánh đổi để lấy lại nhân loại, như thế đủ biết Người yêu thương nhân loại đến mức ta không thể lấy gì mà đo lường được. Món quà càng trân quý đối với người tặng bao nhiêu thì tình yêu của người tặng dành cho người được tặng càng lớn lao bấy nhiêu.
“Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã phục hồi mọi sự”, đó là một luận đề chính trong giáo lý của thánh Phao-lô. Không những Chúa Kitô đã khởi đầu công cuộc phục hồi cho ta danh nghĩa làm con Thiên Chúa nhờ cuộc Thương khó và Phục sinh của Người, Người còn trở nên gương mẫu và nguyên lý phục hồi quyền dưỡng tử của ta. Nói khác đi, chẳng những ta được làm con Thiên Chúa nhờ Bí tích Rửa tội, mà ta còn được cùng đồng hành với Chúa Kitô để sống tình con cái với Thiên Chúa là Cha của Chúa Kitô và của ta nữa. Chúa Kitô là sự thật và ánh sáng. Sự thật ấy cho ta biết Thiên Chúa yêu thương ta đến độ hy sinh Con Một vì ta. Ánh sáng ấy là gương mẫu và dẫn dắt ta sống như con cái Thiên Chúa. Do đó để kết thúc cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giê-su đã khẳng định: “Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:21). Nghĩa là nếu ta muốn sống đúng với Sự Thật là Thiên Chúa yêu thương ta, thì ta hãy đến với Ánh Sáng là Chúa Giê-su, để tất cả đời ta, lời nói, việc làm, tư tưởng đều được diễn tiến trong Thiên Chúa.
3. Qua Chúa Kitô, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu của Người dành cho ta (bài đọc Tân Ước – Ep 2:4-10)
Thánh Gio-an diễn tả tình yêu của Thiên Chúa là việc trao ban Con Một, còn thánh Phao-lô lại muốn nói cách thức Thiên Chúa yêu thương ta qua cuộc đời và sứ mệnh của Chúa Kitô. Hai nhà thần học tiên khởi của Kitô giáo cùng nhìn một vấn đề, nhưng dưới khía cạnh khác nhau. Nhưng cả hai đều muốn nói lên một điểm chung: Thiên Chúa rất mực yêu thương và giàu lòng thương xót. Tuy nhiên thánh Phao-lô muốn khai triển về phía con người được lãnh nhận tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã cho ta là những kẻ đã chết vì sa ngã của tổ tông lại “được cùng sống với Đức Kitô”. Đây chính là điều ta cần phải suy nghĩ để biết cách đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu ta nên Thiên Chúa mới tạo điều kiện cho ta “được cùng sống với Đức Kitô”, nghĩa là cùng với Chúa Kitô làm một cuộc biến đổi, một cuộc sống mới. Chúa Kitô đã khai mào cho một cuộc Tạo dựng Mới. Trong cuộc Tạo dựng Mới này, “chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Như vậy là thánh Phao-lô đã cho ta thấy rõ ra phải làm gì rồi, nghĩa là ta phải “sống mà thực hiện công trình tốt đẹp” của Thiên Chúa, tức công trình cứu độ của Người. Mỗi ngày sống của ta là một ngày ta thực hiện một chút công trình cứu độ của Chúa nơi ta. Cứ thế, sau khi ta đi hết những ngày trên trần gian này, ta sẽ đạt tới đích là “được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời” (Ep 2:6).
4. Sống Lời Chúa
Càng gần lễ Phục Sinh, Phụng vụ Lời Chúa càng cho ta thấy rõ hơn vai trò cứu độ của Chúa Giê-su Kitô. Người đã lấy tất cả cuộc đời Người để nói cho ta biết Thiên Chúa yêu mến và muốn cứu độ ta. Người mời gọi ta đến với Người để bắt đầu một hành trình sức sống mới, sống như “tác phẩm Thiên Chúa đã dựng nên trong Đức Kitô”. Mời gọi này quả thực là một thách đố cho ta nếu ta muốn thành tâm đáp lại. Tuy nhiên ta cũng phải ý thức rằng được mời gọi làm cuộc hành trình sức sống mới này còn là một “ân sủng” Thiên Chúa ban cho ta vì Người yêu thương ta. Ân sủng là do Thiên Chúa, nhưng lòng tin là đáp lại từ phía chúng ta vậy.
Suy nghĩ: Chúa Giê-su lập đi lập lại nhiều lần: “Ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. Điều này có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi đã sống niềm tin này như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một giáng trần để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hòa giải với Chúa. Xin ban cho toàn thể dân Chúa khắp hoàn cầu được lòng tin sống động, để hăm hở đón mừng lễ Vượt Qua sắp tới. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật IV mùa Chay).
24. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Lịch phụng vụ của Giáo hội vẫn quen gọi Chúa nhật thứ tư này là Chúa nhật màu hồng, màu của niềm vui và hạnh phúc. Sở dĩ gọi làChúa nhật màu hồng là bởi vì trong ngày hôm nay, đồng thời với phẩm phục của chủ tế được thay đổi từ màu tím u buồn sang màu hồng trong sáng, thì những bài Thánh Kinh được chọn để đọc trong thánh lễ cũng loan báo một tin mừng trọng đại cho tất cả mọi người: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính con một mình, để tất cả những ai tin vào con Ngài thì được sống đời đời.
Bởi vì Thiên Chúa không sai con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ". Tin vui trọng đại này mặc dù được chính Đức Kitô làm cho trở nên hiện thực, nhưng nó đã được chuẩn bị từ thời Cựu ước, mà chúng ta đã có dịp nghe nhắc lại một cách sơ lược trong những ngày Chúa nhật vừa qua. Đúng vậy! Từ thời xa xưa trong Cựu ước, Thiên Chúa đã dùng nhiều phương cách, nhiều trung gian để loan báo ơn cứu độ mà Người sẽ thực hiện một cách rỏ ràng và dứt khoát nơi con một của mình là Đức Giêsu Kitô. Tin mừng ấy được bảo đảm bằng một giao ước long trọng với gia tộc Noe, một gia đình nhân loại mới được tái sinh, là sẽ không bao giờ có hình phạt Đại Hồng thủy như vậy nữa; Một sự kiện mà chúng ta đã nghe nhắc lại trong ngày Chúa nhật thứ nhất mùa chay.
Lợi dụng sự trung thành của Thiên Chúa, dân tộc mới này dần dần biến giao ước đó trở thành pháo đài của sự chống đối Người, mà tháp Ba-ben là một biểu tượng hữu hình. Thế nhưng không vì sự phản bội đó mà thiên Chúa hủy bỏ kế hoạch yêu thương của mình. Lời Chúa trong ngày chúa nhật thứ hai đã cho thấy rằng: Để bày tỏ sự trung thành của mình, Thiên Chúa đã nhẫn nại chọn trong đám nhận loại hư hỏng đó một người thật sự là biết trung thành và tin tưởng nơi Người, để hình thành một dân riêng của Chúa, đó là ông Ab-ra-ham.
Bước vào chúa nhật thứ ba, chúng ta tiếp tục nhìn thấy một sự quan tâm đặc biệt mà Thiên Chúa đã dành cho dân này: Người ân cần ban bố những huấn lệnh, những lời chỉ dạy tốt lành nhất, để cho họ thật sự trở thành một dân tộc được Chúa chúc phúc. Thế nhưng một lần nữa, tình thương của Thiên Chúa bị con người lợi dụng.
Bài đọc một của ngày hôm nay cho thấy rằng: Không phải chỉ có dân chúng, mà còn cả hàng tư tế, cũng tỏ ra gàng bướng bất trung. Bao nhiêu thói hư tật xấu, bao nhiêu tội ác khủng khiếp mà dân ngoại đã làm, thì bây giờ nó lại xảy ra trong chính đền thờ; làm cho đền thờ trở nên dơ bẩn hổn tạp, mở đường cho ngoại bang xăm chiếm. Và rồi cũng thêm một lần nữa, chúng ta nhìn thấy được lòng trung thành yêu thương của Thiên Chúa: Người đã dùng triều đại Vua Cyrô để xây dựng lại đền thờ và khôi phục vương quốc Israel.
Đúng như tác giả của bức thư gửi tín hữu Do Thái đã viết: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng đến thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử". Noe, Abraham hay Cyrô đều là hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu mang ơn cứu rỗi đến cho nhân loại. Và để chứng tỏ rằng: "thời kỳ đã mãn"; nghĩa là ơn cứu rỗi do Đức Giêsu mang đến là vĩnh viễn và dứt khoát, thì trong bài phúc âm hôm nay, khi trả lời với Nicôđêmô, Người quả quyết rằng: "Như Môisen đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời".
Quả thật, lịch sữ dân tộc Do thái sẽ không bao giờ quên được câu chuyện rắn đồng trong sa mạc. Lúc đó họ nổi loạn đòi giết chết cả ông Môisen. Lập tức Chúa để cho rắn lửa bò ra khắp nơi và cắn chết nhiều người. Khi ấy họ hoãng sợ tìm đến cầu cứu Môisen, và Chúa bảo Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Bất cứ người nào bị rắn cắn mà biết nhìn lên con rắn đồng ấy thì sẽ được cứu thoát. Nếu như năm xưa con rắn đồng được treo lên cao đó như là một dấu chỉ của lòng yêu thương tha thứ, để rồi cho dù con người có năm lần bảy lượt xúc phạm đến Chúa, nhưng nếu biết tỏ lòng hối cải và nhìn lên đó thì sẽ được cứu thoát; thì hôm nay cũng vậy, việc Đức Giêsu chấp nhận bị treo trên cây thập giá, cũng chính là một sáng kiến nói lên lòng tha thứ, để rồi bất cứ một ai nhìn lên đó và tin vào Người thì sẽ được cứu thoát.
Chính vì thế mà liền sau đó Đức Giêsu khẳng định rằng: "Thiên Chúa sai con một của Ngài đến thế gian không phải là để kết án luận phạt, nhưng là để thế gian nhờ con Ngài mà được cứu độ".
Tất cả những gì mà Đức Giêsu đã làm ở trần gian này, thì Người chỉ làm có một lần duy nhất, nhưng hiệu quả thì kéo dài đến mọi nơi mọi thời. Chúng ta không có mặt cùng thời với Chúa Giêsu, nhưng phần rỗi của chúng ta, những con người tội lỗi và bất toàn vẫn được Lời Chúa bảo đảm: "Ai tin thì sẽ không bị lên án, còn ai không tin sẽ bị kết án." Những người không tin không phải là bị kết án bởi Thiên Chúa, mà là tự kết án chính mình bằng thái độ ngoan cố của mình, giống như ngày xưa chỉ có những ai nhất định cúi mặt xuống đất mà không chịu nhìn lên con rắn đồng, thì kẻ ấy mới chết.
Nhưng rồi chúng ta phải thể hiện lòng tin của mình như thế nào? Thánh Giacôbê tông đồ quả quyết rằng: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết." Nghĩa là một đức tin đúng nghĩa phải là một đức tin được hòa quyện giữa lý trí và việc làm. Dĩ nhiên là có nhiều phương cách thể hiện lòng tin của mình. Thế nhưng chủ đề chung mà các bài đọc Thánh kinh của ngày hôm nay muốn thể hiện đã gợi lên cho chúng ta một bài học lớn.
Một bài học mà suốt cuộc đời này, chúng ta chỉ có vừa đủ thời gian để thực hiện nó; đó là mang tình thương của Chúa đến cho anh chị em mình bằng chính cuộc sống hàng ngày, qua những cung cách ứng xử thắm đượm lòng bác ái của chúng ta. Khi kết thúc cuộc sống đời này, Chúa sẽ không hỏi về số quần áo mà chúng ta đang có trong tủ của mình, nhưng sẽ hỏi rằng chúng ta đã giúp cho bao nhiêu người có quần áo để mặc?
Chúa sẽ không hỏi mức lương cao nhất của chúng ta là bao nhiêu, nhưng sẽ hỏi là chúng ta có làm tổn thương nhân cách của mình để đạt được nó không? Chúa sẽ không hỏi chúng ta là đã nhận được bao nhiêu lời động viên khuyến khích, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã sẵn lòng khích lệ người khác như thế nào? Chúa sẽ không hỏi là chúng ta đã làm gì để lo cho bản thân, mà sẽ hỏi là chúng ta đã làm gì để giúp đỡ anh chi em của mình? Chúa cũng sẽ không hỏi chúng ta đã sống bên cạnh những ai, mà sẽ hỏi rằng chúng ta đã đối xử như thế nào với những người láng giềng của mình? Và nếu như ngay bây giờ, từng người trong chúng ta đang vui mừng hãnh diện với lòng mình về những điều đó khi mà chúng ta phải trả lời trước mặt Chúa, là chúng ta đang thể hiện niềm tin của mình vào Chúa cách đúng đắn.
Còn ngược lại, nếu chúng ta cảm thấy âu lo ngại ngùng trước những câu hỏi ấy, thì nhất định chúng ta hãy mau mắn sửa chữa, đặc biệt là trong mùa chay thánh này; đó chính là lý do mà ngay trong ngày khai mạc, Thánh Phaolô đã tuyên bố: "Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ".
Chúng ta nên nhớ rằng: không có một sự sửa chữa hay một sự đổi mới nào gọi là quá trể cả. Xin Chúa qua lời cầu bàu của Thánh cả Giuse, Người Công Chính, ban cho mỗi người chúng ta có được sự Công chính của Chúa để sống cuộc đời kitô hữu của mình. Nhờ đó mà mỗi ngày chúng ta được trở nên tốt hơn, xứng đáng hơn với tình thương và ơn cứu độ của Chúa dành cho chúng ta.
25. Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
(Suy niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên)
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng thương xót.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.
1.1/ Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:
- Con người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng quát các tội: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế.”
- Sai nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật, họ đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người.”
1.2/ Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:
- Sau khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố chấp không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt dân: “Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự trị.”
- Mục đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó, chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một số sẽ nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được Ngài xót thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để ngăn ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.
1.3/ Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:
- Thiên Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực lòng ăn năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu. Ngài xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải hư mất. Ngài hoàn lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ, và Lời Hứa với các Tổ-phụ.
- Thiên Chúa có toàn quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ qua các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua Ba-tư. Chính Vua này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo trước qua lời ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu.
2.1/ Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:
- Đức Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi làm con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người quay về với tình yêu Thiên Chúa.
- Ngài nâng cao địa vị và phẩm giá con người: “Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu thương họ.” Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một người con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.
- Ngài hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat con người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa.
- Ngài cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa cho con người.
2.2/ Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
- Hoàn toàn là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết. Nhưng tại sao con người không phải chết là hoàn toàn do lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này, con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.”
- Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên người và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ vọng này, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người ra đời là muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.
3/ Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.
3.1/ Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc Khổ Nạn của Người:
- Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.
- Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
3.2/ Thiên Chúa không kết án thế gian, con người lên án chính mình:
- Tình thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai Người Con tới là để gánh tội và chết cho con người: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
- Con người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào Đức Kitô: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”
3.3/ Bản án của con người: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”
- Ánh sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không tin vào Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
- Con người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong bóng tối, chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người phải chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình bằng ngoan cố ở trong bóng tối.
- Theo Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình. Con người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology, “phán xét ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại hoàn toàn tùy thuộc vào phán xét hiện tại.
- Kẻ làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các tội lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội ác xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.”
- Ngược lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi nguy hiểm do bóng tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tiến trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình giáo dục.
- Ngay cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu không có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.
- Cần nhìn toàn thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể phê bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất niềm tin nơi Ngài.
26. Tình Chúa thương con
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CMC)
Một trong những bài thơ Công Giáo nổi tiếng nhất viết bằng Anh Ngữ là bài "Sự săn đuổi của Thiên Đàng". Tác giả bài thơ đó là Francis Thompson, người đã cố xa tránh Thiên Chúa. Ông so sánh Thiên Chúa như một người thợ săn, săn bắt các linh hồn. Bài thơ đó cũng là câu truyện về cuộc đời của Thompson. Khi còn là một cậu bé, ông có ý định đi tu làm Linh Mục, nhưng vì ông lười biếng, nên cha ông đã ghi tên cho ông học trường thuốc. Sau này ông nghiện thuốc phiện và tật nghiện này đã tàn phá tinh thần lẫn thể xác ông. Ông trở thành kẻ ăn mày la cà các ngõ hẻm, đánh giầy, bán hộp quẹt và giữ ngựa cho người ta để sinh sống. Nhờ một cô bé gái nghèo khó môi giới, Thompson gặp được ông bà Wilfred Meynell. Ông bà Meynell nhận ra Thompson là người có tài và có chí hướng. Họ giúp đỡ ông quay về với Tình Yêu Thiên Chúa.
Ông đã cố tránh né Thiên Chúa ra sao, Ngài đã săn tìm ông thế nào và Tình Yêu Chúa đã bắt được ông làm sao. Đó là tất cả ý nghĩa của bài thơ.
I. TÌNH YÊU CHÚA ĐƯỢC MẶC KHẢI
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc hội kiến giữa Chúa Kitô và Nicodemô trong lúc đêm khuya. Chỉ duy có Thánh Sử Gioan nói về Nicodemô trong 3 trường hợp: Nicôdêmô đến gặp Chúa ban đêm (Jn 3:1-2), bênh vực Chúa khi những người Pharisiêu kết án (Jn 7:50), đem thuốc thơm đến xức xác Chúa (Jn19:39). Ông thuộc phái Pharisieu, là một nhân viên của Hội Đồng Cộng Tọa, bậc Thầy trong dân, Nicodemô cảm phục giáo lý của Chúa và những việc Chúa thực hiện. Nhưng vì sợ đồng bạn, không dám công khai gặp Chúa, ông kín đáo đến cùng Chúa ban đêm và được Chúa mạc khải cho biết, muốn được cứu độ phải tin vào Ngài, phải chịu Phép Rửa, tức là phải được tái sinh bằng Nước và Thánh Linh: "Ai không sinh lại bởi Nước và Thánh Linh sẽ không được vào Nước Thiên Chúa" (Jn 3:5). Đồng thời, Chúa mặc khải cho ông biết về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, luôn theo rõi con người trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Chúa Giêsu đã tự xưng mình là Con Một Thiên Chúa khi nói với Nicodemô: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để tất cả những ai tin Con của Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Jn 3:16). Tình Chúa say yêu mỗi người chúng ta còn được tỏ ra qua lời tiên tri Jeremia và Osê: "Cha yêu thương con bằng một tình yêu vĩnh cửu; nên Cha dủ tình thương mà lôi kéo con lại với Cha" (Jer 31:3). Con người đã bất tuân, cố xa lìa Chúa, đã chống lại Ngài, đã phản bội Ngài; nhưng Chúa vẫn không từ bỏ và để chứng tỏ lòng Ngài thương yêu, Ngài đã sai Con Một Yêu Dấu của Ngài xuống trần gian, chịu chết đền bồi tội lỗi, để cứu chuộc loài người đã hư mất.
Như Thompson, những linh hồn xa tránh Chúa đều bị Chúa săn đuổi để cứu vớt, vì Ngài yêu thương họ. Mỗi người chúng ta đều được Chúa yêu thương, săn đuổi, tìm kiếm trong mọi ngả đường của cuộc sống. Đã bao lần chúng ta phạm đến Ngài, lìa xa Ngài, trốn tránh Ngài, nhưng Ngài vốn theo rõi tìm kiếm, cứu vớt và tha thứ. Chúa Kitô đã dùng nhiều dụ ngôn như Tin Mừng đã tường thuật, để bày tỏ cho chúng ta thấy tình Ngài yêu thương mỗi người chúng ta. Nào dụ ngôn người con phung phá ăn chơi hoang đàng tội lỗi, khi trở về được cha yêu thương tha thứ và mở tiệc mừng. Nào dụ ngôn con chiên lạc, được người mục tử để 99 con lại trên núi, để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được, ông vác lên vai vui mừng trở về nhà. Nào dụ ngôn đồng bạc bị mất, người đàn bà thắp đèn tìm kiếm, khi tìm thấy rồi, gọi bạn bè xóm ngõ đến chung vui, vì đã tìm được đồng bạc đã mất.
II. HẬU QUẢ CỦA TỘI PHẠM ĐẾN CHÚA
Adam Evà, nguyên tổ chúng ta phản bội Chúa, xúc phạm đến tình thương của Người, đã chuốc lấy án phạt, tự đẩy mình xa cách Chúa trong kiếp sống lầm than vất vả, mất hết các đặc ân ngoại nhiên và siêu nhiên Chúa ban, linh hồn ra tối tăm u mê, thân xác ra nặng nề, lòng thú lấn thắng lòng thần, thân xác phản bội linh hồn... Ác quả tội lỗi lưu truyền lại cho cả dòng giống.
Cũng như Thompson, cố tình xa tránh Chúa, ông đã phải sống kiếp sống nghèo nàn, vất vả để tìm của độ thân; đam mê nghiện ngập hút xái đã tàn phá cả tinh thần lẫn thể xác, đã hủy hoại cả tài ba, sức lực và chí hướng cao thượng đã được Thiên Chúa phú bẩm. Con người cố chấp trong tội lỗi cũng thế, họ cố tình chống lại Chúa, xa lìa Ngài, bội phản Ngài, khinh dể Ngài, họ cũng tự chuốc lấy án phạt mình bằng một lương tâm cắn rứt, một tâm hồn mặc cảm, một tâm tư nặng trĩu và trở nên nô lệ cho quyền lực tội lỗi và gông cùm hỏa ngục.
III. ĐÁP LẠI TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG
Với lòng thống hối khiêm nhu, ai trong chúng ta cũng đã tự cảm thấy, nhiều lần chúng ta đã phản bội lại tình Chúa yêu thương chúng ta, bằng những tội lỗi xúc phạm đến Người, hoặc những thiếu sót lỗi lầm.
Hay ít ra, chúng ta cũng phải phàn nàn, vì chúng ta chưa sống xứng với những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta, ơn phần hồn cũng như ơn phần xác. Chúng ta chưa sống xứng với Ơn Gọi cao cả chúng ta được làm con Chúa, được nhiều may mắn hơn người khác, được Chúa thương yêu cưng chiều hơn.
Không tội nhân nào không cảm thấy sung sướng, được Chúa tha thứ mọi lỗi lầm, được xóa bỏ mọi vết tích tội khiên, được quên đi những điều phản bội, được giải hòa và được trở lại trong tình thương mến của Chúa.
Không con cái nào lại không cảm thấy hạnh phúc được cha mẹ thương yêu, cưng chiều, săn sóc, gìn giữ, bao bọc, tha thứ mọi lỗi lầm sơ sót làm phiền lòng các ngài.
Đối với Chúa, chúng ta cũng là những tội nhân đã bao lần xúc phạm đến Người, nhưng Chúa vẫn tha thứ, kiếm tìm và đem trở về hưởng tình yêu thương của Người. Chúng ta là những người con đã bao lần làm cho Chúa phải đau buồn vì những lỗi lầm, hay ít ra chưa sống đúng những ơn huệ Chúa ban, chưa đáp lại cân xứng lòng Chúa yêu thương và muôn ơn phúc Chúa hằng tuôn trào xuống trên chúng ta.
Thì Mùa Chay là cơ hội thuận tiện, chúng ta hãy trở về với tình Chúa yêu thương, làm hòa với Chúa để được lãnh ơn tha thứ. Canh tân cuộc sống, sống đẹp lòng Chúa hơn, xứng với tình Người yêu thương chúng ta.
Kết Luận
Để đáp lại tình Chúa yêu thương, chúng ta hãy sống xứng với Ơn Gọi cao cả làm con Chúa, bằng cách luôn sống trong ơn nghĩa Người, bằng tấm lòng người con ngoan thảo luôn làm hài lòng Cha Hiền.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta hiểu biết giá trị cao quí của Ơn Gọi làm con Chúa và luôn trung thành với hồng ân Chúa ban.
27. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Khuyến khích sám hối để được cứu. "Như Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc..."
(Ga 3,14)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Trong cuộc hành trình Mùa Chay, chúng ta đã đi được nửa đường. Bây giờ là lúc chúng ta phải sám hối và đổi mới cuộc sống. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta xứng đáng bị phạt. Nhưng nếu chúng ta sám hối thì Thiên Chúa sẵn sàng thứ tha ngay.
II. Gợi ý sám hối
Tội lỗi khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa.
Tội lỗi khiến chúng ta xa cách anh chị em.
Tội lỗi làm mất bình an ngay trong bản thân chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: 2 Sb 36,14-16.19-23
Tác giả điểm lại những giai đoạn lịch sử trước, trong và cuối thời lưu đày: vì dân Do Thái bất trung với Thiên Chúa nên Ngài để cho họ bị mất nước và phải bị lưu đày. Nhưng dù sao Thiên Chúa vẫn còn thương họ nên Ngài đã soi sáng lòng vua Kyrô nước Ba Tư ra chiếu chỉ cho phép họ hồi hương.
2. Đáp ca: Tv 136
Đây là bài ca của những người đang sống cảnh lưu đày: buồn nhớ quê hương và đền thờ Giêrusalem, buồn đến nỗi không muốn đàn hát gì nữa, chỉ mong được trở về quê hương yêu dấu.
3. Tin Mừng: Ga 3,14-21
Một phần trong cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời xuất hành. Từ đó Ngài mặc khải về tình thương của Thiên Chúa "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời". Khi đề cập đến tội lỗi của loài người, Đức Giêsu còn khẳng định: "Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ".
4. Bài đọc II: Êp 2,4-10
Thánh Phaolô nói "Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót". Do lòng thương xót ấy, khi con người vì phạm tội mà phải chết, thì Ngài đã cho họ được sống lại nhờ Đức Giêsu Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi..."
Để giúp Nicôđêmô hiểu tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nhắc lại câu nguyện ngày xưa về con rắn đồng.
Ngày xưa, trong thời xuất hành, Thiên Chúa đã hết lần này tới lần khác tỏ cho dân Do Thái thấy tình yêu của Ngài:
Vì yêu thương, Ngài đã cứu họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai cập, dẫn họ xuất hành về Đất hứa.
Họ đã chẳng nhớ ơn Ngài, lại còn đòi quay lại Ai cập để có hành tỏi thịt thà. Thiên Chúa ban cho họ manna.
Ăn manna một thời gian, họ lại đòi ăn thịt. Thiên Chúa ban cho họ chim cút từ trời rơi xuống.
Họ lại đòi nước. Ngài cho nước từ tảng đá vọt ra.
Họ lại nổi loạn đòi giết chết cả ông Môsê. Chúa để cho rắn lửa bò ra cắn chết một số người trong họ. Khi đó họ mới biết sợ và năn nỉ Môsê xin Chúa cứu họ. Chúa dạy ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cao. Ai nhìn lên con rắn đồng mà sám hối thì sẽ được cứu khỏi chết.
Con rắn đồng ở sẵn đó như một con tim yêu thương và tha thứ luôn mở rộng. Dù con người hết cứ lần này đến lần khác xúc phạm đến Chúa, nhưng chỉ cần họ sám hối và nhìn lên đó thì lại được tha.
Sau khi kể chuyện con rắn đồng, Đức Giêsu kết luận: "Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, được cứu độ". Nghĩa là Thiên Chúa chỉ biết thương, chỉ muốn cứu, chứ không bao giờ muốn lên án hay trừng phạt ai cả. Chỉ có con người tự lên án và tự trừng phạt mình, Do Thái độ ngoan cố của họ. Như ngày xưa chỉ có những ai quá sức ngoan cố không chịu nhìn lên con rắn đồng thì mới phải chết.
Thiên Chúa luôn chờ đợi. Chỉ cần con người sám hối và nhìn lên Ngài.
* 2. Giận mà thương
Nếu ta đã thực sự yêu thương ai thì dẫu khi người đó làm gì sai quấy khiến ta giận nhưng ta vẫn thương, như lời của một bài hát "giận thì giận mà thương thì thương". Điều này càng đúng với Thiên Chúa.
Việc nguyên tổ phạm tội đã khiến Thiên Chúa rất "giận" (có thể tạm nói vậy, theo kiểu diễn tả "của con người"). Ngài đã tuyên án cho các nguyên tổ. Dù vậy, liền ngay sau đó Ngài đã hứa sẽ ban Đấng Cứu thế sinh bởi người nữ (St 3,15). Và, như sách Sáng thế diễn tả, khi Thiên Chúa thấy hai ông bà xấu hổ lấy lá che thân thì Ngài thương lấy da thú may áo cho họ mặc (St 3,21).
Cain đã giết chết em ruột của mình, Thiên Chúa cũng rất "giận" nên phạt hắn phải lang thang vất vưỡng. Nhưng vì thương hắn, Thiên Chúa đã "ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp anh khỏi giết anh" (St 4,15).
Loài người dù đã bao lần chứng kiến tình thương của Thiên Chúa nhưng vẫn phạm tội và phạm tội ngày càng nhiều hơn, đến nỗi Thiên Chúa phải cho cơn Hồng thuỷ huỷ diệt họ. Dù vậy, Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Noê. Ngài dạy ông đóng tàu. Khi gia đình ông đã vào tàu hết, chính Thiên Chúa tự tay đóng cửa tàu lại (St 7,16).
Thiên Chúa luôn luôn là như vậy: luôn luôn yêu thương, dù giận nhưng vẫn thương. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Ngài Con ấy thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời" ; "Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian không phải để phạt loài người nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ".
* 3. Lên án hay cứu độ
Bài Tin Mừng hôm nay có một câu rất đáng chú ý: "Thiên Chúa sai Con của Người xuống thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ"
Từ trước tới nay chúng ta cứ bị ám ảnh bởi nỗi sợ "bị Chúa phạt". Cho nên đọc câu này, chúng ta không còn sợ như thế nữa.
Nhưng để vững lòng hơn, chúng ta hãy kiểm chứng qua những cách đối xử của Đức Giêsu trong các sách Tin Mừng. Chúng ta thấy có nhiều người rất đáng bị lên án, và quả thực họ đã bị người Do Thái lên án, nhưng phần Đức Giêsu thì không bao giờ lên án họ, như: người phụ nữ tội lỗi trong bữa tiệc tại nhà một người biệt phái (xem Lc 7,36-50 "Tội của chị đã được tha rồi"), ông Dakêu (x. Lc 19,1-10), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,1-11), tên gian phi bị đóng đinh bên cạnh Ngài (x. Lc 23,43) v.v.
Đức Giêsu đến chỉ để cứu chúng ta. Ngài ban cho chúng ta rất nhiều cơ hội để được cứu. Ngài không phạt ai cả, chỉ những ai không chịu cho Ngài cứu là tự phạt mình mà thôi.
4. Nicôđêmô
Trong Tin Mừng Gioan, Nicôđêmô xuất hiện 3 lần:
Lần thứ nhất là trong bài tường thuật Tin Mừng hôm nay. Ông đến với Đức Giêsu "ban đêm" để thảo luận với Ngài về tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ. Sau đó ông ra đi.
Lần thứ hai là khi các thủ lãnh tôn giáo Do Thái muốn giết Đức Giêsu. Là thành viên của Thượng Hội đồng Do thái giáo, Nicôđêmô phản đối quyết định ấy. Ông nói: "Lề luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" (Ga 7,51)
Lần thứ ba là lúc táng xác Đức Giêsu. Nicôđêmô đến để tẩn liệm thi hài Đức Giêsu một cách sang trọng như người ta tẩn liệm một vị vua. Thánh Gioan thuật: "Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người do thái" (Ga 19,39-40)
Lần thứ nhất Nicôđêmô đến với Đức Giêsu để thưa chuyện với Ngài, lần thứ hai ông lên tiếng bênh vực Ngài, và lần thứ ba ông tôn kính thi hài của Ngài.
Nicôđêmô là hình ảnh minh họa cho hành trình của người tìm đến với ánh sáng như Tin Mừng hôm nay viết: "Ai sống theo sự thật thì đến với ánh sáng"
5. Nỗi buồn thánh
"Bên bờ sông Babylon, ta ngồi ta khóc ta nhớ Sion". Một bài ca buồn, diễn tả tâm tình chung của suốt Mùa Chay này.
Nhưng có nhiều thứ buồn khác nhau, phát xuất từ nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn đến nhiều kết quả khác nhau:
Buồn bực là thứ buồn do tức giận, dẫn tới ý muốn đập phá. Như Cain buồn vì tức giận ganh ghét Abilê rồi lập mưu giết chết em mình.
Buồn chán là thứ buồn do thất vọng, khiến người ta buông xuôi. Như Giuđa buông xuôi đến nỗi tự tử.
Buồn nhớ là buồn vì xa cách một điều gì hay một người nào mình thương. Thứ buồn này thôi thúc mình tìm về với điều hoặc người thương mà mình phải xa cách đó. Như dân Do Thái ngồi buồn trên bờ sông Babylon mà lòng nhớ về Sion yêu quý.
Buồn thương là thứ buồn phát xuất từ tình thương, buồn vì tình thương đang bị đổ vỡ, buồn vì người mình thương đang phải khổ sầu. Thứ buồn này thúc đẩy người ta hàn gắn lại đổ vỡ, xây đắp cho tình thương thêm mặn nồng. Như Phêrô buồn sau khi chối Chúa. Ông đã khóc lóc ăn năn và tìm cách quay về với Ngài.
Cái buồn của Mùa Chay là thứ buồn nào? Nó xuất phát từ nhận thức Chúa rất thương yêu mình, thế mà mình đã không xứng đáng với tình thương đó. Nó khiến mình tỉnh ngộ dừng chân suy nghĩ về cách sống hiện tại. Nó thôi thúc mình tìm về với Chúa, sửa chữa những lỗi lầm đã qua và tìm cách làm cho lòng mình thương Chúa càng nồng nàn thắm thiết hơn.
Đó không phải là buồn bực, buồn chán, mà là buồn nhớ, buồn thương. Đó là thứ buồn rất nên buồn, vì là nỗi buồn thánh.
6. Ánh sáng và bóng tối
Báo Los Angeles Times ngày 8-6-1996, viết về ông Sam Eason, một người đánh giày ở bãi đậu xe như sau:
Sam Eason là một người đánh bóng với tất cả ý nghĩa của danh từ ấy. Ông ta không chỉ làm cho bạn nhìn bảnh hơn ở chiếc giá đánh giày.. mà còn giúp bạn cảm thấy thoải mái vui hơn. Với vài đường đánh giày thật khéo, ông làm cho đôi giày cũ sờn của bạn trở nên bóng loáng. Và bằng mấy câu nói khéo, ông có thể khiến những luật sư hoặc những người buôn chứng khoán mệt mỏi trở nên hăng hái vui tươi.
Quản lý các hệ thống văn phòng Timothy Matthews nói: "Bất kể màu da hay màu giày của bạn, Sam là một người bạn tốt của mọi người". Giám đốc công ty sản xuất máy Photocopy Phil Canon thêm: "Không có gì giả tạo nơi Sam".
Trước sự giao tế niềm nở, cảm thông và đầy tình người của Sam Eason, nhiều khách hàng dù đã đổi đi xa, vẫn lái xe đến với ông để được đánh bóng đôi giày và được làm cho tươi mát tâm hồn.
Người đánh giày dễ thương ấy đã qua đời vì bệnh tiểu đường ngày thứ Hai 3-6-1996 và được an táng đúng sinh nhật thứ 59 của ông (thứ Sáu 7-6-1996). Trên giá đánh giày bỏ trống, khách hàng đặt những bó hoa tươi thắm ấp đầy thương nhớ. Họ kể cho nhau nghe Sam Eason đã làm tươi mát cuộc đời họ như thế nào...
Sĩ quan cảnh sát John Bavetta trong điếu văn đọc ở tang lễ của Sam Eason đã khóc khi kể lại hàng trăm tập quán của Sam Eason. Trước khi chào từ biệt ông đã nói: "Bây giờ đến lượt hào quang của Sam được đánh bóng".
*
Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với Nicôđêmô: "Ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa" (Ga.3,21). Chắc chắn tâm hồn của người đánh giày ngập tràn ánh sáng, nên ông luôn lan tỏa niềm vui chân thật và nét đơn sơ trong sáng.
Cuộc đời mãi mãi là một thách đố. Chúng ta chọn ánh sáng bên này hay bóng tối bên kia. Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa liên lỉ giữa ánh sáng và bóng tối. Lựa chọn của người đời lại khác với lựa chọn của người con Chúa. "Sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sống, vì hành động của họ xấu xa" (Ga.3,19). Người đời trốn chạy ánh sáng vì sợ hành động xấu xa của họ bị lộ tẩy.
Ghét ánh sáng và thích bóng tối là thảm kịch của người đời, vì con người sinh ra là để sống cho ánh sáng. Thiên Chúa không đào hỏa ngục, không xây ngục tối, nhưng chính tù nhân đã tự nhốt mình và nội tâm tăm tối. Ai từ chối ánh sáng của Chúa sẽ héo tàn trong bóng tối của chính mình.
Có cách nào để ra khỏi bóng tối? Có lối nào để trở về với ánh sáng? Đức Giêsu đã chỉ ra một con đường duy nhất: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời" (Ga.3,16). Nếu ngày xưa dân Do thái đã tin tưởng nhìn lên con rắn đồng để được chữa lành thì ngày nay tất cả những ai tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu trên thập giá đều được ơn Cứu độ.
Thập giá là tột cùng của đau đớn nhục nhã, nhưng cũng là minh chứng tuyệt vời của một tình yêu: Tình yêu của Cha đã trao ban Con Một, tình yêu của Con đã hiến dâng mạng sống. Tin vào một tình yêu như thế sẽ chữa lành những vết thương cuộc đời. Đức Giêsu đã từng nói: "Đức tin của con đã chữa con" (Mc.10,52).
Đức tin là thành phố trên đồi, là ngọn đèn trên cao. Thành phố trên đồi không bị khuất tầm nhìn. Ngọn đèn trên cao soi sáng cả nhà. Đức tin trong sáng luôn sống động không nằm chết trong lòng, nhưng luôn tỏa sáng.
Đức tin trong sáng luôn mang lại nụ cười, an bình, và hạnh phúc.
Đức tin như những vì sao, lấp lánh lao xao, trên trời cao thăm thẳm.
Đức tin như những vì sao, ngời sáng như kim cương trên ngực người tín hữu.
*
Lạy Chúa, sống là phải chọn lựa không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối. Xin cho chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn nến sáng, để cả thế giới ngập tràn ánh sáng của Chúa. Amen (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Mùa Chay là thời gian giúp chúng ta khám phá lại tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Người để tất cả những ai tin vào Con Người thì được sống hạnh phúc. Với tâm tình biết ơn, chúng ta dâng lời nguyện xin:
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn cũng như đàn chiên là Hội thánh Chúa / luôn trở nên dấu chỉ của niềm vui và niềm hy vọng / để có thể loan báo cho muôn dân biết tình thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / có dịp khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Chúa / để họ tin tưởng và cộng tác với Chúa trong việc cứu độ thế giới.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người nghèo khổ, bệnh tật, thất nghiệp, bị tù đầy và biệt xứ / có dịp khám phá ra tình thương cứu độ của Đức Giêsu qua những hoạt động bác bái của các Kitô hữu.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mỗi người trong họ đạo chúng ta / đều cảm nhận được tình thương cứu độ của Chúa / để quyết tâm chết đi cho tội lỗi và sống lại trong tình thương và ân sủng của Người.
Chủ tế : Lạy Chúa xin cho mỗi người chúng con biết dùng thời gian thuận lợi của Mùa Chay này, để nhìn nhận hồng ân cứu độ mà Đức Giêsu đã mang đến cho tất cả mọi người / và tin tưởng vào Người để được sống đời đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là cha giàu lòng thương xót. Dù chúng ta phạm tội nhưng Ngài vẫn thương chúng ta. Vậy chút nữa đây khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt lấy hết tâm tình nói với Ngài câu "Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Trước lúc rước lễ: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban chính Con Một của Ngài làm lương thực cho chúng ta.
VII. Giải tán
Hôm nay chúng ta được biết một điều rất an ủi là Thiên Chúa không muốn phạt ai cả mà chỉ muốn cứu mọi người. Bất cứ ai tội lỗi sám hối quay về với tình thương của Chúa thì đều được tha thứ. Chúng ta đều có tội, vậy chúng ta hãy sám hối quay về với Chúa, đón nhận sự tha thứ của Ngài.
28. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Một câu thơ mà ai trong chúng ta cũng đều biết:
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Tương truyền rằng: Có đôi vợ chồng nọ rất thương nhau. Người chồng vì nghĩa vụ non sông phải ra đi, để lại quê nhà người vợ thân yêu và đứa con nhỏ dạy. Ngày tháng cứ dần trôi. . . Một hôm người chồng trở về, vì không báo trước nên không có vợ ở nhà, chỉ có đứa con nhỏ giờ đây đã nói được những tiếng nói đầu tiên. Nhìn thấy đứa con nhỏ, anh ta rất vui mừng, gọi con đến và xưng là cha của nó. Nhưng ngở ngàng thay, đứa nhỏ không chịu, còn nói rằng: cha nó không bao giờ về vào lúc ban ngày, cha nó chỉ về vào ban đêm.
Người chồng nghi ngờ vợ, niềm uất hận dâng lên. Bỗng đâu người vợ thân yêu từ ngoài đi vào, nhìn thấy chồng, rất vui mừng. Nhưng sự vồn vã yêu thương đâu chẳng thấy, mà trái lại, chị còn phải nhận thái độ lạnh nhạt và những lời cay đắng. Không thể biện minh được cho sự trong trắng của mình, chị mới tìm cái chết để giải thích cho nỗi oan tình. Chiều đến khi mọi vật đã chìm vào bóng đêm đứa nhỏ cứ đòi mẹ, nhưng chẳng thấy.
Nó lại bảo là cha nó sắp về. Nó mới dẫn người chồng vào trong và chỉ lên vách. Cái bóng đen do ánh đèn tạo nên, đứa nhỏ gọi đó là cha của nó. Người chồng ngỡ ngàng hiểu ra mọi chuyện thì đã muộn. Anh đi tìm vợ, nhưng chẵng thấy. Ngôi miếu được dựng lên để giải oan, để xin lỗi người vợ và để nói lên mối tình chung thủy của vợ chàng Trương.
Người chồng đã đứng kề bên hạnh phúc, đối mặt với sự thật. Nhưng anh ta chưa nhận ra được sự thật, vì anh ta quá tự hào về những hiểu biết của chính mình, mà không cần nghe những lời giải thích cặn kẻ. Thế cho nên suốt cuộc đời anh ta sẽ chẵng bao giờ nhìn thấy và tìm được nguồn hạnh phúc nơi người vợ chung thủy của mình nữa.
Chúng ta cũng vừa chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô . Ông nầy là ai? Ong là thủ lãnh những người biệt phái, là một nhà thông thái, hiểu biết nhiều, có địa vị trong xã hội. Ông ta cũng nhìn thấy Chúa Giêsu, hiểu biết những việc làm của Ngài. Nhưng ông ta chưa dám đến với Ngài thật sự, vì những gì là của riêng ông ta, đã làm nặng nề bước chân tìm chân lý, đã che khuất đi ánh mắt đi tìm ánh sáng.
Những cái đó cũng làm mất đi sự can đảm cần thiết để có hành động nói lên sự thật. Chính vì thế ông ta mới tìm Chúa Giêsu vào lúc đêm về. Qua cuộc đối thoại không mang lại kết quả bao nhiêu, vì ông ta chưa ra khỏi chính mình được. Đến khi Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá, khi đó ông mới được mở mắt ra, khi đó tất cả những gì là của ông, chẵng có giá trị gì. Mặc dù hiện tại, ông đang đứng trước chân lý, đang đứng trước nguồn hạnh phúc đích thực mà ông chẵng hay biết.
Sánh về địa vị, chắc chúng ta không bằng ông thủ lãnh người Do Thái kia đâu. Về sự hiểu biết, chắc cũng không ai dám tự hào là hơn ông. Về địa vị, chúng ta cứ nhìn lại chính mình xem. Vậy mà chúng ta có biết tìm đến Chúa chưa? Tìm đến để nghe Ngài nói, Ngài chỉ dạy. Chúng ta chê trách ông Nicôđêmô hơi thiếu can đảm. Nhưng vì ông đã có sự khởi đầu nên ông cũng đã có được kết quả tốt đẹp. Ông đã dám xuất hiện giữa ban ngày vào lúc cần thiết nhất, lúc mà các Tông đồ đã trốn chạy hết. Ông lo tất cả mọi việc thật chu đáo.
Thiên Chúa luôn chờ đợi và Ngài cũng tạo điều kiện cho ta, nhưng chúng ta có rời được chỗ ở, rời được con người của chính mình để đến với Ngài không. Hay chúng ta vẫn còn nặng nề với bao nhiêu vấn đề của cuộc sống. Công việc không thể; Vì chúng ta còn sợ; Hay là tôi đã hiểu biết nhiều, nên tôi không cần phải nghe ai chỉ dạy. Vậy thì làm sao chúng ta có thể gặp được Chúa. Thiên Chúa không hiện ra trực tiếp với chúng ta. Ngài nói, nếu cần thiết, có thể qua người con nhỏ trong gia đình để đánh động tâm hồn chúng ta. Ngài cũng muốn nói với chúng ta, qua những cử chỉ đơn sơ của những ngưới thấp hèn hơn chúng ta, đôi khi qua những người hành khất để đánh động lương tâm chúng ta.
Đôi khi cứng rắng hơn, Ngài nói qua những người có uy quyền với lời lẽ có khi làm chạm tự ái chúng ta để đánh động tâm hồn. Nhìn lại cách sống của chính mình, mỗi người sẽ nhận thấy mình đã tìm gặp được Chúa hay chưa. Nếu giờ nầy chúng ta đã can đãm hơn, biết chu toàn trách nhiệm hơn, siêng năng đến với Chúa hơn , biết làm gương tốt cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đã gặp được Chúa, đã nhìn thấy ánh sáng. Đó là chúng ta không còn đi trong đêm tối nữa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn soi sáng cho mỗi người chúng ta biết siêng năng đến với Chúa, để nhận ra chân lý và luôn sống trong ánh sáng chân lý của Ngài.
29. Thiên Chúa yêu thương
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau chia sẻ về tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại. Các du khách có dịp viếng thăm nhà thờ chính tòa Gengiba bên Phi Châu, sẽ nhìn thấy lời chào đón này được viết ngay trên tường ngôi thánh đường: Bạn đang đứng trong nhà thờ của Đức Kitô.
Ngôi nhà thờ này đã được xây dựng ngay trên phần đất trước kia được dùng để tập trung buôn bán, trao đổi những nô lệ da đen như những súc vật. Đặc biệt là bàn thờ được đặt trên một tảng đá nơi những nô lệ bị đánh đòn. Lý do bị đánh đòn trước khi đem bán là để kiểm tra sức khỏe của họ.
Cây thánh giá bằng vàng được treo trên một chiếc cột trụ có khắc tên bác sĩ Livdy Stone, một người Anh đã từng mạnh mẽ và can đảm lên tiếng chống lại tệ nạn buôn bán nô lệ. Cột trụ này là nơi bác sĩ vẫn thường đứng để thuyết trình, để hô hào cổ vũ cho việc giải phóng nô lệ. Mãi đến ngày 16.6.1873 việc buôn bán nô lệ tại Phi châu mới bị ngăn cấm bởi một đạo luật được ban hành. Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.
Chiếc cột trụ đã trở nên như một dấu chỉ, gợi nhớ đến những hy sinh gian khổ và ngay cả cái chết để giải phóng cho những nô lệ da đen và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đối lại với thù hận là yêu thương chân thật, đối lại với bóc lột là tự do và công bằng, đối lại với chiến tranh là hòa giải và tha thứ.
Câu chuyện trên gợi lên cho chúng ta những ý nghĩ về tình thương của Thiên Chúa. Thực vậy, trong Cựu ước, Thiên Chúa đã truyền cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo lên nơi hoang địa, để những ai bị rắn độc cắn cứ việc nhìn lên con rắn đồng ấy là được chữa lành. Và như thế, dân Do Thái đã được cứu khỏi hiểm họa rắn độc trong cuộc xuất hành tìm về miền đất hứa. Sự việc trên cũng chỉ là một biểu tượng, một hình ảnh tượng trưng cho những gì Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc chúng ta.
Đúng thế, để cứu chuộc chúng ta, Ngài chỉ cần phán một lời, nhưng Ngài đã không làm thế, trái lại, Ngài đã đi cho tới tận cùng những nỗi khổ đau của thân phận con người. Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh, mọi đắng cay và sau cùng đã chấp nhận chính cái chết ê chề trên thập giá, để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi, để cứu chúng ta khỏi nọc độc của thế gian.
Đây là điều mà Chúa Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Phúc âm. Chẳng hạn qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã nói với Nicôđêmô: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một của mình để những ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống muôn đời. Nơi khác Ngài bảo: Con Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Trong bữa Tiệc Ly, Ngài phán với các môn đệ: Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Rồi thì Ngài cũng đã xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta…
Tất cả phải chăng để chứng tỏ một tình yêu bao la mà Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bởi đó, trong Mùa Chay này chúng ta hãy dành lấy một vài phút để suy nghĩ và cảm tạ tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem, chúng ta đã làm được những gì để đáp trả tình yêu thương ấy.
30. Ánh sáng thật
(Suy niệm của Lm. Bar. Lê An Phong, SDB)
Tin mừng tuần thứ IV Mùa Chay này nằm trong phần mà Thánh sử Gioan nói cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Trưởng lão Nicodemo. Cuộc chuyện trò của Chúa với Nicodemo (Ga 3, 1-13) đề cập đến sự tái sinh trong Chúa Thánh thần như là việc cần thiết để có sự sống mới hay “được vào Nước Trời”. Ở hồi kết (Ga 3, 14-21), câu chuyện đã khép lại với lời mời gọi “nhận biết ơn cứu độ” nơi Con Thiên Chúa, và “tin vào Người” để được sống, như chuyện đã xảy ra thời ông Mose với con rắn đồng được treo cao trong hoang địa.
Thông điệp mà Lời Chúa (Ga 3,14-21) gởi đến cho chúng ta là một lời tỏ bày về chính Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người qua Đức Giêsu. Đó là mạc khải về một Thiên Chúa Tình yêu. Người yêu “thế gian”, yêu nhân loại, yêu đến nỗi đến trần gian để gặp gỡ họ. Cách thức mà Thiên Chúa thực hiện cuộc gặp gỡ này là việc việc Ngôi Lời nhập thể.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
“Con Thiên Chúa đã làm người”, đã đến trần gian để thực hiện một “cuộc trao đổi diệu kỳ giữa trời và đất”, đã mang đến cho trần gian đang ngập trong bóng tối của sự dữ và tội lỗi một tia hy vọng. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”(Ga 3, 17). Đó cũng là một kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã định trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô mà thực hiện, để con người được hưởng nhờ hồng ân cứu độ (x. Ep 1,9). Ai từ chối kế hoạch này, hay là không tin nhận Thiên Chúa tình yêu, không chấp nhận Đức Kitô - Con Thiên Chúa, sẽ lìa xa tình yêu Thiên Chúa và tự nhận lấy “án phạt” đời đời, là sống kiếp kiếp trong “bóng tối” và “sự dữ” (x. Ga 3, 18-19).
Lời Chúa Giêsu nói với ông Nicodemo là một cảnh báo đối với chúng ta trong Mùa Chay: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì họ vẫn tiếp tục làm các việc xấu xa. Một dấu hiệu khác cho ta thấy rằng ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách; còn ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, “để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (x Ga 3, 19-21).
Chúng ta đang sống trong tình trạng nào: của ánh sáng hay bóng tối, của sự tỏ hiện như những chứng nhân hay là ẩn nấp trong tội tình và sợ sệt vì tâm hồn bất an và vì hành vi bất minh của một kẻ tội phạm?
Dù sao đi nữa, vẫn còn có đó cho chúng ta nhiều “cơ hội” để “làm lại cuộc đời”, vì chính Chúa Giêsu cũng đã nói với Nicodemo: Con Thiên Chúa không đến để luận phạt thế gian nhưng là để giải thoát, đến để mang Tin vui của Yêu thương và Tha thứ. Chúng ta còn có thời gian để ăn năm, sám hối và hoán cải lòng mình.
Lời Chúa kêu gọi chúng ta bỏ đi sự cố chấp, sự ẩn khuất, việc né tránh tiếng gọi lương tâm và bỏ quên luật sống theo Tin mừng. Mến Chúa và yêu thương anh em mình vẫn luôn là con đường chúng ta cần tiến bước để sống ơn gọi làm kitô hữu mọi thời và mọi nơi.
Lời Chúa tiếp tục kêu mời chúng ta bỏ đi con đường sai trái, hòa nhập với Ánh sáng Chân lý là Đức Kitô, tin và sống theo lời Ngài. “Ai sống trong Sự thật thì đến cùng Ánh sáng”. Chúng ta vẫn còn có cơ hội để khám phá Sự thật của Thiên Chúa và sự thật về con người, để sống thật với chính mình, sống thật với anh chị em và với Chúa trong đời thường, giữa bao khó nguy ngập tràn, thử thách, cám dỗ. Trong ánh sáng của Đức tin và hy vọng mà Chúa Kitô đã rọi vào lòng ta, chắc chắn chúng ta có thể làm mọi việc hợp với thánh ý Chúa Cha. Và hy vọng đây cũng chính là niềm vui mà chúng ta có thể cảm nhận được trong hành trình sám hối của Mùa Chay năm nay.
31. Nhìn lên ánh sáng
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:
1) Nhận thức về tội lỗi của ta. Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã chịu treo trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.
2) Nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hy sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã “yêu ta đến nỗi đã ban Con Một” của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà Đức Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã hy sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.
3) Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.
Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng. Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.
2) Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không?
3) Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong mùa Chay này không?
32. Chuộng tối hơn sáng
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Cúp điện bất ngờ là điều gây khó chịu.
Trong bóng tối, người ta đi tìm hộp quẹt, tìm ánh sáng để thắp lên một ngọn nến, một cái đèn dầu. Nói chung chẳng ai thích bóng tối, vì bóng tối là dấu hiệu của lạc hậu, thiếu văn minh.
Ấy thế mà cũng có những người mê bóng tối. Bóng tối của quán bia ôm, của Karaokê, của sàn nhảy... Phải bỏ tiền ra để mua được bóng tối. Bóng tối đồng lõa, che đậy, lấp liếm, làm mặt nạ. Bóng tối trong tâm hồn cần có bóng tối ở ngoài. Nó sợ ánh sáng làm lộ chân tướng.
"Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa."
Ghét ánh sáng, chuộng bóng tối: đó là thảm kịch nơi lòng con người, bởi lẽ con người được sinh ra để sống cho ánh sáng.
Lắm khi người ta từ chối tin vào Đức Kitô, từ chối đến với ánh sáng và sự thật, chỉ vì đời họ chìm trong bóng tối và giả trá. Những lý do biện minh cho sự từ chối này thường đến sau khi đã chọn lựa.
Cần thay đổi cuộc sống để tin hơn vào Thiên Chúa, nhưng cũng cần can đảm đến với ánh sáng dù biết mình đang chìm trong bóng tối; hay đúng hơn, vì biết mình nô lệ cho bóng tối mà ta khao khát vươn tới ánh sáng.
Đừng trốn chạy ánh sáng như Ađam, Evà. Hãy để cho ánh sáng vén mở chính mình, bắt ta đối diện với sự thật trần trụi về mình, để rồi ta được rực rỡ trong niềm vui.
Chỉ có một cách ra khỏi bóng tối đó là trở lại với ánh sáng, bằng cách ngước nhìn lên...
Dân Do Thái xưa trong sa mạc đã được chữa lành nhờ tin tưởng nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ.
Ngày nay, chúng ta được cứu độ, được sự sống đời đời nhờ tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên thập giá.
Thập giá là tột cùng của nhục nhã đớn đau, nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một tình yêu.
Kitô hữu không phải là người tôn thờ đau khổ, nhưng là người say mê tình yêu: tình yêu của Cha khi trao ban người Con yêu dấu, tình yêu của Con khi hiến tặng mạng sống mình.
Nhiều nơi đã đặt tượng Chúa phục sinh trên thập giá, nhờ đó bầu khí nhà thờ tươi vui hơn. Nhưng ta vẫn không được quên nhìn lên thân xác bầm tím nát tan của Đức Giêsu trên Núi Sọ.
Ước gì tôi biết nhìn lên tình yêu bị treo và trở lại với ánh sáng để ánh sáng đưa tôi vào sâu hơn trong tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong tôi có ánh sáng và bóng tối; ngoài ra còn có nhiều bóng mờ, nơi khôn g sáng hẳn hay tối hẳn. Bóng mờ dễ chuyển thành bóng tối. Bạn có thấy một số bóng mờ trong đời bạn không? Chúng nguy hiểm đến mức nào?
Thế giới hôm nay tràn ngập ánh sáng của đèn điện. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối đang rình rập các bạn trẻ. Bạn có gặp bóng tối nào không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng giây phút của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
33. Yêu thương tha thứ
1. Tặng quà là một trong những phương cách biểu hiện lòng yêu quý nhau. Món quà càng có giá trị, càng được chuẩn bị kỹ lưỡng, có thể nói lên tâm tình của người tặng dành cho người nhận. Nhìn lại Lịch Sử Cứu Độ, Thiên Chúa luôn yêu thương dân Người, thời Cựu Ước, Thiên Chúa nhờ các ổ phụ, các ngôn sứ để dạy dỗ, mạc khải... tình yêu của Thiên Chúa cho dân riêng của Người. Thời Tân Ước, sau một thời gian lâu dài chuẩn bị, Thiên Chúa ban tặng chính Con Một là Đức Giêsu cho loài người, đây là món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức Giêsu đến thế gian không phải để luận phạt, mà đem ơn cứu độ, đem lòng yêu thương, tha thứ cho loài người.
2. Bài Tin Mừng hôm là một phần trong cuộc đối thoại với Ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời Xuất hành. Hình ảnh con rắn đồng, đó là tìền trưng của Đức Giêsu, Đấng Cứu Chuộc: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy".
Hẳn chúng ta còn nhớ, sau khi rời khỏi Ai Cập để tiến về đất Chúa hứa. Suốt bốn mươi năm trong hoang địa, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương chăm sóc dân Do thái, cho cột mây, cột lửa dẫn đường ; đói có mana, có chim cút ; khát có nước chảy ra từ tảng đá, thế nhưng họ vẫn chưa thoả mãn, vẫn kêu trách Thiên Chúa . Một lần cơn thịnh nộ của THIÊN CHÚA đã giáng xuống đám dân này, đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Họ đã nhận ra lỗi lầm của họ và chạy đến cầu cứu với Môsê, Thiên Chúa dạy Môsê đúc con rắn bằng đồng treo lên cao, để ai bị rắn độc cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng này sẽ được cứu. Thật ra, Không phải chỉ lần này, mà nhiều lần dân Do thái đã sa ngã, nhưng Thiên Chúa đều rộng lòng tha thứ. Điều này cho ta thấy Thiên Chúa , Đấng giàu lòng tha thứ và hay thương xót.
Nếu con rắn đồng là biểu tượng nói lên lòng yêu thương, tha thứ của Thiên Chúa , thì Đừc Kitô, Con Một của Người, được giương cao trên cây Thánh giá, chính là lòng tha thứ của Thiên Chúa dành cho loài người đạt đến đỉnh cao tuyệt đối: "Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Người mà được cứu độ".
Đọc Tin Mừng, chúng ta dễ thấy, lòng tha thứ của Đức Giêsu dành cho tất cả mọi người, nhất là những người được xem là tội lỗi như thu thuế, đàng điếm; ngay trên cây Thánh giá, Chúa đã tha cho người trộm lành, cho những kẻ bắt bớ sỉ nhục Ngài. Ngày hôm nay việc tha thứ vẫn được tiếp diễn, qua Bí tích Hòa giải, dù tội chúng ta nặng nề như thế nào, nếu thành tâm quay về cùng Chúa, Ngài sẽ tha thứ tất cả.
3. Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế, cùng với việc cầu nguyện, ăn chay, thì sống bác ái đối với nhau là một việc làm rất cần thiết, hữu ích. Một trong những việc làm bác ái cụ thể mà Đức Kitô mời gọi chúng ta sống theo tinh thần, gương của Ngài đó là tha thứ cho nhau, quên đi những lỗi lầm của nhau. Thật vậy, trong đời sống chung làm sao tránh được những điều mất lòng nhau, nhiều khi vô tình hoặc do cố ý.
Hãy sống bác ái, bằng việc tha thứ, từ những người gần gũi. Hãy thực hiện việc tha thứ từ trong gia đình, cộng đoàn: vợ chồng đối với nhau, con cái đối với cha mẹ, cha mẹ đối với con cái, anh chị em đối với nhau, những người chung sống... Từ việc yêu thương tha thứ với những người trong gia đình, cộng đoàn, chúng ta sẽ đi xa hơn trong việc tha thứ đối với người khác: chòm xóm, những người cùng làm ăn buôn bán, nơi làm việc.
4. Muốn tha thứ cần phải có làm hòa. Có thể chúng ta muốn tha thức cho anh chị em chúng ta, nhưng do tự ái, tự cao, chúng ta đặt điều kiện người anh chị em đó phải đi bước trước đến với tôi thì tôi mới tha. Hãy nhìn vào Đức Giêsu, Ngài đã đi bước trước, bỏ trời cao để đến với con người tội lỗi. Bỏ ra món quà để tặng nhau, bỏ ra tiền bạc của cải đễ giúp nhau xem ra dễ hơn rất nhiều bỏ cái "tôi". Cái "tôi" tự ái, cái "tôi" tự cao, cái "tôi" bướng bỉnh. Vì thế có thể nói tha thứ là món quà quý giá mà chúng ta trao cho nhau. Bởi muốn tha thứ phải bỏ những cái "tô" hẹp nòi như đã nêu trên.
Muốn tha thứ cần phải quên đi những lầm lỗi của người khác, thường thì chúng ta dễ quên điều tốt mà lại nhớ lâu lỗi của người khác. Chính vì vậy khó tha thứ cho anh chị em của minh! Chúng ta nên noi gương Thiên Chúa giàu lòng vị tha: Người không nhắc dân Do thái đã lỗi với Người bao nhiêu lần. Thiên Chúa cũng không nhớ quá khứ tội lỗi của chúng ta, thì chúng ta cũng đừng để lòng về thiếu sót của tha nhân, đó là điều kiện để chúng ta thực hiện việc tha thứ tốt hơn.
5. Người Kitô hữu không những được hưởng hồng ân Cứu Độ từ Thập giá của Đức Giêsu mà Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta thông phần vào việc chia sẻ niềm vui Thập giá của Ngài. Vì thế hãy tiếp tục đem tình yêu, sự tha thứ của Chúa đến với tha nhân. Hãy góp phần phân phát món quà quý giá này, đặc biệt là trong mùa Chay thánh, bằng cách sống yêu thương, tha thứ.
34. Sự thật đổi mới chúng ta
Trong cái tranh tối tranh sáng của cuộc đời. Thiên Chúa đổi mới chúng ta. Ngài ban Con Một Ngài cho chúng ta để mặc khải chân lý cho chúng ta và mở đường cho chúng ta đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Bài Tin Mừng hôm nay khó hiểu. Nó không kể lại một giai đoạn trong đời Chúa Giêsu hoặc một dụ ngôn. Đây là một suy tư về đời sống vĩnh cửu và về việc Thiên Chúa sai Con Một Ngài đến với chúng ta để cứu độ chúng ta, để đổi mới chúng ta.
Ánh sáng về con người của chúng ta.
Thật khó nói về đời sống vĩnh cửu: Chúng ta biết rất ít về cuộc sống này. Tuy nhiên một số kinh nghiệm trong cuộc đời trần gian có thể giúp chúng ta tưởng tượng ra cuộc sống ấy như thế nào.
Có những lúc trong đời chúng ta có cảm giác như đã khám phá ra một điều gì quan trọng làm cho mọi sự được sáng tỏ trước mắt chúng ta. “Đúng rồi, tôi là như vậy, và tôi muốn trở thành như vậy đó”. Lúc ấy chúng ta có cảm tưởng đã tìm thấy được sự thật về con người của mình như các triết gia hoặc như các nhà tâm lý học nói. Có lẽ đây là một kinh nghiệm hiếm có, nên khi điều này xảy ra, khi chúng ta được nối kết vào con người sâu thẳm của chúng ta, chúng ta có cảm tưởng như tìm được con đường mà ta phải đi. Lúc đó ta dễ hoạt động hơn bởi vì ta đã khám phá được mình là ai. Lúc đó ta có thể hành động theo sự thật mà ta có về mình. Nếu điều này xảy ra, và thường là trong một giai đoạn u tối của cuộc đời khi chúng ta không còn biết “bám víu” vào đâu nữa, hoặc chúng ta không còn biết cuộc đời mình có giá trị gì, thì chúng ta lại được cứu. “Mà thật, đúng thế, trước đây tôi đã không thấy điều này. Ô, nhưng mà nó làm thay đổi mọi sự!”. Lúc đó ta cảm thấy mình được đổi mới, đầy sức lực, đầy những khả năng mới, sẵn sàng sống theo sự thật mà ta vừa khám phá ra.
Cũng gần giống như vậy về sự sống vĩnh cửu là ánh sáng và sự thật. Sự sống ấy đến với chúng ta như một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta sống thực sự. Nhưng chúng ta biết rằng sự thật đôi khi quấy rầy những thói quen sống của chúng ta và chúng ta từ chối ánh sáng và những thách thức của nó. Vì thế mà Tin Mừng khắt khe với những kẻ từ chối Chúa Giêsu Kitô. Cũng như những sự thật mà đôi khi chúng ta phát hiện được trong cuộc đời chúng ta, sự sống vĩnh cửu không tự áp đặt cho ai cả. Nó chỉ tự giới thiệu mình để chúng ta lựa chọn mà thôi. Đây vừa là một lời mời gọi vừa là một hồng ân.
Một lời mời gọi sống.
Vậy Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Ngài để giúp chúng ta sống sự thật nơi con người chúng ta và chính vì thế mà Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta sự thật về con người chúng ta và về mối quan hệ giữa chúng ta với tha nhân và với Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là tin vào đời sống vĩnh cửu và mời gọi chúng ta sống theo sự thật này: Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là anh em với nhau.
Có lẽ thường thường chúng ta sống trong sự mập mờ của cuộc đời và những kinh nghiệm của chúng ta về sự thật sâu xa vẫn là điều hiếm có. Nhưng kẻ đã tìm được sự thật của Chúa Giêsu Kitô, kẻ tin vào Chúa Giêsu vì đã thực sự khám phá ra Ngài vào một ngày nào đó trong đời mình, người ấy đã tìm thấy được ánh sáng trong thâm cung của lòng mình. Ánh sáng này đôi khi có thể leo lét, nhưng kỷ niệm về việc tìm thấy nó vẫn tiếp tục soi sáng cuộc đời của họ, cho cuộc đời ấy một ý nghĩa, và dẫn đưa họ đến với tha nhân để sống theo sự thật.
Tin Mừng nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến không phải để kết án nhưng để cứu độ chúng ta, để cho cuộc đời chúng ta được đổi mới nhờ sự thật. Và chúng ta được đổi mới khi chúng ta nhìn thấy rõ hơn, khi chúng ta cảm thấy mình sống động hơn, khi những năng lực mới giúp chúng ta vạch ra những dự án mới hoặc cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục những gì mình đã bắt đầu. Chính nhờ thế, mà cuộc sống vĩnh cửu đã mở ra cho chúng ta: một con đường mới để sống với bản thân, với Thiên Chúa và với tha nhân, nhờ ánh sáng mà Chúa Giêsu mang đến cho thế giới và cho cuộc đời chúng ta.
Sống vĩnh cửu là chiêm ngắm mầu nhiệm lớn lao nơi thâm tâm chúng ta và trong lòng kẻ khác, chiêm ngắm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã đến mặc khải cho chúng ta. Sống vĩnh cửu là hành động theo sự thật. Vậy nên như Tin Mừng nói, công việc của chúng ta “sẽ được nhìn nhận như là công việc của Thiên Chúa”, công việc của những con người được tháp vào sự thật và không sợ ánh sáng bởi vì họ biết rằng ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô nhằm cứu độ mọi người chúng ta và cả thế giới.
35. Đức tin hôm nay của tôi cứu tôi
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Thánh sử Gioan viết cuốn Phúc âm của Người vào quãng 60 năm sau khi Chúa về trời. Trí nhớ của bậc cao niên nhiều khi rất chính xác để gợi lên những kỷ niệm lúc thiếu thời, đã làm cho Người nhớ lại cảnh tượng ngoạn mục trong cuộc đời Chúa Giêsu những giáo huấn đặc biệt mà Thày Chí Thánh đã ban bố. Đoạn Phúc Âm đọc hôm nay tiếp nối vào câu chuyện ông Nicôđêmô đến đàm đạo cùng Chúa Giêsu ban đêm. Cuộc đàm đạo nhắm chủ đề đức tin và sự tái sinh trong Chúa Thánh Thần. Sau khi thuật lại câu chuyện trên, thánh sử quy tụ vào sự suy tư cá nhân, một tổng hợp các giáo huấn mà Chúa Giêsu đã ban bố hoặc gợi ý. Sau khi đã nhận lấy và nghiền ngẫm các giáo huấn đó, thánh Gioan trao nó lại cho chúng ta dưới ánh sáng của “Chúa Giêsu đã về trời”, trong một văn thể mà sự suy gẫm riêng tư của Người đã mang lại. Điều này xứng đáng dành cho chúng ta nhiều phản ảnh tuyệt vời của một đức tin được trực tiếp cấp dưỡng từ nguồn gốc vì chưng thánh Gioan đã từng được biết Đức Giêsu phản ảnh của một đức tin sâu xa nghiền ngẫm bởi chưng thánh Gioan đã sống Phúc Âm đó như một môn đệ say sưa trung thành.
Ở đây, thánh Gioan đưa ra ánh sáng điều mà thánh Phaolô đã không ngừng nhắc nhở trong các thơ của Người, đó là “mầu nhiệm” ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho đức tin của chúng ta: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian để cứu chuộc loài người. Được thừa hưởng ơn cứu độ ấy là những kẻ khi gặp Chúa Kitô, nhờ ân sủng đã tin vào Người.
1) Kiểu nói “Con của Người” xuất phát từ tiên tri Đanien (Đn 7,13). Cách tổng quát, Phúc Âm đã áp dụng danh hiệu đó cho Chúa Giêsu để định nghĩa cho nhiệm vụ Cứu thế qua việc nhập thể, cuộc Khổ nạn và sự Phục Sinh của Người. Chúng ta được phép hiểu câu “Con Thiên Chúa làm người”. Từ đó, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu thực hiện mẫu người trọn hảo đã hoàn thành, bởi vì Người vượt mình trong Thiên Chúa. Thánh sử Gioan kể lại: “Con Người phải được nâng lên cao”. Đây là ý nói đến việc Chúa bị treo lên thập giá. Sự liên tưởng đến con rắn đồng treo lên cao của ông Môsê, xuất xứ từ một đoạn trích trong sách Dân số (Ds 21,6-9). Đoạn sách ấy thuật lại rằng: Khi dân Do Thái đi qua sa mạc, trong một miền đầy rắn, khi bị rắn cắn, họ được cứu nguy cách kỳ diệu là hễ nhìn lên con rắn đồng –một thứ đồ mã- mà Môsê đã dựng lên cho dân thấy thì dầu có bị rắn cắn cũng không sao. Giai thoại ấy được thánh sử gợi lại ở đây để tiêu biểu cho một thực tại siêu nhiên là ơn Cứu độ dành cho hết thảy những ai nhìn lên Thánh giá Đức Kitô với lòng tin.
2) Ai tin vào Người không bị kết án. Ai không tin vào Người, thì bị luận phạt rồi. Kiểu nói trên đây báo hiệu là đức tin vào Chúa Giêsu Kitô bao gồm sự dấn thân dứt khoát, có hiệu lực chung quyết. Đức tin hôm nay của tôi (dĩ nhiên với điều kiện là tôi không chối bỏ đức tin ấy) đã cứu tôi, ngày tôi từ giã cõi đời và cũng là ngày tận thế. Từ nay cho đến ngày cuối hết đó, dĩ nhiên còn có thể xảy đến biết bao thăng trầm. Nhưng đức tin hiện tại của tôi đã đặt tôi về phía đối nghịch của sự kết án, nghĩa là trong lượng thứ tha của Thiên Chúa, trong sự tiếp đón, và tình nghĩa thiết của Người. Điều này biện giải tại sao đức tin nồng nhiệt của tôi hôm nay có tầm mức rất quan trọng đến cuộc hội ngộ mai ngày của tôi cùng Thiên Chúa. Mỗi ngày hiện tại chuẩn bị trong tôi ngày sau hết của tôi, nhưng nhờ đức tin của tôi nơi Chúa Giêsu, ơn nghĩa phi thường của Thiên Chúa không phải là chuyện sẽ tới nhưng thực sự ơn nghĩa ấy đã hiện hữu nơi tôi và đang biến đổi tôi. Đức tin đó đòi hỏi tôi dấn thân sống trong ánh sáng, nghĩa là trong sự thẳng thắn thực tiễn của lòng trung thành với Phúc Âm. Ai hành động trong chân lý tức là đến cùng Ánh sáng.
36. Tình yêu lớn nhất
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa… Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa lên phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội thật nặng cũng như ngăm đe nhiều điều. Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật nấy, không bao lâu, người đó lại sa ngã. Lần này, sau khi tội nhân xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe doạ: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho anh!”
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài lên giọng: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho anh nữa!”. Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân sám hối, thì Ngài bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho người này chứ không phải ngươi”.
Từ đó, bàn tay của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ban phép lành, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ. Du khách đến viếng, nhìn lên thánh giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe như có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.
Anh chị em thân mến, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Đức Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Ngài luôn tha thứ chứ không kết án. “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống” (Ed 33,11). “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. “Cũng như Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽkhông phải chết, nhưng được sống đời đời”. Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài, tương tự như con rắn đồng đã được Môsê giương cao trong sa mạc thuở xưa, để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng ấy đều được cứu sống.
Thánh Gioan còn nói tiếp: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Thiên Chúa một lần nữa lại biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài không ở trên mây trên gió, nhưng được thể hiện qua hành vi “trao ban”. Điều quí nhất của Người Cha là Người Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính Con Một dâú yêu của Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ qua việc Ngài sai Con Người và cuối cùng qua việc nộp Con Một cho loài người treo lên thập giá. Đó là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài cho loài người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy, chính lúc đó là lúc Thiên Chúa đã đặt Con của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người,đểai tin vào Người Con ấy thì được sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải để kết án luận phạt, nhưng để cứu loài người khỏi chết và cho thông phần vào cuộc Phục Sinh vinh quang của Ngài.
Thưa anh chị em, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ đó sẽ định đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết. Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất của Kitô giáo. Tất cả cuộc đời cuả Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá, là ngôn ngữ Chúa muốn sử dụng để nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Ngươì Con Một yêu quí của Ngài chết thay cho chúng ta.
Hãy nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, trái lại để cảm nghiệm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn.
Nhìn lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài, để chúng ta cũng biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt anh em mình? “Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị Chúa xét đoán” (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta.
Một lần nữa, hãy ngước nhìn lên thập giá Chúa Kitô:
Hãy xem đó thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13).
37. Người thợ săn trên trời – ĐGM. Arthur Tone.
Một trong những bài thơ tôn giáo nổi tiếng nhất bằng Anh ngữ tựa đề: “Người Thợ Săn Trên Trời”, sáng tác của Francis Thompson, ông cố chạy trốn Chúa. Ông so sánh Chúa với một thợ săn, vâng một con chó săn theo đuổi linh hồn. Đây là câu chuyện đời tư của Thompson.
Khi còn là cậu con trai, ông có ý định làm linh mục. Nhưng vì ông lười biếng. Cha ông phải ghi tên gởi ông vào trường thuốc. Ông làm quen với thói hút ma túy, nó hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông đi ăn xin, chui rúc trong xóm ổ chuột, kiếm sống qua ngày bằng đánh giày, bán quạt và giữ ngựa. Nhờ lòng tốt của cô gái nghèo, Thompson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông có tài, có lòng tốt thầm kín, họ giúp ông bắt gặp tình thương của Chúa.
Bằng chứng hiển nhiên của tình thương Chúa cho chúng ta được diễn tả trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi ban tặng Người Con Một, để những ai tin vào Ngài sẽ không bị diệt vong, nhưng được sống đời đời”. Cha trên trời chứng tỏ tình thương cho mỗi người chúng ta bằng cách sai Người Con yêu quý của Người để đổi lại chúng ta. Như ông Thompson linh hồn chạy trốn Chúa. Như người thợ săn rượt theo con thỏ. Thiên Chúa tìm kiếm từng linh hồn. Khác với người thợ săn, Chúa muốn cứu linh hồn đó chứ không hủy bỏ.
Làm sao chúng ta có thể có một quan niệm về mức độ vô biên của người thợ săn trên trời thương chúng ta? Trong bức thơ gởi cho Giáo đoàn Êphêsô, Thánh Phaolô gợi ý chúng ta nghĩ đến “Chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Chúa” đối với chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì rộng rãi: nó trải rộng tới mọi người; tới dân ngoại, tới người tội lỗi, tới cả những người chống đối Người. Thiên Chúa muốn mọi người được chia sẻ sự tốt lành của Người.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì dài: “Ta yêu ngươi bằng tình yêu vĩnh cửu (Jer 21.3)”. Trước khi có thế giới, Thiên Chúa đã yêu bạn. Tình yêu Thiên Chúa trải qua đời này tới đời kia.
Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì cao: Nó từ ngai tòa Đấng Tối cao trên trời cao thẳm mà tới. Chiều cao của tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ trong tặng vật của Người cho chúng ta. Có gì cao siêu hơn được chia sẻ chính sự sống của Chúa qua các bí tích. Tình yêu nào cao hơn việc ban Người Con tốt lành, thánh thiện của Người cho chúng ta khi rước lễ.
Tình yêu Thiên Chúa thì thẳm sâu: Thiên Chúa tự hạ mình từ Thiên đàng cao vời xuống chuồng bò thấp hèn ở Bethlem, tới căn nhà tồi tàn và rừng hoang, tới con người rất hèn, tới sự xỉ nhục của thập giá và chiều sâu của nấm mồ.
Một lần nữa, như Francis Thompson, như các vị thánh, chúng ta nhận thấy rằng: Thiên Chúa săn tìm linh hồn chúng ta cùng khắp thế giới. Vậy chúng ta hãy trở về với tình yêu đó. Chúng ta hãy cố gắng “tiến triển trong tình yêu” như chúng ta cầu nguyện trong kinh nguyện Thánh Thể II.
Trong mùa chay, chúng ta hãy nhớ Đấng Tình Thương đã ban cho chúng ta sự sống. Ước chi người thợ săn trên trời bắt được mỗi chúng ta.
Xin Chúa chúc lành bạn.
38. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu.
(Suy niệm của Noel Quesson)
“Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một”
Huyền thoại của một nước vùng Ấn Độ có câu chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói:
- Già đói lắm, suốt mùa nước lũ già không có gì ăn. Chắc già sắp chết rồi, giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ, Pôlixa có cho già được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá. Thỏ Pôlixa bảo ông:
- Được rồi, ông chờ một lát.
Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống rồi nổi lửa, và nói:
- Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.
Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt, ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được Thượng đế cho phép tới thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.
Đó chỉ là một chuyện huyền thoại, nhưng có ý nói tới điểm cao nhất của lòng bác ái, là sẵn sàng chết vì người khác. Đó cũng chính là ý tưởng của Đức Giêsu mà thánh Gioan đã ghi lại: “Không có tình yêu nào lớn bằng chết vì bạn hữu”.
Chúa Giêsu đã nói và Ngài đã thực hiện như thế. Chúa chết trên thập giá vì yêu ta. Chính cái chết của Chúa, hay nói khác đi, chính Tình yêu của Chúa đã đem sự sống tới cho chúng ta. Thiên Chúa yêu thương trần gian đến mức trao ban Con Một của Người. Người Con Một đó chính là Tình yêu của Thiên Chúa, đã dùng cái chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh đối với gian trần. Và Tình yêu đó đã đem đến cho trần gian nguồn sống.
Nhiều người thời nay tỏ ra rất bi quan: “Thế trần hư hỏng, vô phương cứu chữa…” thiếu gì lý do để buồn rầu chán nản. Một lương tâm tương đối sáng suốt nào cũng thấy vô số tệ đoan đang diễn ra khắp nơi khắp chốn: bạo lực, bất công, ích kỷ tập thể hay cá nhân, đê tiện đủ thứ, sa đọa, mất lương tâm nghề nghiệp… Người ta lợi dụng nhau, hành hạ nhau, dối trá công khai trên diễn đàn, trong ý thức hệ v,v… Chắc chắn Thiên Chúa thấy rõ những điều này. Tuy nhiên Người vẫn yêu thương trần gian. Người không chịu nổi sự tồi tệ của trần gian. Người muốn cứu vớt trần gian. Thiên Chúa tới chung sống với nhân trần. Người vẫn thấy những gì Người dựng nên là tốt đẹp.
Thiên Chúa muốn con người được sống vĩnh cửu… đó là cuộc sống từ trên ban xuống (Ga 3,3). Thiên Chúa không kết tội trần gian. Nếu trần gian bị kết tội là do tự mình mà ra. Thiên Chúa muốn giải thoát nhân loại, muốn mọi người được cứu rỗi (1Tm 2,4).
Khi con người cương quyết chối từ Thiên Chúa, họ vẫn bó buộc phải sống gần kề Thiên Chúa mà họ chối từ, đó chính là “hỏa ngục”. Và Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. “Thiên Chúa sai Con Người giáng trần không phải để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được Cứu độ. Ai tin vào Ngài thì không bị luận phạt. Còn ai không tin thì đã bị luận phạt rồi”. (Ga 3,17-19).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thêm lòng yêu mến Chúa bằng cách thương mến phục vụ mọi người như Chúa đã yêu thương phục vụ và hy sinh Cứu chuộc chúng con.
39. Lòng tin
Đang khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh "con rắn đồng" trong sa mạc. Đây là câu chuyện xảy ra trên đường từ Aicập về đất hứa. Ong Môisen theo lệnh Chúa dẫn "đám dân nô lệ" ra khỏi Aicập về Đất Hứa, trên đường đi Chúa ban Manna để nuôi dân chúng, nhưng ăn riết một thứ họ cũng chán, chẳng còn thấy ngon chút nào, chán đến phát ớn! Họ nhớ lại những củ hành của tỏi ở đất Aicập, vì dù là nô lệ họ vẫn được ăn nhiều thứ.
Càng nghĩ họ càng thèm những món ăn truớc đây họ đã được ăn, thèm nhỏ dãi luôn, không chịu được họ nỗi loạn chống lại ông Môisen, họ muốn quay về để được ăn dù phải làm nô lệ, làm tôi mọi, chẳng đáng một con người. Họ cố chịu đấm để được ăn xôi, cho dù là xôi có hẩm, xôi hẩm cũng vẫn là xôi mà. Để uống nắn và lòng dân, Chúa cho có những con rắn lửa xuất hiện và chúng đã cắn chết rất nhiều người. Họ hoang mang sợ hãi kêu cầu Chúa tha thứ và cứu chữa họ.
Chúa bảo ông Môisen làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để ai bị rắn lửa cắn thì nhìn lên con rắn đồng ấy, thì sẽ được Chúa cứu khỏi chết. "Cũng như ông Môisen giương cao con rắn trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời " . Chúa Giêsu nói đến cái chết của Ngài sẽ phải chịu. Vâng! Ngài sẽ phải bị treo lên cây thập giá, để những ai tin vào danh của Ngài và thực hành những Lời Ngài dạy bảo thì sẽ được cứu sống.
Xưa dân Do thái nổi loạn chống lại ông Môisen, nghĩa là không tin vào Thiên Chúa nữa. Khi họ bị rắn lửa cắn họ đã nghe theo lời ông Môisen dạy, nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu sống. Không phải con rắn đồng có khả năng ấy, nhưng vì họ đã vâng nghe theo lời ông Môisen, nghĩa là tin vào Thiên Chúa, bởi ông là Ngôn sứ của Chúa. Chúa đã ra tay cứu chữa họ, dù họ đã bất trung chống lại Ngài. Xưa con rắn đồng cứu sống họ nhưng rồi họ vẫn phải chết, còn Chúa Giêsu sẽ cho những ai tin và thực hành Lời Ngài sự sống cả đời này và đời sau nữa.
Anh chị em, trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, có lẻ đã nhiều lần, nhiều lúc, ở đâu đó, chúng ta cũng bất trung, cũng phản bội lại ơn làm con Chúa khi chúng ta phạm tội hay chúng ta đồng loã với tội lỗi. Hãy mau quay về với Chúa, hãy ngước nhìn lên thánh giá Chúa với tâm tình hoán cải thực sự, hầu được ơn tha thứ. Hãy tin rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Ân sủng và tình thương của Chúa lớn hơn tội lỗi và sự bất trung của chúng ta.
Tâm tình mà chúng ta cần phải có hôm nay là cám ơn Chúa vì tình thương Chúa lớn hơn tội của chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng học nơi Chúa bài học tha thứ, tha thứ luôn luôn cho anh chị em của mình.
Bản thân chúng ta là những con người tội lỗi yếu đuối, dễ phạm tội, dễ sa ngã, chúng ta cần được Chúa tha thứ thì chúng ta cũng phải biết không ngừng tha thứ cho những sai phạm của anh chị em chung quanh mình.
40. Yêu cho roi cho vọt – Lm Trần Bình Trọng.
Đọc Thánh kinh Cựu ước, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa có vẻ dữ tợn và hay trách phạt. Chẳng hạn khi dân chúng trở mặt chống lại Người, Chúa cho nước lụt tràn ngập đất đai, ruộng vườn của họ. Khi họ khô! ng tuân giữ giới răn Chúa, Người cho hạn hán tiêu hủy mùa gặt, và những sản phẩm ruộng vườn của họ. Khi dân Chúa bất trung phản nghịch cùng Người, Chúa gửi dịch tả đến miền đất của họ. Khi họ toan bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai, Chúa ra tay sát phạt họ, và dùng dân ngoại thi hành hình phạt của Chúa.
Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì hàng ngôn sứ của Chúa liền xuống giọng. Các ngôn sứ bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Vừa khi dân chúng thay đổi cách sống và ăn năn hối tội, thì họ lại được tha thứ và đưa về đất hứa. Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại được thể hiện bằng những việc Người làm trong Thánh kinh. Bài trích sách Biên Niên quyển hai hôm nay là một ví dụ điển hình về lòng xót thương của Chúa. Bài Sách này được viết vào khoảng ba trăm năm trước Chúa giáng sinh, khi tác giả đã có thể nhìn về lịch sử quá vãng, mà dân chúng chồng chất bất trung này lên bất trung khác. Từ lần nọ qua lần kia, họ mần ngơ trước sự hiện diện của các sứ giả của Chúa. Và họ còn bách hại các ngôn sứ và các tổ phụ của Người.
Cho tới lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Người liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Ba-by-lon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá huỷ thành phố, thiêu đốt Đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.
Tuy vậy Chúa không nỡ bỏ rơi dân Người. Chúa dùng ông vua ngoại đạo là Ky-rô, vua xứ Ba Tư, để cứu thoát dân Người và đưa họ trở về đất hứa. Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tuỳ thuộc vào Chúa.
Phúc âm hôm nay nhắc nhở cho ta về một tai hoạ xẩy ra cho dân Người trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân riêng của Chúa chối bỏ Người, đi thờ thần ngoại lai và còn đúc bò vàng để thờ, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến giữa họ. Rồi với lòng thương xót, Chúa truyền cho Môsê làm con rắn đồng, treo trên cây gậy để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên con rắn đồng, với niềm tin vào Chúa, thì được chữa khỏi. Đức Giêsu coi việc treo con rắn đồng lên cây gậy như là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời (Ga 3:16). Thánh Phaolô, người am hiểu lịch sử ơn cứu độ trong Thánh kinh Cựu ước đã thốt lên trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay: Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô (Ep 2:4-5).
Người ta có thể nói Thánh kinh Cựu ước gắn liền với lịch sử của dân Do thái. Nói cách khác, cổ sử của họ là Thánh kinh và họ luôn ghi nhớ lời Thánh kinh. Đi tản mát khắp thế giới sau khi Đền thờ bị phá hủy mà họ vẫn ghi nhớ lịch sử của họ, nhất là nhớ ngày lễ Vượt qua. Những chi họ bị thất lạc cả hai ngàn năm bên xứ Ê-thi-óp cận đại (xứ Cút cổ xưa) hay bên Ấn độ mà vẫn nhớ cội rễ của họ, mặc dầu có những người da ngăm ngăm đen mà họ vẫn nhận có máu Do thái và có những người vẫn muốn trở về đất hứa. Vào thập niên cuối cùng của thế kỉ 20, chính phủ Do thái giàn xếp với chính phủ của quốc gia mà họ đang sinh sống, gửi những chuyến bay bí mật chở họ về tái định cư tại Do thái.
Tại sao bị sát phạt như vậy mà họ vẫn tưởng nhớ đến Chúa? Một ví dụ trong đời sống hằng ngày có thể giúp ta hiểu phần nào tại sao bị phạt mà người ta vẫn nhớ đến người ra hình phạt mà không uẫn ức. Có những học sinh đã trải qua chương trình giáo dục nghiêm khắc. Họ vẫn nhắc lại những mẩu chuyện như xưa bị thầy giáo nọ dùng thước kẻ đánh vào bàn tay, bà sơ kia bắt quì mà họ vẫn có thể cười được vì bây giờ họ thành công trên đường đời, có địa vị trong xã hội, có việc làm tốt, có thể kiếm được việc mới và tái tạo cuộc sống mới ở nơi khác.
Không phải chỉ có dân Chúa trong Cựu ước mới phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa. Lịch sử dân Chúa thời Tân ước cũng không hơn gì, có khi còn tệ hơn nữa. Dân mới được chọn cũng chồng chất từ tội này đến tội khác, lại còn phạm thêm những tội mới như tội phá thai, hoặc những tội mà người ta phạm qua phương tiện truyền thông như phim ảnh, báo chí, truyền hình và ngay cả mạng tin. Có những tội mà người ta còn công khai phạm, không còn phải giấu giếm vì người ta coi là một lối sống của thời đại. Còn cá nhân mỗi người tín hữu, chính ta cũng có tội: tội phạm đến Chúa, tội phạm đến tha nhân, tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Thiên Chúa là Đấng nhân từ hay thương xót, nhưng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình, thành tâm sám hối và quyết tâm dốc lòng chừa, rồi xin Chúa xót thương tha thứ thì ơn cứu độ mới đến với ta được. Không nhận tội là tội, người ta sẽ không tìm đến thầy thuốc thiêng liêng và như vậy sẽ hết thuốc chữa.
Lời cầu nguyện xin cho được biết chấp nhận việc sửa lỗi:
Lạy Thiên Chúa, Đấng công minh và khoan hậu.
Chúa trách phạt không phải vì muốn trả thù báo oán
nhưng vì yêu thương với mục đích giáo huấn
hầu cho loài được sống.
Xin cho con biết nhìn nhận tội lỗi mình
chấp nhận việc sửa lỗi và làm việc đền tội
với quyết tâm cải thiện đời sống
hầu trở về sống trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.
41. Người thợ săn.
Có một thi sĩ, khi còn là một cậu con trai, đã ước mơ làm linh mục, nhưng rồi vì lười biếng, ước mơ ấy đã không bao giờ trở thành sự thật. Lớn lên, ông làm quen với ma túy, và chính ma túy đã hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông kiếm sống bằng nghề đánh giày, bán diêm quẹt và giữ ngựa. Sau cùng đã phải ngửa tay đi xin ăn và chui rúc ở gầm cầu xó chợ.
Giữa lúc ấy, nhờ lòng tốt của một cô gái nghèo, ông gặp được ông bà chủ. Họ thấy ông có tài, nên giúp ông gặp được tình thương của Chúa. Và ông đã diễn tả kinh nghiệm đời mình trong một bài thơ mang tựa đề là “Người thợ săn trên trời”.
Ông cho biết ông đã trốn chạy Chúa thế nào và Chúa đã chộp bắt được ông ra làm sao? Ông so sánh mình là như một con thỏ nhỏ, còn Chúa là như người thợ săn. Khác với người thợ săn, Chúa chộp bắt từng linh hồn, không phải để giết chết, mà là để cứu sống.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, trong đó thánh Gioan đã xác quyết:
- Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con Một Ngài, để những ai tin vào Ngài thì sẽ không bị tiêu diệt, nhưng sẽ được sống đời đời.
Làm sao chúng ta hiểu được tình thương bao la mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Thánh Phaolô đã gợi ý cho chúng ta nghĩ đến chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu ấy trong bức thư gửi tín hữu Rôma.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì bao la như đại dương không bờ không bến. Thực vậy, tình yêu ấy đã được trải rộng trên mọi người, không kỳ thị, không phân biệt màu da và tiếng nói. Tình yêu ấy cũng trải rộng trên cả những kẻ tội lỗi và phản bội Ngài, bởi vì Thiên Chúa muốn chia sẻ sự tốt lành của Ngài cho tất cả chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì dài lâu như chính bản tính của Ngài, bởi vì Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh cửu. Thực vậy, trước khi có thế gian, Ngài đã yêu thương chúng ta và Ngài sẽ còn yêu thương chúng ta mãi mãi, từ đời này sang đời kia.
Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa dánh cho chúng ta còn thật cao vời. Đặc tính cao vời này được biểu lộ qua những tặng vật mà Ngài đã trao ban cho chúng ta. Còn gì cao vời hơn khi được chia sẻ chính sự sống của Ngài qua các bí tích. Còn gì tuyệt diệu hơn cho bằng việc Ngài ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, để cứu độ chúng ta và ngày nay việc trao ban ấy vẫn còn được tiếp nối qua việc chúng ta lên rước lễ.
Và sau cùng tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thật là thẳm sâu, bởi vì là một Thiên Chúa quyền năng, Ngài đã hạ mình xuống mang thân phận con người. Sinh ra là một hài nhi bé bỏng nơi máng cỏ Bêlem. Chết đi như một tội nhân bị bêu xấu trên thập giá.
Từ tình yêu ấy chúng ta thấy được rằng: Thiên Chúa luôn săn đuổi chúng ta để rồi dẫn chúng ta vào trong tình yêu của Ngài. Bổn phận của chúng ta trong Mùa Chay này đó là hãy đáp trả tiếng gọi của tình yêu bằng cách chổi dậy, lên đường và trở về với Ngài.
42. Thích gì.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rất rõ ràng về bản chất của tội lỗi. Tội chính là chọn lựa bóng tối thay vì chọn ánh sáng là đời sống của Chúa Giêsu. Đây là một sự thật rất kinh khủng về tội. Tội là một cớ vấp phạm, không một suy tư nào có thể biện minh cho tội lỗi. Vì Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những hành vi tội lỗi đều là sự dữ.
Điều chúng ta nên làm là thường xuyên phản tỉnh về những chọn lựa mà chúng ta đang làm, và phân biệt đó là sự chọn lựa bóng tối của tội lỗi hay chọn lựa ánh sáng sự thật của Chúa Giêsu Kitô.
Khi phản tỉnh về những điều sai trái của tôi, tôi cảm thấy bị vỡ mộng và khó chịu về sự bất lực không làm được những chọn lựa đúng của tôi. Cuộc sống của tôi dường như phản ánh cuộc chiến đấu của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma đoạn 7. Trong đoạn này, thánh nhân nói điều mà mình biết là cần phải làm thì lại không làm được.
Trong thực tế, Giáo Hội khuyến khích chúng ta thực hành việc xét mình hàng ngày, vào ban tối trước khi đi ngủ. Vào lúc xét mình, chúng ta nhớ lại các sự việc đã xảy ra trong ngày và tạ ơn Chúa vì những phúc lành mà Người đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng nhớ lại các tội đã phạm và những điều chúng ta cần phải làm mà đã không làm và ăn năn thống hối tất cả các tội lỗi đã phạm. Nhờ ơn Chúa, qua việc xét mình này, chúng ta thấy rõ tâm hồn của mình, nhận biết các tội đã phạm, giúp chúng ta tỉnh thức hơn để canh phòng tâm trí của mình và sẵn sàng đón nhận những ơn soi sáng của Chúa.
Chúng ta cần nhận thức cuộc sống của chúng ta là một chiến trường giữa hai lực lượng thiện và ác. Tin Mừng cho chúng ta biết Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng trong cuộc chiến đấu vì chúng ta. Chúng ta chỉ chiến thắng khi khắc phục được tội lỗi và các cơn cám dỗ. Thiên Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta chịu thử thách quá sức chịu đựng của chúng ta. Nhưng chúng ta phải cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa, để nhờ đó, chúng ta luôn sống như con cái của ánh sáng và không trượt ngã vào trong vương quốc của tối tăm và tội lỗi.
Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh và can đảm để con chiến đấu với các đam mê tội lỗi và nết xấu của con.
43. Yêu Chúa.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh con rắn đồng để ám chỉ về cái chết cứu chuộc của Ngài. Con rắn đồng là gì? Đây là một câu chuyện thời xưa được Chúa nhắc lại, khi dân Do Thái lang thang trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, họ đã nhiều lần kêu trách Chúa, họ nói rằng: tại sao lại đưa họ vào sa mạc để họ phải khổ như thế này? Số người Do Thái lúc đầu ra khỏi Ai Cập khoảng hơn hai triệu người, con số không phải nhỏ bé, họ được Chúa ban manna ăn mỗi ngày, nhưng rồi họ cũng chán ngán, họ phàn nàn: chẳng có gì vui, chẳng có gì ngon, chỉ có mỗi manna chán ngắt. Khi họ kêu trách Chúa như vậy tức là họ bày tỏ một tấm lòng hết tin tưởng, họ muốn quay trở về với kiếp nô lệ để được ăn củ hành củ tỏi, họ đã mất niềm tin vào Chúa. Có lần Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện khắp nơi và cắn chết nhiều người, khi đó họ mới nhớ ra tội mình bội tín, bất trung với Chúa, họ ăn năn và cầu cứu với ông Môsê xin Chúa tha thứ. Chúa động lòng thương bảo ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cây cao, để bất cứ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng này thì được cứu sống.
Thật ra con rắn đồng kia chỉ là một thứ kim loại vô tri vô giác, tự nó không có khả năng hay quyền hành gì để cứu giúp người ta lúc ấy, yếu tố cứu giúp người ta chính là đức tin. Việc nhìn vào con rắn đồng kia là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát ra bên ngoài bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Và đó là ý nghĩa của câu Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi”. Nói vậy là Chúa có ý ám chỉ cái chết của Ngài, Ngài sẽ chết cách nào, Ngài sẽ bị treo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại.
Nói rõ hơn, ngày xưa, dân Do Thái muốn được khỏi bệnh rắn cắn thì nhìn lên rắn đồng, còn ngày nay, chúng ta muốn khỏi bị trầm luân, hư mất đời đời thì chúng ta cần tin vào Chúa Giêsu, nhận cái chết chuộc tội của Ngài, để Ngài đem hạnh phúc trường sinh cho. Nói như vậy là để chúng ta ý thức tình trạng tội lỗi của mình, nếu chúng ta không biết mình là người có tội, là người phải cần tới Chúa, thì cái chết của Chúa cũng giống như bao nhiêu cái chết khác, không liên quan gì đến mình, hay cùng lắm chúng ta coi cái chết của Ngài cũng như cái chết của một vị anh hùng, nếu như vậy thì cái chết của Chúa sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta, thái độ đó cũng chẳng khác gì thái độ của những người Do Thái xưa kia nhìn lên rắn đồng với cặp mắt nghệ thuật, nên vẫn bị chết. Chúng ta phải ý thức rằng tất cả chúng ta đều là những tội nhân, bị rớt xuống vực thẳm, không thể tự cứu nổi mình, chứ đừng nói cứu người khác, vậy cần phải có một người ở trên, ở ngoài cứu vớt chúng ta, đó là Chúa Giêsu, Chúa cứu chúng ta bằng cách chết thay cho chúng ta, nếu chúng ta tin nhận như thế là chúng ta đã bắt đầu đi vào con đường cứu độ của Chúa.
Như vậy bài học Chúa Giêsu dạy đã quá rõ ràng, đó là chúng ta phải tin vào Chúa thì mới được cứu rỗi. Nói tới niềm tin chúng ta thấy sống trên trần gian này bất cứ ai cũng có niềm tin, lòng tin hay đức tin. Con người ta sống không thể nào thiếu vắng điều này, chúng ta không tin điều này thì tin điều khác, không tin người này thì tin người khác, chúng ta tin nhau, cha mẹ tin con cái, con cái tin cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, trường học, trao đổi xã hội… đều lấy lòng tin làm căn bản. Từ một em bé đến trường, em có tin cô giáo dạy học được, em mới đi học, cuộc sống chúng ta trao đổi hàng quà, đồng tiền, công thợ… đều đặt vào lòng tin tưởng nhau, nếu không tin tưởng nhau chúng ta không thể nào gặp gỡ và nói chuyện với nhau được. Nói khác đi, chúng ta có gần gũi nhau hay không, thương yêu nhau hay không, điều đó cũng tùy thuộc vào lòng tin, chính lòng tin tạo nên hy vọng, tình yêu, một gia đình cùng một lòng tin “tát bể đông cũng cạn”. Như vậy, tin là chuyện bình thường trong cuộc sống, từ đó chúng ta dễ hiểu lòng tin trong lãnh vực tôn giáo, đối với chúng ta, đó là đức tin.
Cũng thế và hơn thế, Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta phải có một đức tin sắt son vào Ngài, có bấy nhiêu thôi, nếu chúng ta không tin Ngài thì tin ai? Tin vào mình chăng? Tin vào tài trí, hy vọng vào chính mình, vào đời mình chăng? Làm như vậy là gánh vàng đem đổ sông Ngô, là xây nhà trên cát. Chúng ta tin Chúa, chắc chắn rồi, chúng ta tin lời Chúa, cũng chắc chắn rồi, nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải tin Chúa thương yêu chúng ta. Chúng ta tin Chúa là Cha rất gần gũi con cái, đùm bọc, che chở, quan phòng, rất toàn năng, đó là bấy nhiêu của lòng tin. Từ lòng tin đó chúng ta bắt đầu yêu Chúa. Chúng ta tin nên chúng ta yêu, hay yêu rồi tin cũng thế, chỉ biết rằng lòng tin nâng đỡ tình yêu, và tình yêu nâng đỡ lòng tin, có tin mới yêu, cũng như có yêu mới tin.
Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, chúng ta đã đi được một nửa đường của Mùa Chay. Mùa Chay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, sửa đổi đời sống. Chúng ta là những người tội lỗi, chúng ta tin Chúa yêu chúng ta hơn những người trần gian yêu chúng ta nhất, nên chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta khi chúng ta xin lỗi Ngài. Vậy để biểu lộ lòng chúng ta tin yêu Chúa, chúng ta hãy ăn năn sám hối.
44. Con rắn
Khi đi ngang qua các tiệm thuốc tây hay nhà thương, chúng ta thấy vẽ hình một con rắn, quấn quanh cây cột. Đó là biểu tượng của ngành y, một nghề cứu nhân độ thế. Biểu tượng này bắt nguồn từ một biến cố xảy ra cho dân Do thái trên đường về miền đất hứa.
Bấy giờ họ phàn nàn kêu trách Chúa và Môsê vì đã không cho họ bánh ăn và nước uống như hồi ở bên Ai Cập. Họ đã quá chán ngán thứ manna này rồi. Và thế là Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người.
Tuy nhiên, khi họ biết ăn năn hối cải, Ngài đã ra lệnh cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo nó lên một cây cột và hễ ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên rắn đồng là được bảo đảm an toàn tính mạng.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi con rắn đồng một hình ảnh về bản thân mình.
Thực vậy, như con rắn ngày xưa, Ngài cũng bị treo lên để những ai nhìn lên Ngài với ánh mắt tin tưởng và sám hối, thì sẽ được tha thứ và được sống đời đời.
Trong Phúc Âm, thánh Gioan đã nói đến ba lần việc Con Người phải được giương cao, ám chỉ cái chết của Ngài trên thập giá, nhưng đồng thời cũng mang ý nghĩa về sự Phục sinh và lên trời của Ngài.
Trong cái nhìn của thánh Gioan, thập giá chính là đỉnh cao trong tiến trình trở về với Chúa Cha. Đây là một tiến trình đi lên, trái ngược với tiến trình đi xuống của Ngôi Lời lúc nhập thể:
- Khi nào các ngươi giương cao Con Người lên, các ngươi sẽ biết rằng Ta là ai… Khi nào Ta được giương cao lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta.
Đức Kitô, Đấng đã chịu treo trên thập giá, đã được Phục sinh và lên trời. Chính Ngài không ngừng cuốn hút vũ trụ này về với Ngài, để dâng lại cho Chúa Cha.
Chúng ta đang ở trong Mùa chay, đây là thời gian thích hợp để chúng ta nhìn lên Đức Kitô trên thập giá.
Những người bị rắn độc cắn nơi hoang địa đã nhìn lên rắn đồng như biểu tượng của lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Họ nhìn lên với thái độ tin tưởng và đã được thoát chết.
Chúa Giêsu không cứu chúng ta khỏi cái chết phần xác, nhưng Ngài còn làm một điều lớn lao hơn nhiều, đó là cho cả hồn lẫn xác của chúng ta được sống đời đời.
Chúng ta quen hiểu sự sống đời đời là sự sống vĩnh cửu vào ngày tận thế. Tuy nhiên, theo thánh Gioan thì sự sống đời đời đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay từ lúc chúng ta còn sống trên trần gian.
Chỉ cần tin vào Đức Kitô là nguồn mạch ơn cứu độ, là quà tặng cao cả nhất của Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy sự sống của Ngài tràn vào cuộc đời chúng ta.
Chỉ cần nhìn lên những dấu đinh và trái tim bị đâm thâu qua của Ngài là chúng ta sẽ nhận ra dấu chỉ của một tình yêu và chúng ta được mời gọi để sống một cuộc đời hoàn toàn khác, như thánh Phaolô đã viết:
- Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Tôi sống cuộc sống hiện tại của tôi trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Hãy nhìn lên thập giá với tâm tình sám hối, để nhờ đó chúng ta được Chúa tha thứ và được chữa lành khỏi nọc độc của tội lỗi.
45. Thiên Chúa yêu.
Thiên Chúa quá yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Người, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Chúng ta được nghe những lời tuyệt vời này trong bài Phúc âm hôm nay. Đây là một bản tóm tắt thật hay của Tin Mừng.
Điều đầu tiên chúng ta cần ghi nhận, đó là chính Thiên Chúa đi bước đầu trong việc cứu độ.
Đôi khi, chúng ta có cảm giác rằng: trước hết Thiên Chúa phải nguôi cơn giận, sau đó Ngài mới tha thứ cho chúng ta. Chúng ta đã mường tượng ra hình ảnh Thiên Chúa như là một Đấng nghiêm khắc, nóng giận, và không biết tha thứ.
Nhưng trái lại, Đức Giêsu lại giới thiệu Thiên Chúa như là một Đấng đầy khoan dung, giàu lòng và luôn tha thứ. Nhờ sự chết của mình, Đức Giêsu đã thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Nhưng Tin Mừng hôm nay còn cho thấy chính Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến với chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước.
Thiên Chúa chọn phương pháp của tình yêu, chứ không phải của sức mạnh. Thiên Chúa hành động không vì mục đích của riêng Người, nhưng vì chúng ta. Thiên Chúa không phải là nhà độc tài tuyệt đối, một người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi bắt buộc các tạo vật của Người phải vâng phục một cách hèn hạ. Nói đúng hơn, Thiên Chúa là một người Cha, Người không cảm thấy hài lòng, cho đến khi tất cả những con cái đang tản mác của Người được trở về.
Đoạn này cũng cho thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa bao hàm tất cả như thế nào. Tình yêu của Người không chỉ hướng đến một quốc gia duy nhất, mà cũng không chỉ dành riêng cho người tốt. Tình yêu của Người hướng đến tất cả các quốc gia, dành cho những con cái của ánh sáng, và cả những con cái của bóng tối nữa.
Nhưng đoạn này cũng nói về sự phán xét và kết án. Nếu Thiên Chúa chọn phương pháp đầy yêu thương, thì làm thế nào mà phương pháp đó lại có thể bao hàm cả việc phán xét và kết án? Làm thế nào mà việc kết án lại có thể hòa giải với tình yêu được? Hành động của Thiên Chúa không lôi kéo theo sự kết án ai cả. Con người đã tự kết án chính mình, bằng cách sống theo thái độ tiêu cực. Thiên Chúa đã gửi cho chúng ta một nguồn sáng. Nếu con người bị hư mất, chính bởi vì họ đã không chấp nhận ánh sáng. Lỗi không phải do Thiên Chúa, nhưng là lỗi của chúng ta.
Lần kia, một khách tham quan được hướng dẫn đi khắp chung quanh một phòng trưng bày nghệ thuật. Phòng trưng bày đó chứa đựng một số bức tranh đẹp, đã được thừa nhận là những kiệt tác thế giới. Sau khi tham quan một vòng, người du khách nói “Tôi không cho là những bức tranh cũ kỹ này có nhiều giá trị”. Hướng dẫn viên trả lời “Thưa ông, không cần phải xem xét về những bức tranh này nữa. Nhưng cần phải xét lại về những người nhìn vào chúng”.
Phản ứng của người đàn ông không phải là một lời phê phán đối với bức tranh, mà là cách đánh giá thấp kém của ông ta về nghệ thuật. Tương tự như vậy, những ai ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng, thì đã tự kết án chính mình.
Những người xấu ghét ánh sáng bộc lộ cho họ nhìn thấy bản thân họ. Họ ghét lòng tốt, bởi vì lòng tốt bộc lộ tâm địa xấu xa của họ. Họ sẽ phá hủy ánh sáng, lòng tốt, tình yêu, để tránh bị nỗi đau của sự tự phát hiện ra bản thân mình.
Thật khủng khiếp khi người ta khước từ ánh sáng, khước từ sự ban tặng tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng thật ngọt ngào khi được bước đi trong ánh sáng tình yêu của Người. Trong quá trình cứu độ, phần đóng góp của chúng ta chính là biết chấp nhận quà tặng của Thiên Chúa, trong tất cả bản tính nhân loại của mình, và cố gắng đáp trả lại bằng sự tận tụy. Chúng ta có khả năng yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước.
46. Tiến vào ánh sáng
Thánh Phaolô nói “Bất cứ ai làm những điều đúng đắn (tốt đẹp), đều tiến vào ánh sáng”. Đến với ánh sáng là điều kiện để làm theo lẽ phải. Không phải người nào suy xét về chân lý mới đến được với ánh sáng, mà là những người làm theo lẽ phải. Hành trình ngắn nhất để đến được với ánh sáng là làm việc thiện. Nhưng trong thực hành, không phải lúc nào chúng ta cũng hành động như vậy.
Thông thường, điều mà chúng ta phải làm, đó là cố gắng được trạng thái an bình nội tâm, và rồi sau đó, mới tiến đến làm những hành động đem lại sư an bình. Chúng ta phải cố gắng đạt được trạng thái vui vẻ và biết ơn, và rồi sau đó mới đến làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn. Nhưng chúng ta thường làm ngược lại. Chúng ta thực hiện một hành vi đem lại sự an bình, để đạt được sự an bình nội tâm. Chúng ta làm những việc mang tính cách vui vẻ và biết ơn, để cảm nghiệm được niềm vui và sự biết ơn trong tâm hồn. Cũng theo cách đó, nếu chúng ta đang sống trong tối tăm, và làm những hành động tốt đẹp, thì rồi ánh sáng sẽ chiếu tỏa trên chúng ta. Câu chuyện có thật sau đây minh họa điều này thật rõ ràng.
Trong thành phố Látvi của Kovno, có một giáo sư sống tại đó. Mặc dù trong suốt cả cuộc đời, ông đều sống theo học thuyết bất khả tri, nhưng vị giáo sư này càng ngày càng bắt đầu cảm thấy bất an hơn, vì tình trạng bị bỏ bê, u buồn của nghĩa trang dành cho người Do thái trong thành phố. Bởi vì những người theo chủ nghĩa Phátxít đã hủy diệt người Do thái, và những người Xô-viết gây phiền hà cho họ, nên không một ai quan tâm chăm sóc các nấm mộ của họ. Vì thế, phát xuất từ tấm lòng tốt của mình, vị giáo sư này đã quyết định làm công việc đó.
Chúng ta không biết ông có ý thức rằng việc chăm sóc các ngôi mộ là một mitzvah, nghĩa là một nghĩa cử tốt đẹp hay không. Dù sao đi nữa, người đàn ông tốt bụng này cũng kiếm cho bằng được một cái xẻng, một cái liềm, và một cái kéo lớn, rồi bắt đầu công việc làm cho nghĩa trang xứng đáng với những người chôn cất tại đó. Lúc đầu, ông làm một mình, nhưng sau vài tuần, có những người Do thái khác tham gia vào công việc này với ông. Hầu hết những người này đều đã từng là người Do thái rất tuân thủ theo nguyên tắc, nhưng rồi họ trở thành những người sống theo học thuyết bất khả tri, giống như vị giáo sư đó. Cuối cùng, họ có đến 200 người, tất cả đều đang làm một công việc đúng đắn. Trong quá trình họ làm việc, một sự kiện đẹp đẽ đã xảy ra. Niềm tin Do thái của họ soi sáng trong tâm hồn họ. Về mặt thực hành, một lần nữa, tất cả những người này đều đã trở thành những người Do thái tuân thủ theo nguyên tắc đạo đức.
Bất cứ kẻ nào làm điều sai trái, thì đều căm ghét và tránh né ánh sáng. Nhưng những ai làm điều đúng đắn, thì yêu mến và đến với ánh sáng. Có bao nhiêu hành động của chúng ta được thực hiện trong ánh sáng? Có bao nhiêu hành động của chúng ta bộc lộ sự quan sát kỹ lưỡng đối với ánh sáng?
Chúng ta phải chấp nhận rằng có cảnh tối tăm trong cuộc sống và thế giới của chúng ta. Chúng ta phải nhận ra cảnh tối tăm đó, và học hỏi được cách sống trong tương quan với nó.Thật vô ích khi chúng ta chờ đợi cho cảnh tối tăm đó biến mất. Chúng ta vẫn mong muốn điều đó. Nhưng chúng ta phải chấp nhận rằng nó đang tồn tại ở đây, và sẽ luôn luôn ở đây.
Chúng ta không được gọi bóng tối là ánh sáng. Khi làm như vậy, chúng ta sẽ bị bóng tối đánh bẫy. Nhưng khi gọi nó là bóng tối, chúng ta có thể học hỏi được cách sống sao cho bóng tối không chế ngự được chúng ta. khi chấp nhận tất cả mọi sự, thì chúng ta sẽ không thể phân biệt được giữa ánh sáng và bóng tối.
Người nào nhận biết niềm vui và tình yêu của Thiên Chúa, thì không từ chối bóng tối, nhưng họ chọn lựa không sống trong bóng tối. Họ tin tưởng vào ánh sáng chiếu tỏa trong bóng tối, và nhận biết rằng chỉ một tia sáng nhỏ nhoi thôi, cũng đủ xua tan nhiều bóng tối. Và ánh sáng của Đức Kitô quá đỗi mạnh mẽ, đến nỗi không một bóng tối nào có thể áp đảo được. Nếu chúng ta làm việc thiện, thì ánh sáng sẽ chiếu tỏa trên chúng ta.
47. Ánh sáng và bóng tối
(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)
Những ngày này quanh quẫn bên người mẹ đang thoi thóp thở những làn hơi cuối ở quê nhà, thỉnh thoảng mẹ lại thều thào nói đang đến được một vùng tràn đầy ánh sáng có rất nhiều thiên thần bay lượn vây quanh. Rồi khi cắn chặt răng quằn quại với cơn đau điến người thịt xác, mẹ mê sảng la lên qủy ma đang chực chờ ẩn hiện đưa mẹ đến một nơi xa thật xa vô cùng tăm tối.
Tìm đọc một vài tin tức địa phương để 'thư giản' vãn thời gian, điều đầu tiên đập ngay vào mắt là chuyện dài... cúp điện! Người dân ở đây cơ hồ như quen với lúc tối lúc sáng lúc có lúc không đã từ lâu nên chẳng mấy ai thở than. Mà giả như có muốn thì cũng chẳng biết nơi đâu mà trút tiếng thở dài!!!
Có ai đó nói rằng bất hạnh của người này là hạnh phúc của người kia. Điều này thật vô cùng đúng mỗi khi điện cúp vì đây là cơ hội bằng vàng cho những tay đạo chích. Thời tiết oi bức khó chịu nên sau một ngày dài làm việc khi vừa bước vào nhà mà điện đóm lại không có, việc đầu tiên là mở tung mọi cửa sổ rồi tắm một cái cho đã đời. Bọn trộm chuyên nghiệp chỉ chờ có thế! Dùng những cần dài với móc câu trét đầy 'keo dính chuột' cực mạnh, chúng câu bất cứ cái gì mà khổ chủ vô ý bỏ quên!
Đau đớn hơn, họ còn là nạn nhân của những tên trộm ngày thời đại -những cái gọi là 'đầy tớ nhân dân': đám quan lại tham ô hủ hóa dùng đủ mọi thủ đoạn tinh vi đến man rợ rợn người đục khoét công qủy nhởn nhơ vênh vang sống ung thối trên mồ hôi nước mắt của chính đồng bào máu thịt -những người dân tội nghiệp ba miền hiền lành khốn khổ ngụp lặn miệt mài lây lất sống cháo buổi mai khoai buổi chiều. Ngày cũng như đêm! Bóng tối đương nhiên đồng nghĩa với xấu xa nhưng ngay cả ánh sáng cũng đã chưa dọi chiếu hết bình minh công chính cho phần đất quá cơ khổ này. Lo toan đè nén ban ngày rồi trăn trở sợ sệt lo âu khi hoàng hôn vừa buông xuống. Thương ôi! "Người chết hai lần..."
Khi xã hội chỉ biết đắm chìm vào việc phát triển kinh tế và con người chỉ mãi lặn lội giữa những sóng đời vật chất, tình nhân loại và nghĩa đồng bào đã không còn nữa. Và khi mọi trọng tâm chỉ chuyên chú vào chỉ tiêu báo cáo, khi giá trị con người chỉ được nhìn qua lăng kính thành tích thi công, tôn giáo và luân lý khó có thể nẩy hạt gieo mầm. Như Dorothy Thompson viết: "Khi Thiên Chúa ra đi, tất cả sẽ ra đi." Hoặc như George Washington phát biểu trong bài diễn văn từ biệt: "Luân lý sẽ chẳng có thể trường tồn nếu không có đức tin và tôn giáo."
Thiên Chúa không thể ra đi khi mỗi chúng ta luôn tin vào Con Một Chúa. Nhưng tin vào Con Một Chúa không phải giản đơn chỉ tin những gì đã xảy ra bên này và bên kia bờ sông Babylon hơn hai ngàn năm trước rồi lãng quên hoặc sống cùng sống với thực tế chung quanh. Tin vào Con Một Chúa là phải sống như Con Một Chúa.
Sống như Con Một Chúa là phải luôn "yêu sự sáng" và "đến cùng sự sáng" bằng "hành động trong sự thật". Ở đây, sự thật đã thật khó tìm mỗi khi hoàng hôn xuống. Và cũng chẳng dễ tìm khi bình minh vừa ửng hiện chân trời. Tự dưng muốn ngồi bên một bờ sông vắng, treo cây đàn, khóc thương về một chốn củ nơi xưa!
48. Dĩ độc trị độc – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Con rắn đã bò vào lịch sử nhân loại, để lại những dấu vết không đẹp. Nhưng có một con rắn tượng trưng cho uy quyền cứu độ, chứ không đẩy xô con người xuống hố diệt vong. Đó là con rắn đồng trong sa mạc. “Ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc,” (Ga 3:14) để “tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” (Ds 21:9) Con rắn đã mang một bộ mặt mới kể từ ngày Thiên Chúa tìm cách cứu con người khỏi hố diệt vong.
TÌNH YÊU BA CHIỀU
Trên cây thập giá, Đức Giêsu đã thiết lập được một tương quan ba chiều với Chúa Cha, con người và vũ trụ. Người đã phải trả một giá rất đắt. Nếu Thiên Chúa đã không thương yêu thế gian tột độ, không bao giờ có cuộc hi sinh lớn lao đó. Đức Giêsu xứng đáng là một vị thẩm phán tối cao, có quyền xét xử muôn dân. Nhưng Người đã không đến với tư cách đó. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.” (Ga 3:17) Sự công chính đã mang bộ mặt tình yêu. Chính vì tình yêu đó, Đức Giêsu đã phải hi sinh tới giọt máu cuối cùng trên thập giá. Đó là giá rất đắt. Con Thiên Chúa đã phải trả cho chúng ta.
“Như ông Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:15). Như vậy cuộc hi sinh lớn lao đó nhằm lập tương quan thân ái với nhân loại và vạch ra con đường đi tới hạnh phúc vĩnh cửu. Con đường đó là tin vào tình yêu Thiên Chúa nơi Con Người chịu treo trên thập giá. Đó là con đường dẫn ta thoát vòng tử thần, tới nguồn sống thật. Chính Đức Giêsu quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3:16)
Thập giá trở thành trung tâm trong chương trình giải thoát của Thiên Chúa (Faley 1994: 262). Ngước mắt nhìn lên thập giá, chính là hướng về nguồn ơn cứu độ. Bởi vì chính trên cây thập giá Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về bản tính mình. “Khi các ông giương Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8:28). Đức Giêsu chính là Đức Chúa và nguồn sống cho vạn vật và con người. Không tin vào chân lý đó tức là tự lên án chính mình. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3:17) Chính cây thập giá sẽ phân nhân loại làm hai hạng người tin và không tin. Thập giá không phải là dấu chỉ của án phạt. Nhưng không tin cái chết của Đức Giêsu có sức mạnh cứu độ mới dẫn tới hư vong. “Đức Giêsu là cơ hội chứ không phải là nguyên nhân” (Fahey 1994:263) của việc phán xét. Cây thập giá là một biểu tượng cho mọi người thấy tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt tới mức nào.
Như vậy cây thập giá đã chứng tỏ tình yêu riêng của Đức Giêsu (Ga 13:1) và cả tình yêu Thiên Chúa Cha đối với nhân loại. Tình yêu là động lực chi phối toàn bộ sứ mạng Đức Giêsu dưới thế. Tình yêu trở thành hồng ân vĩ đại, vượt quá tầm hiểu biết. Quả thực, “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ” (Ep 2:4-5). Trong nguồn ân sủng đó, chúng ta trở thành “con cái ánh sáng” (Ep 5:8). Bởi vì chính Đức Giêsu là “ánh sáng đã đến thế gian.” (Ga 3:19) Không phải ai cũng đón nhận được hồng ân cao cả đó. Thực tế, “người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.” (Ga 3:19) Chính việc làm đã tạo thành một bản án đeo vào cổ họ. Số phận thật tang thương! Định mệnh thật khốc liệt!
Nhưng trong quá khứ, ngay lúc bi tuyệt vọng nhất, dân Chúa đã thực hiện trọn vẹn giấc mơ. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tạo nổi lịch sử! Thực vậy, “để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba tư” (Sb 36:22), để vua “ra lệnh phục hồi Giuđa, hồi hương dân cư và tái thiết đền thờ” (Fahey 1994:261). Bởi đó tin vào Thiên Chúa không bao giờ tuyệt vọng. Thiên Chúa luôn có sẵn những giải pháp tốt đẹp nhất.
TRỜI BỪNG SÁNG
Thiên Chúa chính là nguồn hi vọng cho những ai tin tưởng tuyệt đối nơi Người. Nói khác, niềm tin và hi vọng luôn đi song đôi. Tin là con đường dẫn tới sự sống. Đức Giêsu đã củng cố tinh thần những ai run sợ trước thần chết: “Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Đức tin vô cùng quan yếu cho con người. Theo Martin Luther, “đức tin là một thực tại sống và bởi thế gồm những nhân đức thương yêu và hi vọng, kinh nghiệm sống hiệp nhất với Thiên Chúa, và khát vọng sống kết hiệp với Chúa tới muôn đời” (Cook 1995:512). Chính vì thế, không tin, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô vị.
Khi tin, con người sẽ thấy mình vươn tới đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa. Vì chính Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta không những khỏi ách nô lệ tội lỗi, nhưng còn khiến chúng ta tự do yêu thương nhau và bởi đó đem ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi trần gian (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Từ tình yêu tới tình yêu. Từ ánh sáng tới ánh sáng. Sống trong tình yêu là đi trong ánh sáng. Đức Giêsu muốn chúng ta là “ánh sáng cho trần gian” (Mt 5:14). Nguồn cung cấp ánh sáng chính là tình yêu, một tình yêu phải được sự thật giải thoát. Đó là lý do tại sao Chúa nói “kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng” (Ga 3:21). Đi trong tăm tối trần gian hay sống dựa trên sự lừa đảo, gian dối, không thể tìm được nguồn sống và nguồn sáng đích thực. Do đó cuộc đời mãi mãi là nô lệ.
Muốn thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than đó, phải “tin tưởng và xác tín rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cứu chúng ta. Tin là phó thác những chương trình hiện tại và vận mệnh đời đời nơi Đức Kitô. Tin là vừa xác tín lời Chúa có thể thực hiện và cậy dựa vào quyền năng biến đổi của Người” (Life Application Study Bible 1991:1878). Một khi xác tín như thế, chúng ta sẽ thay đổi toàn bộ, từ não trạng đến cái nhìn và nếp sống. Từ nay không còn gì xảy ra ngoài chương trình đầy tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Đức tin giúp ta “bắt đầu lượng định tất cả sự việc xảy ra theo nhãn quan vĩnh cửu” (Life Application Study Bible 1991:1878).
Hơn nữa, tin tưởng còn có nghĩa là “làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa toàn thắng trên quyền lực sự dữ trong chúng ta và trên thế giới” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Niềm tin không bao giờ bất động hay tiêu cực, nhưng luôn thúc đẩy con người đi tới tha nhân và hi sinh bản thân để lôi kéo mọi người vào cuộc sống hạnh phúc và đầy yêu thương của Thiên Chúa. Không có niềm tin ấy, người ta chỉ tìm cách hi sinh tha nhân cho những mục tiêu trần tục. Đó là điều những người vô thần đã làm. Đứng trước đài kỉ niệm Holocaust ở Giêrusalem, tưởng nhớ hằng triệu nạn nhân vô tội của chũ nghĩa Nazis, ĐGH Gioan Phaolô II nói: “Chỉ có chủ thuyết không có Thiên Chúa (vô thần) mới có thể tính kế và thực thi sự tiêu diệt toàn bộ khối người như vậy” (VietCatholic 23/3/2000). Những hành động cuồng điên đó không những phát xuất từ niềm tin vô thần, nhưng còn là kết quả của những thất vọng lớn lao. Từ thất vọng đến tuyệt vọng.
Nhưng “ngay trong những giờ tuyệt vọng, không phải mọi ánh sáng đều đã tắt hết đâu” (Gioan Phaolô II, VietCatholic 23/3/2000). Lý do vì ngay lúc khốn cùng
10/03 Cầu nguyện trong sám hối
- Viết bởi Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Cầu nguyện trong sám hối.
Thứ bảy tuần 3 Mùa Chay.
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".
Lời Chúa: Lc 18, 9-14
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác:
"Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi".
Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội".
Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chìa Khoá Của Tự Do
Người Hồi giáo nói về sự cầu nguyện bằng câu chuyện sau:
Có một người thợ kim hoàn nghèo nhưng thanh liêm bị giam tù vì một tội ông không bao giờ phạm. Vài tháng sau khi người chồng bị giam giữ, người vợ đến gặp ban giám đốc và xin cho chồng một ân huệ. Bà nói chồng bà là một tín hữu trung thành với các buổi cầu nguyện, bà xin được gửi cho chồng một tấm thảm nhỏ để quì cầu nguyện năm lần một ngày theo qui định của Hồi giáo. Lời thỉnh cầu được chấp nhận dễ dàng… Ngày nọ, người thợ kim hoàn đến trình bày với các quản giáo: “Tôi là thợ kim hoàn, nếu các người cho tôi một ít kim loại, tôi có thể vừa qua được thời giờ nhàn rỗi, vừa làm được cho các người những nữ trang có thể dùng được”. Các quản giáo không thấy trở ngại nào về điều đó. Một ngày nọ, các canh tù bỗng phát giác ra cánh cửa nhà tù bị mở toang và người thợ kim hoàn đã tẩu thoát. Cùng lúc đó người ta cũng bắt giữ được thủ phạm đích thực mà họ đã qui lầm cho người thợ kim hoàn. Bấy giờ người thợ kim hoàn mới ra mặt và tiết lộ việc trốn thoát cuả ông. Sau khi ông bị bắt oan, vợ ông liên lạc với kiến trúc sư đã vẽ hoạ đồ nhà tù. Ông này cho phép bà in nguyên hoạ đồ chi tiết cuả nhà tù lên tấm thảm. Mỗi ngày năm lần dù phủ phục trên tấm thảm để cầu nguyện, người thợ đã thuộc lòng đường ra lối vào của nhà tù, thêm vào đó nhờ những mảnh kim loại các quản giáo cung cấp, người thợ đã có thể mài dũa những chìa khoá để mở các cánh cửa nhà tù, đó là bí quyết đã giúp ông trốn được khỏi nhà tù.
Cầu nguyện là chìa khoá của tự do. Một tâm hồn khao khát tự do đích thực là một tâm hồn biết cầu nguyện. Chúa Giêsu như muốn minh hoạ cho chân lý ấy qua dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện: một người Biệt phái lên giữa đền thờ đứng thẳng người để kể về những thành tích của mình, trong khi đó người thu thuế tội lỗi đứng trong góc đền thờ, không dám ngước mặt lên, nhưng cúi mình đấm ngực nói lên nỗi khốn cùng tội lỗi của mình. Chúa Giêsu tuyên bố người thu thuế ra về được tha tội, còn người Biệt phái vẫn tiếp tục ù lì trong sự tự phụ của mình. Phải chăng Chúa Giêsu không muốn nói với chúng ta rằng câu chuyện đích thực chính là nỗi khao khát được thoát khỏi những thứ nô lệ đang trói buộc tâm hồn con người.
Mùa Chay là trường dạy cầu nguyện. Giáo hội mời gọi chúng ta gia tăng cầu nguyện, điều đó có nghĩa là chẳng những dành nhiều thời giờ cho cầu nguyện, mà nhất là thanh luyện thái độ chúng ta trong khi cầu nguyện, lời cầu nguyện đích thực trong mùa chay phải là thái độ sám hối. Khởi đầu của cầu nguyện ấy là mọi nhận thức sâu xa về thân phận, tội lỗi của chúng ta và từ đó nói lên tất cả tín thác của chúng ta vào tình yêu tha thứ của Chúa. Lòng tín thác ấy sẽ xoá tan mọi tội lỗi và mang lại cho chúng ta tự do đích thực của con cái Chúa.
Như người con hoang đàng mong được trở về với cha, như người thu thuế nép mình nơi lòng tha thứ của Chúa, xin cho chúng ta luôn được sống trong tâm tình sám hối thực sự và cảm nhận được tình thương khoan dung vô bờ của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 2: Hoán cải và cậy trông
Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư và những người pharisiêu thường bị Chúa quở trách nặng lời về tính tự cao tự đại của họ.
Trong dụ ngôn vừa đọc lại trên đây, Chúa Giêsu dùng hình ảnh một người pharisiêu khoe khoang công trạng mình trước mặt Thiên Chúa. Ông đáng trách không phải vì những việc tốt ông đã làm, như việc ăn chay mỗi tuần hai lần và đóng thuế thập phân cho đền thờ. Nhưng ông đáng trách vì đã xem những công việc đạo đức này như là một chiếc vé để mang lại sự công chính cho ông. Qua lời cầu nguyện của ông, chúng ta thấy rõ ông làm những việc này cốt để tự biến mình trở nên người công chính chứ không phải để thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ anh chị em. Ông giữ mình khỏi vướng mắc vào các thói hư tật xấu cốt để cho người khác thấy ông đạo đức tốt lành, chứ không như những người hư đốn đồi bại khác. Mỗi khi ra đường, chắc hẳn ông đã kiêu hãnh ngẩng đầu lên với khuôn mặt nghiêm trang, dáng đi chững chạc uy nghi, các hộp kinh thật lớn thắt trên người, các tua áo thật dài thả tung bay, ông nhìn thấy mình thật xứng đáng để cho thiên hạ kính nể. Bước vào đền thờ, ông đứng riêng ra, chọn cho mình một chỗ xứng đáng và ông bắt đầu khoe với Chúa những công trạng của mình. Nhìn thấy người thu thuế đang cúi đầu khẩn nguyện, ông thưa với Chúa cách tự phụ: "Ðấy, Chúa thấy người thu thuế tội lỗi kia không, con đâu như hắn ta, con tốt hơn hắn nhiều, hắn tham lam tiền bạc, gian lận thuế má, chèn ép lận lường. Con cám ơn Chúa vì con đâu giống như hắn". Nhưng ông pharisiêu đâu biết rằng Thiên Chúa chẳng cần đếm xỉa gì đến những lời khoe khoang tự cao tự đại của ông, Người cần tấm lòng chứ không cần hy lễ, Người cần con tim yêu thương chứ không cần trí óc tự phụ. Tâm hồn khiêm cung tự hối của người thu thuế mà ông coi chẳng ra gì kia lại làm đẹp lòng Chúa còn hơn là ông nghĩ đến.
Thử hỏi, chúng ta nhìn thấy mình trong hình ảnh người nào trong dụ ngôn trên đây: người pharisiêu hay là người thu thuế? Nếu đã lỡ là người pharisiêu, chúng ta đừng ngã lòng nhưng hãy thành thật hoán cải và cậy trông vào tình thương của Thiên Chúa, Người có thể biến sự dữ trong chúng ta nên sự lành. Nếu chúng ta thành tâm thiện chí, Thiên Chúa sẽ đập tan tính kiêu hãnh của chúng ta và thay vào đó một tâm tình mới, Người sẽ dạy chúng ta biết sống sao cho đẹp lòng Chúa. Còn nếu chúng ta đã là người thu thuế, thì chúng ta cũng hãy cương quyết làm lại cuộc đời, Thiên Chúa đã yêu thương tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, Người đã đón nhận tấm lòng tan nát khiêm cung của chúng ta, chúng ta hãy tin tưởng làm lại từ đầu.
Với ân sủng của Thiên Chúa, không có sự gì là không thể thực hiện được, chỉ cần chúng ta vững tin và phó thác vào Người rồi Người sẽ dẫn dắt chúng ta bước đi trên đường ngay nẻo chính. Mùa Chay là mùa thuận tiện để canh tân đời sống. Chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa để đổi mới tâm hồn mình nên công chính như Chúa vẫn mong chờ.
Lạy Chúa, xin gìn giữ con, đừng để con rơi vào thái độ tự phụ kiêu ngạo. Xin cho con biết sống khiêm nhường tự hạ trước tôn nhan Thiên Chúa và trước mặt anh chị em. Và xin giúp con được canh tân đời sống trở về với Chúa, đừng bao giờ thất vọng vì những tội lỗi của con đã phạm, nhưng luôn trông cậy vào tình thương tha thứ của Chúa.
(Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày – R. Veritas)
SUY NIỆM 3: Đừng bắn người biệt phái
Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia là người thu thuế…” (Lc. 18, 9-10)
Người biệt phái này không đến nỗi xấu, ông ăn chay hai ngày một tuần, ông dâng cúng một phần mười hoa lợi kiếm được … Thật là một viên ngọc quý mà chẳng có ai trong giáo xứ có thể làm được như vậy. Đừng khiển trách ông đứng cầu nguyện, đó là thói quen của người Do thái. Ông khoe khoang không ai bằng, đáng nực cười. Ông chẳng có chút gì là nhân đức, ông cảm ơn Chúa đã sống như thế.
Đến lượt người thu thuế, ông không dám bốc thơm mình. Đáng lẽ ra, ông vừa đứng xa xa sấp mình xuống đất run rẩy cầu nguyện, ông vừa lo trả tiền của lại cho những người nghèo đã bị ông bóc lột thì tốt hơn. Nhưng người thu thuế đã mang tiếng là hạng làm giàu bằng cách lạm thu.
Chúng ta cũng hèn nhát chê người biệt phái: “Tôi không giả hình như hạng cuồng tín đó. Tôi có nhiều lỗi, tôi khô khan cứng cỏi với người khác, tôi lười biếng … Nhưng tôi không mắc nợ ai”. Đó cũng là cách nói như hạng biệt phái, chẳng có gì tốt cả. Bài học lịch sử này không phải là so sánh hai hạng người, làm thế là đáng ghét, nhưng chính là để nhắc nhở chúng ta đến lời thánh Phao-lô dạy chúng ta: “Chính nhờ đức tin làm cho chúng ta nên công chính, không có đức tin, chúng ta không đáng gì trước mặt Thiên Chúa”.
Đặc biệt, trường hợp người thu thuế làm sáng lên trong chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời, là những kẻ tội lỗi đừng bao giờ thất vọng và phải luôn hy vọng vào lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn ban ơn cho những người thấy mình vô tài bất lực, thấy mình chẳng đáng công gì, chẳng có thể đền bù được tội lỗi mình, vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi đến không phải cứu chữa những người khỏe mạnh, nhưng cứu chữa những người bệnh tật”. Đừng bao giờ thấy mình hơn người khác, kẻo đi vào vết chân biệt phái.
J.G
SUY NIỆM 4: KHIÊM TỐN THẬT THÌ MỚI ĐƯỢC THA THỨ (Lc 18,9-14)
Có một câu chuyện kể rằng: một ông giáo dân nọ nổi tiếng là đạo đức với những câu chuyện về lòng quảng đại, giúp đỡ của ông cho người nghèo. Ông được nhiều người ca tụng là người tốt lành, thánh thiện, nhất là khiêm tốn khi quảng đại giúp đỡ người cùng khốn mà không cần đến danh vọng...
Chính bản thân ông cũng nghĩ mình như thế! Tuy nhiên, đến lúc về già, ông đến gặp cha xứ và tâm tình với ngài rằng: “Cả cuộc đời con đã hy sinh cho Chúa, Giáo Hội và mọi người, con không hề tính toán thiệt hơn, bởi xác tín rằng: mọi sự con có là bởi Chúa”. Nhưng ngay sau đó, ông xin cha xứ một đặc ân, đó là: khi ông chết, cho ông được chôn ở gầm bàn thờ!
Câu chuyện mang tính ngụ ngôn, nhưng thực tế, trong cuộc sống hôm nay, vẫn còn đó rất nhiều người có tư tưởng khiêm tốn như ông lão trong câu chuyện trên. Thiết nghĩ, một lần khiêm tốn kiểu đó phải chăng bằng bốn lần kiêu ngạo! Nó thật giống với người Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Dụ ngôn kể về việc hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một Pharisêu và một thu thuế. Hai người này là điển hình của hai thành phần cực đoan, thái quá trong dân Dothái thời bấy giờ.
Với nhóm Pharisêu thì bảo thủ, kiêu ngạo, tự coi mình là người thành toàn, nắm toàn bộ lề luật và trở thành kiểu mẫu cho mọi người. Điều này được chứng minh qua lời cầu nguyện của ông với Thiên Chúa. Ông kể lể: “Con không gian tham, không bất công, không ngoại tình, không như người thu thuế đằng sau”; “một tuần ăn chay hai lần và dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.
Còn người thứ hai, bác thu thuế. Người thu thuế thì ai cũng biết, biết về tội ác của ông là phản bội và cấu kết với đế quốc La mã để hà hiếp, bóc lột, vơ vét của cải nhân dân. Vì thế, họ bị dân chúng khinh bỉ vì tội công khai của họ. Chính vì lý do đó, nên chúng ta dễ hiểu là tại sao ông thu thuế này lại đứng đằng xa, không dám ngẩng đầu lên, vừa đấm ngực vừa cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Kết cục, hai người ra về và người thu thuế thì được Chúa nhận lời, còn người Pharisêu thì không những không được Chúa nhận lời mà lại còn phạm thêm tội vì coi khinh người khác ngay khi cầu nguyện.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: đừng bao giờ coi khinh người khác khi cầu nguyện. Không được phán xét anh chị em của ta, trong khi mình cũng là kẻ có tội. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên với Chúa chứ không phải quy về mình.
Hãy khiêm tốn thật lòng như người thu thuế, Chúa cần những tâm hồn trung thực và thật tâm như vậy, bởi vì tình thương của Thiên Chúa lớn lao hơn tội lỗi của con người, chỉ cần con người thống hối ăn năn thì dù tội có đỏ như son thì Chúa cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều, Chúa cũng làm cho trắng như bông.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết “xé lòng chứ đừng xé áo” để đáng được Chúa tha thứ mọi tội lỗi. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 5: Tự hào và khinh người
Suy niệm :
Tự hào về sự đạo đức của mình và khinh người khác,
Đó chẳng phải chuyện của các ông Pharisêu ngày xưa.
Đó là chuyện của con người mọi thời, của chính các môn đệ hôm nay.
Chúng ta nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn này cho mình trong Mùa Chay thánh.
Hai nhân vật đối lập nhau, được đặt bên nhau trong dụ ngôn.
Họ ở trong cùng một đền thờ, cùng đứng cầu nguyện trước nhan Chúa.
Họ là một ông Pharisêu thánh thiện và một người thu thuế tội lỗi.
Nghe lời cầu nguyện của họ, chúng ta biết được lòng họ.
Người Pharisêu không xin gì cho mình, ông chỉ tạ ơn Thiên Chúa.
Ông kể ra những điều xấu mà ông không làm như bao kẻ khác,
hay như tên thu thuế mà ông thoáng thấy đứng cuối đền thờ (c. 11).
Ông còn kể những việc đạo đức tự nguyện về ăn chay và dâng cúng
mà ông đã làm vượt quá những gì Luật đòi buộc.
Lời cầu nguyện của ông khiến nhiều người Do Thái tử tế phải thèm.
Còn người thu thuế thì đứng xa, cúi đầu, đấm ngực, cầu xin cách đơn sơ :
“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (c. 13).
Anh thấy mình bất xứng, bất lực, chỉ biết cậy dựa vào tình thương tha thứ.
Kết luận của Đức Giêsu hẳn đã làm nhiều người chưng hửng.
Người thu thuế được Thiên Chúa làm cho nên công chính,
còn người Pharisêu thì không (c. 14).
Thiên Chúa có bất công không ? Chúng ta có cần sống tử tế nữa không ?
Thật ra, ông Pharisêu không được gì vì ông đã không xin gì.
Ông không xin vì ông thấy mình quá ư giàu có về mặt đạo đức.
Ông ra trước Thiên Chúa với một kho công trạng của mình.
Có bao nhiêu chữ con đầy tự hào trong lời nguyện của ông.
Chúng ta tưởng ông mở ra khi nói “con tạ ơn Thiên Chúa”
nhưng thực tế ông đã khép lại, quay vào mình, ngắm nghía vẻ đẹp của mình.
Rốt cuộc Thiên Chúa là người thừa, cùng lắm chỉ là người ông đến đòi nợ.
Ngược lại, anh thu thuế tuy có nhiều tiền, nhưng thấy mình tay trắng, lỗi tội.
Chính điều đó khiến anh hết sức cần đến Thiên Chúa.
Ngài đã nghe tiếng kêu của anh từ xa, từ cuối đền thờ.
Không cần Thiên Chúa và coi thường tha nhân, vẫn là cám dỗ muôn thuở.
Nên thánh không phải là chuyện “tôi làm”
mà là chuyện để Thiên Chúa tự do làm nơi đời tôi.
Chỉ ai nhìn nhận sự yếu đuối của mình,
lời cầu nguyện của người đó mới đánh động được trái tim Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
- 09/03 Giới Răn Trọng Nhất
- 08/03 Nhận ra sự hiện diện và tác động của Chúa
- 07/03 Chu toàn lề luật
- 06/03 Tha thứ bắt chước Thiên Chúa Cha
- 05/03 Đời sống đức tin thật
- 04/03 Chúa Giêsu đuổi người buôn bán-đổi tiền
- 03/03 Người cha nhân hậu
- 02/03 Dụ Ngôn Tá Điền Vườn Nho
- 01/03 Người giầu có và Ladarô
- 28/02 Phục vụ đích thực