Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
12/04 Chúa Giêsu phục sinh
- Viết bởi Ga 20, 1-9
Chúa Giêsu phục sinh.
Chúa Nhật PHỤC SINH năm A.
"Người phải sống lại từ cõi chết".
Lời Chúa: Ga 20, 1-9
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu".
Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ.
Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
LỄ PHỤC SINH
Lời Chúa: Cv 10, 34a.37-43; Cl 3, 1-4; Ga 20, 1-9
29. Bình an của Chúa
Suy niệm:
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Mácđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được,
chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25)
và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên,
trước cả người môn đệ được Đức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải,
đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh,
bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ,
những bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó,
còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala,
nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố:
ý nghĩa của cái chết bi đát trên Núi Sọ,
ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin
để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng,
trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Đời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất,
trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11)
Nhưng nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong mồ,
để cho bà Maria đến thăm viếng,
thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài,
những băng vải không ngăn được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu,
nhưng bà sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
xin ban cho con sự sống của Chúa,
sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa,
bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa,
niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa,
hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
2. Ơn Phục Sinh
Cuốn sách “Ngang qua thung lũng sông Kwai” cho chúng ta thấy: Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật là khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên độc ác. Họ lấy luật rừng mà cư xử với nhau. Họ trộm cắp của nhau, nghi ngờ và chỉ điểm lẫn nhau.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã tổ chức cho những bạn tù của mình trở thành một nhóm để cùng nhau học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vưởng, đã từng chịu đói khát mệt mỏi, đã từng bị phản bội và bị đánh đòn. Tất cả những lời Ngài nói, những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với họ. Đám tù nhân không còn nghĩ rằng mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng bắt đầu đối xử với nhau bằng thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại bắt đầu có những tiếng hát vui tươi thay thế cho sự thinh lặng oi bức và căng thẳng, giống hệt sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Hay nói một cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì trước đó đã nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trước đó chỉ biết trộm cắp của nhau. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì trước đó chỉ tìm cách chỉ điểm lẫn nhau.
Ơn phục sinh và sự biến đổi này cũng có thể xảy ra cho bản thân chúng ta, nếu như chúng ta biết mở rộng tâm hồn để đón nhận Đức Kitô và ơn sủng của Ngài. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tin tưởng nhau như xưa chứ đừng phản bội nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta yêu thương nhau như xưa chứ đừng từ khước nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tiếp tục hy vọng khi niềm tin tưởng đã tan vỡ. Hãy để Ngài giúp chúng ta nhặt lên những mảnh vụn và khởi sự lại từ đầu khi mà chúng ta dường như sẵn sàng xoá bỏ chúng đi. Hãy cộng tác với Ngài trong cộng cuộc thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời vì như lời thánh Augustinô đã từng xác quyết: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Và như thế, không cần phải đợi đến lúc chết, mà hơn thế nữa, ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể tham dự vào quyền năng phục sinh của Chúa.
3. Đấng Phục Sinh
Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không mẹ? Bà mẹ đáp: Phải. Bé hỏi tiếp: Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại nói là em con đã mất? Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn nữa, mà ý thức con mình đang vui hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Thánh Phaolô quả quyết: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền". Có bao nhiêu bậc vĩ nhân của thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống, đã chết và để lại cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng dẫn cuộc sống con người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một bậc vĩ nhân hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống lại, duy chỉ có một mình Chúa Giêsu là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một giá trị cao cả đến đâu, thì cũng chỉ là một cái chết trong muôn ngàn cái chết của loài người, nghĩa là không hề có giá trị cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của biến cố Phục sinh?
Phục sinh không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp cậu con trai bà goá thành Naim, em bé gái 12 tuổi, và đặc biệt là ông Ladarô đã chết 4 ngày được Chúa Giêsu cho sống lại. Cả ba trường hợp này, người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ. Có nghĩa là một ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung của loài người là trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.
Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Ngài đã chết, nhưng khi nói rằng Ngài Phục sinh, có nghĩa là Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại chết. Sống lại đối với Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ đến độ sự chết không còn chi phối nữa, cũng không một định luật tự nhiên nào có thể ảnh hưởng được Ngài: Ngài đến với các môn đệ khi cửa đóng kín, Ngài chuyện vãn với họ, ăn uống với họ, nhiều người trong họ sờ được Ngài như một người đang sống chứ không phải như một bóng ma. Đó là tình trạng đích thực của sự sống lại mà một số môn đệ của Chúa Giêsu đã cảm nghiệm được mỗi lần Ngài hiện ra với họ.
Là những chứng nhân của Đấng Phục sinh, các môn đệ Đức Giêsu đã ra đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Tin Mừng ấy là: "Ai tin nhận Đức Giêsu, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn của Ngài, người đó cũng sẽ được phục sinh như Ngài". Họ không thể là một nhóm người lừa bịp bởi vì không một kẻ lừa bịp nào chịu lấy mạng sống của mình đeể làm chứng cho điều mình rao giảng. Qua 2000 năm, không biết bao nhiêu sợi dây được nối kết bằng máu và bằng những cuộc sống phi thường của các tín hữu Kitô ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày nay tất cả mọi tín hữu trên khắp thế giới đều được liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nói đến niềm tin là nói đến một cái gì mà khoa học không thể kiểm chứng được. Sự Phục sinh của Đức Giêsu quả thật không thuộc trật tự khả giác. Người ta không thể dùng bất cứ tiêu chuẩn khoa học nào để kiểm chứng niềm tin ấy. Hai ngàn năm qua, các tín hữu Kitô tin chắc rằng với không biết bao nhiêu sóng gió đã xảy ra cho Giáo Hội, nếu Đấng Phục sinh không hiện diện trong Giáo Hội của Ngài, thì Giáo Hội không thể nào tồn tại cho đến ngày nay. Nếu giờ đây các tín hữu Việt Nam cố gắng sống thánh thiện, tốt lành, chịu đựng mọi thứ bách hại là bởi vì họ thực sự có Đấng Phục sinh đang sống trong họ và ở với họ. Nếu giữa những mất mát thương đau của cuộc sống họ vẫn đứng vững được là bởi vì họ tin vào sự Phục sinh mà họ cũng sẽ được tham dự vào trong ngày sau hết. Chính niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Kitô hữu bước qua tăm tối và giúp cho họ sống vui tươi, can đảm và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh.
4. Đức Kitô sống lại
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ba thái độ. Trước hết là thái độ của Mađalena.
Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái bao gồm việc rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy dây băng cuộn lại từ đầu đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt được đục sẵn nơi vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.
Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận ra rằng mình đã không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy, tức là ngày thứ nhất trong tuần.
Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối với chúng ta hiện nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua một bên và Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ chỉ để tìm lại một xác chết. Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống trơn, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã chối Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối các ông để kết án và xử tử các ông.
Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những gì đã xảy ra và tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ? Với một tâm trạng như thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.
Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường tình yêu của Chúa.
5. Rao truyền ơn Phục Sinh
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau, ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.
Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.
Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
6. Chúa đã Phục Sinh
(R. Veritas)
Chúa Giêsu Kitô đã Phục Sinh… Thánh Gioan đã tường thuật trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay như một nhân chứng mắt thấy tai nghe. Ngài diễn tả hành trình mà các tông đồ, cụ thể là Maria Mácđala, Phêrô và Gioan đã trải qua để tiến đến niềm tin “Chúa đã Phục Sinh”.
Thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích,… chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền” (1Cr 15,12-19).
Vậy Phục Sinh là gì? Đâu là ý nghĩa của biến cố Phục Sinh?
***
Để hiểu thấu mầu nhiệm Phục Sinh, chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (Ga 19,41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Đức Giêsu. Ông đã đến gặp chính quyền để xin xác của Thầy mình và tẩm liệm cẩn thận. Hãy đến thăm mộ Chúa vào ngày thứ Bảy, thật vắng lặng, không có ai. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ. Kẻ thù ghét Chúa đã hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vui vì Đấng là Sự Sống đã bị thất bại. Xác Đức Giêsu nằm trong mộ tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình không? Có ai thấy được một mầm non đang nhú lên không?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ với xác của Thầy nằm trong đó. Và khi lóe lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba bà đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác. Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: “Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?” Tảng đá thật to là một trở ngại… Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra một bên, và xác của Thầy cũng không còn ở trong mồ.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm chết chóc và rữa nát, sự sống đã bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt. Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải xức dầu thơm. Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đã phục sinh …
Phục Sinh của Đức Giêsu không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp con trai bà góa thành Na-im (Lc 7,11-17), như con gái ông Gia-ia (Lc 8,40-56), và đặc biệt như ông La-za-rô (Ga 11,1-45). Cả ba trường hợp này người chết đã sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ, và một ngày nào đó họ cũng phải theo số phận chung của loài người là phải chết một lần nữa, phải trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền thống trị của sự chết.
Phục Sinh của Đức Giêsu là Ngài đã sống lại từ cõi chết. Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại phải chết. Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết. Sự chết không còn làm gì được Ngài. Không định luật tự nhiên nào có thể chi phối được Ngài
Phục Sinh của Đức Giêsu đã trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại của mỗi người chúng ta. “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,24)
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
***
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh! Vẫn có những ngôi mộ trong đời con. Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều con yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của mất mát, đổ vỡ, khổ đau, thất bại … Nhưng sự Phục Sinh của Chúa làm con tin rằng chẳng có mất mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm con bừng tỉnh, lớn lên và trưởng thành. Ước gì giữa nước mắt, con cảm nghiệm được niềm vui, dám chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Lạy Đấng là Nguồn Mạch Sự Sống,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con. Amen.
7. Đón nhận ơn Phục Sinh
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau khi Đức Kitô phục sinh, các môn đệ biến đổi lạ lùng. Maria Mácđala buồn sầu ảm đạm trở nên phấn khởi vui tươi. Tô-ma cứng cỏi trở nên tin tưởng. Hai môn đệ Emmau lạnh lùng trở nên sốt mến. Tất cả các môn đệ hèn yếu trở nên vững mạnh, từ ích kỷ nhỏ nhen chỉ biết lo cho quyền lợi bản thân trở nên quảng đại hiến thân cho Nước Chúa, từ chia rẽ tranh dành địa vị trở nên đoàn kết yêu thương, từ khép kín trở nên cởi mở đi đến với mọi người.
Chúa Phục sinh đổ vào tâm hồn các ngài một nguồn sống mới. Tâm hồn các ngài được ơn phục sinh. Ơn phục sinh được tóm tắt trong một câu ngắn gọn: "Ông đã thấy và ông đã tin". Nhờ đâu các ngài đã thấy?
Các ngài đã thấy nhờ gắn bó với Chúa. Thương nhớ Thày, nên khi ngày Sabbat vừa chấm dứt các ngài đã vội vã ra thăm mộ Thày. Các ngài không đi, nhưng chạy. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn quãng đường. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn mọi khoảng cách ngăn các ngài với Chúa. Các ngài muốn ở sát bên Chúa. Các ngài muốn kết hiệp với Chúa.
Các ngài đã thấy vì đã biết dứt bỏ quá khứ. Khi nhìn vào mộ, các ngài thấy gì? Các ngài không thấy gì hết! Ngôi mộ trống rỗng. Không có gì, nhưng các ngài thấy tất cả. Nếu xác Chúa còn đó thì thật đáng buồn. Xác còn có nghĩa là Chúa vẫn còn trong thế giới kẻ chết. Ngôi mộ còn xác là ngôi mộ gieo niềm tuyệt vọng. Ngôi mộ trống là ngôi mộ chứa đầy niềm hi vọng. Ngôi mộ trống là một khởi điểm mới, là khối hỗn mang để Chúa làm nên một trời mới đất mới. Các ngài hiểu rằng không nên gắn bó với xác chết nhưng nên gắn bó với Đức Kitô đang sống. Không nên gắn bó với quá khứ chết chóc, nhưng nên gắn bó với tương lai tràn đầy sự sống.
Các ngài đã thấy vì đã có thái độ khiêm nhường. Tin mừng thuật lại: Các ngài đã "cúi xuống nhìn vào ngôi mộ". Khi cúi xuống nhìn vào ngôi mộ, các ngài không thấy Chúa. Nhưng càng cúi xuống sâu các ngài thấy rõ mình. Chìm xuống đáy lòng như chìm xuống đáy đại dương, xa mọi sóng gió xôn xao. Càng nhìn vào đáy lòng mình, càng bắt gặp niềm bình an. Bình an là quà tặng Chúa Phục sinh rộng rãi ban phát cho các môn đệ sau khi Người sống lại.
Các ngài đã thấy vì đã nhìn với ánh mắt tin yêu. Thánh Gioan quan sát kỹ hiện trường nên đã miêu tả rất cặn kẽ: Khi ở ngoài mộ nhìn vào "Ông thấy những băng vải còn ở đó". Khi đã bước vào trong mộ, Ông "thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi".
Là người gần gũi, quen biết các thói quen của Thày, thánh Gioan lập tức nhận ra dấu vết Người để lại. Khăn liệm được xếp đặt gọn gàng chứng tỏ bàn tay Người tự xếp đặt. Người tự xếp đặt tức là Người đang sống. Người bỏ khăn liệm vì Người không còn trong thế giới kẻ chết.
Trái tim yêu mến đã làm cho thánh Gioan nhạy bén cảm nhận được mầu nhiệm phục sinh.
Hôm nay, Đức Kitô phục sinh đang tuôn đổ ơn lành xuống cho ta. Để đón nhận được ơn lành của Người, ta hãy học tập nơi các môn đệ, biết tha thiết gắn bó với Người trong lúc vui cũng như lúc buồn, biết dứt khoát với quá khứ tội lỗi lười biếng, trì trệ, biết khiêm nhường chìm vào đáy sâu tâm hồn, biết nhìn thế giới bằng ánh mắt tin yêu.
Với những phấn đấu như thế, ta sẽ đón nhận được ơn Chúa Phục sinh. Chúa sẽ tuôn đổ Ơn Phục Sinh tràn ngập tâm hồn ta, biến đổi ta nên người mới, tràn đầy niềm vui, tràn đầy niềm hi vọng, tràn đầy sự quảng đại, tràn đầy tình yêu mến.
Lạy Đức Kitô phục sinh, xin cho linh hồn con được sống lại thật. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chỉ một lần mừng lễ Phục sinh, tâm hồn các tông đồ đã đổi mới hoàn toàn. Còn ta, đã bao lần mừng lễ Phục sinh, sao ta chưa thay đổi đời sống?
2) Khi ngắm thứ nhất mùa Mừng: "Đức Chúa Giêsu sống lại, ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn", bạn suy nghĩ gì? Bạn có thực sự tha thiết đổi mới cuộc đời không?
3) Bạn sẽ làm gì để sống ơn Phục sinh Chúa ban?
8. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Kitô đã phục sinh. Đó là niềm vui của chúng ta. Còn hơn thế nữa, đó là đức tin của chúng ta, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh của chúng ta có cơ sở vững chắc ở những bằng chứng khác nhau.
Có bằng chứng tiêu cực của các lính canh mộ. Khi an táng Chúa Giêsu, các thượng tế đã cẩn thận xin Philatô cho đóng cửa mộ bằng một phiến đá lớn rất nặng rồi cho niêm phong và cắt cử lính canh cẩn thận. Nhưng khi Chúa sống lại, ánh sáng rực rỡ chiếu lên chói lòa, cửa mộ bật tung, lính canh hoảng sợ chạy trốn. Sau đó lính canh đi loan tin rằng: Trong khi chúng tôi ngủ, các môn đệ đến lấy trộm xác Chúa. Ai cũng biết đó là tin giả. Vì các môn đệ còn đang rất sợ hãi, trốn chạy, làm sao dám lấy trộm xác. Thánh Augustinô đã bài bác điều này khi nói: Lính canh ngủ hay thức. Nếu họ thức thì làm sao họ để cho các môn đệ lấy trộm xác Chúa. Nếu họ ngủ, làm sao họ biết là các môn đệ lấy trộm xác Chúa.
Có những bằng chứng tích cực của các môn đệ. Sáng sớm, ba người đầu tiên đã đến mộ và không thấy xác Chúa. Bà Mađalêna hốt hoảng cho rằng người ta đã lấy mất xác Chúa. Phêrô vào trước nhưng chưa có ý kiến gì. Gioan vào sau. Ông đã thấy và đã tin. Ông thấy gì? Ông thấy khăn che đầu và khăn liệm xếp đặt gọn gàng trong mộ. Là người môn đệ được Chúa yêu thương ông có một trực giác đặc biệt. Hơn nữa ông đã biết rõ thói quen của Chúa. Nhìn khăn liệm xếp đặt gọn gàng, ông nhận ra thói quen đó. Tuy nhiên niềm tin ban đầu còn mơ hồ. Niềm tin chỉ chắc chắn nhờ được củng cố bằng việc trực tiếp nhìn thấy Chúa.
Sau ngày phục sinh, Chúa hiện ra nhiều lần với nhiều người. Hiện ra với các môn đệ trong căn phòng đóng kín. Hiện ra với Tôma và cho ông xem các vết thương ở tay, chân và cạnh sườn. Hiện ra với hai môn đệ đi đường Emmaus. Hiện ra trên bờ biển và chỉ dẫn cho các môn đệ đánh một mẻ cá lạ lùng. Nhưng có lẽ cuộc hiện ra có tác động mãnh liệt nhất là với Phaolô. Thuở ấy Phaolô còn có tên là Saolê, một người Do Thái thù ghét Chúa Giêsu, hăng say đi tìm bắt những người tin Chúa. Ở Damas, ông bị một làn ánh sáng chói lọi chiếu vào khiến mù mắt. Con ngựa hất ông ngã lăn xuống đất. Và có tiếng từ trời phán bảo: “Saolê, Saolê, tại sao ngươi tìm bắt ta”. Hoảng sợ Saolê thưa: “Thưa ngài, ngài là ai”. Tiếng từ trời trả lời: “Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm bắt”. Từ đó Saolê tin vào Chúa Kitô Phục sinh, trở thành Phaolô, một tông đồ nhiệt thành đi loan Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
Những kết quả của việc Chúa Phục sinh được thấy rõ ràng. Trước hết là sự đột biến nơi các môn đệ. Ngày Chúa chịu chết, các ông là những người nhút nhát, trốn chạy, thậm chí còn phản bội, chối Chúa. Tại sao chỉ trong một thời gian ngắn, các ngài thay đổi một cách mãnh liệt. Đang nhút nhát, ẩn trốn bỗng hiên ngang xuất hiện ở chốn công khai. Đang phản bội, chối Chúa bỗng hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Đang sợ hãi bỗng trở nên can đảm lạ thường. Không những vui mừng được chịu đau khổ vì Chúa mà còn sẵn sàng chịu chết vì Chúa. Chắc chắn các ngài đã được gặp Chúa nên con người các ngài đã biến đổi tận gốc rễ. Chắc chắn các ngài đã gặp Chúa nên lời chứng của các ngài có sức thuyết phục.
Thật vậy, làm sao những người tín hữu đầu tiên tin vào lời chứng của các tông đồ đến nỗi sẵn sàng bỏ của cải làm của chung, sẵn sàng chịu sống chui rúc, trốn chạy cuộc bách hại của đế quốc La mã, sẵn sàng chịu chết vì đức tin của mình. Làm sao Giáo hội có thể tồn tại hơn 2.000 năm, qua biết bao nhiêu khó khăn thử thách do những người muốn tiêu diệt đạo gây nên. Nếu Chúa không Phục sinh, không thể giải thích được những việc đó.
Chúa Phục sinh, đó là nền tảng của đức tin. Đó là sự vững chắc của Giáo hội. Và đó là chính là niềm hy vọng lớn lao của chúng ta. Chúa phục sinh biến đổi thân phận chúng ta. Từ thân phận phải chết sẽ được sống lại với Chúa. Từ thân phận tội lỗi được trở nên trong sạch. Từ cát bụi phàm trần được trở lại làm con Chúa. Từ định mệnh mong manh phù du được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong nhà Cha trên trời.
Lễ Chúa Phục Sinh đem lại cho ta niềm vui lớn lao. Vì thế mừng lễ Chúa Phục Sinh mời gọi ta biến đổi đời sống nên tươi mới cho xứng đáng với niềm tin, xứng đáng với phẩm giá của con người được Chúa yêu thương cứu chuộc.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho con được sống lại thật về phần linh hồn. Amen!
9. Kỷ Nguyên Cứu Rỗi
(Như Thầy Đã Yêu" - Thiên Phúc)
Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến. Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ.
Vị bề trên hỏi tu sĩ Ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi nào đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ Ấn giáo ôn tồn bảo:
- Tội của cộng đoàn đó là tội vô tình.
Và ông giải thích:
- Đấng Cứu thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Người.
Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thắm thiết, sức sống mới nảy sinh, và niềm vui tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm cầu nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.
“Sao các bà lại tìm người sống giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi” (Lc 23, 5-6). Buổi sáng Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu đã vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu rỗi. Người đã hiện ra với Madalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên đường Emmau, với các môn đệ đang tập họp trong nhà cửa đóng kín, trên bờ biển Tibêria. Và Người vẫn còn hiện diện giữa chúng ta, những kẻ tin vào Người, ở mọi nơi, trong mọi thời đại. Đó là một Tin vui không chỉ cho thành Giêrusalem mà còn cho toàn thế giới.
Tin vui chính là Đức Giêsu Phục Sinh, ánh sáng rạng ngời đã xóa tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn đưa con người bước vào miền ánh sáng sự sống.
Tin vui chính là Đức Giêsu Phục Sinh luôn hiện diện giữa những kẻ tin Người sống lại để mang lại cho họ niềm vui và an bình trong cuộc sống mới. Nếu ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Đức Giêsu Phục Sinh, và xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ gẫy, thì không còn gì có thể tiêu diệt chúng ta được. Thánh Phaolô viết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8, 35).
Vì thế,
Sống niềm vui Phục Sinh chính là chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống Phục Sinh.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng ta hãy đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là sống vui tươi, an bình và yêu thương trong sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh.
Công đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên chỉ tìm được bầu khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ, trong người anh em.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt qua khổ nạn và cái chết để Phục Sinh về với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết: Vượt qua ích kỷ nhỏ nhen để quảng đại yêu thương. Vượt qua tự ái, tự kiêu để tha thứ bao dung. Vượt qua đau khổ, cực nhọc để dấn thân hy sinh.
Ước gì cuộc sống chúng con luôn mãi tràn đầy niềm vui và bình an của Chúa Phục Sinh. Amen.
10. Đêm hoa đăng ngày đại hội (Ga 20,1-9)
("Như Thầy Đã Yêu" của Thiên Phúc)
Một nhóm bạn trẻ từ nhiều quốc gia đang bàn thảo về cách làm cho Tin Mừng Chúa được lang rộng. Họi nói về sự truyên truyền, về các tài liệu, về các phương tiện truyền thông hiện đại, về internet... Một cô gái Phi Châu nói: "Khi muốn truyền đạo cho một dân làng, chúng tôi không cho họ sách, chúng tôi gởi một gia đình đến sống trong làng. Và họ sẽ làm cho mọi người thành Kitô hữu".
Quả là một phương pháp loan báo Tin mừng tuyệt vời. Phương tây có câu: "Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo". Chính đời sống gương mẫu, chứ không phải những lưòi nói suông, đã lôi kéo bao tâm hồn nhận biết và yêu mến Thiên Chúa.
Tin mừng viết về tông đồ Gioan: "Ông đã thấy và đã tin" (Ga 20, 8b). Thấy là thấy sự kiện ngôi mộ trống, và tin là tin rằng Đức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.
Kitô hữu là người xác tin rằng Đức Giêsu đã tử nạn và đã phục sinh. Niềm tin ấy phải được biểu lộ trong từng chi tiết của cuộc sống đời thường. Niềm tin ấy phải được minh họa trong từng ánh mắt, nụ cười, trong từng nghĩa cử yêu thương. Niềm tin ấy phải chiếu tỏa bằng những tấm gương người sáng. Ngọn nến Phục sinh mà người tín hữu thắp lên trong đêm Cực thánh phải lung linh chiếu sáng như trong đêm hoa đăng ngày đại hội.
Niềm tin Phục sinh phải được loan báo cho muôn dâng bằng đời sống chứng nhân của các kitô hữu.
Niềm tin Phục sinh phải được bày tỏ bằng một tình yêu xả thân trọn vẹn cho anh em.
Sống niềm vui Phục sinh là bằng lòng chết đi cho những đam mê của xác thịt; mai táng tính ích kỷ , tham lam, háo danh trong mộ đá, để được Phục sinh trong vinh quang với Người.
Sống niềm vui Phục Sinh là trỗi dậy sau những lần thất bại đắng cay, những mắt mát đớn đau trong cuộc đời để sống lại cùng với Đấng Phục sinh.
Lạy Chúa, xin cho chúng con can đảm vượt qua những khổ đau và thử thách, vì Chúa đã Phục sinh. Ước gì những ai gặp được chúng con là gặp được sức sống Phục Sinh của Chúa bừng lên trong lòng họ. Amen.
11. Nẻo đường tìm Chúa Phục Sinh
(AM Trần Bình An)
Hôm nay Lễ Phục Sinh, bài Tin Mừng của Thánh sử Gioan, chỉ có 9 câu ngắn ngủi, nhưng gói ghém thật cô đọng hành trình đi tìm Chúa Phục Sinh của ba người: Bà Maria Mácđala, ông Phêrô và Gioan, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến.
Nẻo đường của ông Phêrô
Ông Phêrô sau khi chối Chúa ba lần trước khi gà gáy, đã kịp thời ăn năn khóc lóc thảm thiết, ngay khi gặp cái nhìn đầy yêu thương trìu mến và thương xót của Chúa Giêsu (Lc 22, 61). Ông vẫn theo Chúa xa xa. Vẫn nhận thức vai trò Đá Tảng mà Chúa Giêsu trao phó. Vẫn hăng hái và nhiệt thành. Nên nghe bà Mácđala báo tin ngôi mộ trống, bèn cùng ông Gioan, chạy đến ngay.
Sự mau mắn của ông biểu lộ lòng chân thành và tinh thần trách nhiệm cao độ. Ông vẫn hăng hái hành động, như từng rút kiếm, tấn công quân dữ đến bắt Chúa Giêsu, nhưng lóng ngóng, chỉ dám chém đứt tai người đầy tớ của thượng tế. Đáng tiếc thay, ông Phêrô đã mất thói quen cầu nguyện, nên thay thế vào đó cách xử dụng hung bạo, làm mất cơ trí đi, và lòng nhiệt thành của ông trở thành một thứ hăng say trái mùa. (ĐGM Fulton Sheen)
Thậm chí, sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra an ủi, chúc bình an, thổi hơi, ban Đức Chúa Thánh Thần, ông vẫn chưa mấy biến chuyển. Vẫn vô tư rủ bạn chài đi đánh cá. Nhọc nhằn thâu đêm chẳng được gì, thì tảng sáng Chúa hiện đến, chỉ các ông thả lưới bên phải mạn thuyền. Tức thời trúng thật đậm. Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến mới nhắc ông: “Chúa đó!” (Ga, 21, 7) Ông Phêrô chỉ biến đổi hoàn toàn, sau ngày lễ Ngũ Tuần, sau khi đã được tràn đầy hồng ân Đức Chúa Thánh Thần.
Hành trình tìm Chúa Phục Sinh thật gian nan với ông Phêrô, tuy ông cũng được thấy Chúa hiện ra, nhưng đúng hơn là Chúa chủ động tìm đến với ông, thay vì ngược lại. Những tấm khăn liệm, băng vải, khăn che đầu đã che khuất tầm nhìn của ông, những hoạt động hăng say quá bận rộn bên ngoài, đã khuấy động tâm hồn ông, vốn rất ngay lành, đâm ra u mê, tăm tối.
Như thế, nếu tôi cũng chỉ nhiệt thành giữ đạo theo thói quen, chỉ hành động xuông như tập quán, kinh sách đọc rổn rảng, vô hồi kỳ trận, mà thiếu mất tâm tình cầu nguyện sốt sắng, mật thiết, và còn thiếu lòng ăn năn thống hối như Phêrô, thiếu ý chí và cố gắng nên tốt lành hơn. Bởi vì những thứ trên chỉ là phương tiện giúp nên thánh, mà phải có ý chí sửa đổi thì ân sủng Chúa mới hoạt động, ân sủng Chúa chỉ sinh hoa trái, khi có sự hợp tác của linh hồn mà thôi. Hơn nữa, tôi còn thiếu cả Thánh Thể, Của Ăn Đi Đàng, lẫn thiếu Lời Chúa dẫn dắt, làm sao tìm và gặp được Chúa Sống Lại trong tôi?
Nẻo đường của ông Gioan
Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến trái lại, trẻ trung, mạnh khỏe, nhanh nhẹn, chạy đến ngôi mộ trống trước ông Phêrô. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào (Ga 20, 5). Ông Gioan được cho là chàng thanh niên đã bỏ chạy khi Chúa Giêsu bị bắt (Mc 14, 51). Nhưng sau đó, vẫn can đảm theo Chúa vào dinh cựu thượng tế Khanan, rồi còn giúp đỡ ông Phêrô lọt vào bên trong (Ga 18, 16). Cho đến khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, ông Gioan cũng đứng dưới chân thánh giá cùng với Đức Mẹ Maria, bà Maria vợ ông Cơlopat, và bà Maria Mácđala.
Tuy đến ngôi mộ trước, ông chỉ cúi xuống, nhìn thấy băng vải trong đó, không vào ngay, mà nhẫn nại chờ đợi đại huynh Phêrô đến. Có nhiều cách giải thích sự chờ đợi này. Có thể vì kính trọng quyền huynh thế phụ, không dám vô lễ qua mặt ông Phêrô, bậc đàn anh? Có thể còn nghi ngại sợ hãi, nhát đảm, sợ bóng vía chăng? Hoặc là sợ đụng chạm vào khăn liệm, băng vải lỗi phạm lề luật chăng?
Nhưng chắc chắn là ông Gioan đã theo cùng ông Phêrô vào mộ. “Thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi… Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20, 7- 8).
Khi nhìn thấy băng vải và khăn che đầu xếp lại gọn ghẽ, tươm tất, đâu đó, cách xa nhau, ông Gioan có lẽ liên tưởng ngay đến thói ngăn nắp thứ tự thường nhật của Đức Giêsu, mà trước đây ông vẫn thường chứng kiến và đã quá quen thuộc. Ông liền nhận ra dấu chỉ kín đáo đó và đã mạnh dạn tin tưởng Chúa Phục Sinh.
Tuy chưa được gặp Chúa sống lại, nhưng lòng trung thành, tâm hồn tỉnh thức, nhạy bén, đã giúp hành trình ông gặp Chúa Phục Sinh đạt kết quả mỹ mãn. Ông đã gặp được Chúa ngay trong tâm hồn, mặc dù ông cũng chưa hiểu lời Kinh Thánh đã tiên báo mầu nhiệm này.
Ngày nay, Chúa vẫn ban phát rộng rãi những dấu chỉ, để nhận ra, và hiểu được Thánh Ý Chúa. Nhưng tôi có biết mở mắt, mở tai, mở lòng ra đón nhận hay không? Hay chỉ biết chạy theo dư luận, chạy theo những thông tin, những điềm báo kỳ dị, quái gở, ma thuật, có thể đe dọa, lấn át, khuynh đảo đức tin của tôi, vốn đang rất mong manh, yếu đuối?
Nẻo đường của bà Maria Mácđala
Bà Maria Mácđala đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi bảy quỷ dữ (Lc 8, 3). Sau đó bà theo Chúa Giêsu và dùng tiền của giúp Ngài, cũng như các môn đệ đi truyền giáo. Bà đã âm thầm, can đảm đi theo Chúa suốt cuộc khổ nạn. Bà cũng hiện diện dưới chân Thánh Giá cùng với Mẹ Maria và bà Maria, vợ ông Cơlopat, cùng ông Gioan, để chia sẻ nỗi đau khổ tận cùng Chúa Giêsu (Ga 19, 25). Bà Mácđala cũng tham dự mai táng Chúa Giêsu trong huyệt mộ (Lc 24, 55).
Vào ngày thứ nhất trong tuần, khi trời còn tối, bà đã vội chạy ra mộ Đức Giêsu để xức dầu thơm trên thi thể Ngài. Nhưng phát hiện ngôi mộ trống, tảng đá chắn mộ đã lăn ra. Bà hốt hoảng, tức tốc về báo tin ngay cho các môn đệ, ông Phêrô và Gioan.
Thoạt tiên, tưởng chừng tảng đá chặn ngôi mộ đã cản trở bà Mácđala tìm thấy Chúa Phục Sinh. Nhưng không, bà đã kiên trì đi trở lại ngôi mộ trống lần nữa để nhớ nhung, tiếc thương và than thở khóc lóc. Bà đã cầu nguyện theo cách riêng cũa bà, biểu lộ công khai lòng yêu mến Chúa tột cùng. Thậm chí bà cũng chẳng để ý hai thiên sứ đột nhiên xuất hiện. Bà quay lại thấy Chúa Phục Sinh, lại tưởng người làm vườn. Nhưng khi nghe Chúa thân thương gọi: “Maria!” bà liền nhận ra ngay Chúa Giêsu đã sống lại (Ga 20, 16).
Bà Mácđala được Chúa ủy thác loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ, để các ông đi rao truyền khắp thế gian “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là của Cha của anh em. Lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20, 17).
Bà Mácđala đắm mình vào cầu nguyện, tâm tình với Chúa Giêsu, không còn bận tâm đến môi trường chung quanh, không chia lòng chia trí, dù các thiên thần tận tình hỏi han. Chính nhờ sự chuyên tâm và khát khao Chúa tột độ, bà là người đầu tiên so với các tông đồ, được diễm phúc thấy Chúa Giêsu Phục Sinh vinh hiển. Nẻo đường tìm Chúa Phục Sinh của bà Macđala rất thực tiễn, viên mãn và hiệu quả nhất, so với hai nẻo đường vòng vo kia.
Người hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa. Ngài tìm họ đề hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài (Đường Hy Vọng, 964).
Lạy Chúa, xin dạy con biết tìm kiếm Chúa mọi nơi, mọi lúc, qua những lời cầu nguyện chân thành, để con được sống lại với Ngài. Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trong mầu nhiệm khổ nạn, xin Mẹ dẫn dắt, chỉ bảo và cầu bầu cho con, cảm nhận được Chúa Sống Lại trong tâm hồn, để con được cứu rỗi, đồng thời trở nên Chứng Nhân, phục vụ mọi người. Amen.
12. Bài giảng của ĐTC Benedictô 16
THÔNG ĐIỆP URBI ET ORBI - Ngày 23 tháng Ba, 2008
(Lm. Giuse Ngô Quang Trung dịch)
Resurrexi et adhuc tecum sum. Alleluia! - Con đã sống lại, Con vẫn hằng ở bên Cha. Allêluia! Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu, Đấng chịu đóng đinh và đã sống lại, lặp lại những lời công bố hân hoan này với chúng ta hôm nay: lời công bố Phục Sinh. Chúng ta hãy chào đón lời công bố này với sự ngạc nhiên và lòng biết ơn sâu xa!
Resurrexi et adhuc tecum sum - Con đã sống lại, Con vẫn hằng ở bên Cha. Những lời này, trích từ một văn bản cổ xưa của Thánh Vịnh 138 (c. 18b), được hát lên trong phần đầu của Thánh Lễ hôm nay. Trong đó, vào lúc ánh mặt trời của ngày lễ Phục Sinh đang vươn lên, Giáo Hội nhận ra giọng nói của chính Chúa Giêsu, Đấng mà khi sống lại hướng về Chúa Cha với tất cả niềm hân hoan và mến yêu, đã thưa lên: Cha ơi, này con đây! Con đã sống lại, Con vẫn hằng ở bên Cha, và Con sẽ ở bên Cha mãi mãi; Thần Khí của Cha đã không bao giờ bỏ rơi Con. Qua đó, chúng ta có thể đi đến một nhận thức mới về những đoạn khác trong Thánh Vịnh này: "Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài... cả tối tăm cũng chẳng có chi mù mịt, và đêm đen sáng tỏ như ban ngày, bóng tối và ánh sáng cũng như nhau." (Tv 138: 8, 12). Thật thế: trong đêm canh thức Phục Sinh long trọng này, bóng tối trở thành ánh sáng, đêm đen nhường chỗ cho ngày sáng không có chiều tàn. Cái chết và sự phục sinh của Ngôi Lời nhập thể là một biến cố của tình yêu bất khả chiến bại, đó là chiến thắng của Tình Yêu giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết. Chiến thắng ấy đã thay đổi dòng lịch sử, ban cho sự sống nhân loại một ý nghĩa, một giá trị vĩnh cửu và mới mẻ.
"Con đã sống lại, Con vẫn ở gần bên Cha đến muôn đời." Những lời này mời gọi chúng ta chiêm ngắm Chúa Kitô Phục Sinh, trong khi để cho tiếng nói của Người vang vọng trong tim ta. Với hiến tế cứu độ của Người, Chúa Giêsu thành Na-da-rét đã làm cho chúng ta trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, để cả chúng ta cũng được dự phần trong cuộc đối thoại mầu nhiệm giữa Người và Chúa Cha. Chúng ta được nhắc nhớ về những lời Người đã từng nói với những ai lắng nghe: "Mọi sự đã được Cha Ta giao phó cho Ta. Và không ai biết rõ Cha trừ ra Con và kẻ mà Con muốn mặc khải cho" (Mt 11, 27). Trong hướng nhìn này, chúng ta ghi nhận rằng những lời Chúa Giêsu Phục Sinh nói với Chúa Cha hôm nay - "Con vẫn hằng ở bên Cha" - cũng áp dụng gián tiếp cho cả chúng ta, "những con cái của Thiên Chúa và là những người đồng thừa tự với Chúa Kitô, miễn là chúng ta cùng chịu đau khổ với Người ngõ hầu chúng ta có thể cùng được hưởng vinh quang với Người" (x. Rm 8, 17). Qua sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, hôm nay chúng ta cũng vươn đến một cuộc sống mới, và khi liên kết tiếng nói của chúng ta với tiếng nói của Người, chúng ta công bố rằng chúng ta muốn lưu lại muôn đời bên Thiên Chúa, người Cha tốt lành và nhân hậu vô biên.
Bằng cách này, chúng ta tiến vào những chiều sâu của mầu nhiệm Vượt Qua. Biến cố đầy kinh ngạc về sự phục sinh của Chúa Giêsu bản chất là một biến cố của tình yêu: tình yêu của Chúa Cha khi trao ban Con của Người để cứu chuộc trần gian; tình yêu của Chúa Con trong sự vâng phục Chúa Cha vì tất cả chúng ta; tình yêu của Chúa Thánh Thần khi nâng Chúa Giêsu từ kẻ chết lên thân thể được biến đổi sáng láng của Người. Và còn nữa: tình yêu đáp trả của Chúa Cha "ôm ấp" Chúa Con "cách mới mẻ", bao bọc Người trong vinh quang; tình yêu đáp trả của Chúa Con đối với Chúa Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, được trang hoàng bằng nhân loại đã được biến đổi. Từ nghi thức hôm nay, chúng ta sống lại cảm nghiệm tuyệt đối, một lần cho tất cả về sự phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta nhận được lời mời gọi hoán cải cho Tình Yêu; chúng ta nhận được lời mời gọi loại trừ thù hận và ích kỷ, và bước theo trong vâng phục những bước chân của Chiên Con bị sát tế vì ơn cứu độ chúng ta, để bắt chước Đấng Cứu Chuộc là Đấng "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng", Đấng là "nơi yên nghỉ cho linh hồn chúng ta" (x. Mt 11, 29).
Anh chị em Kitô hữu mọi nơi trên thế giới thân mến, anh chị em là những người nam nữ có tinh thần chân thành mở rộng cho sự thật, xin đừng để con tim nào đóng lại trước quyền năng của tình yêu cứu độ này! Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại cho tất cả mọi người; Người là niềm hi vọng của chúng ta - là niềm hi vọng đích thực cho mỗi người. Hôm nay, như Người đã làm với các môn đệ tại Galilê trước khi về với Chúa Cha, Chúa Giêsu phục sinh cũng sai chúng ta đến mọi nơi như những chứng nhân hi vọng, và Người bảo đảm với chúng ta: Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28, 20). Khi hướng lòng trí chúng ta vào những vết thương nơi thân thể biến đổi của Người, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa và giá trị của đau khổ, chúng ta có thể chăm sóc cho nhiều vết thương đang tiếp tục làm biến dạng nhân loại trong chính thời đại chúng ta. Nơi những thương tích vinh quang của Người, chúng ta nhận ra những dấu chỉ không thể tàn phai của tình yêu vô biên của Thiên Chúa, Đấng mà các tiên tri loan báo: chính Người băng bó những tấm lòng tan nát, bảo vệ kẻ cô thế, công bố tự do cho kẻ bị giam cầm, an ủi mọi kẻ khóc than, ban cho họ dầu thơm hoan lạc thay tang chế, và bài tụng ca thay tâm hồn sầu não (x. Is 61, 1, 2, 3). Nếu chúng ta tiến lại gần Người với một lòng tín thác khiêm cung, chúng ta sẽ gặp thấy trong ánh mắt Người lời đáp trả cho những khát vọng sâu xa nhất trong tâm hồn chúng ta: đó là được biết Chúa và được thiết lập một tương quan sống động trong sự hiệp thông thực sự của tình yêu, một sự hiệp thông lấp đầy cuộc đời ta, và những quan hệ giữa con người và xã hội với cùng một tình yêu như thế. Vì lí do này, nhân loại cần Chúa Kitô: trong Người chúng ta có niềm hi vọng, "chúng ta được cứu rỗi" (x. Rm 8: 24).
Rất thường là những quan hệ giữa các cá nhân, giữa các nhóm và giữa các dân tộc đã không được đánh dấu bởi tình yêu mà bởi sự ích kỷ, bất công, thù hận và bạo lực! Đó là những tai ương của nhân loại, công khai và âm ỉ ở khắp chân trời góc biển, dù thường khi chúng bị lờ đi và đôi khi được cố ý che dấu; đó là những vết thương tra tấn những linh hồn và thân xác của biết bao người anh chị em chúng ta. Những vết thương đó đang chờ được chăm sóc và chữa lành bởi những vết thương vinh quang của Chúa Phục Sinh (x. Pr 2, 24-25) và bởi tình liên đới của những ai đang bước theo bước chân Người, thực thi những việc bác ái nhân danh Người, dấn thân tích cực cho công lí và loan truyền những dấu chỉ hi vọng rực sáng trong những miền đẫm máu bởi xung đột cũng như ở bất cứ nơi đâu mà phẩm giá con người tiếp tục bị sỉ nhục và chà đạp. Chúng ta hi vọng rằng đây chính là những nơi mà những hành động tự chế và tha thứ sẽ được gia tăng!
Anh chị em thân mến! Chúng ta hãy để cho ánh sáng toả chiếu từ ngày long trọng này thắp sáng chúng ta; chúng ta hãy mở rộng con người chúng ta với lòng phó thác chân thành nơi Chúa Kitô phục sinh để cho vinh quang của Người trên tội lỗi và sự chết có thể chiến thắng khải hoàn nơi mỗi người chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong các thành phố và trong các quốc gia chúng ta. Hãy để ánh sáng này chiếu soi mọi miền thế giới. Cách riêng, làm sao chúng ta lại có thể quên một số nơi ở Châu Phi, như Dafur và Sô-ma-li-a, miền Trung Đông bị xâu xé, đặc biệt Thánh Địa, I-rắc, Li-Băng, và cuối cùng là Tây Tạng, tôi khích lệ tất cả mọi người hãy tìm ra những giải pháp bảo vệ hoà bình và thiện ích chung! Chúng ta hãy khấn xin sự viên mãn của hồng ân Vượt Qua của Người, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Đấng sau khi đã thông phần những đau khổ trong cuộc thương khó và khổ hình thập giá của người Con vô tội của Mẹ, cũng được hưởng niềm hân hoan khôn tả của sự phục sinh của Người. Được chia sẻ vinh quang của Chúa Kitô, xin Mẹ là người bảo vệ và hướng dẫn chúng ta trên nẻo đường đi đến tình liên đới huynh đệ và hoà bình. Đó là những lời chúc Phục Sinh của tôi gửi đến những ai hiện diện nơi đây, cũng như những người nam nữ của mọi quốc gia và lục địa đang hiệp nhất với chúng ta qua truyền thanh và truyền hình. Xin chúc mừng Phục Sinh!
13. Thực tế hay huyền thoại?
(JM. Lam Thy)
Cho đến tận ngày nay biến cố Phục Sinh vẫn còn là một huyền thoại đối với con người chỉ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền). Không chỉ ở bên ngoài Kitô giáo, mà ngay trong Giáo Hội cũng vẫn còn không ít Tôma-thời-đại cứ đòi được “xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn” Đức Giêsu mới chịu tin. Chuyện đó cũng dễ hiểu, vì bản chất con người là thế. Nói về một chuyện cách xa cả 20 thế kỷ, mà cứ đòi được trực diện quan sát thì quả là không tưởng! Đến ngay như người đương thời, nhất là những kẻ ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ với Đức Kitô, được “thực mục sở thị” mà khi biến cố xảy ra cũng không thiếu những suy nghĩ trái chiều.
Xin thử đặt mình vào thời điểm cách đây hơn 2000 năm, với một nhãn quan của một trong những người-còn-hoài-nghi, để nhìn vào hiện tượng “Giêsu Na-da-ret” qua biến cố Phục Sinh. Trước hết, ngay ở chính quê hương Na-da-ret, chàng thanh niên Giêsu là con ông thợ mộc Giu-se khiêm tốn và bà Maria nội trợ hiền lành, cũng không có tiếng tăm gì, chẳng mấy ai biết đến, thậm chí sau một thời gian dài đi xa trở về, chẳng được ai đón tiếp, đến nỗi chàng phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi” (Mt 13, 57), rồi còn nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8, 20).
Những lời phát biểu của chàng, nếu không là những câu chuyện dụ ngôn khó hiểu, thì cũng chỉ là những lời tréo cẳng ngỗng, nếu không muốn nói là nghịch thường, phi lý. Chẳng hạn như: “Hãy để người chết chôn người chết” (Lc 9, 60); “Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng.” (Mt 10, 34-35); “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”. (Mt 5, 44); ”Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10, 39). Đó là chưa kể – nói theo đám kinh sư, luật sĩ Pha-ri-sêu – Người còn nói “phạm thượng” nữa (Lc 5, 21), dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa (Lc 22, 70; Ga 13, 34), rồi còn tự coi mình vừa là con lại vừa là Chúa của vua Đa-vit (Lc 20, 41-44 ). Chưa hết, về giao du, sinh hoạt, Người chỉ chuyên “ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi” (Mt 9, 10-11).
Nếu không được ở liền bên Đức Giêsu hàng ngày, mà chỉ được nghe thuật lại những lời nói và hành động như nêu trên, chắc chắn sẽ cho Người chỉ là một chàng trai tự phụ, đại ngôn vậy thôi. Đám kinh sư và luật sĩ Pha-ri-sêu chống đối Người cũng là vì thế. Khoan thử nói đến những người ở bên ngoài Giáo Hội, mà hãy nói thẳng vào những người đã tin và đi theo Đức Giêsu như tìm đến một cứu cánh cho cuộc đời. Họ đi theo Đức Giêsu vì tin rằng mình sẽ trở nên những kẻ “lưới người như lưới cá”. Rồi thì ngày ngày được nghe lời dạy bảo, được chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ, mà vẫn còn bán tín bán nghi (khi thì coi Thầy mình đúng là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật; khi thì lại coi Thầy là ma, là bị quỷ ám – Mc 3, 22 ; Lc 24, 37-39 ; Ga 8, 52 ; 10, 20…). Theo Thầy ròng rã 3 năm liền mà đến giờ phút quyết định, thì bỏ mặc Thầy mướt mồ hôi máu khi cầu nguyện trên núi Cây Dầu, còn mình thì thản nhiên ngủ khì (Mt 26, 36-45). Đến khi Thầy bị bắt giải đi thì chẳng thấy ai đi theo, ngoài một Phêrô lảng vảng bên ngoài nhà Cai-pha, để rồi thì chối phăng Thầy 3 lần liền trong một đêm chỉ vì một đứa tớ gái vặn hỏi.
Trên đường lên Núi Sọ, cũng chẳng thấy môn đệ nào đi gần bên (để được như Si-mon – một dân quê xa lạ – vác đỡ thập giá, hoặc như một Vê-rô-ni-ca trao khăn cho Người lau mặt đầy máu), nếu có đi theo cũng chỉ ở xa xa hoặc lẫn trong đám người hiếu kỳ. Cho đến khi Đức Giêsu chết trên thập giá và được mai táng, thì hầu như chẳng còn một ai tin rằng Thầy mình sẽ sống lại. Ngay đến sáng ngày thứ ba, các phụ nữ – sau khi được chứng kiến Đức Kitô Phục Sinh hiện ra – đến báo tin cho các môn đệ (trong đó có Phêrô) mà các ngài vẫn còn chưa tin hẳn và một lần nữa lại tưởng Người là ma! (“Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin… Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” – Lc 24, 11…37). Thậm chí cho đến lúc trắng đen rõ ràng rồi, vậy mà vẫn còn một Tô-ma “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25).
Tuy nhiên, chính cái mâu thuẫn nội tại trong con người các môn đệ lại là một bằng chứng sống động nhất cho biến cố Phục Sinh. Thật thế, khi người ta mang một tâm trạng hoài nghi thì khó lòng làm cho người ta tin tưởng được. Chẳng thế mà thế giới đã có cả một chủ thuyết hoài nghi hiện diện (không tin vào bất cứ sự gì, nên sống hôm nay không cần biết đến ngày mai). Nhưng nếu đến một lúc nào đó, được “nghe”, được “thấy tận mắt”" (“thực mục sở thị”), được “chiêm ngưỡng”, tay được “chạm đến” (như trường hợp Gioan thánh sử – 1Ga 1, 1), tâm trạng hoài nghi thực sự được gỡ bỏ; thì lúc đó niềm tin của họ sẽ kiên định không gì lay chuyển nổi. Cho nên có thể nói: Nếu không vì cái tâm trạng hoài nghi đã từng dằn vặt tâm trí trước đó, thì khi được gột rửa (được thanh tẩy “trong Thánh Thần và lửa” – Mt 3, 11), niềm tin của các môn đệ tiên khởi không thể kiên định được đến độ dám đem cả sinh mạng của mình ra để làm chứng cho mầu nhiệm Phục Sinh. Nói cách khác, đức tin có vượt qua được thử thách mới trở nên kiên định (Gc 1, 3), vàng được thử lửa (1Pr 1, 7) mới thật sự là vàng ròng.
Đến ngay như Đức Giêsu Thiên Chúa nếu không trải qua cuộc Khổ Nạn (với những vết đòn roi trên thân xác, mão gai trên đầu, dấu đinh ở chân tay và nhất là vết thương ở cạnh sườn bị lưỡi đòng tội ác đâm thấu con tim) thì sự Phục Sinh của Người cũng chẳng còn ý nghĩa gì. Vì thế, vấn đề đặt ra với người Kitô hữu ngày hôm nay khi bước vào Tuần Thánh, chuẩn bị cử hành Tam Nhật Vượt Qua, không chỉ là tưởng niệm cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô và ăn mừng Lễ Phục Sinh đánh dấu mầu nhiệm Vượt Qua vinh hiển của Người, mà còn là làm sao vượt qua được chính mình trên hành trình dương thế, ngõ hầu tiến về được quê Trời vui hưởng hạnh phúc đời đời. Một cách cụ thể, chúng ta chỉ có thể đạt được ước vọng đó khi chúng ta được “cùng chết với Đức Kitô” (thử thách, thử lửa). Và chỉ có “cùng chết với Đức Kitô” thì mới được “cùng sống lại với Người”. Cụ thể hơn, cần phải vượt qua được bản chất “sợ chết” cố hữu của con người. Đức Kitô đã chết vì tội lỗi loài người, vậy thì tại sao loài người lại không sẵn sàng chết vì tội lỗi của chính mình, để hy vọng được thực sự “sống lại” trong Nước Trời vinh quang?
Mỗi năm chỉ có một Mùa Chay 40 đêm ngày hãm mình ép xác, ăn năn sám hối. Mỗi Mùa Chay cũng lại chỉ có một lần cử hành Tam Nhật Vượt Qua. Ngoài ý nghĩa trọng đại của Tam Nhật Vượt Qua như đã dẫn ở đầu bài viết, tôi cứ muốn nghĩ thêm rằng tôi phải thực hành (không chỉ là cử hành) cho kỳ được công cuộc vượt qua được Mùa Chay của bản thân tôi, của cuộc đời tôi. Và nhất là làm thế nào để mỗi năm thêm một lần tôi ghi dấu được cuộc vượt qua bằng một cái mốc thời gian trong cuộc đời. Tôi phải sống làm sao cho đúng với ý nghĩa “sống là chấp nhận vượt qua, vượt qua mọi cám dỗ ngọt ngào, mọi đam mê thấp kém, vượt qua mọi gian lao nguy hiểm, mọi thử thách nghiệt ngã – vượt qua được chính mình”. Cuộc sống của tôi không chỉ là mỗi năm một lần cử hành Tam Nhật Vượt Qua, mà phải là thực hành liên lỉ cuộc “bách-niên-vượt-qua”, cho tới ngày tới được cùng đích của cuộc đời. Ở đó, chính Người-đã-chết-cho-tôi, đã Vượt-Qua-sự-chết-vì-tôi, sẽ dang rộng vòng tay đón nhận tôi để tôi được cùng-sống-lại-với-Người.
Có thể ai cũng đã quen với lối diễn tả sống đức tin vào sự Phục Sinh là chết đi con người cũ của mình để sống đời sống mới trong Thánh Thần. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: Nói thì thật dễ, và chính vì tưởng dễ như vậy nên mới vênh vang tự đắc; nhưng làm thế nào để có thể “chết đi con người cũ của mình” mới là thiên nan vạn nan. Và vì thế, để thực hiện sống niềm tin Phục Sinh cách thực tế và sống động, chỉ có một bí quyết, đó là: “Lý do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” (1Cr 5, 6-8).
Vâng, người Kitô hữu “ăn mừng đại lễ Phục Sinh” cũng có nghĩa là sống mầu nhiệm Phục Sinh, sống với “lòng tinh tuyền và chân thật”. Cuộc đời Kitô hữu là một tiến trình “loại bỏ men cũ để trở thành bột mới”. Cuộc loại bỏ và trở thành ấy diễn ra trong mọi quyết tâm và nỗ lực là “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (“Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” – Pl 3, 10-11).
Tóm lại, để sống trọn hảo Mùa Chay thánh 2014, người Kitô hữu hãy mau mắn đáp lại mong ước của vị Cha Chung (ĐTC Phan-xi-cô): “Anh chị em thân mến, ước gì Mùa chay này thấy được toàn thể Giáo Hội sẵn sàng và mau mắn làm chứng cho những người đang sống trong tình trạng lầm than vật chất, luân lý và tinh thần: làm chứng về sứ điệp Tin Mừng, được tóm tắt trong việc loan báo tình thương của Chúa Cha từ bi, sẵn sàng ôm lấy mỗi người trong Chúa Kitô. Chúng ta có thể thi hành điều ấy theo mức độ chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo và làm cho chúng ta được giàu sang bằng cái nghèo của Ngài. Mùa Chay là mùa thích hợp để cởi bỏ, làm cho chúng ta tự hỏi đâu là điều chúng ta có thể chịu thiếu để giúp đỡ và làm cho người khác trở nên phong phú nhờ cái nghèo của chúng ta.”
Quả thật “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.” (Rm 6, 4-5). Và chỉ đến khi đó, tôi mới thật sự vui mừng mà hoà chung tiếng hoan ca với mọi người: Chúa đã sống lại hiển vinh! Alleluia! Alleluia! Ôi, lạy Chúa! Con đã tự ru mình vào những cám dỗ ngọt ngào của ba thù, đã tự kết án mình, đã chết vì chính tội lỗi của con. Xin cho con vượt qua được mọi nỗi thống khổ trần ai, vượt qua được chính mình, để được cùng sống lại với Ngài trong ngày sau hết. Amen. Alleluia! Alleluia!
14. Biến đổi trở thành con người mới
(‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Một câu chuyện dụ ngôn của Nhật Bản kể về Hoàng tử bị gù lưng, theo tục lệ của Hoàng Triều đang trị nước, bất cứ Hoàng tử nào được chỉ định thế nghiệp Vua Cha thì phải đúc tượng của mình đặt vào trong Bảo Tàng Viện của Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc thay vị Hoàng tử được chỉ định này lại là vị Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên nhất định không chịu cho tạc tượng mình trưng trong Bảo Tàng Viện.
Cuối cùng với áp lực của nhà Vua, Hoàng tử chấp nhận nhưng với hai điều kiện:
Thứ nhất, tạc tượng Hoàng tử không bị gù lưng, nhưng đứng thẳng người như thể không bị khuyết tật nào cả.
Thứ hai, Hoàng tử được giữ bức tượng này trong phòng riêng cho tới khi nào mình chết thì bức tượng mới được đem trưng trong Bảo Tàng Viện Quốc Gia.
Làm như vậy Hoàng tử muốn giấu đi những khuyết tật của mình không cho thần dân trong nước biết đến. Vua cha để tuỳ ý. Sau khi đã có bức tượng rồi, Hoàng tử đem trưng trong phòng riêng, hàng ngày đứng ngắm mình lâu trước bức tượng, vừa cố gắng thẳng người lên như bức tượng và điều lạ lùng xảy ra, sau thời gian dài ngắm bức tượng thẳng người, Hoàng tử cảm thấy mình như thật sự đã đứng thẳng người, không còn gù lưng nữa.
Đây là một chuyện dụ ngôn nhưng cũng có thể được người Kitô chúng ta áp dụng vào trong cuộc sống tinh thần của mình. Đến với Chúa Giêsu Kitô, khuyết tật gù lưng thể xác không có gì là xấu phải giấu diếm, nhưng gù lưng tinh thần không những là khuyết tật xấu, mà còn là tội lỗi, là những tật xấu bám chặt với điều xấu.
Hoàng tử gù lưng không bằng lòng với khuyết tật thân thể của mình. Người Kitô chúng ta cũng ý thức về những khuyết tật tinh thần của mình.
Không bao giờ bằng lòng với những khuyết tật này, Hoàng tử có một ước muốn mãnh liệt thoát ra cảnh gù lưng. Người Kitô cũng cần có ước muốn mạnh mẽ thoát ra khỏi những tật xấu của mình. Hoàng tử nhờ nhìn vào bức tượng thẳng người, là lý tưởng của mình và trở thành thẳng người; người Kitô chúng ta cần nhìn thẳng vào lý tưởng của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô và không những phải nhìn từ cái nhìn bên ngoài mà thôi mà còn thực hiện điều Chúa Giêsu mong ước, đó là sống kết hiệp với Ngài để trở nên giống Chúa đến mức độ trở nên giống Chúa đến mức độ như thánh Phaolô Tông Đồ đã sống: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi".
Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi. Chúa Giêsu là mẫu gương của chúng ta, Chúa đã thực hiện cuộc vượt qua, đã chết và sống lại để thực hiện ơn cứu rỗi cho chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi những gì gù lưng tật xấu, để trở thành của ăn nuôi sống chúng ta và biến đổi chúng ta thành con người mới được tái tạo theo hình ảnh Chúa Kitô, và chúng ta cần luôn nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để giải thoát mình khỏi những tật xấu, để chúng ta không còn bị gù lưng tinh thần mà đứng thẳng lên sống lại cuộc sống mới với Chúa.
Vậy mừng Lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta phải nhất quyết luôn nhìn vào Chúa để sống đồng hoá với Chúa, để mình sống sự sống của Chúa, để trở nên giống như Chúa và được phục sinh với Chúa. Alleluia.
15. Phục sinh với Chúa
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta nói “chết là một phần tất yếu của cuộc sống”. Cái chết không loại trừ bất cứ ai. Từ đông sang tây không một ai hiện hữu mà không một lần phải đối diện với cái chết, dù đó có là Tần Thủy Hoàng hay Alexander Đại đế. Tài giỏi. Quyền uy. Tất cả cũng đi vào dĩ vãng của dòng đời, đôi khi chẳng để lại cho đời một chút luyến tiếc, nhớ thương.
Sinh lão bệnh tử là quy luật lẽ thường của đời người. Con người từ khi sinh ra đã tập chia tay. Chia tay từng tuổi đời để tiến đến tuổi trưởng thành hơn hay già đi và chết đi. Chia tay những con người đang sống với chúng ta trong thời gian ngắn, dài hay vĩnh viễn. Và trong số họ cũng có không ít người là thân nhân, là bạn bè của chúng ta.
Một điều mà nhân loại vẫn thao thức qua qua mọi thời đại là chết rồi đi đâu? Mặc dù cũng có rất nhiều câu chuyện được kể từ những người chết rồi bất thần sống lại. Mỗi người kể mỗi khác về những gì họ thấy được trong thời gian chết ấy. Cõi chết mà họ bước vào như thế nào? Phong cảnh, sự vật, màu sắc, âm thanh thế nào? Nơi ấy con người ra sao? Sinh vật nào hiện diện và sự sinh hoạt nơi ấy diễn ra có giống với thế giới mà ta gọi là dương thế hay dương gian hay không?Tuy nhiên, cho đến nay, những tường thuật của những người đã chết sống lại kể ra thì chẳng mấy ai chịu tin nhất là trong thời đại văn minh này. Vì nó vẫn vượt lên trên sự suy nghĩ của con người. Có lẽ con người sẽ không bao giờ lý giải được về cái chết. Cái chết vẫn là ẩn số mà các nhà khoa học không bao giờ tìm được câu trả lời thỏa đáng.
Người Kitô hữu chúng ta chỉ biết được cái chết một cách trọn vẹn trong ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô. Sự sống lại của Chúa là lời mạc khải về sự sống đời sau. Cái chết là hậu quả của tội lỗi con người như thánh Phao-lô đã quả quyết: “Vì một người mà tội lỗi đã vào thế gian, và tội lỗi gây nên sự chết, như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì một người đã phạm tội” (Rm 5, 12). Thế nhưng, sự sống lại trường sinh lại là hồng phúc mà Thiên Chúa ban cho nhân loại qua cái chết của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Theo Thánh Kinh, Thiên Chúa không tạo dựng con người để chết mà là để sống, cho dù tội lỗi có phá hủy chương trình của Chúa thì Ngài cũng tìm mọi cách để khôi phục lại sự sống đời đời cho con người. Đức Kitô khi xuống thế làm người đã phục hồi lại những gì đã tan vỡ. Chính Ngài đã lãnh lấy sự chết loài người và đã chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh. Qua sự phục sinh của Ngài đã khai mở một mùa xuân hy vọng cho con người nếu cùng chịu chết với Người thì cũng sẽ được sống lại với Người.
Sự phục sinh của Chúa Giêsu được Phúc Âm ghi lại qua những lần Chúa hiện ra với các môn đệ, với những người thân tín của Chúa. Sự Phục sinh của Chúa còn được ghi dấu ấn qua ngôi mộ trống. Một nơi đã chôn cất xác Chúa nhưng ngày thứ ba dù quân lính canh gác, dù tảng đá nặng trĩu vẫn không còn xác Chúa. Nơi nấm mồ ấy không còn là dấu chỉ sự chết mà là dấu chỉ của sự sống. Vì Chúa đã sống lại và ra khỏi mồ.
Sự Phục sinh của Chúa cho chúng ta một niềm vui mừng và hy vọng cho kiếp người chúng ta. Kiếp người chúng ta không có tận cùng. Kiếp người chúng ta sẽ được sống mãi trong sự sung mãn của Chúa. Cái chết chỉ là một chuyển tiếp để được sống mãi bên Chúa nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô.
Cùng chết với Đức Kitô nghĩa là cùng chết đi con người cũ với những tính hư nết xấu để sống lại con người mới là con cái Thiên Chúa. Con người cũng phải chôn đi những tính xác thịt yếu đuối để từ khước những danh lợi thú mau qua. Nhất là con người cũng phải biết chết đi ý riêng của mình để ý Chúa được thục hiện trong cuộc đời chúng ta. Ý Chúa vẫn là tiếng mời gọi làm việc lành tránh điều dữ. Ý Chúa vẫn mời gọi chúng ta sống có ích cho tha nhân qua tinh thần bác ái, dấn thân phục vụ.
Ước gì đời sống Kitô hữu chúng ta luôn biết chết đi con người cũ để được sống lại với Chúa trong vinh quang phục sinh. Xin cho chúng ta đừng vì những đam mê lầm lạc mà đánh mất Nước Trời mai sau. Amen.
16. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề tiến lên núi sọ trong khi sức tàn lực kiệt ngã lên té xuống nhiều lần, rồi lại phải chịu đóng đinh thân mình rất đỗi đau thương vào thập giá... Chúa Giêsu đã gục đầu tắt thở và được mai táng trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng lại lịch sử một đời người đã làm những việc diệu kỳ. Cuối cùng, ngôi mộ đá được đóng lại, chôn vùi một Con Người tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Israel.
Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày nắng đẹp Ngài ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn đâu nữa những buổi chiều trong hoang địa Ngài hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn. Còn đâu nữa vị ngôn sứ oai hùng quát bảo cho sóng yên biển lặng. Còn đâu nữa Con Người làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa lành, người câm được nói, người điếc được nghe... Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho bao người...
Đức Giêsu đã chết thật rồi, chẳng còn hy vọng gì nữa. Những môn đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu, giờ đây ra về trong u sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương.
Thế rồi điều kỳ diệu xảy ra: qua ngày thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi bớt đau thương. Tới nơi, bà hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong không còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa. Bà hoảng hốt chạy về báo tin cho các môn đệ. Các môn đệ ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng gặp gỡ Chúa phục sinh. Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết là Chúa Giêsu đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời Thầy dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giêsu nay đã trở thành khởi điểm cho một đời sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài là Sự Sống lại và là Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria: "Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ."
* * *
Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi thống trị và huỷ diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang án chết, như hoa còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm mà đã phải tiêu vong... Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và một sớm một chiều sẽ phá huỷ sự sống đi. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi người và cướp đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa Giêsu đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Ngài đã thắng sự chết. Thần Chết phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa Giêsu phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.
Xin mọi người hãy đến cùng Chúa phục sinh để đón nhận cuộc sống hồng phúc Ngài ban tặng.
17. Phục sinh niềm hy vọng của nhân loại
Hôm nay toàn thể Giáo hội cử hành đại lễ Phục sinh. Đây là ngày mà Đức Kitô, người anh của chúng ta đã phá tan xiềng xích của sự chết và chỗi dậy vinh quang tử nấm mồ. Ngài đã thực hiện điều này không phải cho chính Ngài nhưng là cho tất cả chúng ta. Ngài muốn chúng ta cũng được thông phần, sẻ chia chiến thắng vĩ đại trên tội lỗi và bóng đêm sự chết bằng cách tin cậy và hy vọng vào Ngài.
Đúng thế! Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã mang lại một niềm hy vọng lớn lao cho nhân loại đang run sợ trước cái chết và đau khổ do hậu quả của tội lỗi. Nhưng thật đang buồn cho chúng ta vì thế giới không mấy quan tâm đến sự Phục sinh của Chúa.
Điều này thật ra cũng dễ hiểu vì lý do của chúng rất đơn giản. Vì dù là biến cố vĩ đại, nhưng biến cố này đã được Đức Kitô thực hiện cách âm thầm, khiêm tốn. Chúa Giêsu phục sinh không xuất hiện một cách long trọng, vẻ vang trong đền thánh Giêrusalem để cho những người nỗi nang trong xã hội Do thái thời bấy giờ chiêm ngưỡng. Nhưng Ngài xuất hiện cho những người tầm thường, những người do chính Ngài ọi tên, những người cùng Ngài bẽ bánh, những người biết lắng nghe những lời bình an của Ngài... đặc biệt là những người biết ý thực được sự xuất hiện của Ngài. Và thậm chí họ là những người đã từng gặp khó khăn trong niềm tin vào sự phục sinh của Ngài.
Tin vào biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu đã là một điều không phải dễ. Nhưng sống niềm tin ấy lại là một việc vô cùng khó khăn. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại hành trình đức tin và thái độ của Phêrô, Gioan và Maria Macđala trước biến cố Phục sinh của Chúa.
Thời Chúa Giêsu, chắc chắn có rất nhiều người đến nghe Ngài rao giảng. Và chắc chắn tất cả những người trong nhóm họ ít hay nhiều cũng đã từng nghe qua lời loan báo Phục sinh của Chúa. Đặc biệt là các tông đồ, nhòm đông đảo môn đệ từng kề cận bên Ngài suốt những chặng đường rao giảng mà Chúa đã đi qua.
Nhưng sáng hôm nay, chỉ có một mình Maria đi thăm mồ Chúa từ sáng sớm. Việc thăm mồ của bà không phải hoàn toàn để tìm Chúa Giêsu Phục sinh, nhưng bằng con tim dạt dào lòng mến đối với vị thầy Giêsu chí thánh đã từng tha thứ và hướng cuộc đời bà rời xa bóng đêm tội lỗi, lật sang trang mới. Chính lòng cảm mến đó đã thúc đẩy bà lên đường viếng mộ Chúa, đây chỉ là việc thăm viếng bình thường. Nhưng đau thương chồng chất đau thương, bà hốt hoảng, xót xa khi nhận ra xác Thầy không còn nữa. Bà không nghĩ rằng Chúa đã sống lại, đã quên lời Thầy báo trước hôm nào. Bằng linh tính của người phụ nữ và bằng cảm thức của một con tim dạt dào tình yêu đối với Chúa Giêsu làm bà lo âu khắc khoải. Bà nghĩ ngay "xác Thầy đã bị đánh cắp". Niềm hy vọng của bà hiện nay là làm sao tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan, cả ba hối hả chạy đến mồ. Không thấy xác Thầy đâu, chỉ còn lại nấm mồ trống trơ, lạnh vắng với những khăn vải liệm được xếp ngăn nắp. Đứng trước mồ Chúa, ba người có ba thái độ khác nhau.
Nhìn những tấm khăn vải liệm được xếp ngăn nắp, Gioan tin Thầy mình đã sống lại. Vì chẳng ai ăn cắp xác Chúa lại phải tốn giờ sắp gọn gàng khăn liêm như thế!
Còn Phêrô thì không thấy Tin Mừng ghi lại một lời nào trước ngôi mộ trống. Chúng chỉ biết thánh Phêrô trở về nhà trong sự thinh lặng và chìm sâu trong suy nghĩ. Không phải ngài cứng lòng tin. Nhưng có lẽ vì là thủ lãnh tông đồ đoàn nên ngài cần thận trọng khi tuyên bố những gì về đức tin. Vì lời tuyên xưng của ngài có ảnh hưởng đến toàn thể Giáo hội. Còn Maria thì vẫn là bâng khuân với suy nghĩ "xác Thầy đã bị đánh cắp".
Giờ đây, Chúa đã phục sinh! Cái chúng ta cần làm hôm nay chính là sống niềm tin ấy. Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của Maria Macđala, nhưng cũng cần phải có sự nhạy cảm của Gioan để nhận ra dấu chỉ của Chúa và cần có sự thận trọng của Phêrô để khỏi rơi vào lầm lạc và mê tín. Tin vào Chúa Giêsu phục sinh là biết nhận ra ý nghĩa của các biến cố trong cuộc đời nhất là ý nghĩa của đau khổ và sự chết. Chúng ta cần phải có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng trước những thất bại, dổ vỡ, mất mát trong cuộc đời. Tất cả những gì chúng ta đang tìm kiếm rồi cũng sẽ qua đi. Nhưng chúng ta cần phải nhìn thấy sự phục sinh của Chúa ngang qua những gì hư nát. Như Gioan nhận ra Chúa đã sống lại khi nhìn những mãnh khăn liệm.
Niềm tin vòa Chúa Giêsu phục sinh chính là nền tảng cho niềm hy vọng của chúng ta vào sự sống vĩnh cữu. Chính niềm hy vọng này là sức mạnh giúp chúng ta kiên tâm, bền chí để vượt qua những thử thách nghiệt ngã, ngang trái trong cuộc đời. Qua đó, chúng ta có được một niềm vui âm thầm, lặng lẽ và cảm nhận được sự bình an sâu sắc từ trong sâu thẳm của tâm hồn. Vì chúng ta biết rằng: Tình yêu mạnh hơn sự sợ hãi, sự sống mạnh hơn cái chết và niềm hy vọng vượt thắng nỗi thất vọng.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc vượt qua của Chúa. Xin cho chúng con biết sống cuộc vượt qua của đời mình.
Vượt qua sự nhỏ mọn ích kỷ,
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì chúng con xuống,
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã,
Vượt qua nhưng đêm tối cô dơn của vườn cây dầu đời con,
Vượt qua những nỗi khắc khoải, nghi ngờ trong niềm tin,
Vượt qua những thành kiến của con đang áp đặt cho người khác.
Ước gì chúng con biét noi gương Chúa Phục sinh, luôn biết gieo rắc bình an, hy vọng,
Tin tưởng và niềm vui khắp muôn nơi.
Ước ước gì mọi người khi gặp con cũng nhận ra sự sống mãnh liệt của Chúa. (Rabbouni)
18. Chúa đã sống lại
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
19. Câu trả lời của ngôi mộ trống
(‘Suy Niệm Hàng Ngày’ – Trầm Tĩnh Nguyện)
“Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).
Hai hôm sau ngày Chúa Giêsu chịu chết và được táng xác trong huyệt đá, trời vừa hửng sáng, Maria Mađalêna đi ra thăm mộ Chúa Giêsu và thấy tảng đá đậy cửa mộ đã bị lăn đi, còn mộ thì trống không.
Bà chạy về báo tin cho ông Simon Phêrô và người được mệnh danh là “môn đệ Chúa Giêsu thương mến”. Cả ba cùng hối hả chạy ra mộ.
Họ đã cùng chứng kiến cảnh ngôi mộ trống không, khăn liệm xếp lại gọn gàng. Nhưng trong thâm tâm, mỗi người lại có những suy nghĩ khác nhau:
Bà Maria Mađalêna cứ đinh ninh rằng xác Chúa Giêsu đã bị đánh cắp (Ga 20,13-15).
Ông Phêrô thì rất đỗi ngạc nhiên vì sự việc đã xảy ra (Lc 24,12).
Còn “người môn đệ Chúa Giêsu thương mến” thì tin chắc rằng Chúa Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã tiên báo (Ga 20,9).
Cùng một sự kiện, nhưng lại có nhiều thái độ đức tin khác nhau.
Điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống của mỗi Kitô hữu.
***
Sống đức tin là biết nhìn tất cả mọi việc theo quan điểm của Thiên Chúa và trong ý hướng của Thiên Chúa.
Sống đức tin là xác tín rằng Thiên Chúa đang thực hiện chương trình của Ngài xuyên qua mọi biến cố trong cuộc đời.
Nhưng làm thế nào để biết được ý Chúa?
Cách thế duy nhất và hữu hiệu nhất là sống bằng chính Lời của Ngài.
Lời Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta biết rõ ý Chúa, sẽ giúp chúng ta củng cố, phát triển và kiện toàn đức tin.
***
Chúa Kitô đã sống lại, chỉ còn ngôi mộ trống không.
Trong cuộc sống, chẳng thiếu gì lúc chúng ta gặp thấy ngôi mộ trống này.
Đó là những lúc chúng ta kiếm tìm một dấu chứng để củng cố lòng tin đang bị lung lay của mình.
Nhưng thay vì một chứng cớ rõ ràng, Chúa Kitô lại chỉ đưa ra cho chúng ta một biến cố tạo nghi vấn.
Thay vì trả lời, Ngài lại bắt chúng ta tự đặt ra câu hỏi cho chính mình:
“Như thế nghĩa là gì?”
Quả thật lắm lúc chúng ta đã bối rối phân vân trước câu hỏi bỏ ngỏ ấy.
“Chúa muốn nói gì?”
Thật khó mà xác tín được!
***
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta trả lời câu hỏi ấy:
Cũng như cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu đã được tiên báo trong Kinh Thánh, sứ mạng của mỗi người chúng ta cũng đã được Thiên Chúa tỏ lộ bằng cách này hay cách khác trong chính cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa cũng đã mở sẵn cho chúng ta một tương lai bằng cách chuẩn bị cho chúng ta những bước đường trong quá khứ.
Xuyên qua những hỗn độn trong cuộc sống, Thiên Chúa đã tỏ ý của Ngài cho chúng ta bằng những biến cố bỏ ngỏ, những “ngôi mộ trống” mà Ngài đặt trước mắt chúng ta.
Muốn biết được những “ngôi mộ trống” ấy muốn nói gì, chúng ta phải duyệt xét lại quãng đời đã qua của mình, để nắm bắt những dữ kiện chính và xếp đặt chúng lại dưới ánh sáng của Tin Mừng.
Với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ nhận ra được thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
***
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã sống cuộc sống trần gian, đã chịu chết và đã sống lại để mở ra cho nhân loại đường về cõi trường sinh.
Con tin chắc một điều là Chúa cũng muốn con sống, chết và sống lại như thế.
Nhưng để được sống lại như Chúa, con phải theo con đường nào để hiến tế bản thân con?
Đâu là đỉnh núi Sọ của con?
Xin Chúa dạy con biết nhìn để thấy được điều Chúa muốn con thi hành.
Và xin Chúa trợ giúp để con đủ nghị lực hoàn thành điều Chúa muốn.
Những lúc Chúa cho con xem thấy “ngôi mộ trống”, thì xin Chúa cũng cho con luôn nhớ rằng Chúa đã phục sinh. Amen!
20. Tình yêu dẫn đến đức tin
(‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phúc Sinh, thánh Gioan kể lại cho chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.
Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan đã viết về chính mình rằng: "Ông thấy và ông đã tin".
Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác những người đóng đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ bảy, ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ.
Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt trời lặn.
Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn xác Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do Thái. Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to đậy cửa hang lại.
Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra và Thầy không còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây băng liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin Chúa sống lại. Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?
Đối với Maria Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra tức thì Chúa Giêsu đã sống lại.
Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ "bình yên". Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói "người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến". Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông đã thấy và ông đã tin.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.
21. Suy niệm của Lm. Gioakim Nguyễn Quang Minh
Alleluia ! Alleluia ! Alleluia !
Chúa đã sống lại thật!
Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta long trọng mừng mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công Giáo dựa trên những bằng chứng vững chắn và mang lại hiệu quả tốt đẹp trong cuộc sống đức tin của người kitô hữu nhờ đó chúng ta có thể chu toàn sứ mệnh làm chứng nhân của Người.
Đối với người Kitô hữu chúng ta, Phục Sinh là một biến cố vô cùng quan trọng nếu không nói là quan trọng vào bậc nhất. Bởi vì theo lời Thánh Phaolô: Nếu Đức Kitô không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi thật trống rỗng và niềm tin của anh em trở thành một việc luống công vô ích,… như thế, chúng ta là những người dại dột hơn ai hết. (x.1Cr 15,14-19). Thế mà biến cố quan trọng ấy lại chỉ được Tin Mừng Gioan ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: “Ngôi mộ trống”. Tuy nhiên, điều tưởng chừng như đơn giản ấy, lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những chặng đường khám phá.
Khi thấy ngôi mộ mở toang, đã khiến cho bà Mađalêna phải hốt hoảng. Bà tức tốc chạy về báo tin cho các Tông đồ. Theo cách hiểu của bà, thì việc xác Chúa không còn ở đấy nữa, đơn giản là vì “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ” (Ga 20,2).
Chính các Tông Đồ cũng không phải là những người dễ tin. Khi họ nghe những người phụ nữ từ mồ Chúa trở về loan báo rằng xác Chúa không còn trong mộ nữa, họ đã không khỏi ngạc nhiên, bán tín, bán nghi. Phêrô, một con người cương trực, với vai trò là thủ lãnh các Tông Đồ, ông đã chạy ra mộ, nhưng khi thấy sự việc xảy ra, ông cũng không đưa ra một lời nhận xét nào. Và Tin Mừng ghi lại: “Trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải chỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20,9).
Chỉ có Gioan, là người duy nhất “đã thấy và đã tin” (Ga 20,8). Sở dĩ Tông Đồ Gioan có thể “thấy và tin được” bởi vì ông đã có những cảm nghiệm sâu sắc về Thầy mình và luôn sống trong mối tình hiệp thông sâu xa với Chúa. Ngôi mộ trống và những chiếc khăn liệm còn đó sẽ chẳng có ý nghĩa gì đối với những người không có niềm tin; thế nhưng, lại là những dấu chỉ để người môn đệ Chúa Kitô tin vào sự sống lại của Thầy mình. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.
Những phản ứng khác nhau của các nhân vật khi đứng trước ngôi mộ trống được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng phần nào phản ánh tâm tình và thái độ của mỗi người chúng ta.
Trong cuộc sống đức tin, nhiều lần chúng ta đứng trước “ngôi mộ trống” của Đức Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về Đức Tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của ông bà cha mẹ truyền lại… nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với Đức Tin của chính mình.
Có nhiều lúc, đức tin của chúng ta như chìm vào đêm tối, chúng ta nửa tin, nửa ngờ; tương tự như các môn đệ trong thời điểm sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu. Một mặt, chúng ta biết rằng, niềm tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta cuộc sống an bình, hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta lại phải đối diện với những thực tại mà xem ra không trùng hợp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta.
Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy, dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc, mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta biết bao thiệt thòi, phiền toái. Nhiều người than phiền rằng, tại sao gia đình chúng con một đời tu thân tích đức, thế nhưng lại toàn gặp phải những điều “tai bay vạ gió” từ đâu ập đến. Vậy xem ra: “Ở hiền mà lại chẳng gặp lành” !!!
Nhiều bạn trẻ sống một cách trung thực, đứng đắn trong tình yêu, thì lại bị chê là “cù lần” là “dại dột”. Trong đời sống hôn nhân gia đình, biết bao lần chúng ta phải đối mặt với cơn cám dỗ thiếu thủy chung: “trẻ không chơi, già ân hận”! v,v,v biết bao nhiêu cám dỗ đời sống làm lu mờ đức tin của người công giáo chúng ta.
Vậy, ai đúng, ai sai; ai khôn, ai dại ? Chúng ta bối rối, không biết phải chọn đàng nào!!! Khi cầu xin Chúa soi sáng, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa lại dẫn chúng ta đến trước “ngôi mồ trống” của Người. Thật là khó hiểu!
Có lẽ Mầu nhiệm Phục Sinh sẽ mãi là một mầu nhiệm vượt quá trí hiểu của con người. Thiết tưởng, muốn hiểu được thánh ý Chúa, chúng ta lại phải biết “giải mã” những dấu chỉ của thời đại. Sở dĩ, Tông Đồ Gioan “đã thấy và đã tin” bởi vì, ông không nhìn bằng con mắt thể xác, nhưng nhìn bằng con tim.
Mừng lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi hãy biết đón nhận những biến cố xảy đến trong cuộc đời bằng đôi mắt Đức Tin và bằng sự cảm nghiệm của con tim. Nhưng nếu sự cảm nghiệm ấy chỉ dừng lại ở cảm nghiệm mà thôi, thì thiết tưởng, biến cố Phục Sinh của Đức Kitô chẳng ích lợi gì. Điều Chúa muốn chúng ta, không chỉ dừng lại ở sự “cảm nghiệm”, mà sâu xa hơn, chúng ta phải biết hoán cải đời sống của mình sao cho phù hợp với niềm tin mà chúng ta đã đón nhận.
Chúng ta đang sống trong năm phụng vụ Tân Phúc Âm Hóa đời sống gia đình. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, mong muốn các gia đình Công Giáo canh tân đời sống trong thế giới tục hóa ngày hôm nay. Vậy nhờ Ánh Sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu, xin canh tân đổi mới đời sống gia đình chúng ta. Biết quý trọng các Bí tích nhất là Bí Tích Thánh Thể, các gia đình siêng năng tham dự thánh lễ hằng ngày, gia đình cùng nhau đọc kinh chung sáng tối, để Ánh Sáng Chúa Giêsu Phục Sinh đốt lên trong lòng mỗi người và mỗi gia đình chúng ta ngọn lửa yêu mến Chúa, sự hiện diện của Chúa ở trong gia đình giúp mỗi người chúng ta thực thi đức ái mà Chúa hằng mong ước. Để gia đình chúng ta càng ngày trở nên hạnh phúc hơn.
Chúa Kitô đã sống lại thật. Điều đó mang lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Vui vì Chúa Kitô đã thực sự chiến thắng tử thần. Hy vọng vì, Ngài đã vinh hiển vào thiên quốc, thì đến lượt chúng ta, nếu cùng chết đi với con người cũ của mình, chúng ta cũng được chung hưởng niềm vui thiên quốc với Chúa Phục Sinh.
Xin Chúa Kitô Phục sinh ở cùng chúng ta và đổi mới đời sống của chúng ta giúp chúng ta biết Tân Phúc Âm Hóa và gia tăng đức ái trong đời sống gia đình để chúng ta có được miền vui và hạnh phúc ở trần gian và ngày sau hết cuộc đời của chúng ta.
22. Sống quyện trong nỗi chết
(Lm Nguyễn Khoa Toàn)
Tôi yêu vô cùng sáng sớm Thứ Bảy Tuần Thánh. Không gian tĩnh mịch, im lìm. Ngoài đường vắng tiếng xe qua. Vạn vật, muôn người như đang thiếp ngủ. Không! Vạn vật, muôn người cơ hồ như đang chết…
Giữa ngày Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh là khoảng thời gian mà, theo lời của Gregory Đại Đế, Chúa đã “bị dìm sâu tại một nơi sâu thẳm nhất”. Chúa chết rồi! Chết thật rồi! Không còn gì nữa… Chẳng còn gì nữa…Đau đớn! Cô đơn! Nhục nhã! Ê che …
Nhưng nếu chúng ta hối hả mong cho mau đến lễ Vọng Phục Sinh, xem cái chết của Người vô nghĩa và chỉ hướng lòng về sự sống lại thôi, chúng ta, theo thần học gia người Úc Tony Kelly, đã quên đi ý nghĩa tuyệt đối của mầu nhiệm cứu chuộc. Thà là đừng hát Alleluia! Thà là để bàn thờ, nhà tạm tang thương trơn trống, hơn là hấp tấp vội vàng và không đoái hoài chiêm nghiệm đến cái chết tức tưởi đau thương của Đức Kitô trên cây thập giá.
Vì nếu không thể cùng chết với Đức Kitô, chúng ta không thể cùng sống lại với Người. Nếu không nếm khổ đau -trốn chạy khổ đau- niềm vui Phục Sinh cơ hồ như đã mất nhiều phần ý nghĩa. Như Sharktacos đã suy tư:” Chỉ nhờ vào thánh giá mà tôi tìm đuợc hy vọng trong thế giới này. Khi Chúa Giêsu kéo lê thánh giá giữa bùn nhơ và nước bọt, Người đã minh chứng rằng Thiên Chúa đã trọn vẹn hiểu đuợc thực tế cuộc đời: những chồng chất oan khiên, những triền miên thống khổ, những khóc than không thành tiếng…”
Trong khổ đau, con người được lớn lên bội phần. Không nếm khổ đau thì không còn nhiều nước mắt. Không nếm khổ đau thì không thể yêu thương…
Và vì thế, hãy mạnh dạn bắt đầu niềm vui Phục Sinh với Tuần Thánh- tuần quan trọng nhất trong niên lịch Phụng Vu. Những giây phút cuối đời của Con Thiên Chúa được thuật lại thật chi li chi tiết trong bài Thương Khó. Và chúng ta đã nhớ đuợc những gì?
Có thể chúng ta đã không thể nhớ gì nhưng có hai chữ và cụm chữ mà chúng ta không thể đọc lướt và nghe thoáng qua là “Hosanna” (Thánh) và “Eli, Eli, lema sabachthani” (Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ con).
Chưa một ai trong lịch sử cổ kim mà cuộc đời “lên voi xuống chó” như cuộc đời Chúa Giêsu. Mới hôm qua đây, mọi người dân thành Giêrusalem còn cầm cành lá ôliu tung hô: Thánh! Thánh! Thánh! Vạn tuế Con Vua Đavít, mà hôm nay Nguời lại cô thân, đơn chiếc trần truồng nhục nhã phơi thân trên thập tự giá. Không một ai chung quanh ủi an, cả đến những môn đệ Người thương yêu thân tín. Không một ai, ngoại trừ hai tên trộm vô danh…
Nhưng như Nguyễn Công Trứ ngày xưa lúc làm quan không cảm thấy vinh và lúc xuống lính trơn không thấy nhục, cuộc sống chúng ta cũng phải như thế. Khi công danh vinh quang ngập trời; khi hạnh phúc tràn đầy; khi vật chất thừa dư: hãy khiêm cung và đừng kênh kiệu. Và khi bất hạnh và những bão tố cuộc đời bủa vây ập đến, hãy thở dài như Chúa đã thở dài -không phải một lần mà những đến hai lần. Nhưng đừng theo ý mình mà hãy một lòng vâng theo ý Chúa.
Rồi ai trong chúng ta mà đã không một lần qụy gối? Ai trong chúng ta mà đã không một lần lạc lối đường về? Như Phêrô chối Thầy mình. Và chìm đắm ngủ say không thể thức và cầu nguyện với Người trước giờ chung cuộc.
Nhưng có cái gì đó trong Phêrô lớn hơn, đáng nói hơn là tội chối Thầy mình. Đó là sự thống hối. Đó là sau lần qụy ngã lịch sử kia, biết can đảm đứng lên hối lỗi quay về. Thật dễ dàng đồng hoá với Phêrô khi chúng ta không thể thức và cầu nguyện cùng Thầy Chí Thánh. Thật dễ cảm thông với Phêrô khi chúng ta chối bỏ Người. Nhưng khó một ai có thể thẩm thấu đuợc sự thay đổi tận gốc rể trong con người Phêrô. Phêrô chối Chúa và Phêrô khóc lóc thảm thiết ăn năn là hai con người hoàn toàn khác biệt. Gà vừa gáy xong, con nguời củ Phêrô đã lột xác, mất và tan biến đi để trở thành con người mới.
Một trong những cảnh thương tâm và có ý nghĩa nhất trong phim “The Passion of Christ”, là cảnh Giuđa treo cổ tự vận và Phêrô khóc lóc thảm thiết. Một người bán Chúa; một người chối Thầy mình. Nhưng cả hai đã phản ứng hoàn toàn trái ngược nhau: Giuđa quẫn trí điên rồ quên đi rằng mình vẫn còn là con cái Chúa, tìm cái chết thảm thương vô nghĩa. Phêrô quay về, chọn Đường, Sự Thật và Sự Sống.
Hoặc như người con hoang đàng. F.W. Norwood đã viết rằng: “Thảm kịch lớn nhất trong đời sống là mất Chúa và không còn nhớ đến Người nữa.” Ở nơi xa thật xa ấy, anh ta đã sống gần như mất Chúa. Nhưng điều cốt lỏi là anh vẫn không quên Người. Anh vẫn hiểu rằng tội lỗi anh, dẫu cho nhiều thật nhiều như trăng-sao-cát-biển, vẫn không thể nào so sánh đươc vơi tình thương vô bến bờ của Thiên Chúa.
Henri Nouwen viết là “một trong những thử thách lớn nhất của đời sống tâm linh là biết nhận sự thứ tha của Chúa.” Nhiều khi phải lên núi cao mới có thể thấy trăng sao, hoa lá. Nhiều khi phải vào rừng già mới có thể nghe được tiếng chim ca. Nếu muốn thấy mùa xuân, thực sự thấy mùa xuân, chúng ta phải sống qua những mùa đông băng tuyết đã.
Và mùa xuân đã đến. Mùa Xuân Phục Sinh. Phục Sinh: hai tiếng nghe thật bình dị nhưng nhân loại, từ ngày Adong và Evà bất tuân lệnh Chúa, đã mong chờ từng phút từng giây. Phục Sinh: vạn vật ươm mầm sống mới. Phục Sinh: Chúa vinh thắng khải hoàn. Phục Sinh: bóng tối đã lùi xa và sự chết không còn muôn đời thống trị.
Chúa đã Phục Sinh! Vinh hiển Phục Sinh! Nhưng vấn đề là chúng ta đã sống tinh thần Phục Sinh. Nói một cách khác, liệu chúng ta đã sống, đã chuẩn bị tâm hồn cho Chúa Phục Sinh vào ngự trị? Hay bóng tối vẫn còn đầy? Và Thần Chết vẫn còn thống trị?
Như có một ông kia tính tình cau có mặt mày nhăn nhó lại thêm nghi ngờ vào mầu nhiệm Phục Sinh. Một đêm kia, ông nằm mơ gặp Chúa, liền hỏi: “Xin Chúa chứng tỏ cho mọi nguời thấy và hiểu việc Chúa sống lại?” Chúa liền đáp lại: “Làm sao ta có thể chừng minh Ta từ cỏi chết sống lại khi khuôn mặt con không phản chiếu ánh sáng và niềm vui Phục Sinh?”
Hay như Anthony de Mello, một linh mục dòng Tên người An Độ, nổi tiếng với nhiều sách chuyên khảo về tâm linh, kể câu chuyện về một con cá nhỏ đang tung tăng bơi lội.
Chợt nhiên, chú hỏi cá mẹ: “Mẹ ơi! Thế đại dương là đâu vậy Mẹ?” Cá mẹ trả lời đại dương là nơi mà chú đang tung tăng bơi lội. “Nhưng đây chỉ là ‘nước’thôi mà,” chú cá bé vùng vằng trả lời, rồi hối hả bơi đi nơi khác tìm kiếm đại dương.
Đôi khi chúng ta đã lãng phí qúa nhiều thời gian về một vài vấn nạn trong đời sống mà câu trả lời, phương thức giải quyết nằm ngay trước mặt chúng ta. Thậm chí, thường khi chúng ta nhìn sự vật nhưng lãng quên đi ý nghĩa đích thực của nó. Như chú cá nhỏ kia bơi đi tìm đại dương mà không thể hiểu rằng đại dương chính là khối nước nó đang bơi sống chung quanh.
Hay như Mai Đệ Liên -người đầu tiên (phụ nữ đầu tiên)- đến ngôi mộ trống nhưng không thể nào hiểu đựợc sự kiện lịch sử mà mình vừa đươc diễm phúc và vinh hạnh chứng kiến. Người thiếu phụ họ Mai đã run rẫy vì sợ hãi: “Người ta đã lấy xác Thầy ra khỏi mồ và tôi không biết xác Thầy để đâu?”
Nghe như thế, cả Phêrô và Gioan, một già một trẻ, chạy ngay đến ngôi mộ trống. Họ hiểu điều Mai Đệ Liên không thể hiểu; thấy được điều Mai Đệ Liên không tài nào thấy: Chúa đã sống lại từ cỏi chết ngay trong ngôi mồ trống…
Nói một cách khác, Mai Đệ Liên, Phêrô và Gioan cùng chứng kiến chung một sự kiện, nhưng cả ba phản ứng khá khác biêt nhau.
Cũng thế, hạnh phúc đời sống chúng ta tùy thuộc cách chúng ta nhìn sự việc. Như hai người lính già nhìn qua khung cửa bệnh viện. Một người chỉ thấy những bức tường trắng lạnh câm. Người kia lại nhìn thấy trăng sao hoa lá. Và còn nghe được cả tiếng chim ca.
Gioan và Phêrô cùng đi đến mồ. Gioan trẻ chạy nhanh hơn còn Phêrô già lập cập bước theo sau. Nhưng có một chi tiết rất quan trọng mà chúng ta không thể bỏ qua: Gioan chạy đến mồ trước, nhưng không vào trong mồ. Nhưng khi Phêrô lom khom đến, ông vào ngay trong.
Gioan trẻ, tượng trưng cho lý trí. Phêrô già, biểu hiện cho đức tin. Chúng ta cần lý trí để củng cố đức tin. Và đức tin để hướng dẫn lý trí. Đức tin và lý trí cần bổ khuyết cho nhau. Như đêm và ngày. Không thể sống đời sống công giáo chân chính bằng những tích lũy của một con người chậm tiến. Ngược lại, không thể sống đời sống văn minh có lý trí tư duy, nếu không có đức tin.
Thế hệ trẻ hôm nay có nhiều rất nhiều cơ hội học hỏi trãi rộng tầm nhìn. Nhưng như Gioan, họ ngập ngừng, ngại ngùng; thậm chí, ngờ vực. Trái lại, những thế hệ trước -lập cập như Phêrô, tuy không được học rộng hiểu nhiều, không thep kịp những kỷ thuật hiện đại tân tiến, nhưng những thế hệ này đã thấy đức tin. Và sống đức tin. Họ đã không một phút giây e ngại, chần chờ.
Họ đến. Họ thấy. Họ tin. Và họ sống.
23. Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết
(‘Bước Theo’ – Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Vâng! Kính thưa quý vị, đây không phải là lời của người ta, mà là Lời của Kinh Thánh. Kinh Thánh là dòng chảy của lịch sử thuộc về Thiên Chúa. Nên chi, dù tin hay không Kinh Thánh vẫn thuộc về Thiên Chúa. Đó là chân lý.
Đây là chóp đỉnh của lịch sử ơn cứu độ và là chóp đỉnh của Đức Tin. Ngôi Mộ trống, cả bốn Tin Mừng đều ghi là “Ngôi Mộ Trống”. Mầu nhiệm Tử Nạn, thì người ta được mục kích rõ ràng, nhưng mầu nhiệm phục sinh thì không ai được nhìn thấy, kể cả các môn đệ. Điều nầy nói lên điều gì, thưa quý vị?
Thưa nói lên rằng: Khi Đức Kitô từ cõi chết sống lại, thì Người không bị lệ thuộc vào bất cứ điều gì thuộc về trần thế. Đồng thời nói rõ, Người là Thiên Chúa Hằng Hữu. Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian, con người và lịch sử, không một thế lực nào không chế được Người. Nói lên, phần Thiên tính của Người là vô biên. Chúng ta thấy biên giới giữa cái chết và sự sống thật gần gũi đối với mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tam Nhật Tuần Thánh là giai đoạn đau khổ tột đỉnh của mầu nhiệm Vượt Qua, đưa Con Người vào cái chết bi thương. Có thể nói, không ai là không hãi hùng đối với cuộc Tử Nạn của Đấng Cứu Thế, một người bình thường không thể chịu đựng nỗi sự đau khổ cùng cực và thể xác đau đớn đến khiếp đảm như cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu. Sự cứu chuộc của Người vượt quá sự chịu đựng của một con người. Vì vậy có thể nói dù Đấng Cứu Thế chịu đựng bởi phần nhân tính của Người, nhưng trong kế hoạch muôn đời của Thiên Chúa, Người mới có thể hoàn tất.
Biết bao cuộc suy niệm, biết bao lời dẫn chứng, cùng biết bao sách vở nói về cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu, nhưng không ai có thể cảm nghiệm hoàn toàn đủ về cuộc khổ nạn của Người, nhất là trong những giây phút hoàn toàn bi thương nhất.
Vì vậy, để đối nghịch lại với cuộc thương khó, sự Phục Sinh của Người hoàn toàn là một mầu nhiệm của sự chiến thắng, hai mầu nhiệm của cùng một Đấng Cứu Thế, nhưng hoàn toàn phản diện nhau. Như vậy giá trị của đau khổ không phải là đau khổ mà là vượt qua đau khổ. Hiển nhiên bên kia của đau khổ là vinh quang, nhưng sự đau khổ của Con Thiên Chúa là sự đau khổ vinh quang, giá trị đau khồ mà Chúa Giêsu đã thực hiện là giá trị của Hy Lễ dâng lên Thiên Chúa Cha khác với giá trị đau khổ của phàm nhân. Vì vậy, người mang đau khổ vì Hy lễ thì khác với người mang đau khổ không có giá trị hy lễ.Như vậy, con người thì phải chết, nhưng Con Thiên Chúa thì Phục Sinh. Đó là niềm tin và hy vọng tuyệt đối cho những ai được xưng danh Kitô hữu đến giây phút cuối cùng.
Đoạn Tinh Mừng (Ga 20,1-9) hôm nay, cũng như (Lc 24,1-12), hay (Mc 16,1-8), ( Mt 28,1-8) tường thuật cùng một sự kiện là “Mồ Trống”. Như vậy, sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chỉ cho thấy là mồ trống. Còn những yếu tố khác hiển nhiên là không ai thấy được. Điều nầy có nghĩa là khi đã hoàn tất cuộc khổ nạn. Con Thiên Chúa không còn giới hạn trong nhân tính của Người, cũng như mầu nhiệm Phục Sinh không mặc khải như mầu nhiệm Tử Nạn. Chúa Giêsu không còn là Người, nghĩa là nhân tính của Người bây giờ là siêu nhiên trong sự Hữu Hình. Phần nhân tính đã ở lại trong Phép Thánh Thể mà Người đã thiết lập ngày thứ năm Tuần Thánh. Như vậy, sự Phục Sinh của Chúa Giêsu là sự kiện mồ trống, không dừng lại ở yếu tố nầy, mà là hàng loạt cuộc hiện ra với các môn đệ, mà đặc biệt chỉ có Thánh Luca ghi lại “trên đường Emau” (Lc 24, 13-35). Còn thánh Gioan thì ghi lại ba lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, sau khi Người từ cõi chết trỗi dậy. Rõ ràng sự kiện Phục Sinh không dừng lại ở đoạn Tin Mừng hôm nay, mà liên kết những lần hiện ra sau Phục Sinh, vì vậy, Lễ Phục Sinh không phải chỉ Mừng Kính Trọng Thể một ngày, mà là Lễ Phục Sinh với tuần Bát Nhật Phục Sinh, và một mùa Phục Sinh.
Vì thế, với niềm hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể vũ trụ đều nhảy mừng, đồng thời cả Triều Thần Thiên Quốc cùng nhau chúc tụng tung hô rằng: Thánh! Thánh! Thánh!
Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, Chúa đã sống lại thật! Alleluja! Người đã sống lại thật như Lời đã phán hứa. Alleluja! Xin cầu cùng Chúa cho chúng con. Alleluja!
24. Niềm vui thay đổi lòng người
Người ta thường nói: "Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ". Niềm vui sẽ làm cho con ng ười người ta phấn khởi và sống lạc quan hơn. Hơn nữa, niềm vui còn có sức làm thay đổi lòng người. Chúng ta đã qua Mùa chay của năm Phụng vụ 2008 và chúng ta đang cùng với Giáo hội bước sang mùa Phụng vụ mới - mùa Phục sinh. Đây là mùa vui nhất trong cả năm Phụng vụ. Vui mừng vì Đấng Cứu Chuộc chúng ta thật sự đã sống lại. Vui mừng vì Thầy của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vui mừng vì ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được sống lại vinh quang như Chúa của mình.
Như chúng ta đã từng học trong giáo lý có hai dấu hiệu chứng tỏ Chúa Giêsu đã thật sự sống lại: một là ngôi mộ trống với khăn liệm xếp ngay ngắn; hai là Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với nhiều người. Chẳng hạn như với Phêrô, Gioan hay như với Mađalêna.
Có một dấu hiệu khác mà có lẽ chúng ta ít để ý nhưng lại hết sức quan trọng. Đó là sự thay đổi thái độ của các Tông đồ. Như chúng ta biết khi Chúa Giêsu bị bắt thì các Tông đồ như rắn mất đầu. Các ông chỉ còn biết trốn vào phòng đóng kín cửa mà không dám ra ngoài. Chỉ có Gioan là theo Chúa Giêsu tới cùng. Phêrô chạy theo nhưng khi bị người ta hỏi thì đã vội chối leo lẻo đến 3 lần. Còn các Tông đồ khác thì chẳng ai dám theo. Thế nhưng, Tin mừng phục sinh đã làm thay đổi hẳn thái độ của các ông. Từ những người nhút nhát sợ sệt chuyển sang can đảm, hăng hái đi rao giảng Tin mừng Chúa Giêsu phục sinh.
Tâm lý thông thường khi có niềm vui thì chúng ta khó mà giữ riêng được cho mình. Chúng ta phải tìm mọi cách để cho nhiều người biết càng tốt. Bởi lẽ, "niềm vui chia sẻ thì nhân đôi còn nổi buồn chia sẻ thì vơi đi một nửa ". Các Tông đồ cũng thế, với Tin mừng phục sinh - một Tin mừng trọng đại các ông không thể ở mãi trong phòng được. Giờ đây các ông đã mạnh dạn mở toang cửa và chia mỗi người một ngã đi loan Tin mừng Chúa Giêsu phục sinh.
Qua Mùa Chay, Chúa và Giáo hội đã cho chúng ta nhìn ra được con người thật của mình: là một thụ tạo yếu đuối không hơn không kém. Dầu vậy chúng ta được chính Đấng Tạo Hóa yêu thương là dường nào. Bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta cảm thấy vui mừng. Lại nữa Chúa Giêsu còn hứa: "Thầy đi dọn chỗ cho các con" (Ga 14, 3). Cho nên, nếu nh ư Chúa của chúng ta đã phục sinh vinh hiển thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ được phục sinh như Người. Đó là niềm tin của người mỗi người tín hữu chúng ta. Là những người tín hữu, chúng ta hãy sống như thế nào để mọi người xung quanh nhận thấy được đạo của chúng ta thật sự là đạo của niềm vui. Một gương mặt nhăn nhó, một lời nói xúc phạm đến danh dự của người khác hay một cử chỉ lừa dối chắc không thể loan báo Tin mừng phục sinh được.
Trong gia đình vợ chồng con cái biết hy sinh, đùm bọc, tha thứ và nhường nhịn nhau.
Trong cùng lối xóm biết chia sẻ và giúp đỡ nhau. Bởi lẽ "Bà con xa không bằng láng giềng gần".
Trong cùng họ đạo sống đoàn kết và lắng nghe nhau.
Khi sống tốt như vậy là chúng ta đang tuyên xưng niềm tin của mình cũng như đang loan báo Tin mừng Phục sinh.
Nguyện xin niềm vui phục sinh luôn ở mãi với gia đình cũng như từng người chúng ta.
25. Suy niệm của Lm Gioan Phan Văn Định
Niềm tin Phục Sinh là vấn đề cốt lõi của giáo lý Kitô giáo, như Thánh Phaolô đã tuyên xưng trong thư gửi tín hữu Côrintô: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hảo huyền” (1Cr. 15, 17).
Tuy nhiên, có một sự khác biệt giữa Tin Mừng Luca và Gioan liên quan đến sự kiện Chúa Giêsu Phục Sinh. Hình như vì yêu mến các bà hơn, nên Thánh Luca đã kể rằng: sau khi được Thiên Thần hướng dẫn, các bà đã tin; nhưng khi các bà báo lại cho các Tông Đồ, các ông cho đó là chuyện vớ vẩn (x. Lc. 24, 1-11). Ngược lại, có vẻ vì bênh vực các Tông Đồ hơn, nên Thánh Gioan lại nói rằng: các bà chưa tin và tưởng rằng xác của Chúa đã bị ăn cắp; nhưng khi đến nơi, Gioan liền tin rằng Chúa đã Phục Sinh (x. Ga. 20, 1-10).
Ngày nay người ta vẫn còn nói đến ba lý thuyết khác nhau xoay quanh việc Chúa Phục Sinh: Xác của Ông Giêsu đã bị ăn cắp; Ông Giêsu chết giả, các môn đệ giải cứu và đưa sang Ấn Độ; Chúa Phục Sinh thực sự. Đâu là sự thật cho những vấn nạn này?
Thực ra, mầu nhiệm đức tin không thể giải thích hoàn toàn bằng những luận chứng khoa học. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan muốn trình bày về niềm tin của chính mình – người môn đệ Chúa yêu, sau khi đã nghiền ngẫm và rao giảng trong suốt thời gian dài, hơn là cố ý trình bày sự kiện lịch sử. Thánh Gioan trình bày ba phản ứng khác nhau của con người về niềm tin Phục Sinh:
- Các bà đi đến cửa mộ nhưng không vào trong, không quan sát, không đặt vấn đề và suy nghĩ về sự kiện. Các bà kết luận theo cái nhìn khả giác rằng xác của Chúa đã bị ăn cắp. Dường như các bà suy nghĩ cách đơn sơ, hời hợt, và ý tưởng Chúa Phục Sinh chưa hiện diện nơi tâm trí các bà.
- Phêrô vào trong ngôi mộ, quan sát những băng vải và khăn che đầu của Chúa, nhưng không kết luận điều gì. Ngài suy nghĩ bằng lý trí, không đưa ra kết luận Chúa có Phục Sinh hay không.
- Thánh Gioan yêu mến Chúa nhiều, và có lẽ nhờ sức trẻ, ông đã chạy nhanh hơn. Ông cúi xuống để suy nghĩ, chiêm ngắm sự kiện và ông đã tin. Thánh Gioan không dừng lại ở cái nhìn khả giác hay lý trí, nhưng còn chiêm ngắm bằng tình yêu. Tình yêu giúp ngài nhớ lại và tin những điều Chúa đã báo loan báo.
Con người thời đại thường có tham vọng tìm bằng chứng Phục Sinh bằng giác quan hay lý trí. Nhưng làm sao ta có thể đóng khung cái vô hạn vào cái hữu hạn. Vì thế, mầu nhiệm Phục Sinh là kho tàng vô tận để con người khám phá và kín múc. Chìa khoá bước vào mầu nhiệm là tình yêu và kinh nghiệm gắn bó với Chúa mang tính cá vị, như thánh Gioan Tông Đồ.
Những băng vải vẫn còn đó, nhưng được xếp lại gọn gàng. Dấu vết của cái ác vẫn còn hiện diện, nhưng việc sống gắn bó với Chúa Phục Sinh sẽ giúp ta sắp xếp lại những khúc mắc hỗn độn của cuộc sống.
Ngôi mộ là biểu tượng của sự dữ, chết chóc và đau buồn. Chúa Giêsu Phục Sinh mở toang cửa mộ, giải thoát con người khỏi sự kìm hãm của sự dữ, mở ra thời đại mới, thời đại của hy vọng và chiến thắng. Niềm tin Phục Sinh cho phép ta có đủ lý do để hy vọng về sự chiến thắng những cơn giống tố của cuộc đời.
Là người Kitô hữu, chúng ta không đặt vấn đề lịch sử tính cho bằng nhận ra sự điệp Phục Sinh. Nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi người thường tồn tại những nấm mộ bất khả xâm phạm. Nấm mộ ấy chôn cất nhiều nút thắt khó sắp xếp và tháo cởi như: đau buồn về những yếu kém của bản thân, những cố gắng không được như ý, những khốn khó vùi dập liên hồi, và sự giằng co giữa ý Chúa và ý mình. Ta phản ứng thế nào với nấm mộ của mình: thất vọng, sợ hãi và không dám nghĩ đến; tự mình suy nghĩ tìm cách giải quyết; hay để Chúa cùng song hành, phó thác, vui lòng đón nhận và sống trong hy vọng để thánh ý Chúa được thực hiện nơi bản thân?
Đến đây, ta có thể viết tiếp lời tuyên xưng của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô: “Bao lâu hy vọng Phục Sinh chưa tác động trên cuộc đời, thì việc giữ đạo cũng sẽ trống rỗng.”
26. Vì yêu
Tôi muốn nhìn toàn bộ biến cố Phục sinh trong khía cạnh tình yêu để thấy được rằng, kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa là một kế hoạch của tình yêu từ khởi sự cho đến hoàn thành.
Trong Tin mừng thứ 4, Thánh Gioan tông đồ đã viết như sau: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (Ga 3,16-17). Như vậy, chúng ta thấy được rằng mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể từ Giáng sinh cho đến chịu nạn chịu chết và Phục sinh là một chu trình khép kín của tình yêu. Chúa Cha yêu thế gian nên sai Con của mình xuống nhằm cứu chuộc thế gian. Rồi đến lượt mình, Đức Giêsu đã hoàn thành mọi sự theo ý Chúa Cha cũng vì tình yêu: Yêu mến Chúa Cha và yêu thương con người. Và kế hoạch yêu thương ấy sẽ còn tiếp diễn cho đến ngày tận thế.
Trong biến cố tử nạn của Đức Giêsu, rất nhiều người trong chúng ta hiểu cách sai lệch về Chúa Cha. Chúng ta nghĩ rằng: Thiên Chúa Cha là một bạo chúa khi bắt con của mình khi bắt con của mình đi vào con đường chết và chết một cách thê thảm như thế. Chúng ta có thể có quan niệm như thế là vì những từ ngữ được dùng trong thần học và Giáo lý như: giá chuộc, cứu chuộc, chuộc tội... Những từ ngữ ấy rất có thể làm chúng ta nghĩ sai lệch về Thiên Chúa Cha, bóp méo hình ảnh và khuôn mặt của Chúa Cha trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô. Nhưng thật ra, toàn bộ kế hoạch cứu chuộc con người là một kế hoạch của tình yêu. Trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, thì Chúa Cha là Tình yêu đóng đinh, còn Chúa Giêsu Kitô là Tình yêu bị đóng đinh. Chúa Cha không hề bỏ rơi Con của mình, cũng không bao giờ muốn Con của mình phải chết cách nhục nhã và đau đớn đến tột cùng như thế mới hả giận, mới tha thứ tội lỗi cho con người. Nhưng tất cả chỉ vì tình yêu dành cho con người mà thôi: "Thiên Chúa yêu thế gian"Trong vụ án Đức Giêsu và nhất là trên đỉnh đồi Calvê, hình như xung quanh Ngài chỉ toàn những kẻ chống đối, kết án và muốn loại trừ Ngài mà thôi. Còn những gương mặt yêu mến Ngài, những người kề vai sát cách với Ngài hầu như im hơi lặng tiếng. Trong giờ phút não nề và ô nhục đó, hình như tội ác đã chiến thắng, sự dữ đã lên ngôi và đè bẹp sự thiện. Vì thế, Đức Giêsu cảm thấy cô đơn tột cùng và Ngài có cảm tưởng như chính Chúa Cha cũng đã lìa bỏ Ngài nữa: "Lạy Cha, cả Cha cũng bỏ con sao?". Nhưng sau những giây phút kinh hoàng ấy, sau những giây phút lên ngôi tạm thời ấy, tội ác, sự dữ và tử thần bị đánh bại. Tình yêu sau những phút giây tạm thời mờ nhạt ấy giờ đã toả sáng. Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần và đã Phục sinh khải hoàn vinh hiển! Tình yêu lên ngôi đã kéo theo những ai từng yêu và được yêu bắt đầu xuất hiện.
Trước hết là một gương mặt quen thuộc đã được Tình Yêu cứu vớt là Maria Mađalêna. Người phụ nữ này đã được tình yêu của Chúa bao bọc cách đặc biệt nên tâm hồn của bà luôn hướng về Chúa. Và chính tình yêu đã thôi thúc bà lên đường, ra đi viếng mộ Chúa từ lúc sáng sớm khi trời còn tối. Rồi khi nhận ra sự việc bất thường, tình yêu đã khiến đôi chân bà chạy thật nhanh "Xăm xăm quay gót băng đồng" để về báo tin cho 2 môn đệ là Simon Phêrô và Gioan.
Kế đến là Phêrô và Gioan, hai người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến cách riêng. Tình yêu Chúa Giêsu nơi các ông đã khiến cho những bước chân của mình như nhanh hơn trong lúc chạy đến mộ Chúa. Gioan chạy nhanh hơn có lẽ vì ông còn trẻ hơn Phêrô, nhưng chắc chắn là ông được động lực của tình yêu thúc đấy nữa. Rồi cũng vì tình yêu sâu đậm với Thầy Giêsu nơi ông, ông đã tin vào lời Chúa Giêsu đã nói: "Sau 3 ngày, Thầy sẽ sống lại". Tình yêu đã khiến cho mắt tâm hồn ông sáng hơn để nhận ra sự thật và hết lòng tin tưởng vào sự Phục sinh của Thầy mình.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng là những con người được Thiên Chúa yêu thương, là "con yêu quí của Chúa Cha", chúng ta có bừng sáng niềm tin và hy vọng trong biến cố Phục sinh huy hoàng của Đức Giêsu Kitô hay không? Nếu chỉ xét về lý mà thôi hay đòi hỏi những bằng chứng cụ thể theo kiểu của Tôma ngày xưa, thì có lẽ chúng ta trở thành những kẻ dửng dưng với biến cố Đức Giêsu Kitô Phục sinh. Nhưng nếu chúng ta có niềm tin và lòng yêu mến nơi Ngài, thì mắt tâm hồn của chúng ta sẽ sáng lên và sẽ nhận được niềm vui Phục sinh đang tràn lan trong tâm hồn chúng ta cũng như nơi toàn thể vũ trụ này nữa.
Chúa đã Phục sinh là sự thật. Các tông đồ và những môn đệ được Chúa yêu đã minh chứng cho chúng ta sự thật ấy. Thật ra, nếu chúng ta là những kẻ mạnh tin, thì chẳng cần gì đến những chứng cứ theo kiểu thế gian nữa, chỉ cần tin vào Lời Chúa là đủ. Ước gì sự thật "Chúa Phục sinh" luôn là động lực giúp ta hoàn thành cuộc đời cách ý nghĩa và tích cực nhất. Ước gì sự thật ấy sẽ giải thoát chúng ta. Ước gì chúng ta là những kẻ được Chúa yêu cách đặc biệt luôn nhận ra Chúa Giêsu Phục sinh đang sống động trong cuộc đời của mình qua mọi biến cố hằng ngày. Amen.
27. Mừng Vui Lên
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Đêm Vọng Phục Sinh (Mt 28, 1-10)
“Mừng vui lên”, đó là lời đầu tiên khi công bố Tin Mừng Phục Sinh. Hỡi chư thần chư thánh, hỡi khắp miền dương thế, hỡi Hội Thánh mẹ hiền, mừng vui lên vì Chúa đã sống lại.
Đêm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm cao cả, mầu nhiệm nền tảng đức tin và niềm hy vọng của người kitô hữu. Chúa Giêsu Nagiarét, Đấng chịu đóng đinh đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ đúng như lời Kinh Thánh. Lời của Thiên Thần mặt sáng như chớp, áo trắng như tuyết, ngồi trên tảng đá cửa mộ cất lên lời bảo mấy người phụ nữ đến thăm mộ vừa tảng sáng, lúc đất chuyển động, đá lăn ra, chúng ta nghe lại trong đêm nay với niềm vui tuôn trào xúc động trong khi các bà khiếp sợ: “Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không còn ở đây vì người đã sống lại” (Mt 28, 5-6). Vâng Người đã sống lại rồi.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ vào giây phút đó: những tâm tình ưu buồn và chán nản vì Chúa đã chết, sợ hãi vì kinh thiên động địa, những tâm tình không tin và kinh ngạc vì sự việc quá bất ngờ để có thể tin lời Thiên Thần rằng Chúa đã sống lại.
Chúa Kitô đã đã sống lại sang láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế Thiên Thần từ trời cao xuống đã tuyên bố: “Người không còn ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói”(Mt 28, 5-6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết, “sự chết vô phương cầm hãm được Người” (Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại được Đấng Hằng Sống là “Alpha và Ômêga”(Kh 1,8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.
“Mừng vui lên”, lời này được lặp đi lặp lại. Quả thật, sao không thể không vui, vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa (x. Exsultet).
Đêm nay là đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và nối kết con người trần thế với nhau (x. Exsultet). Còn hạnh phúc nào, còn hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang, Người mang lại cho chúng ta những ơn lớn lao như thế.
Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh đã được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng cho Chúa Kitô là Ánh Sáng đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sáng chiến thắng bóng đêm tội lỗi và sự dữ (x. Exsultet).
Phần chúng ta, nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta. Tiên Tri Ezechiel đã loan báo trước điều này như sau: “Đây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ezechiel 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Đấng Tạo Hóa.
Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ và sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.
Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên… hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui vên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô… Đấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân lọai, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.
28. Suy niệm của Lm Andre Bé
Hoàng tử của một vương quốc giàu có, đem lòng yêu thương một cô gái đẹp, con một người làm bánh mì. Tuy bị hoàng gia phản đối, nhưng hoàng tử nhất mực cưới nàng làm vợ. Lễ thành hôn được tổ chức rất kín đáo và đơn giản trong đền vua, không có chư khách vị vọng nào, cũng không có đại diện các nước lân cận.
Nhiều năm trôi qua, hoàng tử và cô gái đẹp sống những ngày rất êm đềm hạnh phúc. Đến ngày vua băng hà, hoàng tử được lên ngôi thay vua cha cai trị dân nước. Bấy giờ, các quan cận thần triều đình mới cho hoàng tử biết, vì hạnh phúc của dân nước, ngài phải chọn một trong hai điều: hoặc là từ khước ngai vàng, hoặc là phải bỏ người vợ đẹp để chính thức thành hôn với công chúa của nước láng giềng.
Hoàng tử phân vân do dự giữa hạnh phúc cá nhân và an ninh trật tự của cả dân tộc. Trong khi đó các quan cận thần thuyết phục hoàng tử rằng cô vợ đẹp ấy cũng chỉ là cô con gái nhà nghèo.
Cuối cùng hoàng tử xiêu lòng và phải ngậm ngùi tâm sự với vợ: "vì an bình và hạnh phúc của cả dân nước, anh đành phải từ bỏ em, em hãy trở về gia đình cha mẹ em, và có thể đem theo cái gì quí giá nhất đối với em".
Tối hôm ấy, hoàng tử và người vợ đẹp dùng bữa tối cuối cùng tại hoàng cung. Bữa cơm chia ly thật buồn thảm, hoàng tử ăn trong nước mắt, lòng buồn rười rượi không nói nên lời. Tuy nhiên, người vợ vẫn thản nhiên chuốc rượu cho chồng, cạn ly này rồi lại đầy ly khác, trong khi hoàng tử lại cố uống cho quên sầu.
Sau bữa ăn thì hoàng tử say mê mệt không còn biết gì nữa. Lúc ấy nàng mới lấy cái mền chùm kín hoàng tử, rồi vác lên vai, kín đáo đi lối sau, ra khỏi hoàng cung, đi về nhà cha mẹ.
Sáng hôm sau, khi đã tỉnh rượu, hoàng tử mở mắt ra thấy mình đang ở trong căn nhà nghèo nàn của người làm bánh mì. Hoàng tử ngạc nhiên hỏi: "Làm sao thế này? Anh đang ở đâu đây?"
Cô vợ mỉm cười đáp: "Không phải là anh đã nói với em là phải trở về nhà cha mẹ và có thể đem theo cái gì quí nhất đối với em sao? Mà điều quí nhất đối với em không còn cái gì khác hơn là chính anh, hoàng đế của lòng em".
Anh chị em thân mến,
Nếu bỗng dưng chúng ta phải chỗi dậy ra đi, phải lên đường mà không hẹn ngày trở về, chúng ta phải đem theo cái gì? Cái gì là bảo vật quí giá nhất đối với chúng ta?
Xét cho cùng, đời sống con người là cuộc hành trình tiến về đích điểm, không có ngày trở lại, cũng không thể nào đi ngược thời gian về lại điểm khởi hành. Đã sinh ra trên đời là phải lên đường, là lữ hành. Dầu muốn dầu không, mỗi ngày trong đời sống là một bước tiến gần đến sự chết.
Sống, chúng ta không biết sẽ đi về đâu, tương lai sẽ thế nào, chết là điều ai cũng có thể biết chắc, tuy không biết chết ngày nào, ở đâu, chết thế nào và cái gì đang đợi ta bên kia sự chết.
Đối với người không có niềm tin, cái chết là vực sâu đêm tối, là con đường cụt. Còn người tín hữu Kitô đặt nền tảng niềm tin của họ trên mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu. Nếu Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết và sống lại khải hoàn thì mầu nhiệm sự chết không còn là vực thẳm tối tăm, không còn là đường cụt đầy thất vọng nữa.
Với niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh, cái chết là ngưỡng cửa bước vào sự sống thật, là tiến vào con đường sáng, là bắt đầu cuộc sống mới bất diệt. Ở bên kia sự chết, mỗi người chúng ta chỉ gặt hái được những gì đã gieo vãi trên trần gian này: ai gieo gió sẽ gặt bảo, ai gieo yêu thương sẽ gặt được hạnh phúc. Thánh Phaolô đã nói trong thư gửi tín hữu Galata như sau: "Người ta gieo gì sẽ gặt thứ ấy, gieo xác thịt sẽ gặt hư hỏng bởi xác thịt, ai gieo yêu thương sẽ gặt sự sống vĩnh cửu bởi yêu thương".
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết đặt trọn niềm tin vào Chúa Phục Sinh, cho chúng con biết gieo vãi yêu thương trên mọi nẻo đường chúng con đi, để sau này chúng con sẽ gặt hái được hoa trái không bao giờ tàn là chính Chúa, vì Chúa là Tình Yêu, là kho tàng quí giá nhất của đời chúng con. Amen.
29. Mồ rỗng
Con người chúng ta thường khởi sự bằng cái có chẳng hạn: có quyền, có tiền, có tài thì mới làm nên chuyện. Còn Thiên Chúa thì khác, Ngài thường khởi sự bằng cái không.
Sách Sáng Thế Ký đã cho thấy thuở ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên mọi sự từ hư không. Còn hôm nay Ngài bắt đầu tái tạo con người chúng ta từ một ngôi mộ rỗng. Nếu như vào cái ngày thứ nhất trong tuần mà mấy người phụ nữ ra mộ và thấy mọi sự vẫn còn y nguyên nghĩa là còn có cả xác Chúa Giêsu nằm trong đó, thì chúng ta chẳng có gì để nói bởi vì nếu xác Chúa Giêsu vẫn còn đó thì sẽ chẳng có Tin Mừng Phục Sinh và đức tin của chúng ta.
Lúc bấy giờ Philtô, các thượng tế và luật sĩ có lẽ đang ngủ say, nhất là những người đứng đầu dân Do Thái, họ lại còn sung sướng vì đã loại khỏi vòng chiến tên địch thù nguy hại. Cái tên Giêsu rồi sẽ bị lãng quên, chẳng còn ai nhớ tới. Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ. Tên Giêsu đã bị chôn vùi trong lòng đất và chết là hết chuyện. Còn đối với những người vẫn thương mến Chúa thì mọi sự cũng được kể như là đã chấm dứt. Không còn gì ngoài một kỷ niệm xót xa. Niềm hy vọng đã tắt ngấm. Mấy chị em phụ nữ có ra mộ thì cũng chỉ để ướp lại một cái xác không hồn, chưa kịp thối rữa.
Thế nhưng, họ đã đối diện với một ngôi mộ trống. Và cây chuyện bắt đầu từ đó. Trước ngôi mộ trống, họ nghĩ ngay đến chuyện mất xác Chúa, thế là họ vội chạy về báo tin cho các tông đồ. Phêrô và Gioan liền chạy ra xem. Bước vào ngôi mộ trống, Phêrô chẳng hiểu gì, chỉ có Gioan, người môn đệ được Chúa yêu thương đã nhận ra những dấu chỉ của mầu nhiệm phục sinh và ông đã tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại.
Ngày nay chúng ta cũng đang đứng trước ngôi mộ trống và cả thế giới này chính là ngôi mộ trống ấy. Người ta đã giết Chúa, đã loại Người ra khỏi xã hội và người ta vui mừng vì nghĩ rằng Chúa không còn nữa. Và những người tin yêu Chúa cũng xót xa đi tìm Chúa, nhưng có lẽ họ cũng chỉ biết đến ngôi mộ trống với hy vọng tìm thấy xác Chúa Giêsu. Họ muốn tin yêu một cái gì cụ thể, phải sờ mó được. Một Thiên Chúa bằng gỗ đá cũng được còn hơn là không có gì. Có những người bán tín bán nghi như Phêrô. Có những người vốn cứng lòng như Tôma và cũng có cả những người rã ngũ trở về làm ăn như hai môn đệ trên đường Emmau.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta sẽ tìm gặp Người ở đâu và chúng ta sẽ giới thiệu Người như thế nào? Dĩ nhiên chúng ta không muốn giới thiệu cho người khác cái xác của Người, cho dù cái xác ấy mang tên gọi là Giêsu. Trước mặt chúng ta chỉ là một ngôi mộ trống, không có Chúa ở trong đó, bởi vì Người đã sống lại. Chính vì lo sợ cái không, chẳng hạn như không có Chúa để mà giới thiệu cho người khác, nên chúng ta đã cố gắng tạo ra những cái xác của Chúa để mà giới thiệu. Cái xác ấy có thể là những ảnh tượng đủ loại đủ cỡ. Cái xác ấy có thể là những bài giáo lý khô khan, những trang thần học cao siêu. Cái xác ấy có thể là đời sống phụng vụ hình thức và máy móc, hay là đời sống đạo đức chỉ có cái vỏ bên ngoài. Ngày nay, nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô phục sinh chúng ta cũng phải khởi đầu từ cái không, từ ngôi mộ rỗng như các tông đồ ngày xưa. Có nghĩa là chúng ta phải trở về với đời sống trong sạch và nghèo khó.
30. Đền đáp ân tình - Mt. 28, 1-10.
Anh chị em thân mến.
Tác giả Khái Hưng, một nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, có để lại cho chúng ta tác phẩm mang tên "Anh Phải Sống". Trong tác phẩm có kể lại câu chuyện của đôi vợ chồng nghèo ở ven sông, họ có một chiếc xuồng nhỏ, hằng ngày đi vớt củi trên dòng sông. Một hôm cũng với công việc hằng ngày như thế; hai người đang cùng với chiếc xuồng trên sông, thì mây đen kéo đến thật nhanh. Dòng nước trước đây hiền lành, giờ đây giống như con thú dữ nhìn thấy con mồi, cứ chồm lên. Chiếc xuồng nhỏ không thể chịu đựng được những cú nhảy của cơn sóng dữ, nó hất tung hai người xuống nước. Người chồng cố tìm kiếm và gặp được vợ; anh bảo vợ cố bám vào anh để tìm đường vào bờ. Với dòng nước chảy mạnh, những hạt mưa từ trên đổ xuống, thêm những cơn gió mạnh rít từng cơn làm cho dòng nước thêm giận dữ, gây khó khăn cho cuộc đua vào bờ của hai người. Người vợ chợt nhớ đến đứa con thơ, còn đang nhờ người trông chừng: không biết nó sẽ ra sao khi cả hai không vào bờ được. Nghĩ thế, nàng từ từ buông lơi bàn tay ra. Người chồng đang mệt nhoài vì chống chọi với giòng nước miệng cứ la lớn: cố lên, bám chặc vào... cố lên bám chặc vào. Bỗng nhiên anh cảm thấy như tăng thêm sức mạnh, anh bơi nhanh hơn, anh cố bơi và tìm đến bờ sông an toàn. Bỗng anh chợt nhận ra, thì người vợ thân yêu không còn bên cạnh anh nữa. Anh đi dọc theo bờ sông, nhưng không còn nhìn thấy gì nữa.
Đứa con sau này sẽ nghĩ gì, khi biết được câu chuyện yêu thương như thế? Chắc nó sẽ cố gắng sống cho thật xứng đáng, để không làm cho cái chết của người mẹ trở nên vô ích.
Chúng ta đang mừng Chúa Phục Sinh. Nhưng tại sao lại Phục Sinh. Thưa vì Ngài đã chết nên mới Phục Sinh. Tại sao lại phải chết? Thưa Ngài phải chết vì những cơn giận dữ không biết kiềm chế của con người. Ngài chết vì sự phản bội của con người, vì họ không biết tôn trọng nhau. Ngài chết vì con người hèn nhát không dám bênh vực cho công lý, lo sợ mất đi những quyền lợi, sợ mất đi những gì mình đang có. Ngài còn chết vì con người quá hờ hững, không nhận ra Ngài đang kêu mời họ đến với Ngài. Chết vì yêu thương.
Thật thế Ngài chết vì những người mà Ngài yêu thương, Ngài chết để cho họ được sống. Nhưng Ngài không để họ sống cô đơn, nên Ngài đã sống lại, để mang sự sống bất diệt đến cho họ.
Tất cả chúng ta đang sống vì Con Thiên Chúa đã chết thay cho chúng ta, chúng ta đang sống trong sự sống mới của Ngài. Nhưng những cơn giận dữ vẫn còn mãi và đang hoạt động mạnh mẽ trong mỗi người. Mỗi lần phạm tội là mỗi lần phản bội tình yêu của Đấng đã yêu thương và chết vì chúng ta. Chúng ta vẫn cứ yên lặng trong sự hèn nhát của mình vì biết bao nỗi lo sợ ám ảnh cuộc sống. Còn nữa, sự ích kỷ chỉ nhìn thấy và chỉ biết có chính mình, làm cho chúng ta hờ hững với những người chung quanh, hờ hững với bao tiếng kêu than trách phiền. Như vậy chúng ta vẫn muốn cho cái chết của Đấng yêu thương chúng ta trở nên vô giá trị sao? Đứa con trong tác phẩm Anh Phải Sống của Khải Hưng có làm như thế không?. Chúng ta cũng phải sống sao cho xứng đáng với những gì mình nhận được.
Trong đời sống hằng ngày, có lúc nào đó chúng ta nhận được sự vui mừng, như những người phụ nữ nhận ra Chúa Giêsu và được lệnh truyền đi loan báo tin vui mừng cho người khác; nếu sự hiện diện của chúng ta là một niềm vui cho người khác thì hạnh phúc cho chúng ta biết dường nào, hoặc những lời nói, những việc làm của chúng ta đem lại niềm vui cho người khác, thì lúc đó, chúng ta đang thực hiện lời Chúa Giêsu đi loan báo Tin Mừng cho người khác. Nếu trong đời sống chúng ta cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, để biết đem tình yêu đó đến với mọi người; nếu chúng ta nhìn thấy được những người cần giúp đỡ và không ngần ngại, cho đi một chút thời gian, một chút tiền bạc, một chút gì mình có mà người kia đang cần. Nếu chúng ta biết dừng lại những lời nói không hay, mà nói lên những lời động viên an ủi để làm cho người trước mặt có thêm sức sống. Đó là chúng ta đang mang tình yêu thương của Đấng yêu thương chúng ta đến cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đang sống sự sống mới của Đấng Phục Sinh.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết sống niềm vui Phục sinh và mang niềm vui đến cho mọi người.
31. Trên con đường mòn của kiếp nhân sinh
(Lm Giuse Trương Đình Hiền)
Hôm nay các tờ lịch trên thế giới đều đồng thanh gọi tên: NGÀY CHÚA NHẬT, Ngày mà cách đây hơn 2000 năm trước, khi Kitô giáo chưa xuất hiện trong thế giới nầy thì người ta vẫn gọi tên là "Ngày Thứ Nhất" hay "Ngày Mặt Trời" (Sunday). Tuy nhiên, kể từ cái buổi sáng Tinh mơ "Ngày Thứ Nhất trong tuần", khi các phụ nữ thân quen của Thầy Giêsu đến thăm mộ Thầy chỉ thấy "Mồ Trống", các thiên thần báo tin Thầy đã sống lại...Rồi các "ngày thứ nhất tiếp sau", Đức Kitô phục sinh đã hiện đến gặp các môn sinh... Cứ như thế, cuộc gặp gỡ của các kitô hữu ban đầu diển ra đều đặn vào "ngày thứ nhất trong tuần" và họ đã gọi ngày của cuộc họp mặt đặc biệt đó là "Ngày của Chúa". Kể từ đó "Ngày của Chúa", hay Chúa Nhật đã đi vào nhịp thời gian, đã hằn sâu trong lịch sử và cuộc sống của loài người....
1. Phục sinh: Chân lý đến từ cuộc gặp gỡ.
Như vậy, có thể nói ở nơi cội nguồn của Kitô giáo, ở điểm xuất phát của niềm tin Kitô chính là cuộc gặp gỡ với Đấng từ trong cõi chết sống lại. Một cuộc gặp gỡ giữa thân phận con người mang đầy vết thương của tội lỗi và nỗi niềm buồn đau thất vọng của cái chết với thân phận của một Đấng Cứu độ quyền năng chiến thắng tội lỗi và sự chết. Cuộc gặp gỡ để đóng lại cái hồ sơ đen tối của "Ngày Thứ Sáu buồn đau ảm đạm" để mở ra một chương mới trong lộ trình cứu độ của Thiên Chúa: con đường phục sinh để dẫn tới hạnh phúc vĩnh hằng.
Vâng, cuộc họp mừng Lễ Tạ Ơn hôm nay, ở khắp nơi, mọi thời, chính là cuộc gặp gỡ thân mật và đích thật nầy giữa chúng ta và Chúa chúng ta, Đức Kitô phục sinh, giữa cộng đoàn chúng ta, gia đình giáo xứ chúng ta với Đấng Phục sinh đang trở về như cuộc trở về vào buổi sáng "Ngày Thứ Nhất trong tuần" gần bên "Ngôi mộ trống", nhưu cuộc trở về để gặp mặt, để ban bình an, ban Lời chân lý như cuộc trở về trong mái nhà tiệc ly nơi các môn sinh đang họp mặt đợi chờ trong lo âu thấp thỏm. Cho dù với một không gian khác và vào một thời điểm khác, nhưng cuộc họp mừng Chúa Sống Lại hôm nay cốt lõi cũng chỉ là cuộc hội ngộ với Đấng Phục Sinh đang trở về, đang hiện diện, đang ủi an và chia sẻ tình yêu thân mật và hồn nhiên như Ngài đã hiện diện và sẻ chia cùng các môn sinh với "bữa điểm tâm đơn giản nhưng ấm áp tình thân trên bờ hồ Tibêriát" (Ga 21, 1-14), hay như bữa cơm chiều đạm bạc thân thương bên quán vắng Emmau (Lc 24,13-35). Đó chính là niềm tin muôn nơi và muôn thuở của chúng ta, của mỗi người Kitô hữu, là ý nghĩa đích thực của cuộc họp mừng phục sinh, là nội dung cốt yếu của Tin Mừng phải được sẻ chia và làm chứng, như lời "lời chứng và chia sẻ của Thánh Phêrô" từ thuở khai sinh Giáo Hội mà BĐ 1 sách CVTĐ đã thuật lại hôm nay:
"Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người trên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại"
Cùng với Phêrô, mọi Tông đố khác, các bài giáo lý đầu tiên của Kitô giáo do các Ngài thực hiện, niềm tin nguyên thủy mà các Ngài muốn chuyển tải cho thế giới, giản đơn, cũng chỉ với một đề tài duy nhất đó là " Chúng tôi làm chứng: Đức Kitô đã chết và đã sống lại".
"Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời..." (1 Ga 1,1-2)
Phaolô, một tông đồ trở lại cũng đã dõng dạc:
"Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng nầy; điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các Ngài, khi làm cho Đức Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con". (Cv 13,32-33)
Thế nhưng, cũng đã có những lập luận cho rằng: những lời khẳng định trên chỉ thuần túy là do óc tưởng tượng của con người, hay do một âm mưu tinh quái nào đó đạo diễn.
Cứ cho là như thế đi thì thử hỏi đã 2000 năm rồi, tại sao sự "dối trá bịp bơm như thế lại không bị lật tẩy", tàn rụi như bao nhiêu sự dối trá khác đã "đội nón ra đi" trong khi chân lý Phục Sinh lại cứ trụ vững hiên ngang và càng ngày đơm hoa kết trái phong phú giữa dòng chảy khắc nghiệt của lịch sử con người? Điều đó, chỉ có thể cắt nghĩa được: bên sau Lời chứng ấy, bên trong Tin Mừng ấy, ở giữa câu chuyện phục sinh ấy, mồ trống ây, có một Đấng Phục Sinh đang thực sự hiện diện trong quyền năng vĩnh cửu của Ngài. Vâng, Kitô giáo chính là Đức Giếu-Kitô đang hiện diện, Kitô giao chính là cuộc gặp gỡ giữa con người và một Đấng Phục Sinh, một cuộc gặp gỡ đã trở thành cốt yêu của đức tin, của việc tôn thờ, của định hướng sống; và như thế, cử hành mầu nhiệm Phục Sinh hôm nay chính là tái diễn cuộc gặp gỡ ấy, và hơn nữa, chính là sống lại chính cái biến cố phi thường của Đấng đã vì yêu thương mà nhập thể làm người, đã vì yêu thương mà loan báo Tin Mừng cứu độ và giải thoát, đã vì yêu thương mà hiến thân chịu chết và cũng đã vì yêu thương đã sống lại để ban nguồn sống mới.
2. Đức Kitô phục sinh mở cửa huyền nhiệm cuộc sống:
Nhưng sau cuộc phục sinh của Đức Kitô thì chuyện gì đã xảy ra cho thế giới?
Quả thật nếu Đức Kitô không sống lại, thì không ai, không một ý thức hệ nào, một triết thuyết nào, một hiền nhân nào có thể giải mả được những "phi lý trong cuộc đời nầy". Hai môn đệ trẻ của Chúa Giêsu trên cuộc hành trình về làng Emmau vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần cũng đã đặt vấn đề về sự phi lý đó: "tại sao ông Thầy Giêsu người Na-da-rét, uy tín trong lời nói việc làm, thánh thiện và công chính đến thế mà lại phải chết thảm?" (Lc 24,1-35). Và trong cuộc sống đời thường hôm nay hằng ngày đang xảy ra bao nhiêu chuyện phi lý như thế: Tại sao cuộc sống đang tươi đẹp hạnh phúc (như....) bỗng dưng phải từ giã cõi đời trong một tai nạn xe thảm khốc? Tại sao đứa bé kia có tội tình gì mà vừa mới lọt lòng mẹ đã mang dị tật bẩm sinh? Và tại sao người thiếu nữ dịu dàng khả ái tương lai đang rạng rỡ với mãnh bằng đại học xuất sắc kia lại đành chấp nhận bản án tử với căn bệnh ung thư quái ác?... Hay xa hơn một chút, sâu hơn một chút trong ý nghĩa của kiếp nhân sinh: Con người sinh ra để làm cái gì? Thế giới nầy rồi sẽ kết thúc ra sao? Đau khổ, bất hạnh, sự dữ, cái chết...có ý nghĩa gì không hay chỉ là một thứ "định mệnh" khắc nghiệt, một thứ trò chơi của quyền lực vô minh...?. Nếu Đức Kitô sau buổi chiều thê lương Thứ Sáu cứ "bặt vô âm tín", để sau đó xác thân từ từ thối rửa trong mộ đá... thì chắc chắn cho đến mãi hôm nay, vẫn còn những chàng trai, những cô gái, những cụ già, những em thơ...trên mọi nẽo đường trần thế cứ hoang mang hoài, cứ thắc mắc hoài, trăn trở hoài về những vấn nạn của cái sống và cái chết, của hạnh phúc và khổ đau, của hôm nay và vĩnh cửu
Và Đức Kitô phục sinh đã đến, đã thỏ thẻ chuyện trò, đã khai lòng mở dạ, đã hong lại niềm tin, đã đốt lên sức sống cho họ cũng như cho bao nhiêu thế hệ con người. Biết bao nhiêu người đã cảm nhận được điều đó như cách cảm nhận của đoạn cuối bài thơ trên:
3. Đức Kitô Phục sinh trên con đường mòn của kiếp nhân sinh:
Và như thế, sống mầu nhiệm Chúa sống lại đó chính là đón nhận, gặp gỡ và bước đi "trên con đường mòn của kiếp nhân sinh" với Đấng đã chết và đã sống lại, Đức Kitô, Đừng, Sự thật và Sự sống.
Chính sự tiếp nhận Đấng sống lại từ cõi chết sẽ mang lại hoa trái của niềm vui và sự sống, của ánh sáng và hy vọng, cho dù một tiếp nhận tình cờ như kiểu Gia-kê, môt tiếp nhận "bất đắc dĩ" như Simon vác đỡ thánh giá, một tiếp nhận bắt buộc khi bị đánh ngã như Phaolô trên đường Damas, một tiếp nhận lúc đường cùng khi không còn gì để bám víu như Phêrô sau "những bước chân trên sóng", một tiếp nhận đầy mắc cở thẹn thùng như "người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình", hay sự tiếp nhận trong nổi đau ngút ngàn của Matta, Maria khi vừa mất em, hay sự tiếp nhận đầy niềm tin phó thác của người sĩ quan ngoại giáo: "Lạy chúa, con chẳng đáng Chúa ngự đến nhà con. Chúa chỉ cần phán một lời...", hay như sự tiếp nhận đầy ngỡ ngàng, chân chất như chàng mù từ lúc mới sinh "Lạy Ngài con tin".
32. Bước vào đời sống mới
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Có câu chuyện trong thế giới triết học người ta đặt tên là “Xóa tan dấu vết đời mình”, nội dung như sau:
Là con trai của nhà hiền triết, nhưng Pédiantre lại không có một chút thiên tư minh triết nào, ông là một nhà độc tài mới lên của thành Corinthe. Người ta biết ông hung bạo và mất quân bình. Trong một cơn giận dữ, ông đã giết vợ lúc bà đang mang thai, chỉ vì tin vào lời bà thiếp nói rằng vợ ông bất trung. Tuyệt vọng, ông thiêu sống luôn bà thiếp này.
Ngoài tính khí bất thường và ghen tuông giết người, định mệnh đã an bài cho ông có một bà mẹ mê ông. Những nụ hôn dành cho đứa con khi còn nhỏ, dần dần biến chất khi nó lớn lên. Để quyến rũ con, bà làm cho ông tin là có một người đàn bà rất đẹp muốn trao thân với ông, nhưng với điều kiện là phải làm trong bóng tối hoàn toàn, và người đàn bà này không được nói với ông một lời nào...
Như thế, Cratéia trở thành tình nhân của con mình. Nghi ngờ, ông nhờ một nữ tỳ cầm đuốc vào phòng lúc bất ngờ. Thế là ông khám phá mưu mô của bà. Ông muốn chết. Muốn xóa hết dấu vết cuộc đời ông.
Để hủy diệt cuộc đời ô nhục, để làm biến mất tấm thân xấu xa nhuốm tình mẫu tử, cái bóng hình làm dơ bẩn cuộc đời phàm này của ông. Ông quyết định hủy bỏ dấu vết của nó trên quả đất, xóa luôn ký ức của loài người có về ông.
Một tối không trăng nọ, ông kêu hai tên đầy tớ vào:
Tụi bây có biết con đường đàng sau bụi rậm kia không, con đường khuất hút đàng sau rừng cây?
Họ gật đầu có vẻ ngạc nhiên.
Tụi bây đi theo con đường đó. Đi thật lâu. Khi nào gặp một người đi một mình, tụi bây giết hắn và chôn hắn. Tiền đây.
Hai người ra đi mà không dám đặt câu hỏi. Người ta không thể nào trái lệnh Périandre.
Một lát sau, ông kêu bốn người đầy tớ khác tới và bảo họ đi cùng con đường ông đã chỉ.
Khi các ông thấy hai người đàn ông đi lang thang trong đám cây rậm rạp kia, các ông giết họ rồi chôn xác họ. Tiền đây.
Bốn người đàn ông ra đi. Vì tiền hậu thưởng nhiều, vì không ai trái lệnh nhà độc tài Périandre thành Corinthe.
Từng nhóm nhỏ, các người đàn ông này mang vũ khí vào rừng cây, đi tìm hai người đi lang thang để thủ tiêu mà không cần nói lý do. Và thế là Périandre từ từ đi đến chỗ hẹn. (“Khi nào gặp một người đi một mình, tụi bây giết hắn và chôn hắn”. - Người đi một mình đó chính là ông). Kế hoạch của ông thật là hoàn hảo! Nhân chứng này tiếp tục giết nhân chứng kia! Còn ai biết được xác Périandre chôn ở đâu, nếu xác của người giết ông, rồi xác của người giết “người giết ông” không tìm thấy?
Làm rối tung dấu vết. Làm xóa mờ dấu vết. Chẳng bao giờ có mộ bia. Đối với nhà minh triết ngược đời này, chắc chắn đây là tự do tối thượng. Khi nghĩ đến một loạt xác chết sẽ xảy ra, ông cảm thấy như có một lưỡi gươm đang đâm vào sườn. Đêm tối mịt. Tối hoàn toàn.
Jean-Philippe de Tonnac.
CHẾT ĐI CON NGƯỜI CŨ…
Trước khi “bước vào đời sống mới”, chúng ta phải “chết đi” con người cũ.
“Chết đi con người cũ”, không có nghĩa là “xóa tan dấu vết đời mình”, ngược lại, là “tên tuổi được vinh quang” vì được chia sẻ “vinh danh Thiên Chúa”.
Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu: Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì? Chúa Giêsu đáp: Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự Tòa Vinh Hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên 12 tòa mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì Danh Thầy, thì sẽ được gấp bội, và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Mt 19,27-29).
Có một dòng tư tưởng mang nặng triết lý hiện sinh, rằng, suy cho cùng, tất cả suy nghĩ và hành động của con người đều là vị kỷ, đều nhắm vào cái lợi cho riêng mình. Ngay cả việc con người cố vươn lên để nên Thánh, để vào Thiên Đàng, để hưởng Niết Bàn, cũng là vì ích lợi cho riêng mình.
Cách phân tích như vậy, thoáng nghe qua, có vẻ rất đúng với thực tế, nhưng cách lập luận như vậy, nó đã mang nặng sự vị kỷ ngay từ ở căn tính tội lỗi của con người. Điều đó cũng có nghĩa là thừa nhận bước đi thăng hoa của Tôn Giáo trong tâm hồn của con người.
Đúng là khi nhắm tới mục tiêu “nên Thánh”, con người đã nghĩ đến thế giới hạnh phúc vĩnh hằng cho chính mình, nhưng, đồng thời, con người cũng nhắm tới mục tiêu “yêu thương đổng loại”, không ai có thể làm lành lánh dữ mà “chỉ có một mình”! và, do đó, không ai nên Thánh “chỉ một mình!”.
Để có được sự sống đời đời làm gia nghiệp – như Chúa Kitô đã hứa – con người phải biết thực thi Giới Luật Yêu Thương, và Yêu Thương không như kiểu con người, mà Yêu Thương như Thầy, Yêu Thương như Chúa Giêsu.
Để sống đúng như Giáo Huấn của Ngài, con người không được vị kỷ, mà phải “hủy diệt” chính mình. Con người khi yêu thương đồng loại, không phải để được hưởng vinh quang Thiên Quốc, nhưng là vì Yêu Mến Thiên Chúa. “Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”.
Cũng như Chúa Giêsu yêu thương con người, chết vì con người, không phải để tìm Vinh Quang Chúa Cha ban tặng, vì tự Ngài đã là Thiên Chúa, mà chỉ vì Ngài yêu thương Chúa Cha. Ngài muốn thực thi hoàn toàn Thánh Ý Chúa Cha. Chúa Cha yêu thương con người, Ngài yêu thương con người như Chúa Cha. Tình Yêu ấy là một.
“Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa.”(Ga.17,26).
“Tình Cha đã yêu thương con ở trong họ”. Khi tình yêu bao la ấy chiếm ngự trọn vẹn trái tim con người, thì làm gì còn sự ích kỷ hẹp hòi nơi con người nữa? Trái tim ấy trào tràn Tình Yêu Thiên Chúa, và tình yêu ấy lan tràn đến tha nhân. Đó là lúc “đóng đinh” con người ích kỷ, hẹp hòi vào Thập Giá, đó là lúc “xóa tan dấu vết bợn nhơ của đời mình”, chứ không phải xóa tan “cuộc sống mình”. Chúng ta vẫn sống, và sống với một trái tim mới, một cuộc đời mới.
“Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi, và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt” (Ez.36,26).
“Chúng ta biết rằng: Con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào Thập Giá với Đức Kitô, như vậy con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi”. (Rm 6,6-7).
…BƯỚC VÀO ĐỜI SỐNG MỚI
Bước vào đời sống mới với sự sống lại cùng Chúa Kitô và sống như Chúa Kitô. “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi.” (Gal.2,20).
Để “Chúa Kitô sống trong tôi”, lòng trí ta phải luôn hướng về Thiên Chúa. Những gì thuộc về Thiên Chúa ta đã được Chúa Giêsu giảng dạy trong Giới Luật Yêu Thương. Đời của Ngài là bài học sống động để ta noi gương tiến bước, từ sự chiến thắng cơn cám dỗ của Satan nơi hoang địa, đến cuộc chiến thắng trên đỉnh Can-vê.
Ta được rửa sạch mọi bợn nhơ nhờ dòng máu cứu chuộc của Ngài. Ta được Ngài ban Thánh Thần để vươn lên thượng giới. Như con thuyền giữa biển đời, ta đủ sức vượt qua giông tố với điều kiện ta đừng buông tay lái, và tin tưởng Ngài luôn hiện hiện bên ta. Đồng hành với ta. Sống trong ta. Nếu ta sống buông thả, xuôi đời mình theo những chuyến tàu dục vọng, ta mất sức mạnh của Ngài ban. Ta mất Thánh Thần. Ta đánh mất Ơn Cứu Độ.
“Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm 8,5-6)
Bước ra khỏi nấm mồ nô lệ tội lỗi, không phải để bước vào nấm mồ khác của hoang mang, hoài nghi, lo sợ. Đó không phải là một cuộc vượt ngục bước ra khỏi nấm mồ nô lệ và đứng trước vùng đất xa lạ không biết đâu là con đường đi đến tự do.
Bước ra khỏi nấm mồ sự chết, ta bước vào đời sống mới. Bỏ lại sau lưng mùi tang tóc sự chết và đọa đày, hít thở không khí trong lành và bắt đầu tận hưởng cuộc sống mới tự do và ngập tràn hạnh phúc yêu thương.
Ngay từ hôm nay, chứ không phải đợi chờ hứa hẹn. Bình an ngay hôm nay trong sự hoan lạc vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh. Lòng ta nhẹ nhàng bay bổng khi trút bỏ được bao thứ rác rưởi phù phiếm trần gian mà ta cứ nhọc công tom góp và sống chết vì nó. Ta hạnh phúc biết bao khi Ánh Sáng Phục Sinh soi rọi cho ta thấy những giá trị đích thực của đời người mà từ lâu đôi mắt ta mù lòa không nhận ra được thật hư. Ta vui mừng, vì cuối cùng, ta không phải đau đớn “xóa tan dấu vết đời mình” mà không hiểu vì sao ta sống!
“Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl.3,3-4).
Lạy Chúa,
Còn đó đoạn đường trần chông gai,
và một đời yếu đuối.
Xin cho con từng ngày,
chịu đóng đinh cùng Ngài,
được Phục Sinh với Ngài,
trong Tình Yêu Vĩnh Cửu của Ngài. Amen.
33. Hành động yêu thương - Ga 20, 1-9
"Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu". Mới xem qua câu nói này, thì tôi thấy không có tính chất cần thiết hay quan trọng nào liên quan đến Chúa Phục Sinh, chỉ là một câu phản ứng tự nhiên, xuất phát từ sự bối rối, lo lắng, run rẩy, sợ hãi, của các người phụ nữ. Những người phụ nữ này đi viếng mộ Chúa từ buổi sáng. Xét cho cùng, thì câu nói này ngụ ý việc trộm xác Chúa Giêsu. Như thế càng vô lý hơn, vì theo Tin Mừng Thánh Luca, thì nơi chôn cất Chúa Giêsu được lính canh rất cẩn thận, không thể nào có chuyện mất trộm. Tuy nhiên, khi tôi đọc kỷ bản văn và những đoạn Tin Mừng song song. Tôi thấy rằng: câu nói trên không đơn thuần là một phản ứng. Như vậy, câu nói trên mang một sứ điệp gì? Và nó xuất phát từ đâu? Do ai nói? Có sức đánh động như thế nào?
Trước tiên, Trong Tin Mừng Gioan hôm nay, câu nói trên là do các phụ nữ. Cụ thể, là bà Maria Macdala, mà trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu các phụ nữ không có thế giá gì. Hơn nữa, họ còn bị coi thường. Và người phụ nữ này được nhắc đến trong Tin Mừng Thánh Luca là người được Chúa Giêsu trừ bảy quỷ. Thế nên bà rất biết ơn và yêu mến Chúa. Trong xã hội Do Thái thời đó, người ta có thói quen đi viếng xác người thân trong vòng ba ngày kể từ ngày chôn cất. Như thế bà Maria Macdala tự coi mình như người thân của Chúa Giêsu.
Kế đến, Trong bối cảnh sáng sớm tinh sương. Câu nói trên kết hợp với hành động của Bà chạy về báo tin cho các Tông Đồ Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Chính vì thế, kết hợp với ý thức chạy về báo tin làm cho các Tông Đồ câu nói này của bà Maria Macdala càng có một sức đánh động thật lớn lao, xuất phát từ tấm lòng chân thành, từ con tim yêu mến nồng nhiệt đối với Chúa Giêsu và nó mang một sứ điệp chưa từng có trên đời. Đó là sứ điệp Đức Kitô Phục Sinh vinh hiển. Điều này được chứng thực khi hai môn đệ Chúa Giêsu, hổn ha hổn hển chạy ra mộ, và sau khi xem sự kiện, ngôi mộ trống. Thì kết quả là một trong hai người đã thấy và đã tin. Thật đúng thế, Tin Mừng trọng đại là Chúa Giêsu Phục Sinh vinh hiển qua sự kiện ngôi mộ trống. Đã làm cho môn đệ Chúa Giêsu yếu mến nghĩ rằng câu nói của bà Maria Macdala có lý, làm cho ông nhớ lại Lời Thánh Kinh là Chúa Giêsu Phục Sinh. Hơn nữa, bài đọc I mà chúng ta vừa nghe, cũng xác thực đều đó là "Ngày thứ ba Thiên Chúa đã cho Người trổi dậy và cho Người xuất hiện tỏ tường".
Ấy thế, lời nói và hành động của các phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay, làm cho Tin Mừng trọng đại được loan đi đến với các Tông Đồ Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến, kết cuộc là một môn đệ Chúa Giêsu thương mến đã tin qua câu nói: "Ông đã thấy và ông đã tin" mà thánh Gioan thuật lại. Vậy một cách nào đó nếu xét tỉ lệ phần trăm thì kết quả câu nói này đạt được là 50%. (hai người đến mộ một người đã thấy và đã tin). Như thế mọi người chúng ta cũng được mời gọi loan báo Tin Mừng trọng đại là Chúa Giêsu Phục Sinh cho mọi người và đây cũng là sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Noi gương các phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay, mỗi khi được ơn Chúa soi động, được cảm nghiệm về Chúa, chúng ta cần chia sẻ kinh nghiệm cho những người chung quanh bằng cách là chúng ta ra đi loan Tin Mừng Chúa Phục sinh với con tim yêu mến Chúa Phục Sinh cách nồng nhiệt. Nếu xét ở một khía cạnh khác, ta cũng thấy rằng: sứ mạng trọng đại này không phải chỉ dành cho cấp tu sĩ, giáo sĩ trí thức mà cho mọi thành phần Dân Chúa, như các phục nữ hôm nay, trong khả năng của mình mà loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh. Amen.
34. Suy niệm của Lm Giuse Lê Minh Thông
“Ông đã thấy và đã tin” (20,8).
Ai thấy? Thấy gì? Tin gì?
CHIA SẺ
Đoạn Tin Mừng Ga 20,1-9 nói về tiến trình “thấy” và “tin” của người môn đệ Đức Giêsu yêu mến. Xin chia sẻ đôi nét về người môn đệ bí ẩn này và ý nghĩa của việc “thấy” và “tin”.
Truyền thống đồng hóa môn đệ Đức Giêsu yêu mến với tông đồ Gioan. Nhưng thực tế không đơn giản. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, tông đồ Gioan thuộc nhóm ba môn đệ thân tín của Đức Giêsu: Phêrô, Gioan và Giacôbê. Hình ảnh tông đồ Gioan, cũng như các môn đệ khác, thường là không hiểu Đức Giêsu. Khi Gioan và Giacôbê xin được ngồi bên hữu và bên tả, Đức Giêsu nói: “Các anh không biết các anh xin gì” (Mc 10,38a). Khi những người Sa-ma-ri không tiếp đón Thầy trò, Giacôbê và Gioan nói: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” Và Đức Giêsu đã quay lại quở mắng các ông (Lc 9,54-55). Ở vườn Ghết-sê-ma-ni, ba môn đệ thân tín ngủ khi Thầy đang hấp hối (Mc 9,32-42). Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Phêrô đóng vai trò tông đồ trưởng và nổi bật hơn tông đồ Gioan.
Trong Tin Mừng thứ tư, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến có một vị trí đặc biệt và nổi bật hơn Phêrô và các môn đệ khác trong nhiều khía cạnh. Người môn đệ này xuất hiện lần đầu tiên trong bữa tiệc ly (Ga 13,1-32). Phêrô phải nhờ người môn đệ này hỏi Đức Giêsu xem ai là người sẽ nộp Thầy (Ga 13,23-24). Người môn đệ này có vị trí gần Đức Giêsu hơn Phêrô và hiểu Đức Giêsu hơn Phêrô. Trong biến cố Thương Khó, các môn đệ khác sợ sệt bỏ chạy, thì người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đứng dưới chân thập giá và được Đức Giêsu trao phó chăm sóc Mẹ của Người (Ga 19,26-27). Trong trình thuật ngôi mộ trống (Ga 20,1-9), người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đã thấy và đã tin, còn lòng tin của Phêrô không được nói đến. Khi Đấng Phục Sinh hiện ra trên bờ biển hồ Ti-bê-ri-a (Ga 21,1-14), người môn đệ này là người đầu tiên nhận ra Đức Giêsu.
Như thế, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến trổi vượt hơn Phêrô và các môn đệ khác về ba phương diện:
1) Về vị trí, ông ở bên cạnh Đức Giêsu trong bữa tiệc Vượt qua cuối cùng (Ga 13,23).
2) Về lòng tin, ông đã thấy và đã tin trước ngôi mộ trống (Ga 20,8).
3) Về sự hiểu biết, ông nhận ra Chúa trước tất cả các môn đệ khác (Ga 21,7).
Việc người môn đệ Đức Giêsu yêu mến thường hiện diện với Phêrô trong Tin Mừng thứ tư không đủ để đồng hóa người môn đệ này với tông đồ Gioan trong Tin Mừng Nhất Lãm.
Với sự thân tín đặc biệt và được trình bày cách lạ lùng trong Tin Mừng Gioan, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến là một nhân vật lịch sử đã trở thành nhân vật biểu tượng. Đây là người môn đệ lý tưởng và mẫu mực cho người tin qua mọi thời đại.
Đoạn Tin Mừng Ga 20,1-9 cho biết thế nào là “thấy” và “tin”. Có thể hiểu người môn đệ này không vào mồ trước, vì tôn trọng Phêrô là trưởng Nhóm Mười Hai; nhưng mạch văn cho thấy, ông trổi vượt hơn Phêrô về ba khía cạnh:
1) Trước hết, ông chạy trước Phêrô để tới mộ trước. Việc ông mau mắn hơn Phêrô cho thấy sự gắn bó giữa ông và Đức Giêsu.
2) Thứ đến, ông là người thấy những băng vải trong mộ trước Phêrô.
3) Cuối cùng, sự thấy của ông có hiệu lực hơn sự thấy của Phêrô: Những điều Phêrô thấy chỉ có tính cách thông tin, còn những gì người môn đệ này thấy bằng mắt thể lý đã dẫn tới thấy bằng mắt đức tin, “ông đã thấy và đã tin” (20,8).
Hai động từ “thấy” và “tin” không có bổ túc từ nên có thể hiểu theo nghĩa rộng. Những điều người môn đệ này thấy không chỉ là thấy những băng vải như đã kể ở trên, mà ông còn thấy ngôi mộ trống rỗng, thấy Đức Giêsu không còn đó. Xa hơn, gợi đến những gì ông đã thấy khi đứng dưới chân thập giá.
Tuy nhiên, đây không phải là “thấy” bình thường mà là thấy đúng theo ý Thiên Chúa. Nghĩa là “thấy” và “tin” gắn kết với nhau như Đức Giêsu đã nói: “Đây là ý muốn của Cha Tôi: Tất cả những ai thấy người Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời” (6,40).
Động từ “tin” trong câu: “Ông đã thấy và đã tin” (20,8) cũng không có túc từ và cho phép hiểu: Người môn đệ này không chỉ tin vào việc Đức Giêsu sống lại mà còn tin vào những lời Đức Giêsu đã nói, tin Đức Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến, tin là Đức Giêsu có thể ban sự sống đời đời. Và ở mức độ cao nhất: Tin Đức Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa như lời Tô-ma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (20,28). “Thấy” và “tin” theo nghĩa tuyệt đối, không có túc từ, cho thấy người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đã hiểu ý nghĩa của biến cố Thương Khó.
Tuy nhiên, giữa việc “thấy bằng mắt” và “tin” có một khoảng cách lớn lao. Bởi lẽ ngôi mộ trống và những băng vải không phải là bằng chứng hiển nhiên về việc Đức Giêsu Phục Sinh. Người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đã thấy dấu chỉ, chứ không thấy Đức Giêsu sống lại. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi Tin Mừng thứ tư kết thúc với lời động viên các tín hữu thế hệ sau: “Phúc cho những người không thấy mà là những người tin” (20,29).
Thực ra, không ai có bằng chứng hiển nhiên về việc Đức Giêsu sống lại. Dù chúng ta là những người không thấy mà tin, bài Tin Mừng mời gọi chúng ta đạt tới hành động “thấy” đích thực như người môn đệ Đức Giêsu yêu mến. Từ việc thấy dấu chỉ được kể lại trong Tin Mừng, dẫn tới việc thấy bằng con mắt đức tin, nghĩa là nhận ra sự hiện diện của Đấng Phục Sinh trong cuộc đời.
Việc Đức Giêsu Phục Sinh đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ, xin cho tất cả chúng ta “thấy” và “tin” qua những dấu chỉ thuật lại trong Tin Mừng và qua những dấu chỉ trong cuộc sống hôm nay để đón nhận sự sống, niềm vui và bình an của Đấng Phục sinh ban tặng.
35. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ của Achille Degeest)
Những bài tường thuật khác nhau về Chúa Phục Sinh trong bộ Phúc Âm hoặc trong các thư thánh Phaolô đặt ra một vấn đề đồng nhất. Những bài ấy cùng nói về một sự kiện, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Nhiều công trình khảo cứu cố gắng tìm những điểm trùng hợp trong các bản văn nói trên để đem lại những thành quả có thể thoả đáng nhưng không giải quyết được chú ý nhiều là của cha de Grandmaison trình bày trong cuốn “Đức Giêsu Kitô”. Lĩnh vực này vẫn mở ra cho môn nghiên cứu Kinh Thánh và có nhiều quan điểm mới mẻ xuất hiện kể từ sau cha de Grandmaison). Nhân bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể chú ý đến một số điểm nổi bật như những đỉnh cao của một dãy núi, cho thấy ý nghĩa tổng quát của những sự kiện.
1) Sự kiện Phục Sinh đặt nền tảng cho niềm tin của các tông đồ và cộng đồng giáo hữu tiên khởi.
Người ta cho rằng có thể có những bài tường thuật khác nhiều chi tiết hơn và có tính chất mô tả. Thật ra không phải vậy. Trong những đoạn thuật về sự kiện Phục Sinh, không có điểm nào cho trí tưởng tượng khai thác. Chúng ta phải nhìn nhận rằng đôi khi những yêu cầu hợp lý của hành vi tin như vậy là tốt.
2) Việc phát hiện ngôi mộ trống không khiến cho những phụ nữ đạo đức cũng như các tông đồ tức khắc xác tín rằng Chúa đã sống lại.
Câu của thánh Gioan: Ông đã thấy, và ông đã tin, phải được đặt trong tương quan với sự thấu hiểu Kinh Thánh –và không có bằng chứng nào rằng niềm tin của thánh Gioan đột xuất như một làn chớp, cho dẫu ngài hiểu biết nhanh hơn các tông đồ khác. Ở đây sự kiện lịch sử là ngôi mộ trống trở nên như một thứ cầu nhún bỗng nhiên được một lò xo bí ẩn nhập vào làm bật lên, phóng tâm trí vượt lên cao quá tầm lịch sử. Thuộc về thượng tầng ấy là những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ, và hành vi tin do đó phát sinh –là sự thấu hiểu Kinh Thánh- là sự làm chứng của các tông đồ. Ở đây chúng ta tiếp xúc với một điều gì khiến chúng ta có được niềm vững tin mạnh hơn sự kiểm chứng lịch sử, đó là hành vi tin, một hành vi không do sự cưỡng ép bên ngoài hay bên trong, nhưng được kích động cả ngoài và trong, một hành vi hợp lý, tự do, được sự giúp đỡ của ân sủng –hành vi ấy là hành vi tin của chúng ta ngày nay.
3) Những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ làm biến đổi tâm hồn các ông.
Chúa hiện ra bất thần, trong những trường hợp các ông ý thức rõ về bản thân mình, Chúa chợt đến trong đời sống thật sự của các ông. Điều đó cần nói rõ ra để thấy những thuyết chủ trương ảo giác là không vững. Điều quan trọng nhất: Đức Giêsu đảo ngược tâm trạng và não trạng các môn đệ. Não trạng Do Thái của các ông không chấp nhận cuộc thương khó, vậy mà giờ đây các ông chấp nhận cuộc khổ nạn của Thày là liên quan mật thiết với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Các ông đã ngã lòng, vậy mà bây giờ các ông có một niềm xác tín chiến thắng. Các ông đại diện cho Giáo Hội đang phát triển cách mạnh mẽ và hân hoan, các ông phát khởi một lịch sử và một mầu nhiệm ngày nay chưa chấm dứt sức năng động làm cho nhân loại dậy lên (Tất nhiên phải hiểu rằng những hình ảnh trên đây chỉ muốn gợi ý cho sự suy niệm và cầu nguyện, tuyệt nhiên không có cao vọng bàn đến những vấn đề bao quanh lịch sử và mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa).
36. Hy vọng mạnh hơn thất bại
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Điều gì người ta sống cách sâu đậm nhất là điều khó diễn tả nhất. Đó là trường hợp của kinh nghiệm về đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Đối với người vô thần, sự sống lại của Đức Kitô là cái gì chỉ có trong lòng tin của người Kitô hữu. Đối với người Kitô hữu, đó là một thực tại còn chắc chắn hơn sự kiện lịch sử được chứng minh cách vững vàng nhất. Họ có thể diễn tả thế nào lòng tin của mình trước người không tin, hoặc ngay trước những đòi hỏi hợp lý của chính lý trí mình?
Ai tin Đức Kitô sống lại, chỉ còn cách có thái độ như các Tông đồ. Với ngôn ngữ và cách suy nghĩ của riêng mình, các ngài làm chứng rằng đã biết Chúa Giêsu trước khi Người chết, và đã gặp lại Người sau khi sống lại. Làm chứng, nghĩa là quả quyết đã sống và đã thấy. Các ngài không hiểu bằng cách nào Chúa Giêsu đã từ cõi chết đi vào cõi sống, đã hiện ra trong những điều kiện khác với điều kiện trước khi chết. Các ngài không nói gì về điểm này. Nhưng quả quyết một cách vô cùng chắc chắn là sự việc đã xảy ra.
Người Kitô hữu ngày nay cũng thế, họ tin Chúa chịu chết và phục sinh nhưng không thể trả lời cho những ai chất vấn họ, xin họ giải thích. Vậy mà sự hiện diện và hoạt động của Chúa Phục Sinh trong cuộc sống họ là một kinh nghiệm biến đổi cả con người họ. Họ có thể làm chứng mà không thể cắt nghĩa việc ấy.
Chúng ta có thể rút từ bài đọc của thánh Gioan hai đề tài suy niệm:
1) Hai người đều chạy.
Phêrô và Gioan khi nghe Maria Madalêna báo tin liền vội vàng chạy tới mồ. Trong sự vội vàng và sự ‘hướng về’ này, chúng ta nhìn thấy một ý nghĩa tượng trưng. Ta có hướng về Chúa Giêsu sống lại và đang sống không? Đối với Phêrô và Gioan, ngôi mộ tượng trưng cho thất bại ê chề, kể từ chiều thứ sáu (sau khi Chúa tắt thở). Bây giờ thì họ lại hướng về một hy vọng tuy còn mập mờ, bí ẩn, nhưng họ vẫn lao mình chạy. Trong đời ta phải chăng cũng có những thất bại mà ta tưởng là nhất định rồi. Chẳng hạn một ước muốn không thành, một công việc tông đồ không kết quả, một hạnh phúc hợp lý rơi vào thất bại… Ta có hay chăng một niềm hy vọng biết nhìn thấy quyền năng Phục Sinh Chúa dành cho ta qua thử thách, dù lớn lao thế nào đi nữa? Ta là môn đệ của Chúa sống lại. Người kêu mời ta đừng bao giờ đặt một viên đá tuyệt vọng trên cái gì hết, song hãy hy vọng. Cái được phục sinh có thể sẽ khác với ta chờ đợi nhưng ‘khác’ hơn theo nghĩa ‘tốt’ hơn.
2) Ông thấy và tin.
Điều này nói về tông đồ Gioan. Bản văn thêm rằng lúc đó ông hiểu rõ Kinh Thánh, tức Cựu Ước. Quả thật con người và lịch sử của Chúa Giêsu là ánh sáng soi chiếu toàn bộ Cựu Ước, cũng như Tân Ước. Phải đọc Thánh Kinh thế nào? Thưa bằng cách tìm gặp ở đó Chúa Giêsu Kitô là chân lý ta, là sức mạnh ta, là sự chỉ giáo, luân lý, đời sống của ta.
37. Người đã trỗi dậy rồi
(‘Manna’)
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện Thầy sẽ sống lại.
Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy. Nhưng khi thấy ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu.
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá quen với chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị. Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn.
Nếu sứ thần không hiện ra giải thích thì ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những gì đã xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ ho nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã phục sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).
Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ kinh ngạc thôi, chứ không tin.
Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Đức Giêsu đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo.
Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì thế sứ thần hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì Ngài dạy (c.8).
Đức Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44).
Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này, đó là nhắc cho họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).
Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương lai.
Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương. Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả năng để hy vọng và vui sống.
"Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết".
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh. Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ.
Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ.
Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới. Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.
Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường. Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta không tin Ngài đã sống lại thật.
Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống, cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì trên cuộc sống đời này không?
Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
38. Mặt trời hé mọc
(‘Manna’)
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga 19,41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Đức Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ.
Kẻ thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng.
Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non đang nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó.
Và khi loé lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác.
Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: "Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to thật là một trở ngại. Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên rồi, và xác của Thầy cũng không còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng: Đấng bị đóng đinh đã chỗi dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát, sự sống đã bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt.
Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải xức dầu thơm.
Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đang sống, Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn.
Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta.
Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều chúng ta yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ, đớn đau. Ta có chờ gì nơi đó, hay chỉ biết tiếc nuối?
Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô mới làm ta tin rằng chẳng có mất mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm ta lớn lên và cứng cáp.
Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được niềm vui, dám chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi mộ khép kín. Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt? Tin Mừng Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai táng. Bạn thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
39. Niềm tin vào Sự Phục Sinh
Cái chết của Đức Giêsu Nazareth là sự thất bại quá lớn trước mắt mọi người, kể cả các tông đồ. Thật vậy, thế lực của đền thờ bắt tay với quyền bính xã hội đã treo Đức Giêsu lên thập giá, như một tên tội phạm đáng nguyền rủa. Nhưng với Đức Giêsu, đó chính là con đường mà Ngài phải đi qua, vì Ngài đã từng ví von: "Nếu hạt lúc gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Gn 12,24).
Vâng, vũ trụ như ngưng lại, im lìm vì than khóc Con Thiên Chúa. Thế nhưng hôm nay, sự im lặng ấy bị phá tan do lời công bố: "Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết!" (x. Mt 28,7). Muôn vật mừng rỡ hân hoan trước biến cố huy hoàng ấy. Khi đó, mọi người hiểu rằng hy lễ của Con Thiên Chúa không dừng lại ở cái chết mà hướng đến sự Phục Sinh. Cuộc tử nạn của Đức Giêsu không phải là một cuộc chiến bại mà là một chiến thắng của Thiên Chúa trên tội lỗi. Với niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, Giáo Hội đã long trọng tuyên xưng: "Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau" (Kinh Tin Kính).
Ngày nay, con người tiến bộ vượt bậc trên nhiều lĩnh vực. Nhưng nếu nhìn sâu vào đời sống của xã hội loài người, chúng ta thấy vẫn còn tồn tại nhiều mưu mô cám dỗ, nhiều cạm bẫy của thế lực ma quỷ chờ chực, lôi kéo con người trở lại với những gì là thấp hèn, bỉ ổi của thú tính. Nhìn xem trên các phương tiện truyền thông, chúng ta không khó để tìm thấy những tin tức về chiến tranh, áp bức, thác loạn... Mọi người vẫn đang chứng kiến bao cảnh khó khăn của đồng loại, bao bất công của xã hội loài người. Tất cả chỉ vì con người vẫn mãi tìm kiếm những gì thấp hèn thuộc hạ giới.
Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Đức Giêsu đã mở ra. Từ đó, nhưng hòn đá chôn vùi cuộc đời ta cũng sẽ được lăn đi. Đó có thể là hòn đá ích kỷ, tham lam, lãnh đạm, thiếu tình thương... Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp ta lăn những hòn đá ấy đi, để ta mạnh dạn sống niềm tin qua việc dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân, thực thi bác ái tích cực hơn.
Do đó, để thực sự sống lại với Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy trở lại với cõi lòng mình để xét xem những hòn đá nào cần được lăn đi. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy vứt nó ra khỏi cuộc đời mình, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Bên cạnh đó, mỗi người cũng cần phải trở nên công cụ trợ lực cho nhau, để mọi người cùng hưởng chung niềm vui Phục Sinh.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống, và Ngài đã phục sinh để năng đỡ niềm tin của chúng ta, đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng. Chúng ta quyết tâm tiếp tục sống cuộc sống của Chúa: dám sống cho một niềm tin, dám chết cho một cuộc tình. Chúng ta tin vững vàng vào Chúa và can đảm tận hiến đời mình cho luật yêu thương: yêu Chúa và thương anh em. Chắc chắn niềm hy vọng của chúng ta sẽ trở thành hiện thực khi Đức Kitô Phục Sinh trở lại trong vinh quang.
40. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
Giáo Hội Chính Thống có một truyền thống rất ý nghĩa về lễ Phục Sinh: Sau Thánh Lễ mỗi người được phát cho một quả trứng gà đã được làm phép. Khi đến chúc mừng lễ cho nhau, người ta đập vỡ quả trứng và nói: “Đức Kitô đã sống lại”. Người kia cũng đập quả trứng và đáp lại: “Quả thật, Đức Kitô đã sống lại, Halleluia”.
Ngày nay, ở các nước Âu Châu vào dịp lễ Phục Sinh, người ta vẫn thấy trưng bày các quả trứng được trang trí tô vẽ đủ màu sắc rực rỡ, thậm chí có cả những quả trứng chocolate lớn nhỏ đủ cỡ dành để làm quà tặng mừng Chúa Phục Sinh.
Thưa anh chị em,
Quả trứng có vỡ ra, con gà mới có thể chào đời. Cũng thế, ngôi mồ có mở ra, Đức Kitô mới sống lại từ cõi chết. Trước khi đập vỡ quả trứng để chào đời, con gà đã phải ngủ vùi trong quả trứng. Cũng thế, Đức Kitô đã bị chôn vùi trong mồ ba ngày rồi mới sống lại. Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy ngôi mồ trống và loan báo tin Đức Kitô đã sống lại.
Ngài đã chết. Người ta đã chôn Ngài trong mồ đá. Cửa mồ mở ra. Xác Ngài không còn đó nữa. Maria Madalena hoảng hốt kêu lên; “Người ta đã lấy mất xác Thầy rồi!”. Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mồ kiểm chứng. Hai ông thấy mồ mở toang. Nhìn vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã thấy và đã tin: Chúa đã sống lại thật như Ngài đã tiên báo.
Chúa đã sống lại. Chúa đã từ trong cõi chết sống lại. Ngài sống lại thật sự chứ không phải chỉ sống trong tưởng tượng, trong lòng tin của chúng ta, tuy chúng ta không thấy Ngài, tuy chúng ta chỉ nhận ra Ngài nhờ đức tin. Nhưng Ngài đang sống thật, dù chúng ta không tin. Ngài cũng đang sống thật, đang điều khiển dòng lịch sử.
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài không tỏ mình cho quần chúng từng đi theo Ngài khi Ngài đi rao giảng, nhưng chỉ cho một số người được tuyển chọn để làm chứng nhân. Họ đã được thấy Ngài Phục Sinh, được ăn uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Người Do Thái không chịu tin, đút tiền cho lính canh để lấp liếm. Người Hy Lạp cười khinh bỉ khi nghe Thánh Phêrô nói đến hai tiếng “Phục Sinh”. Nhưng đối với chúng ta thì Chúa Giêsu sống lại đem ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những đau thương quằn quại của con người không còn là nỗi quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Tin Mừng theo Thánh Gioan quan niệm thập giá là nơi Chúa Giêsu được tôn vinh. Cái “Giờ” mà Chúa Giêsu vừa trông đợi vừa lo sợ, chính là giờ Ngài được giương cao trên thập giá để kéo mọi người lên cùng Ngài. Chúa Giêsu đã sống lại, khiến cho cái chết của chúng ta không còn là ngõ cụt, không còn là đêm tối tuyệt vọng nữa, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong cõi chết. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng của chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển dòng lịch sử, và khi Ngài tỏ hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện cùng với Ngài trong hạnh phúc và vinh quang bất diệt.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tham dự vào sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, được mang mầm sống mới trong mình, mầm sống ấy phải lớn lên trong cuộc sống mỗi ngày và sẽ đưa chúng ta vượt qua chính cái chết tự nhiên của con người để vào cuộc sống vinh quang với Chúa Kitô. Sự sống của chúng ta, vinh quang của chúng ta được dấu ẩn trong Chúa Kitô. Hiện giờ chúng ta chưa thấy vinh quang ấy như thế nào, nhưng khi Chúa Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ thấy. Vì Ngài thế nào thì chúng ta cũng sẽ giống như vậy.
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự bảo đảm an toàn ích kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống cho Chúa Kitô và như Chúa Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu đã được sống lại với Chúa Kitô, chúng ta đừng tìm những gì con người ích kỷ hẹp hòi, con người theo xác thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về cùng đích của chúng ta mà tiến lên. Chúa Kitô đã mang lại cho những đau khổ của con người một ý nghĩa, đã làm cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa đến cuộc sống vĩnh cửu.
Nếu sự Phục Sinh của Chúa Giêsu thật là cần thiết cho chính Ngài và cho những người tin vào Ngài, thì nó cũng lại rất cần cho cuộc sống hôm nay của chúng ta, khi mà nhiều người chán sống, khi mà cuộc đời có quá nhiều cái làm chết con người hoặc coi thường mạng sống con người. Chúa sống lại là một tin vui cho người đang tin vào cuộc sống đời sau, và còn là lời cảnh tỉnh cho người tưởng chết là hết, chết là giải quyết tất cả…
Nếu chúng ta tin như vậy, thì hơn ai hết, chúng ta phải làm chứng cho niềm tin Phục Sinh nầy bằng cách dám chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh, để cùng với mọi người xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người hơn. Nếu chúng ta tin rằng mọi sự từ bỏ đều được Chúa đền bù, mọi hy sinh đều là tham dự vào hy sinh cao cả của Chúa Kitô, thì tại sao chúng ta không dám từ bỏ, không dám hy sinh? Nếu chúng ta tin rằng: Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi, khỏi con người theo xác thịt ích kỷ hẹp hòi và cho chúng ta một Thần Khí mới, một tinh thần mới, thì tại sao chúng ta cứ tiếp tục sống ích kỷ hẹp hòi? Tại sao chúng ta cứ khư khư giữ lấy sự an toàn bản thân, không dám liều mạng, xả thân vì anh em, vì tha nhân? Hạt giống chỉ có thể nẩy mầm khi nó có thể phá huỷ được cái vỏ bao bọc nó. Con gà chỉ có thể ra đời khi phá vỡ vỏ trứng. Con tằm phải phá ổ kén mới thành con bướm. Có cuộc chuyển hoá hay vượt qua nào mà không đau khổ, rướm máu?
Trong ngày mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta hãy kiểm điểm xem: chúng ta đã thật sự sống niềm tin Phục Sinh chưa? Chúng ta đã đánh giá đúng những thực tại trần thế chưa? Chúng ta đã nhìn gian khổ, hy sinh, nỗ lực của con người bằng cặp mắt nào, cặp mắt của một người chỉ tin vào của cải vật chất hay của một người tin vào một cuộc sống vượt trên cuộc sống trần gian nầy và làm cho cuộc sống trần gian nầy có ý nghĩa cao cả thật sự của nó?
Trong Thánh Lễ Phục Sinh hôm nay, khi chúng ta mừng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chúng ta hãy cầu xin Ngài cho chúng ta biết sống như Ngài: sống cho Chúa và sống cho mọi người anh em.
41. Phục Sinh
Tâm thức trả thù ăn sâu vào trong con người tội lỗi chúng ta đến nỗi chết rồi mà cũng không dung tha. Thật là một tâm thức nghịch lại với thái độ sống của Chúa Kitô, Ngài đã giảng dạy sự tha thứ, đã chịu chết và đã sống lại, đã tha thứ cho con người và dạy con người sống tha thứ cho nhau.
Tin Mừng Chúa sống lại là Tin Mừng của sự tha thứ. Thiên Chúa tha thứ cho con người và con người một khi chấp nhận Tin Mừng sống lại cũng phải sống tinh thần tha thứ này. Chúa Kitô sống lại có ích gì cho chúng ta, nếu chúng ta không sống lại, không để cho ơn Chúa biến đổi mình trở nên con người mới giống hình ảnh của Ngài.
Nơi bài đọc 2 chúng ta nghe thánh Phaolô khuyên các tín hữu Côlôsê như sau: “Nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô thì anh em hãy tìm những sự trên trời nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Những sự trên trời đó không phải là những viễn vông, mơ mộng, không thực tế theo tâm thức người đời, không tin Thiên Chúa, nhưng là những điều rất đòi hỏi và rất thiết thực. Đó là sự sống đời đời, và để đạt đến sự sống đời đời này người đồ đệ của Chúa phải cố gắng hết sức mình để yêu thương phục vụ anh chị em.
Sống hướng về trời để có đủ tinh thần mà tha thứ những xúc phạm của tha nhân và hy sinh những lợi lộc ích kỷ mà từ bỏ những mưu toan hại người, để ra tay nâng đỡ phục vụ anh chị em, nêu cao khuyến khích anh chị em khi anh chị em lỡ lầm đồng thời giúp họ đừng tiếp tục làm điều xấu nữa.
Sống hướng về trời, về những điều trên trời là điều cần thiết như người đi ngoài biển khơi không có địa bàn phải nhìn lên những ánh sao sáng trên trời để định hướng thuyền đời mình đạt đến bến bờ. Chúng ta sẽ bị lạc vào trong những tranh chấp hận thù, bị rơi vào trong sự u buồn liên lỉ, trong sự áy náy bứt rứt lương tâm, nếu chúng ta không hướng về Chúa và lãnh nhận ơn Phục sinh của Ngài.
Các tông đồ đã sống trong lo âu hồi hộp khi Chúa bị treo trên thập giá, khi họ chưa hiểu gì về mầu nhiệm sống lại của Chúa. Biến cố mồ trống mà Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta là một lời mời gọi Maria, Gioan, Phêrô, mời gọi những kẻ đã theo Chúa hãy vượt qua những giới hạn của tâm thức trần tục của họ để nhìn thấy được sự Phục sinh của Chúa, để cho ơn Chúa biến đổi cuộc đời mình, hầu giúp chúng ta trở thành những chứng nhân rao giảng sự tha thứ của Thiên Chúa.
Có một du khách đến thăm xưởng chế tạo các địa bàn, khi qua phòng trưng bày các mẫu kiểu địa bàn, du khách đã thắc mắc hỏi: Tại sao có một số địa bàn có cây kim luôn chỉ về hướng bắc, còn một số địa bàn khác thì không, kim chỉ lung tung. Hướng dẫn viên trả lời: Những địa bàn có kim chỉ đúng phương hướng là những địa bàn đã thực sự trọn hảo, đã được chuyển sức hút từ trường vào trong đó để cây kim chính luôn hướng về hướng bắc. Còn những địa bàn có kim chỉ lung tung là những địa bàn chưa nên trọn, chưa có sức từ trường và không thể hoạt động theo từ trường. Đây là những mẫu trưng cho du khách nhìn chơi mà thôi, chứ không có ích lợi gì cả.
Hình ảnh chiếc địa bàn có thể được dùng để nói về người đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trong một thời đại, như có hai loại địa bàn cũng có thể có hai loại người Kitô. Chiếc địa bàn chưa trọn không có sức từ trường tượng trưng cho người Kitô “hữu danh vô thực”, có tên gọi là người Kitô hữu nhưng không có thực tế, không có sức sống của Chúa Kitô Phục sinh chuyển vào, nên như chiếc địa bàn chỉ lung tung, làm lung tung, nói lung tung, dở dở ương ương đang theo những chiều gió cám dỗ thổi đâu cũng được.
Còn mẫu người Kitô hữu thứ hai như những địa bàn đã nên trọn, đã hoàn tất, có sức thu hút từ trường. Họ là những người Kitô hữu đã lãnh nhận sức sống từ Chúa Phục sinh, luôn luôn sống kết hợp với Chúa, luôn qui hướng về Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh như địa bàn chỉ về hướng bắc mà do đó mới có thể trở nên trọn nơi chính thực thể của mình và nên hữu ích cho anh chị em xung quanh.
Việc chuyển sức từ trường vào chiếc địa bàn là một tác động tự động máy móc, việc chuyển sức sống của Chúa Kitô Phục sinh vào con người chúng ta là một hành động đặc biệt không thể nào giống như một trò ảo thuật chỉ hô một tiếng thì có liền ngay.
Chúa Kitô đã chọn các tông đồ và huấn kuyện các ngài nhiều năm tháng với nhiều công sức, chuẩn bị cho các ngài trong giây phút trọng đại cuối cùng để tin nhận Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đi qua cái chết để tiến đến sự Phục sinh, để thực hiện trọn vẹn ơn cứu chuộc con người. Nhưng thử hỏi chúng ta đã nhìn thấy gì? Chúng ta đã nhìn thấy thái độ của các tông đồ như thế nào trước biến cố chết và sống lại của Chúa hay không?
Một thái độ không tin, lưỡng lự hay có tin thì cũng chưa vững vàng lắm. Hai người nữ đến mồ Chúa nhìn thấy dấu lạ, hòn đá che cửa mồ đã bị đẩy qua một bên thì vội vàng kết luận là có người ăn cắp xác của Thầy mình. Phêrô chạy đến nhìn thấy sự việc cũng không hiểu sao, chỉ có tông đồ Gioan người được Chúa Giêsu yêu dấu thì thấy và tin, nhưng thái độ tin lúc này cũng mới là khởi đầu. Lòng tin đó cần phải tiến sâu hơn nữa nhờ lời cầu nguyện, suy niệm lại những lời Chúa nói, những việc Chúa làm và được Chúa Thánh Thần tiếp sức thì mới đủ mạnh để làm chứng cho Chúa, để luôn luôn sống định hướng về Chúa như chiếc địa bàn đã được chuyển sức từ trường.
Từ một Phêrô lưỡng lự chưa hiểu Kinh Thánh, chưa hiểu chương trình hành động cứu rỗi của Thiên Chúa. Qua Chúa Kitô Phục sinh đến, một Phêrô đã vững tin dám đứng trước dân chúng để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh là Đấng cứu rỗi duy nhất như được mô tả trong bài đọc 1 của thánh lễ hôm nay.
Chúng ta hiểu là phải có biến cố tiếp sức của Chúa, biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống tràn đầy trên các tông đồ, trong mọi đồ đệ của Chúa Kitô. Không thể nào chỉ dừng lại ở Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá để than khóc lo sợ, nhưng không thể nào chỉ chú mình tôn thờ Chúa Kitô Phục sinh cho riêng mình như Maria khi được Chúa hiện ra thì bà sụp lạy quì dưới chân Chúa. Chúa bảo bà hãy ra đi, hãy mang Tin Mừng đến cho các tông đồ khác, cho những ai chưa tin. Chúa muốn như chiếc địa bàn chỉ hướng về phía bắc. Người tín hữu Kitô chỉ hướng về một Chúa Kitô Phục sinh để từ đó mà có sức làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Mừng lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta hãy đem cuộc đời mình đến cho Chúa chuyển sức sống vào đó, cho chúng ta được Phục sinh với Chúa, được sống sức sống của Chúa, trở thành người Kitô hữu sống động.
42. Ngài đã sống lại
Theo Kinh Thánh, Chúa Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết.
Anh chị em thân mến,
Xin được kể một câu chuyện: Một người đàn bà nhà quê đến hôn chân Chúa Giêsu nằm trên Thánh giá. Một anh lính sô viết đến hỏi bà: "Tại sao bà không đến hôn chân vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta, mà lại hôn chân một người chết trần trụi như thế?" Bà trả lời: "Có chứ, tôi sẽ hôn chân vị lãnh tụ, nếu ông ấy chịu đóng đinh vì tôi..." Thật, đúng như lời người đàn bà này nói: người Kitô hữu hôn chân Chúa Giêsu, nghĩa là tin nơi Chúa, chính vì Chúa đã chịu đóng đinh, đã chết và đã sống lại vì mọi người. Niềm vui của ngày lễ Phục sinh hôm nay, chính là Hội Thánh muốn mọi người hiểu rõ được chân lý đó. Trân trọng kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/ Chúng ta cần tìm hiểu vài câu:
Ngày đầu tuần, Maria Magdala đi ra mồ từ sáng sớm và thấy mộ trống: ngày đầu tuần: người Do thái lấy ngày thứ Bảy là ngày lễ, ngày nghĩ, nên ngày đi sau ngày thứ Bảy họ coi là ngày đầu tuần. Đó là ngày Chúa Nhật. Chỉ sau này, với lịch phụng vụ Rôma, người ta mới lấy ngày Chúa Nhật làm ngày đầu tuần...
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ: theo lời mấy bà, trong đó có bà Maria Magdala, họ ra mồ Chúa từ sớm, nên họ thấy mồ trống; vì vậy họ chạy về báo tin cho các tông đồ hay, nên Phêrô và Gioan liền chạy ra mồ xem thực hư...
Ông đã thấy và tin. Trước đó hai ông không hiểu rằng: theo Kinh Thánh người phải chỗi dậy từ cõi chết... hai ông này đã chạy ra mồ, và thấy sự việc như lời các bà nói. Hai ông còn thấy băng vải liệm còn để đó; cả khăn che đầu cũng còn và được cuộn lại xếp qua một bên; đó là dấu chỉ cho biết Chúa đã sống lại, vì nếu Chúa không sống lại, hoặc ai đem xác Chúa đi giấu, không lẽ họ lại để khăn vải liệm ở lại, ngay trong mồ Chúa?
b/ Lễ Phục sinh không chỉ là cao điểm của mùa Phục sinh, mà còn là điểm cuối cùng của cả năm phụng vụ. Ngày lễ này, ngoài ơn lành Chúa ban cho, còn đem lại điều quan trọng hơn nữa vì đem lại sự sống thật cho người tín hữu: "nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì đức tin anh em thật là vô ích...". Đó chính là lời rao giảng rõ ràng của vị Thánh Phaolô tông đồ dân ngoại trong thư thứ I gởi cho giáo đoàn Côrintô (ICor 15,17). Thật vậy, nhờ việc Chúa sống lại, người ta mới hiểu được giáo lý Chúa Giêsu đã dạy, mới hiểu được cuộc sống của Người ở trần thế.
Vì vậy, Hội Thánh không chỉ kỷ niệm lại biến cố phục sinh mỗi năm một lần, mà hàng tuần vào ngày Chúa Nhật nữa. Có một điều mà nhiều khi người Kitô hữu chúng ta không hiểu, mà cũng là một thách thức cho niềm tin chúng ta, đó là: Biến cố phục sinh quan trọng và lớn lao như vậy, lại không dựa vào những chứng cứ lịch sử cụ thể, rõ ràng, mà lại dựa vào lòng tin, căn cứ vào những chứng tích cá nhân, vào lời Kinh thánh đã tiên báo, vào lời Chúa đã nói trước (Mt 18,6) v.v...hoặc dựa vào chính máu đào của các tông đồ, họ đã tự nhận đã thấy và làm chứng để mọi người cùng tin(Cv 2,32)... Đúng là một mầu nhiệm, Thiên Chúa, chỉ hé lộ cho người thấy chút ít ở trần gian. Chỉ sau này trên nước trời, ta mới hiểu rõ ràng; vì khi còn ở trần gian, nếu ta hiểu rõ ràng cả, thì còn chi là công nghiệp nữa....
c/ Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Kitô thực sự đã sống lại, điều này ta có tin không? Bà Maria và các tông đồ đã đồng hành với Chúa, đã trải qua cuộc khổ nạn của ngày Thứ Sáu, nghĩa là nhận ra Chúa vì yêu họ mà đã chết cho họ, nên họ đã tin Chúa phục sinh. Phần chúng ta, nếu chúng ta tin, thì tại sao nhiều lúc chúng ta vẫn sống thờ ơ, nguội lạnh, sống trong tội, sống như là không có Chúa hiện diện vậy? Ta nghĩ làm sao đây?
43. Chúa đã sống lại! Alleluia
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’ – R. Veritas)
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
- Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Anh chị em thân mến, câu truyện phim giả tưởng trên đây mang sứ điệp của lễ Phục Sinh mà những người Kitô hữu chúng ta tưởng niệm và mừng kính hôm nay. Đó là cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài mà còn trực tiếp liên quan đến vận mạng của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, niềm tin và hy vọng của tôi cũng như của anh chị em. Vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là kẻ vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Giêsu sống lại, Thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang.
Mừng Chúa sống lại, người Kitô hữu cũng mừng sự sống lại của chính mình bằng cách đổi mới cách sống của mình, như Thánh Phaolô đã kêu gọi: “Nếu anh em sống lại với Đức Kitô, anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Đây không phải là lời khuyên xa lánh các thực tại trần thế. Trái lại, đây là lời mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy tìm và thể hiện những giá trị mới của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua các giáo huấn, qua cuộc sống cũng như cái chết của Ngài.
Một em bé nọ thường nghe mẹ em buột miệng thốt lên: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!”. Mỗi khi gặp điều gì khó khăn trong cuộc sống, bà tự nhủ: “Chúa đã sống lại, hãy vui lên!”. Bà thường tự nhủ trong lòng, nhưng khi bà thốt lên thành tiếng, con trai bà cũng nghe được. Em bé bắt chước mẹ, em thốt lên câu đó mỗi khi em gặp điều bất bình, khi bạn bè chơi xỏ, khi gặp điều không được như ý… Và thú thật, khi thốt lên câu: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!” thì em bình thản trở lại. Hành động của bà mẹ và em bé kia nói lên cố gắng sống niềm vui Phục Sinh một cách cụ thể, chuyển tải một chân lý nền tảng nhất của đạo Kitô vào trong cuộc sống hằng ngày, qua đó, biểu lộ niềm tin và hy vọng. Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Thưa anh chị em.
Người Kitô hữu mừng Chúa sống lại cũng được mời gọi làm chứng cho niềm tin về sự sống mới này. Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự an toàn ích kỷ cho mình, nhưng là sống cho Chúa và như Chúa, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho mọi người. Ước chi Thánh lễ Phục Sinh hôm nay cũng như Thánh lễ mỗi ngày Chúa Nhật giúp chúng ta thực thi cụ thể trong cuộc sống lời chúng ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết. Chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại. Chúng con đợi chờ ngày Chúa quang lâm”.
44. "Chúa đã sống lại thật, Alleluia!"
Đây là câu điệp khúc vang lên trong những ngày Giáo Hội Công Giáo mừng biến cố Chúa Phục Sinh. Một biến cố lịch sử có tầm quan trọng to lớn đối với người Công Giáo nói chung và cách riêng đối với những môn đệ theo Chúa Giêsu thời bấy giờ. Thật vậy, người Công Giáo chúng ta hớn hở mừng vui biết bao khi biết Chúa chúng ta phục sinh, Ngài đã từ cõi chết sống lại. Còn nỗi vui mừng nào to lớn hơn nên điệp khúc "Alleluia", "hãy vui mừng lên" không ngừng vang lên vang mãi trên môi miệng và trong niềm tin, trong lòng của chúng ta. Người Công Giáo chúng ta hát đi hát lại điệp khúc hân hoan ấy vì Đức Kitô đã chiến thắng kẻ thù là Satan, Đấng Messia hoàn thành sứ mạng theo thánh ý Chúa Cha, Đấng Messia đã trải qua bao gian khổ, đau khổ đón nhận thập giá và rồi Ngài đã chết. Sứ mạng Đấng Messia không dừng lại ở đó, Ngài đã thực hiện một phép lạ vĩ đại nhất trong lịch sử loài người từ trước đến nay, đó là Ngài đã sống lại từ trong kẻ chết? Như thế, Ngài đã hoàn thành sứ mạng Messia trong vâng phục thánh ý Chúa Cha, đón nhận trong sự chết và mang lại sự sống trường sinh. Điều đó làm cho chúng ta vui mừng khi nghĩ về biến cố Phục sinh. Tuy nhiên, chúng ta hãy cùng suy gẫm về biến cố Phục Sinh.
Phục sinh là sự kiện xảy ra đã mang đến nhiều sự bất ngờ và đầy kinh ngạc mặc dù người Do Thái có hiểu biết ý niệm về sự sống lại. Lần mở lại mạc khải trong Cựu ước, người DoThái tin rằng chỉ có Thiên Chúa Giavê là Thiên Chúa Hằng Sống, làm chủ sự sống (Xh 3, 15) có quyền trên Shéol (Is 2, 6; Kn 16,13; Tv 139,8) có khả năng làm cho kẻ chết sống lại: "Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên" (1Sm 2, 6). Bên cạnh đó, các ngôn sứ loan báo về sự sống lại của dân Israel, Hôsê nói Thiên Chúa sẽ cho ta hồi sinh (Hs 6, 18), Isaia hy vọng người chết sống lại (Is 26, 19). Người ta cũng đã chứng kiến các tiên tri Êlia, Êlisê cho một số người chết được hồi sinh (1V 17, 17 - 24; 2V 4, 29 - 37; Hc 48, 5. 14). Ngoài ra, ta còn thấy ước vọng và lời cầu nguyện của Israel cũng hướng về chân lý này (Tv 16, 10, G 19, 25). Khi Isaia và Edekien loan báo về sự sống của Israel thì niềm hy vọng của họ trở thành vững chắc hơn (Is 25, 7 - 8; 26, 19; Ed 37, 7 - 8; 37, 11 - 14).
Tuy nhiên, Thánh Matthêu kể về bà Maria Mađalena và một bà Maria khác đến mộ với sự buồn bã, vì nghĩ rằng xác Ngài vẫn còn nằm trong mộ. Tuy nhiên, các bà đã cảm nghiệm một sự kinh ngạc vĩ đại nhất trong cuộc đời. Chúa Giêsu không còn chết nữa, Ngài đã sống lại! Từ kinh ngạc chuyển sang vui mừng: "hai bà vội vã ra khỏi mồ vừa sợ hãi vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người" (Mt 28, 8). Sự buồn rầu và tuyệt vọng của họ đã bị đánh tan bởi sự kinh ngạc và vui mừng khi nghe tin Chúa đã sống lại. Trong thực tế cuộc sống của mình, chúng ta cũng đã có những cảm nghiệm giống như các bà phụ nữ ấy: khởi từ sự buồn bã, tăm tối và thất vọng chuyển sang kinh ngạc và vui mừng. Điều chúng ta nghĩ rằng xấu nhất, nhưng với sự trợ giúp đầy quan phòng và yêu thương của Thiên Chúa, nó đã trở nên tốt hơn như khi một người ốm đau được ơn chữa lành, những kẻ thù nghịch được ơn hoà giải với nhau,...Việc Chúa Giêsu Kitô sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng, nhưng lại là sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy và có kinh nghiệm. Ngay các môn đệ đi theo Ngài và được Ngài báo trước cho biết việc đó, thế mà khi Ngài sống lại họ cũng chưa tin, huống chi những người khác. Phục sinh là một chân lý mà người ta chỉ có thể chấp nhận được nhờ đức tin.
Sự vui mừng dẫn tới hành vi thờ phượng. "Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy" (Mt 28,9). Sự vui mừng dẫn tới hành vi thờ phượng. Các người phụ nữ thánh thiện đi theo Chúa Giêsu là những người đã được Chúa chữa lành, trung thành với Chúa trong suốt cuộc thương khó, cho đến khi Chúa chết trên thập giá và sau cùng an táng trong mồ. Họ không sợ sệt trước những quyền lực của quân lính Rôma và những người lãnh đạo tôn giáo. Họ đã theo Chúa bằng mọi cách. Đức tin và tình yêu đã giúp cho các bà nhận ra Chúa Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, phải thờ phượng Người.
"Hãy đi báo tin cho các anh em Ta" (Mt 28, 10). Các người phụ nữ trở thành những nhà truyển giáo của Chúa Giêsu. Đức tin và tình yêu của các bà được Chúa tin tưởng trao phó trách nhiệm loan báo Tin Mừng này. Họ tham gia loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước cho hy vọng, bóng tối đã lùi bước trước ánh sáng. Hận thù đã dần nhường chỗ cho sự tha thứ, bình an, tình thương; khổ đau đã thay thế bằng vui mừng.
Tình yêu có năng lực tái sinh con người. Mệnh lệnh "Hãy đi báo tin" không chỉ được ban cho các bà và các môn đệ, nhưng còn cho mỗi người chúng ta. Tin Mừng Phục sinh là chính Tin Mừng về tình yêu Thiên Chúa đối với con người. là người Công Giáo, là những kitô hữu, là những chứng nhân của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi để chia sẻ Tin Mừng và tình yêu đó với tất cả mọi người như Chúa Giêsu đã nói với các người phụ nữ (Mt 28,10). Như thế, ngày nay, Tin mừng Phục sinh mời gọi chúng ta hãy mở lòng mình ra cho Chúa Giêsu Phục Sinh, để Ngài làm cho chúng ta điều Ngài đã làm cho các môn đệ cũng như cho những người nghe lời họ giảng sau ngày lễ Phục Sinh đầu tiên. Chúng ta hãy để Chúa Giêsu giúp chúng ta biết yêu thương trở lại sau khi tình yêu của chúng ta đã bị ai đó từ chối, chúng ta hãy để Chúa Giêsu giúp chúng ta tin tưởng trở lại sau khi niềm tin của chúng ta đã bị kẻ khác phản bội, hãy để Chúa Giêsu giúp chúng ta hy vọng trở lại sau khi chúng ta đã thấy niềm hy vọng của mình bị lung lay và tàn lụi.
Niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện Chúa Kitô Phục sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong cầu nguyện, trong Lời Chúa và trong khi thi hành điều răn mới, đó là yêu thương của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy sống tâm tình tin tưởng và yêu mến. Tin Chúa đã và đang sống, đang hiện diện và không ngừng ban ơn thánh hoá ta trong và qua các Bí tích nhất là bí tích thánh Thể và giao hoà, chúng ta tin và đón nhận với lòng yêu mến.
Lạy Chúa phục sinh, xin cho chúng con hân hoan sống tâm tình tin tưởng và yêu mến. Tin Chúa đang hiện diện. Yêu mến thờ phượng Chúa và yêu thương như Chúa yêu. Amen.
45. Xác nhận lòng tin
(McCarthy)
Suy Niệm 1. BƯỚC NHẢY VỌT CỦA LÒNG TIN
Đôi khi, chúng ta ghen tị với các Tông đồ và các môn đệ đầu tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất cả các Kitô hữu sau này, bởi vì họ thực sự nhìn thấy Đức Giêsu, đôi bàn tay của họ đã được đụng chạm vào Người. Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ. Và chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng đối với chúng ta, nếu giống như các Tông đồ, chỉ cần cá nhân chúng ta có thể được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc giống như các môn đệ đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy những phép lạ mà Người đã thực hiện cho chúng ta.
Vâng, các môn đệ đầu tiên có lợi thế được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo ra bất cứ sự dễ dàng nào hơn cho lòng tin của họ? Khi nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì? Họ không thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ chỉ nhìn thấy một con người có bên ngoài hình giống như họ.nhưng khởi đi từ đó, để tin tưởng được rằng Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác vĩ đại của lòng tin.
Điều này giải thích cho sự kiện rằng có nhiều người đã từng được nghe Đức Giêsu nói và được nhìn thấy Người hành động, mà vẫn không hề có lòng tin nơi Người. Ngay cả chính bản thân các Tông đồ, đã từng được ở với Người ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm tin. Được nhìn thấy không nhất thiết là tin tưởng.
Cú sốc do cuộc thương khó và cái chết trên thánh giá của Người gây ra, quả thật là quá lớn lao, đến nỗi làm cho các Tông đồ chậm tin tưởng vào nguồn tin tức về Sự Sống Lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối ngày Phục Sinh. Người đã khiển trách họ vì sự không tin tưởng và sự cứng lòng của họ, bởi vì họ đã không chịu tin lời những người đã được nhìn thấy Người, sau khi Người sống lại (Mc 16,14).
Tất cả những điều này để lại cho cái gì cho chúng ta? Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các Tông đồ đã nhìn thấy Người. Chúng ta không thể hiện diện trong căn phòng nơi diễn ra các sự kiện của Tuần Thánh, khi Đức Giêsu ghé vào. Chúng ta không thể được xỏ tay vào những vết thương của Đức Giêsu. Chúng ta không thể được nhìn vào khuôn mặt của Người và nói “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Chúng ta phải sống bằng lòng tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi Đức Giêsu, thì chúng ta phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng bằng cách nào để những người như chúng ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu? Chúng ta phải làm gì, để có được lòng tin?
Chúng ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì là những môn đệ gián tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức nào đó, nhưng lại dễ dàng hơn theo cách khác. Mọi sự đều khó khăn hơn, bởi vì 20 thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều lớp bụi đã phủ lên, ánh sáng đã bị phai mờ. Nhưng về khía cạnh tích cực, khái niệm rằng Con Thiên Chúa bước đi trên trái đất đã trở nên “tự nhiên” theo thời gian, và vì thế, theo cách thức nào đó, đã lại trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi mãn thời, thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau –tất cả đều phải làm một cú nhảy của lòng tin. Chúng ta trở nên những người môn đệ thông qua lòng tin.
Các bạn bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy và nghe tiếng Người nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục Sinh, nhưng cuộc sống của họ đã được hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả năng bước đi trong niềm hy vọng, bởi vì chúng ta biết rằng lòng tốt sẽ chiến thắng sự dữ, và sự sống sẽ chiến thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.
Suy Niệm 2. VIẾNG MỘ
Vào buổi sáng Phục Sinh, các phụ nữ đi ra ngôi mộ, nơi chôn cất Đức Giêsu. Họ phải thực hiện một công việc u buồn –hoàn tật việc ướp xác Đức Giêsu. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất để họ đi ra mộ. Họ muốn được gần gũi với Đấng đã đem lại thoả mãn cho cuộc sống của họ, và cái chết của Người đã nhận chìm họ vào một nỗi u buồn không thể nào khuây khoả được.
Bản thân chúng ta cũng thường làm điều tương tự như vậy. Khi một người thân yêu nào đó của chúng ta qua đời, chúng ta nhận thấy thật khó chấp nhận được là người đó đã vĩnh viễn rời xa khỏi chúng ta. Chúng ta cảm thấy có nhu cầu duy trì mối quan hệ với người chết. Một trong những cách thức để chúng ta đáp ứng được nhu cầu này, đó là đi viếng mộ. Tuy nhiên, thay vì làm dịu đi nỗi đau của sự mất mát, thì điều này lại có thể làm cho nỗi đau đó càng gia tăng thêm. Điều này thậm chí có khuynh hướng làm cho kẻ chết lại càng đúng là kẻ chết hơn, bởi vì không có nơi nào làm cho chúng ta tin chắc chắn rằng người thân yêu của chúng ta đã bị chết, cho bằng ở ngay tại mộ.
Trong buổi sáng ngày Phục Sinh đầu tiên đó, nếu mọi việc cứ diễn tiến như lòng mong muốn, thì các phụ nữ sẽ ướp xác Đức Giêsu, đóng cửa mộ lại, và hơn bao giờ hết, họ càng thêm tin tưởng rằng sự kiện xảy ra trong ngày Thứ Sáu không phải là một cơn ác mộng, mà là một thực tại khủng khiếp. Nhưng mọi việc lại không diễn ra như dự định.
Tại mộ, họ đã gặp hai thiên thần, hai vị đó đã nói với họ “Tại sao các bà lại đi tìm người sống giữa kẻ chết? Người không còn ở đây nữa, nhưng Người đã sống lại rồi”. Sứ điệp Phục Sinh lần đầu tiên được gửi đến cho những nữ môn đệ có lòng tin này: Đức Giêsu không chết, Người đang sống. Như vậy, họ không được phí phạm thì giờ trong việc tìm kiếm Người tại chốn mồ mả.
Tất cả chúng ta thường cảm thấy đau buồn khi ở trong nghĩa trang, vì tại đó, tất cả mọi sự đều nói lên cái chết. Tuy nhiên, chính tại một nơi như vậy, mà lần đầu tiên sự sống lại đã được loan báo. Thật là phù hợp khi tại nơi đây, một nơi dường như cái chết thống trị, mà tin vui về sự sống lại của Đức Giêsu lần đầu tiên đã được công bố.
Thông qua tiếng nói của Phụng vụ, cũng sứ điệp đó đem đến cho chúng ta: Đừng tìm kiếm người thân yêu của bạn tại mộ. Người chết không còn ở đó nữa. Đức Giêsu đã chế ngự cái chết, không phải chỉ cho bản thân Người, nhưng cho tất cả chúng ta. Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, chúng ta sẽ được đi theo Người. Vậy đối với người Kitô hữu, theo ý nghĩa cuối cùng của sự huỷ diệt, không có điều gì giống như cái chết. Những người thân yêu đã qua đời của chúng ta không phải là người chết nữa, họ vẫn còn sống, thậm chí họ còn được sống một cuộc sống thực sự và đẹp đẽ hơn cả chúng ta. Họ không ở cách xa chúng ta. Những người nào được chết trong ơn nghĩa Chúa, họ không ở cách xa chúng ta hơn so với Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì rất gần gũi với chúng ta.
Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua đời của chúng ta, trong trường hợp họ vẫn còn cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Và chúng ta hãy tiếp tục đi viếng nghĩa trang, nếu điều này giúp cho ký ức về họ được sống động. Nhưng chúng ta đừng tìm kiếm họ tại đó. Và nếu nỗi buồn vẫn cứ đeo đẳng trong tâm hồn chúng ta, thì nhờ sự kiện đã xảy ra vào buổi sáng ngày Phục Sinh, nỗi buồn của chúng ta sẽ được hoà lẫn với một niềm hy vọng âm thầm.
NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC
1. Viktor Frankl đã trải qua 3 năm tại Auschwitz. Anh vẫn còn sống sót, mặc dù vợ và gia đình của anh đều đã chết. Anh kể lại rằng vào một ngày kia, liên sau khi được phóng thích khỏi trại giam, anh đã đi bộ xuyên suốt vùng đồng quê, hướng về khu phố chợ, cách trại giam vài dặm đường.
Cánh đồng cỏ trổ đầy hoa. Những con chim chiền chiện hót vang trong khi bay vào bầu trời. Suốt nhiều dặm khắp chung quanh đó, anh không nhìn thấy một người nào, không có gì cả, ngoại trừ mặt đất và bầu trời bao la, tiếng hót của những con chim chiền chiện, và sự thoáng đãng của không gian. Anh dừng chân lại, nhìn ra chung quanh mình, rồi ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh. Thế rồi anh quỳ gối xuống cám ơn Thiên Chúa, vì đã được phóng thích. Trong khi cầu nguyện, một câu nói chợt nảy đến trong anh, diễn tả được cảm giác mà anh đang có: “Tôi đã kêu cầu Thiên Chúa từ nơi nhà tù chật hẹp của tôi, và Người đã đáp lại trong sự tự do của không gian”.
Anh không thể nói được là mình đã quỳ gối tại đó trong bao lâu, miệng cứ lập đi lập lại câu nói này. Nhưng sau này, anh kể “Trong ngày hôm đó và ngay tại thời điểm đó, cuộc sống mới của tôi bắt đầu. Tôi tiến triển từng bước một, cho đến khi một lần nữa, tôi được trở thành một con người”.
Chúng ta không thể tách biệt niềm vui mà Frankl đã cảm nhận được ngày hôm đó, trong một cánh đồng phủ đầy hoa, với nỗi đau khổ mà anh đã trải qua trong trại giam. Trên thực tế, niềm vui này sẽ không có ý nghĩa, nếu trước đó, không xảy ra nỗi đau khổ. Tương tự như vậy, chúng ta không thể tách biệt sự sống lại của Đức Giêsu với cuộc thương khó và cái chết của Người. Không thể tách biệt vinh quang của Người với nỗi đau đớn của Người. Mặc dù một cách chậm chạp, nhưng các Kitô hữu tiên khởi đã thấu hiểu rằng cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu chính là cách thế để Người đi vào trong vinh quang của Người. Chúng ta không thể có được ngày Chúa Nhật Phục Sinh, mà không có ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng khi đang trải qua ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thì chúng ta nên nhớ đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh.
2. Sáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh, khi các nữ môn đệ lên đường đi ra viếng mộ Đức Giêsu, thì họ rất thắc mắc rằng: Ai đã lăn tảng đá lớn đặt ở lối đi vào mộ?
Có một người đàn ông đã cãi nhau với cha của mình, hậu quả là suốt mấy năm trời, anh ta không hề nói chuyện với ông cụ, mặc dù hai cha con chỉ sống cách xa nhau vài dặm đường. Anh ta là người con trai duy nhất; mẹ của anh đã rời bỏ gia đình. Vì thế hiện nay, ông cụ sống cô đơn một mình. Thế giới của ông càng ngày càng nhỏ bé và tối tăm hơn, với từng ngày trôi qua. Ông cụ chưa chết đi, nhưng về mặt ý nghĩa, thì ông cụ đã như ở trong mồ rồi.
Chúng ta kinh ngạc về năng quyền mà Đức Giêsu có, để cho kẻ chết sống lại, quả thật đúng là như thế. Chẳng hạn, người con trai trong câu chuyện trên có thể lăn tảng đá ra khỏi ngôi mộ của người cha. Bằng một lời nói hoặc một cử chỉ, anh ta có thể giải thoát ông cụ khỏi ngôi mộ của nỗi cô đơn và tuyệt vọng của ông. Và bằng cách giúp đỡ người cha, anh ta cũng sẽ giúp đỡ được chính bản thân mình. Đây là một trong những cách đền bù đáng quý của cuộc sống, mà chúng ta không thể làm phấn chấn tinh thần cho người khác, nếu chúng ta không biết cũng tự gây phấn khởi cho chính bản thân mình.
46. Tình yêu gặp bối rối
(William Barclay)
Không ai yêu thương Chúa Giêsu bằng Maria Macđala. Luca cho chúng ta biết đã có bảy quỷ bị đuổi ra khỏi bà. Điều Chúa Giêsu làm cho bà không ai làm được và bà không thể nào quên. Có ý kiến vẫn cho rằng bà là tội nhân đáng ghê tởm mà Chúa Giêsu đã kêu gọi, đã tha thứ và thanh tẩy. Bà đã phạm tội nhiều, và cũng yêu mến nhiều, tình yêu thương là tất cả những gì bà cần đem đến.
Tại Palestine có phong tục viếng mộ người thân ba ngày sau khi thi hài được đặt vào phần mộ. Họ tin linh hồn người chết còn bay lượn và chờ đợi chung quanh phần mộ luôn ba ngày, sau đó mới bỏ đi, vì lúc đó thi thể không còn nhận diện được nữa, bởi đã bắt đầu thối rữa. Các bạn thân của Chúa Giêsu không thể nào không đến viếng mộ Ngài vào ngày Sabát là ngày thứ bảy của chúng ta. Vậy Maria đến mộ trước tiên vào ngày Chúa nhật. Bà đến thật sớm, chữ “rạng đông” là proi, chỉ canh chót trong bốn canh của đêm, từ ba giờ đến sáu giờ sáng. Lúc Maria đến mộ, trời còn mờ mờ, vì quá nóng lòng bà không thể trì hoãn hơn nữa.
Khi đến mộ, bà vô cùng kinh ngạc. Mồ mả thời xưa thường không có cửa để đóng lại. Tại lối ra vào mộ có một đường rãnh dưới mặt đất, trên có một tảng đá tròn như chiếc bánh xe, tảng đá được lăn vào chặn vào chỗ xem như cửa mộ, để bảo đảm không có ai lăn tảng đá ấy đi (Mt 27,26). Maria kinh hoàng khi thấy tảng đá đó đã bị lăn ra. Có hai điều xuất hiện trong trí bà. Bà nghĩ là người Do Thái đã lấy xác Chúa Giêsu đem đi nơi khác, vì họ chưa bằng lòng với việc giết Ngài trên thập giá mà còn muốn làm nhục thi thể Ngài thêm nữa. Cũng có một số người bất lương chuyên nghề đào mộ để ăn trộm xác. Có lẽ Maria nghĩ người ta đã lẻn vào trong mộ ăn cắp xác Chúa.
Đây là một tình cảnh mà Maria Macđala cảm thấy không thể đối phó được, nên chạy vào thành tìm Phêrô và Gioan. Maria là trường hợp tiêu biểu cho một người cứ tiếp tục yêu thương, cứ tiếp tục tin tưởng, dù mình không hiểu được. Đó là loại yêu thương, loại tin tưởng đến cuối cùng sẽ được tôn vinh.
PHÁT GIÁC QUAN TRỌNG
Câu chuyện ở đây cho thấy Phêrô vẫn còn là vị thủ lãnh mà các Tông đồ thừa nhận. Bà Maria đến tìm ông, bất chấp việc ông đã chối Chúa –việc chối Chúa của Phêrô hẳn là được loan truyền ra khắp nơi nhanh chóng lắm- Phêrô vẫn là người đứng đầu. Chúng ta vẫn thường nói đến nhược điểm và tính khí bất thường của ông, nhưng hẳn nơi con người ấy phải có một cái gì ưu việt hơn, mới khiến ông có thể đối mặt các đồng bạn sau cái vấp ngã tai hại biến ông thành kẻ hèn nhát. Nơi con người ông hẳn phải có một điểm gì đó khiến những người kia sẵn sàng thừa nhận ông vẫn là lãnh tụ sau biến cố đó. Sự yếu đuối nhất thời của Phêrô không thể bịt mắt chúng ta trước sức mạnh đạo đức cùng tầm vóc của ông, và trước sự kiện ông là người sinh ra để lãnh đạo.
Bây giờ, một điểm khác khiến Gioan chú ý: Các đồ khâm liệm không bị vứt bừa bãi vô trật tự, nhưng đều nằm y nguyên tại chỗ. Theo nguyên văn Hy Lạp có nghĩa là vải liệm nằm tại chỗ thi thể đã nằm, chiếc khăn nằm tại chỗ đặt cái đầu. Đồ khâm liệm không có vẻ gì là bị tháo ra và dẹp đi, nhưng đều nằm đúng chỗ vốn được sắp xếp, dường như chỉ có xác là biến mất khỏi đó. Khi thấy như vậy, Gioan biết ngay là có chuyện gì xảy ra và ông tin. Không phải những gì Gioan đã đọc trong Thánh Kinh thuyết phục ông tin Chúa Giêsu sống lại, nhưng chính những gì ông đang chứng kiến tận mắt.
Vai trò của tình yêu trong câu chuyện này thật phi thường. Chính bà Maria người yêu mến Chúa rất nhiều, đã đến mộ trước nhất. Chính Gioan, môn đệ được Chúa yêu mến và yêu Chúa, là người đầu tiên tin vào sự sống lại. Điều này luôn luôn là vinh dự lớn của Gioan. Ông là người đầu tiên hiểu và tin. Tình yêu đã cho cặp mắt ông đọc được các dấu hiệu, và tâm trí ông thấu hiểu sự việc.
Ở đây, chúng ta thấy quy luật quan trọng của đời sống. Bất luận việc gì, chúng ta không thể giải thích được tư tưởng của người khác, trừ phi giữa ta với họ có mối dây ưu ái, cảm thương nhau. Không ai có thể diễn thuyết hay viết lại thành công, cuộc đời, sự nghiệp của một người mà mình không thiện cảm. Các thính giả có thể thấy rõ một ca sĩ có thiện cảm với nhà soạn nhạc như thế nào qua tác phẩm đang trình diễn. Tình yêu là nhà lý giải vĩ đại. Tình yêu có thể biết ngay ý nghĩa sự việc mà nghiên cứu tìm tòi chẳng nhìn thấy. Người ta kể, có một hoạ sĩ trẻ đem tranh ông vẽ Chúa Giêsu đến để Dore cho ý kiến. Ông chần chừ, cuối cùng chỉ nói một câu: “Anh không yêu Ngài, bằng không anh đã vẽ Ngài đẹp hơn”. Chúng ta chẳng bao giờ hiểu Chúa Giêsu hoặc giúp người khác hiểu được Ngài, trừ phi chúng ta dành hết lòng và trí mình cho Ngài.
47. Phục Sinh
Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới, đều hân hoan mừng kính cuộc chiến thắng khải hoàn của Đấng Cứu Thế trên tội lỗi và sự chết. Chúa Giêsu đã bị giết chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, nhưng ngày thứ ba sau khi chết, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử.
Chúa đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật về biến cố này nhưng đều không cho biết Chúa Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự không có ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng đó. Nhưng có những nhân chứng đã nhìn thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên, nghĩa là không thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm. Cho nên, việc Chúa sống lại, đối với chúng ta hôm nay, vấn đề chính yếu là tin: không thấy mà tin.
Anh chị em có bao giờ thấy, chụp hình hay đo lường được tình yêu không? Chỉ thấy qua hậu quả thôi phải không? Thấy họ hay đi với nhau, thấy họ thường ngồi nói chuyện với nhau, thấy họ có những cử chỉ thân mật với nhau… chúng ta biết họ yêu thương nhau. Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục sinh cũng thế, chúng ta không thấy Chúa sống lại, nhưng chúng ta tin, vì Kinh Thánh đã nói về việc Ngài Phục sinh, lòng tin của Giáo Hội hai mươi thế kỷ qua: Chúng ta tôn thờ Đấng bị đóng đinh trên thập giá, chúng ta tôn thờ Đấng đang ngự trong nhà chầu… là chúng ta tin Chúa Giêsu đang sống, chứ không phải tôn thờ Ngài đã chết, không còn liên hệ gì đến chúng ta. Không, chúng ta tin Chúa đang sống, Ngài đang điều hành vũ trụ này, Ngài có mặt khắp nơi, Ngài đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường, ngõ ngách… đâu đâu cũng có Ngài, Ngài là Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu. Vì thế, biến cố Phục sinh là nòng cốt của niềm tin Công giáo. Niềm tin này kéo theo nhiều niềm tin khác: tin Chúa Giêsu Phục sinh không chỉ là một nhân vật lịch sử được ghi chép lại, nhưng là một lòng tin vẫn sống động trong lịch sử hôm nay. Chúng ta không chỉ biết về Ngài mà thôi, nhưng chúng ta thực sự gặp gỡ chính Ngài, như Ngài đang sống động hiện diện giữa chúng ta.
Nói rõ hơn, vì Chúa đã sống lại thật, nên chúng ta không chỉ nghe biết về Chúa như nghe biết một nhân vật nào đó, chẳng hạn như ông tổng thống Mỹ, ông chủ tịch nhà nước Trung Quốc, ông vua này, bà hoàng nọ. Nhưng có một khác biệt sâu xa giữa việc nghe biết về một con người bình thường hay về những nhân vật lịch sử, vì họ đã chết và đã biến khỏi mặt đất. Với Chúa Giêsu thì khác hẳn, Ngài đã sống lại và đang sống. Chúng ta biết Ngài và gặp gỡ Ngài một cách thực sự.
Tiếp đến, chúng ta tin Chúa sống lại là chúng ta tin chúng ta được cứu chuộc. Bởi vì Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại. Nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác, thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa và Ngài có quyền cứu chuộc tất cả chúng ta.
Đàng khác, Chúa sống lại còn là niềm hy vọng cho chúng ta: tất cả chúng ta cũng sẽ sống lại. Thân xác chúng ta sẽ sống lại, đúng như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Bởi vì thân xác sống lại là hiệu quả của mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu, như Kinh Thánh đã nói: “Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại với Chúa Giêsu”. Như vậy, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và cho hết thảy chúng ta được chung hưởng chiến thắng đó.
Tóm lại, ngày đại lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta xác tín: Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Ngài đang sống thật sự và đang ở với những ai tin Ngài, trong đó có chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cố gắng sống như những người đã được cứu chuộc: sống công bình và yêu thương, sống vui vẻ và phấn khởi, để cuộc đời chúng ta luôn là một lời ca “Allêluia” chứng nhân cho Chúa.
48. Phục Sinh
Tầm thức trả thù ăn sâu vào trong con người tội lỗi chúng ta đến nỗi chết rồi mà cũng không dung tha. Thật là một tâm thức nghịch lại với thái độ sống của Chúa Kitô, Ngài đã giảng dạy sự tha thứ, đã chịu chết và đã sống lại, đã tha thứ cho con người và dạy con người sống tha thứ cho nhau.
Tin Mừng Chúa sống lại là Tin Mừng của sự tha thứ. Thiên Chúa tha thứ cho con người và con người một khi chấp nhận Tin Mừng sống lại cũng phải sống tinh thần tha thứ này. Chúa Kitô sống lại có ích gì cho chúng ta, nếu chúng ta không sống lại, không để cho ơn Chúa biến đổi mình trở nên con người mới giống hình ảnh của Ngài.
Nơi bài đọc 2 chúng ta nghe thánh Phaolô khuyên các tín hữu Côlôsê như sau: “Nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô thì anh em hãy tìm những sự trên trời nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Những sự trên trời đó không phải là những viễn vông, mơ mộng, không thực tế theo tâm thức người đời, không tin Thiên Chúa, nhưng là những điều rất đòi hỏi và rất thiết thực. Đó là sự sống đời đời, và để đạt đến sự sống đời đời này người đồ đệ của Chúa phải cố gắng hết sức mình để yêu thương phục vụ anh chị em.
Sống hướng về trời để có đủ tinh thần mà tha thứ những xúc phạm của tha nhân và hy sinh những lợi lộc ích kỷ mà từ bỏ những mưu toan hại người, để ra tay nâng đỡ phục vụ anh chị em, nêu cao khuyến khích anh chị em khi anh chị em lỡ lầm đồng thời giúp họ đừng tiếp tục làm điều xấu nữa.
Sống hướng về trời, về những điều trên trời là điều cần thiết như người đi ngoài biển khơi không có địa bàn phải nhìn lên những ánh sao sáng trên trời để định hướng thuyền đời mình đạt đến bến bờ. Chúng ta sẽ bị lạc vào trong những tranh chấp hận thù, bị rơi vào trong sự u buồn liên lỉ, trong sự áy náy bứt rứt lương tâm, nếu chúng ta không hướng về Chúa và lãnh nhận ơn Phục sinh của Ngài.
Các tông đồ đã sống trong lo âu hồi hộp khi Chúa bị treo trên thập giá, khi họ chưa hiểu gì về mầu nhiệm sống lại của Chúa. Biến cố mồ trống mà Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta là một lời mời gọi Maria, Gioan, Phêrô, mời gọi những kẻ đã theo Chúa hãy vượt qua những giới hạn của tâm thức trần tục của họ để nhìn thấy được sự Phục sinh của Chúa, để cho ơn Chúa biến đổi cuộc đời mình, hầu giúp chúng ta trở thành những chứng nhân rao giảng sự tha thứ của Thiên Chúa.
Có một du khách đến thăm xưởng chế tạo các địa bàn, khi qua phòng trưng bày các mẫu kiểu địa bàn, du khách đã thắc mắc hỏi: Tại sao có một số địa bàn có cây kim luôn chỉ về hướng bắc, còn một số địa bàn khác thì không, kim chỉ lung tung. Hướng dẫn viên trả lời: Những địa bàn có kim chỉ đúng phương hướng là những địa bàn đã thực sự trọn hảo, đã được chuyển sức hút từ trường vào trong đó để cây kim chính luôn hướng về hướng bắc. Còn những địa bàn có kim chỉ lung tung là những địa bàn chưa nên trọn, chưa có sức từ trường và không thể hoạt động theo từ trường. Đây là những mẫu trưng cho du khách nhìn chơi mà thôi, chứ không có ích lợi gì cả.
Hình ảnh chiếc địa bàn có thể được dùng để nói về người đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trong một thời đại, như có hai loại địa bàn cũng có thể có hai loại người Kitô. Chiếc địa bàn chưa trọn không có sức từ trường tượng trưng cho người Kitô “hữu danh vô thực”, có tên gọi là người Kitô hữu nhưng không có thực tế, không có sức sống của Chúa Kitô Phục sinh chuyển vào, nên như chiếc địa bàn chỉ lung tung, làm lung tung, nói lung tung, dở dở ương ương đang theo những chiều gió cám dỗ thổi đâu cũng được.
Còn mẫu người Kitô hữu thứ hai như những địa bàn đã nên trọn, đã hoàn tất, có sức thu hút từ trường. Họ là những người Kitô hữu đã lãnh nhận sức sống từ Chúa Phục sinh, luôn luôn sống kết hợp với Chúa, luôn qui hướng về Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh như địa bàn chỉ về hướng bắc mà do đó mới có thể trở nên trọn nơi chính thực thể của mình và nên hữu ích cho anh chị em xung quanh.
Việc chuyển sức từ trường vào chiếc địa bàn là một tác động tự động máy móc, việc chuyển sức sống của Chúa Kitô Phục sinh vào con người chúng ta là một hành động đặc biệt không thể nào giống như một trò ảo thuật chỉ hô một tiếng thì có liền ngay.
Chúa Kitô đã chọn các tông đồ và huấn luyện các ngài nhiều năm tháng với nhiều công sức, chuẩn bị cho các ngài trong giây phút trọng đại cuối cùng để tin nhận Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đi qua cái chết để tiến đến sự Phục sinh, để thực hiện trọn vẹn ơn cứu chuộc con người. Nhưng thử hỏi chúng ta đã nhìn thấy gì? Chúng ta đã nhìn thấy thái độ của các tông đồ như thế nào trước biến cố chết và sống lại của Chúa hay không?
Một thái độ không tin, lưỡng lự hay có tin thì cũng chưa vững vàng lắm. Hai người nữ đến mồ Chúa nhìn thấy dấu lạ, hòn đá che cửa mồ đã bị đẩy qua một bên thì vội vàng kết luận là có người ăn cắp xác của Thầy mình. Phêrô chạy đến nhìn thấy sự việc cũng không hiểu sao, chỉ có tông đồ Gioan người được Chúa Giêsu yêu dấu thì thấy và tin, nhưng thái độ tin lúc này cũng mới là khởi đầu. Lòng tin đó cần phải tiến sâu hơn nữa nhờ lời cầu nguyện, suy niệm lại những lời Chúa nói, những việc Chúa làm và được Chúa Thánh Thần tiếp sức thì mới đủ mạnh để làm chứng cho Chúa, để luôn luôn sống định hướng về Chúa như chiếc địa bàn đã được chuyển sức từ trường.
Từ một Phêrô lưỡng lự chưa hiểu Kinh Thánh, chưa hiểu chương trình hành động cứu rỗi của Thiên Chúa. Qua Chúa Kitô Phục sinh đến, một Phêrô đã vững tin dám đứng trước dân chúng để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh là Đấng cứu rỗi duy nhất như được mô tả trong bài đọc 1 của thánh lễ hôm nay.
Chúng ta hiểu là phải có biến cố tiếp sức của Chúa, biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống tràn đầy trên các tông đồ, trong mọi đồ đệ của Chúa Kitô. Không thể nào chỉ dừng lại ở Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá để than khóc lo sợ, nhưng không thể nào chỉ chú mình tôn thờ Chúa Kitô Phục sinh cho riêng mình như Maria khi được Chúa hiện ra thì bà sụp lạy quỳ dưới chân Chúa. Chúa bảo bà hãy ra đi, hãy mang Tin Mừng đến cho các tông đồ khác, cho những ai chưa tin. Chúa muốn như chiếc địa bàn chỉ hướng về phía bắc. Người tín hữu Kitô chỉ hướng về một Chúa Kitô Phục sinh để từ đó mà có sức làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Mừng lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta hãy đem cuộc đời mình đến cho Chúa chuyển sức sống vào đó, cho chúng ta được Phục sinh với Chúa, được sống sức sống của Chúa, trở thành người Kitô hữu sống động.
49. Niềm hy vọng
Bản tin trên Internet ngày 23-3-1998 có ghi: “Nạn tự tử tại Nhật Bản đạt tới mức kỷ lục. Các giới Nhật Bản cho biết mức độ tự tử trong nước tăng đến mức báo động. Trong mười tháng của năm 1998, hơn 27.000 người tự sát. Hầu hết những người tự tử là các nhà quản lý hay doanh nghiệp, do ảnh hưởng tình trạng suy thoái kinh tế trong nước Nhật kéo dài”. Và báo Công giáo và Dân tộc số 1296 năm 2001: ở Ấn Độ đã có nhiều nông dân tự tử vì cảm thấy không còn lối thoát nào khác, khi giá nông sản giảm sút trầm trọng. Năm 2003 vừa qua có 120 người tự tử tại bang Pradesh và ở các bang khác cũng có những người tự tử tương tự.
Không chỉ riêng những nhà doanh nghiệp Nhật Bản, và các người nông dân Ấn Độ mà còn nhiều người khác nữa, khi họ đặt mục tiêu của cuộc đời là sống thành công, thành công trong học hành, trong gia đình, trong việc làm và thành công ngoài xã hội. Họ bỏ mọi công lao, sức lực, tài trí để mong đạt được ước mơ này. Nhưng khi kỳ vọng đó gặp trở ngại, thất bại, họ cảm thấy chán nản, đau buồn vô vọng và tìm cách quyên sinh.
Đối với các môn đệ Đức Giêsu, biến cố ngày thứ sáu đã làm cho dự tính tương lai của các ông tan thành mây khói. Bao nhiêu hy vọng đã bị chôn vùi trong ngôi mộ cùng với thân xác Đức Giêsu. Ngôi mộ biểu hiện cho sự thất bại hoàn toàn. Tâm trạng các môn đệ cũng giống như tâm trạng của những người nông dân Ấn Độ hay những thương gia Nhật Bản, cũng đau khổ thất vọng, tương lai xán lạn nay đã bị chôn vùi. Không những thế các môn đệ còn lo sợ, lo sợ bị truy lùng bởi hàng lãnh đạo Do thái. Họ đã giết Thầy, thì coi chừng môn đệ họ cũng không tha. Vì thế các ông phải trốn tránh.
Nhưng, khi nghe bà Maria Madalena báo tin: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết để Người ở đâu?”, thì tâm trạng của các ông lại biến đổi ngược lại, theo lẽ bình thường, khi nghe báo tin người ta đem xác Chúa đi đâu mất, thì sự sợ hãi của các ông càng tăng lên gấp bội. Nhưng ở đây, hai ông lại thoát khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Các ông rời bỏ nơi ẩn nấp, vội vã chạy đến mộ. Trong sự vội vã và náo nức ấy, chúng ta thấy có một cái dấu hiệu gì đó, một dấu hiệu hy vọng loé lên, các ông đang hướng về một niềm hy vọng, niềm hy vọng này còn mơ hồ, nghi ngại, nhưng các ông vẫn chạy. Dù các ông đã biết xác Chúa không còn trong mộ nữa, nhưng họ vẫn chạy ra mộ, ra mộ không phải để thấy xác Chúa, mà họ hy vọng một tương lai, và để rồi chính nơi đây niềm hy vọng đã loé lên trong họ bây giờ được bừng sáng.
Thế nhưng, các ông đã thấy điều gì? Đã thấy Thầy mình chăng? Không! Các ông không thấy gì ngoài ngôi mộ trống rỗng với tảng đá lớn đã bị đẩy sang một bên, và những khăn liệm bên trong. Thánh Gioan cho chúng ta thấy Phêrô là người đầu tiên đi vào trong mộ. Ông thấy băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Nhưng không nói Phêrô có nhận ra dấu chỉ hay không? Phúc âm thánh Luca tường thuật lại rằng Phêrô chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng trở về nhà “rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết”. Còn Gioan, người môn đệ Đức Giêsu thương mến, ông cũng bước vào, ông đã thấy. Ông thấy cái gì? Ông cũng chỉ thấy những điều Phêrô đã thấy mà thôi. Nhưng ông đã nhận ra, nhận ra sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Nếu như xác bị ăn trộm, thì kẻ trộm đâu có thời giờ để gỡ vải liệm, và khăn cuốn đầu được cuộn lại và đặt đúng chỗ, bên trong băng vải? Như vậy không có bàn tay bên ngoài tham dự vào. Chỉ một mình Gioan, với tâm hồn nhạy cảm, ông đã nhận ra Thầy mình hiện đang ở đâu qua ngôi mộ trống. Chúng ta tự hỏi chỉ qua ngôi mộ trống mà Gioan xác tín Đức Giêsu đã Phục sinh? Thì xem ra niềm tin của Gioan không vững chắc, vì với một dấu chỉ mơ hồ là ngôi mộ trống mà ông đã tin: thật ra ông tin không phải dựa vào ngôi mộ, mà qua ngôi mộ và cách sắp xếp trong ngôi mộ, ông đã nhận ra Lời Chúa dạy dỗ các ông đã được ứng nghiệm: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.
Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao dấu chỉ, thế nhưng chúng ta có hiểu được, có đọc được ý nghĩa của dấu chỉ đó hay không? Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật… là những dấu chỉ còn hàm hồ, ẩn chứa bí mật! Chúng ta cần được giải thích: sự việc đó muốn nói gì? Cử chỉ đó hiểu như thế nào? Đó là một điều khó đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho Lời của Chúa soi sáng, để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta sẽ hiểu được các biến cố đó.
Biến cố Phục sinh làm biến đổi hoàn toàn đời sống các môn đệ. Đời của họ đã giở sang một trang mới, mà không một khó khăn nào cản trở được niềm tin vào Đức Kitô, tin rằng sẽ được hưởng phúc vinh quang với Ngài, cho dù bao nhiêu lần bị đói khát, đánh đòn, tù đày… Nếu sự Phục sinh của Chúa Giêsu thật cần thiết cho các môn đệ, thì sự Phục sinh cũng thật cần thiết cho cuộc sống hôm nay của nhân loại, một cuộc sống còn nhiều khó khăn, đau khổ, chết chóc… Những lúc đó, chúng ta cần phải có sự nhạy cảm như Gioan, nhận ra Đấng Phục sinh, Đấng của niềm hy vọng. Người đã Phục sinh để khai mở một thế giới mới, một thế giới của công bình và bác ái, hoan lạc và bình an, khai mở một nhân loại mới, trong đó mọi người là anh em. Khi khai mở một thế giới mới, một nhân loại mới, Người đã cống hiến cho chúng ta một tương lai có khả năng lấp đầy những khát vọng sâu xa chất chứa trong lòng con người, khát vọng vốn làm nên biết bao dự phóng đời người.
Thế nhưng, trong đời sống nhiều khi chúng ta còn gặp biết bao nhiêu khó khăn, thử thách: trong công việc làm ăn, chúng ta cố gắng làm ăn lương thiện, nhưng vẫn thất bại, trì trệ không phát triển được; rồi bao nhiêu cố gắng trong việc giáo dục con cái, thế nhưng vẫn không thành công, cũng như nhiều lần bị hiểu lầm, bị lừa gạt làm cho chúng ta đánh mất đi niềm tin trong cuộc sống. Những lúc đó chúng ta có còn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, có còn dám tin tưởng và đặt hy vọng vào Đức Kitô hay không? Và nếu như một khi nhìn ra sự hiện diện và nghe được lời mời gọi của Đấng Phục sinh, đặc biệt là những biến cố đau thương, chúng ta có khả năng biến cuộc sống thành lời hy vọng hay không?
Như vậy, hy vọng của chúng ta, không phải là những thành công, những lợi lộc, tiếng tăm… ở trần gian này, vì chúng ta biết rằng đây chỉ là điều tạm thời, chóng qua, không có giá trị lâu bền, nó không làm cho tâm hồn chúng ta hạnh phúc được và khi chết chúng ta cũng chẳng mang đi được. Hy vọng của chúng ta chính là Đức Kitô, là Đấng đang sống, hiện đang ngự bên hữu Chúa Cha và đang cầu bầu cho chúng ta.
Trong niềm vui của ngày Chúa Phục sinh, chúng ta xin Chúa Kitô ban cho chúng ta nguồn hy vọng để biết nhìn thấy quyền năng sống lại của Thiên Chúa trong các cơn thử thách. Xin Ngài lăn tảng đá che lấp hy vọng ra khỏi cuộc đời chúng ta. Để rồi mỗi người chúng ta trở nên chứng nhân hy vọng, là dấu chỉ, là ánh sáng phục sinh chiếu toả cho những anh chị em đang sống trong sự thất vọng.
50. Ra khỏi mồ
Đại lễ Phục Sinh giúp chúng ta tưởng niệm lại biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại; ngày Chúa sống lại ra khỏi mồ một cách vinh hiển. Biến cố ấy chính là niềm hy vọng, là điểm đến và mong ước của toàn thể nhân loại. nếu Chúa Giêsu không sống lại thì bao nhiêu hy sinh mơ ước của con người ở trần thế này không còn ý nghĩa gì nữa.
Để nói về sự Phục Sinh! là một điều rất khó thuyết phục cho những kẻ cứng tin, hay cho những người chống đối. Cũng còn một số những người tin đó là một biền cố thật sự thì lại cố ý bóp méo hoặc nói sai lệch đi vì một nguyên nhân nào đó, như những tên lính canh chẳng hạn. Còn cuộc sống tân tiến như ngày nay thì họ xem cuộc sống lại mai sau là một cái gì huyền bí giả tưởng. mọi điều ophải được chứng thực bằng mắt thấy tai nghe, bằng những phương pháp mà họ có thể thử nghiệm được thì họ mới tin. Cho dù chúng ta tin hay không thì Thiên Chúa chết và sống lại cũng là một chân lý mà tất cả sự kiện và lịch sử đó đã được xảy ra hơn hai ngàn năm nay. Và trong thực tế cũng có rất nhiều lý chứng xác nhận Đức Giêsu Phục Sinh là sự thật.
Ngôi mồ trống và khăn liệm.
Người đầu tiên nhìn thấy ngôi mồ trống là Maria Madalena, bà đã nhìn vào trong mồ và thấy ngôi mộ trống, mà cho dù ngôi mộ cố trống thì cũng không thể khẳng định là Đức Giêsu đã sống lại. Nhưng lúc đó bà Madalêna cũng không nghĩ là Chúa đã sống lại thật. Bà chỉ nghĩ theo lẽ tự nhiên là: "người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ". Vật chứng tiếp thao là khăn liệm, một vật chứng rất có giá trị về sự Phục Sinh của Đức Giêsu, hiện nay vẫn còn được giữ tại nhà thờ thánh Gioan, ở Turin Bắc nước Ý. Bên trong trong mồ các khăn liệm vẫn còn khác với Lazarô khi sống lại "chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn". Khi sống lại Chúa Giêsu không cần đến sự trợ giúp của ai khác, Vì chính Người đã lăn tảng đá đóng kín mồ thề nào, thì Người cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn phủ mặt thế ấy. Sự kiện các khăn liệm còn đó, và khăn phủ mặt được buộc lại để riêng một chỗ, loại bỏ giả thiết của Madalena, cũng như những người cho rằng xác Chúa đã bị đánh cắp. Vì không đời nào người trộm xác lại có thời gian thảnh thơi lột các khăn liệm ra sắp xếp lại cho ngay ngắn rồi mới ôm xác đi. Điều đó thật vô lý.
Như vậy khăn che mặt còn là một dấu chỉ vững chắc cho việc Chúa sống lại. Cũng nhờ dấu chỉ này mà Gioan đã tin Chúa sống lại ngay khi vừa mới bước vào trong mồ. Đây cũng là dấu chỉ cho tất cả những người đang còn nghi ngờ về sự Phục sinh của Chúa. Nếu chúng ta không đích thân thấy Chúa sống lại để tin, thì chúng ta cũng phải biết nhìn vào các dấu chỉ này để tin.
Đời sống chứng nhân.
Đức tin cũa chúng ta chỉ có thể đặt trên nền tảng của các nhân chứng, của những người đã được sống với Chúa. Có thể nói họ là những người gần gũi với Chúa như "hình với bóng". Hằng ngày họ được tiếp cận, gặp gỡ và hiểu Ngài hơn ai hết. Chính họ là những người đã chứng kiến tận mắt và sờ tận tay cuộc khổ nạn, cái chết trên thập giá và sự sống lại của Người, và chứng từ của họ đã được chứng minh bằng chính giá máu, bằng chính cuộc sống của họ. Và như thề, chứng từ của họ là sự thật, vì không bao giờ có ai sẵn sàng chết cho một sự dối trá lừa đảo. Nhất là chứng thực của Thánh Phaolô. Ngày xưa Chúa vẫn là kẻ thù của Chúa, đi bắt đạo khắp nơi. Thế mà bỗng dưng ông thay đổi thái độ, bỏ chức quyền giàu sang, trở thàh thù địch của dòng họ chỉ vì tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh. Trước đời sống hoàn toàn tận hiến cho Chúa Phục Sinh của ông và của các tông đồ, không còn có thể nói rằng chân lý ấy là một sự lường gạt dối trá nữa.
Cuối cùng ta cò thể kết luận: chúa giêsu đã sống lại và không ai có thể chối cãi. Những bằng chứng về sự Phục Sinh rất nhiều hiển nhiên, với hơn hai ngàn năm lịch sử, nếu là một chuyện hoang đường về một người tử tội sống lại sẽ không còn tồn tại như thế.
Lạy Chúa, biến cố Phục Sinh đã thắp lên trong tâm hồn con niềm hy vọng chứa chan, bởi vì nếu trung thành phụng sự Chúa, con cũng sẽ được chia sẻ. được sống lại trong vinh quang với Chúa. Amen.
51. Lòng tin
Mỗi năm, vào ngày Chúa nhật Phục sinh, hàng chục ngàn khách hành hương tụ họp tại Quảng Trường thánh Phêrô ở Rôma, để được lãnh nhận phép lành Phục sinh của Đức Thánh Cha. Đây là một cơ hội tuyệt vời, bởi vì người kế vị thánh Phêrô công bố thông điệp Phục sinh: “Đức Kitô đã sống lại, Allêluia”. Ngài đang làm điều mà thánh Phêrô đã làm trong ngày lễ Phục sinh đầu tiên – ngài đang xác nhận lòng tin của các tín hữu. Và có thể chắc chắn rằng điều này xác nhận lòng tin của những người có dịp may được hiện diện tại đó.
Phêrô đang làm điều mà Chúa đòi hỏi nơi ông trong bữa Tiệc Ly, khi Người nói: “Simon, Simon ơi, kìa Satan xin được sàng anh như sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh”.
Phêrô phải củng cố lòng tin nơi các anh chị em của ông! Khi chúng ta xem xét cách thức ông hành động trong suốt cuộc thương khó, thì dường như ông có vẻ là người xa lạ. Làm thế nào một người có lòng tin không kiên định như vậy, mà lại xác nhận được lòng tin cho bất cứ ai? Chúng ta hãy nhớ lại một cách ngắn gọn hành động của ông trong đêm Đức Giêsu bị bắt.
Chúng ta vẫn nhớ những lời nói can đảm của ông trong bữa Tiệc Ly: “Thưa Thầy, ngay cả khi mọi người đều mất lòng tin vào Thầy, thì con sẽ không bao giờ mất lòng tin vào Thầy”. Ông thực sự chân thành khi nói những lời đó. Ông nghĩ rằng mình can đảm và mạnh mẽ. Nhưng chỉ một lúc sau, khi Đức Giêsu cảm thấy đau buồn, cô độc và sợ hãi trong vườn Cây Dầu, Người đã yêu cầu Phêrô canh thức với Người, nhưng ông vẫn không thể nào làm được điều đó – ông đã lăn ra ngủ vùi. Ông đã bỏ mặc Đức Giêsu phải uống chén đắng một mình. Điều tệ hại hơn đã phải đến.
Một lúc sau, trong đêm hôm đó, nơi sân nhà của vị thượng tế, có người quay sang Phêrô và nói “Thế chẳng phải ông là một trong những kẻ thuộc về ông Giêsu đó sao? Chẳng phải ông đã cùng ở trong vườn với ông ta sao?”. Và điều gì xảy ra? Không phải là một lần, mà đến ba lần, Phêrô đã chối Đức Giêsu, ông chối rằng mình chưa từng bao giờ biết Người. Thế rồi gà gáy. Đến lúc đó, Đức Giêsu quay lại nhìn Phêrô, và ngay tức khắc, Phêrô nhận ra được điều mình đã làm – ông đã chối không quen biết chính người bạn của mình. Rồi ông đi ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Đó là giây phút thấp hèn nhất trong cuộc đời ông. Ông đã nhận ra được một sự thật rất đau lòng về bản thân. Ông không thể mạnh mẽ, không thể can đảm hoặc quảng đại như ông đã nghĩ về mình. Nhưng Đức Giêsu không hề coi ông là đồ bỏ đi. Người đã nhìn thấy trước tất cả điều này. Thậm chí Người còn ngăn cản điều đó nữa. Nhưng Người vẫn tiếp tục tin tưởng nơi ông. Người biết rằng có một khía cạnh khác tốt đẹp hơn nơi Phêrô. Sau khi sống lại, Người đã phục hồi lại một Phêrô khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn ngay tại nơi mà Người đã từng ở trước đây, và đặt ông làm viên đá mà trên đó, Người sẽ xây dựng Giáo Hội của Người.
Và Phêrô đã trở nên người tốt lành. Ông được phục hồi và tiếp tục củng cố lòng tin cho những anh chị em trong cộng đoàn. Chính ông là người đã dẫn dắt các tông đồ, trong việc làm chứng về sự sống lại. (Bài đọc 1). Chính ông là người qui tụ lại những kẻ đi theo Đức Giêsu vốn đã bị tản mác. Chính trên nền tảng lời chứng của ông, mà cả cộng đoàn đều trầm trồ: “Chúa đã sống lại thật rồi, và Người đã hiện ra với ông Phêrô”.
Ông Phêrô được gọi là một vị thánh đã từng vấp ngã. Ông được nhiều người quí mến, chắc hẳn là bởi vì nhược điểm của ông làm cho chúng ta cảm thấy gần gũi với ông. Sự can đảm không đáp ứng được cho tất cả chúng ta. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều chỉ là những con người hay chết, không nhất quán trong lòng tin của mình. Nhưng chúng ta không được phán xét bản thân mình và người khác qua những sai sót có tư cách nhất thời, nhưng là qua lời cam kết đối với lòng tin của mình trong cả một thời gian dài.
Chính Đức Giêsu đã xác nhận lòng tin cho Phêrô. Cũng chính Đấng sống lại đã xác nhận lòng tin của chúng ta. Chúng ta là một cộng đoàn của những kẻ tin, mà lòng tin phổ biến của những kẻ tin thì củng cố lòng tin của mỗi cá nhân.
52. Lòng tin
Đôi khi, chúng ta ghen tị với các tông đồ và các môn đệ đầu tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất cả các Kitô hữu sau này, bởi vì họ thực sự có mặt trong những sự kiện ở Tin Mừng. Họ được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu, đôi bàn tay của họ đã được đụng chạm vào Người. Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ. Và chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng đối với chúng ta, nếu giống như các tông đồ, chỉ cần cá nhân chúng ta có thể được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc giống như các môn đệ đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy những phép lạ mà Người đã thực hiện cho chúng ta.
Vâng, các môn đệ đầu tiên có lợi thế được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo ra bất cứ sự dễ dàng nào hơn cho lòng tin của họ? Khi nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì? Họ không thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ chỉ nhìn thấy một con người có bên ngoài hình giống như họ. Nhưng khởi đi từ đó, để tin tưởng được rằng Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác vĩ đại của lòng tin.
Điều này giải thích cho sự kiện rằng có nhiều người đã từng được nghe Đức Giêsu nói và được nhìn thấy Người hành động, mà vẫn không hề có lòng tin nơi Người. Ngay cả chính bản thân các tông đồ, đã từng được ở với Người ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm tin. Được nhìn thấy không nhất thiết là tin tưởng.
Cú sốc do cuộc thương khó và cái chết trên thập giá của Người gây ra, quả thật là quá lớn lao, đến nỗi làm cho các tông đồ chậm tin tưởng vào nguồn tin tức về sự sống lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối ngày Phục sinh. Người đã khiển trách họ vì sự không tin tưởng và sự cứng lòng của họ, bởi vì họ đã không chịu tin lời những người đã được nhìn thấy Người, sau khi Người sống lại.
Tất cả những điều này để lại cái gì cho chúng ta? Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các tông đồ đã nhìn thấy Người. Chúng ta không thể hiện diện trong căn phòng nơi diễn ra các sự kiện của Tuần Thánh, khi Đức Giêsu ghé vào. Chúng ta không thể được xỏ tay vào những vết thương của Đức Giêsu. Chúng ta không thể được nhìn vào khuôn mặt của Người và nói “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Chúng ta phải sống bằng lòng tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi Đức Giêsu, thì chúng ta phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng bằng cách nào để những người như chúng ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu? Chúng ta phải làm gì, để có được lòng tin?
Chúng ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì là những môn đệ gián tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức nào đó, nhưng lại dễ dàng hơn theo cách khác. Mọi sự đều khó khăn hơn, bởi vì hơn 20 thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều lớp bụi đã phủ lên, ánh sáng đã bị phai mờ. Nhưng về khía cạnh tích cực, khái niệm rằng Con Thiên Chúa bước đi trên trái đất đã trở nên “tự nhiên” theo thời gian, và vì thế, theo cách thức nào đó, đã lại trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi mãn thời, thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau – tất cả đều phải làm một cú nhảy của lòng tin. Chúng ta trở nên những người môn đệ thông qua lòng tin.
Các bạn bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy và nghe tiếng Người nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục sinh, nhưng cuộc sống của họ đã được hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả năng bước đi trong niềm hy vọng, bởi vì chúng ta biết rằng lòng tốt sẽ chiến thắng sự dữ, và sự sống sẽ chiến thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.
53. Ánh lửa Phục Sinh
(Lm. Bùi quang Tuấn)
Nếu cuộc đời của Đức Kitô bị chấm hết bằng cái chết thì quả đó là một thất bại ê chề, không hơn không kém. Thất bại vì không cứu được nhân loại. Thất bại vì phải chết nhục nhã dưới bàn tay con người. Chắc hẳn, sau khi đóng đinh Đức Giêsu lên thập giá, các trưởng tế và biệt phái đang dương dương nắm chắc phần thắng khi niêm phong cửa mồ với thân xác vô hồn của Ngài trong đó. Bao niềm mong đợi, tin tưởng của các môn đệ dường như cũng bị chôn sâu vào huyệt đá.
Thế nhưng, ngày thứ ba, sau hôm các tử tội bị xử tử, lúc trời vừa chớm sáng, Maria Magđalêna, kẻ được Đức Giêsu cải hoá cuộc đời, đã vội đi thăm mộ người ân nhân vĩ đại nhưng vắn số của mình. Nỗi xót xa thương tiếc thúc đẩy nàng ra bãi tha ma, khóc than cho niềm hạnh phúc quá ngắn ngủi. Ước mong của nàng là làm sao lăn được tảng đá lấp mồ, ướp chút hương trầm trên thân xác Giêsu, Đấng đã cứu mình khỏi vũng lầy tội lỗi.
Nhưng kìa, quân canh đâu rồi? Mồ trống. Xác Thầy biến mất. Chỉ còn các tấm khăn liệm được xếp lại để đó. Sững sờ. Hoảng hốt. Maria chạy ào về báo tin cho Phêrô và Gioan. Lập tức hai ông chạy bay ra mồ. Nét âu lo lộ trên khuôn mặt hai ông. Chuyện gì đã xảy ra? Phải chăng người Do thái không thoả mãn với cái chết tàn khốc trên thập giá của Đức Giêsu nên đã đánh cắp luôn xác Ngài để thủ tiêu? Hay có môn đệ nào đã lấy trộm xác lúc các lính canh đang ngủ? Nếu thế thì vô lý quá. Người ta đã cẩn thận niêm ấn cửa mồ và cho quân canh gác xung quanh cơ mà. Với lại, nếu ngủ thì làm sao biết được những kẻ trộm xác là các môn đệ? Nếu biết tại sao lại không ra tay ngăn lại?
Nhưng rõ ràng là chẳng có dấu hiệu nào của trộm xác. Các giây vải, khăn che mặt đều được sắp xếp gọn gàng. Tấm khăn liệm bó mình Đức Giêsu vẫn còn đó. Vị trí không có gì thay đổi như lúc táng xác. Nhìn vào thì trông như thân thể Đức Giêsu đã bị bốc hơi khỏi tấm khăn. Không có dấu hiệu gỡ ra.
Phêrô bước vào mộ và thấy như vậy. Gioan, người đến mộ trước nhưng vào sau, cũng thấy như thế. Nhưng Thánh kinh ghi nhận phản ứng của Gioan: "Ông đã thấy và ông đã tin" (Ga 20:8).
Gioan đã tin gì? Phải chăng ông tin các lời tiên báo phục sinh của Đức Giêsu đã thành sự?
Chắc hẳn ngay giây phút "ông thấy" cũng là lúc ông nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: "Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại" (Ga 2:19). Ông còn nhớ nữa điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy" (Mt 12:40). Rồi sau lúc biến hình trên núi Tabo, Đức Giêsu cũng đã căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9:9).
Chưa hết, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Ngài cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: "Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại" (Lc 18: 31-33). Và mới đây nhất là lời tâm sự của Chúa Giêsu trong buổi tiệc ly: "Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay... Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê" (Mt 26, 31-32).
Thế ra điều Gioan xác tín ngay khi bước chân vào mồ chính là: Đức Giêsu đã phục sinh. Niềm tin này không dừng chân nơi ngôi mộ trống, với các giải vải còn nguyên, nhưng tiếp tục được củng cố qua bao lần tiếp xúc ăn uống với Đấng Phục sinh của các môn đệ. Niềm tin ấy kiên cường đến độ các nhân chứng dám loan truyền với tất cả nhiệt tình, thậm chí dám hy sinh đến tính mạng cho niềm xác tín đó.
Thử hỏi có ai ngây dại khi lấy sự sống mình vun bón cho một sự chết. Nhưng nếu chỉ nói đến Chúa Giêsu phục sinh như một sự kiện của ngày hôm qua, và nếu sự kiện đó không gây một tác động chân thực nào trên cuộc sống hôm nay của tôi, thì đó cũng chỉ là một thứ ngây dại không kém.
Thế nên, âm vang của tin mừng Phục sinh phải trở nên động lực chi phối làm bừng dậy nếp sống đức tin của tôi, để rồi nó tiếp tục lan tới tất cả mọi người xung quanh. Điều đáng ghi nhận ở đây: tình yêu phải là động lực làm nên âm hưởng phục sinh.
Nhờ tình yêu nồng nàn dành cho Đức Giêsu mà Maria Magđalêna đã thắng được nữ tính nhút nhát, dám đi ra mồ mả lúc trời còn tranh sáng tranh tối để trở thành người nữ đầu tiên loan báo tin mừng Phục sinh.
Nhờ tình yêu chân thành dành cho Thầy mình mà Gioan đã trở nên người nam đầu tiên, bằng niềm tin, khám phá ra tính chất bất diệt của tình yêu. Tình yêu không thể bị chôn vùi trong huyệt mả của khổ đau, u sầu, thất vọng, nhưng sẽ chảy tràn niềm vui, vinh quang, và sự sống. Tình yêu không thể chết với cái chết mục nát. Trái lại sẽ làm sống lại những gì tan vỡ.
Chính Tình yêu Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu Kitô tử nạn. Và chính Đức Giêsu Phục sinh đã mang lại niềm hy vọng chiến thắng trên mọi khổ đau, chết chóc, thất vọng của con người. Nên chi, mừng Chúa Phục sinh, một lần nữa tôi cầu xin Tình yêu của Ngài tác động và dẫn lối con người trong mọi quan hệ hàng ngày, từ vợ chồng con cái đến bạn bè thân nghĩa, từ gia đình làng xóm đến cộng đoàn xứ đạo. Để rồi như ánh lửa được đốt lên và chuyền thắp đến mọi ngọn nến trong đêm vọng Phục sinh thế nào, người tin vào Chúa Kitô cũng sẽ là ánh sáng do tình yêu Thiên Chúa đốt cháy và thắp lên nơi tâm hồn mọi người như vậy.
54. Kinh ngạc
Biến cố Phục sinh đã xảy ra với nhiều kinh ngạc. Kinh ngạc về sự chết! Kinh ngạc về các tông đồ! Kinh ngạc vì Ngài đã sống lại! Kinh ngạc vì Ngài đã hiện ra với những người phụ nữ trước hết và sai họ đi loan báo Tin Mừng!
“Vào thời Chúa Giêsu, phụ nữ là giới bị thua thiệt. Họ không được bình đẳng với đàn ông. Phần lớn họ không có cơ hội học hành, không được đối xử đồng đều về mặt pháp lý, và không được tham gia một số công tác dành cho nam giới. Tình trạng này được cải thiện từ từ nhờ thái độ và lời giáo huấn của Chúa Giêsu”.
Trong bản tường thuật của Matthêu về sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta nghe kể bà Maria Mácđala và một bà Maria khác đến mộ với sự buồn bã, vì nghĩ rằng xác Ngài vẫn còn nằm trong mộ. Tuy nhiên, các bà đã cảm nghiệm một sự kinh ngạc vĩ đại nhất trong cuộc đời. Chúa Giêsu Kitô không còn chết nữa, Ngài đã sống lại!
Từ kinh ngạc chuyển sang vui mừng. Matthêu kể rằng: “Hai bà vội vã ra khỏi mồ vừa sợ hãi vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người”. Sự buồn rầu và tuyệt vọng của họ đã bị đánh tan bởi sự kinh ngạc và vui mừng khi nghe tin Chúa đã sống lại.
Chúng ta cũng đã có những cảm nghiệm giống như các bà khởi từ sự buồn bã, tăm tối và thất vọng chuyển sang kinh ngạc và vui mừng. Điều này có thể xảy ra trong nhiều hình thức khác nhau đối với mỗi người trong cuộc đời. Đó có thể là một tình huống tuyệt vọng đã trở nên sáng sủa hơn. Điều chúng ta nghĩ rằng xấu nhất, nhưng với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, đã trở nên tốt hơn như khi một người ốm đau được ơn chữa lành, một người vô thần đón nhận ánh sáng đức tin, những kẻ thù địch hòa giải với nhau, những kẻ bị giam cầm được thả tự do…
Cha Manton đã kể lại cảm nghiệm ấy qua câu chuyện như sau. Vào ngày Thứ Tư Tuần Thánh trong năm cuối cùng của cuộc thế chiến thứ hai, tôi đã trông thấy một bà quỳ trước bàn thờ Đức Mẹ, nước mắt tuôn rơi. Tôi tự hỏi, “Bà ấy có chuyện rắc rối gì đây?” Bà sụt sùi, thò tay vào trong túi sách màu đen rút ra cái điện tín nhàu nát. Rồi lại khóc nức nở, “Con nhận được cái điện tín này cách đây 2 tiếng đồng hồ”. Điện văn với hàng tin, “Bộ chiến tranh rất tiếc phải báo tin cho bà biết rằng con trai của bà đã bị mất tích tại chiến trường”.
Tôi chẳng biết phải làm gì để an ủi bà ngoài những tiếng lầm bầm hứa hẹn cầu nguyện cách riêng cho con bà. Sáng hôm sau, Thứ Năm Tuần Thánh, tôi lại thấy bà mẹ đó quỳ trước bàn thờ Thánh Thể, khuôn mặt buồn sầu hơn bao giờ hết. Dường như bà đã già đi nhiều chỉ qua một đêm. Bà giống như Chúa Giêsu chịu hấp hối trong vườn cây dầu…
Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, tôi thấy bà ngồi ở hàng ghế đầu tiên, nhìn vào khoảng trống của bàn thờ với cây thập giá phủ khăn tím. Bà giống như Đức Mẹ Maria đang đứng dưới chân thập giá. Đây là ngày Thứ Sáu khổ nạn của tâm hồn bà.
Bước sang đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, trước khi chúng tôi bắt đầu nghi thức Vọng Phục Sinh, bà tiến đến nói với tôi một tin mừng. Dường như đây không phải là người đàn bà của ngày hôm trước. Đây là một người đàn bà mới với cái điện tín mới. Con trai của bà an toàn, đang là một tù binh chiến tranh. Bà đã không thể nói với tôi được điều gì, chỉ đơn giản đẩy chiếc điện tín vào tay tôi. Rồi bà lại khóc nữa, nhưng những giọt nước mắt của niềm vui và hạnh phúc. Khi bà ra về, tôi gọi lớn, “Chúc mừng Phục sinh”… và từ nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt của người mẹ, tôi biết bà đã cảm nghiệm được ý nghĩa của niềm vui Phục sinh nhiều hơn tôi. Đó chẳng phải là sự sống lại của con bà hay sao?
55. Niềm tin
Có một cuốn phim, tựa đề là “Đức Giêsu Kitô”, đây là một cuốn phim nhạc nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu. Bằng ngôn ngữ của âm nhạc, tác giả cuốn phim đã cố gắng diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu theo tâm thức của con người thời nay, giúp cho người xem có thể học hỏi và hiểu biết thêm về Chúa Giêsu. Nhưng có một thiếu sót lớn nhất của cuốn phim nhạc này là đã không đề cập đến việc Chúa Giêsu sống lại. Cuốn phim kết thúc cuộc đời của Chúa bằng cái chết treo trên thập giá.
Cuộc đời Chúa Giêsu chết là hết chăng? Những người không có niềm tin Kitô giáo xem cuốn phim này sẽ kết luận như thế. Bởi vì “chết là hết”, đó là ý nghĩa thông thường của con người. Đó cũng là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu sau cái chết nhục nhã của Ngài: tất cả mọi hy vọng của họ đều tan thành mây khói. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ đã xảy ra: Ngày thứ ba sau khi tử nạn, Chúa Giêsu đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử, một biến cố đã làm phát sinh một tổ chức lan rộng khắp thế giới mà chúng ta gọi là Kitô giáo.
Việc Chúa Giêsu Kitô sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng, nhưng lại là sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy và có kinh nghiệm. Ngay các môn đệ đi theo Ngài và được Ngài báo trước cho biết việc đó, thế mà khi Ngài sống lại họ cũng chưa tin, huống chi những người khác. Phục sinh là một chân lý mà người ta chỉ có thể chấp nhận được nhờ đức tin.
Tuy nhiên, biến cố Phục sinh cũng có những dấu hiệu bề ngoài chứng thực, như ngôi mộ trống, không có xác Chúa Giêsu ở đó. Ngài hiện ra cho mấy phụ nữ đến thăm mộ và nhất là một số môn đệ, họ nhận ra Ngài khi thấy những thương tích của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và trò chuyện ăn uống với Ngài. Rồi Ngài đã làm cho các môn đệ sau khi gặp gỡ, truyện trò, ăn uống với Ngài phải tin và xoay chuyển tầm nhìn của họ về Ngài: từ hồ nghi không tin đến tuyên xưng Ngài chính là Đức Kitô, đồng thời xoay chuyển cả lối sống của họ: từ thất vọng sợ hãi trở thành tin tưởng, can trường, rồi đồng loạt đi khắp nơi loan báo và minh chứng Ngài đã Phục sinh. Minh chứng cách trung thành và can đảm, không sợ bị đánh đòn, chế nhạo, cầm tù, mà còn sẵn sàng chịu tử hình nữa. Việc ngôi mộ trống, việc Ngài hiện ra nhiều lần, việc các môn đệ có niềm tin và lối sống mới sau khi gặp gỡ Chúa Phục sinh, tất cả đều có thật.
Quả thực, việc Chúa Giêsu sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng đối với chính Ngài, với giáo huấn của Ngài, với các môn đệ cũng như với tất cả mọi người, vì là nền tảng cho niềm tin và sự cứu độ của mọi người. Đối với Chúa Giêsu, sự sống lại chứng tỏ Ngài vừa là người thật (đã đau khổ và chết) vừa là Thiên Chúa thật (đã sống lại và được tôn vinh) làm cho Ngài trở thành siêu việt trên tất cả mọi nhân vật tôn giáo trên thế giới, vì Ngài là hoa quả đầu mùa của nhân loại mở đường vào hạnh phúc thật vĩnh hằng. Sự sống lại chứng tỏ giáo huấn của Ngài là do Thiên Chúa mạc khải và dẫn đưa con người chắc chắn đạt tới hạnh phúc ấy. Sự sống lại đã làm xoay chuyển tầm nhìn của các môn đệ về Ngài và xoay chuyển cả lối sống của các ông. Sau hết, sự sống lại là bảo đảm cho mọi người được sống lại thật và có thể được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng như Ngài.
Trải qua hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện Chúa Kitô Phục sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành điều răn mới của Ngài.
56. Thiên Chúa Quan Phòng
Có hai người bộ hành đi lên đường đi đến một phương xa. Họ dùng một con lừa để chuyên chở hành lý. Để cho con lừa có bạn, họ mang theo một chú gà cồ. Và đêm đến họ đốt đuốc để soi đường. Một người bộ hành là một tín hữu rất đạo đức. Trên miệng ông lúc nào cũng có câu nói: "Thiên Chúa là Đấng tốt lành trong tất cả mọi sự". Người bạn đồng hành của ông thì lại là một người rất cứng lòng tin. Ông rất bực mình mỗi khi ông nghe người bạn ông thốt lên những lời ca tụng lòng thiện hảo của Thiên Chúa.
Lên đường chừng vài phút đồng hồ, ông đã cảnh cáo người bạn có lòng tin như sau: "Rồi đây anh sẽ thấy anh tin Chúa đến độ nào". Trước khi mặt trời lặn, họ đến một ngôi làng nhỏ. Họ tìm một nơi để qua đêm. Họ gõ cửa khắp nơi, nhưng không có ai đón tiếp họ. Cuối cùng họ đành phải ra khỏi làng và tìm đến bìa rừng để qua đêm.
Trong cảnh màn trời chiếu đất, người bạn cứng lòng tin mới thốt lên: "Nào, Chúa của anh có tốt không?". Người bạn đồng hành luôn tin tưởng ở Chúa quan phòng bình tĩnh đáp lại: "Đây là chỗ tốt nhất Chúa dành cho chúng ta ngủ qua đêm này".
Đêm đó, họ nằm ngủ dưới một gốc cây lớn nằm sát bìa rừng. Họ cột chú lừa vào một gốc cây gần đó. Họ chưa kịp đốt lên ngọn đuốc thì một tiếng mạnh từ xa vang lại. Thì ra, chỉ trong chớp nhoáng, một chú sư tử đã đến cắn xé con lừa và mang đi. Vừa thương tiếc cho chú lừa, vừa lo sợ cho thân phận của mình, hai người bộ hành chỉ còn biết leo lên cây để tránh tai họa.
Vừa tức giận, vừa mỉa mai, người bạn cứng lòng tin mới thốt lên: "Nào, Chúa của anh còn tốt nữa không?". Người tín hữu ngoan đạo dõng dạc tuyên bố: "Nếu con sư tử không bắt gặp con lừa trước, thì chắc chắn nó đã bổ nhào trên chúng ta rồi. Chúa là Đấng tốt lành".
Một vài phút sau, con gà cồ bỗng kêu la thất thanh. Hai người bộ hành mới trèo cao hơn. Họ nhận ra con gà cồ đang nằm trong nanh vuốt của một chú mèo rừng. Người bạn cứng lòng tin chưa kịp thốt ra một lời cay đắng nào, thì người tín hữu ngoan đạo đã chúc tụng như sau: "Tiếng kêu thất thanh của con gà cồ lại một lần nữa giúp chúng ta thoát nguy hiểm. Cám ơn Chúa là Đấng tốt lành".
Họa vô đơn chí. Chỉ vài phút sau đó, một cơn gió mạnh ùa đến, ngọn đuốc bỗng tắt ngụm đưa hai người vào trong cảnh tối tăm ghê rợn. Lần này con người cứng lòng tin lại lên tiếng mỉa mai như sau: "Xem chừng như Chúa của anh làm việc phụ trội trong đêm nay". Lần này, người tín hữu ngoan đạo chỉ biết giữ thing lặng.
Sáng hôm sau, hai người mon men trở lại làng để mua thức ăn. Họ mới hay biết rằng đêm hôm đó một băng cướp đã vào làng và họ đã vơ vét tất cả tài sản của dân làng. Nhìn cảnh tượng hoang tàn của ngôi làng và nhìn lại sự toàn vẹn của mình, người tín hữu ngoan đạo mới đắc thắng giải thích cho người bạn như sau: "Anh đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Giá như đêm hôm qua, chúng ta thuê được một chỗ trọ trong làng, thì có lẽ chúng ta cũng không thoát khỏi tay của bọn cướp. Nếu cơn gió lớn không làm tắt ngọn đuốc của chúng ta, thì hẳn bọn chúng đã nhìn thấy chúng ta. Bạn thấy chưa, trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa là Đấng thiện hảo".
Tin ở Thiên Chúa quan phòng không có nghĩa là bảo rằng tất cả mọi tai họa rủi ro xảy đến trong cuộc sống đều do Chúa gửi đến, nhưng có nghĩa là, khi đứng trước một bất hạnh mà mình không thể tránh khỏi, chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa thiện hảo và quyền năng đến độ có thể biến sự bất hạnh ấy thành khởi điểm của một hồng ân cao cả hơn.
Trong ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi để nhìn vào biến cố trong cuộc sống bằng cái nhìn lạc quan và tin tưởng ấy. Cái chết ô nhục của Đức Kitô trên thập giá quả là một bất hạnh và là một tội ác, nhưng Thiên Chúa quyền năng và yêu thương đã biến thành khởi điểm của nguồn ơn cứu thoát.
Giữa muôn nghìn thử thách, hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa đang dành cho chúng ta một ân huệ cao cả hơn ngoài sự chờ đợi của chúng ta. Chúng ta hãy xưng tụng tình yêu quan phòng của Ngài.
57. Niềm hy vọng sống lại
Trong những ngày này, chúng ta hớn hở mừng vui. Tiếng Alleluia không ngừng vang lên trên môi miệng chúng ta. Tại sao chúng ta hát đi hát lại điệp khúc hân hoan ấy? Phải chăng vì Đức Kitô đã chiến thắng kẻ thù? Phải chăng vì Ngài đã thực hiện một phép lạ vĩ đại nhất: sống lại từ trong kẻ chết? Tất cả những điều đó làm cho chúng ta vui mừng khi nghĩ về biến cố Phục sinh. Tuy nhiên, niềm vui còn dạt dào hơn nữa, khi chúng ta ngắm nhìn ngôi mộ rỗng của Ngài. Niềm vui dạt dào ấy đã được thánh Phaolô diễn tả như sau: Thiên Chúa đã cho Đức Kitô sống lại thế nào thì Ngài cũng sẽ dùng quyền năng để cho chúng ta được sống lại như vậy. Đó chính là một niềm an ủi tuyệt vời nhất, một ý nghĩ cao sâu nhất xuất phát từ ngôi mộ phục sinh: Nếu Đức Kitô đã sống lại, thì rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ được sống lại.
Chúng ta thường nghe thấy lời phàn nàn và kết án như sau: Đạo Công giáo là một đạo quá nghiêm khắc bởi vì Đức Kitô đã nói: Ta đến không đem sự bình an, nhưng đem gươm giáo. Với lưỡi gươm lưỡi giáo này, phải chăng Ngài đã cắt đứt xác thịt và cuộc đời chúng ta? Đọc kinh, đi lễ, bố thí mà thôi chưa đủ, Ngài còn muốn chúng ta phải dâng hiến trọn cuộc sống cho Ngài, từ tư tưởng, lời nói đến việc làm. Tôi không được phép hưởng thụ những điều bất chính, dù chỉ trong tư tưởng mà thôi. Tôi muốn ăn uống no say, nhưng hôm nay lại là ngày giữ chay, nên tôi không được phép. Tôi muốn nằm ngủ nướng cho đẫy con mắt, nhưng hôm hay là Chúa nhật, tôi có bổn phận phải thức dậy để đi tham dự thánh lễ…Cho dù tội lỗi có hấp dẫn và quyến dũ, luôn mời gọi và lôi kéo đến đâu chăng nữa, thì chúng ta cũng không được phép chạy theo. Công giáo là một đạo nghiêm khắc, đòi chúng ta phải làm chủ thân xác, chế ngự những thèm muốn và hy sinh đời sống cho Đức Kitô. Thế nhưng, cái đạo nghiêm khắc ấy đã đem đến cho chúng ta một tin mừng, đã hứa ban cho chúng ta một điều không ai có thể đem lại được, đó là: nếu Đức Kitô đã sống lại, thì rồi chúng ta cũng sẽ được sống lại. Nghĩa là một ngày kia, chúng ta sẽ tìm lại được cuộc sống vĩnh cửu đã mất đi vì tội lỗi.
Niềm tin vào sự sống lại trước hết đã được chính Chúa Giêsu truyền dạy. Ngài đã nói nhiều lần để chứng tỏ tầm mức quan trọng của nó. Thực vậy, Phúc âm thánh Gioan đã ghi lại: Giờ đến, khi mọi kẻ trong mồ nghe tiếng Ngài và bứơc ra. Những người làm lành sẽ sống lại để được sống. Còn những kẻ làm dữ sẽ sống lại để bị luận phạt…Thánh ý của Cha, Đấng đã sai Ta là: bất kỳ ai thấy Con và tin ở Ngài, thì có sự sống vĩnh cửu. Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết…Ai ăn thịt Ta và uông máy Ta, thì sẽ có sự sống đời đời.
Trước khi làm phép lạ cho Lagiarô sống lại, Ngài đã phán với Martha: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời. Sau cùng, khi bọn Sađucêô, những kẻ không tin vào sự sống lại dã nêu lên vấn nạn về một người đàn bà có bảy đời chồng và như vậy khi sống lại, bà ấy sẽ thuộc về ai? Chúa Giêsu đã trả lời cho họ như sau: Lúc bấy giờ, không còn vấn đề vợ chồng. Họ sẽ không chết nữa, nhưng sẽ trở nên như thiên thần. Họ sẽ là con cái của Thiên Chúa và của sự sống lại.
Chúng ta có thể suy ngắm về chính sự sống lại của Ngài để tìm thấy ở đó niềm hy vọng ủi an. Thực vậy, vào buổi sáng ngày thứ nhất, các bà đạo đức đi ra mồ để xức thuốc thơm cho thi thể Chúa. Vừa đi, các bà vừa thầm nghĩ: Ai sẽ lăn giùm tảng đá lấp cửa mồ? Phải, trước khi Đức Kitô phục sinh, một tảng đá nặng cũng đã lấp kín phần mộ của chúng ta và của những người thân yêu. Tảng đá của chết chóc, đau khổ và tuyệt vọng. Bởi vì ngôi mộ chính là trạm chót, để rồi sau đó sẽ chấm dứt cuộc sống cũng như tình thương, sẽ chấm dứt mọi ý nghĩ cũng như mọi ước mơ. Phải chăng đó là sự chấm dứt của chính con người? Thế nhưng, Đức Kitô đã phục sinh. Tảng đá nặng đã bị lăn qua một bên, bởi vì Ngài đa giải quyết được vấn đề từng làm cho chúng ta băn khoăn lo nghĩ: Sau cái chết, sẽ còn lại gì? Sự phục sinh của Ngài chính là bảo chứng cho lời Ngài đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời.
Từ khi Đức Kitô nghỉ yên trong ngôi mộ, thì ngôi mộ đã trở nên một cái gì thánh thiện đối với chúng ta. Và hơn thế nữa, kể từ khi Đức Kitô sống lại, thì tất cả chúng ta, những con người phải chết, sẽ chờ mong buổi sáng phục sinh huy hoàng. Trước Đức Kitô, con người phải chết và trên bia mộ chúng ta ghi: Đây là nơi an nghỉ trong bóng tối và trong tuyệt vọng. Nhưng từ khi Đức Kitô phục sinh, chúng ta có thể ghi trên bia mộ ấy như sau: Đậy là nơi an nghỉ trong tin yêu và hy vọng.
Sau cùng, chúng ta có thể dùng suy luận để thấy được rằng: sự sống lại là một cái gì thích hợp với chương trình của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa. Thực vậy, chúng ta chỉ là người bao lâu hồn còn kết hiệp với xác. Giữa hồn và xác luôn có một liên hệ mật thiết. Nếu hồn mà buồn thì nước mắt sẽ tuôn trào. Nếu hồn mà vui thì khuôn mặt sẽ rạng rỡ. Bởi đó, sự phát triển toàn vẹn của con người đòi buộc hồn xác phải kết hiệp với nhau sau một thời gian bị cái chết tạm thời chia rẽ. Hơn thế nữa, việc sống lại còn là đều thích hợp với sự công bằng của Thiên Chúa. Thân xác của chúng ta đã tham dự vào tất cả những hành vi thánh thiện cũng như tội lỗi. Vì thế, sự công bằng đòi buộc: nếu thân xác đã tham dự vào những hành động tội lỗi thì cũng phải có những hình phạt dành cho thân xác. Trái lại, nếu thân xác đã tham dự vào những hành động thánh thiện, thì cũng phải có những phần thưởng dành cho thân xác.
Tóm lại, chúng ta sống là để chuẩn bị cho cái chết và chúng ta chết là để được sống đời đời.
58. Tin Chúa Phục Sinh
“Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trở thành vô ích và niềm tin của anh em thật là hão huyền”
Quả thật, nếu Đức Kitô không sống lại thì tất cả chúng ta, nhưng con người mang danh Kitô hữu chỉ là những kẻ điên khùng, bởi vì chúng ta đánh đổi cả đời mình để tin và đi theo Đức Giêsu nhưng cuối cùng chẳng được gì. Trong khi nhiều người ăn chơi xả láng, hưởng thụ thoải mái, trong khi nhiều người xây dựng sự giàu có, xây dựng công danh sự nghiệp trên xương máu của những người khác, trên những trò bóc lột, trên sự lường gạt bỉ ổi mà vẫn sống phây phây, thì chúng ta, nhưng người Kitô hữu luôn bị bao quanh bởi một hệ thống luật lệ dầy đặc. Ở đâu cũng thấy tội. Ở đâu cũng thấy cấm đoán, bắt buộc và đe loi v.v…Cả cuộc đời chỉ thấy nói tới hy sinh, từ bỏ. Cả cuộc đời chỉ thấy toàn là mất mát, thiệt thòi. Vì thế mà trước mặt người đời chúng ta chỉ là những tên ngu xuẩn, điên rồ.
Một anh bạn trẻ đã chia sẻ rằng: Khi anh từ chối một chức vụ khá quan trọng trong cơ quan, cấp trên của anh đã nói: “Mày khùng quá, cái ghế mà tao dành cho mày đáng giá năm mười cây vàng đấy. Bao nhiêu thằng ước mơ và lo lót, còn mày thì từ chối”. Và anh bạn trẻ ấy trả lời: “Tôi biết khi ngồi vào chiếc ghế đó, tôi sẽ trở thành một ông hoàng. Nhưng tôi cũng biết khi ngồi vào chiếc ghế đó, tôi sẽ uốn cong theo vòng quay của cả một cơ chế có vô vàn điều tiêu cực, không thể khác được”. Thế là anh bạn trẻ đành chấp nhận một cuộc sống thanh bần chỉ vì danh hiệu Kitô hữu của mình.
Vâng, nếu Đức Kitô không sống lại thì anh bạn trẻ này và các Kitô hữu chỉ đáng sống trong những nhà thương điên. Nhưng Đức Kitô đã sống lại. Đó là xác quyết của các anh bạn trẻ Phêrô, Giacôbê, Gioan…Họ là những người đã từng đi theo, đã cùng sống, cùng ăn, cùng ở với Đức Giêsu. Họ cũng là những người đã từng thất vọng và trốn chạy trước cái chết thê thảm của Thầy Giêsu trên thập giá. Nhưng rồi họ đã là những người dám chấp nhận lao tù, cùm gông, tra tấn và cả cái chết để làm chứng về sự Phục Sinh của Đức Kitô, bởi chính họ đã thấy tận mắt Đức Kitô đang sống. Mà Đức Kitô sống lại có nghĩa là những lời rao giảng của Người là sự thật. Và sự thật Đức Giêsu công bố chính là những nẻo đường dẫn tới sự sống, tới hạnh phúc đích thực. Vì thế, ai bước đi theo Người, ai sống theo Lời Người, chắc chắn sẽ được sống và được hạnh phúc.
Lời chứng của những người dám đem cả mạng sống của mình ra mà đoan quyết chắc không phải là một sự lừa dối phải không thưa quí ông bà và anh chị em?
59. Ra khỏi mồ
Biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm rồi, và ngày nay có lẽ chúng ta cũng không thể cảm nhận được nỗi niềm vui sướng và hy vọng của các tông đồ ngày xưa khi nghe tin Chúa Giêsu sống lại. Tuy vậy, trong ít phút ngắn ngủi này, chúng ta thử làm sống lại một chút những tâm tình của các tông đồ trong ngày Chúa Phục Sinh, để thấy được sự kiện Phục Sinh của Chúa Giêsu đã đem lại ý nghĩa nào cho cuộc đời của các ông. Từ đó, chúng ta cũng hãy để cho Chúa Phục sinh tác động làm cho cuộc sống của chúng ta có một ý nghĩa. Hòa chung niềm hy vọng với dân tộc mình, các tông đồ cũng chờ mong một vị Cứu Tinh để giải phóng dân tộc ra khỏi cảnh nô lệ ngoại bang. Trong niềm hy vọng ấy, Đức Giêsu đã xuất hiện như một con người có thể đáp lại những khát vọng mãnh liệt của các ông. Chính vì thế mà các ông đã bỏ mọi sự để theo Người, tin tưởng hoàn toàn nơi Người, phó thác trọn cuộc đời cho Người và chấp nhận mọi đòi hỏi của Người. Thế nhưng, đáng buồn thay cho các ông biết bao, khi mà vào một buổi tối ngày thứ 5, thần tượng Giêsu của các ông đã bị bắt, bị tra tấn, bị đánh đòn, bị lăng mạ và cuốci cùng bị kết án tử hình, một cái chết đớn đau và tủi nhục trên thập giá. Điều đó làm các ông thất vọng biết là dường nào. Thế là hết. Thầy Giêsu đã chết, đã được chôn trong mồ đá. Điều đó có nghĩa là những niềm hy vọng, những hoài bão, những tin tưởng của các ông cũng chết theo và cuộc đời của các ông cũng bị chôn vùi trong những nấm mồ của tuyệt vọng và sợ hãi. Hiểu ván đề như thế chúng ta mới hiệu được rằng: khi các phụ nữ báo tin cho ông Phêrô và ông Gioan về việc Chúa sống lại thì quả thật đó là một nguồn tin gân chấn động rất mạnh cho các ông. Thầy Giêsu đã sống lại cũng có nghĩa là những ước mơ, những hy vọng của các ông cũng được sống lại. Chính vì vậy mà cả ông Phêrô và ông Gioan đã vội vã chạy ra mộ Chúa Giêsu như để kiểm nghiệm nguồn tin mà các phụ nữ vừa loan báo. Khi tới mồ, các ông thấy mồ trống, chỉ còn lại khăn liệm và khăn phủ đầu Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã viết về chính mình: “Ông thấy và ông tin”. Rồi những ngày sau đó Chúa Giêsu đã hiện ra với các tông đồ nhiều lần như để củng cố niềm tin chắc chắn rằng: Thầy Giêsu của mình đã sông lại thật thì niềm tin ấy đã tạo nên một biến đổi triệt để nơi các ông.
- Trước đây các ông sợ hãi chạy trốn các nhà cầm quyền đạo đời, thì nay các ông hiên ngang ra vào công đường để rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh. Các ông can đảm chấp nhận bắt bớ, chấp nhận đòn vọt và bao nhiêu thử thách khác để làm chứng rằng Đức Giêsu đã Phục Sinh.
- Trước đây các ông là những người nhỏ nhen, ham danh ham lợi, ghen tị với nhau về chỗ ngồi trên dưới, thì nay các ông quên bản thân mình để chỉ sống và chết cho Đấng Phục Sinh, đồng thời cũng sống và chết cho anh chị em mình.
Thế hệ của chúng ta hôm nay không được diễm phúc để thấy Chúa Phục Sinh như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta tin lời rao giảng của các Ngài vì các Ngài là những chứng nhân trung thực bởi các Ngài đã dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho sự thật ấy. Tuy nhiên, tin vào sự Phục Sinh không phải chỉ là chấp nhận trong trí khôn một chân lý, một sự kiện đã xảy ra trong lịch sử, nhưng còn là để cho Chúa Phục Sinh biến đổi cuộc đời mình, là để Người đưa mình ra khỏi những nấm mồ ích kỷ, hận thù, gian tham, lọc lừa, kiêu căng, tự mãn, ham mê sắc dục… Bao lâu chúng ta còn cố tình sống trong những nấm mồ ấy thì bấy lâu chúng ta chưa thật sự tin vào Chúa Phục Sinh. Và nếu thế thì lời tuyên xưng của chúng ta về việc Chúa Phục Sinh chỉ là những lời đâu môi chót lưỡi và chẳng đem lại lợi ích nào cho đời sống của chúng ta.
Xin cho mầu nhiệm Chúa Phục Sinh mà chúng ta kính nhớ hôm nay trở thành một động lực đổi mới cuộc đời chúng ta, để chúng ta đám sống, dám chết cho Chúa và cho nhau.
60. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Bỏ xứ mình để đến phục vụ tại nơi đất khách quê người quả là một lý tưởng đáng ca ngợi. Hiện nay, người ta thấy có rất nhiều thanh niên thiếu nữ tây phương chán cuộc sống trống rỗng, thiếu lý tưởng trong xã hội dư dật, đã tình nguyện sang các nước thuộc thế giới thứ ba để phục vụ. Một thanh niên nọ đã xin đến Ấn Độ để phục vụ người nghèo. Ra đi hồ hởi bấy nhiêu, giờ này chạm với thực tế, anh cảm thấy thất vọng bấy nhiêu. Tất cả đều xa lạ và tất cả đều làm anh chán nản: từ khí hậu cho đến thức ăn, điều kiện sống và nhất là những khuôn mặt xem ra rất bí hiểm đối với anh. Nhưng điều làm cho anh mất hết kiên nhẫn lại là một điều không đáng bận tâm mấy...Người ta dành cho anh một căn phòng không sạch sẽ và dĩ nhiên cũng không nhiều tiện nghi lắm. Anh dọn dẹp và sắp xếp căn phòng lại cho tươm tất. Duy có một chướng ngại mà anh không thể vượt qua để có thể sống bình thản: đó là sự hiện diện của một chú thằn lằn. Anh tìm đủ mọi cách để xua đuổi nó ra khỏi căn phòng, nhưng vô ích: đâu lại vào đó, anh đuổi nơi này, nó chạy vào nơi khác. Cuối cùng con vật chui được vào trong tủ đựng thức ăn và ngự trị hẳn trong đó. Không còn biết làm cách nào khác hơn để tẩy chay con vật, anh đành phải nghĩ đến chuyện làm quen với nó. Dần dần, con thú đã trở thành một người bạn của anh. Mỗi khi đi đâu về, việc đầu tiên của anh là tìm cho được chú thằn lằn. Khi con vật đã trở thành thân thiết với anh, anh đặt cho nó một cái tên và trò chuyện với nó. Từ một con vật dơ bẩn xấu xa, giờ này anh nhìn thấy nơi nó rất nhiều đức tính trong đó quan trọng hơn cả đó là tài săn muỗi của nó. Sự hiện diện của chú thằn lằn đã giúp cho anh khám phá được một chân lý trong cuộc sống: những khó khăn không đến từ môi trường chung quanh, mà chính từ bản thân anh.
Chúng ta vẫn thường lặp lại câu thơ của Nguyễn Du: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", như để nói rằng lắm khi chúng ta mặc cho ngoại cảnh chính tâm trạng của chúng ta. Khi chúng ta vui, chúng ta như thấy cảnh vật xung quanh chúng ta cũng vui lây. Khi chúng ta buồn, cảnh có đẹp đến đâu, chúng ta vẫn thấy u ám. Lắm khi những vấn đề khó khăn không đến với chúng ta từ ngoại cảnh, từ những người khác, mà chính từ chúng ta. Gương mặt cau có của chúng ta thường được chúng ta nhìn thấy nơi tất cả mọi người xung quanh. Trái lại, khi chúng ta vui, chúng ta như cảm thấy mọi người đều vui vẻ với chúng ta. Quả thật, chúng ta đong đấu nào, thì người sẽ đong lại đấu ấy cho chúng ta.
Câu chúc đầu tiên của Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra cho các môn đệ của Ngài là::bình an cho các con". Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới thắng được sợ hãi, mới vượt qua được những khó khăn trong tâm hồn. Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới dễ dàng tha thứ và chấp nhận chính bản thân để rồi từ đó mới có thể tha thứ và chấp nhận tha nhân cũng như mọi nghịch cảnh. Mang lấy màu xanh của hy vọng, đôi mắt chúng ta mới dễ dàng nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan. Trái lại, mang lấy bộ mặt cau có và buồn chán, đi đâu, ở đâu, chúng ta cũng chỉ thấy bất mãn, thất vọng và khó chịu.
61. Đừng sợ
Một người đàn bà nông dân Nga Sô đang đến hôn chân Chúa Giêsu nằm trên thánh giá. Một người lính Sô Viết hỏi bà, “Thưa cụ, tại sao cụ lại không hôn chân vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta, đồng chí Stalin?” “Có chứ,” bà đáp lại, “Nếu ông ấy chịu đóng đinh vì tôi”.
Sau khi diễn tả sự kinh ngạc và vui mừng của các bà, thánh Matthêu viết: “Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: “Chào các bà”. Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy”. Sự vui mừng dẫn tới hành vi thờ phượng.
Có hai người đàn bà đứng chiêm ngưỡng trước cửa Nhà thờ Đức Bà ở Paris. Một bà hỏi “Tại sao chúng ta không thể xây thêm được những công trình kiến trúc giống như thế này nữa?” Người bạn của bà trả lời “Những người xây dựng ngôi thánh đường này đã có đức tin. Ngày nay, chúng ta có các ý kiến. Và bạn không thể xây được một ngôi nhà thờ chính tòa với những ý kiến”.
Các người phụ nữ thánh thiện đi theo Chúa Giêsu là những người đã được Chúa chữa lành, trung thành với Chúa trong suốt cuộc thương khó, cho đến khi Chúa chết trên thập giá và sau cùng an táng trong mồ. Họ không sợ sệt trước những quyền lực của quân lính Rôma và những người lãnh đạo tôn giáo. Họ đã theo Chúa bằng mọi giá. Đức tin và tình yêu đã giúp cho các bà nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, phải thờ phượng Người.
Theo bản kể của thánh Matthêu, Tin Mừng Phục sinh đã được chính Chúa Giêsu truyền lệnh cho các bà: “Các bà đừng sợ! Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta”. Các người phụ nữ là những nhà truyền giáo đầu tiên của Giáo Hội. Chính đức tin và tình yêu của các bà xứng đáng cho Chúa tin tưởng trao phó trách nhiệm loan báo Tin Mừng này.
Chủ đề ngày Hòa Bình Thế Giới năm 1995 là “Phụ Nữ, nhà Giáo Dục về Hòa Bình”. Giới thiệu chủ đề này, báo Người Quan Sát Viên Rôma số 30 ngày 26.6.1993 đã viết: “Phụ nữ, nhà giáo dục về hòa bình, đây là chủ đề được Đức Thánh Cha chọn cho ngày Hòa Bình Thế Giới năm 1995. Với chủ đề này, người ta muốn trước tiên công nhận vai trò không thể thiếu mà người phụ nữ có thể đóng góp cho hòa bình, như qua việc thường xuyên giáo dục giới trẻ, hay qua sự chống đối những hoàn cảnh bạo lực thường xảy ra. Qua đề tài này, Đức Giáo Hoàng cũng ước ao vọng lên một lời mời gọi cấp bách, thôi thúc các chị em phụ nữ ngày càng trở thành những người xây dựng không mỏi mệt trong khuôn khổ gia đình mình cũng như trong các tổ chức xã hội”.
Chính tình yêu của các bà Maria Mácđala và Maria đối với Chúa Giêsu đã làm cho các bà trở thành những nhà truyền giáo đầu tiên rao giảng Tin Mừng Phục sinh. Có phải Maria Mácđala là người đàn bà đã được Chúa Giêsu trừ khỏi bẩy quỷ ám? Có phải Maria là người đàn bà tội lỗi đã xức dầu thơm cho Chúa Giêsu? Bởi được tha thứ nhiều, nên các bà đã yêu nhiều. Tình yêu đã làm cho Tin Mừng Phục sinh trở nên hy vọng và hoan lạc. Chúng ta không thể nghĩ về sự chết và Phục sinh của Chúa Giêsu mà không nghĩ về tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Tình yêu đó cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại với Ngài.
Tình yêu có năng lực tái sinh con người. Mệnh lệnh “Hãy đi báo tin” không chỉ được ban ra cho các bà và các môn đệ, nhưng còn cho mỗi người chúng ta. Tin Mừng Phục sinh là chính Tin Mừng về tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Chúng ta được mời gọi để chia sẻ Tin Mừng và tình yêu đó với tất cả mọi người như Chúa Giêsu đã nói với các người phụ nữ: “Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta”.
62. Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi
Một người đàn bà nọ thường hay than phiền với bác sĩ tâm thần là bà thường hay thấy ngứa ngáy. Lạ kỳ thay, bệnh ngứa thường xảy ra là lúc mà bà ta ở trong nhà thờ. Sau một thời gian nói chuyện, bác sĩ nhận ra là sự thù ghét đã ăn rễ sâu trong lòng bà ta. Bà mang tư tưởng thù ghét người chị của bà bởi vì bà nghĩ rằng khi người cha của bà chết, người chị đã không chia gia tài một cách đồng đều. Sau đó, vị bác sĩ tâm thần đã cho bà thử qua cuộc xác nghiệm "eczema", và kết quả là bà ta ngứa ở trong tâm thần chứ không phải ở ngoài thân xác. Vị bác sĩ nói, "Chỉ khi nào bà biết chữa chạy cái bệnh ở trong tâm linh của bà thì bà mới hết được cái bệnh ngứa."
Ngày xưa, Chúa Giêsu đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi bệnh tật. Chúa Phục Sinh vẫn tiếp tục làm điều mà Ngài đã làm.
Hôm nay ở tại thành thánh Giêrusalem, những người hành hương sẽ tấp nập chen nhau vào cái chỗ mà người ta gọi là ngôi mộ của Chúa Giêsu. Một vài người hành hương vẫn đả kích những thói tục hoá của những nơi thánh thiện. Họ bảo ngôi mộ thánh thiện là chỗ những người hành khất đi xin ăn, những người bán rong lợi dụng các du khách để bán đồ, còn các tu sĩ thì lợi dụng chỗ thánh để xin dâng cúng. Hôm nay, ngày mừng kỷ niệm Chúa Phục Sinh, chúng ta đến đây để gặp gỡ một Chúa Kitô Phục Sinh.
Đấng phục sinh không phải là Chúa Giêsu của Madison Avenue, hoặc của Roma, hoặc của Athens, nhưng là Chúa Giêsu Nagiarét: một chỗ bình thường, một chỗ mà không có gì hay ho cả.
Thánh Phêrô đã diễn tả về Chúa Giêsu Nagiarét như sau, "Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người" (Cv 10:38). Điều mà Ngài đã làm, bây giờ Ngài vẫn đang làm. Cách mà Ngài đã hiện diện, thì bây giờ cũng đang hiện diện.
Những kẻ tìm kiếm Ngài sẽ không phải thất vọng. Đúng thế, quyền năng cao cả của Ngài đã được tỏ bày trong những lá cây hoặc những ngọn cỏ. Thế nhưng, chúng ta có thể tìm thấy Ngài hiện diện một cách đích thật hơn hết là ở trong những anh chị em của chúng ta, những người đang mong mỏi thoát khỏi cái ách của ma quỉ, đói khát, chiến tranh, cô đơn, và thất vọng.
Chúa Giêsu Nagiarét là "Ai" trong mùa Phục Sinh? Và chuyện gì đã xảy ra trong mùa Phục Sinh này? Cái chết của Ngài không phải là một biểu tượng, nhưng là một cái chết thật mà không có hoá trang, hoa lá, và âm nhạc. Sự phục sinh của Chúa Kitô không phải là sự sống lại theo nghĩa tượng trưng, nhưng là một sự khải hoàn thật sự của Ngài. Cộng đoàn Kitô giáo đã không gọi "Linh hồn của Ngài sống mãi", hoặc là "Tư tưởng của Ngài còn sống", hay là "Ngài sống qua những người môn đệ." Không phải thế, Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi! Một vài người đã muốn dùng khoa học để chứng mình sự phục sinh, thế nhưng phương thức của khoa học là so sánh một sự việc này với một sự việc khác để xác nghiệm, còn sự phục sinh thì không thể nào làm như vậy được, bởi vì nó vượt trên mọi sự ở thế gian này. Những điều mà Thánh Kinh kể lại cho chúng ta chưa từng có bao giờ xảy ra. Có một số người đã sống lại theo như các Phúc Âm kể lại, nhưng rồi họ lại phải chết. Chúa Giêsu đã sống lại và không chết nữa, và Ngài khải hoàn trong sự sống mới. Ngài đã mở cửa Nước Trời, nơi mà sự chết không còn thống trị. Sự sống lại của Chúa Giêsu là dấu cho những người môn đệ theo Ngài, đó là những ai sống theo tinh thần của Ngài thì một ngày cũng sẽ được vinh hiển như Ngài.
Chúng ta hãy nghe những lời Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Colôxê: "Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa" (Col 3:1-4).
Bạn có nhớ lúc nào mà bạn đã bắt gặp Chúa Kitô? Nói một cách rõ ràng hơn, lúc nào Chúa Kitô đã bắt gặp bạn? Qua Bí tích Rửa Tội, bạn đã trở nên một phần thân thể của Ngài, đó chính là Giáo Hội. Chúa Kitô Phục Sinh đã nối kết bạn với Ngài qua sự tụ họp ở nơi bàn tiệc thánh ở đây. Chúa Kitô Phục Sinh đổi mới bạn qua bài giảng này, và qua Lời của Ngài. Tính chất độc nhất của chúng ta hiện thời bây giờ bị ẩn dấu, nhưng rồi sẽ đến một ngày sự ẩn dấu này sẽ được mặc khải mà "mọi đầu gối sẽ phải quỳ xuống khi nghe tên danh thánh Chúa Giêsu." Khi tiếng loa cuối cùng được thổi lên để báo hiệu lịch sử của con người đã đến chỗ hoàn thành, thì chúng ta sẽ được biết một cách hoàn toàn điều mà chúng ta đang biết một phần ở đời này. Và chúng ta sẽ được cảm nghiệm sự vinh thắng mà chúng ta đang phải dùng đức tin.
Thánh Phêrô viết: "Chúc tụng Thiên Chúa và là Cha của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã thể theo lòng thương hải hà mà tái sinh chúng ta cho hy vọng hằng sống nhờ sự phục sinh từ cõi chết của Đức Giêsu Kitô" (1 Pt 1:3). Chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ cứu chữa chúng ta, sẽ ban cho chúng ta sự sống mới và đường hướng mới, sẽ tăng cường sức mạnh cho chúng ta bằng tình yêu.
63. Đức Kitô chiến thắng
Tại công trường thánh Phêrô ở Rôma, có một đài tưởng niệm hoàng đế Caligula. Đài tưởng niệm này là một phiến đá cẩm thạch cao 30 thước, được mang về từ Ai Cập. Đỉnh cao là một cây thánh giá. Trên phiến đá này, người ta đã khắc ghi hàng chữ sau đây:
Christus vincit, Christus regnat, Christus imperat. Có nghĩa là Đức Kitô chiến thắng, Đức Kitô thống trị, Đức Kitô hiển trị.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ý tưởng thứ nhất: Đức Kitô chiến thắng.
Phải, Đức Kitô Phục sinh đã chiến thắng tội lỗi, đau khổ và sự chết. Đồng thời, Ngài cũng đã chiến thắng kẻ thù của Ngài.
Đúng thế, kẻ thù của Ngài đang reo mừng ngạo nghễ vì đã nhìn thấy Ngài trút hơi thở cuối cùng một cách tủi nhục ê chề trên thập giá. Từ nay, Ngài không còn giảng dạy và hoạt động nữa. Từ nay họ có thể yên tâm ngủ quên trên tội ác của họ. Đức Kitô đã bị mai táng trong mồ. Thế nhưng, cũng chính từ ngôi mộ này mà Ngài đã bước ra để khởi đầu cho một trang sử mới, một trang sử bất tận.
Kẻ thù của Ngài reo mừng vì nghĩ rằng: Ngài cùng với giáo lý của Ngài đã bị chôn vùi dưới lòng huyệt lạnh.
Dioclétien đã phát hành một loại tiền và trên loại tiền này có ghi hàng chữ:
- Kỷ niệm ngày quét sạch danh hiệu Kitô.
Thế nhưng, sự thật thì trái ngược hẳn lại. Dioclétien cùng với đế quốc Lamã của ông đã bị quét sạch khỏi mặt đất này từ lâu. Ông tưởng rằng mình đã huỷ diệt được Kitô giáo, nhưng nếu giờ đây được sống lại, ông sẽ phải ngạc nhiên vì trải qua 20 thế kỷ, Kitô giáo vẫn không ngừng phát triển, vẫn không ngừng lớn lên.
Vào thế kỷ 18, Voltaire đã nói:
- Chỉ 20 năm nữa, Đức Kitô sẽ bị chìm vào quên lãng.
Nhưng sự thật thì trái ngược hẳn lại, bởi vì chính 20 năm sau, Voltaire đã chết trong kinh hoàng khiếp hãi và phải ra trước toà án tối cao của Đức Kitô.
Rồi trong cuộc Cách mạng Pháp, năm 1789 một ông bộ trưởng đã nói:
- Đức Kitô chỉ còn là một thây ma cho chúng ta đẩy xuống hố.
Nhưng sự thật thì trái ngược hẳn lại, bởi vì chẳng bao lâu chính ông bộ trưởng này đã bị xử tử và thi thể của ông đã bị đẩy xuống hố. Chống lại Đức Kitô là giơ chân đạp mũi nhọn. Chỉ những kẻ ngu xuẩn mới dám làm cái hành động liều lĩnh và dại dột ấy mà thôi.
Còn Đức Kitô, Ngài vẫn sống, vẫn tươi mới như mỗi độ xuân về của một năm, hay như mỗi khoảng bình minh của một ngày. Những bạo vương, những hoàng đế, những kẻ bách hại Ngài ở đâu bây giờ? Có ai còn nhắc đến họ và van xin họ? Lòng đất đã chôn vùi sự nghiệp của họ và thời gian đã đẩy họ vào quên lãng, như Nguyễn Du tiên sinh đã phát biểu:
- Bất tri tam bách du niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Có nghĩa là:
- Biết rồi ba trăm năm sau,
Nào ai còn khóc một câu thương mình.
Đức Kitô của chúng ta thì khác hẳn. Cho đến bây giờ, Ngài vẫn còn là một vấn đề thời sự nóng bỏng. Người ta không ngừng học hỏi và tìm hiểu về Ngài. Và giờ đây, trong giây phút này, hằng triệu cặp môi vẫn còn cầu khẩn và ca tụng Ngài.
Những bắt bớ và cấm cách của kẻ thù, giống như một trò chơi của con trẻ. Vì tức giận với biển cả, nên đã cầm một cục đá và ném xuống lòng biển. Hòn đá được ném đi chỉ đủ gây nên một vài vòng tròn dao động trong thoáng chốc trên sóng nước mà thôi, còn biển cả thì vẫn bao la và hùng vĩ.
Những bắt bớ và cấm cách của kẻ thù, giống như hành động của một tên điên khùng. Hắn bực bội với mặt trời vì mặt trời luôn chiếu sáng. Vì thế vào lúc giữa trưa nắng gắt, hắn ngửa mặt lên và phun nước miếng vào mặt trời. Thế nhưng những giọt nước miếng do hắn phun ra thay vì rớt vào mặt trời thì lại rơi vào chính khuôn mặt của hắn.
Đức Kitô đã chiến thắng và chỉ mình Ngài mới trường tồn, mới bất diệt như lời thánh Phaolô Tông đồ:
- Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn chỉ là một.
Chúng ta hãy mượn lời thánh vịnh 73 như một kết luận:
- Lạy Chúa, Ngài là vua chúng tôi từ muôn thuở, Đấng đã từng chiến thắng trên toàn cõi địa cầu.
64. Niềm hy vọng
Biết trước cái chết và cách thế phải chết, nhất là cái chết mình không chấp nhận, quả là một tâm trạng khủng khiếp nhất đối với con người. Đó là trường hợp những người bị kết án tử hình hay những người bị bức tử, tức là bị bắt buộc phải tự kết thúc đời mình. Chúa Giêsu cũng trải qua những giờ phút kinh hoàng ấy. Ngài biết trước cái chết của Ngài: Đã ba lần Ngài nói trước với các môn đệ là Ngài sẽ bị tử hình. Và Ngài cũng nói rõ cách thế Ngài bị giết chết:”Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo”, “Như Mô-sê treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải bị treo lên như vậy”, “Khi nào Ta bị treo lên, ta lôi kéo mọi sự lên với Ta”. Qua những lời đó, Chúa Giêsu muốn nói đến một cực hình diễn tả cảnh tượng những phạm nhân phải kéo lê những khúc gỗ sẽ được dùng làm thập giá để đóng họ vào và treo lên tại một nơi gọi là núi Sọ. Nhưng có một điều khác, đây là cái chết Ngài biết trước, nhưng Ngài chấp nhận:”Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con, mà theo ý Cha”. Hơn nữa, không những Ngài chấp nhận, mà Ngài còn mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.
Tất cả những điều trên đã xảy ra đúng theo từng chi tiết như Chúa Giêsu đã nói trước: Ngài phải vác thập giá và bị đóng đinh chết trên thập giá. Tuy nhiên, việc Chúa Giêsu chết chưa phải là mục tiêu cuối cùng của sứ vụ cứu độ. Ngài còn phải vượt qua cõi chết để trở thành con người đầu tiên trong nhân loại được phục sinh và tôn vinh. Và đây cũng là điều Ngài nói trước luôn, mỗi khi nói về cái chết, Ngài đều nói thêm: Ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại. Và điều này cũng xảy ra đúng như vậy vào ngày thứ ba sau khi chết, Ngài đã sống lại.
Trước hết, chúng ta cần hiểu cho đúng thế nào là phục sinh hay sống lại. Sống lại không phải là lại sống y như trước, giống như mấy người được Chúa Giêsu làm phép lạ cho sống lại như trước rồi sau cũng phải chết, như con trai bà góa ở Na im hay ông Ladarô. Chúa Giêsu phục sinh và được tôn vinh nghĩa là Ngài đã chết thật, rồi được sống lại với một thân xác đã được đổi mới, không còn lệ thuộc các luật vật lý hay sinh lý nữa, không chết bao giờ nữa. Ngài được tôn vinh là được về trời, không phải là vào tầng mây xanh mà là vào một tình trạng hoàn toàn mới, được ở bên hữu Chúa Cha, nghĩa là hiệp thông trọn vẹn với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong hạnh phúc vĩnh hằng.
Việc Chúa Giêsu vượt qua cõi chết để phục sinh và được tôn vinh là một biến cố cực kỳ quan trọng đối với chính Ngài, với giáo huấn của Ngài, với các môn đệ, và với tất cả mọi người. Vì là nền tảng cho đức tin và sự cứu chuộc của mọi người. Thực vậy, đối với Chúa Giêsu, sự sống lại chứng tỏ Ngài vừa là người thật (đã đau khổ và chết) vừa là Thiên Chúa thật (đã phục sinh và được tôn vinh) làm cho Ngài trở thành siêu việt trên tất cả mọi nhân vật tôn giáo trên thế giới. Tiếp đến, sự sống lại chứng tỏ giáo huấn của Ngài thật là do Thiên Chúa mạc khải và dẫn đưa con người chắc chắn đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu. Lại nữa, sự sống lại đã làm xoay chuyển tầm nhìn của các môn đệ về Ngài, để lời loan báo đầu tiên và cả việc soạn thảo Tin mừng của các ông đều được coi là diễn tả cái nhìn mới về con người Nagiarét, nhìn nhận Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu thế, là Đấng Kitô; đồng thời cũng làm xoay chuyển cả sự lựa chọn và lối sống của các ông khiến các ông sẵn sàng sống chết làm chứng cho niềm tin vào Đức Giêsu phục sinh.
Sau hết, sự sống lại của Đức Giêsu phục sinh là nòng cốt cho niềm tin của chúng ta. Niềm tin này kéo theo nhiều niềm tin khác: chúng ta tin Chúa sống lại là chúng ta tin chúng ta được cứu chuộc. Bởi vì Chúa sống lại Chúa mới cứu chuộc được nhân loại. Nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác, thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc được ai. Nhưng Ngài đã sống lại, để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa và Ngài có quyền cứu chuộc được tất cả chúng ta.
Đàng khác, Chúa sống lại còn là niềm hy vọng cho chúng ta: tất cả chúng ta sẽ sống lại. Thực vậy, thân xác chúng ta sẽ sống lại, đúng như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin kính:”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Bởi vì thân xác sống lại là hiệu quả của mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu, như Kinh thánh đã nói:”Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại với Ngài”. Như vậy, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và Ngài cũng cho hết thảy chúng ta được chung hưởng chiến thắng đó. Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ rằng: ai cũng sống lại, mọi người đều sống lại, người tội lỗi hay người công chính, người có đạo hay không có đạo, người tin Chúa Giêsu hay người không tin Chúa Giêsu… tất cả đều sống lại. Nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt, được lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục lại là một chuyện khác. Sự khác biệt đó đều do cuộc sống hôm nay. Vì thế, cuộc sống hiện tại, tuy ngắn ngủi, nhưng lại là cái giá đảm bảo cho cuộc sống hạnh phúc mai sau. Vì vậy, chúng ta cần sống cho thật tốt đẹp, sống đúng tư cách người Kitô hữu đã được cứu chuộc, để được sống lại và sống mãi với Chúa Giêsu.
Tóm lại, việc Chúa Giêsu phục sinh là một biến cố cực kỳ quan trọng, nhưng lại là một sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy hoặc có kinh nghiệm. Đối với chúng ta, đây là một vấn đề thuộc đức tin. Chúng ta không thấy, nhưng chúng ta tin, không phải là tin nhảm nhí hay ảo tưởng, mà có bằng chứng xác thực, đó là Kinh thánh đã nói về việc Chúa Giêsu phục sinh, đó là lòng tin của Giáo Hội suốt hai mươi thế kỷ qua. Chính niềm tin này là động lực giúp chúng ta sống tốt đẹp, thúc bách chúng ta sống tốt đẹp. Bởi vì chúng ta biết: cuộc sống ở trần gian này chỉ là tạm gởi, trước sau gì chúng ta cũng sẽ chết. Nhưng cái chết không còn là một ngõ cụt hay tận cùng, chết không phải là hết, nhưng là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Đức Giêsu và cùng Đức Giêsu trong cõi vĩnh hằng.
65. Mộ mở toang
Gioan “cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó… Ông đã thấy và đã tin.
Nhưng ông thấy gì? Chẳng thấy gì hết. Có gì đâu mà thấy. Tuy vậy điều ông thấy đã dẫn ông tới chỗ tin.
Ta hãy nghiêng mình xuống như Gioan. Ta thấy gì? Một hố sau thăm thẳm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông dâng đầy mầm sống. Cờ tang khăn tang chuyển biến thành y phục ánh sáng. Một sự vắng mặt vang dội sự có mặt. Một sự im lặng của nấm mồ nói nhiều hơn mọi bài diễn văn. Một bức tường mà ta chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết quả của tất cả mang dáng dấp khởi đầu. Một cái chết có bộ mặt một cuộc giáng sinh. Mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí mật.
Vậy ai đã tạo ra ngôi mộ trống. Ngôi mộ đâu có trống. Vì Gioan đã thấy chân dung thực sự của Đức Giêsu, bạn ngài.
Ngôi mộ không trống, không sâu, không câm nín, không vương mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó còn nói với ta. Ta có bị cụt hứng không? Vì sự vắng mặt này, lớn như một nấm mồ, chính là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới nhãn quan của não trạng hiện đại, đã thấm nhiễm vào ta, chết là hết. Chết rồi chẳng còn gì ráo. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết chôn kín đời ta.
Nhưng ở đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người đã mở ra. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Mầu nhiệm mang tên chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở lòng mớ trí ta. Ký ức sống và sống lại. Ta mở hồn ra với đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã vượt qua bức tường sự chết, đã nâng phiến đá che mộ, đã hoàn thành Phục sinh báo trước. (G. Boucher, “Le ciel sur terre”, được trích dịch trong Fiches dominicales, năm A, trang 122 -123).
Một vài tuần trước lễ Phục sinh, người chồng đã chết vì một tai nạn đột ngột: đang khi ông đốt các nhánh cây vụn trong khu vườn của gia đình, ông đã sơ ý để lửa bắt vào mình.
Tai nạn đã làm cho bà vợ trở nên như người mất trí, một đàng vì nó đột ngột quá, đàng khác vì nó xảy ra tại chính khu vườn của gia đình. Bà không giám bước chân ra vườn. Thậm chí không dám nhìn về hướng đó nữa.
Rồi tới lễ Phục sinh. Hai người hàng xóm đến thăm bà và rủ bà đi ra vườn. Mới nghe tới đó, bà co rúm người lại. Nhưng các bà hàng xóm tin rằng việc này sẽ có ích cho bà nên cứ khuyến khích. Thế là cả 3 ra vườn, đến chính nơi xảy ra tai nạn. Người vợ muốn quay lưng bỏ vào nhà. Nhưng đúng lúc ấy, một lời trong Tin Mừng lóe lên trong đầu bà: “Sao lại tìm người sống nơi chỗ kẻ chết? Ngài không còn ở đây nữa. Ngài đã sống lại rồi”. Bà nghĩ lời đó nói về chính người chồng của bà.
Thế là nỗi buồn sầu bấy lâu nay chắp cánh bay mất. Bà tìm lại được niềm vui.
66. Hy vọng
Chúng ta có thể đương đầu và chịu đựng được bất cứ điều gì, miễn là chúng ta nhận biết hoặc tin tưởng rằng điều đó sẽ không kéo dài mãi mãi, và có một điều gì đó tốt đẹp hơn sẽ xảy ra.
Chẳng hạn, người ta sẽ đương đầu được với một cuộc giải phẫu lâu dài, đau đớn và nguy hiểm, nếu họ tin tưởng rằng cuộc giải phẫu đó sẽ làm cho họ được mạnh khỏe trở lại. Các tù nhân có thể đương đầu với một bản án lâu dài, miễn là họ tin tưởng rằng bản án đó rồi sẽ kết thúc, và họ sẽ được vui hưởng tự do trở lại. Chúng ta có thể đương đầu được với sự khắc nghiệt của một mùa đông kéo dài và khổ sở, bởi vì chúng ta biết rằng mùa xuân sẽ trở lại. Tất cả điều này nhằm nhấn mạnh đến tầm quan trọng của niềm hy vọng. Hy vọng cũng cần thiết đối với tinh thần, giống như cơm bánh đối với cơ thể. Thật đáng ngạc nhiên khi tinh thần con người có thể chịu đựng và vượt qua được mọi sự, miễn là nó được nuôi dưỡng bằng tấm bánh của hy vọng.
Biến cố Phục sinh cung cấp một niềm hy vọng vĩ đại cho tinh thần con người. Niềm hy vọng này thật cần thiết biết bao. Trong cuộc sống, có nhiều bi kịch, làm tiêu hủy mất những điều tốt đẹp. Một số người tốt đã bị ngã quị: Thomas More, Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Oscar Romero… và tất nhiên trong đó có cả Đức Giêsu. Người cũng đã bị ngã quị. Nhưng Người đã sống lại.
Thế giới thời đó đã không để ý nhiều đến sự sống lại của Đức Giêsu. Lý do vì đây là một sự kiện khiêm tốn, được giữ kín. Đức Giêsu đã không xuất hiện trong tư thế chiến thắng tại đền thờ ở Giêrusalem, làm cho những kẻ đã hạ gục Người bị ngỡ ngàng. Chỉ những ai được Người kêu gọi, ban cho chiếc bánh, và những lời nói an bình, mới ý thức được sự kiện gì đã xảy ra, và thậm chí họ còn khó mà tin tưởng được. Giống như chúng ta, họ chậm tin. Tuy nhiên, chính sự kiện được giữ kín này đã giải phóng nhân loại khỏi xiềng xích của sự chết.
Đức Giêsu đã đưa ra một dấu hiệu cho những ai yêu mến và đi theo Người là tình yêu của Thiên Chúa còn mạnh mẽ hơn cả cái chết. Sự sống lại của Đức Giêsu không hề tách biệt khỏi sự sống lại của nhân loại mà Người đã cứu độ. Bằng cách hoàn toàn đi vào sự sống nhân loại, và bằng cách trải qua nỗi cay đắng của cái chết, Đức Giêsu đã trở nên một người Anh và Đấng cứu độ cho tất cả mọi người. Cái chết của Đức Giêsu là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Giêsu là đấng đi tiên phong và dẫn đường cho sự cứu độ của chúng ta: Người đang chỉ đường và dẫn lối cho chúng ta, trên bước đường của sự vâng phục và đau khổ.
Trong ngày Phục sinh, chúng ta vẫn cảm thấy nỗi đau khổ của thế giới, của gia đình và bạn bè chúng ta. Nhưng một yếu tố mới mẻ đã được đưa vào trong cuộc sống của chúng ta. Yếu tố này không tiêu hủy nỗi đau khổ, nhưng đem lại cho nó một ý nghĩa, soi sáng nó bằng niềm hy vọng. Tất cả nay đều được khác hẳn, bởi vì Đức Giêsu đang sống động, và nói với chúng ta những lời bình an, giống như Người đã từng nói với các tông đồ của Người.
Lòng tin vào sự sống lại của Đức Giêsu là nền tảng cho niềm hy vọng của chúng ta vào sự sống đời đời, một niềm hy vọng đem lại cho chúng ta khả năng kiên nhẫn chịu đựng những thử thách của cuộc đời. Do đó, có một niềm vui thầm lặng ở giữa chúng ta, và một ý nghĩa sâu xa về sự bình an, bởi vì chúng ta biết rằng sự sống mạnh mẽ hơn cái chết, tình yêu mạnh mẽ hơn nỗi sợ hãi, và niềm hy vọng mạnh mẽ hơn nỗi thất vọng.
67. Ngôi mộ trống, dấu chỉ Phục Sinh
(Lm. Nguyễn Hữu An)
Con người ở đời thường khởi sự bằng cái có: có địa vị, có quyền thế, có bằng cấp, có tiền của, có sức mạnh, có tài năng … mới làm nên chuyện.
Nhưng Thiên Chúa lại thường khởi sự bằng cái không. Trong sách Sáng Thế, Thiên Chúa khởi sự từ cái hoang vu trống rỗng, không không “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, tối tăm bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước” (St 1,1-2).
Cái hoang vu trống rỗng của “ngày thứ nhất” trong công trình sáng tạo trời đất sẽ lại xuất hiện trong một “ngày thứ nhất” khác: Ngày Chúa Kitô sống lại từ cõi chết.Đó là cái hoang vu trống rỗng của Ngôi Mộ Trống mà Mađalêna đã chứng kiến và đau buồn thốt lên “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi rồi”, Phêrô ngạc nhiên trong hoài nghi, Gioan đã thấy và đã tin.
Tất cả được khởi đầu bởi một sự kiện lạ lùng. Các phụ nữ ra mồ thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. sau đó Phêrô, Gioan không còn thấy xác Đức Giêsu trong ngôi mộ mở toang.
Có lẽ lúc này Philatô còn đang ngủ, các Thượng tế, Kinh sư, Kỳ mục cũng thế. Họ ngủ thật say, sung sướng vì đã dẹp yên được một chướng ngại từng làm họ ghen tức, mất ăn mất ngủ. Mọi sự đã được giải quyết đúng như sự sắp đặt khéo léo của họ.Cái tên Giêsu rồi sẽ bị quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới.Tảng đá to đã niêm phong cửa mộ. Giêsu Nazarath đã đi vào lòng đất lạnh.
Đối với những người vẫn thương mến Chúa Giêsu thì kể như đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát.Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hải. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi cùng với Giêsu Nazareth. Sáng nay, mấy chị em phụ nữ ra mộ thì cũng chỉ có mục đích là ướp lại cái xác không hồn chưa kịp thối rửa.Họ đi tìm một cái xác, một kẻ chết nhưng họ đã đối diện với Ngôi Mộ Trống. Mađalêna đau khổ thốt lên “người ta đã đánh cắp xác Chúa tôi rồi”. Các Thiên Thần hiện ra cắt nghĩa Chúa đã sống lại. Không biết các bà đã tin hay chưa, họ vội chạy về báo tin cho các Tông Đồ. Phản ứng của Phêrô là thinh lặng, Ong đang phân vân. Nếu có kẻ lấy trộm xác Thầy thì tại sao kẻ gian lại mất công xếp đặt khăn liệm và các dây vải cách thứ tự và gọn gàng như thế? Ong vẫn còn bàng hoàng về những lỗi lầm chối Thầy với niềm ăn năn thống hối, Ong chưa hiều sống lại nghĩa là gì. Còn Gioan, Ong đã thấy và đã tin. Ong đã thấy gì? thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại, khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chiọu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
Trước mọi phản ứng đó, Đức Kitô Phục Sinh đã biểu lộ một sự chiến thắng âm thầm, không rình rang giữa tiếng kèn trống,reo hò của toàn dân.
Đức Kitô đã chiến thắng tử thần, thân thể bằng xương bằng thịt của Ngài hôm nay đã được “Thần Khí Hoá” và từ đây Người sống hoàn toàn bởi Thần Khí, vì chỉ “Thần Khí mới làm cho sống còn xác thịt thì có ích gì” (Ga 6,36).
Đức Kitô đã sống lại thật trong vinh quang. Ngài không mặc lấy một thân xác khác, thân xác Phục Sinh của Ngài vẫn chính là thân xác trước đây chịu khổ hình, chết thập giá, nay thân xác đó được biến đổi, thân xác tâm linh không hư nát. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ là phục hồi sự sống như trước mà còn chuyển qua thể thức hiện hữu mới. Thân xác của Ngài được Thần Khí hoá không bị vật chất cản trở.Đấng Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra với các Tông Đồ để cũng cố đức tin cho họ chuẩn bị tâm hồn các ông đón nhận Chúa Thánh Thần, trở nên chứng nhân rao truyền sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa
Ngày nay nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta cũng cần khởi đi từ Ngôi Mộ Trống như các Tông Đồ ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ tu đức thì chúng ta trở về với đời sống thanh bạch, đó là đời sống trong sạch, ngay lành và có tinh thần nghèo khó.
Thế giới hôm nay không thiếu những dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Nhưng người ta không nhận thấy được Ngài vì thiếu tâm hồn ngay thẳng trong sạch “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Nói khác đi mỗi tâm hồn chúng ta là một ngôi mộ trống. Ngôi Mộ Trống là ngôi mộ không còn xác Chúa nhưng còn dấu chỉ Đấng Phục Sinh, đó là khăn liệm và khăn che mặt. Tất cả những gì nhân loại dùng để trói buộc Chúa Giêsu, che mặt Người, cần phải cởi ra và xếp gọn một bên.Gioan đã đi vào Ngôi Mộ Trống, Ong nhìn với cặp mắt trong sạch nên đã thấy và đã tin.Ong không thấy Chúa, nhưng thấy dấu chỉ của Phục Sinh, dầu vậy Ong vẫn tin.Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin vì “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Chúng ta không thấy Chúa nhưng chúng ta thấy Ngôi Mộ Trống là cái thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Người.Ta cũng có thể thấy Chúa trong trong tâm hồn khiêm nhu, tự hạ, quên mình, trong sự bình an thanh thản của nội tâm. đó là những dấu chỉ mà Đấng Phục Sinh ban tặng.
Không có Phục Sinh, đức tin chúng ta chỉ là hảo huyền, cuộc sống chúng ta có ý nghĩa gì nếu không có gì sau hết, nếu tất cả chỉ dừng lại ở đời này?. Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh, rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao?. Khi mà chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, oán ghét thì đó là cuộc vượt qua phi thường …
Như mùa xuân sau đông tàn, Phục Sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.
68. Hai cái nhìn
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến hai cái thấy khác nhau:
- Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: “Người ta đã đem Chúa ra khỏi mộ!” Cái nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
- Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui: “Ông đã thấy và đã tin”.
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những điều mà mắt thường không trông thấy. Theo định nghĩa, “Tín hữu” là người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai là được tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
69. Sứ điệp Phục Sinh
GỬI QUA PHÊRÔ
Hẳn chúng ta còn nhớ lời sứ thần nói với những người đàn bà đạo đức:
- Hãy về báo cho Phêrô và các môn đệ biết Ngài sẽ đi trước các ông đến Galilêa.
Chúng ta thử tưởng tượng xem Phêrô đang như thế nào trong buổi sáng Phục sinh?
Chắc hẳn lúc ấy Phêrô đang ngồi với các môn đệ trong phòng Tiệc Ly. Cõi lòng thì tan nát, tâm hồn thì đau đớn. Phêrô thì nhớ lại tội đã chối bỏ Chúa. Gioan thì nghĩ đến cái nhìn của Chúa trên thập giá trước khi trút hơi thở cuối cùng. Các môn đệ khác thì lo lắng về một tương lai đen tối.
Họ ngồi yên lặng, không nói một lời. Bầu khí thật là nặng nề và ngột ngạt. Bỗng chốc những tiếng gõ cửa dồn dập vang lên và giọng nói của những người đàn bà như vội vã và thúc giục:
- Này Phêrô, Phêrô hãy đến mau, Thầy đã Phục sinh. Thầy đang sống và gửi lời chào ông đó.
Phêrô người đã từng chối bỏ Chúa, người đã từng thề sống thề chết rằng mình không hề quen biết Ngài, người đã ăn năn sám hối. Và giờ đây, Chúa không còn nghĩ đến tội lỗi của ông nữa.
Đức Kitô Phục sinh đã quên đi, đã xóa bỏ dĩ vãng đau buồn của Phêrô, khi ông quay trở về với Ngài. Còn chúng ta ngày hôm nay, tòa giải tội chính là niềm an ủi cho những tâm hồn sám hối. Sứ điệp tha thứ của Đức Kitô Phục sinh sẽ khích lệ chúng ta, gia tăng sức mạnh để chúng ta biết chỗi dậy sau những lần sa ngã và vấp phạm. Hỡi Phêrô, ông có nghe thấy không, Thầy đang đợi chờ ông ở Galilêa.
GỬI QUA MADALÊNA
Để đi sâu vào lòng thương xót và tha thứ của Chúa, chúng ta cần phải tiếp nối và tìm hiểu cái sứ điệp Đức Kitô Phục sinh gửi qua Madalêna. Thực vậy, khi những tia nắng đầu tiên xuất hiện, thì bên cạnh ngôi mộ của Chúa đã vang lên những tiếng khóc nức nở và nghẹn ngào của một tâm hồn tan nát, đó là Madalêna.
Đời sống dĩ vãng là như một đám mây đen phủ kín cõi lòng chị. Thế nhưng chị đã sám hối, đã ăn năn, đã bước theo Chúa trên con đường thập giá dẫn tới đỉnh đồi Canvê, để rồi chị đã xứng đáng đón nhận tin mừng Phục sinh. Madalêna thổn thức khóc lóc:
- Người ta đã lấy mất Thầy tôi rồi và tôi không biết họ để Ngài ở đâu?
Bỗng chốc Chúa Giêsu hiện đến, nhưng nàng lại chưa nhận ra Ngài. Chúa Giêsu hỏi:
- Ngươi đang làm gì thế và tại sao ngươi lại khóc?
Tưởng là người làm vườn, Madalêna đã trả lời:
- Thưa ông, nếu ông đã lấy xác Ngài, thì xin ông vui lòng bảo cho tôi biết ông đã để Ngài ở đâu?
Nhưng Chúa Giêsu đã nói với chị bằng một giọng ôn tồn và ngọt ngào như ngày nào:
- Maria.
Và rồi một cái gì đó đã xảy đến trong tâm hồn của chị. Chị như bừng tỉnh, vội vã chạy đến quì dưới chân Ngài. Nhưng Ngài lại phán:
- Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta.
Điều này có nghĩa là sứ mạng và công việc của Ngài chưa kết thúc, hay nói một cách khác, Nước Ngài vẫn chưa hoàn thành.
Thực vậy, kể từ khi Chúa Giêsu đến với nhân loại, thì nước Thiên Chúa đã ở giữa chúng ta, thế nhưng nước ấy lại chưa hoàn thành. Nó mới là như một hạt giống được gieo vào lòng đất. Và chỉ được hoàn thành khi Ngài lại đến, như lời sứ thần đã nói với các môn đệ trong ngày Ngài về trời:
- Đức Kitô đã lên trời và Ngài sẽ lại xuống một lần nữa, cũng với cách thức mà các ngươi đã nhìn thấy.
Trong thời gian chờ đợi này, chúng ta phải thực thi lệnh truyền của Ngài:
- Hãy đi khắp thế gian và rao giảng tin mừng cho muôn dân.
Nhưng rồi để an ủi Madalêna, Ngài đã nói với chị:
- Ta về cùng Cha Ta cũng là Cha các ngươi. Ta về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các ngươi.
Ngài là người đầu tiên đã bước vào vinh quang và giờ đây đang mở rộng vòng tay chờ đón chúng ta, những kẻ tin theo Ngài.
Chúng ta hãy đưa mắt nhìn vào xã hội hôm nay. Nó giống như một ngôi mộ khổng lồ vì có biết bao nhiêu người đang sống, nhưng thực sự họ là những kẻ đã chết từ lâu. Họ cũng đi đứng, cũng chạy nhẩy, cũng ăn uống, cũng ngủ nghỉ, nhưng đồng thời họ lại là những kẻ đã chết vì họ không có linh hồn. Nơi họ chỉ có những đam mê gào thét, những dục vọng chất đầy và những toan tính bất công trào dâng.
Tất cả chỉ còn lại một nắm bụi tro khi giờ chết đến và chẳng có gì cả cho cuộc sống vĩnh cửu. Dù cuộc đời chúng ta có nhiều gian nguy và thử thách, đắng cay và chua xót, thì cũng hãy cố gắng làm cho Nước Chúa được lớn lên trong tâm hồn chúng ta, cũng như trong tâm hồn người khác. Hãy trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng, nhờ đó mà chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang Phục sinh với Ngài.
GỬI QUA KẺ THÙ
Sau cùng, biến cố Phục sinh còn là một lời cảnh cáo cho những kẻ thù của Ngài. Trong đêm thánh vọng Phục sinh chúng ta thấy gì? Tất cả Giêrusalem đang chìm trong giấc ngủ đêm dài. Philatô đã ngủ với sự hèn nhát của mình. Các thầy cả thượng phẩm đã ngủ yên với sự thỏa mãn của mình. Dân chúng cũng ngủ yên vì đã thực hiện được ý đồ độc ác của mình. Nhưng rồi bọn lính canh đã hối hả chạy về, mặt tái xanh như cắt không còn một giọt máu. Họ hổn hển nói với Caipha và Ana rằng:
- Đức Kitô không còn ở trong mộ nữa.
Nguồn tin ấy như một tiếng sét đánh ngang tai, khiến cho họ phải suy nghĩ, phải ra tay để mà chận đứng những lời đồn thổi bất lợi. Cuối cùng họ đã dối gạt và vu khống.
Ngày hôm nay, chúng ta cũng gặp thấy những kẻ đã hành động giống như các thầy cả thượng phẩm Do Thái. Phải thổi phồng, phải bóp méo, phải bôi nhọ để mọi người không còn tin tưởng vào Đức Kitô, vào Giáo Hội vào tôn giáo nữa.
Trải qua dòng thời gian, nhiều lần Giáo Hội cũng đã nghe thấy những tiếng reo hò và chống đối như trong ngày thứ sáu tuần thánh:
- Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào cây thập giá. Máu nó sẽ đổ trên chúng tôi và con cháu chúng tôi.
Giáo Hội chính là Đức Kitô tiếp tục hiện diện giữa chúng ta. Biết bao nhiêu lần Giáo Hội cũng đã phải bước đi trên nẻo đường thập giá. Nhưng rồi buổi sáng Phục sinh đã xuất hiện.
Quân thù muốn hạ nhục Ngài bằng cực hình thập giá, nhưng chính khi bị treo lên thập giá, Ngài bắt đầu hiển trị như lời Ngài đã nói:
- Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.
Dân Do Thái đã khinh bỉ nhìn Ngài trên thập giá, nhưng bây giờ hằng triệu triệu người đã quì gối, thờ lạy và suy tôn thập giá:
- Đây là cây thánh giá, nơi treo Đấng Cứu độ trần gian, chúng ta hãy đến thờ lạy.
Dân Do Thái đã kêu gào:
- Chúng tôi không có một vị vua nào khác ngoài hoàng đế César.
Còn bây giờ, hằng triệu triệu con tim đã tuyên xưng:
- Chúng tôi thờ lạy Chúa, chúng tôi tôn vinh Chúa, vì Chúa đã dùng thập giá mà cứu độ trần gian.
Hãy sám hối ăn năn để được tha thứ như Phêrô. Hãy tin tưởng vững vàng Giáo Hội sẽ vượt qua muôn vàn sóng gió, như Đức Kitô đã đón nhận thập giá để được tiến vào vinh quang Phục sinh.
70. Chú giải của Noel Quesson
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, "ngày thứ nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên" công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh 21,4).
Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra “biến cố". Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).
Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến
Chi ta "chạy". Chi tiết này rất có ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho "môn đệ" không nêu rõ danh tánh: "Người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.
Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi mộ” được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bất thường này?
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó”.
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24,12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã thấy và đã tin".
Vây ông đã thấy những gì?
Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.
Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến "người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau "quyền bính", trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong "trong tình yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.
Ông đã thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy "băng vải tuột ra” và "khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.
Dấu chỉ không có khả năng "trao ban đức tin" cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua “cái thấy được”, để đi tới "điều tin nhận". Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: "Phúc thay những người không thấy mà tin" (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: "Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?" Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện “mộ trống" và "những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.
Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.
Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: "Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết".
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi mộ trống" chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải yêu mến.
71. Suy niệm của Lm Nguyễn Hài Đồng
Người Công Giáo suy niệm về Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô:
TỪ MỒ CHÔN BÍT KÍN ĐẾN NỔ TUNG PHỤC SINH!
Chúa Giêsu Kitô của người Công Giáo thật quá lạ lùng!
Người ta có thể mạt sát Ngài đủ cách, khi công khai dữ tợn, khi thầm lén xảo quyệt, nhưng, quên Ngài đi, chối Ngài hẳn, diệt Ngài tiêu, thì không một ai trên trần gian nầy đủ sức làm được việc nầy, không một quyền lực nào trong nhân loại có thể thi hành nổi công tác nầy, vì Chúa Giêsu Kitô của người Công Giáo đã phục sinh, đã sống lại, và sống mãi muôn đời; vì Ngài là Nguyên Thủy và là Cùng Đích của mọi loài. Lấy tên GIÊSU ra khỏi lịch sử nhân loại, lịch sử nhân loại sẽ bị lung lay tận gốc rễ.
Vậy, Chúa Giêsu Kitô của người Công Giáo là ai?
Đây, lý lịch và chứng minh nhân dân của Ngài:
GIÊSU, biệt hiệu: KITÔ; tuổi: 33; dân tộc: Do Thái; Cha: Giuse; Mẹ: Maria; Nghề nghiệp: Thợ mộc; Nguyên quán: Bêlem – Giuđa; Nơi thường trú: Nadarét – Galilêa; Dấu vết riêng hoặc dị hình: không có (vì thân xác của Chúa Giêsu cân đối tuyệt vời, không méo mó, không có vết sẹo như thân xác của chúng ta); tử tội bị xử chết đóng đinh ngày 14 tháng Nisan năm 30.
Nếu chỉ được kể như thế: thợ mộc, bị đóng đinh tử hình, chết trẻ, ... thì Giêsu của người coong giáo không khác gì hai tên trộm bị xử tử vì hình sự trên đồi Gôngôta. Nếu vậy thì không có gì để phải nói, và cũng không có gì để đáng nói.
Nhưng một biến cố lạ lùng nhất đã xảy đến cho nhân loại, - một biến cố vô tiền khoáng hậu, làm cho khoa học thông minh nhất cũng phải bó tay, làm cho ai muốn nghiệm thu kỹ lưỡng nhất cũng không thể nào thực hiện được -, vì biến cố nầy không bao giờ lặp lại một lần thứ hai nữa trong lịch sử nhân loại: BIẾN CỐ PHỤC SINH, biến cố Chúa Giêsu Kitô của người Công Giáo đã tự mình sống lại sau khi chết chôn trong mộ ba ngày.
Mồ chôn bít kín bị Phục Sinh nổ tung!
Con người thời nay thế nào?
Con người thời nay, nếu bỏ đức tin ra ngoài, chỉ biết tôn sùng khoa học, và chỉ biết đem khoa học ra để cắt nghĩa mọi sự. Họ muốn cái gì cũng phải được nghiệm thu, được đo đạc, được tay rờ, được mắt thấy, được tai nghe, được kiểm chứng một cách rõ ràng tại chỗ. Nói rằng cách đây hai ngàn năm, có một người đã tự mình sống lại, sau khi đã bị chôn chặt trong ngôi mộ ba ngày, là điều mà con người ngày nay không thể nào chấp nhận được, vì khoa học không bao giờ thấy được sự kiện một người chết ba ngày, rồi sống lại.
Khi nghe người Công Giáo chúng ta nói rằng: Đức Giêsu đã sống lại, và điều nầy đã xảy ra cách đây hai ngàn năm, thì khoa học ngày nay không tin được vì cho rằng việc đó không thể nào kiểm chứng nổi, không thể nào nghiệm thu được.
Với óc phê bình khoa học thực nghiệm, con người ngày nay có thể có hai thái độ: hoặc chối sự kiện Chúa Giêsu sống lại, - nhưng than ôi, không thể nào chối được vì GIÊSU đang rành rành trước mặt họ, vì GIÊSU đang là trung tâm của lịch sử nhân loại: không có GIÊSU, nhân loại như một người mất đi quả tim, không thể nào sống nổi; hoặc cho rằng sự Đức Giêsu sống lại chỉ là do óc tưởng tượng của các tông đồ bày đặt ra mà thôi, - nhưng than ôi, không thể nào chủ trương nổi điều nầy vì tôn giáo của các tông đồ nầy truyền ra cách đây hai ngàn năm, - những tông đồ nhát đảm, ngu dốt, nghèo mạt -, thì hiện nay lại lan tràn khắp nơi, và sau hai ngàn năm rồi, vẫn sinh động một cách lạ lùng mãnh liệt!
Đối với người Công Giáo thế nào?
Đối với người Công Giáo, Biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu, Biến cố Sống Lại của Chúa Giêsu, có ý nghĩa gì?
Khi định nghĩa Đạo Công Giáo của mình, người ta phải gọi đó là Đạo Phục Sinh, Đạo Sống Lại thì mới đầy đủ ý nghĩa vì biến cố Phục Sinh là cơ sở, là căn bản, là điều quan trọng nhất trong Đạo Cong Giáo.
Giữ Đạo, đối với người Công Giáo, chẳng qua là tin mạnh mẽ rằng Chúa Giêsu, tuy đã chết, nhưng đã sống lại. Không có niềm tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu sống lại, người Công Giáo chỉ biết Đạo mình như một thứ tôn giáo do bàn tay của người nào đó tạo ra, chứ không thể nào giữ Đạo và sống Đạo theo đức tin siêu nhiên mạnh mẽ được.
Biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu là tất cả vận mạng của cuộc đời người Công Giáo vì không có biến cố nầy, cuộc đời của họ hoàn toàn sụp đổ và vô lý. Chính thánh Phaolô đã nêu lên điều nầy khi ngài quả quyết: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15,14).
Sau hai ngàn năm đã trôi qua, một phần lớn nhân loại hiện nay đang thờ lạy Người bị đóng đinh chết trên thập giá. Điều nầy không thể nào cắt nghĩa được, nếu không có một biến cố lịch sử mà không ai có thể chối cãi được, và biến cố lịch sử nầy phải gây xúc động thật mãnh liệt: đó là biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Sống Lại.
Làm thế nào cắt nghĩa được sự lạ lùng này?
Làm thế nào cắt nghĩa được sự việc GIÊSU, cách đây hai ngàn năm, từ một người thợ mộc vô danh, sinh sống nơi một thôn quê nghèo khổ, tại xứ Do Thái xa xôi nhỏ bé, nằm chìm trong đế quốc rộng rãi bao la Rôma, một ngày đẹp trời của tháng tư, bị quân lính bắt đi, đánh đập, bị Chính quyền xử án và cho đem đi hành quyết chung với hai tên trộm cướp, rồi chết lạnh lùng tất tưởi trên hai miếng gỗ thập giá.
Nếu sự việc chỉ kết thúc một cách thê thảm nơi đây, thì làm sai giải thích được hiện tượng ngày nay đang làm sửng sốt nhân loại: một phần lớn nhân loại đang quỳ thờ lạy Người bị đóng đinh chịu chết trên cây thập giá cách đây hai ngàn năm?
Làm thế nào cắt nghĩa được sự việc các tông đồ sợ sệt kia, bị gán là đầy ảo giác, hoang tưởng và mê sảng, bị gán là gian manh vì ăn trộm xác chết của Thầy rồi phao vu Thầy sống lại, lại có thể dựng nên được một tôn giáo siêu phàm như Đạo Công Giáo, gây uy tín trên khắp thế giới và chi phối tất cả lịch sử nhân loại?
Làm thế nào cắt nghĩa được các tông đồ mù chữ, ít học, chưa được đào luyện gì thêm thì đã bỏ cuộc vì Thầy bị bắt, lại lôi kéo được Saolô, một kẻ học thức uyên bác và đầy cuồng tín vì chỉ biết Do Thái Giáo của mình là trên hết, và những tông đồ kém cỏi và bất lực về mọi mặt nầy, lại đem được vào Đạo Công Giáo những người ngoại giáo Hy lạp và Rôma, là những dân tộc từng có những nhà tư tưởng siêu việt, những nhà chinh phục lừng danh, những nghệ sĩ đại tài, mà nhiều người nầy đã trở thành những tín đồ đầu tiên trong Giáo Hội sơ khai, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm để sống theo một Đạo hoàn toàn mới mẻ và bất lợi: vì theo Đạo nầy thì phải mất quyền công dân, phải bị tịch thu gia sản, phải bị mất chức mất tước, phải bị tù đày, xử tử .... ; vì Đạo nầy đòi buộc nhiều hy sinh, không chịu dùng sức mạnh trần gian để bành trướng, nhưng chỉ biết rao truyền lòng tin vào Người bị đóng đinh chết trên thập giá dạy bác ái yêu thương tha thứ?
Làm thế nào cắt nghĩa được sự việc Đạo Công giáo hiện nay vẫn còn lôi cuốn nhiều người thuộc mọi dân nước, mọi giai cấp, mọi ngôn ngữ, mọi hạng người, mọi màu da sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội, mọi trình độ văn hóa?
Làm thế nào cắt nghĩa được sự việc Đạo Công giáo hiện nay, tuy bị đàn áp bắt bớ đủ cách tại nhiều nơi, nhưng vẫn luôn bành trướng và không thể nào bị tiêu diệt được?
Chìa khóa cắt nghĩa được sự lạ lùng này
Chìa khóa cắt nghĩa được tất cả những sự lạ lùng nầy của Đạo Công giáo là biến cố Phục Sinh, Sống Lại của Chúa Giêsu Kitô.
Mà thật vậy! Nếu Chúa Giêsu Kitô không sống lại, thì sự khổ nạn và cái chết của Ngài trên Thập giá mà chúng ta thờ lạy trong Thứ Sáu Tuần Thánh, chỉ là một con đường bế tắc dẫn đến hố tuyệt vọng, chỉ là một ngõ cụt không có lối thoát đưa đến cái chết khốn nạn, chỉ là một con đường hầm mù mịt đem ta đến sự tối tăm vô nghĩa.
Đối với người Công giáo, Ngày Thứ Sáu Chúa chết, - Ngày Thứ sáu Tử Nạn -, và Ngày Chúa Nhựt Chúa sống lại, - Ngày Chúa Nhựt Phục Sinh -, là hai diện cùng chung một thực tại, là hai mặt cùng chung một biến cố: thực tại Chết - Sống Lại, biến cố Tử Nạn - Phục Sinh. Hai diện nầy, hai mặt nầy chỉ là một thực tại, chỉ là một biến cố. Nếu thiếu đi một diện nào, thiếu đi một mặt nào, thì Công Cuộc Cứu Chuộc của Chúa Giêsu Kitô thành ra vô nghĩa và không thể nào thực hiện được.
Nhìn lên Cây Thánh Giá, người Công Giáo thờ cùng một lúc sự Chúa Giêsu chết và sự Ngài sống lại: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại!”
Đạo Công giáo chúng ta phải được gọi là Đạo Thánh Giá và Đạo Phục Sinh, Đạo Sống Lại. Khi làm Dấu Thánh Giá, khi nhìn lên Thánh Giá, chúng ta tuyên xưng việc Chúa Giêsu chết và việc Ngài sống lại. Nếu chúng ta dừng lại nơi cái Chết của Chúa Giêsu, là để chúng ta nhìn ngắm sự Sống Lại trong cái chết của Ngài. Vì thế, nếu chúng ta nhìn lên Thánh Giá, nếu chúng ta làm Dấu Thánh Giá mà còn để cho buồn phiền, lo âu, thất vọng, sợ sệt đè bẹp chúng ta, thì chúng ta chưa phải là người theo Đạo Phục Sinh, Đạo Sống Lại của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu Phục Sinh mang lại hạnh phúc cho người Công Giáo
Có thể hiện nay, có người Công Giáo tiếc rằng, vì đã qua hai ngàn năm rồi, nên mình không được hạnh phúc sống đồng thời với Chúa Giêsu để gặp Ngài, để nhìn Ngài, để nói chuyện với Ngài, để ăn uống với Ngài, để đi trên cùng một con đường với Ngài ....Nhưng, với biến cố Phục Sinh, mỗi người Công Giáo hiện nay vẫn gặp được Chúa Giêsu một cách dễ dàng, và gặp được Ngài bất cứ đâu và gặp bao lâu cũng được.
Nếu người Công Giáo muốn có mặt trong đám đông dân chúng Do Thái ngày xưa để nghe Chúa Giêsu ban bố Tám Mối Phước Thật và nghe những Lời hằng sống của Ngài, thì đây, bất cứ ai cũng có thể nghe tiếng Chúa Giêsu Phục Sinh qua những vị kế thừa các Tông Đồ khi các vị nầy rao giảng Lời Chúa vì Chúa Giêsu đã khẳng định: "Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (Lc 10,16).
Nếu người Công Giáo muốn như Mađalêna và người trộm lành kia khiêm nhượng thú tội để lãnh ơn tha thứ từ miệng Chúa Giêsu, thì đây, chính Chúa Giêsu Phục Sinh đang nghe người Công Giáo thú tội trong tòa cáo giải, và xuyên qua con người của linh mục, Chúa Giêsu Phục Sinh thứ tha tội lỗi cho chúng ta: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20,22-23).
Nếu người Công Giáo muốn có mặt trong nhà Tiệc Ly, và như Gioan kia, được dựa đầu vào ngực Chúa, thì đây, trong Bí Tích Thánh Thể, khi họ đi rước Chúa Giêsu vào lòng hoặc khi họ quỳ chầu Ngài trước Nhà Tạm, Trái Tim Chúa Giêsu đập cùng nhịp với trái tim của họ, và Chúa Giêsu Phục Sinh trở nên một với họ.
Nếu người Công Giáo muốn có mặt trên núi Canvariô, đứng sát bên cạnh Đức Trinh Nữ Maria dưới cây Thánh Giá, thì đây, Thánh Lễ là sự tái diễn hằng ngày biến cố Thứ Sáu Tuần Thánh trên đồi Gôngôta, Thánh Lễ đưa họ đến dưới chân Thập giá cùng với Đức Trinh Nữ Maria. Họ được nghe lời Chúa trối Đức Mẹ làm mẹ mình, và được ăn Bánh Trường Sinh là Thân Thể Phục Sinh của Chúa Giêsu.
Thật, Chúa Giêsu Phục Sinh mang lại hạnh phúc cho người Công Giáo biết chừng nào! Với Chúa Giêsu Phục Sinh, họ không có gì để ganh tị với các Tông Đồ ngày xưa và với những người đồng hương với Chúa Giêsu cách đây hai ngàn năm. Chúa Giêsu Phục Sinh đang đồng hành với họ trên con đường đời, cho tới một ngày kia, giống như hai lữ khách đi về Êmau, con mắt họ mở ra để thấy mình đang mặt đối mặt với Chúa Giêsu Phục Sinh là Bạn Đường của họ, là Thầy của họ, là Lẽ Sống của họ, là Tất Cả của họ.
Chúa Giêsu Phục Sinh mang lại nguồn vui cho người Công Giáo
Khi Chúa Giêsu sống lại, các thiên thần mặc áo trắng đón chào Chúa trong niềm hân hoan, và các phụ nữ cũng như các tông đồ, môn đệ, khi biết rõ Thầy mình đã sống lại, liền nhảy mừng sung sướng, Allêluia!
Niềm vui Phục Sinh: vui vì Chúa đã sống lại và sẽ làm cho thân xác người Công Giáo cũng sống lại; vui vì Chúa sống lại đã đánh bại Tử Thần; vui vì Chúa sống lại đã chiến thắng tội lỗi và ban tràn ơn tha thứ xuống cho người Công Giáo.
Nếu Đạo Công Giáo được định nghĩa một cách xác đáng là Đạo Phục Sinh, Đạo Sống Lại, thì những ai theo Đạo nầy – những người công giáo, cũng phải được định nghĩa là Những Kẻ Phục Sinh, Những Kẻ Sống Lại!
Không gì vui bằng sự sống: nhìn một em nhỏ đầy tràn sự sống, thấy em tung tăng, nhảy múa, nghe em ca hát líu lo, thật vui biết bao! Huống nữa, đây không phải là sự sống mà thôi, mà còn là sự sống lại nữa! Với Chúa Giêsu Phục Sinh, người công giáo luôn sống vui vẻ: "Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31).
Với Chúa Giêsu Phục Sinh, người công giáo vui nhận tất cả mọi giá trị ở trên đời nầy: "Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8).
+++
Chúa Giêsu Phục Sinh mang lại nguồn hy vọng cho chúng ta.
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài không phải sống lại để rồi chết lại như Ladarô. Ngài sống lại và sống mãi muôn đời. Điều nầy mang lại hy vọng vô cùng lớn lao cho chúng ta.
Mặc cho bao nhiêu phá hoại, mặc cho bao nhiêu hậm hực căm thù, mặc cho bao nhiêu ghen ghét chống đối, Nước của Chúa Giêsu Phục Sinh trên trần gian nầy và trong các linh hồn, vẫn không bao giờ sụp đổ, nhưng luôn vững đứng.
Hiện nay, chúng ta thấy có một số người tìm cách chống đối Chúa Giêsu, tìm cách tiêu diệt Chúa Giêsu. Chúng ta hãy thương hại họ vì họ tìm cách giết một Người không thể chết được, vì họ tìm cách triệt hạ một Người không bao giờ sụp ngã.
Như vậy, những ai theo Chúa Giêsu Phục Sinh luôn thấy cuộc sống hiện nay của mình có ý nghĩa, luôn thấy đường đời mình đang đi có hướng rõ rệt, luôn thấy những bế tắc của mình có lối thoát, luôn thấy cuộc sống mai hậu của mình được bảo đảm ngàn thu bất diệt.
Người công giáo phải rạng ngời ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu sống lại!
Rạng ngời ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu sống lại, đó là điều người công giáo phải có.
Nhưng than ôi, có lẽ niềm tin Phục Sinh của người Công Giáo còn quá yếu!
Nếu có vị sáng lập đạo nào, - mà đạo đó làm cho kẻ chết sống lại, và tự mình, ông cũng sống lại, - thì những người theo đạo ông nầy thế nào cũng lấy làm sung sướng và hãnh diện. Họ sẽ không ngớt tuyên truyền và cao rao đấng sáng lập nầy, và lôi cuốn được nhiều người theo đạo nầy. Và đây là điều mà các Tông Đồ và các bổn đạo trong thời Giáo Hội sơ khai đã làm. Ở bất cứ đâu, đi đến bất kỳ đâu, họ cũng hãnh diện nói rằng: “Thầy chúng tôi đã bị đóng đinh chết, nhưng nay đã phục sinh sống lại!”
Đạo công giáo chúng ta là Đạo Phục Sinh, Đạo Sống lại!
Chúng ta là những người phục sinh, những người sống lại!
Phục Sinh, Sống Lại: khi đang còn sống!
Phục Sinh, Sống Lại: khi nhắm mắt lìa đời!
Phục Sinh, Sống Lại bất diệt: sau cái chết đời tạm nầy!
11/04 Người đã sống lại thật
- Viết bởi Mt 28, 1-10
Người đã sống lại thật.
Thứ bảy tuần thánh – Ðêm Thánh Vọng Chúa Phục Sinh.
"Ngài đã sống lại và sẽ đến xứ Galilêa".
Lời Chúa: Mt 28, 1-10
Qua chiều ngày Sabbat, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ. Bỗng chốc đất chuyển mạnh vì Thiên Thần Chúa từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Vì thế những lính canh khiếp đảm run sợ và hầu như chết. Nhưng Thiên Thần lên tiếng và bảo các người nữ rằng: "Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không có ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói. Các bà hãy đến mà coi nơi đã đặt Người và đi ngay bảo các môn đệ Người rằng: Người đã sống lại, và kìa Người đến xứ Galilêa trước các ông: Ở đó các ông sẽ gặp Người. Ðây Ta đã báo trước cho các bà hay".
Hai bà vội ra khỏi mồ, vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chào chị em!
Suy niệm:
Thật lạ lùng khi vào thời Đức Giêsu,
thời người ta không coi lời chứng của phụ nữ là có giá trị pháp lý,
Mátthêu lại kể cho chúng ta chuyện hai phụ nữ làm chứng về Chúa phục sinh.
Nếu chuyện ấy không có thật,
chẳng ai bịa đặt ra một chuyện vô bổ như thế.
Hai bà Maria này đã chứng kiến cái chết của Thầy Giêsu (Mt 27, 56),
đã dự việc chôn cất Thầy và biết rõ vị trí ngôi mộ (27, 61).
Suốt ngày sabát, trong đau đớn và nhớ nhung,
hai bà như sống trong một cuộc canh thức dài.
Họ chỉ mong cho chóng sáng để ra viếng mộ.
Các bà là những người đến mộ đầu tiên,
nên được diễm phúc chứng kiến những điều kỳ diệu.
Đất rung chuyển dữ dội, một thiên thần chói ngời từ trời xuống,
lăn tảng đá che cửa mộ ra và ngồi lên trên.
Quyền năng uy nghi của Thiên Chúa đè bẹp sức mạnh của tử thần.
Tảng đá nặng nề chẳng cầm giữ được Đấng bị đóng đinh.
Các bà đi tìm Đấng đã chết nơi nấm mộ.
Nhưng Đấng ấy đâu có ở đây, vì Đấng ấy đã trỗi dậy rồi (v. 6).
Thiên thần mời các bà đến xem chỗ Người nằm để kiểm chứng.
Quả thực, chẳng còn thân xác Người ở đó, ngôi mộ trống trơn.
Nhưng sự trống trơn này lại thật là một tin mừng.
Vì nếu Người còn nằm đó thì ai dám nói Người đã sống lại.
Ngôi mộ trở nên trống là do bàn tay quyền năng của Thiên Chúa Cha.
Cha đã nâng con trỗi dậy và cho con được phục sinh.
Đấng bị đóng đinh đã chết và đã nằm xuống.
Đấng nằm xuống đã được nâng dậy và sẽ đi gặp môn đệ ở Galilê (c. 7).
Lòng vui như mở hội, các bà vội vã chạy về báo tin cho các môn đệ.
Đang khi chạy về thì chính Đấng phục sinh hiện ra đón gặp họ.
Ngây ngất vì cuộc gặp gỡ quá đỗi bất ngờ,
các bà chỉ biết phủ phục dưới chân Người mà thờ lạy (c. 9).
Thầy Giêsu không dặn điều gì khác với vị thiên thần ngoài mộ.
Chỉ có điều Thầy vẫn gọi các môn đệ là anh em (c. 10),
dù họ đã bỏ rơi Thầy trong lúc Thầy cần đến họ nhất.
Rõ ràng Thầy Giêsu phục sinh muốn tha thứ và làm hòa với họ.
Các phụ nữ đã trở nên những chứng nhân đầu tiên của sự phục sinh.
Họ đã thấy ngôi mộ trống, hơn nữa, họ còn được gặp Đấng sống lại.
Nhờ họ mà có cuộc gặp gỡ giữa Thầy Giêsu và các môn đệ ở Galilê.
Giáo Hội hôm nay cần những người có kinh nghiệm gặp Chúa,
để loan báo Tin Mừng và giúp người khác gặp Chúa.
Lúc nào Giáo Hội cũng cần những Maria cháy bỏng một tình yêu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống
cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh
nên con vui sướng và can đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh
gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,
tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của ,,,
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Người đã sống lại thật
1- Một phi thuyền đang du hành trong vũ trụ từ ngày 20/08/1977 để tìm xem có sự sống loài người nào trên các hành tinh không? Phi thuyền bắt đấu thăm dò từ hỏa tinh, mộc tinh, thổ tinh, thiên vương tinh, hải tinh, diêm tinh và phải vượt qua thái dương hệ 40.000 năm nữa mới tới một hành tinh gần nhất. Sau đó phi thuyền phải bay 100 triệu năm nữa mới tới một hành tinh xa hơn. Phi thuyền đem theo một đĩa vàng có thể tồn tại hơn 100 triệu năm để phát ra 106 tín hiệu diễn tả văn hóa loài người đi thăm dò xem có thế giới loài người nào khác đáp lại chăng? Thật là một kỳ công đi tìm sự sống loài người khác, ngoài thế giới loài người trên trái đất này.
2- Đêm Phục sinh này, Đức Giêsu đang đáp lại tín hiệu của loài người đi tìm sự sống xa lạ đó, một sự sống không còn đau khổ, không còn thập giá, không còn mạo gai đinh đóng, lưỡi đòng, không còn nếm dấm chua mật đắng, không còn bị chôn trong mồ, không còn phải chết ở đâu nữa. Đó là sự sống lại của Đức Giêsu. Sự sống lại của Đức Giêsu làm cho thập giá trở nên Thánh giá cứu độ, làm cho mạo gai trở nên triều thiên, lưỡi đòng trở nên lò lửa yêu mến của Thánh Tâm, dấm chua trở nên mật ngọt, cửa mồ phải bật tung ra, chỗ nằm u tối trở nên sáng ngời, sự chết đời đời trở nên sự sống trường sinh.
Bài đọc một sách Sáng Thế cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã biến đổi tối tăm mù mịt, u ám mông quạnh, ra sáng láng chan hòa sức sống tươi mát, rực rỡ như buổi bình minh, thông thoáng như cảnh chiều dương, vạn vật sinh động, vui thỏa, nhuộm muôn mầu ngàn sắc. Đó là cảnh Phục sinh mà Thiên Chúa đã sáng tạo thuở ban đầu. Thiên Chúa đã cho con người sống vương giả trong cảnh trời đất huyền diệu đó như trong vườn thượng uyển của vua nước Trời.
3- Con người được sống vương giả, chính ra càng ngày càng trở nên xứng đáng với sứ mệnh cao cả của Thiên Chúa đã ban cho mình. Trái lại, con người: nhân dục vô nhai, dục vọng vô bờ, lòng tham không đáy, no bụng đói con mắt, thèm thuồng đủ thứ nên đã nếm phải nọc độc của rắn quỷ. Tham thực cực thân, ăn no tức bụng. Nọc độc đã cướp đi sự sống vương giả của con người. Lịch sử đã cho thấy bao nhiêu triều đại đế vương sụp đổ chỉ vì những ông hoàng bà chúa sống vương giả, được voi đòi tiên, ăn chơi trác táng, tranh bá đồ vương, chém giết lẫn nhau. Đức Giêsu nhiều lần đã nói những dụ ngôn về các ông bá hộ như thế, chẳng bao lâu họ phải bỏ mạng: “Đồ ngốc đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi” (Lc. 12, 20). Tổ tiên loài người đã sống mất mạng vì lối sống phú hộ đó. Cain đã giết em, Evà đã kinh hoàng ôm lấy xác con vào lòng đầy đau xót chỉ vì bà đã ham mê nuốt trái cấm đầy quyến rũ ngon ngọt. “Chỉ vì một người đã sa ngã mà sự chết đã thống trị, thì Thiên Chúa làm qua một Người là Đức Giêsu Kitô sự sống lại được ban dồi dào” (Rm. 5, 12, 17-19).
4- Đêm nay, Đức Giêsu đã phục sinh sự sống dồi dào cho con người, cho chúng ta. Đêm nay Đức Giêsu đã giải phóng con người chúng ta khỏi thần chết như Mosê đã giải phóng cho dân Israel khỏi nô lệ khốn cùng của Ai cập. Israel đã dứt bỏ mọi quyến luyến Ai cập, chỗi dậy theo lệnh Mosê, vâng lời Thiên Chúa vượt qua biển máu, nên Thiên Chúa đã ra tay chôn vùi quân địch đeo bám họ dưới đáy biển máu và đã dẫn đưa họ về sống trong miền đất tự do chảy sữa và mật (Bài đọc 3). Đêm nay, chúng ta cũng phải dứt bỏ mọi quyến luyến tội lỗi, chỗi dậy theo lệnh Giáo hội, vâng lời Thiên Chúa vượt biển chết tội lỗi, thì sẽ được Đức Giêsu giải phóng ta khỏi tà thần, tiêu diệt quỷ dữ, dẫn đưa ta về miền đất phục sinh vinh quang muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu, con đã chết và qua phép Rửa tội, Chúa đã cho con được chỗi dậy từ cõi chết. Con xin hết lòng cảm tạ Chúa vì Chúa hảo tâm vì đức từ bi Người muôn thuở. Xin Chúa gìn giữ con, ấp ủ con trong nguồn Phục sinh muôn đời của Chúa (2Cr. 3, 1-4; Tv. 117).
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
SUY NIỆM 3: Niềm hy vọng Phục Sinh
Lối xóm gọi anh là Tư còm vì thân hình gầy còm, lại sáng xỉn, chiều say, tối lăn quay, ngày mai nhậu tiếp và khi nhậu say, anh chửi bới tất cả xóm làng không trừ ai. Người ta tìm hiểu được biết anh có một vợ năm con, đạp xích lô suốt ngày không đủ nuôi mấy miệng ăn. Các con anh lần lượt bỏ học vì không đủ tiền đóng học phí, nhà anh nằm trên vũng sình lấy và dột nát. Sống trong hoàn cảnh kéo dài tháng này qua năm khác như thế, anh đâm ra thất vọng nên mượn chén rượu giải sầu, nhưng chén rượu càng vơi, thì chén sầu càng đầy ắp.
Hiểu được hoàn cảnh của anh, lối xóm kẻ công người của cất lại cho anh căn nhà trên đất liền chắc chắn và kín đáo; lối xóm lại tiếp tục đem đến lon gạo, bó củi, cái nồi, cái dao, cái chén, cái tô. Thế là anh có đủ vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày và một căn nhà đàng hoàng bảo đảm cho sức khỏe; các con anh cũng được các bà mẹ nhận đỡ đầu và đài thọ học phí, tất cả đều được đi học trở lại. Quá cảm động trước lòng ưu ái của bà con lối xóm, anh Tư còm đã bỏ rượu hẳn và bắt đầu giữ đạo sốt sắng cùng với gia đình anh.
Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói: anh Tư còm được phục sinh từ cõi chết của những ngày say sưa và bê trễ. Anh đã chết cho tính nghiện ngập của mình và sống lại trong tình yêu thương của Chúa và của mọi người.
Chúng ta đã trải qua 40 ngày của Mùa Chay là thời gian chuẩn bị cho Phục Sinh bằng ăn năn sám hối, hãm mình đền tội, thực thi bác ái. Giờ đây chúng ta sắp mừng lễ Phục Sinh. Chúng ta vui mừng vì Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, chúng ta cũng hân hoan vì Ngài đã hứa cho chúng ta được Phục Sinh với Ngài. “Cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ được sống lại với Ngài”. Qua việc lặp lại lời tuyên hứa sau khi chịu phép thanh tẩy trong nghi thức Vọng Phục Sinh, chúng ta khẳng định lại chân lý này và cố gắng mỗi ngày chết cho tội nhiều hơn để sống lại với Chúa trọn vẹn hơn.
Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Chúa Giêsu đã mở ra và Ngài đã bước ra khỏi mồ. Cũng với quyền năng Thiên Chúa, những hòn đá chôn vùi cuộc đời chúng ta sẽ bị lăn đi. Đó có thể là hòn đá của ích kỷ chỉ biết đến lợi riêng của mình. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta lăn hòn đá ấy đi để biết dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân. Đó có thể là hòn đá tham lam, mê ăn uống đã từng đè nặng tâm hồn và thân xác chúng ta. Đó có thể là hòn đá lãnh đạm, thiếu tình thương đã ngăn cản chúng ta phục vụ Chúa và anh em. Đó có thể là hòn đá an phận, nhút nhát khiến chúng ta chỉ giữ đạo ngày Chúa Nhật qua việc đọc kinh, xem lễ. Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp chúng ta sống đạo, sống niềm tin, thực thi bác ái tích cực hơn.
Mỗi năm khi mừng lễ Phục Sinh, chúng ta chiêm ngưỡn tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta, và chúng ta đón nhận sức mạnh của Đức Kitô để phá vỡ những hòn đá chôn vùi cuộc đời mình. Để thực sự sống lại với Đức Kitô, trong ngày hôm nay, chúng ta hãy tìm thời giờ sống những giây phút thinh lặng để tìm xem những hòn đá nào cần phải lăn đi, như thiếu trong sạch, lười biếng, không lương thiện, kiêu căng, giận hờn, ghen tương. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ném nó ra khỏi cuộc đời chúng ta, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Nhưng Phục Sinh cuộc đời mình mà thôi chưa đủ, mỗi người chúng ta còn có bổn phận giúp thân nhân, bạn hữu và đồng loại cùng hưởng ơn Phục Sinh.
Chúa đã chết cho chúng ta được sống, chúng ta quyết tâm tiếp tục cuộc sống của Chúa: dám sống cho một niềm tin và dám chết cho một cuộc tình. Tin vào tình thương của Chúa, chúng ta xin tận hiến cuộc đời để sống trọn luật yêu thương: yêu Chúa và thương anh em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Niềm Hy Vọng Phục Sinh
Bài Giảng của ÐTC Gioan Phaolô II
trong Ðêm Vọng Phục Sinh năm 2002
1. "Thiên Chúa phán: "Hãy có ánh sáng"; và có ánh sáng" (St 1,3).
Một sự bùng nổ của ánh sáng, mà Lời Chúa mang đến từ hư vô, xé toạc màn đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng.
Thánh Tông Ðồ Gioan viết: "Thiên Chúa là ánh sáng, và trong Ngài, chẳng hề có tối tăm" (1Ga 1,5). Thiên Chúa đã không tạo nên bóng tối nhưng là ánh sáng! Và sách Khôn Ngoan, tiết lộ rõ ràng rằng công việc Thiên Chúa luôn có mục đích tích cực, thế nên: "Ngài tạo ra muôn vật để chúng hiện hữu, và các loài trên thế giới loài nào cũng lành mạnh. Và giữa chúng, không thấy loại nào mang nọc độc phá hoại, và dương thế thì tương khắc với cõi âm" (Khôn ngoan 1,14).
Trong đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng, đâm rễ Mầu Nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm mà theo sau thảm kịch của tội lỗi, tiêu biểu cho sự phục hồi và đăng quang của sự bắt đầu tiên khởi ấy. Ngôi Lời chí thánh tạo ra muôn vật và, trong Chúa Giêsu, đã hóa thành nhục thể cho sự cứu độ chúng ta. Và nếu thân phận của Ađam đầu tiên là trở lại với đất từ nơi đã được tạo thành (x. St 3,19), Ađam cuối cùng đã đến từ trời cao để quay lại đó trong vinh quang, hoa quả đầu mùa của nhân loại mới (x. Ga 3,13; 1Cor 15,47).
2. Một đêm khác nữa thiết lập biến cố nền tảng trong lịch sử Israel: đó là cuộc Xuất Hành kỳ diệu từ Ai Cập, câu chuyện được đọc mỗi năm trong đêm Vọng Phục Sinh long trọng.
"Chúa khiến gió đông thổi lên thật mạnh càn quét mặt biển suốt đêm, làm cho biển cạn hết. Nước rẽ đôi như vậy đã giúp con dân Israel đi thẳng vào lòng biển như đi trên đất khô, với nước dựng như bờ tường hai bên tả hữu họ" (Xuất hành 14,21-22). Dân Chúa được sinh ra trong "phép rửa tội này" nơi Biển Ðỏ, khi họ chứng kiến cánh tay quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng cứu họ khỏi nô lệ để dẫn đưa họ đến miền đất hứa của tự do, công lý và hòa bình.
Ðây là đêm thứ hai, đêm của Xuất Hành.
Lời tiên tri của Sách Xuất Hành ngày hôm nay, cũng được thực hiện cho chúng ta, những người là Dân Israel theo Thần Khí, hậu duệ của Abraham do bởi đức tin (x. Rm 4,16). Trong cuộc Vượt Qua của Ngài, như Môisen mới, Ðức Kitô đã cho chúng ta vượt qua sự nô lệ của tội lỗi để đến với sự tự do của con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta cùng chết với Ðức Giêsu, chúng ta sẽ vươn tới cuộc sống mới, nhờ vào quyền năng của Thánh Thần của Ngài. Phép Rửa của Ngài đã trở nên phép rửa của chúng ta.
3. Cả anh chị em cũng sẽ nhận được phép Rửa này, phép Rửa đưa chúng ta vào trong cuộc sống mới, những tân tòng thân mến từ nhiều quốc gia: từ Albania, Trung Quốc, Nhật Bản, Ý, Ba Lan, và Cộng Hòa Dân Chủ Congo. Hai người trong số anh chị em, một bà mẹ Nhật Bản và một bà mẹ Trung Quốc, mỗi người mang theo với mình một cháu bé, như thế, trong cùng một nghi thức này, cả mẹ lẫn con đều cùng được rửa tội.
"Trong đêm cực thánh này", khi Ðức Kitô trỗi dậy từ kẻ chết, anh chị em cũng sẽ cảm nhận một cuộc "xuất hành" thiêng liêng: hãy bỏ lại phía sau cuộc đời trước đây của anh chị em và tiến vào "miền đất của sự sống". Ðây là đêm thứ ba, đêm của sự Phục Sinh. 4. "Ðêm diễm phúc của tất cả các đêm, được Thiên Chúa chọn để thấy Ðức Kitô trỗi dậy từ kẻ chết!" Chúng ta hát lên những lời này trong lời Công Bố Phục Sinh vào đầu buổi Canh Thức long trọng, Mẹ của mọi đêm Canh Thức.
Sau đêm thảm kịch của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, khi "quyền lực của tối tăm" (Lc 22,53) dường như thắng thế trên Ðấng là "ánh sáng thế gian" (Ga 8,12), sau cái yên lặng bao trùm của Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, trong đó Ðức Kitô, sau khi hoàn tất công việc của Ngài trên trần gian, nghỉ ngơi trong mầu nhiệm của Chúa Cha và mang sứ điệp của sự sống vào trong cõi âm, cuối cùng chiêm ngắm đêm trước "ngày thứ ba", mà theo Thánh Kinh, Ðấng Mêsia sẽ trỗi dậy, như chính Ngài thường báo trước cho các môn đệ của Ngài.
"Ðêm thật hồng phúc, khi thiên đàng giao duyên cùng thế gian và con người được hòa giải với Thiên Chúa!" (Công Bố Phục Sinh).
5. Ðây là đêm của các đêm, đêm của đức tin và hy vọng. Trong khi tất cả đang chìm trong bóng đêm, Thiên Chúa - Ánh Sáng - vẫn chiêm ngắm. Cùng với Ngài, những người hy vọng và tín thác nơi Ngài cũng chiêm ngắm.
Lạy Ðức Mẹ, đây thật là đêm của Mẹ! Khi những ánh sánf cuối cùng của ngày Sabát tắt dần, và hoa quả của lòng Mẹ nằm trong lòng đất, trái tim của Mẹ cũng chiêm ngắm! Ðức tin của Mẹ và hy vọng của Mẹ nhìn tới trước. Ðàng sau tảng đá nặng nề, đức tin và hy vọng của Mẹ đã thấy trước ngôi mộ trống không; đàng sau màn đêm dày đặc, đức tin và hy vọng của Mẹ đã le lói buổi ban mai của sự Phục Sinh.
Lạy Mẹ, xin cho chúng con cũng chiêm ngắm trong sự yên lặng của đêm nay, tin tưởng và hy vọng vào Lời Thiên Chúa. Như thế chúng con sẽ gặp, trong sự viên mãn của ánh sáng và cuộc sống, Ðức Kitô, hoa quả đầu mùa của sự sống lại, đấng hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cho đến muôn đời. Allêluia!
+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng
(Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Ðặng Minh An)
10/04 Thủ phạm giết Chúa
- Viết bởi Ga 18, 1 - 19, 42
Thủ phạm giết Chúa.
Thứ Sáu tuần thánh – Kỷ Niệm Cuộc Khổ Nạn Của Chúa.
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
Lời Chúa: Ga 18, 1 - 19, 42
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa lại: S. "Giêsu Nadarét". C. Chúa Giêsu bảo: "Ta đây". C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa: S. "Giêsu Nadarét". C. Chúa Giêsu đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi". C. Như thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con". Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng: J. "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!" C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô: S. "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?" C. Ông đáp: S. "Tôi không phải đâu".
C. Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp: J. "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói". C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói: S. "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?" C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông: S. "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?" C. Ông chối và nói: S. "Tôi không phải đâu". C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng: S. "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?" C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói: S. "Các ngươi tố cáo người này về điều gì". C. Họ đáp: S. "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan". C. Philatô bảo họ: S. "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông". C. Nhưng người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả". C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?" C. Philatô đáp: S. "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này". C. Philatô hỏi lại: S. "Vậy ông là Vua ư?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi". C. Philatô bảo Người: S. "Chân lý là cái gì?" C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: S. "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?" C. Họ liền la lên: S. "Không phải tên đó, nhưng là Baraba". C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói: S. "Tâu Vua Do-thái!" C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói: S. "Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án". C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ: S. "Này là Người". C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to: S. "Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!" C. Philatô bảo họ: S. "Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông". C. Người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa". C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu: S. "Ông ở đâu đến?"
C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn". C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên: S. "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa". C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân: S. "Đây là vua các ngươi". C. Nhưng họ càng la to: S. "Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!" C. Philatô nói: S. "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?" C. Các thượng tế đáp: S. "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa". C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.
Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
S. Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'". C. Philatô đáp: S. "Điều ta đã viết là đã viết". C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau: S. "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy". C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó.
Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: J. "Hỡi Bà, này là con Bà". C. Rồi Người lại nói với môn đệ: J. "Này là Mẹ con". C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói: J. "Ta khát!" C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói: J. "Mọi sự đã hoàn tất". C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thế là đã hoàn tất
Suy niệm :
Vào Chúa nhật Lễ Lá chúng ta đã nghe đọc bài Thương Khó
trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm.
Vào thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta luôn nghe đọc bài Thương Khó theo Gioan.
Thánh Gioan kể lại cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu với những nét riêng của ông.
Chúng ta trân trọng cái nhìn bổ sung của thánh Gioan cho những Tin Mừng khác.
Trong cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu của Gioan tỏ ra là người chủ động.
Ngài biết trước các biến cố sắp xảy ra, và Ngài có quyền năng làm chủ mọi sự.
Chính Ngài tiến ra và hỏi các kẻ đến bắt Ngài: “Các anh tìm ai?”
Câu trả lời của Ngài đủ làm họ lùi lại và ngã xuống đất (18, 4-9).
Đức Giêsu bình an và uy nghiêm bước vào cuộc Khổ nạn,
vì Ngài đã chấp nhận chén đắng Cha trao (18, 11).
Khi bị vị thượng tế Khanna tra hỏi về giáo huấn,
chẳng chút sợ hãi, Ngài đã thẳng thắn từ chối trả lời (18, 19-21).
Khi bị vả mặt, Ngài cũng đòi kẻ xúc phạm Ngài phải nói rõ tại sao (18, 23).
Đức Giêsu bị đem tới dinh tổng trấn Philatô lúc trời đã sáng.
Philatô là người xét xử Đức Giêsu, nhưng có vẻ ông là người bị động.
Ông bị giằng co giữa một bên là Đức Giêsu đang ở trong dinh,
bên kia là đám đông và các nhà lãnh đạo Do thái giáo đang ở ngoài dinh.
Một bên là ông Giêsu mà ông không tìm thấy lý do nào để kết tội (18, 38; 19, 4. 6).
Bên kia là chức tổng trấn và chức “Bạn của Xêda” mà ông đang nắm giữ (19, 12).
Philatô không biết phải theo ai, chọn ai trong tình cảnh căng thẳng này.
Vì thế ông đã đi ra, đi vào cả thảy bảy lần (18, 18, 29. 33. 38; 19, 1. 4. 9. 13).
Đức Giêsu đã đối thoại khá dài với Philatô về Nước của Ngài (18, 36-37),
một nước không có trên bản đồ, không có quân đội, không dùng bạo lực.
Nước của Ngài gồm những người biết nghe sự thật và đứng về phía sự thật,
sự thật này được Ngài làm chứng và cất tiếng nói lên.
“Đây là Vua các người”, Philatô đã giới thiệu Đức Giêsu như thế (19, 14)
và ông đã cương quyết giữ lại tấm bảng treo trên thập giá mang dòng chữ :
“Giêsu Nadarét, Vua dân Do thái” (19, 19).
Đức Giêsu đã tự mình vác thập giá lên đồi Sọ và bị đóng đinh vào giữa trưa.
Chiên Thiên Chúa bị giết đúng vào lúc ở Đền Thờ người ta giết chiên Vượt qua.
Đức Giêsu không cô đơn trên thập giá vì có Mẹ và người môn đệ dấu yêu.
Suốt một đời Ngài đã sống cho sứ mạng Cha trao, nay Ngài biết nó đã hoàn tất.
Chủ động cả trong cái chết, Ngài “gục đầu xuống và trao Thần Khí” (19, 30).
Qua cái chết trên thập giá, Đức Giêsu cho thấy tình yêu lớn nhất của Ngài (15, 13),
tình yêu trao hiến cả Máu và Nước từ trái tim bị đâm thâu (19, 34).
Nhưng thập giá cũng cho thấy tình yêu của Cha khi ban Con Một cho ta (3, 16).
Đức Giêsu Kitô đã trở về với Cha bằng con đường khó đi.
Người Kitô hữu cũng về với Thiên Chúa bằng con đường hẹp.
Ước gì chúng ta sống cuộc Khổ nạn của mình với sự bình an, can đảm của Giêsu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
SUY NIỆM 2: Thủ phạm giết Chúa
Từ đầu Mùa Chay đến nay, cuốn phim “Cuộc Thương Khó Của Chúa Kitô” của đạo diễn Mel Gibson đã được công chiếu trên khắp nước Mỹ, rồi đến các nước ở Âu Châu và cả tại Trung Đông nữa. Cuốn phim đã ghi vào lịch sử điện ảnh là phim đắt khách nhất và đạt doanh thu kỷ lục, chỉ vì cuốn phim đã gây tranh cãi về tính cách “bài Do Thái”. Chính nhà đạo diễn Mel Gibson đã khẳng định rằng: “Bộ phim của tôi nói về đức tin, đức cậy, đức mến và sự tha thứ. Đó là nội dung sứ điệp của bộ phim. Tôi không có tinh thần bài Do Thái, tinh thần bài Do Thái không phải là tinh thần Kitô, mà là một tội lỗi”. Trả lời cho câu hỏi: “Ai đã giết chết Chúa Giêsu?”, Mel Gibson nói: “Câu trả lời chính là tất cả chúng ta đã giết chết Chúa Giêsu. Tôi là kẻ đầu tiên có phần trách nhiệm trong cái chết của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã chịu đánh đòn “vì những tội lỗi của chúng ta”. Ngài chịu thương tích vì những lỗi phạm của chúng ta, nhưng những vết thương của Ngài đã chữa lành chúng ta”.
Đó là sứ điệp chính của bộ phim. Bộ phim không nhằm quy trách nhiệm cho ai là kẻ đã giết chết Chúa Giêsu”.
Nhà đạo diễn nhìn nhận rằng bộ phim của ông có những cảnh “quá bạo lực” và ông giải thích rằng ông có ý làm như vậy để nhằm gây phản ứng nơi khán thính giả, nhằm giúp họ hiểu được tầm mức hy sinh cao cả của Chúa Giêsu. “Tôi muốn làm cho khán thính giả hiểu được rằng có một người đã chịu đựng được những hành hạ đến mức tận cùng như thế, mà vẫn còn có thể yêu thương và tha thứ. Tôi hy vọng bộ phim sẽ cổ võ suy tư, làm cho khán thính giả trở về với nội tâm, suy nghĩ về chính bản thân mình”.
Thưa anh chị em,
Khi cử hành cuộc tưởng niệm Chúa Giêsu bị trên trên Thập giá, Giáo Hội không chỉ nhắc nhớ đến một biến cố lịch sử đã xảy ra hơn 2000 năm nay, nhưng còn nhắc nhở đến trách nhiệm của mỗi người trong chúng ta về cái chết của Chúa Giêsu.
Thật vậy, dưới cái nhìn lịch sử, chúng ta lên án một Giuđa đã phản nộp Thầy, một Philatô nhát đảm, vì sợ mất chức quyền mà vội vàng kết án tử hình cho Chúa, một Phêrô hèn yếu đã chối bỏ Thầy, một đám đông vô ơn bạc nghĩa đã hò hét đòi đóng đinh Chúa, dầu biết rằng Chúa chẳng có tội gì để phải chịu một cái án quái gở đó…
Thế nhưng, cái chết của Chúa không chỉ là một biến cố lịch sử, nhưng đó còn là một Mầu nhiệm Cứu Độ, trải dài hết từ thế hệ này đến thế hệ khác. Và nó mang một chiều kích phổ quát, có giá trị cứu rỗi cho hết mọi người tin và Danh Chúa Kitô. Do đó, nó được hiện tại hoá trong mọi thời gian. Và vì thế cái chết trên Thập giá của Chúa Kitô có trách nhiệm của chúng ta.
Chúng ta đã tuyên xưng rằng: “Ngài đã chịu vì chúng ta và để cứu chuộc chúng ta”, nghĩa là vì tội lỗi của chúng ta mà Ngài phải chịu treo lên. Tội lỗi của chúng ta chính là những tiếng reo hò đòi đóng đinh, là những sự xỉ vả, là lời phản bội, là lời tuyên án Chúa.
Do đó, khi tưởng niệm cái chết của Chúa hôm nay, Giáo Hội cũng thiết tha kêu gọi các tín hữu hãy đấm ngực ăn năn, nhận phần trách nhiệm của mình, để rồi, như một Phêrô “ra ngoài ăn năn khóc lóc” có nghĩa là chúng ta phải tháo gỡ cái án tử hình của Chúa, bằng cách thay đổi nếp sống cũ, trở về với Chúa. Xa tránh những lối sống thấp hèn, trở về lối sống con cái của Chúa, và thân thưa với Chúa như anh trộm sám hối bên Thập giá của Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, khi vào Nước Chúa, xin nhớ đến con.” Amen.
SUY NIỆM 3: Thập Giá Đức Kitô.
Trong tập hồi ký, một người Do Thái từng ở trại tập trung thời Đức Quốc xã bên Ba Lan có kể lại câu chuyện sau: Những người lính Đức Quốc xã treo cổ hai người Do Thái và một thiếu niên trước sự chứng kiến của tất cả trại viên. Hai người đàn ông chết tức khắc vì kiệt sức, nhưng cơn hấp hối của cậu thiếu niên kéo dài cả nửa tiếng đồng hồ. Nhìn thấy cảnh tượng đó, một trại viên đứng sau tôi đã thốt lên: “Thiên Chúa đang ở đâu?”. Khi người thiếu niên đang cố gắng vùng vẫy trong vòng giây thắt cổ, tôi lại nghe một người khác thốt lên: “Bây giờ Chúa ở đâu?”. Và, tôi nghe từ tận đáy tâm hồn tôi: “Ngài đang ở đây, Ngài đang bị treo cổ kia”.
“Bây giờ Thiên Chúa đang ở đâu?”. Mỗi lần bóng tối của Thập giá làm dấy lên trong chúng ta câu hỏi như thế, chúng ta nghe vọng lên từ nỗi đớn đau của chúng ta câu trả lời duy nhất là: “Ngài đang có mặt đó”. Ngài đang có mặt đó, bởi vì Ngài là Tình yêu. Chỉ có Tình yêu mới có thể đi đến tận cùng của khoan dung và tha thứ. Thập giá vẫn mãi mãi là tột đỉnh của sự độc ác dã man của con người, sự độc ác dã man đó càng bộc lộ, thì tình yêu Thiên Chúa càng bày tỏ.
Lý luận thông thường không thể hiểu cạn được tại sao một Thiên Chúa lại có thể chịu treo trên Thập giá. Nhưng đó lại là sức mạnh, là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, bởi vì đó là sức mạnh và sự khôn ngoan của tình yêu. Dù tội lỗi con người có ngập tràn, dù sự độc ác của con người có chất ngất, Thiên Chúa vẫn yêu thương và tha thứ.
Thập giá không chỉ là biểu trưng của sự độc ác và tội lỗi con người, mà còn là vẻ đẹp của chính tình yêu Thiên Chúa. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài. Ngài không sai Con Ngài đến để luận phạt thế gian, những để thế gian nhờ Con Một Ngài mà được cứu thoát”. Đó phải là xác tín của chúng ta khi ngắm nhìn Thập giá Chúa Giêsu. Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta khước từ. Không có tình yêu nào cao cả hơn.
Vì yêu thương chúng ta, Ngài chấp nhận chịu treo trên Thập giá. Vì yêu thương chúng ta, Ngài trải qua mọi khốn cùng của kiếp người. Không phải đinh sắt đã đóng Ngài vào Thập giá, mà chính là tình yêu. Đó là tất cả vẻ đẹp cao vời của Thập giá. Thập giá là nơi ngự trị của Thiên Chúa. Chính trong những nơi cơ cực, nghèo hèn, bỉ ổi và đớn đau nhất mà sự hiện diện của Thiên Chúa lại càng mãnh liệt hơn. Chính từ Thập giá mà tiếng gọi yêu thương của Ngài càng thắm thiết hơn.
Từ trên Thập giá, Chúa Giêsu ôm trọn từng nỗi khổ đau của con người. Nhìn ngắm Thập giá của Ngài, đôi mắt chúng ta càng phải mở rộng ra để nhận thấy bao nỗi thống khổ cơ cực của những người chung quanh. Lúc đó, Thập giá không còn vắng bóng Thiên Chúa mà trái lại là điểm xuất phát của những nghĩa cử yêu thương, từ đó tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa sẽ bừng dậy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!
Bài Suy Niệm của ÐTC Gioan Phaolô II trong Buổi Ði Ðàng Thánh Giá
Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2002 (Ga 18,1-19,42)
1. Crucem tuam adoramus, Domine! - Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!
Ở cuối của lời cầu xúc động này về cuộc Vượt Qua của Ðức Kitô, tia nhìn của chúng ta vẫn hướng về Thánh Giá. Chúng ta suy niệm trong đức tin mầu nhiệm cứu độ được mạc khải cho chúng ta. Khi chết đi, Ðức Giêsu vén lên bức màn trước mắt chúng ta, và giờ đây Thánh Giá đứng thẳng trên thế giới trong tất cả sự huy hoàng của nó. Sự yên lặng đem lại an bình của Ðấng mà sự dữ thế gian đã treo lên Cây này đang hé lộ ra hòa bình và yêu thương. Trên Thánh Giá, Con Người đã chết, mang theo với Ngài gánh nặng của mọi khổ đau và bất công nhân thế. Trên đồi Golgotha, Ðấng, mà qua cái chết của Ngài đã cứu rỗi thế giới, chết vì chúng ta.
2. "Họ sẽ nhìn ngắm Ðấng mà họ đã đâm thâu qua" (Ga 19,37).
Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh chứng kiến những lời các tiên tri được nên trọn, những lời mà Thánh Sử Gioan, một chứng nhân tận mắt, đã thấy được sự chính xác khi suy niệm trong lòng, Thiên Chúa làm người, Ðấng vì yêu thương đã chấp nhận hình phạt nhục nhã nhất mà bao nhiêu chủng tộc và các nền văn hóa ngày nay đang chứng kiến. Khi tia nhìn của họ được dẫn dắt bởi cảm nhận sâu sắc của đức tin, họ nhận ra trong Ðấng Bị Ðóng Ðinh một "chứng nhân" vô địch của yêu thương.
Từ Thánh Giá, Ðức Giêsu gom lại thành một dân tộc, Dân Do Thái và Dân Ngoại, hiển thị ý chí của Cha Ngài trên trời muốn tạo ra một gia đình duy nhất cho nhân loại được tụ họp dưới Danh Ngài.
Trong nỗi đau tê tái của Người Ðầy Tớ Thống Khổ, chúng ta đã nghe tiếng kêu khải hoàn của Thiên Chúa Trỗi Dậy. Ðức Kitô trên cây Thánh Giá là nhân loại mới đã được chuộc khỏi gánh nặng của tội lỗi và sự chết. Bất chấp những bóp méo và ngộ nhận của lịch sử, có thể có, chúng ta biết rằng nếu bước theo chân của Người Nazarét bị đóng đinh này, chúng ta sẽ đạt được mục đích. Giữa những xung đột của một thế giới thống trị bởi ích kỷ và thù hận, chúng ta, như những tín hữu, được kêu gọi để công bố vinh quang của Yêu Thương. Hôm nay, Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta làm chứng cho vinh quang của Ðức Kitô bị đóng đinh.
3. Lạy Chúa, chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa!
Vâng, chúng con thờ lạy Ngài, Lạy Chúa, Ðấng đã bị treo lên Thánh Giá giữa trời và đất, Ðấng Trung Gian duy nhất của ơn cứu độ chúng con. Thánh Giá Ngài là bích chương của vinh quang chúng con!
Chúng con thờ lạy Ngài, Con của Ðức Trinh Nữ Rất Thánh, đang đứng bất khuất bên cạnh Thánh Giá, can đảm chia sẻ trong lễ hy sinh cứu chuộc của Ngài.
Qua Gỗ Thánh Giá trên đó Ngài bị đóng đinh, niềm vui đã đến với toàn thế giới - propter Lignum venit gaudium in universo mundo. Hôm nay chúng con tất cả nhận thức hơn về điều này khi tia nhìn của chúng con được nâng về phía sự kỳ diệu khôn tả của sự Phục Sinh của Chúa. "Chúng con thờ lạy Thánh Giá Chúa, Lạy Chúa, chúng con tán tụng và thờ lạy sự Phục Sinh thánh thiện của Ngài!".
Với những tình cảm này, anh chị em thân mến, tôi gỡi đến anh chị em lời chúc Phục Sinh với phép lành Tòa Thánh.
+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng
(Bản dịch Việt Ngữ của J.B Ðặng Minh An)
SUY NIỆM 5: NGHỊCH LÝ CỦA THÁNH GIÁ
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Buổi chiều hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm Đức Giêsu chịu chết để chuộc tội thiên hạ. Buổi chiều hôm nay là “giờ” của Thiên Chúa Cha đã định, và cũng là “giờ” của Đức Giêsu hoàn tất chương trình cứu chuộc nhân loại; “giờ” của người Tôi Trung mà tiên tri Isaia đã loan báo. “Giờ” đó được hoàn tất trên Thánh Giá. Vì thế, phụng vụ chiều hôm nay đều quy chiếu về Thánh Giá Đức Kitô như một sợi chỉ xuyên suốt từ đầu đến cuối.
1.- Nghịch lý của Thánh Giá
Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã nói: Đức Giêsu Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (x. Pl 2,8); và Ngài đã chết theo như lời Thánh Kinh (x. 1Cr 15,3).
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá đã là nguyên nhân để nhiều người được cứu độ, nhưng cũng không thiếu những kẻ cứng lòng, cố chấp và trai lỳ trong ích kỷ, kiêu ngạo. Những người như thế, họ coi đó như là hình phạt mà Đức Giêsu là người đáng phải chịu do tội mình gây nên.
Thật vậy, khi thập giá được dựng lên, và khi Đức Giêsu chịu treo trên đó, đã không biết bao người tin theo và suy tôn. Tuy nhiên, cũng không thiếu những lời chê bai dè bửu và khinh thường. Họ coi thập giá như là thứ đồ tể đáng sợ để trừng phạt những tử tội oái oăm, khét tiếng và nguy hiểm… Suy nghĩ như thế, thì cái chết của Đức Giêsu không có công trạng gì, mà chỉ như là một hình phạt đích đáng được dành cho một kẻ đã từng bị kết án vì tội “sách động dân chúng; tìm cách lật đổ chế độ và nói lời phạm thượng”. Và, những người theo Đức Giêsu phải chăng họ là bọn người cuồng tín khi tuyên xưng niềm tin của mình vào một kẻ bị treo trên cây gỗ như một tử tội!
Thật vậy, thập giá của Đức Giêsu hôm nay được tôn vinh, đã làm không ít người cảm thấy ngỡ ngàng, bởi vì xét theo người đời, thì đây chính là sự ô nhục, hận thù, đáng ghét… là biểu tượng của sự chết chóc và thập giá vẫn chỉ là dụng cụ ghê rợn được dùng để sử tử tội nhân mà thôi.
Nhưng đối với Thiên Chúa, thì đây chính là sự khôn ngoan khôn dò thấu của Người. Thánh Phaolô đã nói: “Con Thiên Chúa chết trên thập giá là một trong những đường lối khôn ngoan sâu thẳm mà không một ai dò thấu” (x. Rm 11,33). Bởi vì Thiên Chúa đã dùng thập giá như một sự nghịch lý để cứu độ con người.
Thực ra thập giá luôn mang tính nghịch lý, bởi vì nó tuyên dương quyền năng thượng trí của Thiên Chúa ở nơi mà người đời coi là điên rồ.
Nhưng với những người tin, hẳn sự cảm nghiệm, suy nghĩ và thái độ hoàn toàn ngược lại. Những người đó sẽ coi thập giá trở thành Thánh Giá và Thánh Giá lúc này trở thành phương dược, để qua đó Đức Giêsu chuộc tội thay con người và cứu độ nhân loại.
Nếu xưa kia trong vườn Địa Đàng, Ađam đã ngã gục trước Cây Trái Cấm, và gieo rắc tội lỗi cho nhân loại, thì giờ đây, trên cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã chuộc lại những gì mà Ađam đã đánh mất và để lại hậu quả cho nhân loại.
Như vậy, từ Cây Trái Cấm, sự chết đã tiêu diệt thế gian, và Trái Cấm là rào cản lớn đến độ con người không thể vượt qua, thì giờ đây, từ cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã chuộc lại những gì đã mất do Nguyên Tổ gây nên và mặc cho nó thành cây Sự Sống, quả Phúc Trường Sinh.
Chính Đức Giêsu đã khẳng định rõ điều này khi nói: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Vì thế, không lạ gì khi thánh Phaolô đã khẳng khái tuyên xưng niềm tin và ơn cứu chuộc của mình nơi Thánh Giá, ngài nói: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa […] Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Ðấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Dothái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. (nhưng) cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (x. 1Cr 1,18-25).
Vì thế, “Nhờ máu Người đổ ra trên Thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20).
2. Đón nhận Thánh Giá như nguồn ơn cứu rỗi
Cuộc đời của người Kitô hữu, tức là cuộc đời của những người tin và theo Đức Giêsu, hẳn mỗi người luôn nghe thấy lời mời gọi của Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? “ (Mc 8,34-36); và: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,38).
Lời mời gọi đó đã được gióng lên ngày chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội cũng như suốt cuộc đời của mỗi người chúng ta. Như vậy, Thánh Giá trở nên cứu cánh và việc vác Thánh Giá trở thành điều kiện cần của chúng ta trên hành trình dõi bước theo Đức Giêsu.
Thánh Giá mà mỗi chúng ta phải vác ở đây chính là bổn phận phải chu toàn; là từ bỏ những thứ không cần thiết trên hành trình tin Chúa; là từ bỏ ý riêng… và phục vụ trong yêu thương.
Làm được như thế, ấy là chúng ta sáp nhập cuộc đời của mình vào cuộc đời của Đức Giêsu. Đặt bước chân của ta vào dấu chân của Chúa, để sẵn sàng chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng.
Như vậy, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Thánh Phaolô đã diễn tả tâm tình ấy khi tuyên xưng: “ Tôi cùng chịu đóng đinh với Ðức Kitô vào thập giá […] (Và) tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi ” (Gl 2,19-20).
Mặc lấy tâm tình của Đức Giêsu, người kitô hữu chúng ta sẽ từ bỏ con đường tội lỗi, để được hiệp thông cách trọn vẹn vào cuộc khổ nạn của Ngài, và như một định luật đối với những người tin và theo Đức Giêsu là: qua đau khổ thì mới được vào vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng chịu treo trên Thánh Giá, xin thương xót và cứu chuộc chúng con. Amen.
SUY NIỆM 6: SỐNG CAO ĐẸP CHẾT KHÔNG CÙNG
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Đời người, ai cũng chết, nghĩa là ai cũng sẽ một lần nhắm mắt xuôi tay. Từ giã bạn bè, người thân ra đi biền biệt. Cái chết là phận số của con người. Không ai mà không chết. Điều quan yếu là chết cách nào? Chết để người đời thương nhớ, lưu danh hay chết là niềm vui của xã hội vì đã loại được một người ăn bám xã hội và hại người.
Người ta nói nghĩa tử là nghĩa tận nhưng xem ra vẫn chưa tận. Vì sau cái chết vẫn còn những lời xì xầm bình loạn của thế gian. Lắm khi cái ác mà người chết gây ra quá lớn thì dẫu chết cũng chưa tận, trong nỗi đau đã khoét sâu trong lòng người sống, khiến số đông không cam lòng. Và, chỉ có thể là “tận nghĩa” giữa cuộc tiễn đưa vắng bóng người, thậm chí không có nước mắt tiếc thương.
Có lẽ nhiều người cũng sợ cái chết của mình chưa tận với miệng lưỡi thế gian, nên trang mạng Facebook đang lan truyền ứng dụng Sát Thủ- chết bất hủ. Sát thủ – chết bất hủ là một ứng dụng dự đoán vui về kết thúc cuối đời của người tham gia. Những lý do chết mà ứng dụng tiên đoán đều khiến người xem bật cười ngay lần đọc đầu tiên. Kiểu như Chết cháy vì táy máy vào ổ điện, Ngủm vì ngửi phải mùi thum thủm, Chết vì nghĩa tình đã hết, Ra đi vì vợ nghi cặp bồ, Thăng vì rụng hết răng không ăn được, Nghẻo vì trèo cây cao, Thăng vì quá lăng nhăng. . .
Thực ra chết cách nào không quan trọng mà là sống thế nào để khi chết vẫn còn có người thương nhớ. Người chết không “tận” nơi người sống mà họ vẫn ở lại trong trái tim người sống về những hình ảnh yêu thương phục vụ của người ra đi. Họ đã sống đẹp cho đời thì hình ảnh đẹp ấy vẫn được người đời muôn đời ca tụng.
Con người và cuộc đời Chúa Giê-su dường như không kết thúc. Ngài vẫn sống trong lòng nhân loại dầu Ngài đã hiến tế cuộc đời trên đồi Golgotha cách đây hơn 2000 năm. Ngài vẫn ở lại trong trái tim từng người vì Ngài đã hiến dâng mạng sống mình vì loài người chúng ta.
Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giê-su chúng ta chỉ thấy hai chữ hy sinh. Ngài hy sinh nên nhập thể làm người. Ngài hy sinh nên dong ruổi suốt dọc dài đất nước Palestine để thi ân, để cúi xuống phục vụ mọi mảnh đời khổ đau. Sự hy sinh của Ngài nên tới đỉnh điểm là chết cho người mình yêu. Ngài có thể tháo lui trước nhục hình. Ngài có thể từ chối uống chén đắng vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã dùng cái chết để mở ra cho nhân loại một con đường về với trời cao. Ngài chết để minh chứng về Chúa Cha, và vì vâng phục Chúa Cha mà Ngài bằng lòng chịu chết. Sự chết của Ngài đã giao hòa con người với Thiên Chúa Cha, để từ nay nhờ hiến tế của Con Thiên Chúa mà con người được trở về nhà Cha.
Hôm nay chúng ta suy tôn thánh giá Chúa. Suy tôn tình yêu tự hiến hy sinh của Chúa. Nhờ hiến tế trên đồi Calve mà con người được sống trong ân nghĩa cùng Chúa Cha. Trong Phúc âm ghi lại: “Họ sẽ nhìn ngắm Ðấng mà họ đã đâm thâu qua” (Ga 19,37). Ngắm nhìn xem Đấng đã bị đâm thâu để thấy tình yêu hiến dâng đến quên cả tính mạng cho người mình yêu. Ngắm nhìn xem Đấng đã bị đâm thâu để thấy mình cũng có trách nhiệm trong cuộc thương khó của Chúa, trong nỗi đau của anh chị em mình. Ngắm nhìn Đấng đã bị đâm thâu để biết sống bù đắp những lỗi lầm của mình đã và đang gây đau khổ cho anh chị em mình.
Nguyện xin Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh giúp chúng con mỗi lần ngắm nhìn Chúa biết giục lòng ăn năn thống hối và can đảm đứng lên làm lại cuộc đời. Xin cho cuộc đời chúng ta sẽ mãi không “tận” trong lòng anh em, mà sống mãi trong mọi người nhờ những hy sinh đóng góp của chúng ta. Amen.
SUY NIỆM 7: NHÌN NGẮM THÁNH GIÁ KHÁM PHÁ TÌNH YÊU
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá với tất cả tình yêu. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Câu chuyện tình yêu
Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03.2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : “Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết“.
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào. Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi phải mang trên mình những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Bài ca thứ tư của người Tôi Tớ Chúa được Isaia mô tả : “Người chẳng còn hình dáng, cũng chẳng còn sắc đẹp để chúng ta nhìn ngắm, không còn vẻ bên ngoài, để chúng ta yêu thích; bị người đời khinh dể như kẻ thấp hèn nhất, như kẻ đớn đau nhất, như kẻ bệnh hoạn, như một người bị che mặt và bị khinh dể, bởi đó, chúng ta không kể chi đến người.
Thật sự, người đã mang lấy sự đau yếu của chúng ta, người đã gánh lấy sự đau khổ của chúng ta. Mà chúng ta lại coi người như kẻ phong cùi, bị Thiên Chúa đánh phạt và làm cho nhuốc hổ. Nhưng người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta, bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích người mà chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lang thang như chiên cừu, mỗi người một ngả. Chúa đã chất trên người tội ác của tất cả chúng ta” (Is 53, 2-6).
Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu “, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó. Mầu Nhiệm Thập Giá mà chúng ta cử hành là bằng chứng. Vì thế, khi suy tôn Thánh giá Chúa, kính nhớ Chúa chịu chết, chúng ta cảm nhận được sự thật rằng : “Thiên Chúa là Tình Yêu“.
Thờ lạy Thánh Giá Chúa
Phần tiếp theo của nghi thức chiều nay là thờ lạy Thánh Giá, tiến xướng chúng ta hát : Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy ?
Thưa, Thánh Giá không phải là đồ trang sức, không phải là một công trình nghệ thuật được đính nhiều đá quý và kim cương lấp lánh. Nhưng như chúng ta thấy, Thánh Giá là mầu nhiệm tự hủy của Thiên Chúa vì yêu thương. Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Đây cũng là chuyện tình của Thiên Chúa.
Với khí giới của riêng mình là cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Nếu như đã có một người nữ tên là Evà bị thất bại trước khí cụ của con rắn xưa là cây trái cấm, đem sự chết vào thế gian, Ađam phải chết. Thì nay, Đức Maria, thay thế Evà, cũng với cây sự sống, cây biết lành biết dữ làm gỗ giá treo Chúa Giêsu lên, Người đã đánh bại tử thần, sống lại hiển vinh, cứu con cháu Ađam khỏi chết. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỉ đã dùng cây để quật ngã Adam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng cây Thánh Giá để đánh bại Nó. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây trái cấm đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục ; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỉ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Adam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông ; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại sự sống cho những kẻ sinh ra trước Người. Quả làm một tuyệt phẩm về tình yêu giữa Thiên Chúa với nhân loại từ cây Thánh Giá.
Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỉ, là vũ khí chông lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các thiên thần, là sự an toàn của Giáo hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới. Từ đây, “sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu?” (1Cr 15, 54-55).
Thế giới khi nhìn xem Con Thiên Chúa chịu đóng đinh, rùng mình, trời đất động địa, đã vỡ ra ; nhưng trái tim của những người Do Thái, cứng hơn đá vẫn không động đậy. Các màn trong đền thờ bị xé ra; nhưng các âm mưu phạm tội vẫn không bị phá vỡ. Tại sao màn che bị xé ? Phải chăng đền thờ đau đớn khi chứng kiến cảnh Thiên Chúa bị giết bên ngoài trên bàn thờ Thập Giá; và khăn che trong đền thờ xé ra như muốn nói với mọi người rằng: sẽ có nhiều đền thờ trở nên hoang vắng và bị bỏ rơi. Chúng ta hãy học để chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng : Thiên Chúa chiến đấu, còn vương niệm chiến thắng chúng ta nhận.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Chúa cho chúng con khi nhìn ngắm Thánh Giá Chúa, biết khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã chết chỉ vì yêu, để chúng con biết yêu thương nhau hầu chứng tỏ rằng chúng con yêu Chúa, vì đó là cốt lõi của Đạo Chúa. Amen.
SUY NIỆM 8: TIẾNG NÓI CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Nếu như người ta vẫn nói trái tim có lý lẽ của nó, thì chúng ta cũng có thể nói : Tình yêu cũng có ngôn ngữ riêng của nó. Ngôn ngữ của tình yêu không chỉ là những lời lẽ ngọt ngào, mà còn là những ngôn ngữ không lời, những dấu chỉ không thành tiếng. Ngôn ngữ của tình yêu, không chỉ được nghe bằng tai, mà còn bằng sự cảm nhận của trái tim, ngắm nhìn bằng con mắt và tiếp xúc bằng các giác quan.
Có thể nói bầu khí phụng vụ của ngày Thứ sáu Tuần thánh mang những màu sắc và cung điệu trầm buồn, nhưng trong sự trầm lắng này, chúng ta như có thể nghe được tiếng nói và đụng chạm được đến tình yêu của Thiên Chúa qua cuộc tử nạn đau thương của Chúa Giêsu.
Có những người cho rằng, phải chăng cái ác và sự bất công luôn thắng thế ? Phải chăng Thiên Chúa cũng chịu thua trước sức mạnh của ma quỷ và sự dữ ? Tại sao một Thiên Chúa vô tội lại phải chịu một bản án bất công như vậy ? Chúng ta sẽ không thể trả lời được bằng những lý lẽ thông thường, mà chỉ có thể trả lời rằng : Thiên Chúa có cách riêng của Ngài để bày tỏ tình yêu thương đối với con người.
Tiên tri Isai đã thấy trước và đã nói về Chúa Giêsu trong hình ảnh của một người tôi tớ chịu đau khổ. Người tôi tớ này một mực trung thành với Thiên Chúa. Nhìn dáng vẻ bề ngoài, người ta chỉ có thể thấy một gương mặt tan nát, một thân xác tả tơi vì bị hành hạ. Ngài hoàn toàn im lặng đón nhận tất cả sự xỉ nhục, hành hạ của kẻ dữ mà không buông một lời oán trách. Ngài đón nhận tất cả tội vạ của muôn dân, gánh chịu muôn nhục hình do tội nhân loại. Bị ngược đãi, Ngài không mở miệng phản kháng, giống như chiên cừu khi bị xén lông. Tiên tri Isai cho thấy, Người Tôi tớ của Thiên Chúa chịu tất cả những hành hạ ấy, chỉ vì một lòng hiếu trung với Thiên Chúa, để cho Thiên Chúa được vinh danh và để đem lại sự sống và ơn tha thứ cho nhân loại.
Hình ảnh Người Tôi Trung đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu và được thánh Gioan thuật lại trong bài thương khó hôm nay. Có người đặt vấn đề : Chúa Giêsu có thể tránh cuộc khổ nạn và dùng cách khác để cứu chuộc nhân loại không ? Chắc chắn Chúa có thể dùng cách khác để cứu chuộc nhân loại, nhưng Chúa đã không tìm cách tránh né. Ngài đối diện và đón nhận thập giá với lòng yêu mến, vâng phục tuyệt đối dành cho Thiên Chúa Cha và tình yêu vô hạn dành cho con người, là những kẻ được Chúa yêu thương.
Trong cuộc khổ hình thập giá, Chúa Giêsu không chỉ đau khổ thể xác bởi sự hành hạ dã man của những tên lính, thánh Gioan còn cho thấy, Chúa Giêsu vô cùng đau khổ trong tâm hồn bởi những người Ngài thương yêu đã gây tổn thương cho Ngài. Ngay từ bữa tiệc ly tối hôm qua, Chúa đã thể hiện tình yêu đến cùng dành cho các môn đệ, qua việc trao ban chính con người và mạng sống để làm của ăn của uống cho nhân loại. Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các tông đồ để thể hiện tình yêu thương và dạy các ông bài học phục vụ. Trong lúc đó, các tông đồ dường như không quan tâm, họ tỏ ra dửng dưng trước hành động của Chúa Giêsu và quay sang bàn với nhau về chuyện khác.
Tiếp đến, Chúa Giêsu đau đớn với tâm trạng bị phản bội bởi kẻ Ngài yêu thương là Giuđa. Ngài đã tin tưởng anh, đã yêu thương anh như những môn đệ khác, vậy mà giờ đây, chính anh lại đưa các thượng tế và quân lính đến bắt Thầy mình. Anh đã trở thành kẻ chỉ điểm để người ta bắt Thầy, anh đã lấy cái hôn làm dấu chỉ để phản bội Thầy. Người ta chỉ hôn nhau khi thể hiện tình yêu thương, nhưng Giuđa lại dùng cái hôn để làm dấu chỉ phản bội. Cái hôn ấy chẳng khác gì cái tát vào mặt Chúa Giêsu.
Không chỉ sự phản bội của Giuđa gây đau khổ trong tâm hồn Chúa Giêsu, các tông đồ khác cũng không khá hơn. Các ông trước đây có người từng thề sống thề chết với Thầy, thì giờ đây, chỉ một chút sợ hãi, các ông đã bỏ trốn hết. Simon Phêrô là người được Chúa tin tưởng đặt làm đầu trong anh em, ông chỉ dám đi theo Chúa xa xa vì sợ liên lụy. Khi thử thách đến, Phêrô đã không ngại ngần từ chối mối liên hệ của mình với Thầy Giêsu, Đấng đã yêu thương ông.
Một đau khổ khác mà Chúa Giêsu phải chịu, đó là sự vô ơn và vô cảm của đám đông. Trong những người la hét đòi đóng đinh Chúa, không thiếu những kẻ mới mấy ngày trước họ hoan hô, vỗ tay reo mừng khi Chúa vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là con vua Đavít. Thế mà trước dinh Philatô, họ đã trở mặt và tuyên bố : Chúng tôi không có một vua nào khác ngoài Cesare.
Trong lúc chịu đau khổ cùng cực trong tâm hồn và thể xác, chúng ta nhận thấy lòng thương xót của Chúa Giêsu vẫn tuôn trào qua hành động đón nhận tất cả những cực hình và qua ánh mắt yêu thương, tha thứ của Chúa. Trong lúc quân dữ đang hùng hổ tìm bắt Chúa, Chúa Giêsu hết sức ôn tồn, bình tĩnh bước ra gặp chúng và hỏi : Các anh tìm ai ? Nó đáp : Tìm Giêsu Nazareth. Ngài đáp : Chính tôi đây. Một lời nói với đầy sức mạnh và uy quyền đã khiến chúng bật ngã ra đàng sau. Lúc chúng ra tay bắt Chúa, Đức Giêsu đã không nghĩ đến mình, nhưng Ngài nghĩ đến các tông đồ và nói với chúng : Nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để những người này đi.
Lúc dân chúng tố cáo Chúa Giêsu trước mặt các Thượng tế về các bài giảng của Ngài, Chúa Giêsu đã không lên tiếng biện hộ cho mình, nhưng Ngài nghĩ đến các tông đồ và nói với những kẻ tra hỏi Người : Tôi giảng dạy công khai trong đền thờ, tôi không nói gì lén lút cả, xin các ông cứ hỏi những người đã nghe tôi, chính họ biết tôi đã nói gì. Thánh Gioan đã tinh tế cho thấy : Trong khi trong dinh thượng tế, Chúa Giêsu vẫn hết lòng tin tưởng và yêu mến những kẻ Ngài đã tuyển chọn, thì bên ngoài, Phêrô, kẻ được Ngài tuyển chọn, lại công khai từ chối Chúa tới ba lần trước mặt một đứa đầy tớ gái. Lúc này, tình yêu thương của Thiên Chúa đã thể hiện qua cái nhìn của Chúa Giêsu. Ánh mắt yêu thương của Chúa đã gặp được ánh mắt sợ hãi, phản bội của Phêrô, khiến cho Phêrô cảm thấy ân hận suốt đời trước một tình yêu quá lớn lao.
Trước dinh Philatô, Chúa Giêsu cảm nhận sâu xa và đau đớn vô cùng bởi sự bội bạc, vô ơn của đám dân chúng. Họ đã chọn đứng về phía sự ác và sự dữ khi đòi tha Baraba và giết Giêsu. Họ công khai từ chối thẩm quyền của Thiên Chúa để quy phục quyền bính của một ông vua đang đô hộ họ. Những người Do Thái đã rắp tâm loại trừ Chúa Giêsu và họ đã tìm mọi cách gây áp lực để đạt được ý đồ gian ác của họ. Khi Chúa Giêsu phải vác thập giá trên vai, bước đi những bước nhọc nhằn, thì quân lính và dân chúng hả hê, thỏa mãn vì đã đạt được mưu đồ của họ là vùi dập một con người cho đến chết. Cái ác dường như thắng thế, công lý dường như bất lực, Thiên Chúa dường như cũng im lặng trước khổ đau của Chúa Giêsu. Nhưng trong khung cảnh tối tăm của sự ác ấy, ánh sáng của tình yêu vẫn không hề bị dập tắt.
Thánh Gioan, vị tông đồ được Chúa yêu, đã cảm nhận được sự đau khổ và tình yêu của Chúa qua hành trình thập giá. Mỗi bước đi, mỗi chặng dừng, từ dinh Thượng tế Anna đến Caipha, từ dinh Philatô đến dinh Herode và từ dinh Philatô đến cái chết thảm thương trên thập giá đồi Calvariô, là một chặng đường dài của lòng xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Nếu chỉ nghe hoặc xem lại cuộc thương khó của Chúa, chúng ta sẽ chỉ thấy một cuộc hành hình bất công, đầy hung ác, tàn bạo và máu me. Nhưng nếu chúng ta nghe bài thương khó này bằng trái tim và bằng sự cảm nhận của tâm hồn, chúng ta sẽ được đụng chạm đến tình thương của Thiên Chúa. Và, nếu chúng ta lắng nghe cuộc thương khó của Chúa trong thinh lặng, để cho trái tim mở ra, chúng ta sẽ nhận ra hình ảnh và trách nhiệm của mình có liên quan trong cuộc hành hình này.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà chúng ta suy niệm chiều nay là cách thức Thiên Chúa nói với con người về một tình yêu bao la, về lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa dành cho con người. Với tiếng nói tình yêu này, chúng ta không chỉ nghe bằng tai, nhưng xin cho trái tim của chúng ta cũng biết lắng nghe, biết mở ra để cho lòng thương xót của Chúa đổ tràn trong chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ biến mình trở thành kẻ dửng dưng vô tình trước tình yêu của Chúa và cũng đừng bao giờ đóng cửa trái tim trước nỗi khổ đau của anh chị em. Amen.
SUY NIỆM 9: SUY NIỆM THỨ SÁU TUẦN THÁNH
Lm. Giuse Trực
Con là ai trong hành trình thương khó của Chúa?
Con có phải là những Thượng tế, những biệt phái và Pharisêu muốn tiêu diệt Chúa để đừng làm phiền, đừng ai nhắc nhở những sai trái của con không?
Con có phải là dân chúng bàng quang, hoặc có tâm lý hùa theo đám đông mà không dám nói lên chính kiến của mình, để sẵn sàng làm ngơ hoặc hùa theo để kết án người khác?
Con có phải là những tên lính đã đánh đòn, đóng đinh, hành hạ Chúa cho hả cơn giận của con, mặc dù con biết Chúa không có tội gì. Có những bực bội, bức bối gì, về nhà con đổ trên đầu những người thân mà con có vẻ “trên cơ” họ?
Con có phải là những người phụ nữ thành Giêrusalem khóc thương chỉ vì tội nghiệp Chúa chứ chưa biết phải làm sao để cho Chúa hết đau?
Con có phải là tên trộm oán trách cuộc đời và thách thức Chúa: “Ông là con Thiên Chúa thì tự cứu mình và cứu chúng tôi với”?
…
Hay con là Simon sẵn sàng vác lấy thánh giá Chúa bằng cách san sẻ nỗi đau với người khác?
Hay con là Đức Mẹ, mạnh dạn, can trường bước theo con đường đau khổ của Chúa, không một vẻ yếu nhược, không một lời than thở, không một chút kêu than?
Hay con là Gioan đón lấy sứ mạng của Chúa để sẵn sàng hiến thân mình cho những chương trình, hoạch định của Chúa?
…
Có lẽ, lạy Chúa, xin cho con giống như viên đại đội trưởng: “Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 23, 47). Đã biết bao lần con ngước nhìn lên Chúa bị đóng đinh, nhưng con đã xác tín niềm tin vào Chúa chưa? Câu hỏi này tiếp tục vang vọng trong tâm hồn con. Vang mãi, vang mãi cho đến chết.
SUY NIỆM 10: GIỜ THƯƠNG XÓT
Trầm Thiên Thu
Bửu Huyết Giêsu tươi màu Cứu Độ
Oan khiên thế giới hóa sắc trong ngần
Thứ Sáu Tuần Thánh là Ngày Đại Tang của Kitô giáo – nói riêng, và của cả nhân loại – nói chung. Thứ Sáu Tuần Thánh là đỉnh cao của Ơn Cứu Độ, đặc biệt là Giờ Thứ Chín (tức 3 giờ chiều), giờ của Lòng Chúa Thương Xót. Không có Lòng Chúa Thương Xót thì nhân loại chỉ là hư vô!
Cuộc chia ly nào cũng bịn rịn, lưu luyến, đau khổ và đãm đầy nước mắt, nhất là cảnh biệt ly khi người thân về bên kia thế giới. Lúc hấp hối là “phút cuối” của một con người, là lúc xúc động nhất đời người – dù người đó đáng yêu hay đáng ghét. Càng xúc động hơn khi thấy người hấp hối chịu đau nhức quằn quại từng cơn, có những người toát mồ hôi hột nhưng âm thầm chịu đựng, có những người phải la hét dữ dội. Giây phút biệt ly thường là khoảnh khắc ngắn ngủi, chỉ trong chốc lát, nhưng lại nặng nề trôi… ngỡ như thăm thẳm! Và giây phút cuối đời cũng là lúc người ta nói thật nhất.
Chúa Giêsu có hai bản tính: Thần Tính và Nhân Tính (1). Về nhân tính, Ngài cũng rất đau đớn vì đã kiệt sức do đòn roi suốt đêm, vác Thập Giá lên đồi cao theo con đường gập ghềnh, ngoằn ngoèo, Ngài té lên té xuống nhiều lần, trong khi phải chịu đói chịu khát vì mất máu nhiều, Ngài còn bị những gai nhọn đâm thấu đầu, tiếp theo lại bị đinh ghim chặt chân tay, và cuối cùng bị lưỡi đòng đâm thâu tim. Rất đau đớn. Rất nhức buốt. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Thân xác Ngài tàn tạ, tiều tụy, tơi tả, đến giọt Máu và giọt Nước cuối cùng cũng chảy ra hết vì thương xót nhân loại. Chúng ta chỉ bị cái dằm đâm vào tay cũng la toáng lên rồi!
CON CHIÊN HÀM OAN
Từ ngàn xưa, qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã minh định: “Người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng” dù cho “tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa” (Is 52:13-14). Nhưng mọi người đều phải sửng sốt khi thế cờ đảo ngược hoàn toàn. Người tôi trung đó làm cho “muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng” (Is 52:15). Người tôi trung đó là Đức Kitô, cũng chính là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ, Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ, “như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng mở miệng kêu ca” (Is 53:6; Cv 8:32).
Chúng ta đã được biết về “hành trình đau khổ” của Chúa Giêsu, nhưng có lẽ khó mà cảm nhận hết mức đau khổ, thậm chí có thể nghe nhiều năm đã quen tai nên vẫn thấy… bình thường, và cũng chỉ là “chuyện nhỏ”. Kinh Thánh cũng đã nói:“Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được?” (Is 53:1). Thật khó tin, nhưng lại hoàn toàn là sự thật!
Ngôn sứ Isaia mô tả chi tiết: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53:2-3). Tuy nhiên, “chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta lại tưởng Ngài bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề” (Is 53:4). Thật nghịch lý, có lẽ vì chúng ta quá ảo tưởng!
Bảng đối chiếu liệt kê rõ ràng: “Chính Ngài đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, Ngài bịnghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, Ngài đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, Ngàiđã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lành” (Is 53:5). Trí óc loài người không thể tưởng tượng nổi có một Con Người lạ lùng như vậy. Nếu cuộc đời có ai gần giống như vậy thì ắt chúng ta cho là “dại dột”, là “ngu xuẩn”, là “điên khùng”, là “mất trí”, là “tâm thần”. Thiên Chúa thấy “tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả”, nhưng Đức Chúa đã đổ tội lỗi của tất cả chúng ta lên đầu Người-Tôi-Trung kia. Người Ấy bị lũ-người-ghen-tị “ngược đãi mà vẫn cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người Ấy chẳng hề mở miệng” (Is 53:6). Người Ấy còn “bị ức hiếp, bị buộc tội, rồi bị thủ tiêu” (Is 53:8a). Thậm chí “Người Ấy còn bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh”, và “vì tội lỗi của dân, Người Ấy bị đánh phạt” (Is 53:8b). Người Ấy chịu đủ thứ khổ hình vì các tội nhân là chúng ta, chứ Người Ấy chỉ bị hàm oan, vì Người Ấy hoàn toàn vô tội.
Cuối cùng, Người Ấy đã “bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:9). Nhưng đó là Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, để nhờ Người Ấy mà Ý Chúa được nên trọn. Thiên Chúa xác định: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”(Is 53:11). Đức Giêsu đã “hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:12). Trong “núi tội” đó có rất nhiều tội lỗi của mỗi chúng ta!
Thánh Vịnh đã nói lời cuối của Người Ấy – một người trong cơn hấp hối: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31:2 & 6). Người Ấy tâm sự với Chúa về cuộc đời mình: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa. Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ, con hoá thành đồ hư vất bỏ” (Tv 31:12-13). Là con người thì ai cũng cảm thấy cô đơn tột cùng khi ai cũng khinh ghét và bỏ rơi mình nên nói vậy thôi, nhưng vẫn tin tưởng vào Chúa, cho nên mới dám thân thưa: “Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con” (Tv 31:15-16).
Người Ấy chấp nhận mọi thiệt thòi và luôn vững tin cầu khấn: “Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ” (Tv 31:17), đồng thời mạnh dạn chia sẻ với những người khác như một lời khuyên: “Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25). Người Ấy đã nêu gương sáng cho chúng ta, vì chúng ta cũng phải nên giống Người Ấy: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15:18). Người Ấy là ai? Là Đức Kitô, là Thầy Giêsu, là Chúa của chúng ta.
Thánh Phaolô minh định: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa” (Dt 4:14). Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin, và giải thích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vìNgài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, chúng ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Trong các ân sủng, Lòng Chúa Thương Xót là hồng ân cao cả và kỳ lạ vô cùng! Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đau khổ tột cùng nên Ngài rất thương xót chúng ta.
Khi còn sống kiếp phàm nhân, và theo nhân tính, Đức Giêsu cũng đã từng lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời vì có lòng tôn kính. Vâng phục không là điều dễ, vì phàm nhân chúng ta đầy tự ái và kiêu sa, ngay cả Con Thiên Chúa cũng đã “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:7). Thật không hề đơn giản chút nào! Nhưng chính lúc đó là lúc bản thân đạt tới mức thập toàn để rồi “Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9). Trước khi vinh quang và được coi là công trạng thì luôn phải trải qua chặng đường gian khổ. Đức Kitô cũng đã trải qua “chặng đàng Thánh Giá” và cái chết mới tới sự phục sinh vinh quang.
ĐÓN NHẬN ĐAU KHỔ
Phúc Âm hôm nay là bài trường ca đau khổ, là tấn bi kịch trầm hùng, là bộ phim dài sầu thảm, Giáo hội gọi là Bài Thương Khó, thuật lại đầy đủ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Bi kịch thảm thiết như vậy mà lại gọi là Phúc Âm, là Tin Mừng. Thật kỳ diệu biết bao!
Chúng ta thường nói: “Dòi trong xương dòi ra”. Một trong mười hai đệ tử “ruột” là Giuđa đã dùng nụ hôn để “chỉ điểm” mà bán rẻ Thầy mình với giá quá bèo – không đáng bao nhiêu so với bình dầu cam tùng mà cô Maria (Ga 12:1-8; x. Ga 11:1-2) đã xức chân Thầy Giêsu tại Bê-ta-ni-a.
Người ta đã tìm mọi cách gài bẫy, lục soát, và đi bắt Chúa Giêsu như một tên côn đồ. Họ ghen tị và sợ Ngài tiếm ngôi, giành quyền lực, lấy mất “chiếc ghế quyền lực”, thế nên họ làm mọi cách hạ nhục Ngài đủ mưu đủ chước. Hàng ngày Ngài thường tụ họp với các môn đệ công khai mà họ không bắt, thế mà họ lại cấu kết với đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu để đi tìm bắt Ngài trong đêm tối, dùng vũ khí để đối với một người tay không và thân cô thế cô – vì các môn đệ bỏ trốn hết. Thật là tồi và hèn hạ!
Khi Ngài điềm nhiên hỏi họ tìm ai, họ ngang nhiên đáp: “Tìm Giêsu Nadarét”. Ngài vừa nói “chính tôi đây”, họ lùi lại và ngã xuống đất. Ngoạn mục thật! Ấy thế mà họ vẫn cố chấp, cố ý nhắm mắt chứ không chịu mở mắt. Có lẽ lúc này Giuđa là người đắc chí nhất, vì có thể ông cũng rất tin rằng Thầy mình “ngon” lắm, quyền phép đầy mình, chúng chẳng làm gì được, mà ông lại có tiền tiêu xài – tức là bọn thủ ác bị mắc lừa. Thế nhưng Ngài không dùng thần quyền của Ngài vào chuyện không cần thiết. Đó là “cách lạ” của Ngài. Trí óc phàm nhân chúng ta không thể nào hiểu nổi!
Họ lồm cồm bò dậy. Ngài lại hỏi một lần nữa: “Các anh tìm ai?”. Họ vẫn cương quyết như đinh đóng cột: “Tìm Giêsu Nadarét”. Họ vẫn không hề tởn chút nào. Gan cóc tía. Lì thật! Và rồi Đức Giêsu thản nhiên nói: “Tôi đã bảo các anh là chính tôiđây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18:8). Ngài không muốn bất kỳ ai phải liên lụy vì Ngài. Nhưng điều đó ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai” (Ga 18:9). Tính nóng hơn Trương Phi, ông Simôn Phêrô bèn tuốt gươm ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế mà “chơi” một phát đứt tai phải của Man-khô. Một đường gươm tuyệt hảo y như xiếc! Thấy vậy, Đức Giêsu bảo ông Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén màChúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18:11). Nghe vậy chưa chắc ai hiểu ý Ngài nói.
Họ bắt trói Ngài lại, rồi điệu Ngài đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó. Chính ông này đã đề nghị với người Do Thái: “Nên để một người chết thay cho dân thì hơn” (Ga 18:14). Nghe chừng nhân đạo nhưng lại vô cùng thâm độc. Lúc đó có ông Simôn Phêrô và người môn đệ khác (tức Gioan) đi theo Đức Giêsu. Gioan quen biết vị thượng tế nên được vào sân trong của tư dinh của thượng tế. Còn ông Phêrô phải đứng ở phía ngoài, gần cổng. Gioan ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. Gioan cũng “oai” thật, quen biết có khác!
Nhưng vấn đề là người tớ gái giữ cổng nhận ra ông Phêrô “thuộc nhóm của Chúa Giêsu” nên ông chối ngay: “Đâu phải”. Và ông chối phắt bất kỳ ai nhận ra ông, tổng công 3 lần trước khi gà gáy. Với bản tính nhân loại nên ông rất sợ, sợ đến nỗi phát run ngay cả với mấy phụ nữ chân yếu tay mềm. Tội nghiệp! Ông Phêrô nóng tính, thẳng như ruột ngựa, nhưng cũng rất yếu đuối. Đó là “biểu tượng” của chúng ta ngày nay!
Mặc dù Chúa Giêsu bị bắt, bị trói, bị đánh đập, bị tra xét, bị hành hạ,… nhưng Ngài vẫn thản nhiên và không nói gì, không nửa lời tự biện minh cho mình là đúng, không một lời kêu oan nào!
Đến khi bị tra hỏi về các môn đệ và giáo huấn, Đức Giêsu mới trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do Thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi?Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì” (Ga 18:19-21). Ngài vừa dứt lời thì một tên trong nhóm thuộc hạ vả vào mặt Ngài: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?” (Ga 18:22). Hỗn láo thật! Nhưng Ngài vẫn thản nhiên lý luận: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18:23). Cách đối đáp và lý luận của Chúa Giêsu tuyệt vời quá!
Sau đó, ông Kha-nan cho giải Ngài đến thượng tế Cai-pha, Ngài vẫn bị trói. Lúc đó trời vừa sáng. Họ không vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Họ chỉ lo giữ bề ngoài mà không chú trọng bề trong. Đó là một dạng động thái giả hình. Tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi xem họ tố cáo Chúa Giêsu về tội gì, nhưng họ đáp: “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đãchẳng đem nộp cho quan” (Ga 18:30). Họ cố chấp và cố tình không thèm nhận những hành động tốt của Chúa Giêsu. Trước áp lực của dân, ông Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Đức Giêsu không nhận và nói:“Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36). Vậy mà ông Philatô vẫn không hiểu nên hỏi:“Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Ông Philatô “dốt đặc cán mai” nên ngớ ngẩn hỏi: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38).
Theo tục lệ của người Do Thái, vào mỗi dịp Lễ Vượt Qua, họ thường phóng thích cho một tội nhân. Ông Philatô hỏi họ muốn tha Chúa Giêsu hay không, họ la to:“Đừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!” (Ga 18:40). Baraba là một tên cướp khét tiếng, vậy mà họ còn thương mến và yêu quý hơn là Chúa Giêsu. Lạy Chúa tôi!
Thế là tổng trấn Philatô truyền đem Đức Giêsu đi mà đánh đòn. Họ chụp lên đầu Ngài một vòng gai và khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi mỉa mai: “Kính chào Vua dân Do Thái!”, và vả vào mặt Ngài. Như vậy, nhân vị của Ngài đã bị khinh miệt, nhân phẩm của Ngài bị chà đạp, và nhân quyền của Ngài cũng bị tướcđoạt. Ông Philatô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài để đám đông thấy Ngài không còn hình tượng một con người mà thương. Nhưng vừa thấy Ngài, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19:6). Một lần nữa, ông Philatô lại khiếp nhược nên bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy” (Ga 19:6).
Một người nắm quyền trong tay và biết rõ bị cáo không có tội mà vẫn không dám tha, người đó quả là bất tài, vô dụng, ích kỷ, chỉ lo giữ “cái ghế” của mình, chỉ muốn lợi cho mình mà chà đạp người khác. Đó là một dạng bóc lột, không tôn trọng công lý. Vậy người đó có đáng được tôn trọng? Người nắm quyền lực mà không tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, không lấy dân làm gốc, làm sao quốc thái dân an?
Dù ai nói ngả, nói nghiêng, nói xuôi, nói ngược, nói tới, nói lui, và họ có nói gì thì Chúa Giêsu cũng chỉ im lặng. Ngài biết rằng có nói cũng vô ích, chỉ như nước đổ lá môn, không bằng nói với đầu gối. Sau khi tòa tuyên án, bị cáo nào cũng có quyền kháng cáo, nhưng “bị cáo” Giêsu lại không có quyền tối thiểu đó. Nhân quyền của Ngài hoàn toàn bị tước đoạt! Và Chúa Giêsu nói với ông Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19:11). Nghe vậy, ông Philatô cũng thấy “nổi gai óc” nên tìm cách tha Ngài, nhưng ông vẫn không dám quyết định theo quyền hạn của mình vì áp lực dân chúng. Cách xử sự hèn nhát của Philatô cũng chính là động thái hèn hạ của chúng ta ngày nay đối với tha nhân.
Cuối cùng, ông Philatô cũng đành cho thi hành án tử đối với “tử tội công chính” là Chúa Giêsu. Họ bắt Ngài tự vác Thập Giá lên đồi Gôngôtha, nghĩa là Cái Sọ – cũng gọi là Đồi Sọ, Can-vê, nơi xử tử các tội nhân. Đồng án tử với Ngài có hai người khác nữa, hai người hai bên Chúa Giêsu. Tấm bảng ghi “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái” treo phía trên đầu Ngài, được viết bằng 3 ngôn ngữ: Hípri, La Tinh và Hy Lạp (2). Các thượng tế không đồng ý gọi Chúa Giêsu là “Vua dân Do Thái”, nhưng ông Philatô nói: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22). Philatô chỉ lăm le với người dưới quyền chứ không dám “nói mạnh” với đám đông nổi loạn, dù họ chỉ là đám dân đen!
Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, họ chia chác quần áo của Ngài. Họ muốn chế nhạo Ngài chứ có gì đáng giá đâu! Lúc đó, Chúa Giêsu bắt đầu kiệt sức. Ngài trối Đức Mẹ cho Gioan và trao Gioan cho Đức Mẹ. Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Mất máu nhiều nên Ngài nói: “Tôi khát!” (Ga 19:28). Nhưng người ta lại nỡ lấy miếng bọt biển thấm giấm chua mà cho Ngài giải khát. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!” (Ga 19:32). Rồi Ngài gục đầu xuống và dâng trao Thần Khí.
Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại Tang của Giáo hội. Sự kiện hôm nay là “nghi lễ của mọi nghi lễ”, là “hiến lễ của mọi hiến lễ”, là “thánh lễ của mọi thánh lễ”. Vì thế, Giáo hội không cử hành thánh lễ mà chỉ có phụng vụ Lời Chúa, tôn kính Thánh Giá và rước lễ.
Tình Giêsu là “tình cho không biếu không”, nhưng chúng ta thường có khuynh hướng “tội nghiệp” Chúa Giêsu hơn là tội nghiệp chính mình. Khi Chúa Giêsu thấy có nhiều phụ nữ, vừa đấm ngực vừa than khóc, trong đám đông đi xem Ngài lên đồi chịu xử tử, nên Ngài đã quay lại và nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28).
Một điểm khác chúng ta cần lưu ý là “tính a dua”, như người ta thường nói: “Người ta làm sao thì tôi làm vậy, người ta làm bậy thì tôi… làm theo”. Ui da! Thật là nguy hiểm, vì đó là lối sống quá tiêu cực, không có lập trường, mạnh đâu âu đó!
Giờ Thương Xót đã điểm. Người được lãnh Hồng Ân Thương Xót đầu tiên là tướng cướp Dismas, tử tội cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu: “Hôm nay, anh sẽ được ởvới tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23:43). Diễm phúc biết bao!
Hôm nay, khi tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu Kitô, Giáo hội cầu nguyện cho mọi tầng lớp trong xã hội, ước gì chúng ta cũng quyết tâm thực hành lời Thánh Vịnh: “Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng, giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân” (Tv 82:3-4). Đó là sống lòng thương xót. Chúng ta đã được Chúa Giêsu thương xót, chúng ta không thể không thương xót người khác!
Ơn Cứu Độ thật tuyệt vời: Máu Chúa đỏ tươi đã tẩy rửa tội nhân chúng ta nên trắng ngần. Xin trọn đời tạ ơn Lòng Chúa Thương Xót.
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chúng con thật khốn nạn mà vẫn tưởng mình tốt lành hơn người khác, chúng con đã a dua và đồng lõa với cái ác màcứ tưởng mình chân chính hơn người khác. Chúng con chân thành thú nhận mọi lỗi lầm, thành tâm xin lỗi Chúa và xin lỗi tha nhân. Xin thương xót chúng con và ban cho chúng con được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ của Con Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của chúng con. Amen.
SUY NIỆM 11: BUỔI CHIỀU THINH LẶNG THÁNH
(Is 52, 13-53, 12; Dt 4, 14-16; 5, 7-9; Ga 18, 1 - 19, 42)
(Ngọc Biển, S.S.P.)
“Hỡi không gian rủ sương mù ngàn mây hỡi hãy che khắp trời cao. Ánh kim ô vụt lu mờ. Vì thương Chúa gánh muôn nỗi khổ đau” (Giờ tử nạn, Lm. Hoài Đức).
Với những lời hát rất sâu lắng ấy, tác giả đã dẫn đưa chúng ta đi vào tâm tình của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh trong thinh lặng.
Thinh lặng để thấy, hiểu, để cảm nghiệm và để thay đổi lối sống cho phù hợp với những gì tốt lành mà mình đã thấy, hiểu và cảm nghiệm.
Thinh lặng còn làm cho chúng ta đi vào tâm tư của người khác để cùng họ sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Thinh lặng để thấy
Cũng vậy, trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, chúng ta rất cần sự thinh lặng để sống những tâm tình vừa nêu ở trên!
Trước tiên, thinh lặng để thấy: thấy Đức Giêsu là Đấng rất thương những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé họng, người ốm đau bệnh tật. Từ đó, Ngài không thể lặng im khi những điều đó xảy ra với con người dưới những chiêu bài “đánh lận con đen” khi nhân danh tôn giáo, đạo đức, người nghèo để làm khổ nhau.
Ngài không chỉ lên tiếng gián tiếp, nhưng Ngài đã “chỉ mặt đặt tên” nơi những con người có tâm đen tối. Ngài không chỉ nói mà còn hành động. Ngài không sợ chết mà ngược lại, sẵn sàng lấy mạng sống của mình bảo vệ những người bị ngược đãi để đổi lấy sự công bằng.
Chính vì thái độ và lựa chọn của Đức Giêsu như vậy, nên chúng ta thấy Ngài đã bị những người Pharisêu, Kinh Sư, Thượng Tế ghét bỏ và tìm mọi cách để hạ sát. Với họ, Đức Giêsu chính là cái gai trong mắt, cái đó ngáng đường. Họ luôn coi Ngài là thành phần nguy hiểm, cần phải loại trừ ra khỏi xã hội.
Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy phản ứng chống lại Đức Giêsu của những nhà lãnh đạo Dothái thời bấy giờ rất gắt gao do những nguyên nhân như: ghen tương, thù hận, gian dối, kiêu ngạo.
Bên cạnh đó, chúng ta còn nhìn thấy thái độ hoang tưởng và vụ lợi của Giuđa; sợ hãi của Phêrô cũng như các môn đệ khác; sự thay trắng đổi đen của dân chúng; sự hèn nhát, nhập nhằng của Philatô….
Trên đây là những điều chúng ta thấy được qua cuộc thương khó của Đức Giêsu.
Thinh lặng để hiểu
Khi đã thấy được nguyên nhân dẫn đến cái chết của Đấng Cứu Thế, giờ đây, chúng ta cùng nhau thinh lặng để hiểu về cuộc thương khó này dưới cái nhìn cứu độ.
Trong cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta thấy có hai tên trộm: một người được gọi là thánh trộm lành; một người phải gọi là kẻ trộm dữ. Tại sao vậy? Thưa, đơn giản là người trộm lành đã biết lắng nghe và hiểu được Đức Giêsu là ai! Đặc biệt, trong thinh lặng, anh ta còn nhận ra tội lỗi của mình để xin Chúa tha thứ. Còn tên trộm dữ đã không biết lắng nghe, ngược lại, hắn không ngớt chửi rủa và trách móc Đức Giêsu cũng như những kẻ đóng đinh hắn. Hắn không hiểu được ý nghĩa của cái chết nơi Đức Giêsu, vì thế, hắn đã tự mình đánh mất “phao cứu sinh” cuối cùng của cuộc đời đầy tội lỗi. Và như một lẽ tất yếu, hắn đã phải chết như một kẻ xa lạ với ơn cứu chuộc mà Đức Giêsu mang lại qua cái chết của Ngài.
Cũng như người trộm lành, qua cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta hiểu được rằng: tình yêu của Thiên Chúa là vô hạn. Tình yêu ấy đã đi bước trước để đến với nhân loại qua việc trao ban chính Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì được sống và sống dồi dào.
Đến lượt Đức Giêsu, tình yêu ấy được nở hoa cứu độ ngay trên thập giá, bởi vì: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”.
Như vậy, chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới có thể nhận ra và cảm nghiệm sâu xa về cái chết của Đức Giêsu là vì tình yêu, đồng thời, qua đó, chúng ta sẽ nhìn thấu tội lỗi của chính mình và của nhân loại, ngõ hầu ăn năn, sám hối, để được đón nhận ơn tha thứ từ mầu nhiệm khổ nạn của Đức Giêsu.
Thinh lặng để đổi thay
Từ những gì đã thấy, đã hiểu, đã cảm nghiệm, có lẽ mỗi người chúng ta đều có với nhau một mẫu số chung, đó là: bất bình, lên án những người đương thời với Đức Giêsu vì sự ác tâm, thất đức của họ, khiến Đức Giêsu phải chết một cách đau thương tức tưởi như vậy!
Tuy nhiên, trong thinh lặng sâu lắng, chúng ta cũng nên làm một cuộc cật vấn lương tâm tận đáy lòng mình, để xem thử mình có liên quan gì đến cuộc thương khó của Đức Giêsu không?
Xét về mặt khách quan bên ngoài như địa lý, thời gian và đối tượng, có lẽ chẳng thể nào tìm ra được một ai có những hành động trực tiếp với Đức Giêsu như những người Pharisêu, Kinh Sư và Thượng Tế khi xưa. Nhưng, xét về sự liên đới tâm linh, chắc chắn chúng ta không thể vô can nếu không muốn nói là tàn ác chẳng thua kém những kẻ gây nên cái chết của Đức Giêsu, thậm chí còn nặng hơn nữa!
Thật vậy, nhiều khi chúng ta sống thực dụng, ham tiền, hám lợi và chuộng danh vọng, những lúc như vậy, chúng ta đâu khác gì các môn đệ của Đức Giêsu khi các ông tranh giành chỗ nhất - nhì trong vương quốc mà họ tưởng chừng Đức Giêsu sẽ lập chốn trần gian!
Lại nữa, sự phản bội, vô ơn và sống hai mặt, nhiều khi lại là lựa chọn chủ đạo của chúng ta trong đời sống. Khi lựa chọn những thứ đó làm nền tảng cho đời sống của mình, chúng ta đâu khác gì Giuđa!
Rồi có lúc vì sợ mất chức, mất quyền, hay nhát đảm, nên đã không dám tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa, nhiều khi chúng ta cũng từ chối thuộc về Chúa khi không dám đứng về phía sự thật để làm chứng cho chân lý. Những lúc như thế, hình ảnh, thái độ và lựa chọn của Philatô và Phêrô lại hiện lên thật rõ nét trong từng hành vi và lời nói của chúng ta!
Cuối cùng, đám đông dân chúng khi xưa do thiếu hiểu biết, nên đã bị giới lãnh đạo tôn giáo “giật dây”, vì thế, họ đã phản bội Đức Giêsu. Mới ngày nào họ muốn tôn Ngài làm Vua. Sự kiện đó chỉ cách hôm nay có mấy ngày, họ đã long trọng đón Vị Vua ấy vào thành với tư cách là Đấng Thiên Sai, là Vua Israel. Miệng họ cũng đã từng tung hô vang trời lở đất để đón Chúa vào thành. Tuy nhiên, ngày hôm nay, họ đã thay đổi hoàn toàn!
Nhiều khi chúng ta cũng vì cái bụng mà sẵn sàng gian lận, đổi trắng thay đen, hay đã có những lần ta tìm mọi cách kéo Chúa về với phe ta, mặc dù biết những việc ta làm là sai trái…. Hoặc nhiều khi chúng ta cũng sống theo kiểu a dua với đám đông: “Ai sao tôi vậy, ai làm bậy tôi cũng làm theo!”.
Đôi khi chúng ta cũng nhân danh Chúa để làm những điều khuất tất, hoặc lấy Chúa làm bình phong cho những trái khuấy của mình! Lúc không được như ý muốn, chúng ta cũng phản bội Chúa bằng việc quay lưng lại với Ngài khi sẵn sàng tôn thờ một ngẫu tượng nào đó thay cho Chúa. Không còn lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho cuộc đời mình, ngược lại, chúng ta đã lấy lời của những thày bói, thày mo và cô đồng….
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết noi gương trung thành, yêu mến và can đảm của Đức Mẹ; người “môn đệ được Đức Giêsu yêu mến”; những phụ nữ Giêrusalem; bà Verônica; ông Simong và những người đạo đức khác…. Đồng thời, khi suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta hãy học bài học vâng phục và yêu mến của Đức Giêsu với Thiên Chúa Cha cách tuyệt đối cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự. Từ đó, mỗi người sẽ tiếp bước trên con đường tình yêu ấy cách trung thành để đến với tha nhân như lời Đức Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa khai trí mở lòng, để chúng con hiểu thấu được tình yêu mà Chúa dành cho chúng con qua mầu nhiệm thập giá. Xin cho chúng con dám cam đảm nói lên lời: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích gì?” Từ đó, chúng con biết trung thành, can đảm để thuộc trọn về Chúa và sẵn sàng làm chứng về Ngài trong mọi hoàn cảnh. Amen.
09/04 Ngài yêu thương họ đến cùng
- Viết bởi Ga 13, 1-15
Thánh Thể Bí Tích Phục Vụ
Thứ Năm tuần thánh. Thánh lễ Tiệc Ly.
"Ngài yêu thương họ đến cùng".
Lời Chúa: Ga 13, 1-15
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa.
Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?" Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu". Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con". Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy". Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa". Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu". Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu".
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: PHẢI RỬA CHÂN CHO NHAU
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Người biết mình sắp qua đời thường để lại di chúc cho con cái.
Di chúc nói lên ước nguyện, lời nhắn nhủ hay lệnh truyền của người sắp ra đi.
Có thể nói Thầy Giêsu khi biết cuộc Khổ Nạn gần đến
cũng đã để lại một di chúc kép cho các môn đệ dấu yêu :
Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và nhất là Ngài đã lập bí tích Thánh Thể.
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày chúng ta đặc biệt nhớ đến di chúc ấy.
Sống di chúc của Chúa Giêsu là cách biểu lộ tình yêu đối với Ngài.
Có nhiều điểm giống nhau nơi việc Rửa chân và lập Bí tích Thánh Thể.
Cả hai đều là những cử chỉ Thầy Giêsu làm lúc cận kề cái chết.
Cả hai đều được làm trong bầu khí một bữa ăn tối gần lễ Vượt Qua.
Vào lúc cuối đời, sau bao năm tận tụy với sứ mạng phục vụ,
Thầy Giêsu muốn gói ghém trong hai cử chỉ đơn giản ấy lễ hiến dâng đời mình.
Cả hai đều tượng trưng cho cái chết tự hạ trên thập giá.
Rửa chân đòi Thầy phải cúi xuống rất sâu, phải trở thành tôi tớ phục vụ.
Rửa chân là điều mà tôi tớ không hẳn phải làm cho chủ,
thì bây giờ Thầy làm cho trò.
Cái chết trên thập giá là sự phục vụ cao nhất được diễn tả qua việc rửa chân.
Bí tích Thánh Thể còn diễn tả cách tuyệt vời hơn cái chết hy sinh ấy.
Trong bí tích này, tấm bánh trở nên Mình Thầy bị bẻ ra và trao đi.
Rượu trở nên Máu Thầy, Máu sẽ bị đổ ra cho muôn người trên thế giới.
Trong cả hai biến cố Rửa chân và Bí tích Thánh Thể,
Thầy Giêsu đều mời các môn đệ tham dự cách tích cực.
Tham dự vào cái chết của Thầy bằng cách để cho Thầy rửa chân,
hay tham dự bằng cách ăn uống Mình và Máu Ngài.
Hai biến cố trên không phải là chuyện chỉ xảy ra một lần bởi Thầy Giêsu.
Thầy mời các môn đệ cũng làm như Thầy, và lặp đi lặp lại những cử chỉ đó.
“Anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14).
“Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy (Lc 22, 19).
Cúi xuống phục vụ tha nhân và lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể
sẽ giúp chúng ta tham dự vào cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu.
Muốn ở lại trong tình thương của Thầy Giêsu,
cần giữ lệnh Thầy truyền (Ga 15, 10).
Mà “đây là lệnh truyền của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).
Hơn nữa, Thầy Giêsu còn cho ta một cách khác để ở lại trong Thầy :
Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi,
và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày lễ của Tình Yêu theo đúng nghĩa nhất.
Yêu là cúi xuống phục vụ, yêu là bẻ đời mình cho tha nhân như Thầy Giêsu.
Ước gì chúng ta được ở lại trong tình yêu của Giêsu nhờ biết yêu.
Cầu nguyện:
Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.
Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.
SUY NIỆM 2: Thánh Thể Bí Tích Phục Vụ
Mẹ Têrêsa thành Calcutta có lần kể lại câu chuyện nầy:
Một hôm có một thiếu nữ tìm đến xin gia nhập Dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ. Theo luật dòng, ngày đầu tiên khi mới đến, tất cả những ai muốn sống trong dòng, cũng đều được mời sang nhà hấp hối – tức là nhà tiếp đón những người sắp chết. Vì thế, cô thiếu nữ nầy được mời sang nhà hấp hối. Mẹ Têrêsa nói với cô ấy:
“Con đã nhìn thấy linh mục dâng Thánh lễ chứ? Con đã thấy ngài sờ đến Thánh Thể với biết bao chăm chú và yêu thương. Con cũng hãy đi và làm như thế tại nhà hấp hối, bởi vì con sẽ tìm thấy Chúa Giêsu trong thân thể những người anh em khốn khổ đó”.
Cô thiếu nữ ra đi… Một thời gian sau, cô trở lại với một nụ cười rạng rỡ có lẽ chưa bao giờ trông thấy. Cô vui vẻ thốt lên với Mẹ Têrêsa: “Thưa Mẹ, con đã sờ được thân thể Chúa trong suốt ba tiếng đồng hồ”.
Mẹ Têrêsa mới hỏi lại sự thể đã diễn ra như thế nào? Cô ta đáp? “Thưa Mẹ, con vừa đến nhà hấp hối thì thấy người ta mang đến một người vừa ngã xuống một hố sâu, mình mẩy đầy những vết thương và bùn đất hôi thối… Con đã đến và con đã tắm rửa cho anh ta. Con biết rằng làm như thế là chạm đến thân thể của Đức Kitô”.
Thưa anh chị em, Thánh lễ là trung tâm của cuộc sống và cuộc sống hằng ngày là một Thánh lễ nối dài. Đức Kitô không chỉ muốn chúng ta gặp gỡ nhau trong Thánh lễ mà còn muốn chúng ta gặp gỡ Ngài qua tất cả mọi sinh hoạt và gặp gỡ khác trong cuộc sống. Từng cuộc gặp gỡ với tha nhân, nhất là những người nghèo hèn nhất, phải là một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô.
Ngay trong bữa tối Thứ Năm Thánh nầy, trước khi lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Việc nầy làm nổi bật một ý nghĩa lớn của Bí tích Thánh Thể, đó là Thánh Thể là bí tích phục vụ. Thánh Thể là phương thế Chúa Giêsu chọn để thể hiện ý muốn phục vụ của Ngài. Để phục vụ, Ngài phải trả một giá rất đắt. Để phục vụ, Ngài đã tự hiến làm lễ vật giao hoà, làm Chiên Vượt Qua chịu sát tế vì sự sống của thế giới. Để phục vụ, Ngài chấp nhận trở nên lương thực cho loài người sử dụng. Thiên Chúa đã trở nên phương thế phục vụ sự sống của con người. Vì “Ngài yêu thương chúng ta đến tận cùng”.
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phục vụ như Ngài. Bởi vì, một khi đã đồng hoá mình với Chúa Giêsu trong Thánh Thể, chúng ta phải sống như Ngài. Nếu không sẵn lòng phục vụ thì đó là dấu chứng chúng ta không thực lòng tham dự Thánh Thể. Không phục vụ là chưa gặp được Chúa Giêsu thật, chưa đón nhận Ngài, chưa thật sự nên một với Ngài. Trái lại, phục vụ là dấu sự sống của Chúa Giêsu Thánh Thể đã thực sự biến đổi chúng ta, làm cho chúng ta nên một con người mới.
Để làm gương mẫu phục vụ cụ thể, Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ và mời gọi chúng ta hãy rửa chân cho nhau: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà con rửa chân cho anh em, thì anh em phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”.
Trong xã hội Do Thái, chỉ có đầy tớ, nô lệ rửa chân cho chủ. Ở đây, Thầy lại rửa chân cho trò. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa đi rửa chân cho con người, mà lại là con người tội lỗi. Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho Phêrô, kẻ chối Thầy; rửa chân cho tất cả những người còn lại là “những kẻ sẽ bỏ Thầy mà trốn chạy hết”.
Ngài làm như vậy để được gì? Không được gì cả! Chỉ để minh chứng một Thiên Chúa là như thế đó: một Thiên Chúa “đến để phục vụ con người và hiến mạng sống để cứu chuộc con người”. Một Thiên Chúa thay vì tiêu diệt bọn tội lỗi, lại quỳ xuống trước mặt họ, hôn chân họ. Một Thiên Chúa thay vì trả thù, lại đã đổ máu để minh chứng sự tha thứ yêu thương. Một Thiên Chúa thật lạ lùng! Một đạo lý ngược đời, một con đường khó bước theo. Thế nhưng, Ngài đã làm và kêu gọi chúng ta cũng làm y như vậy: “Ai muốn làm đầu thì phải hầu thiên hạ. Ai muốn làm lớn thì phải làm tôi tớ mọi người”.
Ở đời, người ta dễ dàng quỳ xuống trước người quyền quý, sang trọng, vì người ta còn hy vọng ở một sự ban bố lợi lộc. Người ta dễ dàng quỳ xuống trước một người đẹp để xin bố thí một chút tình yêu. Và quỳ xuống trước một người thánh thiện để cầu mong một ân huệ. Tất cả những cái quỳ xuống đó là để van xin cho mình, để có lợi cho mình. Nhưng mấy ai quỳ xuống trước kẻ thù, quỳ xuống trước người ốm đau, bệnh tật, quỳ xuống rửa chân lở loét của những người phong cùi!
Còn Chúa Giêsu, Ngài quỳ xuống trước tội nhân. Ngài muốn cái gì đây? Là Thiên Chúa, có khi Ngài còn thiếu thốn gì chăng? Là kẻ ban phát tình yêu, không lẽ Ngài lại thiếu thốn để độ phải van xin? Không, Ngài không van xin gì cả. Quỳ xuống trước mặt con người chỉ vì Ngài quý trọng con người. Ngài yêu thương con người. Ngài muốn cho con người được sống và sống thật hạnh phúc. Khi con người biết sống cho người khác được hạnh phúc là họ đã theo gương rửa chân của Chúa. đây là bài học sống cho người Kitô hữu. Nơi Chúa Giêsu, tình yêu đã chiến thắng tội lỗi của con người, đã vượt lên trên tội lỗi, để phục vụ đến độ hy sinh mạng sống mình cho chính tội nhân.
Anh chị em thân mến, muốn phục vụ như Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải hiến thân như Ngài. Đây là điều khó, điều thường làm chúng ta hoảng sợ, chùn chân không dám đi tới cùng. Nhất là hiến thân vì anh em, rửa chân cho anh em. Tuy nhiên, dù chưa dám làm hoặc chưa làm được, ít nhất chúng ta cũng phải thừa nhận ra rằng; phục vụ và hiến thân là những đòi hỏi không thể thiếu của Bí tích Thánh Thể.
Do đó, trong cuộc sống mỗi ngày, nhất là những khi dự Tiệc Thánh Thể, chúng ta hãy để cho những đòi hỏi đó day dứt trong lòng chúng ta, day dứt như một vết thương không bao giờ lành, khiến cho chúng ta không bao giờ dám an tâm trong hững hờ vị kỷ với mọi người anh em.
SUY NIỆM 3: Bí tích Thánh Thể
Tại một ngôi làng nhỏ bên Tây Đức, trước năm 1940 là nơi gặp gỡ của các danh họa Âu Châu, nhưng kể từ thế chiến thứ hai, nó trở thành nhà tù giam giữ những phạm nhân của Đức Quốc xã, có mặt một Phó tế được phong chức linh mục tại đây. Sau khi chết, ngài để lại chúc thư “Tình yêu và đền bù”. Thế rồi 15 năm sau, nhà tù đó biến thành Dòng kín Carmel, các nữ tu đến đó để sống cho lý tưởng tình yêu và đền bù.
Tình yêu chính là ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể. Trong Bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã quỳ gối rửa chân cho các Tông đồ và cũng trong Bữa tiệc ly Ngài đã thiết lập Bí tích Thánh Thể cũng như loan báo về cái chết của Ngài. Phêrô đại diện các Tông đồ đã có lý khi khước từ Chúa Giêsu rửa chân cho ông vì đây là công việc của tôi tớ trong nhà. Theo tục lệ người Do Thái, trước khi vào bàn ăn tôi tớ trong nhà phải đi rửa chân cho khách. Chúa Giêsu đã muốn thực hiện cử chỉ ấy để thực thi chính điều Ngài đã nói: Con Người không đến để được hầu hạ, những để hầu hạ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhiều người.
Cử chỉ yêu thương mà Chúa Giêsu đã làm cho các Tông đồ là một quyết tâm sống trọn ý nghĩa yêu thương của Ngài, cũng như người tôi tớ không sống cho mình mà cho người khác. Nhưng Ngài chưa lấy làm đủ, Ngài còn biểu lộ tình yêu qua hình ảnh một miếng bánh trao ban để ở mãi với con người. Bị bẻ ra và tiêu tan, Chúa Giêsu đã sống đến cùng những đòi hỏi của yêu thương. Thánh Gioan đã tóm gọn cuộc sống Chúa Giêsu qua câu: “Ngài đã yêu các kẻ thuộc về Ngài và đã yêu đến cùng”, nghĩa là sẵn sàng sống chết cho người mình yêu. Tình yêu đến cùng ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện qua cái chết trên Thập giá, và Ngài còn muốn tái diễn hàng ngày dưới hình dạng Bánh và Rượu trong bí tích Thánh Thể. Cũng như tôi tớ chỉ sống và chết cho người khác, chiếc bánh chỉ hiện hữu để được ăn, được hao mòn, được tiêu tán. Dưới hình thức lương thực, Chúa Giêsu muốn thể hiện tình yêu của Ngài đối với chúng ta; tiếp nhận Ngài qua bí tích Thánh Thể, chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài; ăn uống Ngài, chúng ta cũng được mời gọi nên giống Ngài và san sẻ sự sống của Ngài cho người khác.
Sống và chết cho người khác, nên một với Ngài là thực hiện sứ mệnh của Ngài tức là phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Sứ mệnh phục vụ ấy Chúa Giêsu muốn truyền lại cho chúng ta qua Bí tích Truyền chức Linh mục là người được ủy thác để lặp lại lời của Chúa Giêsu. “Các con hãy làm việc này, mà nhớ đến Ta”. Làm việc này không những là cử hành Bí tích Thánh Thể để Chúa Giêsu luôn ở mãi giữa nhân loại, mà còn chu toàn sứ mệnh phục vụ của Ngài. Không chỉ riêng linh mục, nhưng tất cả những ai nhờ phép rửa được tháp nhập vào sự sống Đức Kitô, nghĩa là mọi kitô hữu trong lời nói và hành động cũng yêu thương và chết để nhớ đến Ngài. Mỗi cử chỉ và hành vi bác ái đều là một nghĩa cử tưởng nhớ đến Chúa Giêsu, đều là một tiếp tục, hay đúng hơn là một hiến lễ được dâng trên bàn thờ.
Tưởng nhở việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể và truyền chức linh mục trong ngày thứ năm tuần thánh, chúng ta nhớ đến cách đặc biệt các linh mục. Xin Chúa ban cho các ngài luôn trung thành với sứ mệnh phục vụ. Xin cho tình yêu Chúa luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta để chúng ta cũng sống yêu thương và phục vụ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Bí Tích Thánh Thể.
Bài Giảng của ÐTC Gioan Phaolô II trong Thánh Lễ Tiệc Ly (Thứ năm Tuần Thánh năm 2002)
1. "Vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1).
Những lời trong bản văn Tin Mừng vừa được công bố nhấn mạnh rõ ràng bầu khí Ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Những lời này cho chúng ta một cái nhìn thấu suốt bên trong điều Ðức Kitô cảm nhận "trong đêm bị phản bội" (1Cor 11,23), và những lời này linh hứng chúng ta tham gia sốt sắng với lòng cảm tạ của mỗi người trong nghi thức long trọng mà chúng ta đang cử hành.
Chiều nay, chúng ta bắt đầu cuộc Vượt Qua của Ðức Kitô, biến cố hình thành nên giây phút bi đát và chung cuộc cho sự hiện diện trần thế được chuẩn bị và mong đợi từ lâu của Ngôi Lời. Ðức Giêsu đã đến giữa chúng ta không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ, và Ngài mang trên vai những thăng trầm và hy vọng của nhân sinh trong mọi thời đại. Tiên đoán trước cách nhiệm mầu về lễ hy sinh trên Thánh Giá, tại phòng Trên Gác, Ngài muốn ở lại với chúng ta trong hình bánh và rượu, và ký thác cho các môn đệ cũng như những người tiếp bước các ngài sứ mạng và quyền năng để làm sống mãi kỷ niệm sống động và rõ nét về biến cố đó trong bí tích Thánh Thể.
Việc cử hành này, vì vậy, lôi cuốn cách nhiệm mầu tất cả chúng ta và đưa chúng ta vào Tam Nhật Thánh, thời gian trong đó chúng ta cũng sẽ học từ Ðấng "là Thầy và là Chúa" để "giang cánh tay chúng ta ra" và đi ra bất cứ nơi đâu chúng ta được kêu gọi thực thi di chúc của Cha trên trời.
2. "Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy" (1Cor 11,24-25)
Với lệnh truyền thúc giục chúng ta lặp lại cử chỉ của Ngài, Ðức Giêsu hoàn tất việc thiết lập Bí Tích của Bàn Thờ. Khi Ngài rửa chân xong cho các môn đệ, một lần nữa, Ngài mời gọi chúng ta hãy bắt chước Ngài: "Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con" (Ga 13,15). Bằng cách này, Ngài thiết lập một sự liên kết thân mật giữa bí tích Thánh Thể, bí tích của quà tặng hy sinh của Ngài, và huấn lệnh yêu thương khiến ta chào đón và phục vụ anh chị em mình.
Việc dự phần vào bàn tiệc của Chúa không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh chị em chung quanh ta. Mỗi lần chúng ta tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng nói "Amen" trước Mình và Máu Thánh Chúa. Khi làm như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là "rửa chân" cho anh chị em mình, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng "đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ" (Phil 2,7).
Tình yêu là di sản cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Ngài kêu gọi theo Ngài. Chính tình yêu của Ngài, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.
3. "Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình" (1Cor 11,29).
Thánh Thể là một ban tặng cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.
Truyền thống của Giáo Hội luôn nhấn mạnh đến sự liên kết giữa bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải. Tôi cũng muốn tái xác nhận điều này trong Thư Gởi Cho Các Linh Mục Ngày Thứ Năm Tuần Thánh năm nay, bằng cách mời gọi các linh mục trên hết hãy tái khám phá vẻ đẹp của Bí Tích Thứ Tha. Chỉ có cách này các ngài mới có thể giúp các tín hữu, những người được phó thác cho sự chăm sóc mục vụ của các ngài, tái khám phá Bí Tích này.
Bí tích Hòa Giải tái tạo lại cho những người đã chịu phép rửa tội ân sủng thánh thiện mà họ đánh mất do những tội trọng, và làm cho họ xứng đáng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Hơn thế nữa, qua cuộc đối thoại trực tiếp xảy ra thông thường khi cữ hành bí tích này, bí tích này còn đáp ứng nhu cầu truyền thông cá nhân, một điều mà ngày nay, càng ngày càng trở nên khó khăn như một hệ quả của bước tiến cuồng nhiệt của xã hội kỹ thuật.
Qua hành động soi sáng và kiên nhẫn của mình, cha giải tội có thể đem hối nhân vào trong sự hiệp thông sâu sắc với Ðức Kitô, sự hiệp thông do Bí Tích này phục hồi và Bí Tích Thánh Thể đưa đến mức đầy hoa trái.
Cầu mong sao cho sự tái khám phá Bí Tích Hòa Giải giúp tất cả các tín hữu tiến gần đến bàn tiệc Mình và Máu Thánh Chúa trong niềm kính trọng và với lòng sốt mến.
4. "Vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1)
Chúng ta hãy trở lại Phòng Trên Gác trong tinh thần! Nơi đây chúng ta tìm thấy lại chính chúng ta trong đức tin chung quanh Bàn Thờ của Chúa, khi chúng ta cử hành Bữa Tiệc Ly. Lặp lại những cử chỉ của Ðức Kitô, chúng ta công bố rằng cái chết của Ngài đã cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và tiếp tục mạc khải niềm hy vọng về một tương lai của ơn cứu độ cho những người nam, người nữ của mọi thời đại và của mọi nơi chốn.
Các linh mục được kêu gọi để tiếp tục nghi thức mà, dưới hình bánh và rượu, thể hiện lễ hy sinh của Ðức Kitô, trung thực, thật sự và thiết thực, cho đến ngày sau hết. Tất cả các Kitô hữu được mời gọi để trở nên những đầy tớ khiêm hạ và tế nhị của anh chị em họ, để hợp tác trong ơn cứu độ của họ. Chính là nhiệm vụ của mỗi tín hữu phải công bố qua chính cuộc sống của họ rằng Con Thiên Chúa đã yêu thương chính họ "đến cùng". Chiều nay, trong sự yên lặng đầy nhiệm mầu, đức tin chúng ta được nuôi dưỡng.
Hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, chúng con công bố cái chết của Ngài: Lạy Chúa, Ðầy lòng biết ơn, chúng con đã nếm niềm vui sự phục sinh của Ngài. Ðầy lòng tín thác, chúng con cam kết sống trong niềm trông mong Ngài lại đến trong vinh quang. Hôm nay và mãi mãi, Lạy Chúa Kitô, Ðấng Cứu Chuộc chúng con. Amen!
+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng
Suy Niệm 5: Hãy nghe Người
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
niệm
SUY NIỆM 6: ĐỈNH CAO CỦA MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ LÀ TÌNH YÊU
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong cuộc sống, nơi các gia đình, nhất là văn phong của Việt Nam, chúng ta rất coi trọng bữa ăn. Nơi bữa ăn, niềm vui, nỗi buồn, thành công hay thất bại, thường hay được giải quyết. Có những bữa ăn để chia tay; có những bữa ăn để lên đường. Chia tay hoặc lên đường thường hay để lại nhiều kỷ niệm nơi người đi và kẻ ở!
Hôm nay, Đức Giêsu quy tụ các Tông đồ là những người thân tín với Ngài trong suốt chặng đường rong ruổi loan báo Tin Mừng. Ngài quy tụ họ, để trao lại cho họ một tặng phẩm thần linh là Bí tích Thánh Thể và truyền cho các ông hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Ngài. Qua đó, như một sự hiện hữu sau khi chết, để khi còn sống, Đức Giêsu ở cùng với các ông thế nào, thì ít ngày nữa thôi, Ngài cũng hiện diện và ở lại với các ông cách vô hình nhưng trọn vẹn nơi Bí tích cao trọng là chính Thánh Thể Ngài. Mặt khác, qua bữa tiệc này, phần cuối cùng của bữa tiệc, Đức Giêsu hành động và trăng trối những lời tâm huyết để xây dựng cộng đoàn Giáo Hội đó là: “Luật yêu thương”.
1. Một tặng phẩm cao quý được trao tặng
Nếu trong cuộc sống, hai người yêu nhau, họ thường có những lời lẽ chân tình, ấm áp để thể hiện tình yêu của mình cho người mình yêu. Khi đi xa, người ta hay trao tặng cho nhau những kỷ vật trân quý, để dù xa mặt chứ lòng thì không. Qua món quà đó, với người đón nhận thì tặng vật đó không chỉ đơn thuần là một kỷ niệm, nhưng nó còn là sự hiện hữu của chính người tặng quà.
Cũng vậy, khi Đức Giêsu biết “giờ” của mình sắp trở về với Thiên Chúa Cha, nên Ngài đã yêu thương họ đến cùng khi trao ban chính thân mình làm của nuôi sống môn sinh.
Chiều hôm nay, chúng ta kỷ niệm việc Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể. Đây là Bí tích cao trọng nhất trong 7 Bí tích. Cao trọng bởi vì qua Bí tích này, Đức Giêsu hiến dâng thân mình làm của ăn của uống để nuôi sống nhân loại và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài yêu thương và yêu hết mình. Yêu đến nỗi bằng lòng chịu chết để miễn sao người mình yêu được hạnh phúc.
Thật vậy, Ngài đã trao ban chính Thân Mình làm bảo vật, để mỗi khi các Tông đồ cũng như những người tin, cử hành và tưởng nhớ, thì Ngài hiện diện cách trực tiếp nơi mầu nhiệm cử hành. Khi đó, Đức Giêsu trở nên đồng hình đồng dạng với người đón nhận, để từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Ôi, còn gì cao quý và hạnh phúc cho bằng ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa với Đấng là Thiên Chúa nhưng lại chia sẻ thân phận con người với chúng ta!
Lời cầu nguyện của Đức Giêsu với Chúa Cha làm toát lên đặc tính kỳ diệu này:“ … như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,21). Giáo Hội tiếp diễn ý nghĩa hiệp thông với mọi thành phần khi đã liên kết với Đức Giêsu, qua Kinh Tiền Tụng Thánh Thể: “Chúng con nài xin Chúa cho chúng con khi thông phần Mình và Máu Đức Kitô, được quy tụ nên một nhờ Chúa Thánh Thần”.
Qua Bí tích này, mỗi người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa thông qua bản thể Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, đồng thời cũng được liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một thân thể.
2. Một dấu tích sống động được tiếp diễn
Sau khi Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể, ngài đã thiết lập Bí tích Truyền Chức liền sau đó như một sự liên hệ, liền mạch và mật thiết với nhau. Đúng thế, không thể có Thánh Thể nếu không có người cử hành Thánh Thể. Vì thế, Đức Giêsu đã trao ban thừa tác vụ đặc biệt cho các Tông đồ, để sau này, các ông sẽ đảm trách những việc làm như Đức Giêsu vừa làm cho đến ngày tận thế.
Thoạt mới nghe, chúng ta dễ tưởng lầm là Bí tích này chỉ có liên hệ hay dành riêng cho các linh mục? Nhưng không! Bí tích này liên hệ chặt chẽ với cộng đoàn, bởi vì Bí tích này thuộc về nhóm Bí tích xây dựng cộng đoàn.
Thật thế, chức vụ linh mục không phải cho bản thân mình, vì các ngài không thể tha tội cho mình, các ngài cũng không thể ban phát các Bí tích cho mình. Vì thế, linh mục là của mọi người, cho mọi người và vì mọi người.
Nếu Đức Giêsu trước kia đã đến để cho con chiên được sống dồi dào, thì ngày nay các linh mục cũng được trao ban trách vụ như thế. Ôi huyền nhiệm và cao quý vô lường! Qua Bí tích Truyền Chức, Đức Giêsu hiện diện cách trực tiếp khi các linh mục cử hành phụng vụ trong vai trò đại diện cho Đức Giêsu là Đầu của thân thể. Và, như thế, mỗi người chúng ta luôn được các ngài chăm sóc, nên không bị rơi vào tình cảnh bơ vơ, mồ côi vì không người chăn dắt. Các ngài sẽ thay mặt Chúa, thi hành việc của Chúa trong vai trò lãnh đạo, phục vụ và thánh hóa vì tình yêu.
3. Một lời trăng trối tâm huyết muôn đời nhớ mãi
Cũng chiều hôm nay, mỗi chúng ta quây quần nơi đây, để nghe đọc lại di ngôn và lệnh truyền của Đức Giêsu về tình yêu. Lệnh truyền này mang tính khẩn trọng, người môn đệ phải có thái độ mau mắn thi hành. Vì thế, đòi hỏi một sự bất khả từ, bởi lẽ đây là điểm sáng, là cốt lõi, là bản chất thiết yếu của người mang danh Đức Kitô trong mình.
Thật vậy, Đức Giêsu không chỉ trao ban chính Thân Mình để nuôi sống nhân loại, mà Ngài còn dạy cho các Tông đồ bài học về tình yêu, để đưa các ông vào qũy đạo của chính Ngài là “yêu và yêu đến cùng”.
Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu như Thầy là yêu như thế nào? Thưa yêu như Thầy chính là trở thành người tôi tớ phục vụ, là chấp nhận chết cho người khác được sống. Không những dạy các ông bằng lời, mà Ngài còn làm gương cho các ông noi theo. Vì thế, ngay lập tức, Ngài đứng lên, cởi áo choàng, thắt lưng, lấy nước rửa chân cho từng Tông đồ trước sự ngỡ ngàng của các ông. Ngỡ ngàng là phải, vì hành vi rửa chân là việc làm của người nô lệ dành cho ông chủ. Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã làm đảo lộn vai trò và vị trí khi tự làm những việc dành cho người hầu hạ, và các Tông đồ trở nên những ông chủ.
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Đức Giêsu nói tiếp: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 14-15). Qua hành động rửa chân cho các Tông đồ, Đức Giêsu để lại cho các ông bài học về đức khiêm nhường và phục vụ. Tuy nhiên, để thực hiện được hai nhân đức này thì cần phải có tình yêu làm động lực.
Tình yêu thương được hiện lên như một ngọn hải đăng giữa biển khơi tăm tối, giúp cho mọi người nhận ra đường để đi và đi đến nơi an toàn. Vì thế Đức Giêsu đã dạy cho các ông biết trước viễn cảnh trong tương lai khi nói: “… mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35).
4. Sống linh đạo Thánh Thể và thực hiện lời trăng trối của Đức Giêsu
Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11, 26).
Là người kitô hữu, chúng ta tin Chúa, yêu Chúa và đều mong muốn được ơn cứu độ, thì không có lẽ gì chúng ta không sống linh đạo Bí tích này.
Nếu muôn ngàn hạt lúa kết thành tấm bánh, bao trái nho ép thành chén rượu, tượng trưng cho sự hiệp nhất của con cái Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng phải hiệp nhất với nhau như vậy.
Muốn được như thế, tinh thần sống mầu nhiệm tự hủy của hạt lúa, trái nho luôn mời gọi và thôi thúc chúng ta thi hành.
Trong đời sống gia đình, người chồng phải là người chồng mẫu mực, sẵn sàng hy sinh gánh vác vì tình yêu với vợ và các con. Người vợ hãy hết lòng lo cho con cái, chăm lo cho chồng và con tử tế. Con cái biết ngoan ngoãn nghe lời cha mẹ… Làm được như thế, ấy là chúng ta đang thực hiện di ngôn của Đức Giêsu trong tinh thần hy sinh và phục vụ.
Nếu không yêu thương nhau, thì chẳng khác chi hạt lúa mì trơ trọi một mình, không sinh hoa trái. Nhưng yêu thương những người lân cận với mình thôi thì chưa đủ, mà phải yêu thương hết mọi người như Đức Giêsu đã yêu. Ngài đã không loại trừ Giuđa là kẻ rồi đây sẽ bán mình; không bỏ lại Phêrô là người sẽ thề sống thề chết không biết mình; không lên án và trách móc những người hại mình, mà: “Lạy Chúa, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34)
Mong sao sứ điệp Lời Chúa hôm nay luôn ở bên tai, qua hành động và trong trái tim của chúng ta, để chúng ta yêu và yêu không giới hạn như Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa đã để lại cho chúng con Bí tích kỳ diệu là chính Thánh Thể Chúa làm của ăn của uống cho mỗi chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến, tin tưởng và mau mắn loan truyền cho tới khi Chúa đến trong vinh quang. Xin cũng cho mọi suy nghĩ và hành động của chúng con được tình yêu làm căn cốt và thúc đẩy, để như Chúa, chúng con yêu rồi mới làm. Amen..
SUY NIỆM 7: ĐÔI TAY BIỂU TƯỢNG TÌNH YÊU
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Đã nhiều lần chúng ta nhìn thấy bức tranh vẽ hay điêu khắc đôi bàn tay gầy guộc chắp vào nhau hướng lên trời. Nhiều người chỉ biết rằng đây là biểu tượng của cầu nguyện. Thực ra, đôi bàn tay này do một người em đã vẽ bàn tay người anh. Một bàn tay vất vả hy sinh lao động để nuôi em ăn học.
Chuyện kể rằng có một gia đình nghèo gồm 18 người con. Hai người con lớn trong nhà đều chung ước mơ trở thành họa sĩ. Nhà nghèo nên họ quyết định chỉ một người đi học. Họ sẽ tung một đồng xu. Người thua sẽ làm thợ mỏ, dùng toàn bộ thu nhập để chu cấp cho người thắng đi học. Sau này thành tài người thắng sẽ giúp ngược lại.
Đồng xu được tung lên, người em thắng cuộc và được đi học. Người anh trong suốt 4 năm, làm lụng để nuôi người anh em của mình ăn học. Sau 4 năm thành họa sĩ nổi danh, người em muốn thực hiện lời cam kết ngày nào nên trong bữa ăn sum họp, người em đứng dậy để cảm ơn người anh trai đã hy sinh 4 năm giúp mình hoàn thành được ước mơ. Người em nói:
– Anh Albert, bây giờ đã đến lượt anh. Anh hãy theo đuổi ước mơ của mình. Em sẽ lo toàn bộ chi phí và chăm sóc gia đình. Albert mỉm cười, rồi bật khóc:
– Không, anh không thể vẽ được nữa. Đã quá muộn rồi. Bây giờ, sau 4 năm làm việc trong hầm mỏ, không còn ngón tay nào của anh là lành lặn. Thậm chí bây giờ anh còn bị thấp khớp ở tay phải nặng tới mức không thể nâng nổi một chiếc ly, nói gì đến việc cầm cọ vẽ. Cảm ơn em, nhưng bây giờ đã quá muộn rồi…
Trước tình yêu quá cao vời của anh, người em đã thực hiện một tác phẩm cẩn thận nhất trong đời: vẽ lại đôi bàn tay của anh trai mình, với lòng bàn tay hướng vào nhau và những ngón tay gầy guộc hướng lên trời. Ông chỉ gọi bức tranh của mình đơn giản là “Đôi tay”, nhưng cả thế giới đều đặt tên cho kiệt tác đó là “Đôi tay cầu nguyện”.
Xem ra đôi bàn tay còn có ý nghĩa là trao ban, là hy sinh cho người mình yêu. Đôi bàn tay ấy đã nâng ước mơ cho người em thành tài trong cuộc đời.
Hôm nay thứ năm tuần thánh cũng mời gọi chúng ta chiêm ngắm một tình yêu tự hiến qua hình ảnh tấm bánh bẻ ra để trao ban. Chúa Giê-su đã lưu dấu mãi tình yêu tự hiến cho người mình yêu. Ngài muốn chúng ta mỗi khi ăn tấm bánh ấy phải loan truyền tình yêu tự hiến của Ngài đến muôn đời. Một tình yêu cho đi mà không mong đền đáp. Một tình yêu hiến dâng quên đi cả tính mạng của mình. Một tình yêu chịu nghiền nát thành của ăn cho người mình yêu.
Trong bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ, Chúa đã chọn tấm bánh như một biểu trưng, một dấu chỉ cho cả cuộc đời mình. Tấm bánh được làm nên là vì sự sống, vì niềm vui của người khác mà không bao giờ là cho chính bản thân mình. Có thể đó là tấm bánh đơn sơ, dân dã đem lại niềm vui cho trẻ thơ mỗi khi mẹ đi chợ về. Có thể đó là tấm bánh nhỏ bé nhưng vô cùng cần thiết, đem lại sức sống cho người đang đói lả. Bánh có thể được đặt trang trọng trên những bàn tiệc thịnh soạn. Bánh có thể được nâng niu trên đôi tay gầy gò, run rẩy của người hành khất bên vỉa hè. Như thế, Bánh không kén chọn người ăn, và dù là cao cấp hay bình dân, bánh được làm ra là để cho đi chính mình, trao tặng chính mình, để trở nên niềm vui và sức sống cho người khác. Chúa Giêsu đã trở nên tấm bánh thật vừa với tầm tay của tất cả hạng người.
Thật đơn sơ nhưng cũng vô cùng sâu xa, vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến. Khi xưng mình là bánh, Chúa Giêsu muốn bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, chịu tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu nhỏ đi để con người được lớn lên. Chúa chịu hủy hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa chịu chết cho ta được sống.
Hơn ba mươi năm đi khắp nẻo đường đời và trên đỉnh cao thập tự giá, Ngài đã sống như một tấm bánh. Tấm Bánh được bẻ ra và trao tặng như một cử chỉ yêu thương. Ngài trở nên Tấm Bánh như một lời mời gọi: “Anh em cầm lấy mà ăn”. Ngài trở nên tấm bánh để từ đây, Thiên Chúa có thể ở lại mãi với con người.
Hôm nay chúng ta kỷ niệm ngày Chúa lập bí tích Thánh Thể. Bí tích của tình yêu tự hiến. Qua tấm bánh đơn sơ nhưng nói lên tình yêu hiến dâng của Thầy Chí Thánh Giê-su chấp nhận tan biến cho người mình yêu.
Xin cho chúng ta nhận ra tình yêu vô biên của Chúa để sống ngàn đời tri ân. Xin cho cuộc đời chúng ta cũng biết tự hủy chính mình như tấm bánh đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người mình yêu. Amen.
SUY NIỆM 8: LÒNG THƯƠNG XÓT TỎA SÁNG
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong cái nắng chói chang của sa mạc, người lữ hành vẫn tìm được những ốc đảo có cây cối xum xuê bởi có nguồn nước. Trong cánh đồng khô hạn, thỉnh thoảng người nông dân vẫn bắt gặp những bụi cây ngọn cỏ xanh tươi. Trong một xã hội đầy rẫy sự ác và bất công, người ta vẫn có thể thấy được những tấm lòng bao dung, nhân ái. Cũng vậy, đọc các bài đọc của ngày thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta có cảm tưởng như bóng tối của sự dữ, sự ác đang bao trùm, nhưng trong khung cảnh tối tăm đó, lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn luôn tỏa sáng.
Câu chuyện xuất hành xảy ra vào thời điểm con cái Israel bị lưu đày tại Aicập. Tương lai của họ như mờ mịt bởi sự đàn áp của các Pharaon. Trong cảnh cùng cực đó, Thiên Chúa là người cha, đã nghe thấu tiếng than khóc của dân con Ngài. Thiên Chúa đã đem đến cho họ một tương lai tươi sáng qua cuộc xuất hành. Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh để bênh vực dân Ngài đã chọn. Để đánh dấu cuộc giải thoát vĩ đại này, Thiên Chúa đã chỉ thị cho Israel phải cử hành một nghi lễ sát tế con chiên vượt qua, lấy máu bôi lên khung cửa. Dấu máu này cho thấy họ thuộc về dân của Thiên Chúa và ai bôi máu chiên lên cửa thì sẽ được giải thoát. Trong đêm đó, Thiên Chúa sẽ đi ngang qua đất Aicập, nhà nào có dấu máu chiên, Thiên Chúa sẽ vượt qua và chúc phúc cho họ, nhà nào không có dấu máu chiên thì sẽ bị tru diệt.
Cuộc xuất hành cùng với nghi lễ ăn tiệc chiên vượt qua đã trở thành niềm tin ăn sâu vào đời sống của người Do Thái. Tất cả mọi người Do Thái đều nhìn biến cố này như một biến cố Thiên Chúa tỏ lòng xót thương đối với họ. Con chiên vượt qua và máu chiên là đấu chỉ cứu dân khỏi chết, đã trở thành biểu tượng rất thiêng liêng mà dân Israel đều ghi nhớ khi tham dự lễ vượt qua hàng năm.
Cũng trong truyền thống đạo đức này, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ bước vào bữa tiệc vượt qua. Nếu nghe câu truyện, chúng ta có cảm giác như bóng tối của sự dữ, sự ác đang bao trùm cả không gian qua con người của Giuda, một kẻ đang bị ma quỷ sử dụng. Trong bầu khí rất cảm động và linh thiêng của bữa tiệc ly, Chúa Giêsu biết trước những gì sắp xảy ra cho mình, nên Ngài đã dành tất cả thời gian còn lại trên trần gian để bộc lộ tình thương của Ngài dành cho các môn đệ và cho nhân loại. Từng cử chỉ, từng hành động của Chúa Giêsu là từng cử chỉ, hành động của tình yêu và lòng thương xót đến cùng, là hành động yêu thương của một người thầy dành cho học trò, của một người cha dành cho các con trước lúc ra đi.
Trong bữa ăn đó, Chúa Giêsu đã thực hiện một việc rất lạ lùng. Ngài cầm bánh và chén trao cho các tông đồ và nói với các ông : Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con, các con hãy cầm lấy mà ăn. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước Mới, đổ ra để tha tội, các con hãy cầm lấy mà uống và hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Hành động này vượt quá sức tưởng tượng của các tông đồ, có lẽ ngay lúc ấy, các ông cũng chưa thể hiểu hết những việc Chúa làm. Qua việc biến bánh và rượu trở nên thịt máu Ngài, Chúa Giêsu muốn được ở lại và ở mãi bên những người mà Ngài yêu thương. Ngài muốn chúng ta đón nhận Ngài như là của ăn, để Ngài có thể đi vào trong tâm hồn từng người, làm nên chất dinh dưỡng nuôi sống con người.
Do tình yêu và lòng thương của một người thầy, người cha thúc đẩy, Chúa Giêsu không còn nghĩ gì đến bản thân mình, Ngài muốn thể hiện đến tận cùng lẽ yêu thương. Không chỉ trở nên của ăn để ở lại mãi với nhân loại, Chúa Giêsu còn trao cho các tông đồ quyền : Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã thiết lập nên chức Linh Mục, trao cho các tông đồ quyền nhân danh Ngài để tiếp tục nối dài tình yêu thương và sự hiện diện của Ngài với nhân loại. Trao cho các tông đồ quyền thể hiện lòng thương xót và sự hy sinh của mình, Chúa Giêsu đã chấp nhận trở nên hoàn toàn lệ thuộc vào các ông. Từ đây, khi các ông làm như Chúa đã làm, thì Chúa hiện diện trong việc làm của các ông. Mặc dù Chúa biết rất rõ, các tông đồ là những kẻ yếu đuối và đầy giới hạn, nhưng Chúa vẫn chọn các ông là những linh mục đầu tiên, để qua sự giới hạn bất toàn của các tông đồ và của các linh mục ngày nay, lòng thương xót của Chúa lại tiếp tục được trao ban cho thế giới.
Các tông đồ chưa hết bất ngờ bởi việc bẻ bánh Chúa Giêsu vừa thực hiện thì lại đến bất ngờ khác. Thánh Gioan thuật lại : Ngài yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng. Yêu đến tột cùng là không còn giới hạn, không còn tiếc gì và cũng không còn giữ lại điều gì cho riêng mình. Tình thương này không chỉ dành cho những người ưu tuyển, nhưng dành cho tất cả mọi người, kể cả Giuđa, kẻ đang bị ma quỷ điều khiển. Chúa Giêsu đã chỗi dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu và cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Với hành động này, Chúa Giêsu để cho lòng thương xót vượt trên tất cả, phủ lấp tất cả. Ngài không còn nghĩ gì đến địa vị của một người Thầy. Ngài đã cúi xuống để rửa chân cho các tông đồ, trong đó có Giuđa, kẻ đang nuôi trong lòng sự phản bội mà Chúa Giêsu đã biết.
Simon Phêrô và các tông đồ hết sức ngỡ ngàng đến độ không chấp nhận : Thưa Thầy, không thể như thế, Thầy không thể rửa chân cho con. Đối với người Do Thái, việc rửa chân là việc của nô lệ làm cho chủ, người tự do và con cái không phải làm việc này. Vậy mà, Chúa Giêsu đã xóa hẳn vị thế của mình là một người Thầy, để cúi xuống rửa chân cho các học trò. Điều này vượt quá lý lẽ thông thường của con người, nhưng với lý lẽ của tình yêu và lòng thương xót, thì việc làm này lại là việc làm có lý lẽ riêng của nó.
Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, trở về chỗ và nói : Anh em gọi Thầy là thầy, là Chúa, điều đó là phải. Vậy nếu Thầy là thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Bài học từ việc cúi xuống rửa chân đến đây đã rõ. Chúa Giêsu muốn dạy các ông bài học về sự phục vụ. Vì trở thành môn đệ của Chúa, thành những người nối dài tình yêu và lòng thương xót của Chúa, không phải để các tông đồ tìm kiếm một địa vị quyền lợi theo kiểu thế gian, nhưng là phải chấp nhận cởi bỏ con người của mình. Cởi bỏ con người tức là cởi bỏ địa vị, quyền lực, tham vọng, cởi bỏ cả cái tôi kiêu căng và thói tự ái, để có thể cúi xuống phục vụ anh em.
Sự phục vụ mà Chúa Giêsu mong muốn chúng ta làm không phải chỉ là sự phân phát bố thí, nhưng phải làm tất cả những việc đó bằng trái tim yêu thương và bằng sự trân trọng, tôn trọng anh em. Phục vụ tất cả mọi người không trừ ai, kể cả những người đang thù ghét và tìm cách hại mình, như Giuđa đang nuôi trong mình sự phản bội. Anh em cũng phải rửa chân cho nhau, Anh em hãy làm như Thầy đã làmkhông chỉ là một lời mời, mà là một đòi buộc đối với người môn đệ của Chúa. Chúa muốn những ai theo Chúa cũng phải dám cúi xuống để rửa chân phục vụ anh em mình. Chỉ khi dám cúi xuống mới có thể phục vụ đúng theo gương của Thầy Giêsu, chỉ khi cúi xuống chúng ta mới có thể nhìn thấy những nhu cầu của anh chị em để có thể cảm thông và chia sẻ.
Thưa quý OBACE, cử hành lễ Tiệc Ly hôm nay, chúng ta chiêm ngắm và cảm nhận một tình yêu trao ban đến tận cùng của Chúa Giêsu. Ngài đã ban tặng máu thịt làm của ăn của uống nuôi nhân loại. Ngài còn trao ban cả tự do và trọn con người của mình cho các tông đồ, khi lập Bí tích Truyền Chức. Ngài trao cho các ông quyền làm cho Ngài được hiện diện cách bí tích nơi trần gian cho đến ngày tận thế. Trước tình yêu trao ban lớn lao như thế, chúng ta được mời gọi đáp lại bằng việc đón rước Ngài một cách quảng đại, để cho Ngài đi vào tâm hồn và cuộc đời, để cho Ngài chiếm hữu và làm chủ đời ta.
Chúng ta cũng cầu nguyện cho các linh mục, các ngài chỉ là người phàm, mang đầy yếu đuối, nhưng lại được chọn để chia sẻ vào quyền năng của Thiên Chúa. Các linh mục được mời gọi để nhân danh Chúa, yêu thương và tiếp tục hiến tế cuộc đời mình cho anh em, theo gương Thầy Giêsu. Các linh mục đang từng ngày thánh hiến bản thân, nhưng vẫn không giũ hết khỏi mình sự lấm lem do yếu đuối. Chúng ta thông cảm, nâng đỡ và cầu nguyện cho các ngài.
Xin cho chúng ta thấm nhuần bài học phục vụ Chúa đã nêu gương, để trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng biết dẹp khỏi mình sự kiêu căng xét đoán, sự dửng dưng vô cảm, để biết cúi xuống phục vụ anh chị em. Xin cho chúng ta có một đôi mắt thật sáng để có thể nhìn thấy những nhu cầu và những đau khổ của anh em, để có thể có cái nhìn cảm thông. Xin cho chúng ta có một đôi tay giang rộng để có thể ôm ấp mọi người, để xoa dịu những đau khổ của kiếp người. Xin cho chúng ta có một đôi chân dẻo dai để có thể bước đến với anh em, xóa bỏ mọi ngăn cách nghi kỵ, hờn dỗi, để có thể đem tình yêu thương của Chúa đến cho họ. Amen.
SUY NIỆM 9: SUY NIỆM THỨ NĂM TUẦN THÁNH
Lm. Giuse Trực
Chiều hôm nay có thể gọi một cách văn hoa là “chiều ly biệt”. Nhưng tôi thích gọi là “buổi chiều xé nát con tim”. Quả thật buổi chiều hôm nay làm cho con tim của Chúa phải nhiều lần chết nghẹt vì xúc động. Tất cả chỉ vì Ngài quá yêu thương: “Đức Giêsu biết giờ của người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thượng họ đến cùng” (Ga 12, 1).
Trước tiên là sự kiện Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể. Đây là sáng kiến độc nhất vô nhị trong toàn thể vũ trụ này. Chỉ một mình Thiên Chúa với tình yêu thương mới có thể nghĩ ra cách thức để được ở lại với con người. Đây là một tình yêu hiến mình.
Kế đến là việc Chúa Giêsu lập bí tích Truyền chức thánh để thông ban chức linh mục cho một số người Chúa tuyển chọn, với mục đích có người là hình ảnh của Chúa ở trần gian này, và thực hiện hành động ban phát lương thực là chính Mình Máu Ngài để nuôi sống những con người yêu thương, muốn sống gắn bó với Ngài. Đây là một tình yêu trao ban.
Cuối cùng là hành động quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ như một người đầy tớ phục vụ cho chủ mình. Chúa muốn để lại cho các môn đệ và mỗi người chúng ta bài học về tình yêu phục vụ.
Lạy Chúa, đứng trước tình yê hiến mình, tình yêu trao ban và tình yêu phục vụ, con được mời gọi đáp trả lại tình yêu của Chúa để trở nên giống Chúa trong việc hy sinh hiến mình, trong việc trao ban tình yêu và phục vụ tha nhân. Con hy sinh cho gia đình con. Con trao ban hết tình yêu của con cho những người mà con gặp gỡ, nhất là những người thân trong gia đình. Con phục vụ hết thảy mọi người trong môi trường con đang sống. Lạy Chúa xin cho con biết lấy tình yêu đáp đền tình yêu. Cũng xin cho con biết lấy tình yêu xóa bỏ hận thù và khơi thông tình thương mến.
SUY NIỆM 10: KỶ VẬT TÌNH YÊU
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể do Chúa Giêsu thiết lập vào sau bữa tối cuối cùng với các Tông Đồ trong nhà Tiệc Ly, trước đêm hấp hối trong Vườn Cây Dầu, để muôn đời tưởng nhớ tới sự hiện diện thực sự của Người giữa chúng ta. Đây là Thánh lễ sau hết được cử hành trước Đêm Vọng Phục Sinh Thứ Bẩy Tuần Thánh. Vì là Lễ sau hết nên lúc hát Kinh Vinh Danh, các chuông nhà thờ reo lên, và sẽ chỉ reo lại vào đúng lúc hát Kinh Vinh Danh trong Đêm Vọng Phục Sinh. Sau Thánh lễ chiều nay, các khăn bàn thờ đều được lột sạch, các chân nến và thánh giá được cất đi, người ta không còn trưng hoa nữa để loan báo ngày đại tang của Giáo hội và cũng ngụ ý nói rằng, Giáo hội không cử hành lễ nào nữa cho đến ngày Chúa Kitô sống lại.
Cử hành Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là mục đích của Tam Nhật Vượt Qua. “Chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại ; chính Người giải thoát và cứu độ ta” ( Ca nhập lễ ).
“Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1-2). Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ, thì Người đã yêu họ đến cùng một cách kinh ngạc. Thật không có hành động nào khác để diễn tả yêu thương cho bằng tình yêu. Cũng như các môn đệ, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi không có ngòi bút nào trên trần gian này có thể diễn tả hoặc viết ra hết được tình yêu thương ấy, trong những ngày cuối đời của “kiếp người” lầm than và cay đắng. Vì yêu, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, lấy chính Thịt Máu Mình làm của ăn của uống nuôi dưỡng chúng ta. Để tiếp tục yêu thương và tha thứ, Chúa thiết lập thiên chức Linh mục đời đời. Và cũng chính hôm nay, Chúa truyền dạy chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu. Tất cả chẳng phải là Kỷ Vật Tình Yêu Thiên Chúa để lại cho chúng ta đó hay sao?
“Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta… Các con hãy cầm lấy mà uống,chén này là Tân ước trong Máu Ta” (1 Cr 11, 24-25). Thật không thể hiểu nổi, Thiên Chúa yêu nhân loại biết là chừng nào. Người đã yêu bằng một Tình Yêu trao ban, hy sinh và tận hiến. Khi lập Phép Thánh Thể, Chúa hiến chính thân mình làm lượng thực nuôi dưỡng chúng ta, ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Không những thế, Chúa còn cho chúng ta tham dự vào sự sống của chính Chúa khi rước Mình và Máu Thánh Ngài, để được sống đời đời.
Chưa hết, thiết lập Bí tích Thánh Thể xong, Chúa Giêsu cũng lập luôn Bí tích Truyền Chức Thánh. Chúa nói với các Tông Đồ hiện diện : “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19 ;1 Cr 11, 24). Với lời trên, cho thấy Thiên Chúa yêu thương và tín nhiệm con người, trao cho con người tiếp tục việc làm yêu thương ấy. Mặc dù phàm nhân bất xứng, Chúa vẫn ủy thác cho sứ mạng thay mặt Chúa hiện tại hóa Hy tế Thập giá trên bàn thờ mỗi ngày, tất cả chỉ vì yêu.
Sau khi rửa chân cho các môn đệ, một lần nữa, Người mời gọi chúng ta : “Thầy đã làm gương cho các con, để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15). Bằng cách này, Người thiết lập một sự liên kết thân mật giữa Bí tích Thánh Thể, Bí tích của quà tặng hy sinh và huấn lệnh yêu thương.
Hôm nay, kỷ niệm ngày Chúa Giêsu thiết lập thiên chức Linh mục, chúng ta có nhiều dịp nhắc đi nhắc lại một câu rất sâu sắc nhưng cũng cần phải tìm hiểu thêm :Không có Thánh Thể thì không có chức Linh mục – không có chức Linh mục thì cũng không có Bí tích Thánh Thể (chỉ một lần rồi thôi). Hai điều đó liên kết chặt chẽ với nhau nhờ đức bác ái. Không thể tham dự Thánh Thể nếu không có Tư Tế, nhưng cũng không thể tham dự Thánh Thể nếu không có đức bác ái và sự tha thứ. Trong Bí tích Thánh Thể, tất cả chúng ta đều tham dự vào một Mình Thánh, một Máu Thánh. Trở nên một, chúng ta không còn tách biệt được nữa.
Ai tham dự bàn tiệc của Chúa thì người đó không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh em. Mỗi lần chúng ta tham dự Bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thưa “Amen” trước Mình và Máu Thánh Chúa, như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là “rửa chân” cho anh chị em, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ”(Phil 2,7).
Tình yêu là kỷ vật cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Người kêu gọi bước theo. Chính tình yêu của Người, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.
Thánh Thể là Kỷ Vật tuyệt đỉnh của tình yêu, một ơn cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.
Nghi thức rửa chân nói lên sự khiêm tốn của mình đối với người khác, nhìn nhận rằng mình là người có tội, nếu có điều gì là do tôi chứ không phải do anh em, tha nhân thật sự là anh em của tôi. Bác ái không phải là chối từ việc người khác không có lỗi, nếu lỗi là có lỗi với Chúa. “Rửa chân cho nhau” chứ không phải rửa chân cho người trên hay cho người dưới, tất cả đều là tha thứ, yêu thương và giúp đỡ nhau.
Chúng ta cầu xin Chúa cho Thánh lễ cử hành chiều hôm nay, đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm của Bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm của thiên chức Linh mục, và giới răn trọng nhất là bác ái yêu thương. Chúng ta cố gắng ghi nhớ những điều này để đưa vào trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Amen.
SUY NIỆM 11: DẠ TIỆC ÂN TÌNH
Trầm Thiên Thu
Lễ Vượt Qua hay lễ Quá Hải (Anh ngữ là Passover) là lễ quan trọng nhất của người Do Thái, kéo dài một tuần. Chiều ngày 14 tháng Ni-xan (khoảng tháng Ba, tháng Tư dương lịch), người ta sát tế chiên (cừu) tại đền thờ, rồi tư tế lấy máu chiên mà đổ dưới chân bàn thờ. Khi đêm xuống, người ta sẽ ăn tiệc Chiên Vượt Qua theo gia đình hay theo nhóm, rồi lấy chút máu chiên bôi lên cửa nhà.
Lễ Vượt Qua được cử hành như một cuộc tưởng niệm nhằm giúp mỗi người sống lại kinh nghiệm của cha ông họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập xưa kia. Trong bữa tiệc, người ta ăn thịt chiên với bánh không men và rau đắng (Xh 12:14), ngoài ra, họ cũng uống với nhau bốn chén rượu đã được vị chủ tọa bữa tiệc chúc lành để kỉ niệm bốn lời hứa của Thiên Chúa với dân Do Thái: [1] Ta sẽ đem các ngươi ra từ ách của Ai Cập; [2] Ta sẽ giải thoát các ngươi khỏi cảnh làm tôi mọi chúng; [3] Ta sẽ giương cánh tay mà chuộc lấy các ngươi; [4] Ta sẽ lấy các ngươi làm dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi. Cuối bữa tiệc này, mọi người cùng hát Thánh Vịnh.
Bữa Tiệc Ly là Dạ Tiệc Vượt Qua, Chúa Giêsu dùng bữa với các môn đệ. Trong bữa tiệc này, Ngài làm hai điều quan trọng và kỳ lạ: thiết lập Bí Tích Thánh Thể và Ngài đích thân rửa chân cho các môn đệ. Cả hai hành động đó là dấu chỉ của yêu thương, của lòng thương xót.
Vậy yêu thương là thế nào? Yêu thương là CHO hay NHẬN? Có ai cân-đo-đong-đếm được tình yêu đâu mà sao biết kẻ yêu ít, người yêu nhiều?
Xưa nay, từ cổ chí kim, chưa có một định nghĩa nào về tình yêu trọn vẹn nhất khiến người ta thỏa mãn. Chữ Yêu rất đơn giản mà cũng rất nhiêu khê. Chỉ có một tình yêu đích thực nhưng được nhìn với nhiều lăng kính, mỗi người yêu mỗi cách và mức độ cũng rất khác nhau. Nói chung, yêu là CHO nhiều hơn NHẬN, yêu đến quên mình, đó mới là Tình Yêu chân chính, thế nên người ta mới nói “yêu là chết trong lòng”. Yêu là khổ, không khổ không là yêu, khổ đến “chết” mới là yêu! Không chỉ “chết trong lòng” mà chết thật, vì có những người đã dám liều chết vì quá yêu!
Việt Nam có chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ và chuyện tình Lan và Điệp, còn Tây phương có chuyện tình Romeo và Juliet. Những chuyện tình thật lãng mạn và đẹp nhưng cũng đầy chất bi thương!
Yêu là khổ, không yêu thì lỗ, nên người ta cương quyết “thà chịu khổ hơn chịu lỗ”. Những người đó “ngon” thật và can đảm thật! Người ta còn gọi đó là “thú đau thương”. Đau thương mà lại “thú vị”, yêu như điên, đó mới là yêu thật lòng, vị tha chứ không vị kỷ. Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Sau những ngày tháng hoang đàng, Thánh Giám mục Tiến sĩ Augustinô đã hối tiếc:“Con yêu Chúa quá muộn màng”, và rồi thánh nhân nói thêm: “Mức độ yêu Chúa là yêu vô hạn”. Một mức độ kỳ lạ: giới hạn của yêu thương là yêu-không-giới-hạn!
Yêu thương liên quan hai động thái cần thiết: Vâng Phục và Phục Vụ.
VÂNG PHỤC VÌ YÊU THƯƠNG
Trình thuật Xh 12:1-8, 11-14 cho biết các chi tiết: Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon trên đất Ai Cập: “Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng”. Luật cũ chú trọng cách sống tự nhiên của con người, và cách hành lễ cũng “thực tế” hơn ngày nay, nhưng đó là thể hiện sự vâng lời – vâng lời Chúa nghĩa là yêu mến Chúa.
Học ăn, học nói, học gói, học mở. Đầu tiên là phải học ăn. Cách ăn cũng có luật: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Cách ăn “lạ” nhất là “phải ăn vội vã”, vì đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa. Đêm ấy Thiên Chúa rảo khắp đất Ai Cập, sát hại các con đầu lòng trong đất Ai Cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai Cập. Nghe vậy chúng ta cảm thấy Chúa “dữ tợn” quá. Nhưng không, luật cũ là luật tự nhiên, những gì là “đầu tiên” được dành ưu tiên cho Thiên Chúa, gọi là “của lễ đầu mùa”, kể cả con đầu lòng. Ngày nay, một số dân tộc vẫn có cách mừng thu hoạch như lễ mừng lúa mới, lễ mừng thu hoạch,…
Vết máu bôi trên nhà là dấu hiệu vâng phục, tức là “giữ luật”, và là “dấu hiệu tình yêu”. Những người trong nhà đó sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Thiên Chúa giáng hoạ trên đất Ai Cập. Ngày đó được chọn làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Đó là luật quy định cho đến muôn đời. Luật đó là hồng ân Chúa ban. Ngài ban đủ thứ ân sủng để con người đủ sức “vượt qua” biển đời. Thiên Chúa YÊU nhiều nên CHO nhiều, còn chúng ta NHẬN quá nhiều mà yêu chẳng bao nhiêu, thế nên:
Lấy chi đáp đền Chúa đây
Vì bao ân huệ chính Ngài đã ban? (Tv 116:12)
Dù thật lòng muốn đền đáp ơn Chúa nhưng chẳng có gì để dâng, nếu có thì cũng chẳng có gì xứng đáng. Thân phận bụi tro mọn hèn cả dám thân thưa:
Con nâng chén hồng ân cứu độ
Mà xưng tụng danh Chúa mãi thôi (Tv 116:13)
Thời quân chủ, thần dân không được ngước nhìn Long Nhan, ai nhìn sẽ bị tội khi quân và phải chết. Thần dân muốn tâu trình điều gì phải quay hướng khác và không được tâu trực tiếp mà chỉ được tâu với cái “bệ rồng” Vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ”. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa là Vua các vua và Chúa các chúa, thân sâu bọ chúng ta lại được diện kiến Tôn Nhan thì quả là vô cùng diễm phúc: “Trước Thánh Nhan thật là quý giá, cái chết của những ai hiếu nghĩa với Ngài” (Tv 116:15). Chúng ta chỉ là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, thế mà lại được diễm phúc thì phải ghi lòng tạc dạ thâm ân này: “Con sẽ dâng hiến lễ tạ ơn mà xưng tụng danh Chúa” (Tv 116:17), đồng thời phải chân thành tự thề hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể Dân Ngài” (Tv 116:18).
PHỤC VỤ VÌ YÊU THƯƠNG
Biết thì phải chia sẻ cho người khác, trừ khi người ta không muốn được chia sẻ. Chia sẻ là một dạng yêu thương: cho, tặng, biếu. Chính Thánh Phaolô đã xác nhận:“Điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em” (1 Cr 11:23). Rồi ngài kể lại việc Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói:“Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm nhưThầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”, và cuối bữa thì Chúa Giêsu nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm nhưThầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11:24-25). Thánh Phaolô giải thích: “Từnay cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11:26), do đó mà chúng ta hằng ngày tuyên tín trong mỗi Thánh lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”, hoặc “Lạy Chúa, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, chúng con loan truyền Chúa chịu chết cho tới khi Chúa đến”.
Ngay trước Lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết “giờ của Ngài” đã đến, đó là giờ Ngài phải bỏ thế gian mà về với Thiên Chúa Cha. Ngài yêu thương mọi người đến giọt Nước và giọt Máu cuối cùng, Ngài không muốn xa chúng ta, nhưng Ngài phải tuân phục Thánh Ý của Chúa Cha.
Đức Giêsu biết rõ Giuđa nghĩ gì, tính toán ra sao, và sắp làm gì. Nhưng Thánh Ý Chúa Cha nhiệm mầu. Thế nhưng, có người lập luận rằng “quỷ sứ không được cứu độ”. Giuđa bị gọi là quỷ sứ, Phêrô bị gọi là satan, mà quỷ sứ và satan có khác nhau? Sao satan được cứu độ mà quỷ sứ lại không được? Có gì lấn cấn? Thật ra chẳng ai dám phán xét, cũng chằng ai xứng đáng mà có quyền kết án ông Giuđa. Đừng chỉ “săm soi” một vài khía cạnh nào đó rồi quyết đoán. Tại sao Tội Nguyên Tổ lại được Giáo hội gọi là Tội Hồng Phúc? Thật là mầu nhiệm, vì Lòng Chúa Thương Xót lớn hơn mọi tội lỗi của cả nhân loại kia mà!
Chúa Giêsu bởi Thiên Chúa mà đến, và Ngài sắp phải trở về cùng Thiên Chúa. Do đó, trong một bữa ăn, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Ngài đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Chắc hẳn môn đệ nào cũng ngạc nhiên vô cùng khi thấy Sư phụ hành động “kỳ cục nhất thế gian”.
Thế nên, khi Ngài đến chỗ ông Simôn Phêrô, ông liền thưa: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13:6). Không hề có bề trên nào dám làm chuyện “ngược đời” và “động trời” như vậy. Nghe Phêrô nói, Đức Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13:7). Ông Phêrô chưa thể hiểu nên lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13:8a). Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13:8b). Nghe Thầy nói “không được chung phần” thì ông Phêrô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa” (Ga 13:9). Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!” (Ga 13:10). Ông Phêrô cụt hứng, chẳng khác như bị tạt nước lạnh. Rõ ràng Ý CHÚA HOÀN TOÀN KHÁC HẲN Ý LOÀI NGƯỜI. Ngài rất thâm ý nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch”.
Rửa chân cho các môn đệ xong, Ngài mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không?” (Ga 13:11). Hỏi vậy thôi, chứ Ngài biết tỏng là chẳng ai hiểu, vì ông nào cũng “mắt chữ O và miệng chữ A”, cứ như trời trồng hết thảy. Thấy thế, Chúa Giêsu nói luôn: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:13-15).
Thầy mà còn rửa chân cho đệ tử, chủ mà rửa chân cho đầy tớ, thế thì chắc chắn đệ tử hoặc đầy tớ cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho đệ tử, để đệ tử cũng làm như Thầy đã làm cho đệ tử. Đó là Luật Yêu của Chúa. Luật nhẹ nhàng mà KHÔNG DỄ thực hiện, lời giản dị mà thâm thúy. Và đó cũng là điều chúng ta phải suy nghĩ, nhất là trong Tam Nhật Thánh này, vì chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta noi theo.
Chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y có hình “ngã ba”, nghĩa là có 3 hướng: Hướng lên Chúa, hướng tới tha nhân, và hướng về chính mình. Yêu Chúa hết linh hồn và hết trí khôn, yêu người như chính mình, yêu mình ít thôi – không được yêu mình thái quá (tự ái là yêu mình thái quá, là ích kỷ). Yêu có những hệ lụy quan yếu. Yêu là điều luôn có mối liên kết quan trọng: Cần thiết –> thiết tha –> tha thứ. Đó là quy-trình-yêu-thương, là vòng-tròn-thương-xót. Và một hệ lụy khác lại phát sinh: YÊU thì phải KÍNH, KÍNH thì phải NỂ, NỂ thì phải TRỌNG, TRỌNG thì phải VỌNG (mong), MONG thì thấy NHỚ, NHỚ nghĩa là YÊU. Đó là vòng-tròn-yêu bắt đầu và kết thúc bằng động từ YÊU. Chúa nhớ chúng ta và chúng ta cũng phải nhớ Chúa, mà NHỚ NGÀI thì PHẢI THI HÀNH THÁNH Ý NGÀI. Hoàn toàn hợp lý!
Cũng như khi nói về gia đình, chúng ta áp dụng danh từ kép “hiếu đễ”. Và thật kỳ lạ với chuỗi hợp lý này: HIẾU thì phải ĐỄ (nhường), NHƯỜNG thì phải NHỊN. Nhờ đó mà “trong ấm, ngoài êm”, tạo nên “tổ ấm”, tạo nên hạnh phúc gia đình. Xã hội cũng vậy. Cộng đoàn cũng thế. Nói chung, tất cả chỉ cần tóm gọn trong một chữ YÊU. Biết yêu thì biết thương, biết thương thì biết xót, đó chính là biết sống lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Thầy Giêsu chí thánh, nhân từ và giàu lòng thương xót, xin đổi mới trái tim chúng con nên giống Chúa để càng ngày càng thêm nhiều “máu yêu” hơn, nhờ đó mà chúng con có thể vừa yêu mến Ngài vừa yêu thương tha nhân, đồng thời dám sống và hành động như Ngài trong mọi hoàn cảnh. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị muôn đời. Amen.
SUY NIỆM 12: VÌ YÊU, NÊN CHẤP NHẬN TẤT CẢ
(Xh 12, 1-8. 11-14; 1 Cr 11, 23-26; Ga 13, 1-15)
(Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Chiều hôm nay, chiều mà Giáo Hội cử hành thánh lễ Tiệc Ly. Trong thánh lễ này, chúng ta thấy toát lên vẻ trầm buồn bởi cảnh ly biệt của người đi và kẻ ở!
Đức Giêsu sẽ ra đi để chịu chết chuộc tội thiên hạ. Các môn đệ sẽ ở lại để rồi mai đây sẽ tiếp bước trên con đường mà Thầy Giêsu đã đi.
Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở cảnh sầu ly chia ngả, nhưng nó còn đi xa hơn nữa để thấy được tình yêu của người ra đi và sự phản bội, bất trung của nhiều kẻ ở lại! Từ đó, chúng ta nhận ra lòng thương xót của Đấng là Chúa và là Thầy thì lớn lao vô bờ, trong khi đó, sự vô ơn, nhát đảm dẫn đến sự phản bội của người môn sinh lại cứ dần leo thang!
Điều tốt và xấu luôn tồn tại
Trong cuộc sống của con người, sự bất trung, vô ơn, phản bội, có lẽ luôn tồn tại song song với thời gian. Những thái độ, hành vi và lựa chọn tiêu cực ấy lại được diễn ra đây đó giữa cha mẹ với con cái; giữa vợ với chồng; giữa bạn bè, đồng nghiệp với nhau; giữa thầy với trò…, và, nhất là giữa con người với Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương ta.
Họ bội ước quên thề và phản bội với nhau có thể do động lực tiền bạc, tình cảm và chức quyền gây nên. Những sự vô ơn và phản bội như thế, dân gian người ta gọi những hạng người đó là kẻ: “Ăn cháo đá bát”; “lừa thầy phản bạn”; “qua cầu lướt ván…”.
Với Đức Giêsu, từ khi đón nhận bản tính nhân loại nơi mình, Ngài cũng là con người giống như bao người, vì thế, Đức Giêsu cũng đã từng nếm trải những chuyện như: vô ơn, phản phúc, đổi trắng thay đen, nói không thành có… đến từ những người mà Ngài làm ơn làm phúc; những người mà Ngài đã cứu sống, và, nhất là đến từ các môn đệ là những người được chính Ngài tuyển lựa để ngày đêm ở với Ngài và được Ngài dạy dỗ nhiều điều!
Sự thật cay đắng này diễn ra trong bữa Tiệc ly buổi chiều năm xưa, mà hôn nay chúng ta đang tưởng niệm.
Điều này được thấy qua những nghi thức phụng vụ, nhất là Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay.
Kinh Thánh diễn tả buổi chiều hôm nay là một buổi chiều ly biệt giữa Thầy và trò.
Khung cảnh trầm buồn ấy cộng thêm những nét chấm phá hết sức ấn tượng diễn tả sâu sắc tình yêu thương của Thầy dành cho trò. Tuy nhiên, mặt trái của bức tranh tình yêu đó lại bị những vết đen phản bội, vô ơn và bất trung xen lấn, làm cho họa tiết lộ rõ sự hỗn độn, khiến cho người thưởng thức không khỏi khó chịu và xót xa!
Tất cả vì tình yêu
Câu chuyện diễn tả bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, được khởi đi từ việc Đức Giêsu muốn ăn bữa tiệc vượt qua sau cùng với các môn đệ trước khi lên đường hy sinh mạng sống để cứu chuộc nhân loại. Vì thế, đây là một bữa tiệc mang nhiều ý nghĩa thâm sâu.
Đỉnh điểm của buổi họp mặt hôm nay giữa thầy và trò, đó là việc Đức Giêsu loan báo: Một người trong anh em sẽ phản bội. Một trong anh em sẽ chối Thầy, và, đêm nay anh em sẽ vấp phạm vì Thầy.
Từ lời loan báo trên, Đức Giêsu đã nói rất rõ ràng cho các môn đệ biết về sự vô ơn, hèn nhát và thiếu trung thành của các ông đối với Ngài.
Nhưng ngay lúc này, các ông rất hoang mang và nhiều người không thể ngờ được là: tại sao trong nhóm của mình lại có những kẻ “được cá bẻ đăng”, rồi hèn nhát và thiếu trung thành đến vậy…!
Chính vì thế, mà họ bắt đầu nhao nhao hỏi Đức Giêsu: “Thưa thầy, có phải con không?”. Đức Giêsu không nói rõ ai sẽ là người phản bội mình, Ngài chỉ đưa ra hành động ám chỉ: Thầy chấm miếng bánh trao cho ai, thì đó là người ấy. Rồi Giuđa là kẻ đã lĩnh miếng bánh trước mặt anh em. Sau khi đã nhận miếng bánh ân tình, ma quỷ đã nhập vào y và y đã quyết định rời khỏi nơi chốn tình yêu, không gian ánh sáng để tiến về vùng tối tăm của sự ác!
Đọc tiếp trang Tin Mừng, chúng ta còn thấy sự bất trung của các môn đệ khác được tìm thấy trong biến cố tại Vườn Cây Dầu. Các môn đệ đang ở với Đức Giêsu, khi thấy toán lính đến bắt Thầy mình, thế là họ đã bỏ chạy hết. Rồi sự hèn nhát của Phêrô, vị Tông đồ trưởng được diễn ra trong dinh Thượng tế, ông đã trối Thầy trước sự đe loi của đám lính.
Tuy nhiên, dù tội lỗi của các ông có lớn thế nào đi chăng nữa, thì ngay tại phòng tiệc ly, Đức Giêsu làm một loạt những hành vi và lời nói nhằm diễn tả tình yêu của vị Thầy khả kính dành cho môn sinh, qua đó giúp cho các ông tin và đi vào mối tương quan tình yêu với Ngài.
Chính vì yêu và yêu họ đến cùng, nên Đức Giêsu đã không ngần ngại, trao ban, hiến tặng tất cả, ngay cả mạng sống của mình cho con người. Điều này được thể hiện qua việc Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể. Không dừng lại ở đó, Đức Giêsu còn muốn ở lại với loài người mọi ngày cho đến tận thế, nên liền ngay sau đó, Ngài đã thiết lập thiên chức linh mục.
Để tình yêu thương được cụ thể, nên vào cuối bữa ăn, Đức Giêsu đã làm một hành động ngược đời đến kỳ quặc, đó là quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đây là hành động của nô lệ rửa chân cho ông chủ, trò rửa chân cho thầy. Khi làm ngược lẽ tự nhiên như vậy, Đức Giêsu muốn dạy các ông bằng hành động chứ không chỉ lời nói. Điều này đã gây nên sự ngỡ ngàng tột độ, khiến Phêrô đã phải thốt lên: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?”; “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”.
Tuy nhiên, Đức Giêsu nói với ông: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”.
Sau đó Ngài đã dạy các ông: “Nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau”.
Như vậy, việc Đức Giêsu rửa chân cho các ông, Ngài muốn làm một cử chỉ sâu xa để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa với nhân loại.
Bên cạnh đó, Ngài muốn gột rửa tâm hồn các ông thực sự.
Bởi vì nơi các ông vẫn còn nhiều vấn vương bụi đời.
Nào là tranh dành quyền lực; thích được phục vụ; ăn trên ngồi trước.
Nào là chia rẽ nội bộ; nhát đảm, sợ sệt, ham tiền, hám lợi và phản bội….
Sứ điệp Lời Chúa
Ngày nay, vẫn còn đó những con người chẳng khác gì các môn đệ là bao. Họ vẫn mang trong mình những sự kiêu ngạo, ích kỷ, chia rẽ và thiếu trung thành, phản bội và vô ơn…!
Vẫn còn đó những kẻ chỉ vì miếng cơm manh áo mà bán đứng anh em của mình cho sự ác.
Lại có kẻ miệng thì nói tin Chúa, sống chết với đức tin, đạo giáo. Nhưng khi có lợi đến, hay bị thử thách, họ sẵn sàng từ chối thuộc về Chúa để được yên thân.
Và, cũng không thiếu những kẻ “khi hay thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì lìa nhau ra”. Họ tin và theo Chúa chẳng khác gì trẻ con. Họ rất giống những người thiếu lập trường và bị hiệu ứng đám đông điều khiển!
Sứ điệp Lời Chúa và phụng vụ ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Luôn sống tâm tình biết ơn Thiên Chúa ngang qua sự kiên trì và trung thành với đức tin của mình.
Cuối cùng, hãy sống bản chất của Bí tích Thánh Thể là Bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái; đồng thời luôn biết yêu thương nhau thật lòng như Chúa đã yêu, đó là một tình yêu bằng hành động, hướng tha, hy sinh và phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay, Chúa đã thể hiện tình yêu trọn vẹn của Chúa dành cho nhân loại. Xin Chúa ban cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu ấy và ra sức thi hành trong cuộc sống qua các mối tương quan với Chúa và tha nhân. Amen.
08/04 Dung mạo kẻ phản bội
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Dung mạo kẻ phản bội.
Thứ Tư tuần thánh.
"Con Người ra đi như đã được ghi chép sẵn từ trước, nhưng khốn thay cho kẻ sẽ làm cho Ngài bị phản nộp".
Lời Chúa: Mt 26, 14-25
Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người.
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn Bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" Chúa Giêsu đáp: "Các con hãy vào thành đến với một người kia, và nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". Các môn đệ làm như Chúa Giêsu đã truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua.
Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: "Thưa Thầy, có phải con không?" Người trả lời: "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ sẽ nộp Thầy. Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!"
Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có phải con chăng?" Chúa đáp: "Ðúng như con nói".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chẳng lẽ con sao?
Suy niệm :
Các thượng tế muốn giết Đức Giêsu, nhưng không tìm được cơ hội.
Nay cơ hội đã đến với sự tiếp tay của chính người môn đệ Đức Giêsu.
Anh Giuđa đã đến gặp các thượng tế và đề nghị nộp Ngài cho họ.
Chúng ta mãi mãi không biết hết và biết rõ những động cơ nào
đã thúc đẩy Giuđa làm chuyện kinh khủng ấy.
Giuđa, người được gọi, được chọn, được tuyển lựa,
sau một đêm thức trắng cầu nguyện của Thầy Giêsu (Lc 6, 12).
Và anh đã đáp lại, đã bỏ gia đình, nghề nghiệp, để đi theo.
Giuđa đã rong ruổi theo Thầy ngay từ đầu, chia sẻ đói no, thành công thất bại…
Không yêu thì làm sao đi theo được lâu như thế.
Giuđa, người được tin cậy và giao giữ quỹ cho cả nhóm (Ga 12, 6).
Vì là người trong nhóm Mười Hai, thuộc nhóm môn đệ thân cận,
Giuđa đã được nghe hầu hết các bài giảng hay nhất,
được chứng kiến các phép lạ lớn lao nhất của Thầy Giêsu.
Giữa anh và Thầy Giêsu hẳn đã có một sự thân thiết nào đó.
Điều gì đã diễn ra nơi trái tim của Giuđa?
Điều gì đã khiến tất cả phút chốc bị đổ vỡ không sao hàn gắn?
Chắc không phải chỉ vì ba mươi đồng bạc, một số tiền.
Phải chăng vì Giuđa thất vọng và nóng ruột
khi thấy Thầy Giêsu quá hiền từ, cả trong lối sống lẫn lời giảng,
chẳng có vẻ gì là một Đấng Mêsia sắp giải phóng dân tộc khỏi quân Rôma?
Phải chăng khi Giuđa nộp Thầy cho các thượng tế,
anh định cài Thầy vào thế phải hành động quyết liệt hơn, phải tự giải thoát mình?
Dù gì đi nữa thì chuyện Giuđa làm là không thể biện minh được.
Anh đã can dự vào cái chết của Thầy Giêsu.
Không thể phong tặng anh hùng cho Giuđa
vì bảo rằng nhờ anh mà chúng ta có được ơn cứu độ.
Giuđa đã phạm tội nghiêm trọng đến nỗi Thầy Giêsu phải đau đớn nói:
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn” (c.24).
Dầu vậy tội của Giuđa đã được Thiên Chúa dùng cho chương trình cứu độ.
Thiên Chúa là Đấng có thể biến điều dữ thành điều lành.
“Kẻ đã chấm chung một đĩa với Thầy là kẻ sẽ nộp Thầy” (c. 23).
Kẻ đồng bàn thân thiết với Thầy lại là người phản bội.
Ngay cả những môn đệ khác cũng hỏi Thầy Giêsu: “Có phải con không?”
Có phải con là người đang phản bội Thầy không?
Lúc nào chúng ta cũng có thể hỏi Chúa Giêsu cùng câu hỏi đó.
Dù mỗi ngày chúng ta cùng chia sẻ một bàn tiệc với Chúa trong Thánh Lễ,
chúng ta vẫn có thể rơi vào tội của Giuđa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
SUY NIỆM 2: Dung mạo kẻ phản bội
Trong hai ngày qua, thứ Hai và thứ Ba Tuần Thánh, và hôm nay nữa, thứ Tư Tuần Thánh, chúng ta được nghe nhắc đến dung mạo của một người đồ đệ phản bội Chúa là Giuđa Iscariốt. Sự phản bội này không phải là một điều bất ngờ, và lại càng không phải là điều bất ngờ đối với Chúa Giêsu, Ðấng đã biết trước mọi sự sẽ xảy ra cho Ngài như thế nào. Giuđa đã đi đến việc phản bội Chúa, có lẽ vì ông ta đã để cho sự quan tâm về lợi lộc vật chất dần dần chiếm hết chỗ trong tâm hồn và đã để cho sự hăng say theo Chúa lúc ban đầu bị phai lạt đi. Chúa Giêsu không còn là Thầy, là Chúa và là tất cả của cuộc đời ông nữa, nhưng là một món hàng mà Giuđa đem bán cho những kẻ muốn giết Ngài với giá tiền ba mươi đồng, mức giá trị của một người nô lệ đáng khinh.
Giuđa đã âm mưu nộp Chúa cho các thượng tế và đã thành công giấu ý định này không cho các môn đệ khác biết, nhưng Giuđa đã không thể nào giấu điều đó với Chúa Giêsu được. Chúa biết hết nhưng Ngài vẫn đối xử tốt với Giuđa cho đến cùng. Chúa không bỏ qua những dịp may để giúp Giuđa hồi tâm. Trước hết là bữa tiệc vượt qua giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Dĩ nhiên, là người thủ quĩ, Giuđa thản nhiên tham dự vào bữa tiệc, mặc dù đoạn Phúc Âm không nói ra. Tinh thần hiệp thông của bữa tiệc không thức tỉnh Giuđa nổi. Rồi những lời của Chúa: "Một người trong các con sẽ nộp Thầy", và Giuđa chắc chắn được nghe rõ nhưng không làm cho Giuđa giật mình tỉnh ngộ. Rồi sự buồn phiền của các môn đệ khác trong bữa tiệc cũng không có tác dụng gì trên ý định của Giuđa muốn nộp Chúa Giêsu. Thấy các môn đệ lần lượt hỏi Chúa xem có phải là họ hay không, thì Giuđa cũng làm theo như vậy. Tệ hơn nữa, Giuđa dùng từ ngữ không còn ý nghĩa kính trọng đối với Chúa Giêsu trong câu hỏi đặt ra cho Chúa, vì trong khi các môn đệ khác gọi Thầy là Chúa với lòng kính trọng, thì Giuđa dùng một từ ngữ chỉ dành riêng cho một người tầm thường là Rabbi (thưa thầy). Kể từ khi chấp nhận mức giá trị đặt Chúa ngang hàng như một người tôi tớ chỉ đáng giá ba mươi đồng bạc, Giuđa xem như đã mất đi niềm tin vào Chúa như là Ðấng Cứu Rỗi. Giuđa không còn muốn trở lui, không còn muốn rút lại âm mưu nộp Chúa cho đến khi quá trễ. Khi Chúa bị kết án tử hình, thì Giuđa hối hận đi tự tử, như được kể lại nơi đầu chương 27 Phúc Âm thánh Mátthêu.
Phần Chúa Giêsu, Ðấng đã so sánh mình như người chăn chiên nhân lành đi tìm con chiên lạc, Ngài vẫn kính trọng thể diện của Giuđa, không nói thẳng thừng, không vạch mặt nêu tên Giuđa cho mọi người biết, nhưng âm thầm tạo dịp để thức tỉnh lương tâm Giuđa. Và lời cảnh tỉnh mạnh mẽ nhất là khi Chúa Giêsu tuyên bố: "Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho người nào nộp Con Người, thà rằng người đó đừng sinh ra thì hơn". Chúng ta không nên hiểu lời cảnh tỉnh này như một lời kết án Giuđa phải hư mất mãi mãi. Không phải như vậy, lời cảnh tỉnh mạnh mẽ của Chúa nhằm làm nổi bật sự khốn cùng của người phản bội Chúa, một sự khốn cùng mà người phản bội tự ý đi vào vì ngoan cố không chịu quay trở về. Sống mà phản bội Chúa, chối bỏ ơn cứu rỗi của Chúa một cách có ý thức và ngoan cố, thì tệ hơn là không sống, không sinh ra trên trần gian này. Không phải tất cả mọi người đều biết khám phá và đáp trả tình yêu của Chúa đối với họ, thời nào cũng vậy, cũng có những người không nhìn nhận tình yêu Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để con sống trong tự phụ mù quáng. Xin đừng để con bị những lợi lộc vật chất làm cho con trở nên ngoan cố chống lại Chúa. Xin cho con biết noi gương thánh Phaolô tông đồ quay về với Chúa và dùng phần cuộc đời còn lại cộng tác chặt chẽ với ơn Chúa, đến độ có thể nói như Ngài: "Nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay. Ơn Chúa đã không trở nên vô ích nơi tôi. Ước được như vậy".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Giuđa mưu phản.
“Cả người thân con hằng tin cậy,
Đã cùng con chia cơm sẻ bánh,
Mà nay cũng giơ gót đạp con”.
Thánh vịnh 40 là một trong những lý do mà các kitô hữu tiên khởi đưa ra trong cố gắng tìm hiểu về biến cố Giuđa phản bội: “Khi ấy một trong nhóm mười hai tên là Giuđa Iscariot đi gặp các Thượng tế mà nói: “các ngài cho tôi bao nhiêu, tôi sẽ nộp ông ấy cho các ngài”.
Bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là Lễ Vượt Qua cuối cùng Chúa Giêsu cử hành với các môn đệ. Mỗi năm người Do Thái thời Chúa Giêsu long trọng mừng lễ Vượt Qua để tưởng niệm biến cố Thiên thần Chúa vượt qua cửa nhà người Do Thái có bôi máu chiên để không giết con đầu lòng của họ, khởi đầu cho cuộc giải phóng họ khỏi ách nô lệ và khai mào cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa. Chúa Giêsu đã có ý định dùng môi trường và ý nghĩa của lễ Vượt Qua này để thiết lập Thánh Thể, nói lên ý nghĩa Ngài là Con Chiên mới sẽ hiến thân chịu chết và đổ máu trên Thập giá để giải phóng và cứu rỗi không những dân Do Thái, mà cả nhân loại. Nhưng soạn giả Matthêu không che dấu một biến cố khác xẩy ra cùng lúc với ngày trọng đại này đó là Giuđa, một trong nhóm mười hai mưu phản Thày. Đấy là biến cố gây chấn động dữ dội nơi cộng đoàn kitô tiên khởi chính vì cố đưa ra để tìm hiểu những bí ẩn bên trong dẫn đến ý định bán nộp Thày cho Giuđa. Ngoài lý do tìm thấy trong câu Tv 40 mang ý nghĩa tôn giáo, người ta cũng phân tách con người Giuđa được các soạn giả bốn sách Tin Mừng nhận xét, là con người tham lam, biển lận, ăn cắp của chung. Có người còn cho rằng Giuđa thuộc một đảng chính trị quá khích chủ trương dùng bạo lực để chống lại ách đô hộ của người Rôma; y theo Chúa Giêsu vì thấy Ngài có quyền năng làm nhiều phép lạ hy vọng Ngài sẽ dùng quyền năng đó để đánh đuổi ngoại xâm. Giuđa thất vọng khi thấy Ngài chọn con đường dẫn tới cái chết Thập giá để kết thúc sự nghiệp giải phóng và cứu rỗi của Ngài. Chính sự thất vọng ấy đưa đến bất mãn, và quyết định nộp Thày. Có người chủ trương rằng Giuđa không có ý định giết chết Chúa Giêsu, nhưng qua việc giải nộp Ngài trong tay quân Rôma, Giuđa hy vọng dồn Ngài vào chân tường, buộc Ngài phải chống cự để tự vệ và do đó đánh đuổi quân Rôm ra khỏi bờ cõi. Nếu như thế ngoài tội nộp Thày phản bạn, Giuđa còn vấp phải một lầm lỗi khác là muốn cưỡng bách Chúa Giêsu hành động theo ý riêng mình.
Để hiểu trọn ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta không thể dừng lại ở những lỗi lầm của Giuđa, nhưng cần phải hội tụ chú ý vào vai chính là Chúa Giêsu. Trước tiên ngài cố gắng đến cùng để cảnh tỉnh và giải thoát Giuđa khỏi những ý nghĩ mù quáng và đen tối: vì thế Ngài đã cảnh cáo ý bằng một lời mạnh mẽ: “Con Người ra đi như đã viết về Ngài, nhưng khốn cho người đó, kẻ làm cho Con Người bị nộp. Thà rằng người ấy đừng sinh ra thì hơn”. Rồi Chúa Giêsu cũng gọi đích danh Giuđa là người sẽ nộp Ngài. Nhưng lời cảnh cáo và sự vạch mặt chỉ tên đó cũng không làm cho Giuđa tỉnh thức và cũng không ngăn cản y tự nhảy xuống vực thẳm tội lỗi. Tuy nhiên, mặc cho hành động phản bội của Giuđa, Chúa Giêsu vẫn tiến hành việc lập Bí tích Thánh Thể, dấu chỉ của lòng yêu thương đến cùng. Tình yêu đáp lại tình yêu là chuyện thường tình, nhưng tình yêu đáp lại hận thù mới là hành động của một vĩ nhân.
Xin Chúa đánh động tâm hồn chúng ta, để chúng ta tiến vào ba ngày thánh tưởng niệm việc lập Bí tích Thánh Thể, cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập giá của Chúa, để Mùa chay này thực sự biến đổi con tim và cuộc sống của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Giuđa phản bội.
Bấy giờ một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng tế mà nói: “Quí vị muốn cho tôi bao nhiêu? Tôi đây sẽ nộp ông ấy cho quí vị.” Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. Từ đó hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giêsu. (Mt. 26, 14-16)
Có nhiều sứ điệp Tin mừng thật nặng nhọc khi phải đọc, tuy không nhiều, sứ điệp mà chúng ta đọc lại hôm nay là một trong những nố đó. Không thể không nặng nề khó chịu khi đọc đến đoạn phản bội của Giu-đa. Người ta tưởng tượng ra sự độc ác và không hiểu tại sao con người đó có thể sa đọa đến thế. Cách cư xử của hắn quá đồi tệ, ti tiện, không còn một chút phẩm giá con người.
Tuy nhiên, xin đừng coi đó là gương mù quá lẹ như vậy, vì gương mù đó xảy ra quá dễ dàng. Dù xấu đến đâu, lịch sử về Giu-đa vẫn mang tính chất nhân loại, nó vẫn có trong con người. Cần phải đọc lại nó để xem xét chính con tim của chúng ta cũng như con tim của mọi người không phải là không thấm nhiễm sự xấu và tội lỗi đâu. Ta thấy cái cảnh phản bội nặng nề khó đọc đó chính là vì ta thấy diễn tả nó trong bản văn. Nếu Giu-đa thiệt tình chơi cái trò này cho ngay thẳng, nghĩa là chống đối Chúa Giêsu ra mặt, khai chiến với Người rõ ràng, thì người ta cảm thấy dễ chịu hơn, ít nặng nề hơn. Nhưng không, Giu-đa diễn cái trò vòng vo quanh co. Hắn thực là kẻ phản bội. Chính đó là cái nặng nề khi phải thấy nó xảy ra.
Về phần Đức Giêsu, cách cư xử của Người có gì làm chúng ta ngạc nhiên không? Người biết rõ môn đệ nào và hắn âm mưu gì.
Nếu chúng ta ở địa vị Người, chúng ta có lẽ đã nổi giận tái mặt đi và tống cổ Giu-đa ra khỏi nhà ngay lập tức. Đức Giêsu đã hành động hoàn toàn khác. Người đã cho kẻ phản bội một cơ hội cuối cùng. Một lần nữa, Người chia sẻ bánh ăn với hắn. Không phải Đức Giêsu đã đẩy Giu-đa ra cửa. Chính Giu-đa đã quyết định ra đi phản bội và đi tự tử treo cổ chết.
Sẽ hoàn toàn khác, nếu Giu-đa thời đó đã ăn năn trở lại, thì Giu-đa sẽ không còn bị gọi là Giu-đa phản bội nữa, mà ngày nay còn được gọi là thánh Giu-đa. Hắn đã không ăn năn. Hắn từ chối tình bạn thân thiết với Thầy mình. Chính vì lý do đó mà đã để lại một lịch sử buồn sầu đen tối.
J.Y.G
SUY NIỆM 5: “THƯA THẦY CÓ PHẢI CON KHÔNG?” (Mt 26, 14-25)
Trong cuộc sống, không ai thoát được đau khổ. Tuy nhiên, có nhiều loại đau khổ. Đau khổ nhất vẫn là sự phản bội của chính người mà chúng ta đã từng ra tay nâng đỡ...!
Hôm nay, thánh sử Mátthêu cũng gợi lại cho chúng ta tấm thảm kịch bi thương khi họa lại khung cảnh của một bữa tiệc cuối cùng của Thầy Giêsu với các môn sinh của mình, để rồi chính trong bữa ăn thân tình và huynh đệ này lại diễn ra một sự phản bội trắng trợn của ngay học trò Giuđa, kẻ đã được tin tưởng trao cho trách vụ quản lý. Tệ hơn nữa, âm mưu này lại bị hắn che lấp bằng câu hỏi: "Rápbi, (thưa Thầy) chẳng lẽ con sao?" Ngay sau lời loan báo về sự phản bội của Đức Giêsu: “Thầy nói thật với các con, có một người trong các con sẽ nộp Thầy”.
Nếu các môn đệ khác khi hỏi cùng câu hỏi như Giuđa, thì trong tâm hồn của các ông là lo lắng, buồn rầu và đau đớn, còn Giuđa thì không, bởi hắn đã dùng hình thức này nhằm đánh lạc hướng để mọi người không còn nghi ngờ về hành vi bỉ ổi của hắn và để hắn dễ bề hành động. Chính vì thế mà làm cho Đức Giêsu trong tư cách là người thi ân giáng phúc, là thầy, là Thiên Chúa càng thêm đau khổ!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta những bài học sau:
Trước tiên, chúng ta hãy xác định rõ mục đích của cuộc đời mình, đó là đi tìm hạnh phúc chứ không phải danh, lợi, thú, để rồi vỡ mộng như Giuđa khi xưa mà dẫn đến thất vọng và lựa chọn hành vi phản thầy.
Thứ hai, tin và theo Chúa không có nghĩa là thoát khỏi đau khổ, nhưng điều quan trọng là thấy được ý nghĩa, giá trị của khổ đau.
Thứ ba, khi chọn Chúa là gia nghiệp, lý tưởng, chúng ta chỉ thấy được hạnh phúc sau khi đã hoàn thành hành trình theo Ngài trên dương thế mà thôi. Họa hiếm mới có được ân phúc này khi còn bình sinh.
Trong những ngày cuối cùng của Mùa Chay này, xin Chúa ban cho chúng ta ý thức được căn tính và mục đích của cuộc đời, từ đó biết hiệu chỉnh lương tâm và những lựa chọn sao cho phù hợp với vai trò môn đệ của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết mặc lấy tâm tình của mười một môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay, đừng như Giuđa, mà làm cho Chúa phải đau buồn. Amen.
Ngọc Biển SSP
07/04 Bóng đêm tội lỗi – Sự thật về Giuđa và Phêrô
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Bóng đêm tội lỗi – Sự thật về Giuđa và Phêrô.
Thứ Ba tuần thánh.
"Một người trong các con sẽ nộp Thầy... Trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần".
Lời Chúa: Ga 13, 21-33. 36-38
Khi ấy, (Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ), tâm hồn Người bị xao xuyến, nên Người tuyên bố: "Thật, Thầy nói thật cho các con biết, một người trong các con sẽ nộp Thầy".
Các môn đệ nhìn nhau phân vân không biết Người nói về ai. Có một môn đệ được Chúa Giêsu yêu quý, đang ở bàn ăn gần lòng Chúa Giêsu. Vậy Phêrô làm hiệu cho môn đệ ấy và nói: "Hỏi xem Thầy nói về ai đó". Môn đệ ấy nghiêng mình sát ngực Chúa Giêsu và hỏi Người: "Thưa Thầy, ai vậy?"
Chúa Giêsu trả lời: "Thầy chấm miếng bánh trao cho ai là người đó". Và Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn. Chúa Giêsu nói với hắn: "Con tính làm gì thì làm mau đi". Nhưng những người đang ngồi ăn không một ai hiểu được vì sao Người lại nói với hắn như vậy. Có nhiều người tưởng tại Giuđa giữ túi tiền, nên Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy mua những gì chúng ta cần dùng trong dịp lễ, hoặc Người bảo hắn bố thí cho người nghèo. Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối.
Khi Giuđa đi rồi, Chúa Giêsu phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển, và Thiên Chúa đã được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính Mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển! Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa. Các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do-thái: "Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được", nay Thầy cũng nói với các con như vậy".
Simon Phêrô hỏi Người: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Nơi Thầy đi, nay con chưa thể theo tới đó được, nhưng sau này con sẽ theo Thầy".
Phêrô thưa lại: "Tại sao con lại không theo Thầy ngay bây giờ được! Con sẽ liều mạng sống con vì Thầy". Chúa Giêsu nói: "Con liều mạng sống vì Thầy ư? Thật, Thầy nói thật cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Trời đã tối
Suy niệm :
Làm người ở đời ai chẳng có lúc xao xuyến.
Đức Giêsu hai lần nhắc các môn đệ đừng xao xuyến
trước sự ra đi được báo trước của Thầy (Ga 14, 1.27).
Nhưng Ngài đã xao xuyến khi thấy người ta khóc thương Ladarô (Ga 11, 33).
Ngài cũng đã xao xuyến khi giờ đã đến và cái chết gần kề (Ga 12, 27).
Trong bữa tối này, Đức Giêsu không tránh khỏi xao xuyến
khi nói đến sự phản bội sắp đến của một người môn đệ (c. 21).
Vậy vấn đề không phải là cố tránh xao xuyến, mà là đừng để nó làm chủ mình.
Trong bốn sách Tin Mừng, Thầy Giêsu không bao giờ nói rõ Giuđa là kẻ phản bội.
Thầy muốn giữ thể diện thậm chí cho kẻ sắp phản bội mình.
Vì thế nói chung các môn đệ không rõ ai là kẻ sẽ nộp Thầy (c. 22).
Ông Phêrô có lẽ nằm trên giường tiệc xa với Thầy,
nên đã làm hiệu cho anh môn đệ được Thầy thương, để nhờ anh hỏi xem là ai.
Thầy Giêsu đã không nói tên kẻ phản bội.
Ngài chỉ tế nhị dùng một dấu hiệu để cho anh môn đệ mình thương nhận ra.
Dấu hiệu đó là chấm một miếng bánh trao cho Giuđa.
Đây là một cử chỉ quý mến của chủ tiệc dành cho một vị khách đặc biệt.
Việc trao miếng bánh cho Giuđa cho thấy anh nằm gần với chủ tiệc là Thầy,
như thế Giuđa, người thủ quỹ kiêm quản lý, có một chỗ khá cao trong bữa tiệc.
Giuđa đã nhận miếng bánh ân tình của Thầy và anh có thể chọn lại.
Anh có dám từ bỏ kế hoạch phản bội của anh không?
Tiếc là không, cử chỉ ưu ái của Thầy chẳng làm anh thay đổi.
“Khi anh vừa ăn xong miếng bánh, thì Satan nhập vào anh” (c. 27).
Chúng ta ngạc nhiên khi Thầy Giêsu không hề phân biệt đối xử với Giuđa.
Thầy đã rửa chân cho anh và còn cho anh tham dự bí tích Thánh Thể (Mt 26, 27).
Khi biết lòng anh chai đá, Thầy lại hối thúc: “Anh làm gì thì làm mau đi” (c. 27).
Giuđa ra đi lúc trời đã tối.
Cũng trong bữa tiệc này, Thầy Giêsu nói về việc Phêrô sẽ chối Thầy ba lần.
Thầy chỉ nói sau khi Phêrô tuyên bố mình sẽ thí mạng để cứu Thầy (c. 37).
Phêrô tỏ ra quá tự tin vào tình yêu và sức mạnh của mình.
Anh coi thường cuộc chiến đấu ác liệt sắp tới nên đã dễ dàng ngã quỵ.
“Thầy đi đâu?”, tiếng Latinh là “Quo vadis?” (c. 36).
Ta lại thấy câu hỏi này của Phêrô trong một sách ngụy thư ở cuối thế kỷ thứ hai.
Lúc Phêrô chạy trốn khỏi sự bách hại ở Rôma,
anh lại gặp Thầy Giêsu và hỏi Thầy: “Thầy đi đâu vậy?”
Thầy trả lời Thầy đang vào thành Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa.
Phêrô hiểu ra nên trở lại Rôma để chết tử đạo ở đó.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
SUY NIỆM 2: Bóng đêm tội lỗi.
Bóng đêm đồng lõa với tội ác: Bao nhiêu cuộc hội họp để toan tính những hành vi hắc ám thường được tổ chức về đêm: nương theo đêm tối, những tên hành nghề trộm cướp mới mạnh tay hành động; những cuộc vui chơi trác táng, những mối tình vụng trộm cũng thường xẩy ra vào đêm. Bóng đêm cũng đã chứng kiến một cuộc bán Thày phản bạn được Tin Mừng thuật lại: Khi ấy, Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ, tâm hồn Ngài xao xuyến… Giuđa nhận chiếc bánh từ tay Chúa Giêsu trao, ăn xong, y đứng dậy ra đi, bấy giờ là đêm tối.
Dưới ngòi bút của Gioan, ánh sáng và bóng tối mang một ý nghĩa thật đặc biệt. Nhưng ở đây bóng tối được sử dụng để diễn tả đúng hoàn cảnh và tâm trạng của Giuđa trong âm mưu đen tối của y nơi đoạn Tin Mừng hôm nay. Bóng đêm luôn ngự trị khi con người chủ ý quay lưng lại với Chúa Giêsu, bóng đêm luôn xâm chiếm tâm hồn khi con người nghe theo sự xúi giục của sự dữ hơn là lời mời gọi của Thiên Chúa. Bóng đêm luôn giữ phần thắng khi hận thù, gian tham bóp chết sức mạnh của tình yêu. Bóng đêm xâm chiếm cõi lòng khi con người khước từ tình yêu Thiên Chúa như trường hợp của Giuđa. Trước khi Giuđa đứng dậy bỏ bàn tiệc thân hữu để đi vào bóng đêm, Chúa Giêsu đã dùng mọi phương thế để cảnh tỉnh Giuđa: trước tiên là lời tiên báo công khai: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: một trong các ngươi sẽ nộp Ta”, nhưng Giuđa giả điếc làm ngơ không nghe lời cảnh tỉnh ấy. Tiếp đến, Chúa Giêsu chấm bánh trao cho Giuđa, đó là một cử chỉ thân tình, nhưng Giuđa đã ăn miếng bánh ấy không chút rung động, đến độ thánh Gioan diễn tả hậu quả trái ngược: “Ăn miếng bánh rồi, Satan đã nhập vào y”. Sau cùng, Chúa Giêsu dóng lên tiếng chuông cảnh tỉnh cuối cùng qua câu nói: “Ngươi tính làm gì, thì làm mau đi”, câu này ngụ ý rằng âm mưu của ngươi, Ta đã biết, làm sao một môn đệ lại có thể âm mưu phản Thày”. Tuy nhiên, những lời nói và cử chỉ thân tình ấy đã không cầm chân được Giuđa khỏi tiến vào bóng đêm tội lỗi.
Ngày thứ ba tuần thánh, khi đưa ra một Giuđa cứng lòng bướng bỉnh, tiến vào bóng đêm của phản bội, của tội lỗi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức để chấp nhận lời cảnh tỉnh và nhất là đón nhận những cử chỉ thân tình yêu thương của Chúa Giêsu, để bừng sống dậy nhập đoàn những người đã và đang thực hiện một cuộc cách mạng tình thương mà Ngài đã khởi xướng khi tuyên bố: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu hiến mạng sống vì bạn hữu”, “Ta ban cho các con một điều răn mới là hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các con”.
Ước gì sự hiến thân chết vì tình yêu trên Thập giá của Chúa dẫn chúng ta từng bước thoát khỏi bóng đêm của tội lỗi để tiến vào ánh sáng của Chúa Nhật Phục Sinh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Sự vấp ngã của Giuđa và Phêrô
Chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu và đi sâu vào tâm tư Chúa trong giây phút quan trọng này, có hai đặc điểm quan trọng được nêu bật ở đây: Ngài là một vị Thiên Chúa nhập thể làm người như chúng ta; là con người, Chúa Giêsu xúc động mạnh mẽ, tâm hồn xao xuyến sâu xa trước cuộc Thương Khó sắp trải qua, trước sự không hiểu và sắp phản bội của các đồ đệ, của Giuđa phản bội và của Phêrô tự phụ chối Chúa. Là một vị Thiên Chúa, Chúa Giêsu ý thức rõ ràng điều sắp xảy ra cho mình và gọi đó là việc tôn vinh Thiên Chúa. Giờ tử nạn là giờ tôn vinh, Thiên Chúa được tôn vinh, chính Chúa được tôn vinh và con người được tôn vinh, được hòa giải với Thiên Chúa, được lãnh nhận sự sống đời đời.
Nơi chương 17 sau đó, Chúa Giêsu nói rõ ra nội dung chính của việc tôn vinh này như sau: "Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh con Cha để con Cha tôn vinh Cha theo quyền năng Cha đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật và nhận biết Ðấng Cha sai đến là Giêsu Kitô. Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm". Chúa Giêsu ý thức rõ ràng về chương trình Thiên Chúa Cha muốn thực hiện, Chúa muốn thực hiện điều đó cách hoàn hảo, nhưng đồng thời ý thức rõ ràng điều tệ hại mà các môn đệ của Ngài đang liều sa vào. Giuđa sắp phản bội, Phêrô sắp chối bỏ Ngài, nên Chúa xao xuyến sâu xa.
Nhưng tội lỗi của con người không thể làm hư chương trình của Thiên Chúa. Cho đến tận cùng, Chúa làm những gì có thể làm được để thức tỉnh người tội lỗi. Chúa hành xử với mỗi người một cách khác nhau, ngấm ngầm, âm thầm với Giuđa và công khai với Phêrô. Nhưng quyết định cuối cùng vẫn là quyết định tự do của con người. Giuđa mở tâm hồn, đón nhận Satan, từ bỏ ánh sáng, tự ý bước vào trong tối tăm và càng ngày càng lún sâu vào đó cho đến mức tuyệt vọng, vì trong tâm hồn ông không còn chút tình yêu nào đối với Chúa nữa. Phêrô cũng sẽ sa ngã, nhưng tình yêu Chúa nơi ông giúp ông ăn năn trở lại, bắt gặp cái nhìn của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con trở về cùng Chúa, đừng bao giờ thất vọng về những lỗi lầm đã phạm, nhưng biết học lấy bài học của sự sa ngã để tiến lên mãi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Khổ đau của Đức Giêsu
Đức Giêsu nói thế rồi, tâm thần Người xao xuyến. Người tuyên bố:
“Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy”. (Ga. 13, 21)
Đức Giêsu chịu nhiều đau khổ, nhưng người ta tự hỏi, đau khổ lớn nhất có phải là đòn đánh, mạo gai, cơn hấp hối hay bị đóng đinh trên thập giá? vì còn nhiều thứ đau khổ khác nữa.
Thứ đau khổ con tim và linh hồn mới thực sự cực khổ hơn bất cứ đau khổ thể xác nào. Người ta đau khổ thể xác mà trái tim vẫn có thể hạnh phúc, như các thánh tử đạo, bị cực hình thân xác, nhưng tâm hồn vẫn hân hoan. Khi bị đau khổ tâm hồn và tâm tư, thì không còn cách nào được sung sướng.
Đức Giêsu đã bị một ông tông đồ bán: đó là Giu-đa. Người cũng bị tông đồ cả là Phê-rô chối bỏ. Người còn bị tất cả các môn đệ bỏ trốn. Đó không phải là những lúc đau khổ lớn nhất sao?
Đau khổ cực dữ nhất không phải là thứ đau khổ làm cho kêu la lớn nhất. Đau khổ thấm thía sâu sắc không phải là thứ đau khổ kêu gào trên mái nhà. Đau khổ lớn nhất cũng như niềm vui to nhất thường là câm lặng.
Đức Giêsu biết một bạn thân nộp Người. Người đã không vạch mặt chỉ tên. Trái lại, Người đã rất kín đáo bảo Giu-đa đi làm công việc như thường để không một môn đệ nào biết. Những đau khổ đó càng dằn vặt dữ tợn khi người ta muốn đối diện với chúng một mình.
Bị Giu-đa bán nộp, tiếp theo đó Đức Giêsu còn phải đối diện với sự phản bội của Phê-rô. Người biết rõ thế. Phê-rô lại chẳng biết gì, ông không thể tưởng tượng mình sa ngã xuống hố sâu đến thế. Đức Giêsu không phiền trách ông chút nào. Người sẵn sàng chịu đau khổ do những bạn nghĩa thiết của Người và tất cả mọi người, dù họ đầy những yếu đuối. Còn chúng ta có noi gương Người không?
Khi người ta chịu đau khổ vì những người thân yêu, thì chính là dấu người ta yêu chân thật.
J.Y.G
SUY NIỆM 5: HÌNH ẢNH TỘI LỖI QUA BÓNG ĐÊM (Ga 13,21-33. 36-38)
Khi mặt trời lặn, bóng đêm bao phủ không gian, thì cũng là dịp thuận tiện để cái ác lộ hiện hay những hành vi tội lỗi như trộm cướp, ăn chơi xuất hiện... Bóng đêm là “biểu tượng” của những âm mưu xấu xa. Bóng đêm còn “ám chỉ sự dữ”, bởi bóng đêm quay lưng lại với “ánh sáng” và bóng đêm “bóp chết tình yêu”.
Cuối Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan có nhắc đến thời điểm đêm tối và kẻ bán Thầy bắt đầu ra đi. Hành vi Giuđa rời bàn ăn, tiến vào đêm tối gợi cho chúng ta cảm tưởng tội lỗi đã đối đầu với Ánh Sáng và tràn ngập nhân gian.
Bóng đêm chia cắt tình Thầy – trò; bóng đêm cũng làm cho tình huynh đệ bị rạn nứt; bóng đêm còn làm cho cái ác ngự trị thay cho tình yêu. Sự ra đi của Giuđa vào lúc trời tối cho thấy rõ bản chất của sự việc.
Thứ ba Tuần Thánh, Giáo Hội cho đọc lại Bài Tin Mừng hôm nay nói về âm mưu phản bội của Giuđa khi trời đã tối, Giáo Hội nhắc cho chúng ta rằng:
Chúng ta thuộc về “Ánh Sáng” chứ không thuộc về “đêm”, vì thế, mỗi người hãy tránh xa “đêm tối”, vì đêm tối dẫn đến diệt vong.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được ơn trung thành với Chúa đến cùng. Đừng vì nông nổi, tham tiền, hám danh mà bán rẻ lương tâm cho ma quỷ qua những lựa chọn trái ngược với Tin Mừng. Amen.
Ngọc Biển SSP
06/04 Yêu là cho đi
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Yêu là cho đi.
Thứ Hai tuần thánh.
"Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta".
Lời Chúa: Ga 12, 1-11
Sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bêtania, nơi Ladarô đã chết được Người cho sống lại. Tại đây người ta dọn bữa cho Người ăn. Martha hầu bàn. Còn Ladarô cũng là một trong những kẻ đồng bàn với Người. Bấy giờ Maria lấy một cân dầu thơm, dầu cam tùng hảo hạng, và xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau. Hương thơm toả đầy nhà.
Một môn đệ là Giuđa Iscariô, kẻ sẽ phản nộp Người, liền nói: "Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo khó?" Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó. Vậy Chúa Giêsu nói: "Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta. Vì các ngươi sẽ có người nghèo luôn bên cạnh các ngươi, còn Ta, các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu".
Có đám đông người Do-thái biết Người đang ở đó, nên tuôn đến, không những vì Chúa Giêsu, mà còn để thấy Ladarô, kẻ đã chết được Người cho sống lại.
Thế là các Thượng tế quyết định giết luôn cả Ladarô, vì tại ông mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin theo Chúa Giêsu.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Ngày mai táng Thầy
Suy niệm:
Việc Đức Giêsu làm cho anh Ladarô hoàn sinh đưa đến hai thái độ.
Thượng Hội Đồng họp nhau lại và quyết định về cái chết của Đức Giêsu.
Còn chị Maria, trong bài Tin Mừng này, lại như muốn chuẩn bị cho cái chết ấy.
Trong bữa tiệc tại nhà của chị em Mácta, Maria, Ladarô, tại Bêtania,
Đức Giêsu được mời như một vị khách, có cả môn đệ của Ngài nữa.
Bữa ăn tối này là một cử chỉ diễn tả lòng kính trọng, yêu mến, và biết ơn
của cả gia đình đang vui sướng trước sự trở lại từ nấm mồ của người thân yêu.
Ladarô hẳn sẽ được ngồi gần Thầy Giêsu, Đấng thương mến anh (Ga 11,3),
Đấng trả lại cho anh sự sống.
Chính trong bữa ăn do chị Mácta phục vụ này,
cô Maria đã làm một điều đặc biệt và rất bất ngờ.
Cô đã xức lên chân Thầy Giêsu một cân dầu thơm cam tùng hảo hạng,
khiến cả nhà sực nức mùi hương.
Chúng ta không hiểu tại sao cô xức chân Thầy thay vì đổ dầu thơm trên đầu.
Người ta không xức dầu thơm lên chân một người còn sống,
nhưng người ta có thể xức lên chân một người đã qua đời
để chuẩn bị cho việc mai táng người ấy.
Cô Maria không ngờ mình đã làm một hành vi có tính tiên tri về cái chết của Thầy,
như trước đây thượng tế Caipha đã vô tình nói tiên tri về cái chết ấy (Ga 11, 51).
Cô không ngờ việc xức dầu tối nay của mình là cử chỉ tượng trưng
cho việc liệm xác Thầy Giêsu sau này của ông Nicôđêmô
với một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương (Ga 19, 39).
Nhìn cô Maria xức dầu, ta thấy cử chỉ trân trọng của cô đối với vị Thầy khả kính.
Cô chấp nhận sự phí phạm này, vì tình yêu của cô đối với Thầy,
hay đúng hơn, vì tình yêu quá lớn của Thầy đối với gia đình cô.
Cô xức dầu mà không so đo tính toán.
Lượng dầu quý giá được đổ ra chẳng là gì so với ân nghĩa của Thầy.
Nhưng có người thấy khó chịu, đó là Giuđa Ítcariốt, một môn đệ của Thầy.
Anh thấy tiếc vì lượng dầu thơm ấy thật đắt tiền,
có giá bằng lương gần một năm của một công nhân.
“Tại sao lại không bán dầu thơm ấy mà cho người nghèo?”
Thầy Giêsu bênh vực cho cô Maria khi nói lên ý nghĩa việc làm của cô.
Hành vi chuẩn bị mai táng phải được đặt trên hành vi bố thí giúp người nghèo.
Hơn nữa, “người nghèo thì lúc nào cũng có, còn Thầy, anh em không có mãi đâu.”
Đức Giêsu ám chỉ cái chết sắp đến của mình.
Giuđa có vẻ không hiểu được thế nào là tình yêu.
Anh là người giữ tiền của cả nhóm, nhưng lại thường ăn cắp để dùng riêng. (c. 6).
Có thể đồng tiền đối với anh là quá lớn, lớn hơn cả tình yêu.
Anh phản bội Thầy mình cũng vì đồng tiền (Mt 26, 15).
Mong chúng ta biết dùng tiền bạc để diễn tả tình yêu như cô Maria.
Cầu nguyện :
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen. (R. Tagore)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
SUY NIỆM 2: Yêu là cho đi.
Một đôi vợ chồng nghèo nhưng yêu thương nhau tha thiết. Mỗi người sở hữu một vật quý giá: Della có mái tóc đen huyền dài và đẹp, nàng rất quý nó và hãnh diện về nó. Còn Jim chỉ có chiệc đồng hồ vàng, đó là kỷ vật duy nhất của cha anh trối lại.
Một ngày lễ Giáng sinh, Della quyết định cắt ngắn bộ tóc và đem bán để mua cho Jim sợi dây đồng hồ thật đẹp. Hôm ấy về đến nhà, Jim ngỡ ngàng nhìn Della khi thấy nàng tóc ngắn, vì không biết phải làm gì với món quà là bộ lược bằng xà cừ rất đẹp mà anh đã bán chiếc đồng hồ để mua tặng nàng. Della và Jim đã cho nhau tất cả những gì mình có, họ đã hy sinh tất cả cho nhau.
Vào đầu tuần thánh, Giáo Hội cũng nhắc đến hai người bạn của Chúa Giêsu, cũng như Della và Jim, họ đã cho Chúa Giêsu tất cả những gì mình có. “Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bêtania… Ở đố người ta thiết tiệc Ngài. Có Marta phục dịch, Lazarô là một trong những người đồng bàn với Ngài. Maria lấy bình bạch ngọc đựng đầy dầu thơm xức lên chân Chúa Giêsu và lấy tóc mình mà lau chân Ngài”.
Một lần nữa, Tin Mừng cho chúng ta gặp lại Marta và Maria. Tuy lần ghé trước Marta đã nghe Chúa Giêsu nói chỉ có một việc cần đó là lắng nghe lời Chúa. Nhưng lần này, Marta cũng chẳng đừng được, đã biết cuộc hội ngộ với Chúa Giêsu thành một yến tiệc, bởi lẽ theo chị, nấu những món ăn thiết đãi Chúa và các môn đệ là để tỏ lòng hiếu khách, nhất là tỏ lòng biết ơn Chúa đã cải tử hoàn sinh cho Lazarô. Phần Maria còn đi xa hơn: chị lấy dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa và lấy tóc mình mà lau. Qua cử chỉ ấy chúng ta thấy rõ chiều sâu mối tình của chị đối với Chúa Giêsu. Một tình không tính toán khiến chị sử dụng dầu thơm quý giá mà theo ước tính của Giuđa có thể lên tới 300 đồng bạc tức 300 ngày công. Mối tình khiêm nhu, vì theo tục lệ thời đó, chủ nhà hay bất cứ phần tử nào trong gia đình thường xức thuốc thơm trên đầu người khách để tỏ lòng quí mến, nhưng Maria khiêm tốn nghĩ mình chỉ đáng xức dầu thơm vào chân Thày thôi. Mối tình tự hạ, thể hiện qua việc lấy tóc mình để lau chân Chúa. Chúa Giêsu chấp nhận cử chỉ nói lên lòng kính trọng, yêu thương của Maria, cũng như vui lòng ngồi vào bàn tiệc do Marta khoản đãi.
Với mẫu gương yêu mến của Marta và Maria đối với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn để ôn lại, để chấp nhận và để đáp lại mối tình bao la của Thiên Chúa đã thí ban người Con Một vì phần rỗi nhân loại, cũng như để đáp lại mối tình của Chúa Giêsu đã sẵn lòng đón nhận cái chết ô nhục vì tình yêu đối với Chúa Cha và đối với mỗi người chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu
Ðoạn Tin Mừng trên gợi lên trong chúng ta nhiều ý nghĩ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu luôn luôn là một dấu gây mâu thuẫn. Nhiều người tin Chúa, mến Chúa, thương Chúa, mà cũng có nhiều người khác dèm pha, chống đối và muốn loại trừ. Những kẻ thuộc nhóm ủng hộ Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay là những người dọn tiệc đãi Chúa ở Bêtania là Lazarô, là Maria - người lấy dầu thơm xức chân Chúa. Những kẻ chống đối Chúa hay sắp đi vào con đường chống đối Ngài là các thượng tế ganh tị, là Giuđa Iscariốt - người thủ quĩ của nhóm môn đệ chung quanh Chúa Giêsu. Chúng ta hãy quan sát thêm thái độ của những kẻ chống đối Ngài, các thượng tế, những người lãnh đạo của dân Do Thái và là những kẻ được dân chúng kính nể như những trí thức và đạo đức. Nhưng phải chăng đây là cái vẻ bên ngoài, vì bên trong tâm hồn xem ra như chứa đầy những chuyện xấu xa, mưu mô, ganh tị, tham quyền, sợ dân bỏ họ mà theo Chúa Giêsu? Vì thế, họ có ý định giết luôn cả Lazarô, xóa bỏ luôn cả dấu chỉ hiển nhiên của Thiên Chúa quyền năng hiện diện giữa con người.
Quyền năng Thiên Chúa được thể hiện nơi dấu lạ cho Lazarô đã chết được sống lại. Ghét Chúa, những thượng tế kia muốn xóa bỏ cả những dấu chỉ, những chứng tá về Chúa để lương tâm họ được yên, không còn bị quấy rầy nữa. Chúng ta có hành xử giống như những vị thượng tế Do Thái này hay không, hay chúng ta hành xử giống như Giuđa Iscariốt. Giuđa chưa phản bội Chúa, nhưng đang trên đường phản bội Chúa với những hành động xấu được nhắc đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ham mê tiền của, lấy của công để lo cho tư lợi riêng, lạm dụng danh nghĩa người nghèo, miệng nói lo cho người nghèo nhưng hành động ngược lại. Ðây là tội mà ngày nay có thể gọi là kinh doanh trên sự nghèo cùng của anh chị em.
Hơn nữa, khi phê bình hành động tốt lành của cô Maria, xức dầu thơm nơi chân Chúa như là một việc làm phí của, thì Giuđa cho thấy tâm địa hẹp hòi của mình, Giuđa xem đồng tiền lợi lộc vật chất trọng hơn chính Chúa Giêsu và mối tương quan thân thiện với Ngài. Thường tình, nếu là bạn tốt với nhau, thì khi một người sắp ra đi, kẻ ở lại phải làm vừa ý người ra đi, để nói lên lòng quí mến của mình, nhưng Giuđa đã không hành xử như vậy với Chúa Giêsu. Là một trong mười hai tông đồ sống bên cạnh Chúa, chắc chắn Giuđa đã nghe nói đến sự ra đi đầy đau thương của Ngài tại Giêrusalem, nhưng Giuđa xem ra lãnh đạm vô tâm, vô tình với biến cố, vả lại Giuđa đã công kích hành động tốt của Maria, cho đó là một việc làm phung phí, vô ích. Giuđa đã mất đi ý thức bén nhạy để phán đoán điều gì tốt, điều gì không. Giuđa xét đoán không theo sự việc khách quan mà theo tâm tình hèn hạ của mình. Tâm hồn Giuđa thì xấu, nên xét việc tốt cũng thành xấu. Chúng ta có hành xử đúng như vậy hay không.
Lạy Chúa, đoạn Tin Mừng hôm nay là lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu giúp chúng con xét mình. Xin cho con khiêm tốn đến cùng Chúa để Chúa giúp con từ bỏ tinh thần của con hiện tại và quyết chí canh tân. Xin cho con biết đặt Chúa vào chỗ đứng mà Chúa đáng được như vậy trong đời sống con. Xin Chúa giúp con hiểu và thực hành đời sống con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Dấu thân ái
Ở đó người ta dọn bữa ăn tối thiết đãi Đức Giêsu; Cô Mac-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quí giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau, cả nhà sực mùi thơm. (Ga. 12, 2-3)
Giu-đa đã chướng tai gai mắt về Ma-ri-a đổ bao nhiêu dầu thơm xức chân Đức Giêsu. Có lẽ chúng ta cũng thấy chướng mắt như vậy. Lọ dầu giá ba trăm đồng gần bằng tiền lương công nhân cả năm, ai trong chúng ta sẵn lòng cho người khác như vậy? Ai đã làm được thế? Chỉ có một cách duy nhất giải thích cử chỉ đó: Cô yêu mến Đức Giêsu.
Khi yêu, người ta có thể cho tất cả. Yêu chân thật thì làm tất cả. Người ta cho thứ tốt nhất và không tính toán giá trị bao nhiêu. Tình yêu chân thật không hẹp hòi, không tính toán, yêu là tất cả.
Chúng ta quả quyết hoàn toàn tự nguyện yêu mến Thiên Chúa và chúng ta có cảm tình nhiều với tất cả mọi người sống với chúng ta. Cần phải chứng thực điều đó qua mấy câu hỏi sau đây: Chúng ta cho những người ta yêu cái gì? Chúng ta đã cống hiến bao nhiêu thời gian cho họ? Chúng ta có sẵn sàng chịu sạch bách hết trọi để đem lại hạnh phúc cho họ không?
Đức Giêsu đã yêu mến chúng ta đến hiến cả mạng sống cho chúng ta, có thể nói yêu đến điên cuồng. Nhưng người ta có thể yêu mà không điên cuồng một chút nào ư? Nếu chúng ta không có thể điên cuồng một chút đối với những người chúng ta nói yêu họ, thì chỉ là yêu nửa vời. Nếu chúng ta không có thể điên cuồng một chút để biểu lộ lòng yêu mến Thiên Chúa, nếu thỉnh thoảng chúng ta không làm những cử chỉ khác thường, thì chúng ta chỉ yêu nửa vời.
Nếu phải vạch trần con tim của chúng ta xem, nếu họ bao bọc chúng ta làm cho chúng ta được hạnh phúc cho riêng mình, khi đó chúng ta mới tỏ lòng yêu họ và yêu Chúa, thì như thế là thứ tình yêu như Giu-đa.
J.Y.G
SUY NIỆM 5: TÌNH YÊU VƯỢT LÊN TẤT CẢ (Ga 12,1-11)
Thời xưa và thời nay, nước hoa vẫn là một loại thảo dược được nhiều người con gái tuổi thanh xuân hay đang yêu sử dụng nhiều, bởi nó là biểu tượng của tình yêu. Vì thế, người ta muốn bày tỏ hay minh chứng tình yêu, thì thường tặng cho nhau những lọ nước hoa đắt tiền.
Maria trong bài Tin Mừng hôm nay đã không tiếc xót khi hiến dâng cho Đức Giêsu một bình dầu thơm hảo hạng có giá tới 300 đồng bạc, tương ứng với khoảng 300 ngày công lao động thời bấy giờ.
Hành động của Maria không phải là một hành động mang tính phung phí như Giuđa nghĩ, mà là dấu hiệu, biểu lộ của tình yêu. Cô đã kính phục Đức Giêsu nhiều chuyện, nhất là hôm cô được ngồi dưới chân Ngài mà nghe giảng. Hơn nữa, người em của cô là Lazarô đã được Đức Giêsu cải tử hoàn sinh, nên lòng kính mến lại dâng lên gấp bội. Vì thế, cô đã không hề tiếc xót khi phải cho đi thứ quý giá của cô. Có lẽ nếu có tiếc thì cô tiếc là không có nhiều hơn để dâng hiến vì cô yêu mến Đức Giêsu tha thiết.
Khi cơ hội ngàn năm có một, nên cô đã tiến lại và đập vỡ bình dầu ra, đổ lên chân Đức Giêsu rồi lấy tóc mình mà lau.
Khởi đầu Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng hành vi của cô Maria để noi theo!
Noi theo đây không phải là chúng ta phải bỏ ra những thứ đắt tiền như Maria để tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa, mà là noi theo gương khiêm nhường, sám hối, canh tân và yêu mến như Maria.
Một trong những việc cụ thể để tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là chúng ta từ bỏ con đường tội lỗi, trở về với Chúa và hoán cải cuộc đời.
Xin Chúa cho chúng ta bước vào Tuần Thánh với tâm tình sám hối thực sự để chúng ta được hưởng ơn cứu chuộc của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
05/04 Cuộc Thương Khó Chúa Giêsu Kitô
- Viết bởi Mt 26,14 - 27,66
Cuộc Thương Khó Chúa Giêsu Kitô.
Chúa Nhật Lễ LÁ năm A.
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
Bài Thương Khó: Mt 26,14 - 27,66 (bài dài)
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ: S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: S. "Thưa Thầy, có phải con không?" C. Người trả lời rằng: J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!" C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng: S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?" C. Chúa đáp: J. "Ðúng như con nói". C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta". C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán: J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy".
C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông: J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con". C. Phêrô liền thưa: S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần". C. Phêrô lại thưa: S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy". C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy.
Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ: J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện". C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông: J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy". C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói: J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn". C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô: J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối". C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng: J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha". C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo: J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần".
C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này: S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy". C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói: S. "Chào Thầy". C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo: J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?" C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo: J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?" C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng: J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép". C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết.
Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng: S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày". C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói: S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?" C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người: S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?" C. Chúa Giêsu trả lời: J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây". C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói: S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?" C. Họ đáp lại:
S. "Nó đáng chết!" C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng: S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?" C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói: S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa". C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng: S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?" C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét". C. Ông thề mà chối rằng: S. "Tôi không biết người ấy". C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng: S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi". C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng: S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính". C. Nhưng họ trả lời: S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!" C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói: S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu". C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi".
Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Ông nói đúng!" C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?" C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.
Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng: S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?" C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng: S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy". C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ: S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?" C. Họ thưa: S. "Baraba!" C. Philatô hỏi: S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?" C. Họ đồng thanh đáp: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Quan lại hỏi: S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?" C. Chúng càng la to: S. "Ðóng đinh nó đi!" C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói: S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi". C. Toàn dân đáp: S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi". C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.
Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: S. "Tâu vua dân Do-thái!" C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người. Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả. Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói: S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!" C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng: S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!" C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: J. "Eli, Eli, lema sabachtani!" C. Nghĩa là: J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!" C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng: S. "Nó gọi tiên tri Elia". C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo: S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?" C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói: S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa".
C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê. Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ. Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng: S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước". C. Philatô trả lời: S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý. C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT LỄ LÁ năm A
Lời Chúa: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mt 26,14–27,66
1. Chúc tụng Đức Vua
('Manna')
Con Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người, Ngài còn chia sẻ thân phận của những người yếu thế. Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi.
Trên thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội bị kết án bất công, bị làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.
Đức Giêsu đứng về phía những người cùng khổ. Ngài vác thánh giá của họ, như họ và với họ.
Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Đức Giêsu, chúng ta cũng muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại.
Đức Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế, ngày nào còn một người anh chị em của Ngài khốn khổ.
Đi đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay giúp ta nhậy cảm hơn với thánh giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước mọi cuộc khổ nạn đang diễn ra trên toàn cầu.
Đức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người. Ngài muốn gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô lý. Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha, nhờ đó thánh giá nở hoa, vực thẳm tràn trề sức sống.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa, ta thấy mình chẳng phải là kẻ đứng ngoài cuộc.
Tôi thấy mình có nét của Giuđa, một người được chọn, được yêu, được theo Thầy rất gần. Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được nghe. Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.
Tôi thấy mình có nét giống Phêrô. Ông tự hào về tình yêu của mình đối với Thầy để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Tiếng gà nào khiến Phêrô chợt tỉnh. Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà khóc. Vẫn có những tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời tôi...
Tôi thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ: sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông thét gào. Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội.
Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê, tò mò, háo hức, trông chờ Đức Giêsu làm phép lạ. Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh. Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.
Nhưng cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng.
Simon vác đỡ thập giá Đức Giêsu, các bà theo sau than khóc.
Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành. Một người bị đóng đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Đức Giêsu vô tội và anh xin Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ. "Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng": Câu này cũng phản ánh niềm tin và hy vọng của Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Pascal viết: "Đức Kitô còn hấp hối cho đến ngày tận thế." Bạn nghĩ gì về câu nói này? Bạn có cảm thấy cơn hấp hối của phần lớn nhân loại hôm nay không?
Trong các nỗi đau của Đức Giêsu chịu khổ nạn, bạn thấy nỗi đau nào lớn nhất? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
2. Đau khổ của Đức Kitô
Trong thời đệ nhị thế chiến, có một linh mục Hoà Lan bị Đức quốc xã bắt và đem về trại tập trung ở Dachau. Tại đây ngài bị nốt trong một chiếc cũi. Bọn lính mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như con chó mỗi lần chúng đi qua. Cuối cùng ngài đã chết vì bị tra tấn. Bọn lính đâu có ngờ giữa cơn thử thách, ngài vẫn tiếp tục viết nhật ký, qua đó chúng ta biết sở dĩ ngài có thể chịu đựng được mọi đau đớn là vì ngài biết rằng Chúa Giêsu đã từng đau đớn như thế trước ngài. Trong một lời kinh, ngài đã bày tỏ cùng Chúa: Lạy Chúa, sẽ không có nỗi đau đớn nào làm con ngã gục bởi vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy đau khổ của Chúa. Con đường thập giá Chúa đã đi qua giúp con chịu đựng nỗi đắng cay một cách khôn ngoan. Vậy trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã phải chịu đựng những khổ đau nào?
Trước hết là nỗi đớn đau trong tâm hồn. Thực vậy, tại vườn Cây Dầu, Ngài đã đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cơn thử thách sắp tới. Còn gì đau đớn cho bằng khi bị những người thân yêu của mình bỏ rơi và phản bội. Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đớn đau này khi bị Giuđa bán đi với giá 30 đồng bạc, khi bị Phêrô chối bỏ chỉ vì một vài câu hỏi vu vơ, khi bị các môn đệ bỏ rơi. Và điều quan trọng hơn nữa, đó là Ngài đã mặc lấy thân phận tội nhân, và cảm thấy như bị chính Chúa Cha từ bỏ. Bởi đó, trên thập giá Ngài đã phải thốt lên: Lạy Cha, sao Cha lại bỏ con?
Có lẽ mỗi người chúng ta đều đã có kinh nghiệm về vấn đề này, khi chúng ta bị những người trong gia đình, trong khu xóm, những người chúng ta yêu mến và kính trọng phản bội.
Tiếp đến là những đau khổ ngoài thể xác. Ngài đã bị đánh đập, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá. Dĩ nhiên chúng ta chưa nếm thử những đớn đau khủng khiếp như thế, nhưng ít ra chúng ta cũng đã trải qua những đau khổ ngoài thân xác, chẳng hạn như khi chúng ta đau yếu bệnh tật.
Có một bác sĩ vì chữa lành thương tích cho một thành viên chống đối chính phủ, nên đã bị cảnh sát bắt giữ và bị tra tấn dã man. Trong lúc bị tra tấn như vậy, vị bác sĩ này cảm nghiệm được một cách mơ hồi nỗi đau đớn Chúa Giêsu đã từng chịu, cũng như thấy được rằng Chúa luôn ở bên cạnh và giúp đỡ để ông được kiên vững. Còn chúng ta thì sao?
Nói theo kiểu nhà Phật thì đời là bể khổ, mà mỗi người chúng ta là một cách bèo trôi dạt trên đó. Đúng thế, đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Hay nói cách khác, đã là người thì ai cũng phải đau khổ. Thoạt sinh ra thì đã khóc choé, đời có vui sao chẳng cười khì. Trong những giây phút đớn đau và tăm tối, chúng ta hãy nhìn lên thập giá và chúng ta sẽ thấy được rằng chính Chúa cũng đã đớn đau trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Từ đó, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm an ủi và khích lệ để biết chấp nhận mọi đớn đau gian khổ, như góp một phần nhỏ bé của chúng ta vào thập giá Đức Kitô.
3. Lễ lá – Mt 21,1-11.
Qua phần phụng vụ hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ ba điểm.
Trước hết Chúa nhật Lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem cách long trọng.
Biến cố này cho chúng ta thấy giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ phải bước vào cái chết để đem lại ơn cứu độ và sự phục sinh, như hạt lúa mì cần phải mục nát đi thì mới nẩy mầm và kết trái. Trước đó, nhiều lần những người Do Thái chống đối lập mưu giết hại Ngài, nhưng giờ Ngài chưa đến, đồng thời nhiều lần dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, nhưng giờ Ngài cũng chưa đến. Còn lúc này giờ ấy đã đến và đã đến thật rồi.
Tiếp đến, với Chúa nhật Lễ Lá, chúng ta tôn kính Đức Kitô là Vua.
Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế, Ngài đồng ý để dân chúng tung hô vạn tuế Ngài là Vua: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Và cũng chính vì phong cách vương đế này mà Ngài đã bị kết án tử hình. Bản án của Ngài được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, Latinh và Hy Lạp: Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái. Chính Ngài đã xác quyết trước toà án Philatô: Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi. Sở dĩ như vậy vì vương quốc của Ngài là vương quốc của yêu thương và an bình, vương quôc của sự sống và chân lý.
Sau cùng, Chúa nhật Lễ Lá nhắc cho chúng ta biết về giá trị của những đau khổ.
Thực vậy, sống trên đời là phải đối đầu với khổ đau, bởi vì Lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc thương khó của Chúa, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Ngài trên đỉnh Canvê. Khi chấp nhận vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng không phải là vác đi trong than khóc, mà vác đi trong hy vọng. Bởi vì với Chúa Giêsu, thập giá và phục sinh không thể tách lìa nhau. Với Chúa Giêsu, đau khổ và sự chết không đẩy con người vào ngõ cụt, mà trái lại đem con người tiến bước trên con đường dẫn tới ngày phục sinh.
Điều nghịch lý của Lễ Lá, đó là vị vua của chúng ta đang tiến lên, vị vua đã bênh vực nhân vị, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người, thế nhưng chính vị vua ấy lại thu tích tất cả những đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người vào trong chính bản thân của mình để chết đi một lần thay cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào cõi phúc trường sinh. Và đó cũng chính là niềm hy vọng của chúng ta, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới sự phục sinh.
4. Con đường Chúa đi
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
BÀI THƯƠNG KHÓ: Mt 26,14 – 27,66
Lễ Lá có một khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi đầu Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêsusalem. Kết cục, Chúa Giêsu chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá. Con đường vào thành của Người là con đường vinh quang vương giả. Nhưng con đường lên Núi Sọ lại là con đường của kẻ tội đồ.
Đám rước tưng bừng ngày Lễ Lá gọi ta cùng tiến bước theo Chúa.
Tiến bước theo Chúa để hiểu rằng hành trình không kết thúc tại cổng thành Giêrusalem với đám đông ngưỡng mộ, với cành lá và quần áo trải thảm đường đi, nhưng kết thúc trên Núi Sọ với thập giá, với những lời nhục mạ, với hai tội nhân đồng hành. Chúa Giêsu không xưng vương trước đám đông cuồng nhiệt nghênh đón, nhưng lại xưng vương trước mặt Philatô, khi tay đã bị trói, khi thân thể đã tan nát không còn hình tượng con người, khi đã mất hết uy tín, đứng trước vành móng ngựa như một phạm nhân. Danh hiệu là Vua chỉ được chính thức ghi bằng chữ viết khi Người bị treo trên thập giá.
Hành trình của Chúa là một hành trình gian khổ. Đích điểm chỉ đạt tới sau khi đã từ bỏ tất cả, không phải chỉ là nhà cửa, y phục mà cả những người thân, cả thành công, cả danh dự, cả mạng sống.
Tiến bước theo Chúa để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.
Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa vung tay chân hoan hô Chúa, hôm sau đã vội vung tay vung chân kết án Chúa.
Cũng đám đông ấy hôm trước vừa reo hò chúc tụng Chúa, hôm sau cũng vẫn reo hò, nhưng để buộc tội Chúa.
Cũng đám đống ấy, hôm trước vừa chen lấn nhau để nghênh đón Chúa, hôm sau đã xúm đông xúm đỏ để hành hạ Chúa.
Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa cởi áo, chặt cành lá lót đường Chúa đi, hôm sau đã lột áo Chúa, chặt cành gai cuốn lên đầu Chúa.
Tiến bước theo Chúa để dứt khoát lựa chọn cho mình một con đường.
Đường vào Giêrusalem chỉ có một và rộng thênh thang. Mọi người đều tụ tập và cùng chung lối bước. Nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp và chia ra muôn ngả. Mỗi người đi theo con đường của mình.
Đường Giêrusalem đông vui và phấn khởi vì mọi người ca hát tưng bừng. Nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có tiếng roi vọt, tiếng than khóc, tiếng chửi rủa.
Đường vào Giêrusalem mọi người đều theo Chúa, mọi người đều là môn đệ Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã phản bội. Có những người đã trốn chạy. Có những người đã chối bỏ Thầy.
Đường vào Giêrusalem có con lừa chở Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ Chúa phải vác thánh giá.
Đi theo Chúa trên đường vào Giêrusalem thì dễ dàng và vui vẻ. Nhưng theo Chúa trên con đường Núi Sọ mới thật chông gai.
Nếu tôi có mặt ở đó, tôi sẽ dễ dàng hoà nhập vào đoàn người cầm cành lá đón rước Chúa. Nhưng khi Chúa đi lên Núi Sọ, tôi sẽ rẽ sang đường nào? Tôi sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi sẽ rẽ sang những con đường hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi sẽ phụ họa với đám đông kết án Chúa? Hay tôi cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Trước sau gì tôi cũng phải lựa chọn một con đường.
Lạy Chúa, xin cho con luôn tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa đi. Xin thêm sức cho con để con kiên trì theo Chúa trên đường lên Núi Sọ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Hãy so sánh đường vào thành Giêrusalem và đường lên Núi Sọ.
2) Nếu bạn có mặt ở Giêrusalem hôm ấy bạn sẽ làm gì?
3) Bạn dám có lập trường riêng hay bạn chỉ biết làm theo đám đông?
5. Tình yêu đáp lại hận thù
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự.
Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
6. Thương khó
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta cơ hội lắng nghe và suy niệm về sự thương khó của Giêsu Kitô là Đấng Thánh. Chúa Giêsu đã thực hiện tất cả những lời tiên báo của tiên tri Isaia về biến cố đau thương của người tôi tớ: Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu, tôi đã không che giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi (Is 50, 6). Đây là Bài ca thứ ba mà Isaia đã loan tin về Người Tôi Tớ Chúa, viết khoảng hơn 500 về trước. Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn một kiếp người, có sinh ra và có từ trần. Quãng đời của Chúa sống trên trần gian chỉ vỏn vẹn 33 năm. Chúa đã sống ba mươi năm âm thầm lặng lẽ và trưởng thành nơi miền Nazaret bé nhỏ. Chúa Giêsu chỉ dùng ba năm cuối đời để rao giảng Tin mừng, làm các phép lạ và mạc khải về Nước trời.
Ba năm giảng đạo của Chúa gặp rất nhiều khó khăn thách đố. Xuất thân từ làng quê miền Nazarét, ngay từ khởi đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã bị nhiều người nghi ngờ, khinh dể và coi thường. Với dáng vẻ bình thường của một thanh niên trẻ, Chúa Giêsu bắt đầu sứ mệnh rao giảng Tin mừng cứu độ. Đối diện với một hệ thống tôn giáo hình thức và xã hội có truyền thống lâu đời, từng bước Chúa Giêsu đã đánh động con tim, khơi dậy tình yêu và canh tân cuộc sống. Như một nhà cách mạng nội tâm đổi đời, Chúa Giêsu đã đối mặt với nhiều sự chống đối, tẩy chay và thách thức. Một thân một mình gầy dựng, mời gọi và chọn lựa một nhóm môn đệ nồng cốt để truyền đạt chân lý nước trời. Chúa luôn tôn trọng quyền tự do của mỗi người. Chúa vạch rõ con đường để đi tìm sự thật, bất chấp những đố kỵ, ngăn cản và thù ghét. Một niềm tin tưởng và chu toàn thánh ý Chúa Cha. Tiên tri Isaia diễn tả sự vâng phục: Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi không phải hổ thẹn (Is 50, 7).
Trong những năm giảng dậy, Chúa Giêsu đã mạc khải tất cả mầu nhiệm về Nước Trời. Chúa đã dùng mọi hình ảnh, câu truyện, kinh nghiệm cụ thể, các tỉ dụ, dụ ngôn, ngụ ngôn và lời Kinh thánh để làm sáng tỏ con đường dẫn về quê trời. Mỗi một lời nói, hành động và phép lạ đều minh chứng quyền năng giảng dậy của Chúa. Chúa Kitô đã dạy, đã sống và đã hoàn tất mọi điều Ngài truyền dậy. Ngài cũng chu toàn mọi lề luật ràng buộc của xã hội. Về tôn giáo, Chúa đã đến không phải để phá hủy lề luật, nhưng làm cho kiện toàn. Đặc biệt về cách thức giữ luật ngày Sabát, Chúa Giêsu đã bị các nhà Luật sĩ, Biệt phái, Trưởng Lão và các Thầy Tư Tế bắt bẻ và kết án nhiều nhất. Theo truyền thống, người Do-thái giữ luật ngày Sabát một cách rất khắt khe nhiệm nhặt. Ngay trong cuộc sống hôm nay, nhóm người Do-thái chính thống vẫn giữ ngày Sabát một cách rất tỉ mỉ và kỹ lưỡng. Từ chiều thứ Sáu, vọng ngày Sabát, họ đã chuẩn bị nấu nướng và sắp xếp mọi thứ cần dùng. Khoảng sau 3 giờ chiều, họ sẽ không làm bất cứ một việc gì dù nho nhỏ và giữ trọn ngày Sabát. Các cửa tiệm đóng cửa và đường xá vắng tanh. Họ hoàn toàn dành giờ nghỉ ngơi, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện.
Trong cuộc hành hương Đất Thánh vừa qua, tôi có kinh nghiệm một chút thế nào là việc giữ ngày Sabát. Khi chúng tôi về tới khách sạn Ramada tại Giêrusalem, vì qua một ngày dài hành hương mệt mỏi, khi thấy cầu thang máy mở cửa, chúng tôi vội bước vào thang máy. Không để ý thang máy chỉ ngưng ở những lầu có số chẵn 2, 4, 6, 8…Chúng tôi ở lầu 7 nên không ra được. Đi lên đi xuống một vài vòng, chúng tôi phát hiện là thang máy đã được gài xét tự động vào vọng ngày Sabát. Chúng tôi đành phải đi ra để đổi sang thang máy khác. Vì người Do-thái kiêng việc xác, nên sẽ không giơ tay bấm số chọn lầu. Tôi học biết trong khách sạn, vào vọng chiều thứ Sáu và ngày Sabát, có một thang máy dành cho các lầu mang số lẻ và một thang máy dành cho các lầu có số chẵn. Còn có hai thang máy khác dành cho mọi người xử dụng chung. Đây là một trong những cách giữ luật ngày Sabát.
Vì giữ truyền thống muốn bám sát với các quan niệm và thực hành tôn giáo đương thời, các người lãnh đạo tôn giáo đã rơi vào sự ghen tị và gây nhiều sự bất đồng với những lời giảng dậy và việc làm của Chúa Giêsu. Các người Biệt phái và Luật sĩ dựa vào lời Kinh Thánh để kết án Chúa Giêsu về việc không tuân giữ luật ngày Sabát, không rửa tay trước khi ăn và tội phạm thượng… Chúa Giêsu lại dứt khoát thay đổi những hình thức thờ phượng giả tạo bên ngoài của việc ăn chay, bố thí, lễ dâng, những sự khoe khoang rỗng tuếch và những lời cầu kinh chỉ bằng môi miệng nhưng tâm hồn thì xa Chúa. Ngày qua ngày, sự ghen tương thù ghét chất chồng, nên các nhà lãnh tạo tôn giáo tìm cách tiêu diệt Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhận biết sự thù oán của họ, nhưng Chúa vẫn tiếp tục mở con đường hẹp dẫn tới sự sống thật. Vì Chúa muốn tình yêu, chứ không muốn hy lễ. Kính thờ Thiên Chúa trong thần trí và sự thật.
Chúa Kitô đã sẵn sàng đón nhận chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Trước khi chịu khổ hình thập giá, Chúa Giêsu đã tha thiết nguyện cầu cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha” (Mt 26, 42). Thời gian đã mãn, Chúa Kitô quyết định trở về Giêrusalem trong mùa lễ Vượt Qua của người Do-thái để hoàn tất sứ mệnh cứu độ. Các nhóm lãnh đạo tôn giáo đã toa rập gây cớ để bắt và xử án Chúa. Chúa Giêsu đã nhường bước và chấp nhận mọi xỉ nhục khổ đau mà không hề than van. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi cuốn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quì gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng: “Tâu vua dân Do-thái” (Mt 27, 28-29). Được dịp trả thù, các quan quyền, các nhà lãnh đạo tôn giáo, quân lính và dân chúng đã xỉ vả và hành hạ Chúa cho đến chết. Sau khi Chúa bị bắt, bị tra khảo, nhịn đói, nhịn khát, bị giam hãm, đánh đòn, đội vòng gai, vác thập giá nặng nề leo lên núi sọ, bị xô đẩy, bị đóng đinh treo trên thập giá và bị lưỡi đòng đâm thấu trái tim, Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh và gục đầu trút hơi thở: Đoạn Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở (Mt 27, 50).
Cách đây hơn hai ngàn năm lịch sử, Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ và đã kết thúc sứ mệnh cứu rỗi trên một vùng đất cụ thể là nước Do-thái. Ngày nay, người ta đã cố công khơi quật hoặc xây cất những thánh đường tại những nơi đã có dấu chân của Chúa, để giúp khách hành hương đến cầu nguyện, suy niệm, cảm nhận và hun đúc niềm tin. Đến thành Thánh Giêrusalem, theo truyền thống, chúng ta có thể kính viếng những nơi mà xưa Chúa đã đi qua như thăm viếng và cầu nguyện tại vườn cây dầu, chỗ Chúa bị bắt, chịu tra trấn và hầm giam, con đường thánh giá lên núi Sọ, nơi Chúa chịu đóng đinh và chết, nơi tắm xác, Mộ Chúa và nơi Chúa Phục Sinh từ cõi chết. Thánh Phaolô trong thơ gởi tín hữu thành Philipphê đã viết: Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với thiên Chúa (Phil 2, 6). Mang thân phận con người, Chúa Giêsu đã hiến dâng chính mình làm hy lễ trên thập giá để đền tội thay cho cả nhân loại: Người đã hủy bỏ chính mình, mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm (Phil 2, 7)
Lạy Chúa, Tuần Thánh là cao điểm việc cử hành tưởng niệm Chúa đã chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Xin cho chúng con thấu hiểu và cảm nhận được tình yêu thương vô bờ của Chúa. Vì yêu, Chúa đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng con. Xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con đã phạm. Xin đưa dẫn chúng con tham dự vào niềm vui vinh quang phục sinh của Chúa.
7. Bóng tối và niềm tin
(Lm. GB. Trần Văn Hào – phỏng theo bài suy niệm của giáo sư Peter Feldmeier)
Bước vào tuần thánh, chúng ta tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, chúng ta đi từ vinh quang sáng chói, khi được toàn dân đón chào, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên Thập giá. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng cuối cùng họ đã trở mặt. Tất cả đã đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm.
Giêrusalem, thành phố của những đối nghịch
Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình lên Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là kinh thành có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là chốn biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là thành phố của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó họ đã trở mặt, lòng chất đầy phẫn nộ và sự căm thù. Giuđa thì bán đứng vị tôn sư khả kính. Trò phản thầy cách gian ác và tàn nhẫn. Các đầu mục tôn giáo thì quá quỷ quyệt đã dàn dựng một phiên tòa giả dối. Riêng các môn sinh nghĩa thiết nhất lại vội quên thầy của mình. Họ ngủ vùi trong mệt mỏi và cuối cùng đã lặng lẽ tháo lui. Phêrô thì quá khiếp hãi đã thẳng thừng chối bỏ vị tôn sư đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo nguyên ngữ Aram, có nghĩa là ‘con của cha’. Họ đã chọn để xin tha một người ‘con’ với quá khứ đặc kín tội ác, và đòi kết án người ‘Con’ duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội đã gánh trên vai tội lỗi của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Niềm tin kiên định nơi Đức Giêsu
Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của Thập giá là một chứng tá và cũng là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời xưa. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau: “ Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau…, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị Tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở: “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập gía như cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm nơi Chúa Giêsu. Kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là ‘Thiên Chúa đã tôn vinh Người và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa’.
Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập gía. Đức Giêsu đã hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ cho đến chết và chết trên Thập gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là Ađam đã sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu - Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa liên kết với nhau. Chúa Giêsu là Ađam mới, và cũng là người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, tình trạng sống kiếp nô lệ, và tiến nhận cái chết để giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.
Khi suy gẫm việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên Thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước những gì sẽ xảy ra. Nếu quả như thế và Đức Giêsu không thể có một sự chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Chúa trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu lại tuôn đổ đến mức thảm thiết như vậy? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7):“ Cha ơi, nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài vẫn phải thét gào một cách não nuột: “Cha ơi, sao Cha bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy rằng, vì Đức Kitô đã tự hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của Thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Song, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi trần gian, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những bầm dập và tan tác trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế chưa, khi chúng ta bị mất hết, bị nhấn chìm trong bóng tối của khiếp hãi? Khi gặp những bầm dập cay đắng, khi bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào chán chường hay tuyệt vọng…, chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và ở trên Thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta đang gặp phải.
Kết luận
Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Đức Giêsu đi vào lộ trình lên Giêrusalem, để thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.
8. Đức Giêsu đối diện với cái chết
(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúng ta bước vào tuần thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm Đức Giêsu vào thành Yêrusalem được dân chúng đón rước long trọng. Biến cố Đức Giêsu vào thành Yêrusalem như một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Ngài vào những ngày cuối cùng của đời Ngài.
Thành công và thất bại trên đời
Sau ba mươi năm sống âm thầm và làm nghề khiêm tốn ở Nazarét, Ngài đã công khai rao giảng suốt ba năm khắp đất nước Do Thái với những thành công và thất bại. Hôm nay Ngài trở lại Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của người Do Thái mà mọi người trưởng thành thường phải lên Yêrusalem. Cha mẹ Đức Giêsu cũng vẫn lên Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, và Ngài từ năm 12 tuổi cũng đã được dạy và thực tập hằng năm. “Hôm nay Ngài có lên Yêrusalem không?” Một số người am hiểu thời sự biết tình trạng nguy hiểm của Đức Giêsu: nếu Ngài lên Yêrusalem Ngài có thể bị những người lãnh đạo giết chết. Chính vì vậy họ mới đặt câu hỏi!
Trên đời, ai không gặp thất bại? Một danh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20 đã nói: “không thành công cũng thành nhân”. Vấn đề chính là thái độ hay cách cư xử của mình thế nào đối diện với những thành công và thất bại trên đời.
Đức Giêsu chấp nhận những gì xảy đến, ngay cả cái chết
Đa số các tông đồ không muốn Ngài lên Yêrusalem dịp này, dù rằng đây là luật buộc người Do Thái. Thomas khi thấy Ngài quyết định lên Yêrusalem thì nói: “Chúng ta cùng lên Yêrusalem để cùng chết với Ngài” (Ga.11, 8.16). Cổ ngữ có câu: “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Tại sao Đức Giêsu không “khôn” một chút?
Đức Giêsu vẫn làm điều phải làm, Ngài không trốn tránh, Ngài chấp nhận thân phận làm người trong mọi trường hợp, chẳng hạn Ngài nói với Phêrô dịp người ta tới bắt Ngài: “xỏ gươm vào vỏ, liệu anh tưởng Thầy không thể xin Cha cho thầy 12 đạo binh thiên thần sao, nhưng như vậy thì làm sao Kinh Thánh được nên trọn?” (Mt.26, 53). Đức Giêsu đã không biến đá thành bánh để ăn, Ngài cũng không xuống khỏi thập giá khi bị thách thức, vì Ngài chấp nhận “thân phận con người” đến cùng trong mọi trường hợp.
Tôi có sẵn sàng chấp nhận thân phận là người của mình trong cuộc sống thường ngày không?
Dâng hiến chính mình
Đức Giêsu không chỉ chấp nhận cái chết một cách thụ động. Vì tình yêu “đối với con người”, nên Ngài đã có một sáng kiến tuyệt vời: dâng hiến chính mình cho tất cả mọi người qua bí tích Thánh Thể.
Hành vi tình yêu, đòi con người phải vượt qua chính mình, tôn trọng người mình yêu trong mọi điều kiện, muốn những điều tốt lành cho người mình yêu. Yêu như Đức Giêsu yêu, tức là sẵn sàng chết để người yêu được sống. “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Sự dữ bất lực trước tình yêu.
Phục vụ là dấu chỉ của tình yêu. Các tông đồ tranh luận xem “ai là người lớn nhất trong họ” nếu thầy không còn nữa. Và đây là đầu mối chia rẽ và bất hoà. Đức Giêsu dạy các tông đồ: “ai muốn làm lớn thì phải là người phục vụ”. Đức Giêsu đã đến như một người tôi tớ. Môn đệ của Ngài cũng được mời gọi nên giống Ngài.
9. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Trong trình thuật Đức Giêsu vào Giêrusalem với tư cách đấng Mêsia, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Máccô và Luca còn xác định chi tiết hơn: Người cỡi lên ‘con lừa con chưa ai cỡi bao giờ’. Hình ảnh Đức Giêsu khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức tranh Na-pô-nê-ôn oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!... Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9). Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như “Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân” (Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài như một lối trình bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với người Do Thái, trong đời thường việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay mọi người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10:3; 1:14; 1Sm 25:23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa mới trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!”. Đức Giêsu tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con Người của đời thường, của hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một đấng Mê-si-a chinh chiến đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18:36-38).
Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết ‘Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ’ chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại; Abraham sát tế Ixaác, và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: “Ông Ápraham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu… rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên, Ápraham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh”… Ông Ápraham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa ‘thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay…’ và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!
Như vậy cảnh tượng Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh ‘cỡi lừa’ này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3:14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế, không thể nào khác được!
Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì y như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” Xin cho tâm hồn con không bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con! Amen.
10. Giờ chiến thắng vinh quang
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Đức Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Người được tôn vinh: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh (Ga 13, 31)
Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi lại bị kết án, bị đòn vọt, bị vác thập giá và cuối cùng là cái chết thảm thương ô nhục trên đồi Can-vê!
Vậy vinh quang của Chúa Giêsu ở đâu? Vì sao Chúa Giêsu gọi đây là giờ Người được tôn vinh?
Đối với người không am hiểu, cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại não nề; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng rất oanh liệt và vinh quang.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung.
Đối diện với cuộc kết án bất công, đứng trước những thượng tế, kỳ mục muốn huỷ diệt mình cho bằng được, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh kết liễu đời mình, trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết dã man tàn bạo... Chúa Giêsu vẫn không may may oán hận! Người chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Người nhìn họ với ánh mắt thương xót, vẫn yêu họ bằng trái tim khoan nhân... Rồi vì sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, Người tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Người: "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23, 34). Đó là tâm tình đẹp nhất, cao thượng nhất trên cõi đời nầy.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng tính khiếp nhược và lòng tham sinh uý tử bằng sự dũng cảm rất cao cường.
Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Người không bị khuất phục bởi cái chết. Người đã chổi dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Người đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng đau đớn thể xác và đau khổ tinh thần.
Là người ai cũng sợ khổ và tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp nhất cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Người đã hoàn toàn chiến thắng tính khiếp nhược của phận người.
***
Qua cách thức Chúa Giêsu đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Người lùi bước; không một đe doạ nào làm cho Người khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Người nổi giận hay mất bình an; không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung vô bờ bến của Người...
Người thắng được bản năng tham sinh úy tử; Người vượt lên trên nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Người thắng được lòng hận thù có thể bùng lên khi bản thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn ác... Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua các thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Oai hùng thay! Vinh quang thay!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ đớn hèn khiếp nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng nhưng giúp chúng con kiên cường chiến đấu chống lại tội lỗi và thói hư, để mai ngày được khải hoàn vinh quang như Chúa.
11. Con người tham sống sợ chết
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Chuyện kể rằng: Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: "Vợ con tôi quá thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục".
Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con và thân nhân, bạn bè.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến. Sau những giây phút tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị bảo thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng: "Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh".
Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống. Càng ngạc nhiên hơn khi anh nghe người vợ nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả quyết: "Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống".
Tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Cho dù có những người thề sống chết cho nhau nhưng khi đối diện với cái chết, họ cũng tìm trăm ngàn lý do để hủy lời đoan hứa. Thế nên, là người thường dễ quên lời hứa, dễ thất hứa, thất tín và thất trung. Con người thường dễ mất uy tín khi những lời mình nói mà không làm. Thực tế, con người chỉ dễ dàng hứa trong lời nói xuông mà rất khó thực hiện những lời đã hứa. Nhất là khi phải hy sinh tiền bạc, thời giờ, công sức, và càng khó hơn khi phải hy sinh tính mạng mình để thực thi chữ tín trong cuộc sống.
Có biết bao người yêu nhau thật nồng nàn, thề hứa đủ điều nhưng khi lấy nhau họ lại bỏ quên nhau và sớm quên đi những lời đã hứa cho nhau.
Có biết bao người có chức có quyền chỉ hứa xuông khi tranh cử, nhưng khi ngồi trên ghế họ chỉ lao vào kiếm tiền và củng cố địa vị của mình mà bỏ quên lời hứa với nhân dân.
Có biết bao người đã từng hứa có ăn có hưởng, hoạn nạn có nhau nhưng họ chỉ gần nhau khi thành công và bỏ rơi nhau khi gặp gian nguy.
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng cảm thấy đau khổ vì bị đồ đệ bỏ rơi, người thân quay lưng chống đối. Biết bao lời hứa đã từng cam kết sẽ uống cạn chén đắng cùng Thầy, sẽ theo Thầy cho đến cùng, nhưng những lời hứa ấy chỉ như gió thoảng mây bay. Ngài hiểu thật sâu xa tính mỏng dòn của tình người. Tình người dễ phôi phai. Lòng người dễ thay đồi. Nhưng, dầu vậy, Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Ngài vượt qua mọi trở ngại để dấn thân cho người mình yêu. Ngài mãi mãi trung tín trong tình yêu vì đã yêu thì “yêu cho đến cùng”.
Chúa Giêsu Ngài biết những kẻ mà Ngài thi ân sẽ quay lưng chống lại Ngài. Ngài cũng biết rõ các đồ đệ sẽ bỏ rơi Ngài trong lúc nguy nan. Ngài cũng biết số đông theo Ngài sẽ dừng lại để một mình Ngài vác thập giá cô đơn trên đường lên Núi Sọ. Thế nhưng, Ngài vẫn can trường, vẫn bước đi cho đến cùng của tình yêu tự hiến hy sinh.
Thánh lễ hôm nay cũng họa lại hai hình ảnh trái ngược trong một tuần thương khó. Khung cảnh ban đầu là đoàn rước thật long trọng, hồ hởi với đàn hát, với trải lá lót đường...; Khung cảnh sau là phiên tòa kết án, với lời thóa mạ, với đòn roi, với án tử. Xuyên suốt hai khung cảnh ấy là hình ảnh Chúa Giêsu luôn bình tĩnh trước mọi biến cố. Dường như Ngài đã không tìm cách lẩn trốn trước những gì đang diễn ra. Ngài bình thản đi vào tuần thương khó mà Thánh Kinh bảo rằng: “để mọi sự được nên trọn”.
Vâng, Chúa Giêsu Ngài đã bình thản trước mọi biến cố vì Ngài muốn để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng, Ngài vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài, nhưng “Giờ” để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để thi hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can đảm đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với thiên ý nhiệm màu.
Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án Người, cũng có những lần chúng ta bỏ rơi Ngài. Nhưng điều quan yếu là chúng ta hãy luôn nhận ra tình yêu của Chúa để biết tri ân tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành cho chúng ta. Amen
12. Cô đơn và im lặng.
Qua bài thương khó vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nỗi cô đơn và sự im lặng của Chúa Giêsu.
Trước hết là nỗi cô đơn. Càng về cuối đời, Chúa Giêsu càng bị lẻ loi cô đơn. Dân chúng và những người thân đều từ bỏ Ngài và giờ đây, cả các môn đệ cũng từ bỏ Ngài. Chúa Giêsu cô đơn trong vườn Cây Dầu. Ngài lại càng cô đơn hơn nữa trong lúc bị bắt bởi vì các môn đệ đều trốn chạy. Trước thượng hội đồng, Chúa Giêsu chẳng có một ai để bênh vực mà chỉ toàn thấy những kẻ cáo gian Ngài. Trong khi đó, ở bên ngoài, ông Phêrô đã chối Chúa. Ngay cả Đức Chúa Cha xem ra cũng bỏ rơi Ngài, chỉ còn lại mấy người phụ nữ trung thành, nhưng họ cũng chỉ đứng tự đàng xa.
Tiếp đến là sự im lặng của Chúa Giêsu. Trước toà án phần đạo, Chúa Giêsu chỉ trả lời vị thượng tế có một lần. Trước toà án phần đời, Chúa Giêsu chỉ trả lời Philatô có một lần. Và trên cây thập giá, theo sự ghi nhạn của thánh Marcô, Chúa Giêsu cũng chỉ thốt lên có một lời.
Thế nhưng sự cô đơn và im lặng của Chúa Giêsu đã đứa tới một hậu quả thật bất ngờ, đó là lời tuyên xưng của viên đội trưởng Lamã: Quả thực người này là Con Thiên Chúa. Với lời tường thuật đơn sơ và mộc mạc, thánh Marcô cho chúng ta thấy: Chân lý tự bản chất vốn giản dị, chứ không màu mè phức tạp. Không phải cứ nói nhiều, nói hay mà người ta có thể làm sáng tỏ chân lý. Cũng như không phải cứ sơn phết cho thật màu mè mà người ta tạo được một bức hoạ tuyệt vời. Chúng ta sẽ lầm khi nghĩ rằng với những sách vở và những bài thuyết trình sâu sắc, hấp dẫn với những công trình khảo cứu hoàn bị, chúng ta có thể đem đến cho mọi người tất cả những câu trả lời về Đức Kitô.
Không. Đức Kitô không phải là một mớ những lý thuyết, những tư tưởng, nhưng Ngài là một con người mà chúng ta cần phải gặp gỡ, phải chiêm ngưỡng và phải tìm hiểu để rồi dần dần khám phá ra những châh lý về Ngài.
Từ đó chúng ta đi tới một kết luận cụ thể như thế này. Đức Kitô không phải chỉ là một cái gì chúng ta nói, chúng ta rao giảng, chúng ta tuyên xưng ngoài môi ngoài miệng, nhưng Ngài cần phải được bén rễ sâu trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta.
Điều đó có nghĩa là chúng ta có bổn phận phải sống đức tin hay mói một cách cụ thể hơn, chúng ta có bổn phận phải sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng Ngài bằng hành động và bằng cả cuộc đời chúng ta.
13. Mầu nhiệm đau khổ
(Lm Phêrô Nguyễn Hữu Duy)
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật Lễ Lá đọc lại Bài Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Tiếp đến là Tuần Thánh, cao điểm tưởng niệm cuộc khổ nan của Chúa. Trong bầu khí suy niệm về thập giá-con đường Chúa chọn để cứu nhân lọai, chúng ta nghĩ về Mầu Nhiệm Đau Khổ.
Gọi đau khổ là một mầu nhiệm theo nghĩa "bí nhiệm, khó hiểu" cũng được; hay theo nghĩa của Gabriel Marcel: nó là "huyền nhiệm", khác với "vấn đề", chúng ta không thể giải quyết cách khoa học, mà là cảm nghiệm cá nhân của người từng kinh qua cũng mới hiểu, cũng đúng.
Người ta quá quen với lời than van " Đời là bể khổ, hữu thân hữu khổ". Cái khổ đã trở thành qui luật của cuộc sống con người, do "bệnh, lão, tử", và ngày nay cho rằng cả "sinh" nữa, đều làm cho con người đau khổ. Sợ "sinh" làm khổ nhân lọai nên ngày nay người ta "chống sinh".
Có nhiều nguyên nhân gây đau khổ mà kinh nguyện xưa gọi là "... đói kém, ôn dịch, mất mùa, giặt giả", có khi bí ẩn người ta cho là do "số phận".
Tuy nhiên, có thể coi con người là nguyên nhân chính của sự đau khổ. Nỗi khổ của lụt lội, hạn hán, bệnh dịch..., hay ngay cả sóng thần mà ta qui cho thiên tai, cũng có nguyên nhân sâu xa do con người tàn phá thiên nhiên, vắt kiệt thiên nhiên làm thiên nhiên "nổi giận". Còn chiến tranh, khủng bố, diệt chủng, phá thai, bắt con người làm thí nghiệm, vu khống, trù dập, chửi mắng... gây buồn, khổ và hại người khác, thì quá rõ trực tiếp là do con người. "Người với người là chó sói", "tha nhân là hỏa ngục" là thế!
Thái độ của người Kitô Hữu trước đau khổ thế nào?
Vẫn biết tội là nguyên nhân của sự đau khổ "Từ tội đầu tiên (nguyên tội), cả trần gian này chìm trong tội lỗi: huynh đệ tương tàn, khởi đầu là Cain giết Aben (St 4, 3-15), tiếp đến là sự xa đọa của loài người... " (Giáo Lý Tòan Cầu số 401), nhưng chúng ta không theo quan niệm "trời trả báo" để qui gán sự đau khổ là hậu quả tất yếu do tội lỗi của cá nhân đương sự hay sự thất đức của gia đình. Khi thấy người mù từ khi mới sinh đau khổ trong cảnh mù lòa, các Tông đồ hỏi Chúa: bởi tội của y hay do tội cha mẹ y mà y phải chịu vậy, Chúa Giêsu trả lời: "Không phải anh ta cũng chẳng phải cha mẹ anh ta phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh ta." (Ga 9, 2-3).
1. Cựu Ước:
Người công chính vẫn phải đau khổ, đau khổ nhiều hơn nữa thì phải. Chính ông Gióp trong Cựu ước là một bằng chứng. Rồi Môsê-Tôi tới trung thành, rất được Chúa yêu mến đã đau khổ vì Dân Chúa: "Con phải làm gì cho Dân này bây giờ? Một chút nữa là họ ném đá con!" (Xh 17, 4) khi dân chúng gây sự, kêu trách Môsê. Môsê đã đau khổ tột cùng đến nỗi phải xin được chết đi cho rồi: "Ông Môsê thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà than khóc tại cửa lều mình. Còn Đức Chúa thì bừng bừng nổi giận. Ông lấy làm khổ tâm và thưa với Đức Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? Có phải con đã cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con hãy bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ... nếu Ngài xử với con như vậy thì thà giết con đi còn hơn." (Ds 11, 10-15). Nhân vật vĩ đại của Cựu Ước, người diễm phúc được Chúa hứa "Ta sẽ ở với ngươi" (Xh), được diện đối diện với Chúa, đã đau khổ nhiều trong trong thân xác khi lữ hành 40 năm sa mạc, lại chịu những đau khổ tinh thần đến thế!
2. Đức Kitô
Từ đây chúng ta sẽ không quá ngạc nhiên khi Đức Giêsu Kitô, Đấng Chúa Cha phán "đẹp lòng Ta mọi đàng" phải trở thành Người Tôi Tớ Đau Khổ, phải thốt lên lời Thánh Vịnh bi ai: "Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa tôi, sao Chúa bỏ tôi" (Tv 22, 2; Mt 27, 45) khi bị treo trên thập giá.
Chúa chúng ta không chỉ chịu đau đớn nơi thân xác mà còn chịu đau khổ trong hồn khi bị Giuđa phản bội, Phêrô chối từ, môn đệ bỏ trốn, dân chúng sỉ nhục, bị nhổ vào mặt... Bởi Chính Ngài là "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của chúng ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như chúng ta." (Dt 4, 14-15) hưởng nếm trọn vẹn tiếng kêu than của thân phận con người bị vùi dập tứ bề, được diễn tả qua lời Thánh Vinh:
- Khi bị người tín cẩn phản bội: "Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm phúc với tôi, đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi." (Tv 55, 13-14)
- Khi Chúa bị bao vây bắt trong vườn Dầu: "Kẻ thù con lòng chai dạ đá, mở miệng ra là ngạo mạng khinh đời, rầm rập tới kìa chúng đa bao quanh, mắt trừng trừng như muốn quật con xuống đất, thật giống loài sư tử chực nuốt sống ăn tươi, hệt như con mãnh thú, rình rập ở bụi bờ" (TV 17, 10-12); "Sóng tử thần dồn dập quanh tôi, mạng lưới âm ty bủa vây tứ phía" (Tv 18, 5);
- Khi bị đánh đòn, giầy đạp, kéo lôi... "Lạy Thiên Chúa xin thương xót con cùng, vì người ta giày xéo thân con, và suốt ngày tấn công chèn ép" (Tv 56, 2); "Lạy Chúa, xin xót thương, bởi vì con lâm cảnh ngặt nghèo. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con. Lạy Chúa, xin đừng để con phải nhục nhã, vì đã kêu cầu Ngài" (Tv 31, 10.16.18);
- Khi Chúa bị nhổ vào mặt và bị chê là điên khùng: "Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi khinh thường" (Tv 21, 7);
- Khi bị người ta tố cáo vu khống: "Lạy Chúa, xin đừng phó mặt con cho kẻ thù hung hãn; vì lũ chứng gian đứng dậy tố con, giương bộ mặt hằm hằm sát khí." (Tv 27, 12)
... Bộ phim cuộc thương khó nổi tiếng mới đây của đạo diễn Mel Gibson diễn tả khá đạt sự đau khổ này.
3. Thánh Phaolô
Chính Thánh Phaolô, Tông đồ dân ngoại cũng đã đau khổ nhiều. "Tôi nói như người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần súyt chết. Năm lần bị người Dothái đánh 40 roi bớt một; ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi..." (2 Cr 11, 23-25)
Đó là những đau khổ thể xác Phaolô chịu, ngài còn bị một "cái dầm" mà các nhà chú giải cho rằng đó là chứng bệnh kinh niên, phải mang cả đời: "Và để tôi khỏi tự cao tự đại về những mạc khải phi thường tôi đã được, thân xác tôi đã bị một cái dầm đâm vào, một thủ hạ Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thóat khỏi nổi khổ này. Nhưng Ngài quả quyết đối với tôi: ơn của Thầy đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." (2 Cr 12, 7-9)
Phaolô cũng đã bị khổ tâm do nhiều người khác gây nên trong ba cuộc hành trình truyền giáo, ngài đã chia sẻ với các tín hữu Corinthô: "Thật thế, tôi đã đau khổ nhiều, nước mắt chan hòa, lòng se lại mà viết cho anh em... " (2Cr 2, 4) và với Timôthêô: "Alexandre, người thợ rèn, đã gây cho cha nhiều khốn khổ; Chúa sẽ cứ việc anh làm mà trả báo, cả con cũng hãy đề phòng anh ta, vì anh ta mạnh mẻ chống lại lời chúng ta rao giảng." (2 Tm 4, 14-15)
5. Các thánh đã trải nghiệm sự đau khổ.
- Thánh Phanxicô Assisi ốm đau liệt lâu ngày đến nổi hễ cử động tứ chi là phải đau đớn ghê sợ, nhưng đã gọi sự đau đớn của ngài là "chị em thân thiết".
- Thánh nữ Bernadette, người được Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, đã từng chữa lành bệnh tật cho người khác cũng phải đau khổ nhiều: bị chống đối, chịu sỉ nhục, bị bệnh xuyễn hành hạ từ nhỏ và ngày càng trầm trọng cho đến chết.
- Thánh nữ Magarit đệ Cortone chịu đau khổ vì Chúa đã nói: "Ngày nào con còn sống, con hãy chuẩn bị để chiến đấu và chịu những đau khổ gây gắt, vì vàng lọc trong lửa, nên Ta cũng sẽ tẩy rửa con bằng khổ cực, cám dỗ, tàn tật, đau đớn, lo sợ, thức khuya dây sớm, nước mắt, đói khát và ẩm thấp. Vì khi con đã được thanh tẩy, con sẽ vào nơi vinh hiển của hạnh phúc đời đời." (Lm. Hocedez, Tin Mừng về Đau Khổ, trang 62)
Đó chính là giá trị của đau khổ mà thánh Phaolô đã xác quyết: "Thật vậy, tôi nghĩ rằng đau khổ bây giờ chúng ta chịu bao giờ so sánh được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta." (Rm 8, 18); "Giờ đây tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích của thân thể Người là Hội Thánh." (Cl 1, 24)
Thánh Phêrô, người trước kia sợ đau khổ đã chối Thầy, nhờ sức mạnh của Thầy đã tự nguyện xin đóng đinh ngược vì không xứng chết như Thầy, khích lệ những ai đau khổ: "Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hĩ." (1 Pr 4, 13)
Vậy chúng ta phải tôn vinh đau khổ và chạy đi tìm đau khổ ư? Không, không phải thế và nhất là không bao giờ gây đau khổ cho nhau.
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, đau đớn trong bệnh tật tâm sự: "Em vui vẻ vì trong mình đang phải đau đớn, em vẫn phải cố gắng yêu quí sự đau khổ và tiếp nhận đau khổ cách niềm nở, tươi tỉnh... nay em mỉm cười trước đau khổ và trong đau khổ, với em đã là một tâp quán." Vị thánh nữ tiến sĩ, qua đời ở tuổi 24 trong bệnh tật, người mà bác sĩ trị bệnh phải thú nhận: "Chà, các bà mà hiểu được sự đau đớn của người! Tôi chưa thấy ai phải đau đớn thế mà lại vui vẻ được thế! Lạ lùng! Chính là một thiên thần! Tôi không thể chữa được người, linh hồn ấy đã bất phục thủy thổ trần gian!", người nữ tu trẻ vui cười trong đau khổ như là một tập quán, thế nhưng đã khiêm tốn nhìn nhận: "Tuy nhiên chẳng khi nào con dám xin Chúa gởi đau khổ cả thể, vì con hèn sức yếu đuối lắm! Con mà xin thế những đau khổ ấy sẽ thuộc về con và riêng sức con phải gánh chịu, nhưng sức riêng con có làm nên trò trống gì bao giờ." (Môt Tâm Hôn, trang 255-256).
Bởi vậy, đối đầu với đau thương thử thách, chúng ta chỉ biết chạy đến Chúa "là Đá Tảng, chiến lũy, cứu tinh, thạch động, khiên thuẩn, uy quyền cứu độ, sức hộ phù." (x. Tv 17, 2-7) của chúng ta. Và hãy khích lệ nhau, cũng như tự khích lệ mình rằng: "Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa" (Tv 27, 14). "Lạy Chúa, Chúa cho của cải, Chúa vuốt ve, vì sợ con qua mệt nhọc trên đường về quê, Chúa lấy lại, Chúa đánh mắng, Chúa điều khiển để chúng con khỏi rời xa nẻo chính. Nhưng dầu Chúa có vuốt ve hay đánh mắng, Chúa vẫn là nơi ẩn náu của chúng con" (Thánh Augustin)
Không cần tìm đau khổ (vì sẽ tự nó đến) và không ngạc nhiên gặp khổ. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, cũng đang hy sinh trong những thử thách về sức khỏe của tuổi già sau quảng đường dài phục vụ quên mình. Ngài đang hướng dẫn Giáo Hội bằng con đường thập giá của Thầy Giêsu Chí Thánh.
Đối mặt với đau khổ hiện tại, chúng ta thực hành lời dạy của Thánh Giacôbê Tông Đồ: "Ai trong anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca." (Gc 5, 13) hầu hướng đến tương lai đầy hy vọng của trời mới đất mới, nơi: "Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điêu cũ đã biến mất." (Kh 21, 4)
14. Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Với Chúa nhật của Niềm Vui (Laetare) vừa qua, màu hồng Phụng Vụ của Giáo hội là màu của bình minh, hé mở ánh sáng huy hoàng của Đại Lễ Phục Sinh sắp tới. Dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta: trỗi dậy từ trong cõi chết.
Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu
Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi: bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu.
Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11, 4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ: "Lagiarô đã chết" (Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì "sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11, 4).
Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư? "(Ga 11, 8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này: "Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người" (Ga 11, 53). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là: "Lagiarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta" (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự song.
Niềm hy vọng của chúng ta
Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu: "Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ" (Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha "Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống" sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết.
Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, "Đức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa" (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng "nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em" (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được.
Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì " thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi" (Rm 8, 10) nhưng "nếu Đức Kitô ở trong chúng ta" và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa: chúng ta tin vào phép rửa "Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới". (Rm 6, 4).
Thật là đại tin mừng: "Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng" (Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết", há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Đã an táng Lagiarô ở đâu?" Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại.
Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21).
"Hãy đẩy tảng đá ra" (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52).
"Hãy cởi ra cho anh ấy đi" (11, 44). Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa.
Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng
Là người thật, Đức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố: "Ta là sự sống lại và là sự sống" và hỏi "Con có tin điều đó không?" Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl: "Ta sẽ mở cửa mồ cho các người, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ" (Ez 37, 12-14). "Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em" (Ez 37, 6): nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
15. Người là Thiên Chúa – Mt 21,1-11
Trong khi dân chúng tin theo và tung hô Chúa, thì bọn biệt phái lại hậm hực tức tối. Tại sao thế? Vì Chúa đã đảo lộn mọi ý nghĩ trong đầu óc họ. Vì Chúa đã vạch trần bộ mặt đạo đức giả của họ, và Chúa đã phơi bày những tính hư tật xấu của họ. Họ nắm tay chống đối Người, và bằng mọi cách phải giết được Người. Chúa Giêsu biết rõ điều ấy, nhưng Người vẫn đi con đường của Người, dù phải đau khổ, dù phải chết chóc. Qua đó, chúng ta nhận ra Người thực là Thiên Chúa.
Đúng thế, Người đã giảng dạy như là Thiên Chúa. Bọn biệt phái luôn rình rập, gài bẫy để bắt lỗi Người, nhưng Người đã nói thẳng với họ: Ai trong các ngươi có thể tìm thấy nơi Ta một khuyết điểm, một sơ hở nào? Liệu có một nhà hiền triết, một bậc quân tử, một đấng thánh nhân nào nói được như vậy chăng. Hơn nữa, Người còn nói với chúng ta bằng tất cả uy quyền của Thiên Chúa. Người truyền lệnh, Người kết án, Người chỉ cho thấy con đường cứu độ: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Nếu các con tuân giữ lời Thầy, các con sẽ không phải chết.
Tiếp đến, Chúa Giêsu đã hành động như là Thiên Chúa. Việc làm của Người đã chứng thực cho những lời Người nói. Người chữa lành những kẻ đau yếu, cho kẻ chết sống lại, dẹp tan giông tố, tha tội cho kẻ vấp phạm. Đó là những việc làm mà chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền và có thể thực hiện được mà thôi. Sau cùng, chính Người đã xác quyết về bản tính của Người. Bề ngoài, Người là một người như chúng ta, nhưng thực sự Người lại là Thiên Chúa. Điều đó làm cho bọn biệt phái lấy làm chướng tai gai mắt.
Nhưng Chúa Giêsu đã chuẩn bị tâm hồn các tông đồ cũng như dân chúng đón nhận sự mạc khải ấy. Ngay từ đầu Người đã không nói thẳng ra Người là Thiên Chúa. Nhưng dần dần, qua những lời giảng dạy, qua những phép lạ cũng như qua cuộc sống thánh thiện của Người, những người thiện chí sẽ phải đặt vấn đề. Người không phải là một kẻ tầm thường như chúng ta. Rồi từ từ Người làm cho họ xác tín Người là Con Thiên Chúa. Ngày kia Người đã hỏi các tông đồ: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô đã trả lời: thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng số. Và Chúa Giêsu đã nói: Không phải máu thịt đã tỏ lộ cho con điều ấy, nhưng chính là Cha Ta ở trên trời. Để thưởng công cho niềm tin tưởng ấy Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh. Khi tranh luận về cụ tổ Abraham, Chúa Giêsu đã nói với bọn biệt phái: Trước khi Abraham sinh ra thì đã có Ta. Đây cũng là lời xác quyết về bản tính Thiên Chúa của Người. Lời này khiến bọn biệt phái tức tối, muốn ném đá Chúa, nhưng Người cứ giữa chúng mà đi vì giờ Người chưa đến.
Chúa Giêsu có thể tiêu diệt những kẻ phạm thượng, nhưng Người không muốn, cũng như trên thập giá, Người có thể trừng trị những tên lý hình hạo báng, nhưng Người đã không hành động, Người muốn tình thương hơn là sự thù hận. Nhưng Người đã sống lại, ra khỏi mồ, và Người sẽ trở lại để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Lúc bấy giờ chúng ta mới thấy rõ quyền năng và vinh quang của Người. Ngày tươi sáng và hạnh phúc sẽ được dành cho những ai trung thành phụng sự Người.
16. Suy niệm Lễ Lá
('Niềm Vui Chia Sẻ')
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thương Khó đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người.
Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: "Hoan hô Con Vua Đavit" có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tổng trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: "Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!"
Thưa anh chị em,
Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó còn khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba mà thôi.
Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Thử hỏi: nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào? Và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm như ông Simon thành Syrênê được đâu. Ông đã vác thập giá đỡ cho Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ rằng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể, tương tự hành động của Giuđa. Thật vậy, chúng ta không ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế.
Anh chị em thân mến,
Trong những ngày thánh nầy, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy bước theo Chúa qua từng chặng đường, từ toà đạo đến toà đời, và hãy ở lại thật lâu trên Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta.
Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra tình yêu bao dung nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài. Ước gì chúng ta có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
17. Đám đông dưới chân Thập Giá
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá".
Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét... tác giả như muốn nói rằng: không chừa một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt (tác giả của bức tranh).
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói rằng, mọi người đều được dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá...
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây 2000 năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài...
Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn...
Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.
18. Niềm vui, Thập giá, Giới trẻ
(ĐTC Phanxicô, Bài giảng ngày lễ giới trẻ - Chúa Nhật Lễ Lá 2013, Quảng trường thánh Phêrô - Vatican).
(Fx. Đình Phước SDB dịch từ www.vatican.va)
1. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Đám đông các môn đệ tháp tùng Ngài trong hân hoan, họ trải áo choàng trước Ngài. Người ta nói về những việc lạ lùng Ngài đã thực hiện, một tiếng kêu ngợi khen vang lên: "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa đang ngự đến, Ngài là vua. Bình an trên trời và vinh danh trên các tầng trời" (Lc 19, 38).
Đám đông, hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, bình an: đó là một bầu không khí vui mừng mà con người ta cảm nghiệm. Chúa Giêsu đã thức tỉnh trong tâm hồn những con người đang kỳ vọng nhất giữa những con người khiêm hạ, đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trước mặt mọi người. Ngài đã biết cảm thông với những lầm than của con người, Ngài đã tỏ lộ khuôn mặt đầy lòng thương xót của Thiên Chúa và đã cúi mình chữa lành xác hồn.
Đó là Chúa Giêsu. Đó là con tim của Ngài nhìn đến tất cả chúng ta, nhìn đến những bệnh tật và tội lỗi của chúng ta. Đó là tình yêu thương vô bờ bến của Chúa Giêsu. Và thế là Ngài vào thành Giêrusalem với tình yêu thương ấy, và nhìn tất cả chúng ta. Đó là một cảnh tượng thật đẹp: đầy ánh sáng, ánh sáng tình thương của Chúa Giêsu, của trái tim Ngài, đầy vui mừng và hân hoan như ngày lễ hội.
Khởi đầu thánh lễ, chúng ta cũng lập lại điều đó. Chúng ta vẫy các cành lá. Tất cả chúng ta cũng đón tiếp Chúa Giêsu: bày tỏ niềm vui được tháp tùng Ngài, biết Ngài gần kề, hiện diện trong chúng ta và giữa chúng ta, như một người bạn, một người anh, và cũng như một vị vua, nghĩa là như ngọn đèn chiếu sáng đời sống chúng ta. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã hạ mình đồng hành với chúng ta: là người bạn và là người anh em với chúng ta. Ngài soi sáng cho hành trình của chúng ta, và chúng ta đã đón nhận Ngài. Và đó là lời đầu tiên mà tôi muốn nói với anh chị em: niềm vui! Anh chị em đừng bao giờ là những người nam nữ buồn sầu: một Kitô hữu không bao giờ có thể như vậy! Anh chị em đừng bao giờ để cho nản chí thất vọng chiếm đoạt!
Niềm vui của chúng ta không phải là niềm vui phát sinh từ sự sở hữu bao nhiêu của cải, nhưng nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu: Ngài đang ở giữ chúng ta; phát sinh từ sự biết rằng với Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ lẻ loi ngay cả trong những lúc khó khăn, ngay cả khi đường đời chúng ta gặp phải những vấn nạn và chướng ngại có vẻ không thể vượt qua nổi, và trong cuộc đời chúng ta có rất nhiều những khó khăn và chướng ngại như thế!
Trong những khó khăn đó, kẻ thù đến, ma quỉ đến, bao nhiêu lần nó đội lốt thiên thần, tinh quái nói với chúng ta những lời đường mật. Anh chị em đừng nghe nó! Chúng ta hãy theo Chúa Giêsu! Chúng ta tháp tùng Ngài, nhưng nhất là chúng ta biết rằng Ngài đồng hành với chúng ta và vác chúng ta lên vai: đây chính là niềm vui của chúng ta, niềm hy vọng mà chúng ta phải mang vào thế giới này. Và xin anh chị em đừng để ai lấy mất niềm hy vọng! Đừng để niềm hy vọng bị đánh cắp! Niềm hy vọng mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta.
2. Tại sao Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, hay đúng hơn: Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem như thế nào? Đám đông dân chúng hoan hô Ngài như vị Vua. Và Ngài không chống lại, không bảo họ im đi (x. Lc 19,39-40). Nhưng Chúa Giêsu là loại Vua nào? Chúng ta hãy nhìn Ngài: Ngài cưỡi một con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực. Những kẻ đón tiếp Ngài là những người dân khiêm hạ, đơn sơ, những người có cảm thức nhìn thấy nơi Chúa Giêsu một cái gì hơn nữa; với cảm thức đức tin, họ thấy rằng: Vị này là Đấng Cứu Thế.
Chúa Giêsu không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Ngài vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã báo trước trong Bài đọc I (x. Is 50,6); Ngài vào thành để chịu mão gai, một cái gậy, một áo choàng đỏ, vương quyền của Ngài là đối tượng cho sự nhạo cười; Ngài vào thành để bước lên đồi Canvê. Và đây lời thứ hai: Thập Giá.
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập Giá. Và chính tại đó, bản chất "vua" của Ngài theo Thiên Chúa chiếu tỏa rạng ngời: Ngai vàng của Ngài là cây gỗ Thập Giá! Cha nghĩ đến điều ĐTC Biển Đức XVI đã nói với các Hồng Y: Anh em là những hoàng thân, nhưng là hoàng thân của một vị Vua chịu đóng đinh. Thập giá là ngai vàng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu mang lấy Thập Giá trên mình.
Nhưng tại sao lại Thập Giá? Tại sao? Chúa Giêsu vác lấy trên mình sự ác, sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế, cả tội lỗi của chúng ta nữa, và Ngài tẩy rửa, thanh tẩy bằng máu của Ngài, với lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhìn xung quanh: bao nhiêu vết thương mà sự ác gây ra cho nhân loại! Chiến tranh, bạo lực, xung đột kinh tế gây thiệt hại cho kẻ yếu thế nhất, sự khao khát tiền bạc, mà rồi không ai có thể mang theo với mình, phải để lại nó. Bà nội của cha thường nói với những đứa trẻ như cha khi còn nhỏ rằng: khăn liệm xác không có túi. Lòng yêu mến tiền bạc, quyền hành, tham nhũng, chia rẽ, những tội ác chống lại sự sống con người và chống lại công trình sáng tạo! Và những tội lỗi của mỗi người chúng ta, chúng ta đều ý thức: những thiếu sót trong việc yêu mến và kính trọng Thiên Chúa, thiếu sót trong tương quan đối với tha nhân, và với toàn thể công trình tạo dựng. Chúa Giêsu trên thập giá cảm thấy tất cả gánh nặng của sự ác. Với sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, Ngài chiến thắng chúng, đánh bại chúng trong cuộc phục sinh của Ngài. Đó chính là điều tốt lành mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta trên 'ngôi báu' của Ngài là thập giá. Thập giá Chúa Kitô được đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ, và làm một túi nhỏ, túi mà ngài đã làm trong ngày Ngài chịu chết.
3. Hôm nay tại Quảng trường này có biết bao là người trẻ: từ 28 năm nay, Chúa Nhật Lễ Lá là Ngày Quốc tế giới trẻ! Và đây là lời thứ ba: người trẻ! Các bạn trẻ thân mến, cha đã nhìn thấy các con trong cuộc rước, khi các con đi vào; cha tưởng tượng ra các con đang vui mừng quanh Chúa Giêsu, vẫy những cành ôliu: cha mường tượng các con hô tên Chúa và biểu lộ niềm vui được ở với Chúa! Các con có một phần quan trọng trong đại lễ đức tin! Các con mang cho chúng tôi niềm vui đức tin và nói với chúng tôi rằng chúng ta phải sống đức tin với một tâm hồn tươi trẻ, luôn luôn với một tâm hồn tươi trẻ, ngay cả khi chúng ta 70, 80 tuổi! Trái tim trẻ trung!
Với Chúa Kitô, trái tim không bao giờ già nua! Nhưng tất cả chúng ta biết điều đó và các con biết rõ rằng Vị Vua mà chúng ta đi theo và vị Vua đồng hành với chúng ta là Vị rất đặc biệt: Ngài là vị Vua yêu thương đến độ chấp nhận Thập Giá và Ngài dạy chúng ta phục vụ, yêu thương. Và các con không xấu hổ vì Thập Giá của Chúa! Trái lại, các con hãy ôm lấy Thập Giá, vì các con hiểu rằng chính trong sự hiến thân, chính trong sự ra khỏi chính mình, mà chúng ta đạt đến niềm vui đích thực và chính nhờ tình thương mà Thiên Chúa chiến thắng sự ác.
Các con mang Thập Giá lữ hành qua mọi lục địa, qua những nẻo đường của thế giới! Hãy mang Thập Giá đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Các con hãy đi và làm cho mọi dân nước thành môn đệ" (Xc Mt 28,19), như chủ đề của Ngày Quốc Tế giới trẻ năm nay. Các con hãy mang Thập giá để nói với tất cả mọi người rằng trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã phá đổ bức tường thù hận, phân cách con người và các dân tộc, và đã mang sự hòa giải và an bình. Các con thân mến, cả cha nữa, cha cũng lên đường với các bạn, từ hôm nay, theo vết của chân phước Gioan Phaolô II và ĐTC Biển Đức XVI.
Chúng ta đang ở gần giai đoạn cuối cùng của cuộc đại lữ hành của Thập Giá. Cha vui mừng nhìn về tháng bảy sắp tới, tại Rio de Janeiro! Cha hẹn các con tại thành phố lớn ấy ở Brazil! Các con hãy chuẩn bị kỹ lưỡng, nhất là chuẩn bị tinh thần trong các cộng đoàn của các con, để cuộc gặp gỡ ấy là một dấu chỉ đức tin cho toàn thế giới. Các con phải nói với thế giới: bước theo Chúa Giêsu thật là điều tốt đẹp; thật là tốt lành khi đồng hành với Chúa Giêsu; sứ điệp của Chúa Giêsu thật là tốt đẹp; thật là tốt khi ra khỏi chính mình, đi tới các khu ngoại ô của thế giới và của cuộc sống để rao truyền Chúa Giêsu! Có ba lời là: niềm vui, thập giá, và giới trẻ.
Chúng ta hãy nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria. Xin Mẹ giúp chúng ta tìm gặp niềm vui trong cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, tìm gặp tình yêu dưới chân thập tự, tìm gặp sự nhiệt tâm của tâm hồn tươi trẻ, để chúng ta bước theo Ngài trong Tuần Thánh này và trong suốt cuộc đời của chúng ta. Amen.
19. Lựa chọn – Mt 26, 14- 27. 66
Khi nhìn vào bức tranh ở Bêtania ta thấy cái gì? Ta gặp thấy đó là một quang cảnh ở trong một bầu khí hết sức nặng nề. Nó nặng nề bởi có một cuộc âm mưu chống lại Chúa Giêsu của nhà cầm quyền Do Thái, giờ đây bầu khí lại càng năng nề hơn khi Giuđa lại đóng góp thêm yếu tố quyết định phản bội Thầy mình, như với tư cách kẻ thực thi lời Tiên Tri này, Giuđa sẽ tìm "cơ hội để nộp Ngài". Thật ra Giuđa hoàn toàn có thể chọn lựa làm hoặc không và chính sự chọn lựa là điều rất quan trọng trong cuộc sống nên:
1. Chọn lựa có mục đích và đi đúng hướng là điều cần thiết
Qua hình ảnh của Giuđa trong đoạn Phúc Âm này đã giúp cho tôi một bài học là phải xác định chính xác cho mình một con đường, lối hướng đi và hướng đi đó phải có một mục đích đúng là điều cần thiết. Khi nhìn lại con đường của Giuđa chúng ta sẽ thấy, Giuđa cũng có một chọn lựa, một hướng đi, có mục đích và có lập trường rõ ràng đó chứ! Thế nhưng tại sao Giuđa đã bị thất bại, để rồi đi đến một sự tuyệt vọng như đang rơi xuống vực thẳm mà không thể cứu vãn được, vì đã mang tiếng là bán đứng Thầy mình và vô tình đưa Thầy mình đi đến cái thật đau thương. Rõ ràng là Giuđa thất bại, thất bại vì Giuđa có lẽ tham tiền mà bán rẻ Thầy mình với giá 30 đồng bạc là cái giá của một người nô lệ theo luật đã định theo sách (Xh 21, 32), cũng có khi Giuđa còn mang một tư tưởng chính trị muốn cùng Thầy Giêsu bạo động dấy lên chống lại sự đô hộ của Đế quốc Rôma. Cuối cùng Gioan thực hiện theo ý riêng và chọn một hướng đi hết sức sai lầm của mình. Thế nhưng, cái sai lầm đưa đến chỗ tuyệt vọng lớn nhất của Giuđa là không khiêm tốn nhận ra lỗi lầm của mình để mà ăn năn sám hối như trong dân gian có câu: "đã phóng lao thì phải theo lao" bất chấp mọi hậu quả.
Còn thái độ của các môn đệ khác thì sao! Các vị đang chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua cho Thầy mình: "Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu". Xem ra có vẻ các ngài rất ân cần, bận rộn lo lắng, khiêm tốn, cởi mở, luôn luôn tham khảo ý kiến và làm theo ý muốn của Thầy Giêsu. Nhưng cuộc vui đó có lẽ như khựng lại, vì trước khi bữa ăn đã bắt đầu. Một lần nữa Chúa Giêsu lại loan báo: "Một trong các con sẽ nộp Thầy". Chúa Giêsu hẳn có thể mường tượng được khi nghe câu trên, tất cả mọi người trong bàn ăn đều: "thưa Thầy có phải con không?". Chính lúc nầy đây nỗi buồn sẽ xâm chiếm các môn đệ bởi vì lời tiên báo này tố cáo quá rõ lòng trung thành mỏng manh của họ đồi với Thầy mình.
Nhìn vào thái độ Chúa Giêsu ta thấy gì! Ngài có ý sai các môn đệ chuẩn bị lễ Vượt Qua là để Thầy trò cùng nhau sum họp lần cuối: "thời gian của Thầy đang đến gần". Nhưng cũng có thể là dấu chỉ để Chúa Giêsu thiết lập Phép Thánh Thể. Đây là thời gian gấp rút của Ngài đang đến gần, đó là thời gian Ngài sẽ phải chết để đổi mới ý nghĩa của biến cố Vượt Qua của người Do Thái, một phần là để nhắc lại kỉ niệm cuộc giải phóng khỏi ách Ai Cập, một phần là nhắm đến cuộc giải phóng loài người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Và ngày hôm nay lễ Vượt Qua ấy như của lễ hy tế của Chúa Giêsu đang còn tiếp diễn mãi trên bàn thờ cho đến ngày tận thế.
2. Khi đặt mình trước Thánh Thể Chúa tôi có dám chấp nhận và từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa?
Tôi có dám tự hỏi như xưa các môn đệ hỏi Chúa: "Chúa muốn con chuẩn bị cho Chúa ăn lễ Vượt Qua ở đâu?". Tức câu hỏi này ám chỉ một ý nghĩa mỗi ngày là một của lễ hy tế, hy tế của sự ra đi dấn thân, ra đi trong sự tin tưởng phó thác, mang theo một tư thế biết chấp nhận mọi gian truân thử thách cùng đồng lao cộng khổ như Chúa Giêsu đã chịu. Dấn thân trong chấp nhận và từ bỏ. Chấp nhận con người mình là yếu kém, là giới hạn, là mỏng dòn, đôi khi có thể gặp thấy trước mắt là những thất bại. Đồng thời dám từ bỏ những ý riêng, tính ích kỷ, hay ghen ghét, bỏ những gì làm cản bước chân tôi đang đi theo Chúa Giêsu. Hãy cố gắng tập cho tôi có những nhân đức biết cởi mở, biết bàn hỏi theo ý chung trong tình huynh đệ và nhất là phải biết bàn hỏi và thực hiện theo thánh ý của Thầy mình là Giêsu.
3. Tôi cần nhận ra lòng nhân từ vô biên của Chúa
Khi nào còn trung thành gắn bó với Thánh Thể Chúa, thì tôi càng nhận ra lòng nhân từ vô hạn của Chúa. Chỉ có nơi Thiên Chúa mới có thứ tình yêu không biên giới ấy. Cụ thể nơi Chúa Giêsu đã thấy trước sự phản bội của Giuđa nhưng Ngài vẫn tôn trọng sự tự do cho Giuđa, cũng có thể hiểu rằng Chúa Giêsu vẫn còn một chút hy vọng để cho Giuđa còn kịp sám hối quay trở lại với Chúa. Về phía tôi, khi thầm đấm ngực cúi đầu trước Thánh Thể Chúa, tự nhận mình là Giuđa kẻ bán Chúa qua những tính hư tật xấu của mình, khi đó tôi ngước lên nhìn Chúa và Chúa nhìn tôi như Ngài gởi đến cho tôi một thông điệp: Chúa vẫn yêu con và hy vọng rằng con sẽ sống tốt hơn mỗi ngày, cũng trong cuộc sống tốt đẹp nhất của con, là luôn mang hình ảnh tươi sáng của Cha đến cho mọi người, để ngõ hầu cùng con mang các linh hồn về với Ta. Amen.
20. Ba ngã rẽ
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Giêsu Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Trước khi bước vào khổ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng, chặt những nhánh cây rải lối để Chúa đi qua. Tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như một vị vua.
Chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa Giêsu theo sự xúi giục của giới lãnh đạo tôn giáo. Người đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.
Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Chúa Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem trong lời hoan hô chúc tụng và sau đó chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá.
Con đường vào thành Giêrusalem vinh quang vương giả với đám đông ngưỡng mộ, cành lá và quần áo trải thảm đường đi. Con đường lên Núi Sọ với thân kẻ tội đồ vác thập giá, những lời nhục mạ, roi đòn tơi tả và hai tội nhân đồng hành.
Tiến bước theo Chúa trên đường thương khó để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.
Từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ lối khác. Tại sao như thế?
Theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ trên hành trình cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu, của Giuđa, Phêrô và đám đông (ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt).
1. Ngã rẽ của đám đông.
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá". Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu nổi bật trong mầu nhiệm đau thương và cứu độ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông, gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét...
Dân thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những cành lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, pharisiêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi!”. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười.
Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án. Đám đông thật nông nổi nhẹ dạ. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. Có nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ còn có nhiều người đã từng nhận ân huệ của Chúa Giêsu! Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào việc kết án người công chính. Giữa cuộc đời hôm nay, biết bao người công chính, thanh liêm, trung trực, chính nghĩa đã chịu vu vạ cáo gian dẫn đến tù tội do đám đông nông nổi bị lừa dối, bị tuyên truyền!!!
2. Ngã rẽ của Giuđa.
Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt ba năm. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quản lý. Một ngày kia Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ dùng bữa tại nhà ông Simon, bỗng có một phụ nữ đem đến một chai dầu thơm quí giá, rồi chị lấy dầu xức lên chân Chúa. Giuđa phản đối “Sao lại phí thế! Đem chai dầu bán cũng được hơn 300 đồng bạc, lấy số tiền đó đi giúp người nghèo có phải thực tế hơn không?”. Giuđa có đầu óc biết tính toán và thực tế của người quản lý tài chánh.
Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông biệt vắng. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền. Một con người bạc bẽo, vô tình vô nghĩa. Trong tình yêu có gì đẹp bằng nụ hôn! Vậy mà Giuđa dùng nụ hôn làm dấu hiệu nộp Thầy. Trong tình yêu, tội phản bội làm tổn thương và đau đớn vô cùng. Tình yêu càng lớn lao bao nhiêu, khi bị phản bội càng đau đớn bấy nhiêu. Ngã rẽ Giuđa biểu tượng cho những người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa, phản bội người khác, kể cả ân nhân của mình.
3. Ngã rẽ của Phêrô.
Phêrô là môn đệ thân tín của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá, Phêrô ở bên Chúa. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chẳng thấy bóng ông đâu. Phêrô đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng, thích hưởng thụ và sợ bị liên lụy. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Thầy thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa. Phêrô chối Chúa cũng vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Chúa Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo rồi ông cũng bị bắt luôn.
Phêrô đã theo Chúa Giêsu suốt ba năm. Phêrô nếm trải biết bao gian khổ, ông đón nhận tất cả mà không kêu ca nề hà gì. Nhưng hôm nay ông chối Chúa vì sợ bị liên lụy, vì an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó thôi.
Phêrô là người được Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc, lo lắng, và được Ngài ban cho biết bao là ân huệ. Nào là vai trò thủ lãnh của Nhóm Mười Hai, nào là nhiệm vụ cầm giữ chìa khóa Nước Trời: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19); và còn được gọi là Kêpha, nghĩa là đá … vậy mà khi đối mặt với một đứa hầu gái vô danh tiểu tốt, đá lại mềm ra như bún, ông chối phăng không biết Giêsu là ai, ông lại còn dám cả gan thề độc: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” (Mc 14,71). Ông là người nhiệt tình nhất với Chúa Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Thầy. Thế mới biết, bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Phêrô đã sa ngã. Vậy mà ông cứ luôn tưởng rằng mình mạnh mẽ.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, sợ bị liên lụy và của theo hướng của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Nếu có mặt trong ngày Chúa chịu khổ nạn, tôi và bạn có rẽ sang lối nào không? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi và bạn sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi và bạn sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa? Hay tôi và bạn cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Tôi và bạn có kết án bất công như Philatô không? Tôi và bạn có hùa với kẻ mạnh đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng không? Tôi và bạn phải dứt khoát lựa chọn một con đường.
Con đường theo Chúa không êm ái nhẹ nhàng và thênh thang đâu. Đó là con đường thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Đường thập giá là đường một chiều. Đường thập giá là đường lên dốc. Và đường thập giá là đường có nhiều ổ gà dằn xóc. Vì thế mà có nhiều người bỏ cuộc nên rẽ sang một hướng đi khác. Nhận diện ba ngã rẽ của tiền bạc dẫn lối, thích an nhàn hưởng thụ, sợ liên lụy bản thân và hùa theo dư luận để chúng ta tỉnh táo mà bước đi trên hành trình đức tin cuộc đời. Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những bệnh tật, thất bại, đau khổ, bất công…như những thử thách của lòng tin để vững bước theo Chúa đến cùng.
Tuần Thánh, chúng ta cùng dõi bước theo con đường thập giá của Chúa Giêsu. Đó là con đường đau khổ, nhưng cũng là con đường tình yêu và là con đường cứu độ. Trên con đường khổ giá của Chúa, chúng ta sẽ gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Vượt trên tất cả, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô vô bờ bến của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Ước mong mỗi người có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu.
Lạy Chúa, xin cho con luôn mạnh mẽ và kiên trì tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa dẫn con đi. Amen.
21. Suy Niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay có thể chia thành hai phần: Phần thứ nhất là nghi thức làm phép và rước lá; Phần thứ hai là thánh lễ như thường lệ nhưng nội dung các bài đọc mang vẻ trầm buồn, nhất là bài thương khó kể lại cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
Phần thứ nhất, nghi thứ làm phép và rước lá. Trong phần này của chúa nhật năm A, chúng ta nghe đọc đoạn Tin mừng theo Thánh Mathêu, tường thuật lại việc Đức Giêsu vào thành thánh Giêrusalem. Quang cảnh rất hoành tráng. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Dân chúng đón tiếp một cách nồng hậu. Tin mừng cho biết: “Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: Hoan hô con vua Đavit! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!” (Mt 21,8-9). Có thể nói, đây là một cuộc khải hoàn vào thành thánh Giêrusalem của Đức Giêsu, toàn dân ủng hộ, không thấy một sự chống đối nào.
Phần thứ hai, phụng vụ cho chúng ta nghe ba bài đọc liên quan đến cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
Bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia, đây là bài ca thứ ba về người tôi tớ đau khổ. Tác giả cho biết, người tôi tớ bị bách hại, phỉ nhổ, tra tấn và bỏ rơi nhưng vẫn nhịn nhục, chịu đựng, trung thành và tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa: “Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi…” (x. Is 50, 6-7).
Bài đọc II, trích thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô cho chúng ta biết Đức Giêsu chính là người tôi tớ mà tiên tri Isaia tiên báo: “Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người.” (x. Pl 2, 6-11)
Bài Thương khó được Thánh Mathêu tường thuật lại cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Đây là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Qua cuộc khổ nạn này, Ngài đã để lại cho chúng ta nhiều bài học cao quý, xin được đơn cử một số bài học sau đây:
Bài học thứ nhất: Sự can đảm, quảng đại, hy sinh vì người khác. Ngài đã chấp nhận muôn vàn đau khổ vì yêu thương nhân loại chúng ta. Đây là bằng chứng của một tình yêu cao quý. Vì,“không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).
Bài học thứ hai: Sự tha thứ. Ngài tha thứ cho Giuđa là kẻ nộp Ngài. Ngài tha thứ cho Phêrô là kẻ chối Ngài. Ngài tha thứ cho các môn đệ là những người thân tín nhưng đã bỏ trốn khi Ngài gặp nạn. Ngài tha thứ cho kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá. Ngài tha thứ cho kẻ trộm cướp bên phải và cho anh ta được vào Thiên đàng với Ngài ngay ngày hôm ấy.
Bài học thứ ba: Sự vâng phục Thánh ý Thiên Chúa Cha. Khi cảm thấy khó có thể vượt qua nỗi cô đơn, đau khổ, Đức Giêsu không tránh né nhưng phó thác và vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi thì xin vâng Ý Cha.” (Mt 26,39 và 42). Đúng như Thánh Phaolô khẳng định trong bài đọc II: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,8)
Ngoài ra, khi suy niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu còn giúp chúng ta hiểu hơn về ý nghĩa của đau khổ, từ đó chúng ta biết can đảm hơn để vác thập giá của mình và sẵn sàng nâng đỡ thập giá của tha nhân.
Ở Bỉ, trong trận thế chiến thứ nhất, một trận đánh khốc liệt vừa xảy ra. Trong một nhà thờ đã được biến thành nhà thương, hàng trăm thương binh nằm la liệt. Bàn thờ được biến thành bàn mổ. Thiếu thốn thuốc men, người ta phải giải phẫu các thương binh mà không có thuốc tê hay gây mê. Một thương binh đang được giải phẫu, trong một khắc đồng hồ, anh ta phải chịu “tử đạo”, tay nắm chặt, mồ hôi đầm đìa, nhưng không một lời than trách hay rên la.
Sau khi hoàn tất ca phẫu thuật, bác sĩ hỏi anh: “Tại sao anh có thể chịu đựng được như thế? ”
Anh trả lời: “chính vì tôi đã nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh. Ngài đã chết không một tiếng rên la vì tội lỗi nhân loại. Cho nên, tôi cũng không thể than khóc vì những đau khổ mà tôi có thể chịu để đem lại hạnh phúc tự do cho người khác.”
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn để chịu chết trên cây thánh giá vì yêu thương nhân loại chúng con. Xin cho mỗi người chúng con cũng biết chấp nhận những đau khổ trong cuộc sống để cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân loại. Amen.
22. Chúa Giêsu lên Giêrusalem
(Fx. Phạm Đình Phước SDB - viết dựa theo Bênêđictô XVI, Gesù di Nazaret. Dall'ingresso in Gerusalem fino alla risurrezione, LEV, Città del Vaticano 2011, pp.11-21)
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta rằng vào ngày lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Xét về phương diện địa lý, có thể nói rằng chuyến đi này là một hành trình đi lên theo nghĩa đen. Quả vậy, biển Galilê thấp hơn mặt nước biển 200 mét, Giêrusalem cao hơn mực nước biển 460 mét nữa, như thế hành trình của Chúa Giêsu có độ cao gần 760 mét.
Đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình lên Giêrusalem là "thánh giá", nghĩa là trao ban chính bản thân mình cho nhân loại, "yêu mến cho đến tận cùng" (Ga 13,1). Nhưng mục đích gần nhất của hành trình này là tiến lên Đền Thánh Giêrusalem, và dự lễ Vượt Qua của người Do Thái (Ga 2,13). Chúa Giêsu khởi hành cùng với nhóm Mười Hai, nhưng dần dần trở thành một đoàn người hành hương đông đảo. Mát-thêu và Mác-cô thuật lại cho chúng ta rằng có "đoàn lũ đông đảo" theo Chúa Giêsu từ thành Giê-ri-cô.
Bên vệ đường của cuộc hành trình có một người mù ăn xin tên là Bartimêô. Anh biết Chúa Giêsu trong đoàn hành hương, nên anh xin Chúa thương xót và chữa lành anh: "Lạy Thầy, xin cho con được thấy", và Chúa Giêsu đã chữa lành anh. Khi được chữa lành, Bartimêôgia nhập đoàn hành hương tiến lên Giêrusalem (Mc 10, 48-52).
Từ làng Betphagiê và Bêtania khi đến núi Cây Dầu nơi mọi người đang đón chờ Đấng Messia, Chúa Giêsu sai hai môn đệ và bảo hai ông:"Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay" (Mt 21, 2 -3). Thánh Mác-cô thêm một chi tiết thú vị là “con lừa chưa ai từng cỡi” (Mc 11,2). Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền. Sự việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri Da-ca-ri-a: “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Ngài hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Dcr 12, 15). Việc Chúa Giêsu tiến vào thành “trên lưng lừa” cho thấy Chúa Giêsu diễn tả vương quyền của Ngài ở trong sự nghèo khó, trong khiêm tốn và trong bình an của Thiên Chúa.
Việc “mặc áo choàng” mang ý nghĩa vương đế trong truyền thống Israel (x. 2 V 9, 13). Các môn đệ đã biểu lộ hành động tôn vinh Chúa Giêsu “lên ngôi”. Đông đảo khách hành hương thấy nhiệt tâm của các môn đệ cũng trải áo choàng xuống trải xuống mặt đường, chặt nhành chặt lá mà rải trên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy và tung hô: “Osanna, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11, 9; Tv 118, 25).
“Osanna” có nghĩa là “xin cứu giúp chúng con”. Vào ngày thứ bảy của dịp Lễ Lều, vị tư tế đi xung quanh xông hương bàn thờ 7 lần và lặng lẽ lập lại lời đó để cầu xin mưa thuận gió hòa. Vào các dịp lễ, dân chúng hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem, tay vừa phất các cành lá linh thánh vừa hát các câu tung hô. Khi các dịp lễ như thế biến thành những lễ hội của niềm vui, thì lời cầu xin cũng trở thành lời reo vui phấn khích. Trong bối cảnh ngày lễ, khách hành hương diễn tả niềm vui, niềm hy vọng là Đấng Messia sẽ thiết lập vương quyền trên Israel.
“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” là lời đón chào khách hành hương ngay cửa thành Thánh hay ngay cửa Đền Thờ. Nhưng câu này còn mang một ý nghĩa khác nữa như trong thánh vịnh 118 "Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em", là lời cầu chúc của các thượng tế dành cho khách hành hương lên đền thánh Giê-ru-sa-lem. Ở đây, lời chúc lành cho khách hành hương trở thành lời ngợi khen Chúa Giêsu, Đấng nhân danh Chúa mà đến: Chúa Giêsu được chào đón như Đấng dân đang mong chờ và Đấng được loan báo qua mọi lời hứa. Tin Mừng Gioan và Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại việc Chúa Giêsu được tôn vinh ngay của vào thành Giêrusalem; thánh Mát-thêu còn ghi lại rằng "khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động xôn xao". Các thánh sử cũng cho thấy rằng những kẻ tôn vinh Chúa không phải là những người dân trong thành, mà là những người hành hương, những người cùng đồng hành với Chúa Giêsu; họ cùng với Chúa bước vào thánh thánh Giêrusalem.
Khi vào đền thánh, ngay sau việc thanh tẩy đền thờ, thánh sử Mát-thêu tường thuật thêm hai chi tiết khác. Trước hết, Chúa Giêsu nói về đền thờ là ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc và “có những kẻ mù loà và què quặt đến với Ngài trong đền thờ. Ngài đã chữa họ lành”. Chúa Giêsu tỏ hiện như một Đấng yêu thương và quyền năng của Ngài là quyền năng tình yêu. Như thế, Ngài dạy các kitô hữu về sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc. Hơn nữa, Mat-thêu còn nói rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những người hành hương trong đền thờ: “Hoan hô Con Vua Đavít” (Mt 21, 15). Để vào Nước Thiên Chúa thì một trong những điều cốt yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Chúa Giêsu, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ con người, đưa họ về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, thì cần thiết phải từ bỏ sự kiêu hãnh và để gặp Thiên Chúa thì cần phải nhìn bằng con tim, phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ và với một tâm hồn tươi trẻ.
Thánh thi Benedictus được đưa vào phụng vụ như muốn nói rằng đối với Giáo Hội, ngày Chúa Nhật Lễ Lá không thuộc về quá khứ. Như ngày xưa Chúa Giêsu cỡi lừa bước vào thánh thánh, Giáo Hội đón nhận Chúa Giêsu đang đến với chúng ta cách khiêm tốn trong bánh rượu. Giáo Hội chào đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể đang đến và ngự giữa cộng đoàn.
Mỗi kitô hữu hãy đón chào Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể như Đấng ngự đến trong lòng giáo hội, và đón chào Đấng hiện diện luôn mãi và Đấng sẽ ngự đến trong vinh quang. Như khách hành hương vào đến thánh Giê-ru-sa-lem, mỗi một kitô hữu được mời gọi gặp Chúa trong Thánh Thể.
Với lễ Lá, các Kitô hữu đang bước vào tuần thánh, với cao điểm của phụng vụ Kitô giáo là Tam Nhật Thánh. Phụng vụ trong những ngày này thuật lại sự thương khó, khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, kể cả những người, cho dẫu không biết Thiên Chúa, sống với lòng ngay thẳng và chân thật.
Con người được dựng nên để sống và sống để yêu mến: yêu mến Chúa và để yêu thương nhau. Thiên Chúa là tình yêu, đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý Chúa Cha để đem lại yêu thương cho con người. Thiên Chúa cho con người được thông phần cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, để cho họ “được sống dồi dào” và sống viên mãn trong tình yêu.
23. Ông này là ai vậy?
(‘Manna’)
Từ trước tới nay, chưa một lần nào Đức Giêsu tìm cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi cái chết đã gần kề, Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông, và chính Ngài cũng muốn ngồi trên lưng một con lừa để khiêm tốn tiến vào thành thánh.
Nhiều người trải áo hay chặt cành cây rải trên lối đi. Tiếng hò reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít.
Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.
Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn. Ta được nghe bài thương khó trong thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.
Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ. Theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ nạn, ta sẽ thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu có sức nâng đỡ và biến đổi ta, giúp ta đón nhận mọi gai góc của cuộc sống.
Cần cảm nghiệm những đau noun trên thân xác Chúa, nhưng đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất là đừng quên nhận ra một Tình Yêu, Tình Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân loại. Chỉ Tình Yêu mới làm cho khổ đau sinh trái.
Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết.
Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa.
Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa.
Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường, từ Vườn Dầu đến tận Núi Sọ.
Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn.
Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?
Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được không? Tại sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho con tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.
24. Kinh nghiệm đau đớn của Phêrô
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Bài tường thuật cuộc đau khổ của Chúa Giêsu thật khó diễn giải. Tự nó đã nói rất nhiều rồi. Phải đọc trong tinh thần cầu nguyện, phải để nó thấm nhập vào mình, tìm cách chịu đựng tính chất thực tế của nó, mở lòng đón nhận cái sứ điệp nó đề nghị. Chúng ta thử dừng lại ở một điểm: ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô, vị tông đồ tự phụ, yếu đuối, ăn năn.
1) Hai câu 26,33-34 cho ta thấy Phêrô trung tín chừng nào, nhưng đồng thời cũng không biết rằng chước cám dỗ có thể bất ngờ và dữ dội ra sao. Trong những trường hợp khác, ông nghe lời Chúa Giêsu mà quyết định ngược lại với chính mình, còn đây ông lại phản đối lời Người. Chúa báo trước các môn đệ sẽ lìa bỏ Người. Phêrô cho là chuyện khó tin, không thể xảy ra được. Chúa nói thêm rằng ông sẽ chối Chúa trước khi gà gáy. Lẽ ra ông phải lo sợ, phải cầu xin cho khỏi sa ngã, đàng này ông phản ứng mạnh mẽ, đầy tin tưởng vào mình. Ông thành thực lắm. Ông cảm thấy không gì lay chuyển tình yêu đối với Thày. Ông không thể chấp nhận lời Chúa Giêsu báo trước rằng ông sẽ sa ngã. Cuối cùng, khi Chúa dặn ông phải tỉnh thức và cầu nguyện, thì Phêrô không thức, nhưng lại ngã ra ngủ, lòng vẫn đầy tin tưởng vào mình. Phải chăng ta gặp thấy một ‘âm vang’ của cái kinh nghiệm đau đớn này trong lời căn dặn mà sau này Người sẽ viết ra: “Hỡi anh em, hãy tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé…” (1Pr 5,8).
2) Kẻ thù ồn ào và gầm thét đã tấn công Phêrô, đó là đám đông đã bắt Chúa Giêsu và tìm hết cách tỏ lòng căm phẫn đối với Người. Phêrô lo sợ, mà không biết mình sợ. Vì không biết mình, nên ông đã không thấy rõ sự yếu đuối của mình, do đó ông đã liều lĩnh: Phêrô theo Chúa xa xa, đến dinh thày cả thượng phẩm. Ông tưởng rằng sự việc rồi cũng sẽ kết thúc như bao nhiêu lần Chúa Giêsu đã chấm dứt những hành vi gây hấn của bọn Do thái. Ông chờ đợi mà không đề phòng. Ông sẵn sàng để sa ngã. Chỉ một câu hỏi của một người đàn bà cũng làm ông bối rối, một nỗi bối rối xen lẫn sợ hãi, tính hèn nhát và bản năng bảo tồn, mặc cảm tự ti là người xứ Galilêa, ‘khả năng’ nói dối. Ông chối Chúa Giêsu.
3) Nhưng Phêrô hối hận. Tiếng gà gáy làm ông nhớ lại lời tiên báo của Chúa. Ở đây, vẻ cao quý của Phêrô là ở lòng khiêm nhường, thành thực, tin tưởng dù đã sa ngã. Ông khiêm nhường vì nhận ngay mình có tội mà không phân tích lỗi lầm để tìm cớ chữa mình. Ông thành thực vì không quanh co trong việc nhìn nhận một lỗi lầm nghịch lại lời cam kết với Chúa Giêsu. Ông cảm thấy lờ mờ rằng nhờ nhận lỗi mình cách thành thật, ông được Thày khoan dung tha thứ. Ông khóc vì cảm động, và vì đối với một người khí phách như ông, thì đó có lẽ là cách duy nhất để xin lỗi. Phêrô thống hối đã được tha thứ và nên hùng tráng.
25. Cành lá phản bội (Mt 26,14-27,66)
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’ của – R. Veritas)
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembradt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “Ba Thập Giá”. Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét… Tác giả như muốn nói rằng: không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt, tác giả của bức tranh này.
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembradt, nhà danh hoạ lại chen vào khuôn mặt của mình?
Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để chối bỏ trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đớn đau như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải bị treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày này, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một xỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Ngài…
Thử hỏi, nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án của Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào?
Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành Syrênê đã vác đỡ thập giá Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Phalatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh, tương tự hành động của Giuđa! Chúng ta không ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế.
Thưa anh chị em, với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông quần chúng nô nức phất cao cành lá “hoan hô Con Vua Đavit” có vẻ một cuộc toàn thắng vang dội. Thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của quần chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu gào vào những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”.
Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Còn đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành đô Giêrusalem và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh này, chúng ta phải tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết… Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Đức Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Càng suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
26. Tin và không tin
(Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Tuần Thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép và kiệu lá, tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem được người Do Thái tung hô: Hoan hô con vua Davit! Trong suốt Tuần Thánh cũng là tuần lễ Giáo Hội theo sát Đức Giêsu trong những ngày cuối cùng của Ngài cho đến khi bước vào cuộc khổ nạn. Khung cảnh ngày lễ hôm nay mang màu sác tương phản, lúc đầu lễ là một cuộc rước tưng bừng theo hình ảnh cuộc rước của dân Do Thái ngày xưa khi Đức Giêsu công khai vào thành Giêrusalem trong tư cách là Vua Mesia, ngay sau đó các bài đọc và bài Tin Mừng lại kể về cuộc thương khó của Người. Trong trình thuật cuộc thương khó cho thấy những người Do Thái đồng hương của Chúa, họ tìm mọi cách để loại trừ Đức Giêsu vì họ không tin Ngài là Đấng Mesia - Con Thiên Chúa, trong khi đó chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài thì những người dân ngoại lại tin nhận Ngài là người công chính.
Những người Do Thái họ muốn loại trừ Chúa Giêsu vì thấy Đức Giêsu không như họ nghĩ và Ngài đã không đáp ứng những điều họ muốn, những người này không chấp nhận một vị Thiên Chúa mà lại khiêm nhu mang gương mặt của một người đầy tớ như bài đọc thứ nhất mô tả. Trong khi họ chờ đợi một Đấng Mesia oai phong, bách chiến bách thắng, thì Isaia lại nói về một tôi tớ khiêm hạ, đưa lưng cho kẻ đánh mình, và đưa má cho kẻ giật râu, không tránh né những lời nhạo cười phỉ nhổ.
Hình ảnh người tôi tớ của Thiên Chúa đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, Đấng đã đến và sống theo tinh thần của một người tôi tớ phục vụ, và cư xử nhân từ tha thứ, trong khi đó người Do Thái lại muốn một Thiên Chúa phảỉ trừng phạt hết những kẻ mà họ cho xấu xa, như quân La Mã để đem lại sự độc lập và thịnh vượng cho đất nước, họ không chấp nhận Đức Giêsu giao du tiếp xúc với người thu thuế và tội lỗi, họ muốn một Thiên Chúa phải đáp ứng ngay lập tức những thứ họ cần. Chính vì Đức Giêsu đã không như họ mong đợi, nên những người Do Thái đã muốn mượn tay Philatô để loại trừ Ngài.
Để thực hiện ý đồ này, những người lãnh đạo Do Thái đã không ngần ngại vu khống bịa chuyện, xuyên tạc để có cớ lên án Chúa Giêsu. Những người Do Thái cho là Chúa Giêsu nói phạm thượng khi Ngài xưng mình là Con Thiên Chúa, là Đấng đến từ Thiên Chúa và làm những việc của Thiên Chúa, họ cho rằng Chúa Giêsu lộng ngôn khi dám tuyên bố tha tội cho người mù và người bại liệt, và là người vô đạo khi vi phạm trầm trọng luật nghỉ việc ngày Sabat. Từ những xung khắc ban đầu hoàn toàn chỉ là những vấn đề liên quan đến niềm tin tôn giáo và những cáo buộc về tôn giáo tại dinh Caipha, thì sáng hôm sau, vì nhất quyết loại trừ Chúa Giêsu, những người Do Thái đã dẫn Chúa Giêsu đến dinh Philatô và bịa ra những vấn đề chính trị xã hội để cáo buộc Ngài, và vu cho Ngài như là một tội phạm chính trị: Tên này đã xúi dân làm loại, đã tự xưng mình là vua, đã ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế La-mã.
Bài tường thuật cũng cho thấy, Chúa Giêsu đã trở thành nạn nhân của con người và trở thành trò chơi cho các thế lực và như quả bóng trên sân chính trị của con người. Tất cả những việc làm vì yêu thương của Chúa đối với dân chúng, thì giờ đây lại bị coi như là những thứ để họ đùa cợt, trong khi quan Philatô không tìm ra tội gì nơi Chúa Giêsu thì những người Do Thái lại đòi giết Ngài, Philatô muốn phủi trách nhiệm của mình không chỉ bằng việc rửa tay để cho rằng mình là người vô can, mà ông còn chuyển giao Đức Giêsu cho vua Hêrôđê để khỏi mang trách nhiệm. Vua Hêrôđê, đùa cợt coi thường và còn thách thức Chúa Giêsu làm vài phép lạ để xem cho vui, và khi không được như ý muốn, thì ông cho rằng Chúa Giêsu là một người điên và trả lại cho Hêrôđê. Mặc dù việc làm này cho thấy Chúa Giêsu trở thành như quả bóng bị đá qua đá lại giữa những người có thế lực, như Thánh Luca lại cho thấy, nhờ Chúa Giêsu mà Hêrôđê và Philatô đã trở nên thân thiết với nhau xóa bỏ được sự thù hằn đã lâu.
Từ sự căm thù, mà những thượng tế và luật sĩ đã cố tình muốn đưa Đức Giêsu đến cái chết, mặc dù Philatô đã mượn cả Hêrôđê để cho thấy Chúa Giêsu là người vô tội, nhưng các thượng tế và luật sĩ vẫn muốn loại trừ Ngài, và đánh đổi Ngài để lấy một tên trộm cướp giết người tên là Baraba. Cuối cùng Philatô cũng phải chiều theo ý họ, giao Đức Giêsu vào tay họ để họ thỏa mãn cái ác của mình và đem đi đóng đinh. Kế hoạch của người Do Thái đến đây đã thành công, kẻ mà họ muốn loại trừ đã ở trong tay họ, cái ác đã thắng thế và càng ngày càng đi đến tột cùng, họ điên cuồng gào thét, họ hả hê thỏa mãn vì thành công của mình là đã loại trừ được Đức Giêsu bằng việc đóng đinh Ngài vào thập giá và đứng dưới chân thập giá để nhạo cười thách thức Người: nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin.
Còn về phía Chúa Giêsu, Ngài đã im lặng và đón nhận tất cả những sự độc ác và gian dối mà con người đang trút xuống trên Ngài, với lòng tin vào quyền năng và sự chiến thắng của sự thiện trên sự ác, của Thiên Chúa trên ma quỷ, của tình yêu thương trên hận thù. Trên cây thập giá khi mà tay chân bị đóng chặt vào cây gỗ, đau đớn đến tột cùng vì sư phản bội của các môn đệ, sự bội bạc tráo trở vô ơn của dân chúng, và sự độc ác dã man của con người, Chúa Giêsu đã hướng về Thiên Chúa Cha để xin Thiên Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho nhân loại cho những người gây ra cái chết cho mình, cho những kẻ đang nhạo cười Người: Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết việc họ làm. Chính khi ở trên cây thập giá Chúa Giêsu đã làm cho tình yêu thương trổ sinh hoa trái là sự tha thứ, và chính lúc bị treo, bị mọi người từ chối, thì viên sĩ quan người Rôma lại nhận ra kẻ tử tội mà ông vừa mới hành hình là Người Công Chính, là Con Thiên Chúa. Viên sĩ quan này đã tin vì đã chứng kiến từ đầu của bản án và thấy ở nơi Đức Giêsu sự nhân từ và tha thứ, điều mà ông chưa bao giờ thấy ở nơi các tử tội khác.
Thưa quý ông bà và anh chị em,
Không phải chỉ có người Do Thái ngày xưa họ muốn loại trừ Chúa Giêsu, mà ngày nay thế giới và con người cũng vẫn đang muốn tìm mọi cách để loại trừ Ngài. Trong Tông Thư Cánh cửa Đức tin, Đức Thánh Cha Benedictô cũng cho thấy thế giới ngày hôm nay vẫn đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, ra khỏi thế giới và ra khỏi tâm hồn họ. Con người ngày nay dường như họ sợ Thiên Chúa ngăn cản lối sống buông thả dễ dãi của họ, họ sơ Thiên Chúa đòi họ phải sống nghèo khó thay vì chạy theo lối sống vật chất hưởng thụ, họ sợ Thiên Chúa đòi họ phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy thay vì trả thù trả đũa, cấm vận, và người ta không muốn chấp nhận một Thiên Chúa đòi con người phải từ bỏ phải hy sinh và dám sống theo ngài, chính vì thế mà người ta tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống họ.
Không chỉ những người vô thần hoặc thế giới đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa, mà ngay những người mang danh là Kitô hữu, cũng đang xa rời Ngài, vì cho rằng Đức Kitô gây cản trở cho tự do của họ. Chính vì thế, nhiều người tín hữu ngày nay mang danh là Kitô hữu nhưng lại không thực hành niềm tin của mình, không hiểu biết về Thiên Chúa và không yêu mến Ngài, và cũng không có Chuá trong tâm hồn, vì nhiều người đã lười biếng không đón nhận Ngài vào tâm hồn, không muốn để cho lời Ngài hướng dẫn mình, họ sống một đời sống tôn giáo khô khan, không tham dự nghi lễ hoặc chỉ tham dự một cách hời hợi cho qua lần.
Chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hôm nay, mỗi người hãy tự đặt cho mình cầu hỏi: tôi có còn tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hay không và tôi sẽ phải làm gì để tuyên xưng và diễn tả đức tin ấy trong cuộc sống hiện tại của tôi?
Cầu chúc cho mọi người có những ngày Tuần Thánh thật sốt sáng, theo sát Đức Giêsu trên con đường yêu thương và dành những phút thinh lặng trong ngày để chiêm ngắm về một tình yêu đến cùng mà Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Amen
27. Định mệnh an bài!
(Như Hạ)
Thời gian nào cũng là thời gian. Nhưng không phải thời gian nào cũng giống thời gian nào. Mỗi người sẽ trải qua những giây phút cực kỳ quan trọng. Đức Giêsu đã biết trước những giây phút đó. Cuối đời Người là một chuỗi vinh nhục.
TÌM MỘT CON ĐƯỜNG.
Dù khi vinh quang vào thành Giêrusalem hay tơi tả dưới làn mưa roi, Đức Giêsu chỉ biết vâng theo thánh ý Chúa Cha mà thôi. Đó là con đường dẫn tới vinh quang. Con đường phục vụ luôn sáng chói giữa những tương quan chằng chịt và biến cố bất ngờ. Tương quan trần gian thật mỏng manh. Có ai đáng tin cậy hơn các môn đệ? Thế mà ông Phêrô "chối Chúa trước mặt mọi người" (Mt 26,71). Giuđa "nộp Đức Giêsu." (Mt 26,16.48) "Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết" (Mt 26,56). Cháy nhà mới ra mặt chuột! Nhưng Đức Giêsu không lệ thuộc vào con người dòn mỏng. Chỗ dựa không phải là con người. Sức mạnh cũng không phải là gươm giáo gậy gộc, nhưng là "Cha Thầy" với "mười hai đạo binh thiên thần" (Mt 26,53) Bởi vậy, Người mới có thể đứng vững trước bao thử thách. Qua bao đoạn đường gập ghềnh, Người vẫn thẳng bước, vì mục tiêu đã được xác định dứt khoát.
Mục tiêu đó chính là vinh quang Thiên Chúa. Có lúc vinh danh Chúa Cha và Chúa Con không tách lìa. Chính lúc vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu tưởng như đã lên chín tầng mây với Chúa Cha khi dân chúng tung hô: "Hoan Hô Con vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời." (Mt 21, 9) Nhưng Người cũng thấy vinh quang Chúa Cha tràn ngập ngay cả lúc nghe những lời nhục mạ: "Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?" (Mt 26, 68) hay khi "lính của tổng trấn quì gối trước mặt Người mà nhạo rằng: 'Vạn tuế Đức Vua dân Do thái!'" (Mt 26,29) Một nguồn bình an khôn tả khỏa lấp con tim ngay giữa cảnh "kẻ qua người lại đều nhục mạ Người." (Mt 27,39) Vinh quang vẫn lóe lên ngay trong đêm đen hận thù: "Nếu mi là Con Thiên Chúa… Hắn là Vua Ítraen! Hắn đã nói: 'Ta là Con Thiên Chúa!'" (Mt 27, 40.42.43) Đã đến lúc Cha làm vinh danh Con. Đứng trước các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng, Người vẫn khẳng quyết mình "là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa." (Mt 26,65) và trước mặt tổng trấn Philatô, Người xác nhận mình là "vua dân Do thái." (Mt 27,11) Đứng giữa đám đông khát máu đang gào thét: "Đóng đinh nó vào thập giá!" (Mt 27,23.25.26), Đức Giêsu vẫn nghiễm nhiên vươn lên như Đấng "Kitô" (Mt 27,22)
Tất cả xảy ra không ngoài "ý cha" (Mt 26,39). Những lúc "làm thinh" (Mt 26,63) hay "không trả lời một tiếng" (Mt 27,12) là những lúc Đức Giêsu kiên cường bất khuất trước cường lực đối phương. Người như chìm sâu trong tình yêu Thiên Chúa để tìm một lối thoát cho những bế tắc hiện tại. Càng nhìn lên cao, Người càng không thấy lý do phải đối đầu với những toan tính thấp hèn như thế. Chấp nhận cái chết nhục nhã để thi hành thánh ý Cha, chứ không chịu uốn cong ba tấc lưỡi để tìm đường chạy trốn khỏi định mệnh. Nếu chối bỏ sự thật về mình, chắc chắn Người đã không khơi bùng ngọn lửa căm hờn trong lòng các thượng tế và dân chúng. Nhưng Đức Giêsu đã không hèn nhát đi tìm một con đường dễ dãi như thế. Ngay cả khi giang tay trên thập giá, Người cũng không chấp nhận những thách thức rẻ tiền để chứng minh mình là "Con Thiên Chúa" (Mt 27,43). Không thể tìm thấy chân lý nơi những ồn ào phức tạp đó. Chính trong thinh lặng và cầu nguyện, Đức Giêsu đã khám phá được tất cả nét hào hùng và dịu ngọt của tình yêu Thiên Chúa.
Tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đã có thể mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa tình yêu ngay giữa lúc tâm hồn đang cay đắng vì cảnh Giuđa "nộp Người" (Mt 26,48) và "tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy." (Mt 26,31) Chính khi mọi tương giao nhân loại bị bứt tung, Đức Giêsu lại mạc khải "đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội." (Mt 26,28) Máu Thầy đem lại sự giải thoát cho toàn thể nhân loại. Tất cả kế hoạch thâm hiểm của con người vô tình đã làm cho máu Thầy đổ ra theo đúng chương trình tình yêu của Thiên Chúa.
Khám phá và chấp nhận tất cả chương trình tình yêu Thiên Chúa đòi nhiều sáng suốt và can đảm. Chính vì vậy, trước khi nộp mình vào tay các quân lính thượng tế và kỳ mục, Đức Giêsu đã cầu nguyện ba lần trong vườn Ghếtsêmani. Trước giờ phút cực kỳ quan trọng đó, các môn đệ vẫn vô tình như đã vô tình từ trước đến nay. Lúc nào họ cũng chỉ quan tâm đến quyền lợi riêng. Họ có thể dùng chính những mỹ từ thân thương và cử chỉ âu yếm để che dấu sự phản bội (x. Mt 26,49). Những dấu chỉ tình yêu đó và những lời khẳng quyết "không chối Thầy" (Mt 26,35) đều mất hết ý nghĩa. Có nhiều lúc ngôn từ không mang nổi nội dung diễn đạt. Nhưng nếu cố tình phản bội nội dung ngôn từ, con người sẽ phải trả giá. Sau khi nuốt lời hứa, ông Phêrô "ra ngoài, khóc lóc thảm thiết." (Mt 26,75) Giuđa cũng hối hận không kém: "Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan." (Mt 27,4) rồi "Giuđa ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ." (Mt 27,5) Hối hận đến thế vẫn chưa đủ sao? Tại sao phải thắt cổ mới xứng với việc đền bù? Thật là một mầu nhiệm. Giuđa đã trả giá quá mắc! Chúa có đòi vậy đâu!
NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÂN CHÍNH.
Điều Chúa đòi là người môn đệ phải chân thành với chính mình. Sau khi chối Chúa, ông Phêrô đã "khóc lóc thảm thiết" vì thấy mình quá yếu đuối. Còn ông Giuđa không hề khóc lóc, chỉ giận dữ lên án chính mình và tự xử cho mình, không kiên nhẫn đợi giây phút trở về với Cha nhân lành. Từ chỗ ồn ào hăm hở trả giá Thầy, ông đã đụng đầu một cái tôi rối loạn đến nỗi không còn nhận ra sự thật về mình. Muốn tránh được tai họa thảm khốc đó, "trên hết trong xã hội tục hóa ngày nay, cần phải có một mục tiêu rõ ràng và một ý chí kiên vững, trực tiếp phát sinh từ những nguồn mạch Phúc âm chân chính." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 18/03/2002) Sống với Thầy suốt một quãng đường dài, nhưng ông Giuđa không hề một lần kinh ngạc về thực tại trước mắt. Thói quen và lối sống hằng ngày đã bưng mắt không cho người môn đệ thấy sự thật về Thầy. Mọi sự đương nhiên phải như thế!
Thực tế mọi sự chẳng sẵn sàng như ta tưởng. Chính Thầy cũng không hiện diện đấy như một thực thể nằm sẵn trong tầm tay. Không coi Thầy như một giá trị tuyệt đối, không thể khám phá Thầy như một chân lý giải thoát. Nhất là trong thế giới ngày càng xa lạ với Thiên Chúa hôm nay, con người không biết mình là ai và tại sao mình sống. Triết lý sẽ giúp con người khám phá ra chiều kích sâu xa đó. Nhưng chỉ "khi triết lý gặp gỡ Đức Kitô trong Tin Mừng, thì Tin Mừng thực sự mới bắt đầu lan tỏa khắp thế giới." (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002) Hiện nay, công bố Phúc âm ngày càng gặp nhiều khó khăn vì hoàn cảnh văn hóa phức tạp (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002). Trong thế giới quá ồn ào hôm nay con người không còn thời giờ khám phá những giá trị vô cùng quan trọng và cần thiết cho cuộc sống. Nếu không thấy mình có "bổn phận nặng nề phải chuyển đạt những giá trị nhân bản, tinh thần và thiêng liêng cho các thế hệ trẻ," (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002) cha mẹ và nhà giáo sẽ không thể cung cấp cho xã hội tương lai những con người chân chính và đầy trách nhiệm đối với xã hội.
Chỉ trong xã hội đầy những con người như thế mới có thể loan báo Tin Mừng về Đức Giêsu như Đấng cứu độ duy nhất cho toàn thể nhân loại.
28. Cô đơn
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có bao giờ bạn cảm thấy cô đơn khi lạc vào chốn đông người, nhưng lại xa lạ, tìm một người quen để chào hỏi, để bắt tay cũng chẳng thấy. Lúc đó có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy trống vắng tận cõi lòng. Đây cũng là ca từ của bài hát “Khi người lớn cô đơn”. Lời hát được viết như sau:
Thành phố bé thế thôi
Mà tìm hoài chẳng được
Tìm hoài sao chẳng thấy nhau giữa chốn đông người
Nỗi cô đơn càng dâng cao khi mà giữa phố xá đông người mà chẳng có ai đó của riêng mình để yêu thương, để chăm sóc, quan tâm...
Thành phố bé đến thế thôi
Mà tìm hoài không thấy
Chút ấm áp, chút yêu thương riêng mình.
Nỗi cô đơn thật quạnh hiu khi mà ngồi bên ai đó nhưng cũng xa lạ, không tìm được sự thông cảm, sự chia sẻ giữa tình người với nhau.
Rồi có những đêm mưa
Nằm nghe câu ca rất xưa
Từ radio phát lên, nghe thật buồn (buồn lắm)
Người lớn cô đơn, tự mình trong bao nghĩ suy
Ngồi bên ai sao thấy riêng tôi quạnh hiu!!!
Người ta nói cô đơn là cho đi mà không có người nhận, là muốn nhận mà chẳng có ai cho. Tựa như hai bờ sông liền nhau mà vẫn cách biệt. Thấy nhau mà vẫn ngăn sông cách trở nên chẳng qua lại được với nhau. Cô đơn bị ngăn cách không phải bởi không gian mà ngăn cách của cõi lòng. Khi con tim xa nhau thì ngồi bên nhau vẫn như xa lạ.
Thế nên, càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Càng gần nhau mà không tìm được sự cảm thông thì nỗi cô đơn càng cay đắng hơn. Có thể nói nỗi cô đơn khi bị chính người mình yêu thờ ơ trước sự thống khổ của ta có khi còn đau đớn hơn tù đầy, có khi u ám hơn sự chết, vì đây là nỗi cô đơn của dửng dưng, của sự bỏ rơi nơi những người ta yêu.
Cô đơn có thể đưa tới sợ hãi và tuyệt vọng. Kinh nghiệm đau thương này có thể xẩy ra cho con người trong mọi thời đại, nhất là thế giới hôm nay, một thế giới văn minh có đầy đủ mọi phương tiện để hưởng thụ, nhưng tình con người lại xa cách nhau. Họ ít quan tâm đến nhau. Họ sợ liên đới với nhau. Họ chủ trương “Makeno” cho yên thân. Con người của thời đại văn minh vẫn có thể chết cô đơn trên đống nhung lụa của mình. Đây là lý do mà con số người tự tử ngày một tăng, tỷ lệ nghịch với sự phát triển của văn minh nhân loại. Nhân loại càng văn minh thì càng có lắm kẻ cô đơn.Chúa Giê-su cũng từng nếm trải sự cô đơn giữa những người mình thương. Ngài ở cùng các môn đệ nhưng không tìm được sự ủi an. Một mình vẫn cô đơn trong đêm tối đầy sao! Ngài đã từng ngao ngán nói rằng: “Các con không thức với Ta một giờ sao!”. Ngài cần các môn đệ chia sẻ với Ngài trong đêm tối của sự dữ nhưng các ông vẫn tìm cho mình một cõi đi về trong cơn say của ngủ mê. Nỗi cô đơn ấy đã dâng cao trong nhiều giờ phút cuối đời Ngài khi bị treo lơ lửng giữa trời và đất, làm trò cười cho những người xung quanh. Ngài lại còn cảm thấy như bị chính Chúa Cha bỏ rơi. Ngài đã đi đến tận cùng sự cô đơn của con người. Nhưng chính trong nỗi cô đơn cùng cực ấy mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta thấy một lối thoát giữa cô đơn là sự tín thác vào Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn phó thác nơi Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác nơi Cha”. Chính niềm tín thác ấy đã giúp Ngài vượt qua được nỗi cô đơn để bình thản đón nhận cái chết cô đơn.
Cuộc đời thật hạnh phúc biết bao nếu cuộc sống mang đến cho ta những người bạn. Những người bạn để có thể đi bên ta trong những khó khăn, cầm tay ta trong những lúc thất bại, và có lẽ cuộc đời sẽ không cô đơn khi mà cuộc sống thật bận rộn nhưng vẫn có người dành cho ta 3 giây chỉ để nói “xin chào” thật thân thương, hay chỉ gửi một tin nhắn 3 chữ “chúc bình an” là đủ ấm lòng những con tim đang lạnh giá!
Nhưng nếu cuộc đời có những lúc cô đơn thì đừng bao giờ tuyệt vọng. Hãy theo gương Chúa Giê-su để tín thác mọi sự cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta ngay cả khi người mẹ có bỏ con thì Chúa vẫn ở bên ta. Ngài có đủ quyền năng để có thể rút ra điều tốt từ điều xấu. Thiên Chúa chính là thành lũy vững chắc nhất cho cuộc đời chúng ta.
Xin cho cuộc đời chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng, nhưng luôn tin tưởng, phó thác cậy trông nơi Chúa trong những gian nguy của cuộc đời. Amen.
29. Chọn Chúa Giêsu
(Bài Giảng của Đức Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật Lễ Lá năm 2005 cho Giới Trẻ).
Cha phải nói với chúng con những gì trong thánh lễ chiều nay? Cha đã cầu nguyện rất nhiều, và Chúa đã dạy cha.
Chiều nay, cha mời gọi chúng con cùng với cha, chúng ta hãy quyết tâm thực hiện điều quan trọng nhất đối với cuộc sống kitô hữu của chúng ta: hãy chọn Chúa Giêsu giữa nhiều đối tượng, dù Chúa Giêsu chịu đóng đinh, dù Người chịu treo trên thập giá, Người bị bỏ rơi, dù Người bị sỉ nhục, và bị giết chết...
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị sỉ nhục ngày hôm nay; Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị bôi tro trét trấu trên gương mặt đẫm máu của Người. Chúa Giêsu vẫn không ngừng bị bôi nhọ cho đến ngày tận thế, bấy giờ không ai có thể bôi nhọ Người nữa, vì Người trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người.
Chúng ta chọn lựa Chúa Giêsu, dù có những tiếng kêu mời khác: tiếng kêu mời của hưởng thụ và tiện nghi, của lợi nhuận và tiền bạc, tiếng mời gọi của danh vọng và địa vị, của các loại tình cảm và đam mê. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và đã cắt đặt các con để các con đi và sinh nhiều hoa trái và hoa trái các con tồn tại (Ga 15, 16).
Khi nói như thế, Chúa Giêsu cố ý dạy chúng ta rằng: chính tình yêu của Người đi bước trước: Chúa Giệsu yêu chúng ta trước, chứ không phải chúng ta yêu Người trước. Như lời kinh Tin Kính: vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Người đã chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta. Người đã chết vì tội lỗi chúng ta như lời Kinh Thánh và như lời thánh Phaolô, Người đã sống lại cho chúng ta được nên công chính, được cứu độ, được chia sẻ Thần Khí Phục Sinh của Người, thông phần sự sống thần linh của Người...
Khi nói với các môn đệ không phải các con đã chọn Thầy, Chúa Giêsu không cố ý nói rằng các con đừng chọn Thầy, đừng theo Thầy. Trái lại Người luôn mời gọi hãy theo Thầy, hãy từ bỏ mọi sự vác thập giá mà theo Thầy. Và đã có biết bao nhiêu người trẻ bỏ mọi sự mà theo Người.
Đứng trước những khó khăn, Chúa Giêsu còn cho thấy rõ ràng là phải chọn lựa, như trường hợp có nhiều người bỏ Chúa Giêsu, nhiều môn đệ nói với Người: lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi? Bấy giờ Chúa Giêsu đã hỏi nhóm 12: các con cũng muốn bỏ đi hay sao? Và ông Simon Phêrô đã nhanh nhẩu đáp thay cho nhóm 12: thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Chỉ có Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6, 67-69).
Các con sẽ nói với Chúa Giêsu như thánh Phêrô: Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con theo ai? Chỉ theo Thầy, chúng con mới có những lời ban sự sống đời đời. Các con chọn Chúa Giêsu; Các con có biết rằng chọn Chúa là chọn lời của Người, chọn Tin Mừng của Người không? Lời của Người vẫn còn chướng tai đối với nhiều người hôm nay. Giáo huấn của Người, dù rất tiến bộ vẫn bị coi là bảo thủ đó! Muốn vâng nghe lời Người, đôi lúc các con phải lội ngược dòng sông!
Theo bài tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm nay, đám đông người Do Thái đã bị xúi giục chọn lựa Barraba, và họ đã chọn ông. Còn Chúa Giêsu, thì họ để cho bị lôi đi đánh đòn, và giết chết. Các con có dám nói ngược lại với đám đông không? Các con có dám chọn Chúa Giêsu, khi nhiều mãnh lực thế gian tìm cách loại bỏ Người? Các con có sợ mình lỗi thời khi chọn Chúa Giêsu không? Có nhiều người, vì sợ lỗi thời mà đã bỏ Chúa. Nhưng tất cả những ai đã bỏ Chúa rồi sẽ thất vọng, vì thế gian này qua đi, chỉ có Chúa mới tồn tại. Chỉ có Chúa mới là Tương Lai đích thực của loài người.
30. Đau khổ và sự sống
(Lm Bùi Quang Tuấn)
Sau bao nhiêu công phu trên động vật, các nhà sinh vật học cho biết: một con cá sấu có thể sống được 250 năm; con quạ hay con két có thể sống được 200 năm; cá chép thọ được 100 năm, riêng loài rùa, 100 tuổi vẫn còn rất xuân vì chúng có thể sống được đến 300 năm.
Tôi tự hỏi: những con vật chẳng đáng giá là bao mà sao được hưởng đời lâu thế, đang khi con người là loài cao quí mà sự sống nơi dương gian lại không bằng một góc các con vật kia vậy?
Đành rằng cũng có người sống được đến tuổi 100, nhưng con số đó đâu có nhiều. Cộng đi tính lại, người ta có được bản thống kê: năm 1900 tuổi thọ trung bình của nhân loại là 49; năm mươi năm sau, tuổi trung bình là 67; đến năm 2000 thì cao hơn 70 một chút.
Cuộc đời kéo dài 60,70 năm nhưng có phải tất cả đều được an lành vui sướng hết chăng? Những tháng ngày mình sống đều là những mùa xuân tươi thắm, hay vừa vào xuân đã thấy thu, mới được thanh bình đã gặp khổ đau?
Không ít người cảm thấy đời người sao có quá nhiều bất hạnh, tiếng khóc dường như nhiều hơn tiếng cười, khổ đau tràn đầy hơn niềm vui. Thế rồi phản kháng nảy sinh. Không chỉ nơi kẻ vô thần, nhưng còn từ những người tin nhận có Thượng đế. Không ít người uất ức đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa không loại trừ sự dữ và khổ đau? Phải chăng Ngài bất lực?
Trước những đau khổ và mất mát, một câu trả lời triết lý thế nào đi nữa cũng khó xoa dịu lòng người. Chi bằng cứ nhìn vào khổ đau và cái chết của một con người có tên Giêsu hầu tìm gặp một sự cảm thông chia sẻ, hơn là một sự tránh né hay phản kháng.
Doãn qua cuộc đời Chúa Giêsu, tôi thấy Ngài cũng từng trải qua một cuộc vượt biên gian nan và vĩ đại. Vượt từ thế giới vô hình sang thế giới hữu hình, từ cao sang tột đỉnh qua nghèo hèn cùng đinh, từ Nước Trời vào nước Palestine. Ngài vượt biên không phải để tìm tự do, hạnh phúc, hay sự sống, nhưng đúng hơn, là để trao ban tự do, hạnh phúc và sự sống phong phú cho con người. Để làm nên chuyện đó, Ngài đã phải đánh đổi tự do và cả sự sống rất xuân của mình.
Đức Giêsu chấp nhận cái chết để mầm sống được nảy sinh. Nhưng cái chết của Ngài đâu có oai phong hay yên lành cho cam. Trái lại đó là một cái chết đầy tính bạo động, đau đớn, đơn côi, và quằn quại trên thập giá với những vết thương sâu hoắm hận thù.
Ngay trong chính khổ đau tận cùng của Đức Giêsu trên thập giá lại bừng lên chân lý sống của Tin Mừng: "Ai mất sự sống vì Ta thì sẽ sống."
Điểm then chốt trong chân lý này không phải là "mất sự sống," bởi vì ai lại không bị mất sự sống. Và sự mất mát đó đâu phải chỉ thuần túy xảy đến trong giờ chết, nhưng còn ngay trong giờ sống hàng ngày của con người. Mỗi ngày sống là một ngày chết. Người ta đang mất sự sống từng giờ, từng phút, từng giây. Thế nên "mất sự sống" là điều không thể tránh khỏi. Đau khổ vì phải chết hàng ngày là điều tất nhiên. Thế nhưng, trong sự tất nhiên và không tránh khỏi đó vẫn ánh lên một niềm hy vọng: tìm gặp sự sống mới, không phải chỉ kéo dài 60,70 năm, nhưng là vĩnh hằng trong Đức Kitô.
Hy vọng đó được kết tinh khi con người chấp nhận "mất sự sống" hàng ngày trong tâm tình phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Đây chính là bài học diệu kỳ nơi thập giá: ngay lúc sắp chết, với những hơi thở thoi thóp, cùng những cơn co giật nhức buốt, vậy mà Đức Giêsu đã thốt lên: "Lạy Cha, Con phó thác mạng sống con trong tay Cha."
Sự sống gần như tắt ngấm, đau khổ đã tiến đến đỉnh cao, cuộc đời của con người như thế thì còn gì nữa! Vậy mà vẫn còn đó một tâm tình tín thác, gắn bó trọn vẹn với Thiên Chúa. Phải chăng từ khởi điểm của sự phó thác này mà mầm phục sinh hay sự sống mới đã bắt đầu thành hình, và như thế, u sầu tang thương không còn sức mạnh thống trị, nhưng bắt đầu nhường chỗ cho niềm vui phục sinh lên ngôi?
Khi không thể tránh khỏi đau khổ và mất mát sự sống mỗi ngày thì sự bình an sâu thẳm và mầm Phục sinh vinh quang chỉ có thể đến được với tâm hồn nếu con người biết sống và chết vì Chúa, với Chúa, trong Chúa.
Thế nên, dù đang phải vất vả lăn lộn với bệnh tật, tai ương, khốn khó cuộc sống, hay bao trái ý do tha nhân mang lại, cho dù ngày đời bị pha trộn với bao buồn vui, sướng khổ, thành công, thất bại, hoặc chết chóc chia ly, tôi vẫn quyết giữ mãi cho mình một niềm cậy trông tín thác vào Thiên Chúa.
Chính khi biết đón nhận tất cả trong tin yêu và phó thác vào Đấng đã từng gánh vác, chia sẻ, để thánh hóa khổ đau, nước mắt con người, tôi sẽ tìm thấy ý nghĩa của sự sống trong những cái chết đang xảy ra.
31. Cùng theo Chúa
(Lm. Nguyễn Nguyên)
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu bằng việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao cành lá “Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ giống một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc đời Chúa Giêsu.
Thật vậy, khi cho chúng ta nghe lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu, không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa một vòng quanh nhà thờ hay trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, cũng chẳng khó khăn gì. Nhưng theo Chúa khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều. Tin mừng cho thấy không một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. Bước vào tuần thánh, người tín hữu kytô chúng ta được mời gọi bước theo Chúa Kytô trên con đường thập giá. Những nẻo đường không phải lúc nào cũng thuận lợi, êm ái. Vì luôn có đó những thánh giá - đời cũng như đạo.
Đúng như vậy, bước đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá hôm nay, cho dù chúng ta không bị đòn vọt, tù tội, không có mão gai, không bị đóng đinh vào tay chân, không bị lưỡi đòng đâm thâu, nhưng cũng không kém phần khốc liệt. Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn phải đối diện với nỗi đau đớn của sự phản bội, vu khống, bội bạc của những người đang cùng sống với chúng ta. Thậm chí, có khi sự vô ơn, bội bạc đó còn đến bởi những người thân yêu nhất của chúng ta, những người cùng chung chăn chung gối, anh chị em trong một nhà, con cái, bạn bè…
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta đặt vật chất, danh vọng và thú vui là trên hết, còn ta lại chọn Chúa và đặt Chúa làm giá trị cao nhất là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu.
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta chỉ muốn hưởng lạc thú thể xác mà không muốn sinh con, người ta dễ dàng “khóc”, và lớn tiếng kêu gọi “chia sẻ” khi thấy những nạn nhân của sóng thần, thiên tai, nhưng lại cho phép và cổ võ việc giết những con người vô tội, vô phương chống cự, đó là những thai nhi còn nằm trong bụng mẹ, hay những người già yếu, bệnh tật. Còn ta, ta biết cộng tác với Chúa một cách ý thức và trách nhiệm trong việc sinh và giáo dục những con người mới là ta đang vác thập giá theo Chúa Kitô.
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta xem lường gạt và dối trá như đút lót, tham nhũng, hay đơn giản hơn, việc “quay” bài của các em học sinh là điều bình thường, còn ta, ta sống chân thật chấp nhận chịu thiệt thòi, mất mát là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu.
Như vậy, bước vào Tuần thương khó, giáo hội mời gọi mỗi chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính - đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rũ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác. Tuy nhiên, để có thể bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá, chúng ta phải chấp nhận đi ngược với suy nghĩ, với cách sống của con người hôm nay, và lúc ấy người kitô hữu chúng ta sẽ cảm thấy mình như cô đơn, như đang đứng bên lề của xã hội.
Thế nhưng, cho dù vậy, chúng ta cũng không được phép nản lòng, thối chí, bởi vì chúng ta tin rằng, chúng ta không vác thập giá một mình, chúng ta có Đức Giêsu, người Thầy, người bạn, và là Chúa của chúng ta cùng vác với chúng ta. Và nếu chúng ta dám đi trọn con đường thập giá với Ngài, thì chắc chắn, cuối cùng chúng ta cũng sẽ được cùng Ngài hưởng trọn niềm vui của cuộc Phục Sinh vinh hiển. Xin Chúa Giêsu, Đấng đã từng chịu đau khổ thêm sức cho mỗi người chúng ta, để chúng ta cùng chết với Chúa nhờ đó mai sau được cùng Người phục sinh vinh hiển. Amen.
32. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
BÀI THƯƠNG KHÓ (Mt 26,14 - 27, 66)
Là Kitô hữu Công giáo, vào tuần Thánh thì một trong những chuyện xem ra khá vất vả cho những người có trách nhiệm phục vụ các Lễ nghi Phụng vụ và cả bà con tín hữu tham dự đó là "hát và nghe bài Thương Khó". Những người hát thì vất vả cở nào còn tuỳ khả năng ca hát của họ, còn người nghe thì hầu như phải chịu đựng khá nhiều, nhất là khi nghe các "ca viên không chuyên" ê a, chưa kể đến các yếu tố âm thanh, thời tiết...
Chắc hẳn anh chị em bà con lương dân, khác đạo sẽ thấy lạ tai với cụm từ thương khó, một cụm từ không phổ thông. Lần giở các trang tự điển tiếng Việt, tôi không tìm thấy cụm từ ấy. Thế nhưng, hầu như Kitô hữu Công giáo nào khi nghe đến cuộc thương khó, cũng hiểu ngay đó là cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Cụm từ "cuộc thương khó" được dịch bởi từ La ngữ "Passio", mà nguyên nghĩa là chịu đau khổ. Anh ngữ và Pháp ngữ đều dịch là "Passion", cũng một nội hàm. Không hiểu vì sao khởi đi từ nghĩa gốc là "chịu đau khổ" thì từ Passion theo thời gian, có lẽ bắt đầu từ thế kỷ XXII, lại có thêm nghĩa là dục vọng, một dục vọng mãnh liệt vuợt mức bình thường, thành sự đam mê, thành "yêu say đắm". Có mối tương quan gì chăng giữa các nghĩa của từ ngữ này bản thân không được rõ nhưng cũng xin mạo muội chia sẻ đôi tâm tình về cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta, nhân sự gợi ý của hai ngữ nghĩa ấy. Chúa Giêsu chịu khổ nạn vì con người đam mê, yêu say đắm. Và vì đam mê, yêu say đắm con người nên Chúa Giêsu chịu khổ nạn.
1. Chúa Giêsu chịu khổ nạn vì con người đam mê, yêu say đắm. Vấn đề là ở đối tượng của sự đam mê hay yêu say đắm. Con người đã theo chước cám dỗ mà hướng chiều sự say mê vào chính bản thân mình. Biết sự lành sự dữ là một ước muốn chính đáng và hợp lý với loài có trí khôn. Tuy nhiên khi lấy bản thân mình, lấy lợi ich của mình để làm thước đo lành dữ thì quả là một sai lầm to lớn. Vì say đắm chính mình nên con người đã đặt danh dự, chức phận, lợi ích của mình lên hàng trên hết. Những gì có lợi cho tôi, làm cho tôi vinh dự, giúp tôi thăng tiến quyền chức đã trở thành điều lành theo quan điểm của tôi. Và như thế sự lành dữ không còn mang tình khách quan, nghĩa là do Thiên Chúa đặt định.
Các nhà Kitô học cũng như các chuyên gia Thần học Thánh Kinh đã phân tích các nguyên nhân phía nhân loại gây ra cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Trong các nguyên nhân ấy cần phải kể đến tham vọng quyền bính của nhóm Mười Hai mà đặc biệt là của tông đồ Giuđa. Sự thường, đi liền sau quyền bính chính là lợi lộc. Ngoài ra chúng ta cũng cần kể đến tham vọng quyền bính của những người lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ. Tổng trấn Philatô đã biết rõ: "chỉ vì ganh tị mà họ nộp Người" (Mt 27,18).
Một sự say đắm "quy ngã", nghĩa là hướng về bản thân mình rất dễ dẫn đến những điều tồi tệ cho tha nhân và cho cả bản thân. Quá yêu mình thì người ta sẽ dễ coi thường tha nhân. Quá xem trọng lợi ích của mình thì người ta cũng dễ bị cám dỗ tìm cách hạn chế hay xâm phạm lợi ích của kẻ khác. Để bảo vệ quyền chức của mình người ta cũng dễ sẵn sàng hạ bệ kẻ khác bằng mọi cách thế, kể cả thủ đoạn.
2. Vì yêu say đắm con người nên Chúa Giêsu đã chịu khổ nạn. Vừa đặt câu hỏi lại vừa trả lời, tác giả Thánh Vịnh cho ta hay: " Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con ngưòi chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân" (Tv 8,4-7). Ngoài câu trả lời: vì Thiên Chúa là Tình yêu (1 Ga 4, 8), thì chúng ta không thể trả lời cách đầy đủ cho câu hỏi tại sao Thiên Chúa yêu con người đến thế, nhưng chúng ta lại biết rõ "cái thế này": "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Chúng ta còn thấy sự đắm say này qua việc Con Thiên Chúa làm người đã tự nhận làm con của loài người (Son of Man - Fils de l" Homme). Đó là Đấng mà xưa ngôn sứ Đaniel qua thị kiến đã thấy " ngự giá mây trời mà đến" (Đn 7,13).
Sự đắm say của của Chúa Giêsu mang tính "quy tha" nghĩa là hướng về người khác. Là Người Con Một, Người luôn hướng về Chúa Cha bằng sự hiệp thông, mến yêu, vâng phục. Vào trần gian, làm "con của loài người", ý định của Người là "không phải để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28).
Tình yêu thì không có biên giới. Đã yêu thì không chấp nhận sự nửa vời. Và có thể nói say đắm là điểm tới của yêu thương. Đã đắm say thì có sự khổ nạn. Vấn đề đặt ra là hướng của sự đắm say là bản thân hay tha nhân. Khi ta say đắm bản thân thì ta sẽ gây đau khổ cho kẻ khác và ta lại huỷ hoại chính bản thân mình. Ngược lại khi ta đắm say tha nhân thì ta sẽ đón nhận khổ đau để tha nhân được cứu sống, được hạnh phúc và chính ta cũng sẽ được sống, triển nở và sống dồi dào.
Người ta thường gọi các thánh là những người "điên". Có lẽ chữ "điên" hơi mang dáng vẻ hàm hồ và dễ bị ngộ nhận. Thiết nghĩ nên gọi các Ngài là những vị yêu Chúa, yêu tha nhân cách say đắm. Như thế ngoài những vị đã được Hội Thánh tuyên phong thì đã và đang có đó nhiều vị thánh không tên, những người đang yêu đồng loại cách đắm say. Họ đang dõi bước theo chân Chúa Giêsu, Đấng đã từng phán "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9,23). Với những vị đó, theo cách nói của thánh Âugustinnô, thì "bài thương khó" dù rằng khó và rất khó nhưng vẫn dễ thương, vì đã được thương rồi.
33. Bài giảng của ĐTC Benedictô 16
(ĐTC Benedictô XVI ngày 16 tháng Ba, 2008)
Anh chị em thân mến, mỗi năm đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật Lễ Lá thuật lại cuộc tiến vào thành Giêrusalem của Chúa Giêsu. Cùng với các môn đệ của Người và một đám đông những người hành hương cứ mỗi lúc tăng theo, Người xuất phát từ đồng bằng miền Ga-li-lê về Thành Thánh. Các tác giả Tin Mừng đã thuật lại cho chúng ta ba tuyên bố của Chúa Giêsu liên quan đến Cuộc Khổ Nạn, như những bước tiến lên của Người, và qua đó cũng nói đến sự thăng tiến nội tâm mà Người đã thực hiện trong cuộc hành hương này. Chúa Giêsu tiến về đền thờ- về nơi mà Thiên Chúa, như sách Đệ Nhị Luật nói, đã chọn cho "danh Ngài ngự" (x. 12: 11; 14, 23). Thiên Chúa, Đấng tạo dựng trời đất, đã tự cho mình một tên gọi, đã tự làm cho mình được khẩn cầu; qủa thật, Người đã tự làm cho mình như được tiếp xúc với con người. Không chỗ nào có thể chứa nổi Người, nhưng chính vì lí do này mà Người đã tự cho mình một nơi chốn và một danh xưng để Người, là Thiên Chúa thật, được kính tôn như một Thiên Chúa bản vị ở giữa chúng ta. Chúng ta biết rõ từ bản tường thuật Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, Người đã yêu mến đền thờ như là nhà Cha của Người. Giờ đây Người lại thăm đền thờ này một lần nữa nhưng cuộc hành trình của Người vượt qua đền thờ ấy: đích điểm của những bước đi lên là Thánh Giá. Đó là cuộc đi lên đã được mô tả trong thư Do Thái như là cuộc tiến về căn lều không do người phàm dựng lên, nhưng do bởi Chúa, căn lều dẫn đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Cuộc đi lên cuối cùng để gặp Chúa đi qua Thánh Giá. Đó là cuộc đi lên hướng về "tình yêu cho đến cùng" (Ga 13, 1), là ngọn núi đích thật của Thiên Chúa, là nơi xác định cho sự tiếp xúc giữa Thiên Chúa và con người.
Trong khi Người vào Giêrusalem, dân chúng tôn vinh Chúa Giêsu như là Con Vua Đavít, với những lời của những người hành hương trong Thánh vịnh 118: "Hoan hô Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!" (Mt 21, 9). Và rồi Người tiến vào đền thờ. Tuy nhiên ở đó, ở nơi đáng lẽ đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thì Người lại thấy những kẻ buôn bán súc vật và những người đổi tiền chiếm dụng nơi cầu nguyện này cho việc kinh doanh của họ. Chắc chắn những con vật để bán sẽ được thiêu đốt làm của lễ trong đền thơ; và cũng bởi vì ở trong đền thờ nên người ta không thể sử dụng những đồng tiền mang hình các hoàng đế Rôma, là những người chống lại Thiên Chúa đích thực, nên họ đã phải đổi những đồng tiền không mang hình ảnh ngẫu tượng. Tuy nhiên, tất cả những điều này đáng lẽ đã phải diễn ra ở một nơi khác: nơi đang xảy ra đây, theo mục đích đã được ấn định cho nó là lối vào các dân ngoại. Quả thật, Thiên Chúa của Israel đích thực là một Thiên Chúa của mọi dân tộc. Và mặc dù có thể nói các dân ngoại đã không tin vào Mặc Khải, nhưng họ vẫn có thể liên kết trong lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa qua cửa ngõ của niềm tin. Thiên Chúa Israel, vị Thiên Chúa của mọi dân tộc cũng luôn luôn chờ đợi lời cầu nguyện của họ, sự tìm kiếm của họ, lời khẩn nài của họ. Thay vào đó, việc buôn bán lại chiếm ưu thế - những việc trao đổi đã được hợp phép hoá bởi giới chức có thẩm quyền, mà chính nó đã lợi dụng từ việc kiếm chác của các những người buôn bán này. Những người buôn bán đã hành động một cách hợp pháp, tuân theo luật pháp hiện hành, nhưng chính luật pháp lại thối nát. "Sự tham lam...là ngẫu tượng", thư gửi tín hữu Cô-lô-xê nói thế (3, 5). Đây là ngẫu tượng mà Chúa Giêsu đến để công kích và Người trưng dẫn I-sai-a: "Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện" (Mt 21, 13; x. Is 56, 7), và Giê-rê-mi-a: "Nhưng các ngươi biến thành hang trộm cướp" (Mt 21, 13; x. Gr 7, 11). Chống lại mệnh lệnh được cắt nghĩa sai trái, Chúa Giêsu với hành động mang tính ngôn sứ, bảo vệ trật tự đích thực đã ghi trong Lề Luật và Các Tiên Tri.
Hôm nay, tất cả những điều trên phải đem đến cho chúng ta là các Kitô hữu, lương thực để suy nghĩ. Đức tin của chúng ta có đủ tinh tuyền và mở rộng để thoát bỏ khỏi nó chất "dân ngoại"? Dân chúng hôm nay đang đi tìm kiếm và đặt ra những vấn nạn, họ có thể trực giác được ánh sáng của vị Thiên Chúa duy nhất, có thể kết hợp lại trong những nẻo đường niềm tin, với lời cầu nguyện của chúng ta và với những vấn nạn nêu ra đó, cũng có thể trở thành những người tôn thờ Thiên Chúa? Việc nhận thức rằng lòng tham là ngẫu tượng có đi vào tâm hồn chúng ta và đi vào việc thực hành đời sống của chúng ta không? Có lẽ chúng ta lại không để cho các ngẫu tượng, bằng cách này hay cách khác, len lỏi cả vào sinh hoạt đức tin của chúng ta? Chúng ta có sẵn sàng để cho mình không ngừng được Chúa thanh tẩy, và để cho Người xua đuổi khỏi chúng ta và Giáo Hội tất cả những gì trái nghịch với Người?
Tuy nhiên trong việc thanh tẩy đền thờ, một vấn đề khác còn quan trọng hơn là việc chống lại những lạm dụng. Một thời gian mới trong lịch sử đã được báo trước. Điều Chúa Giêsu đã giảng giải cho người phụ nữ Samarianô liên quan đến câu hỏi của bà về sự thờ phượng đích thực, giờ đây đang bắt đầu: "Giờ đang đến, và lúc này đây, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, vì Chúa Cha tìm kiếm những người thờ phượng như thế" (Ga 4, 23). Giờ mà các con vật được sát tế cho Thiên Chúa đã chấm dứt. Hy tế bằng các con vật chỉ là một sự thay thế, một hành vi quá khứ tìm tòi con đường đích thực để thờ phượng Thiên Chúa. Thư gửi tín hữu Do thái nói về đời sống và công việc của Chúa Giêsu, đãả dụng một câu trong Thánh vịnh 40: "Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã chuẩn bị cho con một thân thể" (Dt 10, 5). Thân thể Chúa Kitô, là chính Chúa Kitô đến để thay thế các hy tế bằng máu và các lễ vật bằng lương phẩm. Chỉ có"tình yêu cho đến cùng", chỉ tình thương dành cho nhân loại được hiến trọn cho Thiên Chúa mới là sự thờ phượng đích thực, hy tế đích thực. Thờ phượng trong tinh thần và chân lý nghĩa là thờ phượng với Đấng là Sự Thật, thờ phượng hiệp thông với Thân Mình Người, trong đó Chúa Thánh Thần hợp nhất chúng ta.
Các tác giả tin mừng thuật lại rằng những chứng gian đưa ra chống lại Chúa Giêsu đã qủa quyết Chúa nói: "Tôi có thể phá huỷ đền thờ Thiên Chúa, và sẽ xây dựng lại trong ba ngày" (Mt 26, 11). Đứng trước Chúa Kitô đang bị treo trên thập giá, một số kẻ thách thức Người cũng nhắc đến những lời đó: "Mi là kẻ có thể phá huỷ đền thờ và xây dựng lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi!" (Mt 27, 40). Bản văn chính xác về những lời Chúa Giêsu nói đã được thánh Gioan truyền lại cho chúng ta trong trình thuật về việc thanh tẩy đền thờ. Đáp lại đòi hỏi bằng một dấu chỉ để Chúa Giêsu có thể biện minh cho một hành động như thế, Người đáp lại: "Hãy phá huỷ đền thờ này đi, và trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại" (Ga 2, 18 tt). Thánh Gioan thêm rằng khi suy nghĩ lại biến cố Phục sinh, các môn đệ mới hiểu rằng Chúa Giêsu đã ám chỉ Đền Thờ là Thân Mình của Người (x. 2, 21 tt). Không phải Chúa Giêsu phá huỷ đền thờ; nó bị để cho tàn phá bởi thái độ của những người biến nó, từ một nơi để gặp gỡ giữa các dân tộc với Thiên Chúa thành một "hang trộm cướp", một nơi buôn bán. Vẫn luôn như vậy, bắt đầu với sự sa ngã của A-đam, sự sa ngã của nhân loại trở thành một cơ hội cho chúng ta phó thác hơn vào tình yêu Thiên Chúa. Giờ của đền thờ được xây bằng đá, giờ hiến tế các súc vật giờ đây đã qua đi: sự việc Chúa đuổi những người buôn không chỉ loại bỏ được sự lạm dụng mà còn hướng tới Thiên Chúa một cách thức thờ phượng mới: đền thờ mới được hoàn thành: chính Chúa Giêsu Kitô, nơi Người tình yêu của Thiên Chúa đổ tràn trên nhân loại. Bằng sự sống của Người, Người là đền thờ mới và sống động. Người đã đi qua Thánh Giá và đã phục sinh là không gian sống động cho tinh thần và sự sống nơi đó hình thái thờ phượng đích thực được thực hiện. Như thế, việc thanh tẩy đền thờ, như đỉnh cao của cuộc tiến vào thành Giêrusalem của Chúa Giêsu cũng đồng thời là một dấu chỉ về sự tiêu vong tiềm ẩn một công trình và lời hứa về Đền Thờ mới, một lời hứa về vương quốc của sự hoà giải và tình yêu mà khi hiệp thông với Chúa Kitô sẽ được thiết lập vượt qua mọi biên giới.
Thánh Mát-thêu mà Tin Mừng chúng ta sẽ nghe trong năm nay, đề cập vào cuối bản trình thuật về Chúa Nhật Lễ Lá, sau việc thanh tẩy đền thờ hai chi tiết nhỏ khác mà một lần nữa lại mang một đặc tính tiên tri và đồng thời soi sáng cho chúng ta biết ý định thực sự của Chúa Giêsu. Ngay sau những lời của Chúa Giêsu về ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc, tác giả Tin Mừng tiếp tục: "Có những kẻ mù loà và què quặt đến với Người trong đền thờ, và Người đã chữa họ lành". Thêm nữa, Mát-thêu còn nói với chúng ta rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những người hành hương tại các cổng thành: "Hoan hô Con Vua Đavít" (Mt 21, 14 tt). Chúa Giêsu xua trừ việc mua bán thú vật và đổi tiền bằng thiện tâm chữa lành. Đây là việc thanh tẩy đền thờ đích thực. Người không đến như là một kẻ phá hoại, Người không đến với lưỡi gươm của một kẻ làm cách mạng. Người đến với ân huệ chữa lành. Người hiến thân cho những ai vì những đau đớn bệnh tật phải lê lết cho đến hết cuộc đời, và cho những ai bị gạt ra ngoài lề xã hội. Chúa Giêsu tỏ bày Thiên Chúa như là một Đấng yêu thương, và quyền năng của Người như là quyền năng tình yêu. Như thế, Người dạy chúng ta điều luôn luôn đúng về sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc.
Và lại có nhiều trẻ em tung hô Chúa Giêsu là con Vua Đavít và reo hò chúc tụng Người. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người rằng để vào Nước Thiên Chúa điều cốt yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Người, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ chúng ta, lôi kéo chúng ta về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, chúng ta phải từ bỏ sự kiêu hãnh làm chúng ta choá mắt, nó muốn lôi kéo chúng ta khỏi Thiên Chúa như thể Thiên Chúa là đối thủ của chúng ta. Để gặp Thiên Chúa cần phải có thể nhìn bằng con tim. Chúng ta phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ, với một tâm hồn tươi trẻ không bị che khuất bởi những thành kiến hoặc bị đui mù vì những lợi lộc. Như thế, chính trong những người bé mọn, những người có được tâm hồn tự do và rộng mở để nhận biết Chúa Giêsu, mà Giáo Hội nhận ra hình ảnh của mình, hình ảnh của những người tin thuộc mọi thời đại.
Các bạn thân mến, giờ phút này chúng ta hãy kết nhập vào đoàn rước của những người trẻ thời đó - một cuộc rước lượn vòng đi qua toàn bộ lịch sử. Cùng với các bạn trẻ trên toàn thế giới chúng ta hãy đi đến gặp Chúa Giêsu. Chúng ta hãy tự để cho mình được Người hướng dẫn để đến với Thiên Chúa, để học hỏi từ chính Thiên Chúa con đường đích thật để là con người. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa cùng với Người, bởi vì nhờ Chúa Giêsu con Vua Đavít, Người đã ban cho chúng ta một không gian bình an và sự hoà giải ôm trọn lấy thế giới với Bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy cầu nguyện với Người, để chính chúng ta cũng trở nên cùng với Người và bắt đầu từ Người, những sứ giả xây dựng hoà bình, những người thờ phượng trong tinh thần và sự thật, để nước Người được tăng triển trong chúng ta và chung quanh chúng ta. Amen.
34. Vào thành để chịu chết
(Lm G. Nguyễn Cao Luật)
Nét bi đát của cuộc khải hoàn
Để sửa soạn vào thành, Đức Giêsu sai hai môn đệ đến ngôi làng trước mặt để mượn tạm con lừa. Có lẽ không nơi nào cho thấy sự mâu thuẫn như trong biến cố này: một bên là Thiên Chúa uy quyền, một bên là "tính con người". Cả hai đều thể hiện trong con người Đức Giêsu. Đó là sự pha trộn giữa quyền năng Thiên Chúa và sự lệ thuộc, giữa giàu sang và bần cùng. Và đó cũng là hiệu quả của mầu nhiệm nhập thể.
Vì lòng yêu thương con người, Đấng vốn giàu có đã trở nên khó nghèo, để con người được giàu có. Trong cuộc đời, có lần Đức Giêsu đã mượn chiếc thuyền của dân chài làm chôỵ đứng giảng dạy; lần khác Người đã mượn hai cái bánh và năm con cá của cậu bé vô danh để làm phép lạ nuôi cả đám đông; sau này, khi trút hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu còn mượn tạm ngôi mộ để gửi tấm thân trong khi đợi ngày sống lại vinh hiển.
Vẫn có những chuyện bi đát như thế trong cuộc đời Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Nhưng chưa hết.
Hãy bảo thiếu nữ Xi-on
Kìa Đức Vua đến với ngươi
khiêm tốn ngổi trên lưng lừa
lưng lừa con là con của thú vật chở đồ. (Mt 21,5)
Thời đó, các vị hoàng đế thường ngồi trên chiến mã, oai hùng tiến vào thành phố. Ngược lại, ở đây, Đấng khải hoàn khiêm tốn ngổi trên lưng lừa con. Nếu Phi-la-tô có dịp đứng quan sát cảnh này, hẳn ông phải bật cười vì tính cách khôi hài của con người tự xưng là Vua. Con người ấy đang ngổi trên lưng một con vật biểu tượng của sự tự huỷ, tượng trưng cho việc tiến dần đến cái chết.
Nếu Đức Giêsu tiến vào thành phố trong tiếng nhạc hùng tráng, trong tư thế của người chiến thắng, chắc sẽ có kẻ nghĩ rằng Người là Đấng giải phóng về mặt chính trị. Trái lại, Đức Giêsu chọn những hoàn cảnh để chứng thực cho lời tuyên bố: "Nước tôi không thuộc về thế gian này". Như thế, chẳng có gì cho thấy vị vua này có thể là đối thủ của Xê-da.
Phía sau những lời tung hô
Khi Đức Giêsu đến gần thành phố, một "đám rất đông" dân chúng ra đón Người. Trong số đó, không chỉ có những người cư ngụ tại Giêrusalem, nhưng còn có những người từ nơi khác về thủ đô dự lễ, và dĩ nhiên, cả những người Pha-ri-sêu.
Trong những lần trước đây, Đức Giêsu luôn ngăn cản lòng nhiệt thành, sự phấn khởi của dân chúng. Người đã lánh mặt khi đám đông hứng khởi, Người tránh tạo nên những quang cảnh náo nhiệt (x. Mt 16,20; Mc 5,43; Mc 9,9; Ga 6,15). Vậy mà, trong khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem, các người Pha-ri-sêu phải thốt lên: "Kìa thiên hạ theo ông ấy hết" (Ga 12,19).
Điều này ngược hẳn với thái độ của Đức Giêsu. Trước đây, Người xoa dịu sự hứng khởi của dân chúng, còn bây giờ, Người lại khơi lên. Tại sao vậy?
Bởi vì "Thời" đã đến. Lúc này, sẽ đến giờ Người công khai tỏ cho dân chúng biết về uy quyền của Người, và đây là lần cuối cùng. Đức Giêsu biết rõ điều này sẽ đưa Người lên đỉnh Can-vê, đến việc Thăng Thiên và thiết lập vương quốc trên trần gian. Đây là cơ hội cuối cùng để Đức Giêsu đưa ra tiếng nói quyết định và đặt con người trước lựa chọn: hoặc tuyên xưng, hoặc từ khước.
Những cái áo được trải trên đường, những ngành ô-liu được phất cao; đám đông vui mừng tung hô:
"Hoan hô Thế tử nhà Đa-vít, hoan hô!
Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa!
Hoan hô Chúa ngự chốn cửu trùng" (Mt 21,9).
Đức Giêsu là Hoàng tử thuộc dòng dõi Đa-vít. Người là Đấng được sai đến để thực hiện công trình của Thiên Chúa. Hosana, khởi đầu là một lời cầu nguyện, giờ đây trở thành bài ca chiến thắng để đón tiếp Đấng Cứu Tinh. Mặc dù đám dân đang reo hò không hiểu rõ lý do Người được sai đến, họ cũng chẳng hiểu được bình an do Người mang lại, nhưng họ cũng biết rằng Người từ Thiên Chúa mà đến.
Đúng là một cuộc khải hoàn, nhưng Đấng Cứu Thế biết rõ rằng lời tung hô "Hosana" sẽ được đỗi thành "đóng đinh nó đi", và vòng gai sẽ thay cho ngành vạn tuế. Ngày hôm nay, người ta trải áo dưới chân Người, nhưng ngày thứ Sáu tới đây, cả áo của Người họ cũng lột hết. Mặc dù Người là Vua, và dân chúng nhận rằng Người là Ngôn Sứ, là Thầy... nhưng Đức Giêsu biết rõ hoàng cung được dành cho Người chính là đổi Can-vê.
* * *
Lạy Chúa,
dù con có thế nào chăng nữa,
cũng xin cho con được tung hô Chúa trong ngày hôm nay.
Ngày thứ Sáu, tất cả tội lỗi của con sẽ bị phơi trần,
nhưng con biết lòng thương xót của Chúa
sẽ ngập tràn trên con:
đó là ngày Phục Sinh.
Cùng với tất cả mọi người
con sẽ reo lên
"Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa"
Đó là hy vọng, là niềm cậy trông
cho suốt cả hành trình tăm tối của con.
35. Vui lòng vâng phục Thánh ý Chúa
Suy Niệm:
Với Lễ Lá hôm nay, chúng ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ gọi là Tuần Thánh. Trong Tuần Thánh, chúng ta cử hành cuộc khổ nạn, sự chết và nhất là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Dầu cho với cái nhìn chính trị, xã hội của con mắt người đời, việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua, là một việc có tính cách gây rối chính trị, vì đế quốc Rôma đang cai trị và Hêrôđê đang làm vua. Nhưng Chúa Giêsu, Người biết rõ việc Người làm. Trước mặt Philatô, Người tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Vua nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này".
Vậy Phụng vụ Lễ Lá có thể gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa. Trước tiên Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết đi để sinh sự sống mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì thế trước đó nhiều lần, những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người, như ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì, vì giờ của Người chưa đến. Và cũng đã nhiều lần dân chúng hợp lại định tôn phong Người lên làm vua, nhưng Người đã lẫn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.
Ý hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua: "Hoan hô chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời". Người vào Giêrusalem, thành của vua cả trong phong cách đế vương, và chính vì phong cách đế vương này mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do Thái, La Tinh và Hy Lạp, "Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái". Vì thế, dầu cho Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên thập giá, nhưng các sách Phúc Âm đều ghi đậm nét vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc mới. Vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói trước mặt Philatô: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi". Vậy Chúa nhật lễ Lá cho chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Vua các vua, Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi lòng.
Với ý nghĩa thứ ba, Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống trên đời là đối đầu với đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá, nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì với Chúa Giêsu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của ngày sống lại.
Hôm nay trong cái nghịch lý của Lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác như tinh thần của những ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân mình, để chết đi một lần cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ tìm cách tế nhị giúp cho một người đang gặp khó khăn vật chất hoặc đau buồn tinh thần, để họ lấy lại được niềm hy vọng. Và noi gương Chúa Giêsu nơi vườn cây Dầu, khi Người cầu nguyện: "Lạy Cha nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng theo ý Con một theo ý Cha mà thôi", chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng vâng phục thánh ý Chúa, dầu lắm khi chúng ta không hiểu được tại sao.
36. Lắng nghe cuộc khổ nạn
(André Sève)
Chúng ta vừa nghe lại trần thuật về cuộc khổ nạn. Suy niệm về cuộc khổ nạn là cách suy niệm tốt nhất trong tuần thánh để nuôi dưỡng đức tin và tình yêu của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rõ trần thuật kinh khủng này, và mỗi lần nghe chúng ta đều cảm động. Chúa Giêsu đã chịu đau khổ đến thế sao? Nhưng trong niềm thương cảm của chúng ta những câu hỏi cứ len vào, khó mà loại bỏ được. Tại sao Ngài phải chịu đau khổ và phải chết? Những điều đó cứu độ chúng ta như thế nào?
Những đau khổ và cái chết cứu độ chúng ta không phải vì đó là những đau khổ và cái chết, mà bởi vì đó là kết cục của một cuộc sống can đảm và yêu thương. Việc Chúa Giêsu đấu tranh để làm cho con người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và để thiết lập sự công bằng tình thương thực sự giữa con người với nhau đã làm cho các nhà lãnh đạo tôn giáo và cuối cùng là toàn dân chống lại Ngài.
Trên thập giá, Chúa Giêsu cho chúng ta biết yêu thương bằng bất cứ giá nào và yêu thương cho đến cùng có nghĩa là gì. Ngài đã không được sinh ra để chịu đau khổ. Ngài đã được sinh ra để yêu thương và dạy chúng ta yêu thương. Sứ mạng này đã dẫn Ngài đến sự đau khổ, nhưng thập giá không phải là một trường học của sự đau khổ mà là của tình yêu.
Chúa Giêsu dạy ta điều gì trong sự khổ nạn của Ngài? Tình yêu của Ngài mạnh mẽ và tự do, và chúng ta không nên ở quá xa Ngài trên con đường này. Đứng trước những lời kêu gọi yêu thương chúng ta để mình bị cô lập quá nhiều do sự kiêu căng và bị tê liệt do sợ hãi, chúng ta trở nên điếc và mù vì chúng ta chỉ nghĩ đến chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu có thể nghe tất cả những lời kêu gọi bởi vì Ngài không bao giờ quan tâm đến lợi ích của chính mình. Ngài không bao giờ lùi bước trước khó khăn, trước sự không hiểu, trước đe dọa nào khi yêu. Ngài đã thấy sự ghen ghét nổi lên và Ngài vẫn tiếp tục tiến bước. Làm sao chúng ta không xấu hổ về những né tránh của chúng ta được? Trên thập giá, Ngài đã nói rằng khả năng lớn nhất của con người đó là có thể yêu thương.
Nếu chúng ta quen thuộc với những khó khăn trong việc yêu thương (và những vui mừng nữa!) thì chúng ta lại ít biết đến khả năng sống còn của tình yêu. Trong cái chết của Chúa Giêsu, khả năng này lớn đến nỗi nó sẽ bùng nổ thành sự sống lại. Nó mở ra một thế giới mới trong đó điều kỳ diệu sẽ xảy ra mỗi lần có một người muốn và có khả năng yêu như Chúa Kitô.
Người ta không suy nghĩ rốt ráo đến những gì cuộc Khổ nạn đã có khả năng và sẽ có khả năng thực hiện. Người ta quá trì trệ trong những suy niệm thống khổ trong khi phân tích tỉ mỉ những đau khổ của Chúa Giêsu cho đến cùng thay vì phải thấm nhuần tình yêu và lòng can đảm của Ngài. Đây không phải là nơi than vãn về Chúa Giêsu cũng như về chúng ta, đây là nơi kêu gọi lòng anh dũng và sự sáng suốt: đó là cái giá tình yêu phải trả, nhưng trong những đau khổ này tình yêu giải phóng biết bao khả năng sinh tồn!
Còn lại việc xem sự sáng suốt của chúng ta phát hiện ra điều gì. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trên thập giá sẽ vô ích nếu việc gặp gỡ đó không mang lại kinh nghiệm đức tin nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta tin rằng những đau khổ của Ngài đã mang lại cho chúng ta khả năng sống trọn vẹn, thì chúng ta hãy đi đến thập giá bày tỏ một sự bất lực của chúng ta, để có được một sự chiến thắng. “Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Ngài chẳng vô ích chút nào”.
37. Tôi không bán Chúa
(PM. Cao Huy Hoàng)
Cho đến hôm nay, vẫn còn nhiều người tự cho mình là vô can trong vụ án Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập tự giá. Trong số đó, có thể có tôi, có bạn, những người vẫn xưng mình là Kitô hữu, hoặc hơn thế nữa, những người vẫn đang nhiệt tình tổ chức hoành tráng, cờ hoa rực rỡ, đón rước linh đình, tung hô vang dội và kêu gọi mọi người hãy cất tiếng: “Hoan hô con Vua Đavit. Chúc tụng Vua Israel, Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời”.
Hai mặt thiện ác trong mỗi con người tưởng như là luôn lẫn tránh nhau, đối nghịch nhau, thì lại song hành cách đồng thuận trong tâm hồn khi con người bị thần dữ thống trị. Thần dữ Satan có phép biến những gì mà một người cho là chân lý, thành công cụ phục vụ cho mưu đồ gian ác của chúng, khi người ấy nhận tất cả về mình những gì mình có: học thức, hiểu biết, tài năng, và nhất là đức tin. Đó là trường hợp của những luật sĩ, biệt phái, kinh sư… Họ vẫn nghĩ rằng đức tin của họ là do sự hiểu biết siêu phàm hoặc do tài năng mà họ có được. Đối với họ, đức tin của họ không được soi dẫn bởi Thánh Thần, mà là bởi cái tôi chủ quan và mù quáng của họ. Bởi vậy, họ không thể chấp nhận một Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đến cứu chuộc trần gian, khi hiểu biết của họ vẫn chưa chịu nhường chỗ cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ dựa theo suy luận thấp bé mà cứ tưởng cao siêu của họ để định dạng, định hình một Đấng Cứu Thế có thể thỏa mãn những nhu cầu của họ. Vì thế, có thể hôm nay họ hoan hô Chúa Giêsu, nhưng ngày mai họ đả đảo dẫn tới cái chết của Con Thiên chúa.
Có thể chúng ta đã lên án họ, rằng chính họ chủ mưu trong vụ án Đức Giêsu vô tội bị lãnh án tử hình nhục nhã nhất lịch sử nhân loại. Còn chúng ta, nghĩ rằng mình vô can sao? Trong khi, mỗi chúng ta, có thể còn kinh khủng hơn họ nữa: nếu họ “hôm qua hoan hô ngày nay đả đảo”, thì hãy coi chừng mỗi chúng ta, vừa hoan hô vừa đả đảo, hoặc hoan hô theo cách đả đảo ngay chính trong cách thể hiện niềm tin của mình.
Quả thật, chúng ta đã từng có suy nghĩ rằng: tôi không tố cáo kết án Chúa Giêsu, tôi không bán Chúa Giêsu, không nộp Ngài cho thế quyền, không đánh đập Ngài, không sỉ nhục ngài, không đội mão gai cho Ngài, không quất vào ngài khi Ngài té ngã, không đóng đinh Ngài…Chính người Do Thái đã làm tất cả những điều tệ hại ấy, và ấy là chuyện đã rồi của hai ngàn năm trước. Chúng tôi vô can. Nếu nghĩ như thế, thì việc cùng đoàn người rước Chúa Giêsu vào thành thánh cách long trọng với lời tung hô vạn tuế hôm nay, và việc nghe lại trang thương khó đẫm máu của Chúa Giêsu, sẽ không mang lại ý nghĩa, lợi ích gì cho đời sống đức tin của chúng ta cả.
Phụng Vụ dẫn chúng ta vào tuần thương khó của Đức Giêsu, để chúng ta có cơ hội hiểu rằng: không phải Đức Giêsu đi đường thương khó hai ngàn năm trước mà Ngài còn đang đi đường thương khó ngay hôm nay, ngay lúc nầy….
Bao lâu tôi không chịu thương khó, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn phải chịu thương khó vì phần rỗi của tôi.
Bao lâu tôi còn sống trong vũng lầy tội lỗi, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn có lý do để tiếp tục vác Thánh Giá lên Calvê và chịu chết.
Bao lâu tôi còn vô tâm không màng đến hay bất cần đến cái chết của Đấng Vô Tội, thì bấy lâu, tiếng kêu tha thiết của Chúa Giêsu từ thánh giá vẫn còn vang lên và vọng xa cho tới tân cõi lòng mình: “Ta khát”. Tôi, bạn, cả chúng ta, không thể là những người đứng ngoài cuộc trong vụ án Thập Tự Giá nầy.
Vì thế, không thể nghĩ rằng: tôi không tố cáo Chúa Giêsu, tôi chỉ bất bình với những lời dạy nghe chói tai, những yêu cầu từ bỏ nghe có vẻ bất thường làm đảo lộn cuộc sống trần gian đang đầy thú vị của tôi. Hoặc, tôi là Kitô hữu mà, tôi không hề tố cáo Chúa Giêsu, chỉ là tôi chưa sống đúng như Lời Ngài dạy, vì đời còn dài, có vội chi mà phải nhốt mình trong cái khung chờ chết. Nhớ vào dịp tết, có người nhận được lộc xuân, anh ta mở ra đọc: “Của Cesar trả cho Cesar. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Anh ta đưa cho ông hội đồng đọc và hỏi: “Nói gì thế?”. Ông hội đồng giải thích: “Chúa bảo đừng có tham lam của thế gian, lo trở về với Chúa”. Anh ta lẩm nhẩm: “Thời buổi nầy, không tham sao sống nổi. Chúng nó hối lộ tham nhũng nhan nhãn đầy dẫy kia, ai làm gì được chúng nó”. Ra đến chỗ giữ xe, anh ta vò nát lộc xuân, vất xuống đất, thản nhiên về. Không phải là chúng ta đang tố cáo Chúa Giêsu nói và dạy những điều sai trái đấy sao?
Cũng không thể nghĩ rằng: tôi không bán Chúa Giêsu ba mươi đồng bạc, tôi chỉ đem thời gian, tài năng, tiền bạc và sức lực của tôi để đổi lấy cho tôi một cuộc sống thoải mái theo bản năng con người, hoặc thiết thực hơn, tôi chỉ ham theo cho hết cuốn phim tình cảm hay, hay đã lỡ hẹn với bạn bè, mà không thể đến nhà thờ dâng lễ, rồi thành thói quen, bỏ cả lễ, quên cả Chúa. Ngày nào, Giáo xứ chưa có linh mục, chưa có nhà thờ, ai nấy khát khao mong mỏi… đến lúc có cha ngon lành, có nhà thờ to lớn xinh đẹp rồi, thì việc của cha là sáng chiều làm lễ, việc của giáo dân là sáng ngủ cho đã giấc, chiều xem phim, hát karaoke, nhậu nhoẹt… chẳng màng! Nếu ngày xưa Giuđa đã xem ba mươi đồng bạc có giá trị và cần thiết hơn là tánh mạng của Chúa Giêsu, thì rõ ràng hôm nay, không phải là chúng ta cũng đã từng xem các thực tại chóng qua kia lại có giá trị hơn một thánh lễ, hơn một Thánh Thể Chúa Giêsu đó sao?!
Càng không thể nói rằng tôi không hề bắt Chúa Giêsu phải vác Thánh Giá, không hề đội mão gai cho Ngài, cũng không sỉ nhục Ngài, đóng đinh Ngài… trong khi ngôi nhà tâm linh của chúng ta đã lún, nghiêng theo chiều bất chính hoặc đã đổ sập, nát vụn thành một đống hoang tàn.
Vâng, không thể nói:
Tôi không hề bắt Chúa Giêsu vác Thánh Giá, tôi chỉ nhường phần khó nhọc cho anh em và chọn cho mình phần nhẹ nhàng thong thả.
Tôi không hề đánh đập Chúa Giêsu, tôi chỉ làm ngơ trước những bạo lực của luật rừng đàn áp anh em tôi vô tội.
Tôi không hề sỉ nhục Chúa Giêsu, tôi chỉ ngại lên tiếng bênh vực cho công lý, lại còn đồng tình với những lời đàm tiếu rằng anh em tôi dại chi mà chiến đấu cho công lý để phải mất chức, thiệt thân, còn bị phát lưu, tù đày, hay bị cách ly khống chế.
Tôi không hề đóng đinh Chúa Giêsu, tôi chỉ làm thinh vô tình trước bao nhiêu cái chết oan uổng của ngàn ngàn thai nhi bé nhỏ, trước cái chết của những thanh thiếu niên sa đọa vì hút chích, trước những cái chết của những thiếu nữ bán hoa lỡ lầm, trước cái chết của những người nghèo khổ không tiền chạy chữa, và trước cả cái chết muôn đời của một tập đoàn không tin, còn chống lại Thiên Chúa, trong khi tôi có thể góp một phần của mình vào công cuộc cấp cứu.
Cuộc sống bất chính trong ‘con người tưởng như là công chính’ của mỗi chúng ta đang là lời chứng hùng hồn rằng chúng ta là những người vừa hoan hô vừa đả đảo Chúa Giêsu. Chính chúng ta tiếp diễn vụ án Đức Giêsu ngay hôm nay, trong lúc nầy. Chính chúng ta đang xử Chúa Giêsu theo luật rừng của những con người hoang dã, không phải vì ngu muội do thiếu ánh sáng văn minh của Thiên Chúa, nhưng ngu muội do kiêu căng, cố tình tôn vinh sự hiểu biết, khôn ngoan, tài năng, trí tuệ của mình lớn hơn sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Đức Giêsu vô tội “như con chiên hiền lành” bị đem đi giết để chết thay đoàn chiên có tội, là chúng ta, được cứu sống.
Tuần thương khó mời gọi mỗi chúng ta nhận ra mình là can phạm, nếu không nói là chủ mưu, trong vụ án Đức Giêsu bị đóng đinh và chết trên thập giá. Đồng thời, cũng mời gọi chúng ta thành tâm sám hối tội lỗi để được hưởng ơn khoan hồng vô lượng. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta tham dự vào đường thương khó của Chúa, vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính – đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rủ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác.
Hãy cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng Người phục sinh vinh hiển.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con không vô can trong vụ án đóng đinh Chúa. Đời sống bất chính của chúng con với biết bao là tội lỗi đã hình thành bản án tử hình Người Vô Tội. Xin cho chúng con biết trân quí ơn Cứu Chuộc nơi Thánh Giá Chúa, để biết thành tâm sám hối, biết cải thiện đời sống, và biết cùng Ngài vác Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo Chúa, với niềm hy vọng, niềm tin tưởng Phục Sinh với Ngài. Amen.
38. Con đường Thập Giá
(Lm Đam. Trần Quang Hiền)
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhác, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực... để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
39. Chúa chịu tử nạn trong tôi
(Lm. An Phong)
Vào đầu Tuần Thánh năm 1997, nhà văn Adolto Eskivei, người Ac-hen-ti-na bị cảnh sát bắt giam vì các hoạt động bất bạo động để bênh vực giới nông dân nghèo. Trong 32 ngày liên tiếp, ông bị giam trong một cái ống - một loại củi chật hẹp. Một hôm, ông tìm cách viết được một lá thư cho các người bạn ở Sao Paolo như sau:
Các bạn thân mến, tôi không muốn nói với các bạn về nỗi khổ đau, nhưng về niềm hy vọng và về ơn mà Chúa đã ban cho tôi, đó là được chịu khổ đau và sống với những anh chị em là nạn nhân của bất công, sống với những người mà, sau hai ba năm bị giam giữ, họ cũng không biết tại sao họ phải chịu những hình phạt như vậy.
Tuy nhiên, mỗi ngày có một ánh sáng chiếu soi các đau khổ này, đó là sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi giây phút, trong mọi cử chỉ, Thiên Chúa của tình yêu thương, Đấng tha thứ trên thập giá qua mọi thời đại: "Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm".
Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết, đây không phải là một câu chuyện xảy ra ở đâu đó, để người ta kể cho nhau nghe chơi, để bàn tán xì xào hoặc để cảm thương cho Chúa của mình.
Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết vì mỗi người chúng ta và trong mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu muốn chia sẻ trọn vẹn những khổ đau, vất vả và cái chết của cuộc sống con người.
Những đau khổ, vất vả, sỉ nhục, và cái chết vẫn còn đấy, nhưng nếu chúng ta hiệp thông vào cuộc khổ nạn và cái chết cứu độ của Chúa Giêsu; thì những khổ đau đó không còn có thể đè bẹp con người nữa; thân phận phải chết của con người không còn là điều gì phi lý nữa; những vất vả không còn là gánh nặng xiềng xích con người nữa.
Tin vào Chúa, người kitô hữu sẵn sàng chấp nhận khổ đau, vì biết rằng Thiên Chúa đã cùng chia sẻ cuộc đời với mình và đã đánh tan sức mạnh của thần chết bằng tình yêu tha thứ.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã trở thành người để đến với con người,
Chúa đã chịu bao khổ đau để cùng chia sẻ
những đau khổ chất chồng của cuộc sống con người
Chúa đã chịu chết
như bao nhiêu tội nhân,
như bao nhiêu bệnh nhân
như bao nhiêu người khác đang chết.
Và lạy Chúa Giêsu,
Ngày hôm nay Chúa lại hiện diện trong tấm bánh nhỏ bé này
để đến với con.
để chia sẻ gánh nặng của con,
để cùng con chết đi hằng ngày vì những khổ đau của con.
Con chẳng biết nói gì
hơn lời tạ ơn,
tạ ơn vì đời con có Chúa.
40. Bạc bẽo
Trong giây phút này, chúng ta thử chiêm ngắm cảnh tượng Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem một cách long trọng. Ngài khiêm tốn ngồi trên lưng lừa. Ngoài ra còn có nhiều người trải áo và rải cành cây trên lối Ngài đi để tỏ lòng tôn kính theo phong tục vùng Cận Đông.
Tiếng reo hò vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Messia, là vua thuộc dòng dõi Đavid, Đấng sẽ đến để giải phóng Israel. Chúa Giêsu lặng lẽ để dân chúng tung hô. Ngài để cho lời tiên tri Giacaria được ứng nghiệm:
- Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy hân hoan reo hò. Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Ngài là Đấng chính trực, toàn thắng, nhưng lại khiêm tốn ngồi trên lưng lừa.
Quả thực, Ngài là Vua, nhưng rồi đây, người ta sẽ biết cách thức làm Vua độc đáo của Ngài. Đó là qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá. Sau những giây phút tưng bừng và náo nhiệt này, Phụng vụ hôm nay còn để lại nơi chúng ta một nỗi buồn thấm thía, bởi vì trong thánh lễ chúng ta được nghe đọc bài thương khó. Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem chính là để hoàn tất mầu nhiệm vượt qua, đem lại ơn cứu độ cho loài người. Từ hai sự việc trên chúng ta rút ra hai điểm chính yếu để suy nghĩ.
Điểm thứ nhất đó là, theo thánh Gioan, đám đông đón rước Chúa hôm nay là những người đã nghe biết hay chứng kiến việc Ngài làm cho Lagiarô sống lại. Chắc hẳn những người này đã thực lòng tung hô Chúa như vị cứu tinh. Thế nhưng cũng chính đám người này, sau đó một vài ngày khi Ngài bị đem ra trước Philatô, thì không thấy một người nào dám lên tiếng bênh vực cho Ngài, thậm chí còn có những người kêu gào:
- Đóng đanh nó vào thập giá.
Đúng như tục ngữ Việt Nam đã diễn tả:
- Bạc như dân, bất nhân như lính.
Biết đâu chính chúng ta lại chẳng cư xử bạc bẽo như vậy với Chúa, bởi vì mỗi khi phạm tội, chúng ta cũng lớn tiếng kêu gào và đóng đanh Chúa một lần nữa vào thập giá.
Điểm thứ hai, đó là phải can đảm và kiên nhẫn bước theo Chúa. Thực vậy, đi theo Chúa Giêsu trong một vài giờ rước lá là điều không khó khăn cho lắm, biết đâu còn là điều thích thú nữa. Kinh nghiệm cũng cho hay: Bước theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục bước theo Ngài khi Ngài bị mọi người bỏ rơi và kết án, điều đó khó hơn nhiều. Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Đức Kitô thì chắc chắn có những lúc chúng ta nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mình không muốn đến.
Con đường theo Chúa có những lúc vui và cũng có những lúc buồn. Nếu chúng ta đã có mặt trong đám đông tung hô Chúa khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cũng không được thiếu vắng khi Ngài vác thập giá và chịu chết trên đỉnh Canvê. Đừng sống theo kiểu:
- Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
Hãy trung thành bước theo Chúa và gắn bó mật thiết với Ngài ở mọi nơi và trong mọi lúc vì ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được cứu thoát.
41. Vào thánh Giêrusalem théo ý Chúa Cha
(Lm Fx Nguyễn Hùng Oánh)
Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem như một vị vua quang lâm đến thăm dân chúng, như một Đức Kytô mà các Tiên tri (ngôn sứ) xưa đã loan báo:
- Tiên tri Giacaria nói “Này đây vua ngươi đến với ngươi. Ngài công minh,vinh thắng, khiêm tốn và cỡi trên một con lừa” (Giacaria 9,9).
- Dân chúng tung hô: Hosanna, Con Vua David. Tiếng tung hô này phát xuất từ Cựu ước (TV 118, Sáng thế 49, 10-11) mừng con vua David.
Như vậy, Chúa Giêsu vào thành và được dân chúng tung hô Ngài là Đấng Kytô, Đấng Cứu Tinh nhân loại, Đấng mà dân Israel đã mong chờ suốt bao nhiêu thế kỷ, mong Ngài đến để giải thoát Israel.
Vào thành thánh có những nét tỏ ra Ngài là Vua, là Kytô. Tin Mừng còn nói Ngài đã dùng quyền Kytô để thanh tẩy đền thờ: Ngài dùng dây bện lại thành roi đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ, đúng ý nghĩa “đền thờ là nhà cầu nguyện”.
Và sau cùng Ngài đã đưa ý nghĩa đền thờ lên cao nhất, là chính con người của Ngài, nơi dâng lễ vật tôn thờ Chúa Cha.
Tại vườn Ghếtsêmani, Chúa Kytô cầu nguyền trong một trạng thai hết sức căng thẳng đến mức ứa máu ra, đúng ra là một cuộc vật lộn với chính bản thân minh để đi đến quyết định: chọn cái chết
Người ta dễ dàng nói Chúa Kytô chết vì nhóm Tư tế, Ký lục, Biệt phái ra lệnh bắt Ngài nộp cho quan Philatô kết án, nhưng nội dung cái chết là làm trọn Thánh Ý Chúa Cha, vì những mục đích:
1. Để chứng minh Giáo lý Ngài rao giảng là thật và đến từ Chúa Cha nếu Ngài trốn đi thì chẳng ai tin nữa.Những kẻ chống đối viện cớ sợ chết của Ngài dễ lung lac kẻ đã tin Ngài
2. Ngài chết vì vâng lời Chúa Cha trọn vẹn vì Chúa Cha sai Ngài đến trần gian để rao giảng Chúa Cha, đưa chiên lạc về, sợ chết bỏ đi là trốn tránh nhiệm vụ, là đào ngũ.
3. Để tố cáo tội lỗi loài người hiện diện trong tội lỗi của nhóm âm mưu giết Ngài là tiêu biểu cho tội ác đến nỗi giết Con Thiên Chúa một cách tàn ác man rợ.
4. Để biểu lộ tinh thương của Chúa Cha thương nhân loại trong khi nhân loại còn phản nghịch, chống lại tình thương của Thiên Chúa, bời lẽ không có tinh yêu nào cao quý và mạnh liệt bằng tinh yêu sẵn sàng phó mạng sống mình vì người yêu, người yêu phản bội.
Cái chết đó có tác dụng biến đổi lòng người, giúp người ta quay về với Thiên Chúa. Vì cái chết đó vừa cho biết tội lỗi của chúng ta xấu xa, tàn ác tới mức độ ghê sợ, vừa chứng minh Thiên Chúa thương yêu loài người vô cùng. Suy nghĩ sự thương khó của Chúa Kytô, chúng ta hối hận vì tội lỗi ta đã phạm và nhìn lên tình yêu vô cùng của Thiên Chúa Cha do Chúa Con làm người chịu chết trên thập giá, tự nhiên ta xúc động, cái xúc động này rất có ích cho ta vì giúp ta tin tưởng, trông cậy và sám hối. Tiếp đến nhờ sự Phục sinh của Chúa Kytô cho chúng ta một bảo đảm chắc chắn, ta bước sang một đời sống mới, một hy vọng không bao giờ tàn, ta cố gắng theo giáo lý của Chúa Kytô để được sống lại với Chúa Kytô.
Khi nhìn đến người khác, ta có một tự hào. Ước gì tự hào trong khiêm tốn nghĩa là không chê trách người ta. Thí dụ chê trách người buôn bán trong đền thờ về tội tục hóa nơi Chúa ngự, chê dân Israel tráo trở: hôm nay hoan hô Chúa ngày mai xin đóng đinh Chúa, chê biệt phái tàn ác, chê Philatô hèn nhát. Lý do là khinh chê dễ rơi vào chủ quan mà không tránh cái xấu mình phải tránh. Thực tế không tránh đời sống cũ của mình thì giống như kẻ cướp chửi người khác ăn cướp của mình đã cướp.
Cái chết của Chúa Kytô vẫn tố cáo tội lỗi của chúng ta luôn. Chính ánh sáng của Lời Chúa, việc làm của Chúa soi sáng đời sống ta vừa tố cáo tội lỗi chúng ta vừa mở tay đón người tội lỗi trở lại.
Chúa luôn luôn mong con người có tội trở lại và ta phải thành tâm thưa với Chúa rẳng trong đó có con. Hễ bao nhiêu lần người ta sống trong tội lỗi là bấy nhiêu lần người ta giết Chúa trong khi ta vẫn nói người Do thái giết Chúa !?
42. Lễ lá
Lắng nghe và suy nghĩ về bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được tình thương của Ngài thật bao la, cũng như hiểu được tội lỗi thật xấu xa, đến nỗi Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, để tẩy sạch dấu vết của nó trong tâm hồn chúng ta.
Adong ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa. Còn Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng ta Ngài đã hạ mình xuống như lời thánh Phaolô đã viết:
- Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi cho mình được đồng hàng với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống, mang thân phận tôi đòi, trở nên giống chúng ta, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Chúa Giêsu không phải chỉ nên giống chúng ta ở dáng bộ bên ngoài, nhưng Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài không phải chỉ là một kẻ lạ mặt, đứng bên lề cuộc đời chúng ta. Ngài cũng không phải là một ông cảnh sát lăm le biên phạt những hành động sai trái của chúng ta.
Trái lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã tham dự vào kiếp người và cùng đi với chúng ta qua vạn nẻo đường đời. Ngài cũng đã vất vả lao động, chịu đói chịu khát, mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia sẻ với chúng ta mọi cảnh huống của cuộc sống, và nhất là Ngài đã chết vì yêu thương chúng ta như lời Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Kể từ nay, thập giá không còn là một hình phạt dành cho những kẻ nô lệ và phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng hồn nhất nói lên tình thương của Chúa.
Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy nhìn vào những ước vọng thầm kín, cũng như hãy nhìn vào chính con người chúng ta.
Thực vậy, chúng ta là những kẻ kiêu căng hợm hĩnh, chúng ta không muốn vâng phục, trái lại luôn chống đối quyền bính. Hãy nhìn vào thái độ khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Chúng ta là những kẻ mải miết chạy theo những vui thú cho thân xác. Hãy nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá giữa những đớn đau phải chịu.
Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh đối với Thiên Chúa, trong khi đó lại qúa quyến luyến với tiền bạc, với địa vị, với danh vọng hay một tạo vật nào đó. Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta.
Chính Ngài đã nói với thánh nữ Angèle de Foligno như thế này:
- Cái chết của Cha, cùng với những khổ đau, không phải là một trò cười.
Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá và hãy thân thưa với Chúa như lời thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi, một kẻ tội lỗi đáng thương.
Thực vậy, ngước nhìn thập giá và suy gẫm về tình thương của Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong ước được tẩy rửa tâm hồn mình nên trong trắng như tấm áo ngày chịu phép rửa tội.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
43. Vì yêu, Chúa đã chết cho chúng ta
(Phanxicô Xavie Trần Đức Tuân)
Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta bắt đầu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh là tuần lễ quan trọng nhất trong năm phụng vụ, là tuần lễ ghi lại các biến cố cuối cùng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế ở trần gian. Từ lúc Chúa vào thành Giêrusalem hôm nay, đến cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Tuần thánh cũng nhắc cho mỗi người chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối, mỏng dòn, bất toàn, yếu hèn và tội lỗi của mình.
Trong cuộc sống của con người, có lẽ không có gì làm cho chúng ta sợ hãi cho bằng cái chết. Cái chết là con đường chung cho mọi người. Không ai có thể chạy trốn khỏi cái chết. Tuy nhiên, khi đối diện với cái chết, mỗi người có một thái độ khác nhau. Các thánh tử đạo đã can đảm đối diện với cái chết để làm chứng cho Chúa. Và đặc biệt cái chết của Đức Giêsu. Có thể nói đây là cái chết tuyệt vời, cái chết đem lại sự hoà giải, sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho mỗi người chúng ta. Chúa đã chết để mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Trên hết, cái chết của Đức Giêsu là một cái chết tự nguyện hiến thân cho người mình yêu. Trong vườn Cây Dầu, Đức Giêsu cảm thấy buồn rầu, xao xuyến, “và mồi hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44). Giữa nỗi kinh hoàng, khủng khiếp của con đường thập giá, Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha cho mình: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này" (Mt 26,39). Nhưng cuối cùng tình yêu đã chiến thắng. Với một tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Cha và một lòng thương xót vô biên dành cho chúng ta: “Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”.
Như thánh Phaolô tông nói: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Chính tình yêu đó đã thúc đẩy Đức Giêsu, ngay giữa những đau khổ cùng cực nhất trên thập giá, trong hơi thở cuối cùng đã lên tiếng cầu xin cho chính những kẻ vừa hành hạ, đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Đôi khi chúng ta cũng đã đóng đinh Chúa vào thập giá, đó là những lúc chúng ta lơ là trong bổn phận, làm ngơ trước những nghèo khó đơn côi.
Tình yêu của Đức Giêsu còn thể hiện qua ánh mắt đầy thương xót Ngài dành cho Phêrô. Dù Chúa biết là ông sẽ chối Ngài. Một tình yêu hoàn toàn vị tha, quên cả nỗi đau khổ của mình đang gánh chịu, để luôn dành trọn tâm trí của mình cho người khác. Đó là tình yêu của Đức Giêsu đã dành cho mỗi người chúng ta.
Vì yêu, Chúa đã chịu người đời phỉ báng chê cười. Vì yêu, Chúa đã trở nên nghèo khó để chúng ta được giàu có. Vì yêu, Chúa đã chết cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Vì yêu Chúa đã chịu khổ nạn và chết trên thập giá, xin cho chúng con cũng biết chết đi cho con người tội lỗi, chết đi cho những đam mê, hận thù, ghen ghét để chúng con chỉ biết sống cho Chúa và cho tha nhân.
Lạy Chúa, vì yêu Chúa đã tự hiến mình trong bí tích Thánh Thể để nuôi sống chúng con, xin cho chúng con luôn biết khao khát và chạy đến với Thánh Thể Chúa, để chúng con tìm được nguồn sức mạnh và vững bước trên đường về quê trời. Amen.
44. Cuộc Thương Khó
Winston Churchill, cố thủ tướng Anh Quốc, đã chia sẻ kinh nghiệm riêng của ông và cho chúng ta biết rằng sự hoan hô ủng hộ của dân chúng không phải là bằng chứng của sự thành công thực sự. Xưa kia, có một lần sau khi nói chuyện với một cử tọa khoảng 10 ngàn người hiện diện hoan hô thủ tướng, một người bạn đã hỏi: “Thưa thủ tướng, ngài không cảm thấy xúc động vì 10 ngàn người đã đến nghe ngài nói chuyện sao?” Churchill trả lời: “Không hẳn thực sự là như thế. Một trăm ngàn người sẽ đến nhìn khi tôi bị treo lên”.
Hôm nay Chúa nhật lễ lá, chúng ta bắt đầu Tuần Thương Khó bằng việc cử hành việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Sách Giáo lý Công giáo số 272 đã viết: “Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự toàn năng của Ngài một cách hết sức mầu nhiệm trong sự tự nguyện chịu nhục… nhờ đó Ngài đã chiến thắng sự ác”. Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá là “quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bởi vì sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người”.
Ngày xưa, có hai anh em nọ sống chung với nhau trong cùng một căn nhà. Người anh tốt lành, siêng năng làm việc và kính sợ Thiên Chúa. Còn người em bất lương, lừa lọc, gian manh, và phạm đủ thứ tội như cướp của, giết người. Người anh khuyên răn mãi mà người em vẫn chẳng thay đổi tính nết. Một đêm nọ người em chạy về nhà với quần áo dính đầy máu. Nó tự thú với người anh: “Tôi đã giết người”. Vài phút sau căn nhà bị cảnh sát bao vây và hai anh em đã biết rằng không còn cách nào trốn thoát được. “Tôi không có ý giết nó”, người em sợ hãi nói, “Tôi cũng không muốn chết”. Vào lúc ấy cảnh sát đang gõ cửa. Người anh bèn nảy ra ý tưởng: anh thay đổi quần áo của mình cho người em, và mặc lấy bộ quần áo còn đang dính đầy vết máu của người em. Cảnh sát xông vào nhà bắt người anh, bỏ tù, và chờ ngày bị kết án tử hình. Sau cùng, người anh đã hy sinh chết thế cho em mình.
Qua câu chuyện hình sự về cái chết hy sinh của người anh vì thương em, chúng ta hiểu phần nào về sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu được diễn tả trong bài Thương Khó. Đây là câu chuyện của tình yêu, tình yêu Thiên Chúa dành cho con người chúng ta.
Thánh Phaolô đã viết: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người… Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”.
45. Cuộc Thương Khó
Chúa Giêsu rất thương xót những người đau khổ. Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa họ, và dạy mọi người phải yêu thương nhau chứ không dạy phải làm khổ cho nhau. Đối với Chúa Giêsu đau khổ là điều xấu. Khi nghĩ về cuộc thương khó trong vườn Giệtsimani, Ngài đã bồi hồi, xao xuyến, sợ hãi đến đổ mồ hôi máu.
Thánh Kinh cho ta thấy căn nguyên của đau khổ là tội lỗi. Vì đau khổ là xấu nên con người phải tránh gây đau khổ cho nhau bằng mọi hình thức. Đồng thời phải tích cực xây dựng sự công bằng và bác ái. Rất nhiều đau khổ ở thế gian do con người, tội lỗi và sự bất công gây ra. Khi chấp nhận đau khổ để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một số nguyên tắc luân lý:
1. Chỉ chấp nhận đau khổ và hy sinh vì hạnh phúc của người khác. Sự hy sinh phải nhằm vào những mục đích tốt, và những mục đích đó phải có một giá trị cao hơn sự thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã tự ý chịu đau khổ để tiêu diệt tội lỗi theo đường lối của Thiên Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài đã phải đụng chạm với sức mạnh của chính quyền, xung khắc với sự tự do của con người. Và sự đau khổ đã đến như một hậu quả tất yếu vì sứ mệnh của Ngài. Ngài đã phải chọn lựa giữa việc chu toàn sứ mạng dù phải chấp nhận sự đau khổ và cái chết trên thập giá hơn là sự đào ngũ, chạy trốn của người hèn nhát.
2. Để sự đau khổ trở nên một giá trị cho người khác, nó phải là tự nguyện như chính Chúa Giêsu đã tự hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhân loại: “Không ai đoạt được mạng sống tôi, nhưng tôi tự ý hiến mạng sống mình”.
Thiên Chúa ban cho con người tự do để cộng tác vào việc sáng tạo của Thiên Chúa. “Con người thường là những hợp tác viên vô ý thức của thánh ý Chúa, nhưng con người cũng có thể chủ ý hợp tác vào kế hoạch của Ngài bằng hành động, lời cầu nguyện, và bằng cả những đau khổ của mình”.
3. Đau khổ hy sinh sẽ trở nên sai trái khi nó hủy diệt chính con người của mình. Chúa Giêsu đã không đánh mất bản tính Thiên Chúa của Ngài khi chết trên thập giá. Ngài chết trên thập giá nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa, độ lượng, tha thứ và nhân từ. Đau khổ không làm Ngài rơi vào hận thù và tuyệt vọng. Chính tình yêu làm cho đau khổ trở thành giá trị. Con đường khổ giá từ Giêrusalem lên núi sọ chịu đóng đinh của Chúa Giêsu chính là con đường của tình yêu.
Sách Giáo lý Công giáo số 609 viết rằng: “Khi gắn bó với tình thương của Chúa Cha đối với mọi người, trong trái tim nhân tính của mình, Chúa Giêsu “đã yêu thương họ đến cùng”, “bởi vì không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì những người mình yêu thương”. Bởi vậy, trong đau khổ và trong khi chết, nhân tính của Ngài đã trở thành dụng cụ tự do và tuyệt hảo của tình thương thần linh của Ngài muốn cứu vớt mọi người”.
Bắt đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta nhìn vào thánh giá để thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình yêu đó:
Nhìn vào thánh giá ta thấy đau khổ bên ngoài và tình yêu Thiên Chúa bên trong, sự chết của con người và sự sống lại của Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi của trần gian và ánh bình minh cứu độ, sự ích kỷ của ta và sự hy sinh của Thiên Chúa, sự kiêu căng của ta và sự khiêm tốn của Thiên Chúa, sự bất lực của ta và sức mạnh vô song của Thiên Chúa, sự thù hận của con người và sự tha thứ của Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự cao cả của Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta thấy nhân tính và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Quả vậy, như lời thánh Phaolô đã dạy: “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa”.
46. Hoan hô- Đả đảo
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem cơm áo ấm no cho họ. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương và hòa bình.
Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.
Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau của dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay, lòng dạ tráo trở của những người đó phải không? Nhưng chúng ta hãy ý tứ, có người đã viết như thế này: “Giữa Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương, ngày mai chúng ta oán ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm nay chúng ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng, ngày mai chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu”.
Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã dùng một cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền hòa, tin tưởng. Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu cực của cuộc sống như khước từ, oán ghét, buồn phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần lá xanh, chỉ còn để lại cọng của cành lá dừa. Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó roi có thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những điều trên đây? Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau nhiều hơn làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết? Chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà thờ nhưng chúng ta có tôn vinh Chúa trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không? Mỗi khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng ta hoan hô “vạn tuế” để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực hành chương trình xây dựng hòa bình và tình thương của Chúa.
47. Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa
(Lm. Phạm Đức Trị)
Cảnh tượng dân thành Giêrusalem tưng bừng tay cầm cành lá hân hoan đón Chúa Giêsu vào thành Thánh như một vị Vua, được Tin Mừng kể lại hôm nay thật kỳ lạ làm cho chúng ta khó hiểu và đặt câu hỏi: Đức Giêsu vốn là một người hiền lành và khiêm nhường, Ngài luôn né tránh những lời tôn phong của dân chúng... Thế mà hôm nay chính Ngài đã khơi dậy sự hứng khởi trong dân để đón Ngài, dù họ chỉ dùng những phương tiện rất đơn sơ, điều này có ý nghĩa gì?
Đức Giêsu, Ngài vào thành Thánh dự lễ Vượt Qua lần cuối cùng của cuộc đời trần thế, hôm nay Ngài muốn loan báo cho dân chúng biết từ nay Ngài cũng đang bắt đầu chuẩn bị một lễ Vượt Qua Mới. Lễ Vượt Qua đó chính ông Vua đang được dân tuyên xưng loan báo: cuộc khổ nạn, con đường Thập giá và cái chết vì yêu nhân loại. Ông Vua đó lại khác hẳn với các vua trần thế. Ngài là Vua hòa bình, Vua bác ái, Vua yêu thương. Một ông Vua tự hiến mình trên thập giá để cứu nhân loại. Còn hơn thế nữa, khi đã bị đóng đinh trên thập giá, vẫn bị người ta nhạo báng mỉa mai: "Nếu ông là Vua dân Do thái, tại sao không cứu mình đi?" Ngài vẫn thinh lặng và tha thứ, không một lời oán trách..
Phía trên đầu Người có bản bản án viết "Đây là Vua dân Do thái". Nhưng Ngài là Vua thế nào? Sự thinh lặng và tha thứ trên Thập giá của Ngài đã cho chúng ta biết: Ngài là Vua không phải dựa trên luật sức mạnh, hờn oán và trả đũa... nhưng Ngài là Vua bác ái, Vua tình thương, Vua Tâm hồn. Với Ngài, mọi người sẽ được yêu thương và tôn trọng, không phải vì địa vị, danh giá, giầu sang, quyền thế, nhân đức hay bất cứ đặc điểm nào khác, mà chỉ vì mỗi người chỉ có một nhân vị đáng được yêu thương, một phẩm giá cao quí đáng được tôn trọng, nhân vị đó chính là, tất cả chúng ta đều là những người con đáng yêu của Thiên Chúa. Ngài ưa chuộng những tâm hồn đơn sơ và khiêm tốn, những con người tội lỗi biết hối cải và ăn năn, như anh trộm lành: "Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng".
Phải chăng đó là con đường, đó là những nhân đức mà Ngài đang mời gọi chúng ta chuẩn bị trong Tuần Thánh để đón ngày trọng đại, ngày Lễ Vượt Qua Mới? Vậy hãy noi gương Ngài Trên thập giá. Vì trên Thập Giá, chúng ta tìm ra được bí quyết tình yêu, con đường phục vụ, nhân đức khiêm nhường. Trên Thập giá, con người được Thiên Chúa thần-thánh-hóa và nâng lên ngang hàng với Ngài. Trên Thập giá, mọi người sẽ được yêu thương ngang hàng với nhau, vì chính Chúa Giêsu đã hiến cả Cuộc sống của Ngài cho cuộc sống chúng ta, nghĩa là Ngài đã coi cuộc sống chúng ta ngang bằng với cuộc sống của Ngài. Không gì hòa lẫn chúng ta với Thiên Chúa hơn được nữa, không gì làm cho chúng ta xúc động hơn được bằng sự nhuộm máu đào vì yêu chúng ta trên Thập giá, một công cuộc tình kỳ diệu.
Thật thế, trước mắt Thiên Chúa chúng ta là thế đó, trước mắt Ngài con người có gia trị như vậy đó: con người được Thần-thánh-hóa. Có lẽ không thể nào ca ngợi giá trị cuộc sống nhân loại một cách tuyệt vời hơn! Chỉ có thể biểu lộ tính cách vô song của cuộc sống phiêu liêu và tội lỗi của con người bằng cách thiết lập nên phương trình cứu độ của cuộc sống Thiên Chúa với cuộc sống của chúng ta. Điều Ngài làm không phải la vì công lao hay công trạng của chúng ta, cũng càng không phải là sự phục tùng, sự chinh phục hay sự lệ thuộc của Ngài vào chúng ta; điều Ngài muốn chính là sự tự do và hạnh phúc của con cái Thiên Chúa; điều Ngài muốn đó là chúng ta được quan hệ mật thiết với Ngài và Ngài cũng được quan hệ mật thiết với chúng ta. Vậy nhìn lên Thánh giá, chúng ta thấy Thiên Chúa là một Thiên Chúa muốn được hiệp thông, một Thiên Chúa chỉ hiện hữu dưới hình thức ân ban quảng đại.
48. Suy niệm của Lm. Phêrô Võ Thanh Nhàn
Bản văn quá dài. Chúng ta không còn muốn nghe thêm gì nữa, chỉ muốn được yên lặng để tưởng niệm mầu nhiệm Chúa chịu chết. Nhưng việc tưởng niệm này sẽ ít có kết quả nếu không được hướng dẫn. Và nếu thiếu hướng dẫn, bản văn dài mà chúng ta vừa nghe đọc có lẽ cũng sẽ không để lại nhiều âm vang sâu sắc. Chúng ta phải nói với nhau về bài tường thuật việc Chúa chịu chết; chúng ta phải nhận ra ơn Chúa muốn cứu độ chúng ta trong Thánh lễ Chúa nhật Thương khó hôm nay.
1. Bài tường thuật việc Chúa chịu chết
Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại việc Chúa chịu chết. Điều đó không có gì lạ. Vì, việc ấy "ai đã đến Yêrusalem" mà không biết? (Lc 24,18). Rồi các Tông đồ phải là "những chứng nhân về việc Chúa sống lại", cho nên việc dài dòng tỉ mỉ kể về sự kiện Chúa chịu chết; và dài dòng tỉ mỉ hơn nữa khi các ông giảng về việc Chúa phục sinh là chuyện đương nhiên. Sự kiện ấy khiến chúng ta phải khẳng định: không thể coi việc Chúa chịu chết như là chuyện đã biết rồi, không cần nói tới nữa. Trái lại đó là sự kiện phải suy nghĩ mãi mãi. Như thế việc Chúa chịu chết đã không thuộc về dĩ vãng, nhưng luôn luôn được hiện đại hóa vì Chúa chỉ cứu độ chúng ta ngày hôm nay trong sự chết và sống lại của Con Người mà thôi.
Tử nạn và Phục sinh không phải chỉ là hai sự kiện kế tiếp nhau: tử nạn qua rồi và hiện nay chúng ta chỉ cần biết Chúa phục sinh. Không, Chúa Phục sinh hiện mang các dấu thánh. Người nhắc nhở chúng ta nhớ đến việc tử nạn, không phải như một giai đoạn bi đát phải trải qua, nhưng như chính con đường loé sáng việc phục sinh. Và như việc phục sinh đã chói sáng trong việc Chúa chịu nạn, thì ơn cứu độ cũng rực lên trong chính cuộc đời đầy phấn đấu của ta. Như thế, suy nghĩ về việc Chúa chịu chết là nhận ra ơn cứu độ ngay trong đời sống nhiều thử thách của mình. Đạo của chúng ta là đạo nhập thể, đạo dạy chúng ta biết sống, nên giáo lý của đạo phải nhấn mạnh đến việc Chúa chịu chết.
Cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại việc này. Và hơn nữa, cả bốn sách đều giống nhau khi làm công việc này hơn khi viết về những việc khác. Do đó người ta có thể quả quyết: khi thuật lại việc Chúa chịu chết, các tác giả đã trình bày suy nghĩ chung của Hội Thánh hơn là viết ra những ý nghĩ cá nhân của mình. Nhiều người nhìn thấy sự giống nhau ấy đã vội tưởng không có gì phải để ý trong cách thức tường thuật của mỗi sách Tin Mừng. Và họ nghĩ: biết một bài tường thuật là đủ; hơn nữa có thể chọn bất cứ bài nào làm cơ sở rồi thêm những chi tiết của ba bài khác vào. Nhưng làm như vậy là không hiểu gì hết! Chúng ta cứ thử để mỗi tác giả đưa chúng ta đi theo con đường tử nạn của Chúa. Tâm tình của mỗi vị sẽ giúp ta thấy mầu nhiệm Chúa chịu chết thật phong phú vô cùng.
Hôm nay chúng ta theo thánh Matthêô. Người mở đầu bài tường thuật bằng việc Giuđa mặc cả với Hội đồng Dothái về số tiền thưởng y muốn được để nộp Đức Kitô cho họ. Tác giả rõ ràng đã hàm ý vụ án sắp diễn ra là một chuyện mua bán, tội lỗi, và bẩn thỉu. Và bẩn thỉu thật, khi cái hôn thay vì yêu thương là dấu hiệu nộp thầy của Giuđa!
Còn thái độ của những người khác thế nào? Các Tông đồ muốn chống cự, lấy sức mạnh chống lại sức mạnh. Nhưng Đức Giêsu gạt bỏ lập trường ấy vì là đường lối lẩn quẩn không có lối thoát: kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Người cũng phủ nhận ý kiến của những kẻ muốn xin Thiên Chúa một sự can thiệp lạ lùng, vì là đường lối không cứu được kẻ có tội và do đó không cứu thế. Người nhấn mạnh nhiều lần: hãy để cho lời Kinh Thánh nên trọn; hãy chấp nhận kế hoạch của Thiên Chúa, vì chết chưa phải là hết...
Hai chủ đề trên tiếp tục được Matthêô khai triển trong suốt bài tường thuật. Tội lỗi bẩn thỉu của Giuđa và Dothái lại được phơi ra trong câu chuyện Giuđa đem trả 30 đồng bạc. Người Dothái không muốn nhận nhưng rồi cũng phải lấy và đem mua thửa ruộng máu. Rõ ràng bọn chúng đã nhận tội; và một lần nữa rõ ràng việc Đức Giêsu chịu chết đã được viết trong Kinh Thánh, mà Người chấp nhận làm cho nên trọn.
Nhưng như trên đã nói, Matthêô luôn suy nghĩ về Giáo hội trong khi viết Tin Mừng. Ở đây cũng vậy, trong bài tường thuật việc Chúa chịu nạn, tác giả đã có nhiều đoạn ám chỉ Giáo hội đặc biệt khi viết lại vụ án trước tòa Philatô. Ông quan ngoại đạo này muốn tha Đức Giêsu. Vợ ông cũng can ông đừng nhúng tay vào vụ người công chính này. Đang khi đó các tư tế lại xúi dân Dothái xin đóng đinh Người họ quen biết và xin tha bổng cho Baraba, một tên tử tội. Đó là hình ảnh về Giáo hội gồm đa số dân ngoại và về cộng đồng Dothái tội lỗi. Hình ảnh ấy còn được Matthêô vẽ lại một lần nữa khi kể chuyện: ở dưới chân Thánh giá, các thượng tế cùng ký lục và hàng niên trưởng chế diễu Chúa (27,41), trong khi viên bách quân và tùy viên của ông là dân ngoại lại kinh hãi mà nói: "Đích thực, Ông này là Con Thiên Chúa" (27,54).
Tuy nhiên, nói cho đúng, dân ngoại chỉ được ơn đức tin sau khi Chúa đã chịu chết. Lúc ấy màn trong đền thờ bị xé ra, cho phép mọi người kể cả lương dân được vào. Người Dothái không còn đặc quyền và độc quyền Lời Hứa nữa. Chức tư tế của đạo cũ cũng bị hủy luôn. Thế giới cũ đổ vỡ khi đất động và đá vỡ tung. Đức Giêsu đã cứu thế rồi khi nhiều mộ mở ra và nhiều xác thánh sống lại. Sự chết của Người đã ban đức tin cho viên bách quân, đã tập họp môn đệ và các phụ nữ đạo đức lại, hướng họ về niềm tin phục sinh, đang khi khiến người Dothái lúng túng đặt lính gác mồ một cách vô ích.
Như vậy Matthêô đã có cả một lối suy nghĩ độc đáo về việc Chúa chịu chết. Như mọi người đã đến Giêrusalem vào dịp lễ Vượt qua năm đó, ông đã thấy các sự kiện diễn ra. Chính lúc ấy ông chỉ biết ghi nhận. Nhưng khi Đức Giêsu đã phục sinh và đã tập họp các Tông đồ lại, đức tin của ông được củng cố đến đâu thì các việc đã ghi nhận kia cũng tập họp lại đến đó và dính vào nhau làm thành một bài tường thuật dưới ánh sáng của mầu nhiệm Phục sinh. Việc Chúa chịu chết không phải là chuyện tình cờ. Bề ngoài nó có do việc mua bán bẩn thỉu và tính toán gian dối cũng như sai lầm của kỳ mục Dothái. Nhưng bên trong đó là diễn tiến của kế hoạch cứu độ đã được viết trước trong Kinh Thánh để đưa dân ngoại vào Lời Hứa và người Dothái phải trở lại; và để như Lời Đức Giêsu nói trước tòa Dothái, từ nay các ngươi sẽ thấy Con Người, ngự bên hữu Quyền Năng và đến trên mây trời; tức là từ lúc Đức Kitô bị xét xử, người ta sẽ thấy Quyền Năng Thiên Chúa ở với Người và Người cứu độ chúng ta trong vinh quang Thập giá. Chính tội lỗi của loài người làm nổi bật sự vô tội của Người, và chính cái chết trong sự vô tội có giá trị cứu chuộc chúng ta. Do đó sự sống công chính của chúng ta không những đã chảy ra từ các thương tích của Người, mà còn phải được minh chứng và tăng lên qua mọi thử thách đớn đau.
2. Bài học Chúa để lại cho chúng ta
Thánh Phaolô không bao giờ viết một bài tường thuật dài về việc Chúa chịu chết. Nhưng bài thư Philip hôm nay có thể thay thế. Thể văn của bài thư cho phép chúng ta có thể nghĩ đây là một ca vãn dùng trong phụng vụ thời thánh Phaolô, nói về mầu nhiệm Chúa Kitô. Và như vậy, đây là bản tuyên xưng đức tin của Giáo hội. Nó không thể khác với bài tường thuật của thánh Matthêô vì chúng ta cũng đã nói, các bài tường thuật về việc Chúa chịu chết trong bốn sách Tin Mừng đều khá giống nhau, nên cũng chỉ diễn tả giáo lý chung của Hội Thánh mà thôi. Đọc các bài tường thuật này, chúng ta phải chia sẻ đức tin của Giáo hội. Thánh giá Đức Kitô nói lên sự vô tội thánh thiện của Người ở giữa những người mà Người đã gọi là anh em nhưng lại thật là độc dữ. Chính cái chết vô tội thánh thiện của Người khiến chúng ta nhận ra Người là Người Tôi Tớ Thiên Chúa gánh tội thiên hạ để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta chỉ tuyên xưng Người chân thật như thế khi tham dự vào mầu nhiệm Thập giá của Người để chấp nhận cuộc đời phấn đấu như là đường lối nên thánh và cứu thế.
Isaia ngày trước đã được linh ứng để viết về thân phận Người Tôi Tớ Thiên Chúa, tức là về thân phận Đức Kitô và thân phận mọi Kitô hữu. Mọi người tôi tớ Thiên Chúa phải "sáng sáng, mở tai nghe Lời Chúa như môn sinh; phải có lưỡi trung thành của môn sinh để lấy Lời Chúa chống đỡ kẻ kiệt sức; và cuối cùng phải giơ lưng cho người ta đánh đập, chìa má cho kẻ nhổ râu, trơ trơ như đá trước mọi nhục nhằn khạc nhổ, biết rằng chung cuộc mình sẽ không phải thẹn thuồng...". Isaia thật đã vẽ trước khuôn mặt và đời sống của Đức Kitô. Mọi lời của ông được bài tường thuật của Matthêu làm cho sáng tỏ. Phaolô trong bài thư Philip đã suy nghĩ và thấu hiểu đường lối Thiên Chúa trong cuộc đời của Đức Kitô.
Phụng vụ hôm nay dùng cả ba bài đọc này đưa chúng ta vào mầu nhiệm Thánh giá cử hành trên bàn thờ để chúng ta nhận lấy Đức Kitô chịu chết và sống lại, đem theo mình vào đời mà chiếu tỏa ánh sáng phục sinh ngay trong mọi phấn đấu của đời sống, tiếp tục con đường nên thánh và cứu thế của Đức Kitô, xứng đáng với danh hiệu Con Thiên Chúa.
49. Suy niệm về nhân tình thế thái
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong bài thơ “Thói đời”, Nguyễn Bỉnh Khiêm có một vần thơ lột tả sự tráo trở trong thái độ sống của con người:
“Được thời thân thích chen chân đến
Thất thế hương lân ngoảnh mặt đi”.
Suy niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su càng thấy rõ nhân tình thế thái, thấy sự tráo trở, đổi trắng thay đen của lòng dạ con người.
1. Đám đông dân chúng
Dân thành Giê-ru-sa-lem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đa-vít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, Pha-ri-sêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi !” Hai thái độ trái ngược nhau của dân chúng: hoan hô và đả đảo, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Đám đông thường nông nổi nhẹ dạ, vô ý thức và do đó vô trách nhiệm. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn: người ta hoan hô, mình hoan hô, người ta đả đảo mình đả đảo, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao.
2. Giu-đa It-ca-ri-ốt
Trong Ki-tô Giáo, Giu-đa phản bội Thầy là một sự kiện nổi tiếng. Nổi tiếng vì bán Thầy với giá ba mươi đồng bạc (Mt 27, 3). Một môn đệ được tuyển chọn, được huấn luyện, Giu-đa vinh dự thuộc về nhóm 12, được giao trọng trách quản lý. Nhưng lòng tham lam của cải vật chất đã đẩy Giu-đa đến chỗ phản bội. Giu-đa đi gặp các thượng tế và nói: "Tôi sẽ được gì nếu tôi nộp Ngài cho các ông?” Họ đã trả cho hắn ba mươi đồng bạc, và từ đó hắn tìm dịp để nộp Chúa Giê-su cho họ” (Mt 26, 16). Một cuộc buôn bán lớn nhất trong mọi thời đại nhưng chỉ được ba mươi đồng bạc là giá của một nô lệ vào thời đó ! Khi giá cả đã thoả thuận, các thượng tế mang ba mươi đồng bạc và đặt vào tay Giu-đa.
Tám trăm năm trước, Gia-ca-ri-a đã nói tiên tri: “Nếu các ông thấy là được thì trả công cho tôi; nếu không thì thôi. Và họ đã trả công cho tôi là ba mươi đồng bạc” (Dcr 11, 12). Trong bữa tối vào ngày hôm sau, Chúa Giê-su tỏ ra buồn phiền: “Có người trong các con sắp phản Thầy” (Mt 26, 21). Các môn đệ nhìn nhau và hỏi: “Có phải con không, Thưa Thầy?” Giu-đa cũng hỏi: Thưa Thầy, có phải con không? Chúa trả lời: “Con nói đúng đó !” Giu-đa đi ra, “lúc đó là đêm tối”...
Bằng nụ hôn giả dối, Giu-đa chỉ điểm để quân lính bắt Chúa Giê-su trong vườn Cây Dầu (Lc 22, 50). Giu-đa có quyền dự tiệc bê béo, nhưng lại chọn thờ lạy bò vàng. Chứng kiến cuộc khổ nạn của Thầy, lòng Giu-đa đầy hối hận (Mt 27, 3). Tội ác vừa phạm xong, Giu-đa đã thấy chán chường. Hối hận tận đáy thâm sâu của tâm hồn, Giu-đa đem mối sầu ấy đi gởi chỗ không đáng gởi “Giu-đa ném các đồng bạc trả lại vào mặt các thượng tế và nói: Tôi đã phản bội, nộp máu người vô tội". (Mt 27, 4).
Trước sự tráo trở của các thượng tế và kỳ lão: “Can chi đến chúng tôi, mặc kệ anh” (Mt 27, 4), Giu-đa ném những đồng bạc đó vào Đền Thờ và ra đi xuống thung lũng Hin-nom, thung lũng đầy kỷ kiệm khủng khiếp của âm ty. Giu-đa bước đi trên đất lạnh cát sỏi, giữa những tảng đá nhọn sắc, những cây cối cong queo gầy guộc như tâm hồn trĩu nặng nỗi đớn đau. Giu-đa cởi dây lưng quăng một đầu dây vào vào một cành cây to, đầu dây kia quàng quanh cổ. Tiếng gió rì rào như thầm nhắc lời mà Giu-đa đã từng nghe: “Hỡi những ai khó nhọc gánh nặng, hãy đến cùng Ta, tâm hồn các con sẽ được bình an”.
Than ôi ! Giu-đa hối hận vì chính mình nên chọn cái chết để kết liễu lầm lạc. Mặt trời nghiêng bóng tối dần. Ở Si-on, từ hai phía đối diện, có hai cây đi vào lịch sử, một cây ở núi sọ: cây hy vọng, một cây ở Hinmon: cây thất vọng. Trên cây hy vọng, Đấng Chịu Đóng Đinh liên kết đất trời; trên cây thất vọng, người bị treo xa đất xa trời. Hối hận của Giu-đa không đúng nghĩa hối hận. Chán chường tội lỗi không đủ mà cần phải ăn năn thống hối nữa. Tỉnh ngộ và chán chường mới chỉ là bước đầu, cần phải sám hối trở về đón nhận ơn tha thứ, tìm lại sự sống.
3. Giới lãnh đạo Do-thái
Vì ghen ghét mà giới lãnh đạo tôn giáo Do-thái đã chủ mưu trong vụ án giết Chúa Giê-su (Mt 27, 18). Dân chúng mến phục ủng hộ, nhiều người tin vào Chúa Giê-su. Ảnh hưởng của Người ngày càng lớn trên dân chúng. Cuộc xung đột không những về quan niệm tôn giáo mà còn liên quan đến quyền lợi vật chất của giới lãnh đạo nên họ quyết tâm giết Chúa Giê-su. Đạo Do-thái là đạo của đền thờ, đạo của lễ tế. Dịch vụ lễ tế là một dịch vụ quan trọng về phương diện tôn giáo và cả về kinh tế. Hàng tư tế sống nhờ vào lễ tế. Lễ tế của dân, dịch vụ cung cấp những phương tiện lễ tế như bán chiên bò cừu bồ câu hương hoa và cả dịch vụ đổi tiền. Gia đình các tư tế, con dâu con rễ của họ độc quyền khai thác dịch vụ này.
Vậy mà Chúa Giê-su lại dám xua đuổi họ không cho buôn bán trong khuôn viên Đền Thờ. Người còn thách thức: “Cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Theo Gio-an, lời thách thức quyền bính của Chúa Giê-su có ý ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người (Ga 2, 21 – 22). Nhưng giới lãnh đạo hiểu là đền thờ Giê-ru-sa-lem nên họ coi là sự xúc phạm Đền Thờ. Thách thức phá huỷ Đền Thờ, dẹp bỏ những phương tiện của lễ tế, quả thật là tội không thể tha thứ. Vì thế mà họ căm thù và tìm cách giết Người cho bằng được. Những người Pha-ri-sêu sống trong thế giới tách biệt, không chấp nhận dân ngoại, loại trừ người tội lỗi, giữ luật cách máy móc nô lệ. Còn Chúa Giê-su thì sống hoà mình giữa những người tội lỗi, đồng hành, đồng bàn ăn uống với họ, đến với dân ngoại. Người phê bình sự giả hình của người Pha-ri-siêu. Người lại còn không giữ luật ngày Sa-bát, vì đối với Người “Ngày Sa-bát đựoc lập ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát” (Mt 2, 27). Người còn xưng mình là Con Thiên Chúa (Mt 26, 61; Mc 14, 58).
Trước bao nhiêu là “tội trạng” của Chúa Giê-su, Thượng Hội Đồng đã tuyên án. Nhưng họ không còn quyền lên án và xử tử bất cứ ai vì quyền đó thuộc quyền của toà án chính quyền bảo hộ. Vì thế họ phải nộp Chúa Giê-su cho Tổng Trấn Phi-la-tô. Theo Mác-cô và Mát-thêu thì Chúa Giê-su bị thẩm vấn về hai tội danh: một là Người đã xúc phạm đến Đền Thờ khi tuyên bố “Tôi sẽ phá huỷ Đền Thờ này, rồi nội trong ba ngày sẽ xây dựng lại” (Mt 26, 61; Mc 14, 58); hai là tự xưng mình là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa (Mt 26, 63; Mc 14, 61). Trong Tin Mừng theo Lu-ca chỉ thấy nói nói đến tội danh thứ hai (Lc 22, 67).
Trong Tin Mừng theo Gio-an nói tới việc thượng tế hỏi Chúa Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của Người (Ga 18, 19). Họ tài tình khéo léo khi biến tội danh tôn giáo thành tội danh chính trị “Chúng tôi phát giác ra tên này xách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là vua nữa” (Lc 23, 2). Tội xúi giục nổi loạn, tội ngăn cản dân nộp thuế cho nhà vua, tội xưng mình là vua. Cả ba tội đều đáng chết, không một chính quyền nào có thể dung tha. Vụ án Chúa Giê-su rõ ràng là vụ án tôn giáo chứ không phải là một vụ án chính trị, mặc dầu hình thức xử tử và tội danh được ghi trên đầu Chúa Giê-su là như thế. Người bị đóng đinh, theo luật Rô-ma và với tội danh là “Vua dân Do-thái” chứ không bị ném đá theo luật Do-thái và với tội danh Con Thiên Chúa. Chủ mưu trong vụ án là dân Do-thái, nhất là những người lãnh đạo của họ, Thượng Hội Đồng. Họ đã thành công, sung sướng mãn nguyện khi dẹp yên một chướng ngại lớn lao.
4. Tổng Trấn Phi-la-tô
Vì hèn nhát mà Phi-la-tô đã đổ máu người vô tội. Trách nhiệm chính trong cuộc xét xử đứng về mặt pháp lý là Phi-la-tô, ông ta ý thức rõ điều đó (x. Ga 19, 10). Biết Chúa Giê-su vô tội mà vẫn kết án (x. Ga 18, 38; 19, 4.6). Kẻ đại diện cho công lý lại chà đạp công lý. Phi-la-tô hèn nhát không dám tha vì sợ quần chúng đang cuồng nộ. Lo sợ nguy hiểm cho chức quyền của mình nên chủ trương thà bảo vệ chức quyền hơn bảo vệ công lý. Trước áp lực ghê ghớm của đám đông đang bị hàng tư tế xách động, Phi-la-tô đã chiều theo ý họ để giữ lấy cái ghế Tổng Trấn của mình. Ong đã kết án tử hình cho Chúa Giê-su, trao Người cho dân Do thái điệu lên đồi Gôngôtha để đóng đinh. Phi-la-tô rữa tay phân bua mình vô tội trong vụ án này (Mt 27, 24).
5. Xin được sống yêu thương
Suy nghĩ về vài nhân vật, ít sự kiện trong cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, cũng đủ thấy con người hay thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen dễ như trở bàn tay. Vì tham lam, vì bổng lộc cá nhân, vì lợi lộc đảng phái, vì quyền lợi giai cấp, con người ta không từ một thủ đoạn nào. Có khi còn bán rẻ lương tri để mua một chút vinh hoa trần thế.
Giữa Chúa Nhật Lễ Lá và Thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của người tín hữu. Hôm nay hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế. Có thể ngày mai gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh nó vào thập giá. Hôm nay yêu thương, ngày mai oán ghét. Hôm nay hân hoan, ngày mai buồn sầu. Hôm nay hiền hòa, ngày mai hung dữ. Hôm nay tin tưởng, ngày mai hoài nghi. Danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài.
Cuộc sống có nhiều tiêu cực hơn tích cực? Con người làm khổ nhau nhiều hơn là làm đẹp lòng nhau? Người ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương? Tôn vinh Chúa ở trong Nhà Thờ nhưng có sống Tin Mừng trong cuộc đời không?
Chúa Giê-su bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án cách bất công để cứu nhân loại khỏi án phạt đời đời. Người đã chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội, để cứu độ con người. Người cho chúng ta được thông phần cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, cho chúng ta “được sống dồi dào”.
Con người được dựng nên để sống và sống để yêu Chúa và để yêu nhau. Thiên Chúa là tình yêu nên đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giê-su đã chấp nhận đau thương để đem lại yêu thương cho con người. Người đã biến đổi viên mãn của đau thương thành viên mãn của yêu thương qua cuộc khổ nạn (x. 1 Cr 15, 26. 54; Dt 2, 14), để từ trong cái chết vì tình yêu, sự sống vươn lên tươi đẹp như một mùa lúa mới (Ga 12, 24).
Xin Chúa cho chúng con luôn sống yêu thương, biết đem Tin Mừng bình an đi xây dựng cuộc đời.
50. Tình yêu thanh khiết
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá". Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu nổi bật lung linh trong mầu nhiệm đau thương và cứu độ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông, gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét...giữa nét đau khổ của hai tử tội, hận thù của đám đông là dung mạo Đấng Chịu Đóng Đinh hiền hòa chan chứa tình thương.
Tuần Thánh bắt đầu từ Chúa nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Khổ nạn, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó. Việc cử hành hôm nay với hai nhịp tương phản, mang hai sắc thái nghịch nhau: người Do thái tung hô Chúa Cứu Thế, ngập tràn tiếng reo vui, sau đó họ đòi lên án tử hình Người và cuộc thương khó đầy máu nước mắt.
Ôi nhân tình thế thái, sao mau đổi trắng thay đen!
Màu đen sự dữ, màu trắng tinh khôi bàng bạc trong bức tranh “ba thập giá” và cuộc thương khó.
1. Sắc đen sự dữ
Chìa khóa để đọc tất cả những sự vô lý, bất công, phi đạo đức trong vụ bắt và xét xử Chúa Giêsu là: quyền lực của tối tăm. Bốn sách Tin Mừng đều kể rằng Chúa Giêsu bị bắt ban đêm. Matthêu, Maccô và Gioan kể một đám người mang gươm giáo gậy gộc do các thượng tế, kỳ mục, Pharisêu sai đến. Thánh Luca lại nói có cả các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục ở trong bọn người mang gươm giáo gậy gộc. Trong đêm tối, đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì giới lãnh đạo cao nhất của dân Do thái đã hội họp tại nhà thủ lãnh của họ, sai thuộc hạ đi bắt Chúa Giêsu theo sự hướng dẫn của Giuđa, người môn đệ phản Thầy. Họ ngồi chờ để kết án ngay trong đêm.Phiên họp ban đêm này do chính Caipha, chủ tịch Thuợng Hội Đồng chủ sự. Thánh Matthêu kể: “Các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu để lên án tử hình” (Mt 26,59). Họ dùng chứng gian vu khống và xuyên tạc chụp mũ để kết án tử hình Đức Giêsu (Mt 26,60-61; Mc 14,59).
Trong bộ phim 12 giờ cuối cùng của Chúa Giêsu, nhà đạo diễn đã hoạ lại hình ảnh của đêm tối vườn Cây Dầu. Đó là đêm tối của đức tin và cũng là đêm tối của lòng người.
Bộ phim bắt đầu với cảnh Chúa Giêsu đưa các môn đệ lên núi cầu nguyện vào một đêm đen như bao đêm khác.Thế nhưng, đêm nay khác hẳn mọi đêm. Bóng tối của sự dữ phủ kín, bóng đêm của quyền lực Satan bao trùm. Đêm nay, bóng tối của sự dữ hoành hành. Đêm nay, quyền lực của Satan như muốn thống lãnh thế gian. Con người đã toa rập với Satan để giết hại Con Thiên Chúa. Đêm tối vườn Cây Dầu chỉ còn lại một mình Chúa cô đơn.
“Giuđa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các Thượng tế và nhóm Pharisiêu; họ mang theo đèn đuốc khí giới…” (Ga 18,3). Người ta phải sử dụng đèn, đuốc… chứng tỏ họ đang ở trong bóng tối. Họ sử dụng khí giới tức là tựa vào sức mạnh và quyền lực thế gian. Với những từ ngữ này, Thánh Gioan giới thiệu họ như là biểu tượng của sức mạnh thế gian và quyền lực bóng tối. Giữa bóng đêm của vườn Cây Dầu thấp thoáng những khuôn mặt hung tợn với gươm giáo gậy gộc, xâu xé tấm thân đơn độc của Chúa Giêsu. Bóng tối như tiếp tay cho những hành động lén lút, bắt giữ bất minh. Màn đêm đó cũng che kín lý trí của những người tham dự phiên tòa bóng tối. Tất cả mọi chứng cứ kết án đều nằm trong vòng tròn gian dối. Mọi sự vật lúc này như nhuốm một màu đen đồng lõa cho sự dữ. Màu đen của những tâm hồn đen tối che lấp luôn cả màu đen của bóng đêm âm u. Đây là đêm của hận thù. Đây là giờ của bóng tối. Đây là thời điểm của xấu xa ngự trị. Không ai còn có thể nhận ra được ánh sáng chân lý trong màu đen của ác tâm.
Và trong các giờ kế tiếp, bóng tối càng bao trùm. Chúa Giêsu càng lẻ loi cô độc hơn.
Kể từ khi Giuđa bước ra khỏi phòng Tiệc Ly thì trời tối đen. Giuđa lẩn vào bóng đêm với đôi tay đen đúa nhận lấy những đồng bạc là giá máu của Thầy mình. Thánh Gioan trình bày, Giuđa rõ ràng thực hiện công việc này dưới tác động của Satan. Khi Giuđa rời phòng Tiệc Ly, “lúc đó, trời đã tối” (Ga 13,30). Trời tối bên ngoài chưa quan trọng. Ở đây, trời tối trong tâm hồn Giuđa. Đối với Gioan, Giuđa trong hành động nộp Chúa Giêsu đã thật sự là hiện thân của quyền lực bóng tối, đối lại với Chúa Giêsu là ánh sáng tinh tuyền.
Giuđa khoác lên trái tim màu đen của tội lỗi qua nụ hôn phản bội.Từ đó, bóng tối của sự dữ đã bao trùm lên Thượng Hội Đồng từ Thượng tế Caipha đến các Luật sĩ và Kỳ mục. Bóng tối như đồng lõa và biện minh cho mọi âm mưu thâm độc của những người đại diện cho lề luật.
Những mảng đen được tô đậm lên trên bức tranh Tình Yêu Giêsu, không phải bằng những nét vẽ dịu dàng, những nét chấm phá đặc sắc nhưng là những vết màu ngoằn nghèo, vô lối. Tình Yêu Giêsu lúc này đang bị tàn phá theo từng vết đen xấu xa của đám đông. Bóng tối đã làm tất cả mờ ảo trong điên cuồng. Mọi âm mưu đã được trù tính cẩn mật. Mọi lý lẽ độc dữ đã được hoạch định. Mọi hành vi được thực hiện ngay trong bóng tối của thần chết. Cứ thế, từng mảng đen tội lỗi như được dịp trút hẳn xuống Đức Giêsu, như muốn nhuộm đen toàn bộ cuộc đời và tình yêu của Ngài bằng mọi cách và mọi phương tiện. Ngài bị cho là đồ mê ăn uống, là phường tội lỗi. Ngài bị liệt vào hàng trộm cướp, hàng nô lệ cùng đinh. Ngài bị xem là phường gian dối, tiên tri giả. Ngài bị kết án là quân nói lộng ngôn, phạm thượng. Ngài bị xử tử vì bị gán cho việc kích động phản loạn. Đám đông dân chúng, từ những tên đầy tớ mạt hạng đến những bậc vị vọng, từ những người quen biết đến cả khách thập phương không từ chối điều gì để bôi đen con người Đức Giêsu. Ngài đã bị nhúng xuống bùn nhơ của sự khinh miệt, phỉ báng. Ngài đã bị đày đọa tận cùng của kiếp làm người.(x. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin, trang 252-253).Tình Yêu Giêsu đã bị tội lỗi nhân loại nhuộm đen màu tăm tối. Cuộc đời Chúa Giêsu đã bị dã tâm con người hủy hoại trong bóng đêm của sự bêu riếu, sỉ nhục và cái chết trần trụi thương đau. Nào ai có thể tin vào con người tàn tạ như thế! Còn ai có thể trông cậy vào con người yếu đuối bất lực này!!!
2. Sắc trắng thanh khiết
Tưởng chừng như bức tranh cuộc đời của Đức Giêsu chỉ là một vệt đen khiếp đảm với những ẩn tình vô lối mà nhân loại áp đặt lên chân dung Ngài. Nhưng thật nhẹ nhàng và linh động, Tình Yêu Giêsu như ngọn bút tài hoa đã gợi mở những nét vẽ thật diễm tuyệt. Tình Yêu sáng lên một màu trắng tinh khôi và mênh mang huyền ảo của trái tim thanh khiết trao ban đến tận cùng.
Tình Yêu ấy không mang một chút bợn nhơ của hận thù chia cắt nhưng lóng lánh sắc màu hồng tươi của Tình Yêu phục hồi và giải thoát. Tình Yêu ấy chấp nhận tất, dâng hiến tất cả để xóa đi mặc cảm tội lỗi của con người, cho con người cái nhìn mới của Thần Khí, cái nhìn của Thiên Chúa trong một tổng thể toàn vẹn và đưa con người đến với Tình Yêu sung mãn tuyệt hảo của Thiên Chúa. (x.sđd trang 254-255).
Màu đen sắc tối của con người đã được Tình Yêu Giêsu làm cho trắng tinh và trả lại sự trong sáng trong Sự Thật. Ngài đã đáp trả lại tất cả mọi bất công và hận thù bằng lòng bao dung tha thứ. Khổ đau của Thập Giá Đức Kitô không bao giờ là nỗi đau của hận thù, oán ghét mà luôn mang dáng đứng của tình yêu và sự khoan dung tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Hơn thế nữa, Ngài công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa ngay trên thập giá, lúc mà thế trần nhìn thấy Ngài trần trụi và yếu đuối nhất, khi Ngài ôm trọn con người tội lỗi trần gian qua hình ảnh tên gian phi biết cúi mình nhận ra Chân Lý: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43). Đức Giêsu đã xóa màu đen ghê tởm của sự dữ trong lòng con người qua việc phục hồi giá trị của mỗi nhân vị và đưa nhân loại đến với Thiên Chúa qua Tình Yêu toàn tha của Ngài. Đức Giêsu đã dùng cạn hết mọi dấu chỉ của thế trần để biểu lộ Tình Yêu thâm sâu của Ngài cho chúng ta. Đó là màu trắng thanh khiết nhất và là ánh sáng đẹp nhất mà nhân trần này có thể chiêm ngưỡng.
3. Trắng đen trong lòng người.
Tiến bước theo Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người, thấy sự tráo trở thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen của nhân tình thế thái, chúng ta thấy bàng bạc một màu đen của những ý đồ xấu xa, những manh tâm gian ác và những hành vi tội lỗi thấp hèn và thấy sáng lên tình yêu thanh khiết của Đấng Cứu Độ.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những sắc tối của lòng người. Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những con người công chính, lương thiện lại là nạn nhân của bất công, gian dối và tham lam. Biết bao người đã để cho bóng tối của lòng tham nổi loạn đến nổi sẵn sàng chà đạp và lường gạt nhau. Biết bao người vì lòng tham, vì tính ghen tương đố kỵ,vì thói tự mãn kiêu căng vẫn đang tìm cách làm khổ nhau và làm hại đời nhau. Bao lâu lòng người còn chất chưa những ý đồ bất chính, những thủ đoạn lừa lọc, những ích kỷ nhỏ nhen, bấy lâu vẫn còn đó những con người lương thiện bị đe doạ, bị hành hạ và bị loại trừ.
Con người thời nay vẫn nhân danh hạnh phúc của riêng mình để kết án tử cho người khác, nhất là các thai nhi vô tội. Họ giết người vô tội không cần bản án, không cần thẩm phán hay quan toà. Tử tội thai nhi đã bị giết, chỉ vì một bà mẹ không muốn sinh con. Cả xã hội từ ông bà, cha mẹ, họ hàng và các người hành nghề lương y đã sẵn sàng giết chết sự sống của một sinh linh không có khả năng tự vệ. Biết bao cha mẹ đã viện ra nhiều lý do để loại trừ những đứa con của mình cách dửng dưng vô cảm.
Điều ác và sự thiện cũng chỉ là sự khác biệt của hành động rút gươm “hãy xỏ gươm vào bao, vì tất cả những ai dùng gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26,52). Khi tất cả mọi lưỡi gươm được cất vào vỏ, sự thiện và thiên đàng đang ở giữa lòng thế giới. Khi thanh gươm được rút khỏi bao, nhân loại đang đắm chìm trong hỏa ngục của chính mình. Con người luôn muốn hành xử tất cả theo lối quyền uy và bạo lực của bóng tối. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã dùng một phương cách kỳ lạ để cho con người thấy đâu là sự thật nhân loại cần hướng về. Qua Ngài, những cơn cuồng nộ của sự dữ, những bão táp của nhục hình, những tiếng thét hận thù như bị cuốn vào một lực hút vô hình của Tình Yêu thanh khiết. Sức của của tình yêu nơi Chúa Giêsu đã thâu tóm mọi sự xấu xa độc dữ của nhân loại và hóa giải tất cả để biến nên những giá trị mới của hiền lành, khiêm nhường và khoan dung.(x.sđd trang 258-260).
Chúa Giêsu không quỵ lụy, không riên xiết trong cuộc khổ nạn, nhưng Ngài luôn kiên cường và nhẫn nại để mời gọi và mở ra cho nhân loại một cái nhìn về chân lý, về tình yêu, về một Thiên Chúa yêu thương đến cùng. Chúa Giêsu không oán trách hay hận thù ai, Ngài vượt lên trên tất cả bằng tình thương tha thứ. Chúa Giêsu đã biểu lộ sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của niềm tin và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu đã làm mọi chia rẽ được hàn gắn, mọi hận thù được xóa bỏ và mọi xa cách được nên hiệp nhất. Chúa Giêsu đã hợp nhất nhân loại trong trái tim rộng mở của Ngài, trái tim chỉ có tình yêu thanh khiết. Ngài nâng con người lên giá trị cao hơn trong sự kết hiệp với tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Nguyên Tuyền.
Ánh Sáng Tình Yêu chính là Ánh Sáng Phục Sinh. Ánh Sáng ấy không làm mờ đi bóng cây thập giá nhưng lại mang một ý nghĩa và sắc màu huyền diệu lung linh. Tin và bước theo Chúa Giêsu, chúng ta được tháp nhập vào tình yêu thanh khiết của Ngài, nhờ đó cuộc sống luôn có niềm vui bình an và hạnh phúc. Thánh Gioan đã đi trọn cuộc khổ nạn cùng với Chúa Giêsu và đã viết những lời thật đẹp, thật ý vị về Tình Yêu Chúa Giêsu: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo”. (1Ga 4,10-12).
51. Sức mạnh của Thánh Giá
(Lm. GB. Nguyễn Minh Hùng)
Kể từ sau ngày 11.9.2001, hàng năm, ngày này trở thành ngày giỗ của trên 3.000 nạn nhân bị khủng bố giết hại tại tòa Tháp đôi Trung tâm Thương mại Quốc tế ở New York của Mỹ.
Ngày này cả nước Mỹ hướng về biến cố đau thương này, cử hành nghi thức tưởng niệm long trọng vừa như tưởng niệm các nạn nhân, vừa như nhắc nhau nhớ mãi sự kiện lịch sử nhói lòng bởi những bàn tay bất nhân, đêm ngày chỉ biết nhuộm máu đồng loại.
Có thể nói, từ ngày đó cho đến nay, người Mỹ giảm thiểu bình an. Dù rằng Mỹ rất mạnh về kinh tế, nỗi bậc về vũ khí và quân sự… dư sức đem quân đi đánh quốc gia của người khác, nhưng tại Mỹ, dân chúng vẫn thắp thỏm, hoang mang, bởi khủng bố có thể đe dọa bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu.
Bạn cứ nghĩ mà xem, con người ta sống mà cứ phải cảnh giác, cảnh giác, cảnh giác… thì bình an ở đâu. Thiếu vắng bình an sẽ là đau khổ, sẽ là sợ hãi, sẽ là tăm tối. Bình an không còn trong lòng người, không còn bảo đảm cho nơi mình phải sống, không còn là cứu cánh cho cuộc đời nhiều gai góc, chắc chắn cuộc sống sẽ khó khăn hơn, lòng người nhiều chao đảo, chới với hơn.
Có thể nói, hai tòa tháp đôi ấy là biểu tượng của nền văn minh hiện đại của nhân loại, biểu tượng của sự khôn ngoan, là sức mạnh vững vàng, là niềm kiêu hãnh của con người… Vậy mà chỉ trong nháy mắt, hai tòa tháp khổng lồ biến thành đống gạch vụn, vùi lấp trong lòng nó đến hơn 3.000 sinh mạng cùng biết bao nhiêu của cải khác.
Nói với bạn về biến cố 11.9.2001 trong những ngày tuần Thánh, những ngày đặc biệt tưởng nhớ Chúa Kitô Thánh Giá, tôi muốn làm một so sánh, chẳng phải lớn lao gì, nhưng đủ để thấy sức mạnh vạn năng của Tình yêu Thiên Chúa trong những gì tầm thường nhất, nhỏ bé nhất.
Cứ ngước nhìn Thánh Giá mà xem, bạn sẽ thấy ở đó một hình tượng thảm khốc: một người chết gục đầu, chết trần trụi, không đủ một tấm áo che thân; thân xác gắn chặt vào những chiếc đinh oan nghiệt; chết tức tưởi, chết ô nhục, thân xác thâm bầm đầy thương tích, lồng ngực mở rộng, trái tim bị đâm thủng, gai nhọn cài nát đầu, chết đơn độc treo giữa trời và đất…
Người đó là ai? Là Thiên Chúa làm người. Nhưng tất cả sao chỉ là là đau đớn ê chề. Tưởng chừng chỉ là thất bại?
Thánh Giá – đó là phương tiện của tội lỗi, phương tiện của sự chết, người ta dùng nó để giết người, và loài người dùng nó để giết chết Chúa của mình.
Bạn cứ nhìn và sẽ thấy, cây Thánh Giá thật là yếu ớt, mong manh, nhỏ bé.
Nhưng không: không thất bại! Không yếu ớt! Đối người tin, đó lại là sức mạnh lớn lao của tình yêu, của ơn cứu chuộc.
Từ một dụng cụ độc ác, đê hèn, loài người nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu biến nó thành dấu chứng của tình yêu lớn khôn cùng: tình yêu vâng phục đối với Chúa Cha, tình yêu dâng hiến cho nhân loại.
Nếu chỉ nhìn bằng ánh mắt phàm trần, so với công trình lớn lao của nhân loại, Thánh Giá có đáng gì đâu. Nhưng sức mạnh của Thánh Giá là sức mạnh ngàn đời.
Văn minh của loài người dẫu lớn đến đâu, niềm kiêu hãnh; sự khôn ngoan của họ dẫu mạnh cách mấy; những công trình trần thế dẫu có nguy nga, dẫu được coi là xây dựng vững vàng, nhưng chỉ một hành vi phá hoại mà thôi, tất cả tan biến như bọt biển. Chỉ có Thánh Giá Chúa Kitô mới muôn đời tồn tại.
Hay dẫu thế gian này có qua đi, dẫu cả loài người có tàn hơi, kiệt sức, hay nền khoa học hiện đại này được con người ca tụng là phát triển rực rỡ, một ngày nào đó cũng sẽ là tro bụi. Tất cả chỉ là tạm bợ, là hư nát. Chỉ có Thánh Giá được giương cao mãi mãi trên khắp thế giới, là cây gỗ duy nhất đáng để chúng ta tôn thờ.
Dẫu cho bất kỳ thời đại nào, con người có thù nghịch với Thánh Giá, Thánh Giá vẫn còn đó. Biết bao nhiêu lần trong lịch sử Hội Thánh và lịch sử nhân loại, người ta đã bắt bớ, bách hại Hội Thánh, cố tình đặt mối hận thù với Thánh Giá Chúa Kitô, Thánh Giá không vì thế mà mất đi, Hội Thánh không vì thế mà lụng bại.
Trái lại, Thánh Giá vẫn còn đó, muôn đời là dấu chứng của tình yêu, của lòng thương xót vô cùng mà Thiên Chúa dành cho loài người, và Hội Thánh của Chúa Kitô vẫn mãi mãi là dấu chỉ của ơn cứu độ, mà từ nơi Thánh Giá, Thiên Chúa ban cho trần gian.
Thánh Phaolô đã đúc kết những suy nghĩ của mình trong những dòng chữ ngắn gọn, nhưng đầy ý nghĩa:
“Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta, là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa…. Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Chúa Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ… Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr 1, 18- 25).
Do những lời trên của thánh Phaolô cho phép ta có quyền nói mạnh rằng: Thiên Chúa đã dùng chính cái mà con người cho là điên rồ, là yếu đuối để lật đổ chính sự không ngoan và mạnh mẽ của họ.
Thế mới hay: tất cả chỉ là tạm bợ, còn Thánh Giá Chúa Kitô được giương cao mãi mãi trên khắp thế giới. Thánh Giá, cây gỗ duy nhất mà muôn đời chúng ta tôn thờ.
Dẫu cho thời gian có qua đi, vạn vật có qua đi, thì Thánh Giá vẫn còn mãi như dấu chỉ và sức mạnh của tình yêu mà Thiên Chúa không ngừng yêu thương con người.
Ta hãy ngước nhìn Thánh Giá để biết ơn Thiên Chúa, và cảm tạ tình yêu lớn lao của Người. Vì “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 8, 16).
Chính tình yêu làm nên ơn cứu độ. Thiên Chúa yêu cho đến mức, ngay chính người Con Duy Nhất của mình, Người cũng chẳng tiếc, để tất cả được trao ban cho ta.
Yêu trần gian đến thế, cho nên mọi sáng kiến đều nhằm một mục đích duy nhất là chuộc trần gian về với mình: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 8, 17).
Bạn thân mến, để kết thúc những gì bạn và tôi vừa suy niệm, một lần nữa ta hãy ngước nhìn Thánh Giá và học nơi đó bài học của yêu thương và tha thứ, bài học lớn lao của sự chấp nhận và hy sinh – chấp nhận tan biến để mưu cầu lợi ích cho anh chị em và dám hy sinh để biết từ bỏ những gì cản trở ta vươn lên trong việc thực hiện yêu thương. Ngước nhìn Thánh Giá, bạn và tôi còn học nơi đó tất cả lòng khiêm nhu, khó nghèo, vâng phục… Và chính nơi Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm được sức mạnh và sự nâng đỡ để tiếp tục vác thập giá đời mình bước đi với Chúa Kitô trên con đường thương khó.
52. Tin tưởng hay thất vọng
(Lm Minh Nhiên)
Trong một lần nói chuyện, Đức Tổng giám mục Fulton Sheen chỉ vào thánh giá ngài đang đeo trên ngực rồi nói: "Thánh giá bạc mà tôi đang đeo đây, tôi đeo để đền tạ." Khi hỏi lý do, ngài trả lời: "Một hôm vào thăm một người bạn gốc Do thái bán đồ nữ trang ở Nữu Ước. Ông nói với tôi: "Tôi có một ít thánh giá bạc cho Đức Cha", và ông trao cho tôi một bao đựng khoảng hơn một trăm thánh giá. Tôi hỏi: "Ông kiếm được ở đâu nhiều vậy?" Ông trả lời: "Từ các nữ tu, họ mang đến và nói với tôi: "Chúng tôi không còn đeo tượng thánh giá nữa, vì chính những tượng này đã làm ngăn cách, chia rẽ chúng tôi với thế giới hôm nay. Ông trả cho chúng ta bao nhiêu tiền với số bạc này". Tôi cân và thấy nặng khoảng 30 miếng bạc". Rồi ông nói với tôi: "Tôi nghĩ rằng tượng thánh giá đã là một cái gì biểu hiệu quí giá đối với các Kitô hữu. Phải chăng có gì không ổn, có gì trục trặc với tôn giáo của Đức Cha?" (Through the Year with Fulton Sheen, trg 14-42).
Người ta bán tượng thánh giá và cho rằng thánh giá là căn cớ làm cho họ xa lạ với thế giới hôm nay. Giuđa đã bán Chúa và nộp Chúa bằng cái hôn của mình để lấy 30 đồng bạc. Ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay, người ta đã đang bán Chúa với những giá của khác nhau, và với những lý do khác nhau.
Ngày hôm xưa Phêrô chối Chúa qua những lời chất vấn của cô đầy tớ gái. Ngày hôm qua một số người đã chối đạo trước những hạch sách đe dọa của quan quyền, và ngày hôm nay với những lý do này hay lý lẽ nọ cũng đã khiến cho có những người chối Đức Kitô, không dám nhận mình là Kitô hữu.
Dù cho con người có yếu đuối sa ngã, Thiên Chúa vẫn luôn luôn yêư thương con người. Ánh mắt Chúa đã tìm, đã gặp, và đã cảm hóa được Phêrô, ánh mắt ấy cũng đã đi tìm Giuđa, nhưng không gặp được vì Giuđa thất vọng và lẩn tránh, dầu vậy chuyện kể rằng Chúa vẫn luôn hướng tìm và chờ đợi. Ngày tận thế đã đến, tất cả các thánh đều vui mừng ca hát, nhảy múa, reo hò trong hoan lạc sung sướng. Mọi người đều vui trừ một mình Chúa Giêsu. Ngài đứng yên lặng dưới bóng rợp cạnh cửa thiên đàng. Một vài vị thánh đến hỏi thăm xem Ngài đang làm gì thế. Ngài trả lời: "Cha đang đợi Giuđa".
Chắc hẳn trong đời sống nhiều lần chúng ta đã lam phiền lòng Chúa và thái độ của chúng ta có thể phần nào giống như của Phêrô hoặc Giuđa: ăn năn thống hối hay thất vọng buông xuôi. Hôm nay bắt đầu bước vào tuần trọng nhất trong năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta đừng nhẫn tâm xa tránh ánh nhìn đầy ắp yêu đương của Chúa, nhưng hãy thật tình trở về, khiêm nhượng xin ơn tha thứ, và tin cậy vào tình Chúa thương yêu.
53. Con đường tình yêu
(Lm Kiều Công Tùng)
Nghi thức tuần thánh khởi đầu bằng một cuộc kiệu Lá để tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Một cuộc kiệu tưng bừng tiếng tung hô: "Hoan hô thái tử nhà Đavít! Chúc tụng Vua Israel", nhưng lại nhuốm buồn vì liền ngay sau đó chúng ta được nghe trình thuật về cuộc thương khó của Chúa. Trong suốt Tuần Thánh này, có ba cuộc kiệu như thế. Hai cuộc kiệu còn lại vào chiều thứ Năm tuần thánh - kiệu Mình Thánh Chúa, và Đêm Vọng Phục Sinh - kiệu Nến Phục Sinh. Những cuộc kiệu trong khung cảnh cuộc thương khó vừa mở ra trước mặt chúng ta một con đường, vừa như là một nhắc nhớ: đằng sau buồn thương có niềm vui cứu độ, qua khổ nạn sẽ là Phục Sinh.
Đường đưa tới vinh quang
Bài thương khó theo thánh Mátthêu đã gợi lên những hình ảnh xem ra hoàn toàn trái ngược với cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem. Thật vậy, việc Chúa được dân chúng tung hô đón rước khi Ngài vào thành thánh chỉ là hình ảnh báo trước vinh quang đích thực Ngài sẽ nhận được khi Chúa Cha cho Ngài sống lại từ cõi chết. Nhưng để được vinh quang ấy, Đức Giêsu phải đi vào con đường khổ nạn, phải tự hiến mình làm hy lễ dâng lên đẹp lòng Cha.
Rất nhiều lần chiêm ngắm bức ảnh Chúa hấp hối, chúng ta thấy được gì phía sau hình ảnh một Chúa Giêsu đẹp đẽ uy nghi quì gối bên một phiến đá dưới ánh trăng vàng đầy thơ mộng? Chúng ta có nhận thấy một Đức Kitô đang gập mình xuống đất, oằn oại trong cơn khủng hoảng vượt quá sức mình? Chúng ta có hiểu được lời Ngài thổ lộ với các môn đệ: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được" (Mt 26, 38) và cả tiếng kêu thống thiết trên thập giá: "Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mt 27, 46).
Nỗi đắng cay như vây kín và xiết chặt lấy Ngài, đắng cay của người bị bạn mình phản bội, của Thầy bị môn đệ chối từ và bỏ rơi, của Đấng cứu tinh bị dân mình loại trừ. Tất cả đều do sự ích kỷ, lòng kiêu căng và nỗi tham vọng của con người. Thân xác Chúa khổ sầu đến nỗi mồ hôi máu đổ ra và tâm hồn Ngài gần như tan nát không phải vì những roi đòn và nhục mạ, nhưng chính là gánh nặng của tội lỗi nhân loại. "Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta" (Is 53, 4).
Qua khổ nạn mới đến Phục Sinh. Đó chính là chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhờ đó Chúa Cha và Chúa Con được tôn vinh. Còn trong thực tế cuộc sống, có nhiều người lại muốn đạt đến vinh quang bằng những con đường ngắn nhất và dễ nhất. Cuối cùng, những gì mà họ có được chỉ là hư ảo, tầm thường nhất và cũng mau qua nhất.
Đường nở hoa tình yêu
Đức Giêsu chịu chết khổ hình nhằm cứu chuộc nhân loại và cũng để tôn vinh Thiên Chúa Cha. Nhiều khi ta tự hỏi: có cần phải như thế với một Thiên Chúa quyền năng? Hẳn rằng điều làm cho Hiến Lễ Thập Giá của Đức Giêsu trở nên có giá trị và đem lại ơn Cứu Độ không phải là đau khổ hay sự chết, mà là tâm tình vâng phục trong yêu mến đối với Chúa Cha; nhưng chính đau khổ và Thập Giá lại là cách thế diễn tả tâm tình đó thật tuyệt vời.
Sự vâng phục yêu mến của Đức Giêsu đã được Isaia báo trước qua hình ảnh người tôi trung: "Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui" (Is 50, 5). Còn thánh Phao-lô đã ca ngợi: "Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2, 7-8). Lời cầu nguyện của Đức Giêsu thưa với Chúa Cha trong vườn cây Dầu đã nói lên tất cả sự vâng phục yêu mến: "Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha" (Mt 26, 42).
Con Thiên Chúa đâu có lạ gì với những đau khổ của phận người khi bước vào trần gian. Đứng trước con đường khổ nạn, Ngài không hỏi tại sao cũng chẳng buông lời nguyền rủa, nhưng Ngài đã bước đi và đi tới cùng với tất cả tình yêu, tình yêu thật lớn lao dành cho Cha và nhân loại, và lập tức bao nhiêu đau khổ kia trở nên ý nghĩa. Con đường Thập Giá bỗng nở hoa rộn ràng. Cây Thánh Giá đã trở nên lộng lẫy với vương miện tình yêu. Qua đó, Đức Giêsu cũng dạy cho con người một bí quyết để sống hạnh phúc, để có hòa bình: Tình yêu và tha thứ.
Như thế, con đường mà Phụng Vụ Tuần Thánh đang mở ra cho chúng ta chẳng phải là "con đường có lá me bay, chiều chiều ta lại cầm tay nhau về", nhưng là con đường đã in dấu chân, đã thấm mồ hôi và đã mang cả trái tim của Thầy Giêsu - Con Đường Thập Giá.
Cùng Chúa ta lên đường
Lời Chúa hôm nay muốn đưa chúng ta vào mầu nhiệm thánh giá của Đức Giêsu không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó khăn gì. Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Pascal đã nói: "Chúa Giêsu sẽ còn hấp hối đến tận thế". Mỗi năm có hàng triệu thai nhi bị loại khỏi lòng mẹ một cách bất công. Và còn bao nhiêu người đang ở trong điều kiện sống chẳng xứng với phẩm giá của mình. Đó chính là Đức Kitô đang hấp hối giữa thế giới hiện đại. Chúng ta vẫn gặp những Kitô hữu đang bị lo lắng, buồn rầu, ấm ức... dày vò nghiền nát. Đó chính là Đức Kitô đang hấp hối trong nhiệm thể Ngài. Và chính đời sống chúng ta nhiều khi cũng nhuốm phiền muộn, bất an, lo sợ, nghi ngại và xáo trộn. Nếu ta biết đón nhận với lòng khiêm tốn và tình yêu để cứu rỗi thế gian thì trong ta, Đức Kitô cũng đang tiếp tục hấp hối và thân thưa với Chúa Cha rằng: "Xin đừng theo ý con, nhưng xin vâng ý Cha hoàn toàn".
Đã hơn 2000 năm rồi, tất cả những gì đã xảy ra dường như vẫn đang còn diễn lại. Chúng ta vẫn đang cùng Đức Giêsu đi vào đời và ở trong đời với lý tưởng cứu thế. Chớ gì lời Đức Giêsu mời gọi: "Hãy vác thập giá mình hằng ngày" (Lc 9, 23) luôn vang vọng bên tai chúng ta mỗi khi phải đối mặt với thử thách hay khi bị lăng nhục nhạo cười... Sau khi đã hiểu thấu ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa, hẳn chúng ta sẽ thấy yêu Thánh Giá của Chúa hơn, và cũng mến Thánh Giá của mình hơn, đồng thời biết kính trọng Thánh Giá của người khác nữa.
Chiêm ngắm Đức Giêsu chịu Thương Khó, có lẽ mỗi người chúng ta đều rất sốt sắng với lời hát: "Ôi bởi con mà Chúa mang thảm hình... Xin giúp con đường thiêng liêng theo lối..." Chớ gì chúng ta luôn có được tâm tình của Đức Giêsu hôm nay, để hân hoan tiến bước vào đời tiếp tục con đường nên Thánh và cứu thế của Ngài, Con Đường Tình Yêu dẫn tới Giêrusalem Thiên Quốc.
54. Hình ảnh người tôi tớ Chúa
(Lm. Nguyễn Tiến Huân)
Bài thương khó Chúa Giêsu Kitô chúng ta đọc hôm nay tóm tắt những biến cố từ lúc Người ăn bữa Tiệc Ly từ giã các môn đệ tối thứ Năm cho tới khi Người bị chôn trong mồ chiều thứ Sáu. Quãng thời gian chỉ một ngày một đêm đã dồn dập xẩy ra không biết bao nhiêu đau khổ cho Chúa Giêsu: Bị Giuđa bán đứng: "Giuđa Iscariot đến gặp các Thượng tế và thưa với họ: các ông cho tôi bao nhiêu tiền, tôi sẽ nộp Người cho các ông... Giuđa kẻ phản bội cũng đến thưa Chúa Giêsu rằng: Thưa Thầy có phải con chăng và Người đáp: Đúng như con nói" (Mt 26:14-15,25).
Thấy tội lỗi thiên hạ quá nặng nề, Người lo buồn tới hấp hối: "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được..." (c. 38). Người lo buồn sầu não mà các Môn đệ thân yêu chẳng ai yên ủi còn lăn ra ngủ như những kẻ vô tình (c. 40,43). Giuđa dẫn quân lính đến bắt Người còn giả vờ mỉa mai hôn mặt để nộp Người (c47-49). Nguời bị bắt như kẻ trộm cướp: "Các ngươi cầm gậy gộc gươm giáo đi bắt Ta như bắt một tên trộm cướp ư?" (c. 55). Người để cho họ bắt, còn các Môn đệ thì bỏ Người và chạy trốn hết (c 56). Sau đó nộp cho Caipha rồi Philato, bị cáo gian, bị vu khống là nói những lời lộng ngôn "bị chúng nhổ vào mặt, bị đấm đánh, bị tát vả" (c.57-67). Bị chính người Môn đệ lão thành và thân cận nhất là Phêrô chối bỏ 3 lần (c 61-74). Bị coi rẻ hơn là tên tướng cướp Baraba (c.16,20). Bị đánh đòn, bị đội mão gai, bị chế giễu nhạo báng (c. 26,30). Cuối cùng bị vác thánh giá chịu đóng đinh và chịu chết trần truồng trên Thánh Giá giữa hai tên trộm cướp (c. 32-36).
Chúa Giêsu đã tự nguyện và yên lặng chịu tất cả những sĩ nhục đau khổ ấy đúng như Tiên tri Isaia đã tiên báo về "Người tôi tớ Chúa": Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đưa má cho kẻ giật râu tôi, đã không che giấu mặt để tránh những lời nhạo cười và phỉ nhổ tôi... tôi trơ mặt chai như đá" (Is 50:5-7).
Và đúng như Thánh vịnh 21 diễn tả: "Bao người thấy tôi đều mỉa mai tôi... Đứng quanh tôi là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy tôi. Chân tay tôi chúng đều chọc thủng, tôi có thể đến được mọi đốt xương tôi... Chúng đem y phục của tôi chia nhau còn tấm áo dài thì chúng rút thăm" (Tv 21). Với một kiểu nói khác, thánh Phaolô tóm tắt về Người: "Người đã hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người... đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá " (Pl 2:6-9).
Người chết, nhưng không phải là đã hết vì cái chết của Người là chìa khóa mở ra một kỷ nguyên mới của ơn Cứu độ, của sự sống lại và chiến thắng vinh quanh. Người chết đi nhưng ngày thứ 3 Nguời đã sống lại như chính Người đã tuyến bố lúc còn sinh thời: "Ta chết đi nhưng sau ba ngày Ta sẽ sống lại".
Sau tất cả những đau khổ và cái chết ô nhục, Người đã chiến thắng tội lỗi và sự chết để khi về Trời, Người được "Thiên Chúa Cha tôn vinh và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên Trời dưới đất và trong địa ngục phải quì gối xuống và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsus Kitô là Chúa" (Pl 2:10-11). "Thiên Chúa tôn Người làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết... Tất cả những ai tin vào Người thì nhờ danh Người mà được Cứu độ" (Tđcv 10:42).
Đó là hình ảnh Chúa Giêsu Kitô, Người tôi tớ Chúa mà chúng ta sẽ suy ngắm trong tuần nầy.
55. Chú giải của Noel Quession.
CUỘC KHỔ NẠN (Mt 26,14 -27,66)
Trong khi viết câu truyện về Cuộc Khổ Nạn, Matthêu trước hết không thực hiện một bài phóng sự, hay một biên niên xử án, về hai mươi bốn giờ sau cùng của Đức Giêsu. Ông thực hiện một giải thích thần học về một biến cố chính yếu. Khi ông biên soạn, thì ông biết rằng người chịu khổ hình thập giá là người được sống lại. Ông nêu ra, trong truyện kể nhiều trích dẫn Kinh Thánh để chứng minh rằng Thiên Chúa hướng dẫn tất cả lịch sử ông không tìm cách làm cho chúng ta xúc động, nhưng làm cho chúng ta thờ phượng: chịu biết bao tủi hổ Đức Giêsu vẫn là Đức Chúa uy nghi và chủ tể là người làm chủ các biến cố.
Ngày thứ nhất trong Tuần Bánh không men, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: 'Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?" Người bảo: "Các anh đi vào thành đến nhà một người kia và nói với ông ấy: Thầy nhắn, thời của Thầy đã gần đến. Thầy sẽ đến nhà ông ấy để ăn mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy."
Cuộc giáo đầu thật trang trọng. Sự thấy trước thuộc về Thiên tính của Đức Giêsu được nhấn mạnh: "thời giờ của Thầy đã gần" Người biết rằng điều gì đang đến; đó là Lễ Vượt Qua. Cuộc đi qua.
Tính vô danh của ngôi nhà này, ngôi nhà của một ai đó, mời chúng ta trở nên "người đó". Đức Giêsu ước ao ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của Người.
“Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy" "Có phải con không, Thưa Thầy?" "Chính anh là người đã nói điều đó."
Đức Giêsu không phán đoán, không kết án: Chính anh là người đã nói điều đó. Người có tội tự chỉ mình. Đức Kitô chỉ khiến người ta trở về với lương tâm mình. Hai lần khác chúng ta sẽ nghe từ miệng Chúa nói ra câu này: Chính anh là nói đã nói điêu ấy; về chuyện thượng tế (Mt 26,64), và về Philatô (Mt 27,11). Mỗi người phải nhận lấy trách nhiệm của mình. Bạn phải thấy, bạn phải nhận lấy trách nhiệm của mình. Bạn phải thấy, bạn phải quyết định! Điều đó được nhắc lại cho chúng ta.
Trong bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: ‘Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy’. Rồi Người lấy chén, dâng lời tạ ơn trao cho môn đệ và nói: ‘Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội’. Thầy bảo cho anh em biết: từ nay Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy.
Đức Giêsu hoàn toàn biết Người sắp chết: đó là bữa ăn cuối cùng của Người; ly rượu tình bạn hữu cuối cùng, Người nói: Thầy không còn uống thứ sản phẩm của cây nho này nữa. Thế mà cái chết gần kề này lại không gây nên nơi Người một tình cảm hồi hộp hay sợ hãi nào; Người chúc tụng Cha, cảm tạ. Người “cử hành lễ Thánh Thể", Người cám ơn Cha. Tại sao? Trong khoảnh khắc này, nội dung của lời cảm tạ này là gì? Những tiếng được nhấn mạnh trong câu Đức Giêsu thốt ra cho chúng ta đối tượng của lời khen ngợi này, lời được phát ra từ cõi lòng Người vào giờ phút cô đọng ngoại lệ này, và cũng chính là lời, trong các nghi thức Thánh Thể Chúa nhật, mãi mãi được thực hiện. Đức Giêsu cảm tạ vì Giao ước kỳ diệu giữa Thiên Chúa và loài người; vì sự phong nhiêu trong cái chết của Người sẽ cứu giải nhiều người; vì sự tha tội mà thập giá của người tác động; vì sự hoàn tất của Nước Chúa, một ngày kia, trong ánh sáng của Thiên Chúa, khi sẽ không còn nước mắt, kêu khóc và tang chế.
Tiệc Thánh Thể, chính là bữa ăn của những người tội lỗi, chính là sự thứ tha được dành cho mọi người. Đức Giêsu biết rằng tất cả mọi người đều là những tội nhân (tất cả họ sắp bỏ Người trong ít phút nữa, ngay sau lễ hiệp thông đầu tiên của họ). Đức Giêsu biết rằng cộng đoàn Giáo Hội của Người gồm có những đàn ông và đàn bà không trung tín, một tập đoàn những tội nhâ, thực như thế. Các Kitô hữu không phải là những người tốt hơn những người khác, họ chỉ có một cơ may duy nhất, là đến dùng bữa ăn và lễ hiến tế được dâng lên để tha tội, để tha thứ tội lỗi của họ.
Hát Thánh Vịnh xong, Đức Giêsu và các môn đệ ra đi lên núi Ôliu.
Bằng tình yêu có lẽ chúng ta phải hát Thánh Vịnh, những bài Thánh ca được linh ứng mà chính Đức Giêsu đã hát: chiều tối hôm ấy, tôi nghe thấy tiếng thật hay của Người đang hát; và tôi ngâm nga lập lại những tiếng Ngài đã hát. Giờ lệnh Thánh Vịnh, chính là lời cầu nguyện của Đức Giêsu.
Đức Giêsu nói với các ông: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy... Nội đêm nay, gà chưa gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần."
Tất cả những ai theo Đức Giêsu đều được thử thách. Thử thách đặc biệt của các môn đệ Đức Giêsu, chính là thử thách về Đức Tin ngã xuống, vấp té trên những đau khổ của Đức Kitô. Chính ông Phêrô, cho dù vai trò của ông và sự vững vàng của ông, không thoát khỏi thử thách này.
Đức Giêsu đi cùng với các ông một thửa đất tên là Ghết-sê-ma-ni. Người nói với các môn đệ: “Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện". Rồi Người đưa ông Phêrô và hai người con ông Zêbêđê đi theo. Người cảm thấy buồn rầu xao xuyến. Bấy giờ Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy " Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống đất mà cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha."
Cơn hấp hối của Đức Giêsu tại Vườn Ôliu chỉ là lời nguyện lâu dài; theo Thánh Matthêu. Năm lần, người nói lên tiếng: cầu nguyện. Đức Giêsu hấp hối đang lúc cầu nguyện. Đức Giêsu hấp hối trong lúc sống kết hợp mãnh liệt với Cha Người. Nhưng vì thế, Đức Giêsu cũng sống cơn hấp hối với những thân thuộc của Người: ba lần Người trở lại với họ để mời họ cùng cầu nguyện với Người, canh thức với Người (Mt 26,36; 88,40).
Khi đó Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai đã đến… cùng với đám đông người mang theo gươm giáo gậy gộc... "Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi"... Anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần. Nhưng như thế thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được? Vì theo đó mọi sự phải xảy ra như vậy."
Và Matthêu đã đan dệt chuyện ông kể bằng những đoạn trưng dẫn Kinh Thánh. Không, cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu không phải là một tai nạn lịch sử bất hạnh. Đó là hoàn tất một dự tính huyền nhiệm của Thiên Chúa, đã được tiên liệu và lưu ý từ lâu. Thiên Chúa không bị bất ngờ bởi thập giá. Chính Người đã muốn và đã quyết định như thế. Người sẽ không phái các cơ binh thiên thần đi, người cũng không cần đến phép lạ. Như thế, làm sao chúng ta có thể nghĩ rằng tất cả mọi chuyện có thể phải diễn ra một cách khác trong cuộc đời chúng ta. Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống những thử thách của chúng con, những bó buộc chúng con, ngõ hầu chúng con tuân phục một cách tự do ý chí nhiệm mầu của Chúa Cha. Đấng không ngừng yêu thương chúng con; không ngừng yêu mến Con của Người trên thập giá; Đấng chịu đau khổ với Người, Đấng Cứu Độ cùng với Người.
Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà trốn đi hết. Họ bắt Đức Giêsu rồi điệu đến thượng tế Caipha. Các kinh sư và kỳ mục tề tựu sẵn ở đó.
Phêrô theo xa xa, và bước vào trong sàn để xem sự việc kết thúc thế nào. Những nhân chứng gian trá cáo giác Đức Giêsu đã nói rằng Người có thể phá huỷ Đền Thờ và xây lại trong ba ngày.
Nhưng Đức Giê sư vẫn làm thinh. Vị thượng tế nói với Người: "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết ông có phải là Đức Kitô Con Thiên Chúa không?” Đức Giêsu trả lời: "Chính Ngài vừa nói. Hơn nữa tôi nói cho các ông hay: từ nay, ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến..”
Vâng đấy vẫn là một câu trích dẫn Kinh Thánh. Người ta trịnh trọng khẩn khoản xin Người đừng nhận căn tính của mình, Đức Giêsu đã dùng một câu trích từ ngôn sứ Đanien (7,13) để trả lời. Người nhận mình là Đấng Mêsia được người ta trông đợi, nhưng Người cũng làm cho người ta cảm thấy rằng Người không phải là Mêsia theo các chuẩn mực của các phán quan về Người: chính trong tư thế của người bị cáo tử hình, mà Người dám tuyên bố rằng từ nay trở đi sự hiện tỏ của người, sự Quang lâm của Người gần đến. Chính khi đó xảy đến việc Phêrô chối Chúa và ông đã sám hối. Rồi đến việc Giua tuyệt vọng; sắp tự treo cổ vì lòng hối hận khi thấy Đức Giêsu bị kết án, và anh thú nhận: "Tôi đã phạm tội giao nộp một người vô tội cho cái chết." Giuđa thật đáng thương! Đức Giêsu có lẽ đã quá tốt với anh, nếu anh đã biết khóc lóc thảm thiết, như Phêrô đáng thương. Huyền nhiệm tự do của con người, có thể tự nhận mình có tội, và đó là một điều trọng đại khi nói được tôi đã phạm tội; nhưng cũng có thể tuyệt vọng, nghĩa là không tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Sau vụ kiện thứ nhất về tôn giáo, trước thượng tế Caipha và Thượng Hội Đồng. Bây giờ là vụ kiện thứ hai, về dân sự, trước viên tổng trấn Roma là Philatô. Khác với các nhà chức trách Do Thái, viên chức ngoại giáo này, đã làm mọi cách để cứu Đức Giêsu: ông ta cố thả Đức Giêsu bằng cách đánh đổi một tù nhân khác, là Baraba.
Người vợ của Philatô đến biện hộ với chồng bà để ông ta không nhúng tay vào cái chết này.
Sau cùng, Philatô rửa tay, để có ý nói rằng ông ta không chịu trách nhiệm về tội ác (của giới lãnh đạo tôn giáo).
Thực sự trong chính cơn tuyệt vọng không làm cho Đức Giêsu miễn tố mà viên tổng trấn cuối cùng phải thuận theo những tiếng kêu gào của đám đông. Trong cuộc Khổ Nạn, chính Đức Giêsu là trung tâm điểm. Dầu vậy cũng cần phải lưu ý về những danh hiệu được người ta đặt cho Người. Bốn mươi lần, người đã được gọi tên Giêsu. Như muốn nói cho chúng ta, vào thời điểm đặc biệt này, ý nghĩa theo nguyên tự của tiếng này (Yeshoua, tiếng Do Thái) và đó cũng là tên mà các thiên thần đã đặt ngay từ đầu: Thiên Chúa Cứu Độ (Mt 1,23). Và về sau, người ta cũng đặt tên Người bằng danh hiệu Con Thiên Chúa (Mt 26,63; 27,40-43.54) và hai tiếng “Cha Tôi" có tác dụng nhấn mạnh đến sự hiệp thông trọn vẹn với ý muốn của Thiên Chúa, tức là tập trung ý nghĩa vào Cuộc Thụ Nạn.
Sau hết, nạn nhân bị nhạo báng bởi con người lại được chào bằng "Đức Chúa" (Mt 26,22). Và Đức Giêsu, thực sự, không ngừng hành xử theo phẩm giá thần thánh này. Người biết, Người ra lệnh, Người thống trị hoàn toàn các biến cố (Mt 26,10.19.25.50.52.54). Matthêu, muốn gợi cho chúng ta thấy sự vĩ đại khôn tả của Đấng chịu đau khổ và chết, đã khiến xảy ra một hiện tượng địa chấn, cuộc động đất, và nhấn mạnh đến chiều kích vũ trụ của sự cố diễn ra (Mt 27,51-54). Ba lần khác, ông xử dụng từ địa chấn này (Mt 8,24; 21,10; 28,2). Khi nghe đọc về cuộc khổ nạn khi suy niệm một cách cá nhân, ta đừng nên chỉ dừng lại mức độ nhạy cảm và đau khổ của con người mà thôi. Ta hãy để cho tâm tình thờ phượng và cảm tạ hồng ân cuốn hút chính ta đi nữa!
56. Người tôi tớ khổ đau của Giavê
(‘Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Trong một ngôi nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một thập giá cổ được giáo hữu rất tôn sùng. Đó là tượng thập giá tha tội, tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh có cánh tay phải rời khỏi thập giá và hạ thấp xuống. Người ta có kể rằng dưới chân cây thánh giá này, có một người tội lỗi đến với cha xứ. Tuy ông xưng thú mọi tội lỗi với lòng thống hối ăn năn, cha giải tội lưỡng lự không biết có nên tha cho ông không, vì thấy ông phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm nghị bảo ông: "Tôi ban phép giải tội cho ông nhưng mà trong tương lai thì phải để ý". Ông ta hứa với cha xứ là sẽ cố gắng sửa mình và tránh mọi tội lỗi. Nhưng vì yếu đuối quá, sau một thời gian ông lại tìm đến xưng tội, Lần này thì cha xứ nói với ông giọng quả quyết: "Tôi ban phép giải tội cho ông lần này nữa là lần cuối cùng đó nghe". Vài tháng trôi qua, ông lại tìm đến cha xứ và quỳ xuống chân cha năn nỉ: "Thưa cha, con thống hối đến tận đáy tâm lòng. Lần nào con cãng nhất quyết giữ lời hứa, nhưng con yếu đuối quá, xin cha tha tội cho con một lần nữa". Cha xứ đáp: "Đâu có thể đùa giỡn với Chúa được. Tôi không ban phép giải tội cho ông nữa". Khi đó cha nghe có tiếng nấc nghẹn ngào. Từ trên thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu hạ xuống làm phép tha tội trên đầu người tín hữu thống hối. Rồi Chúa Giêsu nói với vị linh mục: "Chính Cha đã đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ không phải con". Và cũng từ ngày ấy, bàn tay của Chúa Giêsu chịu đóng đinh ở trong tư thế ban phép xá giải.
"Chính Cha đã đổ máu ra để cứu chuộc con". Lời ấy chính Chúa Giêsu đã nói với mỗi người trong chúng ta trong Tuần Thánh, với biến cố Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem, để sau đó vài ngày chịu đóng đinh và chết trên thập giá, hầu trao ban sự sống mới cho chúng ta.
Chương 50,4-7, sách ngôn sứ Isaia là một trong bốn bài ca miêu tả người tôi tớ của Giavê Thiên Chúa. Trong tuyền thống Kitô, người tôi tớ Giavê là danh hiệu ám chỉ người hiến hoàn toàn cuộc sống mình để phụng sự Thiên Chúa và Lời Ngài, luôn kiếm tìm thi hành ý của Thiên Chúa cho dù có phải chịu đau khổ và bắt bớ đi nữa. Do đó trong lịch sử chú giải Kinh Thánh, khi thì người tôi tớ đó được đồng hóa với ngôn sứ Isaia, khi thì là Giêrêmia, khi khác nữa lại là Đấng Cứu Thế toàn dân Israel. Tuy nhiên, các chương sách Isaia II, tức các chương từ 40-55, đề cập đến cảnh sống lưu đày bên Babylon của dân Israel, do đó có thể bài ca này ám chỉ cách sống đày ải khổ đau của dân Do Thái. Để miêu tả cảnh khổ đau này, bài ca trên đây dùng kiểu nói diễn tả nỗi khổ nhục thê thảm của kiếp sống lưu đày: Đưa lưng cho người ta đánh đòn, ám chỉ hình phạt dành cho người ngu dại bị coi như đồng hạng với thú vật; giơ má cho người ta vặt râu, ám chỉ đến danh dự và lột mất phẩm giá của một người; chường mặt cho người ta phỉ nhổ, ám chỉ mọi hành động xúc phạm và khinh rẻ phẩm giá của một người cũng như sự sống của một người. Tất cả cảnh sống trên đây diễn tả cảnh sống nhục nhã, bị khinh miệt và khổ đau dân Do Thái phải chịu trong thời lưu đày.
Tuy nhiên trong tình trạng sống buồn thương ấy, dân Do Thái vẫn ý thức được sự can thiệp của Thiên Chúa. Bởi vì thực ra, chỉ có Thiên Chúa là có thể biến đổi được tình trạng sống khổ đau ấy trở thành suối nguồn trao ban ơn cứu độ cho họ. Qua đau khổ, Thiên Chúa giáo dục cho con người biết sống thái độ sẵn sàng đón nhận thánh ý Ngài. Khi chấp nhận sống lưu đày, dân Israel chấp nhận tự thanh tẩy chính mình khỏi mọi bất trung và tội lỗi đã sai phạm. Họ cảm nghiệm được sâu xa hơn Thiên Chúa là Đấng hướng dẫn và dùng mọi biến cố lịch sử để làm ích lợi cho con người.
Trong thời Tân Ước, người tôi tớ khổ đau ấy là hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế chịu khổ nạn và đóng đinh. Thánh Giá xem ra là dấu chỉ của ơn cứu độ và ơn thánh Ngài ban cho con người. Khi tuyệt đối trung thành với thánh gia, chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, đến sẵn sàng chấp nhận khổ đau và cái chết khổ nhục trên thánh giá. Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị cứu độ của khổ đau.
Trong chương 2,6-11 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô dùng tước hiệu người tôi tớ ấy để nói về Chúa Kitô. Khi nhập thể làm người, Chúa Kitô đã đi ngược lại lộ trình mà Ađam đã đi xưa kia. Nếu Ađam là hình ảnh diễn tả toàn nhân loại đã từ chối địa vị thụ tạo của mình và muốn trở thành Thiên Chúa, nên phá hủy chương trình Thiên Chúa có đối với loài người trong thời tạo dựng. Thì giờ đây, từ địa vị Thiên Chúa, Đức Giêsu hạ mình làm người, chấp nhận khổ nhục y như một tên nô lệ, một người tôi tớ để trao ban cho loài người cuộc sống hạnh phúc thần thiêng. Con đường Thiên Chúa đi là đại lộ kinh hoàng, là con đường của khổ đau và thập giá, là con đường của khiêm hạ và thất bại. Nhưng nó là con lộ duy nhất dẫn đến ơn cứu độ.
Thật vậy, thánh giá khổ nhục và khiêm hạ đánh đổ được kiêu căng tội lỗi đã khiến con người xa rời Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình. Nhưng con đường khiêm hạ được Thiên Chúa can thiệp và đảm bảo với biến cố Phục sinh. Thiên Chúa đã đặt để Chúa Kitô, Ađam mới trong chốn vinh quang, trong nơi danh dự mà Ađam loài người xưa kia đã không đạt tới được. Nội dung con đường trao ban ơn cứu độ ấy được ghi lại trong trình thuật của bốn Phúc Âm, nó là phần nòng cốt được biên soạn ra trước tiên và sau này được các thánh sử khai triển theo hướng thần học riêng của mình.
Trong chương 22,14-23,56 thánh Luca trình bày cuộc khổ nạn như một trận chiến quyết liệt cuối cùng của Satan, như là phần kết thúc các cám dỗ nó đã khởi sự trước khi Chúa Giêsu công khai loan báo Tin Mừng Nước Trời. Kết thúc trình thuật ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu trong sa mạc, thánh Luca viết trong chương 4,13: "ma quỷ rời bỏ Ngài để trở lại vào thời điểm đã định". Cuộc khổ nạn là thời điểm Satan trở lại để lại vào giao đấu với Chúa Giêsu lần cuối cùng. Ngoài ra, trong nhãn quan thần học của thánh sử Luca, cuộc khổ nạn cũng ghi lại chặng cuối cùng, đồng thời là đạt đỉnh con đường loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu khởi đầu từ Galilê và kết thúc tại Giêrusalem.
Cuộc khổ nạn cũng là lúc diễn tả rõ rệt nhất các nét đặc thù trong gương mặt của Chúa Giêsu. Theo thánh sử Luca, trước hết là tinh thần cầu nguyện. Chúa Giêsu đã gia tăng lời cầu nguyện trong những ngày và những giây phút cuối đời của Ngài. Lời cầu hấp hối kéo dài trong vườn cây Dầu trước khi Chúa Giêsu bị bắt là chứng tích rõ ràng nhất. Càng phải đương đầu với thử thách bắt bớ và khổ đau, Chúa Giêsu càng tín thác tha thiết kết hợp với Thiên Chúa Cha cho dù Ngài có cảm tưởng Thiên Chúa làm thinh và cũng đã bỏ rơi Ngài.
Tiếp đến là lòng nhân từ thương xót của Chúa Giêsu Kitô đối với những người tội lỗi. Chúa Giêsu thương chữa tên đầy tớ thầy thượng phẩm bị chém đứt tai. Nhân từ thương xót với thánh Phêrô đã chối Ngài ba lần, Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô nhân từ, thương xót. Đối với những người đã đóng đinh Ngài: "Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm". Nhân từ thương xót với người ăn trộm bị xử cùng lúc với Ngài: "Hôm nay ngươi sẽ ở cùng Ta trên Thiên Đàng".
Sau cùng thánh sử Luca nêu bật thái độ vâng lời triệt để của Chúa Giêsu đối với thánh ý của Thiên Chúa Cha. Theo thánh sử, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không do con người muốn, mà nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Thánh Luca chỉ qui tội cho giới lãnh đạo Do Thái mà thôi, ngay cả quan tổng trấn Philatô cũng được thánh sử châm chước. Nghĩa là theo quan điểm thần học, Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ do Thiên Chúa Cha hoạch định, do đó cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá là điểm tới thành toàn. Chúa Giêsu phải chết không phải do một định mệnh dã man và khắt khe, cũng không phải do quyết định của một người trần gian nào khác, vì Ngài muốn tuân hành thánh ý và chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Chương trình cứu độ ấy được thành toàn trên thập giá và qua cái chết hiến dâng đền tội của Chúa Giêsu Kitô, người tôi tớ khổ đau của Giavê Thiên Chúa.
57. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
VẪN CÒN ĐÓ SỰ MÂU THUẪN QUA CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA ĐỨC GIÊSU
Hôm nay, Giáo Hội hoàn vũ cử hành long trọng biến cố Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để khởi đầu cuộc thương khó. Trên hành trình ấy có các môn đệ, những người phụ nữ đã theo Ngài từ lâu, và cả những người đã từng chịu ơn hoặc vì hiếu kỳ cùng đi theo Ngài.
Cuộc vào thành của Đức Giêsu lần này cũng như các diễn biến trước và sau đó có nhiều điều lạ thường. Thật vậy, trong cuộc đời sứ vụ, từ lời nói đến hành động của Ngài nhiều khi hàm chứa những sự mâu thuẫn đối với cuộc sống và con người đương thời, cho nên họ không thể hiểu được, và vì thế, dẫn đến cái chết của Đức Giêsu.
1. Sự mâu thuẫn từ phía Đức Giêsu
Người ta thường nói: “Mâu thuẫn thì có thể sẽ làm sáng tỏ chân lý tốt”. Thật vậy, trong công cuộc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nhiều lần nói đến sự mâu thuẫn này.
Trước tiên, về những lời dạy mang tính mâu thuẫn: ví dụ như khi nói về sự tự hủy, Ngài đã dùng hình ảnh hạt lúa mục nát để sinh bông hạt mới; hay “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (x. Ga 12, 24-25); về sự khiêm nhường, Ngài phán: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14, 11); khi đi dự tiệc, hãy chọn chỗ rốt hết, để được người ta mời lên chỗ danh dự (x. Lc 14, 7-10); vì “ Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52); về sự hối cải, Ngài nói: cả triều thần Thiên Quốc “... ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15, 7); về sự từ bỏ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).
Tiếp theo, Đức Giêsu đã nói và áp dụng sự mâu thuẫn đó vào chính mình như sau: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại" (Lc 9, 22); “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12, 32); và Ngài đã sống sự mâu thuẫn ấy khi dân chúng tôn mình làm vua thì lại bỏ chốn và khi dân chúng không tôn thì lại vào thành như vị vua; rồi lạ lùng trong tiến trình “đăng quang”: Ngài là Vua, tiến vào thành của mình, nhưng lại khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con vẫn còn theo mẹ (x. Dc 9,9). Là Vua, nhưng không có vương miện, chỉ có vòng gai; không có vương trượng, chỉ có cây sậy; không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhuốc nhơ; không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê; không thống trị bằng sức mạnh, chỉ có phục vụ trong yêu thương cho đến chết và chết trên thập giá vì yêu.
Như vậy, những sự mâu thuẫn đến lạ lùng của Đức Giêsu đều nhằm làm toát lên sự vâng lời tuyệt đối của Ngài với Thiên Chúa Cha và vì yêu thương, cứu độ con người. Cả cuộc đời, con người và sứ vụ của Đức Giêsu đều muốn lộ hiện một Thiên Chúa là Tình Yêu.
2. Sự mâu thuẫn từ phía dân chúng
Ở đời có câu: "Dò sông dò biển dễ dò - Mấy ai lấy thước mà đo lòng người". Thật vậy, trong cuộc sống, có những mối tương quan tình bạn, và sẵn sàng "rau cháo có nhau " đấy, tuy nhiên, đôi khi cũng chính vì miếng cơm manh áo, con người dễ quay lưng lại với nhau lắm. Đây là những chuyện mâu thuẫn trong cuộc sống. Khi nói về sự mâu thuẫn này, chúng ta lần dở lại lịch sử dân Dothái khi xưa, để thấy lòng họ mâu thuẫn với hành động là thế nào!
Khi sống bên Aicập, ngày đêm họ cầu khấn danh Đức Chúa, xin Người đến cứu họ khỏi ách nô lệ tủi nhục cơ cùng, Đức Chúa nhận lời và đã cho Môisê dẫn dân ra khỏi Aicập thoát khỏi cảnh áp bức bạo tàn. Nhưng chẳng bao lâu, sự mâu thuẫn cũng đã xảy ra. Khi gặp có chút thử thách, họ đã than trách Chúa, và nhớ những củ hành, củ tỏi bên Aicập, tệ hơn nữa, đã đúc bò vàng để thờ lạy thay Đức Chúa, Đấng đã cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Đây chính là sự mâu thuẫn do sự bất trung của dân với Đức Chúa.
Sang thời Đức Giêsu cũng vậy, trong giai đoạn này, những người Dothái đã chứng kiến các phép lạ của Đức Giêsu làm, nào là chữa lành bệnh tật, trừ quỷ, cho người chết sống lại, và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng... Vì thế, họ tâm phục Đức Giêsu, nên khi vào thành, dân chúng đã tung hô Ngài là con vua Đavít, là Vua Israel. Và như là sự tất yếu, họ đã chặt cành lá lót đường và trải áo mình để Đức Giêsu đi qua. Hành vi này là hành vi tôn kính, ngưỡng mộ của người Đông Phương đối với một ai đó. Đức Giêsu thuộc về số người được như vậy. Cuộc diễu hành rầm rộ làm náo lòng những nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị thời bấy giờ. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn bề ngoài, thì ta sẽ dễ dàng kết luận là đám dân đang tung hô Đức Giêsu đây có lòng yêu mến Ngài thực sự. Nhưng sự thật không hẳn như thế, chẳng bao lâu, họ đã mâu thuẫn với tất cả những gì diễn ra hôm Đức Giêsu vào thành. Thật vậy, vẫn những người đã tôn vinh, chúc tụng Đức Giêsu hôm nào, thì chẳng bao lâu sau, họ đã toa dập với thế lực sự ác để làm chứng gian hại Ngài và hô vang: hắn đáng chết; đóng đinh nó vào thập giá...
Sự thật đã rõ, họ cung chúc Đức Giêsu chỉ vì hy vọng Ngài làm Vua để thống lãnh theo kiểu trần gian, đánh đông dẹp bắc, giải thoát họ khỏi ách thống trị của Đế Quốc và nhiều khi theo Chúa chỉ vì cái bụng, vì những ân huệ, bổng lộc thức thời... Và, họ đã bị thất bại khi không được Đức Giêsu đáp ứng những yêu sách đó, vì thế, họ đã sẵn sàng giơ tay ủng hộ án tử nơi Đức Giêsu và chìa tay, nghiêng đầu để hứng lấy máu người vô tội đổ trên đầu mình khi nói: "Máu hắn đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!" (Mt 27,25). Lý do dẫn họ đến sự thất vọng là vì sự mâu thuẫn của họ do tham sân si thúc đẩy, còn sự mâu thuẫn của Đức Giêsu thì do lòng bao dung, hướng tha và dùng chính cái chết để cứu chuộc con người, vì thế, con đường cứu độ của Ngài không là gì khác ngoài thập giá và cái chết đau thương trên đồi Golgotha. Đây là sự mâu thuẫn lòng dân với con người và sứ vụ của Đức Giêsu.
3. Hai sự mâu thuẫn dẫn đến hệ quả khác nhau
Như vậy, sự mâu thuẫn của Đức Giêsu là vì tình yêu. Ngài yêu Thiên Chúa Cha tuyệt đối, nên đã vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Những lời dạy của Đức Giêsu có vẻ mâu thuẫn về lối hành văn, truyền thống, nhưng lại thống nhất tuyệt đối về bề ngoài lẫn bề trong nơi con người của Ngài.
Đức Giêsu chính là hình ảnh của Ađam thủa nào, nhưng khác nhau ở chỗ Đức Giêsu, Ađam mới thì vâng lời, trung thành, còn Ađam cũ thì bội ước và bất trung.
Sự mâu thuẫn trong lời giảng dạy, lối sống và hành động của Đức Giêsu thể hiện rõ nét sự khiêm nhường, tự hạ, yêu thương và cứu chuộc con người.
Như vậy, mâu thuẫn nơi Đức Giêsu làm cho con người được kết hiệp mật thiết hơn với Thiên Chúa và tha nhân để đạt được tình trạng tự do và hạnh phúc thực sự khi đã loại trừ cái tôi ích kỷ, tự phụ, kiêu căng để hướng tha.
Còn sự mâu thuẫn của những người Do thái thì hoàn toàn khác:
Khác là chỉ vì cái bụng của họ, do ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo hay những mục đích tầm thường rẻ tiền.
Vì thế, họ tôn vinh Thiên Chúa hay Đức Giêsu cũng chỉ vì cái bụng. Hoặc chỉ vì danh vọng, chức quyền, lợi nhuận cá nhân hay tập thể, chứ không phải vì yêu mến, tin tưởng, phó thác.
Sự mâu thuẫn này nơi dân Do thái lộ hiện rõ bản chất thực dụng hay ý đồ đen tối của họ. Vì thế, dẫn đến sự đối đầu. Đức Giêsu không đối đầu với họ, nhưng tự họ trở nên bất ổn nên dẫn đến hệ quả là khước từ Thiên Chúa để thờ bò vàng, rồi đến lượt Đức Giêsu, họ tìm cách loại Ngài ra khỏi môi trường và cuộc sống của họ.
4. Người kitô hữu sống sự mâu thuẫn của Tin Mừng
Ngày hôm nay, chúng ta đang sống trong một xã hội không mấy chân thực. Đời sống đạo đức bị đảo lộn rất nhiều. Phong tục tập quán tốt dần dần được thay thế bằng những trào lưu tục hóa, nhất thời... Đây chính là sự mâu thuẫn luân thường đạo lý trong xã hội.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn còn đó trong xã hội những chuyện: “chân lý thuộc về kẻ mạnh”; vẫn còn đó những chuyện thỏa hiệp, toa rập để cho hận thù, chia rẽ lên ngôi; vẫn còn đó những chuyện vì miếng cơm manh áo, vì lợi nhuận cá nhân, củng cố chức quyền mà sẵn sàng bất chấp bán rẻ lương tâm để cho lương tháng được nhiều. Những người có lương tri và đạo hạnh lại là mối đe dọa của sự bất công, suy đồi và gian dối. Biết nó là sự dữ, nhưng vẫn còn đó những lương tâm trai lỳ, những trái tim hóa đá, những ánh mắt bất công, khinh thị...Vẫn còn đó sự mâu thuẫn là ai cũng muốn sống, nhưng lại không thương tiếc tra tay vào việc giết đi sự sống của người khác, nhất là những thai nhi vô tội.
Nếu chúng ta thuộc về những thành phần như thế, ấy là lúc chúng ta làm cho những vết thương của Đức Giêsu tiếp tục rỉ máu, và cuộc thương khó của Đức Giêsu không ngừng tái diễn, khiến Chúa phải đau khổ, tủi nhục đắng cay và ngay cả cái chết qua những hành vi, lựa chọn sai lầm và tàn nhẫn của con người.
Hôm nay, chúng ta bước vào Tuần Thánh, là đỉnh cao của năm phụng vụ, đây là cơ hội để mỗi người rà soát lại lương tâm và sự lựa chọn của mình trong cuộc sống, nhằm sống sao cho đẹp lòng Chúa, ích lợi cho phần rỗi của mình và vì ơn cứu độ của tha nhân.
Vì thế, xin gửi lại nơi bạn và tôi một vài câu hỏi để chúng ta cùng nhau suy nghĩ:
- Tôi đang đi theo ai? Theo Chúa hay theo những mục đích thực dụng như tiền, quyền, tình?
- Khi tôi có quyền, có chức, tôi có phục vụ và làm cho người khác được hạnh phúc hay tôi lợi dụng vị trí cao của tôi để bóc lột, trà đạp nhân phẩm người khác?
- Đứng trước một việc tốt hay xấu, ta có để cho Lương Tâm lên tiếng và làm theo, hay chỉ vì miếng cơm manh áo, chỉ vì sức ép lương tháng mà ta phủi tay với việc tốt và thượng tôn điều bất chính, sẵn sàng làm chứng gian hại người, đẩy người khác vào con đường cùng và ngay cả cái chết do mù lương tri?
Khi đặt ra câu hỏi như thế, mặc cho mỗi chúng ta lự chọn đứng về phía thiện hay ác, nhưng chỉ mong mỗi người chúng ta hiểu rằng: chúng ta có thể đánh lận con đen, che đậy và ngụy trang để người đời không biết những sự khuất tất của chúng ta làm, nhưng Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự kín nhiệm, Ngài biết rất rõ mọi hành vi của chúng ta, và điều tốt hay xấu, hạnh phúc hay ngược lại là do cuộc sống và hành vi của chúng ta đã làm.
58. Từ thập giá tủi nhục đến Thánh Giá vinh quang!
(Lm Nguyễn Hài Đồng)
Trong Ngày Chúa chết, Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, một hình dáng xù xì, khẳng khiu, vươn cao lên, xòe rộng ra, bao phủ lấy chúng ta: đó là Cây Thánh Giá của Chúa Giêsu Kitô.
Cây thập giá và Cây Thánh Giá khác nhau một trời một vực! Cây thập giá là do lòng hận thù của con người nghĩ ra, còn Cây Thánh Giá là do sáng kiến cứu chuộc của tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi chúng ta.
Cây thập giá là hai miếng gổ gồ ghề, nặng nề, trần trụi, bắt chéo vào nhau như hình chữ Thập, dùng làm hình khổ rùng rợn để giết người một cách rất dã man, do người ngoại giáo độc ác bày ra để hành hạ và giết chết một cách vô cùng tàn nhẩn những ai họ cho là phạm tội ghê gớm, những kẻ nô lệ vô phước nằm trong tay họ, những ai bị họ đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Cây thập giá nầy đã được Chúa Giêsu, cách đây hơn 2000 năm, vác lên Núi Sọ và bị đóng đinh chết vào đó.
Nhưng lạ lùng thay!
Kể từ ngày Chúa Giêsu của chúng ta giăng tay chịu đóng đinh chết trên cây thập giá nầy, thì cây thập giá nầy được trở thành Cây Thánh Giá huy hoàng, rực rỡ và vô cùng cao trọng.
Đây là một hiện tượng lạ lùng trên trần gian nầy, hiện tượng mà loài người không thể nào cắt nghĩa được, nếu không được cắt nghĩa bằng Đức Tin.
Trước, thì cây thập giá quá đen tối, quá kinh tởm, quá tủi nhục, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại quá sáng chói, quá hấp dẫn, quá vinh quang!
Trước, thì cây thập giá chỉ có mặt nơi tử địa, nơi pháp trường, nơi chỗ đê hèn nhục nhã, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được đặt khắp nơi, được đặt nơi trang trọng nhất, được đặt trên đỉnh núi cao nhất, được đặt dưới lòng biển sâu nhất.
Trước, thì cây thập giá bị chối từ, bị nhờm gớm, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được mang nơi ngực, được đeo nơi cổ, được hôn kính dấu yêu.
Trước, thì cây thập giá chỉ được làm bằng gỗ sần sù lởm chởm, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được làm bằng vàng, bằng bạc, bằng những thứ kim loại đắt giá nhất thế giới.
Vì sao người Công Giáo dành cho Cây Thánh Giá một địa vị vô cùng đặc biệt như thế?
Vì sao người Công Giáo dành cho Cây Thánh Giá địa vị ngang hàng như Thiên Chúa vậy?
Vì trên Cây Thánh Giá, có Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm Người, vì yêu thương loài người quá bội, nên đã nộp mình chịu đóng đinh chết trên đó để cho loài người được sống, được sống hạnh phúc chân thật, và được sống như vậy một cách dồi dào.
Trên Cây Thánh Giá, Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã nếm chịu muôn vàn đau khổ ê chề: đau khổ bên ngoài: bị lột hết áo quần ra, không một mãnh vải che thân...; đau khổ thể xác: từ trên đỉnh đầu cho đến dưới bàn chân, chẳng chỗ nào là chẳng xể xài rách nát, cùng bày xương ra...; đau khổ tinh thần: bị sỉ nhục, bị bỏ vạ, bị cáo gian, bị chửi rủa thậm tệ...; đau khổ tâm hồn: thấy trước đủ mọi thứ tội lỗi tầy trời do con người phạm, thấy trước đủ mọi thứ vong ân bội nghĩa phát xuất từ con người...; đau khổ tình cảm: thấy những người thân yêu của mình, nhất là Mẹ mình, đang đứng dưới chân mà không làm gì được cho Mẹ thân yêu.
Nhưng dù ngụp lặn giữa đau khổ, Chúa Giêsu trên Cây Thánh Giá vẫn tỏ ra vô cùng nhẩn nhục, đầy lòng tha thứ, vui lòng chịu khổ để làm trọn Thánh Ý Chúa Cha và để tỏ lòng yêu thương loài người một cách đặc biệt.
Trên Cây Thánh Giá, Chúa Giêsu là Đấng vô tội, nhưng đã bị vu cáo; là Đấng Công Chính, nhưng đã bị kết án; là Đấng vô cùng thánh thiện, nhưng đã bị đày ải;
là Vua trên trời dưới đất, nhưng đã bị hành hạ nhục nhã, bị đóng đinh chết tất tưởi;
là Con Thiên Chúa toàn năng, nhưng đã bị thóa mạ, bị dày đạp, bị từ chối; là Ánh Sáng, nhưng đã bị tối tăm vây phủ; là Đấng vô cùng cao sang, nhưng đã bị trần truồng nhuốc hổ, treo mình chết trên hai miếng gỗ; là Sự Sống, nhưng đã phải trút hơi thở cuối cùng; là Sự Chết, nhưng cũng là sự Sống Lại.
Vì thế, thánh Gioan Kim Khẩu ca tụng Cây Thánh Giá hết lời: Cây Thánh Giá là hy vọng của người kitô-hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù, là cây gậy cho người què, là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ, là sự kềm hãm những kẻ giàu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng ma quỷ, là kẻ chỉ đạo cho người thanh niên, là bánh lái cho những người vượt sóng, là cửa biển cho những kẻ đi xa, là thành lũy cho những kẻ bị vây hãm.
Trong kinh A RẤT THÁNH GIÁ, chúng ta sung sướng kính mừng Cây Rất Thánh Giá là Cây đã chuộc muôn dân đặng rỗi, là Cây cho kẻ có phước đặng phần vui mừng, là Cây cho kẻ có tội đặng lòng trông cậy, là Cây cho kẻ yếu đuối đặng nhờ sức mạnh, là Cây cho kẻ khốn nạn đặng sự an lành, là Cây tốt lành rất mực, diềm dà im mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình, là Cây đưa chúng ta qua khỏi gian nan đến Nước Thiên Đàng.
Cây Thánh Giá tóm lược tất cả những tín điều vô cùng cao siêu của Đạo chúng ta: tín điều Một Thiên Chúa, tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi vô cùng sâu thẳm, tín điều Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, Nhập Thể, nhập thế, tín điều Cứu Chuộc!
Cây Thánh Giá dạy chúng ta nhiều bài học tín lý và luân lý:
Hình thẳng của Cây Thánh Giá: dạy chúng ta mến Chúa.
Hình ngang của Cây Thánh Giá: dạy chúng ta yêu người.
Tay Chúa Giêsu giăng ra: dạy chúng ta ôm lấy tất cả mọi người, không xua trừ ai; tha thứ tất cả mọi xúc phạm lớn nhỏ, không trừ xúc phạm nào.
Tay Chúa Giêsu bị đóng đinh: đền những tội tay chúng ta thường phạm, là biếng nhác, cắp trộm, tức giận, dâm ô; treo cao gương cho chúng ta sống cầu nguyện, siêng năng làm việc, yêu thương giúp đỡ, rộng rãi bố thí.
Chân Chúa Giêsu bị đóng đinh: đền những tội chân chúng ta thường phạm, là đi vô ích, đi có hại, đi phạm tội; treo cao gương cho chúng ta đi Nhà Thờ, đi học giáo lý, đi làm việc đạo đức, đi làm việc bổn phận, đi làm việc hữu ích, đi làm việc bác ái, yêu thích nơi gia đình mình đang ở, yêu thích nơi cộng đoàn mình đang sống.
Tim Chúa Giêsu bị đâm thủng: dạy chúng ta lo diệt lửa dục tình, lo thắp sáng lửa nhiệt thành làm việc tông đồ, lo yêu mến Phép Thánh Thể, yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu, đừng sống bạc nghĩa vô ơn đối với Chúa hằng yêu thương loài người chúng ta vô bờ vô bến.
Bốn cây đinh đóng Chúa Giêsu vào Cây Thánh Giá: dạy chúng ta lo xa lánh bốn điều đưa chúng ta đi trên con đường tội lỗi, là thói quen xấu, lui tới dịp tội, ao ước thỏa mãn dục vọng, sợ dư luận; dạy chúng ta lo tập bốn điều đưa chúng ta đi trên con đường nhân đức, là thói quen tốt, chu toàn các việc bổn phận của mình, hy sinh hãm mình, can đảm trước dư luận.
Thánh Casimirô, mỗi lần có dịp nhìn lên Cây Thánh Giá, thì quá cảm động, nước mắt trào tuôn!
Hãy đặt Cây Thánh Giá trong nhà bạn, trong phòng bạn.
Hãy đeo Cây Thánh Giá nơi ngực bạn, nơi cổ bạn.
Hãy làm Dấu Thánh Giá cho thật nghiêm trang, sốt sắng.
Hãy năng nhìn lên Chúa Giêsu trên Cây Thánh Giá.
Và nhất là, hãy luôn mang Thánh Giá trong lòng bạn, trong tâm hồn bạn!
59. Con Vua Đavít – Mt 26,14 - 27, 66
Hôm nay mỗi người cầm nhành lá trên tay đi kiệu là biểu dương vinh quang của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem như một vị vua. Nhiều người giơ cao nhành lá và tung hô vạn tuế Đức Vua. Số khác còn nhiệt tình cởi áo lót đường cho vua Giêsu tiến vào. Nhưng một điều rất lạ: Đức Vua đi vào thành trên lưng lừa chứ không phải là một tuấn mã oai phong. Đón mừng Ngài chỉ có đám đông môn đệ và dân chúng, chứ tuyệt nhiên không có ai trong giới lãnh đạo Do thái. Những người này có đó, nhưng không phải để đón mừng mà để bắt bẻ. Tất cả các dấu này đang báo trước một cuộc Thương khó Chúa Giêsu sắp phải trải qua.
Cuộc thương khó Chúa Giêsu nhắc lại cho ta những đê hèn tội ác mà con người đã gây ra. Chúng ta nhớ lại sự hèn nhát của các môn đệ: Họ đã bỏ Ngài ngay những lúc Ngài cần có họ ở bên cạnh. Chúng ta nhớ lại lòng dạ xấu xa của những nhà lãnh đạo Do thái: Họ đã tìm mọi cách để vu khống và giết Chúa Giêsu. Chúng ta cũng nhớ lại sự hung dữ củ những người lính: Họ đã hành hạ Ngài cách tàn nhẫn. Chúng ta phải nhớ lại những điều ấy vì chúng có liên quan với chúng ta.
Tuy nhiên, đó không phải là mục đích chính bài thương Khó. Điều mà tác giả Tin mừng muốn nhắc đến chính là tấm lòng của Chúa Giêsu. Điều mà chúng ta phải nhớ nhiều nhất đó là sự trung thành và lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã lãnh lấy tất cả tội lỗi con người vào chính thân mình Ngài. Ngài đã dùng cái chết trên thập giá để đền thay cho tất cả.
Bài đọc I, sách Isaia đã cho ta thấy hình ảnh Người tôi tớ Thiên Chúa thật đau khổ. Người tôi tớ này không bao giờ cưỡng lại Thiên Chúa. Trái lại, luôn lắng nghe lời Ngài và làm theo ý Ngài. Người tôi tớ này không bao giờ chống lại sự áp bức của người khác. Người tôi tớ này đặt trọn niềm trông cậy vào Thiên Chúa. Mặc dù bản thân chịu đau khổ, Người tôi tớ lại tìm cách nâng đỡ những người đang chịu khổ đau. Hình ảnh Người tôi tớ đau khổ này đã được hoạ lại nơi con người Chúa Giêsu.
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu không phải là một màn kịch nhưng là một sự thật. Ngài đã chịu rất nhiều đau khổ trong thân xác và trong tinh thần. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Những người Do thái cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài. Các binh sĩ La mã đã hành hung, đánh đập Ngài và cuối cùng treo Ngài trên Thập giá. Một hình phạt đau đớn nhất và sỉ nhục nhất. Nhưng tất cả những đau khổ ấy Ngài đã tự nguyện gánh chịu vì tội lỗi chúng ta và vì yêu ta. Chúng ta đã tuyên xưng rằng "vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta" nghĩa là chính tội lỗi chúng ta mà Chúa Giêsu đã bị treo trên thập giá. Tội lỗi chúng ta ngày nay là một lời chối bỏ, một tiếng reo hò, một sự sĩ vả hay một cái đinh đóng sâu vào thân thể của Chúa.
Nhìn lên thập giá ta thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thập giá ta còn thấy tình yêu của Thiên Chúa đang bao trùm lên cả nhân loại. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhận thấy tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu không hề có một điều kiện, một tình yêu vượt lên mọi tiêu chuẩn phán đoán của con người. Tất cả chỉ nhằm đáp ứng khát vọng hạnh phúc của con người. Vì thế, khi nhìn lên thánh giá, không phải để ta thất vọng về những gánh nặng của tội lỗi vươn mang mà trái lại, để tâm hồn thêm phấn khởi và tin yêu hơn, vì Thiên Chúa luôn yêu thương và tha thứ cho con người.
Nhìn bề ngoài thì xem ra cái chết của Chúa Giêsu là một thất bại hoàn toàn. Nhưng thực ra đó là một chiến thắng: Sự thiện đã chiến thắng sự dữ, tình yêu chiến thắng hận thù, ánh sáng sự thật đẩy lùi bóng tối bất công. Chúa Giêsu, Người đã chết thay cho mọi người, Người chịu mọi đau khổ chỉ để con người được sống và sống hạnh phúc.
Tưởng niệm cuộc thương khó Chúa Giêsu, chúng ta nhìn ra hậu quả đáng ghét do tội lỗi con người gây ra đồng thời giúp ta cảm nếm tình yêu tự hiến của Con Thiên Chúa. Chính Chúa đã chết vì tội chúng ta và Chúa vẫn còn tiếp tục chết trên thánh giá để tha thứ tội lỗi mỗi người. Ta hãy tin tưởng nơi tình yêu tha thứ của Thiên Chúa và sẵn sàng chạy đến Ngài để được thứ tha.
60. Vào thành Giêrusalem - Mt 26,14 - 27,66
Phúc cho Đấng nhân danh Chúa mà đến
Anh chị em thân mến,
Hôm nay là chúa nhật Lễ Lá. Nhìn vào khung cảnh của ngày lễ này, ta thấy hai điễm hoàn toàn trái nghịch nhau; một là cuộc kiệu Chúa vinh quang vào thành Giêrusalem. Hai là câu chuyện bài Thương khó diễn tả về cuộc Khổ nạn của Chúa, ngày thứ Sáu tới; câu chuyện đầy ảm đạm pha màu vô cùng tang tóc... Hai khung cảnh hoàn toàn trái ngược nhau... Vậy đâu là ý nghĩa mà Hội Thánh muốn ta tìm hiểu trong ngày lễ Lá hôm nay? Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/ Xin được kể một câu chuyện: Winston Churchill, Thủ Tướng nước Anh, sau một lần diển thuyết có cả chục ngàn người tham dự, một người bạn thân hồ hởi đến bên ông và nói: này Thủ Tướng, ông có sung sướng vì cả mười ngàn người hoan hô trong cuộc diển thuyết này không? W. Churchill bình tỉnh trả lời: "không, tôi không vui sướng vì chuyện đó đâu, vì khi tôi bị treo cổ, sẽ có cả trăm ngàn người đến coi tôi mà chê bai đả đảo..."
Đúng như lời ông thủ Tướng Anh nói, Chúa Giêsu trong ngày lễ Lá được đón rước long trọng chừng nào, thì ngày thứ Sáu Thánh, lại có nhiều người đả đảo còn nhiều hơn nữa. Người ta thường nói: Tổng thống nước nào được đón rước long trọng, thì đến khi bị hạ bệ, ông sẽ có nhiều người đả đảo hơn nữa...Phần Chúa Giêsu, dĩ nhiên chúng ta biết, không phải hết toàn bộ những người lãnh đạo Do thái đều lên án giết Chúa, chỉ có một nhóm quá khích nhỏ mà thôi. Tuy nhiên câu chuyện ngày lễ Lá hôm nay có hai điễm gần như trái nghịch nhau. Đây là điều mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày lễ hôm nay...
b/ Câu hỏi đầu tiên: Chúa Giêsu rất khiêm tốn, và thường hay tránh không để người ta tôn vinh mình, vậy tại sao trong ngày lễ Lá, Chúa để họ đón rước vào thành Giêrusalem long trọng như thế?
Thực ra câu trả lời không khó. Thứ 1: Ở đây, Chúa Giêsu muốn hoàn thành mọi việc theo Thánh Ý Chúa Cha. Dĩ nhiên Chúa chẳng ham vinh quang trần gian, vì Chúa biết trước ngày Thứ Sáu tới, chính họ sẽ lên án giết Chúa. Thứ 2: Chúa để cho dân chúng đón rước, chính là muốn làm trọn lời ngôn sứ hầu chứng minh Người là Vua, là ngôn sứ đích thật; chính Người mở cuộc khải hoàn vinh quang vào Thiên quốc, cho Người và cho nhân loại, qua con đường đau khổ và phục sinh nơi chính bản thân Chúa.
Câu hỏi thứ hai: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên khi chịu khổ nạn, Chúa vẫn có thể làm cho mình chịu roi đòn, nhưng không đau đớn, vì Chúa là Thiên Chúa nên Người muốn điều gì mà không được?
Hỏi như thế có nghĩa là những đau khổ của Cuộc khổ nạn trong thân xác Chúa là giả tạo, vậy nếu tất cả là giả tạo thì làm gì chúng ta được ơn cứu rổi? Hơn nữa, nơi Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu là Sự Thật, là Chân Thiện Mỹ, thì làm sao có sự giả tạo được? Hiểu đến đó, chúng ta mới thấy, Chúa Giêsu trong bản tính con người, khi chịu Khổ Nạn, đã chịu mọi khổ hình đau đớn trong thân xác y như ta. Chính nhờ đó, nhân loại chúng ta mới được cứu rỗi. Và vì Chúa Giêsu thực sự đã chịu đau khổ trong thân xác NgườI, vì nhân loại chúng ta, rõ ràng điều đó cũng muốn nói lên: Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa, đã khiêm tốn biết bao, và chính vì cái giá của sự khiêm tốn đó, mới có thể đền thay cho bao nhiêu tội lỗi tầy trời của nhân loại chúng ta.
c/ Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa, trong cuộc Khổ Nạn của mình, Chúa đã tỏ ra khiêm tốn biết bao, để đền tội cho ta. Con ta là tội nhân thì lại kiêu căng quá chừng, chúng ta nghĩ sao? Ta có thấy cần khiêm tốn như Chúa không? Ta có tin Chúa là Đấng Cứu Thế, là Chúa, là Adam mới, là Anh Cả của ta, đã chết để cho chúng ta được sống không?
61. Vua Người Nhân Ái – Mt 26,14 - 27,66
Khung cảnh được trình bày trong đoạn Tin mừng hôm nay có thể nói là hoàn toàn đối nghịch lại với khung cảnh trong đoạn Tin mừng của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Đức Giêsu hôm nay xuất hiện như một vị vua mới được phong vương trở về, một vị vua hiền hậu và khiêm tốn "ngồi trên lưng lừa". Dân chúng thì hết lòng tung hô và tán tụng. Họ đã "trải áo xuống đường, chặt cành cây trải lối đi", miệng thì không ngớt lời hò la " Hoan hô con vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, hoan hô trên các tầng trời".
Còn Đức Giêsu của ngày thứ sáu Tuần Thánh. Đức Giêsu xuất hiện trong hình dạng "không còn hình tượng người ta nữa", bị đánh đòn, xỉ vả và nhục mạ. Dân chúng thì hò hét đòi "đóng đinh nó vào thập giá".
Điều gì đã là cho mọi sự thay đổi như thế khi cũng chính là Đức Giêsu đó và cũng chính là đám đông dân chúng đó? Tại sao lại thế? Ai đã thay đổi?
"Đức Giêsu vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy đến muôn đời". Ngài vẫn là vị Vua nhân ái, hiền từ và khiêm hạ. Ngài biết rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để cứu chuộc con người. Ngài tự nguyện chịu chết để cho con người được sống và Ngài đã làm người để cho con người được làm Chúa.
Còn dân chúng: một dạ hai lòng. Họ chạy theo lợi lộc thấp hèn. Khi thấy Đức Giêsu không chiều theo sở thích của họ và không làm theo những gì họ mong muốn, hay khi thấy Đức Giêsu có vẻ yếu thế trước mặt các nhà lãnh đạo Do thái, họ liền trở mặt lại với Ngài, chối bỏ Ngài và muốn loại trừ Ngài. Hơn nữa, Đức Giêsu là người luôn nói lên sự thật, những sự thật xem ra quá "đụng chạm" đến tự ái của họ, đụng chạm đến quyền lợi của họ... nên họ phát điên lên trong lòng. Dù mâu thuẫn giữa Đức Giêsu và các nhà lãnh đạo Do thái và dân chúng đã lên đến đỉnh điểm, nhưng việc Đức Giêsu đi vào cuộc tử nạn là do sự tự nguyện của Ngài chứ không phải có ai làm gì được Ngài. Nói cách khác, dù cho các nhà lãnh đạo hay dân chúng có giận Đức Giêsu đến sôi gan tím ruột nhưng không ai có thể làm gì được Ngài, nhưng việc Ngài chịu nạn chịu chết là do tự ý Ngài muốn và vì đó là thánh ý của Chúa Cha nên Ngài muốn chu toàn cho đến cùng mà thôi.
Andre, một tên tội phạm nguy hiểm và khét tiếng của Nước Bỉ, sau khi hoàn lương đã kể lại lịch sử của đời anh như sau: "Tôi từng là một tên tội phạm nguy hiểm, từng vào tù ra khám 5-7 lần, từng cướp nhà Băng và buôn bán ma tuý. Cuối cùng, tôi đã bị bắt và bị kết án 21 năm tù giam".
Rồi trong nhà tù, có một linh mục đến thăm anh và trao cho anh cuốn sách Phúc âm. Nhận quyển sách nhưng anh chẳng buồn đọc. Nhưng chán quá rồi cũng mở ra xem. Xem thì xem vậy thôi chứ cũng chẳng hiểu gì và cũng chẳng tin gì, vì anh cho rằng những gì kể trong sách Phúc âm chỉ là những chuyện tưởng tượng mà thôi. Rồi có một lần buồn chán quá, anh đem sách Phúc âm ra và nói những lời đầy thách thức như sau: "Này ông Giêsu, ông có thật không? Nếu ông có thật và tài giỏi giống như cuốn sách kia kể thì tối nay mời ông đến đây, chúng ta nói chuyện với nhau. Nói xong rồi, anh ta lăn ra ngủ và cũng chẳng nhớ gì. Nào ngờ, đúng 2 giờ sáng, anh ta bị đánh thức dậy, chạy ra hỏi anh giữ ngục:
"Anh gọi tôi à?"
Nhưng anh giữ ngục bảo: "không, tôi đâu có gọi anh, vào ngủ đi".
Anh vào ngủ lại và lại bị đánh thức. Lần này, có một tiếng nói rất uy nghi phía trên đầu anh: "Dậy đi con, mình có hẹn với nhau mà".
Anh ta hỏi lại: "Ai thế?"
"Ta là Chúa của mọi loài và là Thiên Chúa của con đây".
Và ngay lúc ấy, anh thấy có một luồng ánh sáng rực rỡ, ánh sáng ấy xoá tan hết những sự vật trong căn phòng và trong luồng ánh sáng đó, một con người xuất hiện, người mà anh chưa gặp bao giờ. Con người ấy mang thương tích nơi chân, tay và cạnh sườn mình. Người ấy nói: "Ta là Giêsu, Chúa của con đây. Những vết thương này là vì con đó". Anh ta bàng hoàng kinh hãi và đầy xúc động. Và lập tức, từ một con thú dữ, anh trở thành một con chiên ngoan hiền. Anh gục đầu và khóc lóc thảm thiết. Giờ đây anh đã hiểu, vậy là suốt 37 năm qua, anh đã vô tình đóng vào tay, vào chân và cạnh sườn của Chúa những cây đinh đau đớn. Anh đã hoàn toàn bị qui phục và trở nên người con cái ngoan hiền của Chúa. Đó là những lời tự thuật của Andrê với các bạn trẻ khi anh đi thuyết trình khắp nơi trên thế giới.
Như vậy, Chúa Giêsu đi vào cuộc tử nạn, chịu thương tích là vì chúng ta đó. Chúng ta có suy nghĩ gì khi Chúa nói với chúng ta: "Những thương tích này là vì con đó!" Chúng ta có thật sự hoán cải và trở thành chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta nhận ra điều đó không? Hay chúng ta còn giữ trong mình thái độ của dân chúng ngày xưa, chạy theo những lợi lộc thấp hèn để phản đối Chúavà đòi đóng đinh Chúa của chúng ta?
Đừng làm cho những vết thương nơi thân thể Chúa tiếp tục bị chảy máu nữa. Đừng tiếp tục đóng đinh Ngài nữa!
62. Lễ Lá trong đời thường - Mt 26,14 - 27,66
Tham dự Thánh Lễ hôm nay, mỗi người sẽ nhận được một nhành lá được thắt rất xinh, và hầu như ai ai cũng đều gìn giữ nhành lá nầy rất cẩn thận vì nó đã được làm phép. Mỗi người một nhành lá trên tay để sống lại cảnh huy hoàng khi Đức Giêsu vào thành Giêrusalem năm xưa...
Thánh Matthêu diễn tả khá sinh động quang cảnh nầy. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa con, có trải áo choàng, mặt đường cũng được dân chúng trải áo. Đám đông dân chúng tay cầm nhành lá, reo hò vang dậy: "Hoan hô con Vua Đavit! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!" (Mt 21,9). Thật hoành tráng! Khác gì người ta đang chào đón một nguyên thủ quốc gia hay một siêu sao, một thần tượng!
Thế nhưng, chính những con người nầy hôm nay hò la, tung hô thần tượng của họ, cũng lại là những người đồng ý tha cho Baraba, để nhất quyết lên án tử cho thần tượng của họ: "Đóng đinh nó vào thập giá". Thật là "dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người" !
Chúng ta vui mừng cầm lá trên tay, chúng ta hãnh diện được đứng vào hàng ngũ những kẻ "mặc áo dài trắng, tay cầm cành lá đang tung hô Thiên Chúa cùng Chiên Con" (Kh 7,9-10). Nhưng có bao giờ chúng ta nghĩ rằng mình đang cầm những mũi đinh nhọn tiếp tục đóng đinh Chúa không?
Có câu chuyện về một cô bé: "Lễ Lá năm ấy, cô bé khoát một bộ áo dài trắng vào người, bước ra cổng để đi dự lễ. Bỗng... "Xoạt!"... Trên nền trắng của chiếc áo dài, loang lỗ đầy những vệt nước dơ. Chị Ba cùng xóm vì tránh chiếc xe đò đã chạy vào vũng nước, làm cho nước văng tung toé lên người cô bé. Chị luống cuống dừng xe lại: "Xin lỗi em! Chị vô ý quá!". "Lỗi với phải gì! Có mắt không mà không nhìn trước sau?". Cô bé gần như quát lên...
Lựa được nhành lá đẹp nhất, cô bé hãnh diện cùng đám đông tiến vào nhà thờ... Nhưng... ngồi kế bên cô bé lại là chị. Thế là từ đó, đầu óc cô bé cứ nghĩ đến những "kế hoạch sẽ thực hiện" khi về đến nhà để cho chị "biết tay"...
"Còn chúng ta, chúng ta đối xử với Chúa hiện diện nơi người khác như thế nào?". Lời giảng của Cha chủ tế kéo cô ra khỏi dòng suy nghĩ... Cô bé nhìn xuống... Nhành lá cô bé đang cầm sao giống lưỡi gươm đến như vậy...".
Vâng, biết bao lần chúng ta tiếp tục giết Chúa bằng những mũi đinh, lưỡi kiếm là chính những lỗi lầm, sai sót của chúng ta. Chúng ta tham dự thánh lễ cách sốt sắng, nhưng khi trở về cuộc sống đời thường, chúng ta chưa sống tích cực cho danh nghĩa Kitô hữu của mình, thậm chí lại còn xung đột trong tương quan với Chúa và với tha nhân.
Tung hô Chúa bằng lễ nghi thôi chưa đủ, chúng ta cần phải tung hô Chúa bằng chính cuộc sống của mình theo gương Chúa. Cuộc đời của ta phải là họa ảnh dung mạo Đức Kitô, một Đức Kitô hiền lành và khiêm nhượng trong lòng (x. Mt 11,29), một Đức Kitô không mắc nợ gì ai ngoài món nợ yêu thương.
Lạy Chúa, hôm nay con cầm lá trên tay để đón Chúa, nhưng lòng con còn nhiều hận thù, ghen ghét. Đó là con mang gươm giết Ngài lần nữa. Xin Chúa biến đổi con, để con biết yêu Chúa, yêu anh em như Chúa hằng yêu mến con.
63. Người môn đệ bất chính - Mt 26,14 - 27,66
Khi nhắc đến Giuđa thì ai cũng nghĩ đến kể phản bội, một con người không nghĩ đến tình thầy trò, nhẫn tâm bán Thầy hết mực yêu thương mình với giá 30 đồng, một cái gí rẻ mạt chỉ bằng một phần mười bình thuốc thơm mà bà Maria lấy để rửa chân Đức Giêsu. Qua lời nói đầy âm mưu không chút trong sáng, nhẫn tâm đến không còn tình người của Giuđa khi nói với các thượng tế và kỳ mục: "Tôi nộp ông ấy cho quý vị thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu". "họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc". Khi nghe đến đây, thì ai trong chúng ta cũng căm hận Giuđa, một con người ham mê tiền bạc và danh vọng, thích làm tôi của cải hơn là làm môn đệ của một ông thầy âm thầm nghèo khó, căm hận vì ông chọn ông Giêsu quyền lực thế gian hơn chọn ông Giêsu đang trốn chui trốn nhủi sợ người ta bắt bớ. Qua những hành động và lời nói, cũng như suy nghĩ của Giuđa, ta dễ dàng nhận ra ông là người môn đệ có những đặc tính sau:
Ham mê tiền bạc.
Giu đa cũng được chính Đức Giêsu tuyển chọn như các tông đồ khác, nhưng tại sao Giuđa lại phản bội? Có phải Đức Giêsu quá khó khăn với ông chăng? Hay vì được giữ túi tiền nên ông đã thâm lạm. Tất cả những nguyên nhân trên hầu như không hoàn toàn thuyết phục. Chính ý tưởng bán Thầy của ông đã được hình thành khá sớm, không chỉ có ông bị ý tưởng này làm lung lạc, mà cả các tông đồ khác cũng thế. Nhưng những người khác chỉ bị lung lay trong chốc lát, rồi sau đó tỉnh ngộ ngay nhờ đức tin của Phêrô: "Thưa Thầy bỏ Thầy chúng con biết đến với ai". Còn Giuđa có tai mà không nghe, có mắt mà như mù, cứ u mê trong sự lôi cuốn của tiền bạc. Cho đến nỗi Đức Giêsu như muốn chỉ ra ông để cảnh tỉnh "Thế mà một người trong anh em là quỷ", mà ông vẫn còn chưa chịu sáng mắt tỉnh ngộ. Cách đánh giá đúng nhất về Giuda, chính là nhận định theo Tin mừng Gioan "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo".
Chạy theo danh vọng.
Không phải chính mình Giuđa mới lầm tưởng về công việc của Đấng Cứu Thế, mà hầu như tất cả. Cho đến lúc Đức Giêsu sắp chịu khổ nạn các môn đệ vẫn còn lầm tưởng về sứ mạng của Ngài, họ vẫn ao ước vào một cuộc chiến thắng khải hoàn như các vua chúa trần gian. Một cuộc khải hoàn chiến thắng tràn đầy danh vọng, chức tước, và hy vọng sẽ được chia sẻ vinh quang trần thế với Ngài. Các môn đệ vẫn còn sống trong ảo tưởng đó mãi cho đến đêm bị bắt trong vườn Giêtsêmani. Còn Giuđa thì như một con người đi quá đà, hình ảnh ông thầy Kitô của mình phải như ý mình muốn, và chính Giuđa cũng được Đức Kitô cho nhiều cơ hội để cảnh tỉnh, để lựa chọn. Nhưng trong đầu ông lúc này chỉ có danh vọng và danh vọng, không còn lòng đơn sơ chân thành, không chấp nhận Thầy nữa, mà tự tạo cho mình một Đức Kitô ích kỷ, vụ lợi. Có thể nói ông rất thất vọng vọng về hình ảnh Đức Kitô mà ông mong muốn với Đức Kitô thực tế. Vì thế ông bắt đầu ghét Ngài và bán Ngài để trả thù vì bị thất vọng.
Sống giả hình.
Trong số các tông đồ, có thể nói Giuđa là người có học thức cao nhất, nên đã được phân công làm thủ quỹ giũ tiền. Nhưng thay vì sử dụng những tài năng của mình để làm giàu cho Nước Trời, thì ông lại dùng nó như một sự khôn ranh để qua mặt Thầy vá các anh em. Như qua lời nói: "Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo". Ta dễ dàng nhận ra giữa hành động và lời nói của Giuđa không thống nhất "miệng nam mô, bụng bồ dao găm". Trong khi miệng nói như thế, nhưng lòng lại mưu mô lừa lọc định qua mặt mọi người. Hơn thế nữa, khi đối diện với chính Thầy mình, đối diện với thực tế mà ông còn giả bộ như một môn đệ trung thành khi mở miệng hỏi: "Rap-bi, chẳng lẽ con sao?". Đến giây phút cuối cùng mà Giuda còn muốn qua mặt Thầy, qua mặt các môn đệ, và cuối cùng kết thúc bằng "nụ hôn" thể hiện tình yêu nộp Thầy.
Trong cuộc sống lữ hành chúng ta đang đi trên rất nhiều con đường, có thể chúng ta đang đi trên con đường của Giuđa, con đường của Phêrô, hay con đường của Hêrôđê. Nếu chúng ta đã lầm đường lạc lối, thì tuần thánh và ngay bây giờ chúng ta hãy bắt đầu lại, hãy quyết tâm đi trên con đường mà Chúa đã đi, đã chọn và chịu chết để được Phục Sinh.
Lạy Chúa! Xin cho con biết can đảm dứt bỏ tội lỗi, bởi vì một khi con nhượng bộ cho tội lỗi là con đã bán Chúa như Giuđa ngày xưa. Amen.
64. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô – Mt 26,14 - 27,66
Vài lưu ý để hiểu bài Thương Khó.
- Được viết với cái nhìn hậu Phục Sinh nhưng có lẽ trước nhất trong các văn bản Phúc Âm vì ngay khi các tông đồ bắt đầu rao giảng là "Đức Giêsu mà các ông đã đóng đinh, chết treo thập giá đã sống lại vinh quang". Lời rao giảng nầy được lập đi lập lại bằng truyền khẩu rồi thì có bản văn cho nhiều người tham gia rao giảng dể hơn.
- Là phần viết có nhiều chi tiết có tính lịch sử nhiều nhất nhưng không có tông đồ nào là chứng nhân nhản tiền vì khi Đức Giêsu bị bắt các ông đều trốn mất hết chỉ có Gioan có mặt dưới chân thập giá nhưng không chắc là có theo Đức Giêsu suốt đường thập giá. Về tuần tự diển biến các sự việc thì bốn bài giống nhau như đã xảy ra.
- Các tác giả không viết tường thuật hay trình thuật như quen gọi nhưng sáng tác với ý tưởng thần học riêng như với Mt là "để Kinh Thánh được trọn". Mc và Lc thì hoàn toàn lấy từ tài liệu "rao giảng". Ga thì là "những suy tư "thần học". Biến cố Đức Giêsu còn được ghi vào ký ức của các tông đồ mỗi nguời mỗi khác tùy cơ địa mỗi người. Rồi mỗi người khi rao giảng lại lựa chọn những gì thích hợp để cống hiến cho cộng đoàn và như thế mà có các sách như Phúc Âm theo thánh Mt (đặc biệt Mt còn phải quan tâm nhiều tới những lời Kinh thánh Cựu Ước đã tiên báo). Vì vậy mà có nhiều chi tiết khác nhau (khác nhau lớn nữa).
Bài Thương Khó theo Mt có các chi tiết tóm tắt như sau:
- Đức Giêsu bị bắt: Giuda dẫn đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Chào hôn Đức Giêsu. Một trong những kẻ theo Đức Giêsu tuốt gươm chém đứt tai (4PÂ)... Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. (Mt và Mc).
- Đức Giêsu ra trước Thượng Hội Đồng: Thượng Tế Caipha, các kinh sư và kỳ mục họp sẵn. Phêrô theo xa xa. Họ tìm lời chứng gian để buộc tội Đức Giêsu... Phá đền thờ Thiên Chúa đi rồi nội ba ngày Ta sẽ làm lại. Đức Giêsu làm thinh... Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?... Chính Ngài nói đó. Hắn nói phạm thượng. Hắn đáng chết. Rồi họ khạc nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, có kẻ tát Người.
- Phêrô chối: Tôi không biết... Gà chưa kịp gáy thí anh đã chối Thầy ba lần. Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
- Trước Philatô: Ông có phải là vua dân Do thái không? Chính Ngài nói đó. Vợ Philatô chiêm bao. Dân chúng đòi tha Baraba đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá. Philatô rửa tay "tôi vô can trong việc đổ máu ngưới nầy". Máu nó cứ đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi. Philatô trao Người cho quân lính đánh đòn rồi đem đi đóng dinh vào thập giá.
- Đức Giêsu đội mũ gai: quân lính cho người đội mũ gai, cầm gậy là một cây sậy (vương trượng) rồi quỳ lạy"vạn tuế Đức vua dân Do thái". Chúng khạc nhổ vào Ngưới, lấy cây sậy đập lên đầu Người, mặc áo lại như trước rồi điệu Nguời đi đóng đinh vào thập giá.
- Đức Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá: Dọc đường có Simon vác đỡ thập giá. Đến nơi gọi là Núi sọ, cho uống rượu pha mật đắng. Đóng đinh Người vào thập giá xong, chúng rút thăm chia áo Người. Phía trên đầu Người có bản án INRI. Bị sỉ vả nhạo cười trên thập giá: Mi phá đền thờ và trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi. Nếu là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào.... Cả những tên cướp cùng chịu đóng đinh cũng sỉ vả Người.
- Đức Giêsu chết trên thập giá: từ mưới hai giờ trưa bóng tối bao phủ cả mặt đất cho tới ba giờ chiều... Để coi Êlia có đến cứu hắn không. Đức Giêsu kêu lớn tiếng rồi trút hơi thở cuối cùng. Bức màn trong đền thờ xé ra làm hai, từ trên xuống dưới. Đất run đá vở, mồ mả mở toan, xác của nhiều vị thánh đời xưa trổi dậy, ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra với nhiều người. Ông đại đội trưởng và lính canh mộ sợ hãi, ông tuyên xưng "Ông nầy là con Thiên Chúa".
Vài điểm cần giải thích:
- Từ mười hai giờ trưa bóng tối bao phủ cả mặt đất cho tới ba giờ chiều: cách nói ẩn dụ ám chỉ "chiến thắng của tối tăm" trong một lúc.
- Trút hơi thở cuối cùng: Dịch sát chữ. Mc và Lc: tắt thở. Ga: trao trả thần khí (‘remit son esprit’ theo Bible de Jerusalem). Còn có cách nói "trút linh hồn". Có bản chú thích là Đức Giêsu "ban lại thần khí" mà Người đã lãnh nhận cho thế gian.
- Bức màn trong đền thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới: sân khấu thì gọi là kéo màn ra, mở màn. Ẩn dụ ám chỉ: Bức màn trong đền thờ là để ngăn phần cực thánh (thượng tế chỉ vào được một lần trong năm) với phần còn lại của cung thánh. Kéo màn ra là mở màn không che nữa. Mạc khải cũng có nghĩa là vén màn. Đức Giêsu chết, chấm dứt mạc khải chính thức về Thiên Chúa, vì đã đầy đủ. Không còn bức màn, con người có thể đến được với Thiên Chúa. Hoàn tất công trình mạc khải "cứu độ".
- Đất run, đá vở, mồ mả mở toang, xác của nhiều vị thánh đời xưa trỗi dậy, ra khỏi mồ....: (Đức Giêsu xuống ngục tổ tông) Bình giải ý tưởng trong Cựu Ước (riêng của Mt): Khi nghe tiếng Con Thiên Chúa những kẻ ở trong mộ sẽ trỗi dậy ra khỏi mồ "sống lại". Ơn cứu độ là làm cho sống lại. Đức Giêsu đã hoàn thành ơn cứu độ. Đã có sự sống lại. Những vị thánh đời xưa là những kẻ sống lại trước vì đang chờ đợi. Để ra khỏi mộ thì mộ phải mở ra, phải có động đất "đất run, đá vỡ".
- Vào thành thánh hiện ra với nhiều người: Có vào thành hiện ra mới có người thấy mới biết. Là văn chương ẩn dụ. Còn được chú giải là "vào thánh thánh Giêrusalem "mới". Hoặc là "Đức Giêsu xuống ngục tổ tông công bố ơn cứu độ cho các tổ phụ và rước các ngài lên trời vì "trời đã mở ra". Sự chết đã bị bẻ gãy, sự sống đã được "cứu" phục hồi cho nhân loại.
Qua bài thương khó chúng ta thấy về mặt hiện tượng: Đức Giêsu chết do sự xung đột với người do thái bắt đầu ngay lúc Người khởi đầu hoạt động công khai giữa cái mới-cũ, giữa quyền lợi, địa vị và từ bỏ khó nghèo. Sự xung đột có vẻ tự nhiên nhưng cũng có vẻ là Đức Giêsu chủ động tạo ra và gia tăng để đưa tới kết thúc là cái chết. Còn ý nghĩa, cách thức, mức độ cực nhọc, đau khổ... của cái chết là do Đức Giêsu tự nguyện chọn lấy bằng cách "Người làm thinh", mặc ai làm gì thì làm. Lòng dạ độc ác thì phải đạt đỉnh nếu được "để mặc". Thần học của Giáo Hội mới giải thích ý nghĩa cứu độ tiềm ẩn bằng phạm trù của những lãnh vực khác nhau.
Bị hạ xuống rốt cùng là thể hiện sự vâng phục tột đỉnh, chuộc lại sự không vâng phục tích lũy từ đầu lịch sử nhân loại cho đến ngày nay. Như vậy là vì YÊU. Tình yêu là động lực.
Chúng ta không nhìn thập giá và một thây ma bầm dập, máu me, đầy thương tích mà thương khóc. Chúng ta không tôn vinh thập giá và khổ hình vì dù là của Chúa Giêsu cũng vẫn là sự dữ ghê tởm. Hãy nhìn thấy ở đó sự tự hạ tự hủy mà Đức Giêsu, tự nguyện chấp nhận, gánh lấy để tỏ hiện một sự vâng phục tột đỉnh để chuộc tội, để đền bù tội lỗi chúng ta, chết vì tội chúng ta nơi Chúa Cha. Chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu chuộc tội chúng ta là vâng phục để chuộc lại sự không vâng phục của nhân loại từ thế hệ Adam đến chúng ta. Đền bù tội lỗi chúng ta cũng từ Adam vì có tội thì phải đền. Chết vì chúng ta là chuộc tội, là đền tội để cứu chúng ta thì chúng ta mới được sống. Cốt yếu là làm gương, là đi trước dẫn đường và dạy chúng ta biết ý của Chúa Cha mà vâng phục như Người để được cứu. Không phải Người đã chuộc tội, đã đền bù tội lỗi chúng ta, đã chết vì chúng ta thì chúng ta khỏi rồi, sống rồi, khỏi phải làm gì nữa. Tha hồ tiếp tục.
Chúng ta phải cảm kích tình yêu của Người, đáp lại lời mời gọi của thập giá "đi theo Đức Giêsu", vác thập giá mình, thập giá của cuộc đời mình như Người đã vác cho chúng ta thấy mà noi theo.
Ôi thập giá là muôn lời nhắn gọi
Hãy đến nào, đến để cạn nguồn yêu
Ôi thập giá là nhuốc nhục trăm chiều
Mà Chúa chịu vì yêu người nhân thế.
04/04 Người công chính
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Người công chính.
Thứ bảy tuần 5 mùa Chay.
"Ðể quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".
Lời Chúa: Ga 11, 45-56
Khi ấy, trong những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su. Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và nói: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta". Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: "Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt". Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối.
Bởi vậy, từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì thế Chúa Giêsu không còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ. Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: "Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?" Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chết thay cho dân
Suy niệm:
Đức Giêsu đã từng nhiều lần bị tìm bắt, bị ném đá, bị đe dọa.
Nhưng đây là lần đầu tiên các thượng tế, các người Pharisêu
và Thượng Hội Đồng của Do thái giáo quyết định giết Ngài (c. 53).
Theo Tin Mừng Gioan, lý do gần nhất đưa đến quyết định đó
là việc Đức Giêsu làm cho anh Lazarô chết bốn ngày sống lại (Ga 11).
Sự sống lại của anh đã khiến cho nhiều kẻ tin vào Đức Giêsu.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo sợ rằng phong trào theo Giêsu sẽ tiếp tục bành trướng,
mọi người sẽ tin, và quân Rôma sẽ đến phá hủy đất nước và nơi thờ tự (c. 48).
Caipha là vị thượng tế đương nhiệm năm ấy.
Đứng trước sự lúng túng và lo âu của các thành viên trong Thượng Hội Đồng,
đột nhiên ông phát biểu như không cần suy nghĩ thêm gì nữa :
“Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (c. 50).
Lời phát biểu bộc phát như thế,
nào ngờ lại là một lời tiên tri thốt ra từ miệng một vị thượng tế.
Caipha chỉ muốn loại trừ Đức Giêsu để bảo đảm an ninh cho đất nước và Đền Thờ,
nhưng ông lại vô tình nói tiên tri về tính cứu độ của cái chết Đức Giêsu.
Cái chết ấy sẽ cứu cả dân tộc Do thái khỏi bị tiêu diệt,
Đức Giêsu chết thay cho dân của Ngài.
Nhưng Caipha không ngờ ảnh hưởng của cái chết ấy còn vượt xa hơn nhiều.
Ngài chết “không chỉ thay cho dân (Do thái) mà thôi,
nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.”
Cái chết ấy có khả năng quy tụ mọi kẻ tin vào Đức Giêsu
về một đoàn chiên duy nhất, kể cả dân ngoại (Ga 10, 16).
Cái chết ấy có khả năng kéo mọi người lên chẳng trừ ai (Ga 12, 32).
Đức Giêsu đã bị kết án ngay khi chưa có phiên tòa chính thức.
Ngài bị kết án tử vì đã trao ban sự sống cho một con người.
Cái chết của Ngài không ngăn cản được sự sụp đổ của thành Giêrusalem
và sự tan hoang của cả đất nước Do thái vào năm 70.
Nhưng cái chết ấy đã đem lại ơn cứu độ cho mọi người tin.
Hiệu quả của cái chết ấy vẫn còn mãi đến tận thế.
Đức Giêsu đã hiến mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người (Mc 10, 45).
Năm 2008 người ta xác định được 20 nhà truyền giáo bị giết trên thế giới.
Họ đã can đảm sống trong những hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm,
và đón nhận cái chết như cái giá phải trả cho tình yêu muốn phục vụ.
Có bao tín hữu vô danh khác vẫn âm thầm nếm cái chết hàng ngày,
chỉ vì muốn theo gương Thầy Giêsu đem sự sống cho anh em.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng,
cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên : Sao Cha bỏ con ?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Người công chính
Tác giả thánh vịnh 58 đã có lời cầu nguyện như sau:
Lạy Thiên Chúa của con
Xin cứu con khỏi kẻ địch thù
Bênh đỡ con chống lại kẻ tấn công
Cứu vớt con khỏi vòng gian ác,
Giải thoát con khỏi bọn giết người.
Kìa mạng con, chúng rình hãm hại,
Lũ cường quyền xúm lại chống con.
Ðây là tâm trạng của một người công chính bị kẻ gian ác hùa nhau mưu hại. Tâm trạng này phù hợp với tâm trạng của Chúa Giêsu trong những ngày cuối cùng của Người ở trần gian. Sau ba năm vất vả để rao giảng Tin Mừng Cứu Ðộ và thi ân giáng phúc, Chúa Giêsu phải đối diện với một thực trạng đáng buồn. Những cố gắng của Người chỉ được những kẻ thành tâm thiện chí đón nhận, mà đa số thuộc thành phần nghèo khổ, bất hạnh. Còn những kẻ có vai vế, những kẻ tự xưng là đạo đức, là có học vấn thì lại chống đối Người. Nếu chỉ xét về bên ngoài thì công lao của Chúa ví như muối bỏ biển. Nhìn từ góc độ con người thì góc độ cứu độ của Chúa Cha dường như chẳng mang lại kết quả bao nhiêu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa bị những người Do Thái tìm cách khử trừ, vì Chúa không những không đáp ứng nguyện vọng của họ mà lại còn tạo nên xáo trộn bất lợi cho cuộc sống của họ nữa. Họ mong chờ một vị cứu tinh, nhưng vị cứu tinh này phải phù hợp với sở thích của họ, phải mang lại cho họ thấy được những quyền lợi trước mắt, phải làm cho cuộc sống trần thế của họ trở nên thoải mái hơn. Chúa làm cho họ thất vọng thế là họ loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống. Ngày hôm nay, hai mươi thế kỷ sau ngày Chúa chịu chết và sống lại, Chúa vẫn tiếp tục bị tẩy chay, bị loại trừ và điều đáng buồn nhất là Chúa bị loại trừ bởi chính những người mang danh hiệu là người Kitô, trong số đó có con. Con loại trừ Chúa khi con không sống theo tinh thần Tám mối phúc thật; con loại trừ Chúa khi con chạy theo những thú vui vật chất, khi con tôn vinh những gì thỏa mãn ước mơ trần thế của con. Con xưng mình là người có đạo, nhưng con lại đi tìm một cứu Chúa không phải là Chúa Giêsu Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương cứu con khỏi những ràng buộc hư ảo ấy. Xin cho con luôn luôn tôn thờ và tin yêu Chúa là Cứu Chúa duy nhất chân thật của con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Chết thay người khác.
Cha Maximilien Kolbe, người Ba Lan, là một tu sĩ Phanxicô rất hăng say hoạt động. Cha đã tình nguyện sang truyền giáo tại Nhật trong ngành ấn loát. Nhưng sau vì bệnh lao phổi, cha phải về Ba Lan điều trị. Vào thế chiến thứ hai, vì thấy cha có ảnh hưởng mạnh trên quân chúng. Đức quốc xã đã bắt cha và giam vào tù, tại đây cha đã tình nguyện chết thay cho một người bạn đồng tù.
Phải chết thay người khác có thể là một hành động do hận thù bất công, nhưng với tình yêu Chúa, người Kitô hữu có thể hiến mạng sống mình cho người khác. Chính Chúa Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này: những người Do Thái không tin đã bắt Chúa phải chết thay để người Rôma khỏi hủy diệt dân tộc Do Thái, nhưng trong chương trình cứu độ, Ngài đã chấp nhận hiến mạng sống mình để mọi người được sống.
Những người Do Thái đã nhìn hành động của Chúa theo mầu sắc chính trị. Họ đã thắc mắc: “Ta phải làm gì? Vì con người ấy làm nhiều sự lạ. Nếu cứ để như vậy, mọi người sẽ tin vào ông ta và quân Rôma sẽ đến hủy diệt nơi thánh và dân tộc ta”. Lý luận của người Do Thái không tin thật lộn xộn: Dân chúng tin theo Chúa là việc tôn giáo, quân Rôma đến phá hủy là việc chính trị, làm sao việc tôn giáo lại kéo theo hậu quả chính trị như thế được. Vả lại chính quyền Rôma lúc đó cho người Do Thái được tự do hành đạo, và chính Tổng trấn Philatô sau này cũng đâu muốn kết án Chúa vì lý do tôn giáo. Người Do Thái đã phải tố cáo Chúa về tội chính trị: xúi dân làm loạn, không nộp thuế cho Hoàng đế César. Thật là trớ trêu, nhưng Chúa đã không phản đối. Ngài chấp nhận một cái chết bất công để biến nó thành cái chết hy sinh cứu chuộc nhiều người.
Tác giả tập sách Đường Hy vọng khuyên: “Đây là bằng chứng để biết được lòng mến, đó là Đấng ấy đã thí mạng vì ta và ta cũng phải thí mạng vì anh em. Con hỏi cha: đâu là mức độ dấn thân? Hãy làm như Chúa Giêsu… Cuộc đời con phải hiến dâng để bắt nhịp cầu hy vọng đưa người khác đến với Chúa là cùng đích, là tình yêu, là tất cả. Nơi Chúa, nhân loại không còn ai xa lạ, nhưng tất cả là anh em. Con nắm vững một đường lối Tông đồ thí mạng vì anh em, con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao để chinh phục người khác về với Chúa”.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Đồng thuyền đồng hội
Trong một số người Do-thái đến thăm Ma-ri-a và được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người. Nhưng Cai-pha một người trong thượng hội đồng nói rằng: “Các ông không hiểu gì cả, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối”. (Ga. 11, 45-49b-52)
Lý do người ta quy định với nhau là giống nhau, như câu châm ngôn: “Đồng thuyền, đồng hội”. Nhiều người Kitô không còn cảm nhận được hương vị tình thương của Thiên Chúa và cộng đồng dân Chúa đã làm cho họ nên giống nhau, và cần phải quy tụ lại với nhau, nhất là trong Thánh lễ ngày Chúa nhật. Nhưng hơn bao giờ hết, họ sống cô độc, chỉ vì họ khó chịu khi mang nhãn hiệu Kitô giáo. Nhiều kẻ bị thuyết phục theo chủ trương rằng: Tôn giáo là việc bản thân mỗi người, chỉ cần liên lạc chặt chẽ giữa Thiên Chúa với cá nhân thôi.
Chúng ta bỏ mất lãnh vực sống cộng đồng đức tin là chúng ta vi phạm nghiêm trọng đến kế hoạch cứu độ cộng đồng rất quý của Thiên Chúa: Ngài quy tụ chúng ta thành một gia đình trong an bình và tình yêu, để mọi người là anh em với nhau chung quanh một người Cha duy nhất của chúng ta là Thiên Chúa hằng sống.
Trước thời đại Tân ước của chúng ta, Thiên Chúa đã thực hiện kế hoạch này rồi. Qua miệng ngôn sứ Ê-giê-ki-en, Thiên Chúa đã nói với con cái Ít-ra-en rằng: “Ta sẽ quy tụ các ngươi khắp nơi vào một xứ sở. Ta sẽ làm nên một dân tộc độc nhất trong xứ sở đó … và chỉ có một vua là vua tất cả”. Điều Thiên Chúa nói thì Ngài đã làm: “Đức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối”. Thánh Gio-an đã nhắc nhở chúng ta như vậy.
Để đạt tới sự đồng hội này, chúng ta có nhiều tác nhân giúp đỡ: “Chỉ một Thiên Chúa, chỉ một đức tin, chỉ một phép Rửa, chỉ một Thiên Chúa là Cha tất cả chúng ta” (Eph. 4, 5).
Cho nên hơn bao giờ hết, những từ: tình huynh đệ, hòa bình và hợp nhất đang vắng vẻ bên tai những người đồng thời chúng ta. Nhưng cũng hơn bao giờ hết vẫn có sự hiểu lầm, chiến tranh và chia rẽ.
Có lẽ thời đại của chúng ta rất lo lắng thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa. Nhưng niềm hy vọng thực hiện tình huynh đệ cũng khó khăn và xa lạ hơn mọi thời khác. Chúng ta mong hòa bình mà chỉ thấy tái võ trang, mong hợp nhất mà chỉ thấy chia rẽ trước mắt chúng ta. “Ai gieo giống nào thì gặt giống ấy” (Gal. 6, 7).
J.M
SUY NIỆM 5: MỘT NGƯỜI CHẾT, TOÀN DÂN ĐƯỢC NHỜ! (Ga 11,45-56)
Câu chuyện Đức Giêsu đến Bêtania và làm phép lạ cho Ladarô sống lại đã làm rúng động trong dân chúng và nhiều người đã tin vào Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài.
Chính vì điều này mà cuộc thương khó của Đức Giêsu ngày càng gần kề. Sự kiện này được đánh dấu bằng việc những nhà cầm quyền và các Thượng Tế quyết định họp Hội Đồng và ra lệnh bắt, giết Đức Giêsu. Họ đã ra lệnh truy nã đối với Ngài: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt.
Lý do họ bắt và quyết định giết Đức Giêsu là vì họ đã ghép cho Ngài cái tội chính trị. Họ nói: “Người này làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta". Rồi một câu nói đầy uy lực của nhóm Thượng Tế mà Caipha là đại diện đã đem đến quyết định loại trừ Đức Giêsu: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt".
Tuy nhiên, thực tế thì lý do chính yếu khiến họ giết Đức Giêsu đó là sự ghen tỵ và sợ bại lộ lối sống hình thức và mất uy tín trong dân, đồng thời sợ bị mất lợi lộc mà các Thượng Tế đang được hưởng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mỗi người hãy ý thức lại việc sống đạo bấy lâu nay: có bao giờ chúng ta theo Chúa chỉ vì muốn được hưởng lợi lộc trần gian? Nếu vì giá trị Tin Mừng đòi ta phải từ bỏ lối sống và hành vi không phù hợp, liệu chúng ta có sẵn sàng không? Hay có khi nào chúng ta cũng vì ghen tức mà loại bỏ anh chị em mình như những Pharisêu và Kinh Sư hôm nay đối với Đức Giêsu?
Lạy Chúa Giêsu, sự thật mà Chúa muốn chúng con sống, đòi hỏi chúng con phải có quyết tâm cao thượng mới có thể đi vào đường lối đó được. Vì thế, xin Chúa ban cho chúng con can đảm sống giá trị Tin Mừng dù có phải thiệt thòi. Amen.
Ngọc Biển SSP
03/04 Niềm tin và lý trí
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Niềm tin và lý trí.
Thứ năm tuần 5 Mùa Chay.
"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".
Lời Chúa: Ga 8, 51-59
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"
Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tôi hằng hữu
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng việc Đức Giêsu bị ném đá.
Nhưng Ngài đã ẩn mình đi và ra khỏi Đền thờ (c. 59).
Ném đá là hình phạt của người Do thái chủ yếu dành cho kẻ phạm thượng.
Đức Giêsu đã làm gì để bị coi là mắc tội phạm thượng,
nghĩa là tội coi thường quyền tối thượng của Thiên Chúa?
Trước hết Đức Giêsu đặt mình lên trên tổ phụ đáng kính Abraham.
Ngài biết ông Abraham vui sướng mừng rỡ
vì hy vọng được thấy ngày của Ngài, thấy những việc Ngài làm đây (c. 56).
Abraham mừng vì chính Đức Giêsu, chứ không phải cá nhân mình,
mới là Đấng đem phúc lành cho mọi dân tộc trên thế giới.
Dù chưa tới năm mươi tuổi, Đức Giêsu dám coi mình là có trước ông Abraham.
“Trước khi có Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu” (c. 58).
Ta là Đấng Hằng Hữu là câu trả lời của Thiên Chúa cho ông Môsê
khi ông hỏi tên của Ngài bên bụi cây bốc cháy (Xh 3, 14).
Đức Giêsu cũng muốn trả lời câu hỏi về mình (c. 53) bằng lối nói đó.
Vì trước khi được sinh ra ở đời làm người, thì Ngài đã hiện hữu rồi.
Ngài là một với Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (Ga 1, 14-18),
bởi đó Ngài có trước Abraham, người đã sống trước Ngài gần hai ngàn năm.
Chính khẳng định bị coi là phạm thượng này đã khiến Ngài bị ném đá.
Đức Giêsu thường bị coi là ngạo mạn, tự tôn vì những lời như vậy.
Thật ra Ngài chẳng tự tôn vinh mình.
Chúa Cha mới là Đấng tôn vinh Ngài qua cái chết tủi nhục (c. 54).
Đức Giêsu cũng chẳng coi thường Thiên Chúa bao giờ.
Ngài gọi Thiên Chúa là Cha một cách thân thương,
và nhìn nhận: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14, 28).
Có một sự phân biệt rất rõ giữa Chúa Cha và Đức Giêsu:
Chúa Cha là người sai đi; Đức Giêsu là Con, là người được sai đi.
Đức Giêsu chỉ làm điều Ngài thấy Cha làm (Ga 5, 19-20; 8, 28-29),
và nói điều Ngài nghe Cha nói (Ga 8, 26. 40; 12, 49-50).
Triệt để vâng phục và tùy thuộc là nét đặc trưng của Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng Gioan, bao lần ta gặp cụm từ không tự mình.
Đức Giêsu không tự mình nói, cũng chẳng tự mình làm.
Ngài đòi chúng ta tuân giữ lời Ngài (c. 51)
chỉ vì chính Ngài cũng đã tuân giữ lời của Thiên Chúa (c. 55).
Trong tuần lễ này, tại nhà thờ các ảnh tượng có thể được che lại.
Khi bị ném đá, Đức Giêsu đã tránh đi vì giờ của Ngài chưa đến.
Đức Giêsu vẫn cương trực nói điều phải nói và làm điều phải làm.
Chúng ta xin có được sự cương trực đó khi phải làm chứng cho Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.
R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
SUY NIỆM 2: Niềm tin và lý trí
Trong cuốn tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chàng Hải Âu Kỳ Diệu, tác giả kể về một chàng hải âu kiên cường đã thực hiện được ước mơ lướt cánh tung trời. Chàng bay tới những vùng mà các con chim khác trong bầy chưa bao giờ biết tới. Sau chuyến bay mở rộng chân trời đó, chàng hải âu trở lại với bầy, chàng kể cho bầy chim nghe về những gì mình đã tai nghe mắt thấy. Cả bầy chim từ già đến trẻ đều chế nhạo chàng, họ kết án chàng là con chim khoác lác. Chàng vẫn không nản lòng, cứ tiếp tục nói về vùng trời rộng mở. Có một số chim nghe chàng nói, lòng chợt dậy lên khát vọng bay xa. Họ bắt đầu kiên trì luyện tập để thực hiện ước mơ mà chàng hải âu kỳ diệu đã gợi lên cho họ.
Khi Chúa Giêsu nói với người Do Thái về thế giới của Thiên Chúa, họ đã chế nhạo Người, cho rằng Người bị quỉ ám nên mới ăn nói lung tung như thế. Chúa Giêsu vẫn không nản lòng, và vẫn tiếp tục nói về nguồn gốc thần linh của mình, một lần nữa. Người dùng danh xưng Hằng Hữu để khẳng định rằng mình từ Thiên Chúa mà đến. Câu nói ấy đã khiến người Do Thái phẫn nộ và định ném đá Người.
Ðược sống mãi không phải chết là ước mơ muôn thuở của con người, thế nhưng khi Chúa Giêsu nói với người Do Thái rằng nếu họ tuân giữ Lời Người dạy bảo thì họ sẽ khỏi phải chết, họ lại chế nhạo Người là bị quỉ ám. Nếu xét thêm mặt ngoài của sự kiện thì quả thật họ là người có lý. Họ lý luận như sau: "Bây giờ chúng tôi biết chắc là ông bị quỉ ám. Ông Abraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy. Thế mà ông lại nói: ai tuân giữ lời tôi thì sẽ không bao giờ phải chết. Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Abraham hay sao?" Họ lý luận rất chặt chẽ, nhưng chính cái chặt chẽ ấy lại là một sợi xích cột chặt họ lại khiến họ không thể cất cánh bay cao. Họ có lý nhưng tổ phụ Abraham ngày xưa đã chẳng lý luận gì khi nghe theo lời Giavê Thiên Chúa kêu gọi mà từ bỏ quê cha đất tổ để ra đi. Những người Do Thái có lý nhưng theo lối lý luận của con người. Thiên Chúa thì không dựa theo lý lẽ của con người để thực hiện công việc của mình, Thiên Chúa làm theo cách của Ngài. Những ai muốn nhận ra chương trình của Thiên Chúa thì cũng phải tập nhìn mọi sự theo cách nhìn của Ngài. Những người Do Thái không muốn nhìn như thế, họ nhìn vào Chúa Giêsu và họ chỉ thấy đó là một con người tuổi chưa đầy năm mươi mà dám khoác lác nói rằng mình đã thấy tổ phụ Abraham, lại còn dám xưng mình ngang hàng với Thiên Chúa nữa. Họ không thể chấp nhận thái độ cao ngạo và phạm thượng ấy. Họ phải ném đá kẻ ngông cuồng này. Quả đúng như lời mở đầu Tin Mừng theo thánh Gioan: "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có nhưng lại không nhận biết Người. Người đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (Ga 1, 9-11).
Cũng như tình yêu, đức tin không dựa trên lý lẽ. Lý trí có thể đưa chúng ta đến bên bờ của đức tin, rồi để mặc chúng ta ở đấy. Không phải lý trí bỏ rơi chúng ta nhưng lý trí không thể giúp chúng ta vượt qua được mép bờ huyền nhiệm của đức tin. Ðứng trên mép bờ huyền nhiệm ấy, tác động thích hợp duy nhất là yêu mến và phó thác. Tổ phụ Abraham đã yêu mến Thiên Chúa và đã phó thác mọi sự cho Ngài và đã được toại nguyện. Ðức Maria cũng đã khẳng định tương tự. Các thánh cũng hành động như thế; còn chúng ta, chúng ta hành động ra sao?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: "Ai tuân giữ Lời Ta thì sẽ không bao giờ phải chết". Con không thể hiểu được lời này bằng lý luận mà chỉ có thể và sống lời ấy với tâm tình yêu mến và hoàn toàn phó thác vào Chúa mà thôi.
Lạy Chúa, xin hãy gia tăng đức tin cho con. Con tin nhưng xin Chúa thương trợ giúp cho sự cứng lòng kém tin của con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Xét đoán mù quáng.
Khi mới về xứ Ars chỉ vỏn vẹn 300 người, cha Vianney đã khởi sự xây dựng giáo xứ bằng cầu nguyện, hy sinh, hãm mình. Dần dần giáo dân từ nhiều xứ tuôn đến để nghe Ngài dạy giáo lý và để xưng tội với Ngài.
Các linh mục đồng nghiệp đều biết cha Vianney trước đây rất tầm thường và học hành rất dốt, cho nên vì ghen tương đã trình lên Đức cha địa phận rằng nhiều lần cha Vianney đã giải sai các nguyên tắc thần học luân lý.
Nghe thế, Đức cha cho gọi cha Vianney đến và giao cho cha một số trường hợp tội khó giải để cha giải trên giấy tờ rồi nộp lại cho Đức cha. Vài ngày sau, cha làm xong đem nộp và được các nhà chuyên môn khen là giải đáp đúng và khôn ngoan.
Các linh mục đồng nghiệp của cha Ars đã xét đoán theo tiêu chuẩn tự nhiên của lý trí, cộng thêm lòng ghen tỵ. Những xét đoán sai lầm đó càng làm cho các ngài mù quáng tinh thần nhiều hơn. Đó cũng là thái độ của những người Do Thái, không tin Chúa, không chấp nhận chân lý mạc khải như được kể lại trong Tin Mừng hôm nay.
Trong cuộc đối thoại với người Do Thái, Chúa Giêsu càng lúc càng mạc khải thêm về thân thế của Ngài, về nếp sống của những ai tin nhận Ngài: “Ai giữ lời Ta thì muôn đời sẽ không phải chết”. Với cái nhín và kiến thức cũng như kinh nghiệm cá nhân, người Do Thái không thể nhận biết thân thế của Chúa: “Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỷ ám”. Một vị Thiên Chúa đã bị con người bôi nhọ, chụp mũ. Con người dễ tin theo những sự thật khác hơn sự thật của Chúa. Vả lại, sự thật của Chúa đòi hỏi con người phải từ bỏ nếp sống cũ tội lỗi, những mưu tính vụ lợi, những ganh tỵ hám danh.
Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã viết: “Đức Kitô là Sự thật, không phải báo chí là sự thật, không phải truyền thanh, truyền hình là sự thật, con theo loại sự thật nào? Giàu hay nghèo, sang hay hèn, khen hay chê, không sao cả. Chấp nhận tiến trên đường hy vọng hồng phúc về ngày trở lại của Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Không nhượng bộ xác thịt, không nhượng bộ lười biếng, không nhượng bộ ích kỷ. Con không thể gọi đen là trằng, xấu là tốt, gian là ngay được”.
Trên con đường canh tân của Mùa chay, mỗi người chúng ta hãy dừng lại xét mình về thái độ của chúng ta trước những chân lý mạc khải và trước chính Đức Kitô, Đấng đang thôi thúc chúng ta tiến trên đường tin, cậy, mến.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Trí nhớ hạn hẹp
Đức Giêsu đáp:
“Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả.
Đấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông.
Các ông không biết Người; Còn tôi, tôi biết Người.
Nếu tôi nói là tôi không biết Người, Thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông
Nhưng tôi biết Người và giữ lời Người. (Ga. 8, 54-55)
Trong một xã hội có cơ cấu tổ chức như xã hội chúng ta, mọi thứ trôi theo cuộc sống buộc chúng ta phải giữ trọn nhiều giao kèo, khế ước, hợp đồng. Chúng có nhiều loại, nhiều kiểu khác nhau. Thứ này thì lâu dài như khế ước kết hôn. Thứ khác thì ngắn hạn, như giao kèo mua bán. Dù là thứ nào, hai bên hợp đồng phải tự ràng buộc mình giữ đúng lời nói hay ký kết và tôn trọng sự cam kết của mình. Được như thế, người ta gọi là trung tín. Rất đáng trách kẻ bê trễ hay quên tôn trọng những lời cam kết của mình đối với phía cho vay mượn. Sự quên lãng hay bê trễ luôn là một sức nặng đè lên đời sống cá nhân.
Có thể chúng ta cũng có thứ trí nhớ hạn hẹp đó chăng? Có thể lòng trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng hạn hẹp như vậy! Đã có lần trong lịch sử đời ta, Thiên Chúa đã can thiệp để ấn ký một giao ước đời đời giữa Ngài với chúng ta, như Thiên Chúa đã nói với Áp-ra-ham: “Và ngươi, ngươi sẽ giữ giao ước của Ta, ngươi và dòng dõi ngươi từ đời này tới đời kia”. Mỗi người chúng ta nhờ bí tích Rửa tội, đã ký kết một bản giao kèo với Thiên Chúa, một giao ước được ấn ký long trọng tuyên thệ dứt khoát và đời đời trong máu thánh Đức Giêsu Kitô.
“Chúa đã luôn nhớ lời minh ước của Ngài”. Thánh vịnh đã ca tụng Chúa như vậy. Vâng, Thiên Chúa luôn luôn trung thành và không bao giờ quên lời cam kết của Ngài đối với chúng ta. Còn chúng ta thì sao?
Noi gương Thiên Chúa, chúng ta phải trung thành nhắc nhở chúng ta nhớ đến minh ước tình yêu đã nối kết chúng ta với Thiên Chúa. Bội ước, bất trung, nếu chúng ta không tôn trọng lời đã cam kết.
Đức Giêsu Kitô dạy chúng ta hôm nay: người nhận biết Thiên Chúa phải sống lời minh ước. “Tôi biết Ngài và giữ lời Ngài” (c. 55). Sống lời Chúa mỗi ngày, chúng ta sẽ được lời Chúa soi sáng, đó là dấu chỉ bảo đảm chắc chắn nhất về lòng trung thành của chúng ta đối với minh ước của Chúa. Lúc đó Thiên Chúa sẽ rất gần gũi với chúng ta. Chúng ta sẽ không còn sợ có một trí nhớ hạn hẹp chóng quên lời giao ước.
C.G
SUY NIỆM 5: ƠN CỨU ĐỘ CỦA TÔI NHỜ HY VỌNG VÀO CHÚA (Ga 8, 51-59)
Trong tông huấn Thiên Chúa là Tình yêu, Đức Nguyên Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã viết: “Chúng ta được cứu độ là nhờ vào hy vọng”. Thật vậy, sống mà không hy vọng thì thật bi đát, nhưng điều quan trọng là chúng ta hy vọng vào ai và vào cái gì mới là điều đáng nói!
Là người Kitô hữu, niềm hy vọng chúng ta đặt ở nơi Đức Giêsu và những lời giáo huấn của Ngài. Tại sao vậy? Thưa bởi vì nơi Ngài là nguồn mạch sự sống đời đời. Ngài thông truyền sự sống ấy cho những ai tin và thuộc về Ngài.
Chân lý này chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng hôm nay khi Đức Giêsu nói Ngài là: “Đấng Hằng Hữu”.
Khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu muốn mặc khải Thiên tính của Ngài xuất phát từ Thiên Chúa.
Tuy nhiên, thay vì vui mừng và tạ ơn, những người Dothái cùng thời đã không thể chịu nổi những tuyên bố này của Đức Giêsu, nên sự đối đầu của họ với Ngài ngày càng quyết liệt, khiến họ quyết định lượm đá ném Ngài.
Ngày nay, trong xã hội thiên về thực dụng, coi trọng vật chất và thượng tôn chủ thuyết tương đối, nhiều người cũng không thể chấp nhận những sự thật của Tin Mừng, ngược lại, họ luôn đi tìm những điểm tựa mang tính nhất thời, những lời tuyên bố hão huyền và những chân lý nửa vời!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng và hy vọng nơi Chúa, chỉ có Ngài mới tồn tại vĩnh viễn, bởi vì Ngài Hằng Hữu. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi sống niềm tin và hy vọng ấy ngay trong những lựa chọn và hành động của mình để được thuộc Chúa và chung hưởng hạnh phúc cùng với những người thuộc về Nước Hằng Sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con trung kiên theo Chúa đến cùng, ngõ hầu chúng con trở nên môn đệ đích thực của Chúa trong thời đại hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
- 02/04 Niềm tin và lý trí
- 01/04 Ðức Tin Chân Chính
- 31/03 Vai Trò Của Ðấng Messia
- 30/03 Ta không kết tội. Hãy đi, đừng phạm tội nữa
- 29/03 Chúa Giêsu phục sinh Ladarô
- 28/03 Dư luận về Chúa Giêsu
- 27/03 Nguồn gốc của Chúa
- 26/03 Chứng Của Chúa Cha
- 25/03 Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai
- 24/03 Chữa Người Bất Toại 38 năm