Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
04/02 Chúa Giêsu sai đi mười hai tông đồ
- Viết bởi Mc 6, 7-13
Chúa Giêsu sai đi mười hai tông đồ.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 4 thường niên.
"Người bắt đầu sai các ông đi".
Lời Chúa: Mc 6, 7-13
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế.
Và Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ".
Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Không được mang gì
Suy niệm:
Đức Giêsu đã chọn nhóm Mười Hai
để họ ở với Ngài và để được Ngài sai đi rao giảng và trừ quỷ (Mc 3, 14-15).
Bây giờ, sau một thời gian sống gần gũi bên Thầy,
đã đến lúc họ được sai đi để làm những điều họ thấy Thầy làm:
kêu gọi người ta hoán cải, trừ quỷ, xức dầu chữa bệnh nhân (cc. 12-13).
Các môn đệ trở nên cánh tay nối dài của Thầy.
Họ được Thầy Giêsu tin tưởng cho chia sẻ cùng một sứ mạng.
Các môn đệ mang gì khi lên đường?
Một lệnh sai đi, một người bạn đồng hành, một quyền lực trên thần ô uế.
Đức Giêsu cho phép họ mang một cái gậy và đôi dép để đi đường xa.
Tất cả hành trang chỉ có thế!
Những thứ bị cấm mang khi đi đường
là những thứ vốn tạo ra sự bảo đảm hay dư thừa không cần thiết:
lương thực, bao bị, tiền giắt lưng, hai áo trong.
Như thế người được sai đi phải hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa lo liệu,
và phải hoàn toàn cậy dựa vào lòng tốt mỗi ngày của tha nhân.
Nhẹ nhàng, đơn sơ là thái độ của người luôn sẵn sàng ra đi.
Siêu thoát, vô vị lợi là thái độ của người không dính bén với vật chất.
Người tông đồ cũng không dính bén đến cơ sở hay tiện nghi.
Họ không tìm cách đổi chỗ ở để có chỗ tốt hơn (c. 10).
Hơn nữa họ chấp nhận sự thất bại, sự từ chối không muốn đón tiếp (c.11),
vì chính Thầy của họ cũng đã chịu cảnh ngộ tương tự ở quê nhà.
Nhóm Mười Hai đã ra đi theo lệnh Thầy Giêsu
và đã làm được những điều họ không dám mơ (cc. 12-13).
Họ đã học được kinh nghiệm về tin tưởng, khó nghèo, siêu thoát.
Họ đã thấy sức mạnh của Nước Trời đang thu hẹp lại mảnh đất của Satan.
Họ đã đem lại niềm vui cho bệnh nhân và người khao khát Tin Mừng.
Giáo Hội mọi thời vẫn được nhắc nhở từ đoạn Lời Chúa trên đây.
Chẳng ai giữ từng chữ của bản văn, nhưng tinh thần thì không được bỏ.
Sự nhẹ nhàng, cơ động của một Giáo Hội đến phục vụ con người,
luôn kéo chúng ta ra khỏi những nặng nề, trì trệ dễ vướng phải.
Hôm nay Chúa cho phép tôi được mang gì
và cấm tôi mang gì?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đuờng
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm đuợc những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm đuợc viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đuờng,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: VƯƠNG QUYỀN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đa-vít là vị vua đạo đức. Chúa hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Vương quyền thuộc về nhà ông mãi mãi. Nếu con cháu ông đi trong đường lối của Chúa. Ý thức điều đó nên trước khi lìa đời Đa-vít kỹ lưỡng dặn dò Sa-lô-môn: “Hãy tuân giữ các huấn lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của con, mà đi theo đường lối của Người, là giữ các giới răn, mệnh lệnh, luật pháp, và chỉ thị của Người, như đã ghi trong Luật Mô-sê. Như thế con sẽ thành công trong mọi việc con làm và trong mọi hướng con đi, và Đức Chúa sẽ thực hiện lời Người đã phán với cha rằng: “Nếu con cái ngươi sống cho phải đạo, là hết lòng hết dạ bước đi trung thực trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngự trên ngai Ít-ra-en”“(năm chẵn).
Lời hứa đó đã ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Nhưng đã đổi mới. Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vít. Nhưng khai mạc một vương quốc mới. Không phải vương quốc trần thế. Nhưng vương quốc trên trời. Không còn cai trị Ít-ra-en cũ với 12 chi tộc. Nhưng một dân mới đặt trên nền tảng 12 tông đồ. Không còn chiến đấu với các dân nước lân bang. Nhưng chiến đấu với thần ô uế, với quỉ dữ. Không còn giữ luật Mô-sê. Nhưng tuân giữ Lời Chúa. Không cậy dựa vào sức mạnh trần gian. Nhưng tin vào sức mạnh của Thiên Chúa. Không chỉ làm cho dân được an cư lạc nghiệp. Mà còn cho dân được an vui hạnh phúc. Nhưng để được làm dân trong vương quốc mới của Thiên Chúa, ta phải ăn năn sám hối. Từ bỏ lối sống cũ trong tội lỗi. Để sống đời sống mới trong ân sủng, thánh thiện. “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh”.
Vương quyền của Chúa Giê-su bền vững muôn đời. Vương quyền Người nhận được vì đã đổ máu ký kết giao ước mới: “Máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu A-ben”. Ta được trở thành công dân mới. Sống trong “thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời”. Nơi đó ta không còn bị tà thần ám ảnh. Vì ta sống “với muôn vàn thiên sứ”. Nơi đó ta “tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện”. Ta tới vương quốc hạnh phúc muôn đời: “Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời”.
SUY NIỆM 3: Sứ mệnh tông đồ
Một tôn giáo chỉ tồn tại, nếu mỗi ngày một phát triển và có thêm người gia nhập. Kitô giáo do Chúa Giêsu thiết lập cũng nằm trong diện đó. Dưới con mắt Chúa, mỗi linh hồn đều có giá trị như nhau và mỗi người đều được sai đi tìm những con chiên lạc và dẫn chúng về đồng cỏ xanh tươi. Ngài ý thức rằng Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải để bị vất vào lò lửa đời đời, nhưng là để được thu vào kho lẫm. Do đó, mối bận tâm lớn nhất của Ngài khi đến thế gian chính là đem Tin Mừng cứu độ cho mọi người.
Từ trước tới giờ, Ngài vẫn làm việc đó một mình, nhưng nay vì tính cách khẩn thiết của việc tông đồ, Ngài cần có những con người cộng tác: Mùa gặt bề bộn, mà thợ gặt thì ít. Sứ mệnh tông đồ từ nay được trao cho họ. Sứ mệnh đó thật cao cả và cấp bách, vì thế Chúa đòi hỏi nơi họ sự thoát ly trọn vẹn, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa quan phòng. Ra đi một cách thảnh thơi, không bồn chồn, không bối rối, không bận tâm đến bị, đến tiền. Không những thế, họ còn phải hy sinh tất cả cho sứ mệnh, đo lường mọi sự theo lợi ích của Nước Thiên Chúa. Họ chấp nhận giao tiếp với thế gian nếu đó là cơ hội để phổ biến sứ điệp, họ không mưu cầu tư lợi, nhưng dũ bỏ hết những gì không liên quan đến sứ mệnh, chỉ như thế, họ mới có thể đạt tới trình độ siêu thoát và dễ dàng chinh phục các linh hồn về cho Nước Chúa.
Mỗi người chúng ta cũng được kêu gọi vào sứ mệnh tông đồ, chúng ta có ý thức sứ mệnh cao cả ấy không? Các linh hồn được cứu rỗi hay bị luận phạt, một phần lớn tùy thuộc vào đời sống của chúng ta. Ðiều đó có thể làm chúng ta run sợ, nhưng nếu chúng ta nhiệt tâm mở rộng Nước Chúa nơi các tâm hồn, chúng ta sẽ được an tâm, không ai có thể trách chúng ta đã đùa giỡn với số phận đời đời của họ, và các linh hồn sẽ là triều thiên cho chúng ta trong ngày Chúa vinh quang ngự đến.
Chúng ta hãy sống kết hiệp với Chúa. Tất cả hoạt động của chúng ta sẽ chẳng có giá trị gì, nếu không bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa. Càng kết hiệp với Chúa, chúng ta càng có khả năng chu toàn bổn phận người tông đồ giữa dân Chúa, và như vậy chắc chắn chúng ta sẽ nhận được phần thưởng Chúa hứa cho người thợ tận tâm, nhiệt tình cho Nước Chúa trị đến.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Nếp sống nghèo cần thiết
Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng. (Mc. 6, 7-8)
Hôm nay các Tông đồ bắt đầu thực tập công việc truyền giáo. Các ông đã được thấy Chúa làm, nghe Chúa nói, thì giờ đây đến lượt các ông nói và làm. Tuy thời kỳ huấn luyện các ông còn chưa xong – chỉ đến ngày Lễ Hiện Xuống công việc này mới kết thúc – nhưng các ông đã có thể thử nghiệm cho biết cuộc đời truyền giáo là thế nào.
Khi sai đi truyền giáo, Đức Giêsu đã dặn dò, chỉ thị cho các Tông đò nhiều điều. Chúng ta sẽ lưu ý hai sự kiện có ý nghĩa này: dặn dò sống khó nghèo và làm cho xong công việc.
Đừng mang theo gì cả
Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ không được mang theo gì cả; các ông phải ra đi không cồng kềnh vướng vít, không mang theo ngay cả đồ ăn thức uống nữa.
Tôi nghĩ: xem ra đây là một điều kiện để người truyền giáo có được thảnh thơi. Ra đi không hành lý, chính là từ chối kéo theo mình những gì là riêng tư, là không khui và phô ra trước mặt người khác, tiền bạc, của cải, uy thế của mình… Ra đi không hành lý là muốn nói lên rằng chỉ có bản thân, tư cách con người truyền giáo mới là chiếc xe tốt cần thiết cho việc đi rao giảng Tin mừng. Làm chứng là nói bằng chính con người và đời sống của mình, chứ không phải bằng nhừng lời nói xuông mà thôi, nghĩa là sống sao thì dạy vậy, và dạy sao thì sống vậy.
Một khía cạnh khác nữa của nếp sống nghèo cần có đối với người truyền giáo là chấp nhận lòng hiếu khách của người ta, sẵn lòng khi được người ta mời. Người ta dễ đón nhận mình hơn khi ta không choán hết chỗ của họ!
Ta đến không mang theo đồ đạc lỉnh kỉnh, người ta sẵn lòng đón tiếp ta; hai việc này thường đi đôi với nhau. Ai cũng biết rõ rằng nếu ta tới nhà họ với đôi bàn tay trống – ngoại trừ chứng từ của đời sống ta - thì sự tiếp đón của họ mới thật trong sáng: người ta sẽ tỏ ra quan tâm đến chứng từ, chứ không phải vì món đồ nào đó được cất dấu trong những chiếc va-li của ta.
Làm cho xong công việc
Các Tông đồ đều là những người mới vào nghề; việc các ông làm chẳng phải là điều mắt thấy tai nghe: xức dầu cho vài người bệnh, săn sóc cho mấy bệnh nhân, úy lạo những người khốn khổ, thất vọng.
Có lẽ chúng ta quá tán dương việc các Tông đồ làm, nên đâm ra nhát sợ không có khả năng làm chứng như các ngài. Lần này, ta hãy cứ tạm biết rằng các ngài cũng đã chỉ làm những việc bình thường mà ta có thể làm được, và trước hết các ngài đã trở thành những bàn tay săn sóc, trước khi miệt mài với công việc rao giảng.
Lúc này đây, Chúa Giêsu đang bảo ta: “Nào con, ta đi làm việc thôi, và hãy làm với tinh thần đơn sơ mà can đảm!”.
Suy Niệm 5: GIẢNG GÌ? GIẢNG NHƯ THẾ NÀO? (Mc 6,7-13)
Sau khi được Đức Giêsu gọi và chọn các môn đệ, các ông đã ở lại với Ngài một thời gian, nay Ngài sai họ đi để rao giảng Tin Mừng.
Đức Giêsu truyền cho họ đi rao giảng, và không những thế, Ngài còn dạy cho họ biết giảng điều gì, và giảng như thế nào!
Về nội dung lời giảng: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”. Đây cũng chính là sự tiếp nối lời giảng dạy của Đức Giêsu và của Gioan Tiền Hô.
Về cách giảng:
- Trước tiên, để lời giảng của các ông có giá trị, họ phải là chứng nhân.
- Thứ đến, chữa lành thể xác bằng việc chữa bệnh.
- Cuối cùng, giải thoát con người khỏi xiềng xích trói buộc của Ma Quỷ.
Về thái độ, tác phong của người môn đệ: người thừa sai phải là người nghèo. Nghèo để thanh thoát; để liên đới; để tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi loan báo Lời Chúa cho mọi người, nhất là những người đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần.
Người đi theo Chúa phải là người luôn luôn xây dựng và cổ võ sự hiệp nhất, sống tình huynh đệ và yêu thương, trở nên chứng nhân cho Lời Chúa bằng hành động.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo. Nhưng trước tiên, xin cho chúng con biết sống nghèo, tin tưởng, phó thác nơi Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai đi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Cha Piô Ngô Phúc Hậu vị tông đồ truyền giáo vùng sông nước mênh mông, đất đai thẳng cánh cò bay hiu quạnh ở vùng cực nam của Tổ quốc, cha chia sẻ về một trong những kinh nghiệm truyền giáo: Mình xách môbylét đi một đường, vừa đi vừa liếc, lòng thầm cầu nguyện để Chúa chọn cho người truyền giáo một nơi dừng chân. Tự nhiên lòng mình thấy ấm hẳn lên khi nhác thấy một căn nhà lá có trồng cây lựu ở phía trước. Trái lựu to bằng nắm tay đang đánh đu theo gió. Như một phản xạ, mình lái môbylét vào tới hàng ba, làm bộ ngắm nghía cây lựu. Bà chủ nhà, nét mặt hiền từ, mái tóc muối tiêu, nghe tiếng xe nổ và tắt máy vội vàng chạy ra.
- Thầy kiếm ai đó?
- Chào bác. Cây lựu nhà bác dễ thương quá, cho tôi ngắm một tí.
- Thì vô trong nhà uống nước đã.
- Bác thứ mấy để tôi xưng hô cho dễ.
- Tôi thứ năm. Thứ của ông nhà tôi.
- Thế bác trai đi đâu rồi, bà Năm?
- Ông tôi mất từ lâu rồi.
- Bây giờ bà Năm ở với ai?
- Có hai bà cháu à. Thầy ở đâu mà vô đây?
- Tôi ở Ô Môn vô đây dạy giáo lý. Sáng vô, chiều về. Đi tới đi lui thấy bất tiện quá. Tôi muốn ở lại đây luôn, mà chưa kiếm được chỗ nào ở cho thuận lợi.
- Thì thầy ở đây với tôi. Nhà rộng rinh à. Thầy ở đây thì cũng như con cháu trong nhà chứ gì.
- Thế bà Năm theo đạo nào?
- Tôi chẳng theo đạo nào hết. Thờ ông bà vậy thôi.
- Cám ơn Chúa. Cám ơn bà Năm. Vậy ngày mai tôi vô ở luôn nhá.
- Ừa (Trích Nhật ký Truyền giáo, Bà Năm).
Suy niệm
Người môn đệ được sai đi, hành trang duy nhất là sự nhiệt thành và lòng tin thác cậy trông. Mang tâm tình của Đức Kitô truyền cho các môn đệ: “Đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo”. Người lại bảo: “Đến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi”...
Thánh Gioan Kim Khẩu suy niệm lệnh truyền của Chúa trên các tông đồ: “Ngài phòng giữ cho các môn đệ khỏi mọi sự nghi ngờ của những ý niệm trần gian lưu tâm; Ngài cất đi nơi các ông khỏi mọi sự lo toan trần thế, để toàn tâm lo việc Lời Chúa, và Ngài làm cho các ông biết quyền năng và sự chăm sóc mà Ngài dành cho họ”. Thật thế, đêm hôm trước cuộc tử nạn, Ngài chất vấn các ông về sự quan tâm của chính Ngài: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?” (Lc 22,35)… Sau khi đã trang bị cho các ông những quyền lực cần thiết cho sứ vụ, Ngài ra lệnh cho các ông để lại tất cả những gì không cần thiết” (Theo Homélie XXXII sur l’évangile selon saint Matthieu, 4). Để lại những lo toan trần thế, không cần thiết để làm “nhẹ bớt”, sẵn sàng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần như Đức Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận nhận định: “Hãy cắt đứt xích xiềng ràng buộc con, dù là xích vàng, để tiến tới. Cuối đường có Chúa đón chờ con” (ĐHV số 179).
Làm việc tông đồ một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Vì thế Chúa Giêsu nói đến hình ảnh sai hai người ra đi. Trong Công vụ sứ đồ, các thừa sai luôn luôn đồng hành với nhau: Phêrô và Gioan (x.Cv 3,1; 4,13); Phaolô và Barnabê (x.Cv 13,2); Giuđa và Sila (x.Cv 15,22b)…
Chúa gọi và sai người môn đệ. Người tín hữu qua bí tích Rửa Tội cũng được gọi sai đi. Mỗi ngày, hay ít là Chúa nhật, chúng ta tham dự thánh lễ, Missa – Messe, chữ Messe- Missa - thánh lễ có nghĩa là “sự sai đi” như lời truyền: “Anh hãy đi! Anh em được sai đi” “Ite, Missa est”. Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống sai đi và trao cho mọi người chúng ta. Sai đi để sinh hoa kết quả tôn vinh Thiên Chúa như lời mời gọi: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15,8), đó là ơn gọi chung của mọi Kitô hữu như Chúa nói: “Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại”(Ga 15,16).
Thật thế, đời con là một sự ra đi, ra đi tiến vào đời vì được sai như lời ca được tấu lên tiễn bước con: “Ngài sai tôi đi vào đời, niềm tin vui gieo lòng người, Ngài sai tôi đi mọi nơi…”.
Suy Niệm 7: Chúa sai các Tông đồ đi truyền giáo
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau một thời gian huấn luyện, hôm nay Chúa Giêsu sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Chúa sai các ông đi từng hai người một, ban cho các ông có quyền chữa bệnh và khử trừ ma quỉ. Người không cho các ông mang theo gì, trừ ra cây gậy và đôi dép, để các ông hoàn toàn phó thác vào Người. Người dặn bảo các ông: đến nơi nào thì cứ kiên trì ở đó giảng và làm phúc cho họ. Nếu nơi nào người ta không chịu nghe lời thì hãy đi nơi khác, nhưng hãy cảnh cáo cho họ biết lỗi của họ.
2. Hôm nay các Tông đồ bắt đầu thực tập công việc truyền giáo. Trong thời gian qua, các ông đã được trong thấy việc Chúa làm, Chúa giảng dạy... thì giờ đây đến lượt các ông phải nói và làm. Tuy thời kỳ huấn luyện các ông còn chưa xong – chỉ đến ngày lễ Hiện Xuống việc này mới kết thúc – nhưng các ông có thể thử nghiệm cho biết cuộc đời truyền giáo là thế nào.
3. Chúa muốn các ông sống khó nghẻo và đơn sơ phó thác.
Chúa Giêsu căn dặn các tông đồ không được mang theo gì cả, các ông phải ra đi không cồng kềnh vướng vít, không mang theo ngay cả đồ ăn thức uống nữa.
Xem ra đây là một điều kiện để người truyền giáo có được thảnh thơi. Ra đi không hành lý, chính là từ chối kéo theo mình những gì là riêng tư, và phô ra trước mặt người khác, tiền bạc, của cải, uy thế của mình... Ra đi không hành lý là muốn nói lên rằng chỉ có bản thân, tư cách con người truyền giáo mới là chiếc xe tốt cần thiết cho việc đi rao giảng Tin Mừng. Làm chứng là nói bằng chính con người và đời sống của mình, chứ không phải bằng những lời nói xuông mà thôi, nghĩa là sống sao thì dạy vậy, và dạy sao thì sống vậy.
4. Một khía cạnh khác của nếp sống nghèo cần có đối với người truyền giáo là chấp nhận lòng hiếu khách của người ta, sẵn lòng khi được người ta mời. Người ta dễ nhận mình hơn khi ta không choán hết chỗ của họ. Ta đến không mang theo đồ đạc lỉnh kỉnh, người ta sẵn lòng đón tiếp ta; hai việc này thường đi đôi với nhau. Ai cũng biết rõ rằng nếu ta tới nhà họ với đôi bàn tay trống – ngoại trừ chứng từ của đời sống ta – thì sự tiếp đón của họ mới thật trong sáng: người ta sẽ tỏ ra quan tâm đến chứng từ, chứ không phải vì món đồ nào đó được cất giấu trong những chiếc Va-li của ta.
5. Chúa muốn các nhà truyền giáo làm chứng cho Người.
Mỗi người chúng ta có trách nhiệm phải thi hành sứ mạng tiên tri nghĩa là phải làm chứng cho Chúa Giêsu như lời Người dạy: “Các con là chứng nhân của Thầy”. Rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa không phải chỉ dùng lời nói suông nhưng phải dùng cả đời sống, cả con người của mình để làm chứng, vì con người chúng ta là phương tiện hữu hiệu để chỉ cho người ta biết Thiên Chúa. Vì vậy, mỗi người phải có đời sống gương mẫu để xứng đáng là “chứng nhân” của Chúa, ngược lại chỉ là những“phản chứng” thôi. Cho nên chúng ta có thể nói: cách giảng hữu hiệu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là cuộc sống nghèo, không cần gì khác ngoài ơn Chúa.
Về phương diện này có người kể lại rằng: “Đã có lần Lénine nói về thánh Phanxicô Assisi: “Để có thể thay đổi bộ mặt thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy” (Trích Mỗi ngày một Tin vui”).
6. Chúa cũng muốn chúng ta phải làm chứng nhân cho Chúa.
Mỗi công việc đều có phương tiện để đạt tới mục đích. Trên thế giới này có biết bao nhiêu ngàng nghề, biết bao lãnh vực cho nên có vô vàn vô số những phương tiện thích hợp. Trong lãnh vực truyền giáo, Chúa cũng dùng đủ mọi phương tiện để nhờ đó người ta có thể nhận biết Chúa, nhưng phương tiện sống động và hữu hiệu nhất là chính con người chúng ta, chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa. Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
7. Truyện: Thánh Phanxicô Assisi giảng đạo.
Ngày kia, thánh Phanxicô Assisi nói với thầy dòng: “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo”. Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà”! Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao”?
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ (Góp nhặt).
03/02 Chúa Giêsu tại quê hương Nadarét
- Viết bởi Mc 6,1-6
Chúa Giêsu tại quê hương Nadarét.
Thứ Tư tuần 4 thường niên.
"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".
Lời Chúa: Mc 6,1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình". Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Quê quán của Người
Suy niệm:
Chẳng rõ Đức Giêsu đã xa gia đình, xa ngôi làng Nadarét bao lâu rồi.
Nhưng hôm nay, Ngài lại trở về với hội đường của làng vào ngày sabát.
Dù sao Ngài đã có danh tiếng trước đám đông, lại có môn đệ đi theo…
Trở về với hội đường thân quen, Ngài được mời đọc sách thánh và giảng dạy.
Nghe lời Ngài giảng, nhiều người sửng sốt ngỡ ngàng.
“Bởi đâu ông này được như thế?
Ông được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?
Ông làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì?” (c. 2).
Những câu hỏi cho thấy người dân Nadarét nhìn nhận
sự khôn ngoan trong lời giảng và quyền năng trong việc làm
mà họ bắt gặp nơi con người ông Giêsu, người cùng làng với họ.
Chỉ có điều là họ nghĩ không ra nguồn gốc của những chuyện đó.
Tại sao họ lại không coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa,
và coi Thiên Chúa là nguồn gốc mọi khả năng lạ lùng của Ngài?
Câu trả lời là vì người dân làng đã quá quen với ông Giêsu.
Họ tự hào biết rất rõ về nghề nghiệp của ông: một bác thợ.
Họ tự hào biết rất rõ về họ hàng ruột thịt: mẹ và anh chị em của ông,
những người họ có thể kể tên, những người đang là bà con lối xóm với họ.
Họ cũng biết rõ quãng đời thơ ấu và trưởng thành của ông Giêsu.
Chính cái biết này đã ngăn cản
khiến họ không thể tin ông Giêsu là một ngôn sứ.
Hay đúng hơn chính vì họ có một hình ảnh rất cao cả về một ngôn sứ
nên quá khứ bình thường của Đức Giêsu khiến họ không thể tin được.
Người dân Nadarét đã không ngờ mình có người làng cao trọng đến thế:
một ngôn sứ, một Đấng Kitô, một Thiên Chúa làm người, ở với họ.
Và họ cũng không ngờ sự cao trọng đó lại được gói trong lớp áo tầm thường,
không ngờ Đức Giêsu sẽ là người làm cho cả thế giới biết đến Nadarét.
Làm thế nào chúng ta tránh được sai lầm của người Nadarét xưa?
Cần tập nhận ra Chúa đến với mình trong cái bình thường của cuộc sống.
Cần thấy Chúa nơi những người tầm thường mà ta quen gặp mỗi ngày.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: BẢN TÍNH KHÓ DỜI
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người khó thay đổi. Khó thay đổi vì quá quen thuộc. Đã thành nếp. Nếp ăn. Nếp nghĩ. Người dân Na-da-rét quá quen với hình ảnh Chúa Giê-su thợ mộc. Cha Người làm thợ mộc. Người cũng làm thợ mộc. Không thể khác được. Khó thay đổi vì ngại ngùng. Tuy nghe tiếng Người ở Ca-phác-na-um đã làm những điều kỳ diệu. Tuy trực tiếp nghe những lời lẽ khôn ngoan Người nói. Họ ngạc nhiên vì sự thay đổi nơi Chúa Giê-su. “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Nhưng chính họ không chịu thay đổi. Đã quen với ý niệm Giê-su thợ mộc, họ không thể đổi thành ý niệm Giê-su tiên tri được. “Và họ vấp ngã vì Người”.
Con người vốn yếu đuối và hay sai lầm. Vì thế cần thay đổi. Cần sám hối. Cần được chỉ dạy.
Thư Do thái khuyên nhủ ta hãy biết khiêm tốn nhận lời chỉ dạy của Chúa. Đó là tình yêu thương của Chúa. Yêu cho roi cho vọt. “Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy”. Chỉ khi khiêm tốn đón nhận, ta mới thay đổi để nên tốt hơn. “Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính” (năm lẻ).
Đa-vít trở nên thánh vương vì ngài biết khiêm nhường chấp nhận tội lỗi. “Con đã phạm tội nặng khi làm như thế. Giờ đây, lạy Đức Chúa, xin bỏ qua lỗi lầm của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động rất ngu xuẩn”. Sám hối ngay khi được tiên tri Gát cảnh tỉnh. Và sẵn sàng đón nhận sự sửa dạy của Chúa. “Ngài coi, chính con đã phạm tội, chính con có lỗi; nhưng đàn chiên đó đã làm gì? Xin tay Ngài cứ đè trên con và nhà cha con!” Thay đổi như thế cần sự khiêm nhường. Biết mình. Phục thiện. HOàn toàn đón nhận thánh ý (năm chẵn). Đó là điều người dân Na-da-rét thiếu. Họ kiêu ngạo. Không biết mình. Và tệ nhất là không phục thiện để thay đổi.
Xin cho con biết khiêm nhường. Biết mình. Và mạnh dạn thay đổi. Theo lời Chúa dạy.
SUY NIỆM 3: Cuộc sống âm thầm
Thánh Gioan Bosco, nhà giáo dục giới trẻ lừng danh nhất của thế kỷ 19 đã kể lại giấc mơ năm Ngài lên 9 tuổi như sau: Ngài mơ thấy mình ở giữa một đám trẻ đang chơi đùa, nghịch ngợm, cãi cọ và nói những lời thô tục. Muốn cho đám trẻ một bài học, cậu bé liền gọi một số em ra và dùng nắm tay để đe dọa. Nhưng chính lúc đó, Chúa Giêsu hiện ra gọi cậu bé lại và nói:
- Này Gioan, muốn biến những con chó sói này thành chiên con, thì con không nên dùng sức mạnh của đôi tay, mà hãy dùng lòng tốt.
Lúc đó, cậu bé thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, chắc con không làm được đâu.
Chúa Giêsu liền chỉ cho Gioan Bosco thấy gương mặt hiền hậu của một người mẹ đang đi bên cạnh và nói:
- Ðây là mẹ của con và cũng là mẹ của chúng nữa. Với mẹ, con có thể biến đổi giới trẻ cho Nước Chúa, cho một thế giới tốt đẹp hơn.
Quả thật, về sau, cả công cuộc giáo dục giới trẻ của Gioan Bosco đều được đặt dưới sự hướng dẫn và bảo trợ của Mẹ Maria. Nhưng để có thể đến với Mẹ Maria, Gioan Bosco đã tiếp nhận lời dạy bảo và gương sáng của chính người mẹ ruột của mình. Có lẽ ngài không bao giờ quên lời căn dặn của mẹ ngài: "Mẹ đã sinh ra trong cảnh nghèo, mẹ đã sống trong cảnh nghèo; nếu con muốn làm linh mục để nên giàu có, thì mẹ sẽ không bao giờ đến thăm con nữa".
Mẹ Maria có lẽ đã không bao giờ nói một lời như thế với Chúa Giêsu, khi Ngài đã sống bên cạnh Mẹ Maria tại Nazareth trong suốt 30 năm. Tin Mừng đã không ghi lại một lời nào của Mẹ trong giai đoạn này, nhưng chắc chắn, cũng như mọi đứa trẻ, Chúa Giêsu đã sống và lớn lên một cách bình thường, nghĩa là Ngài đã từng uống từng lời dạy dỗ của Mẹ. Sống kiếp người chỉ có 33 năm, thì 30 năm, Chúa Giêsu lại dành cho cuộc sống ẩn dật âm thầm tại Nazareth. Ðây chắc chắn không phải là một giai đoạn uổng phí trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã không lập gia đình, nhưng đã sống phần lớn cuộc sống của Ngài trong gia đình, một cuộc sống âm thầm và bình thường, đến độ những người đồng hương của Ngài phải thốt lên với giọng gần như khinh bỉ: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?"
Phản ứng của những người đồng hương về những năm âm thầm của Chúa Giêsu tại Nazareth là một xác quyết rằng Chúa Giêsu đề cao đời sống gia đình. Ngài đã không sống như một siêu nhân, Ngài đã không làm bất cứ một việc phi thường nào, nhưng đã sống một cách bình dị trong cảnh nghèo như mọi người. Chính vì Con Thiên Chúa đã sống một cách bình dị những thực tại hàng ngày của cuộc sống gia đình, mà đời sống ấy mang một giá trị và có ý nghĩa đối với con người. Tất cả những biến cố trong cuộc sống của Con Thiên Chúa làm người đều đáng được chúng ta chiêm ngưỡng, và trong ánh sáng của những biến cố ấy, chúng ta được mời gọi để nhìn vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Nguyện xin Chúa thánh hóa cuộc sống mỗi ngày của chúng ta, để chúng ta sống một cách sung mãn từng giây phút và trở thành nhân chứng tình yêu Chúa trước mặt mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Quen quá hóa lờn
Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày sa bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc. 6, 1-2)
Hẳn một ngày nào đó bạn đã có một kinh nghiệm này về chụp ảnh: để lấy hình một đài kỷ niệm hoặc một tòa nhà, bạn phải lùi lại xa. Đứng gần quá bạn chỉ trông thấy được một khối khổng lồ, nặng nề như muốn đè bẹp ta. Khi lấy ảnh quá gần, ta chỉ thấy được những tiểu tiết, không có được cái nhìn khái quát.
Những tương quan xã hội, gia đình, bằng hữu của ta cũng chịu chung số phận như vậy. Gần nhau quá nhiều dễ làm ta mất ý thức về người khác, nên dễ lờn, dễ coi thường… có khi lại chỉ nhìn thấy một vài khuyết điểm nhỏ nhoi của họ, mà không nhận ra bao điểm tốt khác.
Những người làng Nadarét đã có một cái nhìn quá gần, quá thiển cận về Chúa Giêsu. Đúng là “Gần chùa gọi Bụt bằng anh!”.
Từ mệt mỏi đến chán nản
Làm sao giải thích hiện tượng này?
Chủ yếu là bởi tại ta chỉ là những con người phàm trần, những người lớn. Phải, ta mau chán, mau quen lờn khiến cho cái mới dễ trở nên cũ, không còn hấp dẫn, như ta vẫn thường nói “có mới nới cũ” là vậy đó. Thực ra chỉ có các trẻ em – và những ai giống như chúng – mới có thể giữ cho cái nhìn ngỡ ngàng và cảm phục của mình luôn mới mẻ. Tuổi trẻ thường ngưỡng mộ các anh hùng, hoặc tuổi trẻ tài cao, như ta vẫn nói. Thế rồi, sau một thời gian, ta lại vội vã thu mình vào khung cảnh thường nhật và nếp sống đã quen, hầu che dấu đi những nỗi chán nản thất vọng của ta. Ta không còn ngưỡng mộ ai khác, ngay cả chính bản thân mình nữa.
Từ lòng tin đến nhận biết
Thế nên câu Phúc âm sau đây tuy vắn vỏi nhưng thật có tầm quan trọng: “Người lấy làm lạ vì họ không tin!”…
Đức tin không những là cần thiết để đón nhận lời Chúa Giêsu quả quyết Người là Con Thiên Chúa và là Con Người. Đức tin là cần thiết cốt để hiểu biết rõ Đức Kitô, cũng như để nhận biết mọi con người vậy.
Ta chỉ biết rõ một người, nếu như ta có lòng tin vào họ. Con người dù là nam hay nữ đều là một huyền nhiệm. Phải tin vào huyền nhiệm đó, nghĩa là tin vào cái thực thể phong phú, không bao giờ nắm bắt hết được, tin vào cái chiều sâu khôn lường của một nhân vị. Đó chính là nền tảng của mọi nhận thức vậy.
Nhận biết một người là tin trưóc rằng người ấy là một con người.
Tiếp đó, chúng ta mới sẽ có thể tin bằng tất cả sự thật rằng nơi con người này là Đức Giêsu Kitô còn có một huyền nhiệm khác nữa – huyền nhiệm là Con Thiên Chúa.
Suy Niệm 5: SỐ PHẬN TIÊN TRI VÀ QUÊ HƯƠNG (Mc , 6, 1 – 6)
Trong cuộc sống đời thường, người ta vẫn hay nói: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”; hay: “Bụt chùa nhà không thiêng, thiêng Bụt chùa người”.
Hôm nay, Đức Giêsu bị chính đồng hương của mình khinh miệt. Chuyện kể rằng: sau một khoảng thời gian, Đức Giêsu công khai thi hành sứ vụ, hôm nay, Ngài trở về nơi chôn nhau cắt rốn để rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Mặc dù lời dạy của Ngài thật khôn ngoan và uy quyền, thế nhưng với những người đồng hương, họ sẵn có tính kỳ thị, và chính từ đó, lòng họ trở nên chai lỳ. Họ nói với nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?".
Lối phản ứng trên đây cho thấy một sự lạnh nhạt, và không chấp nhận những giáo huấn của Đức Giêsu, mặc dù vẫn biết đấy là lời khôn ngoan!
Lối nói: "Con bà Maria" là lối nói kiểu khinh thường. Mẹ Maria cũng là người bình thường như ai, vậy thì một người vô danh tiểu tốt như thế không thể sinh ra một người con phi thường được, nên họ có đủ lý do để khước từ Đức Giêsu!
Trong cuộc sống của chúng ta, chắc cũng không thiếu những lối suy nghĩ như vậy! Một khi đã có sẵn trong lòng sự kỳ thị nào đó, thì nơi người ấy không có chút gì là tốt và chúng ta cũng không ngừng tìm mọi cách để làm cho họ không còn uy tín để làm việc...
Tại sao lại có những lối suy nghĩ xa lạ với Tin Mừng như thế? Thưa! Đơn giản là vì sự ích kỷ, đố kỵ, hẹp hòi và kiêu ngạo luôn luôn ngự trị trong lối nhìn và cách nghĩ của chúng ta, khiến ta không thể vượt ra xa và nhìn rộng để thấy tổng quát.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta không ngừng phấn đấu để vượt thắng những tham sân si đó, sống quảng đại và sẵn sàng đón nhận những giá trị tốt nơi người anh chị em chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con có cái nhìn của Chúa, để chúng con biết yêu thương không giới hạn và sẵn sàng đón nhận anh chị em mình như Chúa đã quảng đại đón nhận chúng con là con Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét
Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện
Đại thi hào R. Tagore, thi sĩ nổi tiếng Ấn Độ, là người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu…
Một ngày kia ông làm được một bài thơ và đưa cho bố coi thử. Chẳng biết bố có đọc hết hay không, nhưng liền nhăn mũi mà bảo: “Dở ẹc”.
Ngày hôm sau, cậu lại sáng tác một bài thơ khác và cũng đưa cho bố coi thử. Lần này bố liền “kê tủ đứng vào mũi” cậu nhóc: “Đúng là bài thơ… con cóc”.
Bực quá, cậu nhóc bèn chơi trò láu cá, cậu nghĩ ra một cái mưu nho nhỏ, đó là đem bài thơ vừa mới làm xong, chép lại cẩn thận, rồi ghi thêm xuất xứ từ trong một tập thơ cổ.
Lần này thì bố cứ đọc đi đọc lại, rồi vỗ đùi đánh đét một phát và phán: “Tuyệt vời, tuyệt vời, còn trên cả tuyệt vời nữa”.
Sau đó, ông bố đem bài thơ khoe với anh con trai lớn, đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Cả hai bố con đều tấm tắc khen lấy khen để, rồi lại còn muốn đem trình làng cho bà con thiên hạ cùng thưởng thức. Và để cho ăn chắc, bèn bảo cậu nhóc đem cuốn thơ cổ ra để đối chiếu. Tới lúc đó thì mới vỡ lẽ ra: bài thơ ấy chính là của cậu nhóc. Ông bố giận sôi lên sùng sục, nhưng cũng cảm thấy thán phục cậu nhóc và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình (Theo trang mạng Dũng Lạc).
Suy niệm
Dân làng Nadarét, quê hương của Đức Kitô không tin vào Ngài, Đấng được Thiên Chúa sai đến, dù rằng họ rất ngạc nhiên, sửng sốt khi nghe những lời giáo huấn từ Ngài, nhưng gốc gác, thân thế về gia đình Đức Giêsu khiến họ hoài nghi về sứ vụ Mêssia của Ngài: “Ông này chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” (Mc 6,3).
Theo M.E. Boismard “Có thể là vì thời Đức Giêsu, người Do Thái vốn có một niềm tin khá phổ biến là Đấng Kitô phải có một nguồn gốc siêu phàm huyền nhiệm. Sau này trong buổi đối thoại với một người Do Thái là Tryphon, thánh Giustinô (khoảng năm 150) làm vang vọng lại niềm tin này khi kể lại ý niệm sau đây của những học giả Do Thái: “Nếu có người nói rằng Đấng Mêssia đã đến rồi, người ta đâu biết ai. Chỉ khi Ngài tỏ mình ra trong vinh quang, là người ta sẽ nhận ra ngay ngài là Đấng Mêssia” (Dial. 110,1).
Có lẽ vì thế với dân làng Nadarét nói riêng và dân Do Thái nói chung, khi biết thân phận khiêm tốn của Ngài “Họ đã vấp phạm vì Người” (Mc 6,3b), họ đã cố chấp cứng tin (x. Mc 6,6). Vì nguồn gốc khiêm tốn, vì quá quen biết về gia đình của Đức Giêsu, lòng ghen ghét đố kị đã khiến họ không tin vào Ngài cho nên thánh Gioan Kim Khẩu xác định: “Sự đố kị ghen ghét đi vào trong trái tim và đặt họ vào tình trạng chống đối với Đức Kitô” (Homélie XLIX sur l’évangile selon saint Matthieu).
Khi suy gẫm hành động cố chấp cứng tin của dân nói chung và của dân làng Nadarét nói riêng, chúng ta có cảm nghiệm đó cũng là một hiện tượng tiêu biểu của thế giới mọi thời, nơi những người cố chấp không tin.
Ngày hôm nay, trong phương diện tập thể, thế giới muốn tục hóa dù rằng mình được nuôi sống trong nền văn hóa Kitô giáo (như ở Âu châu và Bắc Mỹ) chối bỏ nguồn gốc niềm tin của mình. Trên phương diện cá thể, người có đức tin lại cảm thấy như muốn xa rời bằng cách sống niềm tin hời hợt, họ mang tâm trạng như dân gian có câu: “Bụt nhà không thiêng”. Hay họ vẫn còn niềm tin vào Thầy, vào Đức Kitô, vào Thiên Chúa nhưng cách thực hành niềm tin mang dấu ấn: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”, khi dồn sức tất cả cho giấc mơ tiền tài vật chất mà quên hoặc coi nhẹ cách thực thi đức tin theo lời giáo huấn của Thiên Chúa.
Thật thế, như Gioan thánh sử đã nói:
‘‘Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).
Hôm nay nhìn vào thái độ của dân làng Nadarét đối với Đức Kitô: Vấp phạm vì Ngài, cố chấp không tin, chúng ta cũng suy nghĩ về thái độ đức tin của chúng ta vào Ngài: Tin hay không tin trong đời sống hằng ngày. Rất có thể chúng ta đang có thái độ của dân làng Nadarét bằng cách cư xử, sống hững hờ với niềm tin chính mình, so đo thiệt hơn, ích kỷ với tính toán tiền bạc, cơm áo gạo tiền mà quên đi tin là chấp nhận sống trung thành lúc bình an hạnh phúc, đầy đủ nhưng cũng trung thành vượt khó với đức tin.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu bị khước từ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi đi rao giảng Tin Mừng một thời gian ngắn, hôm nay Chúa Giêsu trở về Nagiarét quê hương của Người. Người vào giảng dạy trong hội đường. Ai nấy đều cảm phục vì bao phép lạ Người làm, vì giáo lý của Người rất cao siêu và giảng dạy rất khôn ngoan. Nhưng vì họ cứ nghĩ Người là một anh thợ mộc tầm thường trong làng, mà không nhìn nhận Người là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, nên không chịu tin Lời Người. Họ có thành kiến lớn lao đối với Người. Thế nên Người không làm phép lạ nào để cứu giúp họ, mà chỉ chữa vài người bệnh, vì Người không muốn tỏ quyền năng của Người cho những kẻ đóng kín tâm hồn.
2. Theo ông Đào Duy Anh, “Thành kiến” là ý kiến cố chấp không thể lay động được. Khi có ý kiến tốt hay xấu về một người hay một vật gì thì khó lòng có thể thay đổi được. Thành kiến thay đổi sự thật của sự vật, không còn như nó có nữa. Thành kiến đã bóp méo sự thật, giống như người đeo kính mầu xanh thì vật gì cũng xanh, đeo kính mầu đỏ thì vật gì cũng đỏ.
Người ta có thể nhìn sự vật với ba thái độ, đó là yêu, ghét hay dửng dưng. Nhưng thường thì chúng ta ít khi có thái độ dửng dưng, trung lập, mà thường là nghiêng về một phía yêu hay ghét. Chính thái độ yêu hay ghét này làm cho ta nhìn sự vật khác nhau: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Khi yêu thì coi mọi sự đều đẹp đều tốt, khi ghét thì mọi cái là xấu: “Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét ca tông chi họ hàng”.
3. Qua kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta phải công nhận rằng Thành kiến là một căn bệnh phổ quát chung cho mọi người. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bề ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm, mà do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên; do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở ẹc ra. Người có danh tiếng thì lời nói việc làm nào cũng được coi như vàng ngọc. Người vô danh tiểu tốt thì lời có đẹp như trăng sao, việc có hay như thần thánh, cũng bị thành kiến dìm xuống đến tận bùn đen. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói: “Không tiên tri nào lại được trọng đãi nơi quê hương mình” (Ga 4,44).
4. Dân làng Nagiarét không thể chấp nhận một người mà họ đã quen biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn, họ hàng chẳng có danh giá gì. Biết rõ như thế thì làm sao người đó có thể là Vị Cứu Tinh, là Đấng giải thoát cho dân tộc mình được? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giầu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Đức Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Ngài làm phép lạ như đã làm những nơi khác.
Trước sự cứng lòng và khinh thường của dân làng Nazareth, Chúa Giêsu chẳng biết làm gì hơn ngoài việc đưa ra nhận xét chua cay: “Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4). Dân làng Nazareth không tin Chúa thì cũng vì họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo vào trong những định kiến hẹp hòi có sẵn của họ. Đấng Cứu Thế phải hiện nguyên hình như định kiến của họ, nghĩa là Đấng Cứu Thế phải có đầy quyền lực theo nghĩa thế gian, họ không thể tin nhận được một Đấng Cứu Thế như một con người đơn sơ khiêm hạ như họ thấy được.
5. Trên đường truyền giáo, Chúa Giêsu vẫn đem các môn đệ đi theo để huấn luyện các ông. Trong việc huấn luyện cũng cần thấy sự thất bại, chứ không phải chỉ nhìn thấy thành công. Sau này trên đường truyền giáo, sự thất bại không làm cho các ông nản lòng.
Các nhà rao giảng Tin Mừng hãy bắt chước Chúa Giêsu mà đón nhận thái độ “Bụt nhà không thiêng” của những người được rao giảng. Họ có thể nghi kỵ, không ưa, hoặc chống đối chúng ta đi nữa, thì hãy vững tâm vì “chân lý sẽ thắng”. Ban đầu có thể gặp thất bại nhưng với thời gian người ta sẽ nhìn ra chân lý. Chúa Giêsu đã thất bại khi còn sống nhưng đã thành công vẻ vang sau khi sống lại. Người tông đồ cũng phải đi theo con đường ấy: phải kiên nhẫn chịu đựng, nhưng phải chịu đựng trong vui tươi với tình thương mến.
6. Truyện: Cậu bé R. Tagore.
R. Tagore là một thi sĩ nổi tiếng của Ấn Độ và cả Đông phương nữa. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu.
Một hôm, cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh lắc đầu chê:
- Thơ mày là thơ thẩn!
Tagore mới nghĩ ra một mưu: cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và chua xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận.
Lần này, ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen: “Tuyệt, tuyệt”. Rồi đem khoe tíu tít với đứa con trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Ông nói:
- Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen là hay đáo để, và muốn trích đăng lên mặt tờ báo văn học của ông.
Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia ra để đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề chua xuất xứ trong khi đăng.
Đến đây câu chuyện mới vỡ lở ra. Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore! Ông thân sinh giận sôi máu lên, nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa nay.
02/02 Dâng con trẻ
- Viết bởi Lc 2, 22-40
Dâng con trẻ.
Thứ Ba tuần 4 thường niên – DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH (Lễ nến). Lễ kính.
"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".
* Dâng Chúa trong Đền Thánh, Chúa Kitô gặp gỡ dân thánh nơi con người cụ già Simêon, Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê, lễ Nến, đó là những tên gọi khác nhau để chỉ ngày lễ hôm nay, bốn mươi ngày sau lễ Giáng Sinh, kết thúc những ngày lễ trọng mừng việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người nơi Ngôi Lời mặc xác phàm.
Lời Chúa: Lc 2, 22-40
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tiến Dâng Cho Chúa
Sống là chấp nhận thuộc về.
Mở mắt chào đời là thuộc về một gia đình, một đất nước.
Càng sống con người càng thấy mình thuộc về nhiều hơn.
Thuộc về một nhóm, một giáo xứ, một nơi làm việc...
Khi đôi bạn trẻ yêu nhau, họ muốn trái tim của họ thuộc về nhau.
Thuộc về nhau là nền tảng của sự chung thủy.
Đối với Do thái giáo, bé trai đầu lòng mới sinh ra
thì thuộc về Chúa, được thánh hiến dành riêng cho Chúa.
Cha mẹ cậu phải bỏ ra một món tiền tượng trưng
để chuộc cậu về cho mình (x. Ds 18,15-16; Xh 13,13)
Bài Tin Mừng hôm nay không nói đến chuyện chuộc con,
nhưng lại nói đến việc bà Maria và ông Giuse
tiến dâng con trai đầu lòng cho Chúa.
Đức Giêsu đã sống nghiêm túc sự tiến dâng này suốt đời.
Ngài thuộc về Thiên Chúa Cha một cách trọn vẹn.
Từ khi vào đời làm người, Ngài đã nói:
"Này tôi xin đến để thực thi ý Chúa." (Dt 10, 9)
Năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã cố ý ở lại Đền Thờ,
mà cậu gọi là nhà Cha của cậu (x. Lc 2, 49).
Khi chịu phép rửa ở sông Giođan,
Đức Giêsu ý thức rõ hơn mình là Con, thuộc về Cha,
được Cha sai vào giữa lòng nhân loại (x. Mc 1,11).
Có biết bao cám dỗ trong những năm rao giảng,
cám dỗ từ ma quỷ, từ đám đông, từ môn đệ.
Cám dỗ lôi kéo Ngài sống cho mình,
và không muốn thuộc về Cha, Đấng sai Ngài đi.
"Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra" (Ga 14,10).
"Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì
ngoại trừ điều Con thấy Chúa Cha làm" (Ga 5,19).
Đức Giêsu không tự mình nói, tự mình làm,
vì Ngài đã vượt qua được cái tôi,
và để cho Cha chiếm hữu toàn bộ cuộc sống.
Nếu chúng ta dám nói và làm theo ý Cha,
chúng ta sẽ giống Đức Giêsu: thuộc trọn về Thiên Chúa.
Thuộc về Thiên Chúa phải là nền tảng
chi phối mọi tương quan của ta với thụ tạo khác.
Cậu bé Giêsu được đưa lên Đền Thờ lần đầu tiên.
Chúng ta thấy một đôi vợ chồng nghèo với đứa con nhỏ,
đứng lẫn trong đám đông, chờ đến phiên mình.
Ai có mắt để thấy được sự lớn lao của mầu nhiệm?
Si-mê-on: một người công chính và mộ đạo,
một người đầy Thánh Thần và sống trong chờ đợi.
An-na: một góa phụ già nua phụng thờ Chúa đêm ngày,
trong ăn chay và cầu nguyện.
Để thấy Chúa trong cái đều đặn, bình thường, buồn tẻ,
cần có một đời sống đạo đức sâu xa.
Chúa có thể gặp ta như một sự tình cờ,
nhưng thật ra lại là kết quả của những năm dài chuẩn bị.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy chia sẻ cho biết hiện nay bạn đang thấy mình "thuộc về" những người nào hay những tập thể nào. Sự thuộc về mạnh nhất của bạn hiện nay đặt ở đâu? Bạn thấy có nguy hiểm gì không?
Thuộc về Thiên Chúa, thuộc về tha nhân: có khi nào bạn cảm nghiệm điều đó một cách mãnh liệt không? Xin chia sẻ.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
SUY NIỆM 2: Dâng con trẻ
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta mừng kính hai biến cố: đó là việc thanh tẩy của Đức Maria và việc dâng Chúa Giêsu nơi đền thờ.
Trước hết là việc thanh tẩy của Đức Maria.
Theo luật Maisen, người đàn bà sau khi sinh nở, thì bị coi là uế tạp... Suốt 40 ngày, người ấy không được lên đền thờ tham dự vào những nghi lễ đạo đức. Sau đó người ấy phải đến trình diện trước thầy cả để được thanh tẩy.
Trên nguyên tắc Mẹ Maria không cần phải giữ luật Maisen vì Mẹ là Đấng trong sạch tuyệt vời. Nhưng cũng như Đức Kitô, Mẹ muốn hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nên hôm nay Mẹ đã chịu thanh tẩy theo như đã quy định.
Tiếp đến là việc dâng Chúa nơi đền thờ.
Kể từ khi thiên thần đã giết các con đầu lòng của người Ai cập, còn dân Do Thái lên đường, ra khỏi đất nước này với kiêp sống nô lệ lầm than, thì những con đầu lòng của người Do Thái được coi như là thuộc về Thiên Chúa và có bổn phận lo việc phụng tự Ngài. Thế nhưng sau đó, công việc phụng tự này được trao lại cho chi họ Lêvi. Vì vậy, những người con trai đầu lòng phải được cha mẹ chuộc lại bằng một số tiền nhỏ.
Ngày hôm nay Mẹ Maria cũng tuân giữ điều luật này khi dâng hài nhi Giêsu nơi đền thờ.
Hiện giờ tại nhiều xứ đạo, người ta tổ chức nghi lễ dâng những người mẹ và những đứa con cho Đức Maria. Đây không phải là một nghi lễ thanh tẩy của người Do Thái, vì bí tích Hôn nhân là một cái gì thánh thiện, và khi sinh sản con cái, cha mẹ tham dự vào công việc sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng nghi lễ này có mục đích tôn vinh người mẹ.
Cũng như Mẹ Maria không tới đền thờ một mình, nhưng tới với hài nhi Giêsu. Người mẹ hôm nay đến nhà thờ với những đứa con nhỏ của mình. Vị linh mục mặc áo các phép, tiến đến cửa nhà thờ để chào đón các bà. Ngài cầm cây nến, tượng trưng cho tình trạng ơn sủng mà mỗi người chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Rồi sau đó những người mẹ và những đứa con tiến vào nhà thờ trong tiếng hát tạ ơn của lời kinh Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Đấng cứu độ tôi”.
Vị linh mục dâng lên Thiên Chúa và Mẹ Maria lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, nhờ lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, xin cho những người mẹ và những đứa con này, sau cuộc sống trần gian, được đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Sau đó, ngài cầu xin Chúa Giêsu, Đấng đặt biệt yêu thương các trẻ nhỏ, chúc lành và gìn giữ những em nhỏ này khỏi mọi sự dữ, để các em được lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa, hầu ngày sau cùng được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Linh mục rảy nước thánh và ban phép lành:
- Xin Thiên Chúa là Cha, và Con và Thánh Thần ban phúc lành cho anh chị em.
Nghi thức và những lời kinh thập đẹp. Ước chi mỗi bà mẹ cũng hãy cảm tạ Thiên Chúa vì thiên chức cao cả mà Ngài đã dành cho chúng ta. Đồng thời hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria dâng con mình cho Chúa để Chúa nâng đỡ và phù trợ chúng luôn mãi, hôm nay và sau này, trên vạn nẻo đường đời.
SUY NIỆM 3: Trinh nữ hiến dâng
Mừng kính biến cố Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, chúng ta cùng nhau chia sẻ về tâm tình dâng hiến của Mẹ. Thực vậy, trong tông huấn “Marialis Cultus”, bàn về lòng tôn sùng kính mến Mẹ, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi Mẹ là “Trinh nữ hiến dâng Virgo offerans”. Chỉ cần nhìn vào cuộc đời của Mẹ, chúng ta sẽ thấy ngay được sự dâng hiến ấy.
Trước hết, theo truyền thuyết thì năm lên ba, Mẹ đã theo cha mẹ lên đền thờ, rồi ở lại đó một thời gian. Trong thời gian này, Mẹ đã học hỏi Kinh thánh, tập luyện các nhân đức và khấn giữ mình đồng trinh, một nhân đức rất hiếm người Do thái hiểu và giữ lúc bấy giờ. Mẹ đã dâng hiến trọn vẹn tâm hồn và thể xác cho Thiên Chúa.
Tiếp đến trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã dâng hiến cõi lòng của Mẹ, làm thành như một chiếc nôi hồng cho Ngôi Lời giáng thế. Và hôm nay, Mẹ đã dâng hiến người con yêu dấu của Mẹ cho Thiên Chúa theo như lề luật qui định, để rồi sự dâng hiến này đạt tới cao điểm của nó trên đỉnh đồi Canvê, khi Mẹ đứng dưới chân cây thập giá nhìn Chúa chịu sát tế làm của lễ đền tội cho nhân loại.
Nhìn vào mẫu gương của Mẹ, chúng ta rút ra được một kết luận như sau:
Dâng hiến và đau khổ luôn đi liền với nhau.
Thực vậy, không một sự dâng hiến nào mà lại không có khổ đau. Và hơn thế nữa, chính những khổ đau này sẽ làm cho việc dâng hiến trở nên cao cả và có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tại sao thế?
Tôi xin thưa vì dâng hiến là gì nếu không phải là lấy đi phần cao quí nhất để trao cho người mình thương mến. Mà đã cho đi thì phải mất mát. Mà mất mát thì phải tiếc xót. Chính vì thế, sự dâng hiến nào cũng đòi buộc phải chấp nhận hy sinh và khổ đau.
Nhìn vào Mẹ, chúng ta sẽ thấy được sự thật ấy. Một khi đã cúi đầu xin vâng, Mẹ cũng sẵn sàng chấp nhận mọi khổ đau sẽ xảy đến.
Chúng ta hãy nghĩ tới bàu khí ngột ngạt và căng thẳng trong gia đình, khi thánh Giuse nhận ra Mẹ đã mang thai không bởi hành động của mình. Mẹ đã âm thầm chịu đựng, mặc cho Thiên Chúa hành động và làm sáng tỏ vấn đề.
Chúng ta hãy nghĩ tới việc Mẹ lên đường trở về Bêlem để đăng ký hộ khẩu giữa lúc bụng mang dạ chửa, việc sinh Chúa trong cảnh nghèo túng của máng cỏ giữa nơi đồng vắng, việc trốn chạy giữa đêm khuya và những cực nhọc nơi đất khách quê người bên Ai Cập cũng như những lao động vất vả tại Nagiarét.
Rồi trong ngày hôm nay, Mẹ đã phải đón nhận lời tiên báo đầy cay đắng của ông già Simêon:
- Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà…
Lời tiên báo này đã được thực hiện qua từng biến cố cuộc đời và đã trở nên trọn vẹn trên đỉnh đồi Canvê. Tại đây, sự dâng hiến trở nên tuyệt hảo nhất, thì hy sinh và đau khổ cũng đáng cay và chua xót nhất. Mẹ đã kết hiệp với Đức Kitô trong máu và nước mắt, để dâng hiến cho Thiên Chúa một của lễ cao cả nhất.
Nhìn vào Chúa, chúng ta lại càng thấy rõ sự thật này hơn nữa.
Thực vậy, mục đích của việc xuống thế làm người là gì nếu không phải là để cứu chuộc nhân loại. Nhưng đâu là giây phút quan trọng nhất trong chương trình cứu độ, nếu không phải là giây phút Ngài hiến dâng trên bàn thờ thập giá. Tất cả cuộc đời của Ngài chỉ là một sự chuẩn bị cho giây phút trọng đại này. Mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của Ngài đều hướng tới đỉnh cao thập giá, chính tại đây Ngài đã chấp nhận những đớn đau và tủi nhục. Ngài đã sinh ra trong khó nghèo, lớn lên trong vất vả và chết đi trong nhục nhã. Thế nhưng, chính nhờ việc tự hạ này, mà Thiên Chúa đã nâng Ngài lên và tôn vinh Ngài.
Còn chúng ta thì sao?
Nếu muốn sống tâm tình dâng hiến như Chúa và Mẹ, chúng ta cũng phải chấp nhận hy sinh và khổ đau trong cuộc sống hằng ngày. Đúng thế, chúng ta vốn thường ngại hy sinh và chạy trốn đau khổ, nhưng làm sao có thể lẩn tránh vì chúng được chất đầy trong cuộc sống chúng ta, chi bằng hãy can đảm chấp nhận.
Hy sinh va khổ đau không phải là một cái gì làm cho chúng ta sợ hãi, những là một phần của đời sống chúng ta. Nếu biết đón nhận, nó sẽ thanh tẩy và làm cho chúng ta trở nên tinh ròng, như tục ngữ cũng đã nói: lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, thì những hy sinh và khổ đau ấy sẽ trở nên công phúc cho chúng ta, bởi vì lòng yêu mến là như chiếc đũa thần biến những hy sinh và khổ đau trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời và làm cho cuộc đời chúng ta thực sự có giá trị trước mặt Thiên Chúa.
Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Anh em hãy hiến dâng thân xác anh em làm của lễ đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì Ngài yêu thích những ai trao ban một cách vui vẻ.
SUY NIỆM 4: Đức Giêsu hay Đức Maria: Lễ Dâng Con
Cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem để dâng Hài Nhi Giê-su trong đền thờ là tục lệ sau này, thời Abraham và Môisê chưa có đền thờ! nhưng lễ dâng con thực sự có từ thời cắt bì, đó là lúc dâng con trẻ và lễ hy sinh đền tội và lễ tạ ơn.
Của lễ Đức Ma-ri-a dâng hoàn toàn hợp luật Môisê. Đức Ma-ri-a dâng mình trong đền thờ, Ngài vào đền thánh xin tư tế dâng lễ hy sinh lên trước Giavê Thiên Chúa để đền tội và thanh tẩy.
Điều đó dạy tôi gì? tôi phải hiểu sứ điệp đó thế nào? vì luôn luôn Tin Mừng nói với tôi một sứ điệp qua những câu kinh thánh. Tôi phải suy niệm, mới giúp tôi hài lòng về những đợt sóng lời Chúa, xem ra bên ngoài có vẻ vô dụng, nhưng đó là những tiếng nói linh ứng cho ai biết tự cầu nguyện tự phát.
Sứ điệp đó là sứ điệp sống dịu hiền, vui mừng trung thành theo luật dạy một cách đơn sơ chân thành. Bài ca của cụ già Simêon rất đẹp, lời tiên tri của bà Anna gợi lên một hình ảnh huyền diệu tô điểm thêm cho ngày dâng con.
Hai chứng nhân này nói với chúng ta rằng những kẻ nhỏ bé, khiêm tốn, nghèo khó cầu nguyện Thánh Thần trong con tim của họ. Chúa Thánh Thần mặc khải rằng Thiên Chúa ở đó với họ, và khi Chúa tự tỏ mình ra, thì chẳng còn gì bên ngoài thế giới lay chuyển được họ. Vinh quang của Thiên Chúa tỏ ra trong sự thấp hèn và tối tăm như Hài Nhi tỏ vinh quang nơi hang lừa máng cỏ.
“Cháu còn là dấu hiệu gây chia rẽ...”. Lời tiên tri này là tiếng vang của lời Chúa sau này nghe như xé nát tâm can: Ai yêu mến cha mẹ mình... hơn tôi, không đáng làm môn đệ tôi”. “Ai không thuận với tôi, là chống lại tôi”. “Ai muốn theo tôi, phải tự bỏ mình, vác thập giá mình mà theo tôi”.
Môn đệ không trọng hơn Thầy. Không thể cứu mình khi còn nắm lấy những chuỗi xích khoái lạc và những tư tưởng riêng tư của mình.
Cần hoàn toàn đơn sơ chân thành yêu mến Đấng ban ơn hơn là xin ơn.
J.M
SUY NIỆM 5: Ánh sáng và vinh quang
Suy niệm:
“Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh,
ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy.
Hơn nữa, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ.
Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ.
Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng,
cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 6: Xin Mẹ Dâng Chúng Con Cho Chúa
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lễ này còn được gọi là Lễ Nến. Ông Simêon, người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi trên tay, ẵm trên tay và chào là “Ánh Sáng muôn dân” (Lc 2, 32).
Đức Maria dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, vì theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Lc 2, 23) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa.
Đây cũng là Lễ Thanh Tẩy, kính nhớ việc Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi: “Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái” (Lv 12, 6-8).
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy Đức Trinh Nữ đã được Luca ghi lại (Lc 2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu ước (Lv 12,8). Theo luật Môsê, phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là nhơ uế trong 40 ngày nếu sinh con trai và trong 80 này nếu sinh con gái.
Lễ này được du nhập vào Đế quốc Đông Phương dưới triều vua Justinianô (527-565). Đối với Hội thánh Tây phương, lễ này được nhắc đến trong sách bí tích của Giáo hoàng Gelasianô vào thế kỷ 7. Kể từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội Giêrusalem đã mừng kính lễ này. Giáo hội Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một số lễ trọng kính Chúa, một nghi lễ chính trong năm. Giáo hội Rôma lại thường kể lễ này vào số các lễ Đức Trinh Nữ.
Trong thông điệp về lòng tôn sùng Maria, Giáo hoàng Phaolô VI viết: “Lễ mùng 2 tháng 2, được cải tên là lễ”dâng Chúa vào đền thánh", cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân ước luôn luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy” (Lc 2,21-35) (Marialis Cultur, số 7b).
Trong ngày này, người ta làm phép nến để tưởng nhớ lời tiên tri Simêon gọi Đức Kitô là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2,32) và tổ chức kiệu nến trong nhà thờ, tượng trưng cho việc Đức Giêsu tiến vào đền thờ Giêrusalem.
Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Trong ngày này, Giáo hội ca vang “Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người” (x. Phụng vụ Byzantine).
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Symêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Lời của cụ già Symêon nói: “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32). Hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Symêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng tên tay cụ già Symêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta…Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta là ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đồng Trinh, chúng con đặt cuộc đời chúng con vào trong vòng từ mẫu của Mẹ để Mẹ dâng lên Thiên Chúa như xưa Mẹ đã dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, tất cả chúng con thuộc về Mẹ. Amen.
SUY NIỆM 7: ĐỨC GIÊSU – ÁNH SÁNG SOI MUÔN DÂN
(Ml 3, 1-4; Dt 2, 14-18; Lc 2, 22-40)
Có một câu chuyện kể về người nông dân: ông ta trồng trong vườn nhà mình nhiều loại trái cây. Hằng năm, mỗi khi mùa trái cây về, những hoa trái đầu tiên, ông ta nhất định phải hái để dâng kính tổ tiên. Khi được hỏi lý do, ông trả lời: “Sống trên đời phải có hiếu nghĩa với đấng sinh thành, hơn nữa, hôm nay, tôi được hưởng những hoa trái này cũng là do công khó của tiền nhân đi trước để lại. Vì thế, việc dâng tiến các cụ hoa trái đầu mùa là thể hiện sự hiếu kính, lòng biết ơn và chân nhận công khó của các ngài để lại”.
Hôm nay, Phụng Vụ Giáo Hội cũng làm toát lên ý nghĩa việc Đức Maria dâng lên Thiên Chúa hoa quả đầu mùa của Mẹ là chính Chúa Giêsu để bày tỏ sự hiếu kính, tôn thờ và vâng phục của Mẹ đối với Thiên Chúa.
1. Lịch sử ngày lễ
Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ được mừng kính ở thế kỷ V tại Giêrusalem. Vào ngày kết thúc mùa giáng sinh, tức là 40 ngày sau lễ giáng sinh, Giáo Hội tại Giêrusalem tổ chức rất long trọng biến cố này. Sau đó, vào năm 650 của thế kỷ VII, lễ này được mừng kính rộng rãi trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ.
Tuy nhiên, lối hiểu và cách thức diễn tả của Giáo Hội Đông phương thì nhấn mạnh đến việc gặp gỡ. Gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân của Người. Hình ảnh cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna chính là biểu trưng cho dân Chúa thời Cựu Ước mong chờ Đấng Cứu Thế, hôm nay, Đấng ấy đến, Ngài là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân. Còn đối với Giáo Hội Tây Phương thì tập trung vào ý nghĩa của việc Đức Maria Dâng con vào đền thờ và việc tẩy uế theo Luật nơi Mẹ Maria (x. Lv 12).
Trong những năm cuối thế kỷ thứ VII, đầu thế kỷ thứ VIII (678-701), Đức Giáo Hoàng Sét-gi-ô I đã quyết định thêm vào đó nghi thức rước nến trước thánh lễ. Cũng chính từ đây, lễ này còn được gọi là Lễ Nến, bởi vì trước thánh lễ có nghi thức làm phép nến ở tiền sảnh nhà thờ hay một nơi nào đó thuận tiện, và sau đó kiệu nến vào trong nhà thờ để cử hành thánh lễ. Điều này làm toát lên ý nghĩa Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân. Hôm nay Ngài đã đến và soi chiếu dân Người. Chính vì lý do này mà sau này, phụng vụ Giáo Hội tập trung và quy hướng về Đức Giêsu nhiều hơn về Đức Mẹ để làm toát lên vai trò là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân nơi Đấng Cứu Thế.
Trong phần khai mạc và cuộc rước nến, Đức Giáo Hoàng và đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím nói lên sự sám hối và ý hướng muốn được thanh tẩy. Điều này ngầm ám chỉ về Đức Maria chưa được thanh tẩy theo luật Do thái sau khi sinh con.
Khi đoàn rước tiến tới cửa đền thờ Đức Bà Cả, thì Chủ tế và đoàn đồng tế thay lễ phục màu trắng để diễn tả sự tinh tuyền, trong sạch của Đức Maria.
2. Ý nghĩa của ngày lễ
Hình ảnh nổi bật và ý nghĩa của ngày lễ chính là việc Dâng Đức Giêsu trong đền thờ. Việc Đức Giêsu được dâng lên cho Thiên Chúa trước sự vui mừng và hạnh phúc của cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna đã làm toát lên ý nghĩa của sự khao khát đợi trông của dân Itrael về Đấng Cứu Thế. Hôm nay, Ngài đến, Ngài đã trở thành Ánh Sáng chiếu soi nhân loại, trở thành trung tâm điểm của mọi tâm hồn.
Ngoài việc tập trung vào Chúa Giêsu như là Ánh Sáng soi chiếu muôn dân, Giáo Hội còn mời gọi con cái mình hướng về Mẹ Maria và thánh Giuse như là những mẫu gương công chính và thánh thiện.
Sự công chính và thánh thiện ấy được tìm thấy rõ nơi cung cách của thánh Giuse và Mẹ Maria. Các ngài đã trở thành nữ tỳ và tôi trung của Thiên Chúa, vì thế, sự khiêm nhường và vâng phục đã được tìm thấy nơi các ngài như là điểm son của đời sống thánh thiện.
Việc dâng Đức Giêsu, người Con Chí Ái và duy nhất lên cho Thiên Chúa đã thể hiện điều đó. Mặc dù các ngài thừa hiểu rằng: Người Con mà mình sắp dâng cho Thiên Chúa đây chính là Thiên Chúa làm người. Ngài là Chúa tể trời đất. Là Ánh Sáng cho muôn dân. Tuy nhiên, vì muốn trung thành với Luật và thể hiện lòng biết ơn Thiên Chúa, nên các ngài đã sẵn sàng tiến lên đền thờ để thi hành bổn phận như mọi người.
Thật vậy, theo truyền thống thì việc dâng con có thể thực hiện tại nhà. Còn việc tẩy uế nơi người mẹ thì cũng không nhất thiết phải cả chồng cùng đi. Tuy nhiên, vì yêu mến đền thờ, yêu mến nhà Thiên Chúa, nên các ngài đã vượt mọi khó khăn để lên đền thờ tiến dâng Đức Giêsu và thanh tẩy người Mẹ theo Luật định.
Như vậy, sự thánh thiện qua việc vâng lời đã làm cho thánh Giuse và Mẹ Maria xứng đáng được coi là những con người tốt lành và gương mẫu.
Dấu chỉ tiềm ẩn dành cho một gia đình tốt còn được biểu hiện qua việc sống nghèo và chịu nhiều đau khổ. Hình ảnh cặp bồ câu non chứng minh cho cái nghèo của gia đình Thánh Gia. Mặt khác, lời tiên tri của cụ già Simêon tiên báo về cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu phải chịu và nỗi đau trong tâm Mẹ Maria như muốn tô đậm thêm điểm tốt của một gia đình trung thành với lề luật và Thiên Chúa để đón nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời.
Tuy nhiên, điều quyết định để thánh Giuse và Mẹ Maria thực sự trở nên một con người bình an, thánh thiện và tốt lành, đó là có sự hiện diện của Đức Giêsu trong gia đình và nhất là nơi tâm hồn.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi mừng lễ Đức Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, mỗi người chúng ta được mời gọi nhớ lại Bí tích Rửa Tội chúng ta đã lãnh nhận. Ngày đó, mỗi chúng ta được thuộc trọn về Chúa. Được trở nên con cái Thiên Chúa. Cũng chính từ đó, chúng ta được mời gọi đón nhận Ánh Sáng Chúa Kitô trong cuộc đời của mình, đồng thời có sứ mạng lan tỏa Ánh Sáng ấy cho người khác.
Khi đã thuộc về Chúa và đi theo Ánh Sáng là chính Ngài, chúng ta được mời gọi thực thi Lời Chúa cách yêu mến và trung thành như Mẹ Maria và thánh Giuse đã trung thành giữ luật trong lòng mến.
Mừng lễ dâng Chúa vào đền thờ hôm nay, chúng ta còn được mời gọi hãy tín thác và phó dâng cuộc đời, sự nghiệp, tương lai của chúng ta cho Chúa để được sống dưới sự hướng dẫn, dạy dỗ và soi dẫn của Người.
Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi trần gian. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trung thành và yêu mến Luật Chúa như Mẹ Maria và thánh cả Giuse, để luôn được đi trong Ánh Sáng của Ngài. Amen.
Ngọc Biển, SSP
SUY NIỆM 8: Chúa Giêsu là Ánh Sáng (Lc 1, 21-28)
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giuse dâng vào Đền Thánh, đưa chúng ta đi từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến Mầu Nhiệu Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế. Ngôi Lời, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh ra và sống trong xã hội loài người, bị luật lệ loài người chi phối, theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa" ( Lc 2, 23 ) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi: "Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái" (Lv 12, 6-8). Ông Simêon người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi, ẵm Hài Nhi trên tay và chào là "Ánh Sáng muôn dân" (Lc 2, 32).
Trong ngày này, Giáo hội ca vang "Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người "(x. Phụng vụ Byzantine).
Tại sao Con Thiên Chúa lại phải dâng cho Thiên Chúa và Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền phải chịu thanh tẩy?
Theo thánh Dimitri de Rostov: "Mẹ Thiên Chúa tiến vào Đền Thánh vâng theo Luật Chúa, tay bồng ẵm chính Đấng là Lề Luật. Mẹ là Đấng vô tội, tinh tuyền không tì vết đến xin điều mà Mẹ không cần là thanh tẩy. Mẹ không nhận lãnh sự khoái lạc sung sướng của phu quân, đã sinh con mà không đau đớn, Mẹ được gìn giữ tinh tuyền không tì vết trước khi sinh và sau khi sinh Đấng là nguồn suối trong sạch, há Mẹ lại không tinh sạch sao? Đức Kitô đã sinh ra từ lòng Mẹ! Quả không bị hư hoại bởi cây, cây không bị nhơ bẩn bởi quả: Đức Trinh Nữ Rất Thánh vẫn trinh khiết vẹn tuyền sau khi sinh hạ Đức Kitô, Con lòng Mẹ. Mặt Trời công chính không làm tổn thương sự đồng trinh của Mẹ. Lẽ thường, máu không làm ô uế Cửa thiên đàng theo luật tự nhiên, Thiên Chúa ngập tràn ánh sáng thần linh đã vượt qua Cửa này, gìn giữ sự đồng trinh của Mẹ".
Thánh Phaolô nói: "Vậy bởi vì con cái có chung máu thịt với nhau, thì phần Ngài, giống y như vậy, các điều ấy Ngài cũng đã thông chia, để giải thoát những kẻ vì sợ chết mà suốt cả bình sinh sa vòng nô lệ" (Dt 2,14-15). Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: "Vì thiết tưởng không phải Thiên Thần được Ngài bao bọc, nhưng Ngài bao bọc dòng giống Abraham... Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân" (Dt 2,16-17).
Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu không buộc phải tuân theo nghi thức này, nhưng vì khiêm nhường và cũng để cho nhân loại noi theo mà tuân giữ luật Chúa, nhất là để cứu con người Chúa Giêsu đã làm điều đó, nên lễ này được gọi là Lễ Thanh Tẩy.
Hy Tế Cứu Chuộc
Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, mà chúng ta cử hành ngày 02 tháng 01 có một vị trí đặc biệt: vì lễ này loan báo Hy Tế Cứu Chuộc mang lại ơn cứu độ sau này. Đức Maria và thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, dù là Con Thiên Chúa, Đấng giầu sang phú quí để dâng vào Đền Thánh với của lễ đơn sơ là "cặp bồ câu non"! Đây là lần đầu tiên loan báo về Hy Tế Thánh. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người mạc khải cho chúng ta, việc dâng hiến này ám chỉ tương quan giữa nhân loại với Thiên Chúa Cha, qua trung gian cần thiết của Đức Trinh Nữ Maria đồng công cứu chuộc. Đây là Hy Tế đền tội hoàn hảo duy nhất cứu chuộc nhân loại. Lễ này là "bản lề" chuyển tiếp giữa hai mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền tin) và Cứu Chuộc (Phục Sinh). Chúa Giêsu đến trần gian (Nhập thể), để Cứu chuộc chúng ta.
Sao lại làm phép nến và rước nến hay gọi là Lễ Nến?
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Simêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái. Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Lời của cụ già Simêon nói: "Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân" (Lc 2, 32). Quả thật, hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Simêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng trên tay cụ già Simêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta... Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta phản chiếu ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người. Amen.
SUY NIỆM 9: Cha mẹ hãy cho con tình thương
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Trong một lần dạy giáo lý hôn nhân tôi hỏi: Nếu như bạn phải tặng cho con cái điều quý giá nhất bạn sẽ chọn: dạy dỗ, làm gương, dành thời giờ ở bên con, miệt mài làm việc cho con tiền ăn học, vợ chồng yêu thương nhau thì các bạn sẽ chọn điều gì?
Xem ra yếu tố nào cũng quan trọng và cần thiết nhưng có một yếu tố quan trọng hơn theo tôi đó là vợ chồng yêu thương nhau.
Câu trả lời xem ra không thỏa mãn. Thế nhưng, thử hỏi nếu vợ chồng không thương yêu nhau thì mái nhà có giữ được không? Và nếu như vợ chồng không yêu thương nhau con cái sẽ ra sao? Mái nhà có là mái ấm hay là hỏa ngục trần gian?
Người ta thống kê số các tội phạm thanh thiếu niên hay những thanh thiếu niên hư hỏng đa phần là do cha mẹ chúng thiếu tình yêu thương nhau. Có thể họ đã ly dị nên con cái trả thù đời bằng việc lao vào các tệ nạn xã hội. Có thể do cha mẹ chúng hay bất hòa với nhau nên con cái không muốn ở nhà chỉ thích lêu lổng và phá phách. Có thể cha mẹ chúng thiếu hợp nhất nên con cái cũng mạnh đứa nào đứa nấy sống.
Thực vậy, điều quý nhất mà cha mẹ có thể tặng cho con cái mình là tình yêu thương của gia đình. Cha mẹ yêu thương nhau. Con cái hòa hợp với nhau. Ðó chính là một cái nôi hạnh phúc mà khi con người được sống trong cái nôi êm đềm ấy thì khó có thể hư hỏng được. Cha và mẹ cứ nên nhắn nhủ với con cái với sứ điệp rằng "mặc dù cha mẹ không phải là hoàn hảo, thỉnh thoảng cũng có cãi lẫy, giận hờn với nhau, nhưng ba mẹ lúc nào cũng ở bên cạnh nhau và bên cạnh các con". Cha và mẹ sống yêu thương nhau thì con cái sẽ học được bài học tình yêu từ chính trong nôi gia đình.
Các nhà xã hội học cho rằng trẻ em hôm nay đang sống trong một thế giới đầy bất an. Những nỗi lo sợ chồng chất từ gia đình đến xã hội là nguyên nhân gây nên những biến chứng trong cách cư xử của các em, bệnh trầm cảm và các rối loạn tinh thần. Một trong các mối lo sợ lớn nhất của các em ở lứa tuổi đi học là sợ cha mẹ chúng ly dị. Nhiều em thường xuyên phải nghe các tin đau lòng rằng cha mẹ của bạn mình trong lớp đang chia tay, hay thần tượng điện ảnh này của các em đang ra tòa xin ly dị, và các em cũng vô cùng hoang mang không biết chừng nào đến phiên cha mẹ mình sẽ chia ly. Nhiều em mắc phải sự lo âu thấp thỏm mỗi ngày, không biết chừng nào cái tin sét đánh này xảy đến cho cuộc đời của chúng nó.
Ðây cũng là điều gia đình thánh gia có thể vượt qua sóng gió khi họ yêu thương nhau. Họ bỏ qua những hồ nghi, những niềm vui riêng để gánh lấy trách nhiệm nuôi nấng Con Chúa Trời Chí Thánh. Các ngài luôn chứng minh cho mọi người rằng các ngài luôn sẵn sàng ở bên nhau và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Các ngài luôn lấy tình yêu của lòng nhân hậu bao dung để đối xử với nhau. Nhất là các ngài luôn ở bên nhau vì tin vào Chúa nên dám đón nhận nhau trong yêu thương hợp nhất.
Hôm nay chúng ta quy tụ nhau nơi đây để cử hành nghi thức dâng con vào đền thờ. Hành vi dâng con vào đền thờ là hành vi thờ phượng để tạ ơn về ân ban Chúa ban là con cái được sinh ra. Dâng con vào đền thờ cũng xác định quyền và bổn phận giáo dục con cái của chúng ta. Chỉ có cha mẹ mới có quyền giáo dục con cái mình. Chỉ có cha mẹ mới có bổn phận giáo dục con cái của mình. Quyền và bổn phận vừa là vinh dự , vừa là trách nhiệm mà chúng ta phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa và xã hội.
Trước mặt xã hội cha mẹ phải lãnh lấy trách nhiệm nếu con cái hư hỏng trước tuổi thành niên. Trước mặt Thiên Chúa thì cha mẹ phải trả lẽ trước mặt Chúa trong chính lương tâm của mình suốt cuộc đời.
Ðứng trước một trách nhiệm lớn lao như vậy, đòi hỏi cha mẹ phải hy sinh để nuôi dậy con cái. Sự hy sinh đòi cha mẹ phải "một điều nhịn chín điều lành" để gìn giữ mái ấm gia đình ngập tràn yêu thương. Sự hy sinh không chì dừng lại sự lam lũ kiếm tiền cho con cái mà còn hy sinh để cho con cái thấy tình thương của cha mẹ dành cho nhau và cho con cái. Có như vậy chúng ta mới mang lại sự phát triển tâm sinh lý nơi con trẻ một cách hoàn hảo. Và chắc chắn con cái sẽ biết ơn cha mẹ vì được sống trong một cái nôi đầy ắp yêu thương.
Ước gì chúng ta luôn dành tình yêu cho gia đình chúng ta, cho vợ chồng, cho con cái. Trên hết mọi sự hãy lấy tình yêu mà đối xử với nhau để xây dựng mái ấm gia đình hạnh phúc và là chỗ dựa vững chắc cho con cái vào đời. Amen.
SUY NIỆM 10: Ánh sáng soi đường cho dân ngoại, vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài
(Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên)
Nếu như trong lễ Hiển Linh chúng ta cử hành việc Đức Giêsu tỏ mình ra cho các Đạo sĩ, là Dân ngoại, thì hôm nay khi được dâng trong Đền Thờ, Ngài đã tỏ mình ra cho chính dân tộc của Ngài.
Lễ Nến được mừng vào ngày thứ 40 sau lễ Giáng Sinh, kết thúc những ngày lễ trọng mừng việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người nơi Ngôi Lời mặc lấy xác phàm. Lễ này còn có tên gọi là lễ Đức Maria được thanh tẩy theo Luật Môsê hay lễ Dâng Chúa trong Đền Thờ.
Sở dĩ có ngày lễ này là vì theo Luật Môsê quy định: Thứ nhất, các trẻ sơ sinh, trong thời gian Luật định, phải mang lên Đền Thờ dâng cho Thiên Chúa. Thứ hai, người phụ nữ sau khi sinh con (nếu là con trai) thì sau 40 ngày phải lên Đền Thờ để được thanh tẩy. Vì thời đó người ta cho rằng khi sinh con, người phụ nữ bị ô uế. Thứ ba, con đầu lòng là tài sản của Thiên Chúa. Vì thế có tục lệ dâng con và lễ vật cho Thiên Chúa để chuộc lại con.
Sau khi sinh Đức Giêsu được 40 ngày, Đức Maria và Thánh Giuse đã làm như Luật dạy. Thực ra, Đức Mẹ không cần phải làm nghi thức thanh tẩy, bởi vì Mẹ sinh con mà vẫn trọn đời trinh khiết, không một vết nhơ nào có thể chạm đến con người thánh thiện của Mẹ, nhưng Mẹ vẫn khiêm tốn thi hành những gì lề luật truyền dạy.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của vị “sứ giả của giao ước” hôm nay có vẻ không giống như những gì mà ngôn sứ Malakhi đã loan báo. Bởi theo viễn tượng của vị ngôn sứ này, thì vị sứ giả của Thiên Chúa sẽ đến một cách bất ngờ để tái lập lại nền phụng tự của dân Thiên Chúa vốn đã trở nên lệch lạc bởi sự chểnh mảng của các tư tế cũng như sự thờ ơ của dân chúng: “Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, - ĐỨC CHÚA các đạo binh phán. Ai chịu nổi ngày Người đến ? Ai đứng được khi Người xuất hiện ? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc” (Ml 3,1-3).
Không riêng gì ngôn sứ Malakhi, mà ngay cả Gioan Tẩy Giả cũng loan báo về Đấng Messia với những lời lẽ tương tự: “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân : thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi." (Mt 3,12).
Trái ngược hẳn với những hình ảnh đáng kinh sợ mà các ngôn sứ đã loan báo, hôm nay, Chúa Giêsu - vị sứ giả của giao ước - lại bước vào đền thờ một cách âm thầm dưới hình hài của một trẻ thơ. Có lẽ sẽ chẳng có ai nhận ra Ngài cho đến khi cụ già Simêon – người được Thánh Thần linh hứng – loan báo rằng: Hài Nhi Giêsu mà ông đang bồng ẵm trên tay chính là “Ơn cứu độ mà Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Là Ánh sáng soi đường cho nhân loại và là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 2,30-32)
Mừng lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ hôm nay, Giáo Hội muốn giới thiệu cho chúng ta: Chúa Giêsu là ÁNH SÁNG từ trời cao, được đưa vào đền thờ, để thắp sáng cho trần gian. Nhưng tiếc rằng, ánh sáng đó đã được chiếu soi vào nhân loại hơn 2000 năm qua mà vẫn chưa được nhiều người đón nhận.
Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta cũng được trao cho cây nến sáng với lời nhắc nhở rằng: Con hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô và hãy làm cho ánh sáng ấy cháy lên mãi… Vậy hôm nay, chúng ta hãy tự kiểm điểm lại xem, tôi và gia đình tôi đã làm gì để ánh sáng Chúa Kitô được thắp sáng nơi môi trường sống của mình ?
Việc Chúa Giêsu được dâng trong đền thánh là hình bóng hiến lễ Ngài sẽ dâng chính mình trên đồi Canvê. Thư Do Thái dạy rằng: Đức Kitô vừa là của lễ hoàn hảo đền tội chúng ta, vừa là tư tế dâng chính mình Ngài như của lễ. Mừng lễ hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi hãy phó dâng bản thân cũng như mọi thành viên trong gia đình chúng ta cho Thiên Chúa để chính Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta đi. Đó cũng là ý nghĩa cao đẹp mà nhiều hội dòng lựa chọn ngày lễ này làm lễ khấn dòng của mình. Để qua việc công khai đáp trả lại ba lời khuyên Phúc Âm, các tu sĩ cũng muốn trở nên ánh sáng cho trần gian và hiến dâng cuộc đời mình làm của lễ sống động cho Thiên Chúa và cho anh chị em mình.
Sau cùng, mỗi tín hữu cũng được mời gọi noi theo các nhân đức của Đức Mẹ và thánh Giuse bằng việc yêu mến và thực thi nghiêm chỉnh những lề luật của Thiên Chúa, cho dù đó là điều nhỏ bé và tầm thường nhất, để nhờ đó, chương trình và ý định của Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc đời này.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng đã đến trong trần gian. Như mặt trăng tiếp nhận ánh sáng từ mặt trời, xin cho chúng con cũng biết tiếp nhận ánh sáng từ nơi Chúa là mặt trời công chính, để trần gian luôn tràn ngập ánh sáng của tình yêu thương, sự cảm thông và tha thứ. Nhờ đó nơi gia đình, giáo họ, giáo xứ và cộng đoàn chúng con luôn được sống trong bình an và hạnh phúc. Amen.
SUY NIỆM 11: Tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa
(JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Gia đình của Đức Giê-su tôn trọng lề luật như thế nào? Tại sao phải tôn trọng lề luật?
2. Các kinh sư Do Thái là những người giữ các luật tôn giáo một cách rất nhiệm nhặt. Họ có vì thế mà trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa không? Tại sao? Bạn rút ra được bài học gì cho việc giữ luật của bạn?
3. Tình yêu và lề luật, cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện? Cái nào làm cho bạn trở nên công chính, thánh thiện?
Suy tư gợi ý:
1) Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se tôn trọng lề luật
Bài Tin Mừng cho thấy Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se đã chu toàn những tập tục của luật Mô-sê liên quan đến việc hạ sinh Đức Giê-su. Luật Mô-sê qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21). Khi được 1 tháng tuổi, trẻ phải được đem tới đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng - dù là người hay là thú vật - đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Ngài, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13,2.12-13; Ds 18,15-16). Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên con, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Ma-ri-a đã làm (x. Lv 5,7; 12,8). - Mặc dù biết Đức Giê-su, con của mình, là Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se vẫn tuân thủ tất cả những gì lề luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.
2) Vấn đề: có nên giữ luật như các kinh sư Do Thái không?
Như vậy là chúng ta phải nghiêm chỉnh tuân giữ lề luật. Nhưng một vấn đề rất cụ thể và hết sức thiết thực đặt ra cho chúng ta là: các kinh sư Do Thái, những người Pha-ri-sêu, nổi tiếng là giữ luật một cách nhiệm nhặt, nhưng lại bị Đức Giê-su chê trách rằng họ chẳng hề tuân giữ lề luật. Thật vậy, Đức Giê-su đã từng tuyên bố với các kinh sư Do Thái rằng: « Ông Mô-sê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19). Stê-pha-nô cũng nói với các kinh sư Do Thái tương tự như thế trước khi bị họ ném đá chết: «Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ» (Cv 7,53). - Vậy phải giữ luật như thế nào mới được gọi là thật sự giữ luật? mới đẹp lòng Thiên Chúa? mới trở nên thánh thiện đích thực?
3) Cần phân biệt luật tổng quát và luật chi tiết
Trong tôn giáo, lề luật là những điều mà mọi tín đồ phải thực hiện hay tuân giữ để thực hiện tinh thần hay mục đích của tôn giáo: nên trọn lành, được cứu rỗi. Luật lệ gồm hai phần mà chúng ta cần phân biệt:
Phần tinh thần, mang tính tổng quát, phát xuất từ Thiên Chúa. Phần này - tương tự như hiến pháp trong một quốc gia - là những nguyên tắc mang tính tổng quát, nhưng hết sức quan trọng. Có thực hiện được những nguyên tắc tổng quát này thì mới đạt được mục đích của tôn giáo. Trong Ki-tô giáo, có hai nguyên tắc tổng quát nhất là: «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình» (Lc 10,27); «Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy» (Mt 22,40).
Hai nguyên tắc này đã được thánh Phao-lô và Gia-cô-bê tổng hợp lại thành một nguyên tắc duy nhất: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8.10); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô» (Gl 6,2); «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8). Chính Đức Giê-su cũng tuyên bố rất rõ ràng: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,35).
Phần cụ thể, mang tính chi tiết, thường do con người lập nên bằng cách suy diễn từ những điều luật tổng quát trên cách áp dụng cụ thể những điều luật ấy trong mọi tình huống của đời sống con người. Phần này - tương tự như luật pháp trong một quốc gia - gồm những điều luật cụ thể giúp thể hiện một cách chi tiết những điều luật tổng quát (trong quốc gia là hiến pháp). Ki-tô giáo có vô số điều luật - trong giáo luật cũng như trong từng lãnh vực của tôn giáo - nhằm cụ thể hóa và chi tiết hóa hai nguyên tắc tổng quát «mến Chúa, yêu người» nói trên. Mọi Ki-tô hữu đều phải cố gắng thực hiện những qui định mang tính chi tiết này, để nhờ đó thực hiện cách hoàn hảo hai nguyên tắc tổng quát trên.
4) Giá trị của hai thứ luật trên
Những điều luật căn bản, mang tính tổng quát thì có giá trị tuyệt đối, con người phải thực hiện trong bất kỳ tình huống nào, và không hề có luật trừ. Đó là luật phát xuất từ Thiên Chúa. Theo tinh thần của đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46 thì Thiên Chúa chỉ phán xét con người theo điều luật tổng quát này của Ngài mà thôi.
Những điều luật mang tính chi tiết đều phải nhằm giúp con người thực hiện điều luật tổng quát trên trong những tình huống cụ thể hơn. Do đó, chúng chỉ có giá trị khi nhằm mục đích thực hiện hoàn hảo những nguyên tắc tổng quát trên và khi phù hợp với mục đích ấy. Do đó, bất cứ điều luật chi tiết nào nếu đem áp dụng trong những hoàn cảnh cụ thể mà phản ảnh đúng hay phù hợp với những nguyên tắc tổng quát trên, thì người tín hữu buộc phải tuân giữ. Trái lại, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, việc áp dụng những luật cụ thể này lại đi ngược với tinh thần của điều luật tổng quát trên, thì trong hoàn cảnh cụ thể ấy, người tín hữu không buộc phải tuân theo. Chính Đức Giê-su đã sẵn sàng lỗi luật ngày sa-bát khi mà nếu giữ luật chi tiết này trong những trường hợp cụ thể Ngài gặp thì hóa ra lại vi phạm một luật tổng quát hơn, là luật yêu thương (x. Mt 12,1-8; 9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,1-18; 9,1-41). Vì khi soạn ra những điều luật chi tiết này, không ai có thể nghĩ ra hết tất cả những trường hợp luật trừ, là những trường hợp mà tuân hành những luật này sẽ trở nên vi phạm những lề luật cao hơn hay tổng quát hơn.
Trong hiến pháp của một quốc gia thường có một khoản qui định rằng bất cứ một điều khoản nào trong luật pháp mà đi ngược lại tinh thần của bất kỳ một điều khoản nào trong hiến pháp, thì điều khoản trong luật pháp ấy trở thành vô giá trị, không phải tuân giữ. Hiến pháp mới là căn bản, luật pháp chỉ là công cụ hay phương tiện để thể hiện hay thực hiện hiến pháp mà thôi. Vậy chúng ta cần phải tập trung quan tâm vào việc thực hiện điều luật tổng quát của Ki-tô giáo là «mến Chúa, yêu người», mà tóm gọn hơn nữa là «yêu người», hơn là chú tâm thực hiện những chi tiết của lề luật thành văn. Nói thế không có nghĩa là không cần thực hiện những điều luật chi tiết, vì theo Đức Giê-su thì: «Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23b).
5) Một cám dỗ thường xảy ra đối với việc thực hiện lề luật
Người tín hữu không được giáo dục đức tin đầy đủ thường bị cám dỗ chỉ quan tâm thực hiện những điều luật chi tiết, cụ thể, thậm chí quan trọng hóa cả những chi tiết của luật lệ, mà không hề quan tâm tới tinh thần tổng quát của lề luật. Do đó, thường xảy ra tình trạng như sau: có những tín hữu giữ những luật lệ tôn giáo một cách hết sức chi tiết, tỉ mỉ, được mọi người coi là đạo đức, thánh thiện. Nhưng nếu những người ấy tự xét mình một cách nghiêm túc xem mình đã thật sự mến Chúa yêu người chưa, thì họ phải tự nhìn nhận là chưa, hoặc còn thiếu sót hơn cả những người bình thường khác.
Điều chúng ta phải lấy làm lạ và phải suy nghĩ thật nghiêm túc là: các kinh sư Do Thái giữ luật nhiệm nhặt như vậy, thế mà Đức Giê-su lại đánh giá rằng «không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19), tại sao? Vì tuy họ quan tâm giữ nhiệm nhặt nhiều điều khoản của tôn giáo, nhưng họ lại «bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành » (Mt 23,23). Và những khoản luật mà họ tuân giữ nhiệm nhặt ấy nghĩ cho cùng cũng «chỉ là giới luật của phàm nhân» (Mt 15,9). Nên việc giữ luật nhiệm nhặt ấy cuối cùng lại trở thành «sôi hỏng bỏng không», hay như «công dã tràng»!
Còn cách giữ Luật Chúa của chúng ta thì sao? Liệu Thiên Chúa có đánh giá chúng ta, những người đang tự hào là giữ luật một cách nghiêm nhặt, tương tự như thế không? Rất có thể, vì chúng ta chỉ chú ý tới cái «xác của lề luật», là những điều khoản thành văn, mà không chú ý tới cái «hồn của lề luật», tức tinh thần của lề luật. Xác mà không có hồn thì chỉ là xác chết, vô giá trị! Chắc chắn tới ngày phán xét, rất nhiều người đã giữ luật một cách nhiệm nhặt không kém gì các kinh sư Do Thái, nhưng lại đứng vào hàng ngũ «quân bị nguyền rủa » (Mt 25,41), chỉ vì "xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống, v.v...» (25,42tt). Tội nghiệp cho họ là những kẻ mà Luật Chúa thì không thèm giữ chỉ toàn lo giữ «luật của phàm nhân»!
Lạy Cha, xin cho con biết tôn trọng Luật Cha là luật yêu thương. Xin ban cho con tinh thần của thánh Âu-Tinh: «Cứ yêu đi, rồi làm gì thì làm!» Con nhận ra rằng con chỉ chu toàn được Luật của Cha khi con thật sự yêu thương mà thôi. Vì thế, xin Cha cho con biết yêu thương!
SUY NIỆM 12: Thắp lên một ngọn nến
Thế giới hôm nay có những kẻ thù địch với Kitô giáo. Họ hăng say tuyên truyền cho tội ác và tìm mọi cách để thu hút, lôi cuốn đám đông đi theo đường hướng của họ.
Trước sự kiện này, một số các tín hữu nhiệt thành đã thiết lập phong trào thánh Christôphôrô. Những người gia nhập phong trào này không cần phải ghi tên hay đóng góp chi cả, miễn là cố gắng làm thế nào chứng minh cho kẻ khác biết được rằng : tất cả chúng ta đều được Chúa yêu thương và chăm sóc. Chính vì thế mà phải sống một cuộc sống chan hòa tình người, tôn trọng những quyền lợi của nhau, cũng như sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Điều mà phong trào này tâm niệm đó là :
- Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta ghi nhận điều này : Đức Kitô là ánh sáng muôn dân.
Thực vậy, hôm nay trước cửa đền thờ, ông già Simêon đã nói tiên tri về Hài nhi Giêsu như sau :
- Lạy Chúa, xin để tôi tớ này được ra đi bình an, vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ, Chúa dọn ra trước mặt nhân trần, làm ánh sáng rạng soi dân ngoại, còn Israen dân Chúa được vinh quang.
Rồi trong cuộc sống công khai, chính Đức Kitô cũng đã từng công bố :
- Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không còn ngồi trong đêm tối.
Hay như thánh Gioan đã xác quyết :
- Nơi Ngài có sự sống. Và sự sống là ánh sáng cho muôn dân. Anh sáng đã chiếu soi trong u tối.
Một khi Đức Kitô đã là ánh sáng, thì Mẹ Maria chính là chiếc đèn, bởi vì Mẹ mang trong mình ánh sáng và từ đó tỏa lan khắp nơi. Hôm nay nơi đền thờ Giêrusalem, Mẹ bồng ẵm trong vòng tay của mình Hài nhi Giêsu, ánh sáng muôn dân. Không phải Mẹ chỉ bồng ẵm Chúa trên đôi tay của mình, mà hơn thế nữa, tâm hồn Mẹ hoàn toàn được ánh sáng Chúa chiếu soi và biến đổi. Mẹ chính là tấm gương trung thực nhất phản ảnh mọi nhân đức của Chúa.
Trên trời cũng như dưới đất, không một tạo vật nào giống Chúa cho bằng Mẹ. Mẹ chính là người môn đệ đầu tiên đã đi trên dấu chân của Chúa, qua đau khổ và thập giá để tiến đến vinh quang. Mẹ hoàn toàn tin tưởng và phó thác để được trọn vẹn trung thành với thánh ý của Chúa.
Còn chúng ta thì sao ?
Tôi xin thưa : - Chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng như Đức Kitô, chúng ta cũng phải trở nên đèn cháy như Mẹ. Thực vậy, thánh Phaolô đã khuyên nhủ :
- Trước kia anh em là tối tăm, nhưng hiện nay anh em là ánh sáng trong Đức Kitô.
Phải chăng đây cũng chính là điều Đức Kitô mong ước nơi mỗi người chúng ta, khi Ngài phán : - Các con là ánh sáng thế gian. Một thành xây trên núi, không thể giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới gậm giường, nhưng sẽ đặt trên giá, để nó chiếu sáng cho mọi người trong nhà.
Là người Kitô hữu, chúng ta phải mang Đức Kitô, hay nói cách khác, phải mang ánh sáng của Ngài trong tâm hồn, rồi từ đó chiếu tỏa ánh sáng ấy cho những người chung quanh.
Là người tín hữu, chúng ta phải trở thành ngọn đèn cháy sáng, để những người còn ngồi trong tối tăm lầm lạc, nhờ chúng ta, sẽ tìm thấy đường ngay nẻo chính. Muốn được như thế, thì tâm hồn và cuộc đời chúng ta phải trong suốt như pha lê, cho ánh sáng Chúa chiếu qua.
Thế nhưng có kẻ lại nghĩ rằng :
- Ánh sáng của tôi còn quá yếu ớt, làm sao có thể chọc thủng được đêm đen ?
Trong một buổi thuyết trình, vị linh mục được mời nói chuyện, đã bắt đầu bằng cách tắt hết các bóng điện, khiến cho tăm tối phủ kín khắp phòng. Rồi ngài đánh một que diêm và thắp lên một ngọn nến. Ánh sáng của ngọn nến tuy yếu ớt, nhưng cũng đủ để họ nhìn thấy được khuôn mặt của người bên cạnh. Và nếu người nào cũng thắp lên một ngọn nến như thế, thì hẳn căn phòng sẽ rực rỡ, sẽ chan hòa ánh sáng.
Đừng nói rằng : - Mình chẳng làm gì được.
Trái lại, thay vì ngồi phê bình và chỉ trích, thở dài và bi quan, chúng ta hãy góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công cuộc đẩy lui ảnh hưởng của đêm tối, của tội ác.
Nếu hoạt động của đêm tối là âm mưu, là thù oán, là tham vọng bất chính, thì hoạt động của ánh sáng phải là nhân hậu, phải là tha thứ, phải là khiêm cung.
Nếu một con én không làm nổi mùa xuân thì ít nữa nó cũng góp phần báo tin mùa xuân đang đến.
Chúng ta cũng vậy, thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
SUY NIỆM 13: Mẫu gương của bậc cha mẹ
(Lm. Gioan Trần Khả)
Tổng Thống George Washington một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ. Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò chuyện với bà nhiều giờ liền. Một hôm thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông:
"Tại sao con lại chịu khó và mất thời giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?"
Vị Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời, "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống" (Trích trong Thiên Phúc: Maria Mẹ Tuyệt Mỹ, Tr. 27-28).
Vai Trò Của Cha Mẹ
Làm cha mẹ, khi thấy con cái treo những bức hình của những ca sĩ, những tài tử, diễn viên kịch ảnh, những anh hùng thể thao... và khi thấy chúng lúc nào cũng mê man nghe nhạc, nghe khi vừa thức dậy, khi ăn, khi đi học, khi ngồi làm bài, khi làm việc vặt trong nhà, thì chúng ta e ngại là con cái chúng ta sẽ bị ảnh hưởng qúa nhiều bởi những mẫu người đó. Tuy nhiên, khảo cứu tâm lý cho chúng ta biết, khi tuổi trẻ truởng thành hơn thì chúng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi những mô phạm nhất thời đó. Người có ảnh hưởng nhiều nhất nơi con cái là cha mẹ. Cha mẹ cần dạy và sống những gía trị đạo đức và luân lý để con cái noi theo khi chúng còn sống chung dưới mái ấm gia đình. Một bà mẹ nhận xét, "Cái quan trọng trong đời sống của gia đình không phải là những món ăn sang trọng, cái bếp sạch sẽ ngăn nắp, hay biết sắp xếp liệt kê những việc phải làm trong nhà. Không gì có thể thay thế việc cho con cái chúng ta nhìn thấy tình thương và sự tận tụy hy sinh của chúng ta đối với chúng. Đồ chơi, quần áo mới, dĩa nhạc, đồ trang sức sẽ không thể thay thế tấm lòng hy sinh và tình thương của cha mẹ tỏ ra đối với con cái."
Những Tấm Gương
Khi chúng ta mừng lễ kính Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh, phúc âm thánh Luca giới thiệu cho chúng ta hình ảnh những con nguời tôi trung của Thiên Chúa: Giuse, Maria, Simeon và Anna. Là bậc cha mẹ gương mẫu, là đôi vợ chồng đạo đức, đầy lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Khi vừa đủ ngày, Giuse và Maria đem con lên đền thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Hành động Hiến Dâng của các ngài biểu lộ một đức tin sâu đậm, và lòng xác tín yêu mến lề luật của Chúa. Các ngài dâng Con không phải chỉ bằng môi miệng hay lời kinh suông, nhưng còn kèm với của lễ tuy đơn sơ nhưng gói gọn cả tấm lòng đối với Thiên Chúa trong khả năng của các ngài. Hơn nữa, cho dù được tiên báo là con mình sẽ như một Luỡi Gươm Đâm Thấu Tâm Hồn, các Ngài vẫn can đảm lãnh nhận và chu toàn trách nhiệm dậy dỗ con. Con trẻ lớn lên thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Được như thế là do bởi cha mẹ Ngài là những nguời công chính và đạo hạnh.
Hầu hết những nguời làm cha mẹ đều có tình thương yêu đối với con cái. Tuy nhiên không phải ai cũng biết cách tỏ tình thưong yêu và phương cách dậy dỗ giáo dục con cái cho đúng. Việt Nam chúng ta có câu, "Cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh." Câu này chỉ trúng một phần nhỏ. Để chu toàn trọng trách làm cha mẹ, bậc cha mẹ còn có bổn phận tìm hiểu và học hỏi đào sâu về đức tin, về tâm lý và luân lý để huấn luyện dậy dỗ con mình lớn lên trong đường lối của Thiên Chúa.
Nhận Ra Dấng Cứu Thế
Khi đến đền thờ, các ngài gặp hai Nhân Vật cao niên Simeon và Anna. Con trẻ Giêsu mới chỉ được có 40 ngày. Ông Simeon và bà Anna chưa hề gặp con trẻ và cha mẹ của con trẻ. Nhưng tại sao họ đã nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế? Sở dĩ họ nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế bởi vì Simeon là Người công chính biết kính sợ Thiên Chúa, cho nên lòng trí của ông luôn tỉnh thức. Ông đã nghe và nhận ra tiếng thúc đẩy của Thần Khí và ông đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi ông đã được nhìn thấy Chúa Giêsu và ẵm bồng Ngài thì ông mãn nguyện sung sướng. Ông Simeon đã nhìn ra giá trị đích thực và không còn luyến tiếc sự đời. Do đó, ông xin bằng lòng xuôi thác, "Lạy chúa bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt tôi đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn cho muôn dân." Cũng thế, bà Anna, sau khi chồng chết, đã thủ tiết và dành cuộc đời của bà sống ăn chay cầu nguyện trong đền thờ trông chờ Đấng Cứu Thế. Vì có tấm lòng thành kính và sống trong tinh thần chuẩn bị và mong chờ Đấng Cứu Thế cho nên bà cũng đã được diễm phúc gặp Ngài và nhận ra Ngài để công bố và xác nhận cho những nguời khác về Đấng Cứu Thế.
Tuy nghèo túng nhưng Giuse và Maria vẫn có thể tìm được của lễ để dâng cho Thiên Chúa và chu toàn trách nhiệm làm cha làm mẹ. Phần chúng ta, chúng ta có thể liệu được những gì để dâng cho Thiên Chúa và làm những gì để nói lên tinh thần của bậc làm cha làm mẹ đối với con cái? Trong tuổi già lưng còng mắt kém, nhưng ông Simeon và và Anna vẫn có thể nhìn và nhận ra Đấng Cứu Thế. Phần chúng ta, chúng ta có nhận ra Chúa Giêsu trong hoàn cảnh sống hàng ngày không?
SUY NIỆM 14: Lễ Đức Mẹ dâng Con trong đền thờ
Bài Tin Mừng anh chị em vừa nghe là một trong những bài Tin Mừng có những hình ảnh đẹp nhất trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Có thể nói cuộc gặp gỡ của những người được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là cuộc gặp gỡ của những người đại diện cho dến ba thế hệ.
Tiên tri Simêon và Anna thuộc thế hệ cao niên. Đức Mẹ và thánh Giuse thuộc thế hệ đương thời và Chúa Giêsu thuộc thế hệ mai sau. Cả ba thế hệ hội tụ lại trong khung cảnh của đền để thực hiện cho Lễ Đức Mẹ Dâng Con
Những lưỡi gươm sầu khổ.
Đang khi thăm viếng bệnh viện, một cha sở dừng lại nhìn một giáo dân trẻ, có đứa con đầu lòng mới được 4 ngày. Mặc dầu vẻ bề ngoài thật dễ thương, nhưng người mẹ trẻ đó lại đầm đìa nước mắt. Cha sở hỏi: "Sao con lại khóc vậy hở Rosie?". Để đáp lại, Rosie chỉ ngước nhìn lên Đức Mẹ bồng ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng mà mắt đẫm lệ. Đó là một bức họa của một phần bài Tin Mừng hôm nay: "Khi ông già Simeon được Chúa Thánh Thần linh hứng, đã nói với Đức Mẹ rằng: Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà". Rosie đã nhỏ lệ vì chị cảm thương Đức Mẹ, vì Mẹ biết rằng: Chúa Kitô Con Mẹ sẽ phải đau khổ, và cũng vì chị cảm thấy nỗi lo âu của người mẹ sợ rằng con nhỏ của mình sẽ phải đau khổ, cha sở giải thích cho chị rằng Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ sức mạnh phi thường để đón lấy lời báo tin đắng cay ấy, để nhận lấy lưỡi gươm sầu khổ ấy.
Các bà mẹ ngày nay cũng có thể nhìn thấy vô vàn những nguy hiểm đe dọa con mình. Những đe dọa thể xác: như bệnh tật đủ loại, tai nạn mất sự sống và tàn tật, những kẻ hung ác, ngược đãi trẻ nhỏ, những thứ ma túy hủy hoại thể xác và cả tâm hồn, ăn uống say sưa quá độ, lái xe ẩu. Và còn biết bao tệ hại làm tan nát thể xác giới trẻ. Rồi những nguy hiểm cho linh hồn đứa trẻ lại càng tệ hại: những bạn bè xấu làm mất cả đức tin, mất phán đoán về sự chân thực và sự sai lầm, những bạn bè say sưa, những bạn bè nghiện ngập, những phim ảnh và tạp chí khêu gợi dục vọng, những sách vở và thầy dạy làm sai lạc điều chân thật, và tinh thần của ma quỉ ngày nay gào thét lên rằng: mọi sư đều tốt, bao lâu bạn có thể chiếm được chúng.
Thực vậy, các bà mẹ có nhiều điều lo lắng, nhưng tình trạng vẫn còn hy vọng. Một người có ảnh hưởng giúp đỡ. Một người mẹ gương mẫu, hoàn toàn vô tội, rất mực tinh tuyền, biết chắc rằng: con trẻ bà bồng ẵm trong tay rồi một ngày kia sẽ được đặt lại vào tay bà. Mà lúc ấy con bà đã bị thương tích, đầy máu me và hết sống. Người mẹ trên trời này nóng lòng giúp đỡ người mẹ ngày nay.
Như Đức Maria, các bà mẹ có những niềm vui và nỗi sầu. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa về niềm vui, như Đức Maria đã làm. Sự lo sợ của Đức Mẹ về tương lai, thay vì làm cho Người lìa xa Thiên Chúa, hay là làm cho Người quên Thiên Chúa, thì lại làm cho Người hứơng mắt về Cha trên trời đầy thông suốt và quyền năng.
Như thánh Phaolô viết cho tín hữu Do thái: "Chúa Giêsu đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành Vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong mọi việc phụng thờ Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân (B. đ.2; Dt 2,17).
Hôm nay Thánh lễ này thể hiện điều đó cho chúng ta. Lễ hiến tế làm sống lại những biến cố vui buồn trong cuộc đời Đấng cứu thế, Ngài sinh lại; chết và lại phục sinh. Từ sự làm mới lại cuộc thương khó và tử nạn của Ngài, mọi bà mẹ, mọi Kitô hữu, có thể lấy lại được sức mạnh để mang lấy sự lo lắng về tương lai, và đón nhận đau khổ khi nó xảy đến.
SUY NIỆM 15: Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
Ý nghĩa của ngày lễ
Bốn mươi ngày trước đây, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Theo luật Môsê, Sau khi sinh con trai đầu lòng được 40 ngày, người mẹ phải đến Đền Thờ Giêrusalem để làm lễ thanh tẩy cho mình và hiến dâng con trẻ cho Thiên Chúa, rồi chuộc lại bằng lễ vật một con chiên hay một cặp bồ câu: vì mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa. Ý nghĩa này nhắc cho dân Do Thái cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã tha không giết các con trai đầu lòng của họ, đang khi các con trai đầu lòng của dân Ai Cập đều bị giết chết, trong đêm Thiên Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập đưa về Đất Hứa (x. Xh 13,l-3a.11-16).
Đức Maria và thánh Giuse cũng tuân giữ diều luật này. Hai ông bà đem Hài nhi Giêsu lên đền Thờ hiến dâng cho Thiên Chúa và gặp ở đây hai vị tiên tri già lão: Simêon và Anna. Hai vị được Thánh Thần linh ứng dã nhận ra Chúa Cứu Thế. ông Simêon đã mãn nguyện vì được tận mắt chiêm ngưỡng Đấng muôn dân trông đợi. Ông đã lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa và nói tiên tri về Hài nhi Giêsu: Hài nhi này sẽ là ánh sáng của muôn dân nhưng lại là đối tượng cho người ta chống đối.
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ cho thấy Người là con đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Ông Simêon và bà Anna tượng trưng cho tất cả sự trông đợi của It-ra-en, họ đã tới gặp Cứu Chúa của mình. Đức Giêsu được nhìn nhặn là Đấng Mêsia người ta trông đợi từ lâu, là ánh sáng của muôn dân và là vinh quang của Ít-ra-en, nhưng Người cũng là dấu hiệu của sự chống đối. Thanh gươm của đau khổ được báo cho Mẹ Maria đã loan báo một sự hiến dâng toàn hảo và độc nhất của thập giá. Sự hiến dâng sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị trước mặt tất cả mọi dân tộc
Lễ của ánh sáng
Lễ hôm nay còn được gọi là Lễ Nến, vì có cuộc rước nến vào Nhà thờ như cuộc đón rước Chúa GIÊSU là ánh sáng của muôn dân. Thánh Xốp-rô-ni-ô, Giám Mục Giêrusalem dã nói: "Đây là ý nghĩa của mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang theo đèn sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa. Người là ánh sáng thật đã đến, ánh sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy toả sáng" (x. Kinh Sách, các bài đọc ngày 2/2)..
Công đồng Vaticanô II đã lấy lại lời tiên tri của ông Simêon để mời gọi mọi người Ki tô hữu ý thức sứ mạng và ơn gọi của mình là phải làm cho mọi người được nhận biết Chúa Ki tô, phải đem ánh sáng Tin Mừng của Ngài chiếu soi hướng dẫn mọi người trên thế giới. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố. "Thầy là ánh sáng trần gian. Ai đi theo Thầy sẽ không bước đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống" (x.Ga 12, 34-50). Bao lâu con người chưa nhận biết Chúa Ki tô và ánh sáng Tin Mừng của Ngài, thì bấy lâu con người còn dò dẫm trong tăm tối và dễ bị lầm lạc.
Tuy nhiên, Chúa Ki tô đã trở nên đối tượng chống đối của con người. Có những người biết Chúa để sống theo Ngài. Có những người khác lại chống đối Ngài. Chúng ta lấy làm đau xót với thánh Giuse và Mẹ Maria khi nghe tiên tri Simêon tiên báo điều đó ngay trong ngày vui của Chúa Giêsu: "Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn chính Bà (Đức Ma ria) thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra". Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm ngay từ lúc Chúa Giêsu mới sinh ra cho đến khi bắt dấu cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Cuộc chống dối đó ngày càng lan rộng và quyết liệt cho đến khi giết được Ngài treo lên Thập giá. Nhưng Ngài dã Phục Sinh và đã trở thành ánh sáng của muôn dán, nguồn sống cho nhân loại.
Hãy sống trong ánh sáng
Từ nay, ai đã tin Chúa Giêsu Ki tô và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy đều đón nhận sự sống của Thiên Chúa và được ánh sáng của đức Ki tô chiếu soi, hướng dẫn cuộc sống. Thật vậy, nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được thánh hiến cho Thiên Chúa và được trở nên con của Ngài trong Đức Giesu Ki tô. Thiên Chúa đã thương gọi chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Ngài. Xưa kia, chúng ta là tối tăm, nhưng nay trong Chúa Ki tô, chúng ta là "con cái của sự sáng là ánh sáng của trần gian" (x. Ga 12,85-36). Do đó chúng ta phải sống như con cái của sự sáng, phải chiếu sáng trước mặt mọi người, để "người ta nhận thấy việc tốt chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta trên trời" (Mt 5.14-16).
Thánh Phao lô nhắn nhủ những người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy: Hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa, Hãy vật bỏ những việc tối tăm, Hãy mang khí giới ánh sáng,Hãy hành động đàng hoàng như giữa ban ngày, để luôn được hiệp thông với Chúa Ki tô tà ánh sáng muôn dân" (x. Ep 6,8-14).
Chúa Giêsu hôm nay đang tiến vào Đền Thờ của Ngài. Chúng ta hãy tiếp dón Ngài vào tâm hồn, vào cuộc sống của ta, để ánh sáng của Ngài biến đổi chúng ta thành những ngọn nến chiếu sáng như những vì sao trong đêm tăm tối của trán gian, hầu dẫn đưa những ai còn ngồi nơi tăm tối đến gặp gỡ Đức Giêsu Ki tô, 'đấng Cứu Độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn trước mặt muôn dân" và dã bày tỏ cho mọi người.
SUY NIỆM 16: Dâng Chúa trong đền thờ
Một bà lão gặp vị linh mục và nói: "Thưa cha, con đã cầu nguyện rất nhiều, con chỉ mong thấy Chúa một lần là đủ cho con, nhưng Chúa chưa nhận lời".
Ước mong đơn sơ của bà thật sự gói trọn niềm hy vọng của người Kitô hữu; bởi cùng đích của cuộc đời chúng ta là gặp gỡ và kết hợp trọn vẹn với Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc ông già Simêon được diễm phúc gặp Chúa Hài Đồng, được bồng ẵm Chúa khi Chúa được Mẹ Maria và Thánh Giuse dâng tiến trong đền thờ.
Việc Chúa Giêsu được dâng tiến trong đền thờ và thái độ của cụ già Simêon cho chúng ta nhiều bài học:
- Đức Giêsu được dâng tiến trong đền thờ: Nghi thức dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa là nghi thức Do thái nhắc nhở rằng mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Đức Giêsu -Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể- là Con Chúa Cha từ thuở đời đời. Tuy nhiên, đi vào lịch sử nhân loại trong văn hóa Dothái giáo, Ngài được cha mẹ dâng tiến cho Thiên Chúa theo như luật định. Qua đó, Ngài nêu gương cho chúng ta về việc tuân giữ lề luật và dâng mình cho Thiên Chúa.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta, từ khi còn tấm bé, đã được cha mẹ dâng cho Thiên Chúa trong ngày chịu phép rửa. Nhờ phép rửa, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha. Chúng ta hãy ý thức và sống xứng đáng với hồng ân này.
- Tiếp theo là thái độ của cụ Simêon: Sau cả một đời chờ mong, giờ đây, cụ sung sướng thỏa mãn; bởi vì cụ đã thấy, đã được bồng ẵm Đấng Cứu Thế trên tay mình.
Ông cụ Simêon mới được thấy Chúa, được ẵm Chúa trên tay mà đã sung sướng và tạ ơn Thiên Chúa như vậy, huống cho chúng ta được rước Chúa Giêsu vào tâm hồn mỗi ngày! Chúng ta có nhận ra hồng ân cao trọng này mà ca tụng Chúa hay không?
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, ông già Simeon -được Thánh Thần thúc đẩy- đã lên đền thờ và gặp được Chúa -Đấng Cứu độ- mà lâu nay ông hằng mong ước. Ước gì chúng con năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi ngày; để nhờ vậy, chúng con không chỉ gặp được Chúa mà còn được rước Chúa ngự trong tâm hồn. Amen.
SUY NIỆM 17: Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
(Lm PX Vũ Phan Long)
1- Ngữ cảnh
Chương 1-2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đanien 9-10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca "Chúc tụng" (Benedictus) và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm "sự hoàn tất các ngày" (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc 1,5-2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc "Vinh quang" của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là "vinh quang của Israel") đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml (3,1).
2- Bố cục
Nên đọc bản văn này từ câu 21, để duy trì được sự song đối giữa Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24):
- cắt bì và đặt tên (c. 21),
- thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24).
2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38):
- tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35),
- tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (2,39-40).
3- Vài ghi chú về chú giải
- Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22): "Các ngài" là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật không buộc thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy, "các ngài" phải được hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài là chủ từ của động từ "đem [con] lên". Các nhà chú giải nhìn nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina, nên đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ sau khi sinh con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có được không phát xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
- theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi 12,2-8, một phụ nữ sinh một con trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì (vào ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, "cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của bà" (Lv 12,4), trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu non.
- để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc nối kết việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu được gọi là "con trai đầu lòng" ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm vụ của cha mẹ Người. Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: "Đức Chúa phán với ông Môsê: 'Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta". Sự thánh hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con đầu lòng được chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc), tính theo đơn vị đo lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc không nhắc gì đến việc trả số bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như là việc dâng con vào Đền Thờ Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah nói cả.
- để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.
- công chính và sùng đạo (25): Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những đại diện của những người Do Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.
- niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại Israel (x. Is 40,1; 61,2).
- ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
- một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (35): Có những tác giả cho rằng "thanh gươm" đây là nỗi ngờ vực về chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek...). Cách giải thích này không tương ứng với TM Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách giải thích truyền thống (kể từ Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi "thanh gươm" này là nỗi đau đớn đồng cảm Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân thập giá trong TM Ga mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55; 24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như trái với cái nhìn của tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác giả Tân Ước, tâm lý của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong Lịch sử cứu độ (ta thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria chỉ luôn đóng một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải thích này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh "thanh gươm" là biểu tượng của sự "chia rẽ" và "mâu thuẫn" (x. Ed 12; 14;...). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một "lưỡi gươm sắc bén". Sách Khải huyền đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là "Lời của Thiên Chúa" và "từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén" (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung được gọi là "ánh sáng muôn dân", tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện trong tâm trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh sáng của Xp 3,14-15 và Dcr 2,14). Theo hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng một kiểu nhân-cách-hóa tiên trưng để trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền Thờ, và như vậy, ngài đã đặt vào miệng ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi Mẹ, chính là Israel sẽ bị thanh gươm của Đức Chúa đâm thâu.
Cách giải thích này (được gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin, Boismard, Benoýt...) có điểm thuận lợi là làm cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này trở thành một mắt xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được nối tiếp và tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng hoảng gây ra nơi Israel bởi "dấu hiệu gây chống báng" được ngôn sứ Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c. 35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới chỗ thâm tâm của người ta phải lộ ra.
Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh họa cc. 30-32. Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức tranh bộ đôi: một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn dân được cứu độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng hoảng của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp ngã. Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông Simêôn trình bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong Tin Mừng cũng như trong Công vụ.
(2) Có một cách giải thích khác cũng có thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa khác của câu này, và như một cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết "thanh gươm" với "đâm thâu (= xuyên qua)". Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người để bị tiêu diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc, hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức Maria, là thành viên của Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc, chính Đức Giêsu sẽ được mô tả như một người gây chia rẽ trong các gia đình (12,51-53). Như vậy, với hình ảnh thanh gươm đâm thâu Đức Maria, ông Simêôn gợi đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới học ra rằng việc vâng phục Lời Thiên Chúa phải vượt lên trên cả những dây liên hệ gia đình (x. 8,21; 11,27-28).
4- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu (21-24)
Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ tỏ mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và đạt tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp nhập vào Israel (x. Gs 5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được chính Thiên Chúa ban cho. Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.
Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc. 22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc. 22b.23). Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm 1,22-24) mà tả cảnh này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và ông Giuse, như là những người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của Luật Môsê. Trong các câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện tỏ mình ra cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1 Sm 1-2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã tiên báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca "Chúc tụng", nay sự cao cả của Đức Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế, đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc. 29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.
Tác giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một truyện về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của Đức Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào; vai trò của bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (39-40)
Hai câu kết làm vọng lại điệp khúc đã có trong bài tường thuật về Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80). Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm 2,21c.26.
+ Kết luận
Câu truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta thấy Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.
5- Bài học
1. Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của Israel có thế nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời đã hứa. Vào dịp chúng ta chịu phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm con. Cho dù chúng ta có bất trung thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù các tội lỗi của chúng ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là trái tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải. Hãy mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón Đức Kitô.
2. Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc. Chúng ta cũng có thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong lòng. Khi đó, Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính xác hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời môn đệ của Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện cũng như sống nếp sống hằng ngày.
3. Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng ta về cách sống hy vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng. Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn bị với thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết ơn.
4. Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập trung vào Đức Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác. Nhưng "ơn nghĩa của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu" (c. 40) đã tạo nên trong gia đình này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức Giêsu. Đây là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô thật là trung tâm của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương người khác và được người khác yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
5. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của Người. "Đó mãi mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm...: sự thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết ... Không thể khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ, loài người không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến cố lớn là những sự kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực tại theo một tầm nhìn hoàn toàn loài người... Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự thể hiện ngày qua ngày" (Hông Y John Henry Newman, 1801-1890).
SUY NIỆM 18: Dâng Con trong đền thờ
(Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Lần chuỗi kinh mân côi chục thứ bốn có lời ngắm nguyện: "Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh".
Tập tục đạo đức dâng con cho Thiên Chúa có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin?
Đức tin nói với chúng ta:
Con cái là hoa qủa phúc lộc Trời cao ban cho cha mẹ. Tuy cha mẹ là người sinh thành nuôi dưỡng con mình.
Con cái không là sản phẩm do cha mẹ chế biến tạo thành. Nhưng sự sống, tính tình cùng hình hài thân xác của con cái là do Thiên Chúa sáng tạo thành.
Con cái tuy là giọt máu tình yêu thương của cha mẹ. Nhưng mầm sự sống trong dòng máu tình yêu thương của cha mẹ lại là hình ảnh giọt máu tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống của con người.
Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse ngày xưa đã không nhìn Chúa Giêsu là con riêng do mình tạo ra. Nên đã đem con mình vào đền thờ khấn nguyện tạ ơn dâng cho Thiên Chúa. Cử chỉ đạo đức này của Đức Mẹ nói lên lòng tin tưởng phó thác vào bàn tay Thiên Chúa. Vì đã nhận được ân đức qùa tặng từ nơi Thiên Chúa, cùng coi làm việc đạo đức này là bổn phận tất yếu của người đã lãnh nhận được ân phúc.
Lần thứ nhất, Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Đức Mẹ: Chúa Giêsu xuống thế làm người trong cung lòng Đức Mẹ. Và nói cùng Đức Mẹ: người con trong cung lòng bà sinh ra là Đấng thánh cao cả.
Lúc đem con vào đền thờ dâng cho Thiên Chúa, Đức Mẹ lại nghe lời truyền tin thứ hai của Tiên Tri Simeon: Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được vực dậy đứng lên. Cháu là dấu hiệu cho người đời chống báng. Còn chính bà một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà!
Lòng vui mừng vì người con đã chào đời. Nhưng cũng có nhiều lo âu bối rối, nhất là khi nghe những lời truyền tin thứ hai về con mình và về đời mình.
Tuy vậy Đức Mẹ qua tập tục đạo đức đem dâng con cho Thiên Chúa trong đền thờ, thầm nói lên tâm tình phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa không chỉ riêng cho đời con mình, mà cho cả chính mình nữa.
Là cha mẹ, người Công giáo chúng ta, ai cũng vui mừng khi hay tin có con. Và mừng rỡ hơn nữa khi người con mở mắt chào đời mạnh khoẻ. Nhưng ngay từ khi hay tin sự sống hình hài thân xác người con bắt đầu thành hình trong cung lòng mẹ cha, ai cũng đọc kinh khấn nguyện xin ơn phù hộ cho người con tương lai. Đến khi người con ra đời, cha mẹ nào cũng hằng dâng lời tạ ơn cùng kêu xin khấn nguyện cho con mình trong suốt cả đời sống.
Ngày xưa khi còn thơ bé, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm vào thánh đường xin cho được nhận lãnh Bí tích rửa tội, ánh sáng đức tin vào Thiên Chúa là hướng đi cho đời sống.
Ngày nay lớn lên trưởng thành lập gia đình, cha mẹ trẻ có con, họ cũng làm việc nối lửa đức tin cho con mình như thế.
Nếp sống đức tin này gói ghém tâm tình tạ ơn cùng phó thác vào bàn tay quan phòng Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời sống gia đình.
Tâm tình tạ ơn dâng hiến hòa lẫn trong làn khói ánh nến lung linh và lời cầu xin thoát ra tự đáy tâm hồn niềm tin: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử. Amen."
SUY NIỆM 19: Các con là ánh sáng thế gian
Tối hôm thứ bảy 30.1.1993 là tối đánh dấu 65 năm ngày Hitler lên cầm quyền tại Đức, đã gây ra không biết bao nhiêu tang tóc đau thương cho cả nhân loại. Tại khắp nơi trên nước Đức đã có hàng trăm ngàn người xuống đường tuần hành, nhiều ánh sáng rực rỡ nhóm lên, nhiều nến cháy trên tay của mỗi người tham dự cuộc tuần hành. Ánh nến ấy là biểu trưng của một chút ánh sáng mà nhiều người dân Đức muốn thắp lên để xoá tan màn đêm dày đặc của hận thù, ích kỷ, bại hoại do những người theo tân Đức Quốc Xã.
Hôm nay, tại nhiều nhà thờ trên khắp thế giới, người tín hữu Kitô cũng cầm nến cháy sáng trong tay để tưởng niệm một biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. đó là việc Ngài được cha mẹ dâng vào đền thờ Giêrusalem. Cũng như mọi bé trai đầu lòng Do Thái khác, Chúa Giêsu cũng được cha mẹ mang đến đền thờ Giêrusalem để dâng hiến cho Thiên Chúa theo đúng quy định của luật Môisê. Nhưng theo chương trình của Thiên Chúa, đây không chỉ là một lề luật có sẵn, nhưng điều chính yếu là việc tỏ mình của Con Thiên Chúa như ánh sáng của muôn dân.
Thật thế, như chúng ta đã nghe trong bài Tin Mừng hôm nay, lời chúc tụng của cụ già Simêon là một kỷ niệm về lời tiên báo của tiên tri Isaia: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để mở mắt những người mù loà, để đưa tù nhân ra khỏi lao tù, để đưa dân riêng ra khỏi bóng tối" (Is 42,6). Và chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: "Ta là ánh sáng thế gian".
Thật vậy, qua cuộc sống và cái chết cùng sự Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu đã chiếu giãi ánh sáng cho những bí ẩn của cuộc sống con người. Trong ánh sáng của Ngài, chúng ta biết được mình bởi đâu mà ra và mình sẽ đi về đâu. Đồng thời ánh sáng của Ngài cũng xoá tan mọi tăm tối tội lỗi của thế gian. Nơi đâu ánh sáng của Chúa Giêsu được chiếu toả, nơi đó bóng đêm của tội lỗi, của ích kỷ, của hận thù sẽ tan biến đi. Chúa Giêsu đã mang ánh sáng đến trên trần gian và Ngài muốn ánh sáng đó được chiếu toả trong mọi hang cùng ngõ hẻm của trần gian.
Nhiệm vụ mang ánh sáng của Ngài đi khắp nơi đã được Chúa Giêsu uỷ thác cho Giáo Hội, Ngài đã nói với các môn đệ: "Các con là ánh sáng thế gian". Giáo Hội và một cách cụ thể là mỗi người Kitô hữu đều là ánh sáng của Chúa Kitô được thắp lên để soi sáng cho trần gian.
Theo một truyền thống đã có từ lâu trong Giáo Hội, ngày hôm nay các tu sĩ cầm nến cháy trên tay để cùng với Chúa Kitô tự hiến cho Chúa Cha và cùng với Ngài trở thành ánh sáng cho mọi người. Nhưng ngày lễ nến hôm nay không chỉ là ngày lặp lại lời tuyên khấn của các tu sĩ, mà còn là lễ của mỗi người Kitô hữu.
Ngày hôm nay mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi để đốt lên ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Họ được mời gọi để cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại những lời cam kết chống lại sức mạnh của tăm tối trong cuộc sống của họ. Những ngọn nến đã được đốt lên trên toàn nước Đức biểu hiện của một ý chí muốn xoá tan những bóng tối riêng tư của hận thù, ích kỷ, bạo động... và đồng thời khơi dậy nguồn ánh sáng của sự tha thứ, yêu thương, quảng đại và cảm thông.
Ngày hôm nay, những ngọn nến mà mỗi người Kitô hữu thắp sáng lên cũng nhắc nhở cho họ về sứ mệnh cao cả là trở thành ánh sáng cho mọi người. Trong đêm tối của một xã hội dầy đặc những hận thù, ích kỷ, lừa lọc... mỗi người tín hữu Kitô đều có thể nói: "Thà đốt lên một ánh nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối". Một cuộc sống tin tưởng, hân hoan, phó thác và yêu thương, phục vụ quên mình, đó là một chút ánh sáng mà mỗi người tín hữu Kitô đều có thể đốt lên để soi sáng cho một góc trời nào đó, để từ đó người khác có thể nhận ra ánh sáng đích thực của Chúa Kitô.
SUY NIỆM 20: Bảo vệ ánh sáng
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Khi dâng Đức Giêsu trong đền thờ, Đức Mẹ tự nhận mình không có quyền trên Đức Giêsu. Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa trao cho Đức Mẹ để Đức Mẹ săm sóc dưỡng nuôi. Đức Mẹ dâng Đức Giê-su trong đền thờ không chỉ nhằm chu toàn lề luật, nhưng là công nhận quyền của Thiên chúa và cũng là để cầu xin Chúa chúc phúc cho Hài Nhi Giê-su.
Lễ Đức Mẹ dâng Con cũng được gọi là lễ Nến. Việc làm phép nến nói lên Đức Giê-su là ánh sáng soi trần gian.
Cụ Si-mê-on đã nhận biết Đức Giêsu là ánh sáng. Nhưng ánh sáng khởi đầu còn non nớt. Mà chung quanh thì bóng đêm và cuồng phong đang thét gào, hằm hè huỷ diệt làn ánh sáng run rẩy yếu ớt vừa ló dạng.
Có bóng tối cám dỗ của loài ma quỉ thâm độc lúc nào cũng rình chờ phá hoại chương trình của Thiên chúa. Có bóng tối độc ác của Vua Hêrôđê ghen ghét vì sợ mất quyền hành. Có bóng tối chán nản do những thất bại trong công cuộc rao giảng. Có bóng tối u mê của đám đông không hiểu những mầu nhiệm Nước Trời. Có bóng tối nhút nhát của các môn đồ mau chóng bỏ cuộc. Có cuồng phong ganh ghét của các thượng tế, luật sĩ. Có bóng tối vô tình của quân lính hành hình. Có bóng tối của cái chết đau đớn tủi nhục.
Đức Mẹ đã là người che chở làn ánh sáng, chống lại mọi bóng tối vây bọc. Đức Mẹ đã ấp ủ làn ánh sáng chống lại bão gió cuồng phong. Vì thế Đức Mẹ đã bị một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn.
Hôm nay các bà mẹ trong xứ noi gương Đức Mẹ, đến nhà thờ dâng con cho Chúa. Khi dâng con các bà công nhận con cái là hồng ân Chúa ban tặng. Khi dâng con các bà cũng cầu mong Chúa chúc phúc cho tương lai của con cái.
Nhìn những đôi má, những bàn tay trắng hồng của các em nhỏ đang vây quanh bàn thờ, tôi tưởng như đang thấy những mầm cây non mơn mởn vừa mới lú lên khỏi mặt đất.
Nhìn những đôi mắt long lanh, trong sáng, tôi thấy hiển hiện những làn ánh sáng xinh tươi vừa hé.
Đó là ánh sáng đức tin mà các em đã lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Đó là ánh sáng trí tuệ trinh nguyên như một tờ giấy trắng. Đó là ánh sáng nhân đức của một linh hồn chưa vương tội lỗi.
Thế nhưng chung quanh các em có biết bao hiểm nguy rình rập. Những cơn nắng cháy khô hạn tình người rình chực thiêu rụi mầm cây vừa hé. Những lớp bóng tối vật chất đang tìm vây bủa ánh sáng đức tin. Những cơn gió lười biếng đang kéo màn mây ngu muội dập tắt ánh sáng trí tuệ. Những cơn cuồng phong sự dữ đang huy động lực lượng dập tắt ánh sáng nhân đức của linh hồn.
Các bà mẹ đang dâng con cho Chúa. Các bà hãy bảo vệ kho tàng quý giá Chúa trao cho các bà gìn giữ chắc chắn. Khi đương đầu với sự dữ để bảo vệ ánh sáng nơi con cái, các bà sẽ phải chịu những thương tích như Đức Mẹ. Hãy học nơi Đức Mẹ nghệ thuật nuôi dạy con cái, để các cháu bé hôm nay được Chúa chúc phúc sẽ "càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, càng được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến".
Lạy Đức Ki-tô là ánh sáng soi trần gian, xin chiếu ánh sáng ân sủng vào các em nhỏ đang chờ được Chúa chúc phúc, để làn ánh sáng đức tin, ánh sáng nhân đức và ánh sáng trí tuệ Chúa đã nhóm lên trong các em ngày càng vươn cao và lan rộng.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp các bà mẹ can đảm bảo vệ ánh sáng của con cái, để ánh sáng của chúng vẫn còn sáng mãi cho đến ngày ra đón rước Chúa.
SUY NIỆM 21: Lễ Nến
(Lm. Nguyễn Ngọc Long)
A. Lịch sử
Lịch sử Ngày này trong Hội thánh công giáo là ngày lễ mừng, vẫn quen gọi là lễ Nến hay lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ. Tại sao lại có lễ này và gọi như vậy? Theo luật Maisen trong kinh thánh cựu ước ( Xh 13,11-16; Lv 12,1-8; Is 88,14f;42,6) ghi chép:
1. Trẻ em sơ sinh trong thời han luật định phải mang đến đền thờ dâng hiến cho Thiên Chúa.
2. Một người phụ nữ sau khi sinh con được 40 ngày phải mang vào đền thờ Thiên Chúa lễ vật, để được thanh tẩy. Vì thời đó người ta hiểu là sau khi sinh con, người phụ nữ không còn được thanh sạch. Thanh sạch về thể xác hay tâm hồn? Trong sách luật không nói rõ.
3. Người con đầu lòng là tài sản của Thiên Chúa. Vì thế có tục lệ dâng con và lễ vật cho Thiên Chúa để chuộc.
Sau khi hạ sinh Chúa Giêsu được 40 ngày Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi chép trong đạo thời đó. Nhưng lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh theo luật định lại trở nên cuộc gặp gỡ: Hai người đạo đức Ông gìa Simeon và Bà Hanna được hạnh phúc bồng bế haì nhi Giêsu trên tay mình. Qua cuộc gặp gỡ này họ đã nhận ra hài nhi Giêsu là "ánh sáng cho mọi dân tộc" ( Lc 2,22-40).
Bên Hội thánh Đông phương lễ này gọi là Lễ gặp Đấng Cứu Thế: Chúa Giêsu, vị Cứu thế vào đền thờ và gặp hai vị đại diện cho thời đạo cũ: Simeon và Hanna. Tục lệ này trở thành lễ mừng kính trong hội thánh bên Giêrusalem từ đầu thế kỷ thứ tư: 40 ngày sau khi Đức Mẹ hạ sinh Chúa Giêsu.
Bên Hội thánh tây phương lễ này là lễ kính Đức Mẹ: Đức Mẹ Maria cũng như bao người phụ nữ khác, sau khi sinh hạ con, mang lễ vật vào đền thờ, để được thanh tẩy như luật định. Bên Roma mừng kính ngày lễ này cũng vào thế kỷ thứ tư trong các thánh đường. Sau này, vào ngày lễ này nến được làm phép và mọi người rước nến cháy sáng trong nhà thờ. Vì thế lễ có tên là Lễ Nến.
Từ năm 1969 lễ ngày mùng Hai tháng Hai không còn thuần ý nghĩa lễ dành kính Đức Mẹ Maria, nhưng được đổi thành lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thờ, 40 ngày sau khi Chúa mở mắt chào đời trong hang đá Belem. Nếu lễ Chúa giáng sinh được mừng kính ngày 25. 12., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ, sẽ là ngày 02 tháng hai. Nếu lễ giáng sinh được mừng kính vào ngày 06.01., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ sẽ vào ngày 14. tháng Hai.
B. Ý nghĩa ngày lễ mừng
Tục lệ đạo đức lễ Nến ăn sâu trong cuộc sống người tín hữu. Ỡ nhiều nơi, giáo dân tín hữu mang nến đến nhà thờ để được làm phép trong ngày này. Họ mang nến đã làm phép về thắp lên mỗi khi đọc kinh gia đình, khấn nguyện khi có người ốm đau hoặc trẩy đi xa, trong những dịp vui mừng cưới hỏi hay tang chế.
Lễ mừng này nói lên ý nghĩa cuộc gặp gỡ: Chúa Giêsu con Thiên Chúa được đưa vào đền thờ, một biểu hiêu trong công trình thiên nhiên. Ngài đi vào thiên nhiên gặp gỡ đời sống con người: tôn giáo và đời sông gặp gỡ nhau.
Vì thế, sau này trong bước đường rao giảng nước Thiên Chúa, Ngài hay dùng những thí dụ cụ thể trong đời sống để cắt nghĩa về nước đó: ơn kêu gọi là con Thiên Chúa và nước Thiên Chúa là quê hưong của mọi người.
Hai thế hệ con người gặp gỡ nhau. Gìa trẻ gặp gỡ nhau. Hai vị trưởng lão Simeon và Hanna gặp gỡ trẻ Giêsu. Cuộc gặp gỡ tình người này là cuộc trao đổi. Thế hệ lớn tuổi trao lại cho thế hệ trẻ kinh nghiệm sống đã thu lượm được, những gía trị đời sống, niềm hy vọng cùng lời chúc lành mong chờ trông đợi của mình. Thế hệ trẻ đón nhận những trối trăn của lớp trưởng thượng trao lại.
Thế hệ lớn tuổi qua lời ông Simeon: Giờ đây lạy Chúa, xin để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an. Vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu chuộc cho muôn dân, biểu lộ lối sống biết nhận lãnh và cũng sẵn sàng cho đi trối lại. Cung cách chuyển giao này gây niềm phấn khởi cho thế trẻ đang lên sẵn sàng nhận lãnh lời trối trăn như bảo vật làm nền tảng cho tương lai đời sống cùng niềm tin đạo giáo.
Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng từ trời cao, được đưa vào đền thờ như lời mời gọi mọi người cùng đến gặp gỡ nhau trong tình khoan dung tha thứ cho nhau và mang đến cho nhau niềm hy vọng.
Lễ dâng Chúa vào đền thờ ngày mùng hai tháng hai hằng năm như lời mời gọi mỗi người đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng cho tâm hồn mình. Anh sáng Chúa Giêsu chiếu soi vào đền thờ tâm hồn con người và mang đến niềm vui cùng sự an ủi trong những giờ phút đen tối của cuộc đời.
01/02 Người bị quỷ ám và đàn heo
- Viết bởi Mc 5, 1-20
Người bị quỷ ám và đàn heo.
Thứ Hai tuần 4 thường niên.
"Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".
LỜI CHÚA: Mc 5, 1-20
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy. Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi". Nhưng Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này". Và Người hỏi nó: "Tên ngươi là gì?" Nó thưa: "Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm". Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy.
Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: "Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo". Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối. Những kẻ chăn heo chạy trốn và loan tin đó trong thành phố và các trại. Người ta liền đến xem việc gì vừa xảy ra. Họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng. Những người đã được chứng kiến thuật lại cho họ nghe mọi sự đã xảy ra như thế nào đối với người bị quỷ ám và đàn heo. Họ liền xin Chúa Giêsu rời khỏi ranh giới họ. Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỷ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: "Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con". Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tên tôi là đạo binh
Trừ quỷ là việc Đức Giêsu vẫn hay làm.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Ngài trừ quỷ ở vùng đất dân Ngoại.
Tài kể chuyện của Máccô được thể hiện rõ nét qua bài Tin Mừng này.
Hiếm khi có câu chuyện sống động và ly kỳ đến thế!
Đức Giêsu và các môn đệ vượt biển để đến vùng đất Ghêrasa.
Vừa ra khỏi thuyền thì gặp ngay người bị ám bởi thần ô uế.
Anh sống ở nơi mồ mả, nơi thường được coi là chỗ ở của quỷ ma.
Anh mạnh ghê gớm đến nỗi không xiềng xích nào có thể kiềm chế được.
Sống cô độc, đe dọa người khác, tự hành hạ và làm hại chính bản thân,
đó là thân phận bi đát mà anh không sao thoát khỏi (cc. 3-5).
Rõ ràng anh hoàn toàn bị quỷ dữ chiếm đoạt, chẳng còn chút tự do.
Nhưng lạ thay, chính anh lại chạy đến với Đức Giêsu để gặp Ngài.
Quỷ dữ nơi anh biết rõ Đức Giêsu là ai, là Con Thiên Chúa Tối Cao.
Nhưng cái biết đó lại khiến nó phải run sợ xin Ngài đừng hành hạ (c. 7).
Quỷ dữ biết danh tánh của Đức Giêsu, nhưng không chế ngự được Ngài.
Bây giờ Ngài bắt nó phải khai danh tánh của nó, trước khi Ngài hành động.
Hóa ra đây không phải là một quỷ, mà là một lũ quỷ đông đảo (c. 9).
Đạo binh quỷ này khẩn khoản xin Đức Giêsu một ơn,
đó là chỉ đuổi chúng ra khỏi người này, chứ đừng đuổi ra khỏi vùng này,
vì chúng hy vọng sẽ tìm được một con mồi khác (c. 10).
Đạo binh thần ô uế xin được nhập vào đàn heo vốn bị coi là ô uế.
Sự đồng ý của Đức Giêsu khiến toàn bộ những gì ô uế bị hủy diệt.
Ngài đã thanh tẩy chẳng những anh bị quỷ ám, mà cả vùng anh ở nữa.
Khi người bị quỷ ám được tự do, anh ấy trở nên khác xưa.
Anh ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi, trí khôn tỉnh táo (c. 15).
Người dân trong vùng khiếp sợ nên xin Đức Giêsu đi khỏi đất của họ.
Chỉ có anh vừa được trừ quỷ là xin ở với Ngài như môn đệ (c. 18).
Nhưng ơn gọi làm môn đệ phải đến từ Thầy Giêsu.
Ngài khuyên anh nên về nhà, ở lại vùng đất của mình,
để loan báo mọi điều Chúa đã làm cho anh và thương xót anh (c. 19).
Anh đã vâng lời và trở nên người loan báo về Đức Giêsu nơi dân Ngoại.
Đối với anh, Đức Giêsu chính là Chúa.
Thế giới chúng ta sống thì văn minh hơn, khoa học hơn, hạnh phúc hơn,
nhưng vẫn không thiếu cảnh những người sống như bị ám, như bị ma nhập.
Có những người sống trong cô độc và trở nên nguy hiểm cho tha nhân.
Có những kẻ tự giết mình từng ngày trước khi tự tử.
Tru tréo và lấy đá rạch mình không phải là chuyện hiếm (c. 5).
Ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo
là niềm mơ ước của biết bao gia đình có người thân bị bệnh.
Bệnh tâm thần là căn bệnh mà ít nhiều chúng ta đều dễ mắc.
Lắm khi con người thấy bó tay, không tự mình giải thoát mình được.
Xin Chúa Giêsu tiếp tục trừ quỷ cho chúng ta, cho vùng đất chúng ta sống.
Xin Ngài tiếp tục tẩy trừ sự ô uế đang thao túng ở lòng con người.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: CUỘC CHIẾN XÂY DỰNG NƯỚC THIÊN CHÚA
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Xây dựng Nước Thiên Chúa là xây dựng hạnh phúc. Nhưng đó không là hạnh phúc có sẵn. Đó thực sự là một cuộc chiến. Cuộc chiến chống ma quỉ. Cuộc chiến rất khốc liệt. Vì ma quỉ rất mạnh và rất đông: “Tên chúng tôi là đạo binh. Vì chúng tôi đông lắm”.
Ma quỉ là lực lượng sự chết. Chúng muốn tiêu diệt con người. Giam cầm con người trong bóng tối của thế giới kẻ chết. “Từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liên ra đón Người. Anh này thường sống trong đám mồ mả”. Chưa hoàn toàn giết chết anh, nhưng ma quỉ làm cho anh chết dần mòn. Trước hết là tâm trí mê man, mụ mẫm. Không còn sáng suốt. Không còn tỉnh táo. Vì bị ma quỉ khống chế. Không có tự do để làm điều tốt. “Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá rạch mình”. Chỉ làm theo sự sai khiến của ma quỉ. Và tiếp tay với ma quỉ tàn phá. “Anh bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gãy xiềng xích, và đập tan gông cùm. Và không ai có thể kiềm chế anh được”.
Chỉ có Thiên Chúa và Đấng Người sai đến, là Chúa Giê-su Ki-tô, mới chiến thắng ma quỉ. Chúa truyền lệnh. Ma quỉ phải ra khỏi con người. Khi thoát khỏi ách ma quỉ, con người sống lại “ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo”. Và có thể làm việc lành. “Anh nài xin được ở với Người”.
Ma quỉ có thể dùng con người giết hại lẫn nhau. Như Áp-sa-lôm, đòi giết vua cha Đa-vít để cướp ngôi. Như Sim-y, nguyền rủa và ném đá vua Đa-vít. Đa-vít đã dùng quyền năng Thiên Chúa chiến thắng. Nhận mình tội lỗi. Không phản ứng lại các xúc phạm. Để Thiên Chúa phân xử và hành động theo ý Chúa. “Cứ để nó nguyền rủa, nếu Đức Chúa đã bảo nó. May ra Đức Chúa sẽ đoái nhìn đến nỗi khổ cực của ta, và Đức Chúa sẽ trả lại cho ta hạnh phúc” (năm chẵn).
Ma quỉ có thể dùng vua chúa bắt đạo. Môn đệ Chúa phải chống lại bằng sự hi sinh quên mình. Dâng hiến mạng sống. Để xây dựng Nước Thiên Chúa. Chiến thắng ma quỉ. Nhờ đức tin, các ngài chiến thắng bằng sức mạnh của Thiên Chúa. “Có những người bị tra tấn mà không muốn được giải thoát, để được hưởng một sự sống lại tốt đẹp hơn”. Nhờ đó các ngài xây dựng Nước Thiên Chúa. Làm cho Nước Thiên Chúa lớn mạnh.
SUY NIỆM 3: Số phận của Chúa Giêsu
Người Do thái thời Chúa Giêsu có một cái nhìn rất miệt thị đối với dân ngoại, họ xem dân ngoại là những kẻ sống dưới ách nô lệ của ma quỷ, do đó cũng cư trú trong những vùng nhơ bẩn chẳng kém gì bãi tha ma. Nhưng đối với Chúa Giêsu, ranh giới giữa Do thái và dân ngoại không còn nữa. Ngài không chỉ đến với dân Do thái, mà cả với dân ngoại nữa. Chính cho dân ngoại mà Chúa Giêsu cũng mang ơn cứu độ đến, và ơn cứu độ ấy được thánh Marcô mô tả bằng những hình ảnh rất sống động: Chúa Giêsu trục xuất cả một đạo binh ma quỷ ra khỏi người bị quỷ ám, nguyên một bầy heo lao mình xuống biển. Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại qua miệng người vừa được chữa lành.
Thế nhưng, sự thành công của Chúa Giêsu dưới cái nhìn của Marcô thật là yếu ớt. Dường như tất cả những người mà Ngài tìm đến đều có thái độ dè dặt đối với Ngài. Chỉ có ma quỷ là kẻ duy nhất biết rõ Ngài là ai nhưng chẳng bao giờ có thể hoán cải được nữa. Các luật sĩ và biệt phái thì càng lúc càng tỏ ra chai lỳ, bà con thân thuộc thì chỉ nhìn về Ngài với những tính toán vụ lợi, đám đông dân chúng thì không nhận ra được ý nghĩa đích thực của sứ mệnh thiên sai của Ngài, còn dân ngoại thì nài nỉ Ngài quay trở lại quê hương Ngài để họ khỏi phải mang họa vào thân, và khi Chúa Giêsu chiến thắng được ma quỷ, thì đó cũng là lúc loài người tẩy chay Ngài. Trong một tình thế bi đát như vậy, cái chết trên Thập giá là chuyện tất yếu đối với Chúa Giêsu. Trong cái nhìn của Marcô, mỗi cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người đương thời của Ngài là một tiên báo về cuộc tử nạn của Ngài, Ngài là một con người triền miên bị khước từ.
Suy nghĩ về số phận của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại thân phận của người Kitô hữu chúng ta trong trần thế. Là môn đệ Chúa Giêsu, là chấp nhận lội ngược dòng. Không thể đi theo Chúa Giêsu mà lại sống theo triết lý: người ta sao, tôi vậy. Làm chứng cho Ðấng đã từng bị khước từ, người Kitô hữu bị khước từ đã đành, mà ngay cả khi phục vụ một cách vô vụ lợi, họ cũng không hẳn được người đời thương mến. Nói như thánh Phaolô: bổ khuyết những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Chúa Giêsu, đó là số phận của người Kitô hữu trong trần thế này.
Nguyện xin Chúa ban thêm can đảm và sức mạnh, để chúng ta kiên trì trong mọi khổ đau vì Danh Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Chúa Giêsu chế ngự ma quỷ
Đức Giêsu và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa. Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liền ra đón Người. Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. (Mc. 5, 1-3)
Trình thuật về phép lạ Chúa chữa người bị quỷ ám và đàn heo biến mất đặt ra những vấn đề khó xử và có nhiều điều khác thường tưởng chừng như mê tín dị đoan.
Hình như đây là những sự kiện biệt lập được ghép lại với nhau. Chúa Giêsu lúc đó đang ở vùng Ghêrasa nằm ở phía đông Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét là vùng đất dân ngoại, nơi nuôi heo là thú vật ô uế đối với người Do thái. Khi Chúa chữa cho một người bị quỷ ám ở đây thì có một sự cố xảy ra trong một trại nuôi heo lớn. Có lẽ là hai sự kiện này xảy ra vào cùng kỳ, nên được tác giả lợi dụng ghép lại với nhau để sự kiện này giải thích cho sự kiện kia và rút ra một bài học luân lý. Đó cũng là một lối kết cấu câu chuyện có tính cách bình dân vậy.
Nhưng sự ghép nối này trở nên có ý nghĩa. Thánh sử Maccô dùng nó để minh họa cho điều ngài muốn chứng minh: Chúa Giêsu tỏ bày quyền năng của Người đối với thần ô uế ở vùng đất thuộc dân ngoại. Sức mạnh của Người là sức mạnh vô địch. Chẳng những Người trừ thần ô uế, mà còn tiêu diệt chúng để giải thoát con người khỏi tình trạng tha hóa thiêng liêng và tâm tình sợ hãi.
Một quyền năng vô địch
Để chứng tỏ Chúa Giêsu có một sức mạnh vô song, trước tiên Maccô nhấn mạnh đến tính cách trầm trọng của cơn bệnh mà người bị quỷ ám đã phải chịu. Rõ ràng là bệnh tật, sự ác càng trầm trọng thì người chữa trị càng phải cao tay. Nếu “bị gông cùm và bị xiềng xích”, nhưng người bị quỷ ám ấy “đã bẻ gẫy xiềng xích và đập tan gông cùm”, thì phải nói gì về quyền lực của Đấng đã bắt qủy phải xưng tên mình ra – điều đó theo ý kiến các vị trừ tà thời ấy - là dấu chứng tỏ một sự chế ngự hoàn toàn.
Một xứ sở được thanh tẩy
Còn về chuyện bầy heo cả chừng hai ngàn con nhảy xô xuống biển và chết ngộp dưới đó, thì đó là dấu chỉ rằng một người được ơn giải thoát có ảnh hưởng tới người xung quanh. Vì đối với người Do thái, heo là con vật biểu tượng của sự ô uế. Sự chết chìm bi thảm của cả bầy heo cũng ngụ ý sự chấm dứt quyền lực của sự ác vốn ngự trị trên miền đất này và càng làm sáng tỏ ảnh hưởng phấn khởi của ơn giải thoát do Chúa Kitô mang lại vậy.
SUY NIỆM 5: Chúa tỏ bày quyền năng, và …
Sau phép lạ dẹp yên sóng gió, hôm nay trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu lại tỏ bày quyền năng của Ngài ở vùng đất dân ngoại.
Sức mạnh của sự dữ thật lớn, nhưng Ðức Giêsu không gặp khó khăn nào khi xua trừ ma quỉ. Vậy mà Ngài phải khựng lại trước thái độ của con người.
Trình thuật kết thúc bằng sự thất bại bi thảm: Ðức Giêsu bị người ta trục xuất khéo léo. Thiên Chúa luôn mở rộng con đường hạnh phúc, nhưng Satan thì cản lối và con người lại nhát đảm dấn thân. Họ khước từ bởi họ quyến luyến với trần thế hơn.
Suy Niệm 6: SỨ VỤ CỦA ĐẤNG THIÊN SAI (Mc 5,1- 20)
Có những cái nhìn và lối suy nghĩ đã đi vào truyền kiếp. Nếu cái nhìn tích cực thì lối suy nghĩ cũng tích cực, nếu không thì ngược lại!
Người Do thái thời Đức Giêsu cũng vậy! Họ đã nhìn ai với cái nhìn khinh bỉ thì muôn đời, con người đó không có điểm nào tốt được!
Thật vậy, vào thời Đức Giêsu, dưới con mắt của người Do thái, dân ngoại là dân đáng bị miệt thị, là dân luôn sống trong tội lỗi và dưới ách thống trị của Ma Quỷ.
Tuy nhiên, khi Đức Giêsu đến, Ngài không còn phân biệt lằn ranh giữa Do thái hay dân ngoại, nhưng sứ vụ của Ngài là đem ơn cứu độ đến với muôn dân.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu đến vùng Ghêrasa và làm phép lạ xua đuổi Ma Quỷ ra khỏi người bị quỷ ám.
Qua phép lạ này, dưới con mắt người đời, thì đây là một sự thành công, vì người bị Quỷ ám có một sức mạnh phi thường, không ai đụng tới hắn được, bởi lẽ anh ta bị cả một cơ binh Quỷ nhập vào. Một cơ binh chính là tên gọi của một đạo quân Lamã thời ấy và có khoảng 6.826 người lính. Như vậy, số Quỷ nhập vào người này cũng đông vô số kể như vậy. Khi Ma Quỷ nhập vào người thanh niên này, anh ta mạnh khỏe phi thường.
Phép lạ này cho thấy, Đức Giêsu có quyền năng trên Ma Quỷ, Ngài đến để giải thoát con người khỏi bị ràng buộc bởi sự dữ. Đem lại cho họ cuộc sống tự do.
Nhưng cái giá mà Ngài phải chịu, chính là sự loại trừ của những Luật Sĩ và Pharisêu.
Suy nghĩ về sứ vụ và thân phận ngôn sứ của Đức Giêsu, một lần nữa chúng ta ý thức hơn về sứ mạng và số phận của mỗi người chúng ta trên hành trình sống đạo và loan báo Tin Mừng. Số phận của Thầy cũng là của trò. Muốn trở nên môn đệ đích thực của Thầy Giêsu, hẳn chúng ta phải lội ngược dòng. Đi ngược quy luật tự nhiên để hiểu được giá trị của những nghịch cảnh khi chúng ta bị người đời phản đối, khước từ, cho dù những việc làm của chúng ta là những hy sinh vô vị lợi!
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của Chúa đã không ngừng thi ân giáng phúc, nhưng Chúa đã không được người đời coi trọng, mà luôn bị khinh khi! Xin Chúa cho chúng con hiểu được sự thật này để chỉ tìm vinh danh Chúa và mong sao cho Nước Chúa được hiển trị muôn nơi, còn chuyện khen chê, xin cho chúng con không coi trọng nó mà ảnh hưởng đến sứ vụ được trao. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu chữa người bị quỷ ô uế ám ở Ghêrasa
Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện
Bị cám dỗ, Samson vào bẫy của Philitin khi bị cạo trọc đầu, ông mất sức, không còn được sức mạnh như trước đó, nên bị quân Philitin bắt trói, khoét mắt, xiềng lại, bỏ tù và bắt xay cối xay (x. Tph 16,19-21).
Ma quỷ cũng vậy, chúng cám dỗ chúng ta theo chúng, rồi chúng khoét mắt đức tin của chúng ta. Và khi chúng ta không còn ánh sáng đức tin chiếu soi nữa, ma quỷ dẫn chúng ta dễ dàng đi trên con đường tội lỗi để sa xuống hỏa ngục với chúng.
Suy niệm
Ngay từ thuở tạo thiên lập địa… khi ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của con rắn là Satan, một thế lực đối nghịch với “Thiên Chúa - Đấng Thánh” và ảnh hưởng của chúng lan tràn trên cuộc sống con người.
Tin Mừng hôm nay cho thấy ma quỷ bị Chúa Giêsu vạch mặt chỉ tên là “thần ô uế”. Như thế, “thần ô uế” - ma quỷ là có thật, có thể gây ảnh hưởng trên con người như: quấy, phá, hành, hại, ám và nhập.
Chúa Giêsu Kitô là “Đấng Thánh” đến cứu vớt tất cả mọi người, đặc biệt những ai đang bị quyền lực Satan trói buộc. Ngài dùng uy quyền của mình xua đuổi “thần ô uế” cho người đang bị chúng khống chế được tự do.
Qua mọi thời, ma quỷ vẫn luôn tìm cách ảnh hưởng trên cuộc sống con người. Chúng là dối gian; hận thù; ghen ghét… Chúng ta chỉ thật sự thoát khỏi sự khống chế của “thần ô uế”, của ma quỷ, khi tin và phó thác hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa - Đấng Thánh là ánh sáng chiến thắng bóng tối - Satan để người tin sống trong tự do hoàn toàn của con cái Thiên Chúa…
Suy Niệm 8: Chúa Kitô trừ quỷ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Vừa đến miền Ghêrasa, Chúa Giêsu gặp ngay một người bị quỷ ám. Anh ta thường ở nơi mồ mả. Thấy Chúa Giêsu, anh ta tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa và xin Người đừng làm khổ anh. Chúa đuổi quỷ ra khỏi anh. Ma quỷ liền xuất ra khỏi người đó và nhập vào đàn heo, làm cho đàn heo lao mình xuống biển chết hết! Những người chăn heo thấy vậy hoảng hốt chạy báo tin khắp nơi. Dân chúng tuốn đến thì thấy người trước kia bị quỷ ám đang tề chỉnh ngồi đó. Họ khiếp sợ nên xin Chúa rời khỏi địa hạt của họ.
2. Người Do thái thời Chúa Giêsu có cái nhìn rất miệt thị đối với dân ngoại, họ xem dân ngoại là những kẻ sống dưới ách nô lệ của ma quỷ, do đó, cũng cư trú trong những vùng nhơ bẩn chẳng kém gì bãi tha ma. Nhưng đối với Chúa Giêsu, ranh giới giữa Do thái và dân ngoại không còn nữa. Ngài không chỉ đến với dân Do thái, mà cả với dân ngoại nữa. Chính cho dân ngoại mà Chúa Giêsu cũng mang ơn cứu độ đến, và ơn cứu độ ấy được thánh Marcô mô tả bằng những hình anh rất sống động: Chúa Giêsu đã trục xuất cả đạo binh ma quỉ ra khỏi người bị quỉ ám, nguyên một bầy heo lao mình xuống biển. Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại qua miệng người vừa được chữa lành.
3. Tình trạng người bị quỉ ám được nói đến trong Tin Mừng hôm nay rất đáng thương. Dưới sự kềm tỏa của thần ô uế, anh ta đã bị tước mất tình người và bị cách ly với cộng đoàn. Đó là hình ảnh của những ai đang còn sống dưới sự chi phối của ma quỷ. Họ có thể là những người tôn thờ ma quỷ, qua việc sử dụng bùa ngải; hoặc đang sống trong sự chối bỏ Thiên Chúa và chìm đắm trong tội lỗi. Họ có thể là những dân tộc chưa được đón nhận Tin Mừng, đang sống trong sự tối tăm lầm lạc.
4. Chúa Giêsu đối diện với cả một “cơ binh quỷ dữ” để dành lấy một con người. Chúa Giêsu không chỉ kéo một con người ra khỏi tội lỗi và đời sống xấu xa, mà còn nhấn chìm tận căn cả bè lũ satan cùng với sự ô uế tội lỗi, mà chuyện gần cả hai ngàn con heo từ “trên núi” lao “xuống biển” chết sạch là một biểu tượng.
Cả đàn heo đã lao từ trên núi xuổng chết đuối nói lên ý nghĩa: Núi trong quan niệm Thánh Kinh của Do thái là nơi hiện diện của thần linh; biển là nơi ẩn náu của ma quỷ xấu xa tội lỗi. Chúa Giêsu đã tống xuống biển cả và dìm chết ma quỷ và sự ô uế, đòi lại chủ quyền cho Thiên Chúa, lấy lại sự thánh thiện và đời sống thiêng liêng trong sạch cho con người. Đó là nội dung Tin Mừng cần chuyển tải, chứ không phải tính lịch sử của câu chuyện.
Như vậy, trước ánh sáng thần hóa của Thiên Chúa thì mọi thứ nhơ uế bị quét sạch; có Chúa Giêsu ngự trong con người thì quỷ ma không thể làm gì được. Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta đang được ở trên “núi thánh” của Chúa, chúng ta hãy năng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để Ngài xua đuổi “bầy heo ma quỷ” ra khỏi tâm hồn chúng ta (Hiền Lâm).
5. Chúa Giêsu đã bầy tỏ quyền năng của Người. Sức mạnh của Người là sức mạnh vô song. Chẳng những Người trừ thần ô uế, mà còn tiêu diệt chúng để giải thoát con người khỏi tình trạng tha hóa thiêng liêng và tâm tình sợ hãi.
Để chứng tỏ Chúa Giêsu có sức mạnh vô song, trước tiên thánh Marcô nhấn mạnh đến tính cách trầm trọng của cơn bệnh mà người bị quỷ ám đã phải chịu. Rõ ràng là bệnh tật, sức ác càng trầm trọng thì người chữa trị càng phải cao tay. Tên quỷ đã bẻ cong được gông cùm và xiềng xích, thì Đấng chế ngự được nó nhất định phải mạnh hơn. Chúa đã trừ khử được tên quỷ đó, chứng tỏ sức mạnh của Chúa là sức mạnh vô địch.
6. Truyện: Ai lớn hơn.
Một bé trai hỏi bố:
- Quỷ lớn hơn con không?
- Lớn hơn.
- Quỷ lớn hơn bố không?
- Lớn hơn.
- Quỷ lớn hơn Chúa Giêsu không?
- Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỷ.
Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười:
- Vậy con không sợ quỷ.
31/01 Ðấng có uy quyền
- Viết bởi Mc 1, 21-28
Ðấng có uy quyền.
Chúa Nhật 4 Mùa Thường Niên năm B.
"Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền".
Lời Chúa: Mc 1, 21-28
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
(Ðến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa".
Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người". Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: Dnl 18,15-20; 1Cr 7,32-35; Mc 1,21-28
1. Đấng Thánh của Thiên Chúa
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô,
ta không thấy có những bài giảng dài như Tin Mừng Mátthêu hay Gioan.
Nhưng bù lại Mác-cô đã kể khá nhiều phép lạ của Đức Giêsu.
Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay
là hội đường vùng Caphácnaum vào một ngày sabát.
Theo Mác-cô, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ từ đây.
Chúng ta cần xem Ngài đã sống ngày sabát như thế nào.
Trước hết Ngài đã vào hội đường và giảng dạy.
Thánh Mác-cô không kể lại nội dung của bài giảng,
chỉ cho biết là người ta sửng sốt khi nghe Ngài
vì cách giảng đầy uy quyền (c. 22) và lời giảng thì mới mẻ (c.27).
Phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm ở hội đường này là trừ quỷ.
Ở đây có một người đàn ông bị thần ô uế ám.
Trước sự hiện diện của Đức Giêsu,
anh ta sợ hãi nên kêu lên:
“Ông Giêsu Nadarét, ông đến tiêu diệt chúng tôi ư?
Tôi biết ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x. câu 24).
Sự hiện diện của Đấng Thánh
cũng đủ làm cho thần ô uế phải khiếp sợ,
vì ô uế và thánh thiện không đội trời chung,
và Đấng thánh thiện có khả năng triệt phá thần ô uế.
Lời của Đức Giêsu bây giờ là lời trừ quỷ,
lời quát mắng, lời ra lệnh đầy uy quyền,
lời khiến thần ô uế phải tuân theo.
“Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”
Thần ô uế đã nhập vào và làm người ấy bị tha hóa,
bị mất tự do, bị chi phối và sai khiến như một nô lệ.
Lời Đức Giêsu là lời giải phóng
để anh ấy được thật sự là mình,
được giải thoát khỏi tình trạng ô uế.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới bị ô nhiễm,
từ không khí, nước uống đến những sản phẩm nhiễm độc của con người.
Nhưng điều đáng sợ hơn cả là bầu khí ô nhiễm về tinh thần,
bầu khí ô uế của sex thấm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống.
Xin Đức Giêsu trả lại cho ta sự trong sạch nơi cái nhìn,
sự trong trắng nơi trái tim
và sự trong suốt nơi mọi cuộc gặp gỡ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
2. Thắng tà thần nhờ quyền năng Chúa - Huệ Minh
Ngay trong từ thời khởi nguyên, ma quỷ đã hiện hữu dưới hình ảnh con rắn để cám dỗ ông bà nguyên tổ bất tuân lệnh Chúa (x. St 2, 16-17). “Ma quỷ phạm tội ngay từ lúc khởi đầu” (1Ga 3,8); “nó là kẻ nói dối và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
Ma quỷ, hay còn gọi là satan, hay các thần dữ là những thiên thần sa ngã, tự chúng đã làm cho mình trở nên ác và nên xấu vì khước từ dứt khoát phục vụ Chúa và kế hoạch của Người. Satan hay quỷ luôn tìm cách dụ dỗ con người chống lại Thiên Chúa (x. St 3,5; 1 Ga 3,8; Ga 8,44), do ghen tương, nó cũng đã ra sức làm cho Chúa Giêsu đi lệch hướng khỏi sứ vụ của Người (x. Mt 4,1-11)
Trong các hậu quả của các việc làm của quỷ, nghiêm trọng nhất là sự quyến rũ dối trá dẫn con người đến chỗ bất tuân Thiên Chúa.
Với những lẽ đó, khi cử hành bí tích Thanh Tẩy, nghi thức đầu tiên mà ta đón nhận đó chính là nghi thức trừ tà.
Có lẽ không để ý, lời nguyện trừ tà như thế này:
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã sai Con Một Chúa đến giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi và cho sống trong tự do của con cái Chúa, chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tôi tớ Chúa đây, khi đã nghiệm thấy những quyến rũ của trần gian và mưu mô ma quỉ cám dỗ, biết nhận mình là kẻ tội lỗi trước mặt Chúa. Nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Con Chúa, xin Chúa cứu người này khỏi quyền lực tối tăm, và xin luôn luôn giữ gìn tôi tớ Chúa trên đường đời. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Lời nguyện ấy chính là lời nguyện trừ tà mà linh mục chủ sự nguyện xin Thiên Chúa khi bắt đầu nghi thức Thanh Tẩy.
Vì sao thế? Vì con người sinh ra trong trần gian đã mang trong mình cái thân phận yếu đuối và tội tổ tông truyền để rồi xin ơn Chúa cứu con người ra khỏi quyền lực tối tăm.
Tiếp đến các phần trong nghi thức Thanh Tẩy, ta thấy có phần hết sức quan trọng là từ bỏ tà thần.
Linh mục chủ tế hỏi ta Để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ tội lỗi không? Để khỏi làm nô lệ tội lỗi, ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ những quyến rũ bất chính không? Ông (bà, anh, chị, em, con) có từ bỏ ma quỉ là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không?
Đáp lại 3 lần hỏi đó là 3 lần thưa: Thưa từ bỏ.
Sau khi ta từ bỏ tội lỗi rồi ta bước vào phần tuyên xưng đức tin để lãnh bí tích Thanh Tẩy.
Chính Chúa Giêsu trong thân phận làm người Ngài cũng đã phải chịu ma quỷ cám dỗ 40 đêm ngày trong sa mạc. Và cũng chính Chúa Giêsu, ba lần Ngài gọi Satan là "thủ lãnh thế gian này" (Ga 12,27; 14,30,16,11), nghĩa là Ngài cũng đồng ý với Satan trong việc nhìn nhận rằng nó có ưu thế trên mọi nước ở trần gian.
Hơn một lần, thánh sử Luca thuật lại chuyện Chúa Giêsu chịu thử thách, chịu cám dỗ của ma quỷ như thế này “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi!”. Và ta nghe Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa!”.
Cũng chưa yên, ma quỷ lại đem Người lên nơi cao cho Người xem thấy tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông mọi quyền lực và vinh quang của các nước này, vì tất cả đều là của tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy thuộc về ông!”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi!”.
Cũng chưa xong, ma quỷ lại đưa Người lên nóc đền thờ Giêrusalem và bảo Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: ‘Chúa sẽ cho Sứ Thần gìn giữ ông, để chân ông khỏi vấp phải đá’”. Sau khi cám dỗ đủ cách, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.
Đúng như vậy bởi vì ma quỷ luôn luôn rình rập, chờ cơ hội để tấn công Chúa Giêsu. Không chỉ tấn công Chúa Giêsu nhưng còn tấn công tất cả mọi người khi có thể.
Trang Tin Mừng hôm nay Thánh Maccô kể lại cho ta nghe câu chuyện khá hấp dẫn về Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến thành Capharnaum vào ngày nghỉ lễ và Chúa Giêsu đã vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Đang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Nghe như vậy, Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!"
Mọi người có mặt ngày hôm ấy hết sức ngạc nhiên và hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Đấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người".
Họ suy nghĩ như thế cũng dễ hiểu bởi lẽ họ không tin vào sự xuất hiện của Chúa Giêsu và hơn nữa họ không tin vào quyền năng Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong tình con thảo của Người với Thiên Chúa Cha (x. Mc 3, 27, Mt 12, 28, Lc 8, 26-39).
Chúa Giêsu đến thế gian và để lật đổ sự thống trị của Satan. Thánh Gioan đã phải nói trong thư thứ nhất của ngài: "Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá huỷ những việc làm của ma quỷ" (1Ga 3,8).
Không phải thời ông bà nguyên tổ, thời Chúa Giêsu mới có ma quỷ nhưng ngay trong thời của chúng ta, ma quỷ xuất hiện nhiều hơn bao giờ hết.
Chúng xuất hiện trong những vẻ đẹp thật hoa mỹ, những lời mời rất bóng bẩy và những quyến rũ xem ra ta khó có thể từ chối được.
Rất giản đơn để nhận ra điều đó từ chuyện phim Tôn Ngộ Không.
Tác giả muốn cho ta thấy trong bản thân của con người có 4 hình ảnh của một con khỉ nghịch phá, một quỷ satan, một trư bát giới con heo ham mê ăn uống sắc dục và một Đường Tăng.
Thầy Trò lên Tây Trúc để thỉnh kinh. Trên đoạn đường dài đăng đẳng đi thỉnh kinh đó Đường Tăng không ít lần gặp rắc rối. Khi con quỷ nổi lên thì đủ những cám dỗ, khi con beo bát giới nổi lên thì ham mê ăn uống, khi con khỉ nổi lên thì nổi lên một con người ngông cuồng.
Tâm hồn, cõi lòng ta cũng thế như Thánh Phaolô nói: "Điều tôi biết là tốt tôi lại không làm mà điều tôi biết là không tốt tôi lại cứ làm". Con quỷ làm điều không tốt ngày đêm ẩn trong mình ta để xui khiến ta làm những điều không tốt. Con quỷ ấy luôn luôn tìm cách lấn ác tâm thiện mà Chúa tạo dựng, Chúa trao ban cho cuộc đời ta.
Ta vẫn biết vật chất, danh vọng, tiền bạc... là phù vân nay còn mai mất đấy nhưng ta cứ mãi đi tìm và cứ mãi ôm khư khư thật chặt trong đời ta. Nhưng, ta quên rằng khi ta nằm xuống xuôi đôi bàn tay thì tất cả đều phải bỏ lại cho người khác hưởng dùng và ta ra đi mãi mãi.
Danh vọng, xác thịt, cái nóng nảy, cái hơn thua, cái tôi của ta nó chẳng là gì cả nhưng cơn cám dỗ đi tìm nó và ta khư khư ôm chầm lấy nó.
Kinh nghiệm, bí quyết để Chúa Giêsu vượt thắng các cơn cám dỗ đó chính là sự kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Nhờ kết hiệp với Cha, nhờ quyền năng của Cha mà Chúa Giêsu không chỉ thắng được ma quỷ mà còn trừ được ma quỷ nữa.
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thật hay: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Lời cầu xin đó như lời niệm khẩn thiết xin Chúa gìn giữ ta khỏi các cơn cám dỗ, để sống mật thiết với Chúa hơn. Ta hãy bám vào Chúa, hãy nài xin quyền năng Chúa tuôn đổ trên ta để gìn giữ ta khỏi sa chước cám dỗ và khỏi sự dữ. Amen.
3. Chữ tín
Những câu chuyện chung quanh chữ tín gần đây đã làm cho nhiều người dở khóc dở cười, ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống người giáo dân. Đó là câu chuyện tín dụng, chuyện giật hụi, chuyện biển thủ... Tất cả đều là những hình thức lợi dụng chữ tín để lừa đảo, để lường gạt. Nó cho thấy ngoài sự lỏng lẻo về cung cách quản lý của nhà nước, còn có một sự khủng hoảng về chữ tín, về niềm tin, một sự sút giảm về phương diện đạo đức trong xã hội. Đạo đức trở thành thứ yếu trên bậc thang giá trị của những liên hệ giữa người với người. Vậy thì chúng ta phải làm gì để lấy lại niềm tin, để dựng lại chữ tín.
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ rao giảng của mình tại Capharnaum. Nội dung và cung cách rao giảng của Ngài xuất phát từ cơ sở của chính bản thân Ngài chứ không dừng lại ở những điều đã học trong sách vở, trong truyền thống như bọn luật sĩ và biệt phái. Giáo lý của Ngài làm cho nhiều người tin tưởng và tuân theo. Lời của Ngài đã được đón nhận như là lời của Đấng có thẩm quyền.
Thâm quyền đó khởi đầu từ cuộc đời hội nhập với nhân loại trong đêm giáng sinh, chấp nhận cắm lều ở giữa con người. Ngài đến không phải để đàn áp, dùng quyền lực khuất phục người khác, làm cho người khác phải tin theo. Ngài cũng không dùng ngay cả những quyền năng của mình để lôi cuốn, hấp dẫn để họ tin tưởng một cách mù quáng vào Ngài. Thẩm quyền của Ngài thể hiện qua lời rao giảng, rao giảng cách nhưng không bằng chính tình thương của Thiên Chúa, xác tín con đường cứu độ của mình và chấp nhận mọi gian nan thử thách cho đến chết và chết trên thập giá.
Giá trị mới trong mối tương quan giữa người với người cần phải được xây dựng trên chữ tín, một thái độ xuất phát từ chính bản thân mình, như một người có thẩm quyền chỉ biết sống yêu thương và phục vụ, thầm tin tưởng rằng: Phẩm giá của mình và của mọi người là cao quý. Do đó cần phải chung lưng hợp tác với nhau để giải quyết những khó khăn trong đời sống, chứ không phải tìm cách lừa dối nhau, bon chen tranh dành phần lợi cho mình trên sự thiệt thòi của người khác.
Chúa Giêsu đã lấy chính bản thân mình làm bảo chứng cho niềm tin, còn chúng ta thì sao? Con người chúng ta có phải là một bảo chứng cho niềm tin, hay là chúng ta cũng chỉ là một phường lừa gạt dối trá mà thôi, để rồi một sự thất tín vạn sự chẳng tin. Và cuối cùng, không còn một ai dám đặt niềm tin tưởng nơi chúng ta nữa.
4. Chúa Giêsu và dân chúng
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử tìm về thái độ của Chúa Giêsu đối với dân chúng. Như chúng ta đã biết Palestine là một xứ nóng, người ta thường sống ở ngoài đường. Cũng chính ở ngoài đường mà Chúa Giêsu thường tiếp xúc và giảng dạy cho dân chúng. Chung quanh Ngài lúc nào cũng có một đám đông thuộc đủ mọi hạng người: Đau yếu, tàn tật, mù lòa, phong cùi, khổ đau, nghĩa là những người cần đến một sự giúp đỡ nào đó. Ngoài ra còn có những bà mẹ và những đứa con, những người đạo đức và những kẻ tội lỗi. Ngài thường mở rộng vòng tay đón nhận, tiếp xúc và nâng đỡ họ.
Ngày kia khi thuyền vừa cặp bến, thì có một đám đông đã chờ đợi Ngài. Từ trong đám đông, ông Giairô tiến ra xin Ngài đến chữa cho đứa con gái của ông đang hấp hối. Chúa Giêsu liền bước theo ông mà chẳng nói một lời. Rồi giữa đám đông, bỗng dưng Chúa Giêsu quay mặt lại và hỏi: Ai đã động đến Ta. Câu hỏi này làm cho các môn đệ ngạc nhiên và nói: Thầy coi đám đông đang chen lấn thế mà Thầy lại hỏi ai động đến Thầy. Sở dĩ Ngài hỏi như thế là vì muốn giúp người đàn bà đau yếu đã làm hành động ấy được biểu lộ đức tin của mình. Sau khi bà ấy đã xác nhận, Ngài nói với ba: Đức tin của con đã cứu chữa con, vậy con hãy về bình an.
Chúa Giêsu không phải chỉ niềm nở tiếp đón mọi người, nhưng hơn thế nữa, Ngài còn biết cách nói với từng hạng người. Thực vậy với bọn biệt phái, là những kẻ đạo đức giả, vốn kiêu căng và tự mãn, Ngài không ngần ngại gay gắt chỉ trích: Các ngươi giống như mồ mả tô vôi. Các ngươi là những kẻ dẫn đường đui mù. Với những người tội lỗi thì khác, Ngài thấu hiểu nỗi đớn đau và sự giày vò của họ, nên Ngài đã nói với họ bằng tất cả sự tế nhị, để họ thấu hiểu và tìm thấy được niềm hy vọng.
Một đặc điểm đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu luôn sử dụng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những chân lý cao siêu. Chẳng hạn Ngài sánh vị Thiên Chúa như một người cha nhân từ mòn mỏi đón chờ đứa con hoang đàng trở về hay như người mục tử đi tìm kiếm con chiên bị lạc mất. Ngài đòi hỏi mỗi người chúng ta phải trở nên như muối mặn, như đèn sáng. Với những người đau yếu, Ngài nói với họ về bệnh tật, về sức khoẻ, nhưng từ đó Ngài dẫn họ tới bình diện siêu nhiên bằng cách nói với họ: Con hãy về bình an. Tội con đã được tha. Sự chữa lành phần xác chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới, cuộc sống thấm nhuần tình thương của Thiên Chúa.
Mặc dù phải tiếp xúc, phải giảng dạy, Ngài cũng biết giữ lấy những khoảng khắc thinh lặng. Ban sáng, ban tối và ban đêm Ngài thường tới những nơi thanh vắng để cầu nguyện. Trước sự tố cáo của bọn biệt phái đối với Người phụ nữ ngoại tình Ngài đã yên lặng. Trước toà án Philatô Ngài cũng đã yên lặng. Sự yên lặng của Ngài lúc này có giá trị như một lời nói. Từ những điều vừa trình bày chúng ta nhận thấy: Qua Đức Kitô, Thiên Chúa đã nói, đã đối thoại với chúng ta, bởi vì Ngài là Lời của Thiên Chúa. Lời ấy hoàn toàn khác biệt với lời của chúng ta. Thực vậy, lời của Thiên Chúa là lời tạo dựng: Ta muốn có trời đất muôn loài vậy lập tức liền có. Lời của Thiên Chúa là lời của chữa lành: Ta muốn con hãy chỗi dậy, Ta muốn con hãy lành sạch. Lời của Thiên Chúa là lời tình yêu: Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Lời của Thiên Chúa là lời Tin Mừng cứu rỗi: Đức tin của con đã cứu chữa con.
5. Nhờ lời Chúa để đẩy lùi quyền lực Sa-tan
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chưa bao giờ ma quỷ mạnh thế như ngày hôm nay. Quyền lực ma quỷ đang bao trùm khắp thế giới.
Hiện nay, ma quỷ chi phối, lôi kéo, lèo lái rất nhiều người theo chúng. Có cả một tôn giáo mới được lập nên để tôn thờ Sa-tan gọi là đạo thờ Sa-tan và các tín đồ của đạo nầy quyết tâm phá hại đạo thánh Chúa và triệt hạ lòng đạo đức.
Hiện nay ma quỷ xem ra đang thắng thế trên khắp địa cầu. Chưa bao giờ tội lỗi lan tràn khắp chốn như ngày hôm nay: ly dị nhiều hơn, phá thai nhiều hơn, ngoại tình nhiều hơn, thanh thiếu niên phạm pháp nhiều hơn. Một trong những mối lo của xã hội hôm nay là càng ngày thanh thiếu niên phạm pháp càng nhiều, ngay cả những thiếu nhi ở độ tuổi học trò cũng ra tay giết người cách thản nhiên như giết một con thằn lằn, không mảy may xúc động. Đời sống đạo đức khắp nơi trên thế giới đang suy đồi khủng khiếp. Một trong những tội lỗi đáng sợ là tệ nạn tình dục đồng phái và hôn nhân đồng tính: người nam quan hệ tình dục với nam, nữ quan hệ tình dục với nữ, rồi những cặp nầy đòi sống chung và đòi được pháp luật công nhận họ như một gia đình. Làm như thế là tuyệt nòi tuyệt giống. Làm như thế là sa đoạ hơn cả dân thành Sôđôma và Gômôra ngày xưa.
Những điều nói trên chứng tỏ ngày nay ma quỷ đang thắng lớn và nếu không có một mặt trận tinh thần chống lại thì nguy cơ huỷ diệt của loài người ngày càng chắc chắn. Điều khôn khéo của ma quỷ là chúng thường ẩn mặt, không mấy khi lộ diện nên nhiều người lầm tưởng chúng không hiện hữu trên đời. Ma quỷ ngày nay ít xuất đầu lộ diện hơn thời trước.
Cách đây vài chục năm, có một con quỷ nhập vào một phụ nữ tại giáo xứ Bảo Toàn, thuộc giáo phận Xuân Lộc, khiến cho giới trẻ khiếp sợ nên siêng năng đến nhà thờ đông đúc không nơi nào có. Hễ đến giờ lễ giờ kinh là thanh niên nam nữ vào chật cứng nhà thờ.
Khi người ta biết có ma quỷ hiện diện, người ta khiếp sợ chúng, ắt người ta chạy đến với Chúa khiến ma quỷ khó làm ăn. Thế nên ma quỷ hôm nay tinh khôn hơn. Chúng rất ít khi xuất đầu lộ diện, nhưng luôn ẩn mặt dấu mày, đứng trong bóng tối và dùng ma lực của chúng điều khiển, xui khiến người ta phạm tội như ta sử dụng remote để điều khiển màn hình TV.
Vì lầm tưởng ma quỷ không hiện hữu nên không mấy ai đề phòng mưu thần chước quỷ của chúng. Và khi người ta không đề phòng thì ma quỷ càng dễ chi phối điều khiển con người làm nô lệ cho chúng.
Khí giới độc hại ma quỷ thường dùng là phim ảnh xấu, sách báo xấu, âm nhạc đồi truỵ, những điệu vũ khiêu dâm, nạn mua bán dâm tràn lan khắp nơi dưới mọi hình thức.
Chúng còn tạo ra những mốt thời trang hở hang gợi dục, xui khiến giới trẻ mặc những kiểu áo quần thiếu vải. Nhiều bạn gái trẻ lòng non dạ, hăm hở chạy theo mốt thời trang thiếu đoan trang nầy và vô tình trở thành những người tiếp tay cho ma quỷ trong việc làm băng hoại giềng mối đạo đức và tiết hạnh.
Lấy gì để xua đuổi, để diệt trừ quyền lực Sa-tan?
Người ta không thể tưới xăng đốt chúng, vì không có thứ lửa nào có thể đốt cháy chúng được.
Thậm chí người ta không thể dùng bom đạn, vũ khí hoá học, bom vi trùng, bom nguyên tử để tiêu diệt chúng vì chúng vô hình.
Chỉ có phương thế duy nhất để tẩy trừ chúng ra khỏi tâm hồn và trí não là cậy nhờ vào lời quyền năng của Thiên Chúa.
Hãy dùng Lời Chúa để xua quỷ khỏi tâm hồn mình.
Tin mừng Mác-cô thuật lại: Hôm ấy, “Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: "Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này! "Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.” (Mác-cô 1, 21-27)
Quả là Lời Chúa Giê-su có sức mạnh vạn năng.
Trước nấm mồ của La-da-rô đã chết đến bốn ngày, Chúa Giê-su đã dùng lời quyền năng của Người mà phán: “Ladarô! hãy ra ngoài!” thì người chết liền đội mồ sống lại.
Khi cùng các môn đệ chèo thuyền trên biển, sóng gió bão táp nổi lên tư bề, Chúa Giê-su cũng dùng lời truyền lệnh cho bão tố và sóng gió liền lặng im.
Khi trong hội đường có người bị quỷ nhập, Chúa Giê-su đã dùng lời truyền khiến: “Hãy xuất khỏi người nầy” và quỷ phải xuất ra.
Chỉ có lời quyền năng của Chúa Giê-su mới có thể đẩy lùi quyền lực ma quỷ và xua trừ chúng khỏi lòng người.
Vậy chúng ta hãy quý trọng lời Chúa Giê-su và vận dụng lời Người để thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi mọi tham vọng xấu xa, khỏi những ước muốn đê hèn; loại trừ khỏi cuộc đời chúng ta những hành vi gian ác.
Một khi Lời quyền năng của Chúa Giê-su đã thanh luyện cuộc đời và làm cho tâm hồn chúng ta được bừng sáng nhân đức thì quyền lực của ma quỷ sẽ từng bước bị đẩy lùi và vương quốc Chúa Giê-su ngày càng lan rộng trong tâm hồn, trong gia đình và trong xứ đạo chúng ta.
6. Ma quỷ
Năm 1970, cuốn phim Quỷ Ám được trình chiếu và đã phá kỷ lục về số vé bán ra. Chuyện phim được xây dựng trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại bang Maryland vào năm 1949. Tờ Newsweek đã mô tả như sau: Tranh ảnh, bàn ghế và cả chiếc giường của cậu bé đột nhiên di động. Về đêm cậu bé không thể nào chợp mắt. Sau khi được nhận vào bệnh viện trường đại học Geogetown cậu bé bắt đầu lâm râm trong miệng những lời nguyền rủa hung hãn bằng một thứ cổ ngữ. Cuối cùng cậu được trừ tà và được cứu thoát. Hiện nay cậu đang sinh sống tại thủ đô Washington. Một vị linh mục già trừ tà cho cậu đã hứa không bàn luận gì về việc này, nhưng ngài nhấn mạnh rằng kinh nghiệm ấy đã thực sự biến đổi cuộc đời mình.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Với sự việc Chúa Giêsu xua trừ ma quỷ chúng ta sẽ đưa ra 2 câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất đó là nếu như Đức Kitô đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm rồi, vậy tại sao đến hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng, hay nói cách khác vương quốc của Satan vẫn còn tác oai tác quái? Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau: Nước Thiên Chúa không đến tức khắc, nhưng là một bước tiến từ từ. Nó không phải là một biến cố chỉ xảy ra trong một lúc nào đó, mà là một chuyển biến liên tục suốt dọc dòng lịch sử. Ngài khai mạc vương quốc ấy, nhưng lại trao cho chúng ta hoàn tất. Đó là lý do tại sao trong kinh Lạy Cha chúng ta vốn kêu cầu: Xin cho Nước Cha trị đến. Đức Kitô đã gieo trồng, còn bổn phận của chúng ta là vun xới và chăm sóc để Nước Chúa được đâm bông kết trái.
Câu hỏi thứ hai được đưa ra đó là tại sao Nước ấy lại đến chậm như thế, hay nói cách khác tạo sao vương quốc của Satan lại lâu tàn lụi như vậy? Tôi xin thưa chỉ vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của mình một cách thoả đáng, đã không thực hiện những lệnh truyền của Chúa. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong chúng ta đã thi hành giới luật yêu thương của Ngài. Sở dĩ chúng ta chưa yêu thương người khác, thậm chí cả những người thân yêu trong gia đình là vì chúng ta quá bận rộn với những công việc bên ngoài đến nỗi quên mất sự tuyệt vời của những người ấy. Vì chúng ta không biết dừng lại để nhìn ra được bản chất đích thực của họ, vốn là những tạo vật xinh đẹp, đáng được yêu thương, giống như chúng ta đã được chính Thiên Chúa yêu thương vậy.
Hãy sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó Nước Chúa mỗi ngày một trị đến, đồng thời nhờ đó chúng ta đẩy lui được ảnh hưởng của quyền lực Satan.
7. Lời đầy uy quyền – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Cả hội đường đều ngạc nhiên về lời giảng và lời trừ quỷ của Đức Giêsu. Tại sao họ kinh ngạc? Họ kinh ngạc thấy Đức Giêsu là một thường dân, không có địa vị đạo đời, không phải tư tế, giáo trưởng, luật sĩ, biệt phái hay quan chức. Người chỉ là thứ dân, thợ mộc làm công, làm mướn, dám đứng lên đăng đàn thuyết pháp trước một cử tọa đông đủ các nhân vật quan trọng của một thành phố sầm uất phồn thịnh như Caphanaum.
Người ta càng kinh ngạc hơn nữa trước những lời đầy uy quyền. Lời Người thật khác xa lời của các luật sĩ, giáo trưởng, tuy họ rất thông thạo tập tục, luật lệ kinh điển tiền nhân và các tiên tri, nhưng họ chỉ biết giải thích tỉ mỉ, khô khan theo mạch chữ chết, một cách nhồi sọ máy móc vô hồn. Phần Đức Giêsu, Người dạy một đạo lý mới, đạo lý phát xuất từ tâm tư sống động, từ lòng xác tín mãnh liệt, từ chính cuộc sống sung mãn của con người, cuộc sống tôn giáo thâm sâu huyền diệu, cuộc sống linh thiêng hài hòa với kinh nghiệm sống đạo thực tế của chính bản thân. Người tô điểm lời đạo lý bởi trời bằng nhiều cảnh sắc thiên nhiên phong phú. Bất cứ ai lắng nghe học hỏi, đều nắm bắt ý nghĩa đích thực vừa ý mình. Lời đạo lý của Người chứa ẩn nhiều kho tàng quý giá, ai mộ mến tìm tòi, suy gẫm, chiêm niệm đều được sống sung mãn dồi dào.
Tuy nhiên, Người trình bày ý tứ rất đơn sơ trong sáng, hợp với mọi tâm trí người ta. Do đó, họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa đang bao trùm khắp muôn dân, không phân biệt chủng tộc, giai cấp, giàu nghèo, sang hèn, thống trị hay nô lệ, Do thái hay Hy lạp. Tất cả đều là anh em, con một Cha chung trên trời. Lời Người đang đổ tràn vào lòng họ tình yêu vô biên trong một thế giới đầy chia rẽ, hận thù. Họ cảm động trước lòng nhân từ của Thiên Chúa bao dung, đầy lòng thương xót hết mọi tội nhân, như mục tử tốt lành đi tìm chiên lạc giữa sói rừng. Lời Người làm cho họ sống lại, thoát khỏi sự chết dưới ách tội lỗi và gông cùm quỷ dữ. Lời Người khiến quỷ dữ đang trói buộc, ám hại con người phải thét lên tuyệt vọng: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi”. Lời Người là lời cực thánh đầy sức mạnh thánh hóa khiến quỷ không chịu nổi sự thánh thiện của Người, nên chúng phải thốt ra, tuyên xưng cho mọi người biết: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Thánh Phaolô chỉ được đưa lên tầng trời thứ ba thôi, thế mà không thể tả được những sự lạ lùng ông thấy. Ông chỉ kêu lên: “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm thấy bao giờ”. Người dưới đất kể chuyện trên trời còn lạ lùng như vậy. Huống chi lời người trên trời giảng những sự trên trời còn tuyệt diệu biết bao! Đến nỗi thánh Marcô chỉ có thể tả lại sự xúc động tột độ của thính giả bằng tiếng: thiên hạ rất đỗi ngạc nhiên - Mọi người đều kinh ngạc.
Họ kinh ngạc, nhưng họ chưa nhận ra được tại sao lời Người đầy uy quyền, lời Người trừ khử quỷ dữ?
Lời Người đầy uy quyền vì lời Người là lời của Thiên Chúa, chứ không phải của các kinh sư hay của vua chúa phàm trần. Lời Người cứu chữa kẻ bị quỷ ám, trừ khử quỷ dữ vì lời Người là lời Thiên Chúa. Đây thực sự là điều rất kinh ngạc: Thiên Chúa đã đến ở cùng loài người. Loài người không còn xa lạc Thiên Chúa nữa, không còn dưới ách tội lỗi, dưới ách sa tan. Loài người không còn chết nữa, loài người sẽ được sống vinh quang trong gia đình Thiên Chúa, nếu họ nhận biết và thực thi lời Người, sống hòa hợp và yêu mến Người.
Nếu chúng ta giống như người Do thái chỉ ngạc nhiên thấy vẻ uy quyền bề ngoài của Đức Giêsu như xem xiếc, xem kịch, thì thật vô ích và đáng thương.
Thực ra, bây giờ chúng ta không được trực tiếp mắt thấy, tai nghe những việc lạ lùng cụ thể của Đức Giêsu nên không còn ngạc nhiên như người Do thái xưa. Nhưng chúng ta hơn người Do thái, đã được phúc học hỏi biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng quyền năng thánh thiện vô cùng. Lời Người là lời hằng sống, lời cứu độ muôn dân. Chúng ta càng phải có trách nhiệm đón nhận lời Người để lời Người như nguồn mạch sự sống càng uống càng làm chúng ta mãn nguyện thỏa thuê. Lời Người như “hạt giống tốt gieo vào lòng chúng ta sinh hoa kết quả, hạt được một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi” (Mt. 13, 8). Sinh hoa kết quả cho mình và cho mọi người, như bài đọc một, đòi chúng ta phải thực hiện làm ngôn sứ loan truyền lời đầy uy quyền của Chúa cho mọi người được giáo lý mới, được Đấng Thánh của Thiên Chúa đến giải thoát họ khỏi vòng tội lỗi của quỷ dữ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vào hội đường giảng dạy, xin Chúa vào giảng dạy trong lòng con, cho con thấm nhuần giáo lý mới của Đấng Thánh. Chúa đã rảo khắp các làng mạc, thành phố (Mc. 1, 9 Lc. 4, 43), xin cho mọi Kitô hữu trở nên những ngôn sứ biết loan truyền lời Chúa cho muôn dân được thấy ánh huy hoàng rực rỡ soi sáng cho họ thoát khỏi cảnh đời lầm than của bóng tối tử thần. Allêluia.
8. Đức Giêsu, Đấng giải thoát ta khỏi sự dữ
(Suy niệm của An Phong, OP)
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Máccô cho rằng phép lạ đầu tiên Đức Giêsu đã thực hiện là trừ quỷ. Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã mang theo Vương quốc Thiên Chúa vào trần gian, Vương quốc "công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần". Và như thế, quyền năng cụ thể, rõ ràng và tuyệt đối mạnh mẽ của Đức Giêsu đã phá hủy vương quốc Satan; vương quốc sự ác, sự dữ…
Có bao giờ đời sống lại tiện nghi như hôm nay chưa nhỉ? Đủ các loại phương tiện phục vụ đời sống mỗi ngày… các phương tiện giải trí, các phương tiện truyền thông xã hội… Có lẽ chưa bao giờ trái đất lại thu hẹp đến như thế. Chỉ cần bật một nút tivi lên, các thông tin trên khắp thế giới được tường thuật. Chỉ cần nhấc máy điện thoại lên, một người từ bán cầu này có thể nói chuyện với một người ở bán cầu khác, v.v…
Nhưng có bao giờ đời sống nhiều lo âu như hôm nay không nhỉ? Đủ loại các phương tiện "làm hư" con người: xì ke, ma túy, mại dâm, tội ác, bạo lực… và mọi hình thức sự dữ rình rập đè bẹp con người. Tất cả những thứ "làm hư con người" đó đồng nghĩa với vương quốc Satan, một vương quốc đang càng ngày càng bành trướng, bất chấp mọi nỗ lực đang cố "làm sạch".
Còn hơn thế nữa, ngay trong con người, có một vương quốc sự dữ đang hoành hành. Thánh Gioan nói đó là "dục vọng của bản tính đam mê, của đôi mắt, và sự kiêu căng vì tiền bạc" (1Ga 2,16). Những đam mê, dục vọng đó hoành hành khắp nơi.
Thế gian và con người cần được Thiên Chúa giải thoát. Đức Giêsu đã đến với Vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Nơi nào có Thiên Chúa hiện diện, nơi đó là chính Nước Thiên Chúa, nơi đó có sự tự do của con cái Thiên Chúa.
Mỗi ngày, trong Thánh lễ, lời cầu chúc "Chúa ở cùng anh chị em"; "bình an của Chúa ở cùng anh chị em" được gởi tới từng anh chị em như lời mời gọi xây dựng Nước Thiên Chúa. Xin Chúa ở cùng chúng ta, bình an của Chúa ở cùng chúng ta để giải thoát chúng ta "khỏi mọi sự dữ". Amen.
Lạy Chúa Giêsu,
Chỉ có Chúa là Đấng giải thoát chúng con
khỏi vương quốc của sự dữ.
Xin Chúa cũng đồng hành với chúng con
trên bước đường đời
Và cùng chiến đấu với chúng con
trong cuộc chiến hằng ngày.
9. "Con Người đến để phục vụ"
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ở đời người ta thường đua nhau tìm kiếm danh vọng và quyền lực. Danh vọng càng cao, quyền lực càng mạnh, càng có lắm kẻ hầu người hạ, càng có tiền chất kho, chất lẫm. Vì tìm kiếm danh vọng và quyền lực, người ta sẵn sàng đối kháng với nhau, loại trừ lẫn nhau. Người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau để leo lên đỉnh vinh quang. Vì danh vọng, quyền lực người ta sẵn sàng lao vào những cuộc chiến bất khoan dung. Lịch sử đã từng chứng mình điều đó. Hitler đã từng đẩy cả thế giới vào chiến tranh loạn lạc chỉ vì tìm kiếm quyền bính của ông. Polpot đã từng xây dựng quyền bính mình trên hàng triệu mạng người. Thực vậy, quyền lực làm cho nhân loại chia rẽ lẫn nhau. Quyền lực làm cho tình người tan rã. Quyền lực là nguyên nhân cho những đố kỵ, ghen tương và thù hận. Cho dù quyền lực làm cho nhân loại khổ đau nhưng người ta vẫn lao vào tranh giành lẫn nhau. Vì dầu sao đi nữa, quyền lực vẫn đem về cho họ rất nhiều mối lợi cả tinh thần lẫn vật chất.
Năm 1986, sau 20 năm cầm quyền tổng thống Philippines, ông Ferdinand Marcos đã trở về vui thú điền viên với gia tài kếch xù trị giá trên 10 tỷ mỹ kim. Đặc biệt là vợ ông chiếm hữu một lâu đài sang trọng với biết bao đồ vật quý giá như: 3,000 đôi giầy đủ màu đủ kiểu còn mới tinh, 100 chiếc ví da hạng sang đắt tiền, hoá đơn một chiếc áo dạ vũ trị giá 107,000 mỹ kim. Ở Việt Nam ngày nay cũng không thiếu những quan gia có những đồn điền cao su thì mênh mông, có những đồng ruộng thì vô tận, có tài khoản thì bao la và nhà cửa thì vào bậc sang trong nguy nga. Xem ra quyền lực không chỉ mang lại cho con người uy quyền mà còn mang lại cho họ vinh hoa phú quý ở đời này, khiến họ trở thành một giai cấp thượng lưu hơn hẳn đám dân đen thấp cổ bé miệng.
Chúa Giêsu đến để nối kết tình nhân loại. Ngài không tìm quyền bính và danh vọng. Ngài không chạy theo những toan tính vụ lợi cho bản thân. Ngài đển để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Chính đời sống khiêm nhu xoá bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài đã sống một cuộc đời phục vụ tha nhân một cách không mệt mỏi. Ngài đã phục vụ mọi người bất luận sang hèn, bất luận già trẻ. Ngài đã từng quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Ngài còn rửa chân cho cả Giu-đa kẻ sẽ bán ngài với giá 30 đồng bạc. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến độ "sinh vô gia cư - chết vô địa táng".
Vâng, Chúa Giêsu, Ngài đã thi hành quyền bính của mình là đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Đối tượng được Ngài phục vụ là các bệnh nhân, là những người nam, người nữ đang bị thần ô uế thống trị, là những con người nghèo khổ, bất hạnh đang bị bỏ rơi bởi đời sống thiếu vắng tình người của đồng loại. Tình thương đó đã được thể hiện trên người bệnh nhân bị thần ô uế thâm nhập mà đoạn tin mừng thánh Marco tường thuật lại. Ma quỷ cũng nhìn nhận quyền bính của Ngài nên đã thốt lên: "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Người đồng hương cũng nhìn nhận Ngài có đầy uy quyền trên môi miệng và nhân cách của Ngài. Họ đã khâm phục ngài vì "giáo lý thì mới mẻ, và người dạy lại có uy quyền".
Người Kitô hữu cũng được tham dự vào vương quyền của Chúa Giêsu qua bí tích Rửa tội. Người Kitô hữu cũng được mời gọi dùng tình yêu để hoán cải lòng người, để hàn gắn những hố sâu ngăn cách của giầu nghèo, của địa vị sang hèn. Dùng tình yêu để phục vụ anh em, để dấn thân quên mình vì hạnh phúc của tha nhân. Sự hiện diện của người Kitô hữu phải là những ngọn nến sáng chịu hao mòn để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời. Người Kitô hữu phải là những hạt lúa chịu nghiền nát để dâng hiến cho đời những hương thơm của phục vụ, của bác ái và vị tha. Người Kitô hữu được mời gọi theo gương Thầy Giêsu biết dùng quyền để phục vụ, biết dùng tình yêu để hàn gắn những thương đau của chia rẽ và hận thù, biết lấy đức ái để sống vì lợi ích của tha nhân.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đến để phục vụ, ban cho chúng ta tinh thần xả kỷ hy sinh, biết sống cho tha nhân và vì tha nhân hơn là vun quén cho bản thân. Nguyện xin Chúa là Đấng đến để chữa lành tâm hồn và thể xác con người, xin cũng chữa lành tâm hồn chúng ta khỏi những ràng buộc của tội lỗi, của đam mê nhục dục để biết sống cao đẹp giữa mọi người. Amen.
10. Tin Mừng về Lòng Thương Xót
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Có hai vợ chồng kia đã nhiều lần nghi ngờ xét đoán nhau.
Lần này đang lúc tranh cãi hăng say, người chồng bèn đề nghị:
“Này chúng ta đừng cãi nhau nữa, mỗi người hãy lấy giấy bút ra, rồi viết tất cả những lỗi lầm tật xấu của nhau, rồi trao cho nhau”
Người vợ đồng ý liền, người chồng cầm tờ giấy, nhìn vợ rồi cúi xuống viết.
Người vợ thấy chồng viết, cũng hối hả viết và kể lể hết mọi sự xấu xa của chồng, người vợ viết xong xem ra hả dạ.
Sau đó họ trao bản kết tội cho nhau.
Khi nhìn vào tờ giấy của chồng, nét mặt vợ bổng đổi sắc vì xúc động, chị vội vã đòi lại tờ giấy đã đưa cho chồng, và có thái độ làm hòa.
Trong tờ giấy, người chồng chỉ viết một câu duy nhất: “Em à, Anh yêu em, đừng giận anh nữa!”
Có lẽ ai trong chúng ta cũng hiểu sức mạnh của lòng thương xót. Lòng thương xót chữa lành. Lòng thương xót mang lại bình an hạnh phúc. Lòng thương xót gìn giữ ngọn lửa tình yêu cho các gia đình.
Gia đình nếu không có lòng thương xót sẽ gây gỗ, bất hòa, nghi kỵ, hiểu lầm nhau. Gia đình không có lòng thương xót là một hỏa ngục tại thế. Vì sống bên nhau nhưng không hiểu nhau, không đối thoại được với nhau sẽ làm cho đời sống chung ngột ngạt và đau khổ.
Tin mừng Chúa Giê-su loan báo là tin mừng về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho con người. Lòng thương xót của Chúa đã đích thân đi tìm con người. Lòng thương xót ấy chữa lành, xoa dịu nỗi đau cho con người. Lòng thương xót đẩy lùi sự dữ và mang lại bình an cho nhân thế.
Nhìn vào những việc làm của Chúa Giê-su người Do Thái cũng thấy nơi người toát lên lòng thương xót. Lòng thường xót chính là một giáo lý mới mẻ và đầy uy quyền mà người Do Thái ngỡ ngàng cảm phục. Chúa Giê-su không nói về sự công thẩm của Thiên Chúa mà trọng tâm rao giảng của Chúa là về tình thương của Ngài. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mô tả không phải là vị thẩm phán, nhưng là người cha giầu tình thương. Một Thiên Chúa không phân biệt giữa dân tộc này hoặc dân tộc nọ. Một Thiên Chúa không quan tâm đến của lễ toàn thiêu cho bằng con người thương yêu đùm bọc nhau. Một Thiên Chúa muốn đối xử với chúng ta trong quan hệ cha-con, chứ không phải là vua-tôi. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng là một Đấng trung tín, từ bi và nhân hậu. Ngài chậm giận và chan chứa tình thương. Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả, sẵn sàng đón nhận tất cả.
Năm nay với chủ đề “gia đình hãy là dấu chỉ Lòng thương xót” cụ thể là đồng hành cùng gia đình trẻ như là tiếng mời gọi các gia đình hãy tham gia vào sứ mạng của Hội thánh, rao truyền một nền văn minh tình thương và sự sống. Bằng tình thương chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi nền văn hoá bạo lực và chết chóc đang lan tràn chung quanh chúng ta. Vợ chồng hãy đối xử từ bi nhân ái với nhau. Cha mẹ hãy sống bao dung với con cái. Người trong xứ đạo hãy sống hòa hợp với nhau. Đây chính là sức mạnh của lòng thương xót mà người Do Thái đã nhìn ra nơi Chúa Giê-su như Đấng có đầy uy quyền. Bởi vì, uy quyền của Ngài đến từ lòng yêu thương, tinh thần phục vụ khiến mọi con tim thán phục, cảm mến.
Ước mong bóng tối sẽ bị đẩy lùi khi mỗi người tín hữu hãy thắp sáng lên tình yêu của Lòng thương xót ngay từ mái ấm gia đình mình. Xin cho các người cha người mẹ đừng lấy quyền mà áp đặt con cái nhưng biết thể hiện uy quyền của mình qua tình thương quan tâm dành cho con cái. Xin cho các đôi vợ chồng không đối xử hơn thua nhau nhưng bằng tình thương phục vụ mà khiêm tốn phục vụ lẫn nhau. Xin cho các đôi vợ chồng biết sống lòng thương xót để mái gia đình ngập tràn niềm vui và hạnh phúc. Amen.
11. Ma quỷ ngày nay
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thế giới có ma quỷ hay không vẫn là câu hỏi của mọi người và mọi thời. Ở thời nào cũng có người tin, kẻ không tin. Kẻ tin thì bảo có. Người không tin thì chê cười.
Vậy ma quỷ là gì?
Thưa, theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học, ma là người đã chết còn quỷ là con vật tưởng tượng dưới âm phủ, hình thù kỳ dị và dữ tợn hiện lên quấy nhiễu và làm hại người.
Theo niềm tin Kitô giáo, “ma” có thể hiểu là linh hồn người đã khuất, còn “quỷ” là những thiên thần sa ngã cắt đứt hoàn toàn sự hiệp thông với Thiên Chúa (x. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 391,392,414 và 2851). Tuy nhiên, khi nói tới ma quỷ là ta nghĩ đến chúng là những “kẻ phá ngang” kế hoạch của Thiên Chúa và công trình cứu độ của Ngài được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô.
Lần giở lại Kinh Thánh chúng ta thấy trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên có hai loài cao trọng là thiên thần và con người. Tiếc thay, có một số thiên thần, mà đứng đầu là Luciphe do kiêu ngạo đứng lên chống lại Thiên Chúa. Vì bất tuân phục Thiên Chúa nên Luciphe và bè lũ của chúng trở thành đối kháng với Thiên Chúa. Từ đó chúng luôn tìm cách dụ dỗ con người chống lại Thiên Chúa và đường lối của Ngài.
Nạn nhân đầu tiên bị dụ dỗ là Adam-Eva. Ông bà đã toa rập với chúng để chống lại Thiên Chúa và hậu quả đã di căn qua kiếp người là phải đau khổ và chết. Tứ đây tội lỗi đã đi vào trần gian. Sự ác mỗi ngày một gia tăng. Cain giết Aben, vụ án tháp Baben..và cho đến hôm nay, Nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Nó vẫn đang tiếp tục trói cột và ru ngủ con người bằng những lời đường mật, gian dối, làm cho nhân loại quay lưng lại với Thiên Chúa.
Thật thế, nhìn vào xã hội hôm nay dường như ma quỷ xem ra đang lộng hành trên khắp địa cầu. Chưa bao giờ tội lỗi lan tràn khắp chốn như ngày hôm nay: ly dị nhiều hơn, phá thai nhiều hơn, ngoại tình nhiều hơn, thanh thiếu niên phạm pháp nhiều hơn. . .
Đời sống đạo đức đang suy đồi khủng khiếp. Ma quỷ xem ra rất tinh khôn. Nó không xuất hiện với hình dáng vừa có sừng lại vừa có đuôi, vừa đen đủi lại vừa xấu xí, đáng sợ. Nếu thế thì ta sẽ nhận ra nó, và nó chẳng bao giờ cám dỗ được ta. Ma quỷ thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Nó âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Nó kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộn cắp, kiện cáo và tranh giành. Nó khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh quang và quyền lực. Nó vuốt ve thói ích kỷ để xúi giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Nhất là nó lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, và mất ý thức về tội.
Vậy, làm sao để xua đuổi, để diệt trừ quyền lực của nó ra khỏi cuộc sống này? Ta không thể tưới xăng đốt nó, vì không có thứ lửa nào có thể đốt cháy nó được. Ta cũng không thể dùng bom đạn, vũ khí hoá học, để tiêu diệt nó vì nó là loài vô hình. Chỉ có phương thế duy nhất để tẩy trừ nó ra khỏi cuộc sống và tâm hồn con người là cậy nhờ vào lời quyền năng của Thiên Chúa.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy, Chúa Giê-su chỉ cần nói một lời vắn gọn: “Hãy im đi và ra khỏi người này”, lập tức thần ô uế tuân lệnh và xuất ra khỏi người bệnh. Như vậy, chỉ có lời quyền năng của Chúa Giêsu mới có thể đẩy lùi quyền lực ma quỷ và xua trừ chúng ra khỏi cuộc sống và lòng người.
Xin cho chúng ta hiểu rằng theo ma quỷ là đi vào sự chết. Không thể có hạnh phúc nếu quay lưng lại với Thiên Chúa. Ước gì chúng ta luôn tỉnh táo để từ khước những ảo ảnh phù vân mà ma quỷ bày ra lôi cuốn. Ước gì chúng ta đừng bao giờ thất vọng trước những cám dỗ liên tục của ma quỷ nhưng luôn biết trông cậy vào ơn Chúa để xua đuổi những ước muốn tầm thường và tội lỗi ra khổ tâm trí và cuộc đời chúng ta. Amen.
12. Sức mạnh siêu phàm – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Hoàng đế César Augusto của đế quốc La Mã là người đã biến La Mã gạch ngói thành một La Mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà cẩm thạch.
Nhưng trong triều đại của César Augusto, một biến cố đã thay đổi cục diện của thế giới và lịch sử nhân loại, mà ông không hề biết tới.
Ông làm sao có thể biết trẻ Giêsu chào đời trong một tỉnh lẻ xa xôi, sẽ biến la Mã cẩm thạch của ông thành những vương cung thánh đường vĩ đại nhất.
Ông đâu có ngờ các thần minh của ông sẽ phải lui bước để nhường chỗ cho một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện và chân thật.
Ông cũng không ngờ trẻ Giêsu ấy lại có một sức mạnh siêu phàm đảo lộn mọi giá trị hiện có, và thiết lập một bậc thang giá trị hoàn toàn mới mẻ.
***
Sức mạnh siêu phàm ấy hôm nay đã bắt đầu xuất hiện. Đức Giêsu giải thích Thánh Kinh trong hội đường khiến cho nhiều người phải kinh nngạc, vì: “Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ” (Mc 1,22).
Có uy quyền vì Người dùng quyền mình mà giảng dạy chứ không lệ thuộc vào thế giá của người khác. Quyền này được chứng tỏ khi Người sửa sai các tập tục tiền nhân: “Người xưa đã dạy rằng… Phần Ta, Ta bảo các ngươi” (Mt 5,21).
Khác với các luật sĩ, họ chỉ đọc và giải thích Kinh thánh mà không dám thêm một ý tưởng mới. Họ gò bó con người vào lề luật hơn là dùng luật để giải thoát con người.
Lời Người là “Giáo lý mới mẻ”. Cái mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Người là Đấng Cứu Thế. Cái mới mẻ đó làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời Người là: “Lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo” (Mc 1,27). Chính thái độ tuân phục của ma quỉ trước uy quyền của Đức Giêsu đã nói lên thời cứu độ đã tới.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy n iệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ.
G. Courtois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối, men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng”, của những người sống Lời Chúa chiếu tỏ xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.
Jacques Delarue viết: “Mọi phần tử trong Giáo Hội phải sống Lời Chúa và yêu mến với cùng một tình yêu của Đức Giêsu, chính vì thế mà ngày Chúa nhật họ đi gặp gỡ Chúa trong Lời Người và trong Thánh Thể trước khi nghe đọc: “Hãy ra đi bình an”. Hãy ra đi, đừng ở lại. Các bạn được sai đi cho mọi tạo vật”.
Sống Lời Chúa chính là soi mình vào tấm gương Giêsu để tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì:
“Lời Chúa là đèn soi cho con bước,
Là ánh áng chỉ đường cho con đi”
(Tv 118, 105)
Lạy Chúa, qua Kinh Thánh, Chúa vẫn giảng dạy cho chúng con; qua Bí tích Giải tội Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con; qua Bí tích Thánh Thể, Chúa vẫn sống trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để nên giống Chúa hơn và làm sáng danh Chúa nhiều hơn. Amen.
13. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Quỷ dữ hay Satan là loại Thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa phạt trong Hỏa ngục. Nhưng Thiên Chúa vẫn cho chúng hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau trong lịch sử.
Chúng thường xuyên cám dỗ con người. Nếu cậy vào sức mình, thì con người không phải là đối thủ của chúng. Ngay từ khi con người mới xuất hiện, Nguyên tổ chúng ta đã thua chúng. Và cứ như thế, theo dòng lịch sử, con người luôn bị Quỹ dữ quấy phá, xúi giục phạm tội để làm nô lệ cho chúng. Cuộc chiến giữa con người và quỷ dữ vẫn còn tiếp tục mãi cho tới Tận thế.
Ngày hôm nay, ít khi chúng ta chứng kiến cảnh Quỷ dữ công khai làm hại con người, nhưng chúng vẫn hiện diện và làm hại con người qua sự dữ, sự ác, sự tội. Chúng dụ dỗ, quyến rũ con người dưới nhiều chiêu thức khác nhau. Ngày 3 tháng 10 năm 2015, khi nói chuyện với các Hiến Binh Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định rằng “Satan là một kẻ dụ dỗ, nó gieo những nguy hiểm tiềm ẩn và dụ dỗ với đầy sự quyến rũ, và sự quyến rũ ma quỷ này khiến anh em tin mọi thứ. Nó biết cách làm thế nào để rao bán thật quyến rũ, nó bán rất chạy, và cuối cùng người ta phải trả giá rất cao!”. Trong các bài giảng của mình, Đức Phanxicô còn đưa ra các chiêu thức cụ thể mà Ngài cho là Quỷ dữ đang hoạt động nơi con người.
Đó là khi con người không dám tuyên xưng Đức Kitô. Ngài nói: “Khi một người không tuyên xưng Đức Kitô, người đó sẽ tuyên xưng sự trần tục của ma quỷ.”
Đó là khi con người rơi vào tình trạng bi quan trong cuộc sống. Ngài nói: “Chúng ta đừng bao giờ để mình rơi vào tình trạng bi quan, hay cay đắng là những điều ma quỷ đưa đến cho chúng ta hàng ngày.”
Đó là khi con người ghen tương, tham vọng, chia rẽ hay tham lam. Ngài nói: “Ma quỷ có hai vũ khí rất mạnh để tiêu diệt Giáo hội: đó là chia rẽ và tiền bạc... ma quỷ gieo trong lòng người sự ghen tương, tham vọng, và các ý tưởng chia rẽ hay tham lam. Nó gieo vào lòng người một cuộc chiến bẩn thỉu, gây ra chia rẽ như chủ nghĩa khủng bố.”
Đó là khi con người ngồi lê đôi mách, nói xấu nói hành nhau. Ngài nói: “Ẩn sau những lời đồn thổi là sự đố kị và ganh ghét. Những câu chuyện ngồi lê đôi mách này chia rẽ cộng đoàn, phá hủy cộng đoàn. Buôn chuyện là một vũ khí rất hiệu quả của ma quỷ.”
Ngoài ra, Đức Phanxicô còn cho biết: “Ma quỷ đang tấn công dữ dội vào các gia đình, là nơi ma quỷ không muốn tình yêu được thể hiện và chúng đang tìm cách để phá hủy tình yêu…”. Ngài còn cho biết thêm: “Ma quỷ không bao giờ chịu đứng im nhìn sự thánh thiêng và tốt lành của Giáo hội hay của mỗi chúng ta mà không cố tìm cách phá hủy sự tốt lành đó.”
Vậy, trước các hoạt động Quỷ dữ đang tấn công con người, chúng ta phải làm gì để đối phó với chúng? Đức Phanxicô dạy chúng ta là đừng bao giờ đối thoại với chúng mà hãy dùng Lời Chúa để đối phó với chúng. Ngài nói: “Hãy xem cách Đức Giêsu đáp trả lại [những cám dỗ]: Người không đôi co với Satan, như Eva trong vườn Địa đàng. Đức Giêsu biết rất rõ rằng con người không thể dùng miệng lưỡi đôi co lại với Satan vì hắn rất xảo quyệt. Vì vậy, thay vì tranh luận với hắn như Eva xưa, Chúa Giêsu đã chọn cách vững chắc là dùng Lời Chúa để đáp lại ma quỷ với uy quyền của Lời Người. Chúng ta hãy ý thức điều này mỗi khi chúng ta bị cám dỗ …: Đừng đối thoại với Satan, nhưng hãy dùng Lời của Chúa để bảo vệ chúng ta. Và Lời Người sẽ cứu thoát chúng ta.” (Nguồn Lời giảng của Đức Phanxicô sưu tầm trên Internet).
Chúng ta nhớ lại biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc (x. Lc 4,1-13): khi Satan dùng danh, lợi, thú để cám dỗ Ngài, Ngài đã dùng Lời Chúa để chiến đấu với nó và lần đầu tiên, Satan đã thất bại thảm hại. Đức Giêsu đã chiến thắng lẫy lừng. Bởi Ngài không chiến đấu do sức lực của con người nhưng chiến đấu do sức mạnh của Thần linh đến từ Lời của Thiên Chúa. Từ đó, Satan luôn luôn bị Đức Giêsu khuất phục. Tin mừng Thánh Marcô hôm nay cho chúng ta biết (x. Mc 1,23-28): Khi Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường thì có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: “Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa.” Đức Giêsu quát bảo nó rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Đây không phải là lần duy nhất Đức Giêsu trừ quỷ. Đọc Tin mừng cho chúng ta thấy nhiều lần nhiều nơi, Đức Giêsu đã dùng quyền năng của Ngài để trừ quỷ (x. 1,34.39; 3,11-12). Chẳng hạn, Ngài cho cả một đạo quân Quỷ dữ nhập vào đàn heo và cả đàn heo lăn xuống biển mà chết (x. Mc 5,1-20); Ngài chữa người bị quỷ ám mắc chứng bệnh động kinh (x. 9,14-29). Không những Ngài trực tiếp trừ quỷ mà Ngài còn gián tiếp giúp con người thoát khỏi ách thống trị của chúng như chữa lành bệnh tật, tha thứ tội lỗi: Ngài cho kẻ mù được thấy, kẻ câm nói được, kẻ điếc được nghe, kẻ què đi được, người mắc bệnh phong được khỏi; Ngài tha tội cho kẻ bất toại, người phụ nữ ngoại tình, những người thu thuế và các cô gái điếm…giúp họ thoát khỏi sự kìm kẹp của Quỷ dữ để họ được gia nhập với cộng đoàn. Vì theo quan niệm của người Do thái thì bệnh tật, tội lỗi là do Quỷ dữ gây ra.
Như vậy, Đức Giêsu có quyền trên Quỷ dữ, Ngài luôn chiến thắng chúng. Vì vậy, chúng ta muốn chiến thắng Quỷ dữ thì cần phải nhờ ơn Chúa giúp. Chúng ta nhờ ơn Chúa qua việc ăn chay và cầu nguyện. Chúng ta nhờ ơn Chúa qua việc đọc, suy gẫm và sống Lời của Ngài, vì “Lời của Ngài có uy quyền”. Chúng ta nhờ ơn Chúa qua việc từ bỏ ý riêng để tuân phục ý Chúa. Tuân phục thánh ý Chúa bằng cách chu toàn bổn phận đấng bậc mình, sống gắn bó với Chúa như lời Thánh Phaolô căn dặn trong bài đọc II hôm nay: “Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng mình.” (1Cr 7, 32-34).
Lạy Chúa, Quỷ dữ luôn tấn công chúng con với nhiều chiêu thức khác nhau. Tự sức chúng con không thể thắng được chúng. Vì vậy, xin cho mỗi người chúng con luôn biết sống khăng khít với Chúa để nhờ đó chúng con mới có thể thắng được mọi cơn cám dỗ của Quỷ dữ. Amen.
14. Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa
MINH HỌA LỜI CHÚA - HN sưu tầm -thanhlinh.net
1. Sức mạnh siêu phàm
Hoàng đế César Augustô đã biến La mã từ những đổ nát thành một La mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà lộng lẫy đồ sộ.
Nhưng ông ta có biết đâu một trẻ Giêsu nhỏ bé đã làm chấn động cả thế giới và thay đổi cục diện lịch sử nhân loại. Ông ta có biết đâu một trẻ Giêsu sinh ra nghèo hèn trong một làng xa xôi hẻo lánh đã biến cả La mã khổng lồ của ông thành một vương quốc vĩ đại. Ông đâu ngờ các thần mInh ông tôn thờ phải lui bước, nhường chỗ cho một Thiên Chúa toàn năng, khiến ma quỷ phải khâm phục và mọi người tôn vinh.
--------
Đó là sức mạnh siêu phàm của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện và biểu hiện uy quyền của Người qua lời giảng dạy mới mẻ, qua sự kính phục của ma quỷ, và qua lòng ngưỡng mộ của mọi người: “Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo” (Mc.1,28).
Chính “giáo huấn mới mẻ: làm cho mọi người nhìn nhận Người là Đấng cứu thế; thẩm quyền của Người khiến ma quỷ phải kính phục, và việc ma quỷ tuân phục Người nói lên vương quốc cứu độ của Người đã đến với loài người.
Là Kitô hữu, chúng ta cần học hỏi và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, nhận ra quyền năng của Người tác động trong cuộc đời chúng ta, làm cho nó sinh bông kết trái thiêng liêng hằng ngày G.Coutois đã khẳng định: “Nếu chúng ta biết sống Lời Chúa trong môi trường hằng ngày, chúng ta sẽ âm thầm trở nên muối và men cho cả nhân loại, vì ánh sáng của người sống Lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều.”
“Lời Chúa là đèn soi con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. (Tv.118).
(Theo “Như Thầy đã yêu”).
2. Sức mạnh của Lời Chúa
Đi khắp nước Phi-luật-tân, đâu đâu cũng thấy nhan nhản những câu Lời Chúa, nhắc nhở mọi người nhớ Chúa, nhất là đem ra thực hành trong đời sống. Sở dĩ ở Phi-luật-tân có được điều đó là vì số Kitô hữu chiếm hơn 90 phần trăm dân số.
Những lời Chúa đó khích lệ, động viên các tín hữu Phi-luật-tân hướng thiện hành thiện trong mọi hoàn cảnh của từng giây từng phút sống. Lời Chúa có sức mạnh cải biến con người như thư Do-thái nói:
“Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hiện hữu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi, xuyên thấu chỗ phân cách tâm linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tìnhcũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ”.
--------
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy hiệu lực phi thường của Lời Chúa. Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuân phục; Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Sức mạnh của Lời Chúa luôn tác động mọi loài mọi vật và phát sinh hiệu lực như ngôn sứ Isaia nói:
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về với trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì Lời Ta cũng vậy. Một khi phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”.
Là đồ đệ Chúa và là Kitô hữu, chúng ta phải đem Lời chúa vào tâm hồn chúng ta và làm cho nó trổ sinh hoa trái tốt. Đó là cách tốt nhất để loan báo Chúa Kitô cho anh chị em xung quanh, vì loan báo bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. (Theo “Ánh Sáng thế gian”).
3. Hai vương quốc giao tranh
Năm 1970 bộ phim “Người trừ quỷ” ra mắt đã phá kỷ lục bán vé. Bộ phim kể lại một thiếu niên bị quỷ ám như anh chàng trong Tin mừng hôm nay.
Đó là cậu trai 14 tuổi sống ở vùng Raimer, bang Maryland vào năm 1949. Phòng cậu ở, mọi vật đều di động. Ban đêm cậu không sao ngủ được, miệng luôn thốt ra những lời nguyền rủa hung hãn. Và đến một lúc nào đó đầu cậu bị cột vào giường ngủ, thì thân xác cậu đầy những vết tích đẫm máu…
Nhưng cậu bình phục nhờ được trừ tà, hiện cậu còn sống ở vùng Washington nước Mỹ. Vị linh mục đã trừ tà cho cậu nói: “Nhờ dịp này, tôi đã biến đổi cuộc sống tốt hơn”.
----------
Trong Tin mừng hôm nay, khi thấy Chúa Giêsu trừ được quỷ, dân chúng thắc mắc: “Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo”.
Đó là vì Chúa Giêsu “dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến” (Lc.11,20). Việc Chúa Giêsu trừ được quỷ nói lên vương quốc Satan giờ đây nhường chỗ cho vương quốc Thiên Chúa.
Điều này lại gợi lên vấn nạn: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa hơn 2000 năm nay, tại sao điều ác sự dữ vẫn còn? Tức là vương quốc ma quỷ vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta? Lý do vì vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc, đó là một bước tiến từ từ. Hơn nữa, Chúa giao phó cho chúng ta công việc hoàn tất. Có thể vì vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Chúa Giêsu trồng, giao cho chúng ta vun phân tưới nước cho nó lớn lên và sinh bông kết trái như ý Chúa muốn.
Điều này lại dẫn đến vấn nạn thứ hai: Tại sao vương quốc ma quỷ lâu tàn lụi và vương quốc Thiên Chúa chậm phát triển như thế? Câu trả lời phải nói là tại chúng ta chểnh mảng, không lo chu toàn trách nhiệm Chúa phú giao. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong chúng ta kính mến chúa hết lòng, thương yêu người như Chúa thương? Có bao nhiêu người trong chúng ta trở nên men, nên muối, nên ánh sáng cho người khác? Có bao nhiêu người chúng ta sống hiền lành khiêm nhượng như Chúa Giêsu? !...
(Theo “Sunday Homilies”).
4. Ông là Đấng Thánh
Có người mẫu Susam Missi gốc nước Anh đã bảo hiểm thân thể cô trị giá 15.800.000 mỹ kim. Cô rất hãnh diện về số tiền bảo hiệm cho thân thể cô. Nhưng phải chăng đó là giá trị của con người.
Đọc qua bản tin này, ai có quan niệm sống là để hưởng giàu sang và khoe khoang của cải sắc đẹp thì người đó thán phục và mơ ước mình cũng được như thế. Nhưng đối với những ai có tâm hồn quãng đại, yêu người thì sẽ trách phiền người mẫu kia là vô tâm, ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ mà không biết thương giúp đồng loại đau khổ thiếu thốn. Nhưng dù có phản ứng thế nào thì đây cũng là dịp tốt mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống, về phẩm giá con người.
Sự sống của mỗi người chúng ta có giá trị vô song, không thể sánh với tiền của vật chất. Người mẫu Susan Missi đã bảo hiểm thể xác mình gần 16 triệu mỹ kim, nhưng sự sống của cô không có gì đổi được.
--------
Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa dạy cho biết sự sống con người thật quý giá, và sự sống đó sẽ triển nở đến muôn đời. Sự sống đó quý giá đến nỗi máu Con Thiên Chúa phải đổ ra chuộc lại.
Thánh Phêrô bảo chúng ta: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anhh em, vì có lời Kinh thánh chép: Hãy sống thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh Thiện… Anh em hãy biết không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn vô tỳ tích là Đức Kitô…
Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn… hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tuông cùng mọi lời nói xấu gièm pha. Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ… (1Pr.1,15-2,2).
Chúng ta nhắc lại lời Thánh Phêrô kêu mời chúng ta: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”.
Và trong Tin mừng hôm nay, chính thần ô uế cũng phải tuyên xưng: “Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc.1,24).
15. Lời giảng quyền uy và tân kỳ
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Wat Traimit còn gọi là Chùa Phật Vàng, là một ngôi chùa nổi tiếng ở Bangkok, Thái Lan nhờ vẻ đẹp độc đáo, lịch sử của nó, và nhờ pho tượng Phật bằng vàng nguyên khối rất lớn. Chùa này tọa lạc ở cuối đường Yaowarat, gần ga Hualampong, thuộc Quận Samphathawong.
Tượng Phật Vàng là bức tượng Phật ngồi cao 3 mét đúc bằng vàng khối, nặng 5,5 tấn. Người địa phương cho rằng bức tượng lớn nhất thế giới này biểu thị cho sự thịnh vượng và thuần khiết cũng như sức mạnh và quyền năng. Trong số tất cả những bức tượng Phật mà du khách có thể nhìn thấy ở Bangkok, từ tượng Phật Emerald tại Wat Phra đến tượng Phật nằm tại Wat Pho, thì tượng Phật Vàng là một trong những bức tượng xinh đẹp nhất. Tượng Phật Vàng đã giúp Wat Traimit trở thành một trong những điểm đến hàng đầu nằm trong lịch trình tham quan Bangkok của du khách.
Tượng Phật Vàng được xác định là làm trong thời đại Sukhothai (khoảng thế kỷ 13-15), một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật của Thái Lan, đặt trong một ngôi chùa ở thủ đô cổ Ayutthaya (cách Bangkok về phía Bắc khoảng 1 giờ đồng hồ đi xe). Khi quân Miến Điện cướp phá thủ đô, để tránh sự xâm hại của quân xâm lược, tượng được phủ một lớp đất sét dầy và được giữ bí mật tuyệt đối, vì những người chịu trách nhiệm ngụy trang bức tượng này bị giết ngay sau khi hoàn tất công việc. Sau đó, tượng được đóng thùng chuyển đến Bangkok và đặt tại chính điện của chùa Choti-Naram (là Wat Phrayakrai hiện nay) dưới thời vua Rama III (1824 - 1851).
Năm 1931, ngôi chùa này bị bỏ hoang và bức tượng phủ đất sét này được chuyển đến một nơi tạm thời và chẳng mấy ai quan tâm trong suốt hai thế kỷ. Thập niên 1950, khi di chuyển đến một ngôi chùa mới ở Bangkok, tượng bị tuột khỏi cần cẩu, rơi xuống hố bùn. Cũng chẳng ai buồn trục tượng lên. Người dân địa phương kể rằng có một nhà sư được đức Phật báo mộng, nên đi tìm và kéo được tượng lên. Qua một vết nứt, nhà sư thấy một tia sáng màu vàng lóe lên và Phật Vàng được "tái sinh." (Wikipedia)
Vết nứt đất sét đã tình cờ lộ ra pho tượng Phật vàng ròng. Trong Tin Mừng Marcô hôm nay, chính tay quỷ sợ hãi, cũng hớt hải, vô tình làm lộ ra bản tính Thiên Chúa nơi Đức Giêsu: “Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1, 24) Tuy nhiên, Người cấm Satan tiết lộ Thánh Danh Người, vì quỷ dữ không xứng đáng công bố, mà dành cho sau này chính môn đệ Đá Tảng, Phêrô long trọng tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô" (Mc 8, 27- 29).
Lời Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum vào ngày Sabat khiến thiên hạ ngạc nhiên, sửng sốt, “vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.” (Mc 1, 22) Hành động trừ quỷ tiếp theo là một dấu chỉ khẳng định uy quyền Đấng Thiên Sai. Trước đó, Người được ông Gioan Tiền Hô long trọng giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.” (Ga 1, 29)
Lời giảng uy quyền
Trong khi các thầy tư tế, kinh sư, Biệt Phái giảng dạy Ngũ Thư theo như truyền thống vụ luật, nguyên tắc và khắt khe, nghiêm nhặt, cầm buộc và cấm đoán, thì Đức Giêsu giảng giải khác hẳn và trái ngược, cởi mở, quảng đại, tràn đầy uy lực, quyền năng. Không những Người trình bày ý nghĩa, mục đích và tinh thần của Lề Luật thật sâu sắc, tinh tế và chính xác: “Ngày Sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát.” Người còn tự nhận đứng trên cả Lề Luật, có đủ thẩm quyền giải thích Lề Luật: “Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sa-bát" (Mc 2, 27 - 28)
Thay vì Lề Luật định hướng con người kính Chúa, yêu người, trở nên tốt lành, xả kỷ vị tha, nhân ái, nhân hòa, yêu thương và phục vụ, lại trở nên gánh nặng phi lý cho con người, mà thánh Phaolô gọi đó là luật của người trần. “Chẳng hạn:“Đừng ăn cái này, đừng nếm cái kia, đừng đụng vào cái nọ.” toàn là những cái cấm đoán đụng đến là hư. Đó chỉ là những giới luật và giáo huấn của người phàm.” (Cl 2, 20- 21)
Lời giảng tân kỳ
Đức Giêsu không hủy bỏ hay thay đổi Lề Luật. “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt 5, 17) Trái lại, Người hoàn chỉnh và khoác lên Luật Lệ bộ mặt mới thân thiện, cụ thể và hữu ích cho con người xứng đáng lãnh nhận ơn Cứu Độ:“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng ... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết ..." (Mt 5, 21) Người đổi mới tinh thần Luật, nâng cấp cho phù hợp với tình yêu thương, nhân từ, bác ái, mà Người hằng ấp ủ, chủ trương: “Ta ban cho các con điều răn mới, đó là các con phải yêu thương nhau. Như Ta đã yêu thương các con thể nào, các con cũng phải yêu thương nhau thể ấy.” (Ga 13, 34 - 35).
Các kinh sư, luật sĩ, Biệt Phái đã trói buộc dân chúng thực thi 613 mitzvot, điều Luật, thật chi tiết, tỉ mỉ, vụn vặt trong đời sống, vô tình biến Luật thành vòng kim cô, thành hàng rào, tường lũy, ngăn cách và cắt đứt mối giao hảo, tương quan giữa con người và với Thiên Chúa. Điển hình trong dụ ngôn người Samarita nhân lành, Đức Giêsu nêu đích danh thầy tư tế, thầy Lêvi đã bỏ mặc kẻ hoạn nạn dở sống dở chết, chỉ vì họ đều mù quáng tuân thủ Luật lệ. Thay vì kết luận, Người hỏi ngược lại luật sĩ, buộc ông phải công khai khẳng định: “Vậy theo ý ông, thì ai trong ba người ấy đã nên đồng loại của người sa vào ổ cướp?" Ông ấy đáp: "Kẻ đã xử nhân nghĩa với người ấy." (Lc 10, 25-37)
“Biến thế giới của thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 801)
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa xua đuổi ma quỷ ra khỏi lòng trí chúng con, giải thoát chúng con khỏi đam mê thế gian, cứu chúng con khỏi cám dỗ xác thịt, để chúng con có thể lắng nghe, đón nhận và nhập tâm Lời Hằng Sống, hầu sống theo lời giảng dạy đầy quyền uy và tân kỳ.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ xua tan đi những đám mây mù, u ám gian tà, tội lỗi, xấu xa đang ráo riết quyến rũ, bao vây, tấn công chúng con, xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cứu vớt chúng con được sống trong tình thương, ân nghĩa của Chúa. Amen.
16. Tôi biết Ông là ai!
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Chúa Giêsu cùng các môn đệ, xuất hiện và giảng dạy công khai trong một hội đường tại Caphạrnaum vào ngày lễ nghỉ sa bát. Thiên hạ ngạc nhiên vì lời Ngài như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Họ chỉ mới ngạc nhiên, sửng sốt, chứ chưa thể nhận biết rằng, Ngài chính là Đấng Có Thẩm Quyền. Nhưng có lẽ để thiên hạ biết rõ Ngài là ai, thì Chúa đã dùng ngay satan dưới lốt thần ô uế, thừa nhận vô cùng minh bạch: Tôi biết ông là ai rồi! Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!
Chẳng phải chỉ đáng buồn cho Israel, dân riêng của Chúa, đã không nhận biết Ngài là ai. Mà chính con cái Ngài hiện nay ở khắp nơi, cũng khiếm thị, khiếm thính, cũng không hề nhận ra Ngài, đang hiện diện trong mỗi con người chung quanh, những tha nhân khốn khó, những kẻ cô thế, kẻ bị giam cầm, bị áp bức, bị đói khát, bị gạt ra ngoài lề xã hội…
Ngài đến không chỉ soi đường, dẫn lỗi con người thoát kiếp lầm than, thoát kiếp nô lệ của satan, nhưng còn chữa lành, giải phóng con người thoát khỏi ảnh hưởng đen tối của u mê tội lỗi, của thói tham lam, thói ích kỷ, vị kỷ, thoát khỏi cái tôi như cái rốn vũ trụ.
Thần ô uế bây giờ tinh xảo, không còn ngây ngô, xấu xí hay kinh dị như xưa, mà trở nên biết hóa khôn lường, mặc lấy nhiều cái áo vô cùng mỹ miều, nhân danh đủ các lý tưởng thanh cao, đủ các chủ nghĩa mỵ dân, hòng che đậy cứu cánh dã tâm, không ngoài mục đích vinh thân phì gia, củng cố phe cánh, bè đảng, bằng nhiều chiêu độc, như tước đoạt của cải, bần cùng hóa và nô lệ hóa dân đen, chà đạp nhân phẩm, tước đoạt tự do,…
Thế mà Chúa Giêsu lại đến giải thoát con người khỏi ách nô lệ sự dữ, làm sao không động đến quyền lực đen, làm sao không làm nhức nhối những bạo quyền, những kẻ đang tâm bán rẻ linh hồn cho satan, kể cả những đám lâu la, ô hợp chạy theo cường quyền, để kiếm chác, bòn mót chút ân huệ, mà lạnh lùng hùa theo hãm hại dân lành. Chúa cũng không quên cảnh cáo những ngôn sứ phụ bạc, phản phé: Nhưng tiên tri nào tự phụ, nhân danh Ta mà nói lời Ta không truyền phải nói, hoặc nhân danh các thần khác mà nói, thì sẽ chết". (Đnl 18, 20)
Như vậy, đàn chiên Ngài chẳng lẽ lại dại dột nghe theo sói dữ, hay sói đột lốt chiên, để được yên thân, để khỏi bị thử thách, khỏi phải vác thánh giá? Lại chẳng biết đâu là chính nghĩa, đâu là danh chính ngôn thuận, đâu là Đường, đâu là Sự Thật, mà chính satan đã từng phải buộc lòng xác nhận?
Lạy Chúa, xin hãy mở mắt, mở tai, mở lòng trí con, để con luôn nhận ra Chúa hiện diện ngay bên con, ngay trong xã hội nhiễu nhương, và nhất là Chúa hiện diện trong Tin Mừng và trong Thánh Thể nhiệm mầu.
Lạy Mẹ kính yêu, xin thức tỉnh con nhìn thấy Chúa trong mọi người, luôn biết nương tựa nơi Chúa, hầu xa lánh được satan, luôn rình rẫp cám dỗ, muốn khống chế tầm hồn yếu đuối của con. Amen.
17. Giảng dạy như có thẩm quyền
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Tác giả Máccô giới thiệu sứ vụ của Đức Giêsu tại Ga-li-lê gồm hai phần: giảng dạy và chữa lành. Tuy nhiên đặc biệt là ở chỗ ông không tách hai điều này riêng ra mà đã liên kết chúng lại thành một cách rất tài tình. Chữa lành chính là để lời rao giảng trở nên thuyết phục.
Mác-cô trước hết giới thiệu Đức Giêsu như một nhân vật xuất hiện hầu công bố một sứ điệp trọng đại: “Thời đại đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (c.15). Ông không những xác địch công việc chính của Đức Giêsu là công bố sứ điệp, nhưng còn nói thêm Ngài đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên dân chúng. ‘Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày Sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’. Tác giả hình như quan tâm tới thái độ dân chúng tiếp nhận sứ điệp nhiều hơn là chính nội dung thuyết phục hay sự phong phú của sứ điệp Tin Mừng được rao giảng.
Rõ ràng là như thế khi Mác-cô lập tức tường thuật các công việc đầy từ tâm Đức Giêsu thực hiện như chữa người bị quỉ nhập, chữa nhạc mẫu ông Si-mon, chiều đến chữa mọi kẻ ốm đau bệnh tật mà cả thành đem đến cho Người…, hầu như để cho thấy tại sao dân chúng có phản ứng tích cực như vậy trước sứ điệp, hay đúng hơn, với con người công bố sứ điệp đó. So với tác giả các cuốn Tin Mừng khác, tác giả cuốn thứ hai này hầu như không chú trọng tới nội dung sứ điệp nhiều cho lắm. Ông dành nhiều giấy mực hơn cho việc tường thuật các hành động chữa lành và yêu thương Đức Giêsu thực hiện. Và tất cả chỉ để minh chứng cho điều mà ông muốn khảng định ngay từ đầu: ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư’.
Thật ra thì dân chúng bình dân thời nào và ở đâu cũng vậy thôi, với trình độ hiểu biết hạn chế họ ‘nghe’ thì ít mà muốn ‘thấy’ nhiều hơn. Đúng hơn, họ là các thính giả có tầm hiểu biết bằng con tim nhiều hơn là bằng trí óc, nhất là trên con đường đi tìm chân lý; trong khi đó các bậc mô phạm hay hiền triết lại có khuynh hướng sử dụng khối óc nhiều hơn con tim. Các hành động chữa lành đầy từ tâm của Đức Giêsu đánh thẳng vào con tim của thính giả bình dân và chinh phục họ; trong khi các thính giả tri thức như các luật sĩ, biệt phái và kinh sư lại chỉ tìm đến để nghe thuyết pháp, để tìm lý luận, rồi sau đó thi nhau đem ra phân tích mổ xẻ, và tìm lỗi bắt bẻ, chính vì vậy mà các tranh luận căng thẳng giữa họ với Đức Giêsu đã không ngừng nổ ra. Đối với dân chúng, sứ điệp của Đức Giêsu quả là một Tin Mừng, vì nó làm cho con tim của họ được an bình no thỏa, trước khi làm trí óc họ được say mê. Trong thẳm sâu cõi lòng, họ hằng khao khát tìm thấy một Đấng Mét-si-a nhân ái, đầy từ tâm và xót thương, gần gũi với nỗi thống khổ yếu hèn của con người hơn. Đó chính là lý do để mà, trong tất cả sự chân thành mộc mạc họ chân nhận cách thẳng thắn và đơn sơ: ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ hơn hẳn các kinh sư và Biệt Phái.
Suy niệm trên đây, tuy đơn giản thật nhưng lại có tầm quan trọng lớn đối với hết thảy mọi người chúng ta, nhất là đối với các linh mục của Đức Kitô.
- Quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, vì là một tu sĩ linh mục, tôi luôn có nguy cơ xa rời sự nhạy cảm thiêng liêng của người bình dân. Không biết từ khi nào suy luận triết thần đã hoàn toàn chiếm lĩnh đầu óc và suy nghĩ của linh mục. Tôi quan tâm tới hiểu biết và lý luận nhiều tới độ không còn thời giờ để lắng nghe khát vọng thầm kín của chính con tim mình cũng như của người bình dân; kết quả là Tin Mừng đối với tôi phải là chân lý hơn là lòng nhân ái. Và quả thực rất ít khi trong đời sống thiêng liêng tôi dành thời giờ và nỗ lực để nhận ra cái ‘thẩm quyền’ này của Tin Mừng phải tác động trên chính tôi trước hết!
- Quan trọng đối với việc mục vụ: suy niệm trên đưa tôi tới nhận thức sau đây: trước một cộng đoàn phụng vụ, các bải giảng của tôi có được ‘thẩm quyền’ Tin Mừng chỉ khi nào chúng quảng diễn được lòng xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Trong thực tế nó đã bị chi phối quá nhiều bởi các kiến thức thần học - luân lý, hay các dẫn chứng mang tính biện giáo. Ngay khuôn mặt Hội Thánh hoặc nội dung Tin Mừng mà tôi trình bày cũng thường khi còn quá mô phạm và nghiêm khắc. Biết bao giờ dung mạo từ nhân tha thứ của Đức Kitô mới được sáng tỏ để các tín hữu có thể chiêm ngắm tỏ tường cách mãn nguyện?
Lạy Chúa, đúng là những kẻ bé mọn nhận biết Chúa rõ ràng hơn các bậc khôn ngoan thông thái. Xin đừng để học vấn và hiểu biết làm cho con, linh mục của Chúa, không nhận ra nổi ‘thẩm quyền’ đích thực của Tin Mừng Chúa. Cũng xin làm cho lời rao giảng của Hội Thánh được nhiều người lắng nghe bằng con tim và qua đó nhận ra Chúa thật gần gũi và xót thương hết thảy mọi người. Amen.
18. Chân tướng của Đức Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Người đồng thời với Đức Giêsu chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì Đức Giêsu là một người như bất cứ ai khác, Ngài là người hoàn toàn đến độ một người bình thường như thế nào thì Ngài cũng như vậy. Ngài nghèo như bất cứ người nghèo nào. Không ai biết Ngài, Ngài vô danh như bất cứ ai khác. Lời tựa trong tin mừng theo thánh Yoan gọi Ngài là Lời Thiên Chúa, Lời đã thành xác phàm.
1) Đức Giêsu là một ngôn sứ đối với người đương thời
Ngôn sứ là người Thiên Chúa dùng để nói với dân về ý định của Ngài, chuyển thông cho dân những gì Thiên Chúa muốn. Một vị ngôn sứ không nhất thiết phải là người biết trước những biến cố sẽ xảy ra ở tương lai. Dân Do Thái tin rằng Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ “lớn” như Môsê. Vì thế nên khi Đức Giêsu làm những dấu lạ cả thể, thì người đương thời đã coi Ngài là một ngôn sứ.
Khi một ký lục giảng dạy, ông ta tựa vào Lời Chúa để dạy dân chúng. Uy quyền của lời giảng dạy của ký lục, không đến từ họ nhưng đến từ uy quyền Lời Chúa. Đức Giêsu giảng dạy không giống như các ký lục, Ngài giảng dạy như người có uy quyền. Không chỉ là người có uy quyền qua giảng dạy, Đức Giêsu còn đuổi được quỷ qua lời truyền phán của Ngài. Đức Giêsu là ai mà có thể làm những điều này. Hành vi của Đức Giêsu làm dân chúng đặt câu hỏi về chân tính của Ngài.
Một ngôn sứ xuất hiện, là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở với dân. Thiên Chúa đang thực hiện việc kỳ diệu qua vị ngôn sứ. Khi dân chúng nhận ra Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là một ngôn sứ, thì họ nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với họ. Thiên Chúa đang quan tâm và yêu thương họ.
2) Hơn một vị ngôn sứ
Đức Giêsu không chỉ là một ngôn sứ (tiên tri), nhưng Ngài còn là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân Ngài. Dân chúng thời Đức Giêsu đang ao ước thoát ách đô hộ của người Roma, nên họ mong chờ Thiên Chúa sai đến một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi cảnh áp bức chính trị này. Đức Giêsu ý thức Ngài không phải là vị Kitô chính trị, nên Ngài đã cấm các tông đồ nói cho người ta biết Ngài là Kitô (Mt.16, 20).
Cái chết trên thập giá của Đức Giêsu làm cho dân chúng và các tông đồ như bừng tỉnh. Đức Giêsu không là Đấng Kitô như họ nghĩ. Các tư tế, kỳ lão và biệt phái nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như bất kỳ ai khác, nên khi Ngài chết là họ tưởng rằng họ đã giải quyết được một bận tâm tranh chấp ảnh hưởng. Đức Giêsu sống lại, là một điều gì hoàn toàn mới. Không ai có thể nghĩ rằng Ngài sẽ sống lại. Ngay cả các tông đồ cũng không dám tin Ngài sống lại, cho dù Ngài đã báo trước vài lần, vì thế nên các ngài mới hoảng loạn sợ hãi, và hai môn đệ trên đường Emmau là hai người đã bỏ cuộc về quê vì thất vọng.
Đức Giêsu sống lại và truyền trao sứ mạng cho các tông đồ, làm các tông đồ và những người tin vào lời rao giảng của các tông đồ, suy nghĩ và hiểu biết hơn về Đức Giêsu. Đức Giêsu vẫn đang sống, cho dù bây giờ Ngài vượt khỏi tầm kiểm soát của con người, của những thế lực thù ghét Ngài cũng như cả của những người yêu mến Ngài. Ngài là ai? Đây là một câu hỏi luôn theo sát những người yêu mến Ngài, và cả những kẻ không thích Ngài. Ngay khi Ngài còn sống, Đức Giêsu đã biết người ta nói Ngài là ai, và cũng chính Ngài đã hỏi các tông đồ Ngài là ai, nhưng dường như những câu trả lời đó chưa đủ (Mt.16, 13-16).
3) Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng cả với câu trả lời này, người ta cũng có thể hiểu Đức Giêsu chỉ là một người đặc biệt thôi, vì nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn như những người được Thiên Chúa chọn, được Thiên Chúa yêu thương (Xh.4, 22; Hs.2, 1; Tv.82, 6). Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, theo nghĩa là Ngài Con “đồng bản tính” với Thiên Chúa, được xác định sau này bởi công đồng Nicea (325).
Đức Giêsu là ai? Đối với các tông đồ, Ngài là người rất đặc biệt, luôn kết hợp với Thiên Chúa, đến độ lấy ý Thiên Chúa là lương thực cho mình (Ga.4, 34), là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa (Mt.17, 5). Ngài là Đấng “ngự bên hữu” Thiên Chúa (Mc.16, 19). Nhưng tất cả những “từ ngữ” ấy nghĩa là gì? Ngay cả từ ngữ “đồng bản tính” với Thiên Chúa có nghĩa là gì khi đức tin Kitô giáo dạy chúng ta Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Dnl.6, 4).
Đức Giêsu là một người như bất kỳ ai khác, Ngài bị cám dỗ, Ngài biết đói biết khát, Ngài cũng bị cám dỗ về danh lợi ở trong hoang địa, Ngài cũng bị cám dỗ “mất lòng tin vào Thiên Chúa” khi ở trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con;” nhưng Đức Giêsu còn hơn là một con người nữa, Ngài là một tiên tri, và hơn một tiên tri vì Yoan Tẩy Giả không đáng cởi dây giầy cho Ngài; Ngài là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu con người. Và còn hơn thế nữa, Giáo Hội dạy rằng Ngài là Con Thiên Chúa, Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài có trước khi Ngài được sinh ra bởi Đức Maria. Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài khác biệt với Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài lại là một với Thiên Chúa Cha. Ngôi Hai Thiên Chúa cũng là một từ ngữ các nhà thần học dùng để diễn đạt chân tướng của Ngài. Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, và người ta đã dùng nhiều từ ngữ để diễn đạt về Ngài, về chân tướng của Ngài, về mầu nhiệm Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn hiểu thế nào về từ ngữ diễn tả Thiên Chúa “Một Thiên Chúa Ba Ngôi”?
2. Đức Giêsu là ai đối với bạn? Ngài ảnh hưởng trên đời bạn như thế nào?
19. Chạy theo tà thần – Anmai, CSsR
"Đời là bể khổ", Đức Phật nói như thế! Ta có thể nói ngược lại "Bể khổ là đời!". Đã sinh ra trong thân phận làm người, ai ai cũng mang trong mình những đau khổ của cuộc đời. Không khổ nhiều cũng khổ ít chứ chẳng thể nào ai mà thoát khổ được. Trong những lúc cuộc đời gặp đau khổ, con người phải đối diện với chính trong sâu thẳm của lòng mình. Thường, người ta vẫn thường nói "lúc gian nan mới biết ai là bạn". Cũng vậy, trong những lúc gian nan thử thách của cuộc đời, ai là người để chúng ta tin tưởng, để chúng ta bám víu, để chúng ta trông cậy?
Buổi sáng nọ, đang làm việc, bỗng dưng sơ phụ trách cộng đoàn gọi tôi có việc. Ra hành lang thì thấy sơ dẫn hai mẹ con nọ đến gặp tôi. Tôi ngạc nhiên nhưng bình tĩnh hỏi chuyện.
Bà mẹ nói trước: "Thưa Cha! Con được người em con về nói văng vẳng bên tai con là con phải theo đạo Mẹ Maria, theo đạo ông Giêsu Kitô... mô phật! mô phật!" Tôi nghe bà nói tôi cảm thấy căng đây vì lẽ sao mà theo đạo Mẹ Maria mà miệng lại cứ mô phật, mô phật. Tôi lấy hết bình tĩnh để nghe hai mẹ con trình bày.
Chuyện là chồng của người con của bà đã bỏ vợ để đi theo một người đàn bà khác. Cuộc sống ngày một khó khăn, chu cấp không như ngày xưa nữa. Bực bội trước cảnh đó và rồi người con của bà suy nghĩ nhiều, căng thẳng, mất ngủ! Nghe thấy nó làm sao đó, tôi mới hỏi là tình hình sao thì người con nói là gần 1 năm nay, cô ta không ngủ được, chỉ chợp mắt nằm đó thôi và giờ đang buồn ngủ (lúc đó 9 giờ sáng). Bỗng dưng cô lăn ra chiếc ghế dài cô đang ngồi và cô nằm xuống, nằm một lát cô ngồi dậy. Tôi cảm thấy bắt đầu lúng túng và chỉ biết cầu nguyện thôi.
Đang lúc ấy thì miệng bà mẹ cứ mô phật, mô phật!
Bà mẹ lại nói tiếp rằng lúc nào bà cũng bị tiếng nói gì đó văng vẳng bên tai! Tiếng nói ấy bảo bà đến để theo đạo Kitô!
Tôi thấy cũng căng trước hai người phụ nữ không bình thường này. Tôi nghi là hai người này có chơi bùa chơi ngãi hay đi coi thầy bà gì đây và tôi hỏi thật lòng là hai người có đi coi thầy không thì tôi mới giải quyết vấn đề được. Ban đầu còn ấp úng nhưng sau đó cô con gái đã thú nhận là đã đi coi thầy khi gia đình gặp khủng hoảng, khó khăn, nhất là khi ông chồng bỏ vợ đi theo vợ bé. Cô còn khai thêm là người ta cho uống cái nước gì đó và hiện tại bây giờ mỗi ngày vẫn còn uống nước đó!
Tôi đã hiểu vấn đề và nguyên nhân của hậu quả mà hai mẹ con đang lãnh nhận.
Đó là hai mẹ con đã chơi với thế lực ma quỷ, thế lực của sự dữ nên giờ đây phải đón nhận hậu quả bi đát này.
Để giúp cho hai mẹ con. Tôi bắt đầu phân tích cho họ thấy rằng nếu như ông thầy bói toán mà biết được cuộc đời của mọi người để ông coi bói sao ông không biết được cuộc đời của ông để mà ông phải ngồi đó để bói toán cho những con người nhẹ dạ và cả tin như các cô các bà. Nếu ông biết được tương lai, biết được mọi chuyện thì đơn giản nhất là ông mua vé số để trúng số lấy tiền mua nhà lầu xe hơi chứ sao phải ngồi trong căn nhà ọp ẹp bói toán mà còn phải canh chừng công an!
Tôi nói thêm là thời nào cũng có ma quỷ. Như thời của Chúa Giêsu như trong trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe Thánh Maccô thuật lại đấy! Thời nào cũng có ma quỷ cả! Ma quỷ chính là những thiên thần đã bất tuân lệnh Chúa. Và từ những trang đầu của sách Sáng Thế, chúng ta thấy ma quỷ đã dụ dỗ bà Eva để rồi bà cùng ông phạm tội bất tuân Thiên Chúa. Chính vì hai mẹ con của bà ấy đã đi theo hay nói đúng hơn là chơi với ma quỷ thì phải lãnh nhận hậu quả như hiện nay.
Tôi bảo với hai mẹ con rằng nếu như muốn thoát khỏi tình trạng hiện nay thì phải dứt khoát với ma quỷ, không còn uống nước của ông thầy cúng cho nữa. Muốn theo đạo ông Giêsu cũng được nhưng trước hết, ngay trong hiện tại cứ cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ đã rồi từ từ học đạo để theo đạo.
Nguyên nhân mà hai mẹ con này gặp phải hậu quả này đó chính là khi cuộc sống gặp khó khăn đã đi tìm đến thế giới của ma quỷ, thế giới của tà thần để giúp mình. Đơn giản nhất, khi người chồng đã theo vợ bé không còn chu cấp như xưa nữa thì chính người vợ phải cố gắng lao động để nuôi 3 đứa con, đàng này, người vợ ăn ở không, không chịu làm gì cả và rồi chạy đến thầy bùa, thầy ngãi để "giải hạn". Tưởng chừng "giải hạn" nhưng nào ngờ "hạn" nó đến với hai mẹ con này không biết đến ngày nào mới giải được.
Thời nào cũng vậy, khi gặp khó khăn người ta không cố gắng vươn lên bằng chính khả năng của mình nhưng cứ muốn dựa vào thế lực nào đó để giải thoát mình. Lẽ ra người ta đi tìm đến Đấng Cứu Độ của đời mình, Đấng làm chủ thời gian và không gian, làm chủ trời đất muôn vật để giúp họ nhưng không, người ta vẫn cứ đi tìm những thế lực nào đó.
Như sách Đệ Nhị Luật vừa cho chúng ta biết thánh ý của Đức Chúa trên dân qua miệng Môsê. Thiên Chúa hứa sẽ cho một ngôn sứ xuất hiện để giúp cho dân, ngôn sứ ấy sẽ nói lời của Đức Chúa và người nào không nghe lời ngôn sứ ấy thì Đức Chúa sẽ hạch tội người đó.
Trước đoạn sách Đệ Nhị Luật mà chúng ta vừa nghe, tác giả sách đã cảnh báo dân rằng: "Nếu ở giữa anh em xuất hiện một ngôn sứ hay một kẻ chuyên nghề chiêm bao và nó báo trước cho anh em một dấu lạ hay một điềm thiêng, nếu dấu lạ hay điềm thiêng nó đã nói xảy ra, và nó bảo: "Chúng ta hãy theo và phụng thờ các thần khác", những thần mà anh em không biết, thì anh em đừng nghe những lời của ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, thử thách anh em cho biết anh em có yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ không. Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải theo; chính Người là Đấng anh em phải kính sợ; anh em phải giữ các mệnh lệnh của Người, phải nghe tiếng Người; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ; anh em phải gắn bó với Người. Ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy sẽ bị xử tử, vì nó đã hô hào nổi loạn chống Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập và đã chuộc anh em khỏi cảnh nô lệ, và vì nó đã muốn lôi cuốn anh em ra khỏi con đường Đức Chúa đã truyền cho anh em phải đi. Anh em phải khử trừ sự gian ác không cho tồn tại giữa anh em". (Đnl 13, 2,-6). Con người mọi thời đại vẫn nghe ngóng, vẫn trông chờ vào lời nói của những ngôn sứ giả.
Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử cứu độ. Đức Chúa đã cho quá nhiều ngôn sứ đến để nói cho dân biết về tình thương cứu độ của Chúa, về thánh ý của Ngài nhưng rồi dân chúng cứ như bỏ ngoài tai để chạy theo không biết bao nhiêu là tà thần.
Thư gửi tín hữu Do Thái đã nói cho chúng ta: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng đến thời sau hết là những ngày này, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua Thánh Tử".
Quả thật, có quá nhiều ngôn sứ đã được Chúa sai đến để dạy bảo, để chỉ vẽ cho dân chúng biết con đường để đi theo Chúa nhưng rồi cha ông chúng ta và thậm chí chúng ta đây có nghe lời của các ngôn sứ đâu? Chúa nói quá nhiều, Chúa - vì yêu thương chúng ta - đã quá chăm sóc cho chúng ta nhưng nào chúng ta có chịu nghe Chúa. Những ngày này, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua Thánh Tử, qua Con Chí Ái của Ngài nhưng rồi chúng ta, cha ông chúng ta thời Chúa Giêsu - Con Chí Ái của Thiên Chúa - nhưng cha ông chúng ta và chúng ta có chịu nghe đâu? Nếu chúng ta thật sự nghe theo lời Chúa Giêsu thì cuộc đời của con người, cuộc đời của mỗi người chúng ta đâu có lao đao vất vả như thế này.
Cuộc đời chúng ta, chắc có lẽ phần nào cũng giống như hình ảnh của hai mẹ con nọ mà tôi đã gặp và tôi đã kể ở trên. Những lúc cuộc đời gặp lao đao vất vả, hai mẹ con ấy cũng như chính mỗi người chúng ta đã không biết tìm đến Chúa để mà bám víu. Chúng ta vẫn chạy theo người đời để nghe đủ mọi lời ngon ngọt của người phàm mà quên đi lời của Thiên Chúa. Giả như chúng ta quên thì Thiên Chúa với lòng bao dung của Ngài, Ngài sẽ tha thứ tất cả cho chúng ta nhưng chúng ta lại cố tình quên, đó mới là chuyện đáng nói.
Còn và còn khá nhiều người trong cuộc sống khi gặp gian nan khốn khó đã không chịu tìm đến với Chúa nhưng đã chạy theo tà thần. Khi bị những cơn sóng của cuộc đời xô đẩy, lẽ ra đi tìm đến Chúa nhưng không, lại đi tìm những thầy bói của cuộc đời.
Tôi quen một gia đình nọ. Người em thì hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa, người chị thì ngược lại. Đã hơn một lần người chị rủ người em đi xem bói nhưng người em dứt khoát là không. Người em kể lại chuyện ấy với tôi và bảo rằng chị không bao giờ đi xem bói vì chị không tin. Trong chúng ta cũng có một số người như người chị của người chị mà tôi quen này luôn tìm đến thầy bà để xem vận mạng của mình nhưng nào có ai biết được tương lai phận đời của mình đâu.
Chúng ta vẫn bị giằng co của cuộc đời. Những người bói toán là những con người cùng xác cùng thịt như chúng ta lại có "khả năng" biết được vận mạng, biết được tương lai của chúng ta. Còn Chúa, Chúa với chúng ta hình như nó xa vời vợi làm sao đó để rồi chúng ta không còn tin Chúa nữa mà tin theo người bói toán. Chúa vẫn ở đó, vẫn lặng lẽ để theo dõi, để quan sát, để chở che, để quan phòng chúng ta nhưng chúng ta không chịu nhận ra Ngài đó thôi.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta sáng suốt để nhận ra Chúa chính là cùng đích, là lẽ sống, là nguồn cậy trông của cuộc đời mỗi người chúng ta để rồi giữa những lao đao vất vả của cuộc đời xảy đến chúng ta luôn chạy đến Chúa, bám vào mình Chúa mà thôi.
20. Lời quyền năng cứu độ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hoán cải và tin theo Chúa Giêsu vì Nước Trời gần đến là lời mời gọi của Đấng Thiên sai (x. Mc 1, 14-20). Sứ vụ Thiên sai ấy được tiếp tục thi hành với Lời Quyền Năng Cứu Độ, Lời có sức chữa lành những người bị quỉ ám, khiến cho những người mù được sáng, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng ; mọi người đều ...thán phục; các thần ô uế phải vâng lệnh Người (x. Mc 1, 21-28).
Chiêu mộ các môn đệ xong, Chúa Giêsu cùng với các ông tới Capharnaum. Tại hội đường, nơi cộng đoàn tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và phổ biến Luật cũng như lời các Tiên tri, lần đầu tiên các môn đệ được nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x. Mc 1, 21-22).
Hơn cả luật sĩ
Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có quyền, mọi ánh mắt của những người ngồi đấy đều đổ dồn vào Người, còn thần ô uế thì buộc phải vâng lệnh và xuất ra khỏi người nó ám. Người giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho; cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh Thánh. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, là Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Lời của Chúa Giêsu tương phản với lời giảng dạy của các thầy thông luật (Mc 1, 22). Câu hỏi được đặt ra: Vậy có điều gì mới chăng? Thưa không, Người không dạy điều gì mới mẻ hoặc trái với giáo lý, cũng không mang đến một giáo lý mới. Chính uy nguyền và phong cảnh giảng dạy làm người ta khám phá ra cái mới. Đồng thời, mới, là vì uy quyền của Người trên các thần ô uế: "Chúng vâng lệnh Người "(x. Mc 1, 25-26). Chúa Giêsu không tiếp chuyện, hay tranh luận với thần ô uế. Người đoạn tuyệt đối thoại với chúng. Và ta sẽ thấy câu trả lời vào cuối trình thuật cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giêsu khẳng định: "Người là Chân Lý ".
Hơn một Tiên tri
Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật (Đnl 18, 15-20), chúng ta thấy Môisen được coi là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ; ông là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Ông trung gian cần thiết, vì dân chúng sợ mặc khải trực tiếp từ Thiên Chúa nên họ nói: "Tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết " (Đnl 18, 16).
Và đây là những điều Môisen được biết và công bố. Chúa phán: "Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi " (Đnl 18, 15); Chúa sẽ đặt vào miệng vị đó những lời của Chúa, vị ấy sẽ nói cho dân lệnh Chúa truyền. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Chúa qua miệng người ấy sẽ nói nhân danh Chúa, kẻ ấy sẽ chuốc lấy hậu quả thích đáng, như Chúa quả quyết: "chính Ta, Ta sẽ tính số với nó"(Đnl 18, 19). Từ chối Môisen hay một tiên tri là từ chối chính Chúa.
Dân sẽ mượn miệng ông, giọng nói của ông, để thân thưa với Thiên Chúa. Một cách nào đó, người ấy không thể nói điều gì khác hơn là Lời Thiên Chúa. Cuộc sống của ông là một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.
Qua đoạn sách Đệ Nhị Luật, phụng vụ giúp chúng ta đọc lời nói đầu thể hiện sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, Người hơn cả hơn Môisen: " Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền " (Mc 1,22), Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).
Cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần ô uế
Tiếng thét của người bị thần ô uế ám và dằn vặt, nay được Chúa trừ là tiếng thét hư vô, không có nguồn gốc và không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chạm vào người này, Người cũng không thuyết phục hắn. Người nói chuyện trực tiếp với hắn lúc Lời Chúa bị mắc kẹt trong sa mạc bởi sự dữ, bạo lực và tà thần, mỗi người chúng ta phải thường xuyên kiên trì chiến đấu.
Điều thần ô uế nói trong hội đường như thể nó tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa. Nhưng nó bị Chúa Giêsu quát và bảo: "Hãy im đi!" (Mc 1, 25). Như sách Đệ Nhị Luật đã nói (18, 19) chúng ta phải biết nghe lời Chúa, trong hành động của đức tin, đức cậy để lời ấy có thể triển nở trong ta, đụng chạm đến chúng ta, biến đổi chúng ta và hiệp nhất chúng ta ...
Sự im lặng bắt buộc này có nghĩa là không còn thời gian nữa. Sự viễn mãn tràn đầy thánh thiện và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến nhờ sự chết và phục sinh. Vì Người là " Đấng thánh của Thiên Chúa " (Mc 1, 24).
Đấng Thánh của Thiên Chúa
Việc trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị nó ám được coi như cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần dữ. Thần dữ cố gắng ngăn chặn nguy hiểm: "Có chuyện gì giữa chúng tôi và ông?" (Mc 1, 25) Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" (Mc 1, 25) Cuộc chiến vẫn tiếp tục trong cơn co giật của bệnh nhân đang bị dằn vặt dữ dội và kêu lớn tiếng. Sức mạnh của Chúa Giêsu làm chủ sự dữ là những cái con người đang bị nắm giữ với lo âu sợ hãi và tự hỏi, "Điều này có nghĩa là gì? " (Mc 1, 27).
Giờ đây, bức màn che dậy được vén lên, mầu nhiệm của Chúa Giêsu và "bí mật" của Người hé mở: Đây là một giáo lý mới! Có thể đây là thời thiên sai mới chăng? Chúa Giêsu có thật là Đấng Mêsia không? Người truyền cho các thần ô uế và chúng vâng theo; chứng tỏ Người mạnh hơn Sự dữ. Nhưng chính ma quỉ nhập nhằng khi tỏ lộ về thân thế Chúa Giêsu: Người là Đấng Thánh, Đấng Thánh của Thiên Chúa! (Mc 1, 24) Thánh là thuộc tính của chính Thiên Chúa. Chúa bắt nó: "Im đi! " (Mc 1, 25). Còn đám đông dân chúng thì vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận, nên kinh ngạc.
Chúng ta cũng thế, khi ta hoang mang về sự sinh tồn của mỗi chúng ta, và thấy các cuộc chiến giữa Sự Thiện và Sự Ác xảy quanh ta và trong chúng ta, chúng ta tự đặt câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với cá nhân tôi và toàn thể nhân loại?
Đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến không ngừng chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ. Để được như thế, chúng ta thành tâm nguyện xin mỗi ngày: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ" (Kinh Lạy Cha). Amen.
21. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
CHÚA QUYỀN NĂNG, VÌ CHÚA LÀ ĐẤNG THÁNH
Nếu như Chúa nhật III Thường niên, Đức Giêsu đã kêu gọi người ta theo Chúa, hoán cải vì Nước Trời gần đến (x. Mc 1, 14-20). Bước sang Chúa nhật IV, Sứ vụ Thiên sai tiếp tục được thi hành. Người chữa lành những người bị quỉ ám, nhưng Lời Người là Chân lý, nên được lan truyền khắp mọi nơi một cách nhanh chóng, khiến cho những người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng; mọi người đều...thán phục Người; các thần ô uế phải vâng lệnh (x. Mc 1, 21-28).
Chiêu mộ các môn đệ xong, Chúa Giêsu cùng với các ông tới Capharnaum. Tại hội đường, nơi cộng đoàn tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và phổ biến Luật cũng như lời các Tiên tri, lần đầu tiên các môn đệ được nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x. Mc 1, 21-22).
Hơn cả luật sĩ
Lúc ấy Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có quyền, mọi ánh mắt của những người có mặt ở đó đổ dồn vào Người, còn thần ô uế thì buộc phải vâng lệnh và xuất ra khỏi người nó ám. Giáo huấn của Chúa Giêsu tương phản với lời giảng dạy của các thầy thông luật, dù họ chuyên về Kinh Thánh (Mc 1, 22).
Điều gì mới chăng? Thưa không, Người không dạy điều gì mới mẻ hoặc trái với giáo lý, cũng không mang đến một giáo lý mới. Chính uy nguyền và phong cảnh giảng dạy làm người ta khám phá ra cái mới. Đồng thời, mới, là vì uy quyền của Người trên các thần ô uế: "Chúng vâng lệnh Người "(x. Mc 1, 25-26). Chúa Giêsu không tiếp chuyện, hay tranh luận với thần ô uế. Người đoạn tuyệt đối thoại với chúng. Và ta sẽ thấy câu trả lời vào cuối trình thuật cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giêsu khẳng định: "Người là Chân Lý".
Hơn một Tiên tri
Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật (Đnl 18, 15-20), chúng ta thấy Môisen được coi là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ; ông là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Ông trung gian cần thiết, vì dân chúng sợ mặc khải trực tiếp từ Thiên Chúa nên họ nói: "Tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết " (Đnl 18, 16).
Và đây là những điều Môisen được biết và công bố. Chúa phán: "Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi" (Đnl 18, 15); Chúa sẽ đặt vào miệng vị đó những lời của Chúa, vị ấy sẽ nói cho dân lệnh Chúa truyền. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Chúa qua miệng người ấy sẽ nói nhân danh Chúa, kẻ ấy sẽ chuốc lấy hậu quả thích đáng, như Chúa quả quyết: "chính Ta, Ta sẽ tính số với nó" (Đnl 18, 19). Từ chối Môisen hay một tiên tri là từ chối chính Chúa.
Dân sẽ mượn miệng ông, giọng nói của ông, để thân thưa với Thiên Chúa. Một cách nào đó, người ấy không thể nói điều gì khác hơn là Lời Thiên Chúa. Cuộc sống của ông là một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.
Qua đoạn sách Đệ Nhị Luật, phụng vụ giúp chúng ta đọc lời nói đầu thể hiện sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, Người hơn cả hơn Môisen: " Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền " (Mc 1,22), Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).
Cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần ô uế
Tiếng thét của người bị thần ô uế ám và dằn vặt, nay được Chúa trừ là tiếng thét hư vô, không có nguồn gốc và không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chạm vào người này, Người cũng không thuyết phục hắn. Người nói chuyện trực tiếp với hắn lúc Lời Chúa bị mắc kẹt trong sa mạc bởi sự dữ, bạo lực và tà thần, mỗi người chúng ta phải thường xuyên kiên trì chiến đấu.
Điều thần ô uế nói trong hội đường như thể nó tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa. Nhưng nó bị Chúa Giêsu quát và bảo: "Hãy im đi!" (Mc 1, 25). Như sách Đệ Nhị Luật đã nói (18, 19) chúng ta phải biết nghe lời Chúa, trong hành động của đức tin, đức cậy để lời ấy có thể triển nở trong ta, đụng chạm đến chúng ta, biến đổi chúng ta và hiệp nhất chúng ta...
Sự im lặng bắt buộc này có nghĩa là không còn thời gian nữa. Sự viễn mãn tràn đầy thánh thiện và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến nhờ sự chết và phục sinh. Vì Người là "Đấng thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).
Đấng Thánh của Thiên Chúa
Việc trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị nó ám được coi như cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần dữ. Thần dữ cố gắng ngăn chặn nguy hiểm: "Có chuyện gì giữa chúng tôi và ông?" (Mc 1, 25) Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" (Mc 1, 25) Cuộc chiến vẫn tiếp tục trong cơn co giật của bệnh nhân đang bị dằn vặt dữ dội và kêu lớn tiếng. Sức mạnh của Chúa Giêsu làm chủ sự dữ là những cái con người đang bị nắm giữ với lo âu sợ hãi và tự hỏi, "Điều này có nghĩa là gì?" (Mc 1, 27).
Giờ đây, bức màn che dậy được vén lên, mầu nhiệm của Chúa Giêsu và "bí mật" của Người hé mở: Đây là một giáo lý mới! Có thể đây là thời thiên sai mới chăng? Chúa Giêsu có thật là Đấng Mêsia không? Người truyền cho các thần ô uế và chúng vâng theo; chứng tỏ Người mạnh hơn Sự dữ. Nhưng chính ma quỉ nhập nhằng khi tỏ lộ về thân thế Chúa Giêsu: Người là Đấng Thánh, Đấng Thánh của Thiên Chúa! (Mc 1,24) Thánh là thuộc tính của chính Thiên Chúa. Chúa bắt nó: "Im đi!" (Mc 1,25). Còn đám đông dân chúng thì vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận, nên kinh ngạc.
Chúng ta cũng thế, khi ta hoang mang về sự sinh tồn của mỗi chúng ta, và thấy các cuộc chiến giữa Sự Thiện và Sự Ác xảy quanh ta và trong chúng ta, chúng ta tự đặt câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với cá nhân tôi và toàn thể nhân loại?
Đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến không ngừng chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ. Để được như thế, chúng ta thành tâm nguyện xin mỗi ngày: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ" (Kinh Lạy Cha). Amen.
22. Bóng tối
Khi còn học ở Chủng Viện, tôi vẫn còn nho như in những bài tu đức đã được các cha giáo dạy dỗ, phải chấp nhận "đau" để biến đổi thành người tốt. Chứ không chịu hy sinh không chịu "đau" thì không thể trở thành người hữu ích, trở thành người mục tử tốt. Ngài lấy ví dụ việc uốn nắn con người cũng giống như uốn nắn một cây kiểng vậy. Người ta cần phải cắt, tỉa để nó mới trở thành một cây kiểng hữu dụng, cây kiểng đẹp được nhiều người thích, nếu không thì nó chỉ giống như cây rừng đáng cho người ta quang vào lửa mà thôi.
Mặc dầu tất cả chúng tôi đều biết điều đó, nhưng nhiều lúc chúng tôi cũng chỉ sống như Phaolô cảm nghiệm: "Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm" (Rm 7,15) hay "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm" (Rm 7,19). Đúng là bóng tối thì luôn ghét ánh sáng. Và khi ánh sáng thâm nhập thì nó lại luôn muốn chống đối và xa cách không chịu sửa đổi. Vì vậy khi Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum, một người bị thần ô uế nhập la lên "Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi liên can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?". Như vậy có thể hiêu câu nói của người đàn ông đó là "Hãy để mặc tôi! Tôi không phải là người tốt lành, tôi là kẻ dữ, tôi không xứng đáng được yêu thương hoặc săn sóc, tôi không muốn được Ngài biến đổi tôi".
Lời từ chối đó cũng là chuyện thường tình, vì "bóng tối" thì luôn sợ "ánh sáng" xâm chiếm, vì mỗi sự biến đổi là một sự đau đớn. Đã có những cảm nghiệm về tác hại của bóng tối, và sự nguy hiểm của nó làm cho chúng ta không thể lớn lên được. Chính điều này đã được cảm nghiệm thật xâu sắc nơi Đức Giám Mục GB. Bùi Tuần, ngài đã chia sẻ như sau: Cuộc đời của tôi được soi sáng bởi Lời Chúa: "Thầy là ánh sáng đến trong thế gian. Bất cứ ai tin vào Thầy, thì sẽ không ở lại không bóng tối" (Ga 12,46). Nhưng không phải vì thế mà tôi đã luôn tránh được những bóng tối. Trái lại, bóng tối vẫn chen vào cuộc đời tôi. Xung đột giữa ánh sáng và bóng tối diễn ra thường xuyên gay gắt.
Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ đôi chút về các thứ bóng tối mà tôi phải đối phó.
Chia sẻ của tôi dựa vào kinh nghiệm bản thân nhiều hơn là lý thuyết.
Có ba loại bóng tối đáng để ý thường ảnh hưởng đến đời sống đạo.
1/ Bóng tối cá nhân
Bóng tối nói đây gồm mọi thứ tiêu cực trong mỗi người. Như tính hẹp hòi, thiếu hiểu biết về Lời Chúa, thiếu học hỏi về lịch sử Hội Thánh, lịch sử dân tộc, lịch sử thế giới. Thiếu cái nhìn đầy đủ về thời sự. Thiếu nghiên cứu đúng đắn về những môn khoa có liên quan đến đạo. Thiếu khách quan trong những phán đoán. Nhất là đầy định kiến, thiếu khát khao đi tìm sự thực đạo đức.
Mới rồi, tôi nghe người ta thuật lại phát biểu của một tín hữu: "Làng tao có hai thằng đã được phong thánh. Ai dám coi thường quê tao là sẽ đụng đến tính anh hùng truyền thống của quê tao. Sẽ có chết đấy". Tôi nghe mà rợn tóc gáy, vì nhìn thấy bóng tối cá nhân đó đáng ghê sợ, có khả năng làm méo mó sự thánh thiện của các thánh trong đạo chúng ta.
Trên thực tế, không thiếu người có đạo đã có những chọn lựa, phán đoán và hiểu biết sai lầm, do những bóng tối cá nhân của mình che khuất sự thực và thánh ý Chúa.
Phúc Âm kể nhiều trường hợp như thế. Thí dụ khi các ông Pharisêu trách Chúa Giêsu đã để các môn đệ Người bứt lúa mà ăn cho đỡ đói, Chúa Giêsu đã trả lời: "Tôi muốn lòng nhân từ chứ đâu cần của lễ" (Mt 12,7). Với lời đó, Chúa Giêsu đã vạch rõ định kiến của giới Pharisêu, tuy có vẻ đạo đức, nhưng thực sự đó là bóng tối.
2/ Bóng tối tập thể
Bóng tối chung của tập thể thường thấy ở các dư luận và lối sống của những tập thể, những nhóm, những giai cấp, những địa phương.
Một ví dụ rất biểu tượng, đó là những lời kết án Chúa Giêsu của tập thể dân chúng trước quan Philatô. Phúc Âm kể: "Ông Philatô hỏi: Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do Thái? Họ liền la lên: Đóng đinh nó vào thập giá! Ông Philatô lại hỏi: Nhưng ông ấy có làm điều gì gian ác đâu. Họ càng la to: Đóng đinh nó vào thập giá" (Mc 15,12-14).
Lời kết án đó đúng là một bóng tối dày đặc che phủ tập thể. Bóng tối đó được tạo nên do kích động bởi các tư tế.
Tôi thấy dư luận và ý kiến tập thể có nhiều điều tốt, nhưng, như trường hợp trên đây, nó cũng có nhiều sai trái.
Hiện nay, bóng tối tập thể trong đạo đang phát triển mạnh. Có những nước công giáo trước đây đã nêu gương tốt về giữ đạo và truyền giáo. Nay bóng tối đã phủ khắp. Có vùng việc bỏ lễ Chúa nhật, việc ly dị, trở thành bình thường. Có những tổ chức tu trì xưa nêu gương sáng về đức khó nghèo, nay bóng tối đã dày đặc. Khó nghèo trở thành khó mà nghèo.
3/ Bóng tối cơ chế
Bóng tối cơ chế là những xuống cấp do chính luật của cơ chế, hoặc do những lệnh và gương xấu của những bề trên cơ chế.
Chúa Giêsu nhiều lần đã nói tới bóng tối trong cơ chế hồi đó. Thí dụ lời Người nói sau đây: "Anh em biết: Những người được coi là thủ lĩnh các dân, thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy. Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,42-45).
Trên đây là cơ chế, mà Chúa Giêsu muốn được thiết lập trong đạo của Người. Ý muốn đó của Chúa đã và đang được thực hiện tại nhiều nơi trong Hội Thánh. Tuy nhiên, cũng phải thành thực nhìn nhận có những cơ chế không còn toả sáng nữa, nhưng đã trở thành mù mịt bởi nhiều bóng tối.
Trong một số cơ chế đạo, những người đứng đầu đã trở thành một thứ vua chúa, nắm quyền lực, hãnh diện vì được phục vụ và hưởng thụ còn hơn là người đứng đầu cơ chế thế gian.
Trên đây là một thoáng nhìn về những bóng tối trong cuộc sống đạo. Những bóng tối ấy đang ảnh hưởng mạnh đến các lựa chọn của chúng ta giữa chợ đời.
Ai sẽ cứu chúng ta khỏi sự thống trị của các bóng tối ác nghiệt đó? Ai sẽ giúp chúng ta chiến đấu với những bóng tối quỷ quyệt và hung dữ đó? Thưa: Chúa Giêsu. Hãy tin vào lời Người hứa:
"Thầy là ánh sáng đến trong thế gian. Bất cứ ai tin vào Thầy, thì sẽ không ở lại trong bóng tối" (Ga 12,46).
Lạy Chúa, xin cho con dám can đảm từ bỏ những u mê cám dỗ, xa cách những bóng dêm quỷ quyệt của ma quỷ. Biết chấp nhận Aùnh Sáng Chúa Kitô để làm ngọn đèn soi dẫn đời sống chúng con. Amen.
23. Uy quyền – Lm. Vũ Đình Tường
So sánh khác biệt
Đám đông nghe Đức Kitô giảng giải và họ xì xào, bàn tán với nhau. Ngài là ai mà 'Giáo lí thì mới mẻ và người dạy lại có quyền' c.27. Người ta không thể so sánh nếu không biết. Như thế đám đông so sánh với lời giảng của ai? Thưa đó chính là giáo huấn của các Kinh Sư. Các vị này thường dựa vào luật lệ và truyền thống để buộc tín hữu giữ luật hết sức nghiêm ngặt. Đức Kitô vạch ra sai lầm của họ khi họ đặt truyền thống trên Lời Chúa:
Các ông lấy truyền thống đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời của Thiên Chúa Mk 7,13
Các Kinh Sư và Luật Sĩ còn buộc người ta nhiều luật lệ khắt khe. Đức Kitô mô tả họ là những kẻ giả hình vì họ chất những ánh nặng trên vai người ta còn chính họ lại sống ngoài luật lệ, không tuân giữ lề luật Mt 23.
Giáo huấn của thánh Gioan Tiền Hô đưa ra đã mới và giáo huấn của Đức Kitô còn mới hơn. Gioan Tiền Hô kêu gọi thống hối và lời kêu gọi của Gioan kèm theo đe doạ và hình phạt; trong khi giáo huấn của Đức Kitô kêu gọi 'thống hối và tin vào Tin Mừng' mà không kèm theo đe dọa cũng không phải thống hối rập khuôn theo nguyên tắc lề luật truyền lại.
Mới mẻ
Thưa mới mẻ bởi Đức Kitô dậy từ sự khôn ngoan của riêng cá nhân Ngài. Kinh Thánh có lần nhắc rõ thời ẩn dật Đức Kitô
‘ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa Lc 2,40
Lời giảng dậy mới mẻ đến độ thính giả nghe đầy kinh ngạc lên tiếng hỏi nhau:
Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là làm sao? Mc 6,2
Lời giảng mới mẻ bởi giáo huấn của Ngài cởi trói, giải thoát họ khỏi bị luật lệ ràng buộc chặt chẽ đến độ con người trở thành nô lệ cho lề luật. Giáo huấn của Đức Kitô làm cho việc tôn thờ Thiên Chúa trở nên nhẹ nhàng, vui thích, chứ không bị bó buộc như xưa. Giáo huấn của Đức Kitô mới mẻ khai sáng họ nhận biết Thiên Chúa là Đấng từ bi và thương xót. Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn, xoá tan mọi lỗi bất trung, bất tín họ phạm; lòng Chúa xót thương vô bờ và lượng từ bi Chúa dành cho tất cả, không loại trừ ai. Đây là những điều mới mẻ.
Uy quyền ra sao?
Đức Kitô dậy có uy quyền bởi Ngài là Con Thiên Chúa và mặc khải một Thiên Chúa uy quyền nhưng rất mực yêu thương. Các Kinh Sư và Luật Sĩ cũng như Biệt Phái rất muốn tìm cơ hội bắt Đức Kitô nhưng lại sợ uy quyền Ngài. Giáo huấn theo truyền thống và nhờ vào uy quyền truyền thống để áp dụng luật; Đức Kitô không dựa vào truyền thống nhưng dựa vào tình yêu Thiên Chúa để giảng dậy. Chính Đức Kitô xác định điều này khi Thượng Tế và Kinh Sư chất vấn quyền của Ngài. Khi chữa lành người bệnh liệt giường Đức Kitô cho biết uy quyền của Ngài không nhắm vào trói buộc, ra hình phạt nhưng chú trọng vào tha thứ, ân xá và hoà giải một khi chấp nhận hoán cải.
Để các ông biết, ở dưới đất này Con Người có quyền tha tội. Đức Kitô bảo người bại liệt: Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà’ Mk 2,11
Đức Kitô có quyền xoá bỏ tội lỗi ta. Ngài có quyền trên quỷ ô uế và thần dữ bắt chúng vâng phục. Ngài ra lệnh cho chúng và chúng sợ hãi la lớn tiếng: Tôi biết ông là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa. (Mc 1,24)
Một uy quyền khác cho biết Đức Kitô có toàn quyền trên thế giới thiên nhiên khi các tông đồ sợ hãi thuyền chìm giữa biển vì sóng to, gió lớn. Họ kêu cầu và Ngài truyền lệnh cho sóng gió bão bùng ngưng lại.
Điều giảng dậy thì mới mẻ cộng với quy quyền không phải cho Đức Kitô mà cho chúng ta, cho nhân loại.
24. Cho phép – Lm. Vũ Đình Tường
Khi nghe đồn thổi có phép lạ người ta rủ nhau đến người thì xem cho biết, kẻ thì đến xin ơn riêng cho chính mình hoặc cho gia đình. Thế mới rõ nhu cầu vật chất dư thừa nhưng đói khát tâm linh. Con người có khả năng sáng chế ra đủ thứ mang lại tiện nghi cho cuộc sống nhưng tiện nghi không mấy hỗ trợ cho thiếu thốn tinh thần. Họ vẫn cần ơn lạ. Có một loại phép lạ xảy ra cho mọi lứa tuổi, mọi thành phần. Loại phép lạ này đôi khi gây ngạc nhiên cho người nghe. Lạ ở điểm người đó không có phép nhưng lại thích ban phép. Cho những gì mình không có mà vẫn muốn cho và đòi cho bằng được. Điểm đó mới là lạ, lạ hơn cả phép lạ.
Ai cũng biết gia đình có phép tắc gia đình; làng có phép làng; nước có phép nước. Nhưng không phải ai cũng có thẩm quyền cho các phép đó mà chỉ những ai được trao trách nhiệm mới có quyền. Trên thực tế có rất nhiều trường hợp con người lạm dụng quyền hạn đến mức khó lường. Người có ưu thế đều tự ban cho mình quyền cho phép người làm việc này; cấm người kia làm việc nọ. Người ta lạm quyền ngay cả cho Đức Kitô.
Đức Kitô vào trong đền thờ giảng dậy, Người xua đuổi quỉ ra khỏi một người bị quỉ ám lâu năm. Ma quỉ kinh sợ, hét lên. Hỡi ông Giêsu, ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao. Chúng tôi biết ông là Con Đấng Tối Cao. Nhưng Đức Kitô cấm không cho chúng nói về Ngài.
Khi làm điều này Ngài tỏ ra là Đấng có thẩm quyền trên cả ma quỷ. Quyền này không phải chỉ thể hiện qua lời nói suông mà quyền đó được thể hiện bằng việc làm cụ thể. Trước mặt, không phải một nhóm nhỏ mà là đám đông dân chúng. Ngài ra lệnh và ma quỉ phải phục tùng. Thứ nhất ma quỷ vâng lời Ngài ra khỏi người kia mà không làm hại người đó. Thứ hai ma quỷ phải câm miệng, không được nói về Thiên Chúa, kể cả ca tụng hay nói điều tốt lành, cũng không được phép. Điều này cho thấy không phải bất cứ ai có kiến thức về Thiên Chúa đều có quyền nói về Ngài. Không phải như thế. Quyền rao giảng về Thiên Chúa dành riêng cho những ai dù không thuộc về Thiên Chúa, nhưng nếu yêu mến Thiên Chúa, mới có quyền nói về Thiên Chúa, rao giảng về nước Thiên Chúa. Bất cứ ai, dù ở bất cứ ngành nghề, giai cấp nào trong xã hội, một khi không yêu mến Thiên Chúa đều không có quyền nói về Thiên Chúa. Tiếng nói của họ là tiếng nói của kẻ lạm quyền, dù quyền đó không có nhưng vẫn lạm quyền. Đức Kitô ngăn cấm ma quỉ khi chúng nói về Ngài vì trong chúng không có tình yêu mến Thiên Chúa. Ma quỉ sợ Ngài nên nghe lệnh Ngài, người ta trái lại tự cho mình quyền không biết kính sợ Thiên Chúa nên nói về Ngài với lòng khinh dể, nhạo báng.
Không có lòng yêu mến Thiên Chúa thì không được phép nói về Ngài, ngay cả nói những điều tốt lành về Ngài cũng không được phép, nói chi đến những bài báo bài xích tôn giáo, chê trách Giáo Hội và công khai phỉ báng những người giao giảng Tin Mừng. Những loan tin nhằm bài xích, cách li, chia rẽ, đáng lừa công luận nhằm mục đích tuyên truyền không thể nào đến từ lòng yêu mến Thiên Chúa.
Đám đông dân chúng, trái lại, với lòng thành họ nghe Ngài giảng dậy thì tỏ lòng yêu mến, thể hiện thái độ thần phục, tâm phục, khẩu phục và thành tâm loan truyền niềm vui họ nhận được. Họ nói với nhau giáo lí của Ngài thì mới mẻ và Ngài giảng dậy như Đấng có quyền năng. Rõ ràng, sự thật là vậy. Ngài là Đấng có quyền, Ngài giảng dậy với quyền năng, quyền đó đến ngay cả ma quỉ còn phải thốt lên một sự thật - Ngài là Con Thiên Chúa.
Bài Phúc âm hôm nay nhóm chống đối Đức Kitô không dám lên tiếng vì sợ đám đông. Họ thầm bàn tán với nhau tại sao ông Giêsu lại làm việc này trong ngày Sabbath là ngày cấm làm việc. Việc ông ta phạm tội, lỗi luật ngày Sabbath không phải tại nơi đầu đường xó chợ, hay tư gia, chỗ kín đáo mà lại công khai phạm tội ngay giữa đền thờ là nơi thờ phượng. Điều này không thể bỏ qua, không thể tha thứ mà phải trừng trị đích đáng. Họ đã âm thầm họp kín với nhau để khi cơ hội thuận tiện ra tay như chúng ta biết sau này họ đã kết án Ngài về tội không giữ luật ngày hưu lễ.
Chúng ta cầu xin biết sống và rao giảng lời Chúa với tâm tình yêu mến. Đặc quyền này dành riêng cho người tôn kính, yêu mến Thiên Chúa.
25. Vác đời - Trầm Thiên Thu
VÌ MẾN TIN CÙNG CHÚA ÔM THẬP GIÁ
BỞI LẦM LỖI TỰ MÌNH VÁC CUỘC ĐỜI
Một định luật bất biến đã được chính Chúa Giêsu minh định: “Ai muốn theo Tôi, phải TỪ BỎ chính mình, VÁC thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Hai động từ với hai hành động trái ngược: Bỏ cái này để lấy cái kia. Nghe chừng rất đơn giản nhưng lại khá nhiêu khê! Tuy nhiên, theo Chúa là hành động tiên quyết mà mỗi người Kitô giáo phải thực hiện mọi ngày trong suốt cuộc đời mình. Nhưng cái gì cũng có điều kiện nhất định!
Cuộc sống không hề đơn giản, tức là khó và phải nỗ lực không ngừng, nhưng con người không phải cố gắng chiến đấu một mình. Kinh Thánh cho biết: “Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em, hãy nghe vị ấy” (Ðnl 18:15). Đó là người được sai đi, chấp nhận lời sai đó tức là chấp nhận bước theo Chúa, đi theo thì phải hành động tích cực, không thể thụ động.
Và Ngài còn động viên: “Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta thì chính Ta sẽ hạch tội nó” (Ðnl 18:18-19). Ngài không hề hù dọa, mà đó chính là công lý và công bình. Mỗi người đều có trách nhiệm rao truyền và làm chứng nhân của Thiên Chúa. Trách nhiệm thì phải làm, không làm thì có tội. Thật vậy, chính Ngài đã cảnh báo: “Ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói thì ngôn sứ đó phải chết” (Ðnl 18:20).
Thánh Vịnh gia tha thiết mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2). Không chỉ vậy, chúng ta còn phải “cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên chúng ta, vì chính Người là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ, là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95:6). Đặc biệt và cấp bách hơn: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa, đừng cứng lòng!” (Tv 95:7-8). Thời điểm là hiện tại, không phải là quá khứ hoặc tương lai. Đó là lời cảnh báo nhưng cũng chính là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, bởi vì Ngài vẫn kiên trì chờ đợi chúng ta trở về, cứ hết ngày dài lại qua đêm thâu.
Cuộc sống có nhiều thứ khiến chúng ta lo lắng, thế nên phải biết khéo léo buông hoặc giữ cái gì để giữ cân bằng tâm sinh lý. Một trong nhiều cách đó là tạo “khoảng riêng” để tách mình ra khỏi cuộc đời xô bồ. Chắc chắn “khoảng sa mạc” trong tâm hồn rất cần thiết để có thể lắng nghe Tiếng Chúa. Thánh Phaolô đã nói rõ: “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì” (1 Cr 7:32). Với nguyên nhân và mục đích rất cụ thể: “Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1 Cr 7:33-34). Đó là hai cách thức khác nhau mà mỗi người có quyền tự do chọn lựa – bỏ cái này để lấy cái khác, chỉ có thể chọn một trong hai.
Khi nghe nói vậy, chắc chắn người đời không thể tin và không thể chấp nhận với tầm nhìn của phàm nhân bình thường, bởi vì những điều đó “không bình thường” chút nào và rất “ngược đời”, phải có tầm nhìn của đức tin mới khả dĩ chấp nhận mà hành động. Thánh Phaolô biết đó là những điều “khó nghe” mà lại rất thật, cho nên ông phân trần: “Tôi nói thế là để mong tìm ÍCH LỢI CHO ANH CHỊ EM, tôi không có ý GÀI BẪY anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em ĐƯỢC GẮN BÓ CÙNG CHÚA mà không bị giằng co” (1 Cr 7:35). Và đó cũng là lời động viên dành cho mỗi chúng ta.
Cuộc sống vốn dĩ nhiêu khê nên luôn có những điều khó chọn lựa. Có lần Chúa Giêsu đã phân tích: “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Lc 6:45). Lần khác, Ngài lại xác định: “Kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Lc 12:34). Theo nghĩa bình thường, kho tàng là tiền bạc, của cải hoặc vật chất, là những gì mình sở hữu. Cũng chính “kho tàng” đó có thể là chướng ngại vật trên hành trình theo Chúa. Điển hình là thanh niên nọ đến hỏi Chúa Giêsu về cách trở nên hoàn thiện, Chúa Giêsu bảo về bán tài sản và cho người nghèo, anh ta nghe vậy thì buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mt 19:16-22; Mc 10:17-22; Lc 18:18-23).
Quả thật, sức hấp dẫn của vật chất rất mạnh, mạnh đến nỗi người ta gọi đó là ma lực. Người ta gọi thần tiền bạc là “thần tài”. Vật chất là một loại “thần” – thường mang nghĩa không tốt, vì nó có thể khiến người ta mê muội, mù quáng, mất cả nhân tính mà trở thành mưu mô và độc ác. Hàng ngày vẫn có nhiều vụ giết người dã man để cướp của đã xảy ra. Các “thần xấu” đó là các loại thần ô uế làm “biến chất” con người từ ngoài vào trong.
Rất nhiều vụ án dã man đã và đang xảy ra nơi này hoặc nơi kia, thậm chí có những vụ giết người cướp của đã xảy ra ngay trong các mối quan hệ ruột thịt gia đình. Những kẻ thủ ác là những người thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, có kẻ vẫn còn ở độ tuổi thiếu niên, và chuyện xích mích đôi khi chỉ là chuyện nhỏ, đúng như người ta nói “có bé xé ra to” hoặc “có ít xít ra nhiều”. Điều đó cho thấy rằng lòng người ta rất nhỏ mọn và luôn có “lửa” oán thù, chỉ cần chút gió là nó cháy bùng lên ngay. Thật là kinh khủng quá!
Trình thuật Mc 1:21-28 (Lc 4:31-37) đề cập sự đối đầu giữa Thiện và Ác, giữa Chúa Giêsu và thần ô uế. Một hôm nọ, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập, người này “chịu không nổi” nên đã phải la to: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1:24). Mắt phàm nhân chưa nhận ra nhưng “thần ô uế” đã nhận ra Chúa Giêsu là ai. Tuy nhiên, Ngài liền quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (Mc 1:25).
Chắc chắn ma quỷ không hề muốn ra khỏi “lãnh địa” mà nó đang chiếm giữ, thế nhưng nó vẫn phải tuân lệnh Chúa Giêsu. Rõ ràng Chúa Giêsu có quyền trên mọi thứ và mọi loài, cả hữu hình và vô hình. Ma quỷ không muốn quy phục Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa nhưng nó vẫn phải vâng lời, thậm chí nó còn phải trình diện Ngài (G 2:1). Nó có thể làm hại người ta nhưng nó “phải tôn trọng mạng sống” của người khác – cụ thể là trường hợp của ông Gióp (G 2:6).
Ngay sau khi “thần ô uế” xuất ra khỏi người kia, mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mc 1:27-28). Giáo lý mới mẻ và người dạy có uy, lạ lùng lắm, xưa nay chưa hề thấy có ai làm được như vậy. Những người chứng kiến đã nhận xét như vậy thì kể ra cũng lạ thật, nhưng cũng thật đáng khen vì họ có thể mau chóng tiếp thu được cái “mới mẻ” đó. Cuộc sống rất cần tinh thần phục thiện và dễ thích nghi như vậy. Đó cũng là một cách biết bỏ cái không cần thiết để nhận lấy cái cần thiết – đặc biệt là khi “cái cần thiết” đó lại không vừa ý mình.
Điều-cần-thiết-mà-trái-ý-mình chính là “vác thập giá hàng ngày”, điều mà Chúa Giêsu luôn khuyến khích. Ngài có cách động viên cũng chẳng giống ai, rất độc đáo. Thật vậy, C. S. Lewis đã nhận định thế này: “Thiên Chúa thì thầm với chúng ta khi chúng ta vui, nhưng Ngài nói to trong lương tâm của chúng ta khi chúng ta đau khổ”. Đúng là “đầu óc bã đậu” của chúng ta không thể nào hiểu nổi, và cũng chẳng bao giờ hiểu thấu, bởi vì chính Thiên Chúa đã xác định: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:9).
Lạy Thiên Chúa là dũng lực của con, xin ban Thần Khí Chúa để con khả dĩ chân nhận Tiếng Chúa trong chính cuộc đời con, xin giúp con mau mắn bước theo Ngài và can đảm hành động đúng Tôn Ý Ngài trong mọi hoàn cảnh sống. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
26. Sức mạnh Lời Chúa
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi)
Cụ già mù lòa ngồi ăn xin bên đường, ông ta chờ người qua lại bố thí cho những đồng xu để kiếm sống qua ngày, và ông ghi trên một tờ giấy với dòng chữ như sau: “ Tôi bị mù lòa, xin vui lòng giúp đỡ tôi”. Thế nhưng, chẳng ai thèm nhìn ngó và động lòng bố thí cho ông. Một cô gái xinh đẹp đi ngang qua, cô ta nhìn thấy ông ta vẫn chưa có đồng xu nào trong cái lon, cô gái thấy thương cho ông lão. Thế là cô ngồi xuống và viết lại thành một dòng chữ khác: “ Bầu trời hôm nay rất đẹp lắm, nhưng mắt tôi không thể nhìn thấy”. Khi cô gái bỏ đi, thì có nhiều người qua đường nhìn thấy dòng chữ này họ đã cảm thương và bố thí tiền cho cụ.
Thông điệp của cô gái viết rất đơn giản, nhưng nó đã làm thay đổi cõi lòng của nhiều người qua đường. Sức mạnh của ngôn từ thật là kỳ diệu, nó có thể làm thay đổi lòng người và thế giới xung quanh, giống như là một phép lạ dành cho ông lão ăn xin. Ông ta luôn tin vào lòng quảng đại của con người và tin vào cuộc sống. Nếu chúng ta dành chút thời gian trong ngày để thinh lặng và cầu nguyện, thì Lời Chúa có thể làm tan chảy cõi lòng cứng cỏi, chay lỳ của chúng ta. Lời Chúa có sức mạnh làm biến đổi lòng người. Mọi người đều sững sờ đến nỗi họ phải bàn tán với nhau: " Thế nghĩa là gì? Lời dạy thì mới mẻ, Người dạy có uy quyền. Ngài đã ra lệnh cho các thần ô uế phải tuân theo".
Khi nói đến phép lạ và quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống đời thường, thì chúng ta dễ đi đến một thái độ hồ nghi và miễn cưỡng. Chúng ta chỉ chấp nhận những gì hiện hữu và nhìn thấy bằng con mắt xác thịt, bằng những thứ mà chúng ta đang có và chiếm hữu nó ở trần gian này. Trong khi đó, phép lạ là một mầu nhiệm khởi đi từ đức tin. Không chỉ con người ngay nay hoài nghi về quyền năng của Chúa mà ngay cả người Do thái ngày xưa đi theo Chúa Giê-su. Nhưng khi Chúa cho thần ô uế xuất khỏi người này, thì họ ngạc nhiên và thán phục.
Và ngày hôm nay cũng thế, chúng ta có thể nghe Lời Chúa rất nhiều, nhưng hạt giống Lời Chúa chưa thực sự được lớn lên trong cõi lòng chúng ta, bởi các thần ô uế đang ngự trị nơi sâu thẳm cõi lòng chúng ta với ganh đua, hận thù, gian ác, lọc lừa, giả dối, hơn thua, dục vọng...thì Lời Chúa đang bị chết nghẹt và không đơm hoa kết trái được. Chúng ta không còn nghe được tiếng nói lương tâm để thức tỉnh và ngạc nhiên phép lạ đang xẩy ra trong đời sống thường ngày. Con mắt chúng ta đang bị mù, nhưng cứ tưởng mình sáng. Trái tim ta đang chết dần, nhưng tưởng mình sống mạnh mẽ. Tất cả là trò chơi giả dối của Satan đang hoạt động trong mỗi người và trong thế gian này.
Lạy Chúa, Ngài cho con có đôi tai để lắng nghe Lời Chúa, và cho con có trái tim biết rung động và xót thương, họ là những cụ già ăn xin bên đường, những trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, những người đang mang căn bệnh cần được chăm sóc và an ủi, những người già nua ốm đau bệnh tật, những người đang gặp thử thách, đau khổ, thất nghiệp và nghèo khổ, thì Lời Chúa là sức mạnh, là ngọn đèn soi bước chân con. Amen.
27. Chuyện lạ - Trầm Thiên Thu
Cuộc sống hàng ngày trôi đi có vẻ rất bình thường, thế nhưng vẫn có nhiều chuyện lạ với nhiều mức độ khác nhau. Cái gì lạ cũng khiến người ta tò mò vì trong con người luôn có tính hiếu kỳ. Cũng vì lợi dụng tính hiếu kỳ của con người mà có những kẻ xấu đồn thổi những chuyện không đâu nhằm lừa bịp. Nhẹ dạ cả tin thì “chết” thôi!
Tuy nhiên, có những thứ thực sự kỳ lạ thì người ta lại không để ý, vì cứ cho rằng đó là “tự nhiên”. Thật ra đó là một phép lạ lớn lao, lớn lắm. Đó là gì? Không khí. Thật vậy, thiếu không khí chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn thì người ta sẽ ngộp và… chết chắc, mọi sinh vật khác cũng chung số phận như thế!
Chuyện lạ “phổ biến” trong Kinh Thánh, đặc biệt là thời Cựu Ước, là sự xuất hiện của các ngôn sứ (tiên tri). Thiên Chúa đã cấm hành nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn (Ðnl 18:10-11), thế mà con người vẫn nhiễm “máu” mê tín, dị đoan, ngay cả những người Công giáo ngày nay vẫn chưa “dứt” nổi kiểu mê tín này! Đó là máu hiếu kỳ, tính tò mò, chạy đua đi tìm… “sự lạ”. Thấy gì khác thường một chút đã cho là “phép lạ”. Đức Tin ấu trĩ quá!
Sách Đệ Nhị Luật (Thứ Luật) cho biết: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy” (Ðnl 18:15). Điều đó xảy ra vì dân chúng đã xin với Đức Chúa tại núi Khô-rếp, trong ngày đại hội. Họ đã nói: “Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết” (Ðnl 18:16).
Đức Chúa chứng thực: “Chúng nói phải” (Ðnl 18:17). Và Ngài cam kết: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta thì chính Ta sẽ hạch tội nó. Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết” (Ðnl 18:18-20). Bịa đặt hoặc cố chấp thì ai cũng sẽ bị trừng phạt, dù là người nói hoặc kẻ nghe.
Từng ngày trôi qua, biết bao điều lạ mà người ta không cho là lạ, lại chỉ mơ tưởng “sự lạ” ở đâu đâu, chẳng khác là ảo tưởng, thích chuyện hão huyền. Cứng đầu cứng cổ thật, đâu khác gì dân Ít-ra-en xưa. Vậy mà vẫn tự cho mình là “ngoan đạo”. Kể cũng “lạ” thật đấy!
Tác giả Thánh Vịnh nhận biết các điều lạ xảy ra xung quanh chúng ta hằng ngày nên không thể im lặng, mà phải lên tiếng mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2).
Không chỉ chúc tụng Chúa mà còn phải thờ lạy Ngài, đó là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta, những người luôn được Ngài trao ban biết bao Hồng Ân mỗi ngày, đơn giản và cơ bản nhất là sự sống. Ăn cây nào, rào cây nấy. Nhận lãnh thì phải biết ơn. Đồng thời hãy mời gọi người khác cùng hành động: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” (Tv 95:6-7). Vâng, ước gì điều ước này được chúng ta thực hiện luôn luôn!
Ngày xưa, Thiên Chúa đã nhắc nhở dân Chúa: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 95:8-9). Và ngày nay, đó cũng chính là lời khuyến cáo dành riêng cho mỗi chúng ta.
Xơ cứng cũng có nhiều dạng với mức độ khác nhau. Xơ gan là một dạng ung thư bất trị, nhưng xơ cứng tâm linh còn nguy hiểm hơn, vì đó là dạng “ung thư tâm linh”, có thể bất trị cả đời này lẫn đời sau, nhưng nếu chịu điều trị thì lại khả dĩ chữa lành. Đúng là “chuyện lạ” thật!
Thánh Phaolô nói về một dạng lạ về tâm linh: “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng” (1 Cr 7:32-34). Gọi là lạ nhưng lại không lạ. Những người này cũng vẫn là những người bình thường như chúng ta, không có gì khác thường. Tuy nhiên, không lạ mà lại lạ, họ sống giữa đời thường mà lại không thuộc về đời thường, vì họ không thấy có sức hút nào bằng sức hút của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô khuyên thật chứ không đùa, không có ơn Chúa thì không thể hiểu được. Dĩ nhiên, tất cả đều là tự nguyện, không bắt buộc, và cũng không thể ép buộc. Thánh Phaolô giải thích: “Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co” (1 Cr 7:35). Rất chi tiết. Rất rạch ròi. Rất minh bạch. Và cũng rất chân thành.
Như chúng ta đã biết, cuộc sống có rất nhiều điều lạ, từ điều nhỏ tới điều lớn, từ đơn giản tới phức tạp. Thời nào cũng thế, đất nước nào cũng thế, dân tộc nào cũng vậy. Cũng là con người cả thôi, tính hiếu kỳ luôn chực chờ “nổi dậy”. Nhưng cần lưu ý rằng có điều lạ tốt và cũng có điều lạ xấu. Chúa Giêsu giáng sinh làm người, chịu chết trên Thập Giá, rồi phục sinh vinh quang. Vô cùng lạ, lạ hơn mọi thứ lạ khác. Các bí tích cũng toàn là những chuyện lạ. Cả đời chúng ta chứng kiến biết bao chuyện lạ, nói đúng ra là phép lạ!
Một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Hôm đó là ngày sa-bát, Ngài vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài. Họ sửng sốt vì thấy quá đỗi lạ lùng. Tại sao? Vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Ngay lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập, nó la lên: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1:24). Còn hơn cả sự lạ lùng. Chắc hẳn dân chúng càng sửng sốt hơn. Nó không phải quỷ thường, mà là quỷ ô uế.
Nghe nó nói vậy, Đức Giêsu quát mắng nó, bắt nó câm miệng và buộc nó phải xuất ra khỏi nạn nhân. Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. Nạn nhân được tự do, thoát khỏi nanh vuốt kìm cặp của ma quỷ, đó là nhờ quyền phép của Đức Giêsu, Con-Thiên-Chúa-làm-người, Thiên-Chúa-ở-giữa-chúng-ta, Đấng Em-ma-nu-el. Thấy vậy, mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mc 1:27).
Không lạ sao được khi mà người ta mục kích sở thị chứ chẳng phải nghe đồn hoặc truyền khẩu. Tiếng lành đồn xa. Lập tức danh tiếng Ngài đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết phân biệt cái gì là điều lạ và cái gì là bình thường, cái gì là tốt và cái gì là xấu, để chúng con tin và hành động theo đúng Thánh Ý Ngài. Xin giúp chúng con vạch rõ làn ranh giữa cái thiện và cái ác để chúng con không mơ hồ giữa cõi thế gian này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
28. Vị Tôn Sư đích thực
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
Hầu hết chúng ta đã từng cắp sách đến trường và được các thầy cô dạy bảo. Chúng ta đã được thụ giáo dưới sự chỉ dẫn của các bậc làm thầy, bởi lẽ ‘Nhất tự vi sư, bán tự vi sư’, một chữ hay dù nửa chữ, các ngài cũng là thầy giáo dạy bảo chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã từng nói với các học trò: “Đừng gọi ai dưới đất là thầy, vì anh em chỉ có một ‘Rabbi’, một thầy duy nhất (Mt 23,8)”. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô cũng trình thuật lại việc Chúa Giêsu vào hội đường ở Capharnaum và giảng dạy như một Đấng có uy quyền (Mc 1,22). Cách Đức Giêsu dạy dỗ khác xa với cung cách làm thầy của các rabbi hồi xưa, cũng chẳng giống các vị tiến sỹ đứng trên bục giảng trong các giảng đường đại học ngày hôm nay. Ngài không nổi trội về kiến thức uyên bác hay có những bằng cấp chuyên môn, nhưng trên hết, Đức Giêsu là Đấng ‘Messia’, là Đấng đã đến trần gian để công bố cho chúng ta một Tin Mừng. Tin Mừng đó được hiển thị rõ nét qua các phép lạ Chúa Giêsu thực hiện như được Thánh sử Marcô mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa giảng dạy kèm theo những phép lạ chứng tỏ Ngài là một ‘Đấng có uy quyền’, và đó là dung mạo của vị tôn sư đích thực mà chúng ta cần cung chiêm và học hỏi.
Tư cách làm thầy
Một giáo sư đại học khi dạy các sinh viên về môn Thuyết giảng trước công chúng (Public Speaking) đã nói: “Trong một lớp học, không bao giờ có học sinh dốt, nhưng chỉ có những ông thầy dốt. Dốt, vì ông ta không biết cách truyền đạt những kiến thức để cho sinh viên am hiểu”. Muốn làm thầy, người đó phải được đào tạo chính quy qua trường lớp sư phạm. Cũng vậy, muốn trở thành thầy dạy (magistero) về đức tin, các các anh em linh mục cũng phải được đào tạo kỹ lưỡng ở chủng viện về các bộ môn thần học hay kinh thánh, nhất là phải có chiều sâu đức tin, bởi vì ‘Không ai có thể cho người khác cái mà mình không có, không ai có thể dạy người khác điều mà mình không biết’.
Chúng ta được mời gọi nhìn vào chân dung Đức Giêsu, vị tôn sư đích thực của chúng ta. Khi đặt mình trong tay Chúa, chúng ta cần nhớ rằng mãi mãi chúng ta vẫn chỉ là những học trò của Ngài mà thôi, cho dầu chúng ta là Giám mục hay Linh mục, chúng ta có bằng tiến sỹ này hay bằng chuyên môn nọ.
Ngày xưa, Chúa chọn 12 môn sinh để họ kế tục sứ mệnh làm thầy giống như Ngài, tức là đi ‘rao giảng Tin Mừng’ cho người khác. Những anh học trò này chắc chắn không phải là những chuyên viên về Kinh thánh, tức là những ‘Halakha’ của thời bấy giờ. Một chữ bẻ làm đôi có lẽ nhiều vị cũng không biết. Nhưng điều mà các tông đồ đã học dưới mái trường do Đức Giêsu khai sáng, chính là mầu nhiệm về Thiên Chúa, hiển thị rõ nét nơi Đức Giêsu, vị tôn sư khả kính mà họ được thông dự vào qua cuộc sống hằng ngày. Vì vậy, sau ngày lễ Ngũ tuần, các ông đã hăng hái đi đến mọi ngõ ngách để giảng giải, để nói về Đức Giêsu cho mọi người, không loại trừ ai. Khán thính giả của các tông đồ ngày xưa gồm đủ mọi thành phần, từ chính quyền đến thường dân, từ những nhà trí thức đến những bác dân quê mộc mạc chất phác. Ngôi trường mà Chúa Giêsu đã thiết lập cũng chẳng giống với ngôi trường nào. Ở đó không có sách vở, không có bàn ghế hay giấy bút. Khi được thụ giáo dưới mái trường này, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tốt nghiệp với văn bằng này hay chứng chỉ nọ. Chúng ta phải học, phải nghiền gẫm và phải đeo bám cho đến suốt đời. Đức Giêsu mãi mãi vẫn luôn là vị tôn sư khả kính mà chúng ta cần phải không ngừng học hỏi nơi Ngài.
Sức mạnh của ‘Lời’
Lời nói con người giống như một con dao hai lưỡi. Nó có thể giúp xây dựng hòa khí thân thương song cũng có thể tạo ra những đổ vỡ. Lời Thiên Chúa thì khác. Những gì Thiên Chúa nói luôn mang lại cho con người sự sống. Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường Capharnaum kèm theo phép lạ để diễn bày tính năng cứu độ nơi Ngài. Ngài đã làm phép lạ trừ quỷ cách nhãn tiền khiến đám đông kinh ngạc và bảo nhau: “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền (c. 27)”. Đây là uy quyền của một vị Thiên Chúa, Đấng đem đến cho con người sự chữa lành và ơn tha thứ. Những phép lạ Chúa Giêsu thực hiện không phải nhằm phô diễn một kỳ tích hay như một màn ảo thuật để đánh lừa thị hiếu của đám đông. Mọi phép lạ Chúa làm đều mang chở một sứ điệp sâu xa, mời gọi con người hãy ‘Sám hối và tin vào Tin Mừng’ (Mc 1,15). Đó là Tin Mừng về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với con người, giục giã gọi mời chúng ta trở về để đón nhận. Đức Giêsu chính là Đấng Messia mà sách Đệ nhị luật đã tiên báo như chúng ta được nghe trong bài đọc 1 hôm nay. Đây là ‘vị ngôn sứ’ đích thực của Chúa Cha, và vị ngôn sứ đó sẽ nói những điều Thiên Chúa truyền (Dnl 18, 18). Điều mà Đức Giêsu ngỏ trao chính là sứ điệp về tình yêu của Thiên Chúa, mà đỉnh điểm là chính cái chết của Ngài trên Thập Gía.
Tác vụ giảng dạy
Các bài đọc lời Chúa hôm nay được gửi đến mọi người, đặc biệt các anh em linh mục. Chúng ta được mời gọi nhìn vào hình ảnh của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng để biết cách chu toàn tác vụ thánh trong việc công bố và giảng giải Lời Chúa. Trong cuốn ‘Chỉ nam Giảng thuyết (Homiletic Directory) do Thánh bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí tích ban hành năm 2015, Giáo hội cũng nhắc nhở các anh em linh mục đừng bao giờ biến bài giảng trong Thánh lễ thành một bài chú giải Kinh thánh mang tính khoa bảng, hay chỉ để chia sẻ những những kinh nghiệm cá nhân. Trên hết, tòa giảng phải là nơi để các linh mục dùng Lời Chúa nuôi dưỡng đời sống đức tin của cộng đoàn. Vì thế, Giáo hội cũng khuyên các cha hãy chuẩn bị bài giảng thật kỹ lưỡng qua việc suy niệm và cầu nguyện, nhất là cử hành Lectio Divina, để Lời Chúa chạm đến cõi lòng chúng ta và lay động tâm hồn của chính chúng ta. Có như thế chúng ta mới có thể dùng Lời Chúa như lương thực trường sinh, giúp nuôi dưỡng đức tin cộng đoàn. Không ít giáo dân than phiền về nội dung cũng như cách thức các cha giảng trong Thánh lễ, thậm chí có những giáo dân tỏ ra chán ngán vì có những vị còn lạm dụng cả tòa giảng để chửi bới giáo dân nữa.
Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, vị Tôn sư khả kính đã giảng dạy như một Đấng có uy quyền. Đây không phải là một thứ uy quyền để nạt nộ hay chửi rủa, nhưng là uy quyền của tình yêu và sự chữa lành.
Kết luận
“Đức Kitô bị đóng đinh trên Thập giá là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta” (Đức Cha Lambert de la Motte). Đó cũng là đối tượng duy nhất mà chúng ta phải luôn cung chiêm và học hỏi. Chúng ta học hỏi nơi Ngài cách sống, cách chữa lành và cách thức Ngài rao giảng. Ngài chính là vị tôn sư duy nhất mà chúng ta cần phải xách cặp đến để xin thụ giáo cho đến suốt đời.
29. Đấng có uy quyền – Radio Veritas Asia
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường và chữa lành một người bị quỉ ám.
Sau khi Gioan Tẩy Giả bị bắt giam, Chúa Giêsu trở về Galilê và giảng dạy trong Hội đường một cách công khai. Ngài giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho; Ngài cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh thánh và chất lên vai người dân gánh nặng của những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài. Giáo huấn của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, một việc loan Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Dân chúng nghe Chúa đều nhận thấy có sự khác biệt sâu xa giữa giáolý của Chúa và những lời giảng dạy của các kinh sư Do thái.
Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người bị quỷ ám. Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có toàn quyền trên quỷ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người. "Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng theo". Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng; trái lại, những kẻ chống đối Chúa thì hạch sách Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?" Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ ước một Vị Cứu Tinh hùng mạnh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu lại đến để giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỷ và tội lỗi.
Thánh Phêrô đã mời gọi các người đồng hương của ngài: "Thưa đồng bào Israel, xin hãy lắng nghe Chúa Giêsu Nazaret, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Ngài, Thiên Chúa đã cho Ngài làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em như chính anh em đã biết điều đó".
Nguyện cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu thế phát xuất từ nơi Chúa và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội. Giáo Hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hóa và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta luôn trung thành với Giáo Hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.
30. Tại Hội đường Caphácnaum
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng tuần trước đã kể cho chúng ta sự kiện Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Các ông sẽ là những người chứng kiến các hoạt động của Người ngay từ đầu. Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,21-18) giới thiệu hoạt động đầu tiên của Chúa Giêsu mà các ông được chứng kiến: Chúa Giêsu giảng dạy tại Caphácnaum và chữa lành người bị quỷ ám.
“Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum. Ngay ngày sabát, Người vào hội đường giảng dạy” (c.21). Ngay từ đầu sứ vụ tại Galilê, giảng dạy đã là một trong những hoạt động chính yếu của Chúa Giêsu. Chính Người sẽ xác nhận cách tỏ tường điều này khi quân dữ tra tay bắt Người: “Ngày ngày tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy…” (14,49). Tác giả Mc rất chú tâm đến hoạt động giảng dạy của Chúa Giêsu. Nhưng, cũng như ở nhiều nơi khác (ví dụ 2,13; 6,2.6.34; 10,1), ở đây ông chỉ kể rằng Chúa Giêsu giảng dạy chứ không nói gì về nội dung của lời giảng dạy. Có lẽ đối với ông, điều đáng quan tâm nhất phải là chính Thầy Giêsu, hơn là điều Người giảng dạy.
Một nét đặc trưng của hoạt động giảng dạy của Chúa Giêsu là hiệu quả lời giảng dạy của Người. Hiệu quả đó được trình bày qua việc kể lại trải nghiệm của những người nghe giảng: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người” (c.22a). Họ bị đánh động sâu xa và rất ngạc nhiên. Tất cả những tiêu chí cổ điển để đánh giá lời giảng đều không còn giá trị nữa. Có một cái gì đó thực sự mới mẻ đã xuất hiện, gây nên một sự sửng sốt trong đám đông dân chúng. Nói cách khác, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu có sức mạnh đặc biệt, giống như những hành động quyền năng của Người. Cuối bài Tin Mừng, tác giả sẽ nói rõ hơn về phản ứng của dân chúng: “Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (cc.27-28).
Sở dĩ đám đông dân chúng sửng sốt, là vì “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (c.22b). Các kinh sư là những người hiểu biết Thánh Kinh, nhất là Tôra. Họ giải thích Thánh Kinh cho dân chúng. Họ chỉ cho dân chúng thấy cần phải làm gì để thi hành thánh ý của Thiên Chúa. Bản văn Mc 1,22 này không có bất cứ yếu tố nào cho phép chúng ta đánh giá tiêu cực về hoạt động giảng dạy của các kinh sư. Nhưng đồng thời, tác giả Mc muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng dân chúng đã mau chóng nhận ra rằng lời giảng dạy của Chúa Giêsu thì hoàn toànb khác với lời giảng dạy của các kinh sư. Lời giảng dạy của Người có một thẩm quyền đặc biệt, khác hẳn. Sau này, chính sự khác biệt hoàn toàn này sẽ gây nên những phản ứng tiêu cực nơi các kinh sư: họ sẽ vu cáo rằng Chúa Giêsu nói phạm thượng (2,7), rằng Người liên minh với quỷ vương (3,22), rằng Người đáng bị kết án tử hình (14,53-65).
Cùng với việc giảng dạy, Chúa Giêsu còn thể hiện uy quyền của Người bằng cách trừ quỷ. Khi ấy, “trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta” (cc.23-26).
Trừ quỷ là một trong những hoạt động của Chúa Giêsu mà tác giả Mc ưa thích kể lại nhất, ví dụ trong 1,23-27.34.39; 3,11-12; 5,1-20; 9,14-29. Ở đây, quỷ được gọi là “thần ô uế”. Chữ “thần” ở đây có ý nói đến một sức mạnh đầy quyền năng, hoạt động, và rất khó kiểm soát. Chữ “ô uế”, trong ngôn ngữ Thánh Kinh, chỉ về thực tại xấu xa, phàm tục, khác hẳn thực tại của Thiên Chúa, đối nghịch hoàn toàn với Thiên Chúa. Trong sách Tin Mừng, thần ô uế xuất hiện như một sức mạnh không phải của con người, nhưng hành động một cách cá vị, có hiểu biết đặc biệt, hoàn toàn đối nghịch với Thiên Chúa, khống chế nhiều người và buộc họ phải làm những điều xấu xa… Thần ô uế rõ ràng là sức mạnh hoàn toàn đối nghịch với Thần Khí của Thiên Chúa. Nó cũng là sức mạnh thù nghịch với con người, phá hoại sự tự do hành động của con người.
Chúa Giêsu được khắc họa trong tư thế có quyền siêu việt tuyệt đối trên thần ô uế. Người quát mắng nó. Và chỉ bằng một lời quát mắng như thế, Người đã chiến thắng nó. Người giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ thần ô uế, trả lại cho họ sự tự do.
Trước khi bị trục xuất, thần ô uế đã kêu lớn tiếng với Chúa Giêsu: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”. Lời này nói về sứ mạng và căn tính của Chúa Giêsu. Nó cho thấy Chúa Giêsu có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Người được Thiên Chúa sai đến. Người đến để tiêu diệt quyền lực ma quỷ. Sau này, Người sẽ nói rõ ràng hơn: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (2,17); “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (10,45).
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay khắc họa cho chúng ta những đường nét chính yếu trong hoạt động của Chúa Giêsu:
(1) Ngay từ đầu, Người không hoạt động đơn độc, nhưng là trước sự hiện diện và chứng kiến của các môn đệ mà Người đã kêu gọi; họ đã bỏ mọi sự mà theo Người và Người cho họ được đồng hành với Người trong hoạt động cứu độ của Người.
(2) Người giảng dạy. Đây là một hoạt động chính yếu của Người ngay từ đầu.
(3) Người giảng dạy theo một cách thức hoàn toàn khác với các kinh sư Do Thái đương thời.
(4) Người trừ quỷ, tức là thực hiện những hành động quyền năng để giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ những thế lực gian ác.
(5) Người hoạt động trong một mối tương quan đặc biệt với Thiên Chúa: Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
(6) Người giảng dạy và hành động như một Đấng có thẩm quyền đặc biệt.
Chúa Giêsu vẫn đang hoạt động như thế giữa thế giới hôm nay, nhờ Hội Thánh. Sứ vụ của Người được tiếp nối bởi Hội Thánh. Và Hội Thánh được mời gọi hành động như Chúa đã hành động. Chúng ta được mời gọi ý thức về điều đó, để cầu nguyện cho Hội Thánh và để sống xứng đáng với sứ vụ cao cả của Hội Thánh.
31. Chúa Nhật 4 Thường Niên
Trong sách Giáo lý Công Giáo, chúng ta đã học biết Thiên Chúa dựng nên loài cao trọng là thiên thần và con người. Tuy nhiên trong số các thiên thần, có một số thiên thần do kiêu ngạo đứng lên chống báng Thiên Chúa nên bị Tổng lãnh thiên thần Micae đánh đuổi ra khỏi thiên đàng, nó là thần dữ, là ma quỉ. Vì thế ma quỉ là loài thiêng liêng, có quyền năng hơn con người, nó luôn theo đuổi con người để dụ dỗ con người đi theo con đường kiêu căng, sống dối trá như nó. Nó muốn cám dỗ để con người sa ngã theo phe nó. Càng đông người theo nó thì nó càng thích.
Trong Kinh Thánh cũng đã trình bày ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu ăn chay sau 40 đêm ngày ăn chay trong hoang địa,
Ngày nay ma quỷ càng tinh vi hơn, sự xuất hiện của chúng tinh vi, kín đáo, khéo léo hơn nên người ta tưởng rằng dường như chúng không có, hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui vật ngã rồi. Đây là một thái cực mới đi lại thái cực cũ. Nghĩa là trước kia khi khoa học chưa phát triển và tiến bộ, người ta dễ sợ hãi và thường nói đến ma quỷ như những thế lực ghê ghớm, gây kinh hồn hoảng vía, cho nhiều người, thậm chí lại còn thấy chúng ở khắp mọi nơi nữa. còn ngày nay, nhờ khoa học kĩ thuật tiến bộ vượt mức, người ta lại cho ma quỷ là chuyện hoang đường, bịa đặt, không liên quan gì đến cuộc đời con người tại thế.
Phải nhìn nhận rằng ngày nay con người nhờ khoa học tiến bộ, nó đã có tác dụng lớn lao trong việc xua đuổi ma quỷ ra khỏi xã hội con người. ở đâu có đời sống văn minh, ma quỷ xem ra rút lui có trật tự. Chẳng hạn ở những chỗ ngã ba đường tăm tối, quanh co, những tán cây cổ thụ to lớn mà người ta thường tin là có ma quỷ ngự trị, thì chỉ cần sửa sang đường sá, dựng lên mấy cốt đèn điện là đêm hôm người ta có thể ra đó tình tự, hay thẩn thơ ngóng gió mà không sợ ma quỷ gì nữa. Rõ ràng dễ thấy nhất là ở những nơi thành thị, dường như người ta không còn nghe nói ở đó có ma có quỷ gì nữa. Trẻ con còn thể an tâm chạy một mình trên các đường phố có đèn đường đầy ánh sáng, và cả trẻ con có thể chạy chơi trên những đường phố vắng về đêm. Tuy nhiên ở với miền quê thì khác, chỉ mới nhá nhem tối, thì người lớn và cả trẻ con đều không dám dạn dĩ ra đường, phần lớn vì "sợ ma", nhất là nếu gần đấy là nghĩa địa hay nơi có mồ mã nào đó, thì người ta càng dễ dàng sở hãi hơn.
Muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, đối với chúng ta chắc chắn ma quỷ là có thật và càng không thể coi thường vì sự hoạt động và sự phá hoại của nó trên đời sống con người trên trần gian này. Dĩ nhiên cũng phải nói rằng ảnh hưởng và sức phá hoại của nó nằm trong phạm vi nội giác và vô hình nhiều hơn. Nên chúng ta cũng cần phải đương đầu với chúng trên mặt trận ấy, nghĩa là trong cuộc chiến đấu chống các cơn cám dỗ hằng ngày chúng ta phải cảnh giác để giữ lòng trung thành với Chúa và đẩy lui những tấn công nguy hại của chúng. Tuy nhiên chúng ta cũng đừng vội gán tội cho satan, cho ma quỷ, đổ lỗi cho chúng tất cả những gì xấu xa trong cõi loài người. Thánh Kinh cho biết: Satan là kẻ cám dỗ. Nhưng đối với Đức kitô, tất cả những ai tìm cách ngăn cản anh em mình thực hiện sứ mạng của Thiên Chúa, người ấy cũng có thể đáng gọi là Satan, là đối thủ, là kẻ cám dỗ. chứng cớ là Thánh Phêrô đã bị Chúa quở mắng là Satan, là ma quỷ, khi ông tỏ ra ngăn cản Chúa đi chịu nạn chịu chết để cứu chuộc loài người. Như vậy, khi nhìn nhận sự hiện hữu của ma quỷ, chúng ta còn nhìn nạh6n một thực tại khác không kém phần quan trọng đó lả sự ác, sự xấu tội lỗi,... không phải là những món hàng hoàn toàn do Satan và bè lũ của chúng lén lút nhập cảng vào trần thế, nhưng chính là những đồ "nội hóa", được sản xuất ngay từ nội tâm của mỗi ngưòi. Chúng ta không dè rằng satan kẻ cám dỗ, chính là chúng ta. Không ai muốn nhận rằng mình là Satan, là kẻ cám dỗ có thể là chính chúng ta. Không ai muốn nhận mình là Satan, là kẻ cám dỗ nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã cám dỗ anh em mình hành động tári với chân lý, công bằng và bác ái. Bởi thế vấn đề quan trọng không phải là chúng ta đỗ lỗi cho ma quỷ. Trái lại mọi người phải dứt khoát chọn sự thiện, chọn con đường của chân lý và tình thương. Chúng ta không nên quá sợ hãi ma quỷ hay những chước cám dỗ của chúng. Nhưng trước hết tự mình đừng bao giờ xúi giục cám dỗ, anh em mình làm điều xấu, diều ác, điều dữ, điều tội lỗi. đồng thời cũng phải tỉnh thức đề phòng những chước cám dỗ mà anh em có thể đem đến cho chúng ta.
Chúng ta hãy sáng suốt nghe và làm theo thiên thần bản mệnh hằng gìn giữ ta ngày đêm, lắng nghe để thực hiện ý Chúa, đồng thời nhờ ơn trợ giúp của Chúa ban để chúng ta biết sống theo ý Chúa và càng biết luôn làm đẹp lòng Chúa.
32. Chúa Giêsu Kitô - Lời Thiên Chúa uy quyền
(Suy niệm của Pm. Cao Huy Hoàng)
Trên thế gian này, có những chuyện quá xưa cũ, mà người ta vẫn lầm tưởng như là mới mẻ lắm. Điển hình, sự ngu muội của một số người vẫn cho mình là tiến bộ từ loài vượn đến loài người, và chưa hề mường tượng ra có một loài người đang tiến bộ từ loài người đến loài thiêng liêng thần thánh, chưa nói đến việc loài người ấy được tan hòa trong thiên tính vô cùng cao quí của một Đấng Thiêng Liêng là Đức Chúa Trời, được làm con Chúa Trời. Cái thói ăn bậy, nói bừa, như "con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói", cái thói xảo trá gian ngoa "đâm đầu thóc, thọc đầu gạo" của loại đòn xóc hai đầu, hoặc cái thói "nói đàng đông, làm đàng tây, nói một đường, làm một nẻo" vẫn là cái căn cốt của con quỷ Satan ngay từ buổi bình minh sáng thế. Có gì mới đâu! Thế nhưng, có những con người chủ trương sống và kêu gọi người ta sống lại cái thủa ban đầu của sự tăm tối ngu muội ấy, vì người ta không ưa thích sự thật, hoặc dùng sự thật bên ngoài như bức màn che bao điều giả dối ở bên trong: sự giả dối ngay trong hôn nhân gia đình: khoái lạc dưới tên gọi hạnh phúc; ở nhà trường, ở xã hội, thành tích thi đua thay cho thực lực, xin-cho có điều kiện được gọi là tự do, bố thí rửa tiền mang áo lụa thơm mùi bác ái.... Người ta đang tưởng mình sống, thật ra đang sống trong sự chết, tưởng mình tự do, thực ra đang nô lệ, tưởng mình chiến thắng, thực ra đang bại trận trong chính cuộc đời mình.
Sự giả dối đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, không loại trừ quốc gia, dân tộc, giáo hội, tổ chức, cá nhân...vì Satan luôn chọn 'lòng người" làm sào huyệt xuất phát, để chống lại sự thật là chính Thiên Chúa. Và khi lòng người giả dối, sẽ trổ sinh bao điều ô uế cho chính mình và cho cuộc đời. Mưu đồ của Satan còn khủng khiếp hơn nữa, khi chúng tôn vinh các sự dối trá bằng những tuyên dương, bằng cách đội cho các thông tin sai sự thật chiếc vương miện hoa hậu, bằng cách truyền bá rằng sự giả dối đang chiến thắng, đang thống trị.
Ai có thể tin được? Có đấy, có biết bao nhiêu người lầm tưởng.
Riêng với các tín hữu công giáo, là những người con của Thiên Chúa, con của sự thật, thì Lời Chúa hôm nay, đang cảnh tỉnh mỗi người đề phòng mưu chước của Satan, và một lần nữa khẳng định cho con cái Chúa biết rằng: Uy quyền thuộc về Thiên Chúa.
Lời Chúa đầy quyền năng vì là Lời của sự thật và Lời ban sự sống. Chỉ một Lời ngài phán, đã có ngay bầu trời và tinh tú cùng muôn vạn vật có sự sống (Tv 32). Công trình trần gian do Lời Chúa tác thành vẫn tồn tại, và tồn tại trong vẻ đẹp huy hoàng của Thiên Chúa mà người trần gian đến muôn đời vẫn không thể hiểu thấu.
Lời Chúa đầy uy lực khiến người nghe phải rung động tâm can vì Lời Chúa là tình yêu. Uy lực của tình yêu vô biên vì tình yêu chân thành, không hề giả dối, tình yêu tín trung không bao giờ phản bội, tình yêu thường hằng bất biến vì tình yêu không lệ thuộc thời gian không gian hữu hạn.
Thiên Chúa đã đặt Lời của Người vào miệng lưỡi của các tiên tri, để các Ngài thông tin cho nhân loại biết về một Thiên Chúa đầy toàn năng, toàn ái. Sách Đệ Nhị Luật 18,18-19, ghi rõ: "Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những Lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy.19 Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó".
Thiên Chúa vẫn biết, Satan vẫn luôn đã và đang rêu rao phủ nhận sự hiện diện của Ngài. Còn Satan vẫn biết có Thiên Chúa, nhưng luôn muốn và làm cho con người không biết, hoặc biết mù mờ, hoặc từ chỗ biết đến chỗ phủ nhận từ chối. Satan không muốn cho con người chấp nhận có một sự thật hiển nhiên, tỏ tường là Thiên Chúa. Vì thế, ngay cả các tiên tri, cũng có thể bị chúng phỉnh lừa để nhân danh Thiên Chúa mà không nói Lời Thiên Chúa đã truyền, như Ngài đã tiên liệu và căn dặn: "Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết."(c 20)
"Nhân danh Chúa mà nói lời Thiên Chúa không truyền dạy" là mưu chước tinh xảo nhất của Satan trong thời đại hiện nay. Chỗ này, chỗ kia, rồi chỗ nào cũng có những người áp đặt ý của mình thành ý của Thiên Chúa, lời của mình thành Lời của Thiên Chúa, giới thiệu cho người nghe một khuôn mặt Thiên Chúa đã bị biến dạng. Thiết tưởng, việc học hỏi lời Chúa trong các gia đình, trong các lớp giáo lý, cần được thực hiện nghiêm túc hơn nữa, từ người dạy đến người học, không chỉ để hiểu được Lời Chúa, sống lời Chúa, mà còn để cho Lời Chúa tác động trong mọi hành vi cử chỉ ngôn từ, và còn để phân biệt lời nào, ý nào của Chúa, lời nào, ý nào của loài người.
Để củng cố, kiện toàn cho Lời của Thiên Chúa đã được đặt nơi miệng của các Tiên Tri, Thiên Chúa đã sai chính Ngôi Lời của Ngài đến trong trần gian là Đức Giêsu Kitô. Quyền năng của Lời Thiên Chúa nay được ủy thác nơi chính Đức Giêsu Kitô. Vì thế, thánh Marcô ghi nhận rằng: "Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy.22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư" (Mc 1, 21-22).
Sự thật về Thiên Chúa là "Thiên Chúa là sự thật". Sức mạnh của sự thật cũng chính là sức mạnh của Thiên Chúa. Đức Giêsu đang mang cả kho tàng sự thật của Thiên Chúa đến trong trần gian, và sức mạnh ấy chiến thắng sự giả dối đang ngự trị trong lòng con người, đang làm cho con người ra ô uế. Thần ô uế, con quỷ giả dối, biết khiếp sợ trước Lời đã hóa nên người phàm: " Ông Giêsu Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" (c 25). Vâng, Satan vẫn biết Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, vẫn biết chỉ có Đức Giêsu sẽ tiêu diệt nó khỏi lòng con người, để con người được an nhàn thư thái. Và quả vậy, thánh Marco hôm nay cho biết: Đức Giêsu đã không tiêu diệt con cái của Thiên Chúa, nhưng ngài dùng uy quyền của Lời Thiên Chúa mà trục xuất satan và ảnh hưởng của nó ra khỏi con người. "Câm đi, hãy xuất khỏi người này! ". Ngài trả lại cho con người ấy nét đẹp nguyên tuyền của con cái Thiên Chúa, con cái của sự thật.
Ma quỷ không thể thắng được Lời của Thiên Chúa, nhưng sự dữ vẫn cứ tồn tại. Vì ma quỷ vẫn luôn nhũng nhiễu Thiên Chúa, làm rối loạn tâm can con cái của Ngài. Quỷ đang ám các chính phủ để củng cố quyền lực trần gian, lừa lọc nhau mưu lợi, tham nhũng, làm cho con cái Chúa lầm tưởng rằng phải cậy thế, cậy thần mới là chân lý. Quỷ đang ám các nhà kinh doanh người, kinh doanh trên thân xác con người, kiểu nầy, cách nọ. Quỷ cũng đang ám tâm trí bao người ăn chơi hưởng thụ vô trách nhiệm trước tội giết chết các thai nhi không thương tiếc. Quỷ đang ám các gia đình bắt đầu từ sự dối trá trong tiền bạc, trong tình cảm, đến dối trá cho những cuộc trăng hoa mây mưa ngoài vòng pháp luật của gia đình, làm mất sự thánh thiện của hôn nhân công giáo, và dần dần, phá vỡ tan tác khi cầm một tờ ly dị được xem như sự giải thoát, sự tự do.. Thần ô uế cũng đang ám tôi, ám bạn, làm cho cuộc đời mình sống trong sự giả dối từ sáng sớm đến chiều tối, và ngay cả khi vào giấc ngủ-hình ảnh của sự chết ngàn thu.
Đã đến thời gian không chỉ tin vào sức mạnh của Lời Thiên Chúa, mà phải sống Lời Thiên Chúa cách thiết thực là kết hiệp với Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Quyền Năng mà nhờ sức mạnh của Ngài làm thành lũy che chắn cho cuộc đời trước bao lời mời gọi của ma quỷ, của thần ô uế.
Nguyện xin Lời của Đức Kitô là sự thật đầy quyền năng, là giới răn mới của Thiên Chúa, thanh tẩy tâm trí chúng con khỏi sự giả dối trong tư tưởng, trong lời nói, trong hành động, để các sự ô uế không thấm nhiễm cuộc đời chúng con và thế lực chống lại Thiên Chúa không thể huyênh hoang rằng con cái của Chúa đã bại trận.
Và xin cho chúng con can đảm làm chứng cho sự thật, cho chân lý, cho Thiên Chúa trong thời đại con quỷ dối trá muốn khống chế tất cả loài người.
33. Hãy nói cho tôi những tin tức tốt lành
(Suy niệm của John W. Martens – Lm. GB. Văn Hào SDB chuyển ngữ)
“Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền” (Mc, 1,27)
Trong cuộc sống, chúng ta đa phần đã trải nghiệm qua thời kỳ làm học sinh hay sinh viên một cách chính thức. Nhưng, hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta đã từng là những học trò để học hỏi, để tiếp thu biết bao nhiêu điều từ những người khác, không phải trong trường lớp nhưng ngay nơi trường đời. Cũng vậy, nhiều người đã từng là thầy giáo đứng bên bục giảng để chỉ huấn cho các học sinh đang thụ giáo nơi mình. Nhưng cũng hiểu theo nghĩa rộng, mọi người chúng ta đều đã từng làm thầy, khi chỉ dẫn cho người khác điều này hoặc điều nọ. Chúng ta hướng dẫn về cách sống, dạy bảo về cách ứng xử, cách giải quyết một vấn đề nào đó. Chúng ta chỉ giáo để uốn nắn một đứa bé, để giúp đỡ người hàng xóm bên cạnh. Chúng ta dạy không phải bằng lý thuyết, nhưng dạy bằng những trải nghiệm cụ thể trong cuộc sống đời thường của chúng ta.
Nhiều người trong chúng ta trở thành thầy giáo, sau khi đã được đào tạo chính quy qua trường lớp sư phạm, và chúng ta thường coi nghề dạy học như một ơn gọi. Chúng ta dạy các học trò trong những lãnh vực chuyên môn mà chúng ta đã đắc thủ kiến thức qua tiến trình đào tạo cách bài bản. Nhưng, Đức Giêsu đã từng nói với chúng ta “Anh em đừng để ai gọi mình là Rabbi, là thầy, bởi vì anh em chỉ có một thầy duy nhất, và tất cả chúng ta đều là học trò của Ngài. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất là cha, bởi vì anh em chỉ có một cha Đấng ngự trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người chỉ đạo, vì anh em chỉ có một người chỉ đạo là Đấng Messia” (Mt, 23,9-10). Lời huấn dụ này được ngỏ trao cho tất cả mọi Kitô hữu, không loại trừ ai. Nhưng rất khó để nói điều đó đối với những ai đã từng làm thầy dạy, làm giáo sư, hay làm người hướng dẫn kẻ khác. Có lẽ chúng ta dễ quên rằng khi đặt mình trong tay Chúa, chúng ta phải biết rằng, tất cả đều xuất phát nơi Ngài, và mãi mãi chúng ta cũng chỉ là học trò của Ngài mà thôi. Cũng vậy, đặc biệt đối với các học giả Kinh thánh, chúng ta phải luôn ghi nhớ rằng Đức Giêsu đã không tuyển chọn các môn sinh từ giữa các chuyên viên về thánh kinh, tức là các “Halakha” của Do Thái, thời bấy giờ. Đó là các kinh sư, các vị thông luật, tương tự như các tiến sĩ giáo luật ngày nay. Trái lại, Ngài chọn các học trò từ giữa đám dân chài thất học. Các ngư phủ quê mùa dốt nát đó làm sao có thể trở thành giáo sư dạy kinh thánh và dạy về luật Do Thái được, bởi lẽ họ chưa từng được đào tạo chính quy một ngày nào trong những lãnh vực chuyên môn đó. Nhưng sự hiểu biết của họ có gì khác với tri thức uyên bác nơi các chuyên viên, các thầy thông luật hay không? Chắc chắn rất khác xa.
Tri thức mà các bác dân chài Galilê đắc thủ được, đó là sự hiểu biết, hoặc họ mong gặp gỡ để hiểu biết một đối tượng, là chính Thiên Chúa. Những ngư phủ tuy thất học và dốt đặc cán mai, nhưng họ đã biết Đức Giêsu, đã từng sống với Ngài, và họ cũng mong muốn học được nhiều điều từ nơi Đức Giêsu, người Thầy của họ. Họ có được những kiến thức mà các tiến sĩ luật, các nhà thông thái lúc bấy giờ đã không thể có. Đó là lý do rất quan trọng. Vì vậy, vài năm trước, học giả Ben F.Meyar đã diễn tả như sau: Các nhà thông luật và chuyên viên giải thích Kinh thánh thời Chúa Giêsu luôn muốn tỏ ra mình nổi trội hơn những người khác, đặc biệt trong việc cắt nghĩa kinh thánh. Họ thích tỏ ra mình là những nhà lãnh đạo trổi trang và muốn được nể trọng. Tuy nhiên, đằng sau dáng vẻ trịnh trọng đáng kính bên ngoài, khi họ cố cắt nghĩa các bản văn, bình luận về giá trị và những chân lý ẩn chứa bên trong, thì sự cao ngạo hợm hĩnh của họ cho thấy, họ chỉ là những chuyên viên rỗng tuếch, không đáng tin cậy chút nào. Điều mà Đức Giêsu muốn huấn luyện cho các môn sinh của Ngài, không phải là những kiến thức uyên bác qua trường lớp, nhưng là giúp họ tiếp cận Lời của Thiên Chúa. Lời đó có sức biến đổi và khơi dậy sự tự hiến nơi họ. Đức Giêsu có một đám đông học trò vây quanh. Họ là những con người rất bình thường ở Galilê, ở Giuđêa hoặc đến từ một vùng nào đó. Đức Giêsu hướng dẫn họ đi tìm kiếm chân lý. Họ đã vây quanh Đức Giêsu, tỏ ra khao khát, khi ngài giảng dạy để giúp họ học hỏi về một thực tại sâu sa nhất, đó là về Thiên Chúa và về chính họ. Vào một ngày Sabbat, Đức Giêsu vào hội đường và giảng dạy dân chúng. Đám đông kinh ngạc về những điều Chúa Giêsu dạy bảo, bởi vì Ngài dạy dỗ họ như một Đấng có uy quyền, chứ không giống các kinh sư thời đó. Những nhà lãnh đạo tôn giáo, các ký lục và các nhà thông luật, đã được Marcô nhắc tới ở đoạn văn này, cho dù dường như họ không có mặt tại hội đường lúc bấy giờ. Marcô đã nhắc đến họ như một hình thái tương phản với uy quyền của Đức Giêsu. Có lẽ nếu những kinh sư có mặt ở đó, họ sẽ phản kháng ngay lập tức. Họ sẽ hạch sách vì lời dạy của Đức Giêsu đụng chạm đến cuộc sống và đặc quyền của họ. Chắc chắn họ không chấp nhận rằng uy quyền của Đức Giêsu đặt nền tảng trên Kinh thánh hoặc uy quyền đó khởi nguồn từ nơi Thiên Chúa.
Tuy nhiên, động thái cuối cùng của Đức Giêsu tại hội đường Capharnaum đã minh chứng rằng, uy quyền của Ngài qua lời giảng dạy, bắt nguồn đích thực từ nơi Thiên Chúa, khi Ngài chữa lành một người bị thần ô uế ám. Người bị quỷ ám la lên “Ông Giêsu Nazaret, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi. Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Đức Giêsu đã chữa cho người bị quỷ ám, và đám đông một lần nữa lại tỏ ra kinh ngạc. Sự ngạc nhiên của họ cũng gợi lại sự kinh ngạc khi họ nghe Đức Giêsu giảng dạy. Họ hỏi nhau “Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền.” Đó là sự hiện diện và uy quyền của chính Thiên Chúa, Đấng đang ở giữa họ. Uy quyền và những lời dạy đó không phải là một bài học lý thuyết để chúng ta động não và nhồi nhét vào đầu, nhưng là một thực tại linh thánh để chúng ta đi đến và gặp gỡ.
Các thầy giáo cần phải nắm bắt kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực mà mình giảng dạy, đặc biệt về thần học và kinh thánh. Sự chuyên sâu và có thẩm quyền để giảng dạy luôn cần thiết trong mọi lãnh vực chúng ta chuyên trách. Nhưng trên hết, tất cả chúng ta đều là học trò, đang thụ giáo nơi một vị thầy duy nhất. Thầy giáo đó có uy quyền thực sự, uy quyền đem đến cho ta niềm vui và ơn cứu độ. Học dưới ngôi trường này, và được thụ giáo nơi vị tôn sư này, chúng ta sẽ mãi mãi không bao giờ tốt nghiệp, và vị thầy đó mãi luôn còn hướng dẫn và dạy dỗ chúng ta. Ngài sẽ dạy chúng ta hướng đến một mục tiêu duy nhất: Đó là để chúng ta biết về mầu nhiệm Thiên Chúa, và đi đến sự hiệp thông trọn vẹn với Ngài.
34. Sống Lời Chúa sẽ trừ được quỷ trong ta
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Từ điển bách khoa wikipedia cho rằng theo quan niệm của một số tôn giáo và nền văn hóa, con người gồm thể xác và linh hồn. Khi thể xác chết, linh hồn xuất khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có hình hài con người, sẽ gọi là "ma", "hồn ma", "thánh", "thần" hay "thiên sứ". Theo tín ngưỡng Việt Nam, trong con người có cái vật chất và tinh thần. Cái tinh thần trừu tượng, khó nắm bắt, nên người xưa đã thần thánh hóa nó thành khái niệm linh hồn. Người Việt cho rằng con người có 3 hồn, 7 vía (nam), còn nữ có 9. Như vậy khái niệm ma đơn giản chính là linh hồn và vía của con người không hại ai.
Cũng cuốn từ điển này cho rằng quỷ xuất phát từ tiếng Hán Gwei(鬼), dùng để gọi linh thể của những người đã chết. Theo quan điểm của người phương Đông, sau khi chết đi, linh hồn của con người sẽ đầu thai chuyển thế vào kiếp khác. Nhưng vì một lý do nào đó, linh hồn không thể đầu thai mà vẫn lưu lại trên thế giới vật chất thì được gọi là quỷ. Còn theo Do Thái Giáo: Quỷ là các thiên thần lạc lối. Các thiên thần đều thờ phụng Đức Chúa là Thiên Chúa, trong đó vị tổng lãnh Thiên Thần là Michael. Tuy nhiên, có một thiên thần khác tên là lucifer đã nổi dậy cùng 1/3 thiên thần khác để giành quyền thống trị với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giáng phạt tống xuống đất thành tưởng quỷ Lucifer hay còn gọi là Satan, nghĩa là Kẻ Chống Đối. Qủa thế, Thánh Kinh dạy rằng “Con Rắn xưa, mà người ta gọi là quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó” (Kh 12,9). Kinh Thánh chỉ cho thấy rằng quỷ là những thiên sứ sa ngã cùng với Satan nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời. Như vậy, rõ ràng người Công giáo khi nói đến quỷ là hàm ý chỉ đến Xa-tan và các thiên thần sa ngã. Mà Thiên thần là loài thiêng liêng được Thiên Chúa dựng nên. Như vậy, khi nói quỷ Thánh kinh không bao giờ ám chỉ đến các linh hồn người đã qua đời và quỷ không có hình hài nào cả. Cho nên, người ta thường nói “ma hiền quỷ dữ”.
Đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe chứng minh quyền lực chiến thắng của Chúa Giêsu trên các sức mạnh của các tà thần được mệnh danh là quỷ dữ. Qủy nó dữ không phải nơi bộ mặt hay hình dáng mà là nó luôn cám dỗ ám hại thân xác và linh hồn con người vì chưng chúng hy vọng khi làm hại được con người thì làm hại được Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa quyền phép hơn chúng, thấu hiểu hết âm mưu sảo quyệt của chúng và có thể tiêu diệt chúng bất cứ lúc nào. Cụ thể, Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, đến giải thoát con người khỏi quyền lực của quỷ dữ chỉ bằng một lời phán: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này! Tên qủy lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta".
Tuy là thời đại văn minh khoa học kỹ thuật tân tiến, nhưng quỷ hiện diện khắp nơi, và thậm chí ẩn mình nơi mỗi người chúng ta để cảm dỗ và gây ác hại cho tâm hồn và thể xác chúng ta. Chẳng hạn, quỷ kiêu ngạo, nó làm cho cái tôi của chúng ta lên cao để rồi mình coi ai không ra gì, không ai tốt bằng tôi, đạo đức như tôi...! Cho nên tôi sẵn sàng triệt hạ, dèm pha, chê bai, trách móc, chửi bới, xét đoán, trừng phạt kẻ khác mà quên rằng tôi là cũng là người “nhân vô thập toàn”, không có ai trên đời này hoàn hảo cả, chỉ có Chúa Giêsu, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Thứ đến, con quỷ tham lam, mê ăn uống, nó cố gắng làm chúng ta lam tham hay ăn uống thái quá đánh mất nhân tính và đánh mất tình người. Ví dụ, ngày xưa chỉ vì ham lam tiền bạc mà Giuđa bán Chúa, là Thầy mình với giá chỉ 30 đồng bạc còn hôm nay vì ham tiền không bán người như Giuđa mà giết người luôn. Cụ thể, báo Zing điện tử đưa tin: sáng ngày 21/1, Nguyễn Văn Tiến đột nhập vào nhà để ăn trộm nhưng bị phát hiện liền giết cả gia đình ông Nguyễn Văn Cường (56 tuổi) tại thôn Ia Tang, xã Ia Kla, huyện Đức Cơ là người cùng làng với các nạn nhân. Hay mới đây Báo điện tử đưa tin: Anh Y del Ê-nuôi ở Đaklak nhậu xỉn ở quán nhậu, khi về nhà không thấy vợ đâu, anh đi tìm nhưng không gặp. Khi chị H’Bluân về thì 2 người nảy sinh mâu thuẫn, anh chồng đấm 2 cái vào mặt và đạp vào bụng vợ. Thấy vậy, chị H’Bluân liền vùng dậy bỏ chạy ra trước cổng. Anh ta đuổi theo rồi đấm đá liên tiếp vào mặt, lưng, đầu làm chị H’Bluân ngã xuống bất tỉnh. Được gia đình đưa đi cấp cứu nhưng chị đã tử vong do chấn thương sọ não, xuất huyết não. Con qủy tham lam đã làm hại đời người đáng sợ thay! Cho nên, Chúa Giêsu luôn nhắc bảo chúng ta rằng: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu" (Lc 12, 15).
Rồi trong bài đọc 2, Thánh Phaolô dạy chúng ta hãy khử con quỷ khoái lạc nơi chúng ta bằng cách hãy ăn ở tiết độ: Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa, còn người có vợ thì lo lắng việc đời, tìm cách làm đẹp lòng vợ. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời, tìm cách làm đẹp lòng chồng”. Còn, Thánh Phêrô dạy rằng “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1Pr 5,8-9).
Dù quỷ có hung ác đến cỡ nào, Chúa Giêsu vẫn trừ và loại chúng ra khỏi thân xác và tâm hồn của anh chàng thanh niên xưa và ngay cả chúng ta hôm nay. Vì chưng, Chúa là Đấng có thẩm quyền và Lời của Ngài có uy quyền trên các thần ô uế chứ không như các kinh sư. Vì vậy, chúng ta hôm nay, dù quỷ dữ đến và cám dỗ chúng ta dưới hình thức nào, chúng ta vẫn loại trừ được chúng nhờ có Lời và Thánh Thể Chúa Giêsu. Trên trần gian Chúa Giêsu đã trừ quỷ nhiều lần trong đời Ngài nhưng Satan vẫn trở lại, và thành công trong việc giết Ngài trên thập giá. Xem như quỷ đã hoàn toàn thắng. Nhưng sự Phục Sinh đã đem lại cho Chúa Giêsu sự chiến thắng vẻ vang. Vì vậy, trong mỗi Thánh lễ đều tái diễn: Đức Kitô chết – Đức Kitô sống lại, Chúa chúng ta chiến thắng quỷ dữ. Vậy, nhờ Thánh lễ chúng ta cử hành, nhờ việc sống Lời Chúa mỗi ngày, chắc chắn chúng ta được thêm sức mạnh và can đảm để xua đuổi quỷ ra khỏi tâm hồn và cuộc sống của mỗi người hầu tâm hồn chúng ta thật sự là đền Thánh Đức Chúa Trời ngự và cuộc sống chúng ta đầy ấp tình Chúa và tình người.
Lạy Chúa, xin thăm viếng chúng con, và đuổi xa mọi âm mưu ma quỷ. Xin sai thiên thần Chúa đến ở đây, để gìn giữ chúng con bình an, và xin tuôn đổ phúc lành trên chúng con luôn mãi. Amen.
35. “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền”
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ ưu việt mà ông Môsê đã tiên báo cho dân tộc Israel ở trong sa mạc: “Từ giữa anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ để giúp anh em”.
Trong Tin mừng, thánh sử Marco trình bày Đức Giêsu là một Đấng rất uy quyền trong lời nói cũng như trong hành động: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc, 1, 21).
- Uy quyền trong lời nói, vì lời rao giảng của Đức Giêsu là tin mừng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết. Lời nói của Ngài rất thực tế và hấp dẫn có thể thay đổi tâm hồn con người, biến cải con người nên thánh thiện đạo đức. Hơn nữa những gì Chúa rao giảng thì Chúa đã thực hành trong cuộc sống chứ không như các kinh sư “nói mà không làm; nói một đàng làm một nẻo”. Điều này đã được dân chúng, các thính giả của Ngài xác nhận; “Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền”.
- Uy quyền trong hành động, lời giảng dạy của Chúa Giêsu kèm theo các phép lạ, cụ thể qua việc Chúa chữa người bị quỷ ám. Hơn nữa chính ma quỷ phải công nhận “Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Trước lời rao giảng và phép lạ trừ quỷ thì “dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người… Ngài dùng uy quyền mà trừ thần ô uế”.
Lời giảng của Đức Giêsu là giáo lý mới mẻ! Sự mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời giảng của Đức Giêsu là “lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo” (Mc 1, 27). Chính thái độ vâng phục của ma quỷ trước uy quyền của Chúa Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới, thời đại của Đấng Thiên Sai đã đến.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Chúa, đồng thời nhạn ra quyền năng của Chúa bày tỏ trong vũ trụ vạn vật để ca tụng ngợi khen và yêu mến Chúa.
G. Coutois khẳng định: “Nếu chúng ta khiêm tốn sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng” của những người sống lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều”.
Tokichi Ishii, một tên sát nhân không gớm tay đã đạt kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi. Hắn tàn sát đàn ông, phụ nữ, trẻ em với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ khuyên nhủ hắn, tất cả những lời thăm hỏi, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn cuốn Tân ước với hy vọng mỏng manh hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động… Niềm hy vọng đã trở thành sự thật. Ishii đã đọc, Lời Chúa thu hút anh khiến anh tiếp tục đọc trình thuật cuộc tử nạn của Chúa Giêsu… Đọc đến câu: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”! (Lc 23, 34), anh dừng lại, suy nghĩ. Anh tâm sự: “Đọc đến câu này, con tim tôi bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu, là lòng thương xót của Ngài. Điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin vào Chúa”.
Các nhân viên nhà giam dẫn đưa anh đi hành quyết, họ rất ngạc nhiên thấy tử tôi Ishii hòa nhã, lễ độ, chứ không phải một tên sát nhân hung bạo. Ishii, tên tử tội đã được lời Chúa tái sinh (Trích Lẽ Sống, Radio Veritas).
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước
Là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105).
36. Một ngày ở Ca-phác-na-um
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến)
Ca-phác-na-um là một thành trì nằm sát Biển hồ Ti-ber-ri-a, nơi mà Chúa Giêsu vừa kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Nói về giao thông, thì Ca-phác-na-um thuận lợi hơn Giê-ru-sa-lem. Bởi vì, nó nằm gần sát trục lộ chính, trục lộ nầy là chiều dài của nước Do-thái, vì vậy, nó chạy xuyên xuốt nước Do-thai (song song với chiều dài Địa Trung Hải). Biển hồ Ti-ber-ri-a nằm ngay giữa trục lộ nầy, chạy dài xuống Biển Chết (Death Sea). Nơi Chúa Giêsu Giáng Sinh là Bê–lem (nguyên quán Vua Đa-vít), gần Giê-ru-sa-lem, gần Biển Chết. Nhưng, nơi sinh trưởng của Người là Na-za-ret, vì thế Người được gọi là “Giêsu Nazaret”. Na-za-ret gần Biển hồ Ti-ber-ria, vì vậy, Ca-phác-na-um là nơi giảng dạy đầu tiên của Người. Có thể ví Ca-phác-na-um như Vũng Tàu của Việt Nam, còn Thành Giê-ru-sa-lem như Hà Nội vậy.
Nhưng, Chúa Giêsu chỉ đến Ca-phác-na-um có một ngày “… Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về Lời dạy của Người. Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (c 21 -22).
Theo đó, Tin Mừng hôm nay được chia làm ba phần:
- Phần thứ nhất: Nói về sự giảng dạy của Chúa Giêsu tại hội đường Ca-phác- na-um (c 21-22).
Điều nầy nói lên rằng: Chúa Giêsu đang thực thi sứ mạng của mình. Người là Đấng Thiên Sai. Lời giảng dạy của Người có sức thu hút người nghe, bởi vì là Lời chân thật, Lời có sức thu hút, vì là Lời siêu nhiên. Chúng ta thấy một yếu tố thần học hiện rõ nơi Lời rao giảng của Chúa Giêsu, bởi vì là Lời Hằng Sống theo Thiên Tính của Người, còn theo nhân tính thì Lời ấy được phát ra từ chính một Con Người, có sức thu hút người nghe, bởi vì, Lời ấy không phải giảng dạy theo ý riêng của người rao giảng, mà là theo ý của Thiên Chúa. Chúng ta thấy ý nghĩa rõ rệt hiện ra ngay khi Chúa Giêsu rao giảng.Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền. Điều ấy có nghĩa là giá trị Lời nói của Chúa Giêsu hiện rõ lên. Nhưng người nghe có đón nhận hay không, và đón nhận như thế nào là tùy thuộc vào “mảnh đất tâm hồn“ của người đó. Chúng ta thấy sự khác biệt giữa sự giảng dạy của Chúa Giêsu và các kinh sư. Họ cũng giảng giải Thánh Kinh, nhưng theo ý của họ, chứ không theo ý của Thiên Chúa. Vì “họ nói mà không làm”, hoặc làm theo một cách máy móc, chứ không phát xuất từ tấm lòng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật là đoạn Tin Mừng gây ”nhức nhối” cho những ai đang rao giảng Lời Chúa. Vì, nếu muốn rao giảng như Chúa Giêsu, thì chúng ta phải “xin” cho có được một tâm hồn như Người. Và rao giảng như một con người tông đồ chân chính, chứ không rao giảng như một “con buôn”. Vì rao giảng Lời Chúa thì không phải là một chuyện dễ dàng, vì muốn rao giảng Lời Chúa thì phải sống như Lời Chúa dạy. Sở dĩ những người kinh sư không làm được như Chúa Giêsu, vì họ không sống được như Người.
- Phần thứ hai: (Từ câu 23-26) Chúa Giêsu trừ quỷ.
Chúng ta thấy, phần thứ hai của đoạn Tin Mừng hôm nay, là một sự chứng minh cho phần thứ nhất ở trên. Ngay lập tức, trong hội đường của họ, có người bị quỷ ám, la lên rằng: “Ông Giêsu Nazaret, chuyện chúng tôi liên quan gì đến ông, mà ông đến phá (tiêu diệt) chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi, Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c 24).
Chúng ta thấy, thẩm quyền của Chúa Giêsu là như vậy, chính thế lực tà thần phải thốt lên như vậy, vì phàm nhân không thể thấy được sự siêu phàm từ Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu quát mắng nó: “Hãy câm đi, hãy xuất ra khỏi người nầy!” (c 25). Rõ ràng, Lời của Chúa Giêsu có sức xua tan thần ô uế. Một phép lạ, một sự trừ tà ngay lập tức được Chúa Giêsu thực hiện. Chúng ta thấy, quyền năng nơi Chúa Giêsu, lập tức phát ra, nếu Người muốn. Tuy đây là buổi giảng dạy công khai đầu tiên, nhưng Chúa Giêsu đã bày tỏ Thiên tính uy quyền nơi Người, vì thần ô uế hiện diện nơi ấy, và nó sợ hãi Người, đồng thời phá rối việc Người giảng dạy.
Qua đó, chúng ta thấy, việc rao giảng Lời Chúa luôn phải đối phó với việc phá rối của tà thần. Nhưng, chúng ta đừng sợ, vì sự rao giảng Tin Mừng chân chính, thì Lời Chúa sẽ phá tan tất cả những thế lực tà thần. Đó là đức tin của chúng ta, đó là đức tin của Giáo Hội, chúng ta hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.
- Phần thứ ba: Sự kinh ngạc của những người chứng kiến (c 27-28)
Vâng, mọi người đều kinh ngạc, ai lại không kinh ngạc, bởi vì tất cả đều lạ lùng. Chúa Giêsu đã bày tỏ sự lạ lùng của Người. Họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, Người dạy lại có uy quyền…” (c 27). Như vậy, câu 27 đã minh chứng được phần đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay. Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư (c 22).
Rồi, “lập tức danh tiếng của Người đồn ra khắp nơi, khắp các miền lân cận Ga-li-lê (c 28). Nhưng, Chúa Giêsu là Người không muốn nổi danh, bởi vì sứ vụ của Người không phải để được nổi danh, mà là đem ơn “Cứu độ” cho nhân loại. Một điều gì đó cao cả hơn, ý nghĩa hơn, quan trọng hơn, xừng đáng hơn sự nổi danh của phàm nhân.
Khởi đi từ bài đọc I (Đnl 18, 15-20) hôm nay, minh chứng rằng tại sao Đấng cứu thế phải mặc nhân tính phàm nhân. Hầu để mang Lời Thiên Chúa qua sự hữu hình của nhân thế, mà ngày nay chúng at gọi là ”Ngôi Lời”. Vâng, “Ngôi Lời” đã làm Người, đã trở nên phàm nhân, nhưng, Thiên Tính là Bản Tính Thiên Chúa vẫn hiện hữu nơi Người. Đó là điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể và nhập thế. Đồng thời đó là ”Nhiệm Vụ tiên tri” của Đấng làm Người.
Bài đọc II (1Cr 7, 32-35), thánh Phao-lô cho biết ý nghĩa của nhân tính và thiên tính. Ai có gia đình thì chu toàn phận vụ gia đình. Ai không có gia đình thì chu toàn phận vụ Thiên sai.
Thánh vịnh 23 hôm nay, cho chúng ta biết, sự khải hoàn của Đấng Kitô là điều hiển nhiên. Đấng Kitô là Đấng công minh. Sự trong sạch và tấm lòng không vẩn đục.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trong thế gian, hầu mang ơn cứu độ đến cho nhân loại qua sứ vụ Thiên Sai, hầu biểu lộ Ngôi Lời của Thiên Chúa. Xin ban cho phàm nhân biết nhìn nhận và đáp trả, để đón nhận ơn giải thoát và bình an của Chúa. Amen.
37. Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ…
(Trích trong Website Giáo Phận Thái Bình)
Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền (Mc 1, 27)
Thánh Giêsu và Luca đều ghi lại phép lạ này như nhau. Nhưng thánh Giêsu bao giờ cũng đầy đủ chi tiết hơn. Phép lạ này xảy ra tại Capharnaum là một thành phố miền Duyên Hải, cũng là địa cứ trung tâm, nơi truyền giáo của Chúa ở đây. Thành phố này dù nhỏ vẫn có những hội đường để học hỏi về sắc luật và Kinh Thánh. Chúa Giêsu vào một trong những hội đường của Capharnaum, vào một ngày Sabát để giảng dạy. Trong số thính giả ngồi nghe có một nạn nhân bị quỉ ám, lúc ấy anh còn được một chút tỉnh táo bỗng anh cướp lời Chúa, thất thanh kêu lớn tiếng rằng: “Hỡi Giêsu Nadarét, chúng tôi và Ngài có liên hệ gì với nhau, Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi ư?” (c.23)
“Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi ư?” (c.23). Muốn nói rằng: không phải Chúa chỉ đến với Capharnaum mà còn đến với cả nhân loại nữa. Cũng không phải Chúa chỉ đuổi ma quỉ ra khỏi thân xác bệnh nhân mà còn xua đuổi chúng đến tận đáy hỏa ngục và không cho chúng cái thú làm hại người ta nữa (Cl 2,14).
Chúng ta nên lưu ý ở đây, Chúa Giêsu đã không khiêu kích quỉ dữ. Không một nơi nào trong Phúc Âm nói tới trong điều tương tự. Như thế là Chúa tôn trọng mọi tạo vật Ngài đã sáng tạo nên.
Nhưng khi tới lúc tới giờ Chúa đã xua đuổi chúng một cách nghiêm khắc, không biện luận nói năng gì nữa, Chúa phán rõ ràng rằng: “Hãy câm đi và ra khỏi người này” (c.25t) Chúa chỉ truyền một lời vắn tắt như một mệnh lệnh vô điều kiện: “Im đi”.
Tại sao ở đây ma quỉ lại xưng đúng danh tánh Chúa là “Giêsu Nadarét”, là “Đấng Thánh” mà Chúa lại bảo im đi? Thưa, khi ma quỉ nói thế không phải mục đích để tôn vinh Chúa đâu. Nhưng ma quỉ muốn đánh lạc hướng cho thính giả rằng: “Đấng Thánh” theo như người Do Thái mong tưởng phải là người bách chiến bách thắng khuất phục mọi chư dân về đầu hàng Israel. Vậy, ma quỉ nói lên như thế là mục đích làm cho thính giả nhớ tới một Đấng Cứu Thế trần tục, mà quên đi cõi siêu linh tâm hồn mà lúc ấy chúng đang ngự trị an toàn, mà giờ đây Chúa đến, làm chúng bất an, mất đất dụng võ.
Chúng bảo “Im đi” vì lời chúng nói không phải để tuyên xưng Chúa đâu, có khi chỉ là một dịp nhạo cười như kêu tên Chúa vô cớ, hay ít ra cũng không nói lên được chân lý nào, vì từ “bụi gai làm sao tìm được quả vả” nào bao giờ. Cho nên Chúa ra lệnh ngay: “Im đi và ra khỏi người này” (c.25). Ma quỉ tìm cách như là chống cưỡng lại, tỏ vẻ tức tối nên quật ngã nạn nhân giữa đám đông, hét to lên rồi đánh bỏ nạn nhân ra đi (c.26).
Phép lạ này cho thấy Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật. Ngài dạy dỗ với uy quyền của một vị Thiên Chúa, quyền này ngay trong thế giới thiêng liêng cũng phải công nhận và vâng lời tăm tắp. Khi quỉ ra khỏi nạn nhân “mọi người đều biết và kinh ngạc” và công nhận Chúa dạy một “giáo huấn uy quyền mới mẻ” (c.27).
Lời Chúa không bao giờ cũ xưa cả. Lời Chúa luôn mới cho những ai ham chuộng Lời Ngài. Mới ở chỗ sẽ được đổi mới nên hoàn thiện, trong thực hành. Nếu như chúng ta ham đọc Lời Chúa mà tấm lòng chúng ta cứ vẫn cũ rích, thì đó không phải là tại Lời Chúa mà là tại lòng ta là bụi gai, đá sỏi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho uy quyền Thiên Chúa và Lời Chúa thể hiện nơi đời sống chúng con, để Lời Ngài luôn hấp dẫn, luôn lôi cuốn chúng con hướng theo đường thiện, luôn là động lực giúp chúng con đổi mới.
38. Các Bạn Có Tin Ma Quỷ Không? – Guy Morin.
Anh chị em có tin Satan không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết phải trả lời ra sao nữa. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, ma quỷ đang hợp thời trang. Và anh chị em hãy nhớ lại sự thành công của phim Vị trừ quỷ và những lời của các nhà chính trị: nhà chính trị Mỹ xem nước Nga như là vương quốc của sự dữ và ông Khomeiny xứ Iran xem Hoa kỳ như là Satan vĩ đại.
Hình như có những nhóm nhạc Rock tôn thờ Satan. Một số người nói rằng họ khám phá ra trong đĩa hát của họ những sứ điệp của Satan.
Những mục linh tinh trên báo kể lại cho chúng ta những cuộc chém giết rất khủng khiếp như vụ Mc Donald ở Califonia (hai mươi mốt người bị giết) nên chúng ta có lý mà tự hỏi xem đây có phải là trường hợp quỷ nhập không. Bệnh tâm thần và đam mê có đủ để giải thích những tội phạm dường ấy không? Điều chắc chắn là sự dữ có thật, nhưng thủ lãnh của sự dữ thì sao?
Chúa Giêsu trừ một tên quỷ.
Trước việc trừ quỷ này, ta nên tránh hai thái độ trái ngược. Thái độ thứ nhất là chống đối và phủ nhận sự kiện này vì tính cách lạ lùng của nó. Vào thời Chúa Giêsu, người ta nhìn thấy ma quỷ khắp mọi nơi. Bệnh kinh phong, sốt, bệnh thần kinh đều được xem như bị quỷ nhập cả. Nhưng Chúa Giêsu chắc chắn đã đương đầu với những người bị quỷ nhập thật sự. Đây là trường hợp của bài Tin Mừng hôm nay.
Thái độ thứ hai là thích thú trước tính cách lạ lùng của đoạn Tin Mừng này. Thích thú về hiểu biết của Chúa Giêsu về thần dữ.
Thánh Marcô muốn truyền đạt cho chúng ta sứ điệp nào? Đó mới là điều quan trọng. Ý định của ông là cho chúng ta thấy Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng bằng cách nào: bằng cách dạy dỗ và trừ quỷ, việc trước dẫn đến việc sau.
“Đi vào trong hội đường, Chúa Giêsu giảng dạy”, và những người đã bị đánh động và ngạc nhiên. Thánh Marcô nói điều này hai lần, ở đầu và ở cuối trình thuật, và ông nêu rõ lý do. Đây là một giáo huấn mới mẻ có quyền uy khác hẳn việc dạy dỗ của các ký lục.
Mấy ông này chỉ lập lại những gì họ đã học nơi các vị kinh sư mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu đã không theo học trường phái nào cả: Ngài có một cái nhìn mới mẻ và nói những lời chưa bao giờ nghe nói. Không phải là những lời đã học thuộc lòng và với một uy tín mạnh mẽ như các ngôn sứ. Chúa Giêsu giải thích luật theo một nghĩa giải phóng và hợp với ý Thiên Chúa.
Giáo huấn mới mẻ và đanh thép này không chỉ làm cho các thính giả của Ngài kinh ngạc mà thôi. Ngài còn buộc kẻ bị quỷ nhập ẩn giấu giữa họ phải lộ diện. Quỷ dữ cảm thấy bị đe dọa bởi một lời quyền năng như thế nên nó đối đầu với Chúa Giêsu, và Ngài đã vạch mặt nó ngay.
Đồng thời, một khía cạnh quan trọng của Tin Mừng được mặc khải cho chúng ta: Tin Mừng làm cho người ta được tự do. Chúa Giêsu giải thoát các thính giả của Ngài khỏi những xiềng xích mà những giải thích luật Chúa theo cách nhỏ nhen của loài người đã ràng buộc họ. Ngài đến giải phóng con người khỏi sự dữ và Satan. Ngài đấu tranh vì con người, cuộc đấu tranh này sẽ dẫn đưa Ngài đến thập giá. Nơi đó, các lực lượng của sự dữ sẽ bị tiêu diệt.
Được giải thoát đến mức nào?
Cuộc chiến thắng dứt khoát của Chúa Kitô được cụ thể hóa trong thời gian theo cách chúng ta đón nhận Tin Mừng. Một cách nghịch lý, chiến thắng đã đạt rồi nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục.
Hôm nay chúng ta được mời gọi kiểm chứng ảnh hưởng giải phóng của chiến thắng ấy nơi chúng ta. Ta được mời gọi phát hiện những thông đồng của ta với sự dữ và với ma quỷ. Satan là “thủ lãnh của việc giết chóc” và “cha của sự dối trá”. Đối với đồng loại, chúng ta có sử dụng bạo lực và áp chế không, hay chúng ta là đầy tớ của họ? Chúng ta có sống trong sự thật với Thiên Chúa và với anh em chúng ta không?
Nguyện cho thánh lễ này, trong đó chúng ta tham gia vào cử chỉ giải phóng của Chúa Giêsu Kitô, làm cho chúng ta được tự do hơn nữa để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
39. Đấng Thánh Của Thiên Chúa – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Đôi khi vẻ đẹp và sự thật đến từ những nguồn mạch không trông đợi. Các bạn sẽ không trông đợi những người trẻ đã sáng tác ra những bản nhạc lừng danh, nhưng một đứa trẻ thiên tài Moza đã làm kinh ngạc những người đồng thời của ông. Và khi Chúa Giêsu xuất hiện trong hội đường Caphanaum không một người nào trông đợi một người bị thần ô uế ám, một người bị quỷ nhập tuyên bố sự thật về Người. Những lời của ông ám chỉ Chúa Giêsu có một chân lý sâu xa: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Hội đường là một nơi chứa đựng một vẻ đẹp và chân lý. Đó là nơi Lời của Thiên Chúa được linh ứng trong những cuốn Thánh Kinh Do Thái đã được tuyên bố và suy niệm ở đây. Một thầy Rabbi giảng dạy ý nghĩa của Thánh Kinh và hướng dẫn cầu nguyện. Từ khi bắt đầu sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu đã được biết như một thầy Rabbi, một vị kinh sư. Sau đó, mọi người đã nhận biết Người như một tiên tri, không đơn giản là một vị thầy nhưng thật sự là tiếng nói của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu có thói quen đi vào Hội đường vào ngày Sabát. Khi Ngài được chấp nhận vai trò Rabbi, vào những dịp đó Ngài thường làm viên mãn Lời hứa của Môisê khi tuyên bố với toàn dân rằng: “Một tiên tri giống như tôi sẽ là Chúa, Thiên Chúa của anh em, người đó sẽ xuất hiện từ giữa con cháu của anh em; và anh em sẽ phải lắng nghe “Người”.
Khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường Caphanaum, một người bị quỷ ám đã kêu: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” một sự bất ngờ chói tai, kẻ bị quỷ ám đã đưa ra “bài giảng” về sự đồng nhất của Chúa Giêsu. Những gì mà hắn thốt lên là sự thật. Tiếp đó Chúa Giêsu đã xác định việc làm chứng của kẻ bị quỷ ám bằng hành động của Ngài: Ngài đã đuổi quỷ ra khỏi kẻ quỷ ám. Thánh Marco đã ghi lại cho chúng ta câu chuyện đáng chú ý này, Ngài muốn chúng ta hiểu rằng, mục đích đầu tiên của việc xảy ra này không phải để hấp dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu như là một người chuyên làm phép lạ, nhưng hướng dẫn chúng ta thân mật với Người vì Người chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã có một nhận định khi Ngài nghĩ rằng người độc thân có thể phục vụ, làm nhiều điều cho Chúa. Nhưng kết hôn hoặc độc thân thì tất cả chúng ta đều được kêu gọi dâng chính mình cho Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Sau đó trong sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu đã đưa ra một bài giảng trong cùng một Hội đường này ở Caphanaum, Ngài đã hoàn tất lời hứa là Ngài sẽ ban Thân Mình và Máu Mình như thực phẩm, và là của ăn của uống để ban cuộc sống đời đời.
Những tổ phụ đầu tiên của chúng ta trong đức tin đã tiếp tục đi tới hội đường trong những ngày Sabát, tiếp đó, ngày Chúa Nhật họ đã họp nhau để cử hành Thánh Thể tại một nhà nào đó. Khi những người dân ngoại bắt đầu gia nhập Giáo Hội, hội đường phục vụ Thánh Kinh, bài giảng, và cầu nguyện nối kết với hy tế Thánh Thể vào ngày Chúa Nhật. Lời và Bí tích, Thánh Kinh và Thánh Thể trở thành nối kết thân thiết, chúng đã hình thành một sự độc nhất của việc thờ lạy.
Ngày Chúa Nhật chúng ta được đặc ân là thông dự vào hành động này của việc thờ lạy mà bây giờ chúng ta gọi cách đơn giản là Thánh Lễ. Chúa Giêsu vẫn hiện diện với chúng ta trong Lời và trong Bí tích Thánh Thể. Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng “đó là chính Đức Kitô, Người đã nói với chúng ta trong Thánh Kinh, khi Thánh Kinh được tuyên bố trong phụng vụ”. Đó là sự thật Chúa Kitô nói với chúng ta bằng ngôn ngữ của loài người. Giáo Hội nhấn mạnh rằng đó là chính Đức Kitô đã đến với chúng ta trong Thân Mình và Máu Người dưới hình bánh, rượu. Việc rước lễ làm viên mãn lời hứa của Chúa Giêsu trong hội đường Caphanaum rằng Ngài đã cho chúng ta Thịt làm của ăn và Máu làm của uống. Mỗi khi tham dự Thánh Lễ chúng ta được trao cho cơ hội để đến với Chúa Giêsu như là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
40. Chúa Giêsu Kitô đã thắng satan – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn Phúc Âm này đặc biệt hữu ích vì nó đặt chúng ta trước một sự biêu dương hết sức rõ rệt về quyền năng của Thiên Chúa trên ma quỷ. Thực ra, ý định của Maccô cũng muốn nhắm tới mục đích ấy: là chứng minh quyền lực chiến thắng của Chúa Giêsu trên các sức mạnh của tà thần, đặc biệt trên các tà thần được mệnh danh là ma quỷ.
Sự phát triển của Mạc khải qua tiến trình của Cựu Ước, vào thời Chúa Giêsu, đã đưa tới niềm tin rằng: có những tà thần cũng là loài thọ tạo của Thiên Chúa, nhưng đã phản loạn chống lại Thiên Chúa. Chúng là địch thủ của con người. Chúng chỉ theo đuổi sự dữ, dốc tâm làm hại con người mà qua họ, chúng hy vọng làm hại được Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa vô cùng quyền phép hơn chúng. Phúc Âm chứng tỏ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, đến giải thoát con người khỏi quyền lực của ma quỷ. Đoạn phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta nghe một phần của cuộc chiến thắng giải thoát ấy cuả Đức Kitô.
Vào thời Chúa Giêsu, não trạng dân chúng là nhìn thấy ma quỷ ở khắp những nơi có sự dữ. Thực ra, sự dữ cũng là kết quả của sự tự do con người khi tự do đó bị lạm dụng hoặc trệch ra khỏi đường ngay nẻo chính. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà một sự thất bại nào đó của tự do đã đem con người vào vòng đau khổ của bệnh tật và chết chóc. Quan niệm thông thường vào thời Chúa Giêsu lại có xu hướng gán cho ma quỷ đã tra tay vào mỗi khi có bệnh tật. Những câu chuyện ‘đuổi quỷ’ trong phúc âm lệ thuộc vào não trạng đương thời và phải được hiểu cách đơn giản, là Chúa Giêsu có quyền thế trên sự dữ nói chung và trên bệnh tật nói riêng. Rất nhiều trường hợp được coi là quỷ ám, thực ra chỉ là những thứ bệnh. Nhưng câu chuyện mà thánh Luca đưa ra trong bài hôm nay trình bày một vụ quỷ ám thực sự mà Chúa Giêsu đã dùng quyền năng Ngài để giải thoát. Đoạn Phúc Âm này có thể hiến chúng ta nhiều đề tài suy tư. Chúng ta hãy dừng lại ở điều này.
1. Quỷ đã tỏ hiện trước khi Chúa Giêsu ra lệnh cho nó đi. Chắc chắn là Chúa biết có quỷ ở đó, nhưng Ngài bận tâm lo giáo huấn con người, bằng cách tỏ ra với họ thái độ tích cực của kẻ mang chân lý đến nên chính ma quỷ đã không chịu nổi sự hiện diện của Chúa và nó liền bắt đầu gào thét. Sự kiện đó đầy ý nghĩa. Để tóm tắt, khi chúng ta nhớ lại những gì đã xảy đến với các thánh tông đồ và hết các môn đệ lỗi lạc của Chúa từ nguyên thuỷ cho đến nay, chúng ta có thể nói được rằng: người bạn đích thực của Đức Kitô hôm nay vẫn còn sử dụng được đặc ân gây khó dễ cho mọi sức mạnh tà thần. Người bạn đó phải hiểu biết điều ấy. Người bạn đó phải lo hành động tích cực để truyền thông sứ điệp Tin mừng, rồi sẵn sàng chờ đợi một sự ‘la lối’ nào đó nổi lên trên con đường hành động của mình. Nối ưu tư duy nhất của mình chỉ là sự kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã chiến thắng ma quỷ.
2. Phúc Âm nhắc nhở chúng ta: là ma quỷ có thực. Một ‘lối’ mới ngày nay xuất hiện trong Giáo Hội muôn liệt chuyện ma quỷ vào hàng huyền thoại. Nhưng Giáo Hội vốn trung thành với Phúc Âm, lấy chuyện có ma quỷ làm một quả quyết của đức tin. Chúng ta phải luôn nhớ rằng sự dữ không phải là một sự trừu tượng chỉ có trong đầu các nhà trí thức. Nhưng có một thực tại thuộc nhân cách. Sự hỗn loạn mà sự dữ reo rắc vào thế gian chỉ có thể đến từ hành động cá nhân. Không phải nhìn thấy ma quỷ khắp nơi, và phải biết rằng sự yếu đuối con người có thể biện bạch cho nhiều chuyện bất hạnh, song để đề phòng cho bản thân, chúng ta đừng bao giờ quên là bằng cách công khai hay nham hiểm ma quỷ luôn luôn chống lại Phúc Âm.
41. Người trừ quỷ.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh chị em có tin ma quỷ không? Anh chị em có thực sự tin không? Anh chị em không biết phải trả lời ra sao nữa. Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, ma quỷ đang là vấn đề thời sự. Anh chị em hãy nhớ lại sự thành công của một cuốn phim mang tựa đề: “Exorcist” (Người trừ quỷ) được ra mắt khán giả vào năm 1970 đã phá kỷ lục bán vé. Chuyện phim kể lại một chàng thanh niên bị quỷ ám, giống hệt anh chàng trong Tin Mừng hôm nay. Cuốn phim được xây dựng dựa trên một trường hợp có thật của một cậu bé 14 tuổi, sống tại vùng Mt. Rainier, bang Maryland, vào năm 1949.
Một hôm trong phòng của cậu bé, các tranh ảnh, ghế bàn và chiếc giường của cậu bé đột nhiên di động. Ban đêm hầu như cậu ta không thể nào ngủ được, vì luôn bị quấy phá. Sau khi được nhận vào bệnh viện, cậu bé bắt đầu lầm bầm trong miệng những lời nguyền rủa hung hãn bằng những thứ cổ ngữ, và đến một lúc nào đó, dù cậu đang bị cột vào chiếc giường ngủ, thì trên thân xác cậu lại hiện ra những vết cào dài nhuốm máu. Cuối cùng cậu đã được cứu sống nhờ được một linh mục trừ tà, và hiện nay cậu đang sinh sống tại vùng Thủ đô Washington. Một linh mục già từng tham gia vào việc trừ tà cho cậu bé đã thề hứa sẽ không bàn luận gì về việc ấy, ngài nhấn mạnh rằng kinh nghiệm này đã thực sự biến đổi cuộc sống của ngài tốt đẹp hơn.
Thưa anh chị em, như đám đông dân chúng chứng kiến Chúa Giêsu trừ quỷ ở Hội đường Caphanaum đã bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo”. Chúng ta cũng thắc mắc: Đâu là ý nghĩa sâu xa ẩn chứa đàng sau quyền năng của Chúa Giêsu xua đuổi ác thần, quyền năng mà Chúa Giêsu đã trao ban cho Giáo Hội của Ngài?
Để trả lời cho câu hỏi này, Chúa Giêsu nói: “Ta trừ quỷ chính nhờ quyền năng Thiên Chúa, và điều ấy chứng tỏ rằng Nước Thiên Chúa đã đến với các ngươi rồi” (Lc 11,20). Ý nghĩa sâu xa hơn ẩn chứa đàng sau việc Chúa Giêsu trừ quỷ chính là Vương quốc của Satan từng kiềm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ kể từ khi Ađam phạm tội, giờ đây đang nhường chỗ cho Vương quốc của Thiên Chúa: Nước đã đổi chủ. Nước Thiên Chúa đã đến. Điều này gợi ra cho chúng ta một vấn nạn khác: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa từ 2000 năm nay, vậy thì tại sao đến ngày hôm nay, điều ác vẫn còn lan rộng trên thế giới? Nói cách khác: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại sao Vương quốc Satan cũng vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày nay?
Dĩ nhiên câu trả lời sẽ là: Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một bước tiến từ từ. Nó không phải là biến cố xảy đến chỉ một lúc, mà là một chuyển động liên tục xuyên suốt dòng lịch sử. Đức Giêsu đã khai mạc Vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài trao phó cho chúng ta công việc hoàn tất: Đó là lý do tại sao trong lời Kinh Lạy Cha, chúng ta vẫn cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến”. Chúng ta có thể sánh ví Vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Chúa Giêsu trồng cây ấy, nhưng Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho nó. Nhiệm vụ của chúng ta là chăm sóc làm sao cho Vương quốc ấy sinh hoa kết trái theo đúng ý định của Thiên Chúa.
Nhưng tại sao Vương quốc Thiên Chúa lại chậm đến như thế? Tại sao Vương quốc Satan lại lâu lụi tàn như thế? Đó là vì chúng ta đã không hoàn tất nhiệm vụ của chúng ta một cách thỏa đáng. Chúng ta đã không thực hiện trách nhiệm làm hoàn tất Vương quốc ấy đúng như chúng ta đã có thể làm. Thậm chí, có khi chính chúng ta lại đồng lõa với Satan, với thế lực của sự ác để làm lùi bước tiến của Nước Chúa.
Chúa Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất, nhưng cuộc chiến với Satan còn kéo dài đến tận thế. Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Anh chị em thân mến, Satan, ma quỷ thường được mô tả như một con vật xấu xí và đáng sợ. Nếu thế thì chúng ta rất dễ nhận ra nó, và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta. Trong thực tế, ma quỷ không bao giờ hiện nguyên hình của nó để cám dỗ chúng ta. Nó luôn ẩn nấp dưới những hình dáng xinh đẹp và hấp dẫn. Nó tấn công chúng ta bằng thủ đoạn tinh vi, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân cũng như tập thể. Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều. Nhưng chắc hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết. Kitô giáo không bịa ra ma quỷ để hù dọa tín đồ. Ma quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo chúng ta xa Chúa. Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người. Chúng phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo. Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám. Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám bởi nhiều thứ quỷ: quỷ tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ… Có những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh… Cái ám nào cũng làm ta mất tự do, mất trong trắng. Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong ta, trở nên ô uế. Nó bắt chúng ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình vi tính. Chúng ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen. Chúng ta thấy mình bất lực, nên cần “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi: “Hãy xuất ra khỏi người này!”. Nhờ ơn Chúa, tôi cũng muốn ra lệnh cho ma quỷ hãy xuất ra khỏi thế giới này.
Hôm nay chúng ta được mời gọi kiểm chứng cuộc chiến đấu của chúng ta với Satan, để phát hiện những thông đồng của chúng ta với sự ác và với ma quỷ. Satan là “thủ lãnh của việc giết chết” và “cha của sự dối trá”. Đối với đồng loại, chúng ta có sử dụng bạo lực không, hay chúng ta sống yêu thương và phục vụ? Chúng ta có sống trong sự thật với Thiên Chúa và với anh em chúng ta không?
Nguyện cho Thánh lễ này, trong đó chúng ta tham gia vào cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên ác thần, trên tội lỗi và sự chết, làm cho chúng ta được tăng cường sức sống của Chúa để cộng tác với Ngài chiến đấu và chiến thắng sự ác trong ta và trong thế giới.
42. Ngài dạy dỗ họ như Đấng có uy quyền
(Suy niệm của Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu)
Đây là cuộc chạm trán thứ hai giữa Đức Kitô và "thần ô uế". Chúng ta hẳn không quên Đức Kitô "ở trong sa mạc bốn mươi ngày chịu satan cám dỗ" (Mc 1,13 và Lc 4,1-13). Lần này Satan nhập vào một người và đối đầu với Người ngay tại hội đường Do Thái, nơi Người đang giảng dạy. Dân chúng đã kinh ngạc về những giáo thuyết của Ngài: điều Ngài giảng dạy không những khác với những điều họ vẫn nghe từ miệng các tư tế và ký lục thời đó, nhưng đặc biệt, Ngài nói với uy quyền: tỏ lộ ra trong cách nói, trong nội dung lời giảng dạy. Đám thính giả hôm nay còn "kinh hoàng" khi được chứng kiến tận mắt uy quyền của Đức Kitô trên thần ô uế: "Ngài truyền khiến được cả các thần ô uế, và chúng vâng lời Người" (Mc 1,27). Lời gào thét của thần ô uế còn vang vọng mãi:
"Giêsu Nazareth, chúng tôi với Ngài nào có việc gì? Ngài đã đến để tiêu diệt chúng tôi ư? Tôi biết Ngài là ai: Đấng Thánh của Thiên Chúa!"
Nước Thiên Chúa đã đến trong thế gian, nước của ánh sáng xua tan bóng tối và sự chết (bài ca mừng lửa mới trong đêm thánh vọng Phục Sinh). Lời tuyên án từ buổi khai nguyên vũ trụ này đã đến lúc thực hiện: "Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, con ngươi sẽ táp lại gót chân người" (St 3,15). Kể từ giây phút tuyên chiến đó, mãnh lực thù địch Thiên Chúa và loài người hằng tìm mọi phương cách hòng áp đặt quyền lực đen tối trên địa cầu. Nhưng nay thì dòng giống sinh ra bởi người đàn bà sẽ đạp đầu loài rắn độc: "Ngài đến để tiêu diệt chúng tôi ư?"
Nhân loại sẽ thắng loài quỷ đỏ hung tàn với điều kiện là biết tuân nghe lời Đấng Messia vì "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa", nghĩa là con Thiên Chúa và Đấng Cứu Chuộc loài người Thiên Chúa sai đến (Mc 1,10; Lc 1,35; Ga 6,69). Ngài giảng dạy "một cách quyền uy" vì Người là Ngôn Sứ Thiên Chúa, loan báo trung thực những lời Thiên Chúa: Ta sẽ cho chỗi dậy giữa anh em chúng một Ngôn Sứ như ngươi. Ta sẽ đặt các lời của Ta nơi miệng nó, và nó sẽ nói với chúng mọi điều Ta truyền cho chúng. (Đnl 18,18). Ai tin nghe lời Người sẽ được cứu thoát, ai không nghe sẽ bị luận tội (Đnl 18,19). Chính "Người Đàn Bà" vẫn hằng nhắc nhủ con cái loài người đến cuộc chiến quyết liệt này và đề nghị những phương thế hữu hiệu hầu chiến thắng tà thần. Hãy đọc sứ điệp Fatima, ở Lộ Đức... hay bất cứ nơi nào Đức Mẹ hiện ra, loài người sẽ thấy được những phương thế ấy. Nhưng thế giới hôm nay, và chúng ta những Kitô hữu, những người đã thề "từ bỏ tà thần và mọi việc làm của nó" khi lãnh nhận phép Rửa tội, chúng ta có đem ra thực hiện những lời Mẹ nhắn nhủ không?
"Để anh em sống đoan chính, và được khăng khít với Thiên Chúa không hề lơi" (1 Cr 7,35).
Sau khi đã đề cập đến vấn đề hôn nhân, thánh Phaolô nói đến vấn đề đồng trinh và độc thân. Nếu đọc toàn mạch văn của riêng bài đọc hôm nay chúng ta thấy thánh Phaolô khuyến khích sống độc thân và ở đồng trinh. Câu kết luận đưa chúng ta đến một nhãn quan mới: hôn nhân hay đồng trinh đều được chấp nhận, điều cốt yếu là "để anh em sống đoan chính, và được khăng khít với Chúa không hề ngơi". Đành rằng, khi sống trong bậc gia đình, người ta dễ bị "chia sẻ" vì tình yêu trần thế... nhưng chắc chắn đó không phải là một trở ngại cho tình yêu Thiên Chúa và con đường nên thánh.
43. Xua đuổi ma quỷ – Arthur Tone.
Một nông dân giàu có nhất trong huyện và rất keo kiệt. Ông đã hối cải, khi ông ý thức rằng. Ông chỉ là một người quản lý đất đai và một người giữ tiền. Không lâu sau đó, một người lối xóm nghèo bị chấy hết cửa nhà, đến gõ cửa xin đồ ăn. Nông dân giàu có này định cho người ngheo một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp. Ma quỷ nói thầm bên tai ông: “Cho hắn cái đùi heo nhỏ nhất”.
Người giàu có này chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của ông. Cuối cùng lòng quảng đại đã thắng. Ông lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỷ cười nhạo ông: “Mày khùng quá”. Nhưng người nông dân bịt miệng y: “Nếu mày không đứng im, tao cho hết mọi đùi heo tao có”.
Chúng ta vừa nghe Đức Giêsu đuổi ma quỷ ra khỏi người bị ám.
Thời đại chúng ta có nhiều chuyện liên quan đến ma quỷ, không những do những cuốn sách, những phim ảnh; gọi là “người trừ quỷ”, nghĩa là một người có thể xua đuổi ma quỷ, mà còn do những nhóm người kỳ dị, họ thờ cúng Satan.
Thật là một lầm lẫn lớn thường thấy ngày nay khi nghĩ rằng ma quỷ ở đâu xa, một nơi nào đó. Nó ở trong một người nào khác chứ không có trong tôi. Thực sự, ma quỷ có mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa, chúng ta không hoàn toàn dưới sự kiểm soát của chúng. Nhưng cái tinh thần ma quỷ thì ở trong hầu hết mọi con người.
Người hà tiện trong câu chuyện đã đánh bại con quỷ keo kiệt. Nhưng nó vẫn còn cám dỗ ông keo kiệt tiếp. May thay ông lại đánh bại nó.
Con quỷ kiêu hãnh ở trong nhiều người chúng ta. Chúng ta phải đánh bại nó hoài hoài, nói được là mọi lúc. Nhưng chúng ta phải luôn cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng chúng ta thật là một nhân vật quan trọng do công nghiệp của riêng mình.
Quỷ mê ăn uống, nó cố gắng làm chúng ta ăn uống thái quá, nhất là uống rượu quá độ. Nó không bao giờ từ bỏ ý định xô đẩy chúng ta ra khỏi tinh thần tiết độ.
Quỷ khoái lạc là một con quỷ có mặt nạ dễ thương, có nhiều bạn trợ giúp như Tivi, phim ảnh, tòa án ly dị, sách báo đồi trụy và bạn bè xấu nết. Tuy nhiên nó cũng phải bị đánh bại. Hàng triệu người đã đánh bại nó.
Bất chấp ma quỷ đến với chúng ta dưới hình thức nào. Chúng ta luôn luôn có thể nương tựa vào Đức Kitô hộ giúp. Trên trần gian Chúa chúng ta đã trừ quỷ nhiều lần trong đời Ngài như trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng Satan vẫn trở lại, và thành công trong việc giết Đức Kitô trên thập giá. Xem như ma quỷ đã hoàn toàn thắng. Nhưng sự Phục Sinh đã đem lại cho Đức Kitô sự chiến thắng.
Trong mỗi thánh lễ, trên chiến long trời, lở đất này tái diễn: Đức Kitô chết – Đức Kitô sống lại. Trong sự lập lại chiến thắng của Chúa chúng ta. Bạn và tôi được thêm sức mạnh và can đảm để xua đuổi ma quỷ ra khỏi cuộc sống của mỗi người. Hãy tìm kiếm con quỷ trong cuộc đời riêng của bạn và với sự trợ giúp của Đức Kitô; Bạn trục xuất hắn ra.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.
44. Lời ngôn sứ
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
"Chúng tôi không dám nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết" (Đnl 18,16). Thấy dân chúng kêu ca có lý, Thiên Chúa hứa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ và Người sẽ đặt lời của Người vào miệng ngôn sứ. Như thế, sứ ngôn là người nói thay cho Thiên Chúa, nói nhân danh Thiên Chúa, nói đúng Thánh ý Thiên Chúa. Sự tồn vong của ngôn sứ hệ tại ở sứ mệnh cao cả và lắm cũng gian truân này. Vì ngôn sứ nào cả gan nhân danh Thiên Chúa mà nói lời Người đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết (x. Đnl 18, 20).
Tuy nhiên làm sao để biện phân đâu là ngôn sứ thật và đâu là ngôn sứ giả? Làm thế nào để nhận biết một ngôn sứ thật nhưng không nói lời Thiên Chúa truyền mà chỉ nói lời của mình hay lời của các thần giả trá xui khiến? Một Đại Ngôn sứ, một ngôn sứ trên mọi ngôn sứ đã xuất hiện chính là Đức Kitô. Bài trích Tin mừng thánh Maccô mà Hội Thánh giới thiệu trong thánh Lễ Chúa Nhật IV TN B gợi mở cho chúng ta hai tiêu chí để thẩm định sự chính danh, chính ngôn, chính phận của một ngôn sứ.
Lời có uy quyền: Dân chúng kinh ngạc vì Chúa Giêsu giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như các kinh sư. Lời nói của một đấng có uy quyền thì thuyết phục người nghe và làm cho người nghe biết nghe theo. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu có uy quyền không chỉ vì nội hàm của chúng mà trên hết vì Người là Ngôi Lời, đồng thời chính Người là người tiên phong sống và thực hiện những gì Người giảng dạy.
Các Kinh sư cũng giảng dạy nhưng họ lại không sống điều mình giảng dạy khiến Chúa Giêsu đã từng nói với dân chúng rằng: "Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm và hãy giữ, nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất trên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào." (Mt 23,2-4). Đức cố giáo Hoàng Phaolô VI đã từng nói: ngày nay người ta không thích nghe (nghe theo) những nhà giảng thuyết mà lại nghe theo những chứng nhân. Sở dĩ người ta nghe theo các nhà giảng thuyết vì họ đã là những chứng nhân, tức là đã thực hiện những gì mình giảng dạy.
Lời có sức diệt trừ sự dữ và ban sự sống: Dân chúng sững sờ nói với nhau: "Thế nghĩa là gì? Lời giảng dạy thì mới mẻ, Người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!" (Mc 1,27). Thần ô uế bị trục xuất thì người bị quỷ ám được chữa lành. Lời của Ngôn sứ thật là lời phát xuất từ Thiên Chúa. Xưa Thiên Chúa đã phán với Giêrêmia: "Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng" (Gr 1,9-10).
Cả hai hiệu quả là diệt trừ sự xấu, sự dữ và trao ban sự sống, những điều thiện hảo cùng đi sánh đôi. Nếu chỉ tuyên phán những lời hứa tốt đẹp hay ngược lại chỉ nói những lời quở trách phê phán mà thôi thì hầu hết là do thần dữ xúi khiến. "Đức Chúa các đạo binh phán như sau: 'Đừng nghe lời các ngôn sứ (giả hiệu) tuyên sấm, chúng phỉnh phờ các ngươi; điều chúng nói chỉ là thị kiến do tưởng tượng, chứ không phải do miệng Đức Chúa phán ra. Chúng dám nói với những kẻ khinh miệt Ta: 'Đức Chúa phán: anh em sẽ được bình an!' Và với những kẻ lòng chai dạ đá: 'Tai hoạ chẳng bao giờ ập xuống anh em' (Gr 22,16-17). Vì tuyên bố những lời dối trá phỉnh phờ dân nên ngôn sứ giả Khanangia đã phải bị trừng phạt nhãn tiền (x. Gr 28,1-17).
Sứ mạng ngôn sứ của mọi Kitô hữu: Từ khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mọi Kitô hữu đều đã được thông phần vào ba chức vụ của Chúa Kitô là ngôn sứ, tư tế và vương giả. Đường lối của Thiên Chúa thì trước sau như một. Xưa nhiều lần, nhiều cách Người đã nói với tổ tiên cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, đến thời viên mãn Người đã nói với loài người chúng ta cách trọn vẹn qua chính Người Con Một làm người là Chúa Giêsu Kitô (x. Dt 1,1-2). Và mãi cho đến ngày tân thế, Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục nói với loài người qua những con người. Nhân loại này, thế gian này vẫn mãi cần đến sứ ngôn để nhận biết thánh ý Thiên Chúa. Con người, đặc biệt các Kitô hữu được mời gọi làm ngôn sứ của Thiên Chúa để nhân danh Thiên Chúa, nói lời của Người.
Sứ mạng ngôn sứ thật cao cả và cũng thật lắm gian truân, nguy hiểm. Sự hiểm nguy, gian truân không chỉ đến do người đời bách hại mà còn có thể do bởi chính các ngôn sứ, vì lý do nào đó, đã không nói lời của Thiên Chúa mà chỉ nói lời của mình, thậm chí con nói lời do thần dữ xui khiến. Để tránh những tai hoạ này, không gì hơn, Kitô hữu chúng ta, cách riêng những người chuyên lo việc giảng dạy hãy xét xem mình đã thực hiện ra sao điều mình giảng dạy, hãy xét xem những lời mình giảng dạy có sức thuyết phục như thế nào và đồng thời hãy xét xem các lời tuyên dạy của mình có đủ đầy tính vừa xua trừ sự xấu, sự dũ và vừa làm phát sinh tình yêu, phát sinh sự sống như thế nào?
45. Hãy xuất khỏi người này
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Một ông thợ ở Nadarét được mời giảng trong hội đường.
Maccô không cho ta biết Đức Giêsu đã giảng gì. Chỉ biết nội dung của lời giảng thì mới mẻ, và cách giảng thì khác hẳn với các kinh sư.
Kinh sư thì giải thích Kinh Thánh với thẩm quyền. Còn Đức Giêsu giải thích Kinh Thánh với uy quyền. Ngài chẳng phải dựa vào sách vở, vào truyền thống có sẵn.
Một cách mới mẻ và đầy uy quyền, Đức Giêsu loan báo Triều đại Thiên Chúa đã đến, triều đại của Xa-tan phải bị đẩy lui.
Quả vậy, sự hiện diện của Ngài trong hội đường ngày hôm ấy đã khiến cho thần ô uế phải chường mặt ra và khiếp sợ. Đức Giêsu ra lệnh: "Hãy câm đi và xuất khỏi người này." Thần ô uế chẳng muốn từ bỏ căn nhà nó đã ở. Nó chỉ ra sau khi đã vật vã người ấy và thét lên.
Đức Giêsu đã chiến thắng và giải phóng ta khỏi nô lệ. Ngài khai mở Nước Thiên Chúa trên mặt đất. Nhưng cuộc chiến với Xa-tan còn kéo dài đến tận thế. Chúng ta phải cộng tác để Nước Chúa mau thành tựu.
Quỷ thường được vẽ như một con vật xấu xí đáng sợ. Nếu thế thì ta rất dễ nhận ra nó, và nó cũng khó lòng cám dỗ được ta. Trong thực tế, quỷ mang dáng dấp xinh đẹp và hấp dẫn. Nó tấn công ta bằng những thủ đoạn tinh tế, ngọt ngào. Nó nắm rõ điểm yếu nhất của từng cá nhân, tập thể.
Xưa nay, người bị quỷ nhập thực sự chắc không nhiều. Nhưng hẳn nhiều người bị quỷ lèo lái mà không biết.
Kitô giáo không bịa ra quỷ để hù dọa tín đồ.
Quỷ là những mãnh lực xấu xa, cố kéo ta xa Chúa. Chúng chống lại Thiên Chúa và hạnh phúc đích thực của con người.
Quỷ phỉnh phờ con người bằng thứ hạnh phúc giả tạo. "Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho tất cả". Làm gì có hạnh phúc vững bền khi ta quay lưng với Thiên Chúa!
Chúng ta tự hào mình không bị quỷ ám. Nhưng thế giới hôm nay vẫn bị ám ảnh bởi nhiều thứ khác: tham vọng và dục vọng, sợ hãi và oán thù, ích kỷ và hưởng thụ...
Có những điều vốn không xấu cũng trở thành ngẫu tượng: tiền bạc, tiện nghi, thời trang, công việc làm ăn, phim ảnh...
Cái ám nào cũng làm ta bớt tự do, bớt là mình.
Cái ám từ ngoài vào, ở lại trong ta và không chịu ra.
Cái ám khi trở thành tuyệt đối thì làm ta trở nên ô uế.
Nó bắt ta phải nghĩ, phải sống như theo một lập trình. Ta không thể làm khác, không thắng được bản năng và thói quen.
Ta thấy mình bất lực, nên cần Đấng Thánh của Thiên Chúa.
"Hãy xuất ra khỏi người này": Hôm nay Chúa muốn nói với tà thần ở trong tôi như vậy.
Tôi cầu xin Ngài trục xuất khỏi tôi điều gì?
"Hãy xuất ra khỏi thế giới này": Nhờ ơn Chúa, tôi cũng phải ra lệnh cho ma quỷ như vậy.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lời xin cuối của kinh Lạy Cha: Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Theo sách Giáo Lý Công Giáo, sự dữ ở đây để chỉ một nhân vật, đó là Xa-tan, là vị thiên thần đã chống lại Thiên Chúa, là ma quỷ (số 2851). Bạn tin có Xa-tan, có ma quỷ không? Ma quỷ đã có tác động xấu nào trên đời bạn?
Ma quỷ là kẻ dối trá và hay đánh lừa con người (Ga 8,44). Có khi nào việc bạn làm lúc đầu thấy là tốt, sau cùng lại thấy nó dẫn đến điều xấu không? Bạn có khi nào bị ma quỷ đánh lừa không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.
46. Ma quỷ thời đại mới
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.
Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề. Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.
Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.
Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn heo đang ăn bên bờ biển, và cả đàn heo lăn xuống biển chết hết.
Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.
Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các Tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.
Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.
Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.
Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.
Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
47. Ma quỷ
Có một bác nông dân rất giàu nhưng cũng lại rất keo kiệt. Thế rồi bác hối hận và muốn làm lại cuộc đời. Ngày kia một người hàng xóm bị cháy nhà, đến gõ cửa và xin ăn. Bác định cho người ấy một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp ma quỉ nói thầm bên tai bác: Cho cái đùi bé bé thôi nhé. Bác chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của mình và đã lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỉ nhạo cười bác: Mày khùng quá. Thế nhưng bác đã nói lớn: Nếu mày không câm miệng lại, thì ta sẽ cho ông ta cả con heo ngay bây giờ.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, kể lại việc Chúa Giêsu xua trừ ma quỉ. Thời buổi chúng ta có nhiều chuyện liên quan tới ma quỉ, không những do sách vở, phim ảnh, mà còn do những nhóm người kỳ dị, thờ cúng Satan. Thật là một lầm lẫn tai hại khi tưởng rằng ma quỉ ở đâu xa, tại một nơi nào đó, hay ở trong một người nào khác chứ không phải ở trong tôi.
Thực sự thì ma quỉ có mặt nơi mỗi người chúng ta. Cảm tạ Chúa vì chúng ta không hoàn toàn sống dưới sự kiểm soát của chúng. Tuy nhiên có điều chắc chắn là cái tinh thần của ma quỉ thì ở trong hầu hết mọi người. Bác nông dân đã đánh bại con quỉ keo kiệt, nhưng nó vẫn còn cám dỗ bác và bác lại đánh bại nó.
Con quỉ kiêu hãnh ở trong nhiều người. Hãy chiến đấu chống lại nó ở mọi nơi và trong mọi lúc, nhưng cũng hãy cảnh giác kẻo nó đưa chúng ta lên khi nghĩ rằng: Tôi là một nhân vật quan trọng do công nghiệp và tài năng riêng của tôi.
Con quỉ mê ăn uống luôn thôi thúc chúng ta ăn quá nhiều, uống quá nhiều đến độ say sứa xỉn, không còn biết tiết độ là gì nữa.
Con quỉ khoái lạc thì đến với chúng ta bằng một bộ mặt thật dễ thương, đồng thời nó còn nhiều đồng minh trợ giúp như sách báo và phim ảnh đồi trụy, hay bè bạn xấu…
Tuy nhiên, chúng ta cần phải chiến đấu chống lại nó. Bất chấp ma quỉ đến với chúng ta dưới hình thức nào, thì chúng ta vẫn có thể và phải nương tựa vào Chúa. Trong quãng đời công khai, Ngài đã nhiều lần trừ quỉ như đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại. Thế nhưng Satan vẫn hoạt động, vẫn bành trướng và đã thành công trong việc giết chết Ngài trên thập giá. Tuy nhiên, cũng nhờ cái chết ấy, mà Ngài đã đem lại sự chiến thắng, một sự chiến thắng trọn vẹn và mãi mãi qua mầu nhiệm Phục sinh của Ngài.
Hãy tìm kiếm xem đâu là con quỉ chính yếu đang làm mưa làm gió, đang chi phối cõi lòng chúng ta, rồi sau đó, hãy chạy đến với Chúa để xin Ngài nâng đỡ và chở che như kinh chúng ta vốn thường đọc: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
48. Ma quỷ
Ma quỉ vốn là một tạo vật của Thiên Chúa. Đôi khi nó được phép quấy nhiễu con người và làm cho con người sợ hãi mà bỏ việc phụng sự Chúa…
Cha thánh Vianney là một thí dụ. Quỉ thường quấy nhiễu ngài ban đêm, có lúc nó bắt chước tiếng đóng đinh xuống nền nhà, có lúc nó hát bằng một giọng the thé. Ngài nói:
- Tôi đã nghe nó bảo rành mạch: Hỡi Vianney, mày làm cái gì đó, hãy cút đi.
Dần dần tôi cũng quen với sự quấy phá của nó. Nói chung, nó chẳng làm gì được ngài.
Thật ra chúng ta không nên sợ những con quỉ có sừng hay có đuôi đe dọa. Chúng ta nên sợ Satan đội lốt thiên thần ánh sáng, lắm mánh khóe và lắm trò bịp bợp. Nó biến chúng ta thành tay sai cho nó ngay chính lúc chúng ta tưởng rằng mình đang phụng sự Thiên Chúa.
Vậy phải cảnh giác trước những quyến rũ ngọt ngào, những hứa hẹn hấp dẫn của nó.
Con đường dẫn tới Nước Trời phải là con đường nhỏ hẹp khó đi. Thế nhưng có nhiều người tín hữu hôm nay không tin vào sự hiện diện của ma quỉ.
Nếu đọc lại Phúc Âm chúng ta sẽ thấy ma quỉ quả thực là một thực tại mầu nhiệm, đang hiện hữu và hoạt động nhằm làm băng hoại con người. Nó không phải là một ý niệm trừu tượng, mà là một quyền lực cụ thể đang bành trướng trong thế giới.
Người ta có thể gọi quyền lực này là Belzebuth, là Lucifer, là con rắn xưa, là tên dối trá, là kẻ cám dỗ… Tất cả chỉ là một thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa và đưa con người vào vòng nô lệ.
Cần phải nhận ra quyền lực của ma quỉ để hiểu được cái mỏng giòn yếu đuối của thân phận con người, và từ đó đón nhận ơn giải thoát của Đức Kitô…
Ma quỉ đúng là một kẻ thù mạnh mẻ đáng gờm, nhưng may mắn thay, Đức Kitô còn là người mạnh mẻ hơn nó nhiều. Ngài đã phục sinh ngay lúc tử thần đang huênh hoang vì đã tiêu diệt được Ngài.
Chiến thắng của Ngài là bảo đảm cho chiến thắng của nước Thiên Chúa vào ngày sau hết và cũng là bảo đảm cho chiến thắng của chúng ta hôm nay, giữa những cuộc đối đầu với tên thủ lãnh của thế gian này. Satan đưa chúng ta vào vòng nô lệ, còn Đức Kitô thì giải thoát chúng ta.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao nhiêu hình thức nô lệ, biết bao nhiêu xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người, mà nhiều lúc con người không nhận ra. Nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc, nô lệ cho rượu chè, nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, nô lệ cho mọi thứ cuồng tín tôn giáo.
Khi nhìn vào bản thân, chúng ta thấy mình cũng ít nhiều sống dưới sự thống trị của ma quỉ, mặc dầu mỗi năm vào đêm Phục sinh, chúng ta vẫn lặp lại lời tuyên xưng từ bỏ ma quỉ và những gì thuộc về nó. Ma quỉ vẫn còn cám dỗ chúng ta mỗi ngày qua giác quan, qua trí tưởng tượng, qua lòng tham lam, qua những tương quan lệch lạc…hãy chạy đến với Chúa và kêu cầu:
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
49. Trong đời
Đoạn Tin Mừng hôm nay là một trong nhiều trường hợp đề cập đến thần dữ hay ác thần, tức là ma quỷ. Ma quỷ thế nào? Ngày nay chúng còn hoạt động trên trần gian không?
Trước hết, thiết tưởng cần phân biệt ma và quỷ. Đây là hai loại khác nhau chứ không phải là một mà người Việt Nam chúng ta thường gọi chung với nhau là ma quỷ. Ma, theo lối hiểu thông thường, là hồn người chết hiện về để ám ảnh, đe dọa hoặc liên hệ gì đó với người sống. Còn quỷ là loại thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa đày xuống hỏa ngục. Như vậy, ma có không? Nhiều người tin mà cũng nhiều người không tin. Nếu hiểu là một loài vô hình như ma xó, ma trơi hay ma này ma nọ… thì không có. Còn nếu hiểu là hồn người chết hiện về thì có, nhưng cũng chỉ xảy ra trong một số trường hợp rất họa hiếm, do sự cho phép đặc biệt của Chúa, để đương sự nhắn bảo một điều gì đó với người sống, hay do ủy nhiệm riêng Chúa trao phó cho đương sự, như thỉnh thoảng nghe nói linh hồn này hay linh hồn kia trở về dương gian trong một vài tích truyện. Còn quỷ thì sao? Phải công nhận là có, vì Kinh Thánh đã nói đến nguồn gốc của chúng. Chúng được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ.
Như vậy, quỷ có thật, chúng vẫn có mặt và hoạt động trên trần gian này. Nhưng sự xuất hiện của chúng tinh vi, kín đáo, khéo léo, nên người ta tưởng rằng dường như chúng không có, hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui và quật ngã rồi. Đây là một thứ thái cực mới đi ngược lại thái cực cũ. Nghĩa là trước kia, khi khoa học chưa phát triển và tiến bộ, người ta sợ hãi và thường nói đến ma quỷ như những thế lực ghê gớm, gây “kinh hồn táng đởm” cho nhiều người, thậm chí lại còn nhìn thấy chúng ở khắp nơi nữa. Còn bây giờ, khoa học tiến bộ vượt mức, người ta lại cho ma quỷ là một chuyện hoang đường, bịa đặt, không liên quan gì với cuộc đời con người tại thế.
Phải công bình nhận định rằng: khoa học đã có tác dụng lớn lao trong việc trừ ma đuổi quỷ ra khỏi xã hội con người. Ở đâu dân trí được nâng cao, đời sống văn minh, ma quỷ xem ra rút lui có trật tự. Chẳng hạn ở những chỗ ngã ba đường tăm tối, quanh co, với bóng cây đa cổ thụ mà người ta thường tin là nơi có ma quỷ ngự trị, chỉ cần sửa sang lại đường sá, dựng lên mấy cột điện là đêm hôm người ta có thể ra đó tình tự hay thẩn thơ hóng gió mà không sợ ma quỷ gì nữa. rõ rệt nhất là ở thành thị, ít ai nghe nói chỗ này chỗ kia có ma có quỷ, trẻ con có thể chạy chơi trên những đường phố vắng về đêm. Nhưng ở thôn quê thì khác, chỉ mới nhá nhem tối, không chỉ trẻ con mà cả người lớn, không dám ra ngoài ngõ, nhất là nếu gần đấy có nghĩa địa hay mồ mả nào đó, thì người ta lại càng sợ hãi hơn nữa.
Muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, đối với chúng ta, điều chắc chắn là quỷ có thực và không chỉ coi thường hoạt động cũng như sự phá hoại của chúng trên đời sống con người ở trần gian này… Dĩ nhiên cũng phải nói ngay: ảnh hưởng và sức phá hoại của chúng nằm trong phạm vi nội giác và vô hình nhiều hơn, nên chúng ta cũng cần đương đầu với chúng trên mặt trận ấy, nghĩa là trong cuộc chiến đấu chống các cơn cám dỗ để giữ lòng trung thành với Chúa và đẩy lui những tấn công nguy hại của chúng.
Tuy nhiên, chúng ta chớ lầm và đừng vội gán cho Satan, đổ lỗi cho quỷ dữ tất cả những gì xấu xa trong cõi loài người. Kinh thánh cho biết: Satan là kẻ cám dỗ. Nhưng một điều đáng suy nghĩ là đối với Đức Kitô, tất cả những ai tìm cách ngăn cản anh em mình thực hiện sứ mệnh Thiên Chúa, người ấy cũng đáng gọi là Satan, đối thủ hay là kẻ cám dỗ. Chứng cớ là thánh Phêrô đã bị Chúa quở mắng, gọi là Satan, khi ông tỏ ý ngăn cản Chúa đi chịu nạn chịu chết để cứu chuộc loài người.
Câu chuyện thánh Phêrô bị quở mắng và bị coi là Satan làm chúng ta nghĩ đến những câu chửi rủa mà người Việt Nam hay dùng như: “đồ quỷ”, “thằng quỷ”. “con quỷ”, “quỷ sứ”, “nó ra ma ra quỷ”, “đến quỷ cũng phải chịu mày”… Những câu chửi rủa đó thường được áp dụng cho những kẻ nghịch ngợm. Thì ra người Việt Nam cũng đã khám phá ra rằng: ngoài thứ quỷ mà Kinh Thánh nói tới, còn có những thứ “quỷ đen đầu: có thực, bằng xương thịt, sống bên cạnh chúng ta hằng ngày, đó chính là những người anh em nhân loại của chúng ta.
Như vậy, ngoài việc công nhận sự hiện hữu của quỷ, chúng ta còn nhìn nhận một thực tại khác không kém phần quan trọng, đó là sự ác, sự xấu và tội lỗi, không phải là những món hàng hoàn toàn do Satan và bè lũ lén lút nhập cảng vào trần thế, nhưng chính là những đồ “nội hóa”, được sản xuất ngay từ nội tâm mỗi người. Chúng ta không dè rằng Satan, kẻ cám dỗ, có thể là chính chúng ta. Không ai muốn nhận mình là Satan, là kẻ cám dỗ, nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã cám dỗ anh em mình hành động trái với chân lý, công bằng và bác ái.
Bởi thế, vấn đề quan trọng không phải là cái gì cũng đổ lỗi cho quỷ, trái lại, mỗi người phải dứt khoát chọn sự thiện, chọn con đường của công lý và tình thương. Chúng ta không nên quá sợ hãi quỷ hay những chước cám dỗ của chúng. Nhưng trước hết, tự mình đừng bao giờ xúi giục, cám dỗ anh em làm điều xấu, điều ác, điều tội lỗi; đồng thời cũng phải tỉnh thức đề phòng những chước cám dỗ mà anh em có thể đem đến cho chúng ta.
50. Hãy tin theo Đức Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Ngày xưa, Thiên Chúa đã dùng các tổ phụ và các tiên tri để tuyên sấm lời Chúa, nhắc nhở cho dân Do thái biết thi hành những nhiệm vụ của họ. Nhưng thời sau cùng, Thiên Chúa không dùng các ngài nữa mà dùng chính Con của Ngài mà dạy dỗ. Đó là Đức Giêsu Kitô. Ngài là một Tiên tri tuyệt hảo của Thiên Chúa mà Maisen đã loan báo như trong bài đọc 1 hôm nay.
Ngài trực tiếp đến dạy dỗ loài người như một Đấng uy quyền chứ không như các luật sĩ chỉ nhắc lại những lời dạy của người xưa, không thêm không bớt một chữ. Đức Giêsu đến dạy một giáo lý mới mẻ cùng với phép lạ như trừ qủi, làm cho dân chúng hết sức kinh ngạc. Ngài dạy giáo lý riêng của Ngài, có khi loại bỏ, có khi sửa chữa, có khi hoàn chỉnh những lời dạy của người xưa, khi Ngài nói:”Còn Ta, Ta dạy rằng...”.
Chúng ta đã được biết Ngài qua đức tin, đã được học biết giáo lý của Ngài nên chúng ta phải quyết tâm theo Ngài vì chỉ mới Ngài mới có lời ban sự sống đời đời. Chính Ngài là thủ lãnh của đời ta, là thần tượng của sự chọn lựa của chúng ta, nên chúng ta phải quyết tâm tin theo Ngài và phụng sự Ngài cách triệt để trong mỗi hoàn cảnh sống của mỗi người.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Đnl 18,15-20.
Để đi về đất hứa, dân Do thái đã phải trải qua một thời gian dài 40 năm trong sa mạc. Trước khi vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa mà Chúa đã hứa với cha ông họ, ông Maisen thấy mình không được vào đất hứa và thấy mình đã gần đất xa trời, ông yên ủi dân chúng, khuyên họ đừng buồn tiếc về việc ông ra đi. Đàng khác, ông nói tiên tri cho họ rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Tiên tri tài danh nhất trong lịch sử, không những không kém gì ông mà còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ. Đấng Tiên tri tuyệt hảo đó sẽ là Đấng Kitô, Đấng Trung gian toàn hảo vì Ngài vừa là Con Thiên Chúa và vừa là con loài người.
+ Bài đọc 2: 1Cr 7,32-35.
Thánh Phaolô bày tỏ quan niệm riêng của Ngài về vấn đề hôn nhân và độc thân. Ngài giải thích lý do tại sao ngài thích bậc độc thân hơn vì nó cho phép người ta chuyên lo “việc Chúa” trong lúc ngày tận thế đã gần kề và nhân loại không cần sinh sôi nữa. Trong hoàn cảnh như thế, tốt hơn hết là gắn bó “trọn vẹn” với Chúa.
Một lần nữa, chúng ta thấy vị Tông đồ phán đoán mọi sự vào một sự tuyệt đối duy nhất. Và ngài cũng không hề hạ giá hôn nhân: khi nói đến hôn nhân, ngài cũng sẽ qui chiếu nó về tình yêu của Chúa (x. Ep 5,21-33).
+ Bài Tin mừng: Mc 1,21-28.
Trong đoạn này, thánh Marcô cho thấy Đức Giêsu Kitô là một Tiên tri ngoại hạng mà Maisen đã tiên báo. Ngài là một Tiên tri có uy quyền trong lời nói và hành động.
* Uy quyền trong lời nói: Trong khi những luật sĩ kèn cựa bàn cãi không dứt về những đoạn văn của Kinh thánh, thì Đức Giêsu khẳng định: Ngài không lặp lại học thuyết của người khác, mà trình bầy học thuyết của Ngài, ví dụ Ngài nói:”Còn Ta, Ta dạy rằng...”.
* Uy quyền trong hành động: Ngài chỉ cần nói một lời thì qủi ô uế phải xuất khỏi người bị nó nhập, đến nỗi khán thính giả phải thốt lên:”Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tin theo Đấng có uy quyền.
I. ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG RẤT UY QUYỀN.
Ngay sau khi tới Capharnaum, ngày hưu lễ tiếp theo đó, Đức Giêsu không để mất thì giờ, Ngài hoạt động liền. Hồi bấy giờ xứ Palestine có nhiều hội đường. Những thành phố nhỏ cũng có.
1. Cách tổ chức hội đường.
Hội đường khác với Đền thờ. Hội đường thì có nhiều, còn đền thờ thì chỉ có một ở Giêrusalem. Một buổi họp lại ở hội đường chỉ gồm 3 việc: cầu nguyện, đọc Lời Chúa và giảng giải lời ấy. Không có cử nhạc, hát xướng, cũng không có dâng của lễ. Có thể nói: Đền thờ là nơi thờ phượng và dâng của lễ, còn hội đường là nơi dạy dỗ chỉ bảo.
Luật pháp qui định rằng bất cứ nơi nào có 10 gia đình Do thái, thì phải có một hội đường. Do đó, bất kỳ nơi nào một nhóm người Do thái định cư thì có một hội đường. Nếu ai đó có một thông điệp mới muốn truyền đạt thì hội đường đúng là nơi thuận tiện cho người ấy trình bầy. Đức Giêsu cũng biết lợi dụng tập tục này để giới thiệu giáo thuyết của mình.
2. Sinh hoạt trong hội đường.
Việc phụng vụ trong hội đường chia làm hai phần: phần đầu là phần phụng vụ thực sự. Trong phần này, người ta hát các bài chúc tụng Chúa. Phần thứ hai là phần giáo huấn, người ta đọc sách Luật hoặc các tiên tri. Đọc rồi, ông hội trưởng hoặc chính ông mời vị nào có tiếng, cắt nghĩa đoạn văn đó.
Khi mọi người họp lại trong hội đường và buổi họp bắt đầu thì ông trưởng hội đường có nhiệm vụ chỉ định người có trách nhiệm giảng giải, trình bầy kinh điển hay một thông điệp mới. Không có người chuyên nghiệp làm việc này. Chính vì thế, Đức Giêsu có thể lợi dụng dịp thuận tiện này để trình bầy thông điệp mới mẻ của mình.
Khi Đức Giêsu giảng dạy trong hội đường, cả phương pháp lẫn bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một sự mạc khải mới mẻ. Ngài không dạy như các luật sĩ là các chuyên viên về luật pháp. Các luật sĩ này là ai? Theo người Do thái, điều thiêng liêng nhất trên đời là Luật pháp và kinh Torak. Trái tim của luật pháp là Mười điều răn, nhưng người Do thái hiểu luật pháp là 5 quyển đầu của Cựu ước mà ta gọi là Ngũ kinh (Pantateuch). Theo người Do thái, luật pháp ấy đến hoàn toàn từ Thiên Chúa. Họ tin rằng luật pháp vốn được Thiên Chúa trực tiếp trao cho Maisen, nó hoàn toàn thánh khiết và có tính cách ràng buộc tuyệt đối.
3. Đức Giêsu giảng dạy tại hội đường.
Ngày hưu lễ hôm đó, Đức Giêsu được mời chú giải đoạn văn vừa đọc, có lẽ cũng là đoạn văn Ngài đã chú giải ở Nazareth, thánh Luca kể lại (Lc 4,16-22). Ngài đã làm kinh ngạc mọi thính giả.
Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền. Thính giả mỗi ngày một đông, gồm đủ thành phần. Nhưng ai nấy đều nhận định rằng: Ngài không dạy như các luật sĩ. Các ông này thường nại đến thế giá những người xưa. Lý tưởng các ông là trao lại nguyên vẹn giáo lý họ đã lãnh nhận, không thêm mà cũng không bớt. Trái lại, về mọi vấn đề, Đức Giêsu có sẵn mọi cái để giải quyết. Ngài cũng chẳng ngần ngại dạy những điều đi ngược với người xưa, hoặc sửa lại cho hoàn hảo. “Đã nói cho người xưa rằng...Phần Ta, Ta bảo các ngươi”(Mt 5,21t).
Nói tóm lại, các luật sĩ là tiếng nói của tập truyền, còn Đức Giêsu là tiếng nói riêng của Ngài. Ngài có cả quyền chuẩn y hoặc khước từ hoặc sửa sai tập truyền nữa. Lẽ dĩ nhiên kẻ cho mình cái quyền này, trong thời gian mà các luật sĩ và biệt phái dành cho mình độc quyền thiêng liêng, thì tất nhiên là con người hành động “như có uy quyền”.
4. Đức Giêsu chữa người bị qủi nhập.
Đức Giêsu tỏ ra có uy quyền trong lãnh vực giáo thuyết, Ngài còn tỏ ra có uy quyền trên lãnh vực hành động và biểu lộ quyền năng ấy bằng phép lạ chữa khỏi người bị thần ô uế ám để chứng minh giáo lý Ngài dạy.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại: ”Trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi”? Thần ô uế đây là ma qủi: chữ “ô uế” trong Tân ước gắn liền với chữ “qủi” tới 23 lần. Ma qủi tỏ ra khổ cực và khiếp đảm khi gặp Đức Giêsu và Ngài đến để tiêu diệt quyền lực của ma qủi, giải thoát nhân loại khỏi quyền lực ấy. Chính vì vậy, mà ma qủi kêu lên như thầm xin với Ngài để mặc chúng. Qủi đang tuyên xưng danh Ngài thì Ngài quát mắng nó:”Câm đi, và ra khỏi người này”. Nó liền vật ngã người đó xuống, thét lên một tiếng rồi xuất ra.
Những khán thính giả đã được nghe và chứng kiến về giáo lý và việc trừ qủi của Đức Giêsu đều kinh ngạc vì họ nhận ra một cái gì mới mẻ nơi Đức Giêsu. Cái mới mẻ đó dẫn được họ tin nhận Chúa là Đấng Cứu thế. Chính vì cái mới mẻ đó mà danh tiếng của Đức Giêsu được lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
Đức Giêsu đã thực sự trừ qủi trước mặt mọi khán thính giả. Thiết tưởng cũng cần phải phân biệt ma và qủi. Đây là hai loại khác nhau chứ không phải là một mà người Việt nam chúng ta thường gọi chung với nhau là “ma quỉ”.
Ma, theo lối hiểu thông thường, là hồn người chết hiện về để ám ảnh, đe doạ hoặc liên hệ gì đó với người sống. Còn qủi là loại thiên thần hư hỏng, đã bị Thiên Chúa đầy xuống hoả ngục.
Như vậy, ma có không? Nhiều người tin mà cũng nhiều người không tin. Nếu hiểu là một loài vô hình như ma xó, ma trơi hay ma này ma nọ... thì không có. Còn nếu hiểu là hồn người chết hiện về thì có, nhưng cũng chỉ xẩy ra trong một số trường hợp rất họa hiếm, do sự cho phép đặc biệt của Thiên Chúa, để đương sự nhắn nhủ một điều gì đó với người sống, như thỉnh thoảng nghe nói linh hồn này hay linh hồn kia trở về dương gian trong một vài tích truyện. Còn qủi thì sao? Phải công nhận là có, vì Kinh thánh đã nói đến nguồn gốc của chúng. Chúng được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Đức Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ (Phạm văn Phượng, Chia sẻ TM Chúa nhật B, tr 52).
II. THEO ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CÓ UY QUYỀN.
1. Hai vương quốc, hai thủ lãnh.
Trong hội đường hôm nay, khi trông thấy Đức Giêsu đầy uy quyền , ma qủi đã phải thốt lên:”Ông Giêsu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng thánh của Thiên Chúa” ! Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó:”Câm đi, hãy xuất khỏi người này”. Điều đó chứng tỏ Đức Giêsu có quyền trên ma qủi, và vương quốc Đức Giêsu thiết lập trên trần gian này cũng trổi vượt trên vương quốc của ma qủi.
Trong cuốn “Linh thao” của thánh Ignace de Loyola, thánh nhân có hướng dẫn suy niệm về hai cờ hiệu (étandard): cờ hiệu của Đức Kitô, vị chỉ huy tối cao và Chúa chúng ta ; cờ hiệu của Lucifer kẻ tử thù của bản tính loài người chúng ta. Đức Kitô kêu gọi và muốn cho mọi người ở dưới bóng cờ Ngài ; và ngược lại, Lucifer (cũng gọi và muốn cho mọi người) ở dưới cờ của nó. Như vậy là có cuộc chiến khốc liệt giữa vương quốc của Đức Kitô và của ma qủi.
Việc Đức Giêsu trừ qủi nói lên rằng vương quốc của Satan từng kìm kẹp nhân loại dưới vòng nô lệ từ khi Adong phạm tội, giờ đây đang nhường chỗ cho vương quốc của Thiên Chúa.
Điều này gợi lên cho chúng ta một vấn nạn: Nếu Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa 2000 năm trước, thế thì tại sao đến ngày hôm nay điều ác vẫn còn lan rộng? Hoặc nói cách khác: Nếu Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa khi Ngài còn sinh thời, thì tại sao vương quốc Satan vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta ngày nay?
Dĩ nhiên câu trả lời sẽ như sau: Vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc. Đó là một bước tiến từ từ. Nó không phải là biến cố xẩy đến chỉ trong một lúc, mà là một chuyển động liên tục suốt dòng lịch sử. Đức Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa, nhưng Ngài giao phó cho chúng ta công việc hoàn tất . Đó là lý do tại sao trong lời kinh Lạy Cha chúng ta vẫn cầu khẩn:”Xin cho Nước Cha trị đến”. Chúng ta có thể sánh ví vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Đức Giêsu trồng cây ấy, tức vương quốc, vào trong đất, nhưng Ngài giao cho chúng ta nhiệm vụ vun xới, bón phân, tưới nước cho nó. Nhiệm vụ chúng ta là chăm sóc làm sao cho vương quốc ấy sinh hoa kết trái theo ý định Thiên Chúa (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật năm B, tr 191).
2. Theo Đức Giêsu là thủ lãnh.
Giới trẻ ngày nay thích tìm những thần tượng để suy tôn, để bắt chước. Thần tượng của họ chỉ là những diễn viên, minh tinh màn bạc, cầu thủ bóng đá, ca sĩ nhạc trẻ hoặc một nhà chính trị lừng danh. Nhưng những thần tượng đó chỉ nhất thời và cũng không đủ tiêu chuẩn để hướng dẫn đời họ, chỉ có một thần tượng tuyệt hảo là Đức Giêsu, có đủ mọi tiêu chuẩn để hướng dẫn cuộc sống của chúng ta một cách bảo đảm.
- Đức Giêsu là thủ lãnh trên đường đời của ta. Một thủ lãnh lôi cuốn bằng đời sống gương mẫu. Tin mừng hôm nay kể ma qủi khen Đức Giêsu qua miệng của đứa nó ám vào: Tôi biết ông là ai, là Đấng thánh của Thiên Chúa. Khen là Đấng thánh của Thiên Chúa thì chẳng còn cách nói nào khác hơn để ca tụng. Đời sống Chúa còn hoàn toàn hơn lời Ngài dạy. Thánh kinh nói:”Chúa bắt đầu làm rồi mới dạy”(Tđcv 1,1).
- Một thủ lãnh dạy một chủ thuyết đưa tới đời sống ấy. Tin Mừng hôm nay nói:”Người ta kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như luật sĩ”(Mc 1,22).
- Một thủ lãnh cho sức mạnh để thực hiện đầy đủ đời sống ấy. Tin Mừng kể Chúa làm phép đuổi qủi. Việc ấy chứng tỏ Ngài có quyền năng của Thiên Chúa.
Truyện: Theo anh là thủ lãnh.
Một nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân.
Giờ thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng bách em bé theo mình. Ông nói:
- Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go: Đường đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ... Em ở lại hay theo anh? Nếu em theo anh, chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tùy em định đoạt.
Em bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và nói:
- Theo anh là thủ lãnh của em.
Thế là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu. Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em bé:
- Em có bỏ không?
Lời thưa đầy hăng hái rằng:
- Em đã chẳng hứa với anh sao?
Sáu tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.
3. Phục vụ cho thủ lãnh của mình
Sau khi đã tìm ra Đức Giêsu là thủ lãnh của đời ta, chắc chắn chúng ta phải tin theo Ngài, làm môn đệ của Ngài cũng như giới thiệu Ngài cho những người khác. Chúng ta theo gương các Tông đồ mà phục vụ Chúa Giêsu và phục vụ cho Nước Ngài lan rộng khắp nơi. Thánh Ignace đã dạy chúng ta cầu nguyện để có tinh thần đó:
“Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con biết quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, biết cho mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết tận lực mà không chờ phần thưởng nào khác, ngoài sự nhận biết là con đã làm theo thánh ý Chúa thôi”. Amen.
Thánh nữ Têrêsa Hài đồng yêu Chúa rất nồng nàn, thánh nữ chỉ biết yêu trong việc phụng sự Chúa. Không gì làm cho thánh nữ buồn sầu, tất cả những gian lao thử thách chỉ làm cho ngài thêm yêu Chúa. Những ý tưởng ấy được thánh nữ gói ghém trong câu thơ sau đây:
Vâng, con sẽ hát, con còn hát mãi,
Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng.
Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong
Gai càng dài, lời ca càng thánh thót.
Truyện: Phụng sự cho ai?
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo hội, ta thấy cũng có một câu truyện dụ ngôn về một chàng khổng lồ muốn đi tìm một người mạnh mẽ nhất để phục vụ.
Truyện kể rằng: Có một người khổng lồ sống tại vùng đất Canaan chán cuộc sống đơn điệu buồn tẻ, chàng muốn phiêu lưu và quyết tìm cho được một người nào mạnh nhất để phục vụ.
Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp, nên xin đi theo hộ vệ cho tướng cướp. Nhưng mỗi lẫn sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ đến thầy phù thủy làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp mà đi theo thầy phù thủy.
Một hôm, thầy phù thủy đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng khổng lồ bỏ rơi thầy phù thủy đến đứng bên cạnh Thánh giá, để chờ chủ nhân đó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh giá.
Tình cờ anh nghe có tiếng gọi thật nhẹ nhàng. Anh quay lại bắt gặp một cậu bé với đôi má phúng phính và mái tóc óng ánh. Cậu bé nhờ anh chàng này đưa cậu qua khúc sống gần đó. Nhận lời, nhắc cậu bé lên vai, người khổng lồ lội xuống dòng sông đang chảy siết. Nhưng kỳ lạ nước mỗi lúc một dâng cao và chảy mạnh. Cậu bé mỗi lúc một đè nặng trên vai, chống chọi với sông nước để cuối cùng đem cậu bé lên bờ bên kia. Người khổng lồ mới thốt lên:
- Này cậu bé, cậu nặng đến độ tôi tưởng chừng mang cả vũ trụ trên vai.
Cậu bé mỉm cười đáp:
- Ngươi mang Đấng còn hơn cả vũ trụ nữa. Bởi vì chính tôi đã tạo nên trời và đất.
Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá.
Thế là chàng khổng lồ kia xin phò tá vị Chúa Tể trời đất. Chúa dạy rằng: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang.
Chàng khổng lồ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Christophe, nghĩa là người mang Chúa Kitô trên vai.
Chúng ta đã chọn Đức Kitô là thủ lãnh của đời ta, chúng ta hãy tin theo và phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn phụng sự Đức Kitô, chúng ta hãy theo gương thánh Christophe, bởi vì trên đời này không còn ai xứng đáng hơn ngoài Đức Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
51. Quyền năng
Ralph Waldo Emerson chiếm vị trí như là một trong những nhân vật văn học vĩ đại của Mỹ vào thế kỷ 19. Vốn là một học giả, một nhà văn tiểu luận và một thi sĩ gây ảnh hưởng rộng rãi, ông trở nên một trong những tiếng nói quan trọng nhất trên quê hương ông. Ông là một kẻ thù ác liệt của sự nô lệ và thối nát về mặt chính trị. Một trong những bài tiểu luận của mình, ông nói một điều gì đó rất phù hợp dưới ánh sáng của bài Tin Mừng hôm nay:
“Tôi chỉ biết rằng mình sống đến mức độ này mà thôi. Ngay khi chúng ta biết rằng những lời nói của người nào mang nặng hơi thở cuộc sống, thì ngay tức khắc, tôi học hỏi được từ bất cứ thuyết trình viên nào về lối sống của họ. Một người nói từ bên trong, hoặc từ kinh nghiệm, là sở hữu chủ của sự kiện; người nào nói từ bên ngoài, thì như một khán giả, hoặc như một người mới làm quen với những sự kiện dựa trên chứng cứ của một người thứ ba. Không cần phải rao giảng cho tôi từ bên ngoài. tôi có thể tự mình làm được điều đó”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc được rằng lối giảng dạy của Đức Giêsu đã “làm cho dân chúng sửng sốt, bởi vì người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”. Tại sao Đức Giêsu gây được tác động như vậy trên các thính giả của Người? Bởi vì theo lối nói của Emerson, thì “ Đức Giêsu luôn luôn nói từ bên trong, và theo một mức độ vượt lên trên tất cả những người khác. Nhưng đây là cách thức mà mọi người nên luôn luôn áp dụng. Tất cả mọi người đều không ngừng trông đợi sự xuất hiện của một nhà giảng dạy giống như thế”.
Trong đời sống thiêng liêng, lối nghe gián tiếp ít có giá trị. Ở đây, người duy nhất nói với quyền năng, chính là người đã sống với điều đang nói đến. Không có quyền năng nào giống như quyền năng của người đã sống điều mà họ đang nói.
Ngay khi Đức Giêsu bắt đầu giảng dạy, ngay tức khắc dân chúng nhận ra rằng có một sự mới mẻ và trong suốt trong lời giảng dạy của Người. Mặc dù Người không có cùng một loại kiến thức giống như các kinh sư vào thời đó. Nhưng theo một cách thế nào đó, thì đây lại là một lợi thế. Van Gogh nói “Về một phương diện nào đó, thì tôi lại vui mừng vì mình không được học vẽ”. Có nhiều cách học hỏi hơn là từ trong sách vở. Trường đời thật là vĩ đại.
Điều này đã gây được ấn tượng nhiều nhất nơi nơi các thính giả của Đức Giêsu chính là quyền năng mà Người đã sử dụng khi giảng dạy, mặc dù Người không hề giữ một vị trí chính thức nào cả. Nhưng để có khả năng nói bằng năng quyền, người ta không cần phải giữ một vị trí chính thức nào. Trên thực tế, đôi khi sự thật còn trái ngược lại. Người giữ một cương vị chính thức không sống theo con người riêng của họ. Người đó bị bắt buộc phải thúc ép theo đường lối của đảng phái. Trong khi người không nắm giữ một cương vị chính thức nào, thì có quyền tự do để nói đúng điều cần phải nói.
Trong thời của Đức Giêsu, không có một kinh sư nào diễn tả được theo ý riêng của mình. Ông ta luôn luôn phải mở lời bằng cách nêu ra uy tín của mình. Ông ta dựa vào những lời trích dẫn từ các thày thông luật vĩ đại trong quá khứ, để hỗ trợ cho câu nói của mình. Điều cuối cùng mà ông ta làm được, đó là đưa ra một lời phê phán độc lập.
Đức Giêsu nói với tiếng nói của riêng Người, với quyền năng của bản thân Người. Người không hề biện hộ cho tất cả mọi điều mà Người nói, bằng cách trích dẫn Kinh Thánh, hoặc câu nói của một vị thày thông luật khác. Điều đó sẽ chỉ càng chứng tỏ rằng người đó thiếu năng quyền mà thôi.
Về một khía cạnh, chúng ta phải phân biệt giữa quyền năng và ảnh hưởng, và về khía cạnh, phải phân biệt giữa sức mạnh và sự kiểm soát. Một số người có quyền năng vĩ đại nhất về mặt luân lý, lại không hề có sức mạnh; và có người gây ảnh hưởng nhất, lại không cần phải kiểm soát những người mà họ gây ảnh hưởng. Một người có thể có tất cả quyền năng trên trần gian, lại vẫn thất bại trong vai trò của một người giảng dạy.
Có một số người có tính ưu việt về mặt tinh thần, mà không thể giải thích được. Điều này đem đến cho họ năng quyền vĩ đại về mặt luân lý. Họ có được năng quyền này, không phải là do chức vụ mà họ nắm giữ, nhưng là do ở chính con người của họ. Đây là năng quyền vĩ đại nhất và cao cả nhất vượt lên trên tất cả mọi sự. Điều này bắt nguồn từ chính năng quyền của Thiên Chúa. Nếu không có được năng quyền này, thì người nắm giữ một chức vụ chỉ là một người thừa hành, chỉ là một người phát ngôn mà thôi.
Đức Giêsu đã có loại quyền năng này, với một mức độ mà không có bất cứ người nào khác đạt được. Mỗi người Kitô hữu, bất kể người đó nắm giữ một chức vụ gì, đều có thể và nên có loại quyền năng này – loại quyền năng xuất phát từ việc sống theo tính cách của một con người chính trực trong suốt.
52. Quyền năng
Ngày nay, chúng ta có quá nhiều lời nói từ những nhân vật của quần chúng. Nhưng thật đáng chán khi có thể dự đoán được điều mà họ sẽ nói. Có quá ít người nói bằng quyền năng thực sự. Lúc này, thật vô cùng đáng nghi ngờ về những lời nói của những kẻ có quyền. Có thể người ta phải tuân theo những lời tuyên bố về mặt chính sách, nhưng không ai nghiêm túc coi họ như là những người có quyền năng.
Nếu có nhiều nhân vật của quần chúng bị thiếu mất sự tin tưởng của dân chúng thì điều gì gây tổn hại đến lòng tin? Đó là khi người nói không còn tin tưởng vào lời mình đang nói nữa. Tôi không thể nói được một cách đầy đủ về điều mà tôi không tin tưởng, bất kể tôi thường xuyên lập đi lập lại những lời nói này đến thế nào.
Vậy thì tính cách của người nói rất quan trọng. nếu tính cách của người đó bị nhiều khuyết điểm, thì lòng tin của người đó bị xói mòn một cách trầm trọng. Bạn nhận thấy khó mà uống loại rượu nào được rót ra từ một cái lon đựng rượu đã bị rỉ sét hoặc dơ bẩn. Và khi người nói không sống theo những lời nói của bản thân mình, thì có lẽ đây là điều gây tổn hại nhất. Emerson đã nói về điều đó như sau: “Xin đừng nói nữa. Điều nào có giá trị trên con người của bạn, thì lại quá vang rền, đến nỗi tôi không thể nghe được điều trái ngược lại”.
Định mệnh vĩ đại trong sứ mạng của Đức Giêsu được dành cho việc rao giảng. Và lời giảng dạy của Người lại quá khác biệt, so với những người rao giảng chính thức vào thời đó – các kinh sư. Không có một kinh sư nào diễn tả ý kiến của riêng mình. Ông ta luôn luôn bắt đầu bằng cách nêu ra quyền năng của ông ta. Trái lại, Đức Giêsu nói bằng tiếng nói của chính Người, và Người không cần đến tiếng nói khác. Người không hề nêu ra năng quyền nào, và không hề trích dẫn câu nói của bất cứ chuyên gia nào, tuy nhiên, Người vẫn nói bằng một quyền năng vĩ đại. Người không hề có bất cứ chức vụ chính thức nào. Vậy thì quyền năng của Người xuất phát từ đâu? Năng quyền đó đến từ sự kiện là Người đã nói lên sự thật: “Một lời nói sự thật đáng giá cả thế giới” (Ngạn ngữ Nga). Ngoài ra, lời giảng dạy của Người mới mẻ, trực tiếp và có sự trong suốt về sự thật. Chẳng hạn một số câu nói như “Không ai có thể làm tôi hai chủ được… Một thành phố xây dựng trên núi không thể che giấu được… Con lạc đà không thể chui qua lỗ kim…”
Lời giảng dạy của các kinh sư không đem lại thỏa mãn cho dân chúng. Còn lời giảng dạy của Đức Giêsu lại nuôi dưỡng được tâm hồn và tinh thần con người. Có một số người giảng dạy chỉ cung cấp các sự kiện mà thôi. Người khác lại cung cấp được tầm nhìn, cảm hứng và ý nghĩa cuộc sống nữa. Và tất nhiên là năng quyền của Đức Giêsu xuất phát từ tính cách của Người một tính cách khiến cho dân chúng buộc phải lắng nghe Người. Thế rồi lại có lúc Người chứng tỏ lời nói của Người bằng những hành động cụ thể. Mặc dù thánh Marcô nói rằng “Dân chúng sửng sốt vì lời giảng dạy của Người”, ngài không kể cho chúng ta nghe Đức Giêsu nói gì. Dường như điều này lại càng chứng tỏ rằng con người của Đức Giêsu chính là một bài giảng rồi. Vào một buổi sáng sớm, có một người đàn ông đang đi dạo bên ngoài. Bầu trời trong sáng. Ông ta nghe được tiếng ồn của một máy bay phản lực tại một nơi nào đó. Ông dừng chân nhìn xem, để có thể xác định vị trí. Dõi theo âm thanh, ông nhận thấy dường như chiếc máy bay đó ở ngay trên đầu ông. Nhưng không phải vậy, ông đã tìm kiếm, và không thấy máy bay đâu cả. Thật ra ông nhìn thấy một vết hơi nước trên bầu trời. Nhìn theo dấu vết này, cho đến tận nơi xuất phát của nó, ông phát hiện ra chiếc máy bay – một hình tam giác màu trắng có thể nhìn thấy được một cách rõ ràng trên vòm trời xanh. Chiếc máy bay đã bay đi xa rồi, trong khi âm thanh của nó vẫn còn ở ngay đầu ông. Nhưng âm thanh đó quá lớn, để có thể đánh thức được cả kẻ chết.
Theo một cách nói, chiếc máy bay đã hành động trước, rồi phát ra âm thanh sau. Nói một cách lý tưởng, đây là cách rất hay – hành động nên đến trước lời nói. Người ta sẽ lắng nghe, nếu một người bắt đầu nói, sau khi đã hoặc đang làm một việc gì đó. Những lời nói của người này thật nặng ký. Những lời nói đó có quyền năng thực sự. Người ta có thể nghi ngờ lời bạn nói, nhưng người ta sẽ tin tưởng việc bạn làm. Nhiều lời nói không có tác dụng, vì trước đó, hoặc đồng thời, hoặc sau đó, không có những hành động đi đôi với lời nói.
Trong những lời nói của Đức Giêsu, có của ăn nuôi dưỡng cuộc sống của chúng ta. Nhưng chỉ lắng nghe mà thôi thì chưa đủ, mà còn phải sống theo Lời Chúa nữa. Nếu không sống theo sự thật, thì chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ.
53. Mặc chúng tôi
Khi Đức Giêsu đang giảng dạy trong hội đường ở Capharnaum, một người bị thần ô uế nhập la lên “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi liên can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?”. Trên thực tế, điều mà người đàn ông đó đang nói là “Hãy để mặc tôi! Tôi không phải là người tốt lành, tôi là kẻ dữ, tôi không xứng đáng được yêu thương hoặc săn sóc”.
Đây là một tiếng kêu mà chúng ta đã từng được nghe trong Tin Mừng, từ những người cho rằng mình bị quỉ dữ chiếm hữu. “Đừng can thiệp vào chuyện chúng tôi. Hãy để mặc chúng tôi. Đừng tìm cách thay đổi chúng tôi“. Họ nhận ra rằng sự thay đổi đó gây đau đớn. Chúng ta không biết rằng họ có bị quỉ dữ chiếm hữu hay không. Nhưng chúng ta biết rằng họ là những người bị bệnh hoạn, đổ vỡ, cô độc, không được yêu thương, không hề có nhân phẩm, và giá trị bản thân của họ là con số không.
Trong thế giới của chúng ta ngày nay, có nhiều người như vậy – trong các nhà tù, bệnh viện tâm thần v.v… Bất cứ người nào trong chúng ta cũng có thể lâm vào tình huống đáng tuyệt vọng này. Ít nhất, người đàn ông trong hội đường đã không cố gắng che giấu tình trạng của mình. Anh ta đến với Đức Giêsu. Người không hề lảng tránh sự kêu gọi đầy tuyệt vọng của anh ta. “Hãy để mặc tôi!”. Đức Giêsu nghe thấy rằng đó là một tiếng kêu gọi sự giúp đỡ. Và người đã chữa lành cho anh ta.
Người cảm thấy thật khó mà thừa nhận rằng họ không thể xoay xở được, đối với những vấn đề của bản thân mình. Lòng tự hào nói với họ rằng: ta nên tự giải quyết những vấn đề của mình. Nhưng sự nhận ra mình có vấn đề chính là bước đầu tiên hướng tới sự phục hồi. Khi chúng ta biết thừa nhận sự yếu đuối và nhu cầu của mình, thì sẽ mở lối cho sự phục hồi. Những người can đảm mới đi xin cố vấn.
Các nhà tâm lý học nói với chúng ta rằng đôi khi, người ta không thực sự mong muốn được chữa trị. Tại sao vậy? Bởi vì việc chữa trị gây đau đớn – Điều này lôi kéo theo một quá trình đòi hỏi nhiều sự thay đổi, và tất cả những sự thay đổi đều đau đớn. Ý tưởng được phục hồi thậm chí càng có thể khủng khiếp hơn nữa.
Thông thường, chúng ta hay e sợ khi phải nói về một điều gì đó gây đau lòng cho chúng ta. Chúng ta muốn khóa chặt trong tâm hồn mình, để rồi lại cứ day dứt mãi. Có thể chúng ta không nói rằng “Hãy cứ để mặc tôi” nhưng như thế, chẳng khác gì câu nói “bạn không thể biết được, bạn không thể hiểu được tôi đâu”. Chịu đựng đau khổ mà không chịu nói ra, lại càng gây tổn thương hơn, so với nỗi đau khổ nào được bộc lộ ra.
Vừa khi đứa con trai chào đời, một bà mẹ trẻ khám phá ra rằng cháu bé bị mù. Chị gọi cả gia đình lại và nói: “tôi không muốn con trai tôi biết cháu bị mù”.Chị khẩn khoản xin mọi người tránh sử dụng những từ như “ánh sáng”, “màu sắc”, và “tầm nhìn”, đứa trẻ lớn lên, trong niềm tin tưởng rằng mình giống như tất cả những người bình thường khác, cho đến một ngày kia, một bé gái xa lạ nhảy qua bức tường của khu vườn, và đã sử dụng tất cả những từ bị cấm đoán trên đây.
Câu chuyện trên tượng trưng cho nhiều thái độ sống của chúng ta. Tất cả chúng ta đều tìm cách che giấu những điều kỳ lạ và gây đau đớn, và cứ sinh hoạt như thể mọi sự đều bình thường vậy. Chúng ta làm như mình không hề có vấn đề gì, không có gì là bất thường, không có nỗi đau, không có vết thương, không biết thất bại là gì cả. Ý tưởng thôi thúc người ta che giấu rất mạnh mẽ, và còn có thể gây tác hại hơn cả cố gắng giấu giếm.
Khi chúng ta có can đảm dám đương đầu với những vấn đề của mình, thì những năng lực mới mẻ trở nên sẵn có đối với chúng ta. Nỗi sợ hãi, xấu hổ, và mặc cảm tội lỗi làm cho chúng ta ở lại trong tình trạng cô lập. Chính nhờ sự bộc lộ những vết thương, nhờ để cho mình đụng chạm và được đụng chạm vào, mà chúng ta được chữa lành. Chính trong sự đổ vỡ của chúng ta, trong vết thương của chúng ta, mà Thiên Chúa chữa lành cho chúng ta – nếu chúng ta tạo cho Người một cơ hội.
54. Chúa Giêsu ban lề luật mới
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
1. Những bộ luật của Torah
Bài đọc I trích trong sách Đệ nhị luật. Đnl là cuốn cuối trong bộ Ngũ Thư. Năm cuốn sách đầu của bộ Kinh Thánh gọi là Ngũ Thư.
Do Thái coi Ngũ Thư là Torah (Luật) vì trong đó gồm tất cả mọi lề luật và định chế chi phối toàn bộ sinh hoạt tôn giáo, phụng tự, đạo đức, xã hội của dân tộc Israel. Nét nổi bật là Luật do chính Chúa truyền qua trung gian Môisen và mọi điều khoản của Luật xuất phát từ những nhận thức tôn giáo của dân. Có thể nói đây là sưu tập và tổng hợp những luật dân sự, hình sự, tôn giáo, tế tự và xã hội được trình bày như hiến chương của Giao ước. Do đó, việc công bố Luật gắn liền với trình thuật các biến cố trong hoang địa, nơi ký kết Giao ước. Luật là cho con người, vì thế cần phải được thích nghi với những điều kiện thay đổi của môi trường và thời đại. Do đó, ta gặp thấy trong bộ luật những yếu tố cổ xưa đan kết với những điều khoản mới phát sinh về sau. Đàng khác, ta còn gặp thấy trong bộ luật những điểm tương tự với luật Lưỡng Hà. Điều ấy là tất nhiên, vì Do Thái sống chung đụng với chư dân; lại nữa một số pháp quy, tục lệ của miền ấy dần biến thành sản nghiệp chung của cả Cận Đông cổ thời. Torah gồm những bộ luật sau đây:
a. Thập điều: Mười Lời được ghi khắc trên bảng đá, làm thành Lề luật căn bản về luân lý và tôn giáo, được coi như điều khoản của Giao ước Sinai. Thập điều được trình bày hai lần (Xh 20,2-17 và Đnl 5,6-18). Chắc chắn hai bản văn đều xuất phát từ một nguồn nguyên thủy mà truyền thống gán cho Môisen.
b. Bộ luật giao ước (truyền thống E): Xh 20,24–23,9. Bộ luật này nằm xen kẻ giữa Thập điều và phần kết của trình thuật giao ước tại Sinai. Luật giao ước đáp ứng hoàn cảnh một xã hội sau thời Môisen, chuyên về canh nông trồng trọt; cho nên quan tâm đến súc vật cày bừa, công việc đồng áng, nghề trồng nho, nhà cửa (giả thiết dân đã định cư). Bộ luật thấm nhuần tinh thần tin vào Giavê, phản ứng lại nền văn minh Canaan.
c. Bộ Luật Đệ Nhị Luật (Đnl 12,1–26,15) làm thành phần chính yếu của sách Đệ Nhị Luật. Bộ luật này lấy lại một phần bộ luật giao ước, nhưng thích nghi với cuộc sống kinh tế và xã hội đã đổi thay. Nét nổi bật trong Luật Đnl là quan tâm bảo vệ người yếu, tuyên xưng uy quyền Thiên Chúa trên đất và trên dân của Người, cổ vũ việc tuân giữ các điều khoản của lề luật.
d. Luật Lêvi. Sách Lêvi được hình thành dứt khoát sau lưu đày, gồm những luật về phụng tự, như của dâng tiến và việc tế lễ (1-7), cấp bậc Tư tế (8), các đại lễ (23), nơi thánh và các vật dụng thánh (25); luật về thức ăn (11), sự trong sạch (13-15), lễ xá tội (Yôm-Kippour) (16); luật về sự Thánh thiện (17-16).
Ngũ Thư vừa là một lịch sử và là luật pháp. Nếu các Thánh Vịnh ca tụng Thiên Chúa và kêu xin Người cứu giúp; các sách Khôn Ngoan nhằm giáo dục cá nhân về tôn giáo và luân lý; các Ngôn Sứ mạnh mẽ tuyên rao lòng thành tín của Chúa và hăng hái vạch trần tội lỗi của Israel … thì Ngũ Thư giới thiệu cho ta một dân tộc, cách thế Thiên Chúa thiết lập dân ấy, bảo vệ và dẫn đưa dân về một định mệnh kỳ diệu. Ý nghĩa của bộ sách này hệ tại mối liên lạc Thiên Chúa nối kết với dân của Người và qua đó với toàn thể nhân loại. Lịch sử mối tương quan ấy được tóm kết trong bốn điểm chính là Lời hứa - Tuyển chọn làm dân riêng - Giao ước - Lề luật. Đây là bốn chủ đề quan trọng được triển khai trong Ngũ Thư và suốt dọc dài Cựu ước. Chính Đức Kitô mới ban cho lịch sử cứu độ ý nghĩa trọn vẹn của nó, như Phaolô trình bày trong Gl 3,15-29. Ngài đến thực hiện các lời hứa của Thiên Chúa, ký kết Giao ước mới với đoàn dân mới là miêu duệ của Abraham trong đức tin. Ngài ban lề luật mới là Tin Mừng và Thần Khí để dẫn đưa mọi kẻ tin về với Thiên Chúa.
Sách Đệ Nhị Luật là một lược tóm lịch sử tôn giáo của Israel khởi từ Sinai, trong đó điều then chốt là phải trung thành phụng sự Giavê, Thiên Chúa duy nhất và chân thật. Nội dung của sách sưu tập lại luật Môisen, đồng thời kể lại một số biến cố xảy ra tại Môáp. Trình thuật mang hình thức ba bài diễn từ của Môisen phát biểu vào cuối đời, với dụng ý quả quyết: tư tưởng chủ yếu trong sách là của Môisen. Đệ Nhị Luật được coi như sách kỷ yếu: nhắc lại để nhớ, nhớ để rút bài học. Bài học chủ yếu của tác giả là: nhắc cho Israel quá khứ lịch sử của nó là một chuỗi hồng ân liên tục Chúa ban cho họ cách nhưng không. Nay ở ranh giới Hứa Địa, họ đừng quên mọi thành công xưa đều nhờ Giavê. Từ nhận thức đó, họ chuẩn bị vào Đất Hứa trước hết bằng lòng tin tuyệt đối vào Giavê.
Dân Do Thái sắp đi vào Đất Hứa, miền đất này nơi nào cũng có tà giáo. Các tôn giáo sơ khai của các dân tộc xung quanh luôn hấp dẫn. Đặc biệt là các thầy bói, bà đồng. Dân chúng mê tín luôn tìm đến với họ để được giao cảm với thần minh, để biết ý trời và hậu vận. Người có óc khoa học ngày nay coi đó là bịp bợm, người có đức tin chân chính nghĩ đó là những việc do ma quỉ bày đặt ra. Bởi đó, tác giả sách Đnl cảnh giác dân chúng, không được tin vào bói quẻ phù chú, lên đồng lên bóng, chiêm tinh chiêu hồn, phải hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa. Bù lại, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện giữa dân Người một tiên tri như Môisen. Bài sách Đnl còn nói về Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến, Người sẽ là vị tiên tri trổi vượt trên hết mọi tiên tri. Đó chính là Chúa Giêsu sẽ khiến người ta kinh ngạc về cách giảng dạy và đầy quyền năng như câu chuyện kể của Phúc âm Chúa nhật hôm nay.
2. Chúa Giêsu, Đấng ban lề luật mới
Chúa Giêsu vào hội đường Do Thái ngày Sabat. Vì là thành phần của dân giao ước nên mọi người trong hội đường đều có quyền đọc và bình giảng một đoạn sách Thánh nào đó. Chúa Giêsu đọc sách và giảng dạy dân chúng. Thánh Maccô không cho biết Chúa đọc đoạn sách nào, cũng không nhắc đến nội dung giảng dạy hôm ấy. Maccô chỉ kể “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư”. Thiên hạ ngạc nhiên trước một kinh sư trẻ tuổi, phong thái giảng dạy như một Đấng có uy quyền khác với các kinh sư luật sĩ. Thiên hạ còn kinh ngạc về giáo lý của Người. Giáo lý vừa đi vào nội tâm, vừa có một nội dung ưu việt hơn những bài học luân lý Cựu ước. Họ sửng sốt kinh ngạc là phải, bởi lẽ Chúa Giêsu không giải thích truyền thống của cha ông nhưng là giáo huấn của Chúa Cha. Người không công bố lề luật nhưng công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần. Người xuất hiện như Đấng mang lấy thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao. Người ban lề luật mới là Tin Mừng và Thần Khí.
Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc giảng dạy, Người còn thiết lập Nước Thiên Chúa bằng hành động thực hiện nội dung lời rao giảng. Trong hội đường hôm ấy có một người bị thần ô uế ám. Thấy Chúa Giêsu, Satan run sợ. Đối diện với Đấng quyền năng, Satan sợ hải: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi chăng?”. Nó tuyên xưng “Tôi biết ông là ai. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Chúa bắt nó phải im ngay và Người dùng quyền năng trục xuất nó ra khỏi nạn nhân. Satan bị án phạt đời đời vì tội kiêu căng, tội gieo nọc độc cho Nguyên Tổ trong vườn địa đàng. Thiên Chúa không cho Satan có quyền hành gì trên con người, trừ khi con người tự nguyện trở thành nô lệ.
Chúa Giêsu là Đấng đầy uy quyền trong lời nói và nhiều hiệu năng trong hành động. Người đã giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của sự dữ. Con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của bản năng và của sự ác để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng trong sạch vẹn tuyền đã đẩy lui và tiêu diệt sức mạnh Satan.
Ma quỉ là một quyền lực cụ thể đang hoành hành trên thế giới. Người ta có thể gọi tên quyền lực này là Belzebuth, Lucifer, Belial, là con rắn xưa, là tên dối trá, tên cám dỗ… Tất cả đều chỉ thực tại duy nhất muốn phá vỡ kế hoạch Thiên Chúa và đưa con người vào nô lệ.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao hình thái nô lệ, biết bao xiềng xích của ác thần đang trói buộc con người. Điều kinh khủng là người ta không nhận ra mình đang bị nô lệ. Nô lệ cho quyền lực như Hitler, Pônpôt... Nô lệ cho tình dục, nô lệ cho ma túy, nô lệ cho cờ bạc rượu chè. Nô lệ cho mọi thứ chủ nghĩa cực đoan, mọi thứ cuồng tín tôn giáo. Nô lệ là thứ tự do giả hiệu mà ma quỷ luôn quảng cáo và muốn mời mọc con người. Ma quỷ thường được vẽ như con vật xấu xí đáng sợ, nếu thế thì con người dễ nhận ra nó và nó khó cám dỗ được. Nhưng thực tế, ma quỉ mang dáng dấp xinh đẹp hấp dẫn. Nó tấn công bằng những thủ đoạn tinh tế ngọt ngào. Nó nắm rõ yếu điểm từng cá nhân từng tập thể để tấn công và mong hạ gục. Người ta tin vào những ngôi sao số mệnh, cầu cơ, bói toán, lá số tử vi. Tin vào những cái vô tri dẫn đến mê tín dị đoan sẽ làm nô lệ cho ma quỷ. Ngày nay nhiều người không còn tin vào sự hiện hữu của ma quỉ, đó là thành công lớn của ma quỉ.
Sứ mạng của Chúa Giêsu là giải thoát con người khỏi mọi hình thức vong thân và tha hóa. Cuộc đời Kitô hữu là một cuộc chiến chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ.
Mỗi ngày, chúng ta vẫn thành tâm nguyện xin: Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ. Amen.
55. Như Đấng có thẩm quyền
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Công bố một lời khác
Bài đọc Tin Mừng trong hai Chúa nhật liên tiếp kể lại hoạt động của Đức Giêsu tại Ca-phác-na-um, và cũng là bản tóm tắt sứ vụ của Đức Giêsu tại miền Ga-li-lê.
Cùng với các môn đệ đầu tiên, Đức Giêsu đã trải qua một ngày sa-bát tại Ca-phác-na-um: tại đây, Người bày tỏ uy quyền siêu việt của Người về giáo huấn cũng như việc chữa lành những người bị quỷ ám và các bệnh nhân. Ngay từ những ngày đầu của sứ vụ công khai, danh tiếng của Đức Giêsu đã vang dội ra khắp cả miền Ga-li-lê. Sau biến cố Phục Sinh, miền Ga-li-lê sẽ trở thành điểm xuất phát cho việc loan báo Tin Mừng đi khắp thế giới.
Hội đường
Lúc này Đức Giêsu vào hội đường và giảng dạy. Có ba từ ngữ xác định địa điểm và công việc: Ngày sa-bát, hội đường, giảng dạy. Tất cả đều cho thấy một bối cảnh tôn giáo, theo đúng những thói quen và quy định đã có từ xa xưa. Đây là một khung cảnh giới hạn, quen thuộc và Đức Giêsu đã tham dự vào đó, không phải để phá huỷ nhưng để công bố cho mọi người một lời khác.
Sự đổ vỡ, như đã thấy trong những câu trước (xem Chúa nhật III thường niên), lúc này không chỉ xảy ra ở bình diện bên ngoài, nhưng ở cuộc sống bên trong của con người.
Thẩm quyền
Sự rạn nứt đã diễn ra ngay trong giáo huấn của Đức Giêsu: Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư! Đang khi các kinh sư quan tâm trước hết đến việc giải thích từng chữ của bản văn, dựa trên những lời giải thích họ đã học hỏi từ các thầy dạy của họ, thì Đức Giêsu tự diễn tả như một người biết rõ do đâu mình nói, và Người không chỉ bằng lòng với việc lặp lại điều người ta đã chỉ cho Người. Không dựa vào ai khác ngoài chính mình, Người tỏ ra là người tự do đối với Lề Luật.
Người có được thẩm quyền không phải do nhiệm vụ hay các tước hiệu: Người không hề có một bằng cấp nào. Ngược lại, các kinh sư không có thẩm quyền nào khác ngoài y phục: họ không có mặt trong những lời giảng dạy, họ chỉ đọc lại.
Còn Đức Giêsu, Người dấn thân trọn vẹn vào điều Người nói và nhận trách nhiệm về giáo huấn của mình.
Người đã giảng dạy với thẩm quyền là như thế. Người Kitô hữu mở miệng để lặp lại hay là làm chứng?
Hiểu biết của tên quỷ
Tên quỷ biết Đức Giêsu là ai, nhưng nó muốn đóng khung Đức Giêsu vào tước hiệu nó gán cho Người. Hiểu biết của nó có tính cách sở hữu: không hề có lối mở cho một cuộc gặp gỡ.
Nhận ra Đức Giêsu, đó không phải là để chiếm hữu Người. Trái lại, điều này đòi buộc một thái độ từ bỏ, hay nói khác đi là thái độ sẵn sàng đón nhận, tâm tình sám hối. Lời của Đức Giêsu giải thoát người nghe khỏi thái độ chiếm hữu do một hiểu biết đóng kín nơi chính mình.
Quyền mặc khải và giải phóng
Một người đang giảng dạy trong hội đường, đám đông dân chúng thinh lặng lắng nghe. Bỗng nhiên, một câu hỏi bật lên và cả đám đông đều nhao nhao: "Ông là ai? Uy quyền của ông trên tâm hổn chúng tôi có phải là sắp tiêu diệt chúng tôi không? Ông còn muốn lôi kéo chúng tôi đến bao giờ nữa? Ông muốn nói gì về những điều nghiêm trọng và nguy hiểm như thế? Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi nghe lời ông?"
Con người không giống như những người khác ấy giảng dạy điều gì mới để rổi được nhận là Đấng có thẩm quyền.
Thật ra, nội dung của giáo huấn không được nói rõ. Có thể nói rằng, nội dung chính vẫn là Lề Luật và lời rao giảng của các ngôn sứ, tức là mặc khải của Thiên Chúa, thế nhưng được hiểu theo một chiều kích mới, được giải thích theo những đường hướng khác hẳn với cách nghĩ của thói quen xưa nay. Cho nên giáo huấn của Đức Giêsu có đặc tính mới mẻ không phải vì nội dung, nhưng vì phẩm chất.
Hơn nữa, Đức Giêsu giảng dạy giáo huấn với uy quyền "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết..." (x. Mt 5,21). Người tự xưng mình ở trên Lề Luật, có quyền giải thích Lề Luật: "Con Người làm chủ luôn cả ngày sa-bát" (Mc 2,28). Người tỏ ra mạnh hơn Lề Luật! Lề Luật chỉ có thể xác nhận và loại trừ, còn Đức Giêsu tẩy sạch và cho gia nhập vào cộng đoàn. Quyền bính Người thi thố là quyền năng giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ, kể cả tội lôỵi (Mc 2,10). Thành ra chính là một quyền năng thần linh biểu lộ trong giáo huấn của Đức Giêsu.
Cách Đức Giêsu giảng dạy còn đặt ra vấn đề thân thế của Người nữa. Dân làng Na-da-rét đã nói lên điều này: họ kinh ngạc về nguổn gốc của Đức Giêsu. Họ xầm xì với nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế?" Đức Giêsu không phải là một giáo sĩ; đúng hơn, Người có phong thái của một ngôn sứ tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa, hoàn toàn thông hiệp với Thiên Chúa. Người chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa, như tên quỷ đã gọi, và nhận được từ Thiên Chúa nguổn lực tạo nên uy quyền: quyền mặc khải mầu nhiệm Thiên Chúa và giải phóng nhân loại (x. N.Guillemette, Chú giải Phúc Âm Chúa nhật Năm B).
Giáo huấn của Đức Giêsu còn được coi là mới mẻ vì tính hiệu quả đối với tà thần: Người nói một lời, quỷ phải tuân hành.
Như thế, một uy quyền, không chỉ là một giọng nói có uy, nhưng là điều đánh động tâm can, thu hút, thuyết phục, làm hoán cải. Đó là lời sự thật có khả năng chữa lành đổng thời xua đuỗi ác thần.
Nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng có thẩm quyền cũng đổng nghĩa với việc công nhận rằng điều Người loan báo có sức làm cho con người được lớn lên, không phải do việc tuân hành cách cứng ngắc theo một giáo huấn, nhưng là trong Thần Khí, Đấng giải thoát con người khỏi mọi tà thần. Chính vì muốn giải thoát con người khỏi những quan niệm cũ kỹ, khỏi thứ an toàn dễ dãi mà Đức Giêsu đã đến và nói với uy quyền.
Uy quyền là sứ mạng
Ôi Đức Giêsu, Các môn đệ của Ngài đã có lần phải bối rối: "Thầy còn để lòng trí chúng con phải thắc mắc đến bao giờ? Nếu Thầy là Đấng Kitô, thì xin nói rõ cho chúng con biết" (x. Ga 10,24). Để trả lời, Ngài lại đặt một câu hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Người ta có cảm tưởng rằng Ngài được tác động do một ơn gọi bí mật -có thể cũng đáng sợ-. Ngài đặt câu hỏi với các bạn hữu như thể Ngài chờ đợi nơi họ một sự xác nhận: "Theo dư luận quần chúng, thì Thầy là ai?" Và ông Phê-rô đã trả lời: "Thầy là Đấng Kitô" (Mc 8,27-29).
Ngài vẫn ý thức mình là con bác thợ mộc, nhưng đổng thời cũng là một người khác, có năng lực lạ lùng.
Dường như Ngài vẫn luôn bị thúc đẩy bởi một sức mạnh thầm kín. Năng lực này, chính Ngài đã đảm nhận cách can đảm: "Ai tiếp đón Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy" (Mt 10,40). Chính nhờ năng lực này, Ngài đã chữa lành các bệnh nhân và làm cho người chết được chôỵi dậy. Chính năng lực này làm cho lời nói của Ngài có được uy quyền và lòng can đảm làm cho các thính giả đang nghe Ngài phải ngạc nhiên, có khi bất mãn nữa. Ngài đã chẳng qua một trường lớp nào, nhưng Ngài đã giải thích Sách Thánh trong các hội đường và dân chúng đã gọi Ngài là Thầy. Ngài đã giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, vượt hẳn các kinh sư, và họ đã chất vấn Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?" (Mc 11,28).
Nhưng Ngài đã tránh không trả lời, bởi vì uy quyền của Ngài không có gì là chính thức, uy quyền ấy là một sứ mạng riêng tư luôn thôi thúc, ám ảnh Ngài. Phần Ngài, Ngài cảm nhận được tầm quan trọng của sứ mạng ấy. Ngài vốn là người hiền lành, hiền lành trong lòng, nhưng khi để nói đến sứ mạng ấy, cung giọng của Ngài trở thành long trọng: "Ở đây còn có người hơn cả Sa-lô-môn... Ở đây còn có người hơn cả Giô-na..." (theo Onimus)
56. Quyền năng trên ma quỷ
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Một hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Sa-tan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Sa-tan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả”. Hoàng tử đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta? Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn, sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi”. Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật tinh khôn và hiểm độc.
Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, xảo quyệt, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương cứu vớt chúng ta, Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ.
Bài Tin Mừng cho biết: thoạt nhìn thấy Chúa Giêsu, thần ô uế đã thét lên: “Ông Giêsu Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tại sao ma quỷ lại phải thét lên? vì không thể có sự tương hợp giữa ô uế và thanh sạch, giữa tội lỗi và thánh thiện, những điều đó quá quen thuộc để nói về ma quỷ và Thiên Chúa. Cho nên, khi Chúa Giêsu đến, một kỷ nguyên mới được mở ra cho nhân loại, chấm dứt sự thống trị của thần dữ và đồng thời giải thoát con người khỏi mọi xiềng xích nô lệ.
Là những người tin vào Chúa Kitô và đón nhận Lời giải thoát, phải chăng câu hỏi đầu tiên mỗi người chúng ta phải tự đặt ra cho mình là: chính bản thân tôi đã được giải thoát chưa? Chúng ta phải nói là chưa, vì vẫn còn biết bao thứ “quỷ ám”, biết bao thứ ngẫu tượng đang ám ảnh chúng ta. Có những người đang bán nhân phẩm bằng những đồng tiền rẻ mạt, có những người đang thú vật hóa chính mình bằng những hành vi đê tiện, có những người đang tìm chiếm hữu tất cả, nhưng lại đánh mất chính mình.
Nói khác đi, lục soát lương tâm cho kỹ, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ: có ông chủ là một ý thức hệ luôn trói buộc đôi cánh tư tưởng chúng ta, có ông chủ là những định kiến đối với cuộc đời, xã hội, con người mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, có ông chủ là thói quen xấu mà chúng ta tích lũy như một pháo đài kiên cố không muốn rời bỏ, có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức mà trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng thực ra lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của chân lý, của yêu thương và tự do đích thực...
Đàng khác, ma quỷ thường khống chế con người bằng cách pha trộn lòng tin thực sự với những tin kiêng dị đoan dối trá: tin vào những ngôi sao, hành tinh vận chuyển, tin vào thẻ bài, cầu cơ, bói toán. Tại sao lại tin vào những cái vô tri không đối tượng như thế? Càng văn minh người ta càng bị cám dỗ tin dị đoan, càng bị ma quỷ khống chế trong lãnh vực này. Trên những tờ báo lớn của nhiều nước văn minh chúng ta thấy dầy đặc những lá số tử vi, người ta dựa vào tử vi, phương hướng hành trình của tinh tú để đoán định tương lai đời mình, có những người tin kiêng ngay cả từng bước đi cho đến cuộc đời. Người nào làm ăn phát đạt thành công được coi là có ngôi sao tốt, người nào gặp thất bại, đau khổ là sinh bởi ảnh hưởng của một ngôi sao xấu.
Như thế là người ta đã làm nô lệ cho những vì sao vô tri giác, chẳng có quyền hành gì trên mình. Khi người ta nô lệ cho những cái vô tri như thế chính là người ta nô lệ cho ma quỷ núp sau đó. Người ta có cảm tưởng rằng tin theo Chúa Giêsu là một điều tốt, là cần rồi, thế nhưng Ngài không giải thoát được hết những nguy hại trong đời, nên cần tin vào những cái vô tri đó để kiếm thêm hạnh phúc. Đó chính là một cám dỗ của vườn địa đàng tái diễn để làm sao tách rời con cái Chúa ra khỏi lòng tin Ngài, ma quỷ dùng cách đó trước khi làm chúng ta bỏ hẳn lòng tin, nghĩa là trước khi làm chúng ta mất hẳn lòng tin thì hãy tạm pha trộn tin kiêng như thế đã, và đó là bước đầu của mất đức tin. Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ, còn những ai tin kiêng dối trá, dị đoan thì hãy nhớ một điều này “tin ma ma nhát, tin quỷ quỷ làm”, sẽ mất cả chì lẫn chài, vì thế Giáo hội khuyên bảo chúng ta hãy coi chừng trong lãnh vực này, nó lầy lội, người ta dễ bị sa lầy trong đó.
Biết thân phận mình yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để khám phá ra mưu mô hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng.
Và giả như có bị thua những cám dỗ, chúng ta càng cần phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa là Đấng cao cả vô cùng thì lòng nhân từ của Ngài cũng vô hạn, tội lỗi con người có nhiều tới đâu, có nặng nề tới mức nào thì cũng như cát, như đá chìm sâu dưới đáy đại dương của lòng nhân hậu thương xót ấy mà thôi. Không có tội lỗi nào mà Thiên Chúa không tha thứ được, không có con người khốn khổ nào mà Thiên Chúa không yêu thương..., chỉ cần chúng ta có lòng khiêm tốn, muốn được tha thứ, muốn được yêu thương mà thôi.
57. Giêsu Nagiarét
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu là ai? Tôi xin thưa Ngài là một người như chúng ta.
Trước hết Ngài đã có một quê hương và quê hương Ngài là làng Nagiarét.
Đây là một thôn làng nhỏ bé quây quần chung quanh một cái giếng duy nhất. Thôn làng này không có chi nổi bật, nếu không phải là người ta đã có một chút châm biếm và khinh dể khi nghĩ về nó:
- Từ Nagiarét nào có sự gì tốt đâu.
Tiếp đến, Ngài cũng có một gia đình. Gia đình Ngài gồm có thánh Giuse, Mẹ Maria và Ngài. Thực vậy, người ta thường gọi Ngài là con bác thợ mộc Giuse. Nghề thợ mộc là một nghề lặt vặt và đa dạng. Vừa xây cất nhà cửa, vừa đóng bàn đóng ghế và sửa chữa những gì hư hỏng. Có lẽ vào khoảng 12 tuổi, Chúa Giêsu đã học nơi thánh Giuse nghề nghiệp này để kiếm sống.
Mẹ Ngài là Đức Maria, người đã giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống của Ngài. Mẹ Maria đã hòa nhập vào sinh hoạt của dân làng nên mọi người đều biết đến.
Cũng như những gia đình khác, Chúa Giêsu có một tổ tiên, một gia phả. Trong cuốn sổ gia phả này, chúng ta thấy xuất hiện những khuôn mặt không mấy tốt lành. Điều đó muốn nói lên rằng Chúa Giêsu đến để mang lấy tội nhân loại, Ngài muốn mang lấy những đau khổ mà chính chúng ta gặp phải, từ phía gia đình cũng như xã hội. Ngài đã trở nên một người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi: có một quê hương, có một gia đình và có một tổ tiên.
Thời bấy giờ, người ta chưa tổ chức được những trường học như ngày nay. Tất cả những gì Ngài biết, một phần do cha mẹ Ngài truyền dạy, một phần do Ngài lãnh nhận được ở hội đường. Tại đó mỗi ngày thứ bẩy, người ta đều cắt nghĩa Kinh thánh. Chúa Giêsu không phải chỉ hiểu một cách hời hợt, nhưng Ngài đã hiểu đúng ý nghĩa sâu xa của nó. Ngài sống một cuộc sống bình thường, ăn mặc như họ, nói năng như họ.
Chính vì thế, khi Ngài bắt đầu giảng dạy thì những người bà con của Ngài đã ngạc nhiên và tự hỏi:
- Bởi đâu mà Ngài được như thế.
Thánh Giuse đã chết khi Chúa Giêsu còn trẻ, chính vì thế mà Ngài phải cáng đáng mọi công việc nặng nhọc để nuôi sống gia đình.
Khi được 30 tuổi, Ngài đóng cửa xưởng mộc, từ giã mẹ Ngài để lên đường rao giảng Tin Mừng. Bởi vì Ngài là Đấng Messia, người được Thiên Chúa sai đến. Ngài chia sẻ kiếp sống lầm than với mọi người. Có lần đói, Ngài đã muốn ăn một trái vả, có lần khát Ngài đã xin người phụ nữ Samaria cho mình một gáo nước. Cuộc sống êm đềm tại Nagiarét đã chấm dứt, bây giờ là những ngày tháng lang thang vất vưởng:
- Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có lấy một chỗ tựa đầu.
Có lần quá mệt mỏi, Ngài đã thiếp ngủ trên thuyền trong khi các môn đệ cố gắng chèo qua bên kia bờ hồ.
Chúa Giêsu đã chia sẻ một kiếp sống cùng khổ. Thế nhưng, nơi Ngài vẫn có một cái gì là đặc biệt vượt trên khuôn khổ bình thường ấy, vì Ngài chính là Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Là Thiên Chúa Đấng ở khắp mọi nơi, Ngài đã chấp nhận giới hạn trong không gian, cùng với những khổ đau mệt mỏi vì yêu thương chúng ta. Là Thiên Chúa Đấng vĩnh cửu, Ngài chấp nhận có một lịch sử, bị giới hạn vào thời gian vì yêu thương chúng ta. Là một Thiên Chúa Đấng tạo hóa, Ngài đã học một nghề và đã vất vả để kiếm sống cũng vì yêu thương chúng ta. Chỉ với cặp mắt của tình thương yêu, chúng ta mới hiểu được điều đó.
Vì kiêu căng, con người muốn bước lên ngôi Thiên Chúa, thì giờ đây để chữa tội kiêu căng ấy, chính Thiên Chúa đã bước xuống phận con người.
58. Chúa Nhật 4 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Có lần tôi đi qua phà, nhìn thấy những người bán hàng rong đang ung dung chào mời khách, bổng nhiên họ hốt hoảng và bỏ chạy. Tôi còn đang ngạc nhiên thì thấy một anh bảo vệ từ đàng xa đến. Thì ra thế, họ sợ người bảo vệ, vì họ không được phép bán hàng trên phà. Nhưng rồi cũng có những lần khác, tôi cũng nhìn thấy những người bán hàng ung dung đi lại và buôn bán thoải mái trên phà cho dù các anh bảo vệ vẫn đi nhởn nhơ qua lại. Tôi chợt suy nghĩ: các người bán hàng chỉ sợ một số nhân viên bảo vệ nào đó mà thôi, chứ không phải họ sợ hết tất cả mọi nhân viên của bến phà. Họ chỉ sợ những người có uy quyền, còn những người khác thì họ xem chẳng ra gì.
Những người Do thái cách đây 2000 năm cũng thế. Họ vào hội đường để nghe giảng dạy theo như lề luật đã qui định. Họ đến hội đường thường xuyên quá, cho đên nỗi dường như họ xem thường và có vẻ như nhàm chán. Nhưng hôm nay, một bầu không khí mới đã bao trùm cả hội đường. Một Đấng có uy quyền thật sự, giảng dạy bằng chính uy quyền của mình, chứ không phải rập theo khuông mẫu nhất định. Uy quyền đó còn tỏ hiện cách kỳ lạ qua việc khống chế tà thần, không cho nó nói và còn đuổi ra không cho làm hại con người. Một uy quyền thật sự, không chỉ có con người nhìn thấy, nhưng cả ma quỷ còn phải khiếp sợ. Đó là uy quyền của Thiên Chúa.
Uy quyền của Thiên Chúa trải dài qua mọi thời đại. Nhưng nếu ai chịu để ý thì mới nhận ra được. Chúng ta có nhận ra quyền năng Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày của mình không? Nếu chúng ta có một chút suy tư, thì quyền năng của Ngài luôn trải dài trên con người, trong từng biến cố của cuộc sống. Nhìn vào con người thấp hèn của mình đi, chúng ta sẽ thấy: cả một sự tinh vi đã được tính toán cách tài tình, mà con người không thể hiểu nỗi. Nếu Thiên Chúa không có uy quyền thì con người không thể tồn tại, thân xác nầy luôn thay đổi nhưng vẫn là thân xác riêng biệt của từng người, không thể lẫn lộn được. Cho dù thân xác của một người trải qua bao nhiêu năm, từ trẻ đến những ngày già lão rồi chết đi. Bao nhiêu tế bào đã thay đổi nhưng cũng chỉ là thân xác của một con người. Rồi hệ tuần hoàn, các bộ phận trong cơ thể của mỗi người. Cho đến bây giờ vẫn chưa có ai sáng chế ra cái gì khác để thay thế được. Vậy mà chúng ta vẫn còn thờ ơ, chúng ta chưa nhìn thấy Thiên Chúa luôn ở bên cạnh mình. Nếu chúng ta nhìn thấy Chúa hiện diện trong đời sống thì chắc cuộc đời mình đã thay đổi nhiều, không còn tình trạng như hiện tại.
Mỗi người chúng ta nhìn lại chính mình xem: bao nhiêu sự kiện lạ lùng xảy đến cho đời sống, nhưng chúng ta vẫn nằm yên bất động, vì chúng ta cho rằng đó là tự nhiên, may mắn. Tại sao chúng ta không chịu để tâm suy nghĩ: đó là quyền năng, là thánh ý của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, để rồi tìm cách sống cho xứng đáng hơn với những gì Thiên Chúa đã ban cho mình. Nếu được như thế thì chắc Thiên Chúa sẽ vui mừng khi chúng ta nhận ra được quyền năng của Ngài, và Ngài cũng sẽ rất hài lòng để tiếp tục ban quyền năng của Ngài xuống trên chúng ta.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết nhận ra quyền năng Chúa trong đời sống hằng ngày, để biết tìm cách sống cho xứng đáng với những gì mình đã nhận biết.
59. Uy quyền của Chúa Giêsu
Một hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Satan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả”. Hoàng tử đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta? Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn, sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi”. Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật tinh khôn và hiểm độc.
Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, xảo quyệt, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ.
Bài Tin Mừng cho biết: thoạt nhìn thấy Chúa Giêsu, thần ô uế đã thét lên: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tại sao ma quỷ lại phải thét lên? Vì không thể có sự tương hợp giữa ô uế và thanh sạch, giữa tội lỗi và thánh thiện, những điều đó quá quen thuộc để nói về ma quỷ và Thiên Chúa. Cho nên, khi Chúa Giêsu đến, một kỷ nguyên mới đươc mở ra cho nhân loại, chấm dứt sự thống trị của thần dữ và đồng thời giải thoát con người khỏi mọi xiềng xích nô lệ.
Là những người tin vào Chúa Kitô và đón nhận Lời giải thoát, phải chăng câu hỏi đầu tiên mỗi người chúng ta phải tự đặt ra cho mình là: chính bản thân tôi đã được giải thoát chưa? Chúng ta phải nói là chưa, vì vẫn còn biết bao thứ “quỷ ám”, biết bao thứ ngẫu tượng đang ám ảnh chúng ta. Có những người đang bán nhân phẩm bằng những đồng tiền rẻ mạt, có những người đang thú vật hóa chính mình bằng những hành vi đê tiện, có những người đang tìm chiếm hữu tất cả, nhưng lại đánh mất chính mình.
Nói khác đi, lục soát lương tâm cho kỹ, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ: có ông chủ là một ý thức hệ luôn trói buộc đôi cánh tư tưởng chúng ta, có ông chủ là những định kiến đối với cuộc đời, xã hội, con người mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, có ông chủ là thói quen xấu mà chúng ta tích luỹ như một pháo đài kiên cố không muốn rời bỏ, có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức mà trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng thực ra lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của chân lý, của yêu thương và tự do đích thực…
Đàng khác, ma quỷ thường khống chế con người bằng cách pha trộn lòng tin thực sự với những tin kiêng dị đoan dối trá: tin vào những ngôi sao, hành tinh vận chuyển, tin vào thẻ bài, cầu cơ, bói toán. Tại sao lại tin vào những cái vô tri không đối tượng như thế? Càng văn minh người ta càng bị cám dỗ tin dị đoan, càng bị ma quỷ khống chế trong lãnh vực này. Trên những tờ báo lớn của nhiều nước văn minh chúng ta thấy dầy đặc những lá số tử vi, người ta dựa vào tử vi, phương hướng hành trình của tinh tú để đoán định tương lai đời mình, có những người tin kiêng ngay cả từng bước đi cho đến cuộc đời. Người nào làm ăn phát đạt thành công là có ngôi sao tốt, người nào gặp thất bại, đau khổ là sinh bởi ảnh hưởng của một ngôi sao xấu. Như thế là người ta đã làm nô lệ cho những vì sao vô tri giác, chẳng có quyền hành gì trên mình. Khi người ta nô lệ cho những cái vô tri như thế chính là người ta nô lệ cho ma quỷ núp sau đó. Người ta có cảm tưởng rằng tin theo Chúa Giêsu là một điều tốt, là cần rồi, thế nhưng Ngài không giải thoát được hết những nguy hại trong đời, nên cần tin vào những cái vô tri đó để kiếm thêm hạnh phúc. Đó chính là một cám dỗ của vườn địa đàng tái diễn để làm sao tách rời con cái Chúa ra khỏi lòng tin Ngài, ma quỷ dùng cách đó trước khi làm chúng ta bỏ hẳn lòng tin, nghĩa là trước khi làm chúng ta mất hẳn lòng tin thì hãy tạm pha trộn tin kiêng như thế đã, và đó là bước đầu của mất đức tin. Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ, còn những ai tin kiêng dối trá, dị đoan thì hãy nhớ một điều này “tin ma ma nhát, tin quỷ quỷ làm”, sẽ mất cả chì lẫn chài, vì thế Giáo Hội khuyên bảo chúng ta hãy coi chừng trong lãnh vực này, nó lầy lội, người ta dễ bị sa lầy trong đó.
Biết thân phận mình yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để khám phá ra mưu mô hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng.
Và giả như có bị thua những cám dỗ, chúng ta càng cần phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa là Đấng cao cả vô cùng thì lòng nhân từ của Ngài cũng vô hạn, tội lỗi con người có nhiều tới đâu, có nặng nề đến mức nào thì cũng như cát, như đá chìm sâu dưới đáy đại dương của lòng nhân hậu thương xót ấy mà thôi. Không có tội lỗi nào mà Thiên Chúa không tha thứ được, không có con người khốn khổ nào mà Thiên Chúa không yêu thương…, chỉ cần chúng ta có lòng khiêm tốn, muốn được tha thứ, muốn được yêu thương mà thôi.
60. Người đi đến đâu thì thi ân giáng phúc đến đấy
(Suy niệm của Phêrô Mai Viết Độ, OP)
Thiên Chúa đầy lòng yêu thương đối với hết mọi loài Chúa đã dựng nên: “Khi Chúa rộng mở tay ban là muôn sinh vật muôn vàn thoả thuê.” (Tv 145,16). Xuyên suốt hành trình rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu, đi đến đâu Chúa cũng giảng dạy và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Đó là bằng chứng nói lên tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người.
Hôm nay, Tin Mừng Thánh Máccô đã thuật lại biến cố Chúa Giêsu đến thành Ca-phác-na-um, tại đây, Người đã khiến cho dân chúng phải ngạc nhiên về lời giảng dạy và hành động trừ quỉ của mình. Họ ngạc nhiên vì thấy Chúa chỉ là người dân bình thương, không có địa vị, không phải là tư tế, luật sĩ, kinh sư… vậy mà Người giảng dạy “như một Đấng có uy quyền”. Có lẽ dân chúng ngạc nhiên bởi từ trước tới nay người ta vẫn quen nghe những kinh sư, biệt phái đứng trên toà cao để giảng dạy. Họ bảo người khác làm, nhưng chính mình lại không buồn làm. Còn Đức Giêsu, lời giảng của Người đi đôi với hành động. Sở dĩ dân chúng chăm chú lắng nghe lời rao giảng của Người là vì họ đã được chứng kiến tận mắt các phép lạ Chúa đã làm.
Thật vậy, Chúa Kitô là Thiên Chúa, Ngài xuống trần gian không phải để biểu dương quyền lực, mà để đem bình an và ơn cứu độ cho con người. Sứ vụ này đã được tiên tri Isaia loan báo thuở xưa rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” Suốt hành trình rao giảng của Người ở trần gian là để hoàn trọn sứ vụ đó.
Thiên Chúa đã thi ân giáng phúc bằng nhiều cách thức khác nhau, Người làm những việc lạ lùng sức con người không thể tưởng tượng nổi: người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người què đi được… Không những thế, Chúa con ban Nước Trời cho người tội lỗi, nghèo hèn, bệnh tật… Chúa muốn tất cả mọi người đều có một cuộc sống yên vui hạnh phúc và bình an: “Thầy đến để anh em được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Mặc dù Chúa đã về trời, nhưng Ngài vẫn đồng hành và ban phát những ơn lành cho chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể cảm nghiệm được điều đó. Chúa ban cho tất cả chúng ta có sức khoẻ, công việc làm ăn… Chúa cũng gìn giữ và ban cho chúng ta cuộc sống bình an để chúng ta được sống vui, sống hạnh phúc giữa cuộc đời đầy gian nan và thử thách này. Tóm lại, trong những giây phút của cuộc đời, chúng ta đã lãnh nhận biết bao ân phúc của Thiên Chúa. Từ của cải vật chất để nuôi sống thân xác, đến những của ăn nuôi dưỡng tâm hồn.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đã nói "Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế". Chúa đã hứa và đã thực hiện lời hứa đó; Chúa còn thực hiện một cách kì diệu biết bao: vì Chúa ở lại với chúng con không những bằng biết bao ân sủng Chúa đổ tràn trên chúng con, mà Chúa còn ở với chúng con qua bí tích Thánh Thể và trở nên của ăn nuôi dưỡng tâm hồn chúng con. Xin đừng để chúng con xa lìa Chúa, nhưng luôn trung thành tuân giữ điều răn của Chúa và sống mãi trong tình yêu Chúa. Amen.
61. Ma quỷ
Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người. Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng. Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc. Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ. Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.
Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ. Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú. Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề, Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác. Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.
Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.
Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của Satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường. Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ. Chúng đã xin nhập vào đàn lợn đang ăn bên bờ biển, và cả đàn lợn lăn xuống biển chết hết.
Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của Satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi. Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách Satan. Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh. Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.
Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những người thu thuế. Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.
Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.
Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ. Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ. Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.
Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người. Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn. Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm. Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.
Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn. Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.
Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa. Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộn cắp, kiện cáo và tranh giành. Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xúi giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác. Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.
Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới. Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.
Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.
Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.
Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ. Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp. Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện. Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
62. Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa
(HN sưu tầm -thanhlinh.net)
1. Sức mạnh siêu phàm
Hoàng đế César Augustô đã biến La mã từ những đổ nát thành một La mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà lộng lẫy đồ sộ.
Nhưng ông ta có biết đâu một trẻ Giêsu nhỏ bé đã làm chấn động cả thế giới và thay đổi cục diện lịch sử nhân loại. Ông ta có biết đâu một trẻ Giêsu sinh ra nghèo hèn trong một làng xa xôi hẻo lánh đã biến cả La mã khổng lồ của ông thành một vương quốc vĩ đại. Ông đâu ngờ các thần mInh ông tôn thờ phải lui bước, nhường chỗ cho một Thiên Chúa toàn năng, khiến ma quỷ phải khâm phục và mọi người tôn vinh.
--------
Đó là sức mạnh siêu phàm của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện và biểu hiện uy quyền của Người qua lời giảng dạy mới mẻ, qua sự kính phục của ma quỷ, và qua lòng ngưỡng mộ của mọi người: “Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo” (Mc.1,28).
Chính “giáo huấn mới mẻ: làm cho mọi người nhìn nhận Người là Đấng cứu thế; thẩm quyền của Người khiến ma quỷ phải kính phục, và việc ma quỷ tuân phục Người nói lên vương quốc cứu độ của Người đã đến với loài người.
Là Kitô hữu, chúng ta cần học hỏi và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, nhận ra quyền năng của Người tác động trong cuộc đời chúng ta, làm cho nó sinh bông kết trái thiêng liêng hằng ngày G.Coutois đã khẳng định: “Nếu chúng ta biết sống Lời Chúa trong môi trường hằng ngày, chúng ta sẽ âm thầm trở nên muối và men cho cả nhân loại, vì ánh sáng của người sống Lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều.”
“Lời Chúa là đèn soi con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. (Tv.118).
(Theo “Như Thầy đã yêu”).
2. Sức mạnh của Lời Chúa
Đi khắp nước Phi-luật-tân, đâu đâu cũng thấy nhan nhản những câu Lời Chúa, nhắc nhở mọi người nhớ Chúa, nhất là đem ra thực hành trong đời sống. Sở dĩ ở Phi-luật-tân có được điều đó là vì số Kitô hữu chiếm hơn 90 phần trăm dân số.
Những lời Chúa đó khích lệ, động viên các tín hữu Phi-luật-tân hướng thiện hành thiện trong mọi hoàn cảnh của từng giây từng phút sống. Lời Chúa có sức mạnh cải biến con người như thư Do-thái nói:
“Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hiện hữu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi, xuyên thấu chỗ phân cách tâm linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tìnhcũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ”.
--------
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy hiệu lực phi thường của Lời Chúa. Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuân phục; Lời Chúa khiến thần ô uế phải tuyên xưng Chúa là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Sức mạnh của Lời Chúa luôn tác động mọi loài mọi vật và phát sinh hiệu lực như ngôn sứ Isaia nói:
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về với trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì Lời Ta cũng vậy. Một khi phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó”.
Là đồ đệ Chúa và là Kitô hữu, chúng ta phải đem Lời chúa vào tâm hồn chúng ta và làm cho nó trổ sinh hoa trái tốt. Đó là cách tốt nhất để loan báo Chúa Kitô cho anh chị em xung quanh, vì loan báo bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. (Theo “Ánh Sáng thế gian”).
3. Hai vương quốc giao tranh
Năm 1970 bộ phim “Người trừ quỷ” ra mắt đã phá kỷ lục bán vé. Bộ phim kể lại một thiếu niên bị quỷ ám như anh chàng trong Tin mừng hôm nay.
Đó là cậu trai 14 tuổi sống ở vùng Raimer, bang Maryland vào năm 1949. Phòng cậu ở, mọi vật đều di động. Ban đêm cậu không sao ngủ được, miệng luôn thốt ra những lời nguyền rủa hung hãn. Và đến một lúc nào đó đầu cậu bị cột vào giường ngủ, thì thân xác cậu đầy những vết tích đẫm máu…
Nhưng cậu bình phục nhờ được trừ tà, hiện cậu còn sống ở vùng Washington nước Mỹ. Vị linh mục đã trừ tà cho cậu nói: “Nhờ dịp này, tôi đã biến đổi cuộc sống tốt hơn”.
----------
Trong Tin mừng hôm nay, khi thấy Chúa Giêsu trừ được quỷ, dân chúng thắc mắc: “Ông ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo”.
Đó là vì Chúa Giêsu “dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến” (Lc.11,20). Việc Chúa Giêsu trừ được quỷ nói lên vương quốc Satan giờ đây nhường chỗ cho vương quốc Thiên Chúa.
Điều này lại gợi lên vấn nạn: Nếu Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc Thiên Chúa hơn 2000 năm nay, tại sao điều ác sự dữ vẫn còn? Tức là vương quốc ma quỷ vẫn còn tác oai tác quái trong thời đại chúng ta? Lý do vì vương quốc Thiên Chúa không đến tức khắc, đó là một bước tiến từ từ. Hơn nữa, Chúa giao phó cho chúng ta công việc hoàn tất. Có thể vì vương quốc Thiên Chúa như một cây non. Chúa Giêsu trồng, giao cho chúng ta vun phân tưới nước cho nó lớn lên và sinh bông kết trái như ý Chúa muốn.
Điều này lại dẫn đến vấn nạn thứ hai: Tại sao vương quốc ma quỷ lâu tàn lụi và vương quốc Thiên Chúa chậm phát triển như thế? Câu trả lời phải nói là tại chúng ta chểnh mảng, không lo chu toàn trách nhiệm Chúa phú giao. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong chúng ta kính mến chúa hết lòng, thương yêu người như Chúa thương? Có bao nhiêu người trong chúng ta trở nên men, nên muối, nên ánh sáng cho người khác? Có bao nhiêu người chúng ta sống hiền lành khiêm nhượng như Chúa Giêsu?!...
(Theo “Sunday Homilies”).
4. Ông là Đấng Thánh
Có người mẫu Susam Missi gốc nước Anh đã bảo hiểm thân thể cô trị giá 15.800.000 mỹ kim. Cô rất hãnh diện về số tiền bảo hiệm cho thân thể cô. Nhưng phải chăng đó là giá trị của con người.
Đọc qua bản tin này, ai có quan niệm sống là để hưởng giàu sang và khoe khoang của cải sắc đẹp thì người đó thán phục và mơ ước mình cũng được như thế. Nhưng đối với những ai có tâm hồn quãng đại, yêu người thì sẽ trách phiền người mẫu kia là vô tâm, ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ mà không biết thương giúp đồng loại đau khổ thiếu thốn. Nhưng dù có phản ứng thế nào thì đây cũng là dịp tốt mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống, về phẩm giá con người.
Sự sống của mỗi người chúng ta có giá trị vô song, không thể sánh với tiền của vật chất. Người mẫu Susan Missi đã bảo hiểm thể xác mình gần 16 triệu mỹ kim, nhưng sự sống của cô không có gì đổi được.
--------
Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa dạy cho biết sự sống con người thật quý giá, và sự sống đó sẽ triển nở đến muôn đời. Sự sống đó quý giá đến nỗi máu Con Thiên Chúa phải đổ ra chuộc lại.
Thánh Phêrô bảo chúng ta: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anhh em, vì có lời Kinh thánh chép: Hãy sống thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh Thiện… Anh em hãy biết không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn vô tỳ tích là Đức Kitô…
Nhờ vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn… hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tuông cùng mọi lời nói xấu gièm pha. Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ… (1Pr.1,15-2,2).
Chúng ta nhắc lại lời Thánh Phêrô kêu mời chúng ta: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”.
Và trong Tin mừng hôm nay, chính thần ô uế cũng phải tuyên xưng: “Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc.1,24).
63. Chúa Nhật 4 Thường Niên
Người ra lịnh cho các thần ô uế; chúng phải tuân theo…
Anh chị em thân mến,
Trước năm 1975, có một cuộc trấn ếm của một ông thầy pháp, người ta kể lại: đôi vợ chồng chủ nhà vừa mới mua căn này và chưa ở được bao lâu. Họ nói: ma quỉ ban đêm hay phá quá!. Dù là công giáo, nhưng hơi kém đức tin, nên họ đã rước thầy pháp về. Ông thầy bảo: nhà này ma lắm; đó có mấy đứa con nít đu ở đầu cột đó! Ông liền lên đèn, bắt ấn, dùng dao chặt ngang vào thân cột, thấy máu chảy xuống ròng ròng, chảy tới đất là mất. Ông lấy mấy cây nhang nhỏ, đốt lên, bắt ấn, múa may, rồi cấm vào thân cây cột nhà bằng căm xe, còn bóng dợn. Người đi coi thấy cây nhang được cắm vào cây cột cách nhẹ nhàng, sâu đến cả nữa cây nhang. Họ thấy mấy chuyện lạ này, nên xem ra họ tin lắm... Kết quả qua năm sau, gia đình này vẫn bị phá. Cuối cùng họ phải bán nhà luôn!
Thực ra ta biết, thầy pháp chẳng có quyền năng gì cả; ngược lại họ làm những chuyện bề ngoài thấy kinh thiên động địa như thế, nhưng mọi chuyện đều dựa vào quyền năng của ma quỷ thôi. Một sự thật mà cả người lương vẫn phải nhìn nhận: vd. đang khi có cuộc trấn ếm như thế, nếu có ai lén dùng nước thánh rảy vào, hoặc giấu xâu chuổi gần đó, thì thầy pháp sẽ bó tay, và sẽ đầu hàng ngay. Ngược lại người công giáo chúng ta tin Chúa Giêsu, Người dùng quyền năng tự chính mình để chữa bệnh, để xua trừ ma quỉ. Người không cần nhờ ai cả. Đó chính là đề tài mà chúng ta sẽ suy niệm trong ngày Chúa Nhật hôm nay.
a/. Bài Tin mừng hôm nay có hai vấn đề chúng ta cần tìm hiểu:
Việc Chúa xua trừ ma quỉ:
Khi bắt đầu cuộc đời công khai, việc làm đầu tiên của Chúa tại thành Capharnaum, là việc xua trừ tà thần ô uế, ta quen gọi là trừ ma quỉ. Câu chuyện xua trừ ma quỉ trong bài Tin mừng hôm nay, là muốn chỉ về sứ mạng thường xuyên của Đấng Cứu thế, đó là chiến đấu chống lại ma quỉ. Điều này Thánh Marcô nhắc tới nhiều lần trong Tin mừng của mình. Có nguời nói Chúa phải chiến đấu tới giây phút cuối cùng trên Thánh giá (Mc 15, 34). Nói cách dễ hiểu hơn, Marcô muốn trình bày sứ mạng của Chúa đến trần gian chính là giải thoát con người khỏi quyền lực của satan. Rồi trước khi về trời, Chúa còn ban cả quyền đó cho Hội thánh qua các tông đồ. Điều này nói lên Chúa có uy quyền đó, và uy quyền đó tự nơi chính Chúa, không ai ban cho. Chính dân chúng cũng công nhận điều đó: "Người giảng dạy như Đấng có uy quyền.." không như các kinh sư và biệt phái.
Chúa Giêsu dùng chính quyền năng mình để chữa bệnh tật, xua trừ ma quỉ: Trên đời này, muốn chữa bệnh cho người ta, bác sĩ phải dùng thuốc, hoặc dùng các phương tiện y học, mới có thể chữa được bệnh. Thầy phù, thầy pháp, đồng bóng muốn chữa bệnh, cũng cậy dựa vào người khác (ma quỉ) mới chữa được. Thực ra, với các thứ thầy này, có chữa được hay không lại là một chuyện khác nữa. Ở đây Chúa Giêsu dùng chính quyền năng của mình, để chữa bệnh, để xua trừ ma quỉ. Chính bài Tin mừng này nói lên rất rõ điều đó. Khi Chúa xua đuổi thần ô uế ra khỏi con người; chính Phúc âm ghi câu: "Chúa quát mắng ma quỉ: câm đi và ra khỏi người này!" Ngày hôm nay, Hội thánh muốn xua trừ ma quỉ, Hội thánh cũng phải nhờ vào quyền năng Chúa, nhân danh Thiên Chúa để trừ. Tự bản thân mình, Hội thánh không hề có quyền gì cả... Phúc âm còn ghi: "dân chúng khi thấy Chúa xua trừ thần ô uế ra khỏi con người, họ ngạc nhiên bàn với nhau: Giáo lý Chúa dạy thì mới mẻ; Lời Người dạy lại có uy quyền. Người ra lệnh cho cả các thần ô uế, và chúng phải vâng theo!" Các điều này muốn nói: chính Chúa có quyền năng tự mình, không cần ai ban cho. Vì thế, Ý muốn và Lời Chúa tự nó có sức mạnh, chữa các bệnh tật, xua trừ ma quỉ; cũng chính Lời đó có sức biển đổi thế giới. Chính sách Sáng thế ký đã ghi: "Lời Chúa phán có sức tạo thành vũ trụ", và Lời Chúa đó cũng chính là Thiên Chúa quyền năng...
b/. Câu chuyện: Người công giáo bên Phi luật tân chiếm hơn 90% dân số; vì thế đạo công giáo gần như là quốc giáo. Các trẻ em khi lớn lên, sẽ được học giáo lý trong trường học của nhà nước, dù là công giáo hay không. Giáo lý công giáo là môn học chính thức trong trường; ai đủ điểm môn này sẽ được rước lễ lần đầu, hoặc được lãnh Bí tích Thêm sức, hoặc được cử hành hôn phối. Vì vậy, nhà thờ không phải dạy giáo lý...Vì những lẽ nêu trên, đi khắp đất nước Phi, ở đâu người ta cũng thấy nhan nhãn những câu Lời Chúa được dán lên, nhắc nhở mọi người nhớ đến Chúa, nhất là đem Lời Chúa ra thực hành ngay trong đời sống.
Lời Chúa đã khích lệ, động viên các tín hữu Phi sống tốt và sống chính giây phút hiện tại. Cũng chính vì Lời Chúa có sức mạnh biến cải tâm hồn con người như lời thư gởi tín hữu Do thái: "Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén như gươm hai lưỡi..." (Dt 4, 12). Chính phép lạ xua tà thần ô uế nói lên Lời Chúa có sức biến đổi, vì Lời Chúa chính là uy quyền của Con Thiên Chúa; uy quyền đó có tự bản thân mình, không phải ai khác đã ban cho...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu đến để giải phóng con người khỏi ách nô lệ của satan, của tiền bạc vật chất, của tội lỗi, tánh hư tật xấu là những cái thuộc về sa tan. Là người kitô hữu, ta có sẵn sàng cộng tác với Chúa, xua trừ ma quỉ và tội lỗi, ra khỏi con người chúng ta và của anh em xung quanh không?
64. Vương quốc Thiên Chúa - Lm. Mark Link, SJ
Một số nhà sư ở Thái lan đang di chuyển một bức tượng Phật lớn bằng đất sét sang một ngôi chùa mới. Chính phủ đã tịch thu ngôi chùa cũ và sẽ phá huỷ để chuẩn bị làm xa lộ mới.
Bỗng dưng, chiếc xe chở bức tượng này bị xụp ổ gà. Chấn động đó làm nứt một đường thật lớn ngay giữa bức tượng. Các nhà sư la lên một cách hoảng hốt và họ rất đau lòng.
Và rồi một điều bất ngờ đã xảy ra. Các nhà sư nhìn thấy có ánh sáng lấp lánh bên trong đường nứt ấy. Họ dò xét và thật bàng hoàng khi thấy rằng lớp đất nung ấy chỉ dày độ hai phân. Bên dưới lớp đất sét là một bức tượng bằng vàng ròng.
Hiển nhiên vàng đã được bọc bằng lớp đất sét trong bao thế kỷ trước đây để quân xâm lăng khỏi lấy mất. Hiển nhiên, nhiều nhà sư đã chết vì cuộc xâm lăng này. Tuy nhiên, bức tượng vàng ròng này – trị giá $200 triệu – vẫn được che giấu bên dưới lớp đất sét trong bao nhiêu thế kỷ.
Trong suốt thời gian này, hàng ngàn nhà sư đã tụng kinh trước bức tượng. Nhưng không một ai dám mơ tưởng rằng bên dưới lớp đất sét ấy là một kho tàng vĩ đại.
Chỉ khi một chấn động tình cờ xảy ra làm nứt lớp đất sét thì người ta mới thấy được điều gì đó còn hơn cả bức tượng đất sét. Nó bao bọc một kho tàng vô giá.
Điều đó đưa chúng ta đến bài Phúc Âm hôm nay. Nó rất giống như bức tượng bọc bằng đất sét. Mới thoạt nhìn, dường như nó chỉ là câu chuyện của một người bị thần dữ ám và ông ta vào hội đường khi Chúa Giêsu đang giảng dạy.
Khi thần dữ bắt đầu la hét, Đức Giêsu ra lệnh nó phải im đi và xuất khỏi người đàn ông này. Trước sự bàng hoàng của tất cả mọi người, thần dữ đã tuân lệnh Đức Giêsu. Khi dân chúng chứng kiến điều ấy, họ hỏi nhau, “Điều này nghĩa là gì?”
Thần dữ vâng phục Đức Giêsu cũng giống như chấn động đã làm nứt bức tượng đất sét. Bỗng dưng, dân chúng trông thấy ở Đức Giêsu một điều gì đó còn hơn cả mắt thấy, cũng như điều gì đó ở bức tượng còn hơn cả vẻ bên ngoài.
Quyền năng của Đức Giêsu trên thần dữ cho thấy rằng bên trong Người là một kho tàng, cũng giống như bức tượng đất sét bao bọc bên trong một kho tàng.
Chúng ta có thể so sánh nhân tính của Đức Giêsu giống như lớp đất sét bao bọc bức tượng – nó che giấu căn tính đích thật của Đức Giêsu. Và vì vậy khi Đức Giêsu cho thấy quyền năng trên các thần dữ, dân chúng hỏi nhau, “Điều này nghĩa là gì?”
Chính Đức Giêsu trả lời câu hỏi ấy trong một dịp khác. Nó xảy ra như sau: Một ngày kia Người lại xua đuổi thần dữ. Một số người kết luận rằng Đức Giêsu làm như vậy là nhờ Satan ban cho quyền lực. Nhưng Đức Giêsu nói:
“Không phải vậy, đúng ra là nhờ quyền năng của Thiên Chúa mà tôi trừ quỷ, và điều này chứng tỏ rằng Vương Quốc Thiên Chúa đã đến với các ông.” Luca 11:20
Qua câu trả lời này, Đức Giêsu cho biết người là ai và đến thế gian để làm gì. Người là Đấng Mêsia được mong đợi từ lâu, và các ngôn sứ đã tiên đoán Đấng Mêsia sẽ thi hành những điều như vậy. Nhưng Đức Giêsu thì còn hơn thế nữa – hơn rất nhiều!
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Người đến để tiêu diệt vương quốc của Satan mà nó đã cầm giữ thế gian trong sự nô lệ bởi vì tội của ADong.
Nhưng điều này nêu lên một câu hỏi khác, một câu hỏi lớn hơn nữa: Nếu Đức Giêsu đã đến để tiêu diệt vương quốc Satan và khai mở Vương Quốc Thiên Chúa, tại sao vẫn còn sự dữ trong thế gian?
Quả thật, Đức Giêsu đã khai mở Vương Quốc Thiên Chúa, nhưng Người chưa hoàn tất. Người sai Thánh Thần xuống trên các môn đệ, uốn nắn họ trở thành Hội Thánh.
Hội Thánh có thể được so với “hạt giống,” mà sau cùng nó sẽ triển nở thành Vương Quốc Thiên Chúa trong sự trọn vẹn của nó.
Nhiệm vụ của Hội Thánh – dưới quyền thủ lãnh của Đức Kitô và sự dẫn dắt cũng như quyền năng của Chúa Thánh Thần – là công bố và cầu xin cho Vương Quốc được ngự đến trong sự trọn vẹn cho mọi dân tộc. Đây là sự giảng dạy sau cùng của Đức Giêsu cho các môn đệ. Người nói:
“Hãy ra đi, hãy đến với mọi dân tộc ở mọi nơi và hãy làm cho họ trở thành môn đệ của Thầy: hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con, và Thánh Thần, và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho các con. Và Thầy sẽ luôn ở với các con cho đến tận thế.” (Mt 29:19)
Là các phần tử của Hội Thánh, Thân Thể Chúa Kitô, tất cả chúng ta cùng chia sẻ trách nhiệm loan truyền tin mừng về Vương Quốc Thiên Chúa cho toàn thế giới.
Chúng ta phải loan truyền vương quốc ấy khi cùng nhau cầu nguyện trong các Chúa Nhật và cùng nhau sống chứng nhân trong những ngày còn lại. Cả hai chiều kích này phải được thấy nếu muốn sự loan truyền của chúng ta có hiệu quả.
Trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, đọc kinh Lạy Cha, “Xin cho Nước Cha trị đến” thì chưa đủ. Chúng ta còn phải sống lời loan truyền. Một câu chuyện nổi tiếng minh hoạ điểm này: Một ngày kia, một người Bàlamôn nói với nhà truyền giáo Kitô, “Nếu các tín hữu Kitô ở Ấn Độ, ở Anh, hay ở Hoa Kỳ giống như Kinh Thánh kia, quý vị sẽ chinh phục được nước Ấn trong vòng năm năm.”
Điều này đưa chúng ta đến câu trả lời cho câu hỏi, nếu Đức Giêsu đã thiết lập Vương Quốc Thiên Chúa, tại sao vẫn còn nhiều sự dữ trong thế gian?
Đó là vì chúng ta không loan truyền sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta như chúng ta phải thi hành. Chúng ta không tiến hành nhiệm vụ mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta.
Vậy, tóm lại, Đức Giêsu quả thật đã khai mở Vương Quốc Thiên Chúa. Nhưng Người chưa hoàn tất. Người sai Thánh Thần đến với các môn đệ, để uốn nắn họ trở thành Hội Thánh.
Nhiệm vụ của Hội Thánh là loan truyền bằng sự thờ phượng cũng như trở nên gương mẫu hàng ngày cho sự hiện diện của Vương Quốc giữa chúng ta.
Đây là lời mời gọi mà mỗi người chúng ta được mời. Đây là thách đố hôm nay mà Phúc Âm đặt ra trước mỗi người chúng ta.
65. Như một ngôn sứ – Lm Đỗ Vân Lực
Lời Chúa vẫn làm những việc kỳ diệu nơi cộng đoàn dân Chúa. Chẳng hạn Dòng Nữ Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại tại Houston đang tiến những bước ngoạn mục tại cộng đồng Công giáo địa phương. Số phận anh em Đa Minh Việt Nam không được may mắn như thế. Nghĩa là bước tiến không đều nhịp. Niềm vui không trọn vẹn. Nhưng chính nơi niềm vui không trọn vẹn đó, lời Ngôn sứ Maria trong kinh Magnificat đã được thực hiện trọn vẹn trong hoàn cảnh hôm nay.
Vị Ngôn sứ đó đã cống hiến cho đời một Ngôn sứ vĩ đại khiến “thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 1:22). Hôm nay nhân loại cũng đang mong ước có một vị ngôn sứ như thế. Nhưng thử hỏi có ai lấp đầy niềm hi vọng đó không?
NHẬN DIỆN NIỀM HI VỌNG
Thời Đức Giêsu, dân Do thái ngưỡng vọng về một ngôn sứ như Thiên Chúa đã hứa với Môsê: “Thiên Chúa của anh em sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18:15). Phải đợi tới bao giờ vị ngôn sứ đó mới xuất hiện? Toàn dân có đủ kiên nhẫn chờ đợi thêm nữa không? Sách Talmud cho thấy “tinh thần ngôn sứ đã tắt ngúm và cạn kiệt trong dân Israel với ngôn sứ Haggai, Giacaria, và Malakhi”(Yoma 9b). “Cho tới lúc đó, các ngôn sứ được tiên báo bằng hành động Thánh Linh; do đó hãy lắng tai nghe những lời khôn ngoan của ho.” (Seder ‘Olam Rabbah 30). Chẳng còn ai xứng đáng nói thay Chúa như các ngôn sứ nữa. Tình thế hoàn toàn thất vọng. Chỉ còn niềm hi vọng cánh chung mới nuôi sống niềm mong đợi một vị ngôn sứ như Môsê đã hứa (Đnl 18:15-20).
Giữa lúc toàn dân thất vọng như thế, Đức Giêsu đã xuất hiện như một ngôn sứ “có uy quyền” (Mc 1:27). Uy quyền đó biểu lộ nơi sức mạnh trấn áp “thần ô uế” (c.23). Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c.24) “vì là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng-Được-Xức-Dầu, được thánh hiến, và là Con Thiên Chúa” (Kinh Thánh Tân Ước 1995:185). Sức mạnh Người đáng sợ đến nỗi ma quỉ cũng phải thét lên trước khi trở về cõi im lặng ngàn thu, nhường bước cho Ngôi Lời hoạt động để xây dựng Nước Trời. Hoạt động đó gây “kinh ngạc đến nỗi mọi người bàn tán với nhau: ‘Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền”(Mc 1:27). Khác hẳn với các người Biệt phái với mớ giáo lý nhàm chán, thái độ kênh kiệu, và những tập tục phức tạp, Đức Giêsu đến thổi luồng gió mới vào cuộc sống con người và xã hội Do thái. “Đức Giêsu chính là vị ngôn sứ trong sách Đệ nhị luật, khai mở thời đại cánh chung với lời mời gọi sám hối” (Cv 3:22; 7:37) (Faley 1994:129).
Kêu gọi sám hối là đụng tới quyền lợi của nhiều hạng người trong xã hội. Sám hối là xoay ngược tình thế, vì bắt mọi người phải từ bỏ lối nhìn, quyền lợi và những thói quen cố hữu. Lúc đó, “Carphanaum là một thành phố thịnh vượng, giàu có, tội lỗi và sa đọa. Vì Carphanaum là cơ quan đầu não của quân đội Rôma, tràn lan những ảnh hưởng ngoại giáo từ khắp đế quốc Rôma” (Life Application Study Bible 1991:1727). Bởi đó, lời giảng của Đức Giêsu trở thành một thách đố lớn lao cho thính giả của Người. Trước mặt quần chúng, Người xuất hiện như một Đấng có “uy quyền”, cao cả như một “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, và hành động mạnh mẽ như một Thiên Sai. Người cho mọi người thấy “thời cánh chung đã điểm với chiến thắng quyết liệt của Giavê và thảm bại của ma quỉ” (Faley 1994:131). Chiến thắng đó chính là chiến thắng của sự sống trên sự chết. Tất cả sẽ được đổi mới. Một mùa xuân đã đến với nhân loại. “Chính việc Đức Giêsu chiến thắng quyền lực ma quỉ đã mở màn thời đại Thiên sai và loan báo Nước Thiên Chúa” (Faley 1994:131).
NGÔN SỨ HÔM NAY
Khác hẳn Cựu ước, Tân Ước cung cấp những ngôn sứ loan báo Tin Mừng, thay vì những lời đe loi, hăm dọa, kết án. Tin Mừng đó có nguồn gốc sâu xa và nền tảng vững chắc trong Chúa phục sinh và vinh quang. Bởi vậy làm ngôn sứ có nghĩa là “làm chứng cho Đức Giêsu” (Kh 19:10) và “làm cho lời Chúa thành hiện thực, sống động và trực tiếp ảnh hưởng tới cộng đoàn” (Fisichella 1995:794). Không có ngôn sứ, cộng đoàn không thể thành hình, vì theo thánh Phaolô, “người nói tiên tri thì xây dựng Hội Thánh”(1 Cr 14:4).
Chính nhờ ngôn sứ, dân Chúa lấy lại được “can đảm và nghe được sứ điệp cứu độ”(Fisichella 1995:794). Nói khác, “có đức tin là nhờ nghe giảng mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10:17), trung tâm và nền tảng lời ngôn sứ. Một ngôn sứ nhát đảm không thể chu toàn sứ mệnh đó. Làm chứng cho sự thật, bênh vực công lý, chiến đấu cho hòa bình và sự sống nhân loại không phải là chuyện dễ. Nhưng đó lại là sứ mệnh đặc biệt của một ngôn sứ. Chính vì thế ngôn sứ rất cần thiết cho nhân loại, nhưng lại là một chướng ngại cho những nhà lãnh đạo tắc trách. Đức Giêsu đã trở thành đối thủ nguy hiểm cho những nhà lãnh đạo Do thái vì “danh tiếng Người đồn ra mọi nơi” (Mc 1:28), thu hút hết quần chúng (c.Mc 2:13) và đe dọa quyền lợi của họ. Dù bị đe dọa, Đức Giêsu vẫn can đảm vạch rõ những dấu chỉ về tình yêu Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại một cách mãnh liệt.
Ngôn sứ hôm nay không thể đi con đường nào khác. Họ phải “chuẩn bị cho dân Chúa đọc dấu chỉ thời đại, tạo nên những dấu chỉ mới, làm cho sứ điệp cứu độ thành hiện thực đáp ứng những nhu cầu thời đại”(Fisichella 1995:796). Không đọc được những dấu chỉ đó, không thể tìm thấy ý nghĩa cuộc đời và niềm tin chúng ta. Giữa những thách đố hôm nay, không có lời ngôn sứ, Kitô hữu sẽ chao đảo và không tìm được lối thoát. Họ cần lời ngôn sứ như một chiếc phao cho niềm hi vọng cuối cùng giữa biển đời mịt mùng. Nhìn lên Thánh giá của Đức Giêsu Nazareth là dấu chỉ tiên tri rõ hơn mọi dấu chỉ, người Kitô hữu thấy đươc dung nhan của Đấng chịu đóng đinh như phản ánh vinh quang Thiên Chúa (x.Fisichella 1995:797), và tìm được sức mạnh vượt qua mọi thử thách và đau khổ hiện tại. Do đó sứ ngôn trở thành lời tạo niềm phấn khởi, tin tưởng và hi vọng cho muôn dân.
Nhưng trên hết “các ngôn sứ hiện diện như những dấu chỉ của một tình yêu tận hiến suốt đời” (Fisichella 1995:797), tình yêu làm nên tất cả, nhất là đã trả lại cho ta ý nghĩa và giá trị cuộc sống nhờ cái chết và phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Lời Chúa trở thành sức mạnh vạn năng, “tác nhân thúc đẩy chúng ta khám phá ý nghĩa cuộc sống, nhưng đồng thời giúp chúng ta trách nhiệm về chính cuộc đời mình” (Fisichella 1995:797). Sứ mệnh rao giảng Lời Chúa đã biến ngôn sứ thành người hướng dẫn lịch sử nhân loại “trong ánh sáng biến cố của Đức Giêsu Nazareth và trong niềm mong đợi Chúa đến trong vinh quang” (Fisichella 1995:797). Hôm nay Chúa vẫn hiện diện trong những biến cố nhân loại. Nước Thiên Chúa đang thành hình qua những sự việc có thể xảy ra, những thách đố, và những nguy cơ trong cuộc sống hằng ngày (x.Bergant 1993: 783). Tất cả đều xoay quanh biến cố Đức Giêsu chết và sống lại để cứu độ muôn dân. Ngôn sứ phải khai quật được ý nghĩa đó mới có thể hướng dẫn nhân loại hoàn thành lịch sử.
Lịch sử đang xoay vần về Á Châu. Các ngôn sứ đang ráo riết hoạt động để khai phá một con đường mới cho Đức Giêsu đi vào lòng người và xã hội. Những bí mật về chương trình cứu độ của Thiên Chúa đang dần dần được mạc khải qua nếp sống văn hóa và tôn giáo của dân tộc. Người tín hữu cần được sứ ngôn huấn luyện để đọc được mạc khải đó. Vì chính ý thức “Đức Giêsu như sứ ngôn của Chúa Cha tóm kết ý nghĩa toàn thể Tân Ước” (Fisichella 1995:796).
66. Uy quyền
Ngày 25 tháng 2 năm 1986, Tổng thống Phi Luật Tân, Ferdinand Marcos và phu nhân Imelda bỏ xứ ra đi đến Hawaii với 22 thùng đựng toàn giấy bạc Phi trị giá 1 triệu 7 trăm ngàn Mỹ kim. Ngay sau đó dân chúng biểu tình đã tràn ngập vào dinh điện Malacanang, nơi làm việc và cư ngụ của ông Marcos trong 20 năm làm tổng thống. Đó là một lâu đài sang trọng và lộng lẫy. Có một phòng ngủ thật rộng lớn, gồm đầy đủ những dụng cụ ăn chơi giải trí. Riêng bồn tắm bên trong phòng ngủ của bà Imelda, cựu hoa hậu, vợ ông Marcos, dài 3 mét, xung quanh lát kính phản chiếu, với một bình nước hoa 4 lít được chế tạo tại Paris mang nhãn hiệu “Đệ nhất phu nhân”. Những phòng chứa quần áo sang trọng của bà to lớn như cửa tiệm Bloomingdale ở Mỹ, với 3000 đôi giầy đủ kiểu, đủ mầu, 3000 chiếc quần lót mới tinh, trên 100 chiếc ví da hiệu Gucci, và 100 đôi găng tay da. Ngoài ra người ta còn tìm thấy một cái hóa đơn của tiệm kim hoàn ở Paris là 2 triệu Mỹ kim, một cái hóa đơn 107 ngàn đôla của một chiếc áo dạ vũ và 6 chiếc áo bằng tơ lụa. Các hóa đơn nhét đầy các hộc tủ, cái nào cũng hàng ngàn, hàng trăm đôla.
Nước Phi Luật Tân có tỷ lệ là 70% dân chúng sống trong nghèo đói, với lợi tức mỗi đầu người là 200 đôla một tháng. Trong khi đó tài sản của ông Marcos có khắp nơi trên thế giới trị giá là 10 tỷ Mỹ kim, gấp 3 lần ngân sách quốc gia. Tài sản của ông gồm tiền mặt, kim cương, chương mục ngân hàng, nhà cửa, đất đai, cổ phần đầu tư, nhiều nhất là ở Thụy Sĩ, Pháp, Anh và Mỹ. Làm tổng thống trong một đất nước nghèo khổ, với số lương là 5,700 Mỹ kim một năm, vậy mà ông Marcos sống như một ông vua dầu lửa Ả Rập thì tiền bạc đó lấy ở đâu ra?
Do đó, ông Marcos cương quyết không chịu rời chiếc ghế tổng thống! Ông Trần văn Giàu, nhà sử học của đảng Cộng Sản Việt Nam đã nói một câu thắm thía: "Cái đít con người ta có trí nhớ. Nó nhớ tới cái ghế!"
Quyền hành đi đôi với lợi lộc để kết thành quyền lợi. Vì nắm quyền thì có lợi, nên người ta cứ mãi ham mê quyền hành! Phản ảnh thực trạng xã hội Việt Nam, bạn Bùi Xuân Dũng đã chia sẻ bài thơ "Khi Sếp Xây Nhà" trên báo Tuổi Trẻ Cười như sau:
Được tin sếp sắp xây nhà,
Ai cũng muốn "giúp" bởi là chỗ "thân".
Công ty xa xí nghiệp gần,
Xi măng, sắt thép... cho quân chở về.
Điều thêm mấy chục thợ nề,
Ưu tiên toàn chọn tay nghề bậc cao.
Nhà xong "khách sạn năm sao",
Chi phí thế nào, sếp cũng không hay.
Công trình "chìa khóa trao tay".
Sếp xem ngày tốt dọn ngay khỏi chờ.
Ngắm nhà dân mới rỉ lời,
"Ngôi nhà tình nghĩa" quê tôi đó mà!
Phúc âm hôm nay, cũng diễn tả quyền hành của Chúa Giêsu, nhưng đó không phải là thứ quyền hành trần gian.
1. Quyền của Chúa Giêsu là quyền giảng dạy Thánh Kinh, Lời Chúa, và gây dựng Vương Quốc Thiên Chúa nơi các tâm hồn: "Ngài giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền".
Phúc âm của thánh Máccô đã được viết vào khoảng giữa những năm 60 và 65 cho những tín hữu gốc Do Thái, không phải ở Juđêa, mà ở Rôma. Cũng trong thời gian này hoàng đế Nêrô bắt đầu đi tìm những người Kitô hữu ở Rôma để bắt bớ. Khởi đầu cho cuộc bách hại đạo Kitô giáo kéo dài khoảng hai thế kỷ rưỡi, từ năm 64 tới năm 313. Nếu chúng ta đặt mình vào trường hợp một người gốc Do Thái đang sinh sống ở Rôma, nhưng tin vào Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ phải đối diện với những lựa chọn quyết liệt. Theo ai và vâng lời ai? Quyền của ai trên hết? Quyền của các thầy Rabbi Do Thái? Quyền của hoàng đế Nêrô? Hay quyền của Chúa Giêsu Kitô? Sự lựa chọn có ý nghĩa gì cho chúng ta hôm nay?
Lựa chọn rồi quyết định, tuân giữ lời Chúa Giêsu dạy, sẵn sàng chịu thiệt thòi, bắt bớ, phải sống trốn tránh nơi các hang hầm mộ - catacomb - ở Rôma như các tín hữu Kitô giáo thời sơ khai, không phải là chuyện dễ! Họ là những vị thánh đã sống lời Chúa cách can đảm, trung thành tùng phục dưới quyền cai trị của Chúa Giêsu giữa những thử thách bắt bớ của chính quyền trần gian!
Có một câu chuyện kể về những người Do Thái sống ở Ba Lan trong một ngôi làng rất xa xôi hẻo lánh đã nhiều năm không có một người thợ sửa đồng hồ nào ghé qua. Sau một thời gian, những chiếc đồng hồ trong làng đều bị hỏng, mỗi cái chạy mỗi giờ khác nhau. Đa số những người dân làng đã buông xuôi, không thèm lên giây thiều những chiếc đồng hồ vô dụng nữa. Sau cùng, có một người thợ sửa đồng hồ tình cờ đã đi ngang qua ghé vào thăm làng. Dân chúng bèn mang những chiếc đồng hồ đến cho ông sửa dùm. Nhưng những chiếc đồng hồ của họ đã bị sét rỉ, bị ăn mòn vì lâu năm không dùng đến, không thể sửa lại được nữa, trừ ra một chiếc đồng hồ mà người chủ của nó đã kiên trì lên giây thiều mỗi ngày. Mặc dù ông biết rằng nó không chạy đúng giờ, ông vẫn hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ có một người thợ sửa đồng hồ ghé qua làng.
Người tín hữu trung thành cũng giống như người chủ chiếc đồng hồ này. Qua lời cầu nguyện, việc thờ phượng, đọc Thánh Kinh và suy gẫm Lời Chúa, chúng ta có thể giữ vững tinh thần. Mặc dù đôi khi chúng ta không chắc chắn được phương hướng rõ rệt Thiên Chúa muốn định cho cuộc sống của mình. Trong những hoàn cảnh khó khăn và thử thách đó, Thiên Chúa vẫn hiện diện và hoạt động để bẻ gẫy những nỗ lực của ma quỷ cố gắng làm cho Ngài mờ nhạt đi.
2. Quyền của Chúa Giêsu có sức mạnh xua đuổi ma quỷ và chữa lành. Quỷ dữ nhận ra Chúa Giêsu là ai và phải thét lên vì khiếp sợ: "Tôi biết ông là ai: là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" "Hãy im đi, và ra khỏi người này".
Xưa kia, khi bắt đầu mở rộng hệ thống xa lộ đường sá, có một nhân viên vẽ địa đồ của chính phủ mang dụng cụ đo ngắm tới một nông trại. Anh gọi điện thoại cho người nông dân và xin phép đi vào nông trại, ruộng vườn của ông để đo đạc và vẽ họa đồ. Người nông dân này từ chối không cho phép vì sợ rằng hệ thống xa lộ sẽ đi qua miếng đất của mình. Trong khi anh vẽ địa đồ xuất trình giấy tờ là nhân viên của chính phủ và khăng khăng cho mình có quyền vào bất cứ nơi nào trên khắp nước để thi hành nhiệm vụ. Phải đương đầu với nhân viên của chính phủ, người nông dân bèn chịu thua, ra mở cổng cho vào. Sau đó ông đi đến cuối nông trại và mở thêm một cái cổng khác, cổng chuồng bò điên dữ tợn nhất trong trại. Nhìn thấy con bò to lớn, dữ tợn đang cắm đầu xông vào mình, anh nhân viên địa đồ bèn vứt mọi dụng cụ, cắm đầu chạy thục mạng. Còn người nông dân thì cười đắc thắng và nói: "Có giỏi thì trình giấy tờ ra cho nó xem! Chỉ cho nó thấy cái quyền bính của mình đi!"
Trong tiếng Hy Lạp, chữ "quyền bính" - "authority" - là "exousia", chữ "sức mạnh" - power" - là "dunamis". Quyền bính và sức mạnh có những ý nghĩa khác nhau. Anh công nhân vẽ địa đồ trong câu chuyện ở trên, có quyền nhưng không có sức mạnh đối với con bò hung dữ. Nhưng trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền và có sức mạnh xua đuổi ma quỷ và tẩy trừ tội lỗi để cứu chuộc loài người. Ngài tha tội và chữa lành thương tích trong tâm hồn chúng ta.
Một linh mục linh hướng khóa Cursillo, ba ngày học hội Kitô giáo, kể lại tâm sự của một khóa sinh trẻ, học thức cao với văn bằng Tiến sĩ. Câu chuyện đời của chàng quả thật rất đặc biệt. Suốt đời chàng nỗ lực theo đuổi rất thành công những việc học hành, nghề nghiệp, thể thao và nghệ thuật. Nhưng chàng vẫn cảm thấy trống rỗng. Cho dù theo đuổi bất cứ công việc gì thì cũng chỉ là những nỗ lực cố gắng lấp đầy cái lỗ trống to lớn trong tâm hồn mình mà thôi. Những thành công không làm chàng cảm thấy thoải mái hơn. Đến với khóa học chàng cảm thấy như đang đi tìm một điều gì đó sâu kín trong tâm hồn mà chàng đang khao khát.
Rồi vị linh mục đã chia sẻ chính cuộc đời của mình cho chàng nghe, những đổ vỡ và thất bại. Hoàn cảnh thì khác nhau, nhưng cùng một tâm trạng. Mấu chốt của vấn đề là làm thế nào để học được cách chấp nhận Chúa Giêsu như một niềm hy vọng duy nhất cho cuộc đời, một niềm vui duy nhất trong cuộc sống. Lúc đầu ngài cũng cảm thấy rằng việc theo chân Chúa Giêsu là việc khùng điên. Nhưng rồi sau đó ngài cảm thấy tâm hồn được bình an. Đây cũng chính là điều chàng đang muốn có, sự bình an. Khi kết thúc khóa học chàng đã công khai công bố Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ của mình với một lòng xác tín mạnh mẽ và cảm động. Chàng đã chia sẻ công khai với mọi khóa sinh khác rằng: "Chỉ có Chúa Giêsu mới có quyền ban cho tôi một ý nghĩa của cuộc sống và chữa lành các thương tích đổ vỡ trong tâm hồn tôi".
Phúc âm của Chúa Giêsu luôn luôn là Tin Mừng. Nhưng trước khi cảm nhận được sự vui mừng thực sự của nó, chúng ta sẽ cảm thấy rất khó chịu. Không "vui mừng" tí nào cả! Để tìm thấy được ý nghĩa của Tin Mừng, để cảm nghiệm được ơn chữa lành đối với những đổ vỡ trong đời, chúng ta phải thực sự hoàn toàn quy phục dưới quyền bính của Chúa Giêsu.
Nhưng để đến được với Chúa Giêsu, những bước chân ban đầu thật khó khăn, không phải là việc tự nhiên dễ làm. Vì con người chúng ta ai cũng mang sẵn bản tính thích nổi loạn, và ương ngạnh. Chỉ nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta mới có đủ can đảm trở về quy phục dưới quyền bính và sức mạnh của Chúa Giêsu, đồng thời cũng nhận ra ý nghĩa của cuộc đời mình. Và nguồn vui hạnh phúc thực sự chỉ đến với chúng ta qua Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh của chúng ta mà thôi.
67. Uy quyền của Thiên Chúa
Thiên Chúa dựng nên con người và ban cho con người nguồn tài nguyên vô tận. Đó là cảnh thần tiên, vì là tốt đẹp. Thế nhưng nơi trần thế này, thiên đàng thì ít mà địa ngục thì nhiều. Lý do: có quá nhiều cái làm cho con người lo âu sợ sệt. Chính cái sợ làm cho chúng ta mất tự do. Chính nổi sợ làm cho ta mất hạnh phúc. Sợ cái gì? Cái gì thấy ghê là thấy sợ: tai nạn, bệnh hoạn, chết chóc... Có một thứ làm cho người ta khiếp vía hơn là ma quỷ. Đối với người yếu bóng vía, nhắc đến ma quỷ là họ rùng mình sởn gai óc. Đối với người mê tín, ma quỷ là thần linh, vì thế họ cúng kiến, cầu cơ, đồng cốt... Đối với các nhà đạo đức, ma quỷ là những tên cám dỗ để bắt lấy linh hồn con người. Những cơn cám dỗ đến từ nhiều lổ hỏng trong tâm hồn con người: dục vọng, tham lam, ích kỷ, ghen ghét, hưởng thụ... Cám dỗ đi từ ngoài vào trong con người ở lại và làm cho con người ra ô uế, dần dần đánh mất linh hồn mình. Đây mới là điều đáng sợ nhất.
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Chúa Giêsu, Đấng có uy quyền trong lời nói và trên cả ma quỷ: "Lời giảng thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh" (Mc1,27). Chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu mỗi khi ta yếu đuối để khỏi sa chước cám dỗ. Cách mà Chúa Giêsu truyền lại cho ta để chống lại ma quỷ là: cầu nguyện và ăn chay. Cầu nguyện để gặp gỡ Chúa, để đón nhận quyền năng của Chúa trên ma quỷ, để múc lấy sức mạnh của Ngài mà chiến đấu. Ăn chay là sự hy sinh hãm mình, là tinh thần cộng tác với Chúa để đẩy lui sự dữ ra khỏi thế gian, hầu cho nước Chúa ngày càng lớn hơn. Chúa và chúng ta phải có sự cộng tác. Nhiều khi chúng ta ỷ lại, phó mặc cho quyền năng Chúa, chúng ta cứ nằm ỳ mà chờ đợi. Thiên Chúa không phải đè chúng ta xuống để rồi nhồi nhét ơn cho mình, nhưng Ngài muốn chúng ta mở lòng ra đón nhận. Chúa không cưỡng bức mà Ngài tôn trọng tự do của chúng ta. Ngài cần sự nhiệt tình với Ngài để hành động của Ngài dễ thực hiện hơn. Nhưng thực tế chúng ta thấy mình có nhiệt tâm với Chúa chưa? Thói hư tật xấu, tội lỗi, chúng ta mắc phải như cơm bữa. Chúng ta cũng chẳng nghĩ gì đến sám hối để sửa mình, cứ để mặc cho tội lỗi ngày càng phát triển thêm. như vậy chúng ta đang ủng hộ ma quỷ, chúng ta đang tiếp tay cho sự xấu, để rồi Nước Thiên Chúa ngày càng nhỏ dần.
Ma quỷ thật đáng sợ, không phải sợ nhát, sợ nhập, nhưng là sợ cám dỗ. Vì xưa nay người bị quỷ nhập thật sự không nhiều, nhưng chắc chắn số người bị ma quỷ lèo lái không sao kể xiết. Chính vì vậy mà ngày hôm nay là điểm cực thịnh của tội lỗi và thế lực đen tối. Chúng ta nhìn lại xem mình có nằm trong phe đối lập với Thiên Chúa không?
Chúa Giêsu là Đấng uy quyền trên ma quỷ, tội lỗi và sự chết. Người chiến thắng tất cả. Xin Chúa ban sức mạnh của Ngài cho chúng ta, tăng cường sức sống của Ngài cho chúng ta, để chúng ta nhiệt tâm cộng tác với Ngài chiến đấu và chiến thắng sự ác trong ta và trong thế giới.
68. Suy niệm của Lm. Gioan Trần Khả
Sống trong một xã hội duy tự do dân chủ như ở Hoa Kỳ, không ít thì nhiều chúng ta cũng học suy nghĩ theo văn hóa của xã hội này. Tự do dân chủ là điều tốt nhưng không tuyệt đối tốt. Vì tự do dân chủ quá cho nên xã hội chúng ta đang bị khủng hoảng về vai trò của quyền bính. Nhiều người và nhiều gia đình đang bị khủng hoảng về vai trò của quyền bính. Cha mẹ không bảo được con cái. Con cái không nghe lời cha mẹ. Ngoài xã hội người dân không chấp nhận luật pháp. Ai là người có quyền bính? Một thí dụ trong trường hợp của Cậu bé Elien 6 tuổi người Cuba. Cậu cùng với mẹ đi vượt biển qua Hoa Kỳ, nhưng không may mẹ cậu bị chết. Cậu đã được cảnh sát duyên hải Hoa Kỳ cứu sống sau nhiều giờ lênh đênh trên biển. Vấn đề đã gây nên cuộc tranh luận sôi nổi giữa chính phủ Cuba, chính phủ Hoa Kỳ, giữa gia đình của cậu ở Cuba, và thân nhân của cậu ở Miami. Ai là người có quyền để quyết định về tương lai của cậu bé Elien? Sở Di Trú hay Hạ Nghị Viện? Tòa án hay thân nhân trong gia đình? Trong Giáo Hội cũng có khủng hoảng về quyền bính. Nhiều người không đồng ý tuân theo giáo huấn của Giáo Hội về những vấn đề như ngừa thai, điều hòa sinh sản, phá thai, ly dị và tái hôn... Ai là người có quyền giáo huấn?
Các bài đọc hôm nay cũng đề cập đến quyền bính. Đó là quyền bính tối cao của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Thánh sử Macô ghi lại, "Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền, chớ không như các luật sỹ."
Bài đọc thứ nhất Mai-sen nói với dân chúng là Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tiên tri mới giống như ông. Mai-sen là người đã đươc gặp Thiên Chúa nơi bụi gai. Ông đã đối thoại với Thiên Chúa. Ông đã nhận lệnh của Thiên Chúa. Ông đã luôn bàn hỏi tham khảo với Thiên Chúa, và ông cũng đã lên núi cao để yết kiến Thiên Chúa. Ngài đã trao cho ông hòm bia với mười giới răn để truyền dạy dân chúng. Thiên Chúa đã chọn Maisen. Và Maisen đã trung tín làm tròn sứ vụ Thiên Chúa trao phó cho ông. Ông đã nói lại cho dân chúng tất cả những gì Thiên Chúa truyền dạy ông. Chính vì có sự liên lạc mật thiết và trung tín với Thiên Chúa như thế cho nên lời nói của Maisen có uy tín mạnh mẽ.
Trong bài Phúc âm, chúng ta nghe và thấy lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu không những chỉ là người gặp Thiên Chúa, nhưng Ngài còn là Con Thiên Chúa. Ngài biết Thiên Chúa và là một với Thiên Chúa. Uy quyền của Đức Kitô là uy quyền của Đấng Thiên Sai. Chính vì vậy mà khi Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường ở Ca-pha-na-um, người ta đã rất đỗi ngạc nhiên.
Những người nghe Đức Giêsu giảng dạy và chứng kiến những việc Ngài làm đã nhận ra được chân dung của Ngài. Lời giảng dạy của Ngài không phải chỉ có chủ đích truyền đạt một mớ kiến thức lý thuyết. Nhưng Ngài còn giảng dạy với một tinh thần thâm tín yêu thương, hết lòng lo cho hạnh phúc của những người nghe Ngài. Do đó Ngài đã thuyết phục được lòng trí của những người nghe và đưa họ về với Thiên Chúa. Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa và Ngài giảng dạy tôn ý của Thiên Chúa Cha. Việc làm, lời giảng dạy và sự hiện diện của Ngài không những đã làm cho nhiều người ngỡ ngàng và thán phục, mà còn làm cho cả ma quỷ cũng phải khiếp sợ.
Ngày nay nhiều người trong chúng ta từ những vị linh mục hay tu sỹ đến những thầy cô dạy giáo lý và những người làm cha mẹ, chúng ta có trách nhiệm giảng dạy và nói về Thiên Chúa, nhưng được mấy người đã thực sự cảm nghiệm được trách nhiệm trọng đại này? Được mấy người có uy tín trong những lời giảng dạy của mình? Để cho lời giảng dạy của chúng ta có uy tín, nguyên việc lãnh chức, khấn dòng, nghi thức sai đi hay giấy chứng hôn thú không đủ cho chúng ta uy tín. Đó mới chỉ là dấu chỉ chúng ta được tuyển chọn. Mỗi người chúng ta còn cần phải thường xuyên gặp gỡ và tham khảo với Thiên Chúa như Maisen và như Đức Giêsu đã làm. Chúng ta cũng cần ý thức trách nhiệm giảng dạy những gì Thiên Chúa truyền chứ không phải giảng dạy những gì chúng ta muốn. Muốn được như thế, chúng ta cần phải dành thời giờ để đi gặp gỡ và tham khảo với Thiên Chúa để lãnh nhận lời truyền dạy của Ngài. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm để nhận định và phân biệt sự khác nhau giữa một bài thuyết trình theo kiến thức của sách vở và một bài thuyết trình theo sự hiểu biết và thâm tín của kinh nghiệm sống.
Có câu truyện kể rằng trong một buổi họp để thi tuyển tài nghệ diễn xuất. Một anh thanh niên học về ngành kịch ảnh sân khấu đã bước ra và dõng dạc đọc thuộc lòng thánh vịnh 23, "Chúa là Đấng chăn dắt tôi. Tôi chẳng thiếu thốn chi..." Anh đã đọc với cung giọng trầm bổng dẽ dàng và rõ ràng với tài nghệ của một kịch sỹ để diễn tả ý nghĩa của thánh vịnh đó. Anh đã đọc thật hay và được khán thính giả yêu cầu đọc đi đọc lại ba lần với những tràng pháo tay tán thưởng vang dội.
Người thứ hai là một ông cụ già lưng hơi gù gù. Khi ông bước lên sân khấu thì mọi người im lặng. Giọng ông nhỏ nhẹ và phải chú ý mới có thể nghe được. Ông chậm rãi xướng lên thánh vịnh 23, "Chúa là Đấng chăn dắt tôi. Tôi chẳng thiếu thốn chi..." Ông đọc với một tâm tình có sức cảm kích khác biệt. Khi ông đọc xong, thì cả cử tọa trong phòng im lặng. Mọi người đều cúi đầu và như âm thầm cầu nguyện. Vài phút sau, người thanh niên thứ nhất bước lên sân khấu nhận định, "Thưa quý vị. Như quý vị cảm nhận. Rõ ràng là tôi biết và thuộc thánh vịnh 23, nhưng còn ông cụ đây mới thực sự là người biết Đấng Chăn Chiên." (Jack Mc Ardle, 150 Stories for Preachers and Teachers # 5).
Điểm thứ hai chúng ta nhận thấy là sự hiện diện của thần ô uế. Bắt đầu công việc rao giảng là Đức Giêsu đã đối diện với thần ô uế như lời thánh Macô tường thuật. "Một người bị quỉ ô uế ám đã nhận ra danh tánh của Đức Giêsu và kêu lên, "Hỡi ông Giêsu Nagiaret, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Thiên Chúa." Đức Giêsu đã quát bảo nó, "Hãy im đi và ra khỏi người này." Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi ra khỏi người ấy.
Ngày nay có lẽ nhiều người không còn nghĩ đến ảnh hưởng của thần ô uế bởi vì chúng ta có khuynh hướng cắt nghĩa theo khoa học tâm lý. Con người ngày nay thường dùng khoa trị liệu tâm lý để giải đoán hầu hết những hiện tượng không tự nhiên hay bất bình thường. Có phải việc tin là có sự quấy phá của thần ô uế đã trở nên quá cổ xưa hay không? Cuốn phim "The Exocist" thực hiện hồi thập niên 1970s đã dựa trên một chuyện có thật về một cậu bé 14 tuổi sống ở Mt. Rainier, Maryland năm 1949. Tuần báo Neweek đã diễn tả như sau: "những khung hình, ghế và giường của cậu bé tự nhiên di động. Ban đêm thì cậu không thể ngủ được. Sau khi được đưa vào bệnh viện của đại học Georgetown... cậu bé bắt đầu phun ra những lời chửi thề bằng những ngôn ngữ cổ xưa. Có một lần trong khi cậu đang bị trói cột chặt trên giường thì tự nhiên có những lằn rạch đỏ hiện lên trên thân mình của cậu." Cậu đã được giải thoát nhờ nghi thức trừ quỷ và cậu đang sống ở Wahsington D. C.. Vị linh mục già tham dự vào việc trừ quỷ cho cậu đã thề hứa không nói về vấn đề này. Ngài chỉ nói rằng kinh nghiệm đó đã có ảnh hưởng mạnh và thật sự thay đổi cuộc sống của ngài tốt hơn (Mark Link, Sunday Homilies).
Chúng ta phải tin rằng ma quỷ vẫn hiện diện và lộng hành quấy phá. Nó lộng hành quấy phá nơi đời sống mỗi cá nhân, trong gia đình, ngoài cộng đoàn hay trong xã hội... Chúng quấy phá dưới nhiều hình thức. Chúng làm cho chúng ta, cho gia đình chúng ta và cho cộng đoàn giáo xứ ra ô uế. Chúng thổi sự ô uế của kiêu căng, tự phụ, ghen ghét, hằn thù, nói hành, chia rẽ, bè phái, tà dâm, hãm hiếp, trộm cắp, giết người, gian tham, lười biếng, hà tiện, nghiện ngập cờ bạc, rượu chè, xì ke ma túy, ly dị, chiến tranh, và muôn vàn hình thức ô uế khác. Muốn loại trừ thần ô uế ra khỏi cuộc sống, chúng ta phải đến gần Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa Giêsu mới có uy quyền xua đuổi thần ô uế ra khỏi chúng ta.
69. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
HÃY THEO ĐỨC GIÊSU, VÌ NGƯỜI LÀ ĐẤNG RẤT UY QUYỀN
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Có khi nào anh chị em đặt vấn đề: Thực ra sống đạo chủ yếu là gì không? Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết rằng sống đạo không chỉ là gia nhập tổ chức Giáo Hội, cũng không phải là cố gắng tuân giữ những quy luật và lễ nghi, mà sống đạo chủ yếu là đi theo Chúa. Mà Chúa là người rất đáng được chúng ta đi theo, bởi vì Ngài là Đấng rất uy quyền.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta kiên trì đi theo Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Tuy mang danh là tín hữu của Chúa, nhưng chúng ta ít khi chú ý lắng nghe tiếng Ngài.
Chúng ta cố gắng đọc kinh, dự lễ, nhưng không quan tâm học hỏi gương Chúa để sống theo gương Ngài.
Nhiều khi chúng ta không tin tưởng vào uy quyền của Chúa, mà lại cậy dựa vào những uy quyền thế tục như tiền bạc, địa vị, thậm chí có khi mê tín dị đoan nhờ đến quyền lực của ma quỷ.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Đnl 18,15-20)
Dân do thái đã đi trong sa mạc 40 năm dài. Bây giờ họ sắp vào Đất Hứa, Môsê thì sắp từ giã cõi đời.
Trong những lời từ biệt dân chúng, Môsê an ủi bảo họ đừng buồn tiếc, và ông nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Ngôn Sứ chẳng kém gì ông mà còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ.
2. Đáp ca (Tv 94)
Thánh vịnh này triển khai ý tưởng của bài đọc I. Vì Thiên Chúa sẽ cho nổi dậy một Ngôn Sứ trổi vượt mọi ngôn sứ, cho nên các tín hữu hãy lắng nghe tiếng Ngài.
3. Tin Mừng (Mc 1,21-28)
Đức Giêsu chính là Vị Ngôn Sứ ưu việt mà Môsê tiên báo. Thánh Marcô trình bày Ngài là một Đấng rất uy quyền:
Uy quyền trong lời nói: "Dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ".
Uy quyền trong hành động: Ngài chỉ cần nói một lời thì quỷ ô uế phải xuất khỏi người bị nó ám: "Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế".
4. Bài đọc II (1 Cr 7,32-35) (chủ đề phụ)
Thánh Phaolô đề cập đến các bậc sống: bậc độc thân thì thảnh thơi lo việc Chúa hơn bậc có gia đình.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Đi tìm "minh chủ"
Trong lịch sử nước Trung Hoa, có những thời kỳ hỗn loạn vô chính phủ. Những tay hảo hán nổi lên xưng hùng xưng bá, mỗi người cát cứ một vùng. Có những bậc anh hùng hào kiệt bỏ công chịu khó tìm hiểu và cân nhắc để nhận định ai là minh chủ để dốc sức phò tá.
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo Hội, cũng có một câu chuyện tương tự. Nhân vật chính là một người không tên. Chàng có sức mạnh hơn người và chỉ muốn dùng sức mạnh đó để phục vụ cho kẻ nào mạnh nhất. Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp nên xin đi theo hộ vệ cho một tướng cướp. Nhưng mỗi lần sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ một thầy phù thuỷ làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp để đi theo phù thuỷ. Một hôm, thấy phù thuỷ đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng lực sĩ bỏ rơi phù thuỷ đến đứng bên cạnh cây Thánh giá để chờ chủ nhân nó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh Giá. Nơi đó gần một khúc sông cạn. Một hôm, một câu bé đến nhờ chàng cõng minh qua sông, vì không có đò ngang. Chàng lực sĩ sẵn sàng. Nhưng mới bơi được một đoạn ngắn, chàng cảm thấy chú bé quá nặng, liền hỏi lý do. Cậu bé đáp "Ta nâng đỡ cả trái đất trên tay Ta, làm sao mà không nặng cho được" Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh Giá. Thế là chàng lực sĩ xin theo phò tá vị Chúa Tể trái đất ấy. Chúa dạy: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang. Chàng lực sĩ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Chistophe, nghĩa là người đã mang Chúa Kitô trên vai.
Nếu chúng ta muốn tìm một minh chủ để phụng sự, chúng ta cũng hãy làm như thánh Christophe, bởi vì không ai xứng đáng hơn ngoài Đức Giêsu Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
* 2. Sức mạnh siêu phàm
Hoàng đế César Augustô của đế quốc La Mã là người đã biến La Mã gạch ngói thành một La Mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà cẩm thạch. Nhưng trong triều đại của César Augustô, một biến cố đã thay đổi cục diện của thế giới và lịch sử nhân loại, mà ông không hề biết tới.
Ông làm sao có thể biết trẻ Giêsu chào đời trong một tỉnh lẻ xa xôi, sẽ biến La Mã cẩm thạch của ông thành những vương cung thánh đường vĩ đại nhất. Ông đâu có ngờ các thần minh của ông sẽ phải lui bước để nhường chỗ cho một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện và chân thật. Ông cũng không ngờ trẻ Giêsu ấy lại có một sức mạnh siêu phàm đảo lộn mọi giá trị hiện có, và thiết lập một bậc thang giá trị hoàn toàn mới mẻ.
*
Sức mạnh siêu phàm ấy hôm nay đã bắt đầu xuất hiện. Đức Giêsu giải thích Thánh Kinh trong hội đường khiến cho nhiều người phải kinh ngạc, vì: "Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ" (Mc.1,22).
Có uy quyền vì Người dùng quyền mình mà giảng dạy chứ không lệ thuộc vào thế giá của người khác. Quyền này được chứng tỏ khi Người sửa sai các tập tục tiền nhân: "Người xưa đã dạy rằng… Phần Ta, Ta bảo các ngươi" (Mt.5,21).
Khác với các luật sĩ, họ chỉ đọc và giải thích kinh thánh, mà không dám thêm một ý tưởng mới. Họ gò bó con người vào lề luật hơn là dùng luật để giải thoát con người.
Lời Người là "Giáo lý mới mẻ". Cái mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Người là Đấng Cứu Thế. Cái mới mẻ đó làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời Người là: "Lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo" (Mc.1,27). Chính thái độ tuân phục của ma quỉ trước uy quyền của Đức Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ.
G. Courtois khẳng định: "Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên "muối men" cho cả nhân loại vì "ánh sáng" của những người sống Lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều".
Jacques Delarue viết: "Mọi phần tử trong Giáo hội phải sống Lời Chúa và yêu mến với cùng một tình yêu của Đức Giêsu, chính vì thế mà ngày Chúa Nhật họ đi gặp gỡ Chúa trong Lời Người và trong Thánh Thể trước khi nghe đọc: "Hãy ra đi bình an". Hãy ra đi, đừng ở lại. Các bạn được sai đi cho mọi tạo vật".
Sống Lời Chúa là soi mình vào tấm gương Giêsu để tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì:
"Lời Chúa là đèn soi cho con bước.
Là ánh sáng chỉ đường cho con đi" (Tv.118,105).
*
Lạy Chúa, qua Kinh thánh, Chúa vẫn giảng dạy cho chúng con ; qua bí tích giải tội Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con ; qua bí tích Thánh thể, Chúa vẫn sống trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để nên giống Chúa hơn và làm sáng danh Chúa nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 3. "Hãy để tôi yên"
Khi vừa gặp Đức Giêsu, người bị quỷ ám liền la lớn "Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?" Nói như thế cũng có nghĩa là nói "Hãy để cho tôi yên. Tôi tội lỗi đấy, xấu xa đấy, nhưng mặc kệ tôi, đừng quấy rầy tôi".
Đây không chỉ một lần, mà nhiều lần những người bị quỷ ám trong Tin Mừng đều la lên như vậy. Họ biết là họ đang ở trong tình trạng xấu đó, nhưng họ không muốn thay đổi tình trạng, vì thay đổi thì đau đớn.
Ngày nay cũng có rất nhiều người đang ở trong tình trạng xấu nhưng không muốn thay đổi. Các nhà tâm lý cho biết rằng nhiều người không muốn được chữa trị, vì chữa trị thì phải thay đổi, mà thay đổi thì đau đớn.
Một bà mẹ kia vừa sinh con ra thì khám phá con mình bị mù. Bà gọi tất cả những người nhà đến căn dặn đừng ai cho đứa bé biết nó bị mù, cũng đừng ai bao giờ nói đến ánh sáng hay màu sắc gì cả trước mặt nó. Đứa trẻ cứ thế lớn lên, vẫn tưởng nó cũng bình thường như mọi người khác. Thế nhưng một hôm, một đứa trẻ hàng xóm leo hàng rào vào và gặp đứa bé mù. Do không được căn dặn trước, nó đã nói tất cả những gì mà người mẹ không muốn nó nói. Thế là mọi sự sụp đổ tan tành.
Câu chuyện trên phần nào minh họa cho thái độ của chúng ta. Chúng ta không muốn nhìn nhận những khuyết tật của mình, và cũng không muốn ai chữa trị cho mình, vì nhìn nhận thì đau khổ và chữa trị thì nhọc nhằn.
Nhưng không thể tự lừa dối mình bằng cách trốn tránh sự thật như thế mãi. Hãy can đảm đối diện với sự thật và cầu xin Chúa cứu chữa. Chắc hẳn Ngài sẽ cứu được chúng ta, bởi vì Người là Đấng rất uy quyền (Viết theo Flor Mc Carthy)
4. Bệnh tật
Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Đức Giêsu chữa khỏi một người bệnh. Chúng ta hãy suy nghĩ đôi điều về vấn đề bệnh tật và chữa bệnh.
Trong vấn đề này có một sự chuyển biến từ chỗ mù mờ đến chỗ càng ngày càng sáng tỏ hơn nhờ ánh sáng mặc khải soi chiếu:
Các dân quanh Israel xưa coi bệnh tật là hình phạt của thần linh trừng trị một sự xâm phạm đến các Ngài. Vì thế để khỏi bệnh luôn luôn họ kêu cầu đến thần linh. Việc chữa bệnh không phải là việc của thầy thuốc mà là việc của các đạo sĩ.
Dân Israel xưa cũng coi bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Vì người ta phạm tội nên Chúa phạt cho mang bệnh. Muốn khỏi bệnh thì phải xin Chúa tha tội.
Nhưng dần dà người ta thấy có những người hoàn toàn vô tội lại đạo đức mà phải bệnh tật. Cho nên người ta thấy được những ý nghĩa khác của bệnh tật: đó là việc Chúa thử thách lòng trung tín của loài người, hay đó còn là dịp cho người ta chịu khổ mà đền tội cho kẻ khác. Truyện ông Gióp là một bằng chứng rõ ràng nhất về những tư tưởng này.
Đến thời Đức Giêsu, Ngài mặc khải thêm một ý nghĩa nữa cho việc chữa bệnh. Trong khi đi rao giảng ơn cứu độ, Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều bệnh tật, và Ngài coi việc chữa bệnh là một dấu chỉ rằng ơn cứu rỗi đã đến. Bởi lẽ ơn cứu rỗi là ơn giải phóng người ta khỏi mọi sự dữ như tội lỗi, nô lệ, đau khổ, tật bệnh... Ơn cứu rỗi muốn giải phóng con người khỏi tất cả những sự dữ đó. Nhưng trong số những sự dữ đó, tật bệnh là cái dễ thấy nhất và việc chữa bệnh là một bằng chứng rõ ràng nhất, cho nên Đức Giêsu đã chữa bệnh để làm dấu chỉ cho thấy ơn cứu rỗi đã đến.
Như vậy, đối với Đức Giêsu, chữa bệnh không phải là một điều dị đoan, chữa bệnh cũng không phải là mục đích duy nhất và tối hậu của hoạt động cứu rỗi. Chữa bệnh chỉ là một dấu chỉ, là một tiếng kêu mời người ta tiến đến đức tin. Chính vì thế mà mặc dù Đức Giêsu đã chữa bệnh rất nhiều nhưng không phải là chữa tất cả các người bệnh thời đó. Ngài chỉ chữa bệnh để làm cho người ta tin hơn và nhờ tin mà được cứu rỗi. Ngày nay cũng thế, có nhiều phép lạ chữa bệnh xảy ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở nơi này nơi nọ. Nhưng đâu phải tất cả mọi người tới Lộ Đức, Fatima đều được chữa khỏi. Một số phép lạ thôi cũng đủ để cho mọi người tin tưởng hơn.
Có những kẻ rất thờ ơ với việc đạo, chỉ khi gặp bệnh tật, khốn đốn mới biết cầu nguyện nhưng lời cầu nguyện cũng chỉ là xin cho tai qua nạn khỏi. Rồi khi tai đã qua nạn đã khỏi thì lại trở về với nếp sống nguội lạnh.
Có những người khác gặp bệnh tật tai ương đã hết sức sốt sắng cầu nguyện xin Chúa giúp. Nhưng cầu nguyện nhiều mà chưa được ơn thì đâm ra ngã lòng, mất đức tin.
Đó là những người có một đức tin còn ở một trình độ hết sức thấp kém: tin vì một quyền lợi vật chất chứ không phải tin vì yêu. Tin để được ơn chứ không phải tin mà phó thác cả cuộc đời cho Chúa dù khi vui dù lúc buồn, dù khi giàu hay khi nghèo, dù khi mạnh hay khi đau yếu.
Đức tin trưởng thành phải là Đức tin ở trình độ của ông Gióp. Gióp đã thốt lên trong cơn khốn khổ cùng cực: "Chúng ta biết nhận điều lành nơi Thiên Chúa, sao lại không biết nhận sự khổ sở Chúa gởi đến?"
Chúng ta hãy cầu nguyện để tất cả mọi sự dù là sướng dù là khổ đều làm cho đức tin của chúng ta càng vững mạnh hơn. Bởi vì ơn cứu rỗi chính là cái đức tin vững mạnh ấy, đúng như lời Chúa đã nói "Ai tin thì sẽ được rỗi" vậy.
5. Dị đoan
Theo nghĩa chữ, "đoan" là đầu mối, "dị" là kỳ lạ. Tin "dị đoan" là tin vào những việc mà liên hệ giữa chúng với nhau kỳ lạ, không hợp lý ; hay nói cách khác, không có liên hệ nhân quả với nhau rõ ràng. Thí dụ chữa bệnh không bằng y khoa mà bằng bùa ngãi, thần chú ; tìm hiểu sự việc không bằng trí óc, phán đoán mà bằng bói toán v.v.
Đạo công giáo bài bác những chuyện dị đoan vì dị đoan vừa ngược với lý trí vừa nghịch với đức tin. Là tín hữu của Chúa, một mặt chúng ta phải biết sử dụng những khả năng Chúa ban để giải quyết những việc khó khăn xảy đến trong đời mình, và mắt khác hãy biết phó thác cuộc đời cho Chúa dẫn dắt. Đừng vì yếu đức tin mà chạy theo những việc mê tín dị đoan khi gặp phải chuyện khó khăn.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, quỉ dữ vẫn đang hoành hành trên trần gian, chúng ta rất cần được Đức Giêsu cứu độ giải thoát khỏi quyền lực của quỉ dữ. Chúng ta hãy sốt sắng kêu xin Người:
Quỉ dữ luôn quyết tâm phá hoại công trình Tin mừng hóa của Hội thánh / Xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn vững tin và can đảm thi hành sứ vụ Chúa đã trao phó.
Quỉ dữ luôn tìm cách lôi cuốn những người có quyền lực chống lại công lý và hòa bình / Xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới biết quan tâm đến công ích và xây dựng hạnh phúc thật cho mọi người.
Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách những người đang gặp đau khổ hoạn nạn / để họ ngã lòng trong bất mãn và tuyệt vọng / Xin Chúa cho họ biết chạy đến cầu cứu Chúa để được giải thoát.
Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách mỗi người chúng ta ham mê vật chất, tiền bạc, danh vọng / để cắt đứt tình hiệp thông với Chúa và với mọi người / Xin Chúa giúp mọi người trong họ đạo chúng ta luôn trung thành thờ phượng một mình Chúa và sẵn sàng phục vụ anh chị em chúng ta.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã đến trần gian để loại trừ quyền lực của quỉ dữ, xin Chúa đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cưu chúng con cho khỏi quỉ dữ. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
VI. TRONG THÁNH LỄ
Trước kinh Lạy Cha: Trong lời Kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa uy quyền giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của ma quỷ và các thế lực gian tà.
Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin chữa chúng con khỏi những bệnh tật thể xác và tâm hồn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…"
Trước lúc rước lễ: Mình Thánh Chúa là thần dược chữa trị những bệnh tật xác hồn. Chúng ta hãy dọn lòng cho xứng đáng để rước lấy thần dược ấy. "Đây Chiên Thiên Chúa….. Lạy Chúa con chẳng đáng… nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch"
VII. GIẢI TÁN
Tuần này chúng ta hãy quyết tâm luôn đi theo Chúa, làm theo ý Chúa trong tất cả mọi biến cố xảy đến.
70. Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền
Đầu năm mới chúng ta tìm đến với ai để nương nhờ cho được lợi cả năm?
Lời Chúa là đèn soi bước chân con. Đức Giêsu giảng dạy như người có thẩm quyền. Lời Người dạy như là của mình không như những nguời khác dạy theo sách vở hay truyền thống. Người còn làm nhiều phép lạ để làm chứng. Người truyền lệnh cho quỉ và chúng phải vâng phục mà xuất ra.
Mọi cái tốt đẹp đều bởi Thiên Chúa. Mọi cái xấu xa là do ma quỉ. Vậy thì phải TIN THEO Thiên Chúa.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Người ta sửng sốt vì lời dạy của Người: Có cảm nhận và có cảm giác khi nghe lởi giảng. Nhiều người nghe Lời Chúa cách vô cảm nên nhàm chán, sợ nghe.
- Vì Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền: dạy như của riêng mình, không học với ai, không theo sách vở và truyền thống. Có khi còn đi ngược truyền thống.
- Lập tức, trong hội đường có một người bị thần ô uế nhập: quỉ là thần ô uế vì đôí lại với sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mọi cái xấu đều đổ cho quỉ: đồ quỉ, con quỉ.
- Tôi biết ông là ai: Ông là Dấng thánh của Thiên Chúa: Đấng Thánh là đối lại với thần ô uế. Còn có nghĩa là Messia.
- Nhưng Đức Giêsu mắng nó câm đi, hãy xuất ra khỏi người nầy: Đức Giêsu trừ quỉ bằng cách mắng nó và ra lệnh. Lời tạo dựng, là quyền năng của Thiên Chúa.
- Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiềng và xuất khỏi ngưòi ấy: dù có bực tức 'lay mạnh và thét lên' nhưng cũng phải xuất. Không chóng lại nổi.
- Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, lời nói thì có uy quyền: Mới mẻ là không giống như trước. Có uy quyền là khuất phục được thần ô uế. Người ta ngạc nhiên và bị chinh phục.
- Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng phục: Lời là quyền năng của Thiên Chúa làm sao dám không vâng phục.
Người ta ngạc nhiên vì Lời Chúa. Không phải Lời Chúa thì không có khả năng gây ngạc nhiên. Người ta vô cảm hoặc cảm thấy nhàm chán, có khi thấy thích mà không ngạc nhiên vì nghe không phải Lời Chúa mà là lời của người giảng. Nếu là Lời Chúa thì sẽ khuất phục người nghe.
Dân chúng cảm phục vì lời dạy của Đức Giêsu mới mẻ và có thẩm quyền. Mới mẻ thì hấp dẫn. Có thẩm quyền thì chinh phục. Người giảng cần trình bày Lời Chúa cách mới mẻ nhưng phải giữ nguyên Lời Chúa đừng biến thành lời của mình hay của bất cứ người nào. Vì Lời Chúa mới có uy quyền. Nhưng nếu cứ lấy từng câu ra cắt nghĩa thì khô khan và nhàm chán. Nhất là chỉ theo chuyên môn, không thực tế, không áp dụng.
Thiên Chúa toàn năng nhưng hành động bằng Lời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi ban Con Một là Lời. Lời bây giờ ở trong bốn Phúc Âm. Lời phán ra trong Phúc Âm. Học hiểu và thực hành Lời trong Phúc Âm là được Đức Giêsu dạy dỗ và quyền năng Thiên Chúa được thực hiện. Phúc Âm là Đức Giêsu ra lệnh.
Ma quỉ và nước ma quỉ chỉ bị đẩy lui khi nước Thiên Chúa đến nghĩa là Lời Thiên Chúa được thực hiện. Đức Giêsu ra lệnh các thần ô uế không muốn cũng phải vâng phục. Quỉ là Chúa của mọi cái xấu xa gọi chung là ô uế. Lời của Đức Giêsu mới ra lệnh cho chúng rút lui. Không có quỉ 'thần ô uế' thì không có các thứ xấu xa thì được mọi cái tốt đẹp. Đây là bí quyêt để được mọi điềư tốt đẹp. Muốn được mọi điều tốt đẹp thì hãy làm theo bí quyết nầy. Tuyệt đối chắc chắn.
Muốn tốt đẹp mà làm theo quỉ thì chẳng là mâu thuẩn sao? Không chịu làm Lời Chúa, không chịu theo Chúa thì được cái gì tốt sao?
Người giảng dạy có thẩm quyền thì đáng tin. Người ra lệnh cho quỉ xuất đi thì không còn cái xấu, cái ô uế, cất đi cái ngăn cách ta với quyền năng Thiên Chúa thì quyền năng Thiên Chúa mới thực hiện những điều kỳ diệu cho đời sống chúng.
71. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
Một giáo huấn có uy quyền (1,21-28)
Trong đoạn văn trên đây, ở ngay đầu Tin Mừng, Maccô cho ta một trình thuật cô đọng và rất có ý nghĩa về sinh hoạt mang tính “Mêsia” của Chúa Giêsu: lời Ngài giảng dạy nối liền với một cuộc trừ quỷ. Lời mở đầu bản trình thuật thật là rõ ràng (c.21). Sự kiện xảy ra ở Caphanaum. Thị trấn này nằm dọc theo bờ hồ Galilê. Chúa Giêsu dùng nơi này như trung tâm của việc rao giảng và là chốn qua lại trong công cuộc truyền giáo (9,33), cũng như những người Do Thái đạo đức thời ấy, Chúa Giêsu năng lui tới “hội đường”. Nơi đó người ta tụ họp để cầu nguyện và nghe lời Thiên Chúa. “Ngày Sa bát”, ngày thứ bảy trong tuần, là ngày nghỉ được thánh hiến cho Thiên Chúa (St 2,2-3). Ta biết việc phụng tự ở hội đường diễn ra thế nào trong ngày đó (Cv 13,14-15). Sau khi đọc một đoạn luật Môsê và sách tiên tri, người ta mời một người lớn tuổi cho lời dẫn giải về những đoạn Kinh Thánh vừa đọc. Nhân dịp này, Chúa Giêsu lên tiếng giảng dạy (x. Lc 4,16-22). Các ký lục ngồi ở hàng đầu.
Bốn lần (c. 21b-22 và 27) Maccô nhấn mạnh về “giáo huấn” của Chúa Giêsu. Hiếm khi thấy trong cuốn Tin Mừng này ông cho ta biết nội dung của “giáo huấn” ấy. Nhưng ông lại nhấn mạnh tới tính độc đáo của giáo huấn. Sự hiểu biết của Thầy vượt xa hẳn các ký lục (c.22). Là thủ lãnh bè biệt phái, các ký lục là những nhà thông thái. được các kinh sư nổi tiếng đào tạo về Thánh Kinh, họ là những người diễn giải Sách Thánh có thẩm quyền, nhưng giáo huấn của họ lại dựa trên những truyền thống của các bậc thầy họ. Còn Chúa Giêsu, Ngài không giảng dạy như các ký lục, nhưng Ngài giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa. Ở đây từ Hy Lạp “uy quyền” có nghĩa rất mạnh. Từ này được lấy ở một đoạn Thánh Kinh Cựu Ước, trong đó Thiên Chúa ban cho Đấng Mêsia của Ngài một “Quyền lực” tối thượng (Đn 7,13-14).
Chúa Giêsu đã cho thấy sự trổi vượt của Ngài trên các bậc kinh sư Do Thái (c. 23-24). Để hiểu được tính khác thường của đoạn văn này, ta cần biết rằng vào thời Thượng cổ tất cả những sự dữ mà con người phải chịu đều được quy trách cho ảnh hưởng độc hại của thần dữ. Diễn tiến của câu truyện như ta thấy cũng đã được dùng trong các trình thuật về phép lạ nơi người Do Thái và người dân ngoại thời Chúa Giêsu. Đó là một “nghi thức trừ tà”. Lược đồ tổng quát giống hệt nhau. Người trừ tà bắt tay vào cuộc chiến với thần dữ. Một trong hai bên sẽ xướng tên của đối thủ. Trong thế giới Sêmit, biết tên của ai là có ưu thế hơn người ấy. Ở đây, thần dữ biết rõ căn cước của Chúa Giêsu: Ngài là “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, tức là Đấng Mêsia. Nhưng thần dữ xưng ra điều này với dáng vẻ sợ hãi. Nó cảm nhận được Chúa Giêsu đến tiêu diệt nó và đồng bọn. Đúng vậy: Đấng Mêsia lâm trận lần cuối cùng dẹp tan sức mạnh của sự dữ (x. 3,22-30). Chính vì thế Chúa Giêsu tỏ ra mạnh thế. Ngài xua đuổi thần dữ bằng một lời uy quyền (c. 25-26). Giống như các câu truyện của thời bấy giờ, việc xua đuổi “quỷ” được Maccô thuật lại với những hiện tượng mắt thấy tai nghe: nạn nhân vặn vẹo thân mình và kêu một tiếng lớn. Không có gì đáng sợ cả. Nhưng điều đáng lưu ý chính là những mệnh lệnh Chúa Giêsu truyền cho thần dữ: “Câm đi!”. Lệnh truyền thật quyết liệt. Lệnh này có ý nhắm tới lời bộc lộ của thần dữ: “Tôi biết ông là ai rồi, ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (c. 24b).
Tại sao Chúa Giêsu lại cấm nói về căn cước của Ngài cách nghiêm ngặt như thế? Đó là phát biểu đầu tiên mà người ta gọi là “bí mật về Đấng Mêsia” trong Tin Mừng Maccô. Chúng ta sẽ thấy, trong suốt cuốn Tin Mừng này, Chúa Giêsu kién quyết bắt ma quỷ phải giữ kín căn cước của Ngài (1,34b; 3,12v.v…) cũng như Ngài cấm những người được chữa lành và các môn đệ tuyên xưng, dù chỉ phần nào, tính “Mêsia” của Ngài (1,43-44a; 7,36a; 8,31 v.v…). Dường như Maccô đã hình thành nên một thái độ thường xuyên của Chúa Giêsu đối với những quan niệm dân gian ở thời Ngài. Trong niềm khát mong Đấng Mêsia, người Do Thái chờ đợi một nhân vật mang ít nhiều tính thần thoại. Người ta tin rằng, với một chiếc đũa thần Đấng Mêsia sẽ thay đổi kiếp sống của con người trên mặt đất. Ngài sẽ biến hoang địa thành một kho chứa đầy cơm bánh (Mt 4,3). Ngài sẽ tiêu diệt hết mọi bệnh tật (Mt 4,24). Một số người còn ngĩ rằng, chẳng biết Ngài đến từ đâu, nhưng Ngài sẽ không chết (Ga 12,34). Đối với Chúa Giêsu, để cho người ta công bố quá sớm Ngài là Đấng “Kitô” là “Con Thiên Chúa” là khuyến khích sự tin tưởng sai lầm của người dân về Đấng Mêsia và gây tổn hại lớn cho việc biểu lộ tiệm tiến sứ vụ và thân thế đích thực của Ngài. Theo Maccô, thực ra chỉ có cuộc tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu mới mạc khải được dung mạo đích thực của Đấng Mêsia mà người ta phải tin tưởng. Trước khi những biến cố mặc khải trọn vẹn này xảy ra, ta nên theo lệnh Thầy là giữ im lặng.
Giống như lúc khởi đầu, trình thuật này kết thúc bằng việc cố ý nhấn mạnh tới sự mới mẻ mà Chúa Giêsu mang đến: một lời cứu độ hoàn toàn hiệu nghiệm như Lời của Thiên Chúa. Ta hiểu được sự kinh ngạc và nỗi thắc mắc bao trùm trên đám đông dân chúng (c. 17a). Chúa Giêsu vừa làm xong một điều chưa từng thấy. Ngay trong ngày Sabbat, ngày nghỉ ngơi bất khả xâm phạm, Chúa Giêsu biểu dương uy quyền tuyệt đối trên sức mạnh của thần dữ. Bởi đâu Ngài có uy quyền thế này? Người ta thắc mắc hỏi nhau như thế. Và thắc mắc này còn gặp thấy qua suốt cuốn Tin Mừng: “Ông Giêsu Nadaret” này là ai vậy? Sau cùng, Maccô chỉ còn việc cho ta thấy rõ danh tiếng Chúa Giêsu lan rộng khắp xứ Galilê sau vụ chữa lành này (c.28).
72. Suy niệm của Noel Quesson
“THẾ NGHĨA LÀ GÌ? NGƯỜI CÓ UY QUYỀN BIẾT MẤY?”
Trong thư viện của quốc hội Hoa Kỳ, có người đã thống kê các loại sách và công bố kết quả như sau: có 1735 cuốn viết về Napoleon; 1755 cuốn viết về Washington; 3172 cuốn viết về Lincoln; 3172 cuốn viết về W. Shakespeare và 5152 cuốn viết về Đức Giêsu Kitô.
5152 cuốn sách với nhiều bản in đây, chắc chưa phải là đủ hết số sách viết về Chúa Giêsu trên thế giới, nhưng cũng đủ cho ta thấy Chúa là một nhân vật gây nhiều ngạc nhiên cho mọi người có suy nghĩ. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, ta thấy ngay, khi Chúa vừa ra mắt dân chúng, người ta đã xôn xao bàn tán về Chúa như một điềm lạ.
Chúa Giêsu bắt đầu giảng trong hội đường và lời Ngài làm cho người ta kinh ngạc. Một nhà vô tín đã hỏi một cụ già: “Tại sao cụ tin thờ ông Giêsu, một tử tội chết trần truồng trên Thập giá?”. Cụ già từ tốn đáp: “Thưa ông, rất đơn giản, vì tôi thấy trong lịch sử không có ai như ông Giêsu, không ai bằng ông Giêsu, cũng không ai hơn ông Giêsu”. Thực vậy, những người trực tiếp nghe Chúa Giêsu giảng, đều ngạc nhiên và cảm thấy lời Ngài khác hẳn những kiểu ăn nói của các luật sư, văn sĩ. Vì lời Ngài là “giáo lý mới!...lời Ngài ra lệnh cho ma quỷ và chúng phải tuân theo” (Mc 1,27). Trái lại, các luật sĩ chỉ biết trình bày những điều họ đã nghe, đã học mà thôi. “Ngài giảng dạy như kẻ có quyền, khác với các luật sĩ” là như thế.
Lời Ngài đi thẳng vào tâm hồn người nghe, nói thẳng tới khát vọng muôn thuở của dân Do Thái và mọi nước mọi dân. Người giảng dạy về Thiên Chúa, cũng là giảng dạy về chính mình. Cuộc sống Thiên Chúa là cuộc sống của Người. Nên Chúa nói về mình là điều vững chắc nhất, dê dàng nhất, đầy đủ thẩm quyền nhất và cũng dễ thuyết phục người nghe hơn cả.
Là Kitô hữu, chúng ta có nghĩa vụ nói về Chúa, loan báo Tin Mừng. Nhưng trong thực tế, chúng ta đã tiếp nhận Chúa vào cuộc sống chúng ta chưa? Chỉ khi có Chúa sống trong ta, ta mới có thể nói và làm những công việc Chúa giao phó: -phục vụ những người anh em đau khổ phần xác, nâng đỡ người đau khổ tinh thần, nhất là những anh em thiếu hiểu biết về Chúa, những người kém lòng tin; -Theo gương Chúa, chúng ta dâng hiến thời giờ ngày Chúa Nhật để thực tập việc cầu nguyện, chia sẻ lời Chúa, thăm viếng giúp đỡ bệnh nhân, quan tâm đến người bạn dự tòng và tân tòng của mình…
Qua Thánh Kinh, Chúa vẫn nói với chúng con mỗi ngày, qua bí tích hòa giải, Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con, qua bí tích Thánh Thể. Chúa luôn hiện diện với chúng con. Xin Chúa giúp chúng con sống cuộc sống của Chúa để chúng con có thể phục vụ mọi người theo gương Chúa. Amen.
73. Chúa Nhật 4 Thường Niên
Thiên Chúa quyền năng và hằng thương yêu. Ngài luôn yêu thương con người và luôn dành cho con người những điều tốt đẹp nhất. Chúa Giêsu đến trần gian để khai mở Nước Thiên Chúa nhưng vì tôn trọng tự do mà Thiên Chúa để cho ma quỷ cám dỗ con người. Ngài để cho các thế lực sự dữ tấn công con người. Tuy nhiên con người vẫn được những sự trợ lực mạnh mẽ vô song từ phía Thiên Chúa để con người trung thành sống cho Chúa và trong khi can đảm chống lại sự dữ, con người được thêm nhiều ơn ích cho mình.
Hẳn nhiên, trong thế trần, con người phải chịu nhiều sự tấn công từ phía ma quỷ. Để chiếm lấy Nước Trời, để được bảo đảm vào trong vương quốc Thiên Chúa, con người phải chiến đấu trường kỳ và mạnh mẽ. Thế nhưng người ta cần phân biệt ma quỷ là ai? Thưa ma quỷ là thiên thần hư hỏng, đã bị đuổi ra khỏi Thiên Đàng. Nó đã thất bại nên muốn con người cũng thất bại như nó. Nó là một thực tại mầu nhiệm, đang hiện hữu và hoạt động không ngừng nhằm làm phá hoại con người. Nó muốn con người đi theo con đường của nó. Nó muốn con người từ chối tình thương của Thiên Chúa.
Có những thời gian nào đó, ma quỷ được mô tả như một con vật xấu xí và đáng sợ. Nếu như thế thì người ta sẽ dễ dàng nhận ra chúng và chúng khó lòng cám dỗ chúng ta. Tuy nhiên, trong thực tế ma quỷ không bao giờ hiện nguyên hình của nó để cám dỗ chúng ta. Ma quỷ là kẻ dối trá. Nó luôn ẩn nấp dưới những hình ảnh xinh đẹp và hấp dẫn. Nó hoạt động rất tinh vi, kín đáo và khôn khéo nên người ta tưởng rằng dường như chúng không có, hay có chăng thì cũng bị ánh sáng khoa học đẩy lui và quật ngã rồi. Nhờ người ta không tin ma quỷ hiện hữu nên nó càng dễ dàng hoạt động nhằm tấn công con người, làm cho con người nghi ngờ Thiên Chúa, sống lấp lửng, sống nước đôi và thậm chí người ta không cộng tác trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, ma quỷ được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị chúng cám dỗ. Thế nên chúng ta hãy xác tín và quả quyết ma quỷ là có thật, chúng vẫn có mặt và hoạt động trên trần gian này.
Ma quỷ hoạt động rất tinh vi và khôn khéo làm cho con người bị nô lệ trói buộc mà không hay biết. Nếu không sáng suốt, con người sẽ nhầm lẫn, dễ trở thành người cộng tác tích cực với ma quỷ,dễ phạm tội và sống trong tội lỗi mà không hay biết gì cả. Đôi khi chúng ta đang bị xiềng xích của ma quỷ trói buộc như sống thiếu bác ái, tham danh vọng, không yêu mến Chúa và không cộng tác với Giáo hội, vô hình trung chúng ta trở thành kẻ nô lệ của chúng mà nhiều lúc con người không nhận ra. Thế nên, khi xét mình lại, chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình đang làm nô lệ của những thói xấu trên. Như vậy, ngoài việc công nhận sự hiện hữu của ma quỷ, chúng ta còn nhìn nhận một thực tại khác không kém phần quan trọng, đó là sự ác, sự xấu và tội lỗi, ngay từ nội tâm mỗi người. Bên cạnh đó, chúng ta không dè rằng ma quỷ, kẻ cám dỗ, có thể là chính chúng ta. Không ai muốn nhận mình là ma quỷ nhưng rất có thể và đôi khi chúng ta đã cám dỗ anh em mình hành động trái với chân lý, công bằng và bác ái. Vì thế, con người cần sám hối, cần xin ơn Chúa trợ giúp để sáng suốt, can đảm chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ, trung thành với Chúa và trung thành sống yêu thương như Chúa muốn. Chúng ta phải dứt khoát chọn sự thiện, chọn con đường của công lý và tình thương.
Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Nó chỉ muốn phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa và đưa con người vào vòng nô lệ. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương muốn cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ. Chúng ta hãy chỗi dậy, tỉnh táo và khôn ngoan. Đừng để mình bị lừa dối của ma quỷ nữa, hãy mau mắn tin tưởng và bước theo Chúa Kitô để chúng ta được sống hoàn toàn tự do trong ân sủng và tiếp tục bước đi vào vương quốc Thiên Chúa. Là con cái Chúa nhờ bí tích rửa tội, chúng ta phải tin Thiên Chúa và can đảm bước theo Người. Chúng ta nên biết: Thiên Chúa là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác và cuộc đời chúng ta, Ngài là Đấng duy nhất chúng ta phải tin thờ. Biết thân phận mình yếu đuối, bất toàn, dễ sa ngã, chúng ta phải luôn tỉnh thức, đồng thời luôn cậy dựa vào quyền năng của Chúa, vào ơn soi sáng của Ngài, để sáng suốt khám phá ra âm mưu hiểm độc của ma quỷ và kiên quyết đánh bại chúng. Hơn hết, chúng ta phải tin tưởng vào Chúa hơn, bởi vì Thiên Chúa là Đấng quyền năng và hay thương xót.
Hôm nay chúng ta được mời gọi để kiểm chứng lại tình yêu của mình đối với Thiên Chúa, kiểm chứng lại cuộc chiến đấu của chúng ta với ma quỷ để phát hiện những thiếu sót trong tình yêu đáp trả của mình và sự cộng tác của chúng ta đối với ma quỷ. Chúng ta nhìn nhận những lỗi lầm của mình và kêu cầu lòng thương xót của Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta. Đồng thời chúng ta xin Chúa giúp chúng ta xác tín vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta quyết tâm sống xứng đáng hơn với ơn Chúa đã lãnh nhận, tin tưởng vào tình thương và quyền năng Chúa đang hoạt động mạnh mẽ trong tâm hồn chúng ta qua các Bí tích, nhất là bí tích Giải tội và Thánh Thể. Nơi Thánh Lễ và các bí tích Thiên Chúa không ngừng đổ tràn ân sủng của Người để tái tạo con tim yêu thương đáp trả tình yêu của Thiên Chúa và không ngừng làm cho sự sống trong tâm hồn chúng ta luôn phát triển và đạt đến tầm vóc sự sống viên mãn trong Chúa Kitô, cho chúng ta tham dự vào sự sống đời đời trong Nước Thiên Chúa và ngay bây giờ nếm trước nguồn hạnh phúc bất diệt nơi Mình Máu Chúa Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con siêng năng chạy đến bí tích Giải tội và Thánh Thể, để chúng con mạnh mẽ tin vào quyền năng và tình thương của Chúa, để chúng con can đảm từ bỏ lối sống tội lỗi. Chúng con không còn phải sợ sệt hay lo âu vì thế lực ma quỷ đang chế ngự chúng con. Xin cho chúng con dám sống cho Chúa, dám thể hiện đức tin và lòng mến đối với tha nhân. Amen.
74. Chú giải của Noel Quesson
Họ (Đức Giêsu và các môn đệ) đi vào thành Ca-phác-na-um.
Đó là bản văn chính xác của Thánh Maccô. Đại danh từ “họ" ở số nhiều trên đây, có vẻ bất định, nhưng rất có ý nghĩa Đức Giêsu vừa mới kêu gọi được bốn môn đệ. Đó là trang Tin Mừng ta đã suy niệm Chúa nhật vùa qua. Như thế, Đức Giêsu không còn cô lẻ nữa. Đã có một nhóm gồm năm người "đi vào" một thành trên bờ hồ Galilê. Từ đây trở đi, Maccô sẽ giới thiệu cho ta những con người đó luôn cùng sống với nhau. Họ tạo thành một nhóm "Đức Giêsu và các môn đệ của Người".
Sau này, bằng một thứ ngôn ngữ thần học hơn, Thánh Phaolô sẽ nói đến "Thân Thể Đức Kitô” mà chúng ta là các chi thể. Với một cách nói khác, cụ thể hơn, Giêsu cũng gợi lên một thực tại như thế. Điều mà Đức Giêsu sắp làm, thì lát nữa đây, chính "Người và các môn đệ" sẽ cùng thực hiện! Đó cũng là công trình của Giáo hội.
Thành Ca-phác-na-um
Ca-phác-na-um chính là biểu tượng cho xứ "Galilê của dân ngoại", miền đất sẽ trở nên nơi thuận lợi cho công việc truyền giảng Tin Mừng. Xưa kia người ta nhắc đến Ca-phác-na-um, cũng như ngày nay người ta nói với Marseille, Amsterdam hay Hồng Kông! Đó là một hải cảng, một nơi vãng lai, pha tạp nhiều chủng tộc. Bước vào thành Đức Giêsu và các môn đệ sẽ nhận ra ngay các thủy thủ, thương gia, nông dân... Những khuôn mặt sạm nắng của dân du mục đến từ sa mạc gần đó, những người nghèo khó với quần áo tả tơi, cũng như những nhà tư sản Rôma quần là áo lượt, những binh lính làm nhiệm vụ cảnh sát cho người ngoại quốc và có Matthêu, người thu thuế bị dân chúng nhục mạ, vì thu thuế cho bọn xâm chiếm. Đó là thế giới hỗn tạp. Đức Giêsu biết như thế, nhưng Người vẫn chọn lựa. Ngày nay, để diễn tả một đống đồ lộn xộn, người Pháp đã thường nói: thật là một “Ca-phác-na-um"!
Ngày Sabát kế đó, Người vào Hội đường giảng dạy.
Sau khi quay chung cả "nhóm", giờ đây Giêsu giơ máy quay phim, ghi hình cảnh chính, tập trung vào con người có vẻ đang dẫn đầu nhóm, một người làng Na-da-rét thì phải, cho đến lúc này anh ta mới chỉ là một thợ mộc quèn trong một thôn xóm, có tên là Giêsu.
Maccô sắp diễn tả cho ta một "Ngày tiêu biểu” của ông Giêsu và nhóm này, một ngày hiển hách tại Ca-phác-na-um, bằng cách kể lại bốn "hành động" đặc trưng của toàn thể tác vụ Đức Giêsu (cũng như tác vụ của Giáo hội): 1. Đức Giêsu giảng dạy, 2. Đức Giêsu xua trừ quỷ 3. Đức Giêsu chữa lành người bệnh, 4. Đức Giêsu cầu nguyện. Tất cả những việc làm đó diễn ra trong một ngày: từ bình minh hôm nay đến bình minh hôm sau, từ sáng hôm nay đến sáng ngày mai (Mc 1,21,35). Tôi có nhận thấy mình sống như thế trong ngày sống của Đức Giêsu? trong ngày sống tiêu biểu của người Kitô hữu không? Mỗi ngày tôi có thực thi như thế cùng với Đức Giêsu không?
Một hoạt động tiêu biểu và ý nghĩa như thế, không phải ngẫu nhiên đã bắt đầu "trong Hội đồng vào một ngày Sa-bát". Hội đường vẩn là nơi hội họp chính thức của Do Thái giáo là Ngôi nhà chung cho mọi người, là Nhà thi hành Lề luật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đến ngay nơi mà có nhiều người tụ họp đông nhất. Người mong được tiếp xúc.
Người vào Hội đường giảng dạy. Thiên hạ rất đỗi ngạc nhiên về cách Người giảng dạy, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.
Chỉ trong cùng một câu nói mà Giêsu đã ba lần sử dụng từ "didakê", "giảng dạy". Đối với Đức Giêsu, chính giáo huấn hay "lời dạy" phải đứng hàng đầu! Thực ra, việc trừ quỷ đã hàm ẩn trong hai khẳng định của lời giáo huấn Đức Giêsu. Do đó, giảng dạy là vai trò đầu tiên của Đức Giêsu, cũng như của Giáo Hội. Tôi cố tưởng tượng xem. Tôi cứ nghĩ như mình thuộc cử tọa đang lắng nghe: Hôm nay, chính Đức Giêsu đang thuyết giảng. Maccô không nói tới nội dung bài diễn giảng. Trong trang Tin Mừng trước, Người đã phát biểu nội dung đó qua bốn câu: "Thời kỳ đã mãn... Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi... Anh em phải sám hối... Anh em hãy tin vào Tin Mừng". Điều làm cho Giêsu quan tâm, đó là phản ứng của thính giả: Họ say mê thực sự... Đức Giêsu là một nhà thông biện vĩ đại đúng nghĩa... Người ta "kinh ngạc" vì lời Người. Trước hết, không phải giọng điệu nhằm tạo hiệu quả bề ngoài; nhưng chính là lời nói đi thẳng vào tâm hồn, nên những câu hỏi đích thực mà mỗi người đều tự đặt ra cho mình; và mang đến lời đáp trả mà người ta đang mong đợi, bởi vì nó "đúng thực" tận thâm sâu con người!
Một cách long trọng hon, Thánh Gioan đã bắt đầu Tin Mừng của ông, bằng cách nói về Đức Giêsu như sau: “Lúc khởi đầu, vẫn có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa... và Ngôi Lời đã làm người". Còn Maccô, bằng một kiểu nói khác, cũng diễn tả đích xác cho ta cùng một thực tại đó. Đức Giêsu, Lời của một Thiên Chúa tự mạc khải, Lời gây ngạc nhiên, Lời mang tính quyết liệt... Đối với lời của Đức Giêsu, là chính sự mạc khải của Thiên Chúa tôi đã dành tình yêu như thế nào? Tôi đã dành thời gian để suy gẫm lời nói, giáo huấn của Đức Giêsu ra sao?
Những "kinh sư " theo truyền thống chỉ biết lặp lại bài vở đã học. Còn Đức Giêsu được người ta chú ý ngay do “uy quyền" của lời Người, uy quyền phát xuất tự bên trong Người. Đức Giêsu nói về Thiên Chúa, Đúng vậy! Nhưng Thiên Chúa, cũng chính là đời sống của Người. Và điều đó dễ được người ta cảm nhận, khi ai đó nói với vẻ xác tín: "anh ta tin như thế?", rồi anh ta sống thiết thân với lời nói của mình. Đó không phải là nói "ba láp", nói "ba hoa chích chòe"... nhưng là nói sụ thật. Đúng vậy, Đức Giêsu luôn sống thiết thân với lời Người nói. Đó là điều khác với hạng kinh sư. Còn tôi, khi nói về Thiên Chúa, về Giáo hội, tôi có làm cho người ta cảm thấy tôi tin như thế không? Tôi là một "kinh sư" hay là một "chứng nhân? Tôi có thích lặp lại những bài đã học cách bề ngoài, hay muốn Lời Thiên Chúa trở nên "của tôi", được nội tâm hóa, là chính “thịt xương của xương thịt tôi" không?
Đúng lúc đó, trong Hội đường, có một người bị quỷ ám la lên...
Chúng ta đang đứng trước bối cảnh phương Đông. Cuốn phim của Zefflrelli đã mô tả rất đúng cảnh này, trong đó thật là náo động, la hét, bạo lực bùng lên. Giêsu không ngần ngại tỏ vẻ cho cảnh bùng nổ trên thêm màu sắc: Trước hết, đó là "tiếng la hét" vang lên trong khi Đức Giêsu đang giảng! Rồi Đức Giêsu quát mắng nó": bầu khí thật sôi động kịch liệt! Chính khi "lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng" quỷ mới xuất khỏi anh ta.
Tân ước đã 23 lần bàn tới "thần ô uế" mà sách bài đọc dịch là "thần xấu', bởi vì thực ra, từ "ô uế" ở đây không có nghĩa "tình dục" như hiện nay, nhưng sự ô uế chỉ được hiểu như điều gì đổi nghịch với sự "thánh thiện". Riêng Maccô, ông sử dụng tới 11 lần từ "thần ô uế ". "Thần xấu”, chính là "đứa chống lại sự thánh thiện của Thiên Chúa": chúng ta thấy rõ điều này được mô tả ở đây, Nó "quấy phá" con người! Nó ngăn cản con người không sống đích thực là người. Con người "bị quấy phá" trên đây, đó là chính biểu tượng của con người "bị tha hóa". "Bị chiếm đoạt", vì một thứ sức mạnh ngoài nhân loại khi chinh phục được con người, đã hoàn toàn thống trị nó.
Trước việc "trừ quỷ" của Đức Giêsu trên đây, chúng ta có thể phân vân giữa hai thái độ, thực ra cũng khá giống nhau, khiến chúng ta khó "hiểu biết sâu xa" cảnh tượng này: thái độ thứ nhất làm ta dễ chán nản và nuốn bác bỏ bản văn kỳ dị trên như đã cũ rích và lỗi thời.. Ngược lại thái độ thứ hai gây cho ta thích thú nhìn xem vẻ kỳ diệu bề ngoài của bản văn (theo kiểu nhà đạo diễn phim “Người trừ quỷ", khai triển mọi vẻ khủng khiếp có tính kịch trên màn ảnh).: Thực ra, Maccô bắt đầu hoạt động của Đức Giêsu bằng một việc trừ quỷ, bởi vì ông nhận thấy ở đó bản "tóm lược" trọn vẹn mọi hoạt động của Chúa: Đức Giêsu đến giải phóng con người nô lệ khỏi những quyền lực đang tha hóa họ... Thế giới thay đổi chủ... Nước Thiên Chúa đang bắt đầu!.
Này ông Giêsu Na-ra-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông? Tôi biết ông là ai rồi: "ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Thực sự cần phải khám phá ra căn tính đích thực của Đức Giêsu. Cần khởi đi từ danh hiệu bình thường "Giêsu, người Na-da -rét", đến tước hiệu kỳ diệu: "Đấng Thánh của Thiên Chúa". Đức Giêsu không phải là kẻ trù quỷ tầm thường ở làng thôn, như một số ít người lúc đó đang hoạt động rải rác khắp nơi, trong thế giới Do Thái cũng như trong thế giới dân ngoại: một loại ma thuật hay phù thủy. Hoàn toàn không thể có sự tương hợp giữa "Thần ác" và "Thiên Chúa" được: thế nên Sa-tan đã công khai tuyên chiến. ông muốn gây chuyện gì đây? Có liên quan gì giữa ông và tôi? ông muốn gì? Đó là "tiếng la hét của quỷ". Còn chúng ta thì sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta có quan niệm đời sống Kitô hữu của chúng ta như một cuộc giao chiến lớn lao nhằm giải phóng không? Những người thuộc nhóm của Đức Giêsu cần phải sẵn sàng ứng chiến. Những lực lượng thù địch luôn nổi đậy chống lại Người. Tôi có cùng chiến đấu với Đức Giêsu không? Tôi phải giải thoát anh em tôi, và chính bản thân tôi khỏi sự tha hóa, sự ác nào?
Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này".
Từ Hi Lạp được dùng ở đây, có nghĩa gì "bịt miệng", “đe dọa”, “quát mắng". Trước giông bão nổi lên trên biển hồ, Đức Giêsu cũng sử dụng từ này (Mc 4,39). Quyền năng của Đấng Phục sinh chiến thắng mọi quyền lực ma quỷ được diễn tả qua câu: sự ác bị đánh bại Thiên Chúa xuất hiện.
Chúng ta nên lưu ý một chi tiết có ý nghĩa: đó là khi mọi người hỏi nhau và ngạc nhiên về "nhân cách" của Đức Giêsu... thì ma quỷ đã biến mất rồi. Nhờ bản tính thiêng liêng, có lẽ quỷ tinh thông hơn con người chăng? Nhưng Đức Gíêsu truyền cho chúng phải im lặng: câm miệng lại? hãy im đi! Căn tính đích thực của Đức Giêsu chỉ có thể được mạc khải dần dần: Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa", là."Con Thiên Chúa", có thể chỉ là một việc làm của ma quỷ. Chỉ đến khi đứng trước thập giá một "con người, một kẻ ngoại, viên đội trưởng hành quyết, mọi công bố những tước hiệu trên một cách hợp thức (Mc 15,39).
Mọi người đều kinh ngạc, bàn tán với nhau: "Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ong ấy ra lệnh cho quỷ, quỷ cũng phải vâng theo".
Đó là những Lời", một giáo huấn, một sứ điệp... một điều gì "mới lạ" cho nhân loại.
Đó là những "Dấu chỉ", những "hành động của Đức Giêsu, các bí tích... quyền năng của Thiên Chúa". Đừng quên rằng, trong bí tích Rửa tội, chính chúng ta đã được Chúa Giêsu "trừ quỷ và "dấu chỉ bí tích" này luôn hiện diện: Nó được hiện thực hơn mỗi khi ta cử hành Thánh Thể... trong đó Đức Giêsu "nói" với ta, và "cứu độ" ta khỏi sự dữ.
75. Ý nghĩa của một lần trừ quỷ
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Tìm xem với những đoạn văn nào, các tác giả Tin Mừng đã bắt đầu phần tường thuật đời sống công khai của Đức Giêsu, là việc quan trọng. Mt bắt đầu với bài diễn từ thứ nhất và dài nhất trong năm bài diễn từ, đó là Bài Giảng trên núi (Mt 5,1–7,2). Mối quan tâm chính của tác giả TM I là diễn tả giáo huấn của Đức Giêsu. Lc thì nói tới việc Đức Giêsu xuất hiện tại hội đường Nadarét (Lc 4,16-30); tại đó, liên kết bản thân với Cựu Ước (Is 61,1t), Đức Giêsu trình bày uy quyền và mục tiêu của sứ mạng của Người như nằm trong một chương trình đã được thiết lập. Trong Mc, điều đầu tiên chúng ta thấy là sự xuất hiện của Đức Giêsu tại hội đường Caphácnaum.
Caphácnaum ở trên bờ phía tây bắc hồ Ghennêxarét, cách cửa sông Giođan vài cây số. Kết quả các cuộc khai quật khảo cổ cho ta gặp lại những di tích của thế kỷ iv kỷ nguyên chúng ta, nhưng vẫn ở ngay tại nơi có hội đường vào thời Đức Giêsu. Điều lạ lùng là Mc không kể gì về giáo huấn của Đức Giêsu, mà chỉ nêu sự kiện là Người đã giảng dạy và ấn tượng mà các lời Người nói gây nên nơi dân chúng. Quả vậy, tác giả đặt ở hàng đầu không phải là giáo lý của Đức Giêsu, mà là con người của vị Tôn sư.
Mc đã đặt câu truyện này ngay sau khi Đức Giêsu gọi bốn ngư phủ, mà coi như là hoạt động công khai đầu tiên Đức Giêsu hoàn tất với sự hiện diện của các môn đệ kể từ nay sẽ “ở với Người” (3,14). Thế mà Đức Giêsu đến để loan báo Tin Mừng, loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã có đó, quyền năng cứu độ đã đi vào hoạt động, một thế giới mới đã được mạc khải. Trong Lời mang sức giải thoát mà Đức Giêsu nói ra, chính Thiên Chúa hành động; Đức Giêsu, vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và việc làm, chính là Tin Mừng đang tiến hành.
Đoạn này thuộc về một toàn bộ gọi là “ngày ở Caphácnaum” (1,21-34). Trong một đơn vị thống nhất về thời gian và không gian như thế (một ngày sa-bát tại Caphácnaum), Mc đã quy tụ nhiều câu truyện: việc giảng dạy, trừ quỷ, chữa mẹ vợ Simôn, rồi, đến chiều, có một bức họa tổng quát. Các truyện này xảy ra tại một hội đường, tại nhà, tại cửa thành. Nhưng chuỗi hoạt động này lại thuộc về toàn bộ rộng lớn hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra tại miền Galilê, đến bờ Biển Hồ, vào thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra khỏi đó, đến chiều thì ra cổng thành, sáng hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê, và cứ thế, “rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác, Người làm khắp nơi những gì Người đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng dạy và trừ quỷ. Bản văn đang khảo sát là cốt lõi của một chuyển động vừa tập trung vừa lan toả, nên trở thành bản văn tiêu biểu, tóm tắt hoạt động của Đức Giêsu. Điều được biểu lộ ra (sự giải phóng do Đức Giêsu mang lại) tại địa điểm chính thức của Do Thái giáo, trong nhà Lề Luật, là để được phổ biến trong khắp miền Galilê. Và sau Phục Sinh, miền này sẽ trở thành địa điểm xuất phát của các môn đệ để các ông đi khắp thế giới mà thi hành sứ vụ. Vì thế, có kết luận: “Danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c. 28). Tuy nhiên, không nên quên lệnh cấm nói: danh tiếng này chỉ có được nền tảng đích thực khi cuộc Khổ Nạn đã được hoàn tất.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu giảng dạy (1,21-22):
a) nơi chốn và thời gian: Caphácnaum; ngày sa-bát,
b) dân chúng kinh ngạc về lời giảng và uy quyền;
2) Ca người bị quỷ ám (1,23-26):
a) phản ứng của quỷ,
b) lời nói uy quyền của Đức Giêsu,
c) kết quả;
3) Về việc giảng dạy của Đức Giêsu (1,27-28):
a) dân chúng kinh ngạc: giáo lý và uy quyền,
b) danh tiếng được đồn đi: mọi nơi, khắp vùng lân cận miền Galilê.
Câu truyện trừ quỷ này lại được đóng khung bằng câu nói về “lời giảng dạy có uy quyền”, khiến các nhà chú giải nghĩ đến nhiều đợt làm việc trên câu truyện này.
3.- Vài điểm chú giải
- sửng sốt (22): dịch sát là “bị đánh ngã”, “bị quẳng ra ngoài”.
- Có một người bị thần ô uế nhập (c.23): Tác giả giới thiệu “ca” bệnh. Nhưng rồi, thay vì nói đến một sáng kiến, một thái độ của người bệnh hoặc của những người có mặt nhằm bày tỏ lòng tin, tác giả cho thấy không có ai can thiệp vào cả, Đức Giêsu cũng không làm gì cả; thế mà đã xảy ra như một cú “bùng nổ”.
- la lên rằng: “… chuyện chúng tôi can gì đến ông…” (23-24): Dường như chỉ nguyên việc đứng trước mặt Đức Giêsu đã khiến ma quỷ phải hét lên (x. một phản ứng tương tự: 9,20). Rõ ràng, khi gặp Người, ma quỷ bị một cú sốc, nó không thể thản nhiên như không được. Nó hét lên: “Giêsu Nadarét, chúng tôi với Ngài nào có việc gì?” (NTT). Trong Cựu Ước, câu nói này nhằm thiết lập một khoảng cách giữa hai người: hoặc một sự bất hoà giữa hai cá nhân trước đây hoà hợp (x. Tl 11,12; 2 Sb 35,21; 2 Sm 16,10; 19,23; 1 V 17,18 với ý nghĩa: “tôi đã làm gì cho bạn, đã xảy ra chuyện gì khiến bạn làm như thế, bạn xử với tôi như thế?”), hoặc là từ chối mọi quan hệ hoặc mọi thoả hiệp giữa hai bên thù nghịch (x. Gs 22,24; 2 V 3,13; Hs 14,9: “Giữa chúng ta còn có thể quan hệ gì nữa? Ông lo việc của ông đi!”). Bản văn Mc theo nghĩa thứ hai: đây là một lời tuyên chiến, hoặc đúng hơn, một lời tuyên bố tình trạng thù nghịch và một lời từ chối giao đấu vì bên liên hệ quá biết kết quả rồi (x. 5,7).
- Đấng Thánh của Thiên Chúa (x. 5,7 “Con Thiên Chúa Tối Cao”): Cho dù đa số các nhà chú giải coi đây là một danh hiệu của Đấng Mêsia, cha Lagrange lưu ý là trong nền văn chương Do Thái giáo, Đấng Mêsia không được gọi như thế. Hẳn là câu này muốn nói Đức Giêsu là một con người thuộc về thế giới của Thiên Chúa thánh thiện. Người ở trong quan hệ đặc biệt với Thiên Chúa, và do đó, câu này diễn tả tình trạng không thể hòa hợp giữa Đức Giêsu và tà thần (HL. pneuma akatharton: đối nghịch lại với linh thánh, với Thiên Chúa). Nhưng chắc chắn là trong Mc, công thức này đã có ý nghĩa Kitô giáo, nghĩa là được dành cho Đấng Mêsia.
Ma quỷ cảm nhận sự hiện diện của Đức Giêsu như một sự gây hấn, nên nó đã “bùng nổ”.
- Đức Giêsu quát mắng (quát bảo, NTT) (25): Theo nghĩa chữ, động từ Hy Lạp epetimêsen (x. 3,12; 4,39; 8,30.32.33; 9,25; 10,13-48) này có nghĩa là “đặt một timê (giá cả, giá trị) trên”, và từ nguyên thuỷ, nó có nghĩa tích cực. Trong Mc, động từ này có nghĩa là “nói một cách nghiêm túc, lưu ý nhằm ngăn cản một hành vi hoặc để chấm dứt hành vi nào đó” (Arndt & Gringrich). Đây là một lệnh truyền hơn là một lời la mắng, một lệnh cấm. Đức Giêsu đã truyền hai lệnh “Câm đi” và “Xuất khỏi người này”.
- Câm đi (phimôthêti): Nguyên nghĩa của động từ HL phimoô là “khoá mõm; muzzle”: Ma quỷ bị coi như là một con thú dữ cần phải chế ngự để làm cho nó ra vô hại. Tác giả dùng lại động từ này trong truyện Dẹp yên bão táp (x. 4,39).
- Xuất khỏi: Đứng trước quỷ, Đức Giêsu thường truyền lệnh này (x. 5,8; 9,25), và quỷ vâng theo tức khắc.
- Thần ô uế lay…, thét… (26): Những hiện tượng này cho thấy kết quả đã đạt được (như trong 9,26), nhưng không có giao tranh; như thế là khác với câu truyện Ghêrasa (5,1) và người động kinh (9,14), vì ở chỗ đó dường như Đức Giêsu có gặp một sự kháng cự nào đó. Còn ở đây, chiến thắng đạt được tức khắc. Đó là điều những người chứng kiến thấy là bất thường, và họ thán phục: các thần ô uế tuân theo lời nói của Đức Giêsu ngay. Tiếng hét ở c. 24 và tiếng hét ở c. 26 như tiếng hét của kẻ sắp chết, cho thấy rằng đây không phải là một việc trừ quỷ như dân chúng đã quen nghe biết, vì một quỷ bị đuổi đi hôm nay sẽ có thể trở lại vào một ngày khác. Cuộc trừ quỷ do Đức Giêsu thực hiện là một sự kiện “mới” trong lịch sử cứu độ. Một thời đại mới đã khởi sự, thế giới đã sang tay người chủ khác; quyền lực của tà thần đã chấm dứt: một “cá nhân” quỷ mới, nhưng nhận định cho số phận của “tập thể” quỷ (“chúng tôi”), (x. 5,10). Vậy Đức Giêsu Nadarét không phải là một người trừ quỷ bình thường, nhưng là Sứ giả của Thiên Chúa, Đấng Thánh. Với sự hiện diện và hoạt động của Người, Thiên Chúa thiết lập Triều Đại của Ngài (x. 3,22-30).
- So sánh với 4,37-41: Nếu so sánh đoạn văn này với hai cảnh của ch. 5 và 9 (Ghêrasa và người động kinh), ta thấy hai truyện ấy thật là sống động, còn bản văn 1,23-27 quá đơn giản. Dường như truyện này là một bài mẫu tổng quát. Ta nhận thấy bài này được xây dựng theo cùng một kiểu như bài tường thuật về cơn bão bị dẹp yên (4,37-41), hoặc đúng hơn, “cơn bão bị dẹp yên” được nhìn như một cuộc trừ quỷ:
Trừ quỷ Bão yên (4,37-41)
23 Có một người bị thần ô uế nhập la lên rằng 37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền
38 các môn đệ đánh thức Người dậy và nói:
24 “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi”
(= chúng tôi chết mất) “Thầy chẳng lo gì sao
chúng ta chết đến nơi rồi”
(= chúng ta/tôi chết mất)
25 Đức Giêsu quát mắng nó (đe doạ) nó: 39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển
“Câm đi và xuất khỏi người này!” “Im đi! Câm đi!”
26 Thần ô uế hét lên một tiếng và xuất Gió liền tắt và biển lặng như tờ
40 Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
27 Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: 41 Các ông hoảng sợ (kinh ngạc) và nói với nhau:
“Thế nghĩa là gì? “Vậy người này là ai?
Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền
Ông ấy ra lệnh cho tất cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh! mà cả đến gió và biển
cũng phải tuân lệnh?
Bảng đối chiếu này cho thấy hai bài có một lược đồ chung:
1. Sự hiện diện của Đức Giêsu gây ra một cuộc bùng nổ các sức mạnh tà thần (quỷ hoặc biển); thế trận.
2. Đức Giêsu như bị khiêu khích, hoặc bởi ma quỷ là hãy rút lui đi, hoặc bởi các môn đệ là hãy hành động đi, cả hai bên đều dùng động từ “chết” (apollymi).
3. Chiến thắng toàn diện của Đức Giêsu được diễn tả bằng hai động từ “đe doạ” và “khoá mõm”, “câm”.
4. Cuối cùng là sự kinh ngạc và câu hỏi về Đức Giêsu, Đấng đã buộc được tà thần phải tuân lệnh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu giảng dạy (21-22)
Tác giả ghi nhận ấn tượng Đức Giêsu tạo ra nơi dân chúng: họ bị đánh động sâu xa, họ bị rúng động, họ hết sức kinh ngạc. Đức Giêsu không trình bày các ý kiến cũng không cống hiến những đóng góp vào cuộc tranh luận, nhưng giảng dạy với uy quyền, với lời nói có sức mạnh, có hiệu lực tuyệt đối; đàng sau những điều này, Người nói rằng Người có Thiên Chúa với uy quyền của Ngài. Dân chúng ghi nhận điều này và biết mình bị thách thức bởi giáo huấn của Người. Uy quyền của giáo huấn này được phản ánh, như trong một tấm gương, nơi hiệu quả gây ra trên dân chúng. Giáo huấn này không nhắm mở đường cho các cuộc tranh luận, nhưng muốn nắm lấy, lay chuyển, đưa đến một định hướng đời sống cụ thể mới mẻ (= hoán cải).
Đức Giêsu đến để loan báo Thiên Chúa như là vị Chúa tể đích thực và về sự hiện diện chan hòa ân huệ của Ngài. Chính là với sứ điệp này mà Người đến hội đường Caphácnaum. Đây là nơi dân chúng một làng tụ họp lại để cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa. Đức Giêsu không đến làm việc trong hoang địa như Gioan Tẩy Giả, nhưng đến hội đường. Người tháp hoạt động của Người vào trong nền phụng tự của Israel, như sứ giả của vị Thiên Chúa mà dân Israel thưa gửi với trong hội đường.
* Ca người bị quỷ ám (23-26)
Các cuộc trừ quỷ, và nói tổng quát, cuộc chiến đấu chống Satan, chiếm một vị trí quan trọng trong tác phẩm Mc, vừa về lượng vừa về phẩm: trong bốn bài tường thuật trong đó có hai bài với nhiều chi tiết của riêng Mc (1,21-28; 5,1-20; 8,4-30; 9,14-29), trong nhiều bản tóm tắt của riêng Mc về hoạt động của Đức Giêsu (1,34-39; 3,11-12) và cả trong đối tượng thuộc hoạt động truyền giáo của các môn đệ (3,15; 6,7.13).
So với Mc, Mt và Lc có những khác biệt đáng kể: Lc có giữ lại bài tường thuật ta đang khảo sát (Lc 4,31-37), và có một bản tóm tắt gần giống Mc (Lc 4,41 // Mc 1,39); Mt không có câu chuyện trừ quỷ tại Caphácnaum. Nhưng cả hai vị, đặc biệt Mt, có khuynh hướng giảm thiểu hay loại bỏ “phương diện ma quỷ” của nhiều bài tường thuật (x. truyện Bà Canaan, Sứ mạng của Nhóm Mười Hai và nhất là truyện Chữa người động kinh). Thường truyện được chuyển từ tình trạng quỷ ám sang tình trạng đau ốm, từ việc trừ quỷ sang việc chữa bệnh. Dù sao, những con người bị hành hạ như thế vẫn liên tục xuất hiện trong phạm vi hoạt động của Đức Giêsu. Chúng ta thật khó mà hiểu được những sức mạnh khống chế con người và biến họ thành nô lệ. Các sức mạnh này được giới thiệu như là siêu nhân, phản ứng như thể chúng là con người, có một sự hiểu biết đặc biệt, ở thế đối lập với Thiên Chúa, thống trị và làm hại con người. Có những người nói rằng chúng ở trong biển; có những khác lại cho rằng chúng ở trên không trung, nhưng chẳng ai biết rõ chúng. Điều duy nhất chắc chắn, đó là người ta hoàn toàn bất lực khi đứng trước chúng.
Kẻ bị quỷ ám ở ngay trong hội đường là “nơi thánh”, mà vẫn yên hàn như sống trong nhà nó; và chỉ khi gặp “Đấng Thánh”, quỷ mới phải hét lên và đi ra. Nó ở đấy và dường như không gây vấn đề gì. Cũng không có ai gây phiền hà gì cho nó. Nhưng Đức Giêsu thấy người ấy đang ở trong quyền lực của tà thần. Đức Giêsu và tà thần giống như hai kẻ thù gặp nhau: hai bên rất ghét nhau, tìm cách lờ nhau đi, nhưng rồi lại không thể nào tránh khỏi gặp nhau.
Quỷ tỏ thái độ thù nghịch trước, vì nó cảm thấy nó yếu hơn. Nó thấy rằng “Đấng Thánh” (“Đấng mạnh / quyền thế hơn”: Mc 1,7; “người mạnh”: Mt 12,29) có khả năng tiêu diệt nó và vương quốc của nó: “Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?” (c. 24). Đức Giêsu không dùng phù chú ma thuật. Người chỉ ra lệnh: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (c. 25). Thần ô uế vâng lời. Với lời nói hữu hiệu của Người, Người chứng tỏ quyền lực đích thực của Triều Đại Thiên Chúa mà Người loan báo; Người cho thấy rằng Thiên Chúa mới có tiếng nói cuối cùng và Thiên Chúa đang dùng quyền lực của Người để giải thoát loài người và trả lại cho họ khả năng xác định mình như là những con người tự do. Đức Giêsu đưa tự do và bình an đến không phải nhờ một thỏa hiệp với sự dữ, nhưng chỉ nhờ cách thắng vượt sự dữ. Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng này, ta cũng thoáng thấy Đức Giêsu là ai.
* Về việc giảng dạy của Đức Giêsu (27-28)
Dân chúng sững sờ kinh ngạc. Họ nhận ra rằng có một vị ngôn sứ đang ở giữa họ với “giáo huấn mới, một cách có uy quyền” (c. 27 - NTT). Đó là vì lời nói của Đức Giêsu thực hiện được điều Người diễn tả. Tác giả nhắc lại “lời giảng dạy – uy quyền” (c. 22 // c. 27) để “đóng khung” truyện trừ quỷ. Bằng cách đó, ngài vừa nói lên được hai nét chính trong sứ vụ của Đức Giêsu (giảng dạy – trừ quỷ) vừa minh họa được quyền lực giải phóng của lời Người nói. Ngoài ra, ngài cũng chuẩn bị cho sứ vụ của Đức Giêsu bằng cách ghi nhận rằng sự cố xảy ra tại Caphácnaum đã được đồn ra “khắp cả vùng lân cận miền Galilê”.
+ Kết luận
Vậy ít ra, đến đây, chúng ta phải nhìn nhận sử tính của những bài tường thuật về trừ quỷ: chắc chắn Đức Giêsu đã xua trừ ma quỷ. Những người đương thời đã coi Người là một vị Thầy chữa bệnh và trừ quỷ. Các câu truyện Ghêrasa và người động kinh cho thấy ấn tượng này rõ hơn. Và nhất là chính những luật sĩ đã kết án Đức Giêsu là “bắt tay” với quỷ vương… Nhưng, dường như Mc có một ý hướng sâu hơn khi trình câu truyện trừ quỷ ở đây.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Trong “một ngày ở Caphácnaum” được coi như một ngày “mẫu”, Đức Giêsu giảng dạy và trừ quỷ: Thiên Chúa đang biểu lộ quyền năng để giải phóng con người. Các tông đồ cũng có mặt: những môn đệ tương lai sẽ nối tiếp Đức Giêsu giảng dạy và trừ quỷ.
2. Phong thái và các hành vi của chúng ta có cho thấy rằng chúng ta đang được hướng dẫn bên trong bởi uy quyền của Đức Giêsu chăng? Phải chăng chúng ta chỉ rút từ giáo huấn của Người ra những gì chúng ta thích, hay là quả thạt, chúng ta đang liên kết với Người bằng cách trung thành bước theo Người?
3. Chúng ta biết là có ma quỷ. Tuy nhiên, không nên nghĩ nó giống như một con quái vật. Đúng hơn nó là sức mạnh làm cho con người chúng ta hành động không đúng với nhân tính chúng ta nữa. Ta chỉ thắng được tà thần không phải bằng một thỏa hiệp và nhượng bộ, nhưng nhờ thẳng thắn chiến đấu chống lại nó nhân danh Triều Đại Thiên Chúa: nó đã và sẽ phản ứng thô bạo, nó kháng cự, la hét. Chúng ta có tin tưởng mạnh mẽ và sống động vào Đức Giêsu chăng? Chúng ta có xác tín rằng Người vượt lên trên tất cả các sức mạnh đối kháng, và nếu kết hợp với Người, chúng ta có thể đánh bại sự dữ và các sức mạnh thù nghịch?
4. Cuộc chiến đấu được kể lại đây tượng trưng cho cuộc nổi loạn của các sức mạnh xấu xa trong chúng ta, vì chúng không muốn bị trục xuất; đây là biểu tượng của các khó khăn chúng ta gặp khi chúng ta muốn gỡ mình khỏi các tật xấu. Chúng không muốn bỏ đi. Chúng ta chịu thua hay là chúng ta biết tin tưởng vào lời của Đức Giêsu, lời vẫn vang lên mỗi ngày trong lòng các cộng đoàn của chúng ta?
76. Chú giải của William Barclay
Chúa Giêsu Bắt Đầu Sứ Vụ Của Ngài (Mc 1,21-22)
Câu chuyện Maccô kể lại vạch rõ một loạt nhiều bước hợp lý và tự nhiên. Qua sự xuất hiện của Gioan, Chúa Giêsu nhận biết tiếng gọi của Chúa Cha để Ngài phải hành động. Chúa Giêsu chịu phép rửa và nhận dấu ấn của Chúa Cha chứng tỏ Chúa Cha tán thành và trang bị cho Ngài để thi hành nhiệm vụ. Chúa Giêsu chịu ma quỷ thử thách và đã chọn lấy phương pháp phải làm, con đường phải đi. Ngài chọn một số người để có một nhóm nhỏ những tâm hồn đồng lòng hiệp ý nhau, để Ngài có thể viết lên đó những sứ điệp của Ngài. Nếu ai có một sứ điệp của Chúa cần rao giảng, địa điểm tự nhiên người ấy nhắm vào phải là Hội Thánh, là nơi họp mặt những người thuộc về Chúa. Đó chính là việc Chúa Giêsu đã làm, Ngài bắt đầu sứ vụ của mình từ hội đường.
Có vài điểm khác nhau căn bản giữa hội đường và nhà thờ theo chúng ta được biết ngày nay.
(a) Trước hết hội đường là nhà trường để dạy đạo. Một buổi học trong hội đường chỉ gồm ba việc: Cầu nguyện, đọc Lời Chúa và giảng giải Lời ấy. Không có cử nhạc, ca hát, cũng không có dâng của lễ. Có thể nói Đền thờ là nơi thờ phượng và dâng của lễ, còn hội đường là nơi dạy dỗ, chỉ bảo, là chỗ có ảnh hưởng lớn lao hơn hết, vì chỉ có một Đền thờ duy nhất, Đền thờ tại Giêrusalem. Luật quy định rằng bất cứ nơi nào có 10 gia đình Do Thái thì phải có một hội đường, do đó, bất kỳ nơi nào có một nhóm người Do Thái định cư thì có hội đường. Nếu ai đó có một thông điệp mới muốn truyền đạt thì hội đường đúng là nơi để người ấy trình bày.
(b) Hội đường tạo cơ hội cho người ta truyền rao một thông điệp như thế. Hội đường có một số chức sắc. Có ông trưởng hội đường, ông ta có nhiệm vụ quản trị mọi việc và thu xếp các buổi học. Có những người phân phát của bố thí. Hằng ngày có việc thu góp tiền mặt và hiện vật do nhiều người đóng góp, sau đó được phân phát cho người nghèo. Những người nghèo nhất được cấp thực phẩm đủ 14 bữa ăn một tuần. Có vị Chazzan vẫn gọi là người phục vụ. Vị này có nhiệm vụ lấy ra và cất vào những cuốn sách thánh. Vị ấy cũng quét dọn hội đường, thổi kèn (loa bằng bạc) để loan báo ngày sabát, dạy lớp vỡ lòng cho trẻ em trong cộng đồng. Những có một chức vị mà hội đường không có, đó là người rao giảng hay thầy dạy thường xuyên. Khi mọi người họp lại và buổi họp bắt đầu thì người trưởng có nhiệm vụ chỉ định người giảng dạy. Không có người chuyên nghiệp làm việc này. Chính vì thế, Chúa Giêsu có thể bắt đầu sứ vụ của Ngài trong hội đường. Việc chống đối vẫn chưa bùng lên thành thù ghét. Ngài được mọi người biết như một người có một thông điệp muốn rao truyền, do đó, bất cứ hội đường nào của các cộng đồng đều thành tòa giảng cho Ngài dạy dỗ.
Khi Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường, cả phương pháp lẫn bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một mặc khải mới mẻ. Ngài không giảng dạy như các Kinh sư là các chuyên viên về luật. Các Kinh sư này là ai? Theo người Do Thái, điều thiêng liêng nhất trên đời là Luật, Tora. Trái tim của Luật là Mười Điều Răn, nhưng người Do Thái hiểu Luật là năm quyển đầu của Cựu Ước mà họ gọi là Ngũ kinh (Pentateuch). Theo người Do Thái, Luật ấy hoàn toàn từ Đức Chúa Trời đến. Họ tin rằng Luật vốn được Chúa trực tiếp trao cho Môsê, hoàn toàn thánh và có tính cách ràng buộc tuyệt đối. Họ bảo: “Ai nói Tora không từ Chúa đến thì chẳng có phần gì trong thế giới tương lai cả”, “Kẻ nào bảo Môsê đã viết Luật theo hiểu biết của riêng ông, dầu chỉ một câu thôi, cũng là người chối bỏ và khinh khi Lời Chúa”.
Nếu Luật vốn thiêng liêng như thế thì có hai việc nẩy sinh. Một là Luật phải trở thành luật lệ tối cao cho đời sống và đức tin; hai là Luật phải hàm chứa tất cả những gì cần thiết để hướng dẫn, điều khiển đời sống. Nếu vậy, Luật chỉ đòi hỏi hai điều, một là phải được nghiên cứu hết sức tỉ mỉ cẩn thận, hai là Luật chỉ phát biểu những nguyên tắc quan trọng, tổng quát mà thôi. Nếu Luật hàm chứa phần chỉ dẫn và điều khiển cả đời sống, thì những gì chứa đựng trong đó có tính cách mặc nhiên chứ chưa phải là minh nhiên, nên cần được làm cho sáng tỏ. Các điều luật quan trọng phải được biến thành luật lệ và quy tắc, như vậy lý luận mới được khai triển. Nhằm nghiên cứu và khai triển Luật, có một giai cấp học giả, đó là những Kinh sư, các chuyên viên về Luật, danh xưng dành cho những người cao trọng nhất trong họ là Rabi. Các Kinh sư này có ba nhiệm vụ:
(a) Họ căn cứ vào các nguyên tắc đạo đức trọng đại trong Luật để khai triển thành luật lệ và quy tắc hầu ứng dụng cho mọi tình huống có thể xảy ra trong đời sống. Thật đây là một nhiệm vụ không cùng. Do Thái giáo bắt đầu bằng các nguyên tắc đạo đức quan trọng, nhưng kết thúc bằng hằng hà sa số luật lệ và quy tắc. Bắt đầu là một tôn giáo, nhưng kết thúc là chủ nghĩa duy luật.
(b) Nhiệm vụ của các Kinh sư là truyền dạy Luật và khai triển. Các luật lệ và quy tắc lấy ra từ đó và suy diễn ra chẳng bao giờ viết trên giấy trắng mực đen, chúng được gọi là Luật truyền miệng. Tuy chẳng bao giờ được viết ra nhưng chúng lại có tính cách trói buộc hơn cả luật thành văn. Chúng được lưu truyền thuộc lòng từ thế hệ Kinh sư này đến thế hệ Kinh sư khác. Người học trò giỏi là người có trí nhớ giống như “một cái giếng được lót bằng đá vôi không làm mất đi một giọt nước nào cả”.
(c) Sau cùng, các Kinh sư có nhiệm vụ xét xử các vụ kiện tụng mà, mỗi vụ kiện tụng như vậy lại tạo ra những luật lệ mới.
Vậy lời dạy dỗ của Chúa Giêsu khác với các Kinh sư chỗ nào? Ngài giảng dạy có uy quyền. Không có Kinh sư nào dám tự mình quyết định việc gì cả. Ông ta chỉ nói: “Căn cứ theo lời dạy rằng…” rồi lấy từ đó ra tất cả uy quyền cho mình. Hễ nói ra một lời là ông ta dựa vào câu này, câu nọ được ông trích dẫn lại, từ những bậc thày về luật mà thiên hạ đã coi trọng trong quá khứ. Việc cuối cùng mà ông ta chẳng bao giờ làm được là đưa ra một phán đoán cá nhân, độc lập. Thật khác xa với Chúa Giêsu! Khi Chúa phán dạy, Ngài nói như trên Ngài không còn thẩm quyền nào khác. Ngài hoàn toàn độc lập khi phát biểu. Ngài không trích dẫn, không dựa vào uy quyền của một chuyên viên nào cả. Ngài nói bằng giọng dứt khoát của chính Thiên Chúa. Đối với dân chúng, nghe một người giảng dạy như vậy thật chẳng khác gì được một làn gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới. Những lời lẽ hết sức khẳng định và tích cực của Chúa Giêsu trái ngược hẳn lời trích dẫn thận trọng của các Kinh sư. Giọng nói đầy uy quyền cá nhân cứ vang vang, và chính giọng nói ấy đã tác động mọi người.
Chiến thắng đầu tiên đối với các thế lực của ma quỷ (Mc 1,23-28)
Nếu lời Chúa Giêsu khiến dân chúng trong hội đường lấy làm lạ thì việc làm của Ngài càng khiến họ vô cùng kinh ngạc. Trong hội đường có một người bị tà ma ám. Anh ta gây rối và được Chúa Giêsu chữa lành. Qua suốt các sách Phúc Âm, chúng ta vẫn thấy những người bị tà ma và ma quỷ ám như thế. Vậy có gì ẩn sau việc ấy? Người Do Thái, và nói chung cả thế giới thời xưa tin ma quỷ. Hamack nói: “Cả thế giới và cả bầu không khí bao quanh đều đầy dẫy ma quỷ, không phải chỉ có việc thờ ngẫu tượng, mà mọi việc, mọi hình thức của đời sống đều bị chúng cai trị. Chúng ngự trên các ngai vàng, bay lượn trên những chiếc nôi, thật ra thì cả địa cầu là một hỏa ngục”. Tiến sĩ A. Rendle Short kể lại một sự việc chứng tỏ người thời xưa tin ma quỷ mạnh mẽ như thế nào. Trong nhiều nghĩa địa thời xưa người ta tìm thấy những sọ người bị xoi lỗ. Trong một nghĩa địa nọ người ta thấy trong 120 xương sọ có sáu cái bị đục thủng như vậy. Với kỹ thuật giải phẫu giới hạn thời xưa, làm như vậy không phải là chuyện dễ dàng. Hơn nữa, căn cứ vào việc chỗ xương ấy còn phát triển, người ta kết luận rằng chỗ đục ấy được thực hiện lúc người ta kết luận rằng chỗ đục ấy được thực hiện lúc người ta hãy còn sống. Điều cũng rõ ràng là lỗ đục xương sọ nhỏ đến nỗi nó không thể có giá trị điều trị hay giải phẫu nào và người ta biết rằng cái vòng tròn được lấy ra đó thường được đeo vào cổ như một thứ bùa chú. Lý do đục thủng như vậy là để ma quỷ có lối thoát ra khỏi thân thể một người. Nhưng nếu các nhà giải phẫu thời xưa sẵn sàng thực hiện một công cuộc giải phẫu như vậy, và nếu người ta cũng sẵn sàng chịu để cho đục như vậy, thì ta thấy niềm tin vào việc bị ma quỷ ám vốn có thật đến độ nào.
Vậy các ma quỷ ấy từ đâu ra? Có ba giải pháp cho vấn đề này. (1) Có người tin rằng chúng cũng xưa như công cuộc tạo thành trời đất vậy. (2) Có người tin rằng chúng vốn là linh hồn của những kẻ ác đã chết nhưng vẫn tiếp tục làm những công việc gian ác của nó. (3) Phần đông liên kết ma quỷ với câu chuyện xưa chép trong Sáng Thế 6,1-8 (đối chiếu với 2Pr 2,4-5). Người Do Thái phóng đại câu chuyện như thế này: Có hai thiên thần trốn Chúa để xuống địa cầu vì bị sắc đẹp của con gái loài người quyến rũ. Tên họ là Asên và Simsai. Một trong hai thiên thần này quay về với Chúa, còn người kia ở lại thế gian để thỏa mãn tham dục của mình và ma quỷ là hậu duệ từ con cháu vị ấy sanh ra. Từ chỉ ma quỷ Mazzikin có nghĩa là kẻ làm hại. Vậy ma quỷ là các hữu thể thích làm ác trung gian giữa Chúa và loài người, gây tai họa cho loài người.
Theo tin tưởng của dân Do Thái thì ma quỷ có thể ăn uống và sinh con đẻ cái. Chúng đông khủng khiếp. Có người cho rằng có đến bảy triệu rưỡi ma quỷ, một người có thể có một vạn ma quỷ ở bên phải và một vạn ở bên trái. Chúng sống tại những nơi ô uế như mồ mả và những nơi có nước dơ, chúng sống trong sa mạc là nơi người ta có thể nghe tiếng hú của chúng. Chúng đặc biệt nguy hiểm cho các lữ khách cô đơn, phụ nữ có con, các cô dâu, chú rể và cho trẻ con ra ngoài sau khi trời tối và cho những người đi đường ban đêm. Chúng hoạt động đặc biệt trong sức nóng oi ả giữa trưa và giữa thời gian mặt trời lặn và mặt trời mọc lên. Có một con quỷ làm cho người ta đui, một con quỷ gây bệnh phong cùi, một con quỷ gây chứng đau tim. Chúng có thể truyền các khả năng làm ma quỷ của chúng cho người ta nữa. Chẳng hạn ma quỷ có thế biến may thành rủi và mọi người tin rằng của cải là do ma quỷ ban cho họ. Chúng cũng làm việc với một số các loài thú như rắn, bò mộng, lừa và muỗi. Theo Lilith thì quỷ đực gọi là shedim và quỷ cái là lilin. Các quỷ cái có tóc dài và là kẻ thù của con trẻ. Chính vì thế mà trẻ con có các Thiên thần bảo vệ (18,10).
Vấn đề không phải là chúng ta tin hay không tin mọi điều vừa kể, cũng không phải là chuyện ấy có thật hay không. Vấn đề là vào thời Tân Ước, người ta tin như vậy. Ngày nay, chúng ta vẫn nói “đồ quỷ”, đó là di tích của niềm tin cổ xưa. Khi có người tin mình bị ma quỷ ám ảnh thì người ấy “ý thức về mình và về một hữu thể khác ở bên trong thúc đẩy, điều khiển mình”. Điều đó giải thích tại sao những kẻ bị quỷ ám tại Palestine thường kêu to lên khi thấy Chúa Giêsu. Chúng biết dù sao cũng có một số người tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, chúng biết khi Chúa Giêsu trị vì thì ma quỷ bị thanh toán, và kẻ tin rằng chính mình đã bị quỷ ám thì nói như chính con quỷ nói khi gặp Chúa Giêsu. Có nhiều kẻ làm thầy đuổi quỷ, tự xưng là có thể đuổi được quỷ. Việc ấy có thật đến độ vào khoảng năm 340 SCN, Hội Thánh Chúa thật sự có một dòng đuổi quỷ. Nhưng còn một chỗ khác nhau này: thấy đuổi quỷ thông thường của dân Do Thái và dân ngoại thường dùng thần chú, gào thét, và nghi lễ có tính cách ma thuật. Chúa Giêsu đuổi quý ra khỏi người ta chỉ bằng một tiếng phán rõ ràng, đơn giản, ngắn gọn đầy quyền năng. Chưa hề có ai thấy việc như vậy trước đó, quyền năng không tại tiếng gào thét, đọc thần chú hay trong lời kêu khấn vái theo công thức, bằng nghi lễ công phu, nhưng quyền năng vốn có ở trong Chúa Giêsu, cho nên mọi người đều kinh ngạc sững sờ.
77. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúng ta đang ở trong các tuần đầu mùa quanh năm, là phần "nhập đề" giới thiệu các nhân vật chính của Nước Trời, đặc biệt là Chúa Giêsu. Thánh lễ hôm nay đề cập tới thế giá và uy quyền của Chúa Kitô. Chúa Kitô là vị “Đại ngôn sứ " là Môisen đã nhân danh Thiên Chúa báo trước cho dân Israel. Người thực sự là Đấng Messia, nhân danh Thiên Chúa mà đến và chỉ nói những lời của Thiên Chúa mà thôi (Bài đọc 1) Sau này, Chúa Kitô đã tuyên bố đúng như thế (x. Ga 7,10-18). Bởi đó cần tuyệt đối nghe lời Người. Chúa Kitô còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa, mang một cái gì của Thiên Chúa, nên không lạ gì mà khi Người ăn nói, giảng dạy, thì ai nấy đều kinh ngạc về giáo lý của Người "vì Người giảng dạy như Đấng có quyền uy" (Bài Tin mừng). Chính Chúa Giêsu từng nói với Nicôđêmô: "Đấng Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa" (Ga 3,34; x. Ga 14,10). Vì Chúa có uy quyền như vậy và lời Chúa mang một thế giá siêu việt, nên Giáo Hội mượn lời Thánh vịnh mà nhắc nhủ ta: "Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người và đừng cứng lòng nữa" đáp ca: Tv 94,8).
2. “Người ta kinh ngạc về giáo lý của người" (Mc1,22). Ngày nay thì ngược lại: vì nghe và đọc lời Chúa cách vô ý thức cùng bất kính, ta thấy nhàm chán và đôi khi còn ác cảm; đi lễ, gặp các bài đọc Thánh Kinh, các bài giảng hơi dài một chút là đã kêu ca, ngáp ruồi... Bởi đó, mỗi khi cảm thấy chán ngán Lời Chúa, hoặc dửng dưng với giáo lý của Người, thì cần phải xét lại nếp sống của ta, để gạt bỏ những ngăn trở những chướng ngại; đồng thời tạo cho tâm hồn có những tâm tình, khiêm tốn, đơn sơ, ngay thẳng, là những tâm tình rất cần cho việc đón nhận Lời và giáo lý của Chúa; sau cùng, cũng cần phải gắng công tìm hiểu, học hỏi, chứ không phải ngồi đó mà nghe qua, đợi chờ cách thụ động, ươn lười, vô bổ.
3. Bài Tin mừng hôm nay quả là một thánh lễ rút gọn:
c 21. tập họp. Dân chúng quyết định đi tìm Thiên Chúa và đến cùng Ngài, vì bấy lâu nay họ đã sống cách vô thần, xoay vần đổi hướng như chong chóng, bây giờ họ muốn đi tìm thứ hạnh phúc đích thực.
c 22: phung vụ Lời Chúa. Từ thời Abraham, Thiên Chúa đã ngỏ lời và luôn luôn đáp ứng mọi yêu cầu của con người. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa lại dạy dỗ, giải thích...
c 23-24: dâng lễ. Để đáp lại lời đã nghe, con người thưa "xin vâng", tin vào lời Thiên Chúa phán và hiến dâng đời mình cho Ngài. Chúa Giêsu là Đấng duy nhất đã vâng lời Chúa Cha cho đến cùng và như thế đã dâng lên Cha hiến tế duy nhất đẹp lòng Cha. Ở đây người bị quỷ ám đang chiến đấu.
c 25-26: hiệp lễ. Trong khi dâng niềm tin này, lúc mà mọi hy vọng xem ra mất hút trong đêm tối (giải thoát khỏi Ai cập-tử Nạn), Thiên Chúa đã can thiệp và thực hiện kế đồ của ngài. Và quỷ ám đã ra khỏi người kia, để từ đây tâm hồn nên trong sạch.
c. 27-28: sai đi. Nhờ ơn bí tích, Kitô hữu sau khi trở nên người mới được Chúa Cha chúc phúc và Chúa Thánh Thần tuôn đổ ơn lành, trở về với cuộc sống thường nhật với mọi người và quyết dùng cả đời mình để loan láo Tin mừng hầu "danh tiếng Người đồn ra khắp mọi nơi".
78. Suy niệm của Lm. Trọng Hương
1. Đoạn Tin Mừng này mở đầu cho một đơn vị văn chương trải dài từ câu 21 đến c 34, được gọi là "Một ngày ở Caphácnaum", trong đó Marcô liệt kê và mô tả những việc làm tiêu biểu của Chúa Giêsu trong một ngày. Việc thứ nhất là giảng dạy, việc thứ hai là trừ quỷ. Đáng chú ý là Chúa Giêsu làm cả hai việc một cách rất uy quyền.
2. "Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư": Khi giảng dạy, các rabbi do thái phải dựa theo truyền thống cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì lấy chính sứ điệp của mình ra giảng dạy, và Ngài dạy một cách xác tín trong tư cách là Đấng Messia.
3. Và cũng bằng uy quyền đặc biệt ấy, Đức Giêsu làm một hành động phi thường, là buộc quỷ xuất khỏi một người bị nó ám.
4. Phản ứng của dân chúng: "Mọi người sửng sốt và hỏi nhau thế nghĩa là gì": Họ hỏi nhau về nét mới mẻ trong lời giảng của Ngài và về uy quyền đặc biệt của Ngài trên cả tà thần. Câu hỏi này cũng tương đương với câu hỏi "Ông là ai?", là câu hỏi sẽ được lập đi lập lại mãi trong tác phẩm.
1. Mở đầu hoạt động công khai của mình, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là nhằm thuyết phục người ta tin tưởng vào quyền năng của Ngài, quyền năng trong lời giảng dạy và trong hoạt động. Thái độ đầu tiên ta phải có đối với Chúa Giêsu cũng là phải tin tưởng vào quyền năng của Ngài.
2. Nhưng tin tưởng không phải chỉ là tin suông mà còn phải dám phó thác vào Ngài, đừng như câu chuyện sau:
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế la lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: "Lạy Chúa". Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: "Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa." Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: "Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế." "Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất." Tiếng ấy trả lời: "Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra." Người vô thần thất vọng thốt lên: "Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!" (Trích "Món quà giáng sinh")
3. Một bé trai hỏi bố: - Quỉ lớn hơn con không? - Lớn hơn.
- Quỉ lớn hơn bố không? - Lớn hơn.
- Quỉ lớn hơn Chúa Giêsu không? - Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỉ.
Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười: "Vậy con không sợ quỉ." (Góp nhặt)
30/01 Chúa Giêsu quyền năng
- Viết bởi Mc 4, 35-41
Chúa Giêsu quyền năng.
Thứ Bảy tuần 3 thường niên.
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
LỜI CHÚA: Mc 4, 35-41
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người.
Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?"
Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tại sao anh em sợ?
Suy niệm:
Chẳng hiểu tại sao lúc chiều xuống,
Đức Giêsu lại bảo các môn đệ đưa mình qua bờ phía đông của Biển hồ,
trên con thuyền mà Ngài ngồi giảng các dụ ngôn (Mc 4,1).
Do địa thế đặc biệt, hồ Galilê hay có những trận cuồng phong ập đến bất chợt,
tạo ra những cơn bão lớn trên sóng nước.
Tối hôm ấy, thầy trò đã gặp một cơn bão như vậy.
Thầy Giêsu phó thác mọi sự cho các môn đệ vốn là ngư phủ lành nghề.
Thầy mệt nên ngủ say ở đuôi thuyền, ngủ trên một cái gối.
Trong khi đó các môn đệ phải vật lộn với sóng gió, nước tràn đầy thuyền.
Họ có vẻ mất bình tĩnh khi thấy cơn giông bão không đánh thức Thầy được.
Chính họ đánh thức Thầy bằng một lời trách móc:
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” (c.38).
Thầy Giêsu đã thức dậy, và đã làm cho biển lặng, gió yên.
Đời con người ai tránh được sóng gió bất chợt.
Nếu biết trước sẽ gặp sóng gió, ai dám vượt biến ban đêm.
Sóng gió xảy ra trong đời riêng của mỗi người, trong gia đình,
trong đất nước, trong Giáo Hội, trên thế giới.
Sóng gió làm ta thấy mình con thuyền đời mình chòng chành, mong manh,
và khiến ta sợ hãi, hoảng loạn.
Giữa cơn sóng gió có khi người tín hữu lại thấy Chúa lạnh lùng, vô cảm.
Như các môn đệ, chúng ta không hiểu tại sao Chúa có thể ngủ được
khi đời ta bị đe dọa bởi cuồng phong,
tại sao Chúa vắng mặt, thinh lặng và khoanh tay
vào lúc chúng ta cần đến Ngài hơn cả.
“Tại sao anh em sợ? Anh em không có lòng tin sao?” (c.40).
Anh em không tin là Thầy đang ở trong cùng một con thuyền với anh em sao?
Lẽ ra chúng ta phải cảm thấy yên tâm
khi nhìn Chúa ngủ giấc ngủ tín thác của trẻ thơ ngay giữa cơn giông bão.
Nhìn Chúa ngủ bình an, chúng ta hiểu rằng chẳng có gì đáng sợ.
Vâng lời Chúa để qua bờ bên kia, và có Chúa trong con thuyền đời mình,
điều đó không làm chúng ta tránh được giông bão,
có khi lại gặp bão tố nhiều hơn.
Nhưng điều chắc chắn là chúng ta sẽ qua được bờ bên kia
với lòng tin được tôi luyện của người tín hữu dày dạn.
Chúng ta dám tin Chúa có quyền trên sóng gió của đời ta không?
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: CHƯA CÓ LÒNG TIN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Biển khơi là một sức mạnh đáng sợ. Nhất là khi biển nổi sóng gió. Các môn đệ sợ hãi là bình thường. Tại sao Chúa mắng các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao”. Vì đã trải qua nhiều sự kiện như phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giê-su đi trên mặt nước. Tất cả chứng tỏ Chúa làm chủ vật chất. Là Chúa Tể muôn loài. Đã được chứng kiến những phép lạ như thế mà các ông vẫn còn chưa có lòng tin. Đó là điều khiến Chúa buồn. Và hôm nay nữa. Sau khi Chúa quát mắng “ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”. Thế mà các ông vẫn chưa nhận biết Chúa. Lại còn thắc mắc hỏi nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Chẳng sánh được với tổ phụ Áp-ra-ham. Luôn tin tưởng nơi Chúa. Tin vào lời Chúa hứa cho một miền đất chảy sữa và mật. Nên sẵn sàng ra đi. “Ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu”. Tin vào lời Chúa hứa cho một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. nên “bà Xa-ra, vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín”. “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa”. Dám sát tế I-xa-ác, đứa con duy nhất. “Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy”. Quả là một đức tin lớn lao. Trọn vẹn. Không lay chuyển (năm lẻ).
Có lẽ Đa-vít gần gũi với ta hơn. Vì tuy tin Chúa. Nhưng có lúc yếu đuối mất đức tin. Ông đã cư xử như người không có đức tin. Đã chiếm đoạt vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết ông này nữa. Nhưng khi được tiên tri Na-than cảnh tỉnh, ông đã ăn năn sám hối. Ông chấp nhận những hình phạt của Chúa với tinh thần sám hối, vâng phục sâu xa. “Đa-vít nói với ông Na-than: “Tôi đắc tội với Đức Chúa”. Ông đã biểu lộ đức tin sâu xa. Khi đứa trẻ bị bệnh nặng, “Vua Đa-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất”. Cũng như Áp-ra-ham, vua Đa-vít tin tưởng, dù không hi vọng gì. Đó cũng là một đức tin lớn lao (năm chẵn).
Xin cho chúng ta có một đức tin vững vàng vì “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hi vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Để ta an vui sống giữa dòng đời đầy biến động thăng trầm này.
Suy Niệm 3: Sóng gió cuộc đời
Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.
Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.
Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.
Ước gì chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ: Thiên Chúa không để chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Một thế giới thù địch và đầy biến động
Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng đi theo Người. Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. (Mc. 4, 35-37)
Tôi mượn lời một bài ca của John Littleton làm đầu đề cho bài suy niệm này, bởi vì hai phẩm tính trên đây giải thích khá rõ kinh nghiệm các môn đệ Chúa đã sống ở trên Biển Hồ, buổi chiều hôm đó.
Một thế giới thù địch
Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió có thể được nhìn ở hai bình diện: biểu tượng và mô tả. Về mặt biểu tượng thì biển động là hình ảnh tượng trưng cho những thế lực chống đối Thiên Chúa. Đó là hình ảnh nói lên mối thù địch giữa dòng dõi những kẻ bất phục tùng Thiên Chúa và chính Thiên Chúa. Do đó trên bình diện này, việc Đức Kitô dùng quyền năng dẹp yên sóng gió là dấu chỉ không những Người làm chủ các mãnh lực thiên nhiên và vũ trụ, mà nhất là Người có quyền năng trừ quỷ, bá chủ các thế lực bất phục tùng và sức mạnh của tội lỗi.
Thế nên các Tông đồ cũng giống như các người Pharisiêu thường đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Vậy người này là ai mà có quyền tha tội, chữa lành bệnh? Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?
Còn chúng ta, chúng ta có tin tưởng vào Đức Kitô này không? Người là Đấng Cứu chuộc có khả năng trấn áp và cứu chuộc chúng ta khỏi mọi thế lực địch thù, ta có tin tưởng vào Người không?
Một thế giới đầy biến động
Về mặt mô tả, câu chuyện này cũng tra vấn cuộc đời của ta. Cuộc hành trình vượt biển này mô tả khá rõ cuộc sống đời thường của ta.
Sau một ngày vất vả với đám đông, Chúa Giêsu cảm thấy mệt mỏi và muốn tìm được nghỉ ngơi yên tĩnh và thân tình: “Người ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ”.
Chính lúc đó, một trận cuồng phong nổi lên, và sóng ập vào thuyền. Phải chăng là một trận cuồng phong quá lớn? Có lẽ không, vì Chúa Giêsu dầu sao vẫn ngủ được, nhưng cơn biển động này làm cho các người vượt biển phải bất an.
Mỗi ngày, ta xao xuyến lo âu vì thế giới biến đọng: những vụ đình công, những cảnh cướp đọat, những tai nạn, nếp sống cuồng lọan, những cuộc biểu tình… Chúng ta như đang ở trong thuyền, có Chúa Giêsu ở đó, nhưng Người đang ngủ.
Phải chăng chúng ta không nghe lời Chúa phán với Mác-ta khi cô quá lo lắng cho bữa ăn tối: “Mác-ta còn lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá!” Chỉ có một chuyện cần thiết, đó là Thầy đang ở đây… mặc dầu Thầy đang ngủ…
Gần Đức Giêsu, con người không có quyền sợ hãi, mất lòng tin tưởng.
Suy Niệm 5: CÓ CHÚA SẼ BÌNH AN (Mc 4,35-41)
Trong một trại tù nọ, người ta nhận thấy có một vị giám mục khoảng ngoài 60 tuổi. Họ thấy ngài rất bình an và vui tươi, mặc dù bản án dành cho ngài là bất công, và hình khổ mà ngài phải chịu quả là đớn đau.
Khi được hỏi: “Thưa đức cha, tại sao đức cha bình an đến như vậy? Người ta bỏ vạ, vu khống đức cha mà đức cha vẫn vui tươi??” Đức cha trả lời rằng: “Thưa, tôi làm gì và ở đâu đều có Chúa. có Chúa là niềm vui và bình an. Hạnh phúc của đời người là khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa và được sống với Ngài. Tôi được sống với Ngài và trong Ngài, lẽ nào tôi không vui!”.
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu và các môn đệ đang trèo thuyền sang bờ bên kia. Đang khi thuyền ra giữa biển thì bị trận cuồng phong ập tới, khiến thuyền của họ đầy nước và có nguy cơ chìm. Các môn đệ thi nhau tát nước và trèo trống... Đến khi họ không còn trụ nổi nữa, lúc đó, họ gọi Đức Giêsu và trách móc Ngài: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”. Đức Giêsu liền thức dạy và ngăm đe gió, tức thì thuyền yên biển lặng. Mọi người ngỡ ngàng và thốt lên: “Ông này là ai mà gió và biển cũng phải tuân lệnh?”
Trong hành trình theo Chúa, có nhiều lúc chúng ta gặp phải những thử thách gian nan, những đêm tối đức tin, làm cho chúng ta hoang mang! Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng: trong con thuyền cuộc đời của mỗi người luôn có Chúa ở cùng, điều quan trọng là chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Chúa hay không? Nếu chúng ta nhận ra Chúa có mặt thì hẳn tất cả những điều nghịch cảnh đến với ta, ta không hoang mang, hốt hoảng như các môn đệ của Ngài khi xưa, ngược lại, chúng ta khám phá ra giá trị và ý nghĩa của nó, lúc đó, chúng ta sẽ vui tươi và bình an ngay trong những thử thách của cuộc đời, vì có Chúa là có tất cả.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin vào Chúa. Xin cho chúng con biết Chúa quyền năng để chúng con nương tựa vào Chúa trong mọi nơi, mọi lúc của cuộc đời chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Gióp là một người công chính, ngay thẳng, thế nhưng ông đã gặp biết bao thử thách trong đời… Gióp đã có lúc mất hy vọng:
“Tôi thừa hưởng, những tháng ngày tuyệt vọng. Ngả lưng nằm, tôi thầm nhủ: Khi nào trời sáng đây? Vừa thức giấc, tôi đã lại hỏi: Khi nào trời lại tối?... Và ngày qua ngày: Một ngày đời tôi, thấm thoắt hơn thoi đưa, và tàn lụi không hy vọng” (G 7,4.6).
“Từ cơn dông tố” của cuộc đời Gióp và giữa những phát biểu nhân sinh quan để giải thích sự đau khổ theo lý thuyết suông, dựa trên tư tưởng của con người, Thiên Chúa đã nói với Gióp: Trong những đau khổ, những sự việc khó hiểu và bí ẩn của một cuộc đời, hãy luôn xác tín vào Thiên Chúa, Ngài là chủ vũ trụ vạn vật, Ngài hiển trị trên tất cả, Ngài sẽ dẹp tan mọi sóng gió của cuộc đời như Lời Ngài ra lệnh với nỗi khổ của Gióp: “Vỗ sóng ba đào cũng phải dừng tại đây” (G 38,11).
Những gì Gióp trải qua, Thiên Chúa mời gọi ông hãy tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Người! Thật thế, Gióp đã tín thác vào sự cứu giúp của Thiên Chúa như Thánh Vịnh đã phác họa: Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng (x. Tv 23,4). Niềm tin của ông, của Vịnh Gia cũng là niềm tin và hy vọng của mỗi người chúng ta khi vượt qua biển đời đầy sóng gió…
Suy niệm
Trong Kinh Thánh, gió và biển luôn tượng trưng cho náo loạn và sự dữ, luôn đối nghịch với Thiên Chúa.
“Chiều tối đến” thuyền vẫn lướt sóng để mong về đến bến. “Chiều tối đến”, không chỉ là màn đêm buông xuống, mà còn là “giờ của bóng tối”, giờ của thử thách (x. Mc 14,17; Ga 9,4-13.30) của cuồng phong nổi lên. Bão táp với những cơn sóng nhấp nhô như muốn nhấn chìm con thuyền, mọi người đều cố gắng chống chọi với cơn phong ba mà lòng đầy sợ hãi.
Thầy đâu rồi, Thầy đâu rồi,… “Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ” (Mc 4,38a). “Đức Kitô ngủ”, hình ảnh phác họa như là Thiên Chúa bỏ mặc con người trước phong ba bão tố cuộc đời, “Ngài ngủ” như là hình ảnh bất lực của Thiên Chúa giữa những tuyệt vọng, đau khổ của con người, hình ảnh bất lực của Thiên Chúa trước sự dữ.
“Trỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ”. Ngài trỗi dậy từ giấc ngủ và Ngài chế ngự mọi sóng gió phong ba.
Vượt biển đời, Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh tôi và bạn ngay cả khi bình an hay chúng ta vất vả lao đao giữa giông tố ngoài biển khơi. Trong bão tố phong ba đâu là thái độ của chúng ta:
Như các tông đồ, chúng ta đánh thức Ngài trỗi dậy để xin Ngài xin cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất.
Hay chính chúng ta lại hốt hoảng, tuyệt vọng trước sóng gió biển đời và buông xuôi tất cả để cho thuyền bị phong ba nhấn chìm vì không cố gắng tìm kiếm sự hiện diện của Ngài.
Nỗi sợ hãi làm chúng ta quên sự hiện diện và quyền năng của Ngài.
Giữa sóng gió bão tố cuộc đời, con luôn vững tin và hy vọng, chính vì tin vào Ngài làm nên sức mạnh khiến con có thể đứng vững trước tất cả mọi giông tố cuộc đời.
Ý lực sống:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân” (Tv 107,13).
Suy Niệm 7: Chúa dẹp yên sóng gió
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1 Sau một loạt bài nói về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, hôm nay thánh Marcô kể lại cho chúng ta phép lạ Chúa dẹp yên sóng gió trên biển cả. Chúa Giêsu ngồi trên thuyền giảng dạy dân chúng. Giảng xong, Người bảo các môn đệ chèo thuyền qua biển hồ Tibêriat mà sang miền Ghêrasa... Bỗng cơn bão lớn nổi lên, sóng tạt nước vào thuyền sắp chìm. Các môn đệ sợ hãi, còn Chúa thì nằm ngủ ở sau lái. Các ông vội vã đánh thức Người và nói: “Thầy ơi! Chúng ta chết mất”. Người chỗi dậy truyền khiến sóng gió yên lặng, rồi bảo các ông: “Sao anh em nhát đảm quá! Anh em chưa tin Thầy sao”? Còn các ông thì khiếp vía hỏi nhau: Người là ai mà sóng gió phải vâng phục Người?
2. Biển hồ Tibêriat này cũng có tên gọi là Galilê. Biển có chiều dài 21 km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibêriat là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thế, biển Tibêriat hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.
3. Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một Đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo, nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai”? Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của người đương thời. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.
Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi lo sợ, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).
4. Đường lối sư phạm của Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhắm giúp chúng ta tin tưởng rằng trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ. Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xẩy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.
5. Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngả tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ: “Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao”?
Một vị hoàng đế bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế! Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm sao cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao! Thánh vịnh đã nói:
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng
Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.
Họ vui mừng vì trời yên bể lặng
Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ. (Tv 107,29-30)
6. Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chông chênh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người Cha lái con tầu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của Người Cha trên trời. Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được sức mạnh. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
7. Truyện: Cha tôi cầm lái con tầu.
Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố âm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra cả.
Lạ lùng, một thủy thủ dương to đôi mắt hỏi em:
- Em không sợ chết sao?
Cậu bé thản nhiên trả lời:
- Sao lại sợ? Chính ba em cầm lái con tầu này mà!
29/01 Nước Thiên Chúa phát triển
- Viết bởi Mc 4, 26-34
Nước Thiên Chúa phát triển.
Thứ Sáu tuần 3 thường niên.
"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết".
LỜI CHÚA: Mc 4, 26-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
Người còn phán: "Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được".
Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tuỳ sức họ có thể hiểu được, và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Bông lúa trĩu hạt
Suy niệm:
Một người có cái nhìn bi quan về Hội Thánh
chắc sẽ tìm được nhiều dữ kiện để chứng minh.
Tại một số nước phương Tây, có nhiều nhà thờ vắng người,
chủng viện thiếu chủng sinh, tập viện tạm đóng cửa.
Kitô hữu càng lúc càng chiếm tỉ lệ nhỏ
trong tổng số dân trên thế giới.
Có những khủng hoảng đức tin trong giới trẻ.
Người ta tự hỏi Hội Thánh đã lỗi thời chưa.
Có cần phải tin vào Ðức Kitô nữa không?
Vào thời thánh Máccô viết sách Tin Mừng,
cũng có những Kitô hữu bi quan về Hội Thánh.
Hội Thánh ở Rôma chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi
chịu bách hại dưới ách của bạo chúa Nêrô.
Liệu Hội Thánh có tồn tại và phát triển không
dưới sức mạnh hùng hậu của đế quốc?
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta niềm lạc quan.
Ðó là hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa,
cũng là hai dụ ngôn về hạt giống.
Trong dụ ngôn thứ nhất, hạt giống được gieo xuống đất
là bắt đầu nảy mầm và lớn lên,
theo một tiến trình không gì ngăn cản nổi.
Trước hết mọc lên thành cây lúa, rồi trổ đòng đòng
và sau cùng thành bông lúa trĩu hạt.
Tự nó, hạt giống mang một sức sống mạnh mẽ.
Nó lớn lên cả đêm lẫn ngày,
chẳng cần con người can thiệp.
Có cái gì mầu nhiệm trong sự tăng trưởng này
khiến chính người gieo cũng không sao hiểu nổi.
Một cách âm thầm, chậm rãi nhưng vững vàng,
hạt lúa đạt đến kết quả mỹ mãn.
Dụ ngôn thứ hai lại cho thấy một sự tương phản.
Nước Thiên Chúa như một hạt cải nhỏ xíu,
vậy mà theo thời gian, nó mọc lên thành cây,
và cây này lớn hơn mọi thứ cây cỏ khác.
Hạt bé nhất lại cho cây lớn nhất.
Nước Trời khởi đầu bằng Ðức Giêsu
và một nhóm nhỏ môn đệ làm nghề chài lưới.
Sau hai mươi thế kỷ,
Kitô giáo đã lan khắp thế giới, đến với mọi dân tộc.
Tuy nhiên, Nước Trời chỉ đến trọn vẹn vào ngày cánh chung.
Thái độ ta phải có là kiên nhẫn chờ đợi.
Hạt giống nào cũng phải vùi sâu dưới đất,
và phải đương đầu với những khó khăn khi thành cây.
Có lúc ta thấy nó như bị chững lại hay suy thoái.
Có lúc ta sợ nó không đứng vững trước bão bùng.
Ðây là lúc ta phải sống niềm tin:
tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Ngài đến thành tựu,
bất chấp những khiếm khuyết và cản trở của con người.
Ðừng nản chí mà ngừng gieo vãi hạt giống Lời Chúa,
dù nhiều khi chúng ta không thấy hạt giống lớn lên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: HẠT GIỐNG TỰ MỌC
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nước Thiên Chúa là công trình của Thiên Chúa. Không phải của con người. Như hạt giống tự mọc. Người gieo rồi về nằm ngủ. Hạt giống nảy mầm và mọc lên thế nào, không ai biết. Người gieo chỉ biết gieo và vun trồng. Nhưng không thể làm cho hạt giống nảy mầm và mọc lên. Vì đó là việc của Thiên Chúa. Việc Thiên Chúa làm rất khác với việc của con người. Như hạt cải gieo trong vườn. Khi gieo xuống là hạt bé nhỏ nhất. Chịu vùi lấp dưới lòng đất. Chịu huỷ hoại đi. Mất cả hình dáng. Nhưng khi mọc lên lại thành cây cao lớn, cành lá xum xuê. Đến nỗi chim trời đến trú ẩn.
Giáo hội, hình ảnh hữu hình của Nước Thiên Chúa, đã từng trải qua kinh nghiệm hạt giống tự mọc. Khởi đầu Giáo hội rất bé nhỏ. Nghèo hèn. Bị khinh miệt. Và bị bách hại. Tưởng như bị tận diệt. Điều đó khiến nhiều người chán nản. Nhưng thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy tin tưởng vào lời Chúa hứa. “Xin anh em nhớ lại những ngày đầu: lúc vừa được ơn chiếu sáng, anh em đã phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập. Khi thì anh em bị sỉ nhục và hành hạ trước mặt mọi người, khi thì phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải…Anh em cần phải kiên nhẫn, để sau khi thi hành ý Thiên Chúa, anh em được hưởng điều Người đã hứa” (năm lẻ).
Có khi đau khổ yếu đuối đến từ chính bản thân. Như trường hợp Đa-vít. Ông vóc người bé nhỏ. Nhưng phạm phải những lỗi lầm lớn lao. Cướp vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết U-ri-gia. Chúa trừng phạt ông vì tội lỗi của ông. Nhưng Chúa vẫn trung tín giữ lời hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Cho Đấng Cứu Thế sinh bởi dòng dõi ông. Cho thấy đó là kế hoạch của Thiên Chúa. Đó là quyền năng của Thiên Chúa. Đó là lòng thương xót của Thiên Chúa (năm chẵn).
Hạt giống tự mọc. Vì thế tôi phải biết khiêm nhường nhận biết mình yếu hèn kém cỏi. Hạt giống tự mọc. Tôi không nản lòng khi sự ác có vẻ thắng thế, lấn át sự thiện. Hạt giống tự mọc. Tôi kiên trì khi những chương trình mục vụ truyền giáo thất bại, Hạt giống tự mọc. Tôi xin Chúa tha thứ những lỗi lầm của bản thân. Hạt giống tự mọc. Tôi vững tin rằng sau khi gặp nhiều thử thách thất bại Nước Chúa sẽ lớn mạnh. Trở thành nơi cho mọi người nương ẩn.
Suy Niệm 3: Hạt giống, hạt cải
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nẩy sinh thành cây, rồi thành bông lúc. Như người dân Palestina, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Chúa Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo Hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tối đo, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn. Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của thánh Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mêsia. Cho đến lúc này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo Hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.
Hạt giống đã trải qua một quá trình phát triển âm thầm trước khi tới mùa gặt; hạt cải được trồng dưới đất cũng phải trải qua một quá trình cho đến khi trở thành một cây lớn. Trong những bổn phận dù âm thầm hằng ngày, chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa, chính Ngài sẽ làm cho công việc chúng ta thực hiện theo ý Chúa đạt tới kết quả vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, và như vậy chúng ta sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa.
Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Vấn đề thân cận
Người nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bắng cách nào thì người ấy không biết.” (Mc. 4. 26-27)
Phúc âm hôm nay lấy chủ đề là việc gieo giống. Nhưng những lời lẽ được dùng lại vang lên những âm điệu mới lạ đáng chúng ta quan tâm suy nghĩ: mầu nhiệm Đức Kitô có một sức mạnh âm thầm hằng thúc đẩy để mầu nhiệm ấy được thực hiện trọn vẹn; dầu có tính cách mong manh, mầu nhiệm ấy vẫn có một sức mạnh vô địch; sau cùng lòng gắn bó hoặc tin cậy vào Chúa Giêsu giúp ta hiểu biết đầy đủ về mầu nhiệm này.
Một sức mạnh âm thầm
Mỗi ngày ta khó nhọc vất vả gieo hạt giống Nước Trời, mong cho Nước Chúa trị đến. Nào là: kinh lễ, hội họp, thảo luận, phục vụ, thăm viếng tình nghĩa, dạy giáo lý, hoạt động nghề nghiệp, săn sóc bệnh nhân, dạy học, làm việc chân tay… Chúng ta tin rằng thực hiện một trong những công việc kể trên là làm cho chúng ta sống mầu nhiệm phục sinh, là đưa mọi loài thụ tạo đến sự phục hồi. Ta tin nhưng mắt không nhìn thấy gì cả. Những kết quả công khó của ta thường âm thầm kín đáo. Chúng ta phải khiêm tốn và có khi phải cay đắng chấp nhận những giới hạn của thân phận con người.
“Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như …”, Chúa Kitô nói với chúng ta như vậy mà, …
Ta hãy kiên nhẫn và tin tưởng!
Một sức mạnh vô địch
Chúa còn kể dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải, để ta thêm vững lòng. Thực vậy, Chúa đặt đối chọi nhau hai sự thể: một bên là cái mong manh bé nhỏ, bên kia lại là những kết quả to lớn đạt được. “Cây cải mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Chúng ta không thường sống sự tương phản này sao, sự tương phản giữa một bên là những dấu chỉ mong manh, còn bên kia là những kết quả to lớn đạt được? Tất cả đời sống bí tích chỉ là việc xử dụng một loại hạt giống nhỏ nhất để rồi hạt giống đó trở thành một dấu chỉ sinh ân sủng vô vàn của Chúa.
Chỉ có ai yêu mến mới hiểu được
Sau cùng, những dụ ngôn này kết thúc với lời ghi nhận rằng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Chúa Giêsu giải nghĩa hết cho các Tông đồ. Sự gắn bó, gần gũi với Chúa giúp ta tiến tới Người vượt xa mức bình thường mà quần chúng có thể tiếp cận được, bởi vì xét cho cùng người ta chỉ có thể hiểu biết rõ được một người khi ta yêu mến người đó.
Suy Niệm 5: MUỐN ĐƯỢC CỨU ĐỘ, PHẢI KIÊN TRÌ (Mc 4, 26-34)
Trong thời đại kinh tế thị trường, khái niệm “ăn sổi ở thì” rất quen thuộc. Quen đến độ đi đâu người ta cũng thích nhanh. Ăn gì cũng muốn có ngay. Làm gì cũng muốn thành công tức thời!
Sống trong thời đại chóng vánh như thế, con người luôn luôn bị đối diện với sự đổi thay, phải trái, trắng đen... từ thực tế cuộc sống, con người cũng phỏng chiếu đời sống tâm linh của mình theo khuôn mẫu đó.
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu dùng dụ ngôn để rao giảng về Nước Trời. Nước Trời được ví như chuyện người gieo hạt giống, dù đêm hay ngày, người đó cứ gieo, hạt giống mọc lên lúc nào tùy ý, chỉ biết rằng, đến mùa là Chủ đi gặt lúa về. Đức Giêsu còn nói đến Nước Trời được ví như hạt cải nhỏ tý teo, nhưng khi gieo xuống, nó lớn mạnh đến nỗi chim trời đến làm tổ...
Qua hai dụ ngôn đó, Đức Giêsu cho thấy: trước tiên, Thiên Chúa là Đấng luôn kiên trì như người gieo giống. Người không trần trừ, không đòi hỏi... Người cứ gieo và kiên nhẫn chờ đợi. Tiếp theo, Nước Thiên Chúa lúc ban đầu thì khiêm tốn, nhỏ nhoi, nhưng với thời gian và ân sủng, nước ấy lớn mạnh đến phi thường.
Trong đời sống đức tin, nhiều khi chúng ta bị thử thách trong đêm tối! Có những điều chúng ta xin Chúa mà mãi không được, làm cho mình mất đức tin hay đức tin bị lung lay.
Tuy nhiên, chúng ta nhớ một chân lý muôn đời rằng: lửa thử vàng, gian nan thứ đức. Có cố gắng, kiên trì thì khi thành công mới thấy được ý nghĩa. Cũng vậy, đời sống đức tin cần phải được thanh luyện bằng sự kiên trì, trung thành và cố gắng, thì mới thực sự có giá trị cứu chuộc. Ơn cứu độ không đến như chuyện “ăn sổi ở thì” mà con người vẫn quan niệm.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa vì hôm nay Chúa dạy cho chúng con bài học về sự kiên trì, nhẫn nại, hy sinh. Xin Chúa ban cho chúng con biết trung thành với Chúa để được cứu độ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Dụ ngôn về nước Trời
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Nhà tâm lý học Weldon cho rằng, hạt giống kỳ lạ nhất thế giới là hạt giống của một giống tre bên Trung Quốc. Hạt giống nằm yên dưới lòng đất đến 5 năm, rồi mới nhú chồi non lên mặt đất. Suốt thời gian 5 năm này, người trồng phải vất vả chăm sóc tre, nào là tưới nước, nào là bón phân, mà họ không hề nhìn thấy hệ thống rễ phức tạp đang sinh sôi lan tràn trong lòng đất.
Cuối cùng, một sự sống đã vươn lên đầy kinh ngạc: Chỉ trong 6 tuần sau khi nhú lên khỏi mặt đất, cây tre đã mọc cao lên gần 3 mét... Một sức sống mãnh liệt đã vươn lên mạnh mẽ nhờ hệ thống rễ được nuôi dưỡng 5 năm trong lòng đất, chính những hệ thống rễ này tiếp sức cho mầm non để nó có thể tăng trưởng một cách mau chóng thần kỳ…
Hạt giống của cây tre lạ kỳ này lớn mạnh đầy sức sống gợi cho chúng ta hình ảnh của hạt giống nước Trời: Hạt gieo vào lòng đất được nuôi dưỡng bởi đất, nảy mầm và lớn lên với thời gian. Hạt giống nước Trời sẽ trưởng thành như là hạt cải - “hạt bé nhất” nhưng khi nảy mầm và lớn lên lại thành cây lớn nhất trong các loại rau. Nước Trời được khởi đầu rất nhỏ bé là Chúa Giêsu cùng nhóm nhỏ môn đệ. Sau 20 thế kỷ, Kitô giáo đã lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc…
Suy niệm
Tin Mừng theo thánh Máccô 4,26-34 thuật lại việc Chúa Giêsu giảng dạy về nước Trời qua hai dụ ngôn:
Dụ ngôn thứ nhất: Nước Thiên Chúa ví như một hạt lúa được gieo vào lòng đất tự nó nảy mầm, thành cây và trổ bông nặng trĩu hạt lúa mới cho mùa gặt bội thu (Mc 4,26-29). Trong ngữ cảnh so sánh với nước Thiên Chúa, hạt giống ẩn giấu và tiệm tiến trong sự quan phòng của Thiên Chúa cho nước Trời, không gì ngăn cản được, theo một tiến trình đưa hạt giống lớn lên cả đêm lẫn ngày để đạt tăng trưởng hoàn toàn.
Dụ ngôn thứ hai: Nước Thiên Chúa giống như hạt cải bé nhỏ, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng (Mc 4,30-32).
Cây cải ở xứ Palestine khác với cây rau cải ở Việt Nam. Ở xứ Palestine hạt cải mọc lên thành cây to đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn. Dụ ngôn cho thấy một sự tương phản về nước Thiên Chúa: Ban đầu như một hạt cải nhỏ xíu, theo thời gian mọc lên thành cây và cây này lớn hơn mọi thứ rau khác.
Qua hai dụ ngôn, dụ ngôn đầu tiên: Hạt giống tự nảy mầm mang lời kêu gọi cần có lòng trông cậy. Mặc dù hạt giống bị tiêu mất đi, nhưng đất màu mỡ đã cho nó hoa màu gấp trăm khi nảy mầm sinh hoa kết trái. Mặc dù gặp bao nhiêu thất bại, nước Chúa chắc chắn sẽ thành công. Dụ ngôn thứ hai: Hạt cải lớn thành cây đã minh họa sự tăng trưởng của nước Trời theo chiều rộng.
Cả hai dụ ngôn mang ý nghĩa: Nước Trời phát triển nhờ hoạt động và lời rao giảng của Đức Giêsu dù khiêm nhường, nhỏ bé và cộng đoàn các môn đệ của Ngài là Giáo hội. Và dù có yếu đuối, thất bại, thì tất cả đều đang tham gia vào thành tựu vẻ vang của một công trình tràn đầy sức sống và khi tới giai đoạn chung cuộc với sự phát triển toàn diện.
Thật thế, như hạt giống ngày đêm không ngừng lớn lên, ước chi những khó khăn không làm con chùn bước. Trước dễ dãi, thành công cũng không làm chúng con ngủ quên... Nhưng sẽ là hạt giống không ngừng lớn lên thành cây cao bóng cả...
Ý lực sống:
“Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên.
Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả,
nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1Cr 3,6-7).
Suy Niệm 7: Dụ ngôn hạt cải
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn để nói về Nước Trời. Chúa ví Nước Trời như hạt giống được gieo xuống đất. Nó tự mọc lên rồi trổ bông sinh trái, người gieo giống không hay biết gì hết. Còn dụ ngôn hạt cải nói lên sức phát triển mạnh mẽ của nó. Hạt cải là loại hạt nhỏ bé nhất trong các hạt giống nhưng khi nó mọc lên nó sẽ thành cây lớn đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn dưới bóng nó được. Đức Giêsu dùng hai dụ ngôn này để ví với Hội thánh. Lúc đầu chỉ có ít người tin theo, nhưng dần dần, Hội thánh sẽ lan rộng khắp nơi, làm chốn nương tựa cho mọi người được hạnh phúc và được rỗi.
2. Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nảy sinh thành cây, rồi thành bông trái. Như người dân Palestine, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Đức Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Đức Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tột độ, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
3. Đức Giêsu sánh ví Nước Thiên Chúa như hạt cải. Dụ ngôn này cho thấy vẻ tương phản rõ rệt giữa một bên là sự nhỏ bé, vô nghĩa lúc ban đầu, và bên kia là kết quả cuối cùng lại phong phú không ngờ. Chúng ta nên nhớ: cây cải ở xứ Palestine khác với cây cải ở xứ ta. Ở Palestine hạt cải mọc lên thành cây to đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn.
Ông Thompson trong cuốn “Xứ thánh và Kinh thánh” đã viết: ”Tôi đã thấy cây này trong cánh đồng phì nhiêu ở Akka, nó cao bằng con ngựa và người cưỡi ngựa. Với sự giúp đỡ của người hướng dẫn, tôi đã nhổ được một cây cao hơn 4 mét”
Ví dụ này của Đức Giêsu không thổi phồng sự thật chút nào. Người ta vẫn thấy những loại cải hay cây cải to như vậy có bầy chim bu quanh, vì chim thích những hạt cải đen nên chúng đậu trên cây để ăn. Vì thế, Đức Giêsu mới nói rằng Nước Ngài giống như hạt cải lớn lên thành cây.
4. Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn.
Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Messia. Cho đến lúc này, hành vi của Đức Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.
5. Qua bài Tin Mừng này, chúng ta hãy tin tưởng vào sức phát triển của Nước Thiên Chúa. Nước Chúa vẫn âm thầm phát triển, nhưng Chúa cũng cần chúng ta góp phần vào, dù ít dù nhiều như thánh Phaolô đã nói: ”Tôi trồng, Apollô tưới, nhưng chính Thiên Chúa cho mọc lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả. Nhưng Thiên Chúa Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể” (1Cr 3,6-7). Nếu chúng ta biết nghĩ như thánh Phaolô thì chúng ta không còn ngại gieo hạt giống Nước Chúa, cũng không vội ngã lòng khi thấy công gieo vãi của mình chưa sinh kết quả.
6. Truyện: Giải đáp ba thắc mắc.
Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người bên lương nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi:
- Anh em có thắc mắc gì không?
Một người đưa tay đặt câu hỏi:
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có tin Đức Mẹ Đồng trinh không?
- Có.
Câu hỏi thứ hai: các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không?
- Có.
Câu hỏi thứ ba: Là Linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?
- Có.
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là người Công giáo cả đây.
Cha Petitjean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:
- Bấy lâu nay, có ai giảng dạy cho các anh không?
- Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: Sau này có ai đến giảng đạo hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội thánh sai đến.
Giáo hội Nhật Bản đã tái sinh.
28/01 Đèn đặt trên đế cao
- Viết bởi Mc 4, 21-25
Đèn đặt trên đế cao.
Thứ Năm tuần 3 thường niên. – Thánh Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Ðèn đốt lên là để đặt trên giá đèn. Các ngươi đong đấu nào, thì người ta sẽ đong đấu ấy cho các ngươi".
* Sinh năm 1225 trong một gia đình quý tộc ở Aquinô, rồi theo học tại đan viện Montê Cátxinô, tiếp đến tại đại học Napôli, cuối cùng Tôma nhập dòng Anh Em Thuyết Giáo và hoàn tất việc học tại Pari và Côlônhơ, dưới sự dẫn dắt của một bậc thánh sư là Anbêtô Cả. Thánh Tôma đã thể hiện trọn vẹn lý tưởng dòng thánh Đaminh là chiêm niệm và truyền đạt cho tha nhân điều mình đã chiêm niệm. Vừa là triết gia, vừa là thần học gia, trong vai trò giáo sư, thánh nhân đã suy nghĩ, giảng dạy và viết rất nhiều. Nhưng trước hết và trên hết, thánh nhân là người chiêm niệm, người đã cầu nguyện nhiều và đã tuân thủ một kỷ luật nghiêm khắc để có thể đạt tới ánh sáng tinh tuyền. Thánh nhân qua đời ngày 7 tháng 3 năm 1274 tại đan viện Xitô ở Phốtxanôva. Ngày 28 tháng Giêng là ngày thi hài thánh nhân được cải táng đưa về Tuludơ năm 1369.
LỜI CHÚA: Mc 4, 21-25
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe".
Và Người bảo họ rằng: "Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đặt trên đế
Bài Tin Mừng hôm nay gồm bốn câu có vẻ rời rạc
được Đức Giêsu nói trong những dịp khác nhau.
Thánh Máccô chia bốn câu này thành hai cặp (cc. 21-22 và 24b-25).
Trong mỗi cặp, câu thứ hai được nối với câu thứ nhất bằng chữ “vì”.
Đức Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của bốn câu nói trên
qua việc Ngài nhắc nhở ta phải nghe một cách nghiêm túc (cc. 23. 24a).
Thầy Giêsu vẫn quen giảng khởi đi từ những chuyện hàng ngày.
Thời xưa, khi chưa có điện, ngọn đèn dầu đem lại ánh sáng cho cả căn nhà.
Bởi vậy không thể nào hiểu được chuyện ai đó thắp đèn lên,
rồi lại đặt nó dưới cái thùng hay gầm giường.
Cứ sự thường phải đặt nó trên đế để soi sáng mọi sự.
Ngọn đèn mà Thầy Giêsu nói ở đây có thể ám chỉ Tin Mừng của Ngài,
và cũng có thể ám chỉ chính Con Người của Ngài.
Tin Mừng ấy không được phép đem giấu đi,
nhưng phải được quảng bá và rao giảng.
Con Người Đức Giêsu không được che kín sau bức màn,
nhưng phải được từ từ vén mở cho mọi người thấy.
Trong sách Tin Mừng theo thánh Máccô,
Đức Giêsu cấm các môn đệ không được nói với ai Ngài là Đức Kitô (8, 30),
vì chữ “Kitô” khiến người ta lầm tưởng Ngài sẽ đứng lên làm cách mạng.
Nhưng vào cuối đời, khi tay không đứng trước vị thượng tế (14, 61-62),
Đức Giêsu đã nhìn nhận tước vị này, vì nó không còn có thể bị hiểu lầm nữa.
Như thế, những gì được tạm thời che giấu, cuối cùng đã được tỏ lộ,
những gì bí ẩn đã được đưa ra ánh sáng (c. 22).
Đức Giêsu là Kitô, nhưng là một Kitô chịu đau khổ như Người Tôi Tớ (Is 53).
Cuộc đời người Kitô hữu, người đã lãnh nhận phép thanh tẩy,
cũng giống như ngọn đèn đã thắp sáng đặt trên đế.
Không được vì bất cứ lý do gì mà che giấu đi:
vì khiêm tốn không muốn cho ai thấy ánh sáng của mình,
hay vì không dám đương đầu với sức mạnh của bóng tối.
Thế giới hôm nay cần những ngọn đèn Kitô hữu.
Hai tỷ Kitô hữu làm nên hai tỷ ngọn đèn.
Ánh sáng bừng lên xua tan bóng tối của dối trá, hận thù, sa đọa.
Ánh sáng đem lại sự ấm áp của cảm thông, an bình và nâng đỡ.
Khi cảm nhận được ánh sáng, người ta sẽ nhận ra được Kitô hữu là ai.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.
Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được cái gì?
Chúa đến để làm gì
nếu đời sống con cái của Chúa
cứ tiếp tục y như cũ?
Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.
Ước gì sứ điệp của Chúa
trở nên máu thịt của chúng con,
trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.
Ước gì sứ điệp đó
lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
và đòi buộc chúng con,
làm chúng con không yên.
Bởi lẽ chỉ như thế,
sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
bình an sâu xa,
thứ bình an khác hẳn,
đó là Bình An của Chúa. (Helder Câmara)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: ĐẶT TRÊN GIÁ ĐÈN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đoạn này nối tiếp dụ ngôn “Người gieo giống”. Lại hai lần nói về lắng nghe. Nên hầu chắc nói về thái độ đối với Lời Chúa.
Lời Chúa là ngọn đèn sáng phải đặt trên giá để soi đường cho mọi người đi lại. Không chỉ soi bên ngoài. Nhưng quan trọng hơn soi trong tâm hồn. Lời Chúa sẽ soi sáng mọi ngõ ngách tối tăm nhất của tâm hồn con người. Chẳng điều gì có thể che giấu được ánh sáng Lời Chúa.Khi trong ngoài sáng tỏ ta sẽ sống trong sự sáng. Làm con sự sáng. Nhưng liệu ta có tai lắng nghe không? Lắng nghe là để Lời Chúa soi rọi vào đáy sâu tâm hồn.
Ai càng lắng nghe lại càng được Lời Chúa soi sáng. Càng hiểu biết lại càng say mê Lời Chúa. Đã có lại cho thêm. Như mảnh đất tốt khiến hạt giống sinh bông hạt trăm nghìn.
Đa-vít là một chiếc giá đèn. Lời Chúa soi sáng cuộc đời ông. Ông lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Nên Chúa không ngừng ban ân huệ cho ông. Đã chọn ông làm vua. Lại còn hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Khiến chính ông phải ngạc nhiên: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? Nhưng lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài”. Và Đa-vít trở thành mẫu mực cho toàn dân noi theo. Để biết lắng nghe và thực hành thánh ý (năm chẵn).
Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa bằng xương bằng thịt. Là ánh sáng soi dẫn đường ta đi. Vì Người đã đổ máu để mở cho ta con đường mới. Con đường dẫn đến Thiên Chúa. Chính Đức Chúa Cha đã tuyên dương Người và mời gọi ta hãy nghe lời Người. Theo Chúa Giê-su ta tràn trề hi vọng. “Vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (năm lẻ).
Nếu ta tuân giữ Lời Chúa, ta sẽ càng thêm phong phú. “Vì ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi”.
Suy Niệm 3: Ðong đấu nào
Thi hào Tagore có kể câu truyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ ngồi bên vệ đường. Hôm ấy, đức vua ngự giá đi ngang qua. Người hành khất cố lê lết đến cổng làng, ngồi đó và nhủ thầm: "Ðây là dịp may hiếm có, tôi sẽ xin đức vua bố thí cho tôi".
Từ xa, khi thấy xe đức vua, người hành khất đã vẫy tay chào. Nhưng không ai ngờ, khi xe dừng lại, vua chẳng cho gì mà còn giơ tay xin người hành khất bố thí. Người hành khất liền đưa tay vào cái bị, lấy ra một nắm thóc và đặt vào bàn tay vua một hạt thóc. Ðức vua cám ơn, rồi tặng lại một món quà nhỏ bỏ vào cái bị ấy.
Khi về đến nhà, người hành khất mở bị ra, thì thấy giữa những hạt thóc một hạt kim cương sáng ngời. Lúc đó, người hành khất mới hối tiếc: "Phải chi ta cho đức vua cả bị thóc này, thì ta đã được cả một bị kim cương".
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con đong đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho các con đấu ấy, và còn cho các con hơn nữa". Nói khác đi, chỉ có một đấu duy nhất, là nếu chúng ta làm điều gì đó cho người anh em, thì chính đấu ấy sẽ đong lại cho chúng ta. Có một tội mà ít ai tránh khỏi, đó là tội ích kỷ. Vì ích kỷ là chỉ muốn thu vén điều tốt cho mình, còn dành điều xấu cho người khác, do đó chẳng quan tâm gì đến những bất hạnh của người khác.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta suy xét và điều chỉnh lại cuộc sống trong tương quan với tha nhân, với ý thức rằng những gì chúng ta làm cho người anh em, là làm cho chính Chúa, và rằng Chúa sẽ đối xử với chúng ta theo cung cách chúng ta đối xử với người khác.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Hãy coi chừng!
Người nói với các ông: “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? nào chẳng phải là để đặt trên đế sao? Vì chẳng có gì bí ẩn mà không phải là hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà không phải là để đưa ra ánh sáng. Ai có tai thì nghe!” (Mc. 4, 21-23)
Khi ta nhắc nhở dặn dò ai điều gì thì lời ấy thường có hai ý nghĩa. Đôi khi ta muốn người ta phải dè chừng, có khi ta muốn họ phải cẩn thận, phải cân nhắc lời nói việc làm. Hai ý nghĩa này đều nằm trong những lời răn bảo của Chúa Giêsu. “Hãy coi chừng các người Pharisiêu, Người phán, vì họ nói mà không làm!” “Anh em hãy coi chừng, vì anh em không biết ngày nào giờ nào kẻ trộm đến!”. Đó là hai lời cảnh báo phải khôn ngoan và coi chừng.
Trái lại trong trích đoạn Phúc âm ta đọc sáng nay, lời răn bảo phải coi chừng có một tính cách tích cực, với nghĩa là “anh em hãy để ý đến điều anh em nghe”.
Thực vậy, trong trích đoạn này, những tiếng “điều anh em nghe, chính là mấu chốt điều Chúa Giêsu muốn giáo huấn ta. Vì thế, muón hiểu được giáo huấn này của Chúa, ta cần phải có một sự quan tâm để ý đặc biệt, nếu không ta sẽ chẳng lĩnh hội được gì. Nội dung lời giáo huấn của Chúa cũng gói ghém trong những câu sau: “Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy và còn cho anh em hơn nữa”, có nghĩa là Lời Chúa chỉ đem lại hiệu quả tốt, tùy theo sự quan tâm chú ý của người nghe. Mức độ lắng nghe là thước đo hoạt động của Lời Chúa. Sau nữa chỉ có Lời Chúa mới có khả năng cho thêm, cho vượt cả mức lòng ta mong đợi nữa.
Ý nghĩa của câu sau cùng, giờ đây được sáng tỏ: “Ai đã có thì được cho thêm, còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất” - hoặc nói khác đi: ai không chú ý lắng nghe, không mở lòng ra đón nhận, thì cái đã được gieo cũng sẽ mất đi, còn ai càng mở ra và càng cẩn thận thì càng nhận được hồng ân Thiên Chúa và giữ được cái đã được gieo vào lòng mình.
Ta có lắng nghe Lời Chúa không?
Nhiều người đã chịu phép Rửa tội, đã được học giáo lý đầy đủ: vỡ lòng, rước lễ, thêm sức, bao đồng v.v. Họ đã nghe đã học cả đấy. Vậy mà ngày nay họ chẳng giữ đạo, chẳng đi lễ, mà còn không tin nữa. Vì chểnh mảng, coi thường, họ chẳng còn gốc gác gì với cha ông họ là những người đạo dòng. Đức tin mai một như vậy đó. Chúng ta hãy coi chừng! Hãy coi chừng sự không quan tâm chú ý của ta. Lời Chúa không chịu cảnh người ta bịt tai hay lơ đãng. Ta không biết được rồi đây chính ta có thể trở thành con người không tin hay không? Nếu có, sẽ là bởi tại ta đã quá keo kiệt khi đong cho việc lắng nghe Lời Chúa vậy.
Suy Niệm 5: HÃY CHIẾU GIÃI ÁNH SÁNG CHO MỌI NGƯỜI (Mc 4, 21-25)
Thật là kỳ dị khi chúng ta thắp đèn rồi đem đặt ở gầm giường, hay lấy thùng úp lên. Chỉ những người khùng thì mới làm những chuyện như vậy!
Đức Giêsu đã có lần nói: Ta là ánh sáng thế gian. Đồng thời Ngài cũng mời gọi mỗi chúng ta đi theo Ngài. Như vậy, khi chúng ta tin và đi theo Đức Giêsu, tức là chúng ta đi trong ánh sáng của Ngài.
Không chỉ dừng lại ở đó, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy tỏa ánh sáng đó cho mọi người được thấy. Nói cách khác: chúng ta phải trở nên sứ giả Tin Mừng, chứng nhân của tình yêu. Đức Giêsu không chấp nhận chuyện chúng ta chỉ nói tin Chúa, nhưng trong đời sống thực tế, không sống chứng nhân. Không! Ngài mời gọi chúng ta phải thắp đèn cho sáng và để trên đế nhằm cho mọi người được thấy ánh sáng (x. Mc 4, 21).
Như vậy, để trở thành một người Kitô hữu thực thụ, chúng ta phải hội đủ hai yếu tố, đó là:
Một là tin và đi theo Đức Giêsu; hai là sống chứng nhân, tức là chiếu tỏa các chân lý Tin Mừng của Đức Giêsu ngang qua cuộc sống của mình. Hội đủ hai yếu tố đó, chúng ta mới xứng đáng trở thành môn đệ của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng của Chúa cho anh chị em chúng con, nhờ đó, mọi người cũng đón nhận được chính Chúa là nguồn sáng đích thực soi chiếu cuộc đời và thế gian này đi tới sự sống vĩnh cửu. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Cây nến trong tay Thiên Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Buổi chiều, người nọ lấy cây nến nhỏ từ trong hộp ra và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:
- Chúng ta đi đâu?
- Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tàu bè vào cảng.
- Nhưng tôi nhỏ bé thế này làm sao tàu bè thấy được?
- Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc ta lo.
Tới đỉnh tháp, người nọ đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, ánh sáng lan tỏa và mọi tàu bè đều thấy.
Chúng ta cũng là cây nến trong tay Thiên Chúa. Chỉ cần ta cháy sáng, còn kết quả là ở Thiên Chúa.
Suy niệm
Ánh sáng phải được đặt trên giá tỏa sáng, chính Chúa Giêsu là ánh sáng thật, ánh sáng được thắp lên để soi chiếu cho mọi người, ai nghe và đón nhận ánh sáng và toả sáng thì sẽ được hạnh phúc muôn đời: “Kitô hữu là cây đèn sáng chiếu vào thế gian bày tỏ Lời sự sống” (x. Pl 2,15b-16a).
Đèn Kitô hữu muốn sáng lâu, phải đổ nhiều “dầu Lời Chúa” vào tâm hồn và muốn sáng mạnh phải tiêu hao “đời mình vì Lời Chúa”, đó là sự quảng đại vì anh em theo Lời Chúa dạy…
Xu hướng của con người là hưởng thụ và ích kỷ. Ích kỷ là chỉ muốn thu vén điều tốt cho mình, còn dành điều xấu cho người khác, do đó chẳng quan tâm gì đến những bất hạnh của người khác.
Chúa Giêsu dạy tỏa sáng khi làm một đấu duy nhất cho Chúa qua anh em: Nếu chúng ta làm điều gì đó cho người anh em, thì chính đấu ấy sẽ đong lại cho chúng ta. Quảng đại sinh quảng đại, bác ái sinh bác ái. Đó là ánh sáng được ánh sáng…
Ý lực sống:
“Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Suy Niệm 7: Dụ ngôn về cái đèn và cái đấu
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn nói về cái đèn và cái đấu để nói về việc nghe Lời Chúa và giới thiệu cho người khác. Chúa nói: ”chẳng ai mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường”. Chúng ta đã nghe Lời Chúa, chúng ta không được giữ kín cho riêng mình. Chúng ta phải đem Lời Chúa đến cho mọi người. Chúng ta càng nhiệt tâm giảng dạy Lời Chúa cho kẻ khác thì Chúa càng ban thêm cho chúng ta. Còn nếu chúng ta ích kỷ giữ riêng cho mình thì dần dần cũng sẽ mất hết ơn Chúa.
2. Có hai chữ chúng ta phải biết để hiểu đúng Lời Chúa: đó là”cái đèn” và “cái đấu. Đức Giêsu muốn dùng cái đèn để ám chỉ Tin Mừng của Ngài. Kẻ nghe Tin Mừng giống như chiếc đèn. Họ phải loan báo Tin Mừng cho những người khác nữa và họ phải sống những gì đã nghe, có như thế cuộc sống họ sẽ chiếu tỏa ánh sáng ra những người chung quanh.
Cái “đấu” là mức độ tâm hồn mở ra để đón nhận. Con người càng mở ra, càng sống Lời Chúa, thì càng nhận được nhiều hồng ân Thiên Chúa; trái lại, kẻ chỉ nghe mà không sống Lời Chúa thì không được ban thêm, mà cả những ơn họ đang có cũng bị lấy đi mất.
3. “Có ai đốt đèn rồi đem để ở trong thùng hay dưới gầm giường không? Nào chẳng phải là đặt trên giá đèn sao” (Mc 4,21).
Lý do hiện hữu của cây đèn là để soi sáng. Vậy khi cây đèn không soi sáng cho ai, thì nó không còn phải là cây đèn nữa. Cũng thế, lý do hiện hữu của người Kitô hữu là phải tỏa sáng niềm tin của mình ra, để cho người khác, nhờ ánh sáng đó mà được dẫn đưa đến chân lý và hy vọng; hay nói cách khác, trực tiếp hay gián tiếp, âm thầm hay hiển hiện, việc làm chứng cho Đức tin trong cuộc sống hằng ngày của những người Kitô hữu chúng ta, không phải là một việc làm có tính cách nhiệm ý, nghĩa là muốn làm hay không tùy ý, mà trái lại đó là một đòi hỏi tất yếu, bao trùm cả cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.
4. “Một ngọn nến nhỏ tỏa sáng xa biết bao! Cũng vậy, một việc làm tốt tỏa sáng biết bao trong một thế giới mệt mỏi”(Văn hào W. Shakespeare).
Ngọn đèn muốn tỏa sáng xa thì phải được đặt trên đế cao có lẽ là chuyện chẳng cần bàn cãi. Thế nhưng, ngọn đèn mà Đức Giêsu muốn ta đặt trên đế lại là chuyện khác, vì đèn ấy chính là Tin Mừng của Ngài. Có vẻ ta có khuynh hướng che giấu, ngại bầy tỏ - nghĩa là đặt dưới thùng hay gầm giường – thay vì loan báo, trình bầy cho người lân cận. Sống triệt để tinh thần Tin Mừng của Chúa là phương thế hữu hiệu nhất để đặt Tin Mừng ấy trên đế cao. Ngược lại, coi thường Tin Mừng, không quan tâm đếnTin Mừng ấy là cung cách thích hợp nhất cất giấu dưới thùng hay gầm giường.
5. Là ánh sáng, chúng ta phải chiếu soi cho thế gian bằng đời sống gương sáng và đem tinh thần Chúa Kitô thấm nhiễm vào môi trường sống của mình. Chúa bảo chúng ta: ”Các con là chứng nhân của Thầy”, nhưng nhiều khi chúng ta vô tình hay hữu ý đã trở thành phản chứng, làm méo mó khuôn mặt của Đức Kitô, khiến người ta không muốn theo Chúa.
Vì thế, năm 1937, ông Gandhi, một lãnh tụ vĩ đại của Ấn độ, đã nói với các nhà truyền giáo câu này để chúng ta suy nghĩ: ”Hãy để cho đời sống của các ngài nói với chúng tôi như đóa hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà chỉ cần đơn sơ để cho hương thơm lan tỏa. Cả người mù không xem thấy hoa hồng, vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ đến sự cao cả của người Kitô hữu khi họ tỏa hương thơm đời sống. Đối với tôi đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời Kitô hữu, chứ không phải là chú giải nó”.
6. Lời Chúa có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn không chịu cháysáng cho nên cũng vô ích. Bà Chiara Lubich nói:”Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Tin Mừng trên khắp thế giới có bị đốt hết đi thì người ta nhìn vào cuộc sống chúng ta vẫn có thể chép lại Tin Mừng ấy đúng từng câu, từng chữ”.
7. Truyện: Ngọn hải đăng.
Vào một đêm mưa bão, ngọn hải đăng bị mất điện tắt ngấm. Người phụ trách hải đăng vội vã đốt một cây nến nhỏ và cầm cây nến theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt đèn lên. Bấy giờ cây nến mới lên tiếng hỏi người phụ trách rằng:
- Ông đem tôi đi đâu vậy?
Ông trả lời:
- Ta mang nhà ngươi lên sân thượng để chiếu sáng giúp tầu bè từ ngoài khơi biết đường trở về và cập bến an toàn.
Cây nến lại nói:
- Nhưng tôi chỉ là cây nên nhỏ bé thế này thì tầu bè ở tận ngoài khơi làm sao nhìn thấy ánh sáng của tôi được?
Người phụ trách trả lời:
- Bây giờ ta chỉ cần nhà ngươi đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có ta lo liệu.
Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ trách đã dùng cây nến châm lửa và trong giây lát ánh sáng từ cây đèn lồng rực lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể xử dụng thay bóng đèn điện. Ánh sáng của nó có sức chiếu ra tận ngoài khơi, hầu giúp tầu bè dễ dàng định hướng để quay về cập bến an toàn.
27/01 Dụ ngôn gieo hạt giống
- Viết bởi Mc 4,1-20
Dụ ngôn gieo hạt giống.
Thứ Tư tuần 3 thường niên.
"Người gieo hạt đi gieo hạt giống"
LỜI CHÚA: Mc 4,1-20
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy ở bờ biển và có đám đông dân chúng tụ lại gần Người, nên Người xuống ngồi trong một chiếc thuyền trên mặt biển, tất cả đám đông thì ở trên đất theo dọc bờ biển.
Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều, và khi giảng, Người nói với họ rằng: "Các ngươi hãy nghe! Nầy người gieo hạt đi gieo hạt giống. Khi gieo, một phần hạt rơi xuống vệ đường và chim trời đến ăn hết. Phần khác rơi trên đất sỏi, nơi không có nhiều đất. Hạt giống đã mọc lên ngay, vì lớp đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, hạt giống bị nắng đốt và vì không rễ, nên bị chết khô. Một phần khác rơi vào bụi gai và gai mọc lên làm hạt giống chết mà không sinh hoa trái được. Phần hạt khác rơi vào đất tốt, mọc lên, nẩy nở và sinh quả, hạt thì sinh được ba mươi, hạt được sáu mươi, hạt được một trăm". Và Người phán rằng: "Ai có tai nghe thì hãy nghe".
Khi Người còn lại một mình, thì mười hai ông là những kẻ luôn ở với Người, hỏi Người về ý nghĩa dụ ngôn, Người liền bảo các ông: "Các con được ơn biết mầu nhiệm về nước Thiên Chúa, còn những người khác ở ngoài thì mọi sự được giảng dạy bằng dụ ngôn, vì chúng nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu, kẻo chúng trở lại mà được tha tội". Người nói với các ông: "Các con không hiểu dụ ngôn đó sao? Vậy thì hiểu sao được tất cả những dụ ngôn khác?
Người gieo hạt là gieo lời Chúa. Vệ đường mà lời Chúa được gieo vào, là những kẻ vừa nghe xong, thì Satan đến và cất lấy lời Chúa gieo trong tâm hồn họ. Và cũng thế, những hạt giống rơi trên đất sỏi, là những kẻ khi nghe lời Chúa thì đón nhận vui vẻ, nhưng chúng không đâm rễ bên trong và là những người hay thay đổi: sau đó gặp phải cơ cực hay bắt bớ vì lời Chúa, thì họ sa ngã liền. Lại có những hạt giống rơi trong bụi gai. Ðây là những kẻ nghe lời Chúa, nhưng những lo lắng trần tục, bóp nghẹt lời Chúa, khiến không thể sinh hoa trái được. Còn những hạt giống gieo trong đất tốt: đó là những người nghe lời Chúa, biết giữ lấy và làm sinh lợi, hạt ba mươi, hạt sáu mươi và hạt một trăm".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hạt giống Lời Chúa
Suy niệm:
Chỉ cần một hạt giống lời Chúa rơi vào tâm hồn bạn,
như rơi vào thửa đất màu mỡ,
đời bạn có thể thay đổi hoàn toàn.
Têrêsa Hài Đồng đã để lòng mình đón lấy lời này:
“Ai không nên như trẻ thơ thì chẳng được vào Nước Trời.”
Chị đã nên thánh nhờ suốt đời sống phó thác như trẻ thơ.
Têrêsa Calcutta đã để lòng mình đón lấy lời này:
“Những gì ngươi làm cho một anh em nhỏ nhất, là làm cho chính Ta.”
Mẹ Têrêsa đã không bao giờ quên mình đang tiếp xúc với Giêsu
mỗi khi Mẹ gặp người nghèo khổ, bệnh tật.
Là Kitô hữu, chúng ta thường xuyên được nghe Lời Chúa,
nhưng một tiếp xúc thực sự với hạt giống Lời Chúa vẫn ít xảy ra.
Điều này đã là vấn đề của các Kitô hữu sơ khai rồi.
Tất cả bốn hạng người trong dụ ngôn Người gieo giống đều nghe.
Tuy nhiên kết quả lại rất khác nhau,
vì vấn đề không phải là nghe bằng tai, nhưng là nghe bằng cả tâm hồn.
Vẫn có thứ tâm hồn hời hợt như đất cứng ở vệ đường.
Hạt giống chưa bao giờ thâm nhập được vào đất,
mới chỉ nằm trơ vơ trên bề mặt.
Hạt giống này nhanh chóng làm mồi cho chim chóc, cho Xatan.
Vẫn có thứ tâm hồn chai đá, như mảnh đất chỉ có lớp đất mỏng bên trên.
Hạt giống mọc ngay, nhưng sau đó bị khựng lại,
không đâm rễ được vì đất nhiều sỏi đá.
Khi nắng lên, cây bị héo khô vì không có rễ hút nước.
Để cho Lời Chúa đâm rễ sâu trong đời mình và nuôi dưỡng mình,
đó là nỗ lực suốt đời của người Kitô hữu.
Vui vẻ đón nhận Lời ngay lập tức mà không chịu đào sâu, đâm rễ,
thì cũng sẽ bỏ cuộc ngay lập tức khi cơn bách hại đến từ bên ngoài.
Vẫn có thứ tâm hồn nặng nề, vì những lo lắng sự đời, đam mê giàu có.
Chính những lệch lạc từ bên trong như bụi gai đã bóp nghẹt hạt giống.
Lời Chúa đòi ta vượt lên trên những thèm muốn, khoái lạc và âu lo.
Để Lời Chúa sinh trái phải làm cỏ, dọn bụi gai cho sạch.
Nhưng vẫn có những tâm hồn mềm mại như mảnh đất tốt.
Hạt giống Lời Chúa thoải mái đâm rễ sâu, và sinh hoa trái gấp trăm.
Dù gặp bách hại vì Lời, dù bị danh lợi thế gian lôi kéo,
họ vẫn không đánh mất căn tính Kitô hữu của mình.
Tâm hồn chúng ta thuộc loại đất nào?
Đó là câu hỏi cho từng Kitô hữu xưa cũng như nay.
Thiên Chúa vẫn cứ kiên nhẫn và miệt mài gieo giống cho đến tận thế.
Ngài vẫn mời ta ra khỏi sự hời hợt, cứng cỏi, chai đá của lòng mình.
Nếu ta dám để cho Lời Chúa thực sự đi vào đời ta, dù chỉ một lần,
ta sẽ thấy được sức biến đổi kỳ diệu của Lời Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: NGƯỜI ĐI GIEO LỜI
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa gieo Lời Người xuống trần gian. Đó là lời tình yêu. Lời sự sống. Lời hạnh phúc. Nhưng con người vô tâm không lắng nghe. Để ma quỉ tha đi mất. Như bà E-và. Nhưng Thiên Chúa không nản lòng. Vẫn tràn đầy yêu thương. Vẫn tiếp tục gieo hạt. Lời không bén rễ sâu. Vì con người hời hợt. Mau thay đổi. Thiên Chúa vẫn tiếp tục gieo. Hạt đã bắt đầu mọc. Nhưng con người quá ham mê dục vọng. Để dục vọng chèn ép. Lời Chúa không lớn mạnh được. Như trường hợp Sam-son. Thiên Chúa kiên trì yêu thương. Gieo cho đến khi Lời gặp được mảnh đất tốt. Sinh hoa kết quả trăm nghìn.
Sách Sa-mu-en cho ta thấy hai vị vua đầu tiên là hai mảnh đất khác nhau. Sa-un được Thiên Chúa tuyển chọn. Nhưng ông không tuân giữ Lời Chúa. Lòng tham lam và dục vọng chèn ép làm cho Lời Chúa chết nghẹt. Ông trở nên mảnh đất sỏi đá. Lời Chúa không phát triển được. Chúa từ bỏ ông. Trái lại Đa-vít là vị vua thánh thiện. Luôn lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Nên Lời chúa sinh hoa kết quả. Không những trong đời ông. Mà còn tồn tại đến đời con cháu. Như Lời Chúa hứa. “Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra – và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền…Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững” (năm chẵn).
Tất cả lời hứa của Thiên Chúa ứng nghiệm trong Chúa Giê-su Ki-tô. Chúa Giê-su là dòng dõi Đa-vít lên trị vì. Và vương quyền Người muôn đời bền vững. Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa xuống trần gian để đi gieo Lời. Chính Người là Ngôi Lời được gieo xuống trần gian. Người là sự sống, là tình yêu, là hạnh phúc gieo xuống lòng nhân loại. Chính Người trở thành hạt giống mục nát đi. Dâng hiến chính đời mình. Chết đau thương. Được chôn táng trong mộ.Trở thành hạt lúa tốt sinh hoa kết quả trăm nghìn. Tạo nên một mùa gặt mới phong phú dồi dào. Vì chính Người là mảnh đất tốt. Đón nhận Lời của Chúa Cha. Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Nên mùa gặt phát sinh. Mùa gặt sự sống. Mùa gặt tình yêu. Mùa gặt hạnh phúc (năm lẻ).
Ta hãy noi gương Chúa Giê-su. Hãy hăng say đi gieo Lời Chúa. Hãy trở thành thửa đất tốt. Luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Hãy trở thành hạt giống được gieo xuống lòng đất. Mục nát đi. Sẽ sinh hoa kết quả muôn ngàn.
Suy Niệm 3: Hạt giống Lời Chúa
Phan Linh là một nhân vật nổi tiếng trong nhiều lãnh vực khoa học kỹ thuật và văn chương. Một hôm ông nhận được một món quà của một người bạn từ Ấn Ðộ, đó là một cái chổi rơm. Nhận thấy có những hạt lúa dính ở cọng rơm, ông nhặt lấy và đem đi gieo, sau đó ông cũng phân phát cho bà con cùng gieo, thu hoạch rất khả quan và dần dần lan ra cả nước. Ông là người đầu tiên nhập giống lúa mới và khai sinh kỹ nghệ làm chổi phục vụ cho cả nước.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống để giảng về Nước Trời. Việc gieo giống có lẽ rất quen thuộc với người Việt Nam, vì có đến 4/5 dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Người gieo giống nào cũng muốn gieo hạt trên đất đã cày bừa cẩn thận; Thiên Chúa cũng muốn tâm hồn con người được trở nên như thửa đất để hạt giống Lời Ngài có thể mọc lên, phát triển và sinh nhiều hoa trái, làm ích cho mình và cho người khác nữa.
Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Ðấy là chưa kể những biến cố xảy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn đón nhận hạt giống Lời Chúa. Xin làm cho những hạt giống ấy được bám rễ, mọc lên tươi tốt và trổ sinh được nhiều bông hạt, để mỗi ngày chúng ta được lớn lên trong tình yêu Chúa và góp phần xây dựng Giáo Hội Chúa ngày một lớn mạnh hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Phải chăng lỗi tại Chúa?
“Các người nghe đây! Kìa người gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường. Chim chóc đến ăn mất. Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết hô. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả: Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm.” (Mc. 4. 3-8)
Dụ ngôn Người gieo giống theo thánh Maccô này mang dấu vết của một bài biên soạn chịu ảnh hưởng đời sống Giáo hội buổi ban đầu, trước hết là vấn đề giải thích sự thất bại trong việc rao giảng Tin mừng, sau là ý nghĩa của từ “Lời Chúa”
Thất bại trong việc rao giảng
Maccô quả quyết điều này: với những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn… để họ không hiểu, kẻo họ trở lại…
Thoạt nghe ta thấy khó hiểu. Phải chăng Chúa Giêsu muốn kết án người đời? Tại sao Chúa lại không cho mọi người một cơ hội đồng đều? Chính điểm này làm ta khó chịu, và cũng đúng thôi. Nếu khi đọc ta chỉ đặt bản văn này vào trong bối cảnh của thời Chúa Giêsu.
Nhưng khi đặt nó vào khung cảnh đời sống Giáo hội buổi ban đầu, những khó khăn kia không còn nữa. Bởi vì ta thấy rõ thánh Maccô chủ tâm giải thích cho biết hoàn cảnh lúc ấy đã coi thường Tin mừng của Đức Kitô. Bằng lối hành văn khéo léo, thánh Maccô giải thích sự việc ở hiện tại, tức là sự thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng cho người Do thái, ngụ ý là điều đó Chúa Giêsu đã nhìn thấy và biết trước cả rồi.
Cuối cùng, Maccô nói thêm rằng để chương trình cứu độ nhiệm mầu của Chúa được thành công, người ta cần phải đọc và nhận được những dấu chỉ. Mạc khải không phải là một sứ điệp được che dấu và đem cất đi. Nhưng để đọc và hiểu sứ điệp, người ta cần phải có một tâm hồn sẵn sàng và cởi mở để hiểu điều Thiên Chúa muốn nói với ta qua lời của Người. Mà thường là tâm hồn người ta đã không được sửa sang và vun xới đủ.
Hiểu lời này của Chúa hôm nay
Trong Phúc âm có những cách viết, cách diễn tả khác nhau, nhưng điều quan trọng nhất vẫn là cách chúng ta đọc sứ điệp và có được một lựa chọn sống phù hợp với lời này của Chúa. Chúng ta đón nhận như thế nào lời nói và gương sáng cuộc đời của Đức Kitô? Chúng ta có để cho lòng mình ngổn ngang trăm mối, sống quá hời hợt, giống như những người trố mắt nhìn mà không thấy chăng?
Khi sáng suốt nhìn vào mình, căn cứ vào kinh nghiệm và lịch sử đời mình, ta có thể giải thích đưọc tại sao ta phải thất bại? Tại sao ta không luôn luôn hiểu dược Phúc âm? Có thật phải lỗi tại Chúa chăng?
Suy Niệm 5: ĐÓN NHẬN HAY KHƯỚC TỪ? (Mc 4, 1-20)
Thánh Âu Tinh nói: “Thiên Chúa sinh ra bạn, Ngài không cần hỏi ý kiến bạn, nhưng khi muốn cứu chuộc bạn, Người phải hỏi ý kiến bạn”.
Thật vậy, Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, đây là gia sản quý giá mà Thiên Chúa không ngần ngại ban tặng cho một loài thụ tạo. Vì thế, con người hoàn toàn có trách nhiệm khi sử dụng tự do của mình trong cuộc sống.
Hôm nay, Đức Giêsu kể cho dân chúng và các môn đệ dụ ngôn người gieo giống. Người gieo cứ gieo. Gặp đâu gieo đấy. Nào là gieo cả trên sỏi đá, bụi gai, vệ đường, và đất tốt. Tuy nhiên, duy nhất nơi đất tốt mới sinh hoa kết quả. Như vậy, chỉ có ¼ có tác dụng, còn ¾ thì uổng công vô ích.
Thiên Chúa là như vậy! Ngài quảng đại trao ban hết tất cả cho con người, ngay cả Con Một yêu dấu Người cũng ban. Nhưng mấy ai hiểu được tình yêu của Người lớn lao như thế! Mà ngược lại, những nhà lãnh đạo Dothái còn tìm cách loại trừ ngay cả Đức Giêsu là món quà cao quý mà Chúa Cha đem tặng cho con người.
Họ như những hạt giống bị gieo bên vệ đường, sỏi đá và bụi gai. Những thứ ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, tự ty làm cho tinh thần nên trai cứng và Lời Chúa bị bóp nghẹt trong lòng họ, nên không hề sinh ích lợi cho bản thân.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức trách nhiệm trong tự do để trở nên như thửa đất tốt, ngõ hầu Lời Chúa đâm dễ sâu, lớn mạnh và sinh hoa kết trái trong cuộc sống của chúng ta.
Có thế, chúng ta mới trở nên môn đệ đích thực của Đức Giêsu nhờ biết nghe và giữ Lời Chúa trong lòng, nhất là đem ra thực hành.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con sẽ khô cằn, sỏi đá và trơ trọi nếu không được Lời Chúa là nguồn sự sống dưỡng nuôi. Xin Chúa ban cho tâm hồn chúng con trở nên thửa đất tốt tươi, để Lời Chúa trở thành nguồn hoan lạc cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Hạt giống Lời Chúa rơi vào đất nào??
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một nhà thừa sai Công giáo gặp một cậu bé người Ả Rập trên đường từ trường về nhà. Nhà truyền giáo vui vẻ hỏi: - Sao, hôm nay con học thêm được gì về sách Coran?
Mắt cậu sáng lên và mau mắn đọc thuộc lòng những câu trích từ sách Coran là sách thánh của các tín đồ Hồi giáo. Nhà truyền giáo nói thêm: - Bây giờ, con thử viết những lời đó trên đất để cha có thể hiểu dễ dàng hơn và học mau thuộc hơn không?
Cậu bé đáp: - Thưa cha, không được! Lời Thánh phải được viết trong trí và ghi trong lòng chứ không thể viết trên đất được.
Theo tư tưởng của cậu bé đó thì Kinh Thánh phải được ghi khắc trong tâm hồn, nghĩa là Lời Chúa phải thấm nhập vào lòng trí người Kitô hữu để họ phải sống bằng Lời Chúa.
Sống đạo là để cho Lời Chúa thấm nhập tâm hồn.
Sống đạo là để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống.
Sống đạo là để cho Lời Chúa tuôn trào ra cửa miệng và thấm nhuần môi trường sống.
Suy niệm
Ở Do Thái đất đai có rất nhiều đá. Cho nên, trong công việc nhà nông của người Do Thái, việc lượm đá là một động tác quen thuộc cũng như làm cỏ, đến nỗi từ “đá” (xêla) khi dùng như một động từ ở thể hành động (xalêa) thì có nghĩa là lượm đá để dọn một mảnh đất. Ðá lượm ra xếp thành bờ ngăn các thửa ruộng, do đó mép bờ cũng là nơi gai mọc. Ở những vùng đất thiếu nước thì gai là loài cây dại phổ biến nhất, vì nó có sức chịu khô lâu nhất. Người nông dân ở Palestine xưa kia dọn đất xong thì gieo hạt rồi cày lấp đi giống như xạ lúa ở miền Tây (Theo lời giải thích của cha Nguyễn Công Đoan SJ).
Khi biết và hiểu địa dư của đất nông nghiệp Do Thái, chúng ta dễ hiểu bốn vị trí mà hạt giống có thể rơi xuống khi người nông dân gieo lúa: đá, mặt lối đi, bụi gai và đất tốt như Đức Kitô đã nhấn mạnh đến các chi tiết trong dụ ngôn.
Muốn gieo cho kín ruộng mình thì người nông dân phải chấp nhận có sự hao hụt vì khi vung tay gieo hạt, một số nào đó sẽ rơi vào ba loại vị trí không kết quả: ”xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất”. “Hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt…”. Hình ảnh người nông dân gieo giống tượng trưng cho hình ảnh Thiên Chúa, Ngài luôn vững tay phân phát thật rộng rãi để hạt giống được phủ kín mảnh ruộng, là thái độ quảng đại của Thiên Chúa đối với nhân loại, Ngài làm tất cả, đôi lúc có phung phí ân sủng, vì Ngài mong ít ra có những hạt giống rơi trên đất tốt.
Mảnh đất được gieo trồng mang hình ảnh tâm hồn tôi và tâm hồn bạn. Để cho mảnh đất trở nên đất tốt hòng hạt giống của Thiên Chúa gieo vào sinh hoa kết trái, chúng ta cần phải chuẩn bị, như người nông dân lượm những viên đá để trên bờ rào. Hình ảnh đó gợi lên cho chúng ta tâm tình biết sửa chữa mình không ngừng để cuộc sống chúng ta luôn tràn ngập bình an, ân sủng, đó là giống đã được nảy mầm, đơm hoa và kết hạt.
Nếu cứ để tâm hồn chúng ta hoang sơ như những mảnh đất chưa được nhặt lượm những sỏi đá, cỏ lùng không bị tàn diệt, chắc chắn dù hạt giống ân sủng được nảy mầm, đời sống chúng ta như Chúa ví trong dụ ngôn: Rễ không đủ sâu gặp nắng gắt chết khô, hay chết nghẹt vì bụi gai… hãy nhặt đi những sỏi đá trong mảnh đất hồn tôi, hãy nhổ đi những cụm cỏ lùng luôn đe dọa đến hạt giống như Đức Giêsu đã thường xuyên cảnh báo các môn đệ chống lại ảnh hưởng của thế gian (x. Lc 9,57-62; 14,28-33; 16,19-31; Ga 15,19; 12,6).
Hạt giống Lời Chúa sinh được hoa trái, nhưng còn phụ thuộc vào mảnh đất có được canh tác tốt hay không. Giống không sinh được hạt nếu không có sự cộng tác của con người. Mảnh đất phải được dọn cỏ lùng, mảnh đất phải được nhặt những viên đá để hạt giống Chúa được tự do tăng trưởng, được sinh hoa kết trái mang lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống.
Ý lực sống
“… Những lo lắng thế gian và sự giàu có của vật chất làm cho giống chết nghẹt” (Thánh Têrêsa Avila).
Suy Niệm 7: Dụ ngôn người gieo giống
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Khi nói đến những vấn đề trừu tượng khó hiểu như Nước Trời chẳng hạn, Đức Giêsu hay dụng dụ ngôn để diễn tả những ý tưởng đó. Dụ ngôn người gieo giống trong đoạn Tin Mừng này cho chúng ta thấy những thái độ và hiệu quả của việc đón nhận Lời Chúa khác nhau. Cũng vậy, Tin Mừng được gieo vào lòng chúng ta, thế nhưng mảnh đất tâm hồn chúng ta thế nào? Mảnh đất của chúng ta có điều kiện để hạt giống Tin Mừng được sinh hoa kết quả; hay là mảnh đất khô cằn, chai cứng?
2. Để dễ hiểu đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần lưu ý: cách gieo giống của người Do thái thời Đức Giêsu khác với cách gieo giống của ta ngày hôm nay:
- Vì còn lạc hậu nên đất chia ra làm nhiều mảnh vụn. Ranh giới giữa các mảnh ruộng thường dùng làm đường đi nên khi gieo có nhiều hạt vương trên bờ.
- Vì vùng đất hoang khô cằn, nên mảnh ruộng có nhiều sỏi đá, và cây gai vì thế khi gieo có những hạt rơi trên sỏi đá và hạt chen vào bụi gai.
- Ngoài ra, cũng có những vùng đất tốt được phân làm nhiều loại và năng suất của mỗi loại đất cũng khác nhau.
3. Thực ra, các môn đệ cũng chưa hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn này, nên lúc còn một mình Chúa với các môn đệ, Ngài giải thích thêm cho các ông: người đi gieo là kẻ giảng lời Chúa. Hạt rơi bên dường chỉ ngươi nghe rồi bị ma quỉ cướp mất. Hạt rơi trên sỏi đá chỉ kẻ nghe thì vui nhận, nhưng vì thiếu kiên nhẫn khi bị gian nan thử thách thì bỏ qua. Hạt rơi trong gai góc là hạng người nghe lời giảng thì vâng giữ, nhưng vì ham mê danh vọng của cải thế gian nên Lời Chúa cũng bị chết nghẹt. Hạt rơi trên đất tốt là những người nghe lời Chúa, suy niệm trong lòng rồi chịu khó đưa ra thực hành trong đời sống hằng ngày, nên sinh bông trái là phần rỗi linh hồn.
4. Có lẽ đa số chúng ta thuộc loại đất có gai. Lời Chúa gieo vào bị làm chết ngạt bởi “những lo lắng việc đời, bả vinh hoa phú quí cùng những đam mê khác”. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy khi nào ta có được sự “thinh lặng nội tâm” thì Lời Chúa dễ thâm nhập tâm hồn ta hơn. Ngược lại khi tâm hồn bị giao động bởi những thứ kể trên thì Lời Chúa vừa vào tai bên này đã lọt ra khỏi tai bên kia.
5. Tuy thế, lòng người dù có sỏi đá, vệ đường, bụi gai nhưng vẫn có thể được cầy xới chăm bón để biến đổi thành đất tốt. Hạt giống Lời Chúa được gieo xuống không nằm yên thụ động mà còn có sức cải tạo được. Chẳng hạn các vị thánh như Phaolô, Augustinô, Phanxicô Xaviê đã được biến đổi thành “đất tốt” nhờ đã được đón nhận Lời Chúa gieo vào tâm hồn cách nhẫn nại và hào phóng. Thiên Chúa đang cần chúng ta có sự nhẫn nại và hào phóng đó để Nước Trời được mùa gặt bội thu.
6. Nhìn lại cuộc đời của mình, có lẽ chúng ta phải thành thật nhận rằng từ trước tới nay chúng ta chưa đón nhận và sống Lời Chúa được bao nhiêu, bởi vì chúng ta vẫn để cho tâm hồn xao xuyến lo lắng, những đam mê sự đời, tham vọng địa vị và của cải làm chết ngạt Lời Chúa. Đấy là chưa kể những biến cố xẩy đến trong cuộc sống bản thân, gia đình, xã hội, đều là những tiếng Chúa nhắc nhở, mời gọi chúng ta, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi những đam mê, ích kỷ trong đời sống. Lời Chúa vẫn chưa bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta.
7. Truyện: Lời Chúa biến đổi tâm hồn.
Một bác nông phu quê mùa chất phác nọ đã trở lại Kitô giáo. Được Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn, Đức tin cũng như lòng mến Chúa chân thành của bác ngày càng trở nên mạnh mẽ, mạnh đến độ gặp ai, ở chỗ nào bác cũng sốt sắng nói về Chúa cho người ta nghe.
Một hôm, có một người vô thần đến gặp bác, với ý định đặt một số câu hỏi để dằn mặt bác để bác khỏi đi rao giảng về Đức Kitô.
Người vô thần hỏi:
- Ông có biết Đức Kitô mà ông vẫn hăng say quảng cáo, sinh ra ngày nào không?
Bác nông phu trả lời:
- Ngày 25 tháng 12.
Người vô thần nhún vai, trợn mắt, lắc đầu ra chiều khinh bỉ, rồi hỏi tiếp:
- Thế ông có biết Đức Kitô của ông chết năm bao nhiêu tuổi không?
Bị hỏi bất ngờ, bác nông phu còn đang ấp úng để tìm câu trả lời, thì người vô thần kia đã cướp lời: - Ông thấy không, ông có biết gì về Đức Kitô của ông đâu. Vậy mà cứ đi quảng cáo về ông ta rùm beng.
Sau lời chê bai của người vô thần, bác nông phu bình tĩnh giải thích:
- Tôi không biết nhiều về Đức Kitô. Nhưng có một điều tôi biết chắc là, hai năm trước đây, tôi là một người chè chén say sưa, tôi rất hay nóng giận, đập phá nhà cửa, đánh đập vợ con. Hai năm trước đây, không bao giờ tôi thấy vợ tôi nở một nụ cười, con cái tôi không còn xa tránh tôi nữa. Bầu khí trong gia đình tôi đã trở nên nhẹ nhõm, vui tươi. Còn riêng tôi, tôi đã bỏ được những tính xấu trước đây. Tất cả những điều ấy, tôi tin là Đức Kitô đã làm cho tôi và gia đình tôi được thay đổi. Tôi nghĩ, tôi biết như thế về Đức Kitô, cũng đã là quá nhiều rồi.
26/01 Diễn Văn Truyền Giáo
- Viết bởi Lc 10, 1-9
Diễn Văn Truyền Giáo.
Thứ Ba tuần 3 thường niên – Thánh Timôthê và thánh Titô, giám mục. Lễ nhớ.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
* Cùng với thánh Luca, thánh Timôthê và thánh Titô là những cộng tác viên trung thành của thánh Phaolô. Mẹ thánh Timôthê là người Do thái, còn chính ông thì đã được thánh Phaolô thanh tẩy. Ông đã theo thánh Phaolô trong các chuyến đi truyền giáo, rồi sau được đặt làm thủ lãnh giáo đoàn Êphêxô.
Còn thánh Titô đã được thánh Phaolô nhận ở Antiôkhia ngay từ đầu sứ vụ tông đồ. Sau đó, ông được trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng.
Thư thánh Phaolô gửi cho ông Timôthê và thư gửi cho ông Titô được gọi là các thư mục vụ, vì trong đó có nhiều lời khuyên dành cho cả những người lãnh đạo cũng như cho hết mọi thành phần trong giáo đoàn.
Lời Chúa: Lc 10, 1-9
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: ”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của người.
Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ”Bình an cho nhà này”. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ”Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Vào nhà, vào thành phố
(Lm. Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm:
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới
nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%.
Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt.
Ðức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến,
nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân.
Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ
giữa Ngài với con người.
Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh
thì càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần vào.
Ðưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta.
Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm.
Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước,
thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được.
Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở,
vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào.
Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn,
vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty...
Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.
Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó.
***
Ðâu là khuôn mặt của người được sai hôm xưa?
Hiền lành như chiên giữa bầy sói.
Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị.
Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn.
Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối.
Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ
sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư,
sống nhân từ, phục vụ.
Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau,
phải có khả năng nâng con người lên Ðấng Tuyệt Ðối.
***
Ðâu là đóng góp của người được sai hôm xưa?
Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ,
vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến.
Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm.
Cả hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật,
một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình.
Chúng ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á
mà phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ?
Ðức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào?
Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo,
nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu.
***
Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei
đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ.
Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo.
Học suy niệm và chiêm niệm nơi người Ấn giáo.
Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử.
Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng.
Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão.
Càng học, ta càng dễ giới thiệu Ðức Giêsu,
và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
SUY NIỆM 2: Diễn Văn Truyền Giáo
Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ. Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: "Khi tất cả các dân nước trên mặt đất".
Như thế, chúng ta có thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà hôm nay chúng ta suy niệm là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn nơi chương 10 này.
Những lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi suy niệm này chúng ta không thể nào suy niệm tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ của Chúa.
Ước chi mỗi người chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần để trở lại suy niệm thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi". Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy Chúa,
Này con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
SUY NIỆM 3: Quốc Khánh của Australia
Ngày 26 tháng 01 là ngày quốc khánh của người Australia.
Ngày 26/01/1788, lá cờ của nước Anh lần đầu tiên được cắm trên lãnh thổ của Australia, đánh dấu đợt định cư đầu tiên của 730 người. 730 cựu tù nhân này đã được coi như là thủy tổ của đa số người dân Australia này nay.
Ðối với chính phủ Anh thời bấy giờ, việc lưu đày các tù nhân qua một vùng đất xa lạ là một biện pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng tại các nhà tù trong nước. Nhưng đối với 730 người lần đầu tiên của Australia này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời. Dù muốn dù không, người dân Australia chính hiệu ngày nay không thể phủ nhận được sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai sinh do những con người mà xã hội muốn xua đuổi cho rảnh tay.
Ngày nay, Australia được xếp vào hạng những nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ họ không thể quên được công ơn xây dựng của cha ông họ, dù tông tích của họ có là một quá khứ xấu xa đến đâu.
Câu chuyện lập quốc của nước Australia có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng trong Kitô giáo của chúng ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan phòng ấy: nơi nào có tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.
Lịch sử của dân Israel và lịch sử ơn cứu rỗi cũng cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của con người và một chuỗi những can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người phạm tội là mỗi lần Thiên Chúa ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt đẹp hơn.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ hai Thánh Timôtê và Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.
Cũng giống như Thánh Phaolô, Timôtê mang hai dòng máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa con ngoại hôn. Nhưng cái tư thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch nối giữa Tin Mừng và văn minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.
Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật.
Ôn lại cuộc đời của ba vị Thánh thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn Chúa. Mọi người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình cứu rỗi của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được thông ban cho người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta làm, mà nhờ những gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 4: Thánh Timôthê và thánh Titô
Ti-mô-thể và Ti-tô là hai môn đệ nổi tiếng của thánh Phaolô, chính vì thế được mừng kính chung trong dịp lễ thánh Phaolô trở lại.
Ti-mô-thê sinh tại Lít-tra, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ; cha là một người ngoại giáo, mẹ theo Do Thái giáo. Thánh Phaolô, trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất, đã rửa tội cho Ti-mô-thê; từ đó Ti-mô-thê luôn theo Phaolô và trở thành cộng tác viên đắc lực cho thánh nhân. Cả khi Phaolô bị tù đày, Ti-mô-thê vẫn ở với ngài. Theo truyền thuyết, Ti-mô-thê là giám mục tiên khởi của giáo đoàn Êphêsô. Hai thơ Phaolô được đề tựa gửi cho ngài.
Ti-tô là con của một gia đình hoàn toàn ngoại giáo. Trong Công vụ Tông đồ, Ti-tô không bao giờ được nhắc đến; nhưng trong các lá thơ, thánh Phaolô đều gọi ông Ti-tô là cộng tác viên. Phaolô đã rửa tội cho Ti-tô, đem theo lên Giêrusalem để dự Công đồng các Tông đồ. Phaolô đã trao cho Ti-tô nhiều trách vụ quan trọng. Theo truyền thuyết, thánh Phaolô đã đặt Ti-tô làm giám mục cho giáo đoàn Cờ-rê-ta.
CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, Cha đã ban cho hai thánh Ti-mô-thê và Ti-tô những đức tính xứng bậc tông đồ. Xin nhận lời các thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng, khi còn ở đời này, biết sống ngay lành và thánh thiện, hầu xứng đáng đạt tới quê trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
SUY NIỆM 5: TÔNG ĐỒ ĐOÀN CỦA ĐỨC GIÊSU
Hội Thánh muốn phát triển, cần có nhiều môn đệ Đức Kitô đi làm việc Tông Đồ, để tập họp thêm nhiều người về cho Chúa. Việc Tông Đồ không phải chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là của toàn thể giáo dân biết cộng tác với các chủ chăn của mình. Vấn đề này ông Luca đã cho chúng ta nhận thức về sứ mệnh Tông Đồ của mọi Kitô hữu như sau :
1. Mọi Kitô hữu phải làm Tông Đồ cho Chúa.
2. Làm Tông Đồ là làm chứng cho sự thật.
3. Người Tông Đồ xin Chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa.
4. Muốn làm Tông Đồ phải được Hội Thánh sai đi.
5. Con đường Tông Đồ là con đường chông gai.
6. Tông Đồ phải sống tinh thần nghèo khó.
7. Làm Tông Đồ là đi cấp cứu người.
8. Muốn được bình an phải loan báo Tin Mừng.
1/ MỌI KITÔ HỮU PHẢI LÀM TÔNG ĐỒ CHO CHÚA
Đức Giêsu không chỉ muốn chọn 12 người đàn ông Do Thái làm môn đệ để họ làm việc Tông Đồ cho Ngài, mà Ngài còn muốn mời gọi muôn dân tộc. Bởi đó Ngài chọn 70 hay 72 môn đệ (x Lc 10,1a: Tin Mừng). Ta biết con số 70 (theo bản văn tiếng Hipri) hay số 72 (theo bản văn tiếng Hy-Lạp) môn đệ Đức Giêsu chọn là hình ảnh con cháu ông Noe sau lụt Hồng Thủy (x St 10), mà lụt Hồng Thủy là hình ảnh tiên báo về Bí tích Thánh Tẩy (x 1Pr 3, 20-21) ; đồng thời số 72 cũng là dòng giống dân Israel (x Xh 1,5). Do đó những ai đã nhận Bí tích Thánh Tẩy đều thuộc về dòng giống Israel mới, để Chúa Giêsu (Giacob mới) có thêm nhiều môn đệ cộng tác vào việc xây dựng và phát triển Nước Thiên Chúa, như thuở xưa một mình ông Môsê điều hành Israel không nổi, nhạc phụ ông đã khuyên nên chọn lấy 72 vị kỳ lão để tiếp tay với ông (x Xh 18,13t).
Vào thời Tân Ước, các Giám mục là hiện thân Nhóm Mười Hai của Đức Giêsu chọn, cũng cần mọi thành phần trong Hội Thánh cộng tác, như Đức Giêsu trước khi lìa biệt Nhóm Mười Một về cùng Cha, Ngài truyền lệnh cho môn đệ đi khắp thế gian tập họp thêm môn đệ cho Ngài bằng hai việc: Làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ những Lời Chúa Giê-su đã truyền (x Mt 28, 19-20), thì công việc Mục Vụ của Hội Thánh mới đạt được kết quả cao.
Vì thế giáo huấn Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 dạy: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế”. Loan báo Tin Mừng có khi trực tiếp, có khi gián tiếp cộng tác giúp đỡ các chủ chăn. Đan cử: Thánh Phaolô đã nhận ra nơi ông Timôthê có Đức Tin sâu xa, phong phú và vững chắc, vì ngay khi còn nhỏ, ông được ngồi trong lòng bà ngoại, cụ Lôít, hoặc trong vòng tay mẹ, bà Êunikê, để nghe giáo lý. Nhất là từ khi ông được thánh Tông Đồ đặt tay trong Nghi Lễ tấn phong Giám mục. Từ đó, ông Timôthê nhận được Thần Khí đầy sức mạnh, tình thương, biết tự chủ, nên không còn nhút nhát, không hổ thẹn làm chứng cho Chúa. Ông Timôthê đã đồng lao cộng khổ với ông Phaolô loan báo Tin Mừng, nhất là lúc ông Phaolô ngồi trong tù (x 2Tm 1, 1-8 : Bài đọc). Như thế, ông Phaolô và ông Timôthê đã thực hành lời kinh: “Hãy kể cho muôn dân biết những kỳ công Chúa làm” (Tv 96/95,3: Đáp ca). Và các ông đã chu toàn sứ mệnh: “Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha” (Lc 4,18 : Tung Hô Tin Mừng).
2/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT
Đó là lý do Đức Giêsu sai từng hai người môn đệ đi làm việc Tông Đồ (x Lc 10,1b: Tin Mừng). Không phải chỉ để giúp đỡ nhau, mà “đôi chứng nhân” nhằm khẳng định: làm Tông Đồ là đi loan báo sự thật. Vì theo theo luật Do Thái, một điều được xác định là chân lý, phải có ít một hay hai nhân chứng (x Dnl 19,15), hầu tất cả công việc được đoán định do miệng hai, ba người (x Mt 18,16). Nhưng chứng của hai hay nhiều người có khi còn gia tăng sự gian ác, như các chứng gian trong phiên tòa xử Đức Giêsu! Vậy “cặp chứng nhân” chỉ có giá trị khi người Tông Đồ của Chúa ý thức sống những điều sau:
- Mến Chúa phải thể hiện bằng yêu người (x Mt 22,34).
- Làm trước rồi dạy sau (x Mc 6,30).
- Phá hủy để xây dựng (x Gr 1,10).
- Đau khổ đến vinh quang (x Lc 24,26).
- Nô lệ mới làm chủ (x Mc 10,35).
- Lãnh nhận để dâng hiến (x Mc 10,28t).
- Biết chia sẻ của cải đời này mới đạt ơn cứu độ (x Lc 19,9).
Sống được những đòi hỏi như trên là dọn chỗ tâm hồn đồng loại để Chúa Giêsu đến ban phát ơn cứu độ (x Lc 10,1b).
3/ NGƯỜI TÔNG ĐỒ XIN CHỦ RUỘNG SAI THỢ ĐI GẶT LÚA
Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2a: Tin Mừng).
Thợ gặt ít: Suốt ba năm Đức Giêsu chọn và huấn luyện các Tông Đồ (Nhóm 12). Thế mà khi Ngài về trời, chỉ còn 11 người được Ngài sai đi. Đấy là thiếu về lượng! Còn về phẩm chất, Đức Tin thiếu mới đáng lo. Thực vậy trong số những người Đức Giêsu sai đi, có kẻ còn hoài nghi! (x Mt 28,16-17).
Muốn thêm người tham gia việc Tông Đồ, muốn bớt hoài nghi về Đức Tin, ta cần phải tích cực loan báo Tin Mừng, để quy tụ thêm nhiều người đến gặt lúa Nước Thiên Chúa, tức làm là cho nhiều người đón nhận được ơn cứu độ từ Hy Tế của Chúa Giêsu thiết lập, như Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Bốn tháng có qua, mùa màng mới đến! Này: Ta bảo các ngươi hãy ngước mắt lên mà nhìn: đồng lúa đã chín vàng chờ gặt ! Rồi kìa thợ gặt lĩnh công và thu lượm hoa mầu cho sự sống đời đời, để cho kẻ gieo một thể cùng người gặt đều hoan hỷ. Vì đây lời tục ngữ cũng thật: Người này gieo kẻ khác gặt! Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi không vất vả làm ra! Có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đã đến thừa hưởng công lao của họ” (Ga 4, 35-38).
Lý do Đức Giêsu nói: “Bốn tháng có qua mùa màng mới đến” là vì người Do Thái xuống giống vào tháng 11 đến 12 (mùa Giáng Sinh); mùa gặt vào giữa tháng 4 (mùa Phục Sinh). Thế thì từ mùa Giáng Sinh đến mùa Phục Sinh là bốn tháng, đây là cao điểm thời gian Đức Giêsu thực thi chức Tư Tế của Ngài trên trần gian, rồi Ngài về ngự bên hữu Chúa Cha hằng chuyển cầu cho tất cả những ai đến tham dự Thánh Lễ mà Hội Thánh được Chúa Giêsu truyền làm hiện tại hóa Hy Tế của Ngài (x 1Cr 11,23-27). Cho nên đi dự Lễ là gặt hái hoa trái cứu độ được Đức Giêsu cùng các thánh đã vất vả làm ra “mùa lúa chín vàng”.
Thế mà có mấy người biết quý trọng Thánh Lễ, đúng là mùa lúa chín thiếu thợ gặt! Thật là chua xót đối với Đức Giêsu, mới hơn 20 thế kỷ nay, những người mang danh Công Giáo nhất là bên Âu Châu hầu hết bỏ dự Lễ và tệ hơn không quan tâm đến việc rước Lễ, không gặt hái mùa lúa chín vàng do Đức Giêsu và bao nhiêu chứng nhân đã vất vả trồng hạt Lời, và tưới bón bằng máu thịt của mình, để có mùa lúa chín chờ người gặt.
4/ MUỐN LÀM TÔNG ĐỒ, PHẢI ĐƯỢC HỘI THÁNH SAI ĐI
Đức Giêsu dạy: “Chúng con hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2b: Tin Mừng). Cụ thể qua đời sống ông Phaolô, là một Biệt phái rất nhiệt thành thờ Chúa theo Luật Mô-sê, ông đã trở thành kẻ giết Chúa Giê-su Phục Sinh (x Cv 9,4). Nhưng khi được Ngài chộp lấy, huấn luyện và sai ông đi làm vườn nho cho Ngài, ông mới ý thức về tầm quan trọng việc Tông Đồ mà Ngài trao cho Hội Thánh, ông nói: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10,14-15a). Với lòng xác tín như trên, ông Phaolô trước khi đi truyền giảng Tin Mừng, ông đã đến gặp các thủ lãnh của Hội Thánh để nhận quyền Sai Đi, bằng không việc phục vụ của ông trở nên vô ích (x Gl 2,1-2).
5/ CON ĐƯỜNG TÔNG ĐỒ LÀ CON ĐƯỜNG CHÔNG GAI
Đức Giê-su dạy: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (Lc 10,3 Tin Mừng). Niềm tin “ở hiền gặp lành” chỉ có thể thấy đúng trong thế giới Phục Sinh. Còn đời này phải biết rằng “Ai càng thiết tha sống chân lý, càng gặp nhiều chống đối, nhiều kẻ ghét, và cuối cùng cô đơn"
Ta cứ nhìn vào mẫu gương sống của Đức Giêsu: Ai thánh thiện bằng Ngài ? Ai thương người bằng Ngài ? Thế mà Đức Giêsu làm Tông Đồ cho Chúa Cha chưa tròn ba năm, thì chính những kẻ đã từng thụ ơn Ngài lại đồng lõa với những kẻ giết Ngài! Trên thập gía, Ngài nhìn xuống tìm những người đã thụ ơn, họ đều trốn mất! Chỉ còn lại bọn chế diễu Ngài! Ngài cất tiếng kêu cứu nơi Chúa Cha, nhưng Cha Ngài im lặng! Thì Ngài cầu nguyện bằng Thánh vịnh 22/21,2: “Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi, nhân sao Người lại bỏ tôi!” (Mt 27,46).
Lời cầu của Tv này nói lên lời than van của người bị ngược đãi, rồi viễn tượng các dân sẽ nhận vương quyền của Thiên Chúa và họ sẽ được nghe nói về Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cũng nói lên sự cô đơn này: “Vì anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ; Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,10a.14a.16-17). Loan báo Tin Mừng có chấp nhận gian khổ mới thực sự là phục vụ vì yêu, chứ không phải vì thương mại, và lời rao giảng đến đổ máu mới minh chứng điều ta nói là chân lý quan trọng nhất.
Thánh Tông Đồ ý thức con đường theo Chúa là thế, nên ông đã nói: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập gía Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Gl 6,14). Mà nếu ta theo Đức Giêsu chỉ dừng chân ở thập giá thì ta là kẻ khốn nạn nhất trên đời (1Cr 15,19), nên ta phải hướng về mầu nhiệm Phục Sinh. Chính ông Gióp lúc quá khổ, không thể lý giải sự đau khổ của mình bằng lý luận loài người. Đau khổ của ông cũng như của loài người chỉ có thể lý giải được ý nghĩa và hiệu quả trong thế giới Phục Sinh, nên ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27).
Bởi vậy, chỉ trong mầu nhiệm Phục Sinh, “tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13).
6/ TÔNG ĐỒ PHẢI SỐNG TINH THẦN NGHÈO KHÓ
Đức Giêsu dạy: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,4a: Tin Mừng). Nghĩa là phải sống theo gương Đức Giêsu: “Ngài vốn dĩ là Đấng giàu có, nhưng vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có, nhờ sự nghèo khó của Ngài!” (2 Cr 8,9). Thì người môn đệ của Đức Giêsu cũng phải cần cù làm việc mong có thu nhập cao, đạt chỉ tiêu giàu có giống Đức Giêsu, nhưng vì phục vụ Tin Mừng mà trở nên nghèo để đồng loại được giàu có về Đức Tin; còn ta chấp nhận nghèo khó như Thầy Giêsu không có nơi ngả đầu (x Lc 9, 58).
Vậy người môn đệ Đức Giêsu hãy sống nghèo cách cụ thể như Ngài dạy :
- Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép! (x Lc 10,4a: Tin Mừng).
- Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho. (Lc 10, 7-8: Tin Mừng).
- Chính Chúa mới là gia nghiệp đời mình. (x Tv 16/15,5)
7/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ ĐI CẤP CỨU NGƯỜI
Đức Giêsu dạy: “Đừng chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10,4b: Tin Mừng). Lời căn dặn này nhắc lại cho ta chuyện ngôn sứ Ê-ly-sa sai đầy tớ là anh Ghêkhaji, cầm gậy của thầy chạy mau đến nhà bà lớn thành Su-nem để đặt gậy lên xác con trai bà, làm cho cậu hồi sinh. Đó là việc cấp bách, nên ngôn sứ Êlysa dặn đầy tớ: “Đừng chào hỏi ai” (x 2V 4,18-37). Thế thì việc loan báo Tin Mừng là hành động cứu cấp đồng loại thoát tay tử thần, nên không còn để ý đến việc chào hỏi hay từ giã ai (x Lc 9, 61t). Nghĩa là không có gì làm bận tâm để phải trì hoãn việc loan báo Tin Mừng.
Vì mục đích loan báo Tin Mừng là để cho những người có trái tim biết nghe, thì Lời Chúa sẽ thanh tẩy tội lỗi tâm hồn họ (x Ga 15,3), để đưa họ gia nhập Hội Thánh, qua dấu chỉ các Tông Đồ chữa lành những người đau yếu trong thành, mà chữa lành bệnh chính là đã tha tội cho họ, cất nguyên nhân gây ra bệnh (x Ga 9,2), và nói với họ: “Triều đại Thiên Chúa (Hội Thánh) đã đến gần các ông” (Lc 10,9: Tin Mừng)
8/ MUỐN ĐƯỢC BÌNH AN PHẢI LOAN BÁO TIN MỪNG
Đức Giêsu dạy: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này !” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em” (Lc 10, 5-6: Tin Mừng). Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn phát sinh sự bình an: Ai biết đón nhận Tin Mừng, sự bình an đến với họ; bằng không sự bình an trở về cho sứ giả Tin Mừng. Nói cách khác, làm Tông Đồ là đem bình an cho môi trường sống và phát sinh bình an trong nội tâm người loan báo. Bởi vì chính Tin Mừng có sức mạnh ban ơn, như Chúa nói: “Mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.” (Is 55,10-11).
THUỘC LÒNG: Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế (HCHT số 35).
Linh mục Giuse Đinh Quang Thịnh
SUY NIỆM 6: THÁNH TIMÔTHÊ VÀ THÁNH TITÔ
Thánh Timôthê sinh tại Lystres, miền Lycaonia Thổ Nhĩ Kỳ. Cha ngài là người ngoại giáo, còn mẹ ngài theo Do Thái Giáo, nhưng sau đã trở lại. Theo lời truyền tụng thì thánh nhân đã tin theo Tin Mừng nhờ lời giảng dạy của thánh Phaolô tông đồ trong cuộc du hành duy nhất của ngài. Khi đến lần thứ hai, thánh Phaolô đã chọn ngài làm phụ tá, và ngài theo thánh tông đồ đi giảng khắp miền Tiểu Á, Macedoine và Hy Lạp. Ngài được đặt làm Giám Mục coi sóc giáo đoàn Êphêsô. Thánh Phaolô đã đặc biệt nâng đỡ chỉ dạy và khích lệ ngài trong nhiệm vụ coi sóc đàn chiên Chúa qua những bức thư gửi cho ngài.
Nhân một buổi lễ tế dâng kính thần Điana của dân thành Êphêsô, ngài đã công khai chỉ trích và chính ngài bị dân chúng bắt và ném đá (24/01/97). Thi hài được giáo dân đem chôn ở đỉnh núi gần đấy.
Thánh Titô cũng trở lại đạo nhờ lời thánh Phaolô và được chọn làm cộng sự viên của ngài, chia sẻ mọi công việc tại Corintô và tại Crêta. Vì lòng nhiệt thành và trung tín trong việc rao giảng Tin Mừng, ngài đã trở nên bạn nghĩa thiết của thánh Phaolô. Chính trong thư (2 Cor 4, 6) thánh Phaolô viết khi còn ở Troas, đã thú nhận điều này: "Nhưng Thiên Chúa, Đấng an ủi những người cùng khốn, đã đến viếng thăm chúng tôi qua sự đến thăm của Titô". Ngài được thánh tông đồ sai đến Corintô với xứ mạng đặc biệt là quyên góp tiền để an ủi và giúp đỡ giáo dân Do Thái. Ngài đã hoàn tất sứ mạng cách hết sức khôn ngoan. Ngài cũng đã hướng dẫn vị tông đồ đến Crêta, và sau cùng ngài được thánh Phaolô đặt làm Giám Mục tại đây. Vì thập giá Đức Kitô, ngài đã phải chịu khổ sở cùng cực đối với dân Dalmatas. Sau cùng, ngài đã kết thúc cuộc đời trong tay Chúa, hưởng thọ 94 tuổi.
SUY NIỆM 7: THÁNH TIMÔTHÊ VÀ THÁNH TITÔ
Ai được mời gọi gặt lúa? Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ; không phải chỉ là 12 chi tộc Israel, mà là mọi người thuộc mọi dân nước. Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt. Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.
Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui: Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em. Một lời chào thân thiện: Bình an cho nhà này.
Một thứ hành trang nhẹ tênh: không túi tiền, bao bị, giày dép. Một việc phải làm: chữa lành những người ốm đau. Một thái độ phải có: khiêm tốn và siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.
Nếu hôm nay Ðức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì? Chắc Ngài sẽ dặn khác, vì cánh đồng con người đã đổi khác. Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè, phải biết nói sao để họ hiểu được, nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần, và sống hài hòa với lời mình giảng.
Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo, sẽ có ví tiền và máy tính xách tay, sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại. Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề. Hành trang không được trở thành những cản trở khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa và xa lạ với con người, nhất là những người nghèo khổ.
Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời, đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói. Chúng ta cứ phải trăn trở hoài để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ: khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc, khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông; để những việc chúng ta làm cho họ xoa dịu được nỗi đau nhức nhối, và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần, đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.
Các môn đệ hớn hở mừng vui khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy. Vương quốc của Satan bị đẩy lui bởi những con người bình thường và yếu đuối. Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui, như người tìm được viênsw ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần. Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
SUY NIỆM 8: Thánh Timôthê và Thánh Titô Lc 10,1-9
(http://gpbuichu.org//Tâm Phúc)
Sau khi tuyển chọn nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu tiếp tục chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác để các ông đi rao giảng Tin Mừng. Chúa mời gọi họ hãy ra đi như những thợ gặt trên cánh đồng lúa chín mênh mông. Lời mời gọi truyền giáo của Chúa cũng được gửi đến với tất cả mọi người. Với Thánh Timôthê và Thánh Titô, các ngài cũng đã đáp lại lời mời gọi của Chúa khi cộng tác đắc lực với Thánh Phaolô trở nên những thợ gặt nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo.
Trong thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô khẳng định “tin là do bởi nghe, còn nghe là nhờ rao giảng lời Đức Giêsu”. Quả thật, sứ vụ rao giảng Tin Mừng xuất phát từ chính lệnh truyền của Chúa Kitô. Khi bắt đầu cuộc đời công khai, Chúa đã tuyển chọn nhóm Mười Hai và giờ đây Chúa lại “chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác” để các ông đem bình an và Tin Mừng đến cho mọi người. Lệnh truyền đó xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa trước thực tế “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Vì thế, Chúa đã mời gọi các môn đệ “hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Trên hành trình truyền giáo, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho các ông thấy những khó khăn tựa như “chiên con đi vào giữa bầy sói”. Người cũng không quên căn dặn các ông cần chuẩn bị những hành trang cần thiết. Đó là tinh thần nghèo khó, thanh thoát khỏi của cải vật chất để chỉ chú tâm vào lời rao giảng về niềm vui của Tin Mừng.
Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, thánh thánh Timôthê và thánh Titô mau mắn đáp lại. Các ngài đã nhiệt thành cộng tác với thánh Phaolô trong việc truyền giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh thánh Phaolô, cả khi Phaolô bị tù đày, Timôthê vẫn ở với ngài. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập. Khi phục vụ các cộng đoàn Êphêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ. Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật. Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy thánh Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa không ngừng mời gọi mỗi người chúng con hãy hăng say ra đi rao giảng Tin Mừng. Dẫu biết rằng, hành trình truyền giáo sẽ không thiếu những khó khăn, gian khổ, nhưng xin cho chúng con noi gương nhân đức của hai thánh Timôthê và thánh Titô, biết nhiệt thành rao truyền tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Amen.
SUY NIỆM 9: Thánh Timôthê và Thánh Titô Lc 10,1-9
(http:// http://loichua.donboscoviet.org/// Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB)
Ghi nhận lịch sử – Phụng vụ
Ghi chú cổ nhất về Thánh lễ kính thánh Timôtê (thế kỷ XII), thường được mừng ngày áp lễ trở lại của thánh Phaolô (tức là ngày 24.01). Hiện tại được mừng vào ngày 26.01, không nhắm tới hai vị Giám mục tử đạo. Lời kinh riêng cho thánh Titô chỉ xuất hiện trong lịch Rôma vào ngày 06.02.1854; lời kinh này thành kinh chung cho cả hai vị thánh.
Thánh Kinh cho biết, Timôtê, người môn đệ yêu dấu của thánh Phaolô, có người cha ngoại giáo và người mẹ Do Thái tên Eunice, đã trở lại (2 Tm 1,5); ngài được dạy dỗ trong một gia đình có đức tin; thánh Phaolô ghi chú bà nội Lois đã dạy cho Timôtê biết luật Chúa (2 Tm 3,14-15). Nhờ thánh Phaolô, Timôtê trở lại trong chuyến truyền giáo lần đầu; Timôtê cũng đi theo thánh Phaolô trong chuyến truyền giáo lần thứ hai và thứ ba, theo yêu cầu của giáo đoàn Lystre (Cv 16,1-3) và lần này, ngài đã chạm trán với những khó khăn của đời Tông đồ (Cv 17,14-15 ; 18,5-6). Thánh Phaolô buộc ngài phải cắt bì để có thể dễ dàng chu toàn sứ vụ giữa người Do Thái. Người ta thấy ngài đi theo thánh Phaolô và được gởi sang Macédoine (Cv 19,22) và được phó thác các cộng đoàn vùng Thessalonique (1 Tx 3), sau đó là Côrinthô (1 Cr 4,17 ; 16,10) ; rồi người ta lại gặp ngài trong nhóm đi theo thánh Phaolô (Cv 10,24). Thánh Phaolô gởi cho ngài một lá thơ từ Êphêsô (1 Tm 1,3) là nơi ngài đang thực hiện sứ vụ giữa cộng đoàn, sau đó một thư khác, trong đó thánh Phaolô gợi lại những giọt nước mắt khi chia tay (2 Tm 1,4).
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự trung kiên của Timôtê trong các cơn thử thách. Tình bạn đã nối kết cả hai (x.Pl 2,19-33) thúc đẩy Timôtê ở lại với thánh Phaolô trong lần bị bắt thứ nhất; cũng chính thánh Phaolô cho gọi ngài đến Rôma trong lần bị bắt thứ hai. Chúng ta không biết lúc nào ngài đã lãnh nhận việc đặt tay; có lẽ chúng ta có thể thấy trong đoạn 1Tm 6,12: “Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng”. Không có gì minh chứng rằng Timôtê đã chịu tử đạo, có lẽ ngài đã qua đời tại Êphêsô.
Về thánh Titô, sinh ra trong một gia đình ngoại giáo, đã được thánh Phaolô rửa tội trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất. Ngài theo thánh Phaolô và Barnaba lên Giêrusalem (Gl 2,1-3), tại đây thánh Phaolô chống đối việc ngài bị bắt phải cắt bì, vì xuất thân từ ngoại giáo. Khi thánh Phaolô thuật lại việc đến Troa, ngài muốn gặp Titô, “người anh em của tôi” (2 Cr 2,13), cho thấy ngài rất tin tưởng Titô, như người phục vụ trung gian giữa thánh nhân và cộng đoàn Côrinthô để tái lập lại sự hoà thuận giữa Giáo hội này với thánh nhân (2 Cr 7,5-7). Thánh Phaolô đặt Titô đứng đầu cộng đoàn ở Crète. Trong đoạn Titô 1,4 thánh Phaolô còn gọi Titô là “người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung”. Thánh Phaolô còn viết thư bảo ngài đi theo mình từ Nicopolis đến Épire, có lẽ từ đây thánh Phaolô đã sai ngài đi rao giảng vùng Dalmatie. Thánh Timôtê được vùng này tôn kính cách đặc biệt. Theo truyền thuyết, thánh Titô qua đời trong cộng đoàn của ngài tại Crète, lúc tuổi đã xế chiều.
Thông điệp và tính thời sự
Kinh Tổng nguyện, chung cho cả hai vị thánh, gợi lên nhân đức xứng đáng với chức vị Tông đồ mà Thiên Chúa ban cho hai môn đệ trung thành của thánh Phaolô. Lá thư thứ hai gởi cho Timôtê ca tụng đức tin chân thành của người con yêu quí, đã khuyến khích: Tôi nhắc nhớ anh phải luôn gợi lên trong anh ân sủng của Thiên Chúa mà anh đã lãnh nhận khi tôi đặt tay cho anh.
Ân sủng của Thiên Chúa mà thánh Phaolô nói đến là “đặc sủng” mà Timôtê đã lãnh nhận và Thánh hiến ngài trong sứ vụ mục tử. Đánh thức ân sủng này, có nghĩa là làm sống lại ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là Thần trí sức mạnh, tình yêu và làm chủ bản thân.
Cũng trong lá thư gởi cho Timôtê, thánh Phaolô nói với người môn đệ của mình: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” thánh Phaolô đã nhắc nhở ngài việc sửa sai anh em: “Hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2). Đó chính là các nhân đức Tông đồ mà các mục tử luôn cần thiết, được kêu gọi tỉnh thức, không yếu đuối và không thoả thuận.
Kinh Tổng nguyện kêu gọi chúng ta sống công chính và đạo đức trong thế giới này, lấy hứng từ lá thư thánh Phaolô gởi cho Titô : “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang (Tit 2,11-13). Câu đáp cho bài kinh Magnificat: “Chúng ta hãy sống công chính và ngay thẳng, chờ đợi ngày Chúa đến”, cũng nhấn mạnh lời đòi hỏi trung tín theo nghĩa cánh chung của cuộc đời Kitô hữu.
Trong lá thư gởi cho Titô, thánh Phaolô xin người môn đệ của mình minh chứng một mẫu gương đức hạnh ngay trong chính bản thân (2,7); cũng thế, ngài động viên mọi hạng người sống theo tình trạng và điều kiện của mình. Dù vậy, nền tảng tín lý của các trách nhiệm chính yếu và đặc thù đều là một cho mọi người: “Niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên Chúa, Đấng không hề nói dối, đã hứa từ thuở đời đời” (1,2). Những việc dấn thân của chúng ta trong hiện tại là sống trong một tình trạng tỉnh thức, sẵn sàng chờ đợi sự kiện cánh chung của Chúa. Sự công chính và lòng đạo đức mà chúng ta được gọi để sống, là trung tâm của nền luân lý Kitô giáo. Sự công chính (theo nghĩa Thánh Kinh) đi kèm theo lòng đạo đức, có nghĩa là tình yêu bác ái sẽ làm cho các mệnh lệnh và trách nhiệm trở thành một ách êm ái và một gánh thật nhẹ nhàng.