Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
02/01 Gioan làm chứng về Chúa Giêsu
- Viết bởi Ga 1,19-28
Gioan làm chứng về Chúa Giêsu.
Thứ Ba trước lễ Hiển Linh – Thánh Baxiliô Cả và thánh Grêgôriô Nazianzênô. Lễ nhớ.
"Có một Ðấng sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi"
* Thánh Baxiliô sinh tại Xêdarê miền Capađôxia năm 330, trong một gia đình Kitô giáo. Vốn là người tinh thông văn học lại nổi tiếng nhân đức, ban đầu thánh nhân chọn cuộc đời đan tu. Đến năm 370, người được cắt đặt làm giám mục cai quản nơi người sinh trưởng. Người tích cực chống lại giáo phái Ariô, viết nhiều tác phẩm. Đặc biệt, người đã soạn thảo những quy luật cho đời sống đan tu, mà cho đến bây giờ, nhiều đan sĩ đông phương vẫn còn tuân giữ. Người hết sức chăm lo cho người nghèo. Người qua đời ngày 1 tháng Giêng năm 379.
* Thánh Grêgôriô cũng sinh năm 330 gần thành Nadien. Người đi rất nhiều nơi để học hỏi, người đã kết thân với thánh Baxiliô, đã chọn cuộc sống tu hành, nhưng sau đó thụ phong linh mục, rồi được chọn làm giám mục. Năm 381 người được đặt lên cai quản giáo phận thành Công-tăng-ti-nô-pô-li; tuy nhiên, 18 tháng sau, vì có sự chia rẽ và bè phái trong địa phận, người lui về thành Nadien và qua đời tại đó ngày 25 tháng Giêng năm 389 hay 390. Hậu thế thường gọi thánh nhân là nhà thần học vì người vừa am tường đạo lý cao siêu, vừa có tài hùng biện.
LỜI CHÚA: Ga 1,19-28
Ðây là chứng của Gioan, khi những người Do thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các Thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?"
Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Ðấng Kitô". Họ liền hỏi: "Như vậy là thế nào? Ông có phải là Elia chăng?" Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia". "Hay ông là một đấng tiên tri?" Gioan đáp: "Không phải". Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?" Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo". Và những người đã được sai đến đều thuộc nhóm biệt phái.
Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không là Elia, hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?" Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Việc này xảy ra tại Betania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Có một vị đang ở giữa các ông
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Suy niệm:
Người ta chỉ lớn lên khi ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm về mình.
Người ta chỉ lớn hết mức khi không còn coi mình là trung tâm.
Trung tâm được đặt nơi Thiên Chúa và tha nhân.
Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng
trong con cái loài người, không ai lớn hơn ông Gioan Tẩy Giả (x. Mt 11,11).
Gioan lớn vì ông là vị ngôn sứ giới thiệu trực tiếp Đấng Mêsia là Đức Giêsu,
một điều mà không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước được diễm phúc làm.
Nhưng Gioan cũng lớn vì ông đã chấp nhận nhỏ đi:
“Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3, 30).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cách Gioan làm mình nhỏ lại.
Khi Gioan đã nổi tiếng bởi lối sống khắc khổ và lời giảng mạnh mẽ,
thì người Do Thái, người Pharisêu, sai các tư tế và các thầy Lêvi
từ Giêrusalem đến với Gioan đang làm phép rửa ở bên kia sông Giođan.
Họ muốn biết ông Gioan là ai.
Gioan đã không nhận mình là Đấng Kitô, hay Êlia tái giáng (Ml 4,5),
hay vị Ngôn Sứ cao cả đã được ông Môsê loan báo (Tl 18, 15. 18),
mặc dù có người đã nghĩ ông là như vậy.
Những lời từ chối của Gioan càng lúc càng ngắn hơn và sắc hơn.
“Tôi không phải là Đức Kitô. - Tôi không phải là. - Không. ”
Gioan từ chối những chức danh mà nhiều người thèm muốn.,
bởi lẽ ông biết rõ mình là ai.
Khi bị bắt buộc phải đưa ra một câu trả lời về con người của mình,
Gioan đã chọn câu của ngôn sứ Isaia (40, 3).
“Tôi là tiếng người hô trong hoang địa.
Hãy sửa cho thẳng con đường của Chúa. ”
Gioan nhận mình chỉ là người dọn đường cho một Đấng đến sau,
Đấng ấy là người ông không xứng đáng cởi quai dép.
Cởi quai dép của chủ là việc chỉ dành cho người nô lệ thấp kém nhất.
Gioan là người làm chứng tuyệt vời về ánh sáng (Ga 1, 7-8).
Ông là “tiếng” làm chứng cho “Lời” là Con Một Thiên Chúa.
Cám ơn Gioan vì nhờ ông mà ta gặp được Ánh Sáng thật.
Cám ơn Gioan vì tiếng của ông dẫn ta đến với Lời của Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Augustinô)
Suy Niệm 2: Ở lại trong Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người luôn đi tìm sự sống. Nhưng không phải ai cũng biết đường. Sự sống chỉ có trong Thiên Chúa. Nên thánh Gio-an dạy ta hãy ở lại trong Chúa.: “Chính anh em sẽ ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha. Và đây là điều mà chính đức Ki-tô đã hứa ban cho chúng ta: sự sống đời đời”. Ma quỉ là cha sự dối trá luôn cám dỗ con người rời xa Chúa. Như E-và. Thánh Gio-an nhấn mạnh điều này để tín hữu khỏi lầm lạc: “Tôi viết cho anh em những điều ấy để nói về những kẻ tìm cách làm cho anh em đi lạc đường”. Vì thế phải chết. Ta cần biết phân biệt. Chúa đã ban cho ta Thần Khí. Để ta nhận biết sự thật: “Nhưng vì dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự- mà dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá- thì theo như dầu ấy đã dạy anh em, anh em hãy ở lại trong Người”.
Thánh Gio-an Tẩy giả là người tràn đầy Thần Khí. Nên ngài có phân định rõ ràng. Ngài biết mình không là gì. Dù bấy giờ ngài đã nổi danh, được nhiều người mến mộ. Thậm chí người ta còn coi ngài là Đấng Cứu Thế. Nhưng thánh nhân kiên quyết phủ nhận. Ba lần nói “không” để phủ nhận mọi phù hoa ảo ảnh. Ngài nhận tự bản thân mình chẳng là gì. Có là gì là ở trong Thiên Chúa. Phủ nhận mình là khẳng định Thiên Chúa. Ra khỏi bản thân để ở trong Thiên Chúa. Nhờ ở trong Thiên Chúa mà có tất cả.
Vì ở trong Thiên Chúa nên thánh Gio-an luôn ở trong chương trình của Thiên Chúa. Ở trong chương trình của Thiên Chúa nên thánh Gio-an luôn giữ đúng vai trò của mình. Là tiếng cho Ngôi Lời: “Tôi chỉ là tiếng người hô trong hoang địa”. Là người đi mở đường cho Đấng Cứu Thế: “Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi”. Là phù rể cho chàng rể. Là hình bóng báo trước Thiên Chúa: “Tôi đây làm phép rửa trong nước”. Nhưng Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Là tiền hô đi trước đại vương: “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”.
Nhờ ở lại trong Thiên Chúa, Gio-an đã làm tròn nhiệm vụ. Nên ngài trở nên cao trọng nhất trong số nam nhân. Và đóng góp phần quan trọng cho công cuộc Cứu Thế thành công. Đem lại ân phúc lớn lao cho mọi người.
Suy Niệm 3: Lời Chứng Của Gioan
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Con người thường mang tâm trạng thích được khen, người nhận lời khen cảm thấy tâm hồn thoải mái, vui tươi, phấn khởi. Ðó là một nghệ thuật để khuyến khích người khác hăng hái tiếp tục công việc họ đang làm ngày càng khá hơn. Trong gia đình, người chồng khen người vợ biết trang hoàng căn phòng lịch sự, sáng sủa, đơn sơ sẽ làm cho người vợ thương mến người chồng hơn, hoặc người chồng được vợ khen là biết chọn màu áo trang nhã, tiệm may vừa khít trông đẹp, phải chăng tình thương nồng ấm, đậm đà giữa vợ chồng trong gia đình càng tăng thêm hạnh phúc hơn.
Nếu một người nhân viên trong sở làm, người giám đốc mỉm cười khen một cách thành thực là anh đi làm rất đúng giờ có phải là một ích lợi lớn lao cho anh, vì được ông chủ để ý đến mình và biết đâu anh ta nhờ đó mà siêng năng, chăm chỉ hơn trong công việc của mình. Cho nên, khen là một điều nên thực hiện khi có thể đối với nhau. Tuy nhiên, điểm tác hại sâu xa nhất là khen hời, khen quá hóa nịnh là chuyện không nên. Người ta không có mà chúng ta đưa lên tận mây xanh làm họ mở mắt không ra, không nhìn thấy khả năng thực sự của mình và làm họ cứ ảo tưởng nghĩ rằng mình giỏi thật, đó thật là một chuyện nguy hiểm và là chuyện tâm lý bình thường của con người. Có một điểm nữa là từ đó con người ưa nói quá về mình. Chúng ta không có nhưng người ta nịnh gán cho mọi thứ tài giỏi hay ho, chúng ta cũng cứ nhận bừa lấy và trở thành như là của mình để rồi cứ nhận tiếp những lời khen quá đáng như thế.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Gioan Tẩy Giả đã cho chúng ta một bài học trung thực về chính cuộc đời của ông. Khi những người Do Thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông là ai? Ngụ ý của họ là muốn biết Gioan có phải là Ðức Kitô, Ðấng phải đến chăng? Gioan xác nhận ngay: "Tôi không phải là Ðức Kitô". Ðức Kitô thì chắc hẳn Gioan không dám tự nhận nhưng ông có thể nhận mình là Elia được, vì có ai biết được Elia đâu, người ta chỉ nghe truyền thuyết là Elia không chết, ông ngồi trên xe lửa mà về trời và sau này ông sẽ trở lại. Nhưng Gioan Tẩy Giả cũng không nhận mình là Elia và ngay cả người ta hỏi: "Ông có phải là một tiên tri không?" vì Gioan cũng làm nhiều điều lạ, ông kêu gọi mọi người ăn năn hối cải và người ta đến rất đông để nhận lãnh phép rửa do ông ban cho. Ông cũng có thể nhận mình là một tiên tri nào đó thì có ai biết đến, thế nhưng ông vẫn trả lời: “Tôi không phải là một tiên tri" mà ông tự nhận như sau: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hãy sửa đường cho ngay thẳng để Chúa đi", như lời tiên tri Isaia đã loan báo.
Một con người thấp hèn với địa vị khiêm tốn, nào ai trong chúng ta chấp nhận được tinh thần như Gioan Tẩy Giả. Và còn hơn thế nữa, Gioan đã nhìn nhận con người kém cỏi của mình so với Ðấng Cứu Thế mà ông đang rao giảng: "Ðấng sẽ đến sau tôi nhưng tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Ngài". Một câu nói khác mà Chúa Giêsu đưa ra để cho chúng ta noi gương, Chúa Giêsu đã nói: Khi vào bàn tiệc hãy ngồi chỗ rốt hết để sau đó người ta mời mình lên nơi cao có phải vinh dự hơn không?" Còn nếu chúng ta ngồi vào chỗ nhất, chỗ nhì thì sau đó người ta sẽ lại đến nói với chúng ta: "Xin nhường chỗ cho vị này" có phải là chúng ta xấu hổ mà ngồi lui xuống dưới chăng.
Khi người khác nhờ chúng ta một việc gì trong khả năng mà chúng ta có thể làm được thì chúng ta sẽ giúp họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn khiêm tốn nói: "Nếu không có gì trở ngại, tôi sẽ làm giúp cho anh", hay "theo khả năng của tôi, tôi hy vọng giúp được anh". Nói thế không hẳn là chúng ta thiếu tự tin hay không sốt sắng sẵn sàng trong những công việc người khác nhờ chúng ta. Nhưng nói như vậy là chúng ta nói lên sự tế nhị, sự khiêm tốn trong khả năng Thiên Chúa ban cho mỗi người trong chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con bắt chước thánh Gioan Tẩy Giả có một tinh thần khiêm nhu, ôn hòa để qua cuộc sống của chúng con, mọi người nhận ra được khuôn mặt nhân hậu, từ ái bao la của Chúa. Amen.
Suy Niệm 4: Ngài đang ở giữa anh em.
Vào một đêm trăng. Thích Ca ngồi giữa các đệ tử, ngài lấy ngón tay chỉ mặt trăng và nói: “Kia là mặt trăng, cứ ngó theo ngón tay ta thì thấy, nhưng đừng tưởng ngón tay ta là mặt trăng”.
Tin Mừng hôm nay cũng đề cập đến một cuộc đối thoại tương tự giữa Gioan Tẩy giả và những biệt phái đến từ Yêrusalem. Họ đặt ra ba hình ảnh về về Gioan. Trước hết, họ hỏi ông có phải là Đấng Kitô không? Thật thế, người Do Thái đã và vẫn còn mong đợi Đấng Kitô, nhưng không ai có ý niệm đích xác về Ngài: kẻ thì nghĩ đó là Đấng đem hòa bình đến cho nhân loại, người thì cho đó là Đấng đến thiết lập sự công chính, một số đông hy vọng đó là vị anh hùng sẽ lãnh đạo dân Do Thái đi chinh phục toàn thế giới, có người còn hình dung đó là một siêu nhân đến từ Thiên Chúa. Câu trả lời phủ định của Gioan ngầm hiểu rằng Đấng Kitô không phải là người như các ông nghĩ, nhưng nếu chịu khám phá, các ông sẽ nhận ra Ngài đang ở giữa các ông.
Họ lại hỏi ông có phải là Êlia mà theo tục truyền đã được đưa về trời cách kỳ diệu và bây giờ lại xuất hiện không? Người Do Thái vẫn tin rằng trước khi Đấng Kitô đến. Êlia phải trở lại để chuẩn bị cho thế giới đón nhận Ngài, nhất là sẽ phong vương cho Ngài để được gọi là Kitô. Nhưng Gioan đã chân thành nhận mình không phải là Êlia.
Cuối cùng họ hỏi ông có phải là tiên tri không? Hỏi như vậy là vì có lời trong sách Thứ luật: “Thiên Chúa sẽ cho nổi dậy một tiên tri như ta” (18,15). Người Do Thái có khi hiểu lầm và áp dụng vào Đấng Cứu thế (Cv 6,k4), có khi cho đó là một đại tiên tri, như Isaia, Yêrêmia (Mc 8,28), nhưng Gioan lại từ chối và cho mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc: “Hãy dọn đường Chúa”.
Gioan đã làm chứng cho Chúa trong sự khiêm tốn. Người Kitô hữu cũng phải làm chứng cho Chúa về nhiều phương diện: không những giơ ngón tay chỉ Chúa Giêsu cho người khác, mà còn phải là chứng nhân bằng chính cuộc sống nữa. Đó là sứ mạng cao cả mà chúng ta cần nhiều ơn Chúa để có thể chu toàn trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Suy Niệm 5: Khiêm tốn khi làm chứng nhân cho Chúa
Có một linh mục đã cao niên nổi tiếng là đạo đức. Trong một dịp nọ, ngài bị một bà nói xấu, bôi nhọ đến danh thơm tiếng tốt của ngài. Bà ta vu khống những chuyện xấu xa mà trong cuộc đời của ngài chưa hề có! Khi chuyện đến tai ngài, ngài chỉ nhắm mắt lại và âm thầm trong lời cầu nguyện, đồng thời ngài vẫn tỏ vẻ vui tươi và hăng say trong mọi công việc.
Đến một hôm, chính người nói xấu đến để xin lỗi ngài, ngài chỉ tươi cười và nói: “Tôi không biết bà là người nói những điều đó cho tôi, nhưng kể từ khi tôi biết chuyện đến giờ, tôi không bao giờ quên cầu nguyện cho người đã nói những điều đó và tôi hy vọng người đó được bình an. Hôm nay, lời cầu nguyện của tôi được thành hiện thực, tôi rất vui mừng và tạ ơn Chúa, xin Chúa tiếp tục chúc lành cho bà”.
Sau cuộc gặp gỡ đó, người phụ nữ đã một thời buông ra những lời độc địa không thương tiếc đến người đã sinh thành và nuôi dưỡng mình trong đời sống đức tin, nay nhờ tấm lòng bao dung, đại lượng, nhân hậu của ngài, bà ta đã sám hối và thay đổi đời sống, siêng năng cầu nguyện và hy sinh hơn trước nhiều.
Hôm nay, Lời Chúa đề cập đến cuộc đối thoại giữa Gioan Tẩy Giả và một số Tư tế và thầy Lêvi, họ đặt ra cho Gioan những câu hỏi liên quan đến thân thế và sứ vụ của ông. Họ nói: ông có phải là Đấng Kitô, hay Êlia, hoặc có phải là tiên tri nào đó không? Cả ba câu hỏi đều bị Gioan phủ nhận. Ông chỉ nhận mình là người dọn đường cho Đức Chúa, khi Ngài đến, ông không đáng cởi giây dép cho Ngài. Như vậy, Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế trong sự khiêm tốn, ngài không nghĩ đến thân thế và uy tín của mình để tìm cách nổi nang, nhưng khiêm tốn nhận mình là tôi tớ, đến để phục vụ cho con người và sứ vụ của Đấng Thiên Sai.
Trong cuộc sống hiện nay, nhiều người nghĩ rằng: truyền giáo là phải làm những chuyện lớn lao vĩ đại, hay đưa ra những kế hoạch kếch xù, vĩ mô, những khái niệm trìu tượng mang tính xuyên thời đại... Nhưng chúng ta quên mất một điều, những thứ đó nhiều khi làm cho con người ngày hôm nay: “Kính nhi viễn chi”. Nhưng sự khiêm tốn, hiền hậu, nhân từ sẽ làm lay động lòng người và có sức cải hóa, biến đổi con người hôm nay cách dễ dàng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho hình ảnh, lời nói và cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Giả được hiện tại hóa trong đời sống đạo của chúng con và trong công cuộc loan báo Chúa cho anh chị em xung quanh. Amen.
Ngọc Biển SSP
01/01 Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
- Viết bởi Lc 2, 16-21
Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
Thứ Hai – LỄ ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA. Lễ trọng.
Ngày thứ tám tuần Bát Nhật Giáng Sinh. Ngày thế giới cầu nguyện cho hòa bình.
Bổn mạng Giáo Phận Long Xuyên.
"Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi... và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giêsu".
Lời Chúa: Lc 2, 16-21
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
LỄ ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA
Lời Chúa: Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21
Contents
1. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ
2. Nhân loại mới--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
3. Cưu mang và sinh hạ một thế giới mới--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Nhân loại mới--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa--ĐTC Bênêđictô XVI
6. Lắng nghe và suy nghĩ--GM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
7. “Xin Chúa chúc lành”--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
8. Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
9. Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa (Lc 2,16-21)--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
10. Thánh Maria Mẹ Thiên Chúa--Lm Giuse Đinh Tất Quý
11. Thế giới đang khao khát hòa bình-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
12. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
13. Nữ Vương bình an cầu cho chúng con--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
14. Muốn có hòa bình, hãy lắng nghe như Mẹ Maria--Lm. Giuse Lê Danh Tường
15. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời—Lm Đan Vinh
16. Để nên con thảo của Mẹ Maria--Lm. Đan Vinh
17. Vẫn có ‘‘bông hồng cài trên ngực áo’’--Lm. Giuse Trương Đình Hiền
18. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời--5 phút Lời Chúa
19. Mẹ Thiên Chúa--GM Arthur Tonne
20. Tại sao lại ‘Mẹ Thiên Chúa’?--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
21. Mẹ Thiên Chúa – Mẹ chúng ta--Anmai
22. "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời"--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
23. Thinh lặng và lắng nghe--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
24. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời--Lm. Tạ Duy Tuyền
25. Hãy giữ nụ hôn của Mẹ--Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
26. Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
27. Nữ Vương Hoà Bình--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
28. Lễ Mẹ Thiên Chúa--Phúc Âm Hằng Ngày - Radio Veritas Asia
29. Tuyệt vời--Lm. Đỗ Vân Lực
30. Nữ Vương Hòa Bình--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
31. Hồng Ân Cao Vời--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
32. Mẹ mẫu gương--Lm Micae Vũ An Lộc
33. Mẹ Chúa--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
34. Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa--JM. Lam Thy
35. Thiên chức làm mẹ--Trầm Thiên Thu
36. Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời--P. Trần Đình Phan Tiến
37. Công đức sinh thành--Lm. Jos. DĐH
38. Mẹ Thiên Chúa--Lm. Cao Thế Bình
39. Lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa 2019--Lm. Inhaxio Hồ Thông
40. Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời--Noel Quesson
41. Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời--Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
42. Là Mẹ Thiên Chúa nhưng Mẹ cũng là một người phụ nữ bình dị--Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên
43. Tình yêu đắm chìm trong suy niệm--Peter Feldmeier
44. Thân Mẫu Của Vua Hòa Bình--Yvon Daigneault
45. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa--Lm. Munachi Ezeogu
46. Mẹ tất cả mọi người--Lm. Mark Link
47. Là mẹ và là khuôn mẫu--Mark Link
48. Nữ vương ban sự bình an--Vinhsơn Ngọc Biển SSP
49. Ôi diệu kỳ thay Đấng là Mẹ Thiên Chúa!--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
50. Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng ta--Anmai
51. Đức Maria, Mẹ bình an--Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Hữu Duy, SVD
52. Nữ Vương Hoà Bình
53. Mẹ Thiên Chúa
54. Thánh Ý Thiên Chúa
55. Mẹ Thiên Chúa
56. Lễ Mẹ Thiên Chúa
57. Mẹ Thiên Chúa
58. Mẹ Thiên Chúa
59. Nữ Vương Hòa Bình
60. Mẹ Thiên Chúa
61. Nữ Vương Hòa Bình
62. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa
63. Hồng ân
1.Đức Maria Mẹ Thiên Chúa--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Làm người ai cũng cần có mẹ.
Mẹ là người cưu mang, sinh ra
và dưỡng nuôi con cho khôn lớn.
Khi Con Thiên Chúa làm người, mang lấy trọn phận người,
Ngài cũng cần một người mẹ, như bao người khác.
Mẹ Maria là thiếu nữ, là trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn,
Để thụ thai và sinh hạ Con Một Thiên Chúa.
Khi Công Đồng Êphêsô (năm 431) gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa,
Công Đồng không có ý dạy
Đức Mẹ sinh ra Chúa Cha hay Chúa Thánh Thần.
Đức Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu,
Mà Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể,
Nên Mẹ thực sự là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos).
Chắc Mẹ Maria không thể hiểu hết và hiểu ngay
Màu nhiệm lớn lao mà Mẹ đang cưu mang trong dạ.
Khi các mục đồng kể lại những điều huy hoàng họ nghe thấy ở Belem,
Mẹ Maria ghi nhớ tất cả những điều ấy
và suy đi nghĩ lại trong tim mình.
Để đi vào mầu nhiệm cách sâu xa,
cần ơn soi sáng của Chúa,
Nhưng cũng cần thái độ chiêm niệm,
nghiền ngẫm trong lặng thinh.
Chúng ta thường để ý đến biến cố Truyền Tin và biến cố Giáng Sinh,
biến cố Ngôi Lời bắt đầu hiện hữu trong lòng mẹ và biến cố chào đời.
Nhưng chúng ta không được quên
chín tháng Mẹ cưu mang người Con.
Con Thiên Chúa đã lớn lên từ từ trong lòng Mẹ như các thai nhi khác.
Muốn sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay,
Chúng ta cũng cần nhiều thời gian
để cưu mang Ngài trong cuộc đời ta,
để Ngài trở nên đủ cứng cáp khi chào đời.
Chúng ta cũng phải chấp nhận cả sự đau đớn khi sinh hạ.
Bước qua một Năm Mới, mở trang đầu của cuốn lịch mới,
Chúng ta mong những điều mới mẻ tốt lành xảy đến cho mình
Và muốn tặng cho nhau một câu chúc đầy ý nghĩa:
“Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!”(Ds 6, 26)
2.Nhân loại mới--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Tám ngày sau khi sinh, Chúa Giêsu được dâng vào đền thờ, chịu phép cắt bì và được đặt tên theo luật Do thái. Đối với người Do thái, tên là người. Vì thế việc đặt tên có ý nghĩa quan trọng. Giêsu có nghĩa là Thiên-Chúa-cứu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Con người không thể sinh ra Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa tự nguyện làm con loài người. Nhờ đó Đức Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Sinh ra Chúa Giêsu, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới để cứu nhân loại cũ do bà Evà sinh ra, đã hư hỏng vì tội lỗi.
Đức Mẹ sinh ra nhân loại mới. Bà Evà sinh ra nhân loại cũ. Nhân loại cũ được sinh ra từ đất thấp. Thiên Chúa muốn nâng con người lên trời cao. Nhưng đất thấp lôi kéo con người chìm xuống. Vì thế con người đã từ địa vị con cái rơi xuống thân phận nô lệ. Trái lại, Đức Mẹ sinh ra một nhân loại mới. Nhân loại mới sinh xuống từ trời cao. Chúa Giêsu là Adam mới, từ trời hạ mình xuống để nâng con người lên. Giải thoát khỏi tình trạng nô lệ. Phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa.
Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc. Bà Evà sinh con do lời chúc dữ. Sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã tuyên án cho bà Evà: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con.” (St 3,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu do lời chúc phúc như lời Thiên sứ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng.” Và bà thánh Êlizabeth nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” (Lc 1,42).
Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Bà Evà sinh con do xác thịt. Như lời Thiên Chúa nói: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi.” (St 1,16). Trái lại, Đức Mẹ sinh con bởi phép Chúa Thánh Thần. Như lời Thiên thần truyền: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà... vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1,35). Nếu nhân loại cũ được sinh ra theo xác thịt thì nhân loại mới được sinh ra “không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,13).
Đức Mẹ quảng đại sinh ra người con quên mình. Bà Evà ích kỷ sinh ra Cain là đứa con ham hố. Vì muốn chiếm vị trí trung tâm, nó đã đẩy em là Abel ra vùng ngoại vi. Loại trừ em. Giết chết em. Trái lại, Đức Mẹ quảng đại sinh ra một người con quên mình. Chúa Giêsu là người anh cả, từ bỏ vị trí trung tâm, đi ra vùng ngoại biên nghèo khổ. Người tự hiến mạng sống, để đưa chúng ta là đàn em trở lại vị trí trung tâm, trong cung lòng Thiên Chúa.
Đức Mẹ mở lòng đón nhận sinh ra một thế giới huynh đệ. Bà Evà đóng kín vào bản thân, sinh ra những đứa con chia rẽ bất hoà. Tháp babel khiến cộng đồng nhân loại tan rã. Trái lại, Đức Mẹ mở lòng đón nhận, nên đã sinh ra Chúa Giêsu là nhân loại mới sống chan hòa tình huynh đệ. Đón tiếp mục đồng là những người nghèo khổ. Đón tiếp ba vua là những người xa lạ. Để tất cả trở thành anh em một nhà.
Đức Mẹ vâng phục sinh người con hiếu thảo. Bà Evà phản loạn sinh ra những đứa con bất hiếu, chối bỏ Thiên Chúa là Cha. Trái lại, Đức Mẹ vâng phục nên đã sinh Chúa Giêsu là người con hiếu thảo. Nhờ luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu qui tụ người muôn nước sống hài hoà dưới mái nhà Cha chung trên trời. Và nhờ đó ta được hưởng hạnh phúc với Chúa như lời thư Galát: “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cùng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.”
Ngày đầu năm ta mong ước những điều mới mẻ. Nhưng thế giới chỉ đổi mới khi có những con người mới. Điều quan trọng là bản thân ta đổi mới. Chính vì thế Giáo hội cầu bình an và đặt năm mới trong bàn tay Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.
Như xưa Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu, khởi đầu nhân loại mới, nay xin Mẹ cũng sinh lại chúng ta. Để chúng ta trở nên con người mới. Vượt thoát những tầm thường ti tiện của đất thấp, để được sinh lại thanh thoát từ trời cao. Thoát khỏi lời chúc dữ để được sinh lại tràn đầy ân sủng do lời chúc phúc. Thoát khỏi ràng buộc của xác thịt nặng nề để được sinh lại trong Thần Khí tự do.
Con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô sẽ biết quảng đại cho đi. Biết ra đi đến những miền ngoại biên, gặp gỡ những anh em bị loại trừ, đưa con người trở về vị trí trung tâm. Con người mới sẽ biết mở lòng đón nhận mọi anh em dù khác biệt. Xây dựng thế giới thành một gia đình thân thương, biến thế giới thành một mái nhà chung bình an hạnh phúc. Mọi người trở thành anh em con cùng một Cha trên trời.
Như thế nhân loại được đặt trong bàn tay Thiên Chúa. Và thế giới được chúc phúc như lời Chúa hứa trong sách Dân Số: “Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.” Đó chính là nhân loại mới. Đó chính là trời mới đất mới. Đó chính là niềm bình an hạnh phúc ta mơ ước.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Chúa sinh xuống trần để mở ra kỷ nguyên mới. Xin cho con biết sinh lại thành con người mới. Để góp phần xây dựng thế giới an bình hạnh phúc trong tình huynh đệ chân thành. Amen.
3.Cưu mang và sinh hạ một thế giới mới--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm nay các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một con người mới.
Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là một thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá. Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng ngôi sao đến thờ lạy Chúa.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa và với nhau.
Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái.
Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ, Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền hoà bình viên mãn.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước? Từ chính bạn hay từ người khác?
2. Thế giới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà?
3. Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?
4.Nhân loại mới--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ngày đầu năm mới là một ngày thiêng liêng. Ai cũng mong ước năm mới mọi sự sẽ đổi mới. Sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong cuộc sống. Nhất là được sống bình an. Các bài Sách Thánh đặc biệt bài Tin mừng hôm nay mời gọi ta hãy tìm đổi mới trong Chúa Giêsu. Chính Người sinh ra một nhân loại mới. Đó là nhân loại được chúc phúc, được cứu độ và sống trong an bình.
Đó là một nhân loại được chúc phúc. Khi Chúa Giêsu ra đời nhân loại được chúc phúc. Có nhiều dấu hiệu loan báo phúc lành của Chúa. Một làn ánh sáng từ trời soi sáng cánh đồng Bêlem. Xuất hiện muôn vàn thiên sứ hát mừng trên trời cao. Chúa Giêsu đem phúc lành của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Chúa Giêsu chính là phúc lành tuyệt hảo của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Mang lấy bản tính nhân loại, Chúa Giêsu làm cho nhân loại được chúc phúc bằng những phúc lành phong phú nhất của Thiên Chúa.
Đó là một nhân loại được cứu độ. Con trẻ được đặt tên là Giêsu. Tên Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Chúa Giêsu đi vào tận những tù ngục giam hãm để giải cứu con người. Người sinh ra làm một trẻ thơ để nâng đỡ những con người bé nhỏ. Người sinh trong cảnh thiếu thốn để nâng lên những ai nghèo hèn. Người bị bạo vương Hêrôđê săn đuổi để đứng về phía những người bị áp bức. Người sinh ra trong chuồng súc vật tăm tối để trân trọng những ai bị loại trừ. Người là Con Thiên Chúa xuống thế làm người để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Thật là một cuộc đổi mới không ai có thể ngờ tới.
Đó là một nhân loại sống trong hòa bình. Đêm Chúa Giáng Sinh trời đất giao hòa. Trời Bêlem sáng lên. Thiên nhiên trở nên xinh đẹp. Các thiên thần làm đầy không gian bằng những bài ca tuyệt diệu của cõi thiên đàng. Các mục đồng vui tươi hớn hở loan truyền tin vui. Cả một bầu khí hòa bình tỏa ra chung quanh Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến tái lập trật tự. Trật tự đó là con người và vạn vật vâng phục Thiên Chúa. Luật lệ phát xuất từ con người luôn gây ra tranh chấp. Vì con người chỉ nghĩ đến tư lợi hạn hẹp của riêng mình. Mọi luật lệ muốn công bằng và lâu bền phải qui về Thiên Chúa. Thiên Chúa ban hòa bình thực sự. Hòa bình trong công lý. Công lý là những người bé nhỏ, yếu ớt phải được tôn trọng. Chúa Giêsu tự nguyện làm trẻ nhỏ sơ sinh chính là một nền hòa bình trong vâng phục Thiên Chúa và là công lý kêu gọi kính trọng bảo vệ những kẻ yếu hèn.
Hòa bình như thế không phải là một trật tự im lìm. Trật tự im lìm chỉ có trong nghĩa địa hay nhà tù. Đó là trật tự chết chóc, tàn lụi. Trái lại hòa bình là một năng động, là một sức sống, là sự phấn đấu không ngừng.
Ta hãy chiêm ngắm tấm gương của các mục đồng. Các mục đồng đã biết lắng nghe sứ điệp hòa bình dù giữa đêm hôm mùa đông đang say ngủ. Nghe biết sứ điệp hòa bình rồi, các mục đồng vội vã đi tìm Chúa Giêsu là nguồn mạch hòa bình, dù phải bỏ giấc ngủ, dù phải đi ngoài trời lạnh giá. Sau khi gặp Chúa, các mục đồng ra đi loan truyền sứ địêp hòa bình cho mọi người. Đó chính là những phấn đấu không ngừng cho hòa bình.
Chúng ta đặt năm mới này vào tay Đức Mẹ. Xưa Đức Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế mở đầu một nhân loại mới, nay xin Đức Mẹ cũng cho năm mới này được chúc phúc, được cứu độ và được hòa bình. Chúng ta cũng cầu nguyện cho mọi người biết noi gương mục đồng, luôn lắng nghe sứ điệp hòa bình, luôn phấn đấu đi tìm đến nguồn mạch hòa bình và luôn phấn khởi loan tin mừng hòa bình.
Lạy Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
5.Đức Maria Mẹ Thiên Chúa 2010--ĐTC Bênêđictô XVI
Trong ngày đầu năm mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích thực của chúng ta! Hướng về tất cả anh chị em đang qui tụ nơi đây, đại diện cho mọi dân tộc trên thế giới, đại diện cho Giáo hội Rôma và Giáo hội hoàn vũ, đại diện cho các linh mục và tín hữu, cũng như tất cả mọi người đang hiệp thông với chúng ta qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình, tôi muốn lặp lại lời cầu chúc của Cựu Ước: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em (x. Ds 6,26). Dưới ánh sáng Lời Chúa, hôm nay, tôi muốn triển khai đề tài: dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người, đề tài này cống hiến cho chúng ta chìa khóa để giải thích những vấn nạn hòa bình trên thế giới.
Trong bài đọc I – trích từ sách Dân số và trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta đã nghe một vài cách diễn tả ẩn dụ về dung mạo của Thiên Chúa: “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em (Ds 6,25); “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 66/67,2-3). Dung mạo diễn tả rõ ràng nhất về con người, qua đó tình cảm, suy nghĩ và những ý định sâu kín trong tâm hồn được bày tỏ. Thiên Chúa vô hình, theo bản tính của Ngài, nhưng Kinh Thánh vẫn ‘gán’ cho Ngài một “dung mạo”. Trong Kinh Thánh, kiểu nói “tỏ dung nhan” diễn tả lòng nhân từ của Thiên Chúa, trong khi cách nói Thiên Chúa “ẩn mặt” ám chỉ Thiên Chúa nổi giận. Sách Xuất Hành nói: “Đức Chúa đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11), Ngài hứa sẽ luôn luôn ở bên ông: “Dung nhan của Ta sẽ đi cùng ngươi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 33,14). Các Thánh Vịnh diễn tả, các tín hữu là những người tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa (x. Tv 26/27,8; 104/105,4). Trong cử hành phượng tự, các Thánh Vịnh diễn tả nỗi khát khao của con người được chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa (Tv 42,3), “người chính trực” sẽ được “chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa” (Tv 10/11,7).
Có thể đọc toàn bộ Thánh Kinh như là một quá trình tiệm tiến, qua đó Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài ra cho con người và Ngài đã bày tỏ một cách trọn vẹn trong Chúa Giêsu Kitô. “Khi đến thời viên mãn – trong bài đọc II thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta – Thiên Chúa đã sai Con của Ngài (Gl 4,4) và ngay lập tức thánh Tông Đồ nói thêm “sinh bởi người phụ nữ và sinh dưới chế độ lề luật”. Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria. Vì lý do đó, chúng ta tôn kính Đức Maria với tước hiệu cao trọng nhất “Mẹ Thiên Chúa”. Đức Maria đã gìn giữ trong tâm hồn mầu nhiệm thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa và Mẹ là người đầu tiên được chiêm ngưỡng dung mạo Thiên Chúa, Đấng đã trở thành người phàm trong lòng Mẹ. Người mẹ có mối tương quan đặc biệt, duy nhất và đôi khi độc quyền với đứa trẻ mới được sinh ra. Dung mạo đầu tiên mà đứa trẻ nhìn thấy là người mẹ, cái nhìn này quyết định mối tương quan của đứa trẻ với cuộc sống, với chính nó, với người khác và với Thiên Chúa. Cái nhìn này cũng quyết định tại sao đứa trẻ có thể trở thành “người con của hòa bình” (Lc 10,6).
Trong truyền thống Bizantinô, giữa nhiều bức họa Đức Trinh Nữ Maria, có một bức họa được gọi là Đức Maria “ngọt ngào, êm dịu”, trong bức họa đó gương mặt của Hài Nhi Giêsu áp sát gương mặt Đức Maria. Hài Nhi Giêsu nhìn Mẹ Maria. Đối với chúng ta, bức họa này qui chiếu về Đức Maria, người đã cầu nguyện liên lỉ và hằng tuân giữ Lời Chúa, qui chiếu về sự “êm ái, ngọt ngào” của Thiên Chúa từ trời cao đã giáng trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên tay. Trong bức họa này, chúng ta có thể chiêm ngắm một vài nét phác họa nào đó về chính Thiên Chúa: dấu chỉ tình yêu vô biên, vì tình yêu đó Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16). Nhưng bức họa này cũng cho chúng ta biết, trong Đức Maria, dung mạo của Giáo hội chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Kitô cho chúng ta và cho toàn thế giới; qua Đức Maria, Giáo hội gửi đến mỗi người Tin Mừng: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con cái” (Gl 4,7) – như chúng ta nghe đọc trong thư của thánh Phaolô.
Anh em Giám mục, Linh mục, quí vị Đại sứ và các bạn thân mến! Suy tư về mầu nhiệm dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người là con đường ưu tiên dẫn đến hòa bình. Thật vậy, con đường này khởi đầu bằng cái nhìn tôn trọng con người, nhìn nhận phẩm giá của người khác dù người đó thuộc bất cứ mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ hay tôn giáo nào. Nhưng ai, nếu không phải là Thiên Chúa có khả năng bảo đảm một cách “sâu xa nhất” dung mạo của con người? Thật ra, chỉ khi nào chúng ta có Thiên Chúa trong tâm hồn, chúng ta mới có thể đón nhận dung mạo của người anh em xứng hợp với phẩm giá của họ, nghĩa là không phải như phương tiện nhưng như là mục đích, không phải như đối thủ hay kẻ thù nhưng như một “cái tôi” khác của chính tôi, một khía cạnh không cùng của mầu nhiệm con người. Nhận thức của chúng ta về thế giới, đặc biệt về anh chị em đồng loại, căn bản phụ thuộc vào sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong chúng ta. Đây là một sự “cộng hưởng”: Ai có tâm hồn vô cảm, người ấy không thể nhận ra những giá trị cao cả nơi anh chị em của mình. Trái lại, nếu chúng ta cư ngụ trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Ngài trong thiên nhiên, đặc biệt nơi anh chị em, mặc dù, đôi khi dung mạo của con người đã bị méo mó do sự dữ, do đời sống khó khăn, khiến chúng ta không thể nhận ra sự “hiển dung” của Thiên Chúa nơi dung mạo anh chị em của mình. Hơn nữa, để hiểu nhau và tôn trọng nhau như là anh chị em, chúng ta cần phải liên hệ đến dung mạo của Thiên Chúa, cha chung của tất cả chúng ta, Đấng đã yêu mến tất cả chúng ta ngay cả khi chúng ta còn nhiều sai lỗi và bất toàn.
Khi còn nhỏ tuổi, điều quan trọng đối với trẻ em là được giáo dục biết tôn trọng người khác, ngay cả sự khác biệt của họ. Trong các lớp học phổ thông qui tụ trẻ em đến từ nhiều quốc gia, ngay cả trong các lớp học mà các em cùng chung một quốc gia, dung mạo của các em như là một lời tiên báo về viễn ảnh một nhân loại mà chúng ta gọi là: gia đình của mọi gia đình, hay gia đình nhân loại. Những em nhỏ tuổi hơn trong số những em này lại là những em gợi lên trong chúng ta mối tình huynh đệ ngọt ngào, êm dịu nhất dù giữa các em có sự khác biệt, chúng khóc cười như nhau, chúng có nhu cầu như nhau, chúng liên kết với nhau một cách tự nhiên, chúng chơi chung với nhau… Dung mạo của trẻ thơ như là một phản ánh dự phóng của Thiên Chúa đối với thế giới. Tại sao chúng ta làm mất đi nụ cười của chúng? Tại sao chúng ta làm vẩn đục trái tim của chúng? Rất tiếc, bức họa Đức Maria “êm dịu” đang hiện diện giữa hình ảnh của biết bao nhiêu trẻ em cũng như mẹ của các em đang đau khổ vì chiến tranh và bạo lực. Họ bị biến thành những người lưu vong, tị nạn, bị bó buộc phải di cư. Dung mạo của họ bị hủy hoại vì đói khát và bệnh tật, bị biến dạng vì đau khổ và thất vọng. Dung mạo của các trẻ em vô tội là hồi chuông báo động không lời đối với trách nhiệm của chúng ta. Đối diện với hoàn cảnh của trẻ em vô phương tự vệ, tất cả những lý lẽ sai trái biện minh cho chiến tranh và bạo lực không có lý do đứng vững. Chúng ta phải xây dựng hòa bình bằng cách loại bỏ mọi loại vũ khí, cùng nhau xây dựng một thế giới xứng hợp hơn với nhân phẩm con người.
Trong sứ điệp của tôi nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ XLIII: “Nếu bạn muốn xây dựng hòa bình, bạn hãy bảo tồn thiên nhiên”, sứ điệp đặt trọng tâm trên phương diện dung mạo của Thiên Chúa và dung mạo của con người. Thật vậy, chúng ta có thể khẳng định, con người có khả năng tôn trọng thiên nhiên bằng cách thấu hiểu thiên nhiên, nếu không con người sẽ không tôn trọng chính mình và những sự vật chung quanh mình, không tôn trọng môi trường sống và không tôn trọng thiên nhiên. Ai biết nhận ra trong vũ trụ, những phản ánh dung mạo vô hình của Đấng Tạo Hóa, người đó sẽ yêu mến thiên nhiên và nhận ra được những giá trị biểu tượng của chúng. Đặc biệt, trong các Thánh Vịnh, chứa đựng những chứng từ rất phong phú về mối tương quan giữa con người với thiên nhiên: trời đất, biển khơi, núi đồi, sông ngòi, sinh vật….Tác giả thánh vịnh đã thốt lên: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104/103,24).
Đặc biệt, phương diện “dung mạo” mời gọi chúng ta dừng lại trên đề tài mà trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới, tôi đã gọi là “môi sinh của nhân loại”. Có một mối liên hệ mật thiết giữa việc tôn trọng con người và bảo tồn thiên nhiên. “Trách nhiệm đối với thiên nhiên bắt nguồn từ trách nhiệm đối với từng người và đối với toàn thể nhân loại” (số 12). Nếu con người không được tôn trọng, môi trường sống của con người cũng không được tôn trọng; nếu văn hóa hướng đến chủ nghĩa hư vô, nếu không đề ra những chương trình cụ hành động cụ thể, nếu như không thực hiện những chương trình đã đề ra, thiên nhiên sẽ bị hủy hoại. Thật vậy, có một mối liên hệ hỗ tương giữa dung mạo của Thiên Chúa và “dung mạo” của môi sinh: “Khi môi sinh của nhân loại được tôn trọng trong đời sống xã hội, môi trường sinh thái được bảo tồn” (nt; Bác Ái Trong Chân Lý, s. 51). Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giáo dục về môi sinh, cũng như thúc đẩy truyền thông một cách sâu rộng hơn về “trách nhiệm đối với môi sinh”, đặt nền tảng trên việc tôn trọng con người, quyền lợi và những nghĩa vụ căn bản của họ. Chỉ có như thế, nỗ lực đối với môi sinh mới có thể thực sự mang lại hòa bình và xây dựng hòa bình.
Anh chị em thân mến, trong mùa Giáng sinh, chúng ta nghe một thánh vịnh, giữa nhiều thánh vịnh khác, diễn tả việc Chúa đến đã biến đổi thiên nhiên và khai mở một lễ hội của vũ trụ. Thánh vịnh này khơi mào với lời mời gọi toàn thể vũ trụ hãy dâng lời ca ngợi Chúa: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu” (Tv 95/96,1). Nhưng có một điều chắc chắn, lời kêu gọi này hướng đến niềm vui của toàn thể nhân loại: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ, hỡi cây cối rừng xanh (Tv 95/96,11-12). Ngày lễ của đức tin trở thành ngày lễ của con người và của thiên nhiên. Lễ giáng sinh diễn tả ý nghĩa đó, qua việc trang trí cây cối, đường xá, nhà cửa. Tất cả trở nên rực rỡ vì Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta. Đức Trinh Nữ Maria tỏ Hài Nhi Giêsu cho các mục đồng đang vui mừng, hân hoan ca tụng Thiên Chúa (x. Lc 2,20). Giáo hội tiếp tục giới thiệu mầu nhiệm đó cho con người mọi thời, bày tỏ cho họ dung mạo của Thiên Chúa, với ân phúc của Ngài, họ có thể tiến bước trên con đường hòa bình.
+ Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
6.Lắng nghe và suy nghĩ--GM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nếu bạo lực hay hoà bình đều bắt nguồn từ bên trong, và vì thế, phải gieo vãi và vun trồng hạt giống hoà bình trong tâm hồn từ tấm bé, vậy còn nơi nào lý tưởng hơn môi trường gia đình…
1. Đã thành thông lệ, cứ vào ngày đầu năm dương lịch, Đức Giáo hoàng lại ban hành Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới. Điều đặc biệt của Sứ điệp năm 2017: đây là dịp kỷ niệm 50 năm Hội Thánh Công giáo cử hành Ngày Hoà bình Thế giới, và Sứ điệp Hoà bình năm nay là Sứ điệp lần thứ 50.
Năm mươi năm trôi qua nhưng nội dung của Sứ điệp đầu tiên, năm 1967 của Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI, vẫn còn nguyên tính thời sự: “Hoà bình là hướng đi duy nhất đích thực của sự phát triển con người – chứ không phải là những căng thẳng tạo ra do những thứ chủ nghĩa quốc gia đầy tham vọng, cũng như những cuộc chinh phục bằng bạo lực, hoặc những cuộc đàn áp nhân danh trật tự xã hội giả tạo” (Sứ điệp, số 1). Có lẽ được gợi hứng từ khẳng định căn bản này cũng như từ thực tế mà thế giới đang đối diện, chủ đề của Sứ điệp năm 2017 là: Bất bạo động, kiểu mẫu của nền chính trị phục vụ hoà bình.
2. Nói đến bất bạo động, người ta dễ nghĩ đến những khuôn mặt nổi bật như Mahatma Gandhi và Khan Abdul Ghaffar Khan trong công cuộc giải phóng Ấn Độ, hoặc mục sư Martin Luther King trong phong trào chống phân biệt và kỳ thị chủng tộc tại Hoa Kỳ. Đúng thế, nhưng đừng quên rằng chính Đức Giêsu Kitô mới là đấng khơi nguồn cho chủ trương bất bạo động: “Khi Người ngăn cản những kẻ tố cáo định ném đá người phụ nữ bị bắt vì phạm tội ngoại tình (x. Ga 8,1-11), và trong đêm Người bị bắt, khi Người ra lệnh cho Phêrô xỏ gươm vào bao (x. Mt 26,52), Chúa Giêsu đã mở ra con đường bất bạo động. Người đã bước đi trên con đường đó đến cùng, đến tận thập giá, ở đó Người trở thành sự bình an và chấm dứt mọi hận thù (x. Eph 2,14-16)” (Sứ điệp, số 3).
Chính vì thế, tất cả những ai mang danh Kitô hữu phải là người thực hành bất bạo động: “Ngày nay, để là những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, phải ôm ấp giáo huấn của Chúa về bất bạo động… Với các Kitô hữu, bất bạo động không chỉ là một ứng xử mang tính chiến thuật nhưng là một lối sống, là thái độ của một người xác tín vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa đến nỗi không sợ hãi đối diện với sự ác bằng vũ khí của tình yêu và chân lý mà thôi… Mệnh lệnh ‘Hãy yêu thương kẻ thù’ (x. Lc 6,27) phải được xem như hiến chương của bất bạo động Kitô giáo. Điều đó không có nghĩa là bị khuất phục trước cái ác nhưng là lấy sự lành đáp lại điều ác (x. Rm 12,17-21) và do đó, bẻ gẫy dây chuyền của bất công” (Sứ điệp, số 3).
Cũng vì thế, trong thời điểm hiện nay, khi đang có những cuộc khủng bố được dán nhãn tôn giáo, Đức Giáo hoàng Phanxicô có những khẳng định thật mạnh mẽ trước toàn thế giới: “Không có tôn giáo nào là khủng bố cả”; “Không thể lấy Danh Chúa để biện minh cho bạo lực. Chỉ có hoà bình là thánh thiện. Chỉ có hoà bình mới được gọi là thánh, không có chiến tranh nào là thánh cả!” (Diễn văn tại Assisi, ngày 20-10-2016)
3. Vì Chúa Giêsu là đấng khơi nguồn lối sống bất bạo động, nên để sống tinh thần bất bạo động cách đích thực, hãy lắng nghe giáo huấn và chiêm ngắm cách hành xử của Người. Theo Chúa Giêsu, bạo động hay hoà bình đều bắt nguồn từ trong lòng người: “Chính từ bên trong, từ lòng người, mà những ý định xấu xuất hiện” (Mc 7,21). Thế nên, phải bắt đầu xây dựng hoà bình từ bên trong. Phải gieo vãi và ươm trồng hạt giống hoà bình trong tâm hồn. Những phát minh và tiến bộ kỹ thuật, dù tinh vi đến đâu, cũng chỉ là phương tiện. Cội rễ chiến tranh hay hoà bình là ở trong lòng người: “Thật khó để biết rằng thế giới chúng ta hiện nay có nhiều hay ít bạo lực hơn quá khứ, hoặc những phương tiện truyền thông hiện đại và sự năng động ngày nay có làm cho chúng ta ý thức hơn về bạo lực không, hay ngược lại, còn làm gia tăng bạo lực” (Sứ điệp, số 2). Người ta vẫn nhắc đến câu châm ngôn “Muốn có hoà bình, hãy chuẩn bị chiến tranh”. Sẽ thật tuyệt vời nếu hiểu câu nói này từ góc nhìn nội tâm: hãy chiến đấu và chiến thắng những mầm mống tội lỗi trong tâm hồn, hoà bình sẽ xuất hiện trong mọi tương quan của đời sống xã hội.
Nếu bạo lực hay hoà bình đều bắt nguồn từ bên trong, và vì thế, phải gieo vãi và vun trồng hạt giống hoà bình trong tâm hồn từ tấm bé, vậy còn nơi nào lý tưởng hơn môi trường gia đình để làm công việc này? Vì gia đình là nơi vợ chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em, học biết chia sẻ và quan tâm đến nhau. Gia đình là nơi những va chạm, kể cả xung đột, được giải quyết không phải bằng bạo lực nhưng bằng đối thoại, tôn trọng, thương xót và tha thứ (x. Sứ điệp, số 5). Một khi đã cảm nhận được tình yêu thương, mối quan tâm, lòng quảng đại và sự tha thứ trong bầu khí gia đình, người ta cũng sẽ bước vào đời với tâm hồn rộng mở, biết sẻ chia và nâng đỡ tha nhân hơn là chỉ hành động theo bản năng bạo lực.
Trong suốt ba năm 2017-2019, người Công giáo Việt Nam được mời gọi quan tâm đặc biệt đến đời sống gia đình. Ước gì mỗi gia đình Công giáo thực sự là cái nôi bình an và cống hiến cho đời những sứ giả hoà bình: “Trong gia đình, chúng ta không cần đến bom đạn để hủy hoại hay phục vụ hoà bình – chỉ cần ở với nhau, yêu thương nhau… Và chúng ta sẽ vượt qua mọi cái ác trong thế gian” (Mẹ Têrêxa Calcutta, Diễn văn nhận giải Nobel, 1979).
7.“Xin Chúa chúc lành” 2022--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Năm 2023 đã khởi đầu. Chúng ta đón năm mới với những vui mừng và âu lo. Vui mừng vì một năm cũ đã qua, với hy vọng năm mới sẽ tốt lành. Âu lo vì tình hình thế giới rất ảm đạm trong mọi lãnh vực, nhất là lãnh vực kinh tế. Đâu đâu cũng nói tới lạm phát, thất nghiệp do hậu quả của dịch bệnh. Trong bối cảnh đầy lo âu này, chúng ta tin vào tình thương của Thiên Chúa, đồng thời chạy đến phó thác nơi Ngài, với xác tín Chúa sẽ chúc phúc cho chúng ta. Trong ngày đầu năm, chúng ta được nghe lời chỉ dẫn của Thiên Chúa, về công thức chúc lành cho dân. Đó là lời cầu nguyện xin Chúa dủ lòng thương, ghé mắt nhìn và ban bình an. Đây là lời cầu chúc đi đôi với lòng tín thác cậy trông Thiên Chúa sẽ ban muôn ơn phúc. Trong những giờ khắc đầu tiên của năm mới chúng ta cũng cầu xin Chúa tươi nét mặt nhìn đến cuộc sống đầy lo âu và bất ổn của chúng ta. Xin Ngài ban cho chúng ta một năm mới mạnh khoẻ, bình an, hạnh phúc và thánh thiện.
Hôm nay là ngày thứ tám sau lễ Giáng sinh. Phụng vụ trước Công đồng Vatican II gọi ngày này là “lễ đặt tên” dựa vào trình thuật của thánh Luca, kể lại việc Thánh Giuse và Đức Maria đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu. Việc đặt tên cho con trẻ mới sinh là một nghi thức trong truyền thống Do Thái giáo, tên đi liền với nghi thức cắt bì, theo luật ông Môisen. Với nghi thức này, trẻ sơ sinh đã thuộc trọn về Chúa và được giới thiệu với họ hàng làng xóm.
Vào ngày đầu năm dương lịch, Giáo Hội công giáo tôn vinh Đức Mẹ, với tước hiệu là “Mẹ Thiên Chúa”. Tước hiệu này đã được Công đồng Ephêsô tuyên tín long trọng vào năm 431, khi kết thúc công đồng bàn về thiên tính (hay còn gọi là thần tính) của Đức Giêsu. Đức Giêsu có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Là Thiên Chúa, Người là Đấng tạo dựng vũ trụ và Cứu độ nhân loại. Là Con Người, Người sinh bởi Đức Trinh nữ Maria. Đức Maria sinh hạ Chúa Giêsu về thể xác, và như thế, Mẹ là Mẹ của Con Đức Chúa Trời. Chúa Giêsu đồng bản thể với Đức Chúa Cha, nên Đức Maria xứng đáng được tôn vinh với tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”. Ngay từ thời Giáo Hội khai sinh, tước hiệu này đã được khẳng định. Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi tín hữu Galát, được đọc trong Bài đọc II: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật”.
Trong mùa Giáng sinh, khi đến cầu nguyện bên Hang đá Máng cỏ, chúng ta được chiêm ngưỡng một khung cảnh rất an bình dung dị. Đó là khung cảnh gia đình. Trong Hang đá đơn sơ nghèo nàn, Đức Trinh nữ và Thánh Giuse trầm lắng suy tư tôn thờ Con Chúa làm người. Cầu nguyện bên Hang đá, trước hết chúng ta cảm nhận sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Thiên Chúa cao cả đã hoá thân làm người. Trẻ sơ sinh nằm trong Máng cỏ là Thiên Chúa, Đấng đã có từ trước muôn đời. Đây chính là sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Nếu ở khởi đầu lịch sử, ông Ađam và bà Evà đã muốn phủ nhận thân phận tạo vật của mình để lên ngang hàng với Thiên Chúa, thì nay Thiên Chúa lại tự nguyện từ bỏ ngai trời để mặc lấy thân nhận phàm nhân. Nếu xưa kia nguyên tổ kiêu căng muốn lên bằng Thiên Chúa, thì nay Thiên Chúa lại khiêm hạ muốn trở nên con người. Mầu nhiệm Nhập thể là sự trao đổi kỳ diệu: Thiên Chúa làm người để con người được trở nên con Thiên Chúa. Ngôi Lời đã làm người và ở với chúng ta. Thánh Giuse và Trinh nữ Maria thờ lạy Chúa Hài đồng trong sự thinh lặng cung kính.
Khung cảnh Hang đá cho chúng thấy bầu khí an bình. Nơi đây, trật tự giữa Thiên Chúa với tạo vật và với con người được tái thiết lập. Đó là trật tự ban đầu, khi Thiên Chúa sáng tạo mọi vật mọi loài. Trật tự ấy đã bị mất do tội lỗi của con người. Ngày đầu năm cũng là ngày thế giới cầu nguyện cho hoà bình. Hoà bình là niềm ước vọng của nhân loại ở mọi thời đại. Tuy vậy, con người lại thường xuyên mâu thuẫn với chính mình. Một đàng cầu nguyện cho hoà bình, đàng khác lại không ngừng gây hấn và xung đột. Từ 10 tháng nay, cuộc chiến bùng nổ tại Ucraina và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Biết bao người vô tội đã đổ máu, biết bao công trình văn hoá, tôn giáo đã bị phá huỷ. Thế giới hôm nay ngạc nhiên vì trong một xã hội hiện đại mà con người đối xử với nhau như thời hoang dã. Ngoài cuộc chiến tranh tại Ucraina, còn biết bao cuộc xung đột và bạo lực ở các cấp độ khác nhau: gia đình, cộng đoàn, xã hội. Điều đó cho thấy, chỉ cầu nguyện cho hoà bình thôi thì không đủ. Cần phải nỗ lực hành động trong sự tôn trọng người khác và lòng khiêm tốn chân thành. “Tâm bình thế giới bình”, chỉ khi nào con người cảm nhận được bình an nội tâm thì mới có khả năng cộng tác thiết lập hoà bình trong cuộc sống. Hãy đón nhận Đức Giêsu Kitô, Hoàng tử hoà bình, Đấng đến để thiết lập mối tương quan hài hoà giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Những ai chuyên tâm thực thi giáo huấn của Người sẽ tìm thấy bình an thanh thản trong tâm hồn và trong cuộc sống.
Các mục đồng tại Belem năm xưa, sau khi được chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu, trở về vui mừng kể lại những gì đã mắt thấy tai nghe. Những người chăn chiên đơn sơ nghèo nàn ấy đã là những nhà truyền giáo đầu tiên, kể lại câu chuyện Đức Giêsu cho mọi người đương thời. Chứng từ của họ đầy sức thuyết phục, vì họ kể lại trong tâm tình hân hoan và với lời ca tụng Thiên Chúa. “Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa” – đó là lời ca quen thuộc, phác hoạ lời cầu nguyện của Thánh Phanxicô thành Asidi. Người Kitô hữu, khi mừng lễ Giáng sinh, cần phải gặp được Chúa, nhờ đó mới có thể kể cho người khác về những kinh nghiệm thiêng liêng và đem cho họ sự an bình.
“Nguyện xin Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em!”. Đó là lời cầu nguyện của chúng ta và cũng là lời chúc phúc của Thiên Chúa. Giữa những trăn trở ưu tư của cuộc sống, hãy cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”. Liền sau lời khẳng định này, Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta: nếu những người cha trần thế còn tốt lành đối với con cái mình, thì huống chi là Cha trên trời. Ngài luôn lắng nghe, thấu hiểu và ban cho chúng ta những điều tốt nhất theo ý Ngài (x. Lc 11,9-13). Xin Chúa cho chúng ta một năm mới bình an, hạnh phúc, thành đạt và vững vàng trong Đức tin.
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Lời kinh đơn sơ nhưng đượm tình yêu mến cậy trông. Xin cho lời kinh ấy vang lên hằng ngày nơi môi miệng tín hữu chúng ta. Xin Mẹ là Nữ Vương bình an chúc phúc cho toàn thể thế giới. Amen.
8.Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
* Lịch sử
Đây là một thánh lễ có từ lâu đời, nên mang nhiều ý nghĩa:
1. Thánh lễ đầu năm dương lịch
2. Kính thánh Danh Chúa Giêsu
3. Cầu cho hòa bình thế giới
4. Kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
1. Thánh lễ đầu năm dương lịch
Hội Thánh mượn lời sách Dân số 6, 22-27 để xin Thiên Chúa chúc lành cho cả nhân loại trong năm mới: “Chúa phán cùng Môsê rằng: Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: các ngươi hãy chúc lành cho con cái Ít-ra-en; hãy nói với chúng thế này: Xin Chúa chúc lành cho con và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ Nhan Thánh Chúa cho con và thương xót con. Họ sẽ kêu cầu Danh Ta trên con cái Ít-ra-en, và ta sẽ chúc lành cho chúng. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con và ban bằng yên cho con.”
“Xin Chúa tỏ Thánh Nhan”, có nghĩa là:
- Xin Người tha thứ, đừng giận, đừng che mặt trước loài người, đừng để con người phải lẻ loi đương đầu với tất cả sự ác trên thế giới.
- Xin người ban sự hiện diện của Người cho nhân loại, có nghĩa là con người xin được giao hoà, được sống dưới sự che chở, dưới lòng nhân từ của Thiên Chúa.
- Xin Người ban cho nhân loại sự hiệp thông với Người trong cả cuộc sống.
Đó là sự chúc lành cao cả nhất của Thiên Chúa ban cho nhân loại.
2. Lễ đặt tên
Hôm nay cũng là bát nhật lễ Giáng sinh. Hội Thánh nhớ đến phong tục do thái: tám ngày sau khi được sinh ra, các bé trai do thái sẽ được cắt bì và đặt tên: “Khi Hài nhi được đủ 8 ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài nhi là Giêsu; đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài nhi thành thai trong lòng mẹ” (Lc 2,21)
Danh Thánh Giêsu, theo nghĩa do thái là “Yavê là sự cứu độ”. Hài nhi được đặt tên Giêsu. Còn chúng ta, khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, cũng được đóng ấn trong danh Đức Giêsu.
Ngày đầu năm, Hội Thánh nói lên khát vọng của mình: không phải chỉ những tín hữu mới mang danh thánh Giêsu; nhưng ước gì mọi người, cũng như muôn loài muôn vật cũng đều được đóng ấn trong Danh Thánh này. Lúc ấy ơn cứu độ mới được hoàn tất: “Người cho ta biết thiên ý nhiệm mầu: Thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một Thủ Lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,9-10)
3. Ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giời
“Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau rằng: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra như Chúa đã tỏ cho ta biết”. Họ liền hói hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài nhi này” (Lc 2,15-17)
Hài nhi này là ai? Là Cứu Chúa, là Vua Hòa bình. Chính vì Người sinh ra mà “có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,13-14)
Vị Vua Hòa bình đã xuất hiện. Xin bình an của Người đổ tràn trên thế giới còn đầy dẫy chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật, thất học, đầy bạo lực và bất công; một thế giới đang nằm trên những kho vũ khí hạt nhân, bất cứ lúc nào cũng có thể huỷ diệt toàn thể nhân loại và trái đất này.
4. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người và trở thành anh em của loài người. Trong Người, chúng ta được trở thành con của Thiên Chúa và là anh em của nhau. Trong bí tích Rửa tội, chúng ta nhận Thần Khí của Người Con chí ái và với niềm tin tưởng, chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha. Đó là mầu nhiệm giáng sinh cho nhân loại.
Ngày hôm nay, với sự trìu mến, Hội Thánh ngắm nhìn Người Phụ Nữ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Nếu không có tiếng “Xin vâng” của người Trinh nữ này, sẽ không có mầu nhiệm Thập giá (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Bài Tin Mừng này trình bày 2 thái độ khác hẳn nhau: a/ Thái độ của những người chăn chiên là tíu tít kể chuyện; b/ Thái độ của Đức Maria là ghi nhớ mọi sự và suy niệm trong lòng.
B.... nẩy mầm.
1. “Đức Maria đã thinh lặng không chỉ lúc này, nhưng trong suốt cuộc đời Người. Được làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng chung quanh Người chẳng có mấy ai biết đến tước hiệu này... Tại Cana, Người đã nhẹ nhàng báo cho Chúa Giêsu biết bữa tiệc không còn rượu nữa. Trong cuộc đời công khai của Chúa, Người đã âm thầm theo bước chân Con. Và bên Thánh giá, trong nỗi đau đớn tột cùng, Người đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Con. Có thể nói Người đã sống tâm tình của một nữ tì khiêm tốn. Người chỉ muốn phục vụ trong âm thầm, còn vinh quang danh dự thì Người xin dành cho người khác. Trong một thế giới có quá nhiều tiếng động: tiếng động của bom đạn, của tranh chấp, của bạo lực, chúng ta hãy bắt chước thái độ thinh lặng và lắng nghe của Đức Maria, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được bình an trong tâm hồn và tạo được hòa khí trong tương quan với tha nhân” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
2. Thánh Luca khám phá đặc điểm của Mẹ Thiên Chúa là “ghi nhớ những kỷ niệm đó và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Tuy là mẹ của Chúa Giêsu nhưng ban đầu Đức Mẹ không hiểu hết về con mình. Tuy không hiểu nhưng nhờ “ghi nhớ và suy đi nghĩ lại” nên sau cùng Mẹ đã rất hiểu Ngài. Huống chi chúng ta: chúng ta là môn đệ Chúa, là con Chúa, chúng ta càng cần phải ghi nhớ và suy đi nghĩ lại những kỷ niệm về Chúa thì mới hiểu được Ngài.
3. Một bài hát kia có một tựa đề rất gợi ý, là “The sound of silent”, tiếng của thinh lặng. Phải, thinh lặng nói với ta rất nhiều điều. Ta thử thinh lặng để “suy đi nghĩ lại” về những sự việc chung quanh việc Chúa Giáng sinh, để coi xem ta nghe được gì.
4. Một người da đỏ cùng đi với một người da trắng trên đường. Người da đỏ bỗng vỗ vai người da trắng, hỏi
- Anh có nghe gì không?
Người da trắng hết sức lóng tai nghe, rồi đáp
- Tôi chẳng nghe gì cả.
- Có mà, tôi nghe tiếng một con dế gáy.
- Làm gì mà có con dế nào giữa đường phố nhộn nhịp như thế này? Mà cho dù có đi nữa thì làm sao anh nghe được tiếng nó giữa bao tiếng ồn ào của xe cộ và người qua kẻ lại?
Người da đỏ không thèm trả lời. Anh đi đến một bức tường bên vệ đường. Bức tường đã cũ. Nhiều dây leo chằng chịt trên đó. Anh vạch đám dây leo sang một bên. Một lỗ trống hiện ra, trong đó rõ ràng có một con dế đang gáy.
Người da trắng thán phục:
- Dân da đỏ các anh có lỗ tai thính hơn dân da trắng chúng tôi nhiều.
- Không phải thế đâu. Để tôi thử cái này cho anh xem.
Người da đỏ lấy trong túi ra một đồng tiền kẽm, thảy xuống mặt đường. Tiếng đồng tiền lăn leng keng khiến mọi người đi đường ngoái đầu nhìn lại. Liền đó người da đỏ giải thích:
- Tiếng của đồng tiền kẽm nhỏ hơn tiếng dế kêu rất nhiều. Thế mà mọi người da trắng đều nghe được. Còn tiếng con dế lớn hơn nhưng chỉ có tôi nghe được. Không phải ai thính tai hơn ai cả. Sự thực chính là chúng ta chỉ nghe được tiếng của những thứ chúng ta thường quan tâm để ý (Willi Hoffsemmer).
5. “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16)
Một buổi sáng Chúa nhật, ngày đẹp nhất trong tuần, tôi đến nhà thờ dự lễ và ngao ngán với một bài giảng quá dài lại chẳng có gì hấp dẫn… Chúa nhật sau, anh hẹn đưa tôi đi chơi. Tôi náo nức chờ đợi từng phút giây, mong tới giờ hẹn. Và chúng ta đã lên đường… bỏ lại đàng sau không buồn luyến tiếc: ngôi thánh đường và cả Chúa Giêsu nữa!
Tôi là thế đó, chỉ muốn làm những gì mình thích và thích làm những điều thật vĩ đại. Còn Mẹ Maria thì chọn những gì Chúa muốn và để cho Ngài làm nên những điều cao cả. Nếu như Thiên Chúa cần một người mẹ cho Ngôi Lời nhập thể thì Mẹ đã cất tiếng xin vâng để trần gian được cứu độ. Và trong nữ giới, Mẹ thành người diễm phúc nhất.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa. Xin cho con hằng noi gương Mẹ mà gắn bó cùng Chúa trọn đời. (Epphata).
9.Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa (Lc 2,16-21)--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
CẦN THIẾT CÓ MỘT NGƯỜI MẸ
Con chim nó hót trên cao
Nếu không có mẹ làm sao có mình?
Con chim nó hót trên cành
Nếu không có mẹ thì mình làm sao? (Ca dao)
Câu đố nói lên một cách thống thiết con người cần phải có cha có mẹ vì “Không ai ở chỗ nẻ chui lên”. Đó là nguồn cội của con người. Chim có tổ, nước có nguồn, con người phải có tổ ấm, phải có gia đình.
Chúa Giêsu khi bước xuống trần gian này cũng không muốn sống ngoài định luật của con người. Ngài cũng có mẹ có cha. Đó là tính cách rất người của Chúa Giêsu. Chúa không muốn trở thành một vị tiên giáng trần hay một Phù Đổng Thiên Vương vươn vai rồi lớn lên hay như một vị khác thường từ trời giáng thế. Chúa đã chọn con đường bình thường như mọi người là có một gia đình để sinh ra. Đức Maria chính là người đã sinh ra Chúa Giêsu.
Kinh thánh Tân ước đã chứng minh Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu trong nhiều trường hợp:
– Trong Tin mừng thánh lễ hôm nay, thánh Luca đã viết: “Các mục đồng liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16). Đó là gia đình của Chúa Giêsu mà bà Maria là thân mẫu và ông Giuse là cha nuôi Ngài.
– Khi đến truyền tin, sứ thần Gabriel đã báo cho Đức Maria biết Ngài sẽ là Mẹ Thiên Chúa: “Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai, tên Ngài là Giêsu… Ngài sẽ là Con Đấng cao cả… và là Con Thiên Chúa” (Lc 1,31,35-36).
– Trong dịp đi thăm viếng bà chị họ Elisabeth, Thiên Chúa lại công bố việc Ngài chọn Đức Maria làm Mẹ. Khi hai chị em gặp nhau, đột nhiên bà Elisabeth tự động nói một câu lạ tai, nếu không dám nói là bạo miệng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi” (Lc 1,43). Chúng ta không thắc mắc về câu nói đó, vì đã có thánh Luca giải thích: “Bà được đầy Thánh linh soi sáng” (Lc 1,41).
– Trong dịp đi lễ đền thờ Giêrusalem, hai ông bà lạc mất con, sau ba ngày trở lại đền thờ thấy Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy dạy, đàm đạo với họ. Đức Maria vừa vui mừng vừa mắng yêu con: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ con như vậy? Con không thấy, cha con và mẹ đây đã phải cực nhọc tìm con?” (Lc 2,48)
Như vậy, sứ thần Gabriel – Thánh Linh – bà Elisabeth – Đức Mẹ nói rõ ra chưa đủ, Chúa Giêsu còn bổ khuyết: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao?” (Lc 2,49)
Cha của con ở đây là ai? Dĩ nhiên không phải thánh Giuse, vì thánh Giuse đang đi tìm Chúa, nên phải hiểu “Cha của con”, Chúa nói đây là Thiên Chúa Cha – Cha của Ngài. Do đó, việc Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa lại càng sáng tỏ hơn nữa.
ĐỨC MARIA LÀ MẸ THIÊN CHÚA
Xưa nay mọi người vẫn tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, vì chúng ta lý luận rằng: gọi là mẹ những người đàn bà đã thật sự sinh con. Bà Maria đã thực sự sinh con là Chúa Giêsu. Mà Chúa Giêsu theo các chứng đã nêu trên là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa thật “Cha Ta và Ta là một” (Ga 10,30; 17,11.22). Cho nên bà Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Tước hiệu “Đức Maria Mẹ Thiên Chúa” là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo hội. Nhưng tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa” không có trong bản văn Tân ước. Tước hiệu này được đề cập lần đầu tiên trong tài liệu của thánh Hippolytô (+235) ở Rôma. Sau đó thượng phụ giáo chủ Constantinople là Nestoriô (428) dựa trên quan điểm Kitô học riêng của mình đã phản đối việc xưng tụng Đức Maria dưới tước hiệu này.
Theo Nestôriô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ Đức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa, vì theo ông, Con Thiên Chúa là một hữu thể, con Đức Maria là một hữu thể khác, vì ông cho rằng: Chúa Kitô có hai ngôi vị, đó là ngôi vị Thiên Chúa (Ngôi Lời) và ngôi vị con người (Giêsu). Như thế, Đức Maria không thể được gọi là “Theotokos” (Mẹ Thiên Chúa) ít nhất là theo ý nghĩa thực của hành vi ngôi hiệp (hợp nhất bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại trong một ngôi vị duy nhất của Chúa Kitô).
Thế nên, vào năm 431, Giáo hội đã triệu tập Công đồng Êphêsô dưới sự chủ toạ của thánh Cyrillô, các nghị phụ trong công đồng này đã tuyên bố cách chức giáo chủ Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của ông ta. Công đồng đã định tín Maria là Mẹ Thiên Chúa, vì thực sự Mẹ đã sinh ra Con-Thiên-Chúa-Làm-Người. Từ công đồng Êphêsô, tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa đã trở thành tước hiệu chính thức của Đức trinh Nữ Maria. Từ công đồng này, chúng ta có phần sau của kinh Kính Mừng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.
Công đồng Vatican II cũng tái xác quyết địa vị Mẹ Thiên Chúa: “Đức trinh nữ Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian. Ngài được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa” (Lumen gentium, số 53).
Truyện: Mẹ Tổng thống
Ngày 20.01.1961 John Kennedy Tổng thống thứ 35 của Hoa kỳ, một người Công giáo đầu tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Kennedy, cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy thề nhậm chức và trở thành Tổng thống thì Rosa Kennedy trở thành mẹ của Tổng thống.
Khi bà sinh John vào năm 1917, bà đã cho đất nước Hoa Kỳ một con người mà sau này làm Tổng thống. Bà không sinh ra một con người Tổng thống. Nhưng thực sự và đúng là mẹ của một Tổng thống.
Một cách tương tự, nhưng không y hệt như thế, chúng ta xưng tụng Đức Nữ Đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu Kitô Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là người. Đức Maria không sinh ra Chúa là Chúa, Đức Maria cũng không phải là Chúa hay Bà Chúa. Mẹ là một con người có hạn, được vinh dự dâng hiến bản tính nhân loại cho Ngôi Con trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua Mẹ, Đức Giêsu là một người thật và cũng là Thiên Chúa thật. Đó là chân lý chúng ta mừng lễ hôm nay. Ngày đầu năm dương lịch (Gm. Arthur Tonne).
Đức Maria là Mẹ Đức Giêsu vì đã sinh ra Ngài đúng nghĩa, chúng ta cũng là con cái Mẹ Maria theo nghĩa thiêng liêng và trở nên anh em với Chúa Giêsu. Chúng ta không còn phải mồ côi, vì đã có người Mẹ yêu thương và săn sóc dìu dắt. Phúc cho những người con nào có mẹ. Thật hạnh phúc cho chúng ta khi chúng ta có thể mở miệng ra kêu: “Mẹ ơi”, như lời ca trong ca khúc “Bông hồng cài áo” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ: “Một bông hồng cho anh, một bông hồng cho em, một bông hồng cho những ai đang còn mẹ… Thì xin em hãy cùng tôi vui sướng lên, hãy cùng tôi vui sướng lên…”.
Nếu chúng ta đang tìm cho mình một hướng đi trong năm mới, thiết tưởng không một hướng đi nào vừa bảo đảm lại vừa tốt đẹp cho bằng hãy chạy đến với Đức Maria. Với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có đủ khả năng để bầu cử và giúp đỡ chúng ta. Với địa vị là mẹ chúng ta, Mẹ có đủ tình thương để sẵn sàng thực hiện những điều chúng ta van xin, vì vậy chúng ta hay thường đọc:
Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến kêu xin cùng Mẹ mà Mẹ chẳng nhận lời (Kinh Hãy nhớ). Hay như thánh Bênađô đã bảo: “Kêu xin Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ lầm đường lạc lối”.
ĐỨC MARIA, NỮ VƯƠNG HOÀ BÌNH
Hôm nay, các mục đồng lại kể thêm về các lời của thiên sứ. Hài nhi trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế, các thiên thần đã xướng ca: Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Như vậy, Giêsu, Con của Đức Maria thực hiện lời tiên tri hứa cùng nhà Đavít. Ngài sẽ đem lại hoà bình cho Dân Chúa và vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Maria hôm nay gẫm suy những điều ấy. Đấng Cứu Thế đem lại hoà bình, Ngài là Hoàng tử hòa bình, là Vua hòa bình.
Ý thức được quyền uy cao cả của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Giáo hội luôn kêu xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giêsu Hài đồng, Con Mẹ ban cho thế giới được bình an trong năm mới.
Chính Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã đặt ngày 1/1 dương lịch hàng năm làm ngày cầu cho hòa bình thế giới. Ngài viết trong tông huấn Marialis Cultus như sau: “Khi canh tân mùa Giáng Sinh, mọi người phải chú ý đến việc tái lập lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1/1 đúng Phụng vụ Rôma từ xưa, nhằm tôn kính địa vị đặc biệt của Mẹ, Đấng tiếp nhận nguồn gốc là Đức Giêsu. Lễ này là dịp rất tốt để chúng ta tôn thờ Vua hoà bình mới sinh ra và nghe lại lời chúc hoà bình của các thiên sứ và cũng để cầu Chúa Hài nhi, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hoà Bình ban cho chúng ta ơn cao cả nhất là ơn hoà bình” (Marialis Cultus, số 5).
Hoà bình không những là khát vọng của mỗi người mà còn là ước vọng của cả nhân loại. Hoà bình là quà tặng quý giá nhất Thiên Chúa ban cho nhân loại: “Thầy để bình anh cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con” (Ga 14,27). Hoà bình khởi đi trong tâm hồn. Con Thiên Chúa đã ban cho nhân loại sự bình an đích thực.
Hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói còn giấu nhiều mặt hơn tiêu cực. Hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, đổ vỡ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là khí thở của mọi người trên thế giới này.
Chúng ta đóng góp được những gì? Kể từ khi Đức Giáo hoàng Phaolô VI chọn ngày 1/1 làm ngày thế giới hoà bình lần đầu tiên trở đi, mỗi năm các Đức Giáo hoàng chọn cho ngày đó một chủ đề về hoà bình để mọi người suy niệm, học hỏi, thực hành, như năm 2008, Đức Bênêđictô XVI đã lấy đề tài: Bài trừ đói nghèo, xây dựng hoà bình./Đức Giáo hoàng kêu gọi phải chiến đấu chống lại sự nghèo đói. Cuộc chiến này phải được mọi người tiếp tay, phải được cả thế giới quyết tâm cao. Các nước giàu phải có bổn phận giúp đỡ nước nghèo. Người giàu có phải giúp đỡ người nghèo. Nhưng trong thực tế, người ta ích kỷ không muốn chia sẻ cho nhau. Chỉ khi con người biết yêu thương nhau, quảng đại chia sẻ giúp đỡ nhau, giảm bớt chi tiêu lãng phí để giúp đỡ kẻ khác thì mới bớt sự nghèo khó và mới có sự bình an trong cuộc sống. Thánh Têrêsa Calcutta nói: “Chỉ khi con người biết chia sẻ cho nhau, thì mới hết cảnh đói nghèo”.
Yêu hoà bình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. Hoà bình đòi phải phấn đấu và đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hòa bình, nhưng muốn xây dựng hoà bình.
Trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa và cầu cho hòa bình thế giới hôm nay, chúng ta xin Đức Mẹ là Nữ Vương Hoà Bình ban cho chúng ta, cho các gia đình, cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho mọi người trong đêm Giáng sinh, để chúng ta biết sống hòa thuận thương yêu nhau, đoàn kết xây dựng hòa bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới hôm nay.
Lạy Hoàng Tử Hòa Bình vừa hạ sinh, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hoà Bình, xin ban cho nhân loại được hưởng niềm hoà bình viên mãn và tuôn tràn nguồn an bình đích thực xuống trong mỗi tâm hồn chúng con. Amen.
10.Thánh Maria Mẹ Thiên Chúa--Lm Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Đây là một trong những hồng ân mà Thiên Chúa dành cho Đức Maria, Mẹ của chúng ta.
1. Đây là việc của Thiên Chúa, là sáng kiến của Thiên Chúa chứ không phải do công nghiệp gì của Đức Mẹ,
- Ngay từ những trang đầu của sách Sáng Thế Ký: Thiên Chúa đã báo trước cho chúng ta thấy về hình ảnh của một người phụ nữ. "Ta sẽ gây một mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." (St 3,15)
- Trong Isaia 7,10-14 Giavê lại nói với Akhar lần nữa rằng: "Hãy xin với Giavê, Thiên Chúa của ngươi một dấu, sâu nơi đáy thẳm âm phủ hay là cao vời vợi bên trên" - Nhưng Akhar nói: “Tôi đâu dám xin thế, Tôi không muốn thử sức Chúa tôi". Ngài mới nói: "Hỡi nhà Đavid, hãy nghe đây. Phải chăng làm mệt người ta, các ngươi còn cho là quá ít hay sao, mà các ngươi lại còn muốn làm mệt cả Thiên Chúa nữa? Cho nên chính Ta là Đức Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này một cô nương sẽ thụ thai và sinh con và bà sẽ gọi tên Con là Emmanuel".
2. Tuy là sáng kiến của Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa lại muốn con người cộng tác với Người. Đức Maria đã được Thiên Chúa đoái thương đến.
Mẹ đã nói lên lời: "Xin vâng" và từ lời "Xin vâng" đó, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người và trở thành con-của-loài-người (Deus – Homo).
Đức Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu Thiên Chúa làm người cho nên Đức Mẹ trở thành Mẹ của Thiên Chúa.
Rồi trên cây Thánh Giá Chúa đã trối Đức Mẹ cho Thánh Gioan để Đức Mẹ trở thành Mẹ của cả loài người.
Cuộc đời có mẹ hạnh phúc lắm.
Tình thương của mẹ lạ lùng lắm
Luca Durtain có viết nên một huyền thoại này:
Một ngày đẹp trời nọ trên dương gian
Sứ thần Grabriel ngồi nhìn xuống quả địa cầu... Nét mặt ngài đang vui bỗng ngài chau mày lại. Ngài tự lẩm bẩm trong miệng:
- Thật là ghê tởm... Ghê tởm quá!
Vâng quả địa cầu đã trở nên ghê tởm, vì nó tràn ngập tội lỗi, chẳng khác gì thời ông Nôe.
Tên Grabriel có nghĩa là"cánh tay của Thiên Chúa". Ngài liền đến trước ngai vàng phủ phục trước tôn nhan Chúa và thưa:
- Lạy Chúa, xin cho phép con được mượn lưỡi gươm của đồng nghiệp Micae để gọt vỏ quả địa cầu đi, sâu chừng năm bảy dặm như người ta gọt vỏ một củ khoai. Như thế là có thể loại bỏ được hết mọi nhờm gớm nhân gian cho khỏi tôn nhan Chúa.
Chúa trả lời:
- Được lắm! Nhưng nhà ngươi nên nhớ: "Lưỡi gươm đã dùng trong vườn địa đàng ngày trước, bây giờ chỉ có quyền chém phá những gì có quyền chém phá thôi"
Được phép Chúa, sứ thần Grabriel vụt bay xuống trần gian, xăn tay áo, gọt quả địa cầu, bắt đầu từ Bắc cực đi tới...
Mọi sự đều cúi mình san sát trước lưỡi gươm thần. Không ai, không vật gì, từ tảng đá cứng rắn nhất cho đến những ngọn núi cao ngất trời... Tất cả đều cúi đầu vâng theo. Không ai, không có gì cưỡng lại được.
Nhưng rồi một hôm khi lưỡi gươm đi tới một ngôi làng nhỏ nằm ẩn khuất bên một sườn đồi, đột nhiên lưỡi gươm thần như đụng phải một vật gì cứng rắn lạ thường không thể nào đi qua nổi
- Có chuyện gì lạ ở đây chăng?
Và sực nhớ lại Lời Chúa đã dặn trước khi xuất hành, Grabriel xỏ gươm vào vỏ, hạ cánh tay xuống, bước vào trong ngôi nhà nhỏ kia xem có gì lạ chăng.
Ngài đã trông thấy gì ở trong đó?
Một chiếc nôi và bên cạnh một chiếc nôi ấy một người mẹ đang ngồi cặm cụi gọt vỏ khoai giống hệt như ngài đang gọt quả địa cầu.
Đó chính là chướng ngại ngăn cản gươm thần lại không cho đi tới.
Trước cảnh tượng ấy, Grabriel như đột nhiên tỉnh giấc mơ màng... Ngài vội vàng quì sấp mặt xuống đất, vòng hai tay lại:
- Phải rồi! Phải rồi! Hồi xửa hồi xưa đã có một lần ta phụng mệnh Thiên Chúa xuống trần gian, truyền tin hoan hỉ cho một thiếu phụ trong làng Nazareth, tại một căn nhà nhỏ hẹp giống như căn nhà này. Thật ta đang làm một việc hết sức là nông nổi ngông cuồng!
Sau đó Ngài ngẩng đầu lên và nói:
"Hỡi đồng nghiệp Micae, tôi xin hoàn trả lại ngài thanh gươm này. Tôi đã khám phá ra rằng: Ở trên quả địa cầu này ít nhất có hai tạo vật còn mạnh mẽ hơn cả gươm thần sắc bén của ngài. Đó là một đứa trẻ thơ và một bà mẹ hiền."
Vâng chính nhờ hai nhân vật ấy mà quả địa cầu mới đứng vững được cho đến ngày hôm nay.
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Ðường Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
11.Thế giới đang khao khát hòa bình-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 2022
Thiên Chúa nhân hậu và khôn ngoan, khi muốn thực hiện công cuộc cứu chuộc thế giới vào thời cuối cùng, Ngài đã sai Con mình tới bằng cách cho Đức Giê-su nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần (x.Lc 1, 26-38). Khi cất lời thưa Xin vâng, Mẹ đã đón nhận Chúa Giêsu vào trong lòng Mẹ. Mẹ Maria chính là Mẹ Chúa Giêsu.
Đức Maria Mẹ Chúa Giêsu
Chúa Giêsu đã được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Belem. Người đã không sinh ra “do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra” (Ga 1,13).
Hôm nay, Giáo hội chiêm ngắm thiên chức làm Mẹ Chúa Giêsu của Đức Maria. Thánh Luca giới thiệu cho chúng một “cuộc gặp gỡ” của mục đồng với “Hài Nhi”, cùng với Đức Maria, Mẹ Người và thánh Giuse. Nghe theo lời loan báo của các thiên thần, “họ đã ra đi vội vã đến thành Belem, và thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh năm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).
Nếu không có kinh nghiệm về “gặp gỡ” cá nhân với Thiên Chúa, người ta không thể tin được. Chỉ có “gặp gỡ” cộng thêm là “nhìn thấy tận mắt“, rồi “chạm tới“, các mục đồng mới có thể trở nên những sứ giả của Tin Mừng. “Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ” (Lc 2, 20).
Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Tín điều đầu tiên về Đức Maria mà Giáo hội tuyên bố là Tín Điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa không? Vì nếu Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, thì chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Thiên Chúa? […]
Không có nơi nào trong Thánh kinh sử dụng cụm từ “Mẹ Thiên Chúa”. Nhưng Đức Maria được minh định là “mẹ Chúa Giêsu” (x. Mt 2,13.20; Lc 1,31; 2,34; Cv 1,14) và là mẹ của Con Thiên Chúa (x. Lc 1,35; Gl 4,4). Ngay cả trước khi Chúa Giêsu sinh ra, bà Êlisabét công bố rằng Đức Maria là “thân mẫu của Chúa tôi” (Lc 1,43; x. GLHTCG 495). Thật rõ ràng, xuyên suốt cả Tân ước, Đức Maria được nhận biết trong tư cách là mẹ của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta và là Đấng cứu rỗi chúng ta.
Truyền thống Kitô giáo sơ thời, đã làm chứng cho niềm tin Kitô giáo rằng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Theo lời tuyên xưng cổ kính nhất trong Kinh Tin kính các Tông đồ (x. GLHTCG 194), các tín hữu đã tuyên xưng: “Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Chúa chúng ta, Đấng được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, được sinh ra bởi Đức Trinh nữ Maria”. Một kinh nguyện cổ xưa có niên đại từ thể kỷ thứ ba “Sub tuum praesidium”, gọi Đức Maria cách dứt khoát là “Mẹ Thiên Chúa”.
Thánh Irênê (+202) đã viết: “Đức Trinh nữ Maria, … khi vâng phục lời của Người, đã lãnh nhận từ sứ thần tin mừng rằng mình sẽ cưu mang Thiên Chúa” (x.Thánh Irênê, Chống lạc giáo, 5, 19,1).
Trong Thánh ca Nhập thể đầy thi vị của thánh Ephrem xứ Syria (+373), đã sáng tác như sau: “ Nơi cung lòng Đức Maria, một Trẻ thơ đã nên hình nên dạng… Vì nữ tỳ, công trình Đấng Thượng trí đã trở nên Mẹ Thiên Chúa” (Ibid., 312).
Trong khảo luận về sự Nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa và Chống bè Ariô, thánh Athanasiô (+373) đã viết: “Ngôi Lời, người con được Chúa Cha sinh ra từ trời cao. Đấng vĩnh cửu chính là Đấng được sinh ra trong thời gian dưới trần thế, bởi Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa” (Ibid,340).
Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nêu tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng và viết: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.
Thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) khẳng định: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”. Vì thế, nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, sinh bởi Đức Maria, thì chúng ta cũng có thể gọi mà không sợ sai lầm rằng: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Bằng việc tuyên bố rằng Đức Maria là Theotokos của Công đồng Êphêsô, Giáo hội khẳng định rằng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG) số 509 tóm tắt giáo huấn ấy như sau: “Đức Maria thực sự là ‘Mẹ Thiên Chúa’ vì là Mẹ của Con Thiên Chúa làm người, người Con hằng hữu ấy cũng chính là Thiên Chúa”.
Ngày cầu cho hòa bình
“Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi… và tám ngày sau được gọi tên là Giêsu” (Lc 2,16-21).
Với đoạn Tin Mừng trên đưa chúng ta về với người mẹ vừa mới sinh con là chính Đức Maria, Nữ Vương Bình An, sinh ra Chúa Giêsu là Thái Tử Hòa Bình. Vì thế, ngày đầu năm, Giáo hội khấn xin Đức Mẹ chuyển cầu cùng Thiên Chúa Cha ban cho thế giới được hòa bình nhân ngày sinh nhật của Con Chúa.
Món quà cao quí nhất là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Hoà bình điều mà thế giới hôm nay đang khao khát.
Khởi đi từ ngày 01 tháng Giêng năm 1968, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã thiết lập Ngày Thế Giờ Hòa Bình với Lễ Trọng Kính Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình lần thứ 65 năm 2023, có chủ đề: “Không ai có thể được cứu một mình: Cùng nhau chống lại COVID-19, cùng nhau dấn thân trên con đường hòa bình”. Trong Sứ điệp, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bao gồm một đoạn nói về cuộc chiến đang diễn ra ở Ukraine, điều mà ngài mô tả là “một bước thụt lùi đối với toàn thể nhân loại”. Ngài viết: “Vào chính thời điểm mà chúng ta dám hy vọng rằng những giờ phút đen tối nhất của đại dịch COVID-19 đã qua đi, thì một thảm họa khủng khiếp mới lại giáng xuống nhân loại. Chúng ta đã chứng kiến sự tấn công dữ dội của một tai họa khác: một cuộc chiến khác, ở một mức độ nào đó giống như cuộc chiến chống lại COVID-19, nhưng được thúc đẩy bởi những quyết định đáng trách của con người… Rõ ràng, đây không phải là thời kỳ hậu COVID mà chúng ta đã hy vọng hoặc mong đợi”. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng lưu ý: “Mặc dù đã tìm ra vắc-xin cho COVID-19, nhưng các giải pháp phù hợp vẫn chưa được tìm thấy cho cuộc chiến” (x.PHANXICÔ, Sứ điệp Hòa Bình, 2022).
Để cầu chúc cho nhau, chúng ta mượn lời sách Dân Số: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (x. Ds 6,26).
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Nữ Vương Bình An, thế giới đang khát khao hòa bình hơn bao giờ hết. Xin lôi kéo bình an xuống cho nhân thế Mẹ ơi! Nữ Vương Bình An, cầu cho chúng con. Amen.
12.Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tám ngày sau lễ sinh nhật của Đức Giêsu Chúa chúng ta, Giáo hội mời gọi con cái mình cử hành lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa với tất cả lòng kính trọng và biết ơn, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.
Đức Maria đã được các giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói: "Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ". Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nên tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: "Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ" và " Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa".
Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã gán cho Đức Maria tước hiệu là "Mẹ Thiên Chúa", tuyên dương Mẹ là " Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể ". Như thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) đã viết: "Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô".
Khi giáo chủ Constantinople là Nettôriô công khai chối bỏ thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, thì Công đồng Chung Êphêsô (431) đã đuợc triệu tập và tuyên bố tín điều "Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa". Đó là danh xưng cao trọng nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công đồng Vaticanô II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau: "Không có gì lạ, nếu các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là "Đầy ơn phước" (Lc. 1,28). (GH.59).
Thánh Phaolô viết: "Khi đã đến lúc thời gian đầy đủ, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử... mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa" (Gl 4, 4-7). Như thế, chúng ta dưỡng tử của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Đức Kitô nhờ ơn Thiên Chúa. Lại nữa, Hội Thánh là Thân Thể của Chúa Kitô, Đức Maria đã là Mẹ Chúa Kitô, Đấng là Đầu của Thân Thể, thì Mẹ cũng là Mẹ của Thân Thể, Mẹ Hội Thánh, Hội Thánh được cấu thành bởi những con người chúng ta, nên Mẹ cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. Vì thế trong Giáo Hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian" (GH.62)
Ngày 21/11/1964, Đức Phaolô VI long trọng tuyên bố Đức Maria Là Mẹ Hội Thánh: "Để vinh danh Đức Trinh Nữ và để chúng ta được an ủi, chúng tôi tuyên bố Rất Thánh Maria là Mẹ Hội Thánh, tức là Mẹ của toàn thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân lẫn mục tử, thành phần gọi Người là một Người Mẹ rất yêu dấu; và vì thế chúng tôi truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo hãy dâng lên Mẹ Thiên Chúa một niềm kính tôn hơn nữa và hãy nguyện cầu cùng Người bằng tên gọi rất ngọt ngào này". Và việc Đức Phaolô VI đã "công bố" và "truyền" làm như thế không phải chỉ bằng một văn kiện, mà là bằng lời nói sống động ngay trước mặt toàn thể hàng giáo phẩm thế giới đang tham dự Công Đồng Chung bấy giờ, thành phần đại diện cho toàn thể Dân Chúa.
Đó là những lý do Giáo Hội thúc dục con cái mình cầu nguyện với Mẹ: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử". Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc.
Trong ngày đầu năm mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình (Is 9, 5) sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích thực của chúng ta! Chúng ta mượn lời sách Dân Số mà cầu chúc cho nhau: "Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em" (x. Ds 6,26). Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Vì tình yêu Thiên Chúa đã "ban Người Con duy nhất của Ngài" cho nhân loại (Ga 3,16). Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria.
Thiên Chúa từ trời cao đã giáng trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên tay. Mẹ bồng Hài Nhi Giêsu, con nhìn mẹ và mẹ nhìn con âu yếm. Đức Maria trong thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, và là Mẹ chúng ta, luôn đồng hành để dẫn chúng ta về với Thiên Chúa. Bước theo Mẹ trong cuộc sống của lòng tin bằng thái độ tín thác vào Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Ngài, chúng ta sẽ được Mẹ dìu đưa đến với Chúa, đến Nước Trời. Mẹ mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận Chúa Giêsu, cưu mang Người bằng cách lắng nghe và sống theo Lời Người, để thực sự trở nên người có phúc, người thân của Chúa như Mẹ.
Mừng lễ Mẹ hôm nay, với trọn niềm tin tưởng, mến yêu, chúng ta hãy phó thác cho Mẹ thế giới này, đất nước ta, gia đình ta. Hãy để Mẹ hiện diện để yêu thương, chăm sóc và dẫn dắt chúng ta sống theo ý Chúa. Hãy hết lòng yêu Mẹ bằng tình con thảo hiếu!
Nhờ Mẹ cầu bầu, xin cho cuộc đời mỗi nguời chúng ta được đổ đầy bình an của Chúa trong năm mới này, để chúng ta cũng trở nên những người xây đắp an bình cho gia đình, cho mọi người bằng đời sống tin yêu phó thác vào Chúa và quên mình phục vụ tha nhân như Mẹ. Ước gì chúng ta không chỉ thành khẩn thưa lên với Mẹ bằng lời, mà bằng trọn cả con tim và cuộc sống chúng ta: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con, là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen."
13.Nữ Vương bình an cầu cho chúng con--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tám ngày sau lễ sinh nhật của Đức Giêsu, Chúa chúng ta, Giáo hội mời gọi con cái mình cử hành lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa với tất cả lòng kính trọng và biết ơn, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.
Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa không? Vì nếu Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, thì chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Thiên Chúa?
Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, có hồn có xác. Thánh Công đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria vừa được gọi là Mẹ Chúa Kitô, và Mẹ Thiên Chúa nữa.
Đức Maria đã được các giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói: “Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ”. Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nên tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.
Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã gán cho Đức Maria tước hiệu là “Mẹ Thiên Chúa”, tuyên dương Mẹ là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể ”. Như thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) đã viết: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”.
Vì thế, nếu Chúa Giêsu là con của Chúa Cha, sinh bởi Đức Maria, thì đương nhiên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Ngày cầu cho hòa bình
Ngày đầu năm mới, Giáo hội cửa hành lễ Đức Maria Rất Thánh, Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Hòa bình! Để cầu chúc cho nhau, chúng ta mượn lời sách Dân Số: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (x. Ds 6,26). Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Hoà bình là món quà Thiên Chúa ủy thác cho con người. Vì yêu, Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại (Ga 3,16), sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, đến đem bình an cho nhân thế.
Thế giới hiện nay, con người ngày càng trở nên vô cảm, không dấn thân và khép kín. Hòa bình bị đe dọa bởi sự thờ ơ trên mọi bình diện của cuộc sống. Con người bị đầu độc bởi các chủ nghĩa tiêu thụ và khoái lạc, bởi sự giàu có và xa hoa, bởi thói tự cao tự đại, con người thường quá tàn nhẫn với nhau, loại trừ nhau bằng nhiều cách.
Vì muốn mang đến cho nhân loại tình yêu, bình an và hạnh phúc. Thiên Chúa tự trở nên Hài Nhi bé bỏng, giống một em bé sơ sinh. Chính trong sự nhỏ bé, thơ ngây, khiêm nhường và tha thứ ấy, Thiên Chúa đã biểu lộ sức mạnh vô biên. Đó là sức mạnh của Thiên Chúa Tình Yêu.
Con Thiên Chúa sinh ra được bọc trong khăn vải, đặt nằm trong máng cỏ, với ánh mắt ngây thơ, tâm hồn trong trắng, đang giang rộng vòng tay, ở giữa các mục đồng và đoàn súc vật, một khung cảnh hòa bình. Cho thấy con người sống hài hoà với Thiên Chúa, với thiên nhiên vạn vật và với nhau. Mang đến cho nhân loại một kỷ nguyên hòa bình. Tình Yêu là phương thuốc chữa lành vết thương. Là nhịp cầu xây dựng tình người. Là phương án cho thế giới mới bạo lực, chiến tranh và khủng bố. Tình Yêu nhập thể mang lại cho thế giới sự bình an bất tận.
Quả thật, sẽ không có hoà bình nếu không có công lý, và sẽ không có hoà bình nếu không có sự tha thứ. Để xây dựng một thế giới hòa bình, chúng ta phải đánh bại sự thờ ơ: đó là vun trồng nền văn hóa liên đới tình thương, đối thoại, hòa giải và canh tân.
Với sứ điệp được công bố vào tháng 12/1967, thánh Giáo hoàng Phaolô VI thiết lập Ngày Thế giới Hoà bình. Ngày này được cử hành lần đầu tiên vào tháng 01/1968 và cứ thế mỗi năm một chủ đề. Sứ điệp hoà bình lần thứ 55, 01/01/2022 có chủ đề là: “Giáo dục, lao động, đối thoại giữa các thế hệ: các công cụ để xây dựng hoà bình lâu dài”. Câu hỏi được đặt ra là: “làm thế nào để xây dựng một nền hoà bình lâu dài?” Đức Thánh Cha xác định ba bối cảnh thực tế để suy tư và hành động. Ngài mời gọi “đọc các dấu chỉ của thời đại với con mắt đức tin, để hướng thay đổi này đánh thức những câu hỏi cũ và mới, những câu hỏi đúng và cần thiết để đối diện”.
Như thế, khởi đi từ ba bối cảnh được xác định, những câu hỏi được đưa ra: nền giáo dục có thể xây dựng một hoà bình lâu dài như thế nào? Trong thế giới hiện nay, lao động có đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của con người về công lý và tự do không? Và cuối cùng, các thế hệ thực sự liên đới với nhau không? Họ có tin vào tương lai không? Và trong bối cảnh nay, ở mức độ nào chính phủ có thể thiết định một chân trời hoà bình?
Lạy Chúa Giêsu, Hoàng Tử Bình An, xin ban cho thế giới được hòa bình và hòa hợp giữa các dân tộc.
Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.
14.Muốn có hòa bình, hãy lắng nghe như Mẹ Maria--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Bài Tin Mừng theo thánh Luca thuật lại cảnh Giáng sinh nơi hang đá Belem, một khung cảnh thật thanh bình và vui tươi. Các mục đồng hớn hở chạy tới hang đá Belem trong niềm vui ngỡ ngàng. Ta có thể hình dung ra một khung cảnh vui tươi nhộn nhịp trong tiếng hát của muôn thiên thần, của các mục đồng đua nhau thuật lại những sự lạ đã đến với họ. Giữa muôn cung điệu đan xen của đất trời ấy, hiện lên một khuôn mặt âm thầm, lặng lẽ. Đó là Đức Nữ Trinh Maria mà hôm nay chúng ta mừng kính Mẹ với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã luôn mở rộng trái tim và khối óc của mình để lắng nghe: lắng nghe những người xung quanh, lắng nghe Giêsu con Mẹ, và trên hết Mẹ luôn lắng nghe tiếng Chúa mời gọi trong cuộc đời Mẹ.
“Còn Bà Maria thì hằng ghi nhớ những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Không chỉ lúc này nhưng trong suốt cuộc đời Mẹ, Mẹ luôn lắng nghe.
Mẹ luôn lắng nghe những người xung quanh
Khi các mục đồng tới hang đá Belem, họ đã kể rất nhiều về những sự lạ họ được chứng kiến khi Hài Nhi Giêsu sinh ra. Thánh Luca cho chúng ta biết mọi người đều ngạc nhiên khi nghe các mục đồng kể. Chắc chắn không ai có thể hiểu rõ hơn Đức Maria về điều đang xảy ra nơi Hài nhi Giêsu, nơi người con Mẹ đã cưu mang. Thế nhưng Mẹ đã âm thầm lắng nghe những tâm sự bộc bạch của những người xung quanh.
Khi dự tiệc cưới tại Cana, Mẹ cũng ở trong tư thế lắng nghe khi mà các bàn tiệc và gia nhân nhốn nháo vì hết rượu. Chính vì Mẹ đã lắng nghe nên Mẹ nhận biết được nhu cầu của họ.
Khi theo con Mẹ trên hành trình rao giảng Nước Trời, Mẹ cũng đã luôn lắng nghe, ngay cả khi mọi người cho rằng con Mẹ bị điên, bị quỷ ám … Dọc theo con đường thập giá, giữa muôn tiếng gào thét kết án con Mẹ, đòi đóng đanh Giêsu, chúng ta vẫn thấy hình ảnh của Maria âm thầm lắng nghe.
Vì luôn lắng nghe những người xung quanh mà Mẹ đã hiểu rõ tâm tư, ước muốn, nhu cầu của họ. Để rồi Mẹ khẩn nài Thiên Chúa cho họ; Mẹ ra tay nâng đỡ họ.
Mẹ luôn lắng nghe Con Mẹ
Từ khi Con Mẹ còn là bào thai cho đến khi chịu chết trên cây thập giá, Mẹ luôn lắng nghe con mình.
Khi mang trong mình Hài nhi Giêsu, khi hạ sinh con nơi khó nghèo, khi tìm được con trong đền thờ, khi đề nghị con giúp đôi tân hôn tại Cana, khi cùng con trên đường rao giảng Nước Trời, Mẹ đã luôn để trí để lòng lắng nghe Giêsu. Trong khi thiên hạ từ chối con Mẹ thì Mẹ luôn giữ lấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Nhìn con đau đớn trên hành trình thập giá. Mẹ vẫn lắng nghe con để hiểu con mình hơn. Nhờ đó, Mẹ đã trở nên người Mẹ nhân từ, bình an giữa các môn đệ đang hoang mang ngày Giêsu chịu chết. Mẹ đã nghe được tiếng của con Mẹ. Mẹ đã hiểu được con mình nên Mẹ luôn sống trong sự phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa.
Và trên hết Mẹ luôn lắng nghe Thiên Chúa
Mẹ luôn là người nhạy bén với tiếng Chúa. Trong những khi khốn khó hay vui mừng. Mẹ luôn tìm đến với thánh ý Thiên Chúa. Mẹ đã luôn lắng nghe tiếng Chúa để rồi Mẹ luôn đi trong đường lối của Chúa.
Khi thưa tiếng xin vâng ngày thiên sứ truyền tin Mẹ sẽ mang thai Hài nhi Giêsu, khi sinh con nơi hang đá khó nghèo trong đem lạnh giá, khi dâng con trong đền thờ, khi tìm con bị lạc trong đền thờ, khi theo con bôn ba rao giảng Nước Trời, khi nhìn con bị hành hình … Nếu Mẹ không lắng nghe được tiếng Chúa mời gọi thì làm sao Mẹ có thể vượt qua được. Trong mọi sự, Mẹ luôn lắng nghe để ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Mẹ Maria là gương mẫu cho mọi người
Nếu mọi thành viên trong gia đình luôn biết lắng nghe như Đức Maria thì gia đình sẽ luôn yên vui và hạnh phúc. Con cái biết lắng nghe cha mẹ; cha mẹ biết lắng nghe con cái; Chồng biết lắng nghe vợ; vợ biết lắng nghe chồng. Mọi thành viên trong gia đình luôn biết lắng nghe nhau mới hiểu nhau được, mới cảm thông và nâng đỡ được nhau.
Nếu mọi thành phần trong xã hội luôn biết lắng nghe nhau thì xã hội mới tốt hơn. Ngày hôm nay người ta tranh nhau nói với đủ mọi âm điệu, cách thức; đủ mọi âm thanh náo nhiệt, đủ mọi hình ảnh phô bày. Nếu mỗi người biết lắng nghe người khác như Đức Maria thì xã hội mới thấy được những tâm hồn đau khổ đang cần được nâng đỡ, thì nhà cầm quyền mới có những phán quyết không bị lạc cung điệu.
Và trên hết, nếu tôi noi gương Đức Maria, luôn biết lắng nghe tiếng Chúa thì sự bình an của Đức Kitô mới thực sự cư ngụ trong sâu thẳm tâm hồn tôi. Thật hạnh phúc khi mọi thành viên trong gia đình ngồi xuống bên nhau cùng lắng nghe Lời Chúa. Mỗi giờ kinh trong gia đình, dù chỉ là ngắn ngủi nhưng luôn là những giây phút đem lại cho gia đình sự gắn bó với nhau, gắn bó với Chúa. Thật đẹp khi mọi người trong xã hội biết ngồi xuống với nhau để cùng lắng nghe Lời Chúa. Chỉ khi tôi biết lắng nghe Chúa, tôi mới quăng đi được sự độc tài độc đoán trong gia đình và trong xã hội, mới dẹp đi được sự kiêu căng, ngạo mạn trong con người, mới cùng nhau hướng về một xã hội phồn vinh và hạnh phúc thực sự mà Chúa đang chờ đón.
Ước mong sao Đức Maria, người Mẹ luôn biết lắng nghe, là gương mẫu cho mỗi người, cho mỗi gia đình. Chỉ khi có được một tâm hồn biết lắng nghe như Mẹ, ta mới có thể đi vào tâm hồn của nhau, đi vào vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Khi ấy hòa bình đích thực mới ngự trị trong tâm hồn con người và trong xã hội.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin Mẹ kéo con ra khỏi sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống hôm nay. Xin Mẹ thủ thỉ bên tai con những điều Con Mẹ muốn nói với con.
15.Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời—Lm Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 2,15-21.
(15) Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết”. (16) Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17). Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20) Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. (21) Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ Cắt Bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu. Đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng Mẹ.
2. Ý CHÍNH: CHÚA GIÊSU LÀ CON MẸ MARIA
Các mục đồng liền vội vã lên đường đi tìm Đấng Cứu Thế theo dấu chỉ thiên sứ vừa cho biết (x Lc 2,12), và họ đã gặp được Hài Nhi mới sinh, cùng với cha mẹ Người là hai ông bà Giuse và Maria (c 16). Sau đó tới ngày thứ tám, là lễ Cắt Bì và Hài Nhi được đặt tên là Giêsu, đúng như lời thiên thần truyền tin cho trinh nữ Maria (x Lc 1,31).
3. CHÚ THÍCH:
- C 8-9: + Trong vùng ấy có những người chăn chiên...:Sau khi bà Maria sinh con trong cảnh khó nghèo tại thành Bêlem, các mục đồng vốn là những kẻ nghèo hèn sống bên lề xã hội Do thái và luôn bị khinh dể, vì không có điều kiện tuân giữ Luật pháp Môsê. Giờ đây họ đã được ưu tiên đón nhận Tin Mừng về Đấng Cứu Thế đã ra đời.
- C 10-14: + “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại...”...:Qua đó cho thấy những người nghèo khó, đau khổ và bị bỏ rơi đang bị thua thiệt thì giờ đây lại được Chúa ưu tiên đ loan báo tin vui cứu độ (x Mt 5,3.5.7).
- C 16: + “Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”: Ở đây, Luca kể theo thứ tự tư nhiên: Maria, Giuse và Hài Nhi. Nhưng nếu theo thứ tự siêu nhiên thì phải kể: Hài Nhi Giêsu, Maria và Giuse. Vì Hài Nhi là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, rồi đến Đức Maria là Đấng thánh được chọn làm Mẹ của Đấng Thiên Sai, nên phải kể ra trước Giuse.
- C 19: + Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng:Maria để tâm suy gẫm để tìm ra ý nghĩa của những sự kiện xảy ra trong cuộc đời Chúa Giê-sù, từ đó khám phá ra thánh ý Thiên Chúa muốn Mẹ phải làm gì để đáp lại tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
- C 21: + Làm lễ Cắt Bì:Cắt bì là cắt một ít da thừa nơi bộ phận sinh dục của bé trai. Luật Môsê quy định lễ Cắt Bì phải được thực hiện vào ngày thứ tám sau khi đứa trẻ sinh ra (x Lv 12,3). Người thực hiện phải dùng dao bằng đá (x Gs 5,2). Việc chảy một ít máu tượng trưng “máu giao ước” giữa Đức Chúa với dân Ítraen (x Xh 4,26). Qua nghi lễ này đứa trẻ được chính thức gia nhập vào dân riêng của Đức Chúa và được cha mẹ đặt tên cho, như trình thuật về lễ đặt tên của Gioan Tẩy Giả (x Lc 1,59-63).
- C 21: +Tên gọi Giêsu:Khi hiện ra trong giấc mộng, thiên thần đã lệnh cho Giuse đặt tên cho con trẻ sắp sinh ra là Giêsu, nghĩa là Đấng Cứu Thế, và lời giải thích ý nghĩa của tên gọi sau đó: “vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội của họ”(Mt 1,25).
4. CÂU HỎI:
1) Người chăn chiên là hạng người nào trong xã hội Do Thái?
2) qua sự kiện các mục đồng nghèo khó được loan báo Tin Mừng trườc tiên, cho thấy tình thương cứu độ của Thiên Chúa như thế nào?
3) Luca kể ra ba nhân vật trong gia đình thánh gia theo thứ tự tự nhiên, đang khi nếu xét về đức tin thì lẽ ra phải kể tên các Đấng theo thứ tự như thế nào mới hợp đức tin?
4) Cắt Bì là gì? Ai được chịu phép Cắt Bì? Được chịu khi nào và nhằm mục đích gì?
5) Tên Hài Nhi Giêsu do ai ra lệnh? Tên ấy nghĩa là gì? Theo Tin Mừng Matthêu (x Mt 1,21.25) thì ai được thiên thần ra lệnh phải đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu và tên Giêsu có ý nghĩa thế nào?
II SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là Mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,27)
2) CÂU CHUYỆN: MẸ MARIA HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG KẺ GẶP NGUY KHỐN
Trưa ngày 12 tháng 10 năm 1972, một chiếc phi cơ chở 45 giáo viên và học sinh đi từ Mông-tê-viu đến Săng-chi-a-gô nước Chi-Lê thi đấu thể thao đã bị rớt khi băng qua dãy núi Ăng-đét và vỡ ra nhiều mảnh. Có 28 học sinh còn sống sót. Khi màn đêm buông xuống, 28 học sinh còn sống sót kia ngồi tụm lại bên nhau trong một khoang máy bay. Cũng may, trên phi cơ vẫn còn một số đồ ăn như thịt nguội, bánh mì và rượu vang... và một chiếc rađiô cátxét. Nhờ chiếc rađiô này mà họ có thể theo dõi cuộc cứu hộ đang triển khai tại các quốc gia trong vùng. Sau tám ngày, họ nghe được các đoàn cứu hộ báo cáo không thể tìm ra chiếc máy bay gặp nạn và không hy vọng hành khách nào còn sống sót. Thế là các nạn nhân hiểu rằng: họ có còn sống hay không là do quyết tâm của chính họ.
Ít ngày sau, thêm 12 người nữa theo nhau qua đời vì bệnh viêm màng phổi vì không chịu được giá rét khủng khiếp. Đoàn người còn lại 16 người. Bây giờ họ chỉ còn biết trông chờ phép lạ. Thế là cả 16 học sinh này quyết định họp nhau cầu nguyện vào mỗi tối. Vào khoảng 9 giờ tối, khi trăng bắt đầu mọc trên triền núi, thì mọi người ngồi quây quần đọc chung kinh Mân Côi. Giờ kinh được tiếp tục bằng lời cầu tự phát và các bài thánh ca. Cuối cùng kết thúc bằng kinh Hãy Nhớ để nài xin Mẹ Chúa Trời thương cứu giúp. Những buổi cầu nguyện như thế trở thành nguồn động lực lớn lao giúp các học sinh hy vọng sẽ được cứu thoát. Thấm thoát đã sang tuần lễ thứ tám. Thời tiết bắt đầu bớt băng giá. Hai cậu khỏe nhất trong bọn và có kinh nghiệm leo núi quyết định sẽ leo xuống núi cầu cứu. Cuộc hành trình của họ vô cùng khó khăn nguy hiểm. Cũng may họ tìm được một cuộn dây thừng bằng ny-lông và dùng làm dây an toàn để leo xuống vách núi đá trơn trượt. Chỉ cần bất cẩn một chút là cả hai sẽ lao xuống vực thẳm. Mọi người còn lại đều hợp ý cầu xin Mẹ Maria nâng đỡ cho hai bạn được an toàn. Chín ngày sau, hai cậu đã xuống được đến một trạm kiểm soát ở dưới chân núi, và vài tiếng đồng hồ sau, đã có hai chiếc trực thăng cứu hộ xuất hiện trên đỉnh núi cao để cứu mười bốn học sinh còn lại. Nhờ sự thành tín kêu cầu Đức Maria, mà các học sinh này đã sống được tới 70 ngày trên đỉnh núi cao giá lạnh, đang khi không ai trong các thân nhân của họ dám hy vọng họ còn sống và có ngày trở về nhà. Suốt 70 ngày gian khổ trên núi, 16 cậu học sinh này đã cảm nghiệm được rằng: Đức Maria không những là Mẹ Thiên Chúa, mà Người còn là Mẹ của tất cả những ai thành tâm tin cậy cầu xin Ngài cầu bầu.
3. SUY NIỆM:
1) Đức Maria Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của chúng ta:Thánh Phaolô viết trong thư Ga-la-ta: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Như vậy, khi sinh hạ Chúa Giêsu, Đức Maria cũng hạ sinh một nhân loại mới. Vì Người là Mẹ của Chúa Giêsu là đầu nhiệm thể, nên cũng là Mẹ của các tín hữu chúng ta. Hơn nữa, khi đứng dưới chân thập giá, Mẹ Maria được Chúa Giêsu trối làm mẹ của Gioan là đại diện của Hội Thánh, và sau đó Gioan đã rước Mẹ về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Thầy Giêsu (x. Ga 19,26-27). Cuối cùng, Mẹ Maria còn là trạng sư cầu bầu đắc lực cho chúng ta trước tòa Chúa Giêsu là Đấng sẽ tái lâm để phán xét chung tòan nhân lọai vào ngày tận thế sau này.
2) Mẹ đã nêu gương sống đức tin cậy mến: Trong biến cố truyền tin Mẹ đã lắng nghe lời giải thích của sứ thần, tìm hiểu ý nghĩa trong sự đối thoại: “việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1, 34). Nhờ đối thoại với sứ thần, Mẹ ngày càng khám phá ra mầu nhiệm Ngôi Lời Thiên Chúa xuống thế làm người, để cộng tác bằng việc cưu mang và hạ sinh Đấng Cứu Thế. Mẹ thể hiện niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa bằng thái độ lắng nghe và tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa sẽ được thực hiện như bà Êlisabét đã khen ngợi (x Lc 1,45). Khi Chúa giáng sinh, Mẹ đã nghe lời ca khen của các thiên thần, các mục đồng, và các nhà thông thái tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu, Tin Mừng Luca đã ghi lại thái độ của Mẹ như sau: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2.19.51). Trên núi Sọ, Mẹ đã tận mắt chứng kiến người con yêu chịu treo trên thập giá giữa hai người trộm cướp, lòng Mẹ nát tan như bị lưỡi đòng đâm thấu trái tim (x Lc 2,35).
3) Vai trò chuyển cầu của Đức Maria: Trong tiệc cưới tại Cana, chính Mẹ Maria đã phát hiện ra tiệc cưới sắp bị hết rượu. Mẹ không đợi đôi tân hôn phải kêu xin, nhưng đã mau mắn đến xin con mình là Đức Giêsu giúp cho đôi tân hôn và dạy các gia nhân phải vâng lời Đức Giêsu truyền. Nhờ sự chuyển cầu của Mẹ, mà dù chưa tới giờ hành động. Đức Giêsu vẫn làm cho nước lã biến thành rượu ngon, giúp cho đôi tân hôn khỏi bị mang tiếng trước mặt các thực khách (x. Ga 2,1-11). Ngày nay ở trên trời, Mẹ Maria cũng tiếp tục chuyển cầu cho các đôi vợ chồng có lòng yêu mến tin cậy cầu xin, Mẹ sẽ giúp họ vượt qua những thử thách trong cuộc sống lứa đôi, và sẽ làm cho tình yêu của họ dù có bị lạt như nước lã sau nhiều năm sống chung, sẽ hóa nên nồng thắm như ngày mới cưới. Miễn là họ phải mời Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào hiện diện trong gia đình của họ. Cách trưng bày ảnh tượng của Chúa Giêsu và Đức Mẹ trên bàn thờ gia đình sẽ nói lên đức tin của các gia đình tín hữu chúng ta trưởng thành và sáng suốt đến mức độ nào.
4) Chúng tôi phải làm gì?: Đức Maria trở thành mẫu gương sống đức tin cậy mến cho cá tín hữu chúng ta học tập noi gương về cách ứng xử trước các biến cố gặp phải trong cuộc sống đời thường. Nhờ năng đọc Lời Chúa, các tín hữu sẽ học nơi Mẹ Maria “luôn ghi nhớ các sự việc ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Hãy năng tìm hiểu ý Chúa và mau mắn “Xin vâng”. Hãy năng dâng lời ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa hằng ngày trong lời kinh “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1,46). Hãy biết chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho những người thân và phục vụ những ai đang cần được trợ giúp như Mẹ đã ở lại ba tháng để phục vụ bà chi họ Êlisabét cho tới ngày bà sinh con (x Lc 1,56). Hãy cùng Mẹ can đảm chia sẻ sự đau khổ với Chúa Giêsu trên cây thập giá, sẵn sàng chịu chết đi cho tội lỗi và được sống lại vinh quang với Người sau này.
4. THẢO LUẬN:
1) Môn đệ Gioan đã rước Đức Maria về nhà mình để phụng dưỡng. Còn chúng ta hôm nay phải làm gì để tỏ lòng hiếu kính đối với Mẹ Maria và trở nên con cái ngoan ngoãn hiếu thảo của ngài?
2) Ngày nay khi gặp các gian nan thử thách, các đôi vợ chồng tín hữu cần làm gì để được Mẹ Thiên Chúa giúp đỡ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊSU. Trần gian hôm nay đầy những thú vui hấp dẫn chúng con. Nhưng những đam mê ấy thường bất chính và chỉ mang lại hậu quả tai hại cho phần rồi đời đời của chúng con. Thiên đàng của thế gian là thứ thiên đàng giả tạo và bọt bèo chóng qua. Hôm nay chúng con xác tín rằng: chỉ Chúa mới là lẽ sống cuộc đời chúng con, là mặt trời công chính xua tan bóng đêm tội lỗi.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết luôn tìm kiếm Chúa, lắng nghe Lời Chúa và tìm thấy con đường phải đi. Xin cho chúng con mỗi ngày biết siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở nên những môn đệ trung tín, luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt mọi người, để họ thấy những việc lành chúng con làm mà ngợi khen Cha trên trời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
16.Để nên con thảo của Mẹ Maria--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI Chúa
TIN MỪNG: Lc 2,15-21.
(15) Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết. (16) Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17) Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20) Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. (21) Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ Cắt Bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su. Đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng Mẹ.
Ý CHÍNH: Các mục đồng liền vội vã lên đường đi tìm Đấng Cứu Thế theo dấu chỉ thiên sứ cho biết (x Lc 2,12), và họ đã gặp được Hài Nhi mới sinh, cùng với cha mẹ Người là hai ông bà Giu-se và Ma-ri-a (c 16). Sau đó tới ngày thứ tám, là lễ Cắt Bì và Hài Nhi được đặt tên là Giê-su, đúng như lời thiên thần truyền tin cho trinh nữ Ma-ri-a (x Lc 1,31).
CHÚ THÍCH:
– C 8-9: +Trong vùng ấy có những người chăn chiên…: Sau khi bà Ma-ri-a sinh con trong cảnh khó nghèo tại Bê-lem, các mục đồng vốn là những kẻ nghèo hèn sống bên lề xã hội Do thái và luôn bị khinh dể vì không giữ Luật Mô-sê, nhưng đã được ưu tiên đón nhận Tin Mừng.
– C 10-14: +“Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại…”…: Những người nghèo khó, đau khổ và bị bỏ rơi vốn bị thua thiệt thì giờ đây lại được Chúa chúc phúc (x Mt 5,3.5.7).
– C 16: +“Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”: Ở đây, Lu-ca kể theo thứ tự tư nhiên: Ma-ri-a, Giu-se và Hài Nhi. Nhưng đúng ra phải được kể theo thứ tự siêu nhiên như sau: Hài Nhi Giê-su, Ma-ri-a và Giu-se. Vì Hài Nhi là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a là Đấng thánh được nhiều đặc ân làm Mẹ Đấng Thiên Sai.
– C 19: +Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”: Ma-ri-a để tâm suy gẫm để tìm ra ý nghĩa của những sự kiện đã xảy ra trong cuộc đời Chúa Giê-sù, qua đó khám phá ra thánh ý Thiên Chúa muốn mình phải làm gì để đáp lại tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
– C 21: +Phép Cắt Bì: Cắt bì là cắt một ít da thừa nơi bộ phận sinh dục của bé trai. Luật Mô-sê quy định phép cắt bì phải được thực hiện vào ngày thứ tám sau khi đứa trẻ chào đời (x Lv 12,3). Đây là một lễ nghi tôn giáo được thực hiện với con dao bằng đá (x Gs 5,2). Việc chảy máu như một dấu chỉ tượng trưng cho “máu giao ước giữa Đức Chúa với dân Ít-ra-en (x Xh 4,26). Qua nghi lễ này đứa trẻ được chính thức gia nhập vào dân riêng của Đức Chúa và được cha mẹ đặt tên, giống như trẻ Gio-an đã được chịu phép cắt bì và đặt tên (x Lc 1,59-63).
– C 21: +Tên gọi Giê-su: Trong Tin Mừng Mát-thêu, khi hiện ra với ông Giu-se trong giấc mộng, Thiên thần đã lệnh cho ông hãy làm cha của con trẻ khi truyền cho ông đặt tên Giê-su cho đứa trẻ do Ma-ri-a sắp sinh, “vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội của họ” (Mt 1,21.25).
CÂU HỎI: 1) Những người chăn chiên là hạng người nào? 2) qua sự kiện các mục đồng nghèo khó được loan báo Tin Mừng trườc tiên, chúng ta có thể rút ra bài học gì về tình thương cứu độ của Thiên Chúa? 3) Lu-ca kể ra ba nhân vật trong thánh gia theo thứ tự tự nhiên, đang khi nếu xét về đức tin thì phải theo thứ tự nào? 4) Cắt Bì là gì? Ai được chịu phép Cắt Bì? Nghi lễ này được củ hành khi nào và nhằm mục đích gì? 5) Tên Giê-su do ai đã đặt cho hài nhi khi truyền tin? Tên ấy nghĩa là gì? Còn trong Tin Mừng Mat-thêu thì thiên thần đã lệnh cho ai đặt tên cho con trẻ là Giê-su (x Mt 1,21.25)?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
LỜI CHÚA: Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là Mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,27)
CÂU CHUYỆN:
1) ROSE KENEDY LÀ MẸ CỦA MỘT VỊ TỔNG THỐNG HOA KỲ:
Ngày 20 tháng giêng 1961 John Kennedy làm Tổng Thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Một người Công Giáo đầu tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Kennedy, cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy thề nhậm chức và trở thành Tổng Thống thì Rose Kennedy cũng trở thành Mẹ của một Tổng Thống Hoa Kỳ.
Khi bà sinh John vào năm 1917, Bà đã cho đất nước Hoa kỳ một con người mà sau này sẽ làm Tổng Thống. Bà không sinh ra một con người Tổng Thống, nhưng bà thật sự là mẹ của một vị Tổng Thống.
2) MẸ MA-RI-A LUÔN CỨU GIÚP NHỮNG KẺ CẬY TRÔNG VÀO MẸ:
Trưa ngày 12 tháng 10 năm 1972, một chiếc phi cơ chở 45 giáo viên và học sinh đi từ Mông-tê-viu đến Săng-chi-a-gô nước Chi-Lê thi đấu thể thao đã bị rớt khi bay qua dãy núi Ăng-đét và vỡ ra nhiều mảnh. Có 28 học sinh còn sống sót. Khi màn đêm buông xuống, 28 học sinh này đã ngồi tụm lại bên nhau trong một khoang máy bay. Cũng may, trên phi cơ vẫn còn một số đồ ăn như thịt nguội, bánh mì và rượu vang… kèm theo một chiếc ra-đi-ô cát-xét. Nhờ chiếc ra-đi-ô này mà họ có thể theo dõi cuộc cứu hộ đang triển khai tại các quốc gia trong vùng này. Sau tám ngày, họ nghe được các đoàn cứu hộ báo cáo không thể tìm ra chiếc máy bay gặp nạn và không hy vọng còn hành khách nào sống sót. Thế là các nạn nhân hiểu rằng: họ có sống được hay không là do quyết tâm của chính họ.
Ít ngày sau, thêm 12 người nữa theo nhau qua đời do bệnh viêm màng phổi vì không chịu được giá rét khủng khiếp. Đoàn người còn lại 16 người. Bây giờ họ chỉ còn biết trông chờ phép lạ. Thế là cả 16 học sinh này quyết định họp nhau cầu nguyện vào mỗi tối. Vào khoảng 9 giờ tối, khi trăng bắt đầu mọc trên triền núi, thì mọi người ngồi quây quần đọc chung kinh Mân Côi. Giờ kinh được tiếp tục bằng lời cầu tự phát và hát các bài thánh ca. Cuối cùng kết thúc bằng kinh Hãy Nhớ để nài xin Mẹ Chúa Trời thương cứu giúp. Những buổi cầu nguyện như thế trở thành nguồn động lực lớn lao giúp các học sinh hy vọng sẽ được cứu thoát. Thấm thoát đã sang tuần lễ thứ tám. Thời tiết bắt đầu bớt băng giá. Hai cậu khỏe nhất trong bọn và có kinh nghiệm leo núi quyết định sẽ leo xuống núi cầu cứu. Cuộc hành trình của họ vô cùng khó khăn nguy hiểm. Cũng may họ tìm được một cuộn dây thừng bằng ny-lông và dùng làm dây an toàn để leo xuống vách núi đá trơn trượt. Chỉ cần bất cẩn một chút là cả hai sẽ lao xuống vực thẳm. Mọi người còn lại đều hợp ý cầu xin Mẹ Ma-ri-a nâng đỡ cho hai bạn được an toàn. Chín ngày sau, hai cậu đã xuống được đến một trạm kiểm soát ở dưới chân núi, và ít giờ sau, đã có hai chiếc trực thăng cứu hộ xuất hiện trên đỉnh núi cao để cứu mười bốn học sinh còn lại. Nhờ sự thành tín kêu cầu Đức Ma-ri-a, mà các học sinh này đã sống được tới 70 ngày trên đỉnh núi cao giá lạnh, đang khi không ai trong các thân nhân của họ hy vọng họ còn sống và có ngày sẽ trở về. Suốt 70 ngày gian khổ trên núi, 16 cậu học sinh này đã cảm nghiệm được rằng: Đức Ma-ri-a không những là Mẹ Thiên Chúa, mà Người còn là Mẹ của tất cả những ai thành tâm tin cậy cầu xin với Ngài.
THẢO LUẬN: 1) Môn đệ Gio-an đã rước Đức Ma-ri-a về nhà mình mà phụng dưỡng. Còn chúng ta hôm nay phải làm gì để tỏ lòng hiếu kính đối với Mẹ Ma-ri-a và trở nên con ngoan hiếu thảo của Mẹ? 2) Ngày nay khi gặp gian nan thử thách, các đôi vợ chồng cần làm gì để được Mẹ Thiên Chúa trợ giúp?
SUY NIỆM:
1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ THIÊN CHÚA VÀ MẸ HỘI THÁNH:
– Đức Ma-ri-a đã được bà Ê-li-sa-bét khi được đầy ơn Thánh Thần đã ca tụng như sau: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1,43). Thân Mẫu Chúa tôi hay là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm, là Emma-nu-en “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Đức Maria không sinh ra Thiên tính của Chúa Giê-su. Mẹ chỉ là một nữ tỳ của Thiên Chúa, nhưng đã được Thiên Chúa chọn để làm Mẹ Đấng Cứu Thế Giê-su vừa là người phàm, vừa là Con Thiên Chúa. Đó là chân lý chúng ta mừng lễ hôm nay.
– Thánh Phao-lô đã viết trong thư Ga-la-ta như sau: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Như vậy, khi sinh hạ Chúa Giê-su Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a cũng hạ sinh một nhân loại mới được ơn cứu độ là Hội Thánh, trong đó gồm mọi tín hữu chúng ta. Vì Chúa Giê-su là đầu của nhiệm thể của Người là Hội Thánh, nên nếu Đức Ma-ri-a đã sinh ra Đầu thì Mẹ cũng sinh ra thân mình là các tín hữu chúng ta.
– Rồi khi đứng dưới chân thập giá, Đức Ma-ri-a được Chúa Giê-su trăn trối làm mẹ của môn đệ Gio-an đại diện cho Hội Thánh. Tin Mừng thuật lại như sau: “Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: Thưa Bà, đây là con của Bà. Rồi Người nới với môn đệ: Đây là mẹ của anh. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,26-27). Câu này cho thấy Gio-an là đại diện Hội Thánh đã tiếp nhận Đức Ma-ri-a làm mẹ và rước Mẹ về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Thầy Giê-su.
2) PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NÊN CON THẢO CỦA MẸ MA-RI-A?:
– Yêu mến Mẹ Ma-ri-a: Chúng ta có bổn phận yêu mến biết ơn Mẹ Ma-ri-a vì Mẹ đã đón nhận ơn cứu độ khi Mẹ thưa “Xin Vâng” với sứ thần. Sau khi có Chúa, Mẹ đã đem Thai Nhi Giê-su đến chia sẻ cho gia đình Gia-ca-ri-a, làm cho thai nhi Gio-an nhẩy mừng trong dạ mẹ vì đã nhận được ơn cứu độ. Sau khi sinh con tại Be-lem, Đức Ma-ri-a luôn gắn bó mật thiết với Hài Nhi Giê-su khi tiếp đón các mục đồng đến viếng thăm. Mẹ cũng thay cho Hài Nhi tiếp nhận ba lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược do các đạo sĩ từ Đông phương đến kính viếng.
– Tin cậy Mẹ hằng cứu giúp: Mẹ Ma-ri-a luôn yêu thương chăm sóc giúp đỡ những ai có lòng cậy trông yêu mến Mẹ và vâng lời Mẹ làm theo lời Chúa Giê-su truyền, noi gương các người giúp việc tại tiệc cưới Ca-na xưa (x. Ga 2,1-11). Trước tòa Chúa phán xét sau này, Mẹ sẽ làm trạng sư bầu chữa đắc lực để Chúa tha tội cho chúng ta và ban hạnh phúc Nước Trời đời đời cho chúng ta.
– Hãy chạy đến với Đức Maria: Với vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có đủ khả năng để bầu cử và giúp đỡ chúng ta. Với địa vị làm mẹ chúng ta, Mẹ có dư tình thương, để sẵn sàng thực hiện những điều chúng ta van xin, như kinh Hãy Nhớ: “Lạy Thánh nữ đồng trinh Ma-ri-a là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời…”
Thánh Bê-na-đô cũng đã nói: “Kêu cầu Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ bị nhầm đường lạc lối”.
– Học tập các nhân đức của Mẹ: Hãy luôn sống kết hiệp với Chúa Cha bằng sự cầu nguyện, chuyên cần lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa muốn bằng việc “suy đi nghĩ lại trong lòng” và cúi đầu “Xin Vâng”. Sau khi được thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã cùng Thai Nhi Cứu Thế đi thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét, và ban ơn cứu độ cho thai nhi Gio-an. Đức Ma-ri-a luôn lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa, Mẹ cũng luôn dâng lời ngợi khen chúc tụng thánh danh Đức Chúa; Mẹ còn trung thành bước theo chân Chúa Giê-su trên đường thánh giá và đứng bên thánh giá Chúa để hiệp công đền tội loài người, và đã đón nhận những lời trăn trối cuối cùng của Chúa.
– Hiệp cùng Mẹ làm giờ kinh tối chung gia đình hằng ngày: Ngày nay Mẹ Ma-ri-a vẫn luôn hiện diện để cầu bầu cho các gia đình biết tin cậy phó thác vào Chúa. Mẹ cũng sẽ giúp họ vượt qua các thử thách trong cuộc sống. Nếu có lúc nào đó tình yêu bị nhạt phai như nước lã, Mẹ sẽ cầu bầu cùng Chúa Giê-su biến nên rượu nồng. Điều quan trọng là các gia đình cần lập bàn thờ Chúa nơi phòng khách để đọc kinh tối chung, cùng lắng nghe Lời Chúa và cầu xin thực thi ý Chúa.
3) KẾT HIỆP VỚI MẸ THIÊN CHÚA XÂY DỰNG TRỜI MỚI ĐẤT MỚI:
– Trong ngày đầu năm mới hôm nay, Hội Thánh kêu gọi mọi người chúng ta hãy cầu nguyện cho hoà bình thế giới, cầu cho mọi người biết sống chan hòa yêu thương nhau trong sự vâng phục thánh ý của Thiên Chúa, mỗi người biết quên mình phục vụ lẫn nhau để kiến tạo một nền hòa bình viên mãn. Hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh mà còn là hoà hợp yêu thương nhau.
– Hôm nay Hội Thánh cũng mời gọi mọi tín hữu chúng ta cùng hợp tác với Mẹ Ma-ri-a cưu mang và sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn đòi sự nhẫn nại hy sinh. Sinh hạ cũng đòi chúng ta phải biết chấp nhận gian khổ. Nhưng nếu mỗi người đều vâng phục thánh ý Thiên Chúa, biết sống hòa hợp và sẵn sàng hy sinh quên mình phục vụ… thì chúng ta sẽ có thể góp phần kiến tạo một Trời Mới Đất Mới, một thế giới mới công bình nhân ái và chan hòa hạnh phúc.
NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết luôn tìm Chúa, lắng nghe Lời Chúa để biết phải sống thế nào. Xin cho chúng con mỗi ngày biết năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở nên môn đệ trung tín của Chúa, luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời, để họ thấy các việc lành chúng con làm mà ngợi khen Cha trên trời. Xin cho chúng con luôn kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a “làm vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
17.Vẫn có ‘‘bông hồng cài trên ngực áo’’ 2019--Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Cách đây hơn 15 thế kỷ, dân thành Êphêsô đã có một đêm rước đuốc tưng bừng, đêm 22.06.431, đêm mà Dân Chúa hân hoan vì sự vinh thắng của đức tin truyền thống về mầu nhiệm Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa được Công Đồng Êphêsô tuyên tín bằng những từ ngữ chắc chắn: “Nếu ai không tuyên xưng Đấng Emmanuel là Thiên Chúa thật, và do đó, Rất Thánh Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ sinh ra xác phàm của Ngôi Lời nhập thể, thì mắc vạ tuyệt thông”.
Kể từ cái “đêm không ngủ rực sáng tưng bừng Êphêsô” ấy, một làn gió xuân tươi mát dịu dàng của “Tình Mẹ”, của “Đấng Đầy ơn phước”, của lời chào thân thương “Ave Maria”…đã men theo dọc bờ Địa Trung hải, đã vượt qua núi rừng Tiểu Á, sa mạc Châu Phi để tràn vào các cộng đoàn Alexandria, Constantinopoli, Antiokia, sang tận Rôma và sau đó lan ra khắp Âu Châu và toàn thể địa cầu. Và rồi, sau hơn 15 thế kỷ từ biến cố Công đồng Êphêsô, tín điều “Mẹ Thiên Chúa”, sau những chặng đường dài được sống, suy tư, cầu nguyện và củng cố trong nhịp sống đức tin của Dân Chúa, cách đây hơn 50 năm, đã được Công Đồng chung Vatican II xác định một cách thâm thúy và nhẹ nhàng hơn trong Hiến chế về hội Thánh: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa…Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội…Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Đức Kitô” (GH 61,63).
Quả thật, nếu Giáo Hội không đặt đúng vai trò của Đức Mẹ trong biểu lộ tuyên tín của mình, hay, nếu hình ảnh của Đức Mẹ lu mờ đi trong cuộc hành trình đức tin của Dân Chúa, thì buồn tẻ biết bao, khô khan biết bao, thiếu vắng biết bao. Thật là may mắn! Thật là hạnh phúc! Chúng ta vẫn còn Mẹ, chúng ta là những đứa con vẫn còn “bông bồng cài áo”: “Một bông hồng cho anh, một bông hồng cho em, một bông hồng cho những ai đang còn mẹ…Thì xin em hãy cùng tôi vui sướng lên, hãy cùng tôi vui sướng lên…” (Ca khúc “Bông Hồng cài áo” của Phạm thế Mỹ).
Tuy nhiên, không phải mọi Kitô hữu tin Đấng Emmanuel được sinh ra bởi người trinh nữ Maria đều trân trọng và xác tín rằng “Người Trinh Nữ đó, Đức Maria đó là Mẹ Thiên Chúa”. Vâng, vẫn có người cho rằng vai trò đó không thích hợp, danh hiệu đó không xứng đáng!
Tại sao không?
Khi xuống thế làm người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận mang lấy bản tính của nhân loại. Nếu Ngài đã không từ chối sinh ra trong lòng một dân tộc cứng đầu và phản loạn, đã không chọn cho mình một gia đình quí tộc đế vương, nhưng lại chấp nhận thuộc dòng con cháu Áp-ra-ham mà trong thứ tự gia phả (Mt 1,1-16) đã có ít nhất 4 người phụ nữ không ra gì: Ta-Ma loạn luân (St 38, 1-30), Ra-kháp mãi dâm (Gs 2, 1-21), Rút ngoại đạo (R 3-4), Bát-sê-ba ngoại tình (2 Sm 11,12), thì việc Ngài làm con Đức Maria, một Trinh nữ thánh thiện, không nhiễm tội truyền, có gì là không chấp nhận được!
Cũng thế, nếu Đấng Kitô của Thiên Chúa lại chấp nhận chen lẫn với đoàn người tội lỗi lội xuống dòng sông Gio-đan để Gioan Tẩy Giả thanh tẩy, nếu “Đấng Thánh của Thiên Chúa” sẵn sàng chén thù chén tạc với bọn người thu thuế tội lỗi như Matthêô, Giakêu, không ngại tiếp xúc với những người phụ nữ ố danh tai tiếng …, nếu “Con Chiên vẹn tuyền của Thiên Chúa”, lại chấp nhận bị kết án, bị lột trần, bị đánh tan nát và bị đóng đinh chết giữa hai tên trộm cướp…, thì việc Ngài chấp nhận làm Con của một người Trinh Nữ thánh thiện có gì là bất hợp lý đâu!
Chẳng những đã không bất hợp lý mà lại rất cần thiết ; vì Đức Trinh Nữ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để cọng tác với Ngài trong công cuộc thực hiện chương trình cứu rỗi mà thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn Galát vừa khẳng định trong Bài đọc 2: “khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới lề luật, để chuộc những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.
Hơn nữa, việc Đức Trinh nữ làm “Mẹ Thiên Chúa làm người” lại là điều quyết định dứt khoát để chúng ta được “làm con Thiê Chúa” kia mà!
Thật vậy, trước lời đề nghị của thiên sứ Gáp-ri-en “Bà sẽ sinh hạ một con trai…”, nếu Đức Maria cực lực chối từ, thì không biết tương lai nhân loại hôm nay đi về đâu. Thật là may mắn, lời “Xin Vâng” đã được vang lên, và thế là tất cả nhân loại đã được đưa vào quỹ đạo của ơn cứu độ. Nói cách khác, Đức Maria chấp nhận làm Mẹ Thiên Chúa để tất cả chúng ta được diễm phúc làm con Thiên Chúa. Thánh Bênađô đã diển tả giây phút huyền nhiệm buổi truyền tin bằng một bài giảng thâm thúy với tựa đề “cả thế giới chờ đợi câu trả lời của Đức Maria”: “Lạy Đức Trinh nữ xin mau trả lời…Mẹ lưỡng lự làm chi, run sợ làm gì?...Lúc nầy đơn sơ trong trắng mà quên lãng khôn ngoan thì chẳng xứng hợp chút nào. Lạy Đức Trinh nữ khôn ngoan, trong sự việc có một không hai, xin Mẹ đừng sợ phải liều. Mẹ làm thinh vì e ngại, đó là điều đẹp lòng Chúa, nhưng bây giờ Mẹ nói ra vì hiếu thảo thì lại là điều cần thiết hơn. Lạy Đức Trinh Nữ diễm phúc, xin Mẹ mở tâm hồn để tin, mở miệng nói lên lời ưng thuận và mở lòng để đón Đấng Tạo Thành ra Mẹ. Nầy Đấng mọi dân tộc khao khát đang đứng bên ngoài và gõ cửa. Ôi, nếu như Mẹ chần chừ mà Người đi qua mất, thì Mẹ lại phải khổ công tìm kiếm Đấng lòng Mẹ mến yêu! Xin Mẹ chỗi dậy, chạy ra, mở cửa. Xin Mẹ chỗi dậy với lòng tin, chạy ra với lòng mến và mở cửa bằng sự ưng thuận. Đây Mẹ đã nói: Vâng, nầy tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi như lời thần sứ phán”.
Cách riêng, huyền nhiệm “Mẹ Thiên Chúa” đã như một dòng suối tinh tuyền đã tuôn tràn trên “Thân Mình của Đức Kitô”, tức Hội Thánh ; dòng suối mát đã gìn giữ vẽ trẻ trung rạng ngời của Đoàn Dân Mới xuyên qua những dặm dài lịch sử bất kể những thương đau, thách đố, bách hại.
Vâng, Mẹ Maria đã đang và mãi mãi đồng hành với Hiền Thê của Con Mẹ, để làm cho Hội thánh lớn lên và không ngừng tươi trẻ. Từ Lộ Đức tới La Vang, từ Trà Kiệu tới Fatima, từ Măng đen tới Tà Pao…Mẹ luôn dõi theo từng bước chân của Hội Thánh để chăm sóc giữ gìn, để động viên an ủi, để dạy bảo khuyên răn... Nói cách khác, Mẹ không ngừng đem cho Giáo Hội những làn gió mát của Thánh Thần để chiếc sáo Giáo Hội rung lên những giai điệu tuyệt vời hầu chuyển tải sứ điệp Tin Mừng cho muôn dân tộc, như cách diễn tả của thi sĩ Xuấn Diệu, một người ngoại giáo, đã cảm nhận sâu sắc về Mẹ Trà Kiệu qua mấy câu thơ mượt mà thanh thoát:
Nên hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ,
Giữa đáy trưa trong lòng Mẹ vô cùng.
Con là sáo mẹ là ngàn vạn gió,
Mẹ là trời con là hạt sương rung.
Sau hết, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chính là Nữ vương của hòa bình. Phụng vụ lễ Mẹ Thiên Chúa, một ngày lễ vừa để kết thúc Tuần Bát Nhật Giáng Sinh vừa là ngày khai mở một Năm Dương Lịch mới, “nối dài niềm hân hoan kính mừng mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa”, Đấng đã mặc lấy xác phàm và sinh bởi Mẹ Đồng Trinh Maria.
Thế giới hôm nay đúng là đang quay quắt trong một “buổi trưa hè nóng nực” với cái không khí của bạo lực tràn lan, khủng bố, chiến tranh, chết chóc, tội ác lan tràn. Thật đúng lúc và thích hợp khi Đức Maria Mẹ Thiên Chúa được chọn như “Người Mẹ của Hòa Bình” để ngày hôm nay, đầu năm Dương Lịch, cả Hội Thánh dâng lời cầu nguyện cho hòa bình thế giới.
Trong những ngày Giáng Sinh vừa qua, hình ảnh Mẹ Maria bên cạnh hài nhi Giêsu, Hoàng tử Hòa Bình và thánh cả Giuse, người thợ mộc im lặng của làng Na-da-rét, đã cho chúng ta cảm nhận được ý nghĩa đích thực của bốn chữ “bình an dưới thế”:
- Đó là sự bình an của máng cỏ khó nghèo, của những tâm hồn mục đồng đơn sơ chất phác, của những đạo sĩ phương đông khao khát kiếm tìm chân lý, của những tâm hồn khiêm hạ tuân phục thánh ý Thiên Chúa như Maria, như Giuse.
- Đó là sự bình an được gặp gỡ Thiên Chúa, bồng ẵm Chúa trên đôi tay già nua cằn cỗi của mình như cụ già Simêon…
Bài học sâu xa nhất, cụ thể nhất mà chúng ta có thể học được nơi Đức Mẹ để trở nên tác nhân của hòa bình đó chính là biết “Xin vâng”, như lời kinh cầu nguyện cùng Mẹ Maria trong dịp Mừng Năm Thánh 2000 của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, mà nhạc sĩ Trầm Hương đã ghi lại thành điệp khúc của bài hát “Từ lúc Mẹ nói lời xin vâng”:
Mẹ thưa xin vâng, xin vâng trọn thánh ý Chúa Cha. Mẹ thưa xin vâng với tin mừng của Con Chí Thánh. Mẹ thưa xin vâng với tác động của Chúa Thánh Linh. Con muốn theo Mẹ: sống xin vâng với trái tim thảo hiền.
Cùng với tất cả những ý nghĩa và cảm nhận của ngày lễ Mẹ Thiên Chúa, ngày đầu năm mới, ngày hoà bình, chúng ta dâng lên Chúa những ước nguyện và lời chúc tốt đẹp nhất: Xin kính chúc ông bà và anh chị em một năm Mới tràn đầy hồng ân và hạnh phúc… trong sự che chở bảo bọc của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của mỗi người chúng ta. Amen.
18.Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời--5 phút Lời Chúa
Thật bất ngờ thú vị khi ‘các mục đồng đến thăm máng cỏ’ lại là người kể chuyện về Hài Nhi cho chính cha mẹ của Hài Nhi! Maria và Giuse tuyệt nhiên chẳng nói lời gì trong cảnh này; chỉ có những người chăn chiên hồn nhiên đang kể về “tin mừng” mà họ nhận được, và “cũng là tin mừng cho toàn dân.” Cơ hồ ta có thể nói rằng ở đây khách đang giới thiệu chủ nhà cho… chính chủ nhà! Họ đang giới thiệu em bé trong máng cỏ ấy cho cha mẹ của em: đó là “Đấng Cứu Độ”, là “Đấng Kitô Đức Chúa” (x. Lc 2,10-11). Họ đang kể về kinh nghiệm tuyệt vời, đầy ắp niềm vui, mà họ mới nhận được (từ thần sứ của Chúa) và vẫn đang tiếp tục nhận được ở đây (trong cuộc gặp gỡ em bé này).
Và đó là loan báo Tin Mừng, theo cách nói của chúng ta ngày nay.
Mời Bạn: Theo ngôn ngữ thời nay có thể ví von rằng mấy anh chăn bò đang nói về Chúa Giêsu cho một giám mục hay linh mục đang trân trọng lắng nghe, “ghi nhớ” và “suy đi nghĩ lại trong lòng”.
Ta nhận ra ai cũng có thể loan báo Tin Mừng và ai cũng cần phải biết lắng nghe Tin Mừng, kể cả từ những phía bất ngờ nhất.
Sống Lời Chúa: Quyết tâm sống theo xác tín kép này:
(1) sẵn sàng loan báo Tin Mừng cho anh em bằng cách phù hợp;
(2) sẵn sàng lắng nghe Tin Mừng được loan báo cho mình.
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã sinh hạ và trao ban Chúa Giêsu cho nhân loại, xin dạy con biết rằng dù con hèn mọn đến mấy, con cũng được mời gọi đón nhận Chúa và giới thiệu Chúa cho mọi người, trong niềm vui.
19.Mẹ Thiên Chúa--GM Arthur Tonne
Ngày 20 tháng giêng 1961 John Kennedy làm Tổng Thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Một người Công Giáo đầu tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Kennedy, cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy thề nhậm chức và trở thành Tổng Thống thì Rose Kennedy trở thành Mẹ của Tổng Thống. Khi bà sinh John vào năm 1917, Bà đã cho đất nước Hoa kỳ một con người mà sau này làm Tổng Thống. Bà không sinh ra một con người Tổng Thống. Nhưng thật sự và đúng là mẹ của một Tổng Thống.
Một cách tương tự, nhưng không y hệt như thế, chúng ta xưng tụng Đức Nữ đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu Kitô đấng vừa là Thiên Chúa vừa là Người. Đức Maria không sinh ra Chúa là Chúa. Đức Maria cũng không phải là Chúa hay Bà Chúa. Mẹ là một con người có hạn, được vinh dự dâng hiến bản tính nhân loại cho Ngôi Con trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua Mẹ, Đức Giêsu là một người thật và cũng là Thiên Chúa thật. Đó là chân lý chúng ta mừng lễ hôm nay. Ngày đầu năm dương lịch. Tại sao chúng ta công khai tung hô Maria là Mẹ Thiên Chúa ngay sát lễ giáng sinh? Lý do rất tự nhiên khi chúng ta thăm một em bé mới sinh, dễ nhiệm chúng ta muốn biết sức khoẻ của em, Em nặng mấy ký và em giống ai. Thế rồi bao giờ chúng ta cũng muốn biết về sức khoẻ của người Mẹ. Cả tuần nay chúng ta ngắm nhìn Chúa Hài Đồng trong Máng cỏ. Hôm nay chúng ta có lý do hướng về Mẹ của Ngài.
Một lý do khác nữa: trong ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau năm mới vui tươi, hạnh phúc. Nghĩa là chúng ta hy vọng và cầu xin cho bạn bè, những người thân yêu được một năm thánh thiện để họ biết Chúa Kitô nhiều hơn, yêu mến người nồng nàn hơn và phụng sự người trung thành hơn như Đức Mẹ đã làm. Để được như vậy không có gì giúp ta, hơn sự thúc đẩy và trợ giúp của Người Mẹ ấy, Chúa Giêsu và tôn kính mẹ, Người cũng muốn chúng ta yêu và Tôn kính Mẹ của Người.
Chúng ta có thể gợi một so sánh nữa; John Kennedy đã tham dự Thánh lễ vào buổi sáng ông nhậm chức. Ông làm thế để cám ơn Mẹ ông. Bà đã dự Thánh lễ mỗi ngày từ khi bà kết hôn. Mẹ Tổng Thống Kennedy đã chứng kiến cái chết rùng rợn của con bà, cũng thế Mẹ Thiên Chúa cũng chứng kiến cảnh tượng đóng đinh ghê sợ của Con Mẹ. Cái chết của Chúa Kitô được tái diễn trên bàn thờ này mọi ngày. Chúng ta hãy làm cho Thánh lễ thêm quan trọng hơn trong ngày đầu năm này và bạn sẽ Thánh và hạnh phúc trọn một năm. Hãy xin Thiên Chúa, nhờ Thánh lễ này cho bạn và những người thân yêu của bạn sự phù giúp bạn cần, để làm cho năm nay hạnh phúc.
Bạn đặc biệt để ý tới lời kinh nguyện Thánh Thể II “xin cho chúng con xứng đáng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa” sau Thánh lễ bạn hãy tìm tới máng cỏ và nhớ tới Mẹ Thiên Chúa. Mẹ sẽ thực hiện lời chúc mừng và cầu xin của tôi cho tất cả các bạn.
Năm mới hạnh phúc cho mọi người. Amen.
20.Tại sao lại ‘Mẹ Thiên Chúa’?--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Đặt ra cho mình câu hỏi này, tôi không có ý đi vào cuộc tranh luận thần học hay tín lý đâu, đơn giản là vì tôi luôn bị ám ảnh bởi câu khảng định của Đức Giêsu khi có người lên tiếng ca ngợi địa vị dành cho con người nào được diễm phúc làm người mẹ sinh hạ và dưỡng nuôi Ngài: “Đúng ra phải nói rằng: phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:27-28). Và tôi vẫn thường tự hỏi: tại sao lắng nghe và tuân giữ Lời lại quan trọng hơn cả làm Mẹ Thiên Chúa? Hơn nữa có liên quan gì giữa hai điều này xem ra chẳng liên quan gì với nhau?
Lời Chúa trong bài Tin Mừng mời gọi tôi trở lại chiêm ngắm cảnh hang Bê-lem, một cảnh tượng quá đơn sơ nhưng có điều gì đó cần phải được khám phá. Trong suốt những ngày này, Maria đã chẳng chỉ suy đi nghĩ lại trong lòng các điều đó là gì? “Đến nơi, các mục đồng gặp bà Maria, ông Giu-se, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Tôi nhận ra cái diễm phúc lớn hơn hết của con người được cái đặc ân cưu mang trong lòng dạ chín tháng, sinh hạ, rồi ôm ẵm trên tay, cho bú mớm và nuôi dưỡng Hài Nhị nhỏ bé này chính là được trở thành nhân vật gần gũi, được chạm tới, được chiêm ngắm trực diện hơn ai hết một Thiên Chúa làm người để cứu độ, một Thiên Chúa đang tỏ hiện lòng từ bi thương xót của Ngài cách quá cụ thể và độc đáo. Không trách gì mà Maria đã “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.
Phải chăng khi nói ‘nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa’, Đức Giêsu đã muốn ám chỉ điều này? Lời Thiên Chúa chắc hẳn không phải chỉ là một vài giáo điều luân lý hay một học thuyết cao siêu nào đó (như giới luật mến Chúa yêu người chẳng hạn), mà phải là điều mà, qua sự hiện diện trần thế trong hình hài một trẻ sơ sinh cũng như qua cái chết thập giá, Ngài đã và đang không ngừng nói lên: Thiên Chúa yêu thương con người! Rõ ràng là Maria đang ‘nghe’ điều này qua các diễn biến tuần tự xảy ra tại Bê-lem, và nghe cách chăm chú với tất cả cõi lòng của một phụ nữ làm mẹ, nghe với tất cả tâm trí của một nữ tì khiêm hạ, để khi có dịp sẽ cất lên thành bài ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi… Người đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn…” (Lc 1:46-48)
Và Maria cũng đang ‘tuân giữ’, qua việc đón nhận cách trọn vẹn và tham gia cách tích cực, việc Thiên Chúa tỏ hiện lòng thương xót cứu độ của Ngài. Đón nhận nào sâu xa và trọn vẹn cho bằng với trọn cả tâm trì và cõi lòng: tâm trí Maria đã nhảy mừng và lòng dạ Maria đã cưu mang; và có tham gia nào thực tế cho bằng người mẹ đã cưu mang để đem tình thương cứu độ đó trao ban lại cho toàn thể nhân loại? Maria đã làm được điều đó và làm cách xuất sắc hơn hết thảy mọi người trong tư thế một người mẹ. Đức Giêsu có lẽ đã ám chỉ điều này khi Người lên tiếng: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?... Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3:31-35). Được làm Mẹ Thiên Chúa sướng và hạnh phúc thật, nhưng với Giêsu và Maria, đó không phải là một địa vị, một đặc ân, nhưng là một tư thế trước Tin Mừng cứu độ. Và hình như Đức Giêsu cũng muốn mỗi người chúng ta tham gia vào cái ‘vinh dự’ đó thì phải, đơn giản là vì mỗi Kitô hữu đều phải có một tư thế của riêng của mình trước Tin Mừng cứu độ: mỗi người đều phải biết ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ của lòng thương xót theo cách thức của mình.
Tôi biết dòng Salêdiêng Don Bosco có tham vọng muốn các hội viên của mình phải trở thành ‘dấu chỉ và người mang tình thương của Chúa đến cho các thanh thiếu niên’. Rõ ràng Tu Hội muốn họ trở thành ‘mẹ’ của các trẻ bị bỏ rơi, đồng thời cũng trở thành mẹ của Thiên Chúa nữa (theo định nghĩa ‘mẹ’ của Đức Giêsu). Có lẽ vì vậy mà nhà dòng muốn họ cùng Mẹ Phù Hộ đồng hành trên con đường ơn gọi chăng; không phải chỉ vì những trợ giúp đỡ nâng bên ngoài, nhưng nhất là trong nội dung của chính ơn gọi họ: cứu vớt các thanh thiếu niên. Và nếu tôi không lầm thì theo nội dung đó, Đức Giêsu còn muốn mọi Kitô hữu chúng ta, trong đó chắc chắn có cả tôi và bạn nữa, cùng trở thành ‘mẹ’ của Người. Phải chăng đó là ‘ý đồ’ của Người, khi trên thập giá Người đã trao phó nhân loại, qua đại diện là Gio-an, cho Maria và muốn chúng ta nhận người làm mẹ mình không? “Thưa bà, đây là con của bà… Đây là mẹ của anh!” (Ga 19:26-27)
Lạy Mẹ Maria - Mẹ Thiên Chúa, xin hãy giúp con biết như Mẹ ‘nghe và tuân giữ’ Lời Cứu Độ đầy từ tâm. Xin cho con khi mừng kính Mẹ dưới danh hiệu cao đẹp này, cũng được tham gia vào nghĩa vụ trở thành ‘mẹ của Đức Kitô’ cho những ai chưa được biết tới tình yêu thương của Chúa. Và cũng xin cho con trung thành với ơn gọi Kitô hữu và Sa-lê-diêng của con trong tất cả chiều kích sâu sắc nhất của nó. Amen.
21.Mẹ Thiên Chúa – Mẹ chúng ta--Anmai
Mở lại những trang thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Galát ta bắt gặp tâm tình hết sức dễ thương của Ngài.
Mở đầu thư, Thánh Phaolô khẳng định ngay: Tôi là Phaolô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng không phải nhờ một người nào, nhưng bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi chết trỗi dậy, tôi và mọi anh em đang ở với tôi, kính gửi các Hội Thánh miền Galát.
Cuộc đời, ơn gọi Tông Đồ của Phaolô rõ ràng như ta thấy đó, không phải tự loài người hay do loài người nhưng là bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha.
Rõ ràng, sinh ra bởi phàm nhân, bởi cha bởi mẹ của Ngài nhưng thánh Phaolô quả quyết như thế bởi vì ngài tin như thế.
Và rồi, mở lại những trang Thánh Kinh Cựu Ước, ta không thể nào quên được hình ảnh của Ápraham - cha của những kẻ tin.
Ta biết Ápraham có hai người con. Hai người con, một người được sinh ra bởi người mẹ là người nô lệ còn người kia là người tự do. Con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên; còn con của người mẹ tự do thì sinh ra nhờ lời hứa. Câu chuyện đó ngụ ý rằng: hai người đàn bà là hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi Sinai, thì sinh ra nô lệ: đó là Haga. Haga chỉ núi Sinai trong miền Ảrập, và tương đương với Giêrusalem, thành này cùng với các con đều là nô lệ. Còn Giêrusalem thượng giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta.
Mẹ của lời hứa được Thiên Chúa tuyển chọn bởi tình thương của Ngài.
Con của lời hứa mà Thiên Chúa trong Cựu Ước là là con của Giao Ước cũ. Giao Ước mới là Đấng Cứu Độ trần gian được sinh ra trong cung lòng của một trinh nữ có tên là Maria.
Trong trình thuật tin mừng rất ngắn, Thánh Luca thuật lại cho ta rất chi tiết về người trinh nữ có tên là Maria đó: "Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ". (Lc 2, 16)
Đích thị rằng Maria chính là Mẹ của Hài Nhi, Mẹ của Đấng Cứu Độ và cũng là Mẹ Thiên Chúa nhờ đặc ân mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ.
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Con của Mẹ là Thiên Chúa. Mẹ chỉ là Mẹ trong trật tự sản sinh nhân loại, nhưng Con mà Mẹ thụ thai và hạ sinh là Thiên Chúa, nên Mẹ phải được gọi là Mẹ Thiên Chúa.
Tín lý này đã được thánh Luca minh hoạ rõ ràng trong trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe..
Từ thế kỷ II đã được các thánh Giáo phụ Inhaxiô Antiokia, Irênêô, Cyrillô Alexandria, Augustinô, Epiphanô diễn giải sâu rộng để đối phó với lạc thuyết của các bè rối Gnosticism, Docetism. Thánh Gioan Tông đồ loan báo chứng thực rõ ràng rằng ngài đã từng mắt thấy, tai nghe và đụng chạm tới Chúa Giêsu là Ngôi Lời hằng sống đã xuất hiện.
Trong khi đó các bè rối đó vẫn nói Chúa Giêsu chỉ là ảo tượng. Lạc thuyết này muốn phá đổ tự nền tảng công cuộc Cứu chuộc của Chúa Kitô. Vì thế, các Giáo phụ dựa trên tín lý phẩm chức Thiên mẫu của Mẹ Maria để phá tan lạc thuyết này rằng Đức Trinh Nữ không thể là Mẹ nếu không có Con. Và Người không có Con, nếu Chúa Giêsu chỉ là một bóng ma. Giáo phụ Tertulianô bác bỏ Marcion người lạc giáo: "Mục đích phủ nhận thân xác Chúa Kitô, ông chối bỏ việc Người sinh ra. Hay là để chối bỏ việc Người sinh ra, ông phủ nhận thân xác Chúa. Thân xác và sự đản sinh làm chứng lẫn nhau: Không có sự đản sinh thì cũng không có thân xác. Hoặc là không có thân xác thì không có sự đản sinh.
Thế kỷ III và thế kỷ IV, các thánh Giáo phụ đều đồng thanh cao rao chúc tụng Mẹ Thiên Chúa. Năm 325, Công đồng Nicêa I lên án lạc giáo Ariô, đồng thời định tín Ngôi Lời đồng bản thể với Đức Chúa Cha, và đặt kinh Tin kính (gọi là kinh Tin kính Nicêa đọc trong thánh lễ). Tín điều này chứng minh Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, cùng với tín lý Mẹ Thiên Chúa của các thánh Giáo phụ sẽ mở đường cho tín điều Mẹ Thiên Chúa của Công đồng Ephêsô sau này.
Công đồng Vatican II (1962-1965) dạy: "Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa... Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô".
Nhờ Giáo huấn của Giáo Hội và lời giảng dạy của các Thánh giáo phụ, các Thánh tiến sĩ và các nhà thần học, giáo dân trong khắp Giáo Hội mỗi ngày thêm vững tin tín điều Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa là Mẹ của Lời Hứa, Mẹ của Giao Ước mới, Mẹ của Ơn Cứu Độ trần gian mà Thiên Chúa đã hứa, đã trao ban cho con người tự ngàn xưa qua miệng các ngôn sứ, cách riêng qua những khẳng định của các thánh, đặc biệt nơi các thánh tông đồ.
Thánh Phao lô đã khẳng định với ta về Giao Ước mới: Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.
Không chỉ ở đây, trong nhiều đoạn thư, thánh Phaolô cũng đã khẳng định về ơn nghĩa tử mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta:
“Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô”. (Ep 1, 4-5)
“Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”. (Rm 8, 29. 29)
Trước khi tạo thành vũ trụ, Cha đã tiền định cho chúng con làm “nghĩa tử”. Nhưng Cha không muốn chúng con chỉ hưởng quyền đồng thừa kế với Đức Giê-su (Rm 8, 17) mà còn muốn chúng con nên giống Cha (Ep 1, 4), nên đồng hình đồng dạng với Người Con Ruột của Cha (Rm 8, 29)
"Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô. Để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”. (Ep 1, 4-6)
Ta thấy Thánh Gioan tông đồ cũng đã khẳng định về ân huệ làm con mà Thiên Chúa dành cho chúng ta:
“Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”. (Ga 1, 12.13)
“Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biêt chúng ta, là vì thế gian đã không biêt Người. Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biêt rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. (1 Ga 3, 1-2).
Trước khi có trời đất này Cha đã chọn ta để ta trở nên tinh tuyền thánh thiện. Trước khi ta có mặt trên hành tinh này, Cha đã tiền định cho ta làm con Cha. Cho nên không phải vì ta có công trạng gì mà Cha thương ta. Cha yêu ta chỉ do lòng nhân ái của Cha, chỉ do tình thương nhưng không của Cha, bởi vì Cha là tình yêu. Cha thương ta bởi vì ta ở trong người Con Chí Ái là Đức Kitô. Vì Cha thương ta mà ta trở thành quý giá trước mặt Cha.
Ân huệ lớn nhất đời của ta phải chăng đó là được làm con của Mẹ Maria, là em của anh Hai Giêsu?
Theo Gioan, chúng ta được làm con em Chúa Giêsu, là con của Mẹ Maria thì ta phải tin (Ga 1, 12) và phải yêu (1 Ga 4, 7).
Nhìn lại cuộc đời của Mẹ Maria ngày hôm nay mà ta tôn kính với đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Mẹ - như Giáo Hội cũng như các môn đệ đã xác tín - chúng ta lại thấy rằng cả cuộc đời của Mẹ vẫn gói ghém trong niềm tin và tình yêu với Thiên Chúa. Mẹ tin yêu Chúa bằng cả cuộc đời, bằng cả tấm lòng, bằng cả con người, bằng cả tâm hồn của mẹ.
Trang Tin Mừng rất ngắn Thánh Luca điểm lại cho ta về Mẹ rất độc đáo, rất dễ thương và cũng rất đáng để ta suy nghĩ: còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Và, cả cuộc đời, Mẹ sống trong lắng đọng để Mẹ suy đi nghĩ lại tình yêu, lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ để Mẹ được ơn là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Đấng Cứu Độ.
Ngày hôm nay, Mừng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ta lại được mời gọi nhìn lại đời ta. Ta được Thiên Chúa trao ban ân huệ làm con của Lời Hứa, của Đấng Cứu Độ trần gian và là em của anh Trưởng Giêsu. Mẹ Maria dù được là Mẹ Thiên Chúa đó nhưng Mẹ
"Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Mẹ Maria khiêm hạ, lắng đọng để tin yêu và phó thác cuộc đời trong tay Chúa dù Mẹ là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Ơn Cứu Độ.
Chúng ta là nghĩa tử của anh Trưởng Giêsu, cũng là con của Mẹ Maria.
Người ta vẫn thường nói: "Mẹ nào con nấy!". Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của ta đó luôn suy niệm Lời Chúa, suy niệm tình thương mà Thiên Chúa tuôn đổ trên Mẹ. Dù ai nói ngả nói nghiêng và thậm chí chà đạp, phỉ báng Mẹ, chê cười nhưng Mẹ vẫn lặng lẽ để suy đi nghĩ lại tình thương và ân huệ của Chúa dành cho Mẹ. Ta có suy đi nghĩ lại trong lòng ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta hay không?
Khi ta ồn ào náo động, khi ta hơn thua tranh giành, khi ta bấu víu vào thế gian cũng là khi ta không nhận ra Ơn Cứu Độ, không nhận ra Thiên Chúa là Chúa và là Chủ của cuộc đời ta. Khi ấy, ta cũng chẳng là con của Mẹ.
Ta vẫn gọi Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ta vẫn nói Mẹ là Mẹ của ta nhưng để lời gọi, lời nói, lời tuyên tín đó được trọn hảo, được thể hiện bằng cách ta sống tâm tình mà Mẹ đã sống đó là suy đi nghĩ lại ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta.
Xin Mẹ thêm ơn cho ta để ta cũng biết sống giữa cuộc đời đầy bon chen, sóng gió này mà lòng vẫn bình tâm để lặng lẽ, để suy đi nghĩ lại ân huệ Chúa ban cho ta như Mẹ.
22."Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời"--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mỗi khi đọc kinh kính mừng, chúng ta đều thưa lên cùng Mẹ: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Khi chúng ta thưa cùng Mẹ điều đó, là chúng ta ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình thường hay sa đi ngã lại trong những lầm lỗi tội lỗi. Đồng thời cũng nói lên sự phó thác cậy trông nơi Mẹ, là Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ chúng ta.
Vâng, khi nhập thể làm người Chúa Giêsu cũng được sinh ra từ một người mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa Giêsu dường như luôn có bóng dáng của mẹ hiện diện để khích lệ, an ủi, nhất là trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹ đã ở bên Chúa, cùng hiệp thông trong đau khổ với Chúa để cứu độ trần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống trong tình mẫu tử của Mẹ, Chúa Giêsu đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa nói với Gioan: "Đây là Mẹ của con", và thánh kinh đã ghi lại: "kể từ lúc đó, người môn đệ Chúa yêu đã đón Mẹ về nhà của mình".
Thánh Gioan đã đại diện cho nhân loại để nhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Từ nay Mẹ sẽ tiếp tục nâng đỡ chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục yêu thương chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta để chăm sóc, lo lắng và chở che cuộc đời chúng ta. Chúng ta có thể cảm nghiệm về tình Mẹ Thiên quốc qua hình ảnh người mẹ trần thế. Mẹ trần thế yêu thương con đến nỗi dám đánh mất chính mình cho con được lớn lên thế nào, thì người mẹ thiên quốc cũng lo cái lo của con cái dưới thế, cũng đau vời đau đau của nhân loại, cũng sẵn sàng làm tất cả đế cứu vớt nhân loại lầm than. Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc lòng bài ca dao "Con cò ăn đêm" mà các bà mẹ thường hay hát ru con:
"Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi vào
Tôi có lòng nào ông hãy xào măng
Có xào thì xào nước trong
Đừng xào nước đục đau lòng cò con"
Bài thơ thật ngắn gọn nhưng diễn tả về tình yêu của một người mẹ đơn côi, lặn lội nơi bến chợ, bất chấp tất cả khó khăn cực nhọc để kiếm tiền nuôi con, kể cả việc phải đi ăn đêm. Nếu số phận có đun rủi bà phải rơi xuống hố sâu lầm lỗi, bà sẵn sàng chịu mọi sự trừng phạt miễn là ông trời hãy thương lấy đàn con, gìn giữ nó được sống trong danh dự mà đoạn kết đã diễn tả: "Đừng xào nước đục đau lòng cò con". Nghĩa là người mẹ sẵn sàng chịu mọi oan ức, mọi niềm đắng cay, nhưng miễn sao con của bà đừng bị người đời trừng phạt bởi lầm lỗi của bà, đừng bị người đời khinh chê vì những đoạn trường đắng cay của mẹ.
Tình yêu của người mẹ là thế! Bà sẵn sàng hy sinh tất cả miền là đoàn con được hạnh phúc. Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ là Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu đã được ban cho chúng ta qua thánh Gioan. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết đón Mẹ về nhà cuộc đời chúng ta, để chia sẻ những vui buồn trong gia đình chúng ta. Ước gì chúng ta biết trân trọng gìn giữ Mẹ như bảo ngọc châu báu mà Chúa đã ban cho chúng ta, đừng để mất Mẹ, vì mất Mẹ là mất cả bầu trời. Ước gì mỗi người chúng ta biết tin tưởng phó dâng cuộc sống gia đình của mình cho Mẹ và biết dành một vài giây phút trong ngày để thưa lên cùng Mẹ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa cầu cho chúng con hôm nay và trong giờ lâm tử. Amen.
23.Thinh lặng và lắng nghe--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Một chàng thanh niên nọ có tính khoe khoang. Ngày kia sắm được một chiếc áo mới, từ sáng sớm anh ta đã mặc chiếc áo đó và đứng ở ngã ba đường. Kẻ qua, người lại rất đông, thế nhưng chẳng có ai chú ý đến và khen anh lấy một tiếng. Cuối cùng, có một người đàn ông đến gần anh và bảo: “Anh có thấy con bò của tôi bị lạc chạy qua đây không?" Được dịp có người hỏi đến mình, anh trả lời: “Tôi mặc chiếc áo này từ sáng đến giờ, mà chẳng thấy con bò nào chạy qua đây cả.”
Thái độ trên đây của người thanh niên trái hẳn với thái độ của Đức Maria, như bài Tin mừng hôm nay thuật lại: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Đức Maria đã thinh lặng không chỉ lúc này, nhưng trong suốt cuộc đời Người. Được làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng chung quanh Người, chẳng có mấy ai biết đến tước hiệu này. Nếu vinh quang Thiên Chúa xuất hiện và các mục đồng không ngớt lời ngợi khen thì Người chỉ ghi nhớ và suy niệm trong lòng. Tại Cana, Người đã nhẹ nhàng báo cho Chúa Giêsu biết bữa tiệc không còn rượu nữa. Trong cuộc đời công khai của Chúa, Người đã âm thầm theo bước chân con. Và bên Thánh giá, trong nỗi đau đớn tột cùng, Người đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng của con. Có thể nói Người đã sống tâm tình của một nữ tì khiêm tốn, Người chỉ muốn được phục vụ trong âm thầm, còn vinh quang danh dự thì Người xin dành cho người khác.
Trong một thế giới có quá nhiều tiếng động: tiếng động của bom đạn, của tranh chấp, của bạo lực, chúng ta hãy bắt chước thái độ thinh lặng và lắng nghe của Đức Maria, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được bình an trong tâm hồn và tạo được hoà khí trong tương quan với tha nhân.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Hài đồng Giêsu, Chúa có một người Mẹ thật tuyệt vời. Một người Mẹ cho Chúa dòng sữa, cho Chúa tình thương. Một người Mẹ đã nói lời xin vâng bằng cả cuộc đời dấn thân cho chương trình Thiên Chúa Cha được nên trọn. Một người Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa Cha và được mọi ân huệ lớn lao đến nỗi là người có phúc hơn mọi người nữ.
Người Mẹ đó Chúa đã tặng ban cho nhân loại chúng con. Qua Môn đệ Gioan, Mẹ Maria đã nhận chúng con là con cái của mẹ. Mẹ đã đi vào trong từng cuộc đời chúng con. Mẹ vẫn đang đồng hành để chia sẻ buồn vui trong kiếp người chúng con. Chúng con xin cám ơn Chúa đã ban Mẹ Maria cho chúng con. Xin cho chúng con luôn chạy đến cùng Mẹ, luôn nương nhờ ơn phước của Mẹ, để nhờ Mẹ chúng con được đón nhận ơn lành của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người có phước hơn mọi người nữ vì mẹ luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Xin Mẹ dạy chúng con biết noi gương Mẹ để sống theo lời Chúa. Xin cho cuộc đời chúng con luôn được ướp mặn bằng những trang tin mừng, để chúng con hiểu được thánh ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời. Xin cho các gia đình luôn biết siêng năng đọc lời Chúa và thực thi khởi đi từ chính gia đình chúng con. Xin Mẹ luôn viếng thăm gia đình chúng con để hàn gắn những đổ vỡ, bất hòa đang làm mất đi sự êm ấm của gia đình. Xin Mẹ luôn hiện diện để nâng đỡ gia đình chúng con khi gặp những bất hạnh, rủi ro. Xin vực dậy niềm tin nơi những ai đang thất vọng, giúp họ vượt qua những khó khăn trong niềm tin vào Chúa như Mẹ đã từng bước đi trong niềm tin tuyệt đối vào sự quan phòng Chúa.
Lạy Mẹ Maria, hôm nay khởi đầu năm mới, chúng con xin phó dâng gia đình chúng con cho Mẹ, để nhờ lời cầu bầu của Mẹ, xin Chúa nâng đỡ những gia đình đang đổ vỡ. Biết bao nhiêu niềm tin đang bị đánh mất từ những người thân trong gia đình. Cha mẹ thiếu tin tưởng nhau. Con cái đánh mất niềm tin nơi cha mẹ. Vợ chồng bất trung với nhau. Bạn bè bất tín với nhau. Biết bao sự dữ đang tung hoành khắp nơi, khiến nhiều người rơi vào thất vọng, tủi hổ và đắng cay. Xin nhờ Mẹ chuyển cầu để tình thương Chúa gìn giữ các gia đình. Xin nhờ ơn phước của Mẹ ngõ hầu chúng con được nhận lãnh ơn lành của Chúa. Amen.
24.Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời--Lm. Tạ Duy Tuyền
Mỗi khi đọc kinh kính mừng, chúng ta đều thưa lên cùng Mẹ: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Khi chúng ta thưa cùng Mẹ điều đó, là chúng ta ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình thường hay sa đi ngã lại trong những lầm lỗi tội lỗi. Đồng thời cũng nói lên sự phó thác cậy trông nơi Mẹ, là Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ chúng ta.
Vâng, khi nhập thể làm người Chúa Giêsu cũng được sinh ra từ một người mẹ, và suốt cuộc sống của Chúa Giêsu dường như luôn có bóng dáng của mẹ hiện diện để khích lệ, an ủi, nhất là trong lúc chịu đau thương trên thập giá. Mẹ đã ở bên Chúa, cùng hiệp thông trong đau khổ với Chúa để cứu độ trần gian. Có lẽ vì muốn chúng ta được sống trong tình mẫu tử của Mẹ, Chúa Giêsu đã trao ban Đức Mẹ cho chúng ta, khi Chúa nói với Gioan: “Đây là Mẹ của con”, và thánh kinh đã ghi lại: “kể từ lúc đó, người môn đệ Chúa yêu đã đón Mẹ về nhà của mình”.
Thánh Gioan đã đại diện cho nhân loại để nhận Mẹ làm Mẹ của chúng sinh. Từ nay Mẹ sẽ tiếp tục nâng đỡ chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục yêu thương chúng ta. Mẹ sẽ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta để chăm sóc, lo lắng và chở che cuộc đời chúng ta. Chúng ta có thể cảm nghiệm về tình Mẹ Thiên quốc qua hình ảnh người mẹ trần thế. Mẹ trần thế yêu thương con đến nỗi dám đánh mất chính mình cho con được lớn lên thế nào, thì người mẹ thiên quốc cũng lo cái lo của con cái dưới thế, cũng đau vời đau đau của nhân loại, cũng sẵn sàng làm tất cả đế cứu vớt nhân loại lầm than. Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc lòng bài ca dao “Con cò ăn đêm” mà các bà mẹ thường hay hát ru con:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi vào
Tôi có lòng nào ông hãy xào măng
Có xào thì xào nước trong
Đừng xào nước đục đau lòng cò con”
Bài thơ thật ngắn gọn nhưng diễn tả về tình yêu của một người mẹ đơn côi, lặn lội nơi bến chợ, bất chấp tất cả khó khăn cực nhọc để kiếm tiền nuôi con, kể cả việc phải đi ăn đêm. Nếu số phận có đun rủi bà phải rơi xuống hố sâu lầm lỗi, bà sẵn sàng chịu mọi sự trừng phạt miễn là ông trời hãy thương lấy đàn con, gìn giữ nó được sống trong danh dự mà đoạn kết đã diễn tả: “Đừng xào nước đục đau lòng cò con”. Nghĩa là người mẹ sẵn sàng chịu mọi oan ức, mọi niềm đắng cay, nhưng miễn sao con của bà đừng bị người đời trừng phạt bởi lầm lỗi của bà, đừng bị người đời khinh chê vì những đoạn trường đắng cay của mẹ.
Tình yêu của người mẹ là thế! Bà sẵn sàng hy sinh tất cả miền là đoàn con được hạnh phúc. Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ là Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu đã được ban cho chúng ta qua thánh Gioan. Ước gì mỗi người chúng ta cũng biết đón Mẹ về nhà cuộc đời chúng ta, để chia sẻ những vui buồn trong gia đình chúng ta. Ước gì chúng ta biết trân trọng gìn giữ Mẹ như bảo ngọc châu báu mà Chúa đã ban cho chúng ta, đừng để mất Mẹ, vì mất Mẹ là mất cả bầu trời. Ước gì mỗi người chúng ta biết tin tưởng phó dâng cuộc sống gia đình của mình cho Mẹ và biết dành một vài giây phút trong ngày để thưa lên cùng Mẹ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa cầu cho chúng con hôm nay và trong giờ lâm tử. Amen.
25.Hãy giữ nụ hôn của Mẹ--Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Có một câu thơ viết rằng:
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không qua nổi mấy lời mẹ ru
Người mẹ thật dịu hiền. Lời mẹ ru còn đằm thắm tình yêu thiết tha hơn. Lời ru ấy đã nâng đỡ bước chân con vào đời. Lời ru ấy phảng phất “cánh cò bay lả bay la” với cảnh quê bình dị yên hàn. Giấc ngủ của con thật yên bình trong lời ru à ơi của mẹ.
Hòa quyện trong những lời ru là hình ảnh về một người mẹ. Một người mẹ miền quê chân chất bình dị, dịu dàng nhưng lại ấm áp vô cùng. Một người mẹ hy sinh tất cả vì con. Mẹ chín tháng cưu mang nặng nề đau đớn. Mẹ tần tảo sớm khuya đồng ruộng, chợ hôm. Mẹ chắp cánh cho mọi ước mơ của con đi vào đời. Người mẹ là tặng phẩm quý báu nhất mà Thượng Đế đã ban cho trần gian.
Có một câu chuyện kể rằng: một em bé có tên là Mến Thương. Ở trường, người ta lấy làm lạ vì bàn tay trái của em luôn nắm chặt như cất giữ một cái gì quý lắm. Ai cũng thắc mắc không biết em đang giữ bí mật gì vậy. Cô giáo em gặng mãi, em mới nói: con đang giữ chiếc hôn của mẹ. Mỗi sáng, khi đưa em đến trường, mẹ hôn vào tay em và nhẹ nhàng gấp những ngón tay xinh xắn của em lại rồi mỉm cười nói: Con yêu dấu, con hãy luôn giữ lại mùi hương của tình yêu mẹ trong tay dù con làm bất cứ việc gì con nhé!
Chiếc hôn ấy Mến Thương giữ mãi vì nó chứa đựng cả bóng hình của mẹ thật thân thương trì mến.
Hôm nay khởi đầu cho một năm mới, Giáo hội cũng mời gọi chúng ta hướng về một người mẹ. Một người Mẹ vẫn thổi tình yêu của mình cho chúng ta. Một người Mẹ vẫn ân cần bảo chúng ta hãy giữ mãi lời ru của Mẹ. Lời ru không có cây đa, giếng nước nhưng lời ru có tình Chúa, tình Mẹ luôn ấp ủ gìn giữ con thơ. Lời ru ấy không có chuyện cổ tích nhưng có biết bao lời giáo huấn của Chúa Giê-su con Mẹ. Lời ru ấy có bóng dáng của Mẹ thật yêu kiều, thật trong sáng, thanh thoát không vương vấn tội truyền.
Thật hạnh phúc cho chúng sinh khi có Mẹ bao bọc chở che. Giữa cuộc đời có quá nhiều cám dỗ, cạm bẫy giăng lối. Chính Mẹ sẽ là người bảo vệ con cái khỏi những hiểm nguy của sự dữ. Giữa những giá băng của tình người cạn kiệt, chính Mẹ sẽ thổi hơi ấm tình thương vào lòng con cái và bảo rằng “hãy giữ mãi nụ hôn cũa Mẹ”. Giữa những đêm tối của lòng người, chính Mẹ sẽ là sao Bắc Đẩu dẫn lối đi trong chân thiện mỹ.
Vâng, là người ky-tô hữu chúng ta tin rằng Mẹ Maria luôn đồng hành với chúng ta. Với Mẹ chúng ta là “cục cưng” của Mẹ. Mẹ sẽ làm hết khả năng để mang lại một bầu trời bình yên cho con cái. Mẹ sẽ canh giữ giấc ngủ cho chúng ta được yên hàn khỏi những phá phách của ma quỷ, sự dữ.
Xin cho chúng ta luôn biết tin tường phó thác nơi Mẹ. Xin cho chúng ta đừng bao giờ lạc xa tình Mẹ. Ước gì chúng ta luôn giữ mãi hơi ấm tình Mẹ khi biết sống theo lời Mẹ dạy bảo là hãy làm theo Lời Chúa Giê-su con Mẹ. Ước gì chúng ta mãi mãi là con của Mẹ khi nói không với tội lỗi và trung thành theo giáo huấn của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Nữ vương trời đất. Mẹ thật quyền thế trước tòa Chúa. Chúng con xin phó dâng cuộc sống cho Mẹ. Xin Mẹ làm chủ cuộc cuộc sống của chúng con. Xin Mẹ dẫn dắt chúng con đi trong tình yêu của Mẹ. Chúng con xin phó dâng một năm mới cho Mẹ. Xin Mẹ hãy chúc lành và ban bình an cho chúng con. Amen.
26.Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Từ xưa, khi mừng lễ Giáng Sinh, Giáo Hội vẫn chú tâm đến Đức Maria và không ngừng chiêm ngắm khuôn mặt của Đức Mẹ bên cạnh máng cỏ Hài Nhi Giêsu.
Nhưng ngày đầu năm dương lịch hôm nay, Giáo Hội mừng kính đặc biệt Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho hoà bình thế giới.
Thưa anh chị em,
Nhìn vào hang đá, ai lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa Nhập Thể làm người, là con của Đức Maria. Thiên Chúa hằng hữu, tự mình mà có và không ai sinh ra Ngài. Nhưng nay Thiên Chúa đã sinh làm người, sinh bởi một người nữ, một người mẹ. Đức Maria đã sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Giáo Hội luôn kêu cầu Mẹ: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời”.
Trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những gì liên hệ đến Con của mình và suy đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào không tự hỏi về tương lai của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không suy nghĩ về danh “Giêsu” (Chúa Cứu) mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để gọi Con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: “Bà sẽ gọi Con Trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu vua Đavít, cha Ngài, và Ngài sẽ cai trị trong nhà Giacob đến muôn đời”. Những lời đó không đơn giản dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú. Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng.
Anh chị em thân mến,
Chính lúc một người mẹ trần gian gọi Thiên Chúa bằng con, thì trên trời các thiên thần ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, hoà bình dưới thế cho loài người Chúa thương”. Con Thiên Chúa gọi một người nữ bằng mẹ, để tất cả những ai sinh ra bởi người nữ, dù ở địa vị nào, giai cấp nào, đều được gọi Thiên Chúa là Cha và gọi nhau là anh em. Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người để làm “ôTrưởngam giữa một đoàn em đông đúc” (Rm 8,29) và “không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì tất cả chỉ là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28).
Trong lòng Trinh Nữ Maria, Thiên Chúa và con người đã gặp lại nhau, và con người đã gặp lại con người. Đó là vinh danh Thiên Chúa trên trời. Đó cũng là hoà bình dưới đất cho loài người. Vì thế, hôm nay được chọn làm ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Hoà Bình. Chủ đề của sứ điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình năm nay (1996) là: “Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình”. Thế giới chúng ta, kể cả thế giới của các tôn giáo, là thế giới của người lớn, của những kẻ thích làm lớn. Thế giới của chúng ta là thế giới mà trẻ thơ bị xua đuổi, bị loại trừ, nhiều khi ngay từ khi chúng mới chỉ là những bào thai, và nếu như không kịp bị huỷ hoại, thì cũng bị bỏ rơi khi mới chào đời. Còn những em nào lớn lên, thì sẽ bị khai thác bóc lột, kể cả khai thác trong cái “kỹ nghệ” tội ác, đó “du lịch tình dục”.
Đức Thánh Cha đã viết: “Những gì xảy ra cho Hài Nhi Giêsu ở Bêlem cũng đang xảy ra cho các trẻ em trên khắp thế giới. Có biết bao trẻ em đang là nạn nhân của đói khổ, của chiến tranh, đang bị cha mẹ bỏ rơi, đang sống cảnh màn trời chiếu đất, đang đau khổ vì biết bao hình thức bạo động và xung đột của người lớn”.
Để có một vài con số cụ thể, chúng ta chỉ cần lắng nghe báo cáo của tổ chức Nhi Đồng Quốc Tế (UNICEF) về tình trạng trẻ em trên thế giới năm 1995 như sau: “Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 đang có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì chiến tranh, từ 4 đến 5 triệu tật nguyền, hơn 5 triệu sống trong các trại tỵ nạn, trên 12 triệu sống cảnh không nhà không cửa”. Bản báo cáo ước tính cần phải có ít nhất 34 tỷ Mỹ kim mới có thể đảm bảo các nhu cầu về dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục cho các trẻ em trên khắp thế giới.
Đức Thánh Cha kêu gọi người lớn chúng ta “Hãy cho trẻ em một tương lai hoà bình”. Tương lai hoà bình của trẻ em phải là một vấn đề chiến lược của thế giới, vấn đề chính sách của quốc gia. Các nhà lãnh đạo thế giới và các nhà cầm quyền quốc gia phải chịu trách nhiệm trước nhân loại và dân tộc mình về thảm trạng của các trẻ em.
Tuy nhiên, chính những người Kitô hữu cũng cần phải ý thức rằng, với tư cách là cha mẹ, là anh chị em, là người thân trong gia đình, tất cả chúng ta đều là những người trước tiên có trách nhiệm đối với con em chúng ta. Sống cho con cái, nuôi dưỡng và giáo dục chúng nên người, đó là trách nhiệm hàng đầu của bậc cha mẹ để tạo cho trẻ em một tương lai hoà bình.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta hãy suy nghĩ về tương lai hoà bình của các trẻ em như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng về những gì liên hệ đến Con của Mẹ. Mẹ suy nghĩ về Danh “Giêsu” có nghĩa là “Cứu Thế”. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người trong năm mới, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta thấy mình là anh em với nhau (x. Bđ 2), để sống yêu thương nhau, cùng nhau xây dựng tương lai hoà bình và hạnh phúc cho mọi người anh em.
27.Nữ Vương Hoà Bình--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một bà mẹ có người con trai bỏ mình trong chiến tranh. Bà không thể nào quên được người con đó. Nỗi sầu thương cứ mãi mãi vương vấn tâm hồn bà. Bà luôn cầu nguyện để được gặp lại con, dù chỉ trong năm phút.
Một hôm, Chúa sai thiên thần báo cho bà chuẩn bị gặp lại con. Những giọt lệ bỗng biến thành niềm vui, bà thúc giục thiên thần cho bà gặp lại con ngay. Nhưng thiên thần bảo bà:
- Bà hãy bình tĩnh. Con bà đã là một người trưởng thành. Con bà đã chết 30 năm nay, bà muốn gặp nó vào tuổi nào: như một người lính chiến ngoài mặt trận, hoặc như một đứa bé chạy nhảy trên sân trường, hay như một em bé nép mình trong lòng bà?
Không do dự, bà muốn được gặp lại con như một đứa trẻ nhỏ đến xin lỗi bà vì đã không ngoan, một đứa bé yếu đuối, nước mắt chảy ràn rụa chạy đến và ngả vào lòng bà. Đó là hình ảnh mà bà không thể nào quên được về đứa con của bà.
Anh chị em thân mến,
Trong mùa Giáng Sinh, chúng ta có dịp chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ. Chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Giêsu mà quên Đức Maria bên cạnh Ngài. Chào đời như một hài nhi, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài cần có một người mẹ để được cưu mang, được sinh ra, được lớn lên như một con người. Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa lễ Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Chủ đề của ngày Hoà Bình Thế Giới năm nay cũng đề cập đến vai trò của người phụ nữ, người mẹ: “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình”.
Nhìn vào hang đá, ai lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa nhập thể làm người, là con của Đức Maria. Trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Đức Maria đã có một vai trò đặc biệt, vì Người được chọn làm Mẹ Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa. Thiên Chúa hằng hữu, tự hữu, không ai sinh ra Thiên Chúa. Nhưng nay, Thiên Chúa đã sinh ra làm người. Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật, nên Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa. Ở những thế Kỷ III-V, có những lạc giáo phủ nhận tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, khiến phụng vụ nhấn mạnh hơn đến tước hiệu nầy.
Chúng ta đừng sợ tước hiệu nầy xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả. Ngài đã chấp nhận giáng trần để trở nên hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhân mọi luật lệ sinh sống, đau khổ và tử nạn, thì sao ta lại sợ nói phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của một người mẹ? Ngài đã gọi chúng ta là anh em và muốn là bạn hữu của mọi người, và chúng ta lấy đó làm vinh dự, thì chúng ta càng không có lý khi không muốn tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Suy nghĩ kỹ, chúng ta chỉ có thể thấy đây là một vinh dự lớn lao cho một người trong loài người chúng ta: Mẹ Maria. Chúng ta phải hân hoan chúc tụng Mẹ là Đấng đầy ơn phúc: “Thánh Maria, Đức Mẹ chúa Trời”.
Trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những điều về Con và suy đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào nào không tự hỏi về tương lai của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về việc các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không suy nghĩ về danh “Giêsu” mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để gọi con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: “Bà sẽ gọi con trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít, Cha Ngài và Ngài sẽ cai trị trong nhà Giacóp đến muôn đời”. Những lời đó không đơn giản, dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú, Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng.
Hôm nay, các mục đồng lại kể thêm về các lời của thiên sứ. Hài Nhi trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế, các thiên thần đã xướng ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Như vậy, Giêsu, Con của Đức Maria thực hiện lời tiên tri hứa cùng nhà Đavít. Ngài sẽ đem lại hoà bình cho Dân Chúa và vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Maria hôm nay gẫm suy những điều ấy. Đấng Cứu Thế đem lại hoà bình, và Vua Hoà Bình. Nhưng tại sao trên thế giới hiện nay vẫn còn chiến tranh, tranh chấp, xung đột? Vì vậy, Đức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta hằng năm vào ngày đầu năm Dương lịch nầy hãy suy nghĩ và cầu nguyện cho hoà bình thế giới. “Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình”, đó là chủ đề được Đức Thánh Cha chọn cho ngày Hoà Bình Thế Giới năm 1995. Với chủ đề nầy, người ta muốn trước tiên công nhận vai trò không thể thiếu mà người phụ nữ có thể đóng góp cho hoà bình, như qua việc thường xuyên giáo dục giới trẻ, hay qua sự chống đối những hoàn cảnh bạo lực thường xảy ra. Qua chủ đề nầy, Đức Giáo Hoàng cũng ước ao vọng lên một lời mời cấp bách, thôi thúc các chị em phụ nữ này càng trở thành những người xây dựng không mệt mỏi trong khuôn khổ gia đình mình cũng như trong các tổ chức xã hội.
Thưa anh chị em,
Đất nước chúng ta đã thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn nhiệm vụ phải suy nghĩ về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói còn gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, đổ vỡ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là khí thở của mọi người trên thế giới. Chúng ta đóng góp được gì? Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Người suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân (X.Bđ.1) và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau (X. Bđ.2), để sống hoà thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình. Yêu hoà nình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. Hoà bình đòi phải phấn đấu và đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong này Thế Giới Hoà Bình hôm nay và là ngày lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho chúng ta, cho các gia đình, cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
28.Lễ Mẹ Thiên Chúa--Phúc Âm Hằng Ngày - Radio Veritas Asia
Đối với Giáo Hội Chính Thống, tước hiệu nổi bật nhất của Mẹ là "Mẹ Thiên Chúa", trong khi đó đối với Giáo Hội Công Giáo, Mẹ Maria trước tiên là Mẹ của loài người.
Hai khía cạnh này của Mẹ Maria được làm nổi bật qua phụng vụ và nghệ thuật của hai Giáo Hội. Một bên những bức ảnh Icon của Giáo Hội Chính Thộng làm cho người ta nghĩ đến Đức Mẹ như một vị thần ngự trị trên Thiên Quốc hơn là người phàm. Đàng khác, trong Giáo Hội Công Giáo các bức tranh và tượng ảnh về Mẹ Maria xem ra nhấn mạnh đến khía cạnh nhân loại của Mẹ. Khía cạnh nhân loại này thường được chọn làm chân dung của Đức Mẹ. Như vậy, trong việc tôn kính chính thức của Giáo Hội cũng như trong tâm tình của người bình dân, tính siêu việt lẫn nhân trần của Mẹ Maria đều được nêu bật.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trân trọng cả hai truyền thống tôn kính này đối với Mẹ Maria. Ngài kêu gọi Âu Châu hãy thở bằng hai buồng phổi, một của Đông Phương, một của Tây Phương. Một sự dung hòa như thế mới có thể bảo tồn được sự tôn kính đúng đắn dành cho Mẹ Chúa Giêsu.
Trong Phúc Âm thánh Luca, thánh sử nói về các mục đồng như sau: "Họ liền hối hả ra đi, đến nơi họ gặp thấy bà Maria cùng với Giuse và Hài Nhi được bọc trong khăn, đặt trong máng cỏ" (Lc 2,16). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh thì đây là một cuộc cách mạng thinh lặng. Thật thế, lần đầu tiên trong Kinh Thánh người ta thấy tên của người Mẹ đặt trước tên của người Cha. Đây không phải là một đoạn tuyệt với truyền thống "trọng nam khinh nữ" của người Do Thái, nhưng tác giả muốn sắp xếp như thế để nói lên tầm quan trọng của người phụ nữ là Mẹ Maria.
Trong Phúc Âm (Mc 10,14), thánh sử ghi lại thái độ của Chúa Giêsu đối với trẻ em, Chúa Giêsu nói như sau: "Hãy để trẻ em đến với Ta và đừng xua đuổi chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai nên giống như chúng. Ta bảo các ngươi, ai không đón nhận Nước Trời như một trẻ em thì sẽ không được vào trong Nước ấy".
Nhưng nên giống như trẻ em là gì nếu không phải là quay trở lại với Mẹ, tín thác nơi Mẹ. Một số nhà thần bí trong Giáo Hội xem đây như là một lời khuyến dụ kín đáo của Chúa Giêsu. Phải chăng Ngài chẳng muốn chúng ta tìm đến với Đấng vì là Mẹ của Con Người, cũng là Mẹ của tất cả mọi người. Dù sao một trong những nghịch lý lớn nhất mà Tin Mừng đề ra là tiến đến trong đời sống thiêng liêng không phải là luật tiến hóa mà là luật của cải hóa.
Các cuộc Đức Mẹ hiện ra của thời hiện đại đã bắt đầu vào năm 1830, tại một cộng đoàn của Dòng Bác Ái Vinh Sơn tại đường Du Bac ở Paris Pháp Quốc, Đức Mẹ đã hiện ra cho thánh nữ Catherine Labouré và ủy thác cho thánh nữ quảng bá việc tôn kính ảnh Đức Mẹ hay làm phép lạ. Lời kinh được truyền phải đọc trong việc tôn kính ảnh Đức Mẹ có nội dung như sau: "Lạy Đức Maria, là Đấng đã được cưu mang mà không vướng mắc tội lỗi, xin cầu cho chúng con là những kẻ có tội chạy đến cùng Mẹ". Nhờ việc này mà giúp cho Giáo Hội định tín về Đức Mẹ Vô Nhiễm vào năm 1854. Thật ra, đây cũng chỉ là một tước hiệu mà Đức Mẹ đã tự xưng khi hiện ra cho Bernadetta ở hang đá Lộ Đức nước Pháp vào năm 1858.
Thật thế, nếu Mẹ Maria là tạo vật duy nhất trong nhân loại đã được cưu mang mà không mang tỳ vết của tội lỗi, bởi vì tội nguyên tổ là một thực tế chứ không phải là một huyền thoại. Vào thời ấy, cùng với những khám phá và tiến bộ trong lãnh vực khoa học, con người thời đại xác tín một cách kiêu hãnh rằng: khoa học, văn hóa và kỹ thuật rồi ra sẽ biến thế giới thành một thứ thiên đàng trần gian, như vậy nó sẽ khử trừ mọi ý niệm về tội Nguyên Tổ. Với khả năng vô tận của mình, rồi ra con người sẽ tự cứu lấy mình chứ không cần phải trông chờ có một đấng cứu thế nào cả.
Thế nhưng, lịch sử đã diễn ra không như con người của thời đại mơ tưởng, thứ nhân bản chủ nghĩa chối bỏ cái siêu việt của con người đều dẫn đến sự tự hủy cho con người. Hai trận thế chiến là sự hiện hữu hùng hồn nhất về sự hủy hoại con người.
Như vậy, sứ điệp mà Đức Mẹ muốn nhắn gởi cho con người thời đại qua các cuộc hiện ra kể từ năm 1830, trước hết là một sứ điệp về chính tội lỗi của con người. Vì thế, việc tôn kính Đức Mẹ có giá trị giải phóng con người. Dù vậy, Giáo Hội không bao giờ áp đặt việc tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa, nhưng để tùy cảm xúc và sáng kiến của mỗi người tín hữu. Dĩ nhiên, Đức Giáo Hoàng, hàng Giáo Phẩm, các tác giả về tu đức có thể khuyên nhủ các giáo hữu chạy đến với Mẹ Thiên Chúa bằng nhiều hình thức tôn kính khác nhau.
Dựa trên kinh nghiệm ngàn đời của mình, Giáo Hội khuyên các tín hữu tôn kính Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội không bao giờ buộc phải tôn kính Mẹ Maria, sẽ không bao giờ Giáo Hội buộc tôn kính các lần hiện ra của Đức Mẹ, cho dù Giáo Hội công nhận các việc hiện ra đó. Giáo Hội sẽ không bao giờ áp đặt các việc tôn kính như lần chuỗi, đi hành hương như là việc làm cần thiết cho ơn cứu rỗi. Giáo Hội sẽ không bao giờ xem là lạc đạo hay có tội khi một tín hữu không tham dự cuộc rước kiệu Đức Mẹ, hay một cuộc hành hương đến nơi Đức Mẹ hiện ra. Giáo Hội sẽ không bao giờ chối bỏ ơn cứu rỗi mà các Giáo Hội khác xây dựng trên niềm tin Kitô của họ, như trong các Giáo Hội Tin Lành.
Như vậy, việc tôn kính đối với Mẹ Maria không được nhìn theo phạm trù cần thiết mà là theo phạm trù tự do, không thuộc về lề luật mà thuộc về tình yêu. Chính tính cách tự do ấy lại càng làm nổi bật sự thu hút và những ân huệ đặc biệt của lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa xem ra không muốn áp đặt lòng tôn kính dành cho Mẹ, bởi vì Mẹ vốn là người sống âm thầm, Mẹ cất giữ mọi sự và suy niệm trong lòng. Thánh Luca đã hai lần ghi lại như thế trong cùng một chương. Mẹ quả thật nói ít, hay đúng hơn Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ, nhưng nhìn cho kỹ thì chính Mẹ lại là người gợi hứng cho Kinh Thánh.
Dĩ nhiên, với sự kín đáo và thinh lặng của Mẹ, các nhà chuyên môn Kinh Thánh đều đồng ý rằng: Các chương nói về đời tư Chúa Giêsu kể từ khi Chúa Giêsu sinh ra thì chính Mẹ là người duy nhất đã biết thời thơ ấu của Chúa Giêsu và kể lại cho cộng đồng tiên khởi. Nhưng vẫn thái độ kín đáo và thinh lặng cố hữu, Mẹ luôn đứng ở đàng sau, chỉ có những ai biết tìm đến và lắng nghe mới có thể nhận ra được sự hiện diện và tầm quan trọng của Mẹ trong Giáo Hội. Đó chính là ý nghĩa của việc tôn kính Mẹ Maria mà các tín hữu Kitô đã dành cho Mẹ ngay từ thời Giáo Hội sơ khai.
29.Tuyệt vời--Lm. Đỗ Vân Lực
Đón chào năm mới, chắc chắn có nhiều thái độ khác nhau. Người trẻ vui mừng vì càng thêm tuổi, càng thêm cao lớn. Người già có lẽ đón xuân với nhiều e ngại, dè dặt. E ngại không phải chỉ vì ngày tháng còn lại, nhưng còn vì thấy mái tóc và nét mặt ngày càng biến đổi mau lẹ. Bao nhiêu người đã muốn che dấu nỗi e ngại đó bằng những đợt nhuộm tóc hàng tháng. Người giàu có hơn lại đi căng da mặt mỗi năm. Ít nhất mỗi người đều cố gắng giữ mãi tuổi xuân hay làm cho mình trẻ lại bằng những mỹ phẩm. Ngày nay, thẩm mỹ viện không phải chỉ đón tiếp nữ giới. Cả phái mày râu cũng bước vô đó để sửa cằm, mắt, mũi và... đổi giống nữa.
Ai cũng muốn trẻ đẹp mãi. Nhưng vẻ đẹp đích thực là gì? Giá trị con người nằm ở chỗ nào? Nhìn lên Mẹ Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng ta mới thấy tất cả vẻ đẹp, giá trị và sự sống đích thực của con người.
Từ ngày còn ngồi trên gối mẹ, chúng ta đã đọc: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời...” Trí khôn chúng ta còn quá non nớt và khờ dại, làm sao hiểu được mầu nhiệm cao sâu đó? Cho tới bây giờ, chúng ta vẫn không thấu hiểu những gì chúng ta vẫn đọc hằng ngày. Vậy mà, Mẹ Maria vẫn ban ơn và cầu bầu cho chúng ta.
Mặc dù tội lỗi, chúng ta vẫn được Chúa thương ban cho chúng ta cầu khẩn Mẹ với danh hiệu cực thánh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời...” Càng tội lỗi, chúng ta càng đáng được Mẹ đoái thương. Sở dĩ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, vì Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa làm người để cứu chuộc chúng ta. Mẹ đã ban cho Chúa một thân xác để có thể sống và trở nên giống chúng ta hoàn toàn. Bởi thế, khi tuyên xưng Đức Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin chắc chắn về mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đàng khác, khi cầu nguyện với Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, chúng ta còn tin chắc sẽ được Thiên Chúa cứu độ.
Nhận tước hiệu Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ muốn chứng minh cho mọi người biết Con Thiên Chúa có một thân xác đích thực do Thánh Linh tạo dựng trong lòng Mẹ. Đàng khác, Mẹ muốn cứu tất cả nhân loại. Với chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ chỉ muốn nói thực tế Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa như lời sứ thần truyền tin. Từ giờ phút đó, Mẹ nghiễm nhiên trở thành Đức Mẹ Thiên Chúa. Tín điều này đã được công đồng Êphêsô tuyên tín năm 431. Cả Giáo Hội Đông và Tây đều tôn kính và trân trọng tước vị cao cả đó của Mẹ.
Tin như thế, Giáo hội không mù quáng, như nhiều người lầm tưởng. Họ tưởng Đức Mẹ sinh ra bản tính và ngôi vị Thiên Chúa. Nếu thế, Thiên Chúa không còn là nguyên ủy của mọi nguyên ủy nữa. Chẳng lẽ Thiên Chúa còn phải lệ thuộc như vậy? Đúng ra, chức vị Thánh Mẫu Thiên Chúa chỉ liên hệ tới Ngôi Hai, chứ không bao trùm cả Ngôi Nhất và Ngôi Ba. Cả bản tính Thiên Chúa, Mẹ cũng không đụng chạm tới được. Nhưng vì sinh ra con người Đức Giêsu, gồm Ngôi Lời, Thiên tính và nhân tính, nên Mẹ xứng đáng được tôn phong làm Thánh Mẫu Thiên Chúa.
Tước hiệu đó cao trọng vô cùng, nhưng không đủ hấp dẫn Mẹ đến nỗi Mẹ quên tất cả mọi sự. Mẹ không muốn đổi danh dự của một trinh nữ lấy tước hiệu đó. Tới khi được thiên thần bảo đảm Thánh Thần sẽ hành động tất cả, Mẹ mới khiêm tốn thưa lời xin vâng. Cử chỉ đó đã khiến Mẹ được Thiên Chúa quý trọng và nâng cao Mẹ vượt trên các thiên thần và các thánh trên trời.
Mẹ quả là một con người biết tự trọng và có trách nhiệm về những việc xảy ra. Chính vì thế, nơi cung lòng Mẹ, đất trời đã gặp gỡ và tấu lên ca khúc bình an. Một cuộc hiệp thông lớn lao đã diễn ra ngay trong lòng Mẹ. Có một nhân vị vô cùng cao trọng đang giang tay nối người anh em nhân loại với Thiên Chúa là Cha. Nếu Mẹ không cương trực và khiêm cung chấp nhận sinh Con Thiên Chúa, làm sao có một nhân vị làm trung gian nối đất trời như vậy?
Từ ngày Chúa Nhập Thể, con người trở thành “trung tâm của hòa bình.” Bởi thế, “tôn trọng con người” là “thăng tiến hòa bình.” (Bênêđictô XVI) Đúng thế, trước khi Chúa làm người, không ai có thể nối kết đất trời và dẫn con người đi vào cuộc hiệp thông và hòa giải với Thiên Chúa và với con người. Trong công cuộc hòa giải lớn lao này, Mẹ Maria đã đóng một vai trò rất quan trọng. Nếu Mẹ không cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, chắc chắn Mẹ cũng không thể trở thành Thánh Mẫu Thiên Chúa. Nhưng ngay khi Mẹ chấp nhận làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, Mẹ trở thành Nữ Vương Hòa Bình, vì cung lòng Mẹ đã cưu mang Thái Tử Hòa Bình là Con Thiên Chúa.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã thương cho con nhận biết và tin thật Mẹ Maria là Thánh Mẫu Thiên Chúa và Nữ Vương Hòa Bình. Xin cho con trung thành và siêng năng kêu cầu “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời” suốt cuộc đời con để hòa bình luôn ngự trị trên khắp hoàn cầu. Amen.
30. Nữ Vương Hòa Bình--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Giáo Hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm Dương lịch, cũng là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới như một nhắc nhớ việc chiêm ngưỡng Mẹ là một Tạo Vật mới tinh tuyền của Thiên Chúa, một Evà mới khởi đầu một thời đại mới, một tạo dựng mới. Kỷ nguyên cứu độ đã khởi sự qua việc Chúa Giêsu nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ sau lời xin vâng. Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để bắt đầu kỷ nguyên cứu độ. Nếu Evà cũ đã bất tuân để vùi lấp con người trong khổ đau và sự chết, thì Đức Mẹ với tâm tình xin vâng đã đưa Chúa Giêsu đến với nhân loại mang lại sự sống và tình yêu. Từ đây nhân loại sẽ bước đi trong ánh sáng cứu độ. Chúa Giêsu vị Vua Thái Bình, Hoàng Tử Bình An đã đi vào lòng thế giới, để thiết lập vương quốc Nước Trời qua Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người.” (Marialis Cultus, số 5).Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình, đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha. Mẹ Maria luôn gắn bó, hợp tác, hiệp công với Con của mình nên đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn thế giới. Mẹ đã đóng góp cả cuộc đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi.Chủ đề Sứ điệp Hòa Bình năm nay là “Không còn nô lệ nữa, nhưng chỉ còn tình huynh đệ với nhau”. ĐTC Phanxicô viết: “Việc quay trở về với Đức Kitô, bắt đầu một cuộc sống là người môn đệ trong Đức Kitô, làm nên một sự tái sinh (x. 2Cr 5,17; 1Pt 1,3) vốn tái tạo lại tình huynh đệ như là mối dây nền tảng của đời sống gia đình và đời sống xã hội” (Sứ điệp ngày Thế Giới Hòa Bình 2015).
Đức Mẹ khuyên mọi tín hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra để lại lời nhắn nhủ dưới hình thức của huấn lệnh là: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo nhau và chuỗi Mân Côi được đặt như là một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp người ta đạt được hòa bình. Chính trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Ở đâu kinh Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: “Nữ Vương ban sự bình an cầu cho chúng con”.
Lễ Mẹ Thiên Chúa kết thúc tuần Bát Nhật Giáng Sinh làm tỏa sáng vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu cứu độ. Ngôi Hai đã vâng phục nhập thể cứu độ nhân loại. Với tiếng xin vâng, Đức Maria làm Mẹ Ngôi Lời nhập thể và làm Mẹ hết thảy những ai được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Lạy Mẹ Maria Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ đã chọn phần tuyệt hảo là lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Xin cho chúng con luôn biết noi gương Mẹ, gắn bó cùng Chúa trọn đời. Amen.
31.Hồng Ân Cao Vời--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày đầu năm mới và cũng là ngày Quốc Tế Hòa Bình, Giáo Hội hân hoan cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Hoàng Tử Bình An, là hòa bình đích thực của nhân loại.
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con của Ngài sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Đức Maria đã được nâng lên địa vị là Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội muốn đặt lễ hôm nay lên hàng đầu của năm tháng ngày giờ.
1/ Tín điều Mẹ Thiên Chúa
Năm 431, có một cuộc tranh luận gay gắt đã diễn ra trong Giáo Hội Công Giáo, về tước hiệu đặc biệt của Đức Mẹ. Cuộc tranh luận đã đưa tới một công đồng chung, được tổ chức tại thành phố Êphêsô nhằm giải quyết vấn đề đặt ra.
Có hai lập trường hoàn toàn trái ngược nhau, một bên là giám mục Nestorius (Constantinople), bên kia là thánh Cyrilô (Alexanria).
Giám mục Netorius một mực cho rằng, Đức Maria nên được gọi là Christokos “người sinh ra Chúa Kitô”. Linh mục Dwight Longnecker giải thích rằng “Ngôn từ mà giám mục Netorious sử dụng, cho thấy, ông ta chủ trương rằng, Đức Giêsu Kitô có hai ngôi vị tách biệt. Vì thế, Đức Mẹ chỉ là người đã sinh ra Chúa Giê-su về mặt thể xác, nhân tính; và Mẹ nên được gọi là Christokos, tức là “Mẹ của Chúa Kitô” chứ không thể là “Mẹ Thiên Chúa”.
Đối lại với quan điểm trên, thánh Cyrilô và đa phần các giám mục đều cho rằng, Đức Maria phải được gọi là Theotokos, tức là “Mẹ Thiên Chúa”. Tín điều này khẳng định rằng Chúa Giêsu có “một ngôi vị duy nhất, gồm hai bản tính liên kết chặt chẽ với nhau (không hề tách rời nhau)”.
Đa số tuyệt đối đã đồng quan điểm rằng, Theotokos là tước hiệu xứng hạp với Đức Mẹ, và Nestorius đã bị truất phế chức giám mục Constantinople.
“Mẹ Thiên Chúa” không có nghĩa là Đức Maria hiện hữu trước Thiên Chúa hay Mẹ dựng nên Thiên Chúa, nhưng Mẹ là Đấng đã sinh ra Chúa Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật.
Trong mục nói về tín điều Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có đoạn viết: “Quả thế, Ðấng mà Mẹ cưu mang làm người bởi Thánh Thần, Ðấng thực sự là Con Mẹ theo xác phàm, chính là Con hằng hữu của Chúa Cha, Ngôi Hai trong Ba Ngôi chí thánh. Vì vậy, Hội Thánh tuyên xưng Ðức Maria thực sự là 'Mẹ Thiên Chúa' (Theotokos)”(GLCG, số 495).
Truyền thống Kitô giáo Chính Thống và Byzantine ưa dùng tước hiệu này hơn bất cứ tước hiệu nào khác của Mẹ. Một bản thánh ca có từ lâu đời trong nghi thức phụng vụ của các truyền thống này, đã diễn tả một cách rất thơ văn, chân lý không đơn giản này như sau: “Đấng toàn thể vũ trụ không thể chứa đựng nổi lại được cưu mang trong cung lòng của Mẹ, ôi Mẹ là Mẹ Thiên Chúa!”
Việc Giáo hội Công Giáo quyết định tuyên xưng Mẹ là Theotokos (Mẹ Thiên Chúa), đã đánh dấu một bước ngoạt quan trọng trong dòng lịch sử Giáo hội. Tước hiệu này làm sáng tỏ hơn niềm tin của Giáo hội về Đức Giêsu Kitô, đồng thời cũng xác quyết mạnh mẽ hơn về bản chất của cuộc nhập thể của Đức Kitô. Tất cả những gì Giáo hội đã tin tưởng từ thời các thánh tông đồ, đã được long trọng xác quyết một cách chính thức trong Công đồng Êphêsô.
Hơn nữa, việc vinh danh Đức Mẹ với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa đã khẳng định vai trò ưu tuyển của Mẹ trong dòng lịch sử cứu độ, đồng thời cũng cho thấy rõ hơn mầu nhiệm cao cả đã diễn ra nơi cung lòng của Mẹ.
Để kỷ niệm thánh công đồng này, năm 1931, Đức Piô XI đã cho thiết lập lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày 11 tháng 10. Công đồng Vaticanô II đã chuyển lễ này sang ngày 01 Tháng Giêng và đổi tên thành lễ kính trọng thể Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa. (Philip Kosloski; Sr Anna Nguyễn Tuyết OP,chuyển ngữ từ: aleteia.org).
2/ Tín Điều trong truyền thống Hội Thánh
a/ Nền tảng Thánh Kinh.
Tín điều Mẹ Thiên Chúa được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh.
Tiên tri Isaia loan báo: “một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Đức Maria sinh ra Đấng Emmanuel, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Lời tiên tri được thực hiện khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria: "Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu... Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa." (Lc 1,31-35).
Thánh Phaolô viết: “Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật” (Gal 4,14). Trong Tin mừng Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2,1;19,26), và trong Tin mừng Luca, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đến thăm bà Elidabet (1,43).
Các Kitô hữu thời sơ khai được các Tông Đồ hướng dẫn, luôn có một niềm tin vững chắc vào thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như Kinh Tin Kính của các Tông Đồ.
b/ Truyền thống Hội Thánh
Tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô Antiochia, tin yêu và truyền dạy.
Công Đồng Êphêsô năm 431 tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Công Đồng Constantinople III (680-681) xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.
Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo Hội vào ngày 11 tháng 10.
Đức Piô XII, đã thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.
Thánh Bônaventura đã nói: “Chức mẹ Thiên Chúa là một ơn vĩ đại phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho loài thụ tạo. Ơn ấy Ngài đã ban cho Đức Maria”. Thánh Tôma tiến sĩ nói thêm: “Tước vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria cao trọng hầu như vô cùng, vì Thiên Chúa không thể cất nhắc ai lên bậc tốt lành và cao sang hơn nữa. Chức Mẹ Thiên Chúa hầu như đã tới biên giới vô cùng”.
Công Đồng Vaticanô II dành chương VIII trong Hiến Chế Lumen Gentium, nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang ngày 1 tháng 1 hàng năm.
Thánh Lễ thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội. Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, linh mục chủ tế đọc: Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc: Cùng với Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa...
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…” là lời kinh được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu Mẹ Chúa Trời được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe, trên giường bệnh... Càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ.
3/ Nữ Vương ban sự Bình An
Giáo Hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm Dương lịch,cũng là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới như một nhắc nhớ việc chiêm ngưỡng Mẹ là một Tạo Vật mới tinh tuyền của Thiên Chúa, một Evà mới khởi đầu một thời đại mới, một tạo dựng mới. Kỷ nguyên cứu độ đã khởi sự qua việc Chúa Giêsu nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ sau lời xin vâng. Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để bắt đầu kỷ nguyên cứu độ. Nếu Evà cũ đã bất tuân để vùi lấp con người trong khổ đau và sự chết, thì Đức Mẹ với tâm tình xin vâng đã đưa Chúa Giêsu đến với nhân loại mang lại sự sống và tình yêu. Từ đây nhân loại sẽ bước đi trong ánh sáng cứu độ. Chúa Giêsu vị Vua Thái Bình, Hoàng Tử Bình An đã đi vào lòng thế giới, để thiết lập vương quốc Nước Trời qua Mẹ Maria.
Ðức Thánh Cha Phaolô VI đã viết: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người.” (Marialis Cultus, số 5).
Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình, đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha. Mẹ Maria luôn gắn bó, hợp tác, hiệp công với Con của mình nên đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn thế giới. Mẹ đã đóng góp cả cuộc đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Đức Mẹ khuyên mọi tín hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra để lại lời nhắn nhủ dưới hình thức của huấn lệnh là: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo nhau và chuỗi Mân Côi được đặt như là một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp người ta đạt được hòa bình. Chính trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Ở đâu kinh Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: “Nữ Vương ban sự bình an, cầu cho chúng con”.
Lễ Mẹ Thiên Chúa kết thúc tuần Bát Nhật Giáng Sinh làm tỏa sáng vẻ đẹp kỳ diệu của tình yêu cứu độ. Ngôi Hai đã vâng phục nhập thể cứu rỗi nhân loại. Với tiếng xin vâng, Đức Maria làm Mẹ Ngôi Lời nhập thể và làm Mẹ hết thảy những ai được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Ngày đầu Năm Mới, xin Mẹ ban bình an và cho chúng con thêm tuổi thêm khôn ngoan, thêm nhân đức, thêm ơn nghĩa trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Amen.
32.Mẹ mẫu gương--Lm Micae Vũ An Lộc
Thế giới đang sống có 7 kỳ quan thế giới. Mỗi kỳ quan đều toát lên vẻ đẹp, nét hùng vĩ và sự tuyệt tác của thiên nhiên. Ấy là những kỳ quan gắn liền với thế giới hữu hình. Người ta còn khám phá ra một kỳ quan trong thế giới vô hình, ấy là lòng mẹ: công đức trời bể, âm thầm, lặng lẽ, vất vả, lao nhọc nhưng toát lên một vai trò, vị trí vô cùng to lớn trong đời sống gia đình. Và người ta gọi đó là kỳ quan thứ 8 của thế giới này. Ngày hôm nay, khởi đầu của một năm mới, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm vai trò và sứ vụ của “kỳ quan thứ 8” của mọi kỳ quan này. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Một mẫu gương về ân phúc và sự mẫu mực trong đời sống hàng ngày.
Phúc đức tại mẫu, văn hóa Việt nam chúng ta vẫn luôn đề cao vai trò của người mẹ trong gia đình. Tương lai của đứa con phụ thuộc rất nhiều vào sự giáo dưỡng của người mẹ. Sự chăm chỉ, thầm lặng, hy sinh vì gia đình của người phụ nữ trong đời sống hằng ngày, ấy là một ân phúc cho gia đình. Đức Maria hẳn phải là một ân phúc cho nhân loại chúng ta. Ân phúc vì Mẹ đã được diễm phúc, đặc ân cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa. Ân phúc vì Mẹ đã khiêm nhường, suy đi, ngẫm lại trước hồng ân cao cả này mà trong nhiều “biến cố”, Mẹ muốn như dừng bước, chối từ, thế nhưng Mẹ đã một đời Xin vâng, để đem ân phúc đến cho nhân loại chúng ta. Mẹ đã sống đẹp trong những trắc trở, tận tụy, âm thầm để cộng tác với Thiên Chúa hầu đưa đến cho con người chúng ta ân phúc tuyệt vời cao cả nhất đó chính là Đức Giê-su Ki-tô, Thái Tử Bình An, Đấng Hòa Bình cho nhân thế.
Bên cạnh đó, Đức Maria còn là một mẫu gương trong sinh hoạt hàng ngày. Trong đời sống vật chất, gia đình Nagiaret vẫn được coi là biểu tượng của những gia đình nghèo. Thế nhưng, trong đời sống tinh thần, tổ ấm thánh gia vẫn được coi là biểu tượng của sự kính trên nhường dưới, đối nhân xử thế, khéo léo nhẹ nhàng với tương quan lối xóm. Trong những sinh hoạt đời thường đó, hẳn Mẹ Maria phải là một mẫu mực cho chồng cho con. Mẫu mực cho chồng vì Mẹ đã cũng phải gạt đi tự ái, quên đi “sự kiện” mà thánh Giuse muốn âm thầm bỏ đi. Mẫu mực cho con vì tình mẫu tử đã giúp mẹ vượt thắng những thử thách hằng ngày để cộng tác, xây dựng và làm cho Nước Chúa mau trị đến ngay cả “trước lúc khi sinh, trong khi sinh và thậm chí ngay cả sau khi sinh Ngôi Hai Thiên Chúa”. Vượt lên trên những trắc trở đó, Mẹ đã trở nên mẫu mực của sự tin tưởng, phó thác, một mực trung thành tuyệt đối với Thánh Ý Thiên Chúa.
Ngày hôm nay, khởi đầu ngày mới của một năm mới, mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng vào lời chuyển cầu của Mẹ cho thế giới chúng ta đang sống luôn được Bình An. Chúng ta cũng không quên từng người mẹ thân yêu của chúng ta. Có thể nói họ cũng là những Maria trong đời sống hàng ngày cho gia đình. Xin cho những người mẹ cũng biết “suy đi ngẫm lại” và “hằng ghi nhớ” mọi giáo huấn của Chúa và Hội thánh để mỗi người mẹ xứng đáng là “ân phúc và mẫu gương” trong và cho gia đình. Amen.
33.Mẹ Chúa--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Ma-ri-a Mẹ Chúa Trời,
Hồng ân phúc lộc, tuyệt vời Chúa ban.
Con người thụ tạo bụi tan,
Phận hèn tớ nữ, tỏa lan sáng ngời.
Xin vâng làm mẹ Chúa Trời,
Ngợi khen chúc phúc, ngàn đời quang vinh.
Mẹ sinh Con Chúa huyền linh,
Nằm trong máng cỏ, thân mình trẻ thơ.
Mục đồng chầu lạy kính thờ,
Loan tin khắp chốn, vọng chờ đêm thâu.
Con dân mong đợi bấy lâu,
Giê-su tên gọi, kính tâu Vua Trời.
Cung lòng trinh nữ cao vời,
Cưu mang Con Chúa, làm người thế nhân.
Ma-ri-a Mẹ thần dân,
Xứng danh Mẹ Chúa, nhân trần kính tôn.
Ngày đầu năm Dương Lịch, ngày dành riêng để Trọng Kính Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chọn gọi Đức Maria cộng tác vào công trình cứu độ. Maria đã đáp lời Xin Vâng. Qua hiệu qủa công trình cứu độ của Chúa Giêsu, Đức Maria đã được Thiên Chúa gìn giữ vẹn toàn và thánh thiện.
Đức Maria đã sống phó thác hoàn toàn trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Mỗi ngày, Maria sống trong ân sủng vì có Chúa ở cùng. Maria đã trải qua bao gian khó giữa trần đời. Đức Maria không khoe khoang ơn phúc lạ và không than van kêu trách số phận. Maria âm thầm đón nhận thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa với niềm tin tuyệt đối. Đức Maria xứng đáng với danh hiệu là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Giáo Hội và là Mẹ của chúng sinh.
Giáo Hội kính dâng Mẹ ngày đầu tiên của Năm mới. Chúng ta biết nhà có mẹ là nhà có mái ấm và có tình thương. Có mẹ chúng ta có tất cả. Giáo Hội Công Giáo có Mẹ. Giáo Hội mừng kính Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, đây là tín điều đã được tuyên tín. Qua lời xin vâng khi thiên thần truyền tin, Mẹ Maria đã trở thành Mẹ của Con Chúa. Khi Mẹ đến viếng thăm chị họ Isave, bà đã lên tiếng ngợi khen: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm.
Mẹ Maria đã sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel nghĩa là Chúa ở cùng chúng ta. Người Con có hai bản tính không thể tách rời: Bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu bao gồm trọn vẹn cả hai bản tính. Chúa Giêsu vừa là người, vừa là Chúa, nên Đức Mẹ là Mẹ của Con Chúa.
Ơn làm Mẹ hoàn toàn là hồng ân Thiên Chúa ban cho Mẹ. Không do công lênh của con người, mà do tình yêu của Chúa ban cho con người. Mẹ đã xin vâng theo thánh ý Chúa mọi lúc trong cuộc đời. Thái độ khiêm tốn nơi Mẹ đã trở nên nguồn ân sủng cho mọi người. Mẹ đã trải qua muôn vàn khó khăn từ khi nói lời Xin Vâng cho đến khi đứng dưới chân thập giá nhìn con mình đớn đau trút hơn thở cuối cùng. Mẹ giữ kín và suy niệm tất cả những gì xảy ra trong đời và vâng theo thánh ý Chúa.
Giáo Hội đã biệt kính Đức Mẹ qua các danh hiệu: Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Mẹ Đồng Trinh Trọn Đời, Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời và Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Mỗi năm Giáo Hội dành riêng hai tháng, tháng 5 và tháng 10, để dâng kính Đức Mẹ. Trong năm có 18 lễ kính Đức Mẹ, ngoài ra còn kính nhớ vào các thứ bảy đầu tháng và các việc sùng kính riêng. Giáo Hội đã tôn vinh danh Mẹ qua rất nhiều tước hiệu khác nhau.
Chúng ta có Kinh Cầu Đức Bà và tôn vinh Mẹ trên 70 danh hiệu khác nhau. Đức Mẹ hiện ra nhiều lần với con cái loài người, 39 lần hiện ra chính thức được Giáo Hội chuẩn nhận. Ngoài ra còn rất nhiều lần Đức Mẹ hiện ra riêng tư và ban phát muôn ơn lành qua việc chữa bệnh cả hồn lẫn xác.
Không có đau khổ nào của các bà mẹ trần thế có thể sánh ví được với những khổ đau của Mẹ. Mẹ đã chịu đựng tất cả và mẹ đã trở thành Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, Mẹ sẽ cầu bầu cho chúng ta. Chúng ta cùng Mẹ dâng lời chúc tụng ngợi khen lòng Chúa bao dung. Chúng ta rất vui mừng vì chúng ta có Mẹ ở bên. Xin Mẹ dẫn dắt chúng con đến gần Chúa, để chúng con cùng chia xẻ niềm vui ơn Chúa Cứu Độ.
34.Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa--JM. Lam Thy
Theo luật của Do Thái giáo, khi một con trẻ (nam giới) được tám ngày tuổi thì phải đem trẻ tới Đền Thờ để chịu phép cắt bì và đặt tên. Vì Ngôi Lời Nhập Thể làm người, nên Đức Maria và Thánh Cả Giu-se cũng giữ đúng luật (“Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.” – Lc 2, 21). Sự kiện tôn trọng và giữ đúng Lề Luật đã được Đức Giê-su chính thức ghi nhận khi Người bắt đầu công khai rao giảng Tin Mừng: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn Lề Luật. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5, 17-18). Và Lịch Phụng vụ Giáo hội đã gọi ngày Đức Giê-su chịu phép cắt bì là ngày Lễ Cắt Bì và Đặt Tên. Nhưng vì sao ngày lễ này còn được gọi là lễ Thánh Maria Mẹ Thiên Chúa?
Tước hiệu Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo hội. Ngay từ những thế kỷ đầu tiên, các Ki-tô hữu đã cầu khẩn Đức Maria dưới tước hiệu “Theotokos” (Đức Mẹ Chúa Trời). Tuy nhiên, vào thế kỷ V, giáo chủ Nes-tô-ri-ô (phái Thệ Phản) đã phản kháng, không công nhận tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Ðức Trinh Nữ Maria. Theo Nes-tô-ri-ô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ của Ðức Giê-su Ki-tô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một cuộc xung đột tư tưởng lớn đã xẩy ra trong Giáo hội xoay quanh việc Ngôi Lời nhập thể và danh xưng Mẹ Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria. Kể cũng kỳ khôi khi một lý luận như vậy cũng có nhiều người a dua theo. Họ quên mất một điều là đã làm tới chức Giáo chủ, tức là Nes-tô-ri-ô đã tin thật Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật giáng trần cứu độ nhân loại. Tin Đức Giê-su là Thiên Chúa mà người sinh ra Đức Giê-su không được gọi là Mẹ Thiên Chúa! Một mâu thuẫn trong lý luận lạ lùng đến ngớ ngẩn!
Có thể họ lập luận như vậy vì cho rằng 2 bản vị Thiên Chúa và loài người không thể cùng tồn tại trong một con người. Nói khác hơn, họ cho rằng Thiên Chúa là Đấng vô hình đã dựng nên nhân loại từ bụi đất. “Cái vỏ bằng đất” Maria không thể sinh ra Thiên Chúa được. Mới thoạt nghe thì thấy cũng có lý, nhưng phải trở lại nguyên ủy của vấn đề: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng Hằng Hữu chỉ phán một lời là dựng nên cả vũ trụ và con người. Tại sao Người không phán một lời để cứu rỗi nhân loại mà lại phải sai Con Một xuống thế “chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.” (Mt 16, 28; Mc 9, 1; Lc 9, 22)? Ấy cũng bởi vì với “con mắt thịt”, loài người chỉ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) mới tin, nếu chỉ phán một lời thì nhân loại không thấy được nên tất nhiên là họ không tin. Vì thế, rất cần một con người bằng xương bằng thịt thực hiện công trình cứu độ, con người đó tất nhiên là chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret với 2 bản vị (Thiên tính + nhân tính) đã trở nên một: Ngôi Lời Nhập Thể.
Tuy nhiên, vì Thệ phản là một phái có thế lực, nên vào năm 431, Hội Thánh đã triệu tập Công đồng Ê-phê-sô dưới sự chủ tọa của thánh Cy-ril-lô, đại diện Đức Giáo Hoàng. Các nghị phụ trong Công đồng này đã tuyên bố giải nhiệm chức giáo chủ của Nes-tô-ri-ô và phủ nhận hoàn toàn giáo thuyết sai lầm của ông ta. Công đồng Ê-phê-sô đã định tín: “Tuyệt thông cho những ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (Theotokos) vì Mẹ đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt.” Tín điều này tiên vàn tuyên xưng rằng Đấng Em-ma-nu-en (Thiên Chúa ở cùng chúng ta) đã thực sự giáng trần “ở cùng loài người” để cứu độ nhân loại, nên thực sự Người đã hóa thành nhục thể trong lòng Đức Maria. Nói cách khác, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Hội Thánh cũng khẳng định rằng Ngôi Lời đã thực sự trở thành con người, do một bà mẹ trần gian sinh ra.
Giáo điều ấy liên tục được các Đức Giáo Hoàng tuyên xưng. Điển hình như: Đức Giáo Hoàng Pi-ô XI, đã ban hành Thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Ê-phê-sô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo hội vào ngày 11/10. Bước sang thế kỷ XX, Đức Thánh Cha Pi-ô XII đã thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng thiên chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ân sủng và đặc sủng của Mẹ Maria. Đặc biệt là Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã dành cả chương VIII trong Hiến chế về Giáo hội “Lumen Gentium”, nói về Mẹ Thiên Chúa. Đồng thời với Hiến chế về Mục Vụ “Gaudium et Spes” (số 22-23), Công Đồng còn khẳng định: “Chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.” Và trong Hiến chế về Phụng vụ “Sacrosanctum Concilium”, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa từ ngày 11/10 sang ngày 01/01 hàng năm (Tết dương lịch).
Gần đây nhất, Đức GH Bê-nê-đic-tô XVI trong Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” (số 20) cũng khẳng định: “Vì Đức Maria hoàn toàn thấm nhuần Lời Chúa, nên ngài có khả năng trở thành Mẹ của Lời Nhập Thể … Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe Lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.”
Như vậy, vì có mầu nhiệm Đức Ki-tô Ngôi Lời nhập thể nên mới có mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa. Mầu nhiệm này gắn liền với Con Thiên Chúa làm người. Trong lịch sử Giáo hội, chỉ sau khi xác định chân tướng Đức Giê-su Ki-tô, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, Giáo hội mới xác định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Nếu Chúa Ki-tô chỉ là Thiên Chúa thôi thì không làm gì có “Mẹ Thiên Chúa”. Hay nếu Chúa Ki-tô chỉ là người thôi, cho dầu là “siêu nhân” đi nữa, thì Đức Maria càng không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Cho nên, ngày nay người tín hữu tuyên xưng đức tin mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa là bởi vì mầu nhiệm ấy gắn liền với mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, như trong kinh Tin Kính đã định tín: “Người là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật… Người đã từ trời xuống thế bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người”. Chúng ta tin nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa chính là vì chúng ta tin Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là người thật.
Đêm Ngôi Lời giáng thế, cả trời đất mừng vui hoan hỷ, tụng ca Thánh danh Thiên Chúa, mừng đón Ngôi Hai giáng trần. Ngày trọng đại đó, toàn thể vũ trụ được chứng kiến bao thiên sứ của Thiên Chúa không ngớt lời tôn vinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Trời đất giao hòa chào mừng kỷ nguyên mới khai sinh. Đấng Cứu độ đến giữa lòng nhân loại để thi ân giáng phúc và đem bình an cho mọi người. Vì thế, đêm Noel là đêm của vui mừng, là đêm của bình an, đêm của hồng phúc đến từ Thiên Chúa. Như vậy thì ngày tôn vinh Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã làm cầu nối đem sứ giả hòa binh là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, cũng tất nhiên là ngày vị Con Trời đem bình an xuống cho nhân loại.
Thật vô cùng ý nghĩa khi Giáo hội đặt ngày cầu nguyện cho Thế giới Hòa bình vào ngày lễ Mẹ Thiên Chúa, lại đúng vào dịp đầu năm, ngày mà bất cứ một người nào – không phân biệt màu da, sắc tộc – cũng hoan hỉ chúc mừng lẫn nhau được bình an hạnh phúc. Khi quyết định dời Thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01/01 mỗi năm, chính Chân phước GH Phao-lô VI đã viết trong Tông huấn Tôn kính Đức Maria “Marialis Cultus” (số 5) như sau: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người.”
Hiểu được ý nghĩa cao vời ngày Lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa, cũng là ngày cầu cho thế giới hòa bình, người Ki-tô hữu hãy tin rằng trong Giáo hội, chúng ta là các chi thể của một thân thể duy nhất, hỗ trợ nhau, bởi vì mỗi người được trao ban một ân sủng theo tiêu chuẩn quà tặng của Đức Ki-tô, vì lợi ích chung (1Cr 12, 4-7). Đức Ki-tô đã đến thế gian để mang cho chúng ta ân sủng thần linh, nghĩa là khả năng chia sẻ đời sống trong Người. Điều này đòi hỏi một sự xây dựng một cơ cấu các mối tương quan huynh đệ được đánh dấu bởi mối tương quan hỗ tương, sự tha thứ và sự trao ban trọn vẹn, theo chiều sâu và chiều rộng của tình yêu Thiên Chúa được trao ban cho con người nơi Đấng Cứu Độ, đã chịu chết và sống lại, để lôi cuốn mọi người đến với Người.
Sứ điệp ngày Thế Giới Hòa Bình 2015 (số 6) đã khẳng định: “Đây chính là tin vui đòi hỏi từng người chúng ta thực hiện một bước tiến nữa, thực hành liên lỉ sự cảm thông, lắng nghe những nỗi đau khổ và hy vọng của người khác, thậm chí là những ai ở xa chúng ta nhất và bước đi trên con đường tình yêu ấy, một tình yêu sẽ giúp ta biết phải trao ban thế nào và dùng chính mình cách tự do vì lợi ích của anh chị em mình. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta rằng: “Ngươi đã làm gì em ngươi vậy?” (x. St 4, 9-10). Toàn cầu hóa sự thờ ơ, vốn ngày nay đè nặng trên cuộc sống của nhiều anh chị em của chúng ta, đòi buộc chúng ta phải làm nên một sự toàn cầu hóa tình liên đới và tình huynh đệ, để có thể trao ban lại cho họ niềm hy vọng mới và giúp họ tiếp tục bước đi với sự dũng cảm qua những vấn đề của thời đại chúng ta và những chân trời mới mở ra và được Thiên Chúa đặt để vào tay chúng ta.”
Nguyện xin Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội và là Nữ Vương Hòa Bình, giúp chúng con hiểu và sống mọi ngày tình huynh đệ vốn bắt nguồn từ Thánh tâm chí nhân chí ái Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ, để chúng con có thể mang bình an đến cho mọi người trên trái đất yêu dấu này. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, ngày Ðức Trinh Nữ Maria sinh hạ Ðấng Cứu Thế, Chúa đã tặng ban cho nhân loại, kho tàng ơn cứu độ muôn đời. Xin cho chúng con được nhờ lời Ðức Mẹ nguyện giúp cầu thay, vì chính nhờ Ðức Mẹ chúng con mới được nhận lãnh nguồn sức sống vĩnh cửu là Ðức Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời).
35.Thiên chức làm mẹ--Trầm Thiên Thu
Làm mẹ là một bản năng, đồng thời là một thiên chức kỳ diệu và cao quý trong hai thiên chức đặc thù của nữ giới: Làm vợ và làm mẹ.
Bản chất làm mẹ là nguyên lý nội tại soi rọi mọi lĩnh vực sống người phụ nữ, gắn liền với nữ tính, được hình thành và phát triển theo chiều hướng nữ tính ngay khi sự sống được hình thành trong cung lòng người mẹ. Sau nhiều năm nghiên cứu tâm lý con người – đặc biệt là nữ giới, nhà phân tâm học Helene Deutsch (1884-1982, Ba Lan, đồng nghiệp với Sigmund Freud) đã nhận định: “Nơi con người, không một cấu tố nào đứng biệt lập khỏi cấu tố khác. Chính thế, người là một hữu thể quá phức tạp nhưng đầy hấp dẫn”.
Trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium” (tháng 11-1964) ĐGH Phaolô VI cho biết: “Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh, và cùng đau khổ với con mình chết trên thập giá. Đức Maria đã cộng tác rất đặc biệt trong công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Người thật là Mẹ chúng ta” (số 61).
HẠNH PHÚC CÓ MẸ
Khởi và Kết luôn liên quan lẫn nhau. Năm cũ qua và năm mới tới. Ngày đầu năm dương lịch là ngày Tết, là ngày cầu cho hòa bình thế giới, và đặc biệt là ngày lễ mừng kính Thánh Mẫu Thiên Chúa. Ai cũng có mẹ, và có mẹ là có niềm vui và an toàn đối với con cái. Mẹ là tất cả của con, là “sợi dây” mong manh nhưng vững bền khả dĩ đưa cánh-diều-con bay lên cao vút.
Thật kỳ diệu khi Thiên Chúa tạo nên Người Mẹ, Con Thiên Chúa đã sống trong sự che chở và đùm bọc của Đức Mẹ suốt 30 năm trời, chắc chắn không bao giờ chúng ta hiểu hết Tình Mẫu Tử. Biết bao tác phẩm nghệ thuật diễn tả Tình Mẹ nhưng chẳng bao giờ đầy đủ, không thể trọn vẹn, chỉ có thể diễn tả một phương diện nào đó. Các danh nhân cũng diễn tả Tình Mẹ theo cảm nhận riêng của mỗi người: “Nơi ẩn náu yên ổn nhất là lòng mẹ” (Florian), “Trên môi và trong trái tim đứa con: Mẹ chính là tên của Thượng Đế” (Thackeray), “Tương lai của con là công trình của mẹ” (Napoléon I), “Trái tim người mẹ là kiệt tác của Thượng Đế” (Gretry), “Lòng mẹ là vực sâu mà dưới đáy luôn có sự khoan dung” (Balze).
Mỗi người đều có một vị trí riêng, người cha và người mẹ cũng vậy, nhưng vị trí của mẹ luôn có điều đặc biệt, hầu như không thể thay thế. Có lẽ thấy Tình Mẫu Tử quá đặc biệt và kỳ diệu mà thi sĩ Chế Lan Viên đã xác định: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ; Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con” (thi phẩm “Con Cò”). Con vui thì mẹ mừng, nhưng con đau một thì mẹ đau mười. Còn có mẹ thật hạnh phúc, nhưng thật bất hạnh cho những ai chịu mồ côi: “Mồ côi cha là một lần mồ côi, mồ côi mẹ là bảy lần mồ côi”. Thảo nào tục ngữ Việt Nam phân biệt: “Mất cha ăn cơm với cá, mất mẹ liếm lá đầu đường”. Mồ côi mẹ khổ thật!
Phàm ngôn không thể diễn tả đầy đủ về Tình Mẫu Tử. Có thể nói rằng Tình Mẹ là nốt trầm trong “bản giao hưởng cuộc đời”, nốt trầm ít được lưu ý nhưng lại vô cùng quan trọng, vì đó là nốt làm nền để làm nổi bật những nốt khác, làm nổi bật cả giai điệu. Cố NS Y Vân đã cảm nhận sâu sắc về Tình Mẹ, và ông so sánh: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào, Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…” (Lòng Mẹ).
Từ xa xưa, Đức Chúa đã phán với ông Môsê: “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em! Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6:22-27). Lời chúc bình an luôn được sử dụng nhiều, cả trong tôn giáo lẫn xã hội. Lời chúc lành đẹp nhất chắc hẳn là lời chúc bình an: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2:14). Cuộc sống trần gian luôn thiếu bình an – cả tinh thần và thể lý, thế nên chúng ta luôn tha thiết cầu xin ơn bình an: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin ban bình an cho chúng con”.
Ai cũng khả dĩ biết rằng chiến tranh rất nguy hiểm, vì thế mà hòa bình vô cùng cần thiết, dù hòa bình về phương diện xã hội hoặc tinh thần, nhưng phải là sự hòa bình đích thực. Nền hòa bình trọn vẹn phải được an toàn cả về thể lý lẫn tinh thần. Một đất nước không xảy ra chiến tranh bom đạn được cho là có hòa bình, nhưng rất có thể đó chỉ là sự hòa bình giả tạo, bởi vì nhân dân còn bất an về nhiều phương diện khác, chưa thực sự có công lý nghiêm minh thì không thể có hòa bình đích thực.
Với ý thức đó, Thánh Vịnh gia đã chân thành tha thiết cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Ước nguyện là một dạng cầu chúc, ước cho chính mình và mong cho người khác: “Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài! Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:4-6). Ước nguyện cũng là một dạng cầu nguyện.
Trong suốt Mùa Vọng, chúng ta xin trời cao đổ sương thánh xuống và ngàn mây mưa Đấng Cứu Tinh, và chúng ta đã được thỏa nguyện ngay trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh: “Đất đã sinh ra mùa màng hoa trái: Chúa Trời, Chúa chúng ta, đã ban phúc lộc” (Tv 67:7). Đấng Emmanuel đang ở với chúng ta. Nhưng chúng ta không thể dừng lại ở đó, rồi lo hưởng thụ mà quên cầu nguyện. Chúng ta rất dễ “ngủ quên trong chiến thắng”, vì thế mà chúng ta vẫn phải luôn tỉnh thức và cầu xin không ngừng: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).
Thật kỳ diệu, tất cả các lời tiên tri đã ứng nghiệm rạch ròi, hai năm rõ mười, hoàn toàn chính xác: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến THỜI SAU HẾT, tức là TRONG NHỮNG NGÀY NÀY, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con” (Dt 1:1-2). “Những ngày này” không chỉ là Tuần Bát Nhật Giáng Sinh hoặc Mùa Giáng Sinh, mà còn là thời đại chúng ta đang sống.
Nhân loại đang sống trong thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học tiến bộ đa dạng, đặc biệt là về Internet, nhưng lại là thời cánh chung, thời viên mãn. Thánh Phaolô cho biết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:4-6). Không gì có thể so sánh với niềm hạnh phúc quá lớn như vậy. Tại sao thế?
Đây là lời giải thích của Thánh Phaolô: “Anh em KHÔNG còn phải là nô lệ nữa, nhưng là CON, mà đã là con thì cũng là NGƯỜI THỪA KẾ, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4:7). Hạnh phúc tăng theo cấp số nhân, vì chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn đáng án tử, thế mà lại được trắng án, đặc biệt hơn nữa là chúng ta được phục hồi nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, được làm con cái của Thiên Chúa và được kế thừa di sản thánh: “Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3:1). Chuyện như không tưởng mà lại là sự thật trăm phần trăm, không hề mơ hồ, cũng chẳng hề ảo tưởng.
PHÚC ĐỨC TẠI MẪU
Chúng ta mất Người Mẹ thứ nhất: Bà Tổ Êva. Thiên Chúa lại ban cho chúng ta Người Mẹ thứ nhì: Đức Maria. Không chỉ vậy, Ngài còn ban cho chúng ta Người Mẹ thứ ba: Mẹ riêng của mỗi người. Kế hoạch của Thiên Chúa kỳ diệu vô cùng! Trong đời thường, người ta xác định: “Phúc đức tại mẫu”. Về tâm linh, ân phúc chúng ta được tận hưởng nhờ lời “xin vâng” của Đức Mẹ: Ngôi Hai nhập thể và khởi đầu công trình cứu độ.
Trình thuật Tin Mừng Lc 2:16-21 đề cập Thánh Mẫu Thiên Chúa, một phụ nữ vốn dĩ là một thôn nữ bình thường, nhưng lại có đức tính nhu mì khác thường.
Thánh sử Luca cho biết rằng khi nghe các thiên thần báo tin lạ, các mục đồng liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Đức Maria, Đức Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Tận mắt tỏ tường, sự thật minh nhiên chứ không mơ hồ hoặc mộng mị. Chắc chắn lúc đó lũ trẻ chăn chiên léo nhéo nói cười với nhau vì thích thú, và cũng nựng Bé Giêsu nhiều lắm. Thật đáng yêu biết bao!
Các mục đồng là đám dân nghèo, khi thấy hoàn cảnh của Thánh Gia như thế, chắc họ cũng được an ủi và vui sống kiếp nghèo của họ. Vâng, họ chỉ là những người chăn chiên thuê nhưng họ thật diễm phúc vì được trở nên các chứng nhân đầu tiên về sự giáng sinh của Con Thiên Chúa. Vấn đề quan trọng là các mục đồng đã TIN thật lòng, và họ đã tin đúng. Nếu là chúng ta, liệu chúng ta có đủ lòng tin hay còn đắn đo, nghi ngờ? Có lẽ chúng ta muốn “xét lại” lắm đấy!
Sau khi mục sở thị, đám mục đồng liền kể lại điều đã được thiên thần nói về Hài Nhi được “bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Dân Việt có câu: “Đi xa hỏi già, về nhà hỏi trẻ”. Trẻ em hoàn toàn vô tư và đơn sơ, không biết giấu giếm, lọc lừa, cứ có sao nói vậy. Nghe các lũ trẻ chăn chiên thuật “chuyện lạ”, ai cũng ngạc nhiên. Không ngạc nhiên sao được vì chuyện quá lạ lùng, ngoài sức tưởng tượng. Thế nhưng họ cũng đã tin lời kể của lũ trẻ nghèo kia là thật. Thật phúc thay cho họ!
Chỉ riêng Người Mẹ Trẻ Maria có động thái khác lạ: “Hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Rõ ràng Đức Mẹ ít nói lắm, chỉ cười thôi. Hiền quá chừng luôn! Thật vậy, khi hiện ra với cô bé Bernadette ở Lộ Đức (1858), Đức Mẹ cũng hay cười. Bernadette hỏi mãi rồi Đức Mẹ mới xác nhận Mẹ là Mẹ Vô Nhiễm. Sau khi đã tỏ tường, các người chăn chiên ra về, họ vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được thiên thần báo trước với họ.
Và rồi Thánh sử Luca tiếp tục cho biết: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu, đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ”. Mọi điều diễn biến hoàn toàn ứng nghiệm đúng như lời tiên tri đã nói từ xa xưa.
Chắc hẳn ai cũng khả dĩ nhận thấy Người Mẹ rất lạ lùng, và Tình Mẹ rất kỳ diệu. Khi Thiên Chúa muốn Con Một Giêsu giáng sinh làm người, Ngài biết đường đời gian nan lắm nên Ngài đã tiền định cho Con Trẻ Giêsu một Người Mẹ đặc biệt. Chúng ta thật hạnh phúc vì cũng được tiền định làm con cái của Đức Thánh Maria – Thánh Mẫu Thiên Chúa. Hợp cùng Đức Mẹ, chúng ta hãy đồng ca Ân Khúc Magnificat của Đức Mẹ, và cùng dâng lời Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô Assisi, đặc biệt là hôm nay – ngày cầu bình an cho thế giới, cho mọi dân nước và cho Nước Việt yêu dấu của chúng ta.
Đầu năm kính Mẹ Chúa Trời
Hân hoan cảm tạ muôn lời chúc khen
Lạy Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, xin thương xót những người mồ côi, nhất là các trẻ em, xin giúp chúng con luôn kiên trung tôn thờ một Cha trên trời và chu toàn bổn phận làm con. Xin Ngài cũng giúp chúng con luôn chân thành tôn kính cha mẹ của chúng con cho trọn đạo làm con, biết quý trọng chữ Hiếu với tiền nhân và chữ Tình với anh chị em. Xin Ngài biến đổi chúng con thành khí cụ bình an của Ngài.
Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa và Hiền Mẫu của chúng con, xin an ủi những người mồ côi, xin thương nguyện giúp cầu thay và thúc đẩy chúng con quyết tâm thực hiện đúng lời khuyên của Mẹ, đặc biệt là các Mệnh Lệnh Fatima. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
36.Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời--P. Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn, lời tuyên tín của Giáo Hội Công giáo về Đức Maria là như vậy. Và, quả thật như vậy, Bởi vì, ai tin vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, thì cũng phải xác tín điều ấy. Bởi vì, Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa không thể tách rời Mầu Nhiệm làm Người của Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa Nhập Thể trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria. Rồi chính Mẹ hạ sinh Người trong máng cỏ Bê-lem, như trong câu 16 của trang Tin Mừng (Lc 2) hôm nay: “ … Đến nơi họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (c 16)
Vâng, hình ảnh nầy cũng là Thánh Gia, cảnh tượng nầy là cảnh tượng của Mầu Nhiệm Nhập Thế của Ngôi Hai Thiên Chúa, Người được gọi là “ CON THIÊN CHÚA’’. Vâng, quả thật Người là Con Thiên Chúa, vì thế, Đấng sinh ra Ngôi Lời bởi sự hữu thể, chính là “MẸ THIÊN CHÚA’’.
Khi xác tín như thế, Giáo Hội Công giáo không thể “đặt” sự tuyên tín nầy trên Thiên Chúa Cha, mà là tuyên tín một chân lý của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Bởi vì, Mầu Nhiệm Cứu Độ không thể tách rời Mầu Nhiệm Nhập Thể được.
Vì chúng ta biết Chúa Giêsu có hai bản tính: Một là bản tính Thiên Chúa, hai là bản tính nhân loại. Bản tính nhân loại không thể không có người mẹ sinh ra, bởi vì, dù là Thiên Chúa, nhưng, Người đã tự nguyện mặc lấy mầu nhiệm làm Người, để cứu độ nhân loại bởi sự hữu hình, theo đó, Người phải chọn cho mình một Mẫu Thân. Vì thế, Mẫu Thân của Chúa Giêsu là Đức Trinh Nữ Maria. Bởi vì, chính Đức Trinh Nữ Maria không thể tự chọn cho mình Thiên Chức làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa được.
Tật cả các mầu nhiệm cứu độ nhân thế đều phát sinh từ mầu nhiệm “ yêu thương “ của Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria cũng vậy, Mẹ được chọn để được cứu độ, Mẹ được gọi để trở nên tình thương của Thiên Chúa được thực hiện trên nhân loại.
Không ai cao cả hơn Thiên Chúa, chính Ngài ở trên cao và chọn kẻ dưới đất thấp, dù chúng nhân có xây dựng cho mình những tòa lâu đài kiên cố, hoặc những dinh thự nguy nga đi chăng nữa, nhưng tất cả mọi thứ ấy đều bị hủy hoại, đều bị bỏ đi. Vì, bộ mặt thế gian sẽ qua đi, nhưng, những chân lý thì không thể hư mất.
Nhân thế được sinh ra trên mặt đất không thể “vĩnh cư” trên mặt đất, công sức con người trên mặt đất chỉ là hư vô, bởi lẽ, con người chẳng biết mình từ đâu và do đâu, nếu như họ phủ nhận Thiên Chúa.
Chúng ta thấy như thế, con người thật đáng thương, dù họ tội lỗi, vì thế, Thiên Chúa là tình yêu, để làm cho nhân thế nhận biết chân lý nơi tình yêu duy nhất từ Thiên Chúa.
Theo đó, không có mầu nhiệm nào lớn hơn ơn Cứu Độ, từ Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Thiên Chúa, Người ban cho tất cả chúng nhân những ân sủng siêu nhiên, trong đó có những mầu nhiệm liên đới., như mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế, Mầu Nhiệm Mẹ Thiên Chúa, Mầu Nhiệm Giáng Sinh, Phục Sinh. v.v…
Trọng trách Mẹ Thiên Chúa nơi Đức Trinh Nữ Maria chỉ là một trọng trách “làm Mẹ” bình thường với trọng trách người mẹ, có nghĩa là Mẹ dâng chúa Giêsun vào đền thờ,thanh tẩy theo luật Môi-sen, tiến dâng làm lễ cắt bì cho Chúa Giêsu, đặt Tên cho Chúa Giêsu, Tên mà sứ thần đã loan báo, nhưng, điểm đáng chú ý nơi Đức Mẹ là, Mẹ hằng suy tưởng những những điều kỳ diệu xảy ra với Chúa Giêsu, dù là Con của Mẹ, nhưng, Mẹ hằng suy đi nghĩ lại trong lòng, có nghĩa là Mẹ luôn chú tâm đến các mầu nhiệm xảy ra với Chúa Giêsu.
Như thế, các mục đồng là những chứng nhân tiên khởi cho mầu nhiệm Giáng Sinh của Con Thiên Chúa làm Người, đồng thời vinh quang nơi Đấng Cứu Thế được tỏ hiện nơi nhân loại.
Như vậy, “GIÊSU” là “Tên” của một Ngôi Vị Thiên Chúa làm Người, để ở giữa nhân loại, chứ Thiên Chúa không có “Danh tính” bởi vì Ngài là Thiên Chúa. Có lần chính Thiên Chúa tỏ cho Môi-sê biết “Danh Ngài” là ADONAI nghĩa là “YEHOWA”, “YAHVE”, nghĩa là Đức Chúa. Danh tính nầy chưa từng tỏ cho ai, kể cả Ápraham, Isaac, và Gia-cóp.
Theo đó, khi nói về Mẹ Thiên Chúa, chính là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Rõ ràng, nơi Đức Mẹ không thể nhận tước hiệu là ”Con Thiên Chúa’’ được. Vì Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu. Như vậy, “GIÊSU” có nghĩa là “Đấng Cứu Độ”. Như vậy, Đức Mẹ được gọi là “ Mẹ Đấng Cứu Chuộc’’, thì chính xác hơn là “Mẹ Đồng Công”.
Chúng ta thấy, mỗi vị Giáo Hoàng có một “đặc ân”, ơn bất khả ngộ của các Đức Giáo Hoàng là riêng biệt, mỗi vị đều nhận được mặc khải riêng tư. Vì thế, chúng ta tôn trọng, vâng lời tuyệt đối các Vị Giáo Hoàng là điều minh chính vậy.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, không có sự thật nào lớn hơn chân lý, cũng không có ân sủng nào lớn hơn tình yêu. Vì thế, Thiên Chúa đã biểu lộ chân lý và tình yêu nơi Đức Giêsu- Kitô, một mặc khải lạ lùng và một ân sủng lớn lao, trong đó Mầu Nhiệm làm Người của Người phải có một Người Mẹ. Vì thế, Đức Trinh Nữ Maria, từ một thụ tạo, được kêu mời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, xin cho chúng con mỗi ngày biết kính tin sùng mộ một mầu nhiệm quá đỗi lớn lao của Mẹ Rất Thánh, hầu phát sinh ân sủng siêu nhiên cho chúng con. Amen.
37.Công đức sinh thành--Lm. Jos. DĐH.
Sống hiếu sống thảo, từ xa xưa vẫn được con cháu thực thi như một sứ mạng cao cả, xuất phát bởi công đức sinh thành, hoặc ơn cha nghĩa mẹ. Để nên vợ thành chồng, để có thánh lễ khấn dòng, để các ứng sinh gia nhập hàng giáo sĩ, tất cả đều được thẩm vấn về tình yêu và sự tự do. Giới văn nghệ sĩ thường lấy tình yêu nam nữ làm đối tượng sáng tác nghệ thuật, diễn tả đời người là một bức tranh gia đình sống động: đôi ta như chỉ xe ba, cha mẹ xe ít, đôi ta xe nhiều. Cũng do vị trí của người vợ rất quan trọng nơi gia đình, nên trong ca dao tục ngữ, khi nói về người vợ, tiền nhân chúng ta nói: giầu vì bạn, sang vì vợ ; vợ hiền là trăng rằm sáng soi. Lại vì chữ tình trĩu nặng, nhạc sĩ Y-vân đã diễn tả: “Lòng Mẹ bao la như biển thái bình”, gợi lên nhiều cảm xúc cho những ai sống phận làm con.
Mừng lễ Maria Mẹ Thiên Chúa, không phải là lúc chúng ta bày tỏ lòng cảm kích đối với người làm mẹ, làm vợ, đúng hơn, phận làm con trong gia đình Hội-thánh phải lớn lên về ý thức, phải trưởng thành về nhân cách, hầu tiếp tục truyền thống “cha là núi, mẹ là sông”. Mẹ Thiên Chúa là Mẹ cưu mang Ngôi Lời nhập thế, trước khi được gọi, được chọn, làm Mẹ Đấng Em-ma-nu-el, Mẹ là một thiếu nữ Do-thái đạo hạnh. Sau khi hoàn tất sứ mạng làm Mẹ Đấng cứu độ, đứng dưới chân thập giá, Mẹ đã nhận lãnh sứ vụ làm Mẹ Giáo hội, đồng hành, bầu chữa cho kẻ tội lỗi trước toà Chúa. Tất cả những ai là con đều được sinh ra từ người mẹ, tất cả những ai tin thờ Chúa đều vinh dự được gia nhập Đại gia đình của Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, gọi Đức Giêsu là Đấng cứu độ, gọi Đức Maria là Mẹ từ ái.
Hôm nay đây, ngày cuối cùng tuần bát nhật Giáng Sinh, ngày đầu tháng đầu năm, ngày mà nhân loại đang chào chúc nhau sức khoẻ, niềm vui, phúc lộc dư đầy, cùng ước mong được sống những ngày tháng ở phía trước đầy ý nghĩa. Khi nhắc tới cội nguồn, mọi người đều nghĩ đến công đức sinh thành, khi nói tới lý trí, ý chí, con cháu thường dõi theo người cha, khi nói đến “chữ tình”, chúng ta thường bày tỏ cảm xúc bằng hình ảnh người mẹ. Nơi người mẹ chỉ có tình yêu thương, có trọng trách với con cháu: nuôi con chẳng ngại đến thân, chỗ ướt mẹ nằm chỗ ráo con lăn. Đúng là mẹ theo huyết thống hay mẹ theo đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo-hội, đều mang chung một bận tâm: chia sẻ yêu thương, phục vụ trong tin yêu, “còn Maria thì ghi nhớ tất cả các sự kiện đó và suy niệm trong lòng”.
Hôm nay hay hôm xưa, cách sống hay cách bày tỏ tình cảm của con người rất khác nhau, nhưng tình mẹ thì không thay đổi: tương lai của đứa con, luôn là công trình của người mẹ. (Napoleon). Mẹ Maria được thánh sử Luca nhắc tới nhiều ưu tư về Hài-nhi Giêsu từ thời thơ ấu, rồi một chuỗi dài ngày tháng là lời thưa vâng cho đến khi Đức Giêsu hoàn tất mầu nhiệm cứu độ. Mẹ Maria tiếp tục sứ mạng chăm sóc dưỡng dục, hiệp nhất tâm hồn người thế nên một đoàn chiên duy nhất trong Đức Kitô. Người ta có thể đo được độ sâu, kiểm tra được chiều dài chiều rộng của biển cả, nhưng công đức của bậc sinh thành thì làm sao mà cân đo đong đếm! Giáo hội có thể nói về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, phụng vụ hàng tháng trong năm, đều có những ngày lễ kính nhớ Đức Maria, nhưng liệu Giáo-hội có thể hiểu và chia sẻ đầy đủ nhất về “chữ tình” của Mẹ cho con cháu không?
Các văn sĩ, những thế hệ con cháu, họ có thể nói rất hay về mẹ, có thể tâm phục khẩu phục về tư cách của mẹ mình, mẹ là gương sáng, mẹ từng âm thầm và quyết đoán trong giáo dục đức hạnh cho con cháu: mẹ là người có thể thay thế bất lỳ ai khác, nhưng không ai khác có thể thay thế được mẹ. Hôm nay, phụng vụ đang nói tới Mẹ Thiên Chúa, chúng ta đọc được gì, chúng hiểu gì về tình yêu thương của Mẹ dành cho việc chăm sóc, cộng tác, và đồng công trong mầu nhiệm cứu độ của Đức Giêsu? Mẹ Thiên Chúa hẳn cũng không cần chúng ta nói hay, nói giỏi về cách sống, cách chu toàn sứ mạng Chúa trao cho Mẹ, nhưng là cần mỗi người chúng ta biết sống tình con thảo, biết thực thi lời thưa vâng như Mẹ.
Cha mẹ thương con biển hồ lai láng, kinh nghiệm ấy không phải là lý thuyết mơ hồ, mỗi chúng ta đều có cơ hội để trả lời về công đức sinh thành mà ta đã nhận, mỗi người có thể nói không lưu loát, nhưng sẽ hành động đẹp và hay. Tương lai ở phía trước, cuộc đời là như vậy, ngày nào chưa đi đến điểm cuối, thì chúng ta chưa thể biết ai sẽ là người cùng ta đi hết chặng đường? Niềm tin vẫn đang mách bảo: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” là sự thật. Mẹ Maria sẽ là Đấng theo con cái của Mẹ đến ngày cùng tận, đó là tình thương, đó là sứ mạng mà Mẹ đã nhận dưới chân thập giá năm xưa. Chúng con xin chúc tụng Chúa, tôn vinh Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo-hội, Mẹ của từng tâm hồn chúng con. Amen.
38.Mẹ Thiên Chúa--Lm. Cao Thế Bình
Kính thưa qúi ông bà anh chị em, mỗi một người hiện hữu trên trần gian này, ai lại là người không có mẹ - cha, có điều là người mẹ đó tuyệt vời hay còn có nhiều khuyết điểm. Và nếu được quyền chọn lựa thì ai lại không muốn chọn cho mình một người mẹ tuyệt hảo, nhưng đây là điều ngoài tầm tay của con người. Còn Thiên Chúa thì sao? NGài có quyền tuyển chọn một người người mẹ tuyệt trần nhất để làm Mẹ Chúa cứu thế.
Hôm nay ngày đầu năm, Giáo Hội đặt: lễ Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, sao Giáo Hội lại đặt lễ này vào ngày thứ nhất của năm mới để làm gì, nếu không phải là để mọi người và thế giới nhìn vào Đức Maria như là là sự bình an và niềm hy vọng; vì Mẹ đã đêm đến cho nhân loại ông Vua thái bình, mà chúng ta chiêm ngắm tuần trước trong đêm Giáng Sinh. Mẹ là kiểu mẫu của người sống đức tin. Vâng, Đức Maria là một tuyệt tác tuyệt diệu của Thiên Chúa; vì Thiên Chúa cần một người Mẹ như thế để làm Mẹ của Ngôi Hai Đấng cứu thế. Mẹ Maria mà chúng ta cùng với GH hôm nay mừng kính tước hiệu: Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, đó là phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mọi đặc ân khác Chúa đã dành cho Mẹ.
Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, đó là một tín điều được công bố ngày 22- 6- 431 bởi công đồng Êphêsô, dưới quyền chủ tọa của thánh Cyrillô thành Alexandria, cũng từ Công Đồng này mà ta có phần sau của kinh kính mừng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.
Với tước hiệu Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, chắc không khỏi một số người thắc mắc: Thiên Chúa là Đấng quyền năng cao cả, tự hữu, không có ai cao cả hơn Thiên Chúa nữa, thế mà chúng ta lại nói: Đức Maria là mẹ Thiên Chúa, như vậy nghĩa là làm sao? Vâng, như tín lý dạy chúng ta rằng: Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu, xét về bản tính nhân loại thì Ngài lại hiện hữu trong thời gian qua việc Ngài được Đức Mẹ sinh ra.
Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật, nên Đức Maria cũng được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta đừng sợ tước hiệu này xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả, vì Ngài đã chấp nhận giáng trần sinh bởi một người nữ để trở nên hoàn toàn như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, thì sao ta lại sợ xúc phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của Mẹ Maria? Ở đây ta có thể chưng ra một thí dụ na ná để chúng ta dễ hiểu: chẳng hạn, ta lấy hình ảnh tổng thống công giáo đầu tiên là ông Kennedy, tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Vào ngày 20-01- 1961, khi ông trở thành tổng thống thì trên phương diện điều hành đất nước, ông là người có chức quyền cao hơn tất cả mọi người dân Hoa Kỳ, kể cả cha mẹ, ông bà nội, ông bà ngoại nữa; thế mà trong mối tương quan máu mủ gia đình thì ông lại là con của ông bà Rose Kennedy.
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, được sinh ra bởi người mẹ, việc sinh nở này do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Và Chúa Giêsu mặc lấy hai bản tính; bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại, hai bản tính này kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong một con người là Đức Giêsu Kitô, mà Chúa Giêsu lại được chính Đức Maria sinh ra. Như vậy Đức Mẹ là mẹ đích thực của Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa và như thế Đức Mẹ cũng là Mẹ Thiên Chúa, như lời của Kinh Thánh ghi lại lời chào của sứ thần Gariel: “Kính chào bà đầy ơn phúc Thiên Chúa ở cùng bà”, rồi lại nữa: “Trẻ mà bà sinh ra được gọi là thánh, là con Thiên Chúa” (Lc 1, 31-35). Rồi trong thơ Galata thánh Phaolo viết: “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người nữ”. ( Gl 4,4). Bài Tin Mừng của thánh Luca ghi lại: “Các mục đồng vội vã ra đi đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi họ trở về miệng tung hô ca ngợi Thiên Chúa” ( Lc 2,16.21).
Mừng lễ Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội lấy ngày lễ này đặt vào ngày đầu năm, ý của Giáo Hội là mong muốn con cái mình đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở và nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Ngày đầu năm, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, truyền thống này đã được Đức Giáo Hoàng Phaolo VI muốn, khi mừng lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm thì cũng cầu mong thế giới được hòa bình. Đức Maria là Mẹ của Hoàng Tử bình an nên chi, Giáo Hội nhìn lên Mẹ để cầu xin Mẹ mang Vị Vua Hoà Bình đến cho thế giới, cho mỗi người; nhất là gia đình và thế giới ngày hôm nay có qúa nhiều sự đe doạ, sống trong lo âu, sợ hãi. Cho nên, hơn bao giờ hết, gia đình và thế giới hôm nay cần phải chạy đến với Mẹ, để xin Mẹ mang Chúa của sự bình an đến cho loài người.
Anh chị em thân mến, mỗi dịp Giáng Sinh về là dịp giúp chúng ta hơn nữa để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, đồng thời khi chúng ta chiêm ngắm Vị Vua Thái Hoà, thì bên cạnh Vị Vua đó là: Đức Maria, người mẹ nhân từ, hiền dịu, yêu thương. Như vậy, ngày đầu năm chúng ta đến đây để hợp tiếng ca mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ lòng tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Ước gì chúng ta chiêm ngưỡng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và cũng là Mẹ của chúng ta, lòng chúng ta phải luôn hân hoan vui mừng vì Thiên Chúa đã ban đặc ân này cho Mẹ.
Mong sao, sau khi dâng thánh lễ, ra về, lòng mỗi người vui mừng phấn khởi như các mục đồng xưa, để loan báo tin mừng, tin vui nước trời đã thực hiện cho loài người nơi Thánh Tử Giêsu con yêu dấu của Mẹ Maria. Tin mừng, tin vui đó phải được thể hiện nơi mỗi người bằng sự niềm nở, vui tươi, tin tưởng, phó thác cuộc đời của mình theo chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, như Đức Maria luôn tìm và vâng theo thánh ý Chúa, cho dẫu gặp những hoàn cảnh khó khăn, bi đác không thể hiểu được, nhưng Mẹ luôn tín thác vào Thiên Chúa và chương trình của Ngài, qua sự lắng nghe và xin vâng.
Xin Mẹ Maria giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn suy gẫm lời Chúa như Mẹ, để lời của Chúa sinh hoa qủa dồi dào trong lòng mỗi người chúng con. Đặc biệt là ngày đầu năm này, chúng con cần phải có tâm tình như Mẹ, sống tin tưởng phó thác tất cả mọi sự cho chương trình của Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng con. Amen.
39.Lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa 2019--Lm. Inhaxio Hồ Thông
Khi tuyên xưng Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta khẳng định niềm tin của chúng ta vào Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, Ngài thật sự là Con Thiên Chúa nhưng cũng thật sự là Con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a trong biến cố Nhập Thể. Lễ kính trọng thể “Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa” có gốc tích rất lâu đời và được phổ biến trên khắp thế giới. Trong lịch canh tân Phụng Vụ, lễ kính trọng thể Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa này được cử hành vào ngày mồng 1 tháng giêng, trùng với ngày bát nhật Giáng Sinh, ngày kính nhớ việc cắt bì và đặt tên cho Chúa Giê-su, nhưng cũng trùng với ngày Tân Niên, ngày đầu năm mới cầu cho hòa bình thế giới. Đức Phao-lô VI viết: “Ngày lễ trọng ấy này được đặt vào mồng một tháng giêng theo như tập tục xa xưa của Phụng Vụ Rô-ma. Lễ này được dành riêng ca tụng việc Đức Ma-ri-a góp phần vào mầu nhiệm cứu độ và tán dương tước vị cao quý đặc biệt do phần đóng góp ấy đem lại cho Người Mẹ rất thánh, Đấng có công giúp chúng ta đón tiếp Tác Giả của sự sống” (“Marialis Cultus”, 5).
Ds 6: 22-27
Đây là một trong những bản văn đẹp nhất của bộ Ngũ Thư, về phương diện văn chương và thần học. “Lời chúc lành của tư tế” nêu bật sự hiện diện thi ân giáng phúc của Thiên Chúa, nguồn mạch của sự sống và phúc lành. Lời chúc lành này gồm ba lời nguyện xin, mỗi lời bắt đầu với danh xưng Đức Chúa. Vài tác giả xưa nhìn thấy nơi việc kêu cầu ba lần Danh Thánh này tiên báo Thiên Chúa Ba Ngôi. Lời chúc lành cầu xin được che chở, ân sủng và bình an: ba hồng ân tóm tắt mọi ước vọng của con người, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đáp ứng cách sung mãn.
Gl 4: 4-7
Trong đoạn trích thư gửi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô khẳng định với chúng ta rằng chúng ta thực sự là con cái của Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su, Ngài là Con Thiên Chúa được sinh ra làm con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.
Lc 2: 16-21
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca tường thuật cho chúng ta hai biến cố: “Các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su” và “Hài Nhi Giê-su chịu cắt bì và đặt tên”.
BÀI ĐỌC I (Ds 6: 22-27)
Đây là đoạn văn thuộc truyền thống tư tế. Trong phần nhập đề, Đức Chúa căn dặn ông Mô-sê: “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này” (6: 22-23). Như vậy, các tư tế có nhiệm vụ chúc phúc cho dân Ngài. Tuy nhiên, trong phần chúc phúc, ba lời chúc phúc đều bắt đầu với danh Thiên Chúa: “Nguyện Đức Chúa”. Điều này cho thấy vị tư tế chỉ là người trung gian, chính Đức Chúa mới thật sự là Đấng hiện diện và chúc lành.
1. Lời chúc phúc thứ nhất (6: 24)
Trong lời chúc phúc thứ nhất, “Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em”, từ “gìn giữ” ở đây nói đến ơn phù trợ của Thiên Chúa khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc sống, như:
“Xin gìn giữ con như con ngươi mắt Ngài,
xin dấu con dưới bóng của cánh tay Ngài” (Tv 17: 8)
hay:
“Xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây,
và lấy tình thương mà cứu chữa” (Tv 31: 17; 80: 4, 8, 20).
Lời chúc phúc thứ nhất này muốn nói rằng “Xin Thiên Chúa đổ tràn ơn lành trên dân và che chở cho dân tránh mọi tai họa có thể đổ xuống trên dân”. Lời chúc phúc thứ nhất này nhấn mạnh Ơn Chúa Quan Phòng.
2. Lời chúc phúc thứ hai (6: 25)
Trong lời chúc phúc thứ hai, “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em”, nghĩa là xin Thiên Chúa nhìn đến dân Ngài bằng ánh mắt chan chứa niềm vui của Ngài. Lời chúc phúc này muốn nói rằng nếu có điều gì không vừa lòng đẹp ý Ngài, thì xin Ngài “rủ lòng thương” mà khoan hồng độ lượng rộng tình tha thứ những lỗi phạm của dân Ngài. Lời chúc phúc này nhấn mạnh tấm lòng nhân hậu hay tha thứ của Thiên Chúa, như sấm ngôn của Giê-rê-mi-a:
“Trở về đi, hỡi Ít-ra-en phản bội – sấm ngôn của Đức Chúa –
Ta sẽ không nghiêm nét mặt với các ngươi nữa,
vì Ta giàu lòng thương xót – sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 3: 11).
3. Lời chúc phúc thứ ba (6: 26)
Lời chúc phúc thứ ba: “Nguyện Đức Chúa ghé mặt nhìn”, cầu xin Thiên Chúa đừng ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng nhìn đến dân Ngài như “Thiên Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, nhưng Ca-in và lễ vật của ông, thì Người không đoái nhìn đến” (St 4: 5-6). Chính cái nhìn của Thiên Chúa đem lại “bình an” cho dân Ngài. Với tính thực tiễn của Cựu Ước, chúng ta không được quan niệm “bình an” trong nội tâm. Thế giới của Cựu Ước chưa biết trừu tượng hóa hay nội tâm hóa. Bình an mà Cựu Ước muốn nói đến là tình trạng hòa hợp giữa con người với trời và đất. Chỉ có bình an thực sự giữa con người với nhau trong một mối giao hòa với trời và đất, bây giờ mới có bình an trong tâm hồn, như lời ca ngợi của đoàn sứ thần trên bầu trời Bê-lem:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2: 14).
– Kết luận (6: 27)
Trong câu kết: “Chúc lành như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng”, Danh Thiên Chúa đồng nhất với chính sự hiện diện thi ân giáng phúc của Ngài. Vào thời Cựu Ước, chính Đức Chúa, qua trung gian của các tư tế, chúc phúc cho dân Ngài. Vào thời Tân Ước, Con Một Thiên Chúa làm người, là Đức Giê-su, nghĩa là “Đức Chúa cứu độ”, chính Ngài chúc phúc cho nhân loại. Từ nay mọi ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại đều qua Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Ngài là Đấng Trung Gian duy nhất giữa nhân loại và Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC II (Gl 4: 4-7)
Bài Đọc II được trích từ Thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Ga-lát. Thánh Phao-lô viết Thư này vào năm 54-57 cốt để biện minh cho mình vì có nhiều người đặt nghi vấn về sứ vụ Tông Đồ của thánh nhân và Tin Mừng mà thánh nhân loan báo.
Vì thế, ngay từ đầu Thư, thánh nhân xác quyết sứ vụ Tông Đồ của thánh nhân bắt nguồn từ Đấng Phục Sinh: “Tôi là Phao-lô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng phải nhờ một người nào, nhưng bởi Đức Giê-su Ki-tô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi chết sống lại” (1: 1). Từ đó, thánh Phao-lô khẳng định tính chính thống của Tin Mừng mà thánh nhân loan báo: “Thực vậy, thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải do loài người. Vì không ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giê-su Ki-tô mặc khải” (1: 11-12). Thánh Phao-lô cũng viện dẫn các Tông Đồ trực tiếp của Đức Giê-su, các ngài cũng chứng nhận tính chính thống của Tin Mừng mà thánh nhân loan báo: “Vậy khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, các ông Gia-cô-bê, Kê-pha và Gio-an, những người được coi là cột trụ, đã bắt tay tôi và ông Ba-na-ba để tỏ dấu hiệp thông: chúng tôi thì lo cho các dân ngoại, còn các vị ấy thì lo cho những người được cắt bì” (2: 9).
Trong đoạn Thư được Phụng Vụ trích dẫn hôm nay, thánh nhân đề cập đến mầu nhiệm Nhập Thể và hiệu quả mà mầu nhiệm này mang lại cho nhân loại.
1. Mầu Nhiệm Nhập Thể nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa
Diễn ngữ: “Khi thời gian tới hồi viên mãn”, muốn nói rằng Thiên Chúa đã chuẩn bị dài lâu trong lịch sử dân Ngài cho biến cố Nhập Thể của Con Ngài để con người đủ khả năng đón nhận Tin Mừng Đức Giê-su loan báo và đón nhận dung mạo Thiên Chúa mà Đức Giê-su mặc khải.
2. Con Thiên Chúa làm người để con người trở nên con cái của Thiên Chúa
Để cứu độ con người, Con Thiên Chúa đã thật sự chấp nhận kiếp sống phàm nhân, được sinh ra do một người phụ nữ, sống dưới Lề Luật và thật sự trở nên anh em của nhân loại, nhờ đó chúng ta trở thành đàn em của Ngài và là con cái Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.
3. Ân ban được làm con cái của Thiên Chúa
Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta đã đón nhận Thần Khí của Chúa Ki-tô, nhờ đó chúng ta có thể thân thưa với Thiên Chúa là Cha. Vì thế, đã là con cái Thiên Chúa, chúng ta không còn là những kẻ nô lệ, nhưng là những con người tự do và có quyền thừa kế.
TIN MỪNG (Lc 2: 16-21)
Đoạn Tin Mừng hôm nay, được trích từ “Tin Mừng về Thời Thơ Ấu của Chúa Giê-su” theo thánh Lu-ca, gồm có hai hoạt cảnh: “Các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi” (2: 16-20) và “Hài Nhi Giê-su chịu cắt bì và đặt tên” (2: 21)
1. Các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi (2: 16-20)
Ngay khi được thiên sứ báo tin vui: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Ngài là Đấng Ki-tô Đức Chúa” và ban cho họ một dấu chỉ để nhận ra Ngài: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2: 10-12), các mục đồng cùng nhau lên đường ngay tức khắc. Thánh Lu-ca nêu bật thái độ tích cực của các mục đồng: Thiên Chúa đã cho một dấu chỉ, phải đi kiểm chứng tức khắc và cố tìm hiểu ý nghĩa dấu chỉ của Người. Thái độ của các mục đồng nói lên biết bao bài học. Vì thế, thánh ký đã tô điểm câu chuyện này với nhiều chi tiết long trọng: phản ứng của các mục đồng (2: 16-17, 20), phản ứng của những người nghe họ kể lại (2: 18) và cuối cùng là phản ứng của Đức Ma-ri-a (2: 19).
A- Phản ứng của các mục đồng (2: 16-17, 20)
Ngay khi được sứ thần báo tin, các mục đồng hối hả ra đi vì họ quá đỗi vui mừng và nôn nóng mong gặp được Đấng Cứu Độ. Trước đây, thánh Lu-ca đã nhận xét rằng ngay sau biến cố Truyền Tin, Đức Mẹ cũng đã “vội vã ra đi” viếng thăm bà Ê-li-sa-bét (Lc 1: 39). Một tâm hồn đã cho Thiên Chúa bước vào cuộc đời mình thì hân hoan vui mừng vì Thiên Chúa đã viếng thăm mình và cuộc sống của mình đã được dung nạp một nguồn năng lực mới, như lời giải thích của thánh Giáo Phụ Am-rô-si-ô: “Không ai tìm kiếm Đức Ki-tô chỉ một nửa tấm lòng” (Expositio Evangelii sec. Lucam., in loc.).
Trong “Tin Mừng về Thơ Ấu của Chúa Giê-su”, thánh Lu-ca mô tả khung cảnh máng cỏ đến ba lần: lần thứ nhất, Đức Ma-ri-a “sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ” (2: 7), lần thứ hai qua dấu chỉ mà sứ thần ban cho các mục đồng để nhận ra Ngài: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”, (1: 10-12) và lần thứ ba, khi đến nơi, các mục đồng “gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Những gì các mục đồng chứng kiến trong máng cỏ tương phản với phản ứng của họ vào lúc kết thúc hoạt cảnh này: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa” (1: 20).
Tương phản này tiên báo một tương phản khác: bên máng cỏ này được bao quanh bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của Đồi Sọ; vì Ngôi Lời hóa thân làm người không phải là để một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá đó sao? Tuy nhiên, trong mạch văn, Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ, tự đặt mình vào số những người nghèo, khiêm hạ và bé nhỏ này: dấu chỉ để nhận ra Ngài đó là “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Chiếc tã đầu đời để ủ ấm Ngài là chiếc khăn trùm đầu một nắng hai sương của Mẹ Ngài và chiếc nôi đầu đời để vỗ về giấc ngủ của Ngài là máng cỏ của bò lừa ăn, đó là dấu chỉ giúp cho những mục đồng nghèo khổ và bị khinh bỉ này nhận ra được Đấng Cứu Thế đã đến: con trẻ sơ sinh này sẽ là Đấng sau này đón tiếp những người nghèo hèn, những kẻ bị khia trừ, kẻ tội lỗi và đồng bàn với họ (15: 2). Thiên Chúa đã ưu ái những người phận hèn bé mọn (x. Cn 3: 32).
Sau khi đã kiểm chứng, các mục đồng “liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này” (2: 17). Họ là những chứng nhân đầu tiên về cuộc Giáng Sinh của Đấng Cứu Độ. “Các mục đồng không hài lòng tin vào biến cố hạnh phúc mà thiên sứ công bố cho họ và đầy kinh ngạc, họ đã chứng kiến tận mắt; họ đã bày tỏ niềm vui của mình không chỉ với Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se nhưng cho mọi người và, còn hơn nữa, họ cố gắng ghi khắc biến cố này trong tâm khảm của họ” (Photius, Ad Amphilochium, 155).
Ở nơi dáng dấp của các mục đồng, thánh Lu-ca phác họa chân dung của những người Ki-tô hữu: “Họ liền hối hả ra đi” và “vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (1: 20).
B- Phản ứng của những người nghe các mục động kể lại (2: 18)
Đấng Mê-si-a, được các ngôn sứ loan báo biết bao lần, được dân Ít-ra-en chờ đợi từ lâu lắm rồi, đã đi vào trong lịch sử con người một cách bất ngờ nhất và kín đáo nhất, vì thế, “nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên”. “Tại sao không kinh ngạc cho được, khi thấy trên cõi thế Đấng ở trên cõi trời, và đất và trời được hòa giải; khi thấy Hài Nhi khôn tả liên kết điều gì là trời – thần tính – và điều gì là đất – nhân tính – sáng tạo một giao ước kỳ diệu qua sự hiệp nhất này. Không chỉ họ kinh khiếp trước mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng cũng trước lời chứng vĩ đại mà các mục đồng làm chứng, những người đã không thể bịa ra điều gì họ đã không nghe và công bố một cách hùng hồn sự thật” (Photius, Ad Amphilochium, 155).
Để nhận ra Ngài trong mầu nhiệm tự hạ này, phải có một tâm hồn nghèo khó, lột bỏ hết mọi định kiến. Thánh Lu-ca là thánh ký về đức nghèo khó. Những mục đồng là những kẻ bị khinh bỉ và liệt ra ngoài lề xã hội, những kẻ mà các kinh sư nghi ngờ về đời sống đạo hạnh của họ, vì nghề nghiệp của họ không cho phép họ tuân giữ ngày sa-bát và tham dự thường xuyên kinh nguyện trong các hội đường. Chính ở nơi những tín đồ không ngoan đạo này mà lời loan báo đầu tiên về Triều Đại Mê-si-a được gửi đến. Chúng ta nhận ra cách thức của Thiên Chúa. Đức Giê-su sẽ hớn hở vui mừng và ngợi khen Cha Ngài “vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Lc 10: 21).
C- Phản ứng của Đức Ma-ri-a (2: 19)
Đây là một trong những ghi nhận quý giá về đức hạnh của Đức Ma-ri-a: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (2: 19). Qua lời ghi nhận này, thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta một trong những nguồn của sách Tin Mừng mang tên thánh ký. Thánh Lu-ca đã tô điểm chuyện tích Giáng Sinh với nhiều chi tiết thần linh, nhưng khởi đi từ những sự kiện mà thánh sử đã gìn giữ từ chính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”, để cố hiểu hơn nữa mầu nhiệm của Con Mẹ.
Lời ghi nhận này, được lặp lại đến hai lần: ở đây và ở 2: 51, nói với chúng ta nhiều điều về Đức Mẹ. Với thái độ cung kính, Mẹ chiếm ngắm những điều kỳ diệu được hiện thực ở nơi cuộc Giáng Trần của Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ. Mẹ đã gẫm suy chúng, chiêm ngắm chúng và cất giữ chúng vào trong cõi thinh lặng của tấm lòng Mẹ. Mẹ là Bậc Thầy đích thật của cầu nguyện: “Đức Ma-ri-a sử dụng cả ba năng lực quan trọng của con người. Đức Ma-ri-a ghi nhớ tất cả những gì đã nghe, đó là ký ức. Đức Ma-ri-a suy nghĩ về các điều đó, tức là dùng lý trí. Đức Ma-ri-a suy nghĩ trong lòng, tức là dùng tình cảm, vì xúc động. Ký ức, lý trí, tình cảm đều được dùng để ứng xử với những gì đã nghe” (“Nước Suối Giữa Sa Mạc”, 84).
Nếu chúng ta noi gương Mẹ, nếu chúng ta gìn giữ và suy đi nghĩ lại trong lòng mình điều gì mà Đức Giê-su nói với chúng ta và điều gì Ngài làm trong chúng ta, chúng ta thật sự bước trên đường thánh thiện Ki-tô giáo và chúng ta sẽ không bao giờ thiếu đạo lý của Ngài và ân sủng của Ngài. Cũng vậy, bằng việc chiêm niệm theo cách thức này giáo huấn Đức Giê-su đã cho chúng ta, chúng ta sẽ đạt được một sự hiểu biết sâu xa về mầu nhiệm của Ngài như Giáo Huấn của Công Đồng Va-ti-can II: “Thánh Truyền do các Tông Đồ truyền lại được tiến triển trong Giáo Hội dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, các sự việc và lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, nhờ sự chiêm ngắm và học hỏi của các tín hữu, những người đã ghi nhận các điều đó trong lòng (x. Lc 2: 19 và 51); nhờ sự thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ những việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc chắn về chân lý, do việc kế vị trong chức Giám Mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ Giáo Hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa, cho đến khi lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo Hội” (Vatican II, Dei Verbum, 8).
Vì thế, Công Đồng Va-ti-can II đã ca ngợi Đức Ma-ri-a vừa là Mẹ Thiên Chúa vì Chúa Giê-su là Con của Mẹ, vừa là Mẹ của Nhiệm Thể Ngài, tức là Giáo Hội: “Thật vậy, khi sứ thần truyền tin, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và trong thân xác, và đã trao ban Đấng là sự sống ấy cho thế gian, nên được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Thế… Nhưng vì thuộc dòng dõi A-đam, nên Mẹ cũng liên kết với tất cả mọi người cần được cứu độ, hơn nữa, Mẹ ‘là Mẹ các chi thể (của Đức Ki-tô) vì đã cộng tác vào trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội là những chi thể của Đầu’. Vì thế, Mẹ cũng được chào kính như chi thể trổi vượt và độc đáo nhất của Giáo Hội, như mẫu gương và gương sáng nổi bật cho Giáo Hội về đức tin và đức ái, và Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, tôn kính Mẹ với tình con thảo như người Mẹ rất dấu yêu” (LG 53).
2. Chúa Giê-su chịu cắt bì và đặt tên (2: 21)
Phép cắt bì là một nghi thức được Thiên Chúa thiết lập để xác định những ai thuộc về dân Chúa chọn. Ngài đã truyền lệnh cho ông Áp-ra-ham thiết định phép cắt bì như một dấu chỉ Giao Ước mà Ngài đã ký kết với ông và tất cả dòng dõi của ông (x. St 17: 10-14), khi quy định rằng con trẻ sẽ chịu phép cắt bì vào ngày thứ tám sau khi sinh. Nghi thức được thực hiện ở tại tư gia hay ở hội đường, kèm theo những kinh nguyện và việc đặt tên cho con trẻ. Vì đã chấp nhận kiếp sống của con người, Chúa Giê-su cũng sống dưới Lề Luật: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì” (2: 21). Với định chế Phép Rửa Ki-tô giáo, lệnh truyền cắt bì không còn được áp dụng nữa. Ở Công Đồng Giê-ru-sa-lem (x. Cv 15: 1tt.), các Tông Đồ dứt khoát công bố rằng những ai gia nhập Giáo Hội không cần phải chịu phép cắt bì. Thánh Phao-lô dạy cách minh nhiên rằng phép cắt bì không còn thích đáng trong bối cảnh của Giao Ước Mới được Đức Ki-tô thiết lập (Gl 5: 2tt.; 6: 12tt.; Cl 2: 11tt.).
Tên của Hài Nhi Giê-su có nghĩa “Đức Chúa cứu độ” hay “Đức Chúa là ơn cứu độ”, tức là, “Đấng Cứu Độ”. Tên này được ban cho Hài Nhi không như thành quả của bất cứ quyết định phàm nhân nào nhưng tuân theo lệnh truyền của Thiên Chúa mà sứ thần đã truyền đạt cho Đức Trinh Nữ và thánh Giu-se (x. Lc 1: 31; Mt 1: 21).
40.Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời--Noel Quesson
Ngày 1 tháng 1, trong khi chúng ta chúc nhau "năm tốt lành", Giáo Hội mừng lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Và chúng ta ước nguyện đi xa hơn vào huyền nhiệm Đức Kitô. Bởi vì mỗi lần Giáo Hội nói với chúng ta về Đức Maria, chính là để nói về Đức Giêsu. Chúng ta có khẳng định quá đán, khi chúng ta nói, trong kinh Kính Mừng Maria: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa? phải chăng một tạo vật có thể là mẹ Thiên Chúa? Phải Chăng Thiên Chúa lại sinh ra từ một người đàn bà, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai hôm nay (Gl 4,4).
Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Các mục đồng hết sức đơn thành, ở những vùng sườn đồi Bêlem, chạy vội đến để xác minh sứ điệp mà thiên thần truyền cho họ: "một Đấng Cứu độ được sinh ra cho các ngươi; Người là Đức Kitô và là Chúa". Chính là Hài Nhi mang ba danh hiệu ấy mà họ tìm đến. Ba danh hiệu trang trọng, thuộc về Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ, Đấng chịu Xức Dầu, Đức Chúa.
Như vậy, điều đáng chú ý nhiều hớn nữa là Luca dường như xem thường Hài nhi, khi trưng dẫn Người cuối cùng; và cũng đặt người đàn ông, ông Giuse, xuống thứ hai vào thời mà người đàn bà không có giá trị ngang bằng. "Họ khám phá ra Maria". Trong cái viễn tượng đảo lộn này, có một cuộc cách mạng thần học và nhân bản nho nhỏ.
Maria! Danh hiệu của bà là Mẹ Thiên Chúa đã chỉ được xác định ở Công đồng Êphêsô năm 430. Nhưng từ rất lâu, lòng sùng kính bình dân đã dám gọi Đức Maria là "theotokos" "Mẹ Thiên Chúa". Và vào thời đó khi các giám mục chính thức công nhận danh hiệu này, thì cả thành phố Êphêsô hoan hỉ và xuống phố lúc nữa đêm để rước đuốc mừng lễ. Cái mà các nhà thần học tìm kiếm, về mặt trí thức, từ bốn thế kỷ qua, thì về bản chất nó đã được sống nơi tất cả những người chỉ biết đơn sơ lắng nghe Tin Mừng. Các Công đồng chỉ có vai trò xác định bằng ngôn ngữ khoa học những điều đã gợi ra từ trong Tân ước. Ngoài ra còn phải đợi đến hai mươi năm nữa, thì Công đồng Can-xê-đoan sau cùng năm 451 mới xác định huyền nhiệm của Đức Giêsu và Đức Maria. Đây là văn bản tín điều, văn bản nổi tiếng nhất của lịch sử các Cồng đồng: "Tất cả, chúng tôi đồng lòng tuyên xưng, một Chúa Con độc nhất và luôn luôn là một. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn toàn về thiên tính, hoàn toàn về nhân tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu thành bới một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha do thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước các thế kỷ theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tính: một và cùng một Chúa Ki tô duy nhất. Con độc nhất, mà chúng ta phải nhận biết trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân ly, không tách biệt". Đấy là tấm giấy chứng minh kỳ diệu và rõ rệt về Đức Giêsu Nagiarét, và Mẹ Người Đức Maria.
Họ tìm ra Bà Maria và ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Cần phải lặp lại những từ này sau khi đã nghe xác định trang trọng về Đức tin. Như thế chúng ta hiện đứng trước một trong hai phương diện của Đức Giêsu, nhân tính thực của Người. Các mục đồng trông chờ tìm thấy một Đấng Cứu độ Kitô Chúa (Lc 2.11), và chỉ tìm thấy có thế: một Hài nhi trong chuồng bò lừa, đặt trong máng cỏ dành cho súc vật, một Hài Nhi trên nệm rơm! Thiên Chúa lập tức tự mạc khải như một vị hoàn toàn khác: thoạt đầu, Người khác với cái mà ta tưởng tượng về Người. Người đã hiện ra như quá gần gũi, ngay từ đầu. Người mang tính người đến nỗi nhiều người không nhận ra Người, chính vì Người bị che khuất đối với người thân tín nhất của nhân loại chúng ta.
Vâng, Giao ước giữa Thiên Chúa và con người mà Cựu ước, Tân ước nói tới, ngay từ đầu, không huyênh hoang, đã nói với chúng ta là nó đi đến đâu: hợp nhất không thể xé bỏ được, không lẫn lộn, không phân ly, không tách biệt.
Tất cả thái độ tôn giáo được hâm chứa như mầm mống trong điều mạc khải này: người ta không thể miệt thị vật chất, thân xác, từ khi Thiên Chúa "nhập thể" trong cung lòng trinh nữ Maria. Không có cái gì là phàm tục. Tất cả đều trở nên linh thánh, nghĩa là đôi khi hoàn toàn "nhân bản" và hoàn toàn "thiên bản": lớn lên chín tháng trong bụng mẹ, sinh ra, ngủ nghỉ, ăn uống, học đi và tập nói, chữa lành bệnh nhân, lên tiếng công khai, yêu mến bạn bè, thức dậy sớm ban sáng để cầu nguyện, chịu đau đớn, chết,... những thực tại nhân thiên bản những thực tại linh thánh. Và Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, thì giống như một bảo đảm cho sự kết hợp không thể phân ly của Thiên Chúa và con người trong bản vị độc nhất của Đức Giêsu.
Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
Điều họ đã được loan báo, chính là "một Đấng Cứu Độ, được sinh ra cho các anh, người là Chúa Kitô. Họ đơn sơ đến nói sứ điệp của họ, tức là những lời nói mà họ nghe thấy. Các họa sĩ thuộc mọi thời đại đã diễn dịch câu nói Tin Mừng này khi trưng bày một bức tranh "Sự thờ kính của các mục đồng". Thực sự, đúng hơn các mục đồng đã giảng một bài cho Đức Maria, bằng cách nói Tin Mừng cho bà, tin lành mà họ nhận được. Bây giờ, trong câu này chúng ta thấy có phương diện thứ hai của Đức Giêsu, thiên tính đích thực của người: về Hài nhi này, các thiên thần đã nói với chúng ta rằng:
Người là Đức Kitô và là Chúa!". Đó là một tuyên xưng đức tin và từ đó đến thờ kính thì không xa: các bức tranh của các họa sĩ không lầm lần.
Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Ngôn từ Hy Lạp của Luca còn mạnh mẽ hơn nhiều mọi người ai cũng lấy làm lạ lùng. Thế nhưng, có cần phải thấy một đối lập mà Luca muốn trình bày giữa thái độ tổng quát và thái độ của Maria chăng? Quả thực đúng là ông chỉ nhấn mạnh đến cách hành sử của bà thôi: Bà không chỉ lạ lùng, mà suy niệm.. Dù không hiểu nhiều hơn các mục đồng về huyền nhiệm xảy đến cho mình, phải chàng người ta không thể nghĩ rằng từ đáy lòng mình Đức Maria nói lại tiếng xin vâng của đức tin trước sự mới lạ bất ngờ của Hài nhi này sao? Luca không ngừng tôn vinh giá trị của Maria.
Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Chúng ta luôn luôn cố giản lược huyền nhiệm về Đức Giêsu, bằng các đến giản hóa đi, Hoặc là người ta nhân bản hóa Đức Giêsu khi chỉ nhìn thấy người là một người có thiên tài, hoặc người ta linh thiêng hóa người bằng cách chối từ những khuyết điểm trong nhân tính của Người. Chính các mục đồng, những con người đơn sơ, đã trông thấy và đã nghe thấy. Họ đã xem thấy một nhân tính hoàn toàn bình thường, và nghe thấy một sứ điệp rất phi thường. Và họ không chỉ muốn dừng lại ở những dáng vẻ bên ngoài: họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa.
Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu
Hài nhi Bêlem là một người thực bé mọn, gắn liền với một truyền thống, một văn hóa và hệ thống tập tục. Đó là một bé trai, nhời được ghi dấu vào xác thịt dành cho tất cả những người nam của dân tộc này. Vâng, một nhân tính thực sự mà trước nó người ta không thể không thấy được. Nhưng tên của trẻ thơ này mang những vấn đề mới về căn tính của cậu: tại sao di cư phải đặt cái tên Thiên Chúa Cứu Độ, Yeshoua, Giêsu? Tại sao?
Đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Theo Luca, việc đặt tên này chỉ là nhột cơ hội bổ sung để làm nổi bật Maria: tác giả nhấn mạnh rằng Maria, Mẹ Người, đã nhận tên con mình "trước khi Người được thụ thai trong lòng".
Công đồng Vatican II, tiếp theo một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã trình bày Đức Maria như một gương mẫu của Giáo Hội, người đầu tiên trong các tín hữu. Và trong trang Tin Mừng này, chúng ta thực sự vừa mới nhận ra rằng bà là người đầu tiên đón nhận Lời Chúa và suy niệm trong lòng mình... và bà là người đầu tiên có lời tuyên xưng cơ bản về lòng tin của chúng ta: Thiên Chúa Cứu Độ!
Trong ngày đầu tiên của năm mới, tất cả sự mới mẻ của niềm tin Kitô giáo được Đức Maria nhắc lại cho chúng ta. Sự tân kỳ của Đức tin của các Kitô hữu, chính là không phải chỉ tin vào Thiên Chúa. Điều đó, phần đông mọi người vẫn thế, nhất là những người theo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới: và chúng ta nghĩ đến Do Thái giáo, Hồi Giáo, và biết bao Tôn Giáo hữu linh. Đặc tính riêng biệt của người Kitô hữu, chính là tin vào sự nhập thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Sự tôn sùng Đức Maria chỉ làm cho chúng ta nhớ lại điều đó.
41.Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời--Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Nhân loại lại bước vào một năm mới: năm dương lịch 2003. Trái đất, thời tiết bốn mùa cứ như xoay chuyển vần xoay, cứ như thay đổi không ngừng. Năm 2003 được đánh dấu bằng việc thánh hóa các gia đình. Nên, dõi theo gương sáng ngời của gia đình Nagiarét là việc quan trọng và khẩn thiết của mọi gia đình công giáo. Hội Thánh trong ngày đầu năm mới dương lịch đã tôn dương tước hiệu Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
MỘT TƯỚC HIỆU TRỔI VƯỢT MỌI TƯỚC HIỆU
Tước hiệu Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo Hội. Ðây là một xứng hợp hơn mọi tước hiệu khi nói về Ðức Trinh Nữ Maria. Vào thế kỷ V, giáo chủ Nestôriô đã nổi lên chống đối tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Ðức Trinh Nữ Maria. Theo Nestôriô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ của Ðức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một cuộc xung đột lớn lao đã xẩy ra trong Giáo Hội xoay quanh việc Ngôi Hai nhập thể. Thế nên, vào năm 431, Hội Thánh đã triệu tập công đồng Êphêsô dưới sự chủ tọa của thánh Cyrillô, các nghị phụ trong công đồng này đã tuyên bố cất chức giáo chủ Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của ông ta. Công đồng Êphêsô đã định tín Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vì thực sự Mẹ đã sinh ra Con-Thiên-Chúa-làm-người. Bắt đầu từ công đồng Êphêsô tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa đã trở thành tước hiệu chính thức của Ðức Trinh Nữ Maria. Ðây là tước hiệu trổi vượt trên mọi tước hiệu mà Giáo Hội đã ca tụng và tôn vinh Ðức Trinh Nữ Maria. Thánh công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Tín lý về Hội Thánh dã viết: “ từ những thời xa xưa, Ðức Trinh Nữ đã được tôn kính dưới tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Người trong mọi cơn gian nan khốn khó". Ðức Giáo hoànng Piô XI đã viết khi lập thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa ngày 11/10 nhân dịp kỷ niệm 1500 năm công đồng Êphêsô vào năm 1931: “ Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Ðức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa"( Lux Veritatis 1931).
NHƯ MẸ MARIA.
Tin mừng Lc 2, 16- 21 như muốn thúc giục nhân loại hãy hiện diện bên Chúa Giêsu Hài Ðồng như các mục đồng xưa. Ðây là dấu chỉ đích thực về sự có mặt của Chúa cứu thế đang ở giữa nhân loại theo sự loan báo của các thiên thần. Các mục đồng nhanh chân, bỡ ngỡ, hốt hoảng nhưng tiếp tục ra đi tìm Chúa Giêsu theo lời loan báo của các thiên thần và họ đã tìm ra Ðấng cứu thế, đây là một dấu chỉ đối với họ. Còn Maria khi thấy các mục đồng có mặt cung chiêm Chúa Giêsu, Mẹ Maria cũng coi đây là một dấu chỉ quan trọng trong cuộc đời Mẹ. Việc đản sinh Con Thiên Chúa làm người đối với Mẹ vẫn là một mầu nhiệm tàng ẩn, dù rằng hơn ai hết Mẹ là người hiểu thấu biến cố cứu độ, nhưng Tin Mừng Luca chỉ nói vỏn vẹn: “ còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó và suy niệm trong lòng"( Lc 2, 19 ). Mẹ Maria trong đêm giáng sinh với cảnh huy hoàng lộng lẫy, với tiếng hát của muôn cơ binh thiên thần, vẫn im lặng. Sự im lặng của một con người nói tiếng xin vâng tuân theo thánh ý Thiên Chúa. Sự im lặng của một con người được tràn đầy hồng phúc. Mẹ luôn sống tâm tình của một nữ tỳ khiêm tốn và như thế mọi vinh quang trần thế, Mẹ luôn dành cho những người khác. Mẹ hiểu rõ khi các mục đồng tới hang đá cung chiêm Chúa Hài Ðồng Giêsu con Mẹ, Mẹ hiểu thấu căn tính của con Mẹ, Mẹ được chúc phúc, nhưng Mẹ vẫn chưa đọc ra lời chúc phúc của Thiên chúa dầu vậy Mẹ vẫn luôn tin tưởng tuyệt đối vào việc trung tín của Thiên Chúa. Mẹ đã sống đơn sơ, khiêm nhường, tín thác vào Chúa Giêsu vì thế Mẹ xứng đáng lãnh nhận tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa.
Như Maria, nhân loại đã được chúc phúc bởi vì nhân loại đã biết kính sợ Chúa: “ Ðó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người. Xin Chúa từ Xion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con"( Tv 128,4-6 ) hoặc" Khách qua đường không ai chào hỏi chúng: Chúa ban phúc lành cho anh em. Chúng tôi chúc lành cho anh em nhân danh Chúa "( Tv 129, 8 ). Quả thực như một hồng ân cao quí vì nhân loại và mỗi người chúng ta đều được Chúa chúc lành. Mọi người trong năm mới này sẽ được hạnh phúc sống giây phút hồng ân là Chúa đang hiện diện trong cuộc sống của mỗi người để làm cho cuộc sống ấy nên viên mãn, nên hoàn thiện hơn.
Hôm nay, Giáo Hội dành ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho thế giới hòa bình trùng vào ngày kính trọng thể Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa như lời Ðức thánh cha Phaolô VI đã viết trong tông huấn Marialis Cultus, số 5b khi Người dời thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01/01 mỗi năm như sau: “. Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người ".
Lạy Vua Hòa Bình mới sinh, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình, xin ban cho nhân loại và mỗi người chúng con sự Hòa Bình đích thực và ơn an bình trong mỗi tâm hồn.
Xin Hài Ðồng Giêsu thánh hóa các gia đình chúng con để mọi gia đình luôn sống sự thánh thiện và công chính của gia đình Nagiarét.
42.Là Mẹ Thiên Chúa nhưng Mẹ cũng là một người phụ nữ bình dị--Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên
Khi mừng lễ Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa, chúng ta thường hình dung hình ảnh Đức Mẹ tay cầm vương trượng, đầu đội triều thiên và ngự giữa muôn triều thần thánh…, mà ít ai nhớ đến hình ảnh của Mẹ Maria - một người phụ nữ bình thường, dung dị như bao người bình thường khác - nơi thôn làng Nadarét.
Lời Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay khiến chúng ta không khỏi ngạc nhiên: “Khi các mục đồng đến nơi, họ gặp bà Đức Maria, ông Giuse và Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 16). Quả là một cảnh sống thật trái ngược với những gì mà chúng ta vẫn tưởng tượng. Đáng lý ra, một vị Cứu Tinh phải được sinh ra nơi cung điện đền vua với quần thần hầu cận. Và đương nhiên người mẹ của vị vua đó cũng phải được các cung nữ hầu cận, nhưng đàng này, Vị Cứu Tinh lại được sinh ra nơi hang đá nghèo hèn, trong một đêm đông giá lạnh, còn bên cạnh “mẫu hậu Maria” chỉ có ông Giuse - người bạn trăm năm của Mẹ và con trẻ Giêsu.
Chắc hẳn, khi lựa chọn bài Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 2, 16 – 21) vào thánh lễ hôm nay, Giáo Hội không muốn chúng ta nhìn Đức Mẹ như một bà hoàng, bà chúa, cho bằng, có ý giới thiệu cho chúng ta một cái nhìn đúng đắn hơn về con người và tước hiệu cao quý mà Mẹ đã lãnh nhận.
Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ là mẫu gương cho chúng ta trong đức tin
Từ lời xin vâng của Mẹ, một kỷ nguyên mới được mở ra: Thiên Chúa đã đi vào giữa lòng nhân loại; Ngôi Hai đã nhập thể nơi cung lòng của Mẹ… Thế nhưng, cũng từ khi nói lời xin vâng đó, Mẹ bắt đầu đón nhận biết bao nhiêu thử thách, gian nan. Gian nan khi không tìm được chỗ trong quán trọ, mặc dù đã đến ngày sinh; gian nan khi đang đêm phải cùng thánh Giuse và con trẻ trốn sang Ai-cập, vì người ta đang lùng để giết Hài Nhi Giêsu; gian nan khi bị lạc mất con trong đền thờ 3 ngày…; và nhất là khi đứng dưới chân thập giá để chứng kiến cái chết của người con một yêu dấu của mình. Thử hỏi, có người mẹ nào cầm lòng được, khi phải chứng kiến cảnh người ta hành hạ đứa con mình rứt ruột đẻ ra? Trong khi Mẹ Maria còn hơn cả một người Mẹ, thử hỏi, Mẹ không đau đớn sao được!
Là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ cũng là người rất mực khiêm hạ
Cũng như bao thiếu nữ Dothái khác, Mẹ biết rõ lời của ngôn sứ Isaia 7 thế kỷ trước đó loan báo về việc một người nữ sẽ sinh con và người con ấy được gọi là Đấng Emmanuel. Nhưng làm sao Mẹ có thể biết được, Mẹ lại chính là người phụ nữ diễm phúc đó. Thế nên, khi được Sứ Thần Gabriel truyền tin, Mẹ tỏ ra bối rối: “Việc đó xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến người nam” (Lc…). Và khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã cúi đầu xin vâng với tất cả sự khiêm nhường của một người “nữ tì của Thiên Chúa”.
Vì khiêm hạ, nên Mẹ đã chấp nhận sinh con nơi hang bò lừa, trong một điều kiện thiếu thốn về vật chất, mà đáng lý ra Mẹ có quyền đòi hỏi một sự sang trọng hơn thế, vì người con mà Mẹ sắp hạ sinh là Con Thiên Chúa! Thế nhưng, Tin Mừng đã không ghi lại một lời oán than nào của Mẹ.
Đức Maria khiêm hạ là vậy, trong khi ngày hôm nay, chỉ vì một chút danh dự, chỉ vì một chút lợi lộc, người ta sẵn sàng chà đạp nhân phẩm của người khác. Biết bao cuộc tranh giành quyền lực, biết bao cuộc chiến tranh đẫm máu diễn ra hàng ngày trên thế giới, biết bao những bất đồng trong gia đình, giữa những người xóm giềng, chỉ vì thiếu sự khiêm hạ.
Cùng với tâm hồn khiêm hạ, Mẹ là người đã quên mình để vinh quang của Thiên Chúa được tỏ hiện. Mẹ đã cưu mang, che chở và nâng niu Chúa Hài Nhi. Mẹ đã nêu gương cho tất cả chúng ta hôm nay, hãy biết nâng niu những mầm sống, ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Thế nhưng, một thực tế phũ phàng là, ngày nay, người ta có thể chưng ra một ngàn lẻ một lý do để tự cho phép mình giết đi những mầm sống ngay từ khi còn trong bào thai. Việt Nam của chúng ta là quốc gia đứng nhất nhì trong bảng xếp hạng các quốc gia nghèo nhất thế giới, nhưng lại đứng đầu trong các quốc gia có tỉ lệ phá thai cao nhất thế giới. Phải chăng, cứ nghèo là người ta tự cho phép mình cái quyền giết các thai nhi??? Ngày xưa, bạo chúa Hêrôđê ra lệnh giết tất cả các con trẻ tại Belem từ hai tuổi trở xuống, khiến cho cả thành không ngớt tiếng khóc than. Việc làm đó của ông bị muôn đời lên án. Ngày hôm nay, người ta sẵn sàng giết chính đứa con ruột của mình ngay từ trong bào thai, thì ai sẽ lên án đây, nếu không phải là Thiên Chúa, Đấng vô cùng công thẳng?
Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ trở nên mẫu gương cho chúng ta trong việc lắng nghe và thực hành lời Chúa.
Thánh Luca kể lại, sau khi lắng nghe tất cả những lời mà các trẻ mục đồng nói về Hài Nhi Giêsu, Đức Maria đã giữ kín các sự việc ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng. Tại sao Mẹ lại phải “Suy đi nghĩ lại trong lòng”? Mẹ có thể biết trước tương lai không? Thưa, Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ cũng là những con người như chúng ta. Đức tin của Mẹ vẫn phải được củng cố bằng việc “lắng nghe Lời Chúa và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Nhiều người hôm nay than rằng: Tại sao con cầu nguyện mà Chúa chẳng nhận lời. Con đã cố gắng làm những điều thiện, nhưng chẳng thấy Chúa đoái trông. Thế nhưng, họ lại không biết rằng, những ơn lành Chúa ban cho rất nhiều, nhưng họ lại không nhận ra, bởi vì họ không biết “suy đi nghĩ lại trong lòng”, không biết đọc ra những sứ điệp của Chúa thông qua các dấu chỉ hằng ngày, mà chỉ đòi cho được những ơn huệ một cách tỏ tường.
Vậy đâu là thái độ cần có của chúng ta đối với Đức Mẹ?
Như lời trong sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo dạy chúng ta rằng: Tình cảm của chúng ta đối với Đức Mẹ không chỉ dừng lại ở thứ tình cảm ủy mị ướt át, mà là thái độ chiêm ngắm, và noi theo các nhân đức của Mẹ. Mừng lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta cũng hãy bắt chước Mẹ, sống khiêm hạ, biết tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, biết quên mình để bảo vệ quyền lợi của Thiên Chúa, và sau cùng là thái độ lắng nghe và thực hành lời Chúa. Có như vậy, chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Chúa Giêsu và là con yêu dấu của Mẹ.
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.
43.Tình yêu đắm chìm trong suy niệm--Peter Feldmeier
“Đức Maria ghi nhớ những điều đó, và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19).
Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng mầu nhiệm nhập thể giống như việc Thiên Chúa cùng hợp tác với Đức Maria, khi đem một nhiễm sắc thể thần linh Y phối hợp với một nhiễm sắc thể nhân loại X, để tượng hình nên Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa, vừa là con người. Quan niệm sai lầm này xem Đức Giêsu chỉ là một sản phẩm được giao phối cách nhiệm mầu, giống như chuyện thần thoại về Hercules, chứ không phải là Đấng Cứu Thế như Kinh Thánh mô tả. Trong một khảo luận, tôi đã chỉnh sửa quan niệm sai lầm này và trình bày như sau: “Lãnh vực vô hạn siêu nhiên và chân trời vô hạn vượt xa lý luận của đầu óc con người, đã hiển thị nơi Đức Giêsu Nazareth, từ lúc hoài thai trong cung lòng mẹ Maria.”
Lễ trọng mừng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa đưa dẫn chúng ta đến những chân lý quan trọng về mầu nhiệm liên quan đến Đức tin, mà chúng ta chẳng cần nhọc công vắt óc để suy nghĩ. Chúng ta gọi Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa” và chúng ta xác tín như thế, không phải vì Thiên Chúa đã nắn hình tượng Đức Giêsu trong cung lòng Đức Maria, và phủ bao một thực thể thần linh vào trong thai nhi đó. Chúng ta xác quyết, người con của Đức Maria mang bản tính Thiên Chúa tròn đầy ngay từ ban đầu. Cho dầu có hai bản tính, Đức Giêsu Kitô vẫn là một hữu thể đơn biệt, và Đức Maria vẫn là Mẹ của Ngài cách thực sự.
Nếu điều này thách đố những suy tưởng của chúng ta, chúng ta hãy nhìn lên để cung chiêm ‘Người Mẹ được chúc phúc’ như Tin mừng Luca nói tới. Thánh ký dẫn mời chúng ta đến chuồng bò ở Belem. Các mục đồng chăn chiên ở gần đó đã đến ngắm nhìn đứa trẻ mới được sinh ra, là Đấng Messia và cũng là Đức Chúa mà Thiên Thần đã loan báo. Luca kể lại rằng, các mục đồng đã thuật lại những điều đã được khải thị về trẻ thơ này. Sau đó, các thiên sứ từ trời ca hát rộn ràng ngợi khen Thiên Chúa. Luca đã tóm tắt thái độ của ‘Người Mẹ Được Chúc Phúc’ bằng một câu rất giản đơn: Đức Maria ghi nhớ những điều đó, và suy ngắm trong lòng.
Kinh Thánh kể tiếp biến cố cắt bì cho trẻ Giêsu, tám ngày sau khi sinh. Điều này khá quan trọng. Việc cắt bì của Đức Giêsu dẫn chúng ta đến nội dung mà bài đọc thứ hai đề cập tới. Thánh Phaolô cho chúng ta biết, Đức Giêsu “được sinh ra dưới lề luật để chuộc những ai sống dưới lề luật”. Ngài huấn thị cho tín hữu Galát biết rằng, lề luật được trao ban đã được Thiên Chúa chúc lành, và đó là con đường giúp tôi luyện con người vươn tới sự thánh thiện. Nhưng lề luật cựu ước chỉ là cái khung bên ngoài để uốn đúc. Khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài mới hoàn thiện lề luật, mặc cho lề luật cũ một chiều kích mới, hầu đưa dẫn con người đến sự sống trong Thần Khí. Thánh Phaolô muốn nói cho chúng ta biết rằng chỉ trong Thần Khí, Thần khí lưu ngụ sâu tận trong tâm hồn mỗi người, chúng ta mới có thể đi vào mối tương giao mới, rất sâu xa và thân tình với Thiên Chúa. Ngụp lặn trong mối tương giao thân tình đó, chúng ta gọi Chúa là “Abba, Bố ơi,”.
Cuối cùng, Thánh Luca kể lại câu chuyện đặt tên cho trẻ Giêsu, tên mà thần sứ Gabriel đã nói cho Đức Maria trong ngày truyền tin. Tên gọi Giêsu (Yeshua) có nghĩa là ‘Thiên Chúa cứu’. Điều này hàm ngậm một ý nghĩa sâu xa. Trong Kinh Thánh, tên gọi biểu thị quyền bính của một con người hay một nhân vật. Tên gọi cũng diễn tỏ căn tính người đó như thế nào, và điều này rất rõ nét trong biến cố đặt tên con trẻ Giêsu. Thật là điên khùng và xuẩn ngốc, khi bạn đặt tên cho con của mình là “Chúa cứu” như Gabriel đã nói, khi con của bạn chỉ là một đứa bé bình thường giống như bao đứa trẻ khác.
Đức Maria lưu giữ những điều đó và gẫm suy trong lòng. Mầu nhiệm nhập thể cũng như vai trò làm Mẹ Đấng Cứu thế, không phải là những vấn đề mà Đức Maria phải nhọc công suy nghĩ hay cố phân tích hầu tìm ra những lý lẽ để giải trình. Thánh Luca kể lại, Đức Maria đã đi vào thế giới của mầu nhiệm, chỉ với một thái độ duy nhất: Suy niệm trong lòng. Chúng ta hãy nghĩ xem, thái độ đó gợi nhắc chúng ta điều gì.
Tôi xin được gợi lên hai suy tư. Điều thứ nhất, tôi nghĩ tưởng đến biến cố Giáng sinh với một cảnh tượng huy hoàng bao trùm cả vũ trụ. Các Thiên thần trên trời hát xướng, cùng hòa niềm vui với những khách hành hương nghèo xác nghèo xơ, là những đứa trẻ chăn trâu ngoài đồng, những con người thấp cổ bé họng đang bị xã hội bỏ rơi. Sự kiện đó khiến tôi liên tưởng đến việc Thiên Chúa thường hay thực hiện những ơn sủng phi thường của Ngài xuyên qua những biến cố rất bình thường trong cuộc sống con người. Tôi cũng từng trải nghiệm niềm vui phục sinh mọi nơi mọi lúc. Ví dụ khi tôi nhìn vào cô Rose Marie, một phụ nữ đã thiết lập ngôi nhà mở để tiếp đón những người bất hạnh, và cô gọi đó là ‘Ngôi nhà Lắng nghe’. Cô thực sự yêu thương những người đang sống tại đó, trong đó có cả những người say sưa nghiện ngập, những người ngang ngược, có khi còn chửi bới, đay nghiến cả cô ta nữa. Làm thế nào cô ta lại có tấm lòng như thế. Cô gái muốn khơi dậy niềm hy vọng nơi những con người bất hạnh và tuyệt vọng, giúp họ suy nghĩ là họ vẫn có quyền được yêu thương giống như những con người khác. Đó thực sự là một quà tặng lớn lao, và đây cũng là một phép lạ của tình yêu đang xảy ra trong cuộc sống đời thường của chúng ta hôm nay.
Thứ đến, chúng ta cũng có thể suy niệm về vai trò làm Mẹ của Đức Maria đối với chính chúng ta. Qua người môn đệ được Chúa yêu, chúng ta đón nhận Đức Maria về nhà mình: “Đây là mẹ của anh” (Ga 19,27). Chúng ta sẽ tôn nhận Đức
Maria là Hiền Mẫu, bao lâu chúng ta còn đón nhận Đức Giêsu như là Chúa và là người anh cả của chúng ta. Chúng ta đón nhận Mẹ, khi chúng ta nhận ra rằng tình yêu hiền mẫu của Ngài đang lan tỏa trong cuộc đời chúng ta để Vương quốc Đức Giêsu, người con yêu dấu của Mẹ, được ngập tràn nơi cuộc sống mọi người.
Sẽ còn nhiều điều chúng ta cần phải lưu giữ và suy đi nghĩ lại trong lòng.
44.Thân Mẫu Của Vua Hòa Bình--Yvon Daigneault
Hình ảnh đẹp nhất về hòa bình là hình ảnh một phụ nữ âu yếm bồng con. Và hình ảnh hung bạo nhất của chiến tranh là hình ảnh một phụ nữ khóc than bên xác của con mình, nạn nhân của bất cứ loại vũ khí nào.
Khi Thiên Chúa muốn mặc khải cho chúng ta rằng Ngài đến mặc khải công trình cứu độ mà Ngài thực hiện để “làm cho chúng ta trở thành con cái Ngài”, thì Ngài đã hiến dâng chính mình như một trẻ thơ được bồng ẵm trong tay âu yếm của một phụ nữ, Đức Maria, thân mẫu Ngài.
Trong lễ này, ta hãy chiêm ngưỡng Đức Maria thân mẫu Chúa Giêsu, vua hòa bình, như Lời Chúa trình bày cho chúng ta.
Tình mẫu tử của Đức Maria.
Tin Mừng gợi lên một cách kín đáo nhưng đúng đắn thực tại tình mẫu tử của Đức Maria. Chỉ hai nét đã đủ, trong ấy mọi người phụ nữ làm mẹ sẽ nhận ra được mình: lo lắng cho hài nhi và liên lỉ chú ý đến những biến cố trong cuộc đời của con.
Việc Chúa Giêsu sinh ra đã không làm cho Đức Maria ngạc nhiên. Người đã giúp đỡ bà chị họ Êlisabet và có lẽ nhiều người phụ nữ khác trong làng nữa. Người biết phải săn sóc, âu yếm, an ủi trẻ sơ sinh như thế nào. Và, như tất cả những người mẹ chất chứa trong ký ức của lòng mình vô số kỷ niệm từ những đứa con bà đã cưu mang và đã sinh hạ, Đức Maria nhớ tất cả những gì đã xảy ra liên quan đến Chúa Giêsu. Người ta nhìn thấy Mẹ đầy hạnh phúc sâu xa, đầy vinh dự mà tất cả mọi người mẹ đều có.
Nhưng tình mẫu tử của Đức Maria khác biệt với tình mẫu tử của những người mẹ khác. Tin Mừng cho ta hiểu điều này qua một chi tiết khiến cho nhiều Kitô hữu đầu tiên và cả chúng ta nữa phải ngạc nhiên: Đức Maria và thánh Giuse đã không tự mình đặt tên cho con trẻ. Trẻ này, mặc dù sinh bởi Đức Maria nhưng là Con Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa khi đặt tên cho con trẻ sinh bởi Đức Maria, đã khẳng định mình là Cha. Đức Maria và thánh Giuse chấp nhận mầu nhiệm lớn lao này liên quan đến Con của mình. Hai đấng tôn trọng Ngài và muốn cho người ta tôn trọng Ngài khi đón tiếp các mục đồng tò mò và phấn khởi tìm đến trước một trẻ sơ sinh trong dòng họ vua Đavít.
Thời hòa bình.
Thánh Phaolô, người đầu tiên trong Thánh Kinh Tân Ước nói đến Đức Maria, đã khẳng định việc người làm mẹ, việc này chứng tỏ thực tại của ơn cứu độ.
Việc Đức Maria làm mẹ khai mạc thời đại mới, thời đại ân sủng. Người phụ nữ đầu tiên sinh con đã khai mạc lịch sử nhân loại. Vào những lúc khác, trong lịch sử Cựu Ước, mỗi giai đoạn mới lại được mở ra bằng một việc sinh con. Mẹ của Môsê sinh ra ông, bà Rút sinh ra tổ tiên của Đavít và của Chúa Giêsu. Bà Anna sinh Samuel, bà Êlisabet sinh Gioan Tẩy Giả. Việc Đức Maria sinh con, công trình của ân sủng chứ không phải của xác thịt, là biến cố mở đầu ơn cứu độ mà Thiên Chúa muốn ban cho loài người.
Việc làm mẹ này cũng mang một tính cách đặc biệt. Nó được loan báo bởi tiếng kêu: Hòa bình cho nhân loại! Nó bày tỏ công cuộc hòa bình, bởi vì hết thảy mọi người được mời gọi đến hòa giải với Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu sinh bởi Đức Maria. Cho đến tận thế tính cách làm Mẹ của Đức Maria vẫn là hình ảnh mà Thiên Chúa để lại hầu giúp chúng ta thực hiện công việc hòa bình giữa chúng ta.
Kết luận.
Khi kết thúc việc cử hành thánh lễ này chúng ta sẽ thưa với Chúa về niềm hãnh diện của chúng ta khi nghĩ đến Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta cũng hiểu rằng chúng ta phải đi đến tận cùng niềm hãnh diện đó; là con cái, chúng ta thưa Lạy Cha với Thiên Chúa, vậy trong năm mới này chúng ta có thể sống bình an với nhau không?
45.Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa--Lm. Munachi Ezeogu
Trong Anh ngữ, tháng một (January) là đặt theo tên của một vị thần La-Mã, vị thần này có hai mặt, một mặt nhìn về quá khứ và một mặt hướng đến tương lai. Thật vậy, đây là thời điểm để cho chúng ta nhìn lại một năm đã qua và hướng về một năm mới trước mặt. Một năm đã qua đi, tôi đã làm được những gì, và gặt hái được những gì? Tôi đã tận dụng thời gian ấy để thăng tiến trong những ước nguyện và mục tiêu trong cuộc sống của mình như thế nào? Tôi có dùng những thời gian qua để nâng cao mục đích của sự hiện hữu của tôi không? Tôi có thể làm tốt hơn năm ngoái theo cách sử dụng thời giờ cho những đòi hỏi của việc làm, của gia đình, của bạn bè, của xã hội, và sự đòi hỏi của đời sống tâm linh của riêng tôi? Tôi đã gặt hái được gì và điều gì đã không thành tựu trong năm qua? Làm thế nào để tôi củng cố được những thành tựu trong năm qua đồng thời đảo ngược những thất bại và mất mát trong năm mới? Qua sự kiểm điểm chính mình bằng những câu hỏi nêu trên, chúng ta nhận ra rằng sự kiểm điểm ấy sẽ đưa chúng ta tìm được mục đích và những quyết tâm cải hóa trong năm mới.
Có người nói với chúng ta rằng: mình chẳng cần phải có quyết tâm cải đổi trong năm mới. Đừng tin họ! Chúng ta phải định mục tiêu cho chính chúng ta và đề ra những cải đổi cần thiết tóm gọn trong những điều chúng ta đã kiểm điểm. Chúng ta cần phải kiểm điểm đời sống của chúng ta hằng năm, vì như triết gia Socrates nói, cuộc đời không có kiểm điểm là cuộc đời không đáng sống.
Báo chí ngày nay đầy rẫy những quyết tâm cải cách cho cá nhân hoặc tập thể. Hầu hết những điều ấy thường chỉ là những mong ước hơn là quyết tâm. Sự khác biệt giữa mong ước và quyết tâm như thế nào? Mong ước là nhận ra được mục đích người ta muốn đạt được, quyết tâm cải cách là định rõ từng bước người ta phải tiến hành để đạt được mục đích. Sự mong ước: đây là điểm tôi muốn đạt, còn quyết tâm thì nói: đây là lề lối tôi sẽ áp dụng, đây là những điều tôi sẽ làm để đạt được thành qủa. Người hay mong ước thì nói rằng: “Tôi muốn thi đậu trong năm nay” và người có quyết tâm thì nói: “Tôi sẽ dành ra một tiếng đồng hồ mỗi ngày để học cho đậu cuộc thi này”. Người hay mong ước thì nói: “Năm nay, tôi sẽ có thêm sự an bình và thương yêu trong gia đình tôi” còn người có quyết tâm thì nói: “Tôi sẽ dành nhiều thì giờ hơn nữa cho gia đình, nơi bàn ăn hơn là vội vã để xem truyền hình, để chúng tôi có dịp tìm hiểu và thông cảm nhau hơn”. Người hay mong ước thì nói: “Năm nay, tôi sẽ sống một đời sống kết hợp với Chúa” còn người có quyết tâm thì nói: “Hằng ngày, tôi sẽ dành ra thời gian này để cầu nguyện và nghe lời Chúa”. Sự khác biệt giữa mong ước và quyết tâm là: Chúng ta có chuẩn bị để làm những gì có thể làm được để tạo ước mơ thành sự thật chưa? Chúng ta có chuẩn bị để trả giá cho những điều mình sắp làm chưa?
Đoạn phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy Đức Maria là gương mẫu của cuộc sống mới trong Chúa Kitô, cuộc sống mà tất cả chúng ta mong ước cho mình trong năm mới. Chúng ta thấy rằng Đức Maria đã được chuẩn bị để làm những công việc cho mục đích tạo cuộc sống mới này. Đức Maria đã làm gì? Chúng ta đọc thấy rằng khi các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, họ nói rằng các thiên thần đã báo tin cho họ biết. “Nhưng Đức Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Luca 2:19). Lại nữa, sau khi tìm được thiếu niên Giêsu trong đền thờ, chúng ta cũng được nghe rằng “Riêng Đức Mẹ thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Luca 2:51). Đức Maria là người đàn bà đã tôn kính lời Chúa, đã trân qúy lời Chúa và đã dành thời giờ để suy niệm Lời của Chúa. Thật ra, sự thánh thiện của Đức Maria đã thông phần với hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta cũng không quên rằng: Đức Maria đã cần phải dành nhiều nỗ lực để được đồng cộng tác trong ân sủng của Thiên Chúa. Người đã suy niệm Lời Chúa để nhận biết những điều Chúa đã nói với mình trong từng giai đoạn của đời mình, cuộc đời được làm tôi tớ của Chúa.
Hai thí dụ kể trên về Đức Maria đã suy niệm, cân nhắc lời Chúa, như sau khi các mục đồng đến thờ lạy Chúa Hài Đồng và sau khi tìm được Chúa Giêsu trong đền thờ, cho thấy rằng Đức Maria đã tìm ra lời Chúa trong sự mặc khải thiêng liêng (lời của thiên thần báo cho mục đồng) và trong kinh nghiệm của chính Người (khi gặp lại Con trong đền thờ). Tương tự như vậy, ngày nay Chúa nói với chúng ta qua sự mặc khải thiêng liêng (kinh thánh, các bài giảng, những điều giảng dậy của Hội Thánh) ngay cả qua những kinh nghiệm cá nhân, nếu chúng ta dành thì giờ để suy gẫm như Đức Maria đã làm.
Cho dù chúng ta đang ở trong tình huống nào, một sự khốn khó, một điều bất như ý, trước một quyết định khó khăn – Chúa có phương thức giải quyết, Chúa có giải đáp đúng đắn cho chúng ta. Hãy kể những điều ấy cho Chúa nghe trong lời kinh nguyện, nhưng cũng lắng nghe những gì Chúa nói với chúng ta. Cầu nguyện là đối thoại với Chúa, nhưng đôi khi chúng ta chỉ muốn nhấc điện thoại đọc lên một chuỗi những khó khăn của mình cho Chúa nghe và cúp điện thoại để không nghe những gì Chúa muốn nói với chúng ta. Hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm lắng nghe tiếng Chúa, trân qúy và suy niệm trong lòng. Từ đấy chúng ta sẽ có thể nhận biết những cải hóa cần thiết cho cuộc sống mới kết hợp với Chuá.
46.Mẹ tất cả mọi người--Lm. Mark Link
Chủ đề: "Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà còn là Mẹ của hết thảy chúng ta."
Cách đây nhiều năm, Fulton Oursler là biên tập viên của một tạp chí nội địa được các độc giả hoan nghênh nhiệt liệt, câu chuyện đàng sau sự thành công của anh rất hấp dẫn. Nhưng câu chuyện anh tìm kiếm Thiên Chúa còn hấp dẫn hơn nữa.
Với tư cách một phóng viên cho tờ báo Baltimore American, đã dự những buổi họp của giáo phái Methodist, các hội nghị của gíao phái Baptist, và những buổi sinh hoạt ngoài trời. Anh cùng dự cả những buổi họp để chờ các vong hồn xuất hiện trong phòng tối. Anh nói: “vào tuổi 30, ngoài những chuyện ấy ra, tôi còn tự nhận mình là người theo thuyết bất khả tri (agnostic). Nhưng thay vì tìm được bình an, sự vô tín ngưỡng khiến anh cảm thấy tâm hồn mình hoàn toàn trống trải và bất hạnh. Sự trống trải bất hạnh ấy về sau lại biến thành một nỗi u uất gặm nhấm tâm hồn anh. Thế rồi một ngày kia, cơn khủng hoảng trầm trọng đó đã làm cho gia đình anh phải lo sợ. Anh cần được cứu giúp. Nhưng sự cứu giúp mà anh cần là một thứ cứu giúp mà bạn bè anh không thể làm được cho anh. Anh không biết cầu cứu ai, kể cả Thượng Đế, vì anh có tin vào Ngài đâu.
Tại New York, vào một ngày lộng gío, anh rảo bước trên đại lộ Thứ Năm. Tới nhà thờ chính toà, anh dừng lại, ngắm nhìn ngôi giáo đường và suy nghĩ. Anh đang tuyệt vọng. Mấy phút sau, anh định thần lại bước lên các bậc thang, vào bên trong nhà thờ và ngồi xuống, sau một vài phút tập trung tư tưởng, anh cúi đầu xuống và xin Thiên Chúa ban đức tin cho anh. Anh ngồi đó một lát rồi đứng dậy. Anh tới gian nhà nguyện của Đức Mẹ ở trong giáo đường. Anh bước vào trong, quì gối xuống, và cầu nguyện như sau:
“Mười phút nữa hay sớm hơn, tôi có thể thay đổi ý định, tôi có thể chế diễu tất cả những việc này và lại trở lại với sự sai lầm của tôi. Vì thế xin đừng chú ý đến tôi nữa. Vì trong giây phút ngắn ngủi này, tôi cảm thấy tâm hồn bình an. Đây là cố gắng lớn nhất của tôi, xin Ngài hãy khấng nhận và quên đi những gì khác. Và nếu Ngài thực sự có mặt tại đây xin hãy cứu giúp tôi”.
Vào giây phút đó, anh nói, bắt đầu có một sự biến đổi kỳ lạ trong cuộc đời anh. Cuối cùng, sự biến đổi đó đã khiến anh trở nên một Kitô hữu có một niềm tin tưởng sâu xa.
***
Việc Fulton Oursler tìm kiếm Thiên Chúa đã kết thúc tại một giáo đường. Đời sống tâm linh và cuộc sống mới của anh bắt đầu tại một nhà nguyện dâng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Thật là một nơi thích hợp cho sự việc đó. Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa. Ngài còn là Mẹ của toàn nhân loại về mặt tâm linh. Vì khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu, Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới. Thánh Phaolô diễn tả mầu nhiệm đó trong bài đọc II như sau:
“Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống, sinh làm con một người nữ, và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới chế độ lề luật đó, hầu chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa… và vì bạn là con của Thiên Chúa, nên Ngài sẽ cho bạn tất cả những gì Ngài dành cho con cái Ngài”.
Bàn luận về mầu nhiệm cao cả này, Hiến Chế về Giáo hội trong thế giới ngày nay của công đồng Vatican II nói:
“Qua mầu nhiệm nhập thể, một cách nào đó, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người, Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa, và yêu thương bằng trái tim loài người, sinh từ lòng Đức Maria Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta hoàn toàn giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi”.
Thật vậy, khi Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu Ngài cũng sinh ra một nhân loại mới, vì thế Đức Mẹ không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà ngài còn là Mẹ tất cả mọi người chúng ta nữa.
Vì Đức Mẹ là Mẹ chúng ta, nên ngài là một trạng sư bào chữa cho chúng ta rất hữu hiệu trên trời. Không biết Đức Maria là mẹ mình, chính là không biết đến món quà mà Thiên Chúa ban tặng chúng ta, tức tình mẫu tử của Đức Maria dành cho chúng ta.
Điều đó khiến chúng ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với hy vọng mới. Năm mới với cuộc đời mới. Năm mới là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại.
Năm ngoái là quá khứ, đã qua rồi. Năm nay vừa mới sinh ra và ở trước mặt ta. Đó là món quà Thiên Chúa tặng chúng ta. Những gì chúng ta làm được với món quà ấy, chính là món quà mà chúng ta sẽ dâng lên Thiên Chúa. Thật là thích hợp khi Giáo hội chọn ngày đầu năm để mừng kính lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Vì điều đó nhắc nhở chúng ta rằng tình mẫu tử của Đức Maria mà bạn và tôi được Thiên Chúa ban cho một đời sống hoàn toàn mới, một niềm hy vọng mới, thứ hy vọng mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban tặng. Nếu chúng ta đang tìm một quyết định cho năm mới này thì không có một quyết định nào tốt đẹp hơn là tạo cho Đức Maria một vai trò quan trọng hơn trong đời sống chúng ta. Và một trong những cách để thực hiện quyết định đó là thực hiện bằng cầu nguyện.
Chúng ta có thể xin Đức Maria bầu cử cho chúng ta như Ngài đã từng bầu cử cho biết bao những đứa con khác của Ngài trong lịch sử. Một cách đơn giản để thực hiện điều đó là cầu nguyện hằng ngày bằng bài kinh đặc biệt kính Đức Maria, tức kinh Kính Mừng. Một cách khác để làm điều đó là bắt chước cách cầu nguyện của chính Đức Maria. Trước hết, Ngài cầu nguyện bằng cách suy niệm về hoạt động của Thiên Chúa, không phải chỉ ở trong lịch sử loài người, mà ở ngay trong cuộc sống của Ngài nữa. Thánh Luca đã cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này vào cuối bài tường thuật của Ngài về việc Đức Giêsu sinh ra: “Maria ghi nhớ tất cả những chuyện ấy và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19). Một cách cầu nguyện khác nữa của Đức Maria là nói với Thiên Chúa cách hồn nhiên những gì xuất phát từ trái tim Ngài. Thánh Luca cho chúng ta một cái nhìn về cách cầu nguyện này khi mô tả Đức Maria cầu nguyện trong cuộc viếng thăm bà Isave. Chúng ta hãy dùng lời kinh ấy để kết thúc bài giảng hôm nay. Xin mời anh chị em im lặng cùng cầu nguyện với tôi:
“Linh hồn tôi tán dương Thiên Chúa,
Thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi,
Ngài đã đoái thương đến tôi, là tôi tớ thấp hèn của Ngài
“Kể từ nay muôn đời sẽ khen tôi có phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại.
“Ngài đã giơ cánh tay thần lực nâng những người hèn mọn lên …
“Ngài đã giữ lời đã phán hứa với các tổ phụ…
“Ngài đã nhớ tỏ lòng từ bi với Abrham và dòng dõi của ông tới muôn đời” (Lc 1: 46-55)
47.Là mẹ và là khuôn mẫu--Mark Link
Chủ đề: Đức Maria là Mẹ chúng ta, và cũng là khuôn mẫu dạy chúng ta phải tin tưởng vào Chúa như thế nào.
Có một linh mục được mời tới giảng phòng cho một khoá tĩnh tâm. Các cô gái nọ trao cho ngài một lá thư, ngài liền bỏ vào túi nhưng rồi quên béng đi. Sau khóa tĩnh tâm, ngài tìm thấy lá thư ấy. Ngài mở ra và đọc thấy những dòng sau đây; “Con bị bệnh tâm thần và được điều trị suốt 8 tháng nay. Sự kiện này con chỉ cho vài người thân biết thôi. Số là khi còn bé, con bị lâm vào một tâm trạng sợ hãi khủng khiếp vì bị người khác căm ghét, hành hạ, bạc đãi, nỗ lực lớn lao nhất của con hiện nay là thắng vượt và chuyển biến nỗi sợ hãi ấy. Con không cần nhắc đến từng chi tiết nhưng tựu trung nỗi sợ ấy là do nơi người mẹ của con… con có ác cảm với mọi khái niệm về người mẹ đến nỗi con quyết tâm khước từ tình yêu của Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Sau khi nghe bài giảng của cha trong tuần tĩnh tâm, con đi bộ ra ngoài, lòng cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Con cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng phó thác được… con muốn khóc to lên, nhưng suốt mấy tháng trời vẫn không khóc được… chắc cha cũng biết căn nhà nhỏ bé, tròn tròn gần cạnh nghĩa trang chứ? Con đã đến đó vì tò mò và con mở cửa bước vào. Khi nhìn vào trong, lòng con cảm thấy sợ hãi. Ở đây có tượng Đức Mẹ Maria. Cảm giác đầu tiên của con là muốn giận dữ bỏ đi ngay, nhưng rồi có cái gì đó đã từ từ lôi kéo con đến quì dưới chân Ngài. Và con đã quì gối xuống vừa gục vào vạt áo dài của Ngài vừa khóc, sau đó, con cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng trong trắng, và mong ước, mình được là một đứa trẻ, một người con đầy tin tưởng và phó thác… hơn thế nữa, con còn cảm nhận được tình yêu của một người mẹ dành cho con khiến con nẩy sinh một ước muốn thực sự là tha thứ cho mẹ ruột của mình”.
Câu chuyện cảm động trên gợi lên những hình ảnh tuyệt hảo cho chúng ta trong ngày lễ Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta mừng hôm nay. Lễ này nêu bật hai điểm về Đức Maria. Thứ nhất: Đức Maria là Mẹ chúng ta. Ngài không chỉ là mẹ Chúa Giêsu, Đấng sống cách đây hơn 2000 năm. Ngài còn là Mẹ chúng ta nữa. Từ trời cao, Ngài vẫn mong muốn giúp đỡ chúng ta như một người Mẹ. Thứ đến, Đức Maria cũng là khuôn mẫu của chúng ta. Chúng ta phải tôn sùng và bắt chước ngài. Ở đây, chúng ta chỉ cần nêu ra một nét đặc trưng nơi Đức Mẹ, đó là Mẹ tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa. Khi thiên sứ báo cho mẹ biết mẹ sẽ sinh con trai bởi phép Chúa Thánh Thần, thì Mẹ hiểu ngay rằng việc này có thể sẽ khiến Thánh Giuse cắt đứt quan hệ bạn đính hôn với Mẹ - và điều này chỉ chút xíu nữa là đã thực sự xảy ra - Thế nhưng Mẹ vẫn vững tin vào chúa. Khi nghe mục đồng kể lại lời các Thiên thần, Mẹ cũng không hiểu, nhưng lần nữa, Ngài vẫn tín thác vào Chúa, về sau, khi Mẹ và Thánh Giuse đem hài nhi Giêsu vào đền thờ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ: “Sầu khổ sẽ như một mũi gươm nhọn đâm thâu qua trái tim bà” (Lc 3: 35). Lần này, Mẹ Maria cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa lời trên nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Rồi khi lên mười hai tuổi, Đức Giêsu ở lại trong đền thờ. Lúc gặp lại Đức Giêsu, Mẹ Maria hỏi Ngài lý do tại sao, Ngài đáp lại: “Mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con sao? một lần nữa, Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ cẫn cứ tín thác vào Chúa.
Ngày nay Mẹ Maria có thể giúp chúng ta biết tín thác vào Chúa. Xin hãy nhớ lại câu chuyện cô gái trong khoá tĩnh tâm nọ. Cô ta đã phải trải qua một Kinh nghiệm thời thơ ấu đầy kinh hãi khiến cô mất hẳn niềm tin. Cô muốn tin tưởng trở lại nhưng không thể được. Thế rồi, một ngày nọ, hoàn toàn do tình cờ, cô đã quì xuống dưới chân Mẹ Maria và quyết định cầu nguyện với Ngài. Chúng ta hãy nhắc lại chính những lời của cô ta. “Con đã cầu xin Chúa ban ân sủng giúp con phá tan đi bức tường ngăn cách khiến con không thể tin tưởng và phó thác được”. Đức Maria đã nhận lời cô cầu xin và cô đã tìm được niềm tin.
Và Đức Maria cũng có thể giúp chúng ta tin tưởng phó thác giống như Ngài từng giúp cô gái nói trên. Chẳng hạn, chúng ta là bậc cha mẹ biết quan tâm đến con cái mình. Nhưng xảy ra là chúng chẳng còn chịu đi dâng lễ, hoặc chúng theo gương những bạn bè xấu cho dầu chúng ta đã cầu nguyện, đã làm gương sáng, đã giải thích cho chúng hiểu. Thế là chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Đức Maria sẽ gíup chúng ta làm điều này. Hoặc có thể chúng ta vẫn không chắc chắn về dự tính của mình và cũng có Chúa muốn chúng ta làm gì. Chúng ta đã bàn bạc với cha mẹ và những vị cố vấn, đã cầu xin ơn Chúa hướng dẫn, thế mà chúng ta vẫn còn tối tăm mờ mịt. Vậy thì chúng ta chỉ còn biết tiếp tục cầu nguyện và phó thác vào Chúa. Đức Maria sẽ giúp chúng ta trong việc này. Hoặc chúng ta là một người đang suy tư về đức tin của mình. Chúng ta lo âu vì biết rằng đức tin mình vẫn còn yếu kém, chúng ta đã cầu xin Chúa giúp nhưng xem ra Ngài vẫn chưa nhậm lời, để rồi chúng ta bị rơi vào thắc mắc chẳng hiểu Ngài có hay không nữa. Thế là chúng ta chả còn làm gì được ngoài việc tiếp tục cầu nguyện và phó thác cho Chúa. Mẹ Maria sẽ gíup chúng ta thực hiện điều này.
Lễ hôm nay nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Maria là khuôn mẫu, đồng thời là mẹ của chúng ta, trong lúc nguy khốn, chúng ta cần hướng về Ngài để van xin Ngài trợ gíup. Ngài hằng ao ước cứu giúp chúng ta miễn là chúng ta biết kêu cầu Ngài. Nếu muốn tìm một giải pháp cho năm mới thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy quyết định dành cho Đức Mẹ Maria một vai trò to tát hơn trong cuộc đời chúng ta.
Chúng ta hãy kết thúc với kinh nguyện hằng ngày mà thánh Bernard vẫn thường dâng cho Đức Maria.
“Lạy Trinh Nữ Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu gíup mà Mẹ chẳng nhậm lời…. Nhân vì niềm tin cậy ấy, chúng con hướng về Mẹ, ôi Mẹ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh, chúng là những tội nhân khốn khổ xin đến trình diện trước Mẹ, Lạy Mẹ Ngôi Lời nhập thể xin đừng ngoảnh mặt đi mà hãy đoái thương lắng nghe và khấn nhậm lời chúng con. Amen.
48.Nữ vương ban sự bình an--Vinhsơn Ngọc Biển SSP
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa.
Nếu các tước hiệu khác nơi Mẹ Maria, Giáo Hội muốn biểu dương công đức ưu việt nơi Mẹ, thì với danh xưng Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội muốn đề cao uy quyền của Mẹ Maria trong vai trò là thân mẫu Thiên Chúa. Bởi vì ngay khi đáp lại lời Thiên Chúa qua tiếng “xin vâng”, Mẹ đã đón nhận, cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế, Ngài là Hoàng Tử Hòa Bình, đã đến chuộc tội nhân loại, làm cho Trời – đất kết chữ tình; xe chữ đồng; là chiếc cầu nối liền giữa trời và đất; đem lại sự bình an và giao hòa giữa con người với Thiên Chúa.
Chính vì uy quyền độc nhất vô nhị nơi Mẹ Maria bắt nguồn từ Thiên Chúa, nên Giáo Hội cũng chọn ngày này để cầu nguyện cho hòa bình trên khắp thế giới khi mời gọi con cái mình hướng về Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình, để cầu nguyện cho nhân loại được an bình thư thái.
1. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Danh xưng Mẹ Thiên Chúa được dành cho Đức Maria đã khởi đi từ việc Giáo chủ Constantinople là giám mục Nettôriô từ chối không công nhận thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Ông cho rằng: “Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Đức Giêsu về mặt nhân tính, còn thiên tính thì không thể. Nơi Đức Giêsu nhân tính và thiên tính tách biệt, không hòa chung thành một”. Từ đó ông rút ra kết luận: “Mẹ Maria không thể là Mẹ Thiên Chúa”. Từ những lập luận trên mà Công Đồng Chung Êphêsô (431) đã đuợc triệu tập để làm sáng tỏ cũng như khẳng định và tuyên bố tín điều “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Công đồng tuyên tín: “Giây phút long trọng nhất trong đời Đức Mẹ là giây phút Ngôi Hai xuống thai trong lòng Mẹ. Từ giây phút ấy, Đức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa”.
Vậy, dựa vào đâu mà Công Đồng có những phán quyết chắc chắn như vậy:
Thưa, Công Đồng dựa vào Thánh Kinh:
Trước tiên, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa nơi Đức Maria đã được hé mở từ thời Cựu Ước khi tiên tri Isaia tiên báo: “Một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Lời tiên báo về việc hạ sinh Đấng Cứu Thế đã được sứ thần Gabriel chính thức và trực tiếp báo tin cho Mẹ Maria: “Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu…. Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (x. Lc 1,31-35).
Rõ nét hơn cả, chính là lời chào mừng của bà Êlisabét khi được Đức Maria ghé thăm. Lúc ấy, bà được đầy Thánh Thần, nên đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 43).
Và, khi thời đã điểm, những gì được tiên báo thì nay đã được tỏ hiện trong đêm đông giá lạnh nơi cánh đồng Belem khi Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người để ở cùng chúng ta (x. Lc 2, 1-20). Khi sinh ra Ngôi Lời Thiên Chúa, Đức Maria đã thực sự trở thành Mẹ Thiên Chúa trong vai trò là thân mẫu Đấng Emmanuel.
Với biến cố trọng đại này, Công Đồng Vatican II (1962-1965) tái khẳng định khi viết: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa…. Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô” (Lumen Gentium, số 61).
Chính vì những xác quyết trên mà Giáo Hội không ngớt kêu xin Mẹ Maria trong vai trò là Mẹ Thiên Chúa: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”.
2. Hòa bình chỉ có khi mỗi người cùng ý thức xây dựng
Như vậy, khi sinh hạ Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Hoàng Tử Hòa Bình, Chúa của sự bình an, Mẹ Maria cũng trở thành Nữ Vương Hòa Bình cho nhân loại.
Khi chọn ngày mồng 01 tháng 01 hằng năm để cử hành lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và cầu nguyện cho hòa bình thế giới, Giáo Hội muốn đặt để nhân loại dưới sự che chở đầy uy thế của Mẹ trước tòa Thiên Chúa.
Truyền thống này được bắt đầu từ ý định và mong muốn của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, nên chính ngài đã dời ngày lễ này vào 01-01 hằng năm để xin Đức Maria bầu cử cho thế giới được an bình, hạnh phúc.
Nhân dịp này, mỗi người chúng ta cũng hãy hướng nhìn về đất nước, dân tộc Việt Nam thân yêu, để thấy được sự cần thiết của hai chữ hòa bình!
Có lẽ ngày nay trên thế giới, nhiều nước rất ngưỡng mộ Việt Nam, vì nơi đất nước này, tiếng bom đạn đã chấm dứt hàng chục năm, dân chúng xem ra có vẻ được an bình thư thái!!!
Chúng ta không phủ nhận điều đó, nhưng nếu hiểu hòa bình theo nghĩa không có tiếng bom đạn thì chưa đủ, bởi vì theo quan điểm học thuyết của Kitô giáo, thì: hòa bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Nó cũng không chỉ dừng lại ở chỗ có cơm ăn áo mặc, điện, đường, trường, trạm, được ổn định hay các trung tâm du lịch, vui chơi giải trí được mọc lên…! Không! Hòa bình đích thực nó còn phải tiến xa và sâu hơn nhiều.
Về mặt cá thể:
Trước hết, đó là: mỗi cá thể cần có một mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa là Chủ Tể và nguồn gốc của hòa bình.
Thứ đến, phải đạt được một trạng thái an bình thư thái ngay trong tâm con người. Sống hài hòa trong mối tương giao thân thiện với mọi người.
Cuối cùng, đó là mọi thành phần phải có trách nhiệm, liên đới với nhau trong tình huynh đệ.
Về mặt quốc gia:
Xét trên góc độ quốc gia: một đất nước được coi là hòa bình khi và chỉ khi con người được đảm bảo và quyền tự do tôn giáo được đề cao. Nhân phẩm được coi trọng và bảo vệ. Những lợi ích công cộng được ưu tiên.
Trong lãnh vực giáo dục: hệ thống và các nhà giáo dục cần đào tạo con người phát triển toàn diện cả về chất lượng tri thức lẫn đạo đức, biết kính trên nhường dưới, biết tôn sư trọng đạo, biết lưu giữ và bảo tồn những truyền thống, văn hóa tốt đẹp, biết phát huy những cái mới phù hợp với đạo lý dân tộc….
Về mặt gia đình và tôn giáo:
Trong lãnh vực tôn giáo: cần trú trọng đến “nhân chi sơ tính bổn thiện” nơi con người và phát huy tinh thần bác ái, yêu thương, liên đới dựa trên tình yêu giữa Thiên Chúa và con người.
Trong đời sống gia đình: mỗi thành viên cần ý thức vai trò và bổn phận của mình. Người làm cha cho đáng làm cha; người làm mẹ cho xứng thiên chức làm mẹ; người làm con cần sống hiểu thảo vâng lời….
Như vậy, muốn có hòa bình đúng nghĩa, chúng ta không thể ngồi ù lỳ và mong đợi, mà mọi thành phần phải sống tinh thần trách nhiệm. Trách nhiệm mà không sợ hãi. Trách nhiệm mà vẫn đảm bảo được sự tôn trọng và đối thoại chân thành. Nói cách khác, muốn có hòa bình thì phải chiến đấu. Chiến đấu cho lẽ phải để bảo vệ công bằng, xây dựng sự thật nhằm tiêu diệt cái xấu, nhất là những điều mà người ta vẫn thường ngụy trang khi nhân danh cái xấu để biện minh cho mục đích tốt.
Được như thế, chúng ta mới có một trạng thái tâm hồn an vui thanh thản với bản thân, hiền hòa và nhân ái với mọi người.
Mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta hãy biết noi gương Mẹ, để suy đi nghĩ lại trong lòng những ân huệ của Thiên Chúa và những biến cố trong cuộc đời cũng như xã hội, từ đó, biết xắn tay áo lên và hành động vì một nền hòa bình đích thực.
Mong sao, sau khi dâng thánh lễ, mỗi người ra về với tâm tình đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới phương cách, đổi mới hành động. Đổi mới trong sự vâng phục Thiên Chúa. Đổi mới trong sự hài hòa thiên nhiên. Đổi mới trong sự hy sinh, quên mình. Có thế, lòng chúng ta mới thực sự vui mừng phấn khởi như các mục đồng xưa, để ra đi loan báo tin mừng, tin vui, tin bình an của Hoàng Tử Hòa Bình cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria, trong ngày đầu năm mới này, chúng con xin dâng năm sống mới của từng người cho Mẹ, xin Mẹ che chở, cầu thay nguyện giúp, để cho chúng con được an bình thư thái.
Đặc biệt, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn suy gẫm Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống, để Lời của Chúa là cội nguồn bình an được sinh hoa kết qủa dồi dào trong lòng mỗi người chúng con. Amen.
49.Ôi diệu kỳ thay Đấng là Mẹ Thiên Chúa!--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa đã trở thành quen thuộc và cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo. Tuy nhiên, qua tước hiệu này, nhiều người cho rằng đây là một điều ngược ngạo, phạm thượng, lộng ngôn, bởi vì dựa trên suy tư của con người, một thụ tạo thì không thể trở thành mẹ của Đấng tạo thành được! Hơn nữa, xét theo góc độ tự nhiên, Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu về mặt nhân tính, còn Thiên Tính thì Đức Giêsu là Ngôi Lời, có từ đời đời. Mặt khác, Mẹ cũng không sinh ra Thiên Chúa Ba Ngôi!
Vậy khi người Công Giáo tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, liệu có phải là điều trái khuấy và thái quá không? Đâu là nguyên lý khi Giáo Hội tuyên tín và mời gọi con cái của mình tôn kính Mẹ Maria như vậy?
1) Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Trước tiên, chúng ta cần khởi đi từ góc độ tự nhiên: đã là con người, ai cũng phải được sinh ra bởi người phụ nữ. Vì thế, không ai hiện hữu trên trần gian này mà lại không có một người mẹ. Đây là quy luật mà Thiên Chúa đã an bài quan phòng. Dù bạn là vua chúa hay bậc thứ dân; dù là giàu hay nghèo..., tắt một lời, bạn có là ai đi chăng nữa thì vẫn không thể khác đi được! Ai là người sinh thành ra ta, người đó là mẹ ta cách toàn thể.
Theo cách hiểu trên, chúng ta sẽ đi thêm một bước nữa để thấy việc Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa như thế nào?
Khi Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của mình cho nhân loại, thì Người cũng muốn để con của mình được sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì thế, Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Maria và trang bị cho Mẹ ân sủng kỳ diệu, để Mẹ trở nên Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, cũng như nhiều ân huệ khác nữa....
Tất cả đều chuẩn bị cho Mẹ xứng đáng đảm nhận hồng ân cao quý là trở thành người cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế làm người. Đặc ân kỳ diệu này đã được thánh Bonaventura ca tụng: “Chức làm Mẹ Thiên Chúa là to lớn phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho một loài thụ tạo”; và được bà Isave thốt lên: “Bởi đâu tôi được ơn trọng này là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi” (Lc 1,43).
Tuy Mẹ Maria chỉ sinh ra Đức Giêsu về mặt tự nhiên, thể lý, tức là nhân tính, Mẹ không phải là người tác sinh Thiên Tính nơi Đức Giêsu, nhưng Mẹ lại được gọi là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì nơi Ngôi Vị Đức Giêsu, về mặt Thiên Tính, từ đời đời Ngài đã là Ngôi Lời Thiên Chúa, nay nhờ sự kết hợp của Mẹ Maria, bản tính tự nhiên kết hợp với bản tính siêu nhiên, trở thành Ngôi Vị cực thánh là Thiên Chúa Ngôi Hai làm người.
Vì thế, dù Mẹ là Mẹ theo bản tính nhân loại, nhưng cũng là Mẹ Thiên Chúa, bởi lẽ Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Là người thật, Ngài giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; là Thiên Chúa thật, Ngài có từ đời đời, Ngài là Đấng Tự Hữu, cùng bản thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Như vậy, những gì thuộc về nhân tính nơi Đức Giêsu thì cũng thuộc về Thiên Tính nơi Ngôi Lời Thiên Chúa. Mẹ Maria sinh ra Đức Giêsu thì cũng sinh ra “Đấng Thiên Chúa làm người”.
Đây là đặc ân cao trọng vượt trên hết mọi loài thụ tạo. Thánh Tôma Aquynô đã nói về vai trò cao trọng của Mẹ như sau: “Tước vị Mẹ Thiên Chúa cao trọng hầu như vô cùng, vì Thiên Chúa không thể không cất nhắc Đức Mẹ lên bậc tốt lành và cao sang hơn được nữa” (St. Th q.25,a. 6ad 4). Vì thế, Mẹ xứng đáng muôn đời ca tụng là: “Đấng đầy ơn phúc”; vì “có Chúa ở cùng” cách đặc biệt.
2) Quyền thế của Đấng là Mẹ Thiên Chúa
Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ trở thành Nữ Hoàng Thiên Quốc. Nếu Đức Giêsu là vua trên khắp cõi trần gian và Thiên Quốc, thì Mẹ Maria cũng có uy quyền phổ quát trong tương quan là Nữ Tỳ của Thiên Chúa Cha, thân mẫu Đấng Cứu Thế và bạn nghĩa thiết của Chúa Thánh Thần. Vì thế, uy quyền và uy lực của Mẹ trước tòa Chúa thật lớn lao, không ai trên trần gian và Thiên Quốc ngoài Thiên Chúa có thể sánh bằng! Bởi lẽ Vương Quyền của Đức Giêsu lớn lao vô hạn, tồn tại qua muôn ngàn thế hệ, thì chức vị làm Mẹ của Thiên Chúa cũng tùy vào đó và trải dài cũng vô tận.
Nhờ tước vị cao sang quyền thế đó, Mẹ Maria đã trở thành Evà mới, phát sinh Đấng Cứu Thế là nguồn sự sống, thay cho Evà cũ đã đưa nhân loại đến chỗ diệt vong.
Mặt khác, Mẹ trở thành người chuyển cầu hữu hiệu cho nhân loại mỗi khi chúng ta chạy đến với Mẹ.
3) Sống sứ điệp ngày lễ
Mặc dù vai trò và tước vị của Mẹ Maria rất cao trọng, nhưng Mẹ luôn luôn khiêm tốn trong thân phận của một Nữ Tỳ Thiên Chúa. Mẫu gương này của Mẹ mời gọi chúng ta hãy biết khiêm nhường, bởi vì chúng ta có là gì thì cũng đều do tình thương của Thiên Chúa chứ không phải do tài đức hay công khó của mình.
Mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta còn được mời gọi cùng nhau xây dựng hòa bình, bởi vì Đức Maria là Mẹ của Đức Giêsu, mà Đức Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình, là Chúa của bình an. Lời hát của các thiên thần trong đêm giáng sinh đã mặc khải cho chúng ta biết sứ vụ của Đức Giêsu: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Vì thế, chúng ta là con cái của Mẹ trong nhiệm thể Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi chiến tranh, xây dựng tình huynh đệ, sống liên đới và trách nhiệm với con người cũng như xã hội hôm nay; cùng nắm tay nhau để xây dựng một nền văn minh tình thương và sự sống.
Hôm nay cũng là ngày đầu năm Dương Lịch, chúng ta hãy xin Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, ban cho mỗi người chúng ta được an vui hạnh phúc, mạnh khỏe xác hồn, nhất là luôn có lòng mến Chúa và yêu tha nhân như Mẹ, để năm mới này tràn đầy tình thương và lòng nhân ái nơi môi trường và cuộc sống của chúng ta. Amen.
50.Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng ta--Anmai
Mở lại những trang thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Galát ta bắt gặp tâm tình hết sức dễ thương của Ngài.
Mở đầu thư, Thánh Phaolô khẳng định ngay: Tôi là Phaolô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng không phải nhờ một người nào, nhưng bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi chết trỗi dậy, tôi và mọi anh em đang ở với tôi, kính gửi các Hội Thánh miền Galát.
Cuộc đời, ơn gọi Tông Đồ của Phaolô rõ ràng như ta thấy đó, không phải tự loài người hay do loài người nhưng là bởi Đức Giêsu Kitô và Thiên Chúa là Cha.
Rõ ràng, sinh ra bởi phàm nhân, bởi cha bởi mẹ của Ngài nhưng thánh Phaolô quả quyết như thế bởi vì ngài tin như thế.
Và rồi, mở lại những trang Thánh Kinh Cựu Ước, ta không thể nào quên được hình ảnh của Ápraham - cha của những kẻ tin.
Ta biết Ápraham có hai người con. Hai người con, một người được sinh ra bởi người mẹ là người nô lệ còn người kia là người tự do. Con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên; còn con của người mẹ tự do thì sinh ra nhờ lời hứa. Câu chuyện đó ngụ ý rằng: hai người đàn bà là hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi Sinai, thì sinh ra nô lệ: đó là Haga. Haga chỉ núi Sinai trong miền Ảrập, và tương đương với Giêrusalem, thành này cùng với các con đều là nô lệ. Còn Giêrusalem thượng giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta.
Mẹ của lời hứa được Thiên Chúa tuyển chọn bởi tình thương của Ngài.
Con của lời hứa mà Thiên Chúa trong Cựu Ước là là con của Giao Ước cũ. Giao Ước mới là Đấng Cứu Độ trần gian được sinh ra trong cung lòng của một trinh nữ có tên là Maria.
Trong trình thuật tin mừng rất ngắn, Thánh Luca thuật lại cho ta rất chi tiết về người trinh nữ có tên là Maria đó: "Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ". (Lc 2, 16)
Đích thị rằng Maria chính là Mẹ của Hài Nhi, Mẹ của Đấng Cứu Độ và cũng là Mẹ Thiên Chúa nhờ đặc ân mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ.
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Con của Mẹ là Thiên Chúa. Mẹ chỉ là Mẹ trong trật tự sản sinh nhân loại, nhưng Con mà Mẹ thụ thai và hạ sinh là Thiên Chúa, nên Mẹ phải được gọi là Mẹ Thiên Chúa.
Tín lý này đã được thánh Luca minh hoạ rõ ràng trong trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe..
Từ thế kỷ II đã được các thánh Giáo phụ Inhaxiô Antiokia, Irênêô, Cyrillô Alexandria, Augustinô, Epiphanô diễn giải sâu rộng để đối phó với lạc thuyết của các bè rối Gnosticism, Docetism. Thánh Gioan Tông đồ loan báo chứng thực rõ ràng rằng ngài đã từng mắt thấy, tai nghe và đụng chạm tới Chúa Giêsu là Ngôi Lời hằng sống đã xuất hiện.
Trong khi đó các bè rối đó vẫn nói Chúa Giêsu chỉ là ảo tượng. Lạc thuyết này muốn phá đổ tự nền tảng công cuộc Cứu chuộc của Chúa Kitô. Vì thế, các Giáo phụ dựa trên tín lý phẩm chức Thiên mẫu của Mẹ Maria để phá tan lạc thuyết này rằng Đức Trinh Nữ không thể là Mẹ nếu không có Con. Và Người không có Con, nếu Chúa Giêsu chỉ là một bóng ma. Giáo phụ Tertulianô bác bỏ Marcion người lạc giáo: "Mục đích phủ nhận thân xác Chúa Kitô, ông chối bỏ việc Người sinh ra. Hay là để chối bỏ việc Người sinh ra, ông phủ nhận thân xác Chúa. Thân xác và sự đản sinh làm chứng lẫn nhau: Không có sự đản sinh thì cũng không có thân xác. Hoặc là không có thân xác thì không có sự đản sinh.
Thế kỷ III và thế kỷ IV, các thánh Giáo phụ đều đồng thanh cao rao chúc tụng Mẹ Thiên Chúa. Năm 325, Công đồng Nicêa I lên án lạc giáo Ariô, đồng thời định tín Ngôi Lời đồng bản thể với Đức Chúa Cha, và đặt kinh Tin kính (gọi là kinh Tin kính Nicêa đọc trong thánh lễ). Tín điều này chứng minh Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, cùng với tín lý Mẹ Thiên Chúa của các thánh Giáo phụ sẽ mở đường cho tín điều Mẹ Thiên Chúa của Công đồng Ephêsô sau này.
Công đồng Vatican II (1962-1965) dạy: "Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa... Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô".
Nhờ Giáo huấn của Giáo Hội và lời giảng dạy của các Thánh giáo phụ, các Thánh tiến sĩ và các nhà thần học, giáo dân trong khắp Giáo Hội mỗi ngày thêm vững tin tín điều Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa là Mẹ của Lời Hứa, Mẹ của Giao Ước mới, Mẹ của Ơn Cứu Độ trần gian mà Thiên Chúa đã hứa, đã trao ban cho con người tự ngàn xưa qua miệng các ngôn sứ, cách riêng qua những khẳng định của các thánh, đặc biệt nơi các thánh tông đồ.
Thánh Phao lô đã khẳng định với ta về Giao Ước mới: Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.
Không chỉ ở đây, trong nhiều đoạn thư, thánh Phaolô cũng đã khẳng định về ơn nghĩa tử mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta:
“Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô”. (Ep 1, 4-5)
“Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc”. (Rm 8, 29. 29)
Trước khi tạo thành vũ trụ, Cha đã tiền định cho chúng con làm “nghĩa tử”. Nhưng Cha không muốn chúng con chỉ hưởng quyền đồng thừa kế với Đức Giê-su (Rm 8, 17) mà còn muốn chúng con nên giống Cha (Ep 1, 4), nên đồng hình đồng dạng với Người Con Ruột của Cha (Rm 8, 29)
"Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Giêsu Kitô. Để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”. (Ep 1, 4-6)
Ta thấy Thánh Gioan tông đồ cũng đã khẳng định về ân huệ làm con mà Thiên Chúa dành cho chúng ta:
“Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”. (Ga 1, 12.13)
“Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biêt chúng ta, là vì thế gian đã không biêt Người. Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biêt rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. (1 Ga 3, 1-2).
Trước khi có trời đất này Cha đã chọn ta để ta trở nên tinh tuyền thánh thiện. Trước khi ta có mặt trên hành tinh này, Cha đã tiền định cho ta làm con Cha. Cho nên không phải vì ta có công trạng gì mà Cha thương ta. Cha yêu ta chỉ do lòng nhân ái của Cha, chỉ do tình thương nhưng không của Cha, bởi vì Cha là tình yêu. Cha thương ta bởi vì ta ở trong người Con Chí Ái là Đức Kitô. Vì Cha thương ta mà ta trở thành quý giá trước mặt Cha.
Ân huệ lớn nhất đời của ta phải chăng đó là được làm con của Mẹ Maria, là em của anh Hai Giêsu?
Theo Gioan, chúng ta được làm con em Chúa Giêsu, là con của Mẹ Maria thì ta phải tin (Ga 1, 12) và phải yêu (1 Ga 4, 7).
Nhìn lại cuộc đời của Mẹ Maria ngày hôm nay mà ta tôn kính với đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Mẹ - như Giáo Hội cũng như các môn đệ đã xác tín - chúng ta lại thấy rằng cả cuộc đời của Mẹ vẫn gói ghém trong niềm tin và tình yêu với Thiên Chúa. Mẹ tin yêu Chúa bằng cả cuộc đời, bằng cả tấm lòng, bằng cả con người, bằng cả tâm hồn của mẹ.
Trang Tin Mừng rất ngắn Thánh Luca điểm lại cho ta về Mẹ rất độc đáo, rất dễ thương và cũng rất đáng để ta suy nghĩ: còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Và, cả cuộc đời, Mẹ sống trong lắng đọng để Mẹ suy đi nghĩ lại tình yêu, lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ để Mẹ được ơn là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Đấng Cứu Độ.
Ngày hôm nay, Mừng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ta lại được mời gọi nhìn lại đời ta. Ta được Thiên Chúa trao ban ân huệ làm con của Lời Hứa, của Đấng Cứu Độ trần gian và là em của anh Trưởng Giêsu. Mẹ Maria dù được là Mẹ Thiên Chúa đó nhưng Mẹ
"Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Mẹ Maria khiêm hạ, lắng đọng để tin yêu và phó thác cuộc đời trong tay Chúa dù Mẹ là Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ của Ơn Cứu Độ.
Chúng ta là nghĩa tử của anh Trưởng Giêsu, cũng là con của Mẹ Maria.
Người ta vẫn thường nói: "Mẹ nào con nấy!". Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của ta đó luôn suy niệm Lời Chúa, suy niệm tình thương mà Thiên Chúa tuôn đổ trên Mẹ. Dù ai nói ngả nói nghiêng và thậm chí chà đạp, phỉ báng Mẹ, chê cười nhưng Mẹ vẫn lặng lẽ để suy đi nghĩ lại tình thương và ân huệ của Chúa dành cho Mẹ. Ta có suy đi nghĩ lại trong lòng ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta hay không?
Khi ta ồn ào náo động, khi ta hơn thua tranh giành, khi ta bấu víu vào thế gian cũng là khi ta không nhận ra Ơn Cứu Độ, không nhận ra Thiên Chúa là Chúa và là Chủ của cuộc đời ta. Khi ấy, ta cũng chẳng là con của Mẹ.
Ta vẫn gọi Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, ta vẫn nói Mẹ là Mẹ của ta nhưng để lời gọi, lời nói, lời tuyên tín đó được trọn hảo, được thể hiện bằng cách ta sống tâm tình mà Mẹ đã sống đó là suy đi nghĩ lại ân huệ, tình thương mà Thiên Chúa trao ban cho ta.
Xin Mẹ thêm ơn cho ta để ta cũng biết sống giữa cuộc đời đầy bon chen, sóng gió này mà lòng vẫn bình tâm để lặng lẽ, để suy đi nghĩ lại ân huệ Chúa ban cho ta như Mẹ.
51.Đức Maria, Mẹ bình an--Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Hữu Duy, SVD
Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14).
Lời của muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa khi Hài Nhi Giêsu chào đời cho thấy ý định của Thiên Chúa muốn trao ban bình an cho nhân loại qua sự chào đời của trẻ Giêsu. Bình an cho loài người chính là vinh quang của Thiên Chúa; hay nói cách khác, Thiên Chúa được tôn vinh khi con người sống trong bình an.
Trong công trình lớn lao của Thiên Chúa, Mẹ Maria âm thầm hiện diện và cộng tác để ý định của Thiên Chúa được thực hiện, nhờ vậy mà Giáo Hội tuyên phong Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa”. Trong muôn vàn công phúc của Mẹ, hôm nay chúng ta ca tụng Mẹ là “Mẹ Bình An”.
Bình an là phúc lành của Thiên Chúa
Trong tiếng Hy Lạp, thuật ngữ “bình an” vừa có nghĩa là “hoà bình, hoà thuận, yên bình” (x. Mt 10,34; Lc 11,21; Cv 9,31; Rm 3,17), vừa có nghĩa là “hạnh phúc, mạnh khoẻ” (x. Mc 5,34; Rm 1,7; 1 Cr 1,3); đồng thời “hoà bình” theo Kitô Giáo còn có nghĩa là “thời của ơn cứu độ” (x. Lc 2,14; Ga 16,33; Rm 5,1; Ep 6,5). Tuy vậy, dù hiểu theo nghĩa nào đi nữa, thì “hoà bình” không thể là kết quả của sự cố gắng tìm kiếm của con người, mà là ơn phúc đến từ Thiên Chúa.
Quả vậy, trong bài đọc thứ nhất trích sách Dân Số, Thiên Chúa truyền cho ông Môsê căn dặn ông Aharon và các con, tức những người thuộc dòng tộc tư tế, dùng công thức chúc lành này để xin Chúa ban phúc cho dân: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em” (Ds 6,24-26). Thiên Chúa là nguồn gốc mọi phúc lành, và Ngài hằng chúc phúc, trong đó có phúc bình an cho những ai biết tin tưởng kêu cầu Ngài. Được Thiên Chúa giữ gìn che chở, được Ngài đoái nhìn đến và dủ lòng thương chính là bình an cho con người.
Tuy nhiên, chắc hẳn Thiên Chúa không mong muốn con người thụ động chờ đợi ơn bình an như một thứ ân huệ ban phát tuỳ lòng hảo tâm, mà bình an phải là kết quả cuối cùng của một tiến trình cố gắng của con người đi về phía Chúa là nguồn bình an. Bình an không đơn giản chỉ là những lúc người ta cảm thấy được yên bình, hoà thuận hay hạnh phúc, mạnh khoẻ, mà là lúc người ta cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa, thể hiện cách sống động và cụ thể nơi Đức Giêsu, Đấng đã nhờ thập giá mà hoá giải mọi nỗi thù ghét, ngăn cách, chia rẽ, bất hoà và trở nên nguồn bình an cho mọi người (x. Ep 2,14-18). Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã sai Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu đến viếng thăm con người, dẫn họ ra khỏi bóng tối tăm của tội lỗi, sự chết và “dẫn vào đường nẻo bình an” (x. Lc 1,77-79). Bình an vì được Thiên Chúa cứu độ mới thật sự là bình an đích thật và vững bền.
Mẹ Maria là hiện thân của bình an giữa lòng nhân loại
Bài Tin Mừng tường thuật quang cảnh của đồng hoang nơi những người chăn chiên tìm đến và gặp thấy “bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16). Trái ngược với cảnh tưng bừng, vui vẻ, sáng loà trước đó khi sứ thần xuất hiện, loan Tin Mừng trọng đại cho những người chăn chiên (x. Lc 2,8-14), khung cảnh lúc này thật tĩnh mịch, đơn sơ và nghèo hèn của đôi vợ chồng trẻ sinh con và đặt trong máng cỏ. Giữa bao biến động xảy đến cho Thánh Gia, Mẹ Maria vẫn bình lặng bên Hài Nhi bé nhỏ với tất cả tình thương yêu. Mẹ thật là hiện thân của yêu thương và bình an giữa lòng nhân loại ồn ào, bon chen, tranh giành và bất an.
Quả vậy, giữa tất cả những thăng trầm của chuyến đi Bê Lem nhiều sóng gió để rồi sinh con giữa đồng hoang, Mẹ vẫn không hề thốt ra một lời than vãn. Mẹ sống bình an giữa muôn vàn khó khăn. Mẹ không có được sự an toàn, bình yên, không có sự bảo đảm về vệ sinh, sức khoẻ bình thường của một người phụ nữ sinh con, nhưng lòng Mẹ vẫn an bình đến lạ thường. Ở bên Mẹ có thánh Giuse, trong vòng tay Mẹ có Hài Nhi Giêsu và quan trọng hơn, ở trên Mẹ có ân sủng của Thiên Chúa, nên trong lòng Mẹ có bình an.
Hơn nữa, giữa sự ồn ào và hối hả của các mục đồng đến thăm và loan tin, trước sự ngạc nhiên của những người nghe biết sự việc (x. Lc 2,16-18), Đức Maria chỉ “ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Phản ứng của Mẹ thật bình thản và an bình. Mẹ không kêu trách Chúa vì sự thiếu thốn, cũng không tỏ ra vui mừng trước sự kinh ngạc của người ta; Mẹ chỉ lặng thầm suy nghĩ và chắc hẳn cả cầu nguyện trong sự tín thác cho Thiên Chúa. Sự thinh lặng trong cầu nguyện mang lại cho lòng Mẹ sự an bình nội tâm, dẫu Mẹ đã, đang và sẽ tiếp tục đối diện với bao thử thách và khó khăn.
Sự an bình trong lòng Mẹ không phải vì Mẹ được bảo đảm an toàn, không phát xuất từ sự đầy đủ tiện nghi, không phải vì mọi sự đều theo đúng như mong muốn của mình, mà vì Mẹ tin rằng Mẹ được Thiên Chúa yêu thương, chúc phúc và chở che. Sự bình an của Mẹ không đến từ sự sắp đặt của con người, không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh và không bị chi phối bởi điều kiện thể lý hay vật chất. Tâm Mẹ an bình vì trong tâm hồn Mẹ luôn có Đấng là nguồn của sự bình an.
3/ Bình an cho tâm hồn con người và thế giới hôm nay
Tục ngữ Latinh có câu: “Nếu bạn muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh”. Thế giới gần như chưa bao giờ hết chiến tranh; các cuộc xung đột đây đó vẫn tiếp diễn hàng ngày, hàng giờ trên hành tinh này. Có những cuộc xung đột để lại những hậu quả khốc liệt có thể nhìn thấy được, nhưng cũng có những cuộc xung đột để lại những đớn đau âm ỉ mà ít ai biết tới. Phải chăng người ta đang thể hiện mong muốn hoà bình bằng cách chuẩn bị cho chiến tranh? Bao giờ thế giới mới có được một nền hoà bình đích thực?
Hơn nữa, giữa thế giới càng phát triển nhanh chóng với những tiến bộ về nhiều mặt, con người càng phải sống nhanh, sống vội vàng để chạy đua với thời gian nên chịu nhiều áp lực do công việc, do ganh đua để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, sung túc hơn. Vì thế, con người cũng dễ rơi vào vòng xoáy của những cuộc chạy đua và làm cho cuộc sống trở nên căng thẳng; người ta dễ cáu gắt và giận giữ hơn. Hơn lúc nào hết, người ta muốn tìm sự an bình, thư thái bằng các phương pháp như thiền, yoga, thể dục … nhưng liệu những cách thức đó có mang lại cho con người sự an bình thật sự?
Hôm nay là ngày Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Chúng ta tự hỏi đâu là những giá trị Kitô giáo có thể góp phần làm cho thế giới hoà bình? Và mỗi người Kitô hữu có thể làm gì để lòng người được bình an?
Trong thông điệp “Hòa bình dưới thế”, thánh Giáo Hoàng Gioan 23 cho rằng “ý nghĩa và lòng yêu mến hòa bình dựa trên sự thật, công lý, tự do và tình thương”. Thật vậy, bao lâu xã hội con người vẫn bị sự gian dối chi phối, bao lâu lòng người còn dung dưỡng cho sự dối gian, bao lâu xã hội vẫn còn những con người bị loại trừ và bị đối xử bất công, bao lâu sự tự do cơ bản của con người bị tước đoạt cách bất chính, và trên hết, bao lâu xã hội không đặt nền tảng trên tình thương và lòng nhân ái, thì bấy lâu con người vẫn chưa thể có được một nền hoà bình thật sự.
Tình thương và lòng nhân ái theo tinh thần Tin Mừng thôi thúc người ta sống tinh thần bất bạo động. Quả vậy, sứ điệp ngày thế giới hoà bình của ĐGH Phanxicô năm 2017, số 3, khẳng định rằng tinh thần bất bạo động của Chúa Giêsu chính là nền tảng cho nền hoà bình thật sự: “Ngài rao giảng không biết mệt mỏi tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa, Đấng đón tiếp và tha thứ, và dạy các môn đệ hãy yêu thương kẻ thù (x. Mt 5,44) và giơ má bên kia (x. Mt 5,39). Khi ngăn cản những kẻ cáo buộc người phụ nữ ngoại tình ném đá bà (x. Ga 8,1-11) và trong đêm trước khi chịu chết, Ngài đã bảo Phêrô hãy xỏ gươm vào vỏ (x. Mt 26,52), Chúa Giêsu vạch ra con đường bất bạo động, con đường mà Ngài đi tới cùng, tới thập giá, nhờ đó Ngài thực thi hòa bình và phá hủy sự thù nghịch (x. Ep 2,14-16). Vì thế ai đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu, thì biết nhận ra bạo lực mang trong mình và để cho lòng thương xót của Thiên Chúa chữa lành, nhờ đó họ trở thành dụng cụ hòa giải, theo lời khuyên của thánh Phanxicô Assisi: ‘Hòa bình mà các con loan báo bằng miệng, các con hãy có hòa bình ấy dồi dào hơn nữa trong tâm hồn các con’”.
Noi gương Mẹ Maria, mỗi Kitô hữu được mời gọi sống trong sự tín thác vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa; đồng thời nỗ lực xây dựng một thế giới bất bạo động dựa trên tinh thần Tin Mừng: sự thật, công lý, tự do và tình thương.
52.Nữ Vương Hoà Bình
Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa kính Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới.
Đất nước chúng ta đã thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn có nhiệm vụ phải suy nghĩ về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, những đổ vỡ về vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là hơi thở của mọi người trên thế giới. Vậy chúng ta đóng góp được gì?
Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Ngài suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau, để sống hòa thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình.
Yêu hòa bình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. hòa bình đòi hỏi phải phấn đấu, phải đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình, nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong ngày cấu nguyện cho Hoà Bình Thế Giới hôm nay và cũng là ngày lễ kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho bản thân chúng ta, cho gia đình chúng ta, cũng như cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
53.Mẹ Thiên Chúa
Tước hiệu Đức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo Hội. Đây là một tước hiệu xứng hợp ơn mọi tước hiệu khi nói về Đức Trinh Nữ Maria.
Vào thế kỷ V, Nestôriô đã nổi lên chống đối tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Theo Nestôriô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ của Đức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một cuộc xung đột lớn đã xảy ra trong Giáo Hội xoay quanh việc Ngôi Hai nhập thể. Thế nên, vào năm 431, Hội Thánh đã triệu tập Công đồng Ephêsô dưới sự chủ toạ của thánh Cyrillô, các nghị phụ trong công đồng này đã tuyên bố cất chức Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của ông ta. Công đồng Ephêsô đã định tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì thực sự Mẹ đã sinh ra Con-Thiên-Chúa-làm-người.
Bắt đầu từ công đồng Ephêsô tước hiệu Maria Mẹ Thiên Chúa đã trở thành tước hiệu chính thức của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là tước hiệu trổi vượt trên mọi tước hiệu mà Giáo Hội đã ca tụng và tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria. Thánh công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Tín lý về Hội Thánh đã viết: “Từ những thời xa xưa, Đức Trinh Nữ đã được tôn kính dưới tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Người trong mọi cơn gian nan khốn khố”. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã viết khi lập thánh lễ kính trọng thể Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa ngày 11.10 nhân dịp kỷ niệm 1500 năm công đồng Ephêsô vào năm 1931: “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa”.
Hôm nay, Giáo Hội dành ngày đầu năm dương lịch để cầu nguyện cho thế giới hoà bình trùng vào ngày kính trọng thể Đức Maria Mẹ Thiên Chúa như lời Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết trong tông huấn Marialis Cultus, khi người dời thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01.01 mỗi năm như sau: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng Giêng với ngày thứ tám sau lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới hoà bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hoà bình đã phát sinh trong lòng nhiều người”.
Lạy Vua Hoà Bình mới sinh, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hoà Bình, xin ban cho nhân loại và mỗi người chúng con sự hoà bình đích thực và ơn an bình trong mỗi tâm hồn.
54.Thánh Ý Thiên Chúa.
Giáo Hội Công giáo có một lòng sùng kính Mẹ Maria một cách đặc biệt. Mẹ đã được ca ngợi trong phụng vụ với nhiều tước hiệu khác nhau. Một trong những tước hiệu tuyệt vời nhất, đó là tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu này phát sinh từ niềm tin của Giáo Hội nơi Chúa Giêsu, người con sinh ra từ cung lòng Mẹ, là Con Thiên Chúa làm người. Ngài là người nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa.
Đoạn Tin mừng sáng hôm nay ghi lại quang cảnh các mục đồng đã được chứng kiến tại Bêlem trong đêm Chúa Giáng sinh. Một quang cảnh xem ra thật bình thường: Một hài nhi vấn tã đặt nằm trong máng cỏ bên cạnh Mẹ Maria và thánh Giuse. Nhưng đoạn Tin mừng cũng gợi lên một cái gì khác thường khiến cho Mẹ Maria đã phải ghi nhớ và suy niệm trong lòng.
Quả thật, Tin mừng đã nhiều lần nói đến mối quan hệ giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh cho thấy mối quan hệ ấy không phải chỉ là mối quan hệ theo huyết thống. Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu không phải chỉ vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu tại hang đá Bêlem, đã bú mớm và nuôi dưỡng Ngài tại Nagiarét, mà hơn thế nữa vì Mẹ chính là người đã lắng nghe và thực hiện lời Chúa.
Trước những việc lạ lùng Chúa đã làm và nhất là trước giáo huấn của Ngài, một người phụ nữ đã ca tụng người mẹ đã cưu mang Ngài và đã cho Ngài bú. Nhưng Chúa Giêsu đã mời người phụ nữ ấy đi xa hơn điều bà đang nghĩ.
Đối với Chúa Giêsu, sợi dây thắt chặt Ngài với Đức Maria, đó chính là lòng tin, lòng mến được thể hiện một cách cụ thể qua việc lắng nghe và thực hiện lời Chúa.
Một lần khác, có người nhắc nhở với Chúa Giêsu là có Mẹ và anh em Ngài tới kiếm Ngài. Chúa Giêsu đã lợi dụng dịp này để cho người ta thấy mối quan hệ Ngài chờ đợi nơi mọi người đó chính là lòng tin, sự đồng tâm nhất trí với hành động và lời giảng dạy của Ngài. Đối với Chúa Giêsu không có sự biệt đãi theo huyết thống, theo nhãn hiệu, theo tước vị hay theo một tiêu chuẩn nào người ta có thể lãnh nhận một cách máy móc.
Đã hơn một lần người Do Thái được gọi vào cương vị là con cái Abraham, nhưng Ngài đã thẳng thắn trả lời với họ: Cương vị ấy không hơn gì một hòn đá. Người ta cũng đã nại vào tước vị là dân riêng của Chúa, của giao ước, nhưng Chúa Giêsu cũng đã cho thấy việc nại vào tước vị ấy quả là uổng công. Chẳng phải vì Ngài muốn đi ngược lại với những gì Cha Ngài đã giao ước, mà vì Ngài muốn đi vào cái cốt lõi của giao ước: Thực hiện thánh ý của Thiên Chúa.
Mối quan hệ chính yếu Chúa Giêsu muốn thiết lập, đó chính là mối quan hệ của việc thực thi lời Chúa, bất luận người đó là ai, dù là người Samaria mà dân Do Thái vốn coi rẻ, cho là hạng lai căng, lạc đạo, nhưng đã biết chăm sóc cho kẻ bị cướp đánh trọng thương, vứt bỏ bên lề đường, hay đã cho kẻ đói có cái ăn, kẻ khát có cái uống, kẻ trần truồng có cái mặc. Những việc làm nằm trong ý của Chúa thì người đó đã ở trong quan hệ cứu chuộc với Chúa.
Mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cũng nhìn lại mối quan hệ của chúng ta đối với Đức Kitô. Bí tích Rửa tội và tất cả những bí tích chúng ta lãnh nhận một cách máy móc không đủ để đặt chúng ta vào trong quan hệ với Đức Kitô. Mang danh hiệu là người Kitô hữu, có tên trong sổ rửa tội mà thôi chưa đủ, bởi vì chúng ta chỉ thực sự gắn bó với Ngài khi lắng nghe và thực thi ý Chúa, bởi vì như lời Chúa đã khẳng định: Chỉ kẻ nào làm theo thánh ý Thiên Chúa, thì mới là mẹ, là anh chị em với Ngài mà thôi.
55.Mẹ Thiên Chúa.
Có một cô gái, sau khi tham dự một khóa tĩnh tâm, đã kể lại về đời mình như sau: Ngay từ hồi còn bé, tôi đã lâm vào một tình trạng lo âu sợ hãi. Cố gắng lớn lao nhất của tôi hiện nay là vượt thắng nỗi lo âu sợ hãi ấy. Tất cả đều do người mẹ.
Phải, ngay từ những thánh năm ấu thơ, không hiểu vì lý do gì, bà luôn đối xử với tôi một cách nghiệt ngã. Hết đánh đập lại đe loi, khiến tôi bị mặc cảm. Và nỗi lo âu sợ hãi cùng với thời gian cứ tăng lên mãi. Cho đến hôm rồi, sau khi nghe một bài giảng, tôi tình cờ bước vào nhà thờ. Ở đó có bức tượng Mẹ Maria, và đó là lần đầu tiên tôi nhìn ngắm bức tượng Mẹ thật kỹ.
Thoạt tiên, tôi bực bội, giận dữ muốn bỏ ngay ra ngoài, nhưng rồi một cái gì đó đã lôi kéo tôi đến quỳ dưới chân Mẹ. Úp mặt vào lòng bàn tay và tôi đã khóc. Sau đó, tôi cảm thấy tâm hồn mình nhẹ nhõm và mong ước được làm một đứa trẻ, một người con bé bỏng, đầy tin tưởng và phó thác. Đồng thời tôi cũng cảm nhận được tình yêu mà Mẹ Maria đã dành cho tôi, khiến tôi muốn thực sự tha thứ cho người mẹ ruột của tôi những gì đã xảy ra trong dĩ vãng.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào tâm tình của ngày lễ kính Mẹ Thiên Chúa và chúng ta sẽ suy nghĩ về hai điểm.
Điểm thứ nhất: Đức Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà ngài còn là mẹ thật của mỗi người chúng ta nữa. Từ trời cao, Mẹ luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời.
Điểm thứ hai: Đức Maria cũng chính là khuôn mẫu để chúng ta noi theo, nhất là về thái độ tín thác vào Chúa.
Thực vậy, khi sứ thần báo tin Mẹ sẽ sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, mặc dù biết rằng việc này có thể làm cho thánh Giuse buồn phiền và lo nghĩ, nhưng Mẹ vẫn vững tin và phó thác vào Chúa. Rồi khi nghe các mục đồng kể lại lời các thiên thần. Mặc dù không hiểu lắm, nhưng Mẹ vẫn tín thác vào Chúa. Khi nghe ông già Simeon nói tiên tri: Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu trái tim Bà. Lần này Mẹ Maria cũng chẳng hiểu rõ ý nghĩa lời tiên tri, nhưng Mẹ vẫn phó thác vào Chúa. Rồi khi tìm thấy Chúa và nghe Chúa trả lời: Mẹ không biết con phải lo việc Cha con sao? Một lần nữa Mẹ Maria chẳng hiểu gì cả nhưng Mẹ vẫn tin tưởng nơi Chúa.
Và ngày nay, Mẹ luôn sẵn sàng giúp chúng ta sống tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa. Chẳng hạn là những bậc cha mẹ, chúng ta đã cặn kẽ dạy bảo, ra sức làm gương sáng mà con cái vẫn khô khan nguội lạnh ngang bướng Và như vậy, chỉ còn một phương cách là tiếp tục cầu nguyện và phó thác. Chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta làm điều này.
Là một thanh niên, chúng ta lo lắng về tương lai, không hiểu những dự tính của mình là gì và sẽ đi về đâu? Chúng ta đã bàn bạc, đã cầu nguyện mà sao vẫn còn mù mịt. Vậy thì hãy tiếp tục cầu nguyện và phó thác, chính Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta trong việc này.
Là một người đang chao đảo về đức tin với bao nhiêu những thắc mắc, những khó hiểu. Mặc dù đã cầu nguyện nhưng chúng ta vẫn hoài nghi liệu có Chúa hay không? Vậy thì hãy cầu nguyện và phó thác Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta thực hiện điều này.
Lạy Đức Maria, là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng con, xin hãy giúp con trong mọi cảnh huống của cuộc đời.
56.Lễ Mẹ Thiên Chúa
Giây phút long trọng nhất trong đời Đức Mẹ là giây phút Ngôi Hai xuống thai trong lòng Đức Mẹ. Từ giây phút ấy, Đức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa: Đây là tín điều Công đồng Êphêsô đã tuyên bố ngay thời kỳ Giáo Hội sơ khai.
- Ta phải hiểu chân lý này thế nào?
Đức Maria không phải là Mẹ sinh ra Thiên Chúa tự hữu hằng có đời đời, không phải là mẹ cá nhân kết hợp với Thiên Chúa, cũng không phải là mẹ bản tính loài người có hồn xác của Chúa Giêsu, mà chỉ là Mẹ thân xác Chúa Giêsu; cũng như các bà mẹ khác chỉ sinh con về phần xác không sinh ra linh hồn đứa con. Văn hóa Đông phương cũng xác nhận điều này: cha mẹ sinh con trời sinh tính. Tính không phải là tính nết thường, nhưng có ý sâu sắc hơn, đó là bản tính, tính mệnh “Thiên mệnh chi vị tính” - Tính trời phú cho đó là linh hồn.
Tuy các bà chỉ sinh thân xác đứa con, nhưng cũng thực là mẹ đứa con. Cũng vậy, Đức Mẹ, tuy chỉ sinh thân xác Chúa Giêsu, nhưng cũng thực là mẹ Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Đức Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa. Năm 431 công đồng Ephesô đã long trọng tuyên bố: “Nếu ai chối Đức Giêsu là Thiên Chúa, và bởi đó chối Đức Thánh nữ Đồng trinh Maria là Mẹ Thiên Chúa vì người đã sinh ra thân xác Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, thì bị vạ tuyệt thông.” Thật là vinh phúc cao trọng nhất cho Đức Mẹ, không ai trong loài người sánh ví được. Chính vì thế Giáo Hội đã mừng lễ này vào ngày thứ nhất trong năm, đứng đầu các lễ các thánh.
- Hạnh phúc đó do đâu?
Hoàn toàn do Thiên Chúa ban “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”
Thiên Chúa không muốn dựng nên thân xác thần hiện nào khác, nhưng dùng chính thân xác từ trong loài người để cứu độ loài người. Ví như muốn cứu người ăn mày có hai cách: một là cho tiền, gạo để ăn chơi nhàn rỗi, hai là dạy cho họ có công ăn việc làm để họ dùng chính khả năng họ làm ăn. Cách thứ hai rất khó nhưng chắc chắn có giá trị lâu dài và giá trị tự do hưởng ứng của họ. Cũng thế, Thiên Chúa đã dùng chính khả năng con người trong Đức Mẹ hợp tác với Chúa để cứu loài người.
Tới đây, chúng ta hiểu được một chút sự lạ lùng của Thiên Chúa cứu độ loài người với sự tham gia của Đức Mẹ. Đức Mẹ đã trọn đời dâng hiến toàn thân cho Chúa, một thân xác đồng trinh, vô nhiễm nguyên tội để Ngôi Hai xuống thế làm người cứu chuộc chúng ta, một sự lạ lùng gấp bội phép lạ bánh hóa nhiều, và giống như Chúa đã dùng bánh và rượu để biến thành Mình và Máu Thánh Chúa.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, xin cho cha mẹ chúng con hiểu biết thiên chức cao trọng làm cha mẹ, tuy chỉ sinh con phần xác ở đời này, nhưng lại được làm cha mẹ cả phần hồn, phần thiêng liêng đến muôn đời. Xin cho các ngài biết cố gắng giáo dục con cháu "ngày càng lớn lên, mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và được ân nghĩa cùng Thiên Chúa" như Chúa Giêsu con Mẹ. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Đức Mẹ dâng lòng mến, dâng sự hy sinh hàng ngày lên Chúa nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ biến đổi con người chúng con nên con thảo của Mẹ, xứng đáng được ơn phúc cứu độ muôn đời của Chúa Giêsu Con Mẹ.
57.Mẹ Thiên Chúa
Có một nhóm giáo dân trong một thành phố nhỏ quyết định làm một máng cỏ giáng sinh ở công trường. Họ đi xin những người hảo tâm giúp đỡ. Đứng đầu danh sách những người hảo tâm là ông chủ bút một tờ tuần báo địa phương. Ông ta ủng hộ việc này cho tới lúc cha sở phát biểu. Nhiều người, nhất là trẻ em sẽ phấn khởi nhìn thấy Chúa Hài Nhi, Đức Mẹ, thánh Giuse và cả những con vật nữa, ở đây ngay tại trung tâm thành phố. Thế nhưng, ông chủ bút liền kêu to:
- Không, phải bỏ Đức Mẹ đi, đừng có bày đặt lắm chuyện làm chi.
Cha sở nghe vậy bèn nói với ông ta:
- Ông bảo gì vậy? Ông thử nói cho tôi hay: Một người sinh ra mà lại không do người mẹ, thì tôi sẽ đồng ý bỏ Đức Mẹ. Đức Mẹ phải ở với Con mình trong công trường thành phố. Tại sao không?
Đúng thế, Mẹ đã ở với Chúa Giêsu ngay từ lúc Ngài được dựng thai cho tới khi Ngài lên trời và Mẹ còn liên kết với Ngài trong suốt dòng lịch sử. Vì thế, chúng ta không thể tưởng nghĩ tới Chúa Giêsu mà không tưởng nghĩ Mẹ Ngài. Cũng như chúng ta không thể tưởng nghĩ đến một em bé mà không tưởng nghĩ đến người mẹ của em.
Chúa Giêsu là người thật nhưng cũng là Thiên Chúa thật. Đức Maria là Mẹ của Thiên Chúa làm người, theo ý nghĩa là con trẻ Mẹ sinh ra có bản tính Thiên Chúa và bản tính con người.
Ngày đầu năm dương lịch, Giáo hội muốn chúng ta tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Bởi vì không ai xứng đáng được gọi là mẹ sự sống cho bằng Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã ban sự sống nhân loại cho Chúa Giêsu, Đấng đã nói: Tôi đến cho người ta được sống và sống dồi dào. Một đời sống thể lý tốt đẹp hơn, một đời sống tinh thần tốt đẹp hơn. Điều đó sẽ làm cho mọi người được hạnh phúc trong năm mới. Chúng ta phải chú trọng giá trị của sự sống. Những vụ tàn sát, những tai nạn xe cộ, những cuộc chiến và đói kém đã cướp đi hàng trăm ngàn cuộc sống. Sự sống đã trở thành rẻ mạt. Một cuộc nghiên cứu mới đây cho biết: trẻ em Hoa Kỳ ở vào tuổi 17 đã xem 18.000 vụ tàn sát qua truyền hình. Đồng thời trong năm mới này có biết bao nhiêu bà mẹ, thay vì cho con cái mình sự sống, thì đã giết chúng bằng những vụ phá thai. Vì thế, chúng ta cần đến một người mẹ cao siêu để chấm dứt sự tàn sát này. Bước sang năm mới, Mẹ Thiên Chúa làm người, sẵn sàng cứu giúp mọi bà mẹ để trao ban sự sống thay vì huỷ diệt nó đi. Mẹ cũng sẵn sàng xin được nơi người Con của mình một sự sống tinh thần mạnh mẽ hơn, một sự sống được tiếp tục ngay cả sau cái chết thể xác. Sự sống mà người Con của Mẹ đã ban cho chúng ta một cách dồi dào trong thánh lễ và trong các bí tích. Một sự sống ngập tràn hạnh phúc mà chúng ta sẽ cầu chúc cho nhau trong năm mới này.
58.Mẹ Thiên Chúa.
Trong một bài giảng, vị linh mục đã nêu lên câu hỏi.
- Vậy Đức Maria là ai?
Mọi người đều thinh lặng không một ai đã trả lời. Ngài lại hỏi thêm một lần nữa:
- Vậy ai có thể nói cho tôi hay Đức Maria là ai?
Sau cùng một bà già đã trả lời:
- Thưa cha, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Vị linh mục nói:
- Đúng lắm, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, nhưng tôi muốn biết ngài còn là ai nữa?
Tiếp theo là những câu trả lời khác nhau:
- Mẹ là Nữ vương thiên đàng, là nơi ẩn náu của kẻ tội lỗi…
Vị linh mục mỉm cười và bảo:
- Đúng lắm, tất cả đều đúng nhưng chưa đủ, bởi vì Đức Maria còn là Mẹ tôi nữa.
Vâng, Đức Maria là Mẹ chúng ta. Trên thế gian, chúng ta không một ai đã yêu thương chúng ta, không một ai đã sẵn sàng lắng nghe chúng ta kêu cầu, cảm thông và giúp đỡ chúng ta trong mọi hoàn cảnh như Mẹ.
Hôm nay, ngày đầu năm dương lịch, chúng ta mừng kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta phó thác năm mới này cho Mẹ để xin Me nâng đỡ chở che.
Sở dĩ chúng ta biết Đức Maria là Me Thiên Chúa, bởi vì Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Đồng thời chúng ta cũng tin rằng Chúa Giêsu vừa là người vừa là Thiên Chúa. Bởi đó, một khi đã là Mẹ của Chúa Giêsu, thì Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa làm người. Không ai được nói rằng Đức Maria đã sinh ra thiên tính của Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta chỉ đơn giản tuyên xưng rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng vừa là người lại vừa là Thiên Chúa. Từ đó chúng ta có thể đi tới một kết luận quan trọng như sau:
Vì là Mẹ của Thiên Chúa làm người cho nên Đức Maria cũng là Mẹ thật của mỗi người chúng ta. Trong lòng Giáo hội, gia đình của Thiên Chúa thì Đức Kitô là anh cả còn chúng ta là những người em. Một khi Đức Maria đã là Mẹ của Chúa Giêsu thì ngài cũng là Mẹ của chúng ta nữa.
Vậy chúng ta phải làm gì để khởi đầu cho năm mới 2008 này? Nếu không có Mẹ Maria thì không có sự sống. Vì thế, ngay cả Chúa Giêsu cũng phải có Mẹ. Nếu cuộc sống con người khởi đầu từ người mẹ, thì mỗi chặng đường đời của chúng ta., chẳng hạn một năm mới, cũng khởi đầu với Đức Maria: Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
Người mẹ đón nhận con mình mỗi buổi sáng, Đức Maria đón nhận chúng ta ngày đầu năm, Mẹ nghiêng mình trên chúng ta, nuôi dưỡng, bao bọc và chạy chữa chúng ta cùng với biết bao biểu lộ của yêu thương và trìu mến.
Người mẹ làm cho ngày mới của đứa con có một ý nghĩa, thì Đức Maria cũng làm cho năm mới của chúng ta có một ý nghĩa.
Để kết luận chúng ta hãy xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta hôm nay, ngày đầu năm mới và suốt cả những tháng ngày kế tiếp, để trong năm mới nay, chúng ta sẽ sống gắn bó với Chúa và Mẹ. Như thế, năm mới này sẽ là một năm bình an và hạnh phúc. Đó cũng là lời cầu chúc tôi xin gửi đến với anh chị em.
59.Nữ Vương Hòa Bình
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cầu nguyện cho nền hòa bình thế giới, và chúng ta chính thức bước vào năm mới 2012.
Khởi đầu thế kỷ 21, chúng ta đã được chứng giám việc khủng bố chiếm máy bay và đâm vào tòa tháp đôi tại Nữu Ước. Rồi từ đó, chiến tranh bùng nổ tại Afghanistan, tại Irak, khủng bố dường như có mặt ở khắp nơi. Và gần đây những cuộc thử hạt nhân ở Iran và Triều Tiên, đã làm cho thế giới nóng lên vì hận thù, vì chiến tranh.
Chính vì thế, trong tinh thần liên đới và ý thức rằng: Hòa bình là một hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta hãy hiệp ý cầu nguyện cho yêu thương được ngự trị, cho oán thù được tiêu tan, cho mọi người biết tha thứ và yêu thương nhau như chính bản thân mình. Tất cả những ý nguyện ấy như một âm vang của lời kinh hòa bình: Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Lời kinh này là của thánh Phanxicô Assie, một người được cả thế giới chọn làm biểu tượng của hòa bình, bởi vì ngài là một người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa. Có lẽ ai trong chúng ta cũng còn nhớ cái giai thoại sau đây:
Vì đã đem hết gia tài phân phát cho kẻ nghèo đói, nên ngài đã bị người cha đem ra tòa, đòi phải từ bỏ mọi tài sản mà gia đình muốn để lại. Không một chút do dự, Phanxicô đã trút bỏ áo quần để trả lại cho người cha như một biểu tượng của tài sản cuối cùng mà ngài nhận được từ gia đình. Và cũng từ đó, Phanxicô đã trở thành người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa.
Thế nhưng, ngài có tất cả mọi sự, bởi vì ngài có Thiên Chúa làm gia nghiệp. Một khi đã có Thiên Chúa thì ngài cũng có được niềm vui trọn vẹn. Cho nên, ngài không những có sự bình thản trong tâm hồn mà còn có sự hòa hợp với người khác và ngay cả với thiên nhiên. Hòa bình trong chính bản thân, hòa bình với tha nhân đó chính là cái lý tưởng mà ngài đã để lại cho thế giới.
Chúng ta cũng hãy chiêm ngưỡng Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Giáo hội có thói quen cử hành ngày hòa bình thế giới vào ngày đầu năm dương lịch kính Mẹ Thiên Chúa. Sở dĩ chúng ta gọi Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình, bởi vì Mẹ là người nữ tì khiêm hạ và khó nghèo của Thiên Chúa. Mẹ đã trút bỏ mọi sự để trở thành trống rỗng và rồi được chính Thiên Chúa lấp đầy.
Như thế, người xây dựng hòa bình là người được Thiên Chúa lấp đầy tâm hồn mình. Cũng như Mẹ Maria và thánh Phanxicô, chúng ta cũng được mời gọi trút bỏ mọi sự. Tinh thần nghèo khó đích thực cũng chính là một thể hiện của tinh thần hòa bình. Bởi vì, khi con người không còn màng đến bất cứ một thứ riêng tư nào, khi con người không còn muốn chiếm hữu bất cứ một thứ của cải nào, thì lúc đó con người có thể bình thản đến với Chúa và với anh em.
Hòa bình là một cuộc ra đi không ngừng và ra đi là để đến với Thiên Chúa và đến với người khác, bằng tha thứ, bằng yêu thương, bằng giúp đỡ.
Bởi vì, Như lời thiên thần đã hát vang trong đêm Giáng sinh: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
60.Mẹ Thiên Chúa.
Có một chàng thanh niên sống bê tha và tội lỗi. Anh cảm thấy chán nản và tuyệt vọng... Trong cơn khủng hoảng ấy, tình cờ anh đã bước vào một ngôi nhà thờ và đến ngồi trước tượng Đức Mẹ. Anh không thuộc một lời kinh nào để cầu nguyện và anh cũng chẳng biết Đức Mẹ là ai. Vì thế anh đã thốt lên:
- Nếu Ngài quả thực hiện diện nơi đây, thì xin hãy làm cho con được tin.
Bỗng dưng như có một làn gió mát thổi vào tâm hồn và anh cảm thấy được bình an và sau đó đã làm lại cuộc đời mình.
Từ câu chuyện trên chúng ta nhận thấy Mẹ Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà còn là mẹ của mỗi người chúng ta. Mẹ hằng yêu thương, chăm sóc và giúp đỡ chúng ta.
Khi sinh Đức Kitô, thì đồng thời, Mẹ cũng sinh ra một nhân loại mới, như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai Con Ngài xuống thế, sinh làm con một người nữ và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới luật đó, hầu chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa.
Và Công đồng Vat. II đã diễn tả: qua mầu nhiệm nhập thể, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người. Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa và yêu thương bằng trái tim loài người. Sinh ra từ lòng Đức Trinh Nữ Maria, Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta, hoàn toàn giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Đức Maria là mẹ chúng ta, nên Mẹ luôn nâng đỡ bầu cử cho chúng ta trước mặt Chúa. Không biết đến Mẹ là không biết đến món quà quí giá mà Thiên Chúa đã ban tặng, đó chính là tình mẫu tử của Mẹ Maria đối với chúng ta.
Điều này khiến chúng ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với niềm hy vọng mới, với cuộc đời mới, là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại. Năm cũ đã qua rồi, năm mới như trang giấy mở rộng trước mắt chúng ta. Thật là thích hợp khi Giáo Hội chọn ngày đầu năm để mừng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Sự kiện này nhắc chúng ta nhớ đến tình mẫu tử của Me, nhớ đó chúng ta có được niềm hy vọng mới và cuộc đời mới.
Nếu chúng ta đang tìm cho mình một hướng đi trong năm mới, thiết thưởng không một hướng đi nào vừa bảo đảm lại vừa tốt đẹp cho bằng hãy chạy đến với Đức Maria. Với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có đủ khả năng để bầu cử và giúp đỡ chúng ta. Với địa vị làm mẹ chúng ta, ẹ có dư tình thương, để sẵn sàng thực hiện những điều chúng ta van xin, vì vậy chúng ta vốn thường đọc:
- Xưa nay chưa từng nghe nói có người nào chạy đến kêu xin cùng Mẹ mà Mẹ chẳng nhận lời.
Hay như thánh Bernado cũng đã bảo:
- Kêu xin Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm được lạc lối.
Bởi đó trong giây phút linh thiêng này, chúng ta hãy đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở và nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
61.Nữ Vương Hòa Bình
Ngày đầu năm mới và cũng là ngày Quốc Tế Hòa Bình, Giáo Hội hân hoan cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi Giáo Hội đang cử hành mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Hoàng Tử Bình An, là hòa bình đích thực của nhân loại.
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con của Ngài sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mariađã được nâng lên địa vị là Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội muốn đặt lễ hôm nay lên hàng đầu của năm tháng ngày giờ.
1. Ý nghĩa của Truyền Tin.
Tại sao một thiếu nữ nhỏ bé sống ở làng nghèo Nadaret lại trở thành Mẹ Thiên Chúa? Nhìn về mặt bề ngoài, Mẹ Maria không có gì nổi bật so với những người phụ nữ thời ấy. Tên Maria là một tên rất phổ biến, giống như tên Tuyết, Cúc, Đào…trong giới phụ nữ Việt Nam. Mẹ Maria người làng Nadaret (Lc 1,26), một làng rất tầm thường như sau này Nathanael nhận xét: “Từ Nadaret làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46).
Để có câu trả lời, cần tìm về ý nghĩa của biến cố Truyền Tin. Thi sĩ Hàn Mặc Tử viết bài thơ ‘Ave Maria’ bất hủ từ câu chuyện này.
Hỡi Sứ thần Thiên Chúa, Gabriel.
Khi Người xuống truyền tin cho Thánh Nữ.
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú.
Người có nghe náo động cả muôn trời.
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời.
Để ca tụng bằng hương hoa sáng láng.
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng.
Một đêm xuân là rất đỗi anh linh.
Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp.
Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập.
Cả Hàn Giang, cả màu sắc thiên không.
Lút linh hồn và ám ảnh hương lòng.
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyền ước.
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước.
Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm…
Sứ thần Gabriel đến Nadaret chào thôn nữ Maria: “Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Ba tiếng “Đầy-ân-sủng” gộp lại trở thành như là tên gọi riêng của Đức Maria. Mẹ được tràn đầy ân sủng. Mẹ luôn luôn có Thiên Chúa ở cùng. Không có giây phút nào mà Mẹ không có Thiên Chúa với mình. Không có giây phút nào mà Mẹ không trọn vẹn thuộc về Chúa. Không có bất cứ dấu vết tội lỗi chen vào giữa Mẹ và Thiên Chúa (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Tại sao Thiên thần nói với Maria: hãy vui lên?. Lời mời gọi này nhắc lại lời Ngôn sứ Xôphônia thế kỷ thứ VI báo tin ngày cứu độ cho Israel: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi…Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng” (Xp 3,14-17). Sứ thần Gabriel cũng mời gọi Đức Maria hãy vui lên vì giờ cứu độ của Thiên Chúa đã đến. Sứ thần trình bày: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Đức Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavit tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacop đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,31-33).
Là một tâm hồn luôn luôn nghiền ngẫm Kinh thánh, chắc hẳn Đức Maria nhớ lại Lời Chúa đã dùng Ngôn sứ Nathan mà thề hứa với vua Đavit xưa. Nhưng điều mà Mẹ không bao giờ nghĩ tới là mình có thể có vai trò gì trong việc thực hiện lời tiên tri ấy. Chuyện “không thể” được đầu tiên là làm sao mình sinh con được vì đã quyết “không biết đến chuyện vợ chồng” để sống trọn vẹn cho một mình Thiên Chúa mà thôi. Sau khi được Sứ thần giải thích rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Maria khiêm nhường thưa lại: ‘Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Và thế là Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong lòng Đức Trinh Nữ. Và thế là Đức Maria khiêm nhường đã trở thành thánh mẫu của Thiên Chúa.
Mẹ được Thiên Chúa sủng ái, và được trở nên cao trọng, vì Mẹ khiêm nhường. Đức khiêm nhường dẫn Mẹ đến chỗ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa.Trong bài Magnificat, chính Đức Mẹ đã nói về mình rằng:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Chúa đoái thương nhìn tới.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường
Đức Mẹ thuộc truyền thống những người nghèo khó, hèn mọn được Thiên Chúa che chở cách riêng. CĐ Vaticanô II trong hiến chế tín lý về Giáo hội đã dạy: “Đức Maria đứng đầu trong hàng ngũ những người khiêm nhường và nghèo khó của Chúa vẫn mong đợi và lãnh nhận ơn cứu độ với lòng tin tưởng” (số 55).
Từ biến cố Truyền tin, qua lời đáp xin vâng của Mẹ, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng dạ Mẹ. Đức Maria trở thành Mẹ Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Giáo hội đã tuyên bố Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, Người có ngôi vị duy nhất trong hai bản tính. Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Thiên Chúa làm người, nên là Mẹ của Thiên Chúa. Công đồng Êphêsô 431 đã minh định điều ấy khi tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Đức Maria đã trở thành Mẹ của Chúa qua thái độ khiêm nhường và lời đáp xin vâng phát xuất từ lòng tin của Mẹ. Do đó, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta không chỉ hiểu chức làm mẹ đó chỉ thuộc về thân xác mà thôi, nhưng nhìn nhận Đức Maria là Mẹ do hành vi tin hoàn toàn tự do của Ngài, như bà Êlisabet đã thốt lên: “Phúc cho em vì đã tin những lời Chúa phán”. Chúa Giêsu có lần đã tuyên bố: “Mẹ và anh em Ta là những ai biết lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa” (Lc 8,21).
2. Tín điều Mẹ Thiên Chúa
Mẹ Thiên Chúa trở thành một tín điều và là mầu nhiệm của đức tin Công Giáo. Tước hiệu này đã trở nên một phần vĩnh viễn trong những kinh tuyên xưng đức tin và trong phụng vụ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo.
Tín điều Mẹ Thiên Chúa được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh.
Tiên tri Isaia loan báo: “một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Đức Maria sinh ra Đấng Emmanuel, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Lời tiên tri được thực hiện khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria: "Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu... Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa." (Lc 1,31-35).
Thánh Phaolô viết: ‘Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật” (Gal 4,14). Trong Tin mừng Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2,1; 19,26), và trong Tin mừng Luca, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đến thăm bà Elidabet (1,43).
Các Kitô hữu thời sơ khai được các Tông Đồ hướng dẫn, luôn có một niềm tin vững chắc vào thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như Kinh Tin Kính của các Tông Đồ.
Tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô Antiochia, tin yêu và truyền dạy.
Công Đồng Êphêsô năm 431 tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Công Đồng Constantinople III (680-681) xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.
Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10.
Đức Piô XII, đã thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.
Công Đồng Vaticanô II dành chương VIII trong Hiến Chế Lumen Gentium, nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang ngày 1 tháng 1 hàng năm.
Thánh Lễ thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội. Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, linh mục chủ tế đọc: Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc: Cùng với Đưc Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa...
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…” là lời kinh được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu Mẹ Chúa Trời được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe, trên giường bệnh... Càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ.
62.Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa, đó là phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công đồng Vaticano II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau:
- “Không có gì lạ, nếu các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là “Đầy ơn phườc” (Lc. 1,28). (GH.59).
- “Được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh Vô nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài cách trọn vẹn hơn” (GH.59).
- “Đức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm Mẹ... Thật vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu chuộc không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời... Vì thế trong Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian” (GH.62)
Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc. Trong buổi Truyền Tin, chính sứ thần Gabriel đã quả quyết: “Người sẽ thụ thai và sinh con... trẻ sẽ sắp sinh sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1,31-35). Được Thánh Thần linh hứng, bà Elisabeth cũng đã lên tiếng: “Bởi đâu tôi được thế này, là mẹ Chúa tôi đến với tôi” (Lc1,43). Niềm tin vào chức phẩm cao quí là Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã có từ đầu Giáo hội. Chính thánh Phaolô đã viết: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người Nữ” (Gl 4,4).
Tiếp tục niềm tin đã có từ đầu, các tín hữu còn xác tín hơn nữa do biến cố dẫn tới những xác quyết chắc chắn của Công đồng chung Ephêsô (năm 413). Nestoriô khi ấy bác bỏ tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, ông chỉ chấp thuận Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, vì Ngài chỉ sinh ra xác thể Chúa Kitô thôi, chống lại lời rao giảng của Giám mục Nestoriô, khoảng hai trăm Giám mục đã họp tại Ephêsô ngày 22.6.431, dưới quyền chủ tọa của Thánh Cyrillô thành Alexandrioa. Công đồng này kết án Nestoriô và tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Toàn thể dân thành đã công khai bày tỏ niềm hân hoan trước thành quả này. Họ tổ chức rước đuốc để mừng các nghị phụ công đồng. Cũng từ công đồng này mà có phần sau của kinh Kính mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”.
Hợp với niềm hân hoan của dân Chúa dịp công đồng Êphêsô bế mạc, niềm tôn kính dâng lên Mẹ Thiên Chúa ngày một thêm sâu đậm. Vua Giuse Emmanuel nước Bồ Đáo Nha đã xin ông được đặc ân mừng lễ Mẹ Thiên Chúa. Thánh bộ nghi lễ đã ban bố sắc lệnh thiết lập ngày 22 tháng giêng năm 1751 và ấn định vào Chúa nhật đầu tháng năm. Từ đó nhiều nước cũng được hưởng đặc ân này. Năm 1931, dịp kỷ niệm 1500 năm, công đồng Ephêsô, Đ.G.H Piô XI đã lập lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, kính trọng thể trong khắp Giáo hội vào ngày 11 tháng 10. Chính Đức giáo hoàng Piô XI đã viết:
- “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa (Lux Veritatis 1931).
Năm 1962, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã chọn lễ kính Mẹ Thiên Chúa làm ngày khai mạc công đồng Vaticanô II.
Đức giáo hoàng Phaolô VI dời ngày lễ vào đầu năm dương lịch, việc dời ngày kính này vào ngày thế giới Hòa Bình, nhấn mạnh thêm ý nghĩa lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa hôm nay. Đức giáo hoàng Phaolô VI viết:
- “Khi canh tân mùa Giáng sinh, mọi người phải chú ý đến việc tái lập lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1 tháng giêng, đúng phụng vụ Roma từ xưa, nhằm tôn kính việc Đức Maria góp phần vào mầu nhiệm cứu rỗi và tôn vinh địa vị đặc biệt, khiến cho “Mẹ rất thánh, đáng tiếp nhận Nguồn sống cho chúng tôi”. Lễ này cũng là dịp rất tốt để chúng ta tôn thờ Vua Hòa Bình mới sinh, và nghe lại lời chúc hoà bình của các thiên sứ (Lc 2,14), để cầu Chúa, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình, ban cho ta ơn cao cả nhất là Hòa bình. Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 1 tháng giêng với ngày thứ tám giáp Lễ Giáng sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới hòa bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều Người” (ĐGH Phaolô VI. Marialis Cultus, số 5b).
63.Hồng ân
Đêm 22.06.443 tại thành Êphêsô có một cuộc rước đuốc vĩ đại, đoàn rước muôn người như một vừa đi diễu hành vừa tung hô vang trời: “Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Tại sao có cuộc rước đuốc này? Là vì Nettôriô, giám mục giáo chủ thành Côntăngtinốp chối Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa, vì Đức Maria không sinh ra thần tính của Chúa Giêsu mà chỉ sinh ra nhân tính là một dụng cụ của thần tính, nghĩa là Đức Kitô chỉ là một người được phúc tiền định mặc lấy thiên tính, trở nên đền thờ của Ngôi Lời. Như vậy, Nettôriô đã phân tách Ngôi Lời ra khỏi Đức Kitô, và phân chia Ngôi Hai nhập thể thành hai ngôi vị riêng biệt, được lồng vào nhau, rồi ông chủ trương: chỉ nên gọi Đức Maria là Mẹ Đức Kitô chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa.
Trước chủ trương của Nettôriô, Công đồng chung được triệu tập tại Êphêsô để giải quyết vấn đề. 160 nghị phụ là các giám mục của Ai Cập, Palestine, Tiểu á và đại diện của Rôma là thánh Xirilô chủ toạ. Sau một ngày hội họp và tranh luận, công đồng đã cách chức Nettôriô và tuyên bố chủ trương của ông là sai lầm, là lạc thuyết, đồng thời Công đồng chấp nhận bản dự thảo của thánh Xirilô và tuyên bố: Đức Kitô tuy có hai bản tính nhưng chỉ là một ngôi, cho nên Đức Maria là Mẹ Đức Kitô thì cũng là Mẹ Thiên Chúa, Công đồng khẳng định dứt khoát: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Sau khi Công đồng đã xác định tước hiệu này, các tín hữu phấn khởi vui mừng kéo nhau ra các đường phố vang lời ngợi khen Đức Mẹ, tung hô các nghị phụ và cầm đuốc sáng dẫn đưa các ngài về nhà. Đồng thời, để mừng kính và đánh dấu thành quả của Công đồng, kinh “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội” đã được sáng tác vào dịp này và được Đức Giáo Hoàng Xêléttin chấp nhận.
Như vậy, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, là một tín điều, một chân lý đức tin. Để Đức Maria thực sự được gọi là Mẹ Thiên Chúa thì những điều kiện ắt có và đủ là: ngài phải thực sự sinh một người con, và người con này từ giây phút đầu hiện hữu làm người đã là Con Thiên Chúa hoặc Ngôi Lời, mà thực vậy, Đức Maria thực sự có đủ những điều kiện đó. Nói khác đi, Chúa Giêsu là người thật và cũng là Thiên Chúa thật, bởi thế, nếu Đức Maria là Mẹ thật của Chúa Giêsu, thì ngài cũng là Mẹ thật của Thiên Chúa.
Như vậy, vì có mầu nhiệm Đức Kitô mà có mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa. Mầu nhiệm này gắn liền với Con Thiên Chúa làm người. Trong lịch sử Giáo Hội, chỉ sau khi xác định chân tướng Chúa Giêsu Kitô, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, Giáo Hội mới xác định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Nếu Chúa Kitô chỉ là Thiên Chúa thôi thì không làm gì có “Mẹ Thiên Chúa” như một “siêu Thiên Chúa”. Hay nếu Chúa Kitô chỉ là người thôi, cho dù là:siêu nhân” đi nữa, thì Đức Maria càng không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Cho nên, ngày nay chúng ta tuyên xưng đức tin mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa là bởi vì mầu nhiệm ấy gắn liền với mầu nhiệm nhập thể, như trong kinh Tin kính: “Ngài là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật… Ngài đã từ trời xuống thế bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người”. Chúng ta tin nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa chính là vì chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đức Maria sinh ra Chúa Giêsu, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu cao cả, một đặc ân tuyệt vời mà không ai dám nghĩ tới, kể cả chính Đức Mẹ. Mọi tước hiệu và các đặc ân khác được ban cho Đức Mẹ như vô nhiễm nguyên tội, đồng trinh trọn đời, hồn xác lên trời chỉ là những đòi hỏi bắt buộc phải có, hay là những hiệu quả tất nhiên của chức vụ Mẹ Thiên Chúa độc đáo này. Thánh Bônaventura đã nói: “Chức Mẹ Thiên Chúa là một ơn vĩ đại phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho loài thụ tạo. Ơn ấy Ngài đã ban cho Đức Maria”, “Thiên Chúa có thể mở rộng thêm bầu trời, có thể làm cho trái đất lớn thêm ra, có thể tạo dựng một thế giới vĩ đại hơn, nhưng Thiên Chúa không thể tạo dựng một người Mẹ Thiên Chúa cao sang hơn được nữa, vì muốn vậy phải có một Con Thiên Chúa cao trọng hơn nữa, điều đó không thể nào có được”. Thánh Tôma Tiến sĩ nói thêm: “Tước vị Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria cao trọng hầu như vô cùng, vì Thiên Chúa không thể cất nhắc ai lên bậc tốt lành và cao sang hơn nữa, chức mẹ Thiên Chúa hầu như đã tới biên giới vô cùng”.
Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, Đức Mẹ có uy quyền đáng kính nể, đó là điều thông thường và dễ hiểu, bởi vì một người mẹ nào có con làm lớn và nhiều quyền, thì người mẹ đó cũng có nhiều uy quyền và được mọi người kính nể. Đàng khác, trên đời này chúng ta chỉ trông cậy người nào có thế và có lòng, vì có hai yếu tố đó họ sẽ giúp chúng ta đạt được những điều chúng ta mong muốn. Đức Maria có cả hai yếu tố đó và có một cách tuyệt vời. Đức Mẹ có thế, vì là Mẹ Thiên Chúa, chẳng có sự gì Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta mà không được. Đức Mẹ lại có lòng, tấm lòng của một bà mẹ, hoàn hảo hơn hết người mẹ. Vì thế, chúng ta hãy đến với Đức Mẹ và năng cầu xin mẹ cứu giúp.
Hôm nay là ngày tân niên, ngày đầu của một năm mới, chúng ta hãy trao năm mới này, trao con người và cuộc đời chúng ta trong vòng tay từ mẫu của Mẹ, xin Mẹ ban bình an và cho chúng ta thêm tuổi thêm khôn ngoan, thêm nhân đức, thêm sự nghiệp đức tin trước mặt Thiên Chúa và mọi người.
31/12 Hiến dâng cho Chúa
- Viết bởi Lc 2, 22-40
Hiến dâng cho Chúa.
CHÚA NHẬT THÁNH GIA năm B.
"Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan".
Lời Chúa: Lc 2, 22-40
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật.
Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, bây giờ, Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa". Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người.
Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM LỄ THÁNH GIA – Năm B
Lời Chúa: Hc 3,3-7.14-17a hay St 15,1-6; 21, 1-3; Cl 3,12-21 hay Dt 11, 8.11-12, 17-19 Lc 2, 22-40 hay 2, 22. 39-40
MỤC LỤC
1. Tiến dâng cho Chúa--‘Manna’
2. Một lưỡi gươm đâm thâu--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
3. Gia Đình - Con Đường--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. “Ba Ngôi cực thánh ở trần gian”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
5. Gia đình gương mẫu--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
6. Xây dựng gia đình Kitô hữu--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
7. Gương sáng của Thánh Gia Nadarét--Lm. Đan Vinh
8. Lễ của mỗi gia đình--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
9. Gia đình, một Giáo Hội thu nhỏ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
10. Dung mạo Chúa Cứu Thế--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
11. Nhìn ngắm gia đình Chúa Giêsu--Lm. Ignatiô Trần Ngà
12. Gia đình Kitô hữu cũng là thánh gia--Lm. Ignatiô Trần Ngà
13. Mái Ấm Hạnh Phúc--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
14. Bài giảng lễ Thánh Gia Thất--giaophanthaibinh.org
15. Lễ Thánh Gia--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
16. Gia đình là một quà tặng--Trần Văn Ngữ, SJ.
17. Cầu nguyện, sống còn của gia đình--Lm. Minh Anh
18. Gia đình của tôi ơi!--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
19. Trách nhiệm - Tình yêu--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P
20. Ơn Người Cứu Độ--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
21. Dâng Chúa trong đền thờ--R. Gutzwiller
22. Để cứu các gia đình, Chúa Cứu Thế đã chọn sinh ra trong gia đình--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
23. Gia đình trong chương trình cứu độ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
24. Gia đình sống hiệp thông--Lm. Giuse Lê Danh Tường
25. Lễ Thánh Gia--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
26. “Gia Đình, Nguồn Gốc của Tình Yêu”--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
27. Lễ Thánh Gia--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
28. Mái ấm gia đình--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
29. Hạnh phúc gia đình--JKN
30. Gia đình là trường thực tập yêu thương--JNK
31. Đầy tràn khôn ngoan--Lm. Trầm Phúc
32. Lễ Thánh Gia Thất--Lm Giuse Đỗ Văn Thụy
33. Thánh hóa gia đình--AM Trần Bình An
34. Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan, ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người--Lm. Jos. Đăng
35. Gia Đình vui sống theo Luật Chúa--Lm. Nhất Tiến
36. Gia đình cầu nguyện--Lm Mark Link, SJ.
37. Thánh Gia Thất--Lm. Munachi Ezeogu
38. Mái ấm gia đình--Lm Vũ Đình Tường
39. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh--Lm. FX Vũ Phan Long
40. Chú giải của Noel Quesson
41. Lòng tin không đắm đo của Đức Maria và thánh Giuse--Fiches Dominicales
42. Trình dâng Chúa Giêsu tại Đền thờ--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
43. Chú giải của William Barclay
44. Tổ ấm--Beliefnet.com--Trầm Thiên Thu
45. Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan, ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người--Lm. Jos. Đăng
46. Lễ Thánh Gia--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
47. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng
48. Gia đình, cộng đoàn yêu thương--Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
49. Suy niệm của Lm Hà Ngọc Đoài
50. Lễ Thánh Gia Thất--Phan Hữu Lộc
51. Con cái là triều thiên của cha mẹ.--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
52. Gia đình thánh--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
53. Một gia đình tuyệt vời--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
54. Chúa Giêsu có một gia đình--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
55. Những nét đẹp của Thánh Gia Thất--Lm. Gioan Lê Quang Tuyến
56. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
57. Gia đình nơi để yêu thương--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
58. Gia đình hiến dâng cho Thiên Chúa
59. Vươn cao hơn
60. Những nhân vật
61. Gia đình nhân loại
62. Giáo Hội cỡ nhỏ
63. Sống vì nhau
64. Tình yêu trong gia đình
65. Yêu thương - Vâng lời
66. Gia đình là cộng đoàn yêu thương
67. Gia Đình Thánh
68. Đức Kitô tiếp tục lớn lên
69. Gia đình, cộng đoàn yêu thương
70. Mái nhà lý tưởng
71. Gương mẫu Thánh Gia
72. Gia đình Giuse - Maria - Hài Nhi Giêsu
73. Gia đình có Chúa, có bình an
74. Tình yêu và lòng kính trọng trong gia đình
75. Tầm quan trọng của đời sống gia đình
76. Bếp lửa
77. Dung mạo
78. Gia đình, nơi Thiên Chúa làm người
79. Gia đình, Hội Thánh tại gia
80. Gia đình thánh
81. Cộng đoàn nên thánh
82. Giáo hội nhỏ
83. Công cha – Nghĩa mẹ
84. Vai trò của gia đình
85. Mái ấm gia đình
86. Cha mẹ và con cái
87. Gia đình cần có một cõi riêng tư dành cho Chúa
88. Gia đình tôn thờ Thiên Chúa
89. Thánh Gia
90. Lớn lên
91. Lớn lên
92. Thánh gia là gương mẫu mọi gia đình
93. Lễ Thánh Gia--Huệ Minh
1.Tiến dâng cho Chúa--‘Manna’
Suy Niệm
Chấp nhận làm người là chấp nhận thuộc về một gia đình.
Ngôi Lời làm người chấp nhận có mẹ, có cha.
Tuy thánh Giuse và Đức Maria không có tương giao vợ chồng,
nhưng tình yêu chẳng bao giờ thiếu ở Nagiarét.
Chúng ta không biết nhiều về đời sống của Thánh Gia,
nhưng chúng ta thấy Hai Đấng luôn ở bên nhau,
đi chung với nhau trên những con đường,
chia sẻ với nhau mọi nỗi buồn vui,
trong thời gian Đức Giêsu còn thơ ấu.
Thánh Giuse đã đưa Đức Maria đi Bêlem.
Đoạn đường cam go đối với người gần ngày sinh nở.
Thánh Giuse cũng đã đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập,
rồi lại đưa về làng cũ.
Có lần cả hai phải vất vả mấy ngày tìm con trong âu lo và nước mắt.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy
cả gia đình thánh lên Đền Thờ lần đầu tiên.
Một đôi vợ chồng nghèo với đứa con còn nhỏ.
Đây là một gia đình gắn bó với luật Chúa.
Luật dạy người mẹ phải tẩy uế sau khi sinh con.
Đức Maria vui lòng giữ luật ấy,
dù Mẹ biết Đấng được Mẹ sinh ra là Đấng Thánh.
Luật dạy phải chuộc lại đứa con trai đầu lòng
vì nó thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa.
Đức Giêsu chẳng những đã được chuộc lại,
mà còn được cha mẹ Ngài tiến dâng cho Chúa.
Con Thiên Chúa đã lớn lên trong bầu khí gia đình.
Ngài đã tập làm người.
Mái nhà là trường học đầu tiên.
Thầy cô đầu tiên là cha mẹ.
Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt thật hài hòa.
Bé Giêsu, anh Giêsu, chú Giêsu, Ông Giêsu...
Ngài lớn lên trong dòng thời gian.
Thời gian là ánh mặt trời làm cho trái chín.
Nhờ lao động với Cha nuôi
mà Ngài trở nên vững vàng và đủ sức khỏe
để đảm nhận sứ vụ.
Nhờ chuyên cần học tập mà Ngài thêm khôn ngoan.
Dù Ngài là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa,
nhưng Ngài vẫn học hỏi nơi bạn bè, kinh sư,
nơi kinh nghiệm rút ra từ cuộc sống.
Nhờ được dạy cầu nguyện mà Ngài có tình thân với Cha.
Những lời kinh đầu tiên được bập bẹ trên gối mẹ.
Nagiarét đã thành trường huấn luyện
Đức Giêsu trở nên người biết sống cho người khác,
và nên vị tông đồ tuyệt vời cho Cha và nhân loại.
Có bao bài học sống động ở dưới mái ấm này.
Bài học yêu thương, cảm thông, tha thứ,
bài học phục vụ, quên mình, khiêm hạ xin vâng...
Ước gì mọi gia đình Kitô hữu đều là một Thánh Gia,
để mỗi người con đều trở nên một Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Xã hội suy sụp vì gia đình đổ vỡ. Đâu là những mối đe dọa mà gia đình hôm nay đang gặp phải? Một gia đình Kitô hữu dựa vào đâu để vượt qua những khó khăn đó?
Để có một gia đình hạnh phúc, cần có những người vợ, người chồng "đủ tiêu chuẩn". Theo ý bạn, đâu là những tiêu chuẩn mà một bạn trẻ cần có trước khi lập gia đình?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nagiarét,
Chúa đã thành một người chính chắn và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh,
khôn ngoan và tràn đầy ơn Chúa.
2.Một lưỡi gươm đâm thâu--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm
Trong phòng của Đức Thánh Cha Phanxicô
có tượng thánh Giuse đang nằm ngủ.
Lần đầu tiên nhìn thấy tượng này, ai cũng ngạc nhiên,
vì quen thấy thánh Giuse ở bên Chúa Giêsu hay Đức Mẹ,
hay đang thức để làm một công việc gì đó.
Thánh Giuse nằm nghiêng, ngủ một mình, có vẻ ngủ say,
còn mặc nguyên bộ quần áo khi đi đường.
Chúng ta không thể đoán ngài ngủ ở đâu, vào dịp nào,
nhưng hầu chắc ngài đang cần nghỉ ngơi để lấy lại sức.
Làm cha nuôi của Đức Giêsu hẳn không dễ.
Làm người bạn đường của Đức Mẹ cũng thật cam go.
Ta thường hình dung Thánh Gia như một gia đình đặc biệt,
luôn đầy ắp tiếng cười, đầy ắp niềm vui,
chẳng có chuyện gì trục trặc, chẳng bao giờ gợn chút sóng gió.
Ta thường nghĩ vì Thánh Gia là gia đình của ba vị thánh,
gần gũi với Thiên Chúa, nên dĩ nhiên là phải luôn bình an.
Thật ra, nếu đọc kỹ Tin Mừng, ta sẽ có một cái nhìn khác.
Đời sống của Thánh Gia khá giống với đời sống của chúng ta.
Không phải vì Đức Giêsu là Con Thiên Chúa,
nên Thánh Gia được hưởng những đặc quyền, đặc ân.
Thật ra Thánh Gia đã sống cuộc đời vất vả, long đong,
đã trải qua bao nỗi buồn vui như những gia đình khác.
Vì thế Thánh Gia mới thật là mẫu mực để chúng ta noi theo.
Xem ra Thánh Gia không có gì phi thường ở làng Nadarét.
Khi Đức Giêsu về giảng tại hội đường ở quê nhà,
Nhiều người dân làng đưa ra lời bình phẩm:
“Ông này không phải là bác thợ, con bà Maria,
và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao?
Chị em của ông không phải là láng giềng với ta sao?” (Mc 6,3).
Chúng ta đều biết chuyện ông Giuse suýt chia tay Maria,
khi biết vị hôn thê của mình mang thai (Mt 1,19).
Chúng ta cũng rõ chuyện Thánh Gia lúng túng ở Belem.
Người nghèo thường không có chỗ trọ (Lc 2,7).
Khi sinh con đầu lòng, Maria phải đặt con nằm trong máng cỏ.
Hoảng hốt đem Hài nhi trốn sang Ai-cập trong đêm khuya,
rồi bươn chải kiếm sống để có thể ở lại Ai-cập như một di dân:
đó là những trải nghiệm kinh khủng đối với đôi vợ chồng trẻ.
Người ta thường cho rằng thánh Giuse qua đời sớm,
Nếu đúng thế thì bà quả phụ Maria phải đảm đương thay chồng.
Ngày Đức Giêsu chia tay Mẹ để lên đường làm việc của Chúa Cha,
Mẹ Maria bây giờ sống dựa vào ai?
Mẹ sống dựa vào ai sau khi Con của Mẹ về trời?
Chúng ta mong một gia đình hạnh phúc, không có nước mắt.
Nhưng Thánh Gia không tránh khỏi nước mắt.
Maria có thể đã khóc khi lạc con ba ngày ở Đền thờ (Lc 2,46).
Maria có thể đã khóc khi nghe người ta nói con mình mất trí,
và Mẹ đã đôn đáo cùng với thân nhân đi tìm Con (Mc 3,21).
Chắc chắn Mẹ đã khóc khi đứng gần thập giá treo xác Con (Ga 19,25).
Mẹ đã nói tiếng Xin Vâng trước cái chết quá trẻ của Con mình.
Mẹ Maria có thể đặt nhiều câu hỏi tại sao với Thiên Chúa
về những biến cố đau buồn hay mất mát trong đời mình.
Trong Đền thờ, Mẹ đã dâng Con cho Thiên Chúa,
và rồi Mẹ chẳng còn quyền gì trên người Con này nữa.
Đúng là có một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn Mẹ (Lc 2,35).
Mẹ Maria vui khi thấy con mình lớn lên về mọi mặt.
Nước mắt Mẹ được lau khô khi Chúa phục sinh hiện ra với Mẹ.
Ngày nay Thánh Gia là gia đình nhiều người muốn noi theo,
không phải vì có tam đại đồng đường hay phúc lộc thọ.
Nhưng vì đó là gia đình đã trung tín theo Chúa đến cùng,
bất chấp những trắc trở và khó khăn của cuộc sống.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Xin nhìn đến các gia đình đang bị khép kín,
các trẻ em không được cắp sách đến trường,
một số cha mẹ không thể ra ngoài;
một số thì bị cách ly vì dịch bệnh.
Xin Chúa giúp đỡ họ khám phá những cách thức mới,
những con đường mới để diễn tả tình yêu, và sự sống chung
trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay.
Thời gian thử thách lại có thể là một cơ hội tốt
để tìm lại tình yêu thương đích thực,
và tinh thần sáng tạo trong gia đình.
Chúng con cầu xin Chúa cho các gia đình.
Mong sao các tương quan gia đình trong lúc này
được luôn triển nở và mang lại những điều tốt đẹp.
(Phỏng theo ý của Đức Thánh Cha Phanxicô 16/3/2020)
3.Gia Đình - Con Đường--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Tục ngữ Việt nam có câu: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Đứa con nào cũng ít nhiều mang khí huyết của cha, mang thịt máu của mẹ.
Nếu trong sinh học, yếu tố di truyền là tất yếu thì trong đời sống luân lý, nề nếp gia phong cũng ảnh hưởng sâu xa đến con người. Trẻ thơ vốn dễ bắt chước. Đứa trẻ lớn lên trong gia đình sẽ nói ngôn ngữ của cha mẹ, học lề thói cư xử của anh chị, tiếp thu những quy ước, hít thở thấm tẩm bầu khí gia đình. Gia đình là vườn ươm. Vườn ươm cung cấp những tố chất đầu tiên cho cây giống. Những tố chất tốt sẽ giúp cây lớn mạnh, sinh hoa kết quả tốt đẹp. Gia đình là con đường. Con đường thẳng sẽ dẫn trẻ đạt ước mơ, lý tưởng.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy Thánh Gia thật là một vườn ươm tốt đẹp đã ấp ủ hạt mầm Giêsu, một con đường thẳng tắp đưa Đức Giêsu tiến trên con đường vâng phục Thánh Ý Chúa Cha.
Thánh Giuse và Đức Maria đưa Hài Nhi Giêsu lên Giê-ru-sa-lem để dâng cho Thiên Chúa. Thực ra luật Mô-sê không buộc phải đưa con lên Đền Thờ, chỉ buộc nộp một số tiền nếu đó là con đầu lòng (Xh 13,13; 34, 20). Việc dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ cho thấy Thánh Gia nhiệt thành chu toàn lề luật và tha thiết gắn bó với Đền Thờ.
Sự nhiệt thành đối với lề luật và tha thiết với Đền Thờ còn được tỏ lộ qua việc hằng năm các ngài hành hương lên Giê-ru-sa-lem. Đức Giêsu bắt đầu được tham dự cuộc hành hương khi lên 12 tuổi.
Như những người Do-thái thuần thành, hằng tuần các ngài vào hội đường Na-da-rét để đọc và nghe Sách Thánh. Việc đến hội đường vào ngày Sa-bát đã trở thành thói quen của gia đình và sau này Đức Giêsu vẫn duy trì. Tất cả những nề nếp đó in sâu vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu tha thiết với Đền Thờ nên không những giữ trọn luật hành hương mà Người còn ra công tẩy uế (x. Ga 2, 13-17). Đức Giêsu yêu mến Đền Thờ đến nhỏ lệ thương cho Đền Thờ sẽ bị tàn phá cùng với Thành Thánh Giê-ru-sa-lem (x. Lc 19, 41; 21, 5-6). Đức Giêsu yêu mến lề luật nên không huỷ bỏ dù là một chấm, một phẩy, mà chỉ kiện toàn cho luật nên hoàn hảo (x. Mt 5, 17). Đức Giêsu vẫn thường xuyên vào Hội Đường, nên khi trở về thăm làng quê Na-da-rét, "Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát và đứng lên đọc Sách Thánh" (Lc 4, 16).
Xem thế đủ biết nề nếp đạo đức gia đình đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời Đức Giêsu như thế nào. Chắc chắn Đức Giêsu không chỉ thừa hưởng từ nơi Thánh Giuse và Đức Maria lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa, mà còn thừa hưởng nơi các ngài sự mau mắn vâng phục Thánh Ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình, sự chuyên chăm làm việc, sự ân cần âu yếm với con cái... mà ta thấy bàng bạc trong những lời Người giảng dạy và nhất là trong đời sống của Người. Chính trong bầu khí gia đình nề nếp ấy, Đức Giêsu đã phát triển về mọi mặt, "càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa".
Gia đình thật quan trọng. Chính gia đình quyết định tương lai trẻ thơ. Gia đình là vườn ươm. Hạt mầm trẻ thơ có lớn mạnh được là nhờ vườn ươm có đầy đủ nước, phân bón và đất tốt. Gia đình là bầu khí quyển. Bầu khí có trong lành bổ dưỡng thì trẻ thơ mới phát triển được về mọi mặt. Gia đình là con đường. Đường có ngay thẳng, có định hướng thì tương lai trẻ thơ mới tươi sáng không đi vào ngõ cụt.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con.
4.“Ba Ngôi cực thánh ở trần gian”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Có người đã tìm ra một định nghĩa về gia đình dựa theo ngữ vựng tiếng Anh: F-A-M-I-L-Y = Father And Mother, I Love You = Cha Mẹ ơi, con yêu Cha Mẹ. Định nghĩa thú vị này đã nêu lên một yếu tố căn bản làm nền tảng cho sự bền vững của gia đình, đó là tình yêu. Một gia đình không được xây dựng trên nền tảng tình yêu thì sẽ bị biến thành quán trọ, nơi đó mỗi thành viên chỉ tìm thấy nơi đặt mình khi đêm về, và mối tương quan giữa người vợ người chồng chỉ còn là một “hợp đồng sống chung”, giống như một hợp đồng thương mại. Gia đình thiếu vắng tình yêu sẽ trở thành hỏa ngục. Nhờ tình yêu, mọi người dễ dàng tha thứ cho nhau và sống vì nhau một cách có trách nhiệm. Nhờ được thúc đẩy bởi tình yêu, ai cũng muốn điều tốt lành đến với những người mình yêu mến, và người ta cố gắng hy sinh để đem lại niềm vui cho những người trong gia đình.
Ngày Chúa nhật liền sau lễ Giáng Sinh, chúng ta mừng lễ Thánh Gia. Đó là gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse. Các ngài được tôn vinh là Ba Ngôi cực thánh ở trần gian, tức là sự thánh thiện giữa ba thành viên của gia đình Nagiarét hoàn hảo đến nỗi người ta thấy được ở đó phản chiếu sự thánh thiện viên mãn của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu thương giữa Đức Mẹ, Thánh Giuse và Chúa Giêsu được sánh ví như tình yêu của Chúa Cha với Chúa Con, và rồi từ tình yêu ấy phát xuất Chúa Thánh Thần. Như thế, hạnh phúc gia đình là hình ảnh đẹp để diễn tả màu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Một gia đình hạnh phúc và tràn ngập yêu thương cũng là nơi có Chúa hiện diện, vì “đâu có tình yêu thương thì đó có Đức Chúa Trời”.
Đời sống gia đình luôn có những bước thăng trầm, đòi hỏi mỗi người phải kiên trì nhẫn nại. Thánh Gia ở Nagiarét cũng đã phải trải qua những khó khăn vất vả. Thánh Mátthêu kể với chúng ta việc Thánh Giuse và Đức Mẹ vất vả đem Hài Nhi Giêsu chạy trốn trước mưu đồ của Hêrôđê. Cha Mẹ Hài nhi không ỷ thế con mình là Con Đấng Tối cao để than phiền và đòi hỏi những điều kiện thuận lợi. Hai Ông Bà đã âm thầm đưa Con mình trốn sang Aicập vào lúc nửa đêm. Cuộc chạy trốn rất vất vả đổi với một người mẹ mới sinh con và một hài nhi vừa lọt lòng. Thánh Giuse, người cha và cột trụ của gia đình, đã chấp nhận tất cả sự gian truân đó. Khi trốn sang Aicập, cũng như lúc trở về quê hương, gia đình nhỏ bé này đều gặp những thử thách, nhưng nhờ sự mạnh mẽ can trường của Thánh Giuse mà Hài Nhi Giêsu đã thoát bàn tay độc ác và tâm địa thâm độc của Hêrôđê. Sự can thiệp của sứ thần báo mộng cho Giuse cho thấy kết quả của lòng tín thác vào Chúa của hai Ông Bà. Ông Bà luôn tin rằng Thiên Chúa luôn dẫn dắt và quan phòng chở che những ai đang cộng tác với chương trình cứu độ của Ngài.
Lòng tin và cậy trông vào Thiên Chúa sẽ đem lại những hiệu quả lạ lùng. Ông Abraham buồn bã vì chưa có con nối dòng, mặc dù ông đã cao niên, vậy mà Chúa lại hứa với ông rằng dòng dõi ông sẽ đông đảo như sao trên trời. Ông đã tin vào lời Chúa và tác giả sách Sáng thế còn thêm: nhờ tin mà ông được kể là người công chính. Cuộc sinh hạ của Isaac là bằng chứng hùng hồn cho hiệu quả của lòng tin. Tác giả thư Do Thái sau này ca tụng ông Abraham như mẫu mực của những kẻ tin. Ông vâng lệnh Thiên Chúa và tín thác nơi quyền năng của Ngài, đến nỗi sẵn sàng hiến tế người con độc nhất, người con ông sinh ra trong lúc tuổi già, và cũng là niềm hy vọng duy nhất của ông.
Trong bài Tin Mừng, thánh Luca giới thiệu với chúng ta lòng đạo đức của gia đình ở Nagiarét. Qua việc dâng con trong Đền thờ, ông Giuse và bà Maria vừa tuân giữ lề luật của Cựu ước, vừa muốn giới thiệu Đấng Cứu thế cho dân tộc mình. Ông Simêon và bà Anna là đại diện cho dân riêng để đón Đấng Cứu thế tại Đền thờ. Cả hai đều nói tiên tri về Hài Nhi Giêsu, về cuộc khổ nạn trong tương lai của Người.
Xây dụng và củng cố tình yêu gia đình là điều kiện căn bản để phát triển xã hội cũng như Giáo Hội, vì gia đình là tế bào của xã hội, là Giáo Hội tại gia, là nền tảng cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Những bài đọc Lời Chúa hôm nay chứa đựng giáo huấn rất phong phú, nhằm thiết lập và duy trì mối tương quan giữa các thành viên trong gia đình. Nhờ được thấm đượm bằng lời kinh và lời ca tiếng hát ca tụng Chúa, gia đình sẽ bền vững và luôn có niềm vui.
Người xưa đã nói: “Nhà thịnh hay suy không tại giàu sang hay nghèo hèn, mà tại có lễ nghĩa hay không” (Lục Cửu Uyên, người Trung Hoa 1139-1192). Trong xã hội chúng ta hôm nay, những án mạng hay xung đột đau lòng xảy đến do mâu thuẫn gia đình đã chứng minh: không phải lúc nào tiền bạc cũng đem lại cho con người hạnh phúc, trái lại, tiền bạc nhiều lúc là nguyên nhân đổ vỡ gia đình và đem lại cho con người sự bất hạnh. Như đã nói ở trên, chỉ có tình yêu mới đem lại hạnh phúc đích thật. Chỉ có tình yêu mới có sức níu kéo con người khi đi xa thì mong về với gia đình, vì ở đó, tâm hồn họ được sưởi ấm, niềm vui họ được đong đầy.
Trong năm 2021, Hội đồng Giám mục mời gọi mọi thành phần Dân Chúa đồng hành với người trẻ trong đời sống gia đình. Các bạn trẻ cần học hỏi để hiểu biết giáo lý hôn nhân, đồng thời nhận biết bổn phận của người làm vợ làm chồng. Hiện nay, một số bạn trẻ đua đòi theo lối sống buông thả, gạt bỏ những chuẩn mực đạo đức và dễ dãi trong quan niệm về tình dục, về hôn nhân và gia đình.
Hãy ngắm nhìn Thánh Gia và dâng những lời nguyện ước. Thánh Giuse và Đức Maria vừa chu toàn bổ phận hằng ngày, vừa chiêm ngắm Chúa Giêsu. Các ngài tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Các ngài được diễm phúc có Chúa trong gia đình của mình. Đó là cội nguồn của hạnh phúc và yêu thương. Xin cho mỗi gia đình chúng ta luôn có Chúa hiện diện, nhờ đó mà gia đình được bền vững và an vui.
5.Gia đình gương mẫu--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và sống trong một gia đình. Gia đình của Ngài gồm có Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria và Ngài. Một gia đình rất thánh thiện, gương mẫu. Hôm nay dâng lễ mừng kính Thánh Gia, chúng ta hãy học nơi các Ngài những đức tính cần có trong cuộc sống gia đình, và chúng ta xin các Ngài ban ơn cho gia đình chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những thiếu sót của chúng ta đối với những người trong gia đình mình.
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì chưa dành chỗ xứng đáng cho Chúa trong gia đình mình.
Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những gương xấu mà gia đình mình đã gây ra cho những gia đình chung quanh.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Hc 3, 3-7. 14-17a
Huấn ca là một tập sách luận bàn về cách sống khôn ngoan trong nhiều lãnh vực. Trong đoạn này, tác giả, Ben Sira, đưa những lời khuyên về cách sống trong gia đình. Điều quan trọng nhất là con cái phải thảo kính cha mẹ. Tác giả kể ra những ích lợi của việc này:
Việc thảo kính cha mẹ sẽ đền bù được tội lỗi
Người thảo kính cha mẹ đến khi có con cái thì được con cái mình thảo kính.
Người thảo kính cha mẹ khi cầu nguyện sẽ được Chúa nhậm lời.
Phải thảo kính cha mẹ nhất là khi các ngài già yếu.
2. Đáp ca: Tv 127
Tv này được hát lúc hành hương lên Đền thờ Giêrusalem. Người tín hữu hành hương tin chắc rằng ai sống công chính thì sẽ được Thiên Chúa ban phúc. Các ơn phúc Chúa ban trước hết là những ơn cho cuộc sống gia đình: việc làm ăn có kết quả, vợ con mạnh khoẻ, sống lâu v.v.
3. Tin Mừng: Lc 2, 22-40
Tường thuật việc Thánh gia lên Đền thờ Giêrusalem để dâng con cho Thiên Chúa. Trong dịp này, cụ ông Simêon và cụ bà Anna nói những lời tiên tri về tương lai của Đức Giêsu.
Một số điều đáng lưu ý:
Thánh gia là một gia đình nghèo (lễ vật của người nghèo), nhưng giữ luật đạo rất chín chắn (luật thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con, luật cắt bì cho con, luật dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa).
Các phần tử của Thánh gia rất hiệp nhất với nhau: tất cả đều cùng nhau lên Đền thờ mặc dù luật không buộc như thế (chẳng hạn luật tẩy uế cho người mẹ chỉ buộc người mẹ lên đền thờ thôi).
Khi đó cha mẹ Đức Giêsu chưa hiểu hết mầu nhiệm con mình. Bởi vậy, khi nghe Simêon nói, hai ông bà "kinh ngạc".
4. Bài đọc II: Cl 3, 12-21
Thánh Phaolô giảng về "nếp sống mới" của những người đã cùng chết và cùng sống lại với Đức Giêsu. Nếp sống này gồm:
Những đức tính nhân bản: "Từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau".
Nền tảng và nguồn gốc của những đức tính trên là chính Thiên Chúa: "Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương".
Bí quyết để sống được như trên là luôn suy gẫm Lời Chúa.
Và dịp tốt thường có để thực hành các đức tính ấy chính là trong gia đình.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Gia đình Nadarét và gia đình chúng ta
Gia đình Nadarét vừa giống nhưng cũng vừa khác phần lớn gia đình chúng ta:
Như phần lớn gia đình chúng ta, gia đình Nadarét nghèo. Trong Tin Mừng ta tìm thấy hai dấu chỉ tình trạng nghèo của các ngài: Khi đến Bêlem, Thánh Gia không đủ tiền để thuê một chỗ trọ trong hàng quán nên phải ở tạm trong hang súc vật; khi đem con đầu lòng dâng trong đền thờ cùng với lễ vật theo luật định, Thánh Gia chỉ dâng một đôi chim câu, là thứ lễ vật của người nghèo.
Như phần lớn gia đình chúng ta, gia đình Nadarét phải sinh nhai bằng chính sức lao động của mình. Có lẽ các ngài không có vốn để đầu tư, buôn bán. Thánh Giuse và Đức Giêsu kiếm tiền sinh sống bằng nghề thợ mộc.
Như phần lớn gia đình chúng ta, vì nghèo và vì theo nghề lao động, nên gia đình Nadarét không được người ta coi trọng cho lắm. Mãi sau này khi Đức Giêsu đã thôi làm ăn để đi rao giảng, thế mà nhiều người vẫn nhắc với giọng mỉa mai "Ông ta là con bác thợ mộc".
Nhưng gia đình Nadarét khác hầu hết gia đình chúng ta ở nhiều điểm: một là dù nghèo nhưng không gian tham trộm cắp; hai là dù nghèo nhưng không lục đục với nhau; ba là dù nghèo nhưng vẫn thu xếp công việc được để chu toàn mọi bổn phận trong đạo.
Những nét giống giữa gia đình Nadarét và gia đình chúng ta khiến chúng ta cảm thấy gần gũi với Thánh gia, và nhớ đó chúng ta biết mình có thể học với các ngài ở những điểm khác biệt với chúng ta.
* 2. Tương lai của đứa con gia đình
Trong ngày lễ đặt tên cho Gioan Tẩy giả, bà con lối xóm đã đặt câu hỏi "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào?" (Lc 1, 66). Đây là câu hỏi của mọi người làm cha mẹ. Càng thương con bao nhiêu, câu hỏi đó càng là mối băn khoăn cho cha mẹ bấy nhiêu, bởi vì cha mẹ thương con chỉ muốn cho con mình có một tương lai tốt đẹp, nhưng tương lai ấy lại không do cha mẹ hoàn toàn lo liệu cho con được.
Cha mẹ Đức Giêsu cũng thế. Bởi vậy, sau khi nghe cụ Simêon nói về tương lai của trẻ Giêsu bằng những lời rất khó hiểu, Tin Mừng viết, "Cha mẹ Ngài đều kinh ngạc".
Nhưng tương lai của đứa con không hoàn toàn không có phần của cha mẹ. Điều này rất rõ trong trường hợp Đức Giêsu:
Người ta vẫn nói Ngài là "con bác thợ mộc" (Mc 6, 3).
Đức Giêsu có thói quen cầu nguyện và sống với Chúa Cha. Thói quen này hẳn là Ngài đã học được từ gia đình. Tin Mừng tuy nói rất ít về thời thơ ấu của Ngài, nhưng cũng đủ cho ta thấy Thánh gia rất quan tâm chu toàn những bổn phận tôn giáo.
* 3. Dung mạo Chúa cứu thế
Hoàng đế của một vương quốc hùng cường và thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng.
Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ Ấn Độ vẽ. Ông càng thán phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc.
Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy chân dung mình hiện ra từng nét.
Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì họ đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
*
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng lòng mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simêon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người.
Simêon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu Thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài.
Simêon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu Thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma tuý ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đường.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh gia thất: một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương và chăm lo cho nhau. Thánh Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh Gia như sau: "Đức Giêsu đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadaret và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến" (Lc. 2, 51-52).
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông: "Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng, các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều..."
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp cũng tâm sự: "Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi, khuyến khích nâng đỡ sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin".
Có lẽ thế giới biết nhiều đến Thủ tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: "Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ".
Đức Piô XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: "Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao".
*
Lạy Đức Giêsu, xin dạy chúng con biết theo gương Chúa, luôn sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính với ông bà cha mẹ, và sống hết tình với anh chị em chung quanh.
Xin cho chúng con luôn biết đánh bóng đời mình, bằng tấm lòng khiêm tốn và đạo hạnh, bằng việc tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác, để dung mạo của Chúa ngày càng tỏ hiện sáng ngời trong cuộc đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Con cái
Con cái các bạn không phải là con cái của các bạn
Chúng đến qua các bạn chứ không phải từ các bạn.
Mặc dù chúng ở với các bạn nhưng chúng không thuộc về các bạn.
Các bạn có thể cho chúng tình thương nhưng không thể cho chúng ý tưởng, bởi vì chúng có những ý tưởng riêng của chúng.
Các bạn có thể lo nơi ăn chốn ở cho thân xác chúng chứ không thể cho linh hồn chúng, vì linh hồn chúng ở một nơi thuộc tương lai mà các bạn không thể đến thăm, ngay cả trong giấc mơ.
Các bạn có thể cố gắng để giống như chúng, nhưng đừng cố bắt chúng giống như các bạn.
Bởi vì cuộc sống không đi giật lùi và cũng không ngừng mãi ở ngày hôm qua.
Các bạn là những chiếc cung, và những mũi tên từ đó phóng đi chính là con cái của các bạn. (Kahil Gibran)
* 5. Đạo hiếu
Bài trích sách Huấn Ca (bài đọc I, được chỉ định đọc trong năm A, nhưng cũng có thể đọc trong năm B và C) có câu: "Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu"
Những từ mà Thánh Kinh dùng rất quen thuộc với người Việt Nam. Thí dụ như câu ca dao: "Một lòng thờ mẹ, kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
"Thờ" và "kính" chính là những việc làm trong tôn giáo. Hiếu thảo với cha mẹ chính là Đạo.
Câu Huấn ca và câu ca dao trên giúp ta ý thức rằng hiếu thảo với cha mẹ không chỉ là một tình cảm, cũng không phải chỉ là một lẽ công bình, mà là một Đạo. Mà lỗi đạo tức là phạm tội chứ không chỉ là một sự thiếu sót.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã làm cho Thánh gia trở nên đền thánh của sự sống, của tình thương, và của niềm vâng phục ý Chúa. Hôm nay mừng lễ Thánh Gia, chúng ta đặc biệt hướng về các gia đình và dâng lời cầu nguyện:
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh là gia đình của Chúa / luôn cố gắng sống hiệp thông với nhau / để làm chứng cho tình yêu Chúa cho thế giới.
2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các bậc làm cha mẹ và các nhà giáo dục / biết hướng dẫn và cộng tác với các con em mình / để xây dựng gia đình thành một tổ ấm đầy tình yêu thương.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người không gia đình / hoặc sống trong gia đình đang bị khủng hoảng xáo trộn / được ơn can đảm để nhẫn nhục chịu đựng / và tích cực góp phần hàn gắn lại những gì đã tan vỡ.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người làm cha mẹ cũng như làm con cái trong xứ đạo chúng ta / luôn ý thức trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc gia đình / để biết cởi mở, đối thoại, thông cảm và cô#ng tác với nhau theo thánh ý Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin chấp nhận những lời cầu chúng con dâng lên Chúa nhân dịp lễ Thánh Gia, để nhờ ơn Chúa giúp, mỗi người trong gia đình đều cộng tác làm cho gia đình trở nên Đền Thánh của sự sống của tình thương, và niềm vâng phục ý Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Ngoài gia đình tự nhiên, người kitô hữu chúng ta còn có được một gia đình siêu nhiên trong đó Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh em với nhau, và Đức Giêsu là anh cả. Trong tình nghĩa gia đình ấy, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha.
- Trước lúc Rước lễ: Thánh lễ là một bữa ăn gia đình. Chúa là gia trưởng, các tín hữu là con cái ngồi quanh bàn ăn. Phúc cho những ai được mời vào bàn ăn gia đình ấy.
VII. Giải tán
Sau khi được khuyến khích bởi tấm gương gia đình Nadarét, giờ đây anh chị em trở về sống với gia đình mình và các gia đình hàng xóm. Anh chị em hãy sống theo gương thánh gia. Chúc anh chị em bình an.
6.Xây dựng gia đình Kitô hữu--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Hôm nay Giáo hội cho chúng ta mừng lễ kính Thánh Gia, một mẫu gương cho các gia đình Kitô giáo. Tuy bài Tin mừng hôm nay không trực tiếp nói đến đời sống Thánh gia, chỉ có vài đoạn đề cập đến nhân đức âm thầm của Đức Maria, đức tin phó thác của thánh Giuse, sự vâng phục của Đức Giêsu, nhưng đó cũng là gương mẫu cho các gia đình noi theo.
Các gia đình ngày nay đang xuống dốc, làm lung lay cả nền tảng xã hội. Chúng ta là những gia đình Kitô hữu cần phải được củng cố lại cho bền vững để nêu gương cho các gia đình khác đang bị lung lay, bằng cách làm cho mái ấm gia đình thấm nhuần đức tin Kitô giáo: biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, sống trên thuận dưới hoà, biết phục vụ, tha thứ cho nhau và trung thành trong đời sống hôn nhân.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Hc 3,2-6,12-14.
Khi nói về những đức tính phải có trong đời sống gia đình, Ben Sira, tác giả sách Huấn ca, nói ngay đến lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Sách Huấn ca này được viết vào khoảng năm 190 trước Chúa Kitô, bàn về cách sống khôn ngoan trong nhiều lãnh vực. Đây là tuyển tập các phương ngôn, phản ánh sự khôn ngoan của xã hội thời đó, một sự khôn ngoan dựa trên kinh nghiệm và lương tri.
Theo tác gia sách Huấn ca, lòng hiếu thảo đưa đến nhiều lợi ích:
- Đền bù tội lỗi.
- Được con cái cháu chắt thảo hiếu lại.
- Sẽ được Chúa nhận lời.
- Phải thảo kính nhất là khi cha mẹ già yếu.
+ Bài đọc 2: Cl 3,12-21.
Trong lễ Thánh gia hôm nay, Giáo hội trích đoạn thư của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Côlossê trong khi Ngài đang bị cầm tù lần thứ nhất. Ngài nói về “nếp sống mới” của những người đã cùng chết và sống lại với Đức Kitô. Theo đó, người theo nếp sống mới phải có những đức tính nhân bản: từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau.
Nền tảng của những đức tính này là Thiên Chúa. Nếu thánh Gioan tông đồ nói: “Thiên Chúa là tình yêu” thì căn bản của đời sống gia đình cũng là thực tình yêu thương nhau trong Chúa. Nếu Thiên Chúa đã xử đối với chúng ta thế nào thì chúng ta cũng phải xử đối với nhau như vậy.
+ Bài Tin mừng: Lc 2,22-30.
Thánh Luca đã tường thuật việc thánh Giuse và Đức Maria đem con lên đền thờ Giêrusalem để dâng Con cho Thiên Chúa theo luật dạy. Cuộc hành hương lên Giêrusalem này hé mở cho chúng ta biết một số đặc tính của gia đình Thánh gia:
- Thánh gia là một gia đình nghèo, của lễ dâng chỉ là cặp bồ câu.
- Cặn kẽ giữ luật Chúa mặc dầu Luật không đòi buộc các Ngài phải giữ.
- Gia đình hiệp nhất cùng đi dâng lễ.
Trong dịp này, thánh Giuse và Đức Maria đã nhìn thấy rõ và xác định được sứ mạng của Người Con các ngài, qua lời tiên tri của cụ già Simêon và bà Anna: sứ mạng của con trẻ này sẽ vừa bi thương vừa vinh quang. Tuy thế, các Ngài hoàn toàn tuân phục Thiên Chúa, các Ngài đã quảng đại chấp nhận và thi hành ý Chúa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Xây dựng mái ấm gia đình.
I. NGÀY LỄ THÁNH GIA
1. Lý do mừng lễ.
Lễ Thánh gia được thiết lập vào cuối thế kỷ 19, tương đối mới. Đức Giáo hoàng Lêô XIII bấy giờ rất quan tâm đến các vấn đề xã hội. Người thấy nhân loại đang đi vào một nền văn minh mới. Lý trí và khoa học đòi quyền tự lập và tự chủ. Ảnh hưởng đạo đức bớt dần. Và trong phạm vi gia đình, người ta đã nói nhiều đến tự do, ly dị, cởi mở... Những phong trào “gia đình công giáo” có từ thế kỷ 16 ráo riết cổ động người ta noi gương Thánh gia. Đức Giáo hoàng Lêô XIII cũng như các vị kế tiếp muốn chúc phúc cho những phong trào này. Và lễ Thánh gia được thiết lập theo bối cảnh ấy.
Do đó, Giáo hội muốn cho chúng ta mừng lễ này là nhằm đề cao vai trò của gia đình và đưa ra một mẫu gương tuyệt hảo cho mọi người noi theo.
2. Thánh gia, một gia đình gương mẫu.
Dựa theo Tin mừng chúng ta có thể biết được rằng gia đình Thánh gia là một gia đình gương mẫu trong việc giữ luật Chúa, mặc dù luật không buộc các ngài phải giữ, nhưng các Ngài đã làm như thế để nêu gương cho chúng ta. Các nghi lễ đó là:
a) Lễ nghi cắt bì: Theo luật, mỗi con trai người Do thái phải chịu cắt bì ngày thứ tám sau khi sinh, và trong ngày này con trẻ được đặt tên. Thánh Giuse và Đức Maria cũng cho con trẻ được cắt bì và đặt tên là Giêsu, tên mà thiên sứ đã báo trước khi truyền tin cho Đức Maria.
b) Chuộc con đầu lòng: Theo sách Đệ nhị luật (13,2) thì mọi con đầu lòng, dù người hay súc vật đều được dành riêng cho Thiên Chúa. Người ta qui định rằng dâng một số tiền 5 shekel, cha mẹ có thể chuộc lại đứa con từ nơi Chúa, hoặc dâng một số lễ vật khác như chiên hay đôi chim câu. Thánh Giuse và Đức Maria cũng đã chuộc lại con trẻ Giêsu bằng đôi chim câu.
c) Lễ thanh tẩy sau khi sinh: Theo luật, khi người đàn bà sinh con trai thì người mẹ bị ô uế trong 40 ngày, nếu sinh con gái thì bị ô uế 80 ngày. Khi thời gian qui định chấm dứt, người mẹ phải vào đền thờ để được tẩy uế và đem theo con chiên làm của lễ toàn thiêu và một chim bồ câu non làm của lễ chuộc tội. Nếu người nghèo không có chiên thì dâng bồ câu thứ hai thay vì chiên. Đức Maria nghèo nên dâng lễ theo kiểu này.
Ba nghi lễ này là nghi lễ cổ và lạ, nhưng cũng hàm chứa một niềm tin rằng con cái là hồng phúc Chúa ban cho. Trong các hồng phúc Chúa đưa đến không có ơn nào khiến ta mang nhiều trách nhiệm với Chúa cho bằng con cái. Sinh con ra, chúng ta còn lo nuôi dưỡng và giáo dục chúng cho nên người.
II. NÓI VỀ GIA ĐÌNH KITÔ HỮU.
1. Ý nghĩa gia đình.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II khẳng định rằng: “Gia đình là nền tảng của xã hội”. Chính vì vậy, mà năm 1994 Liên hiệp quốc đã chọn làm năm quốc tế về gia đình. Nếu gia đình là nền tảng của xã hội mà ngày nay đang bị khủng hoảng một cách trầm trọng thì tương lai xã hội sẽ ra sao?
Vì thế, đứng về phương diện Giáo hội, chúng ta coi gia đình là một “Tổ ấm” hay một “Mái ấm”, một” Giáo hội nhỏ” và là một” trường dạy đức tin”
a) Gia đình là một tổ ấm yêu thương.
Gia đình làø tổ ấm yêu thương, là chiếc nôi hạnh phúc. Dù ai ở trong giai cấp nào trong xã hội, nếu tìm thấy niềm an vui trong gia đình, thì họ chính là người hạnh phúc nhất, vì gia đình tồi tàn đi nữa thì đối với một con người, chẳng nơi nào có thể so sánh được với gia đình. Nhưng nếu có người phản đối cho rằng: gia đình là nguồn hạnh phúc, vậy sao gia đình cũng là nguồn đau khổ của đời người? Thực ra, đau khổ, bế tắc chính là cơ hội để mỗi thành viên trong gia đình động não, sáng tạo và thể hiện tình yêu của mình một cách thuyết phục nhất.
Tổ ấm hay mái ấm gia đình thì cũng vậy. Khi nói tới mái ấm thì nhiều người có rất nhiều ý tưởng cao đẹp về hình ảnh này, một hình ảnh gợi cảm và thân thương nhất mà ai cũng mơ ước.
Truyện: mái ấm gia đình là gì?
Mới đây một tờ báo ở London, thủ đô nước Anh, đã gửi câu hỏi “Mái ấm gia đình là gi,theo anh chị” tới 1000 người. Có 800 người đã trả lời, tập trung vào các ý tưởng sau đây:
. Mái ấm: một thế giới xung đột khép lại, một thế giới tình thương mở ra.
. Mái ấm: nơi chuyện nhỏ là quan trọng, chuyện quan trọng là chuyện nhỏ.
. Mái ấm: vương quốc của cha, thế giới của mẹ và thiên đàng của con cái.
. Mái ấm: nơi chúng ta cằn nhằn nhiều nhất nhưng được đối đãi tốt nhất.
. Mái ấm: trung tâm của tình thương mà mọi lời ước nguyện của con tim quyện vào đấy.
. Mái ấm: nơi dạ dầy chúng ta ăn 3 lần mỗi ngày và tâm hồn ăn ngàn lần mỗi ngày.
. Mái ấm: nơi duy nhất nơi trần gian mà mọi lỗi lầm và thất bại của con người được che đậy dưới lớp áo bác ái che đậy.(GM Arthur Tone, Góp nhặt, tr 125-126).
b) Gia đình là một Giáo hội nhỏ.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong tông huấn về Gia đình cũng dạy: “Giữa những nghĩa vụ căn bản của gia đình Kitô hữu, có một nghĩa vụ có thể nói là có tính cách Hội thánh, vì nghĩa vụ này đặt gia đình vào chỗ phục vụ cho việc xây dựng Nước Thiên Chúa trong lịch sử, đó là tham dự vào cuộc sống và sứ mạng của Hội thánh” (GĐ số 49).
Mối liên hệ giữa gia đình và Hội thánh rất sâu sắc và nhiều đến nỗi có thể gọi gia đình công giáo là “Hội thánh tại gia” (L.G. số 11), hay “Hội thánh rút gọn”, “Hội thánh bỏ túi”. Gia đình công giáo có nhiều liên hệ đến Hội thánh.
* Về phía Hội thánh: Mẹ Hội thánh sinh ra, dưỡng dục và xây dựng gia đình công giáo bằng cách thực hiện cho gia đình sứ mạng Hội thánh đã nhận từ Đức Kitô.
* Về phía gia đình: Gia đình công giáo đã được tháp nhập vào Hội thánh; sứ mạng tháp nhập này cho phép gia đình dự phần vào sứ mạng cứu rỗi của Hội thánh theo cách thức riêng của mình. Nếu Hội thánh được tham dự vào 3 chức năng của Chúa Kitô: tư tế, tiên tri và vương giả, thì gia đình công giáo là Hội thánh tại gia cũng phải xây dựng nếp sống theo mẫu mực Hội thánh gồm 3 chức năng ấy và cũng phải thực hiện 3 chức năng ấy theo chiều kích Hội thánh toàn cầu.
c) Gia đình, một trường dạy đức tin.
Trong tông huấn về gia đình, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Gia đình là trường học đầu tiên” dạy các đức tính xã hội mà không đoàn thể nào khác có thể vượt qua”(GĐ số 3). Ta cũng có thể nói: gia đình là môi trường thuận lợi cho việc giáo dục đức tin cho con cái. Gia đình là trường dạy đức tin tốt nhất.
Giáo dục đức tin đây không có nghĩa là dạy giáo lý cho các em khi các em còn quá nhỏ không thể tiếp thu được. Cha mẹ chỉ dạy con bằng cách nói về Chúa. Dạy các em biết lạy Chúa, chào Chúa, làm dấu thánh giá hay đọc kinh Lạy Cha, Kính mừng, Sáng danh. Nhưng cách dạy tốt nhất là cha mẹ cứ đọc kinh cầu nguyện để chúng bắt chước, nhất là khi hai vợ chồng cầu nguyện có đứa con ở giữa.
Truyện: dạy bằng gương sáng
Thực là cảm động khi thấy đứa trẻ ngây thơ nhưng chăm chú nhìn xem nét mặt dịu dàng của bà mẹ đang cầu nguyện.
Bà Vaugham là một trong những người mẹ đáng kể làm gương. Bà đặt tất cả uy tín của bà trong tình yêu thương và lòng đạo đức. Cầu nguyện, bà thường để những đứa nhỏ ngồi bên. Và các em sung sướng học được lòng mến Chúa trên khuôn mặt bà. Cô nhỏ Gladys lần kia đã kêu lên: “Mẹ ơi, sao khi mẹ ở trong nhà thờ, mẹ xinh đẹp thế”? Bà mỉm cười: “Con ơi, vì có Chúa Giêsu ở đấy”. Cô bé lui ra, vừa đi vừa nhẩm lại lời của mẹ. (Bùi Đức, Vinh quang bà mẹ, 1959, tr 124)
2. Đời sống trong gia đình.
a) Trật tự trong gia đình.
Trong gia đình Thánh gia chỉ có 3 thành viên: Đức Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse. Theo pháp lý, thánh Giuse phải là chủ gia đình vì là chồng và là cha. Đức Maria và Đức Giêsu phải phục tùng thánh Giuse như người có quyền trên hết.
Trong cuộc sống gia đình chúng ta cũng vậy: “Kim chỉ phải có đầu”, không thể sống trong cảnh “cá đối bằng đầu”. Gia đình và xã hội phải có trật tự, như bài hát sinh hoạt của thiếu nhi, nếu không sẽ rối loạn:
Con vỏi con voi,
Cái vòi đi trước,
Hai chân trước đi trước,
Hai chân sau đi sau,
Còn cái đuôi thì đi sau rốt...
Một nhà văn viết: “Trật tự là tất cả đều ở trong vị trí của mình để điều động cho tất cả, với một mục tiêu cho tất cả”.
Nếu tục ngữ Việt nam nói: “Kim chỉ phải có đầu” thì ngạn ngữ Tây phương cũng nói: “Piscis e capite vivit et e capite faetet” (cá sống tự đầu và cá thối tự đầu).
Thánh Phaolô nói: “Người chồng là đầu người vợ”(Ep 5,23). Thánh nhân cũng biết đầu thì rất hay và cũng rất dở theo kiểu nói Tây phương “cá sống cũng tự đầu và cá thối cũng tự đầu”, nên Ngài còn thêm mấy chữ khác vào câu nói trên: “Người chồng là đầu người vợ như Chúa Giêsu là đầu Hội thánh”.
Do đó, ta có thể kết luận: “Người chồng là đầu sống của người vợ nghĩa là làm cho vợ sống chứ không làm cho nó hư đi như cá thối tự đầu vậy: nghĩa là chồng phải yêu thương vợ như yêu thương chính mình.
b) Đạo Hiếu trong gia đình.
Trong bài đọc I của sách Huấn ca có câu: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu”. Như thế, Thiên Chúa chúc phúc và ban ơn lành cho những kẻ biết thờ cha kính mẹ theo như điều răn thứ bốn dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ”. Ai giữ điều răn đó thì làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Tư tưởng trên cũng rất giống với tư tưởng của người Việt nam chúng ta mà các em nhỏ đã hiểu khi đọc câu ca dao này:
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là Đạo con.
Hai từ ngữ THỜ và KÍNH là hai từ dùng trong những việc làm của tôn giáo. Thờ kính cha mẹ là có hiếu với cha mẹ, và người ta nâng chữ Hiếu lên thành một ĐẠO. Do đó, chúng ta phải ý thức rằng thảo kính cha mẹ không còn là những tình cảm chủ quan tùy tiện, cũng không phải chỉ là lẽ công bằng mà là một Đạo. Mà lỗi Đạo là phạm tội chứ không phải chỉ là một thiếu sót.
Truyện: Hàn bá Du có hiếu.
Hàn bá Du ăn ở với mẹ rất có hiếu. Những khi có lỗi mẹ thường đánh đòn. Môt hôm Hàn bá Du phải đòn, khóc mãi. Mẹ thấy vậy hỏi:
- Mọi khi mẹ đánh con, con biết lỗi, con cam chịu ngay. Lần này sao con khóc dai như thế?
Bá Du thưa:
- Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ còn mạnh khỏe. Lần này mẹ đánh con, con thấy không đau mấy, con biết sức mẹ đã yếu, cho nên con nghĩ, con thương mẹ mà con khóc.
Ôi! con ăn ở với mẹ, tuy khó nhọc, khổ sở cũng không dám oán. Như Bá Du trong truyện này, không những không oán mẹ, lại còn thương mẹ già yếu, tình con yêu mẹ thế mới là thắm thiết (Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, quyển 2, tr 18).
c) Hoà hợp trong gia đình.
Ai cũng có một ngôi nhà để ở, nếu không, phải ở đầu đường xó chợ hoặc phải đi ở nhờ nhà người khác. Chỗ ở là một nơi rất quan trọng vì người ta nói: “An cư lạc nghiệp”, muốn làm việc cần phải có chỗ ở đã. Việc lập gia đình ví như việc xây dựng một ngôi nhà. Nhà nào cũng là nhà lớn nhỏ, đẹp xấu, tùy theo khả năng của mình. Nhưng ngôi nhà phải luôn ấm cúng. Vì thế, ngôi nhà của gia đình được gọi là MÁI ẤM. Mái ấm này trước tiên được vợ chồng xây dựng, sau này con cái góp phần làm cho mái ấm trở nên khang trang, đẹp đẽ và ấm cúng hơn.
Người ta thường nói: “Đàn ông dựng nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Xây dựng được ngôi nhà thì dễ còn làm sao cho ngôi nhà trở nên ấm cúng thì càng khó. Có những ngôi nhà trong đó có những người không hòa hợp với nhau, bề ngoài tuy đồ sộ nguy nga, nhưng bên trong thì lạnh lẽo, vắng vẻ, tiêu điều; ngược lại, có những ngôi nhà tuy đơn sơ, có khi còn nghèo nàn như một túp lều tranh mà lại ấm cúng vì trong đó có những người biết sống hòa hợp thương yêu nhau, biết mưu cầu hạnh phúc cho nhau, biết quên mình phục vụ, biết nhịn nhục nhau, tha thứ cho nhau... để ngôi nhà đơn sơ đó trở nên một hình ảnh rất đẹp “Một mái nhà tranh, hai trái tim vàng”. Mái ấm đó được thành hình do sự cộng tác và hoà hợp của vợ chồng như hình ảnh:
Em về chẻ rạ đánh tranh
Chặt tre chẻ lạt cho anh lợp nhà.
Sớm khuya hòa thuận đôi ta
Hơn ai gác tía, lầu hoa một mình (ca dao)
Thánh gia thất Đức Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse là một gia đình kiểu mẫu đáng cho mọi gia đình Kitô hữu noi theo, trong đó mọi người yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau trong tình bác ái, mỗi thành viên làm trọn nhiệm vụ của mình để xây đắp cho gia đình. Gia đình không phải là nơi tạm trú mà phải là nơi thường trú của mọi người, không ai có thể rời bỏ được. Nếu hiểu được ý nghĩa thực của gia đình thì phải nói gia đình là một kho tàng quí giá.
Truyện: Gia đình là một kho tàng.
Ông George đã đến tuổi 70, ông không lập gia đình, ông là một thủy thủ, cả cuộc đời lênh đênh trên biển cả. Ông không có nhà riêng. Cháu trai ông tên là BILL rất thương bác George nên đã mời bác về sống với Bill, với vợ và 5 con của Bill. Đó là sự giúp đỡ lẫn nhau: bác George có nhà ở, còn gia đình của Bill có dịp làm những chuyến viễn du tưởng tượng quanh thế giới mỗi khi lắng nghe bác George kể lại kinh nghiệm của mình.
Đôi khi Bill cảm thấy nhàm chán và bất mãn với cuộc sống gia đình. Được rảo quanh thế giới không lo lắng, thảnh thơi vui sướng biết bao. Và Bill đã bày tỏ nỗi lòng cho bác.
Một chiều kia, bác George nhắc đến một nơi xa xăm. Bác có đánh dấu trên bản đồ một kho tàng chôn giấu. Bill ghi nhớ điều đó, nên sau khi bác George chết vài năm, Bill coi lại đồ đạc của bác và tìm thấy một bao thư đề tên Bill, trong đó có một tấm bản đồ. Tim đập mạnh, tay run run, Bill cố gắng tìm ra nơi cất giấu kho tàng. Sau cùng chàng cũng xác định được địa điểm: đó là căn nhà của chàng, nơi mà chàng đang đứng.
Bác George đã trối lại cho chàng một kho báu là ý thức rằng nhà của chàng, gia đình riêng của chàng là kho báu (Góp nhặt 4, tr 109).
7.Gương sáng của Thánh Gia Nadarét--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Tin mừng ghi lại việc Đức Maria và Thánh Giuse nêu gương sáng cho các bậc cha mẹ trong việc tuân giữ Luật Thiên Chúa qua việc dâng Hài Nhi Giêsu cho Thiên Chúa trong Đền thờ. Tại đây Hài Nhi Giêsu đã tỏ mình là Con Thiên Chúa cho ông gìa Simêon và bà ngôn sứ Anna, đồng thời tỏ mình là phàm nhân trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt phải tuân giữ Luật pháp Môsê.
CHÚ THÍCH:
- C 22-24: +Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê: Luật Môsê dạy rằng: đàn bà sinh nở bị nhơ uế nên cần được thanh tẩy trong Đền thờ. Vì Hài Nhi Giêsu là con trai nên Đức Maria phải lên Đền thờ làm lễ thanh tẩy vào ngày thứ 40 sau khi sinh theo như Luật dạy. +bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là thánh, dành cho Chúa: Vì Thiên Chúa đã cứu các con trai đầu lòng của dân Do thái khỏi bị giết chết bên Ai cập trước biến cố Xuất Hành, nên sau này Luật Môsê qui định các con trai đấu lòng thuộc về Thiên Chúa và phải được dâng cho Thiên Chúa (x Xh 15, 2 và 12). +và cũng để dâng của lễ theo luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con: Theo luật Môsê (Lv 12,6-8) sản phụ phải dâng lễ vật để làm của lễ toàn thiêu và đền tội thay cho mình. Ở đây Maria dâng lễ vật một đôi chim câu, chứng tỏ ông bà thuộc thành phần nghèo. Việc dâng lễ vật này cho thấy Đức Maria có lòng khiêm tốn vâng phục Luật Chúa truyền dạy, dù Mẹ thụ thai và sinh con do quyền năng Thánh Thần, nên vẫn bảo tòan được đức trinh khiết.
- C 25-28: +Và này đây tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ong là người công chính và sùng đạo. Ong những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông: Simêon là một người công chính và có lòng kính sợ Thiên Chúa thể hiện qua việc luôn tuân giữ Luật Môsê. Ong đang chờ đợi niềm an ủi của dân Itrael là Đấng Cứu Thế sắp được Thiên Chúa sai đến. +Được Thần Khí dun dủi, ông lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu tòan tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người: Simêon được Thánh Thần cho biết ông sẽ được nhìn thấy Đấng Cứu Thế trước khi nhắm mắt. Quả thật, chính Thánh Thần đã thực hiện lời hứa khi thúc đẩy ông lên Đền thờ đúng vào lúc cha me Hài Nhi đưa Người lên Đền thờ dâng cho Thiên Chúa.
- C 29-32: +Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này, được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngọai, là vinh quang của Ítraen dân Ngài”: Khi bồng ẵm Hài Nhi trên tay, Simêon đã thốt lên bài ca mà ngày nay vẫn được Hội Thánh đọc trong giờ kinh tối mỗi ngày. Bài ca này gồm hai ý chính: Một là Simêon đã được thỏa mãn khi bồng ẵm Đấng Cứu Thế được hứa sẽ đến, nên ông sẵn sàng nhắm mắt trong bình an thư thái. Hai là sứ mệnh của Đấng Cứu Thế dành cho mọi dân tộc chứ không chỉ dành cho dân Do thái. Người sẽ trở thành ánh sáng chiếu soi cho muôn dân, phá tan mọi u mê tăm tối để giúp mọi người nhìn biết chân lý.
- C 33-35: +Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người:Hai ông bà Giuse Maria kinh ngạc khi nghe ông già Simêon cho biết sứ mệnh cao cả của Hài Nhi Giêsu là cứu độ muôn dân, là ánh sáng muôn dân. Đây là điều Maria chưa nghe sứ thần Gáprien nói đến khi truyền tin. +Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng: Simêon tiết lộ cho Maria về cách thế người đời đối xử với Chúa Kitô. Người sẽ làm cớ cho nhiều người bị vấp ngã hay được chỗi dậy và là mục tiêu cho người đời chống đối. Khi xuất hiện, Chúa Giêsu sẽ chiathế giới thành hai phe đối chọi nhau: một phe tin yêu Người. Còn phe kia chống đối thù ghét Người. Chính sự yêu hay ghét đó sẽ bộc lộ tâm tư bề trong của con người là họ đứng về phía sự công chính chân thật hay ngả theo sự bất lương dối trá. +Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra: Riêng bà Maria khi chứng kiến tất cả những sự thù ghét chống đối đó, sẽ bị đau khổ trong tâm hồn giống như bị một lưỡi gươm sắc bén đâm thâu vậy.
- C 36-40: +Lại cũng có một ngôn sứ tên là Anna…: Bà Anna được mệnh danh là ngôn sứ hay tiên tri, vì bà đã làm công việc của một ngôn sứ là tuyên sấm lời Thiên Chúa để kêu gọi người ta sám hối và động viên họ làm việc thiện theo đường lối của Thiên Chúa. +Bà không rời bỏ Đền thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa: Bà Anna là một phụ nữ có lòng đạo đức khi chuyên cần phục vụ Đền thờ và năng ăn chay cầu nguyện. +Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem: Bà được Thánh Thần soi sáng nhận biết Đấng Cứu Độ của dân Ítraen. Bà cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa và đi loan báo tin mừng về Hài Nhi Cứu Thế cho hết những ai đang trông chờ ơn cứu độ của dân Ítraen được biết. +trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét miền Galilê: Từ đây Nadarét trở thành quê hương của Đức Giêsu và luôn gắn liền với tên gọi của Người. Sau này người đời sẽ gọi Người bằng danh hiệu Giêsu Nadarét.
CÂU HỎI: 1-Bài Tin Mừng hôm nay nhằm dạy bài học gì về bản tính của Chúa Giêsu? 2-Luật Môsê quy định thế nào về sự nhơ uế của người phụ nữ sau khi sinh? 3- Luật Môsê dựa vào đâu để quy định khỏan luật về mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa nên phải dâng cho Thiên Chúa trong Đền thờ? 4-Qua lễ vật dâng cho Thiên Chúa để chuộc lại Hài Nhi Giêsu, chúng ta nhận biết hai ông bà Giuse Maria thuộc lọai người giàu có hay nghèo khó trong xã hội Do thái đương thời? 5-Ong già Simêon nói tiên tri về sứ mệnh của Hài Nhi Giêsu và về tương lai của Đức Maria Mẹ Người? 6-Do đâu tác giả Tin mừng gán cho bà Anna danh hiệu ngôn sứ hay tiên tri? 7-Tại sao Đức Giêsu được gọi là Giêsu Nadarét?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt 2,14):
2. CÂU CHUYỆN: Làm trước dạy sau:
Một hôm có một phụ nữ dắt theo một bé gái đến gặp Ma-Hát-Ma Găng-Đi (Mahatma Gandi) để xin ông một lời khuyên, để con bà bỏ thói hay ăn quà vặt. Găng-đi liền nói: Bà hãy đem nó về nhà và ba tuần sau hãy mang nó trở lại đây cho tôi”. Sau đúng ba tuần, bà ta lại dắt con đến như đã hẹn. Bấy giờ Găng-đi đã khuyên bảo đứa bé đúng như bà mẹ đã yêu cầu, rồi cho hai mẹ con về. Nhưng trước khi ra về, bà mẹ nêu thắc mắc: “Thưa ngài, tôi tưởng là ngài phải làm gì nhiều hơn chứ. Nếu chỉ là việc cho con gái tôi một lời khuyên thì sao ngài lại bắt tôi phải chờ đến ba tuần làm chi?” Bấy giờ Găng-đi mới ôn tồn trả lời: “Thưa bà, lần trước nghe lời bà yêu cầu, tự nhiên tôi cảm thấy xấu hổ, vì chính tôi cũng đang mắc tật xấu hay ăn quà vặt như con gái bà. Vì thế tôi không thể khuyên cháu đừng làm điều mà chính tôi đang mắc phải. Do đó, tôi đã phải hẹn với bà ba tuần sau trở lại, để trong ba tuần lễ đó, tôi cố bỏ tật xấu ấy, rồi mới dám cho cháu bé một lời khuyên như bà đã thấy”.
3. SUY NIỆM:
1) Thánh Giuse: Gương mẫu của người trưởng gia đình:
a) Tinh thần trách nhiệm lo cho gia đình và luôn cậy trông Thiên Chúa: Bấy giờ Hài Nhi Giê-su bị vua Hê-rô-đê tìm kiếm giết hại. Được sứ thần mộng báo, Giuse đã lập tức trỗi dậy ngay lúc đêm tối, đem vợ con chạy trốn sang Ai-cập. Sau khi Hê-rô-đê băng hà, Giuse lại một lần nữa vâng lệnh sứ thần mộng báo, đem Thánh Gia trở về làng Na-da-rét, để tránh bị ông vua mới là Ác-khê-lao tàn ác không kém vua cha giết hại. Qua sự kiện này, ta thấy ngày hôm nay dù có Chúa ở cùng, nhưng chắc chắn chúng ta cũng không tránh khỏi những cơn phong ba bão tố vùi dập. Có điều là thánh Giuse đã không bao giờ ngã lòng trông cậy để nêu gương cậy trông cho chúng ta.
b) Vợ chồng cùng nhau cộng tác vượt qua nghịch cảnh: Thánh Giuse và Đức Ma-ri-a trong quan hệ với nhau cũng không tránh khỏi có những lúc sóng gió, tưởng như con thuyền gia đình sắp tan vỡ. Chẳng hạn: Giuse đã từng suy nghĩ ngày đêm và quyết định bỏ Ma-ri-a; Cũng có lúc hai ông bà rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, như khi hai người về quê khai nhân danh, vừa tới thành Bê-lem thì Ma-ri-a cũng tới lúc sinh con, mà Giuse không sao tìm được một chỗ trọ cho hai người; Có những lúc Giuse Ma-ri-a phải lo lắng, chạy đôn chạy đáo đi tìm Hài nhi bị lạc mà phải mất tới ba ngày mới tìm thấy con trong Đền Thờ. Nhất là có lúc Đức Ma-ri-a phải chịu dao sắc thâu qua trái tim, khi đứng dưới chân bên cây thập giá, chứng kiến người con yêu bị hấp hối và sau khi chết còn bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn… Như vậy, Thánh Gia cũng chẳng được ưu đãi hơn so với các gia đình khác, cũng phải trải qua nhiều nghịch cảnh… để nêu gương cho các gia đình tín hữu chúng ta hôm nay. Trong bất cứ hoàn cảnh nào dù khó khăn đến mấy, chúng ta cũng không được ngã lòng thất vọng, nhưng luôn phải vững tin vào tình thương và quyền năng của Chúa quan phòng. Người sẽ mau biến từ sự dữ ra sự lành.
2) Những nguyên nhân gây ra đổ vỡ hạnh phúc gia đình:
Các gia đình hôm nay cũng có nhiều nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc:
a) Có thể do ham bài bạc như đánh đề cá độ bóng đá gây nợ nần, dẫn đến nhà tan cửa nát, vợ chồng ly tán, con cái nheo nhóc bỏ học để đi bụi đời.
b) Có thể do thái độ ích kỷ và vô trách nhiệm không quan tâm lo cho gia đình dẫn đến sự bất bình khinh thường nhau và tranh cãi giận hờn nhau.
c) Có thể do thói hư như rượu chè, cờ bạc, trai gái hút chích… Hoặc do cách ứng xử thiếu lịch sự tế nhị với nhau và với cha mẹ họ hàng đôi bên, do lối ứng xử độc đoán không tôn trọng nhau, không bàn hỏi khi quyết định những vấn đề quan trọng, không thống nhất về việc nuôi nấng dạy dỗ con cái.
d) Có thể do thiếu tình mến Chúa yêu người. Trong một cuộc phỏng vấn, nữ tu Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã nói về vấn đề này như sau: “Tôi nghĩ rằng không phải ai cũng ý thức về tầm quan trọng của gia đình. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì chắc chắn thế giới này sẽ đổi khác”. Thậy vậy, thế giới băng hoại vì có quá nhiều gia đình thiếu vắng tình thương. Giới trẻ hiện nay rơi vào thói xấu nghiện ma túy, phần lớn là do cha mẹ đã thiếu quan tâm dạy dỗ chúng. Ước gì các gia đình tín hữu chúng ta trở thành những mái ấm đầy tình yêu của Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
2) Làm thế nào để gia đình luôn sống hòa hợp hạnh phúc?
a) Học tập nhân bản và giáo lý: Phải làm thế nào để con em chúng ta được giáo dục về các đức tính tự nhiên đi đôi với việc giáo dục đức tin… các bạn trẻ sắp bước vào đời sống hôn nhân gia đình cần được học tập về bổn phận trách nhiệm của mỗi thành viên gia đình, rút kinh nghiệm từ các đôi vợ chồng hạnh phúc hay bất hạnh để phòng tránh và chuẩn bị cho cuộc sống chung sau này.
b) Mỗi người phải có tinh thần trách nhiệm, sống đúng vai trò của mình trong gia đình là chồng, vợ hay con cái: Một tờ báo ở Luân-đôn nước Anh đã mở một cuộc điều tra các ông chồng, yêu cầu họ thành thật trả lời câu hỏi: “Trong gia đình bạn, ai là người thực sự có quyền làm chủ gia đình?” Kết quả cho thấy có 80% câu trả lời: “Vợ tôi làm chủ”, 19% trả lời “Mẹ vợ tôi làm chủ”. Chỉ có 1% trả lời: “Chính tôi làm chủ, vì vợ tôi đã qua đời!” Như vậy, không lạ gì khi thấy sau Hoa Kỳ, Anh quốc có số gia đình ly hôn chiếm tỷ lệ cao nhất: Mỗi năm cứ hai đám cưới thì có một đám ly hôn.
c) Vợ chồng cần nuôi dưỡng tình yêu: Tình yêu có đặc điểm là hy sinh cho nhau. Cây tình yêu của hai vợ chồng rất cần được quan tâm khử trừ những con sâu ích kỷ khi chỉ nghĩ đến mình, con sâu độc đoán hẹp hòi, gàn dở khi cố chấp không chịu nhận lỗi và sửa sai, con sâu lười biếng bổn phận của mình và vô trách nhiệm không chịu lo kiếm tiền lo cho gia đình, con sâu tình cảm ngang trái vụng trộm, hoặc hay ghen bóng ghen gió… Tình yêu vợ chồng cũng cần được tưới bón bằng lời Chúa, lời cầu nguyện, bằng những lời khen tặng thành thật, bằng những lời yêu thương và những sự quan tâm và cử chỉ âm yếm dành riêng cho nhau.
d) Vợ chồng phải tôn trọng nhau, thể hiện qua việc biết trao đổi bàn bạc với nhau trong mọi việc: Phải một lòng một ý về việc cư xử với tha nhân, về việc nuôi dạy con cái, về việc mua sắm đồ dùng trong nhà, và việc làm ăn sinh sống. Vì “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”, và: “Phu phụ hòa, gia đạo thịnh”.
e) Hãy học sống Lời Chúa là “tập quen chịu đựng và tha thứ cho nhau”: Trong một buổi tĩnh tâm dành cho gia trưởng, nhưng cũng có nhiều bà vợ tham dự. Tới phần làm phép thánh giá, cha giảng phòng nói: “Ai có cây thánh giá cần làm phép yêu cầu mang lên gần gian cung thánh để được làm phép”. Bấy giờ một ông lão thay vì mang cây thánh giá thì lại cõng bà vợ bị tê liệt lên. Khi tới phiên, thay vì giơ cây thánh giá lên cho cha rẩy nước thánh thì ông lão lại bồng bà cụ lên trước sự ngạc nhiên của mọi người. Ông nói: “Thưa cha, đây là thánh giá của con. Xin cha làm phép để con được vác thánh giá này đến trọn đời!”.
g) Gia đình phải có Chúa hiện diện: Thực vậy, nếu gia đình thực sự có đức tin, có lòng đạo đức, thì sẽ thương yêu và nhường nhịn nhau. Cần dọn bàn thờ Chúa ở nơi trang trọng nhất và năng đọc kinh tối gia đình hằng ngày. Trong giờ kinh tối luôn có phần Lời Chúa và cầu nguyện theo Lời Chúa dạy. Gia đình động viên nhau sống tình yêu thương: Chồng yêu vợ, vợ yêu chồng, con cái thảo kính cha mẹ, anh chị em trong nhà biết nghĩ đến nhau và quan tâm làm vui lòng nhau. Cần năng suy niệm và thực hành lời dạy của thánh Phao-lô: “Anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng nhau và hãy tha thứ cho nhau, nếu người này có chuyện phải oán trách người kia…” (Cl 3,12-13). Trong đời sống hôn nhân gia đình, chắc chắn cũng sẽ có khi vui lúc buồn, khi thành công luc thất bại… Nếu gia đình có Chúa là Tình Yêu ngự trị thì chắc sẽ vượt qua mọi thử thách gặp phải trong cuộc sống hôn nhân gia đình.
4. THẢO LUẬN: 1) Nguyên nhân thường gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình là gì và phải làm gì để phòng tránh? 2-Bạn có đồng ý với câu người ta thướng nói: “Con hư tại mẹ cháu hư tại bà” không? Tại sao?
5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giêsu, mỗi lần tham dự thánh lễ hôn phối, con thấy đôi tân hôn thật hạnh phúc. Với nét mặt rạng rỡ và trong bộ y phục trắng tinh khôi, con thấy cô dâu sánh bước bên chú rể tiến đến trước bàn thờ cử hành hôn lễ như đang bước vào thiên đàng hạnh phúc. Nhưng rồi với năm tháng qua đi, con lại thấy gia đình họ trở thành hỏa ngục trần gian, khi “kẻ thì khóc lóc, người lại nghiến răng”. Xin giúp các đôi vợ chồng trẻ biết duy trì được tình yêu ban đầu. Xin cho họ biết “cho hơn là nhận”, biết ân cần phục vụ lẫn nhau, biết quảng đại tha thứ và chịu đựng nhau. Nhờ đó gia đình chúng con sẽ trở thành một thiên đàng tình yêu, là dấu chỉ sau này chúng con sẽ cùng được hưởng hạnh phúc với nhau trên Thiên đàng.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
8.Lễ của mỗi gia đình--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
1. Lễ Thánh gia là lễ của mỗi gia đình. Văn hóa Đông phương đặt nền tảng gia đình trên đức Hiếu. Người nổi tiếng chí Hiếu nhất Đông phương là Vua Thuấn. Thiếu thời, Vua Thuấn là con nhà bần tiện. Bố là Cổ Tẩu dở dở ương ương, mắc tật nghiện rượu. Mẹ có tật lắm điều, ngồi lê mách lẻo. Anh là Tượng hỗn xược du đãng. Một cảnh gia đình địa ngục. Nhưng Thuấn dù nhỏ, ngày ngày ra đồng làm việc, thường kêu khóc với trời, tự mình nhận lấy tội lỗi của bố mẹ. Phụng sự bố mẹ rất kính cẩn, sợ hãi làm cho bố mẹ biết lo sửa mình (Kinh Thư; Thuấn Điển 6 và Đại vũ mõ 21).
Nhờ đâu một con nhà tiện dân đã trở nên bậc thánh hiền chí hiếu?
Thứ nhất nhờ vào niềm tin trời đất thâm sâu sống động của Vua. Khổng Tử kể: Ngay còn nhỏ, Thuấn ngày ngày ra đồng làm việc với nước mắt, kêu khóc với Trời: “Đế sơ vàng vu điền, nhật hào khấp mân thiên”.
Thứ hai: “Vu điền” - ông ra đồng chăm chỉ làm việc để phụng dưỡng gia đình, làm sao nuôi nổi ba miệng lười biếng ăn chơi phung phá! Ông phải tận lực hy sinh làm việc mà không một lời phàn nàn than thân trách phận giữa cảnh gia đình đầy thói hư tật xấu.
Thứ ba: “Phụ tội dẫn thắc” – Thuấn còn hy sinh tự mình nhận lấy tội lỗi của bố mẹ. Một tinh thần trách nhiệm cao thượng. Người ta thường nói: Tội quy vu trưởng, pháp luật thường phạt cha mẹ khi con cái vị thành niên phạm pháp. Trái lại: ở đây tội quy vu ấu. Ấu thơ đã biết gánh lấy tội của gia đình để ăn năn kêu khóc với trời tha thứ và cứu giúp.
Thứ bốn: “Tái kiến Cổ Tẩu, quỳ quỳ trai lật” – Thăm viếng Cổ Tẩu kính cẩn, lo sợ đến mức nhịn ăn chay tịnh để chăm lo cho cha mẹ mọi sự, chỉ sợ cha mẹ buồn phiền than trách. Dù cha mẹ nhiều tật xấu đến đâu Thuấn cũng không dám tỏ vẻ bất kính.
Đức Hiếu của đứa con tiện dân đã thấu đến Đế Nghiêu, thấu đến Thượng Đế, cho nên Vua Nghiêu đã nhường cho Thuấn làm vua. Thuấn đã tu thân tề gia tốt đẹp, chắc chắn trị quốc, bình thiên hạ cũng được an vui thịnh vượng. “Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ hạ năng dưỡng”: Đại hiếu thứ nhất tôn kính cha mẹ, thứ đến không làm nhục, sau là chăm nuôi (Lễ ký tế nghĩa).
2. Lễ Thánh gia mới thực sự hướng dẫn chúng ta thi hành trọn vẹn đạo Hiếu theo đúng giới răn thứ bốn của Thiên Chúa: Đạo làm con, đạo làm cha mẹ, vợ chồng.
Trước hết, Đạo làm con phải biết nhớ: “Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Ơn sinh thành, ơn thương mến của cha mẹ đã chảy ra từ nguồn sống tình yêu của Thiên Chúa, ban cho con cái sự sống. Không có vàng bạc châu báu nào so sánh được: Ca dao nói: “Mạng sống hơn đống vàng”. Phúc Âm cũng dạy: “Dù được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống nào được ích gì”.
Sinh thành mạng sống con, cha mẹ còn hết lòng, hết trí khôn lo lắng ấp ủ âu yếm, đùm bọc. Mạng sống con cũng là mạng sống, là xương thịt của cha mẹ: “Máu chảy ruột mềm”. Con đau khổ, cha mẹ ăn không ngon, ngủ không yên. Và để cho mạng sống của con được tăng trưởng lớn khôn, cha mẹ đã đổ ra bao nhiêu mồ hôi nước mắt, và sức lực hy sinh, làm ăn nuôi dưỡng, dạy dỗ, những công ơn đó chồng chất cao hơn núi Thái sơn.
Con biết ơn cha mẹ thì phải thảo kính, yêu mến, chăm sóc, chia vui sẻ buồn, làm vinh danh cha mẹ nhất là lúc già yếu. Đừng bao giờ: “Con nuôi mẹ, con kể từng giờ”.
Đạo Nho còn biết dạy: “Sống thì lấy lễ mà thờ, chết lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế” (Luận ngữ II, 5) huống chi Đạo Chúa.
Thứ đến: Đạo làm cha mẹ biết đón nhận con cái như con cái Thiên Chúa ban cho mình. Ý thức rõ như vậy, Đức Maria và thánh Giuse đã mau mắn dâng con cho Thiên Chúa trong đền thờ. Ngoài ra, các ngài dâng con là để tạ ơn Thiên Chúa đã cứu sống dân tộc thoát ách nô lệ Ai cập trở về Đất Hứa vẻ vang. Vì thế, sinh ra, lớn lên, sống còn của con dân này là một ân huệ vĩ đại của Thiên Chúa ban. Họ đã hiến dâng, phó thác trọn vẹn cuộc sống con mình trong tay Thiên Chúa toàn năng.
Hôm nay cha mẹ Hài Nhi Giêsu dâng con trong đền thờ, còn đặc biệt dâng lên Chúa Cha một thế hệ mới, một thế hệ được thanh tẩy bằng nước và Thánh Thần, một thế hệ được ghi ấn tín Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần để làm nên một trang sử vinh quang muôn đời trong nước Trời.
Cho nên, sứ mạng làm cha mẹ là một ân huệ từ trời ban xuống. Cha mẹ được vinh phúc tiếp tay với Thiên Chúa cộng tác vào chương trình sáng tạo, mặc khải và cứu chuộc con cái.
Để thực hiện tốt đẹp thiên chức cao cả đó, cha mẹ phải biết xây dựng gia đình mình thành một tổ ấm, một cái nôi chan hòa “tình thương yêu êm ái, nhân hậu, khoan dung, hiền lành, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau, cởi mở chân thành để liên kết với nhau trong mối giây bác ái yêu thương tuyệt hảo”.
Hơn nữa, cha mẹ phải tạo dựng gia đình thành một đền thờ, trong đó “dâng lên Thiên Chúa những bài Thánh vịnh, những khúc hát Thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh ứng. Hãy dùng lời Chúa dạy dỗ răn bảo nhau cho thật khôn ngoan để lời Chúa Kitô sinh hoa kết quả dồi dào trong gia đình. Khi làm gì, nói gì, hãy làm và nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Người mà cảm tạ Chúa Cha” (Bài II. Cl. 3, 12-21). Như thế gia đình chúng ta sẽ trở nên như gia đình Thánh Gia.
3. Lễ Thánh Gia cho chúng ta thấy rõ Thánh Gia là đền thờ hoàn toàn dành riêng phụng thờ Thiên Chúa.
Giuse là Cha nuôi, nhưng hơn tất cả mọi người cha ruột thịt, Ngài đã âm thầm hy sinh, hiến trọn mạng sống mình để phụng dưỡng Con Thiên Chúa, bảo vệ an toàn gia đình thoát khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê, khỏi mọi gian nguy trên đường tỵ nạn băng qua sa mạc đến Ai cập và trở về Nagiareth bình an.
Maria, người mẹ thánh thiêng trinh trong tuyệt vời, luôn luôn sống với tinh thần tôi tớ của Thiên Chúa, sống dịu hiền, thương mến, thăm viếng, phục vụ bà con xóm làng, tích cực cộng tác với Con Thiên Chúa trong công trình cứu độ muôn dân và xây dựng Hội thánh. Quả thực, không một ai đứng kề thánh giá của con bằng Mẹ, không một ai sống giữa các môn đệ trong lúc cô đơn xao xuyến để cầu nguyện Thánh Linh xuống soi sáng và củng cố tinh thần các môn đệ bằng Mẹ.
Chúa Giêsu, Người chí hiếu, con thảo độc nhất của gia đình. Người con chí ái độc nhất của Thiên Chúa, đã sinh ra trong hang lừa hèn hạ, đã lớn lên trong cảnh lao động nghèo khó. Nhưng, cháu bé này là nguồn an bình muôn thuở cho những cụ già như Simêon ẵm bế, là nguồn hy vọng vinh phúc cho những bà góa neo đơn như Anna, là nguồn sáng soi đường cứu độ cho muôn dân và vinh quang cho Israel dân Ngài.
4. Giêsu – Maria – Giuse, còn gia đình nào tầm thường như gia đình các Ngài! Còn gia đình nào siêu phàm như gia đình các Ngài! Xin dạy gia đình chúng con biết sống giữa cảnh phàm trần với tinh thần người con, người mẹ, người cha chí ái, chí nhân, chí thánh. Xin cho chúng con biết mừng lễ Thánh Gia với cõi lòng chan chứa yêu thương, với tâm trí đầy tràn niềm tin, và với tâm hồn chan hòa ơn thánh. Amen.
9.Gia đình, một Giáo Hội thu nhỏ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
Hôm nay Giáo Hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Gia: Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, một gia đình kiểu mẫu cho mọi gia đình. Vậy theo gương Thánh Gia, mỗi gia đình Công Giáo phải thế nào?
Tình yêu không phải là một xa xỉ phẩm, nó là một thứ tối cần để nâng đỡ và xây dựng cuộc sống. Tình yêu làm nên hạnh phúc. Vì thế, đi tìm và đón nhận tình yêu không phải là việc không quan trọng. Nhưng trước khi đi tìm tình yêu ở nơi khác, hãy tìm và hun đúc tình yêu nơi chính gia đình mình.
Tình yêu gia đình là tình yêu tự nhiên nhất, sớm sủa nhất và lành mạnh nhất. Gia đình phải là một tổ ấm tình yêu, để rồi lại trở thành nền tảng cho mọi thứ tình yêu khác. Tuy nhiên, tình yêu nào mà lại chẳng có hy sinh. Tình yêu thiếu hy sinh là tình yêu dỏm. Hy sinh thiếu tình yêu là hy sinh thừa. Tình yêu trong tổ ấm gia đình không phải là một luật trừ, cho dù gia đình gồm toàn những người rất thánh, cũng khó tránh khỏi những chuyện làm buồn lòng nhau. Vì thế, điều quan trọng không phải là tránh được hết mọi chuyện không vui, nhưng là biết lợi dụng tất cả những vui buồn để dắt nhau về cõi phúc. Nếu biết hiểu như thế, nhất là nếu biết thực hiện như thế, thì gia đình sẽ vừa là tổ ấm tình yêu, vừa là nơi đặt nền cho mọi tình thương, và cũng là lò luyện hy sinh.
Mỗi gia đình là một Giáo Hội, một Giáo Hội rút gọn. Đã là một Giáo Hội rút gọn thì mỗi gia đình phải lập lại hình ảnh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi hiệp nhất, yêu dấu và chia sẻ mọi sự với nhau thế nào, thì mỗi gia đình cũng phải đoàn kết trong tình yêu thương lẫn nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái như vậy. Mỗi người không còn ích kỷ, tìm lợi riêng cho mình, nhưng quên mình để làm sao cho những người khác trong gia đình được nâng đỡ, được hạnh phúc vui tươi trong bầu khí yêu thương đó.
Nếu mọi người trong gia đình biết sống như thế thì gia đình thật là một Giáo Hội nhỏ, sống trong tình thương, và dâng lên Thiên Chúa những của lễ thiêng liêng là những hoạt động hàng ngày của gia đình. Như thế, dù chúng ta ở đâu, gần nhà thờ hay xa nhà thờ, gia đình chúng ta vẫn là một đền thờ tốt đẹp quí báu.
Một gia đình sống theo những điều trên đây sẽ là một trường rất tốt để dạy đức tin cho con cái. Có nhiều người trong gia đình chỉ lo làm ăn và nuôi dưỡng phần tự nhiên cho con cái. Điều đó tốt thôi, nhưng nếu xao lãng không quan tâm một chút nào đến việc dạy dỗ đức tin cho con cái thì là một thiếu sót lớn. Đàng khác, có nhiều gia đình cũng quan tâm đến việc ấy nhưng lại ỷ vào người khác như các cha, các tu sĩ, các giáo lý viên, các hội đoàn. Như vậy cũng không được. Đã đến lúc những người làm cha mẹ phải ý thức: công việc đó trước tiên là công việc của mình và chính mình phải chịu trách nhiệm về đức tin của con cái trước mặt Thiên Chúa sau này, như trong Hiến Chế về Giáo Hội, Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã nói: “Những người đầu tiên phải lấy lời nói và gương sáng mà dạy dỗ đức tin cho con cái chính là cha mẹ”.
Thực vậy, gia đình là trường dạy đức tin cho con cái tốt nhất, vì không phải chỉ dạy một tuần một hai giờ mà dạy hằng ngày, luôn luôn. Ước chi các bậc cha mẹ đều bắt chước thánh Giuse và Đức Mẹ như Tin Mừng nói: “Các ngài luôn vâng giữ lời Chúa và siêng năng dự các lễ nghi như luật dạy”. Nếu các người làm cha mẹ có lòng tin vững chắc, biết truyền lại cho con cái niềm tin của mình, bằng lời dạy dỗ, bằng gương sáng trong cách ăn ở hằng ngày, thì con cái chắc chắn sẽ theo đường lối ấy. Ước chi mỗi gia đình Công giáo đều hiểu và sống như vậy.
10.Dung mạo Chúa Cứu Thế--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Hoàng đế của một vương quốc hung vường vag thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai Cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng.
Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ Ấn độ vẽ. Ông càng than phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc.
Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thất chân dung mình hiện ra từng nét.
Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng long mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận được khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và Thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, và hiểu rõ các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu Thế, nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simeon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người.
Simeon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu Thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài.
Simeon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu Thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma túy ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đàng.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh gia thất: một gia đình lý tưởng, đạ đức bình thường và chăm lo cho nhau. Thánh Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh gia như sau: “Đức Giêsu đi xuống cùng với ch amẹ, trở về Nadaret và hằng vân phục các ngài. Riêng mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong long. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2, 51-52).
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông: “Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng,các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều…”.
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp cũng tâm sự: “Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi,khuyến khích nâng đỡ tăng sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin”.
Có lẽ thế giới biết nhiều đến Thủ Tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: “Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ”.
Đức Piô XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: “Nền giáo dụchữu hiệunhất và bền bỉnhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao”.
Lạy Đức Giêsu, xin dạy chúng con biết theo gương Chúa, luôn sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính với ông bà cha mẹ, và sống hết tình với anh chị em chung quanh.
Xin cho chúng con luôn biết đánh bóng đời mình, bằng tấm long khiêm tốn và đạo hạnh, bằng việc tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác, để dung mạo của Chúa ngày càng tỏ hiện sáng ngời trong cuộc đời chúng con. Amen.
11.Nhìn ngắm gia đình Chúa Giêsu--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Bài Tin Mừng hôm nay mời chúng ta nhìn ngắm một gia đình rất đặc biệt với ba nhân vật độc đáo: Mẹ Maria, Thánh Giuse và Chúa Giê-su.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn ngắm hài nhi Giê-su.
Đây là nhân vật bé nhỏ nhất trong gia đình nầy và cũng là nhân vật quan trọng nhất. Ngài là một huyền nhiệm vượt quá trí tưởng tượng của loài người.
Có ai ngờ một Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ vô biên nầy lại chấp nhận hóa thành một bào thai nhỏ bé nằm trong lòng mẹ suốt chín tháng mười ngày và được sinh ra bởi một người mẹ trần gian là một thiếu nữ miền quê không được mấy người biết đến.
Có ai ngờ một Đấng vô cùng giàu sang, là chủ nhân của tất cả mọi kho báu trên toàn thế giới và trong cả vũ trụ càn khôn, giờ đây lại trở thành một trẻ thơ nghèo hèn, không có một mái nhà, không giường chiếu và không cả một chiếc nôi cỏn con… đến nỗi phải nằm run rẩy trong máng súc vật lót rơm, giữa một chuồng bò tứ bề trống trải chơ vơ giữa không gian vắng lặng.
Có ai ngờ Đấng nuôi dưỡng chim trời cá nước, ban phát lương thực cho tất cả người thế hưởng dùng lại cậy nhờ đến từng giọt sữa của người mẹ trần gian để được tăng trọng và lớn lên thành người.
Có ai ngờ một Đấng vốn là Thiên Chúa Ngôi Hai đồng quyền năng phép tắc như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, có sức mạnh lay chuyển cả vũ trụ càn khôn, có quyền năng dập tắt bão tố… lại trở thành một trẻ thơ nhỏ nhoi, yếu đuối, thân mình bầm tím vì giá lạnh đêm đông, phải cậy nhờ đến sự ấp ủ của người mẹ trần gian để sống, phải cậy trông vào sự che chở của người cha nuôi vốn là một anh thợ nghèo miền quê, mới có thể lánh thoát lưỡi gươm oan nghiệt của bạo chúa Hê-rô-đê.
Ngoài ra, khi có một vị vua, một tổng thống hay thủ tướng một đất nước nào đó trong vai khách mời đến thăm chính thức quốc gia sở tại, thì những vị vua hay những nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Chính Phủ sẽ trải thảm đỏ và ra tận sân bay để tiếp đón cách trọng thị, thì tại Bê-lem năm xưa, khi Chúa Tể trời đất đặt chân đến viếng thăm địa cầu và thăm viếng nhân loại, thì chỉ có những người chăn chiên nghèo khổ đến tiếp đón Ngài mà thôi.
Tiếp theo, chúng ta hãy nhìn ngắm nhân vật thứ hai trong gia đình nầy là Mẹ Maria.
Khi một người mẹ chuyển dạ sinh con, tối thiểu phải liệu cho bà một căn phòng kín đáo, thế mà khi chuyển dạ, Mẹ Maria chẳng tìm đâu được một căn buồng, mà phải nương thân nơi chuồng súc vật trống trải giữa cánh đồng hoang vu.
Nếu cùng cực lắm, không kiếm cho sản phụ một căn phòng kín đáo, ít nhất phải kiếm cho bà một chiếc giường, một tấm nệm hay tấm chiếu cho bà sinh con; đằng nầy, khi sinh con, Mẹ Maria không có giường êm, không nệm ấm, không được cả một manh chiếu đơn sơ, mà phải hạ sinh con ngay trên lớp rơm mỏng giữa chuồng bò!
Bao giờ sản phụ sinh con cũng có cô đỡ bên cạnh, để giúp sản phụ vượt cạn đầy khó khăn và cứu giúp bà thoát khỏi những nguy hiểm khó lường; đằng nầy, khi Mẹ Maria sinh con, chỉ có người bạn đời là thánh Giuse bên cạnh, mà người đàn ông thì chẳng biết phải xoay xở thế nào trong những trường hợp khó khăn như thế.
Còn nhân vật thứ ba là thánh Giuse.
Chắc chắn vào lúc bấy giờ, tâm hồn ngài đầy lo âu, buồn phiền và bối rối.
Lo âu vì thấy người bạn đời đang lúc chuyển dạ sinh con lại phải miệt mài gõ hết cửa nầy đến cửa khác ở các quán trọ ở Bê-lêm, mà không được một ai thương xót đoái hoài, nhường cho một chỗ trọ qua đêm.
Lo âu buồn phiền vì cuối cùng, đành phải đưa Mẹ Maria ra ngoài đồng vắng, dắt người bạn đời sắp vượt cạn vào một chuồng súc vật bẩn thỉu tanh hôi! Ngài cố tìm một tấm ván hay một vật gì đó tạm thay giường nằm cho Mẹ Maria cũng không có, thôi thì quơ đại ít rơm rạ vương vãi chung quanh để lót thành một ổ rơm nho nhỏ cho sản phụ có chỗ nằm.
Càng bối rối hơn khi đến giờ phút Mẹ Maria sinh con. Tìm đâu ra một cô đỡ trong nơi hoang vắng nầy! Biết làm thế nào trợ giúp một sản phụ đang sinh con! Mền không, chiếu cũng không. Thôi thì lót tạm ít rơm vào trong máng súc vật cho Hài Nhi mới sinh có một chỗ nằm thay nôi.
Ôi thôi! Càng ngắm, càng suy, càng thấy gia đình nầy thật là bi đát, cùng cực. Không ai trong chúng ta bị lâm vào hoàn cảnh đáng thương như thế.
***
Vì yêu thương nhân loại lỗi lầm, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời xuống thế, chấp nhận sinh ra trong cảnh nghèo hèn cùng cực, hạ mình xuống tận đáy cuộc đời để chia sẻ cảnh lầm than khốn khổ của kiếp người. Qua sự việc nầy, Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Hỡi những ai nghèo thiếu cùng cực trên thế gian, hãy vững lòng, hãy đứng vững và đừng tuyệt vọng vì có Ta đến chia sẻ sự túng cực của các con, cùng đồng hành với các con qua mọi gian lao của cuộc sống.
Và hỡi những gia đình đang lâm cơn quẫn bách nghèo túng, đừng lo âu sợ hãi, đừng xấu hổ vì gia cảnh nghèo túng của mình, vì gia đình của Ta hôm xưa còn lâm cảnh nghèo hèn khốn khổ hơn gia đình các con. Ta luôn ở cùng các con để che chở bảo vệ các con cho đến mãn đời.
12.Gia đình Kitô hữu cũng là thánh gia--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Vào ngày thành hôn của anh chị Trung và Hiếu, một người bạn của đôi vợ chồng nầy tặng cho đôi tân hôn bức tranh thánh gia thất Nadarét. Cuối bức ảnh có ghi dòng chữ: "Mến tặng thánh gia Trung-Hiếu. Cầu chúc thánh gia của Anh Chị nên giống thánh gia thất của Chúa Giêsu".
Sau khi bức tranh nầy được treo lên tường, có người lên tiếng phê bình:
Tại sao lại viết là "thánh gia Trung-Hiếu"? Chỉ có một thánh gia thất duy nhất là thánh gia của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse, chứ làm gì có cái gọi là "thánh gia Trung-Hiếu". Viết như thế chẳng phải là làm giảm giá trị của thánh gia Nadarét sao?
Thế là từ lúc đó, nổ ra một cuộc tranh luận giữa hai nhóm có ý kiến đối lập ngay giữa tiệc cưới. Cuộc tranh luận rất sôi nổi và khá ồn ào vì hai phe đều tìm đủ mọi lý lẽ để biện minh cho quan điểm của mình. Để tiết kiệm thời gian, tôi xin gom lại những lý lẽ chính của đôi bên.
Nhóm bài bác cho rằng gia đình kitô hữu không thể gọi là thánh gia vì:
Thứ nhất, gọi như vậy là làm giảm giá trị của thánh gia thất Chúa Giêsu. Xưa nay, Giáo Hội chỉ dùng hai từ thánh gia để chỉ thánh gia Nadarét của Chúa Giêsu mà thôi.
Thứ hai, không ai chối cãi Chúa Giêsu, Mẹ Maria, thánh cả Giuse thật sự là ba đấng thánh. Gia đình nầy gồm có ba đấng thánh nên mới được gọi là thánh gia. Còn gia đình các kitô hữu gồm những người phàm, làm sao gọi là thánh gia được?
Nhóm ủng hộ bảo rằng: Gia đình các kitô hữu cũng là thánh gia vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, bất cứ ai đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy đều đã được thánh hiến, được trở nên thánh. Họ là thánh vì bí tích thánh tẩy làm cho họ trở nên chi thể của Đấng rất thánh là Chúa Giêsu. Thánh Phao-lô ngày xưa chẳng gọi các kitô hữu tại Cô-rinh-tô, Rô-ma, Ga-lát... là thánh đó sao?
Thứ hai, Chúa Giêsu đã lập bí tích hôn phối để thánh hiến đời sống gia đình, nâng gia đình kitô hữu lên một tầm cao mới.
Thứ ba, Công Đồng Vatican II gọi gia đình là Hội Thánh thu nhỏ (Hội Thánh tại gia) (xem LG 11, giáo lý công giáo 1656) và Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng thường gọi gia đình là Hội Thánh tại gia. Gọi như thế có khác gì gọi gia đình kitô hữu là thánh gia?
Thứ tư, theo giáo lý công giáo số 1657, gia đình "là nơi thể hiện đặc biệt chức tư tế cộng đồng của người cha, người mẹ, con cái và mọi phần tử trong gia đình", "là cộng đồng ân sủng và cầu nguyện, là trường học phát triển các đức tính tự nhiên và đức mến Kitô giáo" (Glcg số 1666)
Ngoài ra, xét theo khía cạnh mục vụ, một khi các kitô hữu ý thức rằng gia đình mình đúng thật là thánh gia, họ sẽ cố công xây dựng gia đình sao cho xứng đáng với danh hiệu đó. Thế là những tệ nạn thường xảy ra trong đời sống gia đình có nhiều cơ may được xoá bỏ và những phẩm chất xứng hợp với một thánh gia sẽ được phát huy.
* * *
Khi xây dựng một ngôi nhà, chúng ta cần một bản thiết kế thật hoàn chỉnh hay ít ra cần dựa vào một ngôi nhà đẹp mà chúng ta ưa thích để dựa theo đó mà xây ngôi nhà của mình.
Hôm nay, nhân lễ kính thánh gia thất của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse, Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn ngắm lại một kiệt tác gia thất của Người, do chính Người xây dựng với sự hợp tác của thánh Giuse và Mẹ Maria và mời gọi chúng ta hãy xây dựng gia đình mình theo mô hình lý tưởng đó.
Xây dựng gia đình mình theo mô hình thánh gia Nadarét là mọi người trong gia đình phải cư xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy. Cụ thể là người chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Mẹ Maria; người vợ phải yêu thương và săn sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ thánh Giuse; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu; con cái trong gia đình phải hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse.
Có như thế, gia đình tín hữu mới xứng đáng với danh hiệu là thánh gia, xứng đáng với hồng ân đã nhận ngày lãnh bí tích hôn phối, làm cho gia đình trở nên tổ ấm yêu thương hạnh phúc và thánh thiện.
13.Mái Ấm Hạnh Phúc--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tolstoy viết lời mở đầu cuốn sách “Anna Karenina”: Những gia đình hạnh phúc đều giống nhau, nhưng gia đình bất hạnh thì lại muôn màu muôn vẻ.
Vậy gia đình hạnh phúc có những điều nào giống nhau? Thực tế cho thấy rằng, một gia đình hạnh phúc là mẹ được ưu ái, cha được tôn trọng và con được tiếp nhận. Mẹ được chiều chuộng, gia đình càng hạnh phúc. Cha được tôn trọng sẽ càng yêu mẹ hơn. Con cái được tiếp nhận, gia đình mới thực sự là mái ấm.Gia đình là thế giới của mẹ, là vương quốc của cha, là khu vườn thần tiên của con trẻ. Đây chính là hình mẫu về một mái ấm hạnh phúc.
Gia đình là tổ ấm yêu thương cho từng thành viên. Trước ngưỡng cửa của đời sống hôn nhân gia đình, ai cũng muốn cho mình có được một cuộc tình êm xuôi, một gia đình hạnh phúc, trên thuận dưới hoà, con cái hiếu thảo, vợ chồng yêu thương nhau. Hôn nhân gia đình là một quyết định và là bước ngoặt lớn trong cuộc sống con người, nên người ta đặt vào đó cả niềm hy vọng và sự mong đợi lớn lao.
Đời sống hôn nhân gia đình có một ơn gọi và sứ mạng cao quý trong Giáo hội và xã hội. Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong khung cảnh của một gia đình. Qua cuộc sống của Thánh Gia, “chúng ta hiểu cách sống trong gia đình. Nadarét nhắc chúng ta về ý nghĩa của gia đình, về sự hiệp thông tình yêu, vẻ đẹp đơn sơ và giản dị, tính thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình; Nadarét làm cho chúng ta thấy gia đình là một trường học ngọt ngào và không thể thay thế, dạy cho ta biết thế nào là chức năng tự nhiên của gia đình đối với trật tự xã hội” (ĐTC Phaolô VI, Diễn từ tại Nadarét)…Muốn có những con người tốt và những Kitô hữu thánh, gia đình phải tốt và thánh thiện; muốn đổi mới đất nước, xã hội và Hội Thánh, phải bắt đầu từ gia đình. “Gia đình là con đường của Hội Thánh” (Thánh Gioan Phaolô II, Thư gửi các gia đình, số 2).
Lễ Thánh Gia, Giáo hội mời gọi mỗi gia đình Công giáo hướng về gia đình Nadarét. Không phải lúc nào cũng màu hồng mà Tin Mừng cho thấy Thánh Gia đã trải qua những lận đận lao đao vất vả giữa bao hiểm nguy khó khăn thử thách trăm bề. Thánh Giuse khéo léo chống chèo vượt qua tất cả và cùng với Mẹ Maria Chúa Giêsu, xây dựng mái ấm hạnh phúc.
Thánh Gia là trường dạy cầu nguyện, dạy giáo lý, dạy lao động, dạy yêu thương đến hiến mình cho người khác, chuẩn bị cho Chúa Giêsu gánh vác sứ vụ Chúa Cha trao phó sau này.Chúa Giêsu đã vâng phục kỷ luật trường này, chấp nhận những vị thầy đầu tiên là cha mẹ và Người đã lớn lên chững chạc, trưởng thành, quân bình thể xác trí tuệ, tâm linh. Chúa đã sống học tập rèn luyện 30 năm để rao giảng 3 năm. Một năm Chúa Giêsu giảng đạo thì 10 năm Người ở với gia đình. Chúa ưu tiên và đề cao tầm quan trọng của gia đình biết bao.
1. Mái ấm gia đình
Có nhà hoạ sĩ kia cứ mãi mơ ước trong đời mình sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất thế giới. Nhưng anh ta không biết phải vẽ thứ gì để bức tranh sẽ có được hình ảnh, màu sắc, và nội dung sâu đậm đáng trở thành bức tranh tuyệt vời nhất trần gian.
Chàng đã tìm hỏi với một linh mục về điều gì đẹp và ý nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay: “Niềm tin. Niềm tin là số một, niềm tin sẽ nâng cao giá trị con người. Niềm tin sẽ chữa lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt vời.”
Chàng hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái đang bước lên xe hoa về nhà chồng. Cô gái trả lời: “Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu. Tình yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt ngào, đưa tiếng cười vào nơi than khóc, đổi nghèo hèn tầm thường thành phú quí cao sang. Tình yêu thật tuyệt vời.”
Cuối cùng người hoạ sĩ gặp một anh thương binh vừa trở về từ tiền phương. Anh lính đã trả lời: “Hoà bình là điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có đổ nát, bất hạnh, khổ đau. Ở đâu có hoà bình, ở đó có cái đẹp.”
Ba câu nói của ba con người – vị linh mục, cô gái sắp lấy chồng và anh thương binh trẻ – đã làm cho người hoạ sĩ phân vân: không biết phải làm thế nào để trên bức tranh của mình có thể diễn tả cùng một lúc niềm tin, tình yêu, và hoà bình.
Đang suy nghĩ anh về đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con anh ùa ra đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt của các con. Anh cũng cảm được tình yêu trong chiếc hôn chân thành của người vợ. Niềm tin của con cái và tình yêu của người vợ làm cho tâm hồn anh ta ấm áp và an bình lạ thường. Thế rồi một ý tưởng chợt loé lên trong đầu. Anh vội ngồi xuống khởi công vẽ tranh, và sau khi hoàn thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã đặt tên cho nó: “Mái Ấm Gia Đình”.
Mái ấm gia đình chính là hình ảnh xinh đẹp và sống động nhất mà người ta có thể vẽ được về Nước Trời hay Thiên đàng ngay trên thế gian này. Mái ấm gia đình cũng sẽ là lời chứng tá hùng hồn nhất cho sự hiện diện của Đức Giêsu giữa dương gian.
2. Hạnh phúc gia đình
Theo Đức cha Bùi Tuần, có ba yếu tố làm nên hạnh phúc gia đình: Quy tụ gia đình; Lễ giáo gia đình và Tình nghĩa gia đình.
Quy tụ gia đình
Gia đình là nơi con người được “ở với nhau”. Các môn đệ đầu tiên không tìm đến với Chúa Giêsu như một vị thầy dạy học, nhưng như “Đấng ở với” (Ga 1,38). Chúa đã mời gọi các ông, trước tiên không phải là học một bài học, mà là xem chỗ Người ở và ở lại với Người (Ga 1,39). Cũng vậy các thành viên trong gia đình hiện diện cho nhau với toàn vẹn cái tôi của mình, được chấp nhận và chấp nhận người khác với toàn vẹn cái tôi ấy. Dưới ánh sáng đức tin Kitô giáo, gia đình là nơi chốn bình an cho tâm hồn mình; “Đấng Tạo Hoá đã đặt gia đình làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội con người nên gia đình trở thành ‘tế bào đầu tiên và sống động của xã hội’ (x.Tông huấn gia đình số 42).
Quy tụ là họp mặt, là gặp nhau, là nói chuyện với nhau, là gần gũi nhau, là chia sẻ với nhau. Quy tụ gia đình làm nên một bầu khí ấm áp thiêng liêng. Có thể nói, mọi quy tụ gia đình, dù thường ngày, dù bất thường, đều mang bầu khí đạo đức, có ánh sáng của đức tin và có hương thơm của đức ái.Quy tụ gia đình như thế sẽ có Chúa hiện diện. Nhờ có Chúa hiện diện, gia đình sẽ biết phân định điều gì là tốt cần làm, điều gì là xấu cần tránh, nhất là trong tình hình hiện nay tốt xấu lẫn lộn một cách quá phức tạp.
* Lễ giáo gia đình
Lễ giáo là nghi lễ và giáo dục gia đình. Gia đình là một cộng đoàn, một đời sống chung của những con người. Họ có những dây liên đới với nhau. Nên cần phải có những hình thức thể hiện những dây liên đới đó. Do vậy, mà phải được giáo dục, để có được lối sống liên đới tốt đẹp, trong trật tự. Liên đới thấp nhất thuộc nhân bản của cộng đoàn là biết diễn tả sự gần gũi nhau và có trách nhiệm đối với nhau. Biết siêng năng và lương thiện làm hết sức mình, để góp phần vào việc xây dựng hạnh phúc chung gia đình, đó là nét đẹp căn bản của lễ giáo gia đình.Biết chào kính, chào thăm, chào hỏi, với nhiều bình thức, là một nghi lễ đơn sơ chứng tỏ con người có giáo dục gia đình. Biết cảm ơn, biết xin lỗi cũng là những điều lễ phép thô sơ của con người có giáo dục trong cộng đoàn. Biết kính trên nhường dưới cũng là một biểu hiện lễ phép của nền giáo dục liên đới. Biết sống chân thành và trung thành trong các liên đới gia đình cũng là một giá trị của con người có giáo dục gia đình.
* Tình nghĩa gia đình
Tình nghĩa gia đình cần được vun trồng, cần được chăm sóc, cần được xây dựng với những tình tiết nhỏ. Người tình nghĩa đích thực là người biết xót thương như người Samari đó. Chúng ta chỉ có được một cách đích thực bằng tấm lòng bén nhạy và giàu tình xót thương với những tình tiết nhỏ, do trực giác đạo đức hơn là do lý luận.
3. Tình yêu gia đình
“Hôn nhân gia đình vốn là hình ảnh tiêu biểu của tình yêu. Những áp lực của đời sống xã hội đang làm rúng động tận nền tảng của đời sống gia đình, làm biến dạng ý nghĩa chân thực của tình yêu. Không kể những đổ vỡ trong đời sống gia đình, trên thế giới ngày nay còn xuất hiện và đang lây lan những mẫu gia đình kỳ lạ, gia đình đồng tính, gia đình tạm thời, gia đình ba hoặc bốn vợ/chồng…Kitô giáo không chấp nhận những mẫu gia đình kỳ lạ ấy, không phải chỉ chúng khác lạ, nhưng vì chúng phá vỡ ý nghĩa đích thực của tình yêu”. (x. Gia đình kitô hữu trước những thách đố thời đại, Nội san chia sẻ số 76).
Ngày nay, trong xã hội tiêu thụ, vì bận rộn với công việc kiếm tiền, một số cha mẹ không gần gũi, không dành thời giờ cho con cái. Vì thế, chúng cảm thấy bị bỏ rơi, thiếu tình thương. Theo mức độ, con cái sẽ lâm bệnh chán nãn, buồn phiền, không thích học nữa, lỳ lợm, xấc láo, ích kỷ, vô cảm, đua đòi thiếu suy nghĩ.Một số phụ huynh chỉ mong con mình học giỏi, thành đạt, kiếm được nhiều tiền. Họ ít quan tâm đến đời sống đạo đức của con, không lo giáo dục đức tin cho con. Có cha mẹ quan niệm, lo cho con được Xưng Tội, Rước Lễ, Thêm Sức là đủ rồi; vì thế có những em sau khi Thêm Sức là bỏ nhà thờ. Sự đa dạng của vi tính và internet quá hấp dẫn lôi kéo con cái chúng ta ra khỏi thực tế và lao vào thế giới ảo, lối sống ảo. Lối sống hiện đại cũng dễ đánh mất bầu khí mái ấm. Mỗi người có một phòng riêng, một thế giới riêng nên mọi người ít quan tâm đến nhau, ít giúp đỡ nhau.
Các bậc phụ huynh xin hãy nhớ, sức mạnh của sự quy tụ các thành viên trong tình nghĩa và với lễ giáo gia phong sẽ làm thành mái ấm gia đình cao quý. Chính đức tin và tình yêu từ mái ấm sẽ làm trổ sinh hoa trái cho đời sống gia đình.
Ở các nước Âu Mỹ, có một câu ngạn ngữ nổi tiếng nhà nhà đều biết: “Happy wife happy life”, nghĩa là “Vợ vui lòng, cuộc sống vui vẻ”. Câu này nên trở thành kim chỉ nam của mỗi một ông chồng.Một người phụ nữ được chiều chuộng sẽ rất rạng rỡ, ấm áp, mềm mại như ngọc. Một người đàn ông được tôn trọng sẽ có thần thái, phong độ ngời ngời. Chồng càng yêu thương vợ, vợ lại càng tôn trọng chồng. Vợ càng tôn trọng chồng, chồng lại càng yêu thương vợ. Tình cảm hài hoà, cha mẹ tôn trọng ý nguyện của con cái, quan tâm và tán dương con cái, gia đình thật hạnh phúc, chan hòa niềm vui tình yêu.
Đức Thánh Cha Phanxicô nói : “Niềm vui của tình yêu trong đời sống của các gia đình cũng là niềm vui của Hội Thánh” (Tông huấn Niềm vui tình yêu, số 1).
Theo gương Thánh Gia, mỗi gia đình hãy nỗ lực thực thi lời mời gọi của HĐGMVN : “Ngày nay, dù phải đối diện với nhiều lo toan trong cuộc sống, xin anh chị em cố gắng duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Công Giáo”. Hạnh phúc gia đình khởi đi từ tình yêu, niềm tin và hoà bình. Gia đình sẽ là “vườn ươm” các nhân đức, là “nơi đào tạo” nhân bản và tâm linh cho con cái, để trở thành một Hội Thánh tại gia.
14.Bài giảng lễ Thánh Gia Thất--giaophanthaibinh.org
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình Thánh Gia, chúng ta thường thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu vá, Thánh Giuse đang làm mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ nhìn vẻ bề ngoài như vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh Gia quả là một đời sống lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách hoàn toàn phẳng lặng. Thế nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp phải những khó khăn, những sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Gia đình là nền tảng của Xã hội và Giáo Hội. Thế nhưng một thực tế là, ở nhiều nơi, “cái nôi” đó đang bị đe dọa, đang bị lung lay tới tận gốc rễ. Gia đình đang mất dần vai trò là “tổ ấm” của mình do tình trạng lục đục trong hôn nhân của các cặp vợ chồng. Hậu quả của những đổ vỡ đó dẫn đến việc nhiều đứa trẻ phải sống trong cảnh thiếu tình cha, vắng tình mẹ; dần dà trở thành những nạn nhân của những tệ đoan xã hội.
Nhận thấy tầm quan trọng của gia đình trong việc Giáo dục con cái, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tông huấn về gia đình “Familiaris Consorto” đã khuyến cáo các bậc phụ huynh: “Cha mẹ phải nhìn nhận rằng, chính họ là những nhà giáo dục đầu tiên và trên tất cả đối với con cái. Vai trò giáo dục của họ quyết liệt đến nỗi thật khó tìm được bất cứ điều gì có thể đền bù vào sự thất bại của họ. Cha mẹ phải nhận trách nhiệm tạo bầu khí gia đình đầy linh hoạt trong tình yêu và tôn kính Thiên Chúa và mọi người, để sự phát triển hoàn mỹ về cá tính và xã hội được nẩy nở trong con người. Vì vậy, gia đình là trường học đầu tiên cho tất cả những đức tính Giáo hội và xã hội mà bất cứ xã hội nào cũng cần phải có”. Muốn được như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cùng nhìn ngắm vào mẫu gương gia đình Nazarét.
Từ mẫu gương Gia đình Nazarét
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình Thánh Gia, chúng ta thường thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu vá, Thánh Giuse đang làm mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ nhìn vẻ bề ngoài như vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh Gia quả là một đời sống lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách hoàn toàn phẳng lặng. Thế nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp phải những khó khăn, những sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm của kiếp nghèo. Ngay khi Chúa Giêsu chuẩn bị ra đời, gia đình Thánh Gia đã bị người ta xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn trẻ còn non nớt mà cha mẹ đã phải bồng bế con chạy trốn, xa quê hương đất nước, sống nơi đất khách quê người.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu Thánh Giuse đã bị giày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quý đã không vâng lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh phúc gia đình. Vậy nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Đến Gia đình chúng ta
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Vậy đâu là phương thế giúp chúng ta có thể trở nên những gia đình mẫu mực như lòng Chúa ước mong? Lời Chúa trong thứ của Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côlôxê (Cl 3,12-21) đã cho chúng ta biết: “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia”. Người Việt Nam có câu: “Một sự nhịn, chín sự lành”. Trong đời sống gia đình, làm sao có thể tránh khỏi những lúc xô xát, cãi cọ… nhưng nếu, vợ chồng biết nhường nhịn nhau thì cửa nhà sẽ êm ấm. “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn” là vậy. Ở đây, lý do mà Thánh Phaolô đưa ra khiến ta phải tha thứ cho nhau là vì: Chúa đã tha thứ những lỗi lầm cho chúng ta (x. Cl 3, 13).
Tiếp đến, để giữ được mối thuận hảo trong gia đình, thì: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,14). Lòng bác ái ở đây phải phát xuất từ con tim chân thành, không kiêu căng, không tự ái, như trong “Bài ca đức ái” mà thánh Phaolô đã dạy: Bác ái là tha thứ, là tin tưởng cậy trông tất cả. Là thông cảm và luôn thứ tha.
Sau cùng, thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,17). Mỗi khi hành xử, chúng ta hãy đặt câu hỏi rằng: tôi làm điều này, nói điều kia có nhân danh Chúa hay không?
***
Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Hôn nhân và gia đình là một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại” (Tông thư Familiaris consortio, số 1). Đã là tài sản quý, thì ai cũng phải có bổn phận giữ gìn, nâng niu và trân trọng. Mừng lễ Thánh Gia thất hôm nay, Giáo Hội ước muốn mỗi gia đình chúng ta hãy nhìn lên tấm gương của gia đình Nazarét để học biết cách gìn giữ hạnh phúc gia đình mình. Nguyện chúc cho tất cả các gia đình luôn sống trong sự bao bọc chở che của tình yêu Chúa, để mai ngày, mọi thành viên trong gia đình chúng ta sẽ được cùng hân hoan vui mừng đoàn tụ với nhau trên thiên quốc để ca tụng tình yêu Chúa muôn đời. Amen.
15.Lễ Thánh Gia--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
“Bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa”
Trong bối cảnh hiện nay, có nhiều yếu tố làm lung lay mái ấm gia đình, vốn là nền tảng cho sự lớn lên của từng người và của cả xã hội. Trong Thánh Lễ tôn kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta được mời gọi cầu nguyện cách đặc biệt cho các gia đình, nhất là gia đình những người thân yêu của chúng ta, và cho cả các mái ấm nữa, vốn là “gia đình” của các trẻ em mồ côi, khuyết tật, thiếu thốn, thiệt thòi, cùng khổ…
Chúng ta xin Chúa chúc lành cho các nỗ lực của chúng ta hiện nay, trực tiếp và gián tiếp lo cho hạnh phúc của các gia đình; và xin cho chúng ta dấn thân hơn nữa theo hướng phục vụ các mái ấm gia đình.
Và chúng ta cũng xin Chúa chúc lành cho gia đình và cộng đoàn của chúng ta, để chúng ta được liên kết và hiệp nhất với nhau bằng Lời Chúa, giống như Thánh Gia, qua đó làm chứng cho tình yêu thương xót và cứu độ của Chúa.
1. Thánh Gia và mầu nhiệm Nhập Thể
Thật là ý nghĩa khi Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia ngay sau lễ Giáng Sinh. Bởi vì, Lễ Thánh Gia làm sáng tỏ một chiều kích đã có trong mầu Giáng Sinh, nhưng không được chú ý: đó là, dù Hài Nhi Giêsu là “Ngôi Lời từ trời xuống”, được hoài thai, được cưu mang và sinh ra lạ lùng như thế nào đi nữa, thì cũng phải được đón nhận vào trong một gia đình cụ thể, và qua một gia đình, một “gia thất” như cách nói của phụng vụ, Ngài được đón nhận vào một gia tộc, vào một dân tộc và vào gia đình nhân loại. Thánh sử Mát-thêu làm rõ chiều kích này của mầu nhiệm Nhập Thể, khi viết bản Gia Phả của Đức Giê-su Ki-tô ngay trang đầu tiên của sách Tin Mừng:
Đây là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham…
Ê-li-hút sinh E-la-da; E-la-da sinh Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp; Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.
(Mt 1, 1.15-16)
Vì thế, các hang đá của chúng ta nên có sự hiện diện đầy đủ của cả bố và mẹ hài nhi Giêsu; vì sinh ra mà không bố không mẹ, thì có nghĩa là gì và sẽ ra làm sao? Bởi lẽ tiến trình Ngôi Lời “nhập thể”, nghĩa là làm người vẫn chưa trọn vẹn, Ngài còn phải “nhập hóa” nữa, nghĩa là Ngài không chỉ mặc lấy nhân tính, trở nên con người chung chung, nhưng trở nên con người này, Giêsu Nazareth, có gia có phả. Chúng ta đừng quên cảm phục Đức Maria và thánh Giuse đã đón nhận hài nhi Giêsu vào mái ấm của mình, và qua mái ấm của mình, đón nhận Ngài vào dân tộc của mình và vào gia đình nhân loại. Đó là một hồng ân, nhưng cũng là một thử thách, thử thách đòi các Ngài phải liều mình và hi sinh cả một đời.
Trong lễ Thánh Gia, khi cầu nguyện cho các gia đình, chúng ta đừng quên nhớ đến những em bé được sinh ra chẳng lạ lùng chút nào, nhưng ngược lại, sinh ra trong bất hạnh (sinh ra trong một gia đình đổ vỡ về tương quan; sinh ra thiếu cha, thiếu mẹ; sinh ra ngoài ý muốn hay vì bị cưỡng bức; những em bé được sinh ra trong lén lút và bị bỏ rơi…). Lễ Thánh Gia mà chúng ta cử hành hôm nay, muốn nhắn gởi cho loài người chúng ta một sứ điệp: các em bé sinh ra trong bất hạnh này cũng phải được đón nhận vào một “gia đình”. Các gia đình nhận con nuôi và các mái ấm thực hiện sứ mạng cao cả này; các mái ấm dù là Kitô giáo hay Phật giáo, hoặc thuộc bất cứ tôn giáo nào, hay cũng chẳng cần thuộc tôn giáo nào, điều quan trọng là tình người, là bầu khí đón nhận và yêu thương. Vì ở đâu có tình thương ở đó có Thiên Chúa.
Thực ra, Đức Giêsu dù được sinh ra cách lạ lùng, nhưng Ngài cũng đã chia sẻ thân phận của các em bé sinh ra trong bất hạnh, khi ngài được sinh ra trong hoàn cảnh thật éo le và ngay khi sinh ra đã bị người ta tìm bắt để loại trừ.
2. Thánh Gia và “Người Con Ơn Huệ”
Điểm thứ hai chúng ta cần chú ý trong ngày lễ hôm nay, đó là trong Thánh Gia, Hài Nhi Giêsu được đón nhận như một ơn huệ tuyệt đối đến từ Thiên Chúa. Cuộc sinh ra của Isaac (được kể lại trong bài đọc 1) và cuộc sinh ra của Gioan làm nổi bật cuộc sinh ra của Đức Giêsu như là ân huệ tuyệt đối đến từ Thiên Chúa. Chính vì thế, cha mẹ được mời gọi dâng lại cho Chúa, nghĩa là từ bỏ quyền làm chủ, chính đứa con mà mình sinh ra. Tổ Phụ Abraham được mời gọi hiến tế Isaac, ông Zacaria dâng con cho Chúa khi vừa mới lọt lòng: “Hài nhi hỡi con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao” (Lc 1, 76); và trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca nói:
Bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem để dâng tiến cho Chúa. (c. 22)
Đây là một sứ điệp vừa quan trọng và vừa sâu xa mà Thánh Gia ngỏ với tất cả các gia đình: những đứa con ruột thịt do chính mình sinh ra, nhưng bố mẹ và cả nhà, cả gia tộc được mời gọi đón nhận như một ơn huệ đến từ Thiên Chúa. Mọi đứa con vừa là con của bố mẹ, vừa là con của Thiên Chúa, vừa thuộc về Đại Gia Đình của chính Thiên Chúa. Mọi đứa con đều là ơn huệ của Thiên Chúa và được mời gọi nhận ra và sống ơn gọi đến từ Thiên Chúa. Và một cách nghịch lí, đó lại là cách duy nhất để bố mẹ giữ lại được con cái và cũng là cách duy nhất để con cái lớn lên và đạt tới cứu cánh, như Thư Do Thái kể lại về trường hợp của hai cha con Abraham và Isaac:
Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như một biểu tượng. (Dt 11, 19)
Người con giờ đây không còn là “vật sở hữu” của bố Abraham và mẹ Sara, nhưng là “biểu tượng” của lòng trung tín và quảng đại của Thiên Chúa.
3. Thánh Gia và mầu nhiệm Nước Trời
Cuối cùng, điểm thứ ba, khi chiêm ngắm Thánh Gia như là mẫu gương cho mọi gia đình, chúng ta không thể tránh được một khó khăn ngấm ngầm có ở trong lòng, bởi vì Thánh Gia không phải là một gia đình với vợ chồng con cái theo nghĩa máu mủ ruột thịt thông thường: mọi tương quan trong Thánh Gia đều có trục trặc theo nghĩa của một gia đình bình thường:
Trước hết, thánh Giuse đối với Đức Maria và Hài Nhi Giê-su: thánh Giuse mang tiếng là chồng là cha, nhưng như thất cả chúng ta đều biết, Ngài chẳng có “sơ múi gì”!
Thứ hai, Đức Mẹ sinh ra Hài Nhi Giê-su, nhưng không giống Mẹ sinh ra chúng ta; bởi vì Mẹ sinh con mà không cần lấy chồng!
Cuối cùng là Hài Nhi Giê-su, cũng không bình thường: Ngài được Đức Mẹ sinh ra, nhưng Ngài còn là Thiên Chúa, từ thủa đời đời.
Như vậy, nghĩa là làm sao? Làm sao mà chấp nhận được? Xét cho cùng Thánh Gia là một “mái ấm” hơn là một gia đình! Trong các tương quan nêu trên, tương quan của thánh Giuse với Đức Maria và với Đức Giêsu có khó khăn hiển nhiên nhất và toàn diện nhất. Do đó, chúng ta hãy dừng lại ở đây một lúc để suy niệm (hơn nữa, bởi vì nhiều người trong chúng ta nhận thánh Giuse là bổn mạng!). Hơn ai hết trong Thánh Gia, thánh Giuse đã vượt qua tương quan máu mủ huyết thống để đón nhận Maria và hài nhi Giêsu theo ý muốn của Thiên Chúa. Thế mà, tương quan thân thiết dựa trên việc vâng theo ý muốn của Thiên Chúa, chính là tương quan của Nước Trời.
Thánh Giuse đã không nghe đuợc câu nói này của Đức Giêsu « Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em, là mẹ tôi » (Mc 3, 35), nhưng ngài đã sống trọn vẹn điều này trước đó thật lâu. Có thể nói chắc chắn rằng, trước khi công bố lời này, Đức Giêsu đã kinh nghiệm được tương quan mới mẻ này nơi thánh Giuse. Như thế, sứ điệp mạnh mẽ nhất của Thánh Gia, chính là chúng ta được mời gọi xây dựng tương quan Nước Trời bằng cách vượt qua tương quan huyết thống, qua việc lắng nghe và sống Lời Chúa, ngay trong gia đình của mình.
***
Và nhất là với ơn gọi tu trì, người tu sĩ nam nữ không lập gia đình, nhưng các vị đã thực sự sống sứ điệp rất căn bản của Thánh Gia: đó là trở nên người thân của nhau, trở nên một mái ấm trên nền tảng lắng nghe và thực thi ý Chúa. Đó chính là sứ mạng mà Cộng Đoàn Thánh Gia được mời gọi đảm nhận, như Cha Bề Trên nói khi bước vào Thánh Lễ, với ơn Chúa và với sự cộng tác, nâng đỡ và lời cầu nguyện của tất cả chúng ta đang hiện hiện nơi đây cũng như đang hiệp thông với chúng ta, trong ngày lễ bổn mạng của Cộng Đoàn.
Chúng ta đang ở trong Năm Đời Sống Thánh Hiện, hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, trong Thánh Lễ tôn kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho các tu sĩ nam nữ và cho ơn gọi dâng hiến, như lời Đức Thánh Cha mời gọi.
16.Gia đình là một quà tặng--Trần Văn Ngữ, SJ.
Để bước vào đời sống hôn nhân, các bạn trẻ cần chuẩn bị gì cho gia đình mới của mình? Đâu là lối sống và ước mơ để xây dựng một gia đình hạnh phúc? Làm sao để nuôi dạy cho con khôn lớn? v.v…… Đây chắc hẳn là các mối ưu tư chính đáng của những ai chọn sống ơn gọi gia đình.
Cha mẹ nào mà chẳng muốn tạo dựng một gia đình êm ấm và chu cấp cho những người con yêu quý của mình đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần, nhưng giữa dòng đời, con thuyền gia đình luôn phải đối diện với nhiều cơn sóng dữ. Con thuyền gia đình sẽ dễ bị đánh chìm, nếu thiếu tình yêu, thiếu sự bao dung tha thứ và ít cảm thông…
Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Thánh Gia Thất. Đây không chỉ là một ngày lễ đến sau ngày lễ mừng Chúa Giáng Sinh, mà còn là một thời khắc quan trọng để Giáo hội giới thiệu cho các gia đình Công giáo một mẫu gương về đời sống gia đình. Chiêm ngắm Gia đình Thánh gia chúng ta xác tín rằng: gia đình là món quà vô giá từ Thiên Chúa. Ngay từ thủa tạo dựng con người, Thiên Chúa đã chúc phúc cho người nam và người nữ. Ngài gắn kết họ thành một xương một thịt, và trao tặng những đứa con cho gia đình. Thiên Chúa trao gửi cho mỗi người một nhiệm vụ riêng để họ tương trợ lẫn nhau và cần tới nhau. Cho nên, gia đình là nơi đẹp nhất, diễn tả tình yêu của Thiên Chúa một cách trọn vẹn và cụ thể nhất.
Các tác giả Tin Mừng không kể nhiều về Gia đình Thánh gia. Nhưng chỉ với một vài câu ngắn ngọn, thánh sử Luca cho thấy: “Hài Nhi Giê-su ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”. Hài Nhi được lớn khôn cả về thể chất lẫn tinh thần, vì được dưỡng dục trong một bầu khí gia đình tốt lành. Đây chắc hẳn là điều mà nhiều cha mẹ muốn dành tặng cho những đứa con của mình!
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật mừng lễ Thánh Gia Thất hôm nay,[1] thánh Luca khéo léo vén mở cho chúng ta “bí quyết sống” của Gia đình Thánh gia:
Thứ nhất, Gia đình Thánh gia sống gần gũi với Thiên Chúa: “Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem , để tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22). Có thể nói, Gia đình Thánh Gia là một gia đình đạo đức. Ở những đoạn văn tiếp theo, chúng ta còn biết thêm rằng: “Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua….” (Lc 2, 41). Cũng như các gia đình cùng thời, Gia đình Thánh Gia đã tham dự những ngày lễ kỷ niệm các biến cố quan trọng trong nhịp sống đời thường. Mỗi ngày lễ là một cơ hội nhắc nhở cho các Ngài về việc xây dựng mối tương quan thường xuyên và thân mật với Thiên Chúa.
Thứ đến, Gia đình Thánh gia sống hết lòng theo những gì Luật Chúa dạy. Ngay từ những ngày đầu đời, Hài Nhi Giê-su đã được “cắm rễ sâu” vào Luật pháp của Đức Chúa Trời. Sau này, trong thời gian rao giảng công khai, Chúa Giê-su nhấn mạnh: “Anh em đừng tưởng rằng Thầy đến để bãi bỏ luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Thực vậy, những gì luật Mô-sê dạy là kế hoạch của Thiên Chúa trong thời Cựu Uớc để cứu sống dân Do Thái. Còn luật Chúa Giê-su đem đến trong thời Tân Ước là để cứu rỗi mọi người.
Có thể tóm tắt ngắn gọn, bí quyết sống của Gia đình Thánh gia là sống thân mật với Người tặng quà – chính là Thiên Chúa. Nhờ thế, món quà gia đình tràn đầy sức sống, vì được liên kết với Người cho quà. Ở đây, chúng ta cần phân biệt: sự gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, không có nghĩa là Thiên Chúa sẽ cất đi khỏi gia đình chúng ta mọi khó khăn cũng như thử thách, nhưng nên hiểu là Thiên Chúa đảm bảo cho gia đình chúng ta sẽ nhận được những ân sủng cần thiết để vượt qua các sóng gió chông gai. Gia đình Thánh gia cũng như gia đình chúng ta, các Ngài cũng phải đối diện với những khó khăn của đời sống thường ngày.
Tuy không thấy các sách Tin Mừng kể về những khó khăn của Gia đình Thánh gia, nhưng chúng ta chắc chắn rằng, các Ngài là một gia đình nghèo. Của lễ dâng cho Thiên Chúa là “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non”, cho chúng ta biết rằng Thánh Giuse và Mẹ Maria là những người nghèo. Chính Hài Nhi Giê-su đã được sinh ra nơi máng cỏ. Ngài đã bắt đầu cuộc sống và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sau này, Chúa Giê-su sống gần gũi với người nghèo, và Ngài luôn ủng hộ người nghèo trong suốt sứ vụ của mình.
Gia đình thánh Giuse là một gia đình nghèo vật chất, nhưng rất giàu tình nghĩa với nhau và tình yêu với Thiên Chúa. Còn chúng ta ngày nay, nhiều gia đình dư thừa của cải, nhưng đời sống gia đình thì nghèo nàn và gặp nhiều khủng hoảng, vì thiếu mối dây liên kết với Thiên Chúa, hoặc không coi trọng những giây phút sống thiêng liêng trong gia đình.
Một nếp sống đạo rất đẹp trong các gia đình Công giáo là dành thời gian để cùng nhau cầu nguyện đang bị mai một. Những giây phút của các buổi đọc kinh chung trong gia đình đang dần dần bị những sinh hoạt khác lấn át với hàng ngàn lý do chính đáng khác nhau. Cơ hội để cùng nhau đi tham dự thánh lễ cũng bị mất dần. Hoặc có cùng nhau tham dự thánh lễ chung, nhưng lòng trí lo ra và bị chi phối bởi nhiều điều khác.
Để cuộc sống gia đình không bị nhấn chìm dưới những con sóng dữ giữa dòng đời, thiết nghĩ các bậc cha mẹ cần lưu tâm kiến tạo đời sống thiêng liêng trong gia đình. Biết trân quý những khoảng lặng trong cuộc sống để cùng nhau bày tỏ lòng biết ơn về các ơn lành mà chúng ta đã nhận được. Cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa, vì lòng nhân từ của Ngài. Cầu xin Thiên Chúa hướng dẫn và tha thứ cho những thiếu sót của mình với nhau. Các cha mẹ cần cầu nguyện chung với con cái, và dạy chúng cầu nguyện. Hãy để cho Chúa có cơ hội bước vào trong cuộc sống hàng ngày của mình. Bên cạnh đó, các gia đình nên gìn giữ những buổi dùng cơm chung với nhau. Chính nơi bàn ăn là cơ hội để thể hiện sự chia sẻ và quan tâm tới nhau.
Cuộc sống gia đình đầy sóng gió chông gai, nhưng cũng đầy tràn niềm vui và hạnh phúc. Thiên Chúa chúc phúc cho mọi gia đình và hứa ban những ơn cần thiết, để các gia đình vượt qua khó khăn thử thách và trở nên tổ ấm yêu thương. Ân sủng của Thiên Chúa không chỉ tỏ hiện trong ngày cử hành bí tích hôn phối, mà còn kéo dài trong suốt cuộc sống gia đình.
Mừng lễ Thánh Gia Thất, chúng ta không chỉ chiêm ngắm một Gia đình Thánh gia sống gương mẫu, mà chúng ta còn được mời gọi xây dựng một gia đình tốt lành như lòng Chúa mong ước. Amen.
----------------------------
[1] Lc 2,22-40
17.Cầu nguyện, sống còn của gia đình--Lm. Minh Anh
Anh chị em thân mến,
Khi các bài ca của thiên thần ngưng bặt,
Khi những chòm sao trên nền trời Bêlem lặng khuất,
Khi ba vua đã trở lại quê nhà,
Khi các mục đồng cùng đoàn vật đã rút lui,
Thì bấy giờ, công việc Giáng Sinh lại bắt đầu
để tìm kiếm những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đổ gãy,
để các tâm hồn được chữa lành,
để các nước được dựng xây trên công lý và hoà bình…
và để nhân loại được sống trong một nền văn minh mới, văn minh tình thương Kitô.
Vậy mà tất cả ấy lại được bắt đầu từ một mái ấm, từ một gia đình, gia đình Nazareth mà chúng ta quen gọi là gia đình Thánh Gia.
Như bao gia đình khác, Thánh Gia cũng đã trải qua những ngày nắng ấm, những chiều giông bão; cả những khoảnh khắc an vui lẫn những phút giây bồi hồi; nhiều lúc rộn rã tiếng cười, bao lần sùi sụt tiếng khóc.
Thử nhìn lại cái thuở ban đầu lưu luyến ấy của đôi bạn trẻ Giuse - Maria. Từ phút truyền tin, từ buổi đón nhau về cho đến ngày sinh con giữa đồng không mông quạnh, hay khi phải ẵm con đỏ hỏn làm khách trọ quê người…, Thánh Gia phải đương đầu với bao thử thách. Thử thách bên ngoài do hoàn cảnh, thử thách bên trong như các trình thuật Tin Mừng cho thấy, “Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập”; “Con ơi, sao con làm thế, này cha con và mẹ phải lo lắng tìm con?”; “Cha mẹ không biết rằng con phải lo việc nhà Cha con sao?”... Đó là cả một khủng hoảng, một thử thách. Ngước nhìn lên hang đá, bóng thánh giá đã thấp thoáng ở đó.
Ấy thế, kính thưa Anh Chị em,
Gia đình ấy vẫn là một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, gia đình ấy vẫn trở nên thước ngọc khuôn vàng cho mọi gia đình trong nhân loại. Bởi lẽ, gia đình đó là một gia đình kính sợ Chúa, một gia đình cầu nguyện, một gia đình mà con cái là tất cả của cha mẹ và cha mẹ là tất cả của con cái. Ở đó, cha mẹ là cả một bầu trời cho con cái và con cái là cả một bầu trời của cha mẹ.
Ở đó, có một người cha chăm chỉ làm việc, một người mẹ ít nói nhưng cầu nguyện nhiều và cả hai cùng ra sức làm gương tốt để nuôi dạy và giáo dục trẻ Giêsu nên người, nên thánh. Ở đó, người con Giêsu hằng vâng lời tùng phục cha mẹ mình.
Trước bao khủng hoảng của cuộc sống hôm nay, nền đạo đức luân lý gia đình đang hấp hối, không ít gia đình đang đối diện bên bờ vực đổ vỡ. Đời sống vật chất của một xã hội tiêu thụ và hưởng thụ đang chực nuốt chửng cái giá trị đạo đức truyền thống của gia đình. Cha mẹ ít có thời giờ cho nhau, chẳng có thời giờ để ở với con cái. Chưa bao giờ mà con cái vuột mất khỏi tầm tay cha mẹ như hôm nay. Cha mẹ mất con ngay khi con đang ở trong nhà. Gương lành gương tốt đang trở nên một cái gì xa xỉ và hiếm hoi. Đó là chưa nói đến gương mù gương xấu nhan nhản trên báo chí, trên phim ảnh, trên truyền hình...
Hỡi những người làm cha làm mẹ, cả những người làm con, hãy nhìn lên Thánh Gia. Hãy chiêm ngắm Giuse, Maria và trẻ Giêsu: những tấm gương ngời sáng của một người cha, một người mẹ và một người con hết lòng vì gia đình. Hãy làm sống lại truyền thống gia phong Á Đông của cha ông.
Chuyện kể về một người chuyên nuôi cá cảnh. Một hôm, trong kỳ hè, khi đang dạo chơi trước các quầy hàng dọc theo bờ biển, anh thấy một con cá ngũ sắc tuyệt đẹp trong một chậu thủy tinh ở quầy. Đó là một con cá nước mặn xinh xắn mà anh chưa từng thấy, anh quyết định mua về. Về đến nhà, anh ra sức chăm sóc nó và áp dụng những phương pháp tốt nhất của một nhà chuyên môn.
Trước hết, anh đặt cá vào chậu nước mặn, cá lội tung tăng trong môi trường quen thuộc. Thế nhưng, một tuần sau, với sáng kiến, anh thêm vào một ít nước ngọt, mỗi ngày một ít. Cứ thế, anh tăng dần nước ngọt cho đến khi chú cá quen hẳn với môi trường mới. Không dừng lại ở đó, anh tiếp tục luyện cá. Mỗi ngày, anh bắt đầu đổ vào chậu một ít bùn, và cứ thế, sau nhiều tuần, nhiều tháng, lượng bùn được tăng lên cho đến khi con cá quen hẳn với việc ngày ngày nằm trên mặt bùn đớp mồi như một loài bò sát. Chưa hết, anh tập cho cá ra khỏi chậu và lẽo đẽo theo anh như một con cún cưng. Anh đã thành công, vì mỗi lần anh đi đâu, con cá màu ngoan ngoãn theo sau. Cho đến một ngày kia, chuyện đã xảy ra khi anh có việc sang nhà một người bạn, có chú cá cùng đi. Lúc trở về, trời đổ mưa, anh phải chạy thật nhanh và quên mất chú cá. Sực nhớ, anh quay lại tìm, nhưng chẳng thấy đâu cho đến khi gặp một vũng nước trên đường, thì hỡi ôi, chú cá yêu quý của anh nằm chết trong đó vì nó không biết bơi.
Anh Chị em,
Câu chuyện khiến chúng ta rùng mình sởn ốc khi nhớ đến trách nhiệm và bổn phận của một người làm cha làm mẹ trong việc giáo dục và làm gương sáng cho con cái. Vì “nửa cuộc đời còn lại của một con người được hình thành từ những thói quen có được từ nửa cuộc đời trước đó”. Thói quen cầu nguyện, thói quen đạo đức, thói quen lễ phép, thói quen dùng thời giờ, thói quen học hành, thói quen dùng tiền…, nghĩa là giáo dục thế nào, kết quả thể ấy.
Muốn được như thế, gia đình chúng ta phải là một gia đình mà Thiên Chúa phải chiếm địa vị tối thượng tuyệt đối trong bậc thang các giá trị. “Không ai hơn Chúa, không chi bằng Chúa, Chúa trên hết, Chúa trước hết”. Bởi lẽ, gia đình được dựng xây và phát xuất từ gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu Thiên Chúa không chiếm địa vị độc tôn tối thượng, mọi trật tự sẽ đảo lộn. Có Chúa, gia đình sẽ là một gia đình cầu nguyện. Nhưng để trở nên một gia đình cầu nguyện, để nuôi dưỡng đời sống đức tin, chúng ta phải lưu ý đến ba hình thức cầu nguyện:
1. Trước hết là hình thức cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người trong gia đình cầu nguyện riêng với Chúa. Đời sống đức tin phải được đặt nền tảng trên việc trải nghiệm cá nhân với Chúa. Một trong những món quà quý báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là tập tành dạy dỗ và làm cho chúng biết yêu thích cùng thưởng thức những giây phút cầu nguyện một mình. Không cách nào để thực hiện điều đó tốt hơn là dùng chính những gương sáng cầu nguyện của mình.
2. Hình thức thứ hai của việc cầu nguyện trong gia đình là cầu nguyện chung: kinh nguyện gia đình. Kinh nghiệm cho thấy, các gia đình bỏ kinh, bỏ cơm chung... là dấu hiệu cho thấy sự rạn nứt. Có hình ảnh nào dễ thương hơn khi mọi người được lắng nghe Lời Chúa trong những giây phút này. Hãy để Chúa Thánh Thần dạy dỗ mỗi khi đêm về nhiều hơn thay vì cả nhà ngồi chầu trước con quái vật một mắt để nghe con người dạy bảo.
Thống Tướng Douglas MacArthur, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ Quân Đội Philippines thập niên 1930, người đã để lại một câu nói bất hủ: "In war, there is no substitute for victory", “Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng”; vậy mà trong tiểu sử của ông còn có một câu nói bất hủ hơn: “Tôi là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh diện hơn rất nhiều vì được làm một người cha… và niềm hy vọng của tôi là: Khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi vẫn nhớ đến tôi không phải với những hình ảnh oanh liệt ở chiến trận mà là những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó những lời kinh thường đọc hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”.
3. Cuối cùng, cầu nguyện với cộng đoàn, Nhà Thờ phải là ngôi nhà thứ hai của mỗi gia đình. Ở đó, cùng với cộng đoàn, mỗi người thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và các Bí Tích cùng những sinh hoạt không thể thiếu khác với cộng đoàn dân Chúa.
Lễ Thánh Gia hôm nay là dịp để chúng ta tự vấn về việc cầu nguyện trong gia đình của mình. Cầu nguyện có phải là một phần sống chết của gia đình tôi không? Cụ thể hơn là chúng ta - cha mẹ, con trai, con gái - đã góp phần và làm gương sáng vào đời sống cầu nguyện trong gia đình thế nào?
Để kết thúc, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện với Nguyên Soái Douglas McArthur khi ông đang ở chiến trường Philippines trong những ngày mở đầu cuộc chiến Thái Bình Dương.
“Lạy Cha, xin ban cho đứa con của con đủ sức mạnh để biết được lúc nào nó yếu đuối, đủ dũng cảm để đối diện với chính mình khi nó cảm thấy sợ hãi… Xin đừng để cho đứa con của con chỉ biết ước muốn mà không dám hành động… Xin đừng để nó đi vào con đường dễ dãi tiện nghi, nhưng hãy hướng dẫn nó đi vào con đường bắt buộc nó phải cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách.
Xin hãy tập cho nó đứng vững trong bão tố, nhưng lại biết thông cảm với những ai gục ngã.
Xin hãy ban cho đứa con của con có một trái tim trong sạch, có một mục đích cao cả, biết tự chủ lấy mình trước khi muốn làm chủ người khác, biết lo lắng cho tương lai mà không bao giờ quên lãng quá khứ.
Và khi Chúa đã ban cho nó tất cả những điều ấy, xin cũng hãy ban cho nó có đủ tính hài hước để có thể luôn nghiêm nghị nhưng không bao giờ nghiêm nghị một cách quá đáng.
Như vậy, là cha nó, con dám tự nhủ rằng, con đã không sống một cách vô ích”.
Mừng kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta cầu nguyện cho các bậc làm cha mẹ luôn ý thức tầm quan trọng của việc hình thành những chiếc khuôn giáo dục nhân cách, đạo đức cho con cái. Xin cho mọi thành phần trong gia đình luôn biết làm gương sáng cho nhau, gương sáng cầu nguyện, gương sáng yêu thương quên mình. Ở đó, tình yêu, chứng tá hùng hồn nhất của Tin Mừng luôn được hâm nóng và toả sáng cho mọi người chung quanh. Nguyện xin Thánh Gia luôn che chở, cầu bầu và ban bình an cho gia đình Anh Chị em trong Mùa Giáng Sinh hồng ân và suốt cả Năm Mới này. Amen.
(Tham khảo thêm New Sunday & Holy Day Liturgies by Flor McCarthy)
18.Gia đình của tôi ơi!--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Chúng ta cùng cả Giáo Hội Việt Nam dành năm 2014 cho việc nhìn lại đời sống gia đình để cùng nhau làm cho Tin Mừng trở nên mới mẻ và thành động lực sống cho gia đình. Lý do Giáo Hội Việt Nam và Giáo phận chúng ta chọn năm nay cho việc Sống và loan báo Tin Mừng là vì trong những năm vừa qua nhìn lại lại đời sống của các gia đình, nó đã mất đi nhiều vẻ đẹp và sự tươi sáng của một mái ấm, mà thay vào đó, gia đình đang chịu sức ép và sự công phá nặng nề bới các khuynh hướng của xã hội đưa đến sự đổ vỡ, bất hạnh và nạn nhân đầu tiên của các cuộc chiến trong gia đình chính là con cái.
Ai cũng biết rằng gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là Hội Thánh tại gia, thế nhưng nhiều gia đình đã bỏ quên đời sống cầu nguyện, đã không còn phải là một tổ ấm hiệp nhất yêu thương, đã không còn là nơi an toàn cho con cái và sự sống, và mất đi nhiệt tâm sống đạo và giới thiệu về Chúa Kitô cho người bên cạnh.
Nhìn vào những bản thống kê gần đây thực sự đã gây lo ngại cho tương lai của các gia đình, các cuộc hôn nhân không tình yêu, hôn nhân vì kinh tế với người ngoại kiều gia tăng. Tình trạng hôn nhân tan vỡ đã lên đến mức báo động khoảng 40%, trong đó người Công Giáo khoảng 15%. Tình trạng bỏ quê lên thành phố hoặc vào Nam làm ăn khiến cho hàng chục triệu người phải ly tán xa gia đình vì công ăn việc làm. Con số ca nạo phá thai ở một số các bệnh viện lớn khoảng 300.000 ca trong một năm… và bao nhiêu vấn đề về kinh tế, lối sống khác nữa đang ảnh hưởng đến gia đình.
Trong bối cảnh ấy chúng ta mừng lễ Thánh Gia Chúa Giêsu Đức Mẹ và Thánh Giuse, đồng thời mừng các gia đình kỷ niệm giáp năm ngày thành hôn, đây là dịp tốt nhất để chúng ta nhìn vào mẫu gương gia đình của Chúa để soi rọi và điều chỉnh gia đình của mình.
Không phải chỉ ngày nay mới có nhiều khó khăn cho gia đình, nhưng có thể nói thời nào cũng có những khó khăn riêng của nó, và vì thế Giuse Maria cũng có những khó khăn riêng trong gia đình của các Ngài, nhưng các Ngài vẫn giữ gìn được sự bình an và làm cho gia đình mình trở thành một gia đình tuy nghèo nàn đơn sơ, nhưng rất ấm cúng, hạnh phúc và thánh thiện. Các Ngài đã làm cách nào?
Các Ngài đã biến gia đình mình trở thành một gia đình cầu nguyện. Nói như thế không có nghĩa là lúc nào họ cũng đọc kinh, mà là gia đình của các ngài luôn sống trong bầu khí cầu nguyện, luôn có tâm tình cầu nguyện. Vì Giuse Maria rất ý thức về sự hiện diện của Chúa trong gia đình của mình, Đức Giêsu vừa là con, song lại vừa là Thiên Chúa đang ở trong gia đình, nên mọi công việc, mọi lo toan trong gia đình, hai ông bà đã làm vì Chúa và làm mọi việc để cho Chúa được lớn lên trong gia đình. Chính vì thế họ dễ dàng nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa qua lời mộng báo đem trẻ Giêsu và Mẹ Người trốn qua Ai Cập để tránh nguy hiểm cho Giêsu.
Chắc chắn nhìn vào khung cảnh của hang đá giáng sinh chúng ta đã có thể thấy được bầu khí đạo đức thánh thiện và yêu thương toát lên từ gia đình này. Gia đình này đã nêu gương cho tình tình yêu chung thủy. Có những lúc Giuse bị “cám dỗ” giải quyết vấn đề theo thói thường của xã hội, tức là chấp nhận một cuộc ly hôn, bỏ trốn một mình. Thế nhưng trong hoàn cảnh ấy, Giuse vẫn dằn vặt để mong tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thử thách đầu đời cuộc sống gia đình của mình. Vì trăn trở và lo lắng cho Maria, nên Giuse đã không tố cáo Maria, mà lại đón nhận Maria về nhà theo lời của Sứ thần mộng báo. Điều đó chứng tỏ Giuse đã chọn để trung tín trong cuộc sống hôn nhân mà Chúa đã muốn, là đón nhận và yêu thương Maria như là vợ của mình.
Kế đến Gia đình Thánh Gia nêu gương bảo vệ sự sống. Sự sống là quà tặng của Thiên Chúa, thuộc chủ quyền của Thiên Chúa, con người không bao giờ được phép định đoạt cho đứa con này được sống, được sinh ra, đứa kia phải chết. Giuse và Maria ý thức rất rõ mầm sống trong lòng của Maria là chính Thiên Chúa nữa. Vì thế mà Giuse và Maria đã hết lòng để bênh vực và bảo vệ sư sống này. Khi vua Herode ra lệnh tiêu diệt tất cả các hài nhi trong vùng, thì Giuse đã dựa vào giải pháp của Thiên Chúa, đó là đem Hài nhi và Mẹ Người trốn qua Ai Cập. Một cuộc tẩu thoát như thế quả thật là nhiều nguy hiểm gian nan, nhưng bằng mọi giá, Giuse đã đem Maria và Hài nhi ra đi ngay lúc nửa đêm để tránh bàn tay độc ác của Herôđe và bảo vệ sự an toàn cho hài nhi. Rồi khi được lệnh trở về, Giuse cũng đã khôn ngoan để chọn vùng Nazaret là một làng quê bình yên để cư ngụ giúp cho sự an toàn của hài nhi và cả gia đình.
Sau cùng, Gia đình Thánh gia đã nêu gương cho chúng ta trong việc sống và loan báo Tin Mừng. Nếu hiểu Tin Mừng là tin vui cứu độ, tin giải thoát cho nhân loại và chính con người của Chúa Giêsu là Tin Mừng, Ngài đến từ Thiên Chúa để ở với con người, thì Giuse Maria quả thật đã trở thành tấm gương sống và loan báo Tin Mừng này. Giuse Maria đã sống Tin Mừng bằng cách mở rộng tâm hồn để cho Thiên Chúa, Đấng cứu thế bước vào tâm hồn và chi phối cuộc đời của mình. Cả Giuse và Maria không thể hiểu hết những lời giải thích của sứ thần về việc đầu thai của Hài nhi, của việc đón nhận Hài nhi và đặt tên là Giêsu, song ông bà đã xin vâng không hề nghi nan. Trong khung cảnh Giáng sinh thì chính Giuse và Maria đã giới thiệu Hài nhi mới sinh bọc trong khăn và đặt nằm nơi máng cỏ cho các mục đồng, cho các nhà đạo sĩ và chắc chắn các mục đồng các đạo sĩ không chỉ thờ lạy Hải nhi mà còn được ẵm bế hài nhi và tin rằng Ngài là tin vui cho toàn dân.
Thưa quý OBACE, với trách nhiệm làm cha mẹ, có khi nào chúng ta tự đặt vấn đề với nhau hoặc với chính mình để tìm nguyên nhân tại sao gia đình mình không hạnh phúc? Tại sao gia đình mình hay lục đục cãi vã…? Đừng tránh né sự thật hãy đặt vấn đề với chính lương tâm của mình chúng ta sẽ tìm được câu trả lời.
Nhiều gia đình hôm nay đã để cho cái ti vi và các chương trình trên đó thống lĩnh suốt ngày trong gia đình và khiến họ không còn giờ cho việc đọc kinh mỗi tối, không còn giờ để nói chuyện với nhau, và thậm chí bữa cơm gia đình mọi người cũng dán mắt vào cái tivi và không còn cười đùa được với nhau nữa. Vì không nói chuyện được với nhau, khiến họ cũng không thể hiểu nhau và không còn thông cảm yêu thương nhau được nữa.
Nhiều cha mẹ vì ích kỷ hẹp hòi, vì thiếu lòng quảng đại mà họ biến gia đình mình trở thành lò sát sinh, giết chết nhiều đứa con của mình. Một gia đình như thế sẽ không thể có bằng an trong tâm hồn và vì thế sẽ không thể nào có bình an trong gia đình, ngược lai chỉ có sự dằn vặt và cắu gắt mà thôi. Nhiều gia đình khác đã không biết phải dạy dỗ con cái thế nào, đã để cho công việc, ăn uống say sưa, cờ bạc, cá độ và bạn bè chiếm hết thời giờ của con cái, khiến cho con cái cảm thấy lạc lõng ngay trong gia đình.
Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân gia đình Chúa ban cho mỗi người, và tạ ơn Chúa vì món quà là vợ, là chồng, là con cái Chúa đã ban tặng cho gia đình. Hãy đón nhận nhau như là quà tặng của Thiên Chúa để biết trân trọng đối với nhau và nhất là trân trọng với Đấng đã trao tặng mình. Hãy nhìn vào gia đình Thánh gia để học ở nơi đó tấm gương của người chồng, người vợ thánh này, mà biết vun đắp cho gia đình mình trở nên một gia đình thánh thiện, ấm cúng, thuận hòa.
Điều chúng ta cần quan tâm không chỉ là gia đình chúng ta ăn cái gì, mua sắm cái gì, điều mà mọi người cần phải đầu tư nhiều hơn đó là gia đình chúng ta sống như thế nào, có hạnh phúc hay không. Đó mới là điều đáng hãnh diện và mơ ước. Khi vun đắp cho gia đình mình mỗi ngày như thế, thì chúng ta sẽ là gia đình sống và làm chứng về Chúa cho người chung quanh. Amen.
19.Trách nhiệm - Tình yêu--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P
Người ta thường nói: “Chúng ta có nhiều chốn để đi, nhưng chỉ có một nơi để về, đó là gia đình”. Tuy nhiên, thực tế ngày nay lại khác, bởi nhiều người đã không còn coi gia đình là mái ấm, lý do: nơi ấy thiếu tình yêu thương, trách nhiệm và cũng chẳng còn hấp dẫn nếu không muốn nói là đang ngày càng bị đe dọa!
Hôm nay, Giáo Hội muốn giới thiệu đến chúng ta một Gia Đình Thánh, đó là gia đình Thánh Gia. Qua đó, Giáo Hội muốn con cái mình noi gương bắt chước Mẹ Maria, thánh Giuse và Đức Giêsu trong việc xây dựng gia đình trên nền tảng tình yêu và trách nhiệm.
1. Thực trạng gia đình hiện nay
Nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói: “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Thật vậy, nhìn vào thực tế nhiều gia đình hiện nay, chúng ta không thể không lo ngại và thất vọng, bởi vì:
Có những điều mà ngày xưa người ta coi đó là quái gở, nhưng hôm nay lại là chuyện bình thường được diễn ra như cơm bữa hằng ngày!
Chẳng hạn như chuyện nạo phá thai. Đi ra ngoài đường, chúng ta thấy những trung tâm, phòng khám, nhan nhản mọc lên với những tấm biển nhìn mà thấy ớn lạnh như: “Phá thai an toàn, không đau”; “Siêu âm, hút thai bằng thuốc”.
Chính sự dễ dàng và công khai, cộng thêm chuyện yêu đương bừa bãi hoặc những người cha người mẹ không có tình yêu, thiếu trách nhiệm, nên họ sẵn sàng đang tâm giết chính đứa con vô tội của mình một cách bình thường mà không hề áy náy!
Mặt khác, cảnh ly dị đang dần trở thành thông lệ. Không chỉ những người đã xây dựng gia đình muốn ly dị, mà ngay cả những bạn trẻ chưa lấy vợ lấy chồng mà đã đi tìm “đường thoát hiểm”, cho ngày chia tay trong tương lai! Đây là một nỗi buồn tê tái, bởi vì những cặp vợ chồng ly dị, hậu quả khôn lường, bi đát sẽ đổ dồn lên đầu những đứa con thơ ngây, vô tội.
Hơn nữa, lại có nhiều gia đình ngày nay không dám sinh nhiều con, họ biện minh là không có điều kiện, thời gian…, nên chỉ sinh 1 hoặc 2 con.
Đây là một lựa chọn không thực tế do thói ích kỷ của các bậc làm cha mẹ, nên đã dẫn đến tình trạng bi đát nơi các gia đình.
Thật vậy, khi sinh ít con, bố mẹ thường hay chiều chuộng thái quá. Vì thế, xảy ra tình trạng như: chúng luôn nghĩ mình là thành phần quan trọng nhất trong gia đình, nên nó có quyền đòi buộc mọi người phải phục vụ và đáp ứng mọi nhu cầu. Nếu không, chúng có thể quậy phá, chửi bới, đánh đập…. Đã có biết bao nhiêu bậc cha mẹ bị con cái đánh, chửi, và ngay cả giết chết chỉ vì không đáp ứng đúng như yêu sách của chúng.
Cũng có khá nhiều bậc cha mẹ ít quan tâm đến con cái, mà chỉ lo kiếm tiền hay quá tập trung đến công việc…, mà quên đi tình yêu thương, bổn phận, trách nhiệm của mình với con cái. Vì thế, sau này, đứa trẻ lớn lên nó sẽ vô cảm và dửng dưng với chính bậc sinh thành!
Nguyên nhân dẫn đến chuyện bi đát ấy là: người ta ít coi trọng chữ tín và trách nhiệm với nhau. Từ đó, họ đâu còn để ý hay nâng niu tình yêu và chung thủy trong đời sống gia đình.
Bên cạnh đó, việc hội nhập những nền văn hóa ngoại lai cách vội vàng và thiếu lành mạnh, đã khiến cho chúng ta bị chới với và buông theo khi chưa phân định đúng đắn trong việc chọn lựa.
Trên đây chính là nguyên nhân dẫn đến chuyện bạo lực, ly hôn, ly dị và thiếu trách nhiệm nơi gia đình.
Đây cũng là nguyện nhân làm đảo lộn giá trị đạo đức tốt đẹp của các gia đình hiện nay.
2. Mẫu gương cho các gia đình
Trong khi xã hội và con người ngày nay ít chú tâm đến trách nhiệm cũng như sự chung thủy nơi các gia đình, thì phụng vụ Giáo Hội làm toát lên gương mẫu của gia đình Thánh Gia để cho các bậc cha mẹ và con cái noi theo.
Trước tiên, nơi Đức Mẹ và thánh Giuse, các ngài đã để lại cho các bậc cha mẹ mẫu gương tuyệt vời về hai chữ “trách nhiệm”.
Các ngài có trách nhiệm với Thiên Chúa, với nhau và với con cái. Vì thế, hai ông bà đã bồng ẵm Hài Nhi Giêsu lên đền thờ Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa, cũng như thanh tẩy cho Mẹ của Hài Nhi theo luật định.
Đây chính là quy định trong Luật của Môsê, và hai ông bà đã sẵn sàng chu toàn với đầy trách nhiệm trong lòng mến.
Trách nhiệm của Đức Mẹ và thánh Giuse còn được rõ nét khi hai ông bà đang đêm đem Hài Nhi trốn sang Aicập, rồi một thời gian sau lại từ Aicập trở về. Hơn nữa, năm Đức Giêsu lên 12 tuổi, khi lạc mất con trong đền thờ, hai ông bà đã lặn lội ngược xuôi để tìm cho kỳ được.
Đây là mẫu gương tuyệt vời của Đức Mẹ và thánh Giuse.
Còn với Đức Giêsu, ngài là một người con hiếu thảo, ngoan ngoãn, vâng lời. Vì thế, Kinh Thánh đã diễn tả như sau:
“Hài Nhi ngày càng lớn lên, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Đức Giêsu đã hiện diện và sống trong một gia đình coi trọng trách nhiệm và sự thủy chung, vì thế, Ngài cũng là một người con đầy trách nhiệm. Trách nhiệm trước tiên với Thiên Chúa, sau là với cha mẹ của mình. Vì thế, trước mặt Thiên Chúa, Ngài được tràn đầy ân sủng. Trước mặt Đức Mẹ và thánh Giuse thì Ngài hằng vâng phục các ngài.
Mẫu gương thứ hai cho các gia đình là mẫu gương về sự “chung thủy”.
Mặc dù nơi Đức Mẹ, thánh Giuse và Đức Giêsu, cả ba đều là thánh và sống đẹp lòng Thiên Chúa trọn vẹn. Nhưng nơi gia đình này, Thiên Chúa cũng không miễn trừ những khó khăn.
Tuy nhiên, những thử thách dồn dập xảy đến, nhưng nơi Đức Mẹ, thánh Giuse và Đức Giêsu vẫn bình an, hạnh phúc và chung thủy.
Có được điều này là bởi vì các ngài luôn yêu thương nhau bằng tình yêu tự hiến, luôn biết đón nhận những thử thách trong niềm tin và lòng mến, đồng thời biết thánh hóa những đau khổ ấy và biến nó thành niềm vui cứu độ.
3. Sứ điệp ngày lễ
Sứ điệp Lời Chúa và ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết noi gương Gia Đình Thánh Gia để sống có trách nhiệm với nhau nhằm xây dựng tổ ấm gia đình trong tình yêu và sự chung thủy.
Cần biết lượng giá những thứ tự ưu tiên trong việc vun đắp hạnh phúc gia đình.
Trước tiên, đó là phải cùng nhau xây dựng tình yêu. Gia đình chỉ có hạnh phúc thực sự khi mọi thành phần của gia đình biết quan tâm, chăm sóc nhau trong tinh thần trách nhiệm và yêu mến. Không có tình yêu, gia đình không có tiếng cười và sẽ biến thành hỏa ngục chốn trần gian!
Thứ hai, các bậc cha mẹ đừng quá quan trọng vấn đề cơm áo gạo tiền. Nhiều bậc cha mẹ đêm ngày lao mình vào cuộc chiến kiếm tiền, nên đã không còn coi trọng đến hai chữ tình yêu cũng như trách nhiệm với nhau và con cái. Vì thế, tình yêu phai nhạt, thất trung leo thang và cuối cùng là bị ngã gục trong sự ích kỷ, đổ vỡ….
Thứ ba, cần tôn trọng bạn đời của mình như một quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho mình. Mặt khác, cha mẹ biết yêu thương con cái như là kết quả của tình yêu dâng hiến mà hai người trao cho nhau.
Cuối cùng, muốn xây dựng gia đình hạnh phúc thực sự, các bậc cha mẹ và con cái hãy yêu mến những việc đạo đức, nhất là siêng năng tham dự thánh lễ cũng như các Bí tích và trung thành với giờ kinh tối gia đình.
Làm được những việc đó trong lòng mến và trách nhiệm, chúng ta mới mong có được một gia đình hạnh phúc, ấm êm, để cho mọi thành viên cảm thấy an vui mỗi khi ở trong gia đình, và mong muốn được trở về mỗi lúc đi xa.
Lạy Thánh Gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, xin cho chúng con biết noi gương các Ngài để sống đẹp lòng Chúa, biết yêu thương nhau trong tinh thần trách nhiệm và thủy chung, để xây dựng một gia đình yên vui, hạnh phúc trong tình yêu và trách nhiệm theo khuôn mẫu của gia đình Thánh Gia. Amen.
20.Ơn Người Cứu Độ--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đoạn 2,22-40 trình bày câu chuyện Chúa Giêsu được đem lên Giêrusalem trình dâng cho Thiên Chúa theo đòi hỏi của luật Môsê. Lề luật được dùng như cái khung trong đó các ngài thi hành bổn phận theo luật dạy: “hai ông bà đem Hài Nhi lên Giêrusalem” (cc. 22.27). Câu chuyện kết thúc khi các ngài đã thi hành đầy đủ điều luật dạy: “Khi đã xong mọi sự theo luật Chúa, ông bà trở về Galilê” (c. 39). Trong đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu được trình dâng cho Thiên Chúa. Ngài là Đức Kitô của Chúa (c. 26), ơn cứu độ của Thiên Chúa (c. 30). Ngài là Đấng mà dân Ítraen trông đợi; Simêon (cc. 25-35) và Anna (36-38) là những đại diện (cc. 31.32). Họ trông đợi “niềm an ủi” (c. 25b), “ơn cứu chuộc” (c. 38) của Thiên Chúa; đó chính là Chúa Giêsu, “ánh sáng của muôn dân” và “vinh quang của dân Ítraen” (c. 32). Lời chúc tụng của Simêôn nói đến vai trò cứu thế của Chúa Giêsu Kitô; Đức Maria chia sẻ sứ mạng với Ngài (c. 34). Tại Galilê, Chúa Giêsu lớn lên trong ân sủng của Thiên Chúa (cc. 39-40), và Ngài sẽ lên đền thờ Giêrusalem khi Ngài lên mười hai tuổi (2,41-52).
Trình dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa là một đòi hỏi của luật Môsê. Thánh sử Luca liên kết việc này với luật thanh tẩy của người mẹ. Đức Maria cùng với thánh Giuse lên đền thờ Giêrusalem, và các ngài mang Chúa Giêsu lên để trình dâng cho Thiên Chúa; như thế cả hai đều đến trình diện trước mặt Chúa (x. 1,19).
Luật Môsê qui định về con trai đầu lòng là phải được “thánh hiến cho Chúa” (Xh 13,2.12), và được người cha chuộc lại (Xh 13,15). Khi dẫn chứng luật này, thánh sử Luca thay thế “thánh hiến cho Chúa” bằng “được gọi là của thánh dâng cho Chúa” (c. 23), ám chỉ lời sứ thần đã nói với Đức Maria về người con mà Mẹ cưu mang và sinh hạ, Ngài “được gọi là Thánh, là Con Thiên Chúa” (1,35). Thánh sử Luca nói đến những của lễ mà người mẹ phải mang theo khi đến trình diện: một cặp chim gáy hay hai bồ câu tơ; một con để làm lễ toàn thiêu và một con làm lễ tạ tội (Lv 12,8). Việc các ngài làm theo luật cho thấy lòng trung thành của các ngài đối với Thiên Chúa. Sự trung thành với lề luật Môsê sẽ chuyển sang lòng trung thành với ý muốn của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu được trình dâng cho Thiên Chúa để hiến mình thực hiện công cuộc cứu độ của Người. Dân Ítraen đang mong đợi ơn cứu độ của Thiên Chúa, và Chúa Giêsu đến và tỏ mình cho họ như là “ơn cứu độ” của Thiên Chúa (c. 30). Ai đón nhận Ngài, sẽ được chỗi dậy, và ai chối từ Ngài, sẽ ngã xuống (c. 34).
Simêôn đại diện cho những người trông đợi niềm an ủi của dân Ítraen. Ông là người “công chính”, dikaios, và “mộ đạo”, eulabēs. Theo thánh sử Luca, người công chính là người “đi theo mọi điều răn giới luật của Chúa” và kính sợ Người (Cv 10,22) như Dacaria và Êlisabét (1,6); và người “mộ đạo”, là người tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa (Cv 22,12). Ông trông đợi: “niềm an ủi của Ítraen” (2,25), “ơn cứu chuộc của Giêrusalem” (2,38), Nước Thiên Chúa (23,51). Simêôn mong đợi và ông sẽ được tận mắt nhìn thấy Đấng Cứu Độ của Thiên Chúa.
Ông Simêôn chúc tụng Thiên Chúa về Hài Nhi (cc. 28-32). Simêôn không chỉ nói với tư cách cá nhân, mà còn nói đại diện cho dân Ítraen và muôn dân. Nội dung lời chúc tụng tập trung trên Chúa Giêsu Kitô. Simêôn chúc tụng Thiên Chúa vì Người làm thỏa mãn điều dân Ítraen trông đợi khi ban Chúa Giêsu Kitô làm Đấng Cứu Độ; việc chúc tụng luôn gắn liền với lòng biết ơn Thiên Chúa (1,64; 2,28). Nói về Chúa Giêsu Kitô, Simêôn gọi Ngài là “ơn cứu độ của Người (Thiên Chúa)”, sōtērion sou; chính Ngài đã được loan báo như là Đấng Cứu Độ, sōtēr (2,11).
Simêôn ngỏ với Đức Maria, nói về thái độ của những người sau này đối với Đức Giêsu Kitô. Hai cụm từ eis ptōsin, “để bổ nhào” và eis sēmeion, “làm dấu hiệu” tạo nên hai vế song song với nhau; câu 35b được hiểu như tiếp tục câu 34bc, và nói về thái độ từ chối hay đón nhận Chúa Giêsu. Chúa Giêsu được đặt như hòn đá làm cớ ngã nhào (x. 7,23; 20,18) và như dấu hiệu (11,30) để ý nghĩ tâm hồn phải bày ra. Chính Ngài sẽ nói về điều này: “Ta xuất hiện để ban bình an trên mặt đất ư? Không đâu! Ta bảo các ngươi, không gì khác ngoài sự chia rẽ…” (12,51-53). Và lời này Ngài nói trong ngữ cảnh bàn về cuộc thương khó mà Ngài sắp thực hiện.
Về Đức Maria, Simêôn nói đến một lưỡi gươm sẽ đâm thâu hồn Đức Maria. Hình ảnh “lưỡi gươm” ám chỉ lời phát xuất từ miệng của Chúa Giêsu Kitô “Này là lời phán dạy của Ðấng có thanh kiếm hai lưỡi bén” (Kh 2,17), Lời của Chúa Giêsu và cả hành động của Ngài làm phân bạch tâm hồn, và đôi khi gây đau đớn. Đức Maria cũng chịu ảnh hưởng bởi lời của Chúa Giêsu, như trong nhiều trường hợp được thuật lại trong Tin Mừng (2,48-49; 8,21; 11,27-28). Hơn nữa, lời tiên tri này cũng ám chỉ việc Đức Maria chịu đau khổ khi thông phần vào đau khổ của Chúa Giêsu trước việc người ta chống đối và giết Ngài; ngay từ đầu, số phận mẹ – con luôn gắn bó với nhau.
Câu 39 đóng lại khung cảnh trình dâng Hài Nhi đã hoàn tất theo luật trong đền thờ Giêrusalem, và tường thuật gia đình về lại Galilê, đến thành Nadarét (x. 7,1; Cv 13,29), nơi Chúa Giêsu sẽ ở đó và lớn lên (cc. 39.51) cho đến ngày Ngài khởi đầu sứ vụ công khai (4,14). Câu kết luận về Hài Nhi (c. 40) tương tự cách kết luận thời thơ ấu của Gioan (1,80); có thể được cảm hứng từ 1 Sm 2,21 và 2,26. Cụm từ “đầy khôn ngoan và ân sủng” được dùng cho người của Thiên Chúa (Cv 6,3.10). Chúa Giêsu đầy “khôn ngoan và ân sủng của Thiên Chúa” vì Ngài là Con của Người. Thiên Chúa luôn ở với Ngài và giao phó cho Ngài sứ mạng cứu độ (x. 1,30).
Chúa Giêsu là ơn cứu độ của Thiên Chúa ban cho muôn dân đang trông đợi. Ngài không được chuộc lại, vì Ngài hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, nhưng Ngài sẽ chuộc lại cho Thiên Chúa những người đang trông chờ ơn cứu độ.
21.Dâng Chúa trong đền thờ--R. Gutzwiller
Thánh Luca không nói gì cho chúng ta về thời niên thiếu của vị tiền hô, tất cả thời tuổi trẻ của vị này đều chìm trong im lặng và cô đơn. Trái lại, thời niên thiếu của Chúa Giêsu được kể lại trong ba trường hợp. Trường hợp thứ nhất là lễ cắt bì, chỉ được kể lại trong có một câu. Sự cốt yếu của lễ này là đặt tên Giêsu, tên đã được Thiên thần nói trước, tên này nêu rõ bản tính của Hài nhi trong những ngày sắp tới. Chính do danh hiệu đó mà Giáo Hội mừng kính bằng một lễ đặc biệt, cũng chính danh hiệu đó mà biết bao người không ngớt chiêm niệm và đã là nguồn hân hoan vui sướng cho các nhà Thần bí: danh hiệu mà theo kiểu nói của Thánh Phaolô, mọi gối phải quỳ lạy ở trên trời, lẫn dưới thế và cả dưới hoả ngục.
Đang khi đó thì Thánh Luca lại viết lại cho chúng ta về lễ dâng Chúa trong đền thờ với nhiều chi tiết hơn và khiến ta phải lưu ý tới hai điều sau:
1. Những biến cố.
Nhìn bên ngoài, chẳng thấy có gì đáng lưu tâm. Hàng năm có cả trăm đôi cha mẹ trẻ bước lên Đền thờ tiến vào cửa trước dành cho các phụ nữ để được thanh tẩy theo nghi lễ và chuộc lại đứa con mới sinh. Luật buộc thanh tẩy vì sự thụ thai và sinh con đã liên kết chặt chẽ với tội lỗi và với đam mê hỗn độn. Theo chương trình của Thiên Chúa, cả hai việc đó, phải là cái gì mang tính chất bí tích vì đã chuyển đời sống siêu nhiên đồng thời với đời sống tự nhiên. Nhưng tội đã làm nào loạn nguồn mạch và như vậy, tội lẫn vào việc lành, ‘nhân loại đầy trần tục’ với thần thiêng. Lễ tế được đặt ra đối với người mẹ là bà cần phải thanh tẩy để có thể bước vào đền thờ. Đức Maria không có tiền để mua một con chiên làm lễ tế và phải đành lòng như bao người mẹ nghèo nàn khác, dâng một ccặp chim câu để làm lễ vật. Việc chuộc lại đứa trẻ trai được đặt ra vì tất cả những của đầu mùa, nơi ruộng nương, nơi đoàn vật và nhất là nơi con người đều đặc biệt thuộc về Giavê. Như vậy cậu con trai phải chuộc lại để có thể sống đời sống của mình. Tất cả những điểm đó chẳng có chi đặc biệt và đáng lưu tâm.
Tuy nhiên, nội dung của sự việc mới có khác biệt. Đức Maria rõ ràng là người Mẹ chẳng có dính bén chút gì để phải thanh tẩy. Mẹ đâu thụ thai bởi phàm nhân, mà do phép Chúa Thánh Thần. Mẹ cũng chẳng có một ước muốn xấu xa gì, vì Mẹ ‘không biết đến người nam’. Vì thế, việc chuộc lại Hài nhi chỉ mang hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu xét là con đầu lòng của Chúa Cha, thì thuộc quyền sở hữu của Người. Nhưng Ngài sẽ chuộc lại những người khác và giá Ngài phải trả là giá máu của tim Ngài, chứ không phải bằng tiền bạc.
Như Đức Kitô tuân phục Lề luật Môisen hay sắc lệnh của Xêsarê, người Kitô hữu cũng phải phục tùng các quyền hành bên ngoài điều khiển nhân loại bằng ý muốn hay với phép của Thiên Chúa và tuân hành các quy luật như những người khác trong lãnh vực luật pháp. Bên ngoài chẳng có gì lạ kỳ đánh dấu sự hiện hữu và đời sống của người Kitô hữu. Vì không nhất thiết là sự biến đổi nội tâm trước nhan Chúa phải kéo theo sự cách mạng môi trường mình sống.
2. Những lời nói
Những biến cố này có thể qua đi mà ít được biết tới nếu không có một người đến gặp đôi vợ chồng trẻ để chào thăm Hài nhi với những ngôn từ lạ lùng. Ông này không phải là tư tế, mà chỉ là một người dân thường, một người thực công chính, đang chờ đợi ‘niềm an ủi của Israel’, chờ đợi Đấng Messia. Đầy Thần linh Thiên Chúa và nhờ ơn soi sáng, ông đã nhận ra Đấng Messia nơi Hài nhi do người Mẹ khiêm hạ này bồng trên tay.
Lời đầu tiên của ông là lời thân thưa với Thiên Chúa. ‘Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi’. Thiên Chúa là Chủ Tể, ai muốn phục vụ Ngài, là tôi tờ của Ngài. Đời sống của cụ già Simêon là một sự hiện hữu và là một công việc phục vụ Thiên Chúa, được kể như một cuộc phục dịch, nhưng bây giờ đã tới lúc nghỉ ngơi sau chuỗi ngày dài lao động. Sự chết là một cuộc nghỉ việc, một sự giải phóng trong an bình và về với an bình.
Hy vọng và ơn cứu độ là phần thưởng lúc trời chiều ngả bóng, đã nâng đỡ ông suốt thời gian thi hành nhiệm vụ khó khăn. Đấng Cứu độ đã đến, công việc đã có được ý nghĩa và đời sống dấn thân trên con đường cứu độ lời kinh ‘muôn lạy Chúa’ (Nunc dimittis) là lời kinh tối của Giáo Hội.
‘Mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ’. Cụ Simêon, con người ưu tư, suy nghĩ, hẳn phải đau khổ vì những cảnh vô đạo chung quanh. Chính đôi mắt này đã từng chứng kiến những cảnh tội lỗi và phản giáo, nay thấy Đấng mang lại ơn cứu độ và sự thánh thiện. Đức Kitô là thày thuốc sẽ chữa trị tất cả và là Đấng Thánh sẽ thánh hoá tất cả.
‘Chúa dọn ra trước mặt người trần’. Những chướng ngại hạn hẹp của Israel đã bị phá đổ, chiều kích của Giáo Hội phổ quát tỏ hiện. Israel ra đi mở rộng chân trời của Simêon và làm cho người ta nghĩ đến những khuôn khổ mới mẻ của tinh thần và con tim.
‘Ánh sáng rạng soi dân ngoại’. Những lời tiên tri của Isaia (đoạn 42 và 29) đã được nhắc lại ở đây. Dân ngoại không còn là người bị khinh khi, xua đuổi; không còn bị cái nhìn trịch thượng của những người đã được chọn ném xuống. Vì ánh sáng của Đức Kitô sẽ đâm thấu đêm đen, đuổi đi tất cả những bóng tối và đem đến một ngày mới không có chiều tà.
‘Còn Israel dân Chúa được vinh quang’. Nhờ Chúa Giêsu, cái cây của dân này sẽ triển nở sinh hoa kết quả. Israel xấu sẽ trở nên đối tượng của vấp phạm và tên nó sẽ bị nhiều người nhạo báng và ghét bỏ. Còn Israel chân thật sẽ là cánh đồng nơi các hoa mầu quý giá mọc lên, sẽ là núi đá vọt ra những dòng suối, sẽ là nền trời nơi mặt trời toả sáng; nên các tín hữu sẽ nhắc đến tên nó với lòng kính trọng và biết ơn.
Theo lời của Simêon, Israel đặt sự cao cả đã nhận được từ nơi Chúa, dưới chân Chúa nhập thể. Bài tang ca của Israel là một bài thánh thi cho Đức Kitô; Israel đã tàn lụi trong những tia sáng của luồng ánh sáng rạng rỡ hơn; Israel chết đi để được đưa vào một đời sống mới nhờ Đức Giêsu Đấng Thiên Sai.
Lời thứ hai của Simêon là lời nói với Đức Maria: ‘Hài nhi con bà sẽ được đặt lên để nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay chỗi dậy và làm dấu gợi lên chống đối’. Kitô giáo không cưỡng chế và cũng chẳng dùng sức mạnh để bắt buộc ai, trái lại chỉ là lời mời mọc và kêu gọi. Con người phải quyết định. Họ có thể nói nhận hay không. Nhờ lời ‘nhận’ họ sẽ đứng thẳng lên như người bị tê liệt được chữa khỏi, vì họ sẽ bước đi trên con đường của Thiên Chúa. Với tiếng ‘không’ họ tự mình chỗi dậy và tin rằng mình đã hoàn hảo: sự suy sụp của họ đã đến. Tất sẽ kết thúc bằng đổ vỡ và đồi bại.
Giữ một chỗ đối với Đức Kitô là quyết định số phận con người và nhân loại trước nhan Thiên Chúa. Đức Kitô đưa ra hai nẻo đường lớn dẫn tới cứu độ và sa ngã, dòng nước đôi ngả, sự nhận thức giữa chân và giả. Đối với Mẹ Ngài, việc biết được Đức Kitô, Đức Kitô đích thực, sẽ gặp chống đối và phản kháng hẳn phải là nỗi đau đớn ghê gớm trong đời Mẹ: ‘Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim chị’. Vì tiếng ‘nhận’ và ‘không’ sẽ làm lộ nhiều tâm hồn trong Israel. Cái bị che dấu sẽ đưa ra ánh sáng. Cứng lòng, ý tưởng bất chính, ích kỷ cá nhân, kiêu ngạo và ghen tương… tất cả những gì là xấu xa, kẻ thù của Thiên Chúa, đều tỏ lộ ra. Tất cả những gì là bỉ ổi, suy đồi và hôi thối đều bị thấy rõ. Nhìn thấy các tư tưởng con người hệ ở chỗ vạch trần những giả dối và mở toang những nấm mồ quét vôi trắng. Nhưng trên hết phải là sự dửng dưng không tiếp nhận tình yêu Nhập thể, đó mới chính là mũi gươm đâm sâu vào trái tim người mẹ giầu tình thương này. Như vậy, ngay từ đầu đời Chúa Giêsu, người ta đã nhìn thấy ‘ Bà mẹ đau khổ’ là chính Người đứng dưới chân thánh giá, vào những giây phút cuối cùng với con bị đâm thấu tim, hoàn tất lễ hiến tế mạnh mẽ hơn lòng ghét ghen của nhân loại.
Khi Tin mừng nói rằng, ‘Cha và Mẹ Ngài ngạc nhiên về những gì nói về Ngài’ đã chứng tỏ cho ta thấy chính các vị cũng phải lần bước trong ánh sáng đức tin, đang khi luôn nhận thức và xác quyết những chân lý mới.
Hợp với ông già Simêon, có bà già khả kính Anna, đại diện cho cả dân tộc, nam cũng như nữ, ca tụng Thiên Chúa và mang tới một sứ điệp ‘cho những người đang trông đợi phúc cứu chuộc Israel’.
Người ta không thấy nhắc gì tới cái chết của ông già bà cả này. Các cụ đã làm tròn sứ mạng của mình và đã sang thế giới bên kia với tâm hồn bình an và vui sướng trong cũng một cảm nghĩ rằng Israel chân chính mới mẻ là người luôn cởi mở trong Đấng Messia.
22.Để cứu các gia đình, Chúa Cứu Thế đã chọn sinh ra trong gia đình--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành lễ kính Thánh Gia Thất, trong bối cảnh Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình vừa được cử hành là chặng đầu tiên của một lộ trình sẽ kết thúc vào tháng 10 năm tới với một Hội nghị về đề tài "Ơn gọi và sứ mệnh của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới". Giáo hội Việt Nam lấy năm Tân Phúc-Âm-Hoá gia đình làm tiền đề để bước vào năm Tân Phúc-Âm-Hoá giáo xứ. Đẹp biết bao khi nhìn vào hang đá chúng ta thấy Chúa Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thành lập, để cứu các gia đình. Mừng Chúa Cứu Thế đến cũng là mừng Thánh Gia Thất, nơi Ngài sinh sống.
Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách sống trong gia đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ: "Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống", cùng với những phần phúc cho những người con biết tôn kinh mẹ cha là: "Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng", nhất là được trường thọ: "Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. " Thì bài đọc II, Thánh Phaolô khuyên những người làm vợ làm chồng: "Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó". Ngài cũng khuyên cha mẹ phải tôn trọng, yêu mến con cái: "Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt" (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.
Thảo kính cha mẹ
Để giữ cho gia đình hạnh phúc, Thiên Chúa đã ban cho Giới răn thứ Bốn trong Mười Điều răn: “Thứ Bốn thảo kính cha mẹ”,
Có nhiều kẻ làm con đã hỏi: Vậy, tước phẩm làm cha làm mẹ là thế nào để con cái phải tôn kính. Quyền bính cha mẹ tự đâu mà có?
Để có một cuộc sống đích thực, nhân loại phải có quyền bính, nếu không xã hội không thể có được, và phải đi tới nguyên tắc căn bản: không có Thiên Chúa, không có quyền bính. Vì thế, kẻ làm con, người làm bề dưới phải vâng lời cha mẹ, tùng phục người trên là vì thấy trong trật tự ổn định là quyền lực, là thế giá của Thiên Chúa. Đứa trẻ thấy quyền lực Thiên Chúa nơi cha mẹ, học trò ở nơi thầy cô, người dân thấy ở nhà cầm quyền. Phải, quyện lực của cha mẹ là do Thiên Chúa mà ra.
Chúa dạy: "Hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi ". Và Thánh Phaolô khuyên: "Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự " (Cl 3, 20). Giới răn không nói yêu mến nhưng là tôn kính. Người ta yêu anh chị em, yêu tha nhân, song đối với cha mẹ, phải tôn kính. Đó là điều mà phận làm con, kẻ bề dưới ngày nay không muốn biết nữa. Tôn kính có nghĩa là khi cha mẹ nói, dạy điều gì, con cái phải im lặng, lập tức thi hành, dù là ước muốn nhỏ nhất: "Vì đó là đẹp lòng Chúa" (Cl 3, 20). "Hãy tôn kính cha con và mẹ con"; "Đứa con nào mà đánh đập cha mẹ mình thì phải chết" ( Xh 20;21)
Phu phụ tương kính như tân
Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ giống hình ảnh Chúa, và cho hai người kết hợp với nhau nên một bằng mối giây loài người không thể tháo cới, để mỗi người phát triển nảy nở trong hạnh phúc, và sinh con cái nối giòng dõi loài người và Hội Thánh.
Khi nói thế, người chồng có thể đòi người vợ phụng tùng chồng một cách mù quáng không? Không, người này phải phục tùng người kia cho phải đạo, cả hai đều phải phục tùng Đức Kitô như toàn thể Giáo hội.
Người nam có biết khi được làm đầu thì phải làm gì không? Thánh Phaolô kêu gọi: " Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó" (Cl 3, 20).
Người ta thường nói: chồng là đầu gia đình, vợ là trái tim gia đình. Nói đúng hơn: chồng là cả hai, vừa là đầu, vừa là trái tim. Người ta cũng ví người chồng giữ vai trò như người lái thuyền, phải đưa thuyền đi đúng hướng, là bảo vệ sự an toàn cho mọi người trong thuyền, phục vụ mọi người với tình yêu thương, như yêu thương chính mình, để cùng nhau hướng tới hạnh phúc.
Cha mẹ tôn trọng và yêu mến con cái
Giới răn thứ Bốn này có hai chiều: con cái và cha mẹ, cha mẹ và con cái. Nếu con cái phải tôn kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng, yêu mến con cái: "Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái". Cha mẹ quí mến con cái, vì con cái trước hết không thuộc về các cha mẹ mà thuộc về Thiên Chúa. Con cái là kho tàng Thiên Chúa trao cho, một ngày kia Chúa sẽ đòi cha mẹ phải trả lẽ. Vậy, cha mẹ phải yêu quí, tôn trọng sự sống con cái, ngày từ khi còn trong lòng mẹ, chớ làm phương hại đến chúng. Tôn trọng con cái từ lúc còn thơ đến tuổi trưởng thành...
Chăm lo cho con cái về mặt tinh thần cũng như thể xác, nhất là linh hồn, vì trước hết chúng thuộc về Thiên Chúa. Cha mẹ không thể lên thiên đàng một mình, phải có con cái đi theo. Con cái không lên thiên đàng được, cha mẹ cũng không lên được. Chúng ta thấy Mẹ Maria, Thánh Giuse, và Chúa Giêsu, cả Ba Đấng đều lên Đền thờ dự lễ theo luật.
Khi có chuyện chẳng lành trong gia đình, lời thánh Phaolô sau đây như là khuôn vàng thước ngọc về lẽ sống và cách đối nhân xử thế của các thành viên trong gia đình: "Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện".
Noi gương Mẹ Maria và Cha thánh Giuse, mỗi gia đình kitô giáo hãy đón rước Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, gìn giữ Người, che chở Người, lớn lên với Người, và như thế chúng ta mới phúc âm hóa gia đình, canh tân giáo xứ và cải tiến thế giới được. Hãy dành cho Chúa một chỗ trong trái tim và ngày sống của chúng ta.
Lạy Thánh Gia Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, xin chở che gìn giữ gia đình nhân loại chúng con. Amen.
23.Gia đình trong chương trình cứu độ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp liền sau Lễ Giáng Sinh, Giáo hội cử hành lễ kính Thánh Gia Thất. Vì mừng Chúa Cứu Thế giáng sinh là mừng Gia Đình Thánh, nơi Người sinh sống. Hôm nay, nhìn vào cảnh tượng giáng sinh, chúng ta chú ý đặc biệt đến Chúa Hài Nhi nằm trong máng cỏ, bên cạnh Người có Đức Maria và thánh Giuse. Chúng ta khám phá ra rằng, Con Chúa Cha hằng có đời đời, đã rời bỏ gia đình Ba Ngôi vĩnh cửu bước vào trần gian sinh ra trong gia đình trần thế bởi Đức Maria và có thánh Giuse. Trước mặt Thiên Chúa gia đình thật quan trọng, Thiên Chúa đã tạo lập gia đình ngay từ thủa ban đầu, Con Thiên Chúa cũng chọn gia đình để sinh ra và cưu ngụ.
Gia đình là tác phẩm tuyệt đẹp của Thiên Chúa
Lần giở lại những chương đầu của sách Sáng Thế ta thấy gia đình là điều đẹp đẽ nhất mà Thiên Chúa đã tạo dựng và thiết lập. Người dựng nên loài người có nam có nữ, và ban cho họ mọi sự. Người ban cho họ quyền toàn thế giới! Họ chan hòa trong tình yêu của Người. Mọi tình yêu Thiên Chúa, mọi vẻ đẹp Thiên Chúa, mọi sự thật Thiên Chúa có trong Chúa, Chúa đều ban hết cho gia đình.
Gia đình đẹp về các mai mối: Thiên Chúa đã mai mối cho ông Adong và bà Evà, bởi chính Thiên Chúa dẫn Evà đến giới thiệu với Adong. Đẹp về cách chuẩn bị cho một gia đình mới: Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ông bà cả một gia nghiệp, chim trời cá nước, thú vật ngoài đồng, ruộng vườn canh tác. Đẹp về cử hành nghi lễ: Đám cưới của ông Adong và bà Evà do Thiên Chúa chủ sự, trước đó Ngài trang bị cho có mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sang ban đêm, khách sạn với muôn triệu vì sao. Hôn lễ bắt đầu, Thiên Chúa dẫn Evà đến với Adong, Adong vui vẻ hạnh phúc sáng mắt ra và không chỉ nhận Evà làm vợ mà còn nhận: Đây là xương tôi, đây là thịt tôi nữa (x. St 2,24),. Nhận nhau xong rồi, Thiên Chúa tuyên phán: “Sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly” (Mt 19,6).
Gia đình tan vỡ do Tội Nguyên Tổ
Được Thiên Chúa chúc phúc và họ đã sống vui hạnh phúc. Ađam và Evà sống tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa và với nhau, rất hạnh phúc, không phải đau khổ và không phải chết. Nhưng rồi con người tự tách ra khỏi Đấng đã dựng nên họ. Thế là đánh mất tất cả, tình nghĩa vợ chồng phân tán, hết anh em (huynh đệ tương tàn), hết hòa bình, hết tình yêu, cái đẹp và sự thật. Hậu quả là từ đó cho đến nay gia đình luôn ở trong tình trang bị đe dọa do tội lỗi, phá thai, coi thường người già, bất hiếu, sống chung, ly dị.
Thiên Chúa Cứu Gia Đình
Để cứu các gia đình, Đấng Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thành lập để làm mới lại tình con người với Thiên Chúa, cụ thể là tình gia đình.
Vì thế, Thiên Chúa đã đến thế gian trong một gia đình, để chỉ cho thấy rằng gia đình là một tổ chức an toàn để gặp gỡ và hiểu biết, và Ngài mời gọi chúng ta không ngừng kiến tạo sự hiệp nhất trong tình yêu. Gia đình được thiết lập dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Gia đình hết sức quan trọng cho hiện tại và tương lai của nhân loại. Vì gia đình là trường học tốt nhất để học cách sống các giá trị nhân phẩm con người và làm cho con người trở nên vĩ đại. Trong đó, mọi thành viên trong gia đình chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn, tất cả chúng ta đều cảm thấy được sự bảo vệ bởi tình cảm tồn tại trong gia đình.
Gia đình sống Lời Chúa
Trong Tâm Thư Gởi Các Gia Đình năm 1994, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Mầu nhiệm Ngôi lời Nhập Thể của Thiên Chúa liên kết mật thiết với gia đình nhân loại: không những với một gia đình, một gia đình ở Nagiarét, nhưng một cách nào đó, với hết mọi gia đình […]. Giáo Hội coi việc phục vụ gia đình là một trong những bổn phận thiết yếu của Giáo Hội. Trong ý nghĩa này, cả con người và gia đình kết cấu thành con đường của Giáo Hội”. (số1.2).
Trong Tông Thư về Kinh Mân Côi, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đã đề cao tầm quan trọng của gia đình, gia đình là tế bào căn bản của xã hội loài người và Giáo hội, là xã hội thu nhỏ, là Hội Thánh tại gia. Ngài mời gọi chúng ta đọc Kinh Mân Côi cầu cho các gia đình. Vì gia đình có tốt thì Giáo hội mới tốt được.
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta, chính nơi gia đình mà Hài Nhi Giêsu lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan (Lc 2, 40). Chúa Giêsu cảm thấy ấm áp khi sống trong gia đình, các thành viên xây dựng quan hệ tương quan tình yêu với nhau. Cũng thế, thật tốt đẹp biết bao, nếu chúng ta cùng nhau xây dựng gia đình mình thành một gia đình đầy ắp yêu thương, mọi người tôn trọng nhau, hiểu biết và tha thứ cho nhau, hy sinh và cầu nguyện cho nhau trong tình liên đới.
Ai trong chúng ta cũng đã từng sinh ra và sống trong gia đình hiển nhiên là có trải nghiệm, như gia đình Nagiarét xưa, sự hài hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa với con người! Ngày nay, việc gầy dựng gia đình là một trong những việc làm cấp bách. Như Công đồng Vaticanô II nhắc nhớ, cha mẹ giữ một vai trò khong thể thay thế được: “Đối với con cái mà trong yêu thương họ đã nhận từ Thiên Chúa, họ phải làm cho chúng hấp thụ những học thuyết Kitô giáo và những nhân đức của Phúc Âm. Nhờ đó họ nêu gương cho mọi người về mặt tình thương bền vững và quảng đại, xây dựng bác ái huynh đệ, làm chứng và cộng tác vào việc sinh sản của Giáo hội, Mẹ chúng ta, trở nên dấu chỉ và thông phần vào tình yêu Chúa Kitô đối với Hiền Thê Người: bởi yêu thương, Người đã hiến mạng vì Hiền thê” (x.Vat II, LG. V). Chính trong gai đình mà chúng ta học được bài học quan trọng nhất là: làm người. Con Thiên Chúa làm người để chúng ta được làm người hơn.
Lạy Ba Ngội Cực Thánh ở trần gian, xin giúp chúng con biết noi gương các thành viên trong Thánh Gia Thất, để gia đình chúng con trở nên cái nôi của tình thương, sống mãnh liệt Đạo Tình Thương ngõ hầu mỗi thành viên trong gia đình Công Giáo trở nên chứng nhân sống động của Hài Nhi Cứu Thế giáng sinh. Amen.
24.Gia đình sống hiệp thông--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 2, 22-40) trong ngày lễ Thánh Gia Thất diễn tả về sự hiệp thông sâu xa trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính sự hiệp thông trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa là nền tảng cho đời sống hôn nhân và gia đình. Gia đình Thánh đã đặt nền tảng, niềm hy vọng và nguồn bình an của mình trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính Thánh Gia Thất là gương mẫu cho mọi gia đình chúng ta.
Đối với Do thái giáo, tất cả những người phụ nữ sau khi sinh con đều phải lên đền thờ để thanh tẩy. Người con trai đầu lòng phải dâng cho Thiên Chúa. Và sự thường, cha mẹ của em bé sẽ chuộc em lại. Đó là lý do vì sao gia đình Thánh gia đã lên đền thánh Giêrusalem để dâng lễ tế.
Tuy nhiên, chúng ta thấy có nhũng điểm thật lạ trong đoạn Tin mừng của thánh Luca hôm nay.
Sự hiệp thông trong Ba Ngôi Thiên Chúa
Thánh Luca hầu như không nói một cách rõ ràng Đức Maria lên đền thờ để thanh tẩy. Ngài cũng không nói đến việc chuộc lại hài nhi Giêsu. Ngài chỉ nói đến việc dâng hài nhi cho Thiên Chúa.
Đây là chủ đích của thánh Luca. Ngài muốn làm nổi bật hình ảnh Chúa Giêsu là vị Thượng tế. Việc giữ luật Môisen chỉ là dịp thuận tiện, là cái cớ để Chúa Giêsu bày tỏ mình ra trong vai trò Thượng tế. Ngài không nhắc đến việc chuộc lại Giêsu vì Giêsu thuộc về Thiên Chúa.
Một điểm nữa chúng ta thấy trong bài Tin mừng là hình ảnh Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần hằng ở cùng ông Simêon và thúc đẩy ông vào đền thờ để được gặp Giêsu (x. Lc 2, 25-27). Xuyên qua những hình ảnh trên, chúng ta nhận ra sự tương quan khắng khít giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ cung lòng Chúa Cha sinh xuống làm người và giờ đây Giêsu lại được dâng lại cho Thiên Chúa. Chính Chúa Thánh Thần hằng luôn bên cạnh Giêsu trong mọi hoàn cảnh. Sự hiệp thông trong tương quan tình yêu của Ba Ngôi luôn dồi dào và duy nhất.
Nền tảng của Gia đình Thánh
Nhìn vào Gia đình Thánh chúng ta cũng thấy các Ngài đã gắn bó với nhau theo khuôn mẫu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thánh cả Giuse đã đón nhận Maria về nhà mình không phải theo sự tính toán của con người nhưng là do lòng tín thác vào Thiên Chúa. Thánh cả đã đồng hành với Maria và Hài nhi Giêsu trong những chặng đường khó khăn gian khổ: bảo vệ Maria trước dư luận về thai nhi; cùng Maria về quê khai nhân khẩu; khi sinh Giêsu nơi hang đá: khi đưa hai mẹ con chạy chốn sang Aicập; và những năm tháng tại làng quê Nazareth. Thánh nhân đã luôn gắn bó với gia đình bằng tất cả lòng yêu mến và trách nhiệm.
Đức Maria càng nồi bật hơn về lòng tín thác và chăm sóc con. Mẹ đã chấp nhận gian khó trong tình yêu mến. Mẹ luôn luôn hiện lên trong một dung nhan dịu hiền, âm thầm, kín đáo. Mẹ tin tưởng ở sự chở che của thánh cả Giuse. Mẹ theo con mình trên từng bước con đi. Mẹ cảm nhận và tỏ ra thấu hiểu con mình. Maria đã thực sự trở nên một người phụ nữ gương mẫu trong đời sống gia đình, luôn tín thác nơi Thiên Chúa và hết mình lo lắng cho con.
Với Hài Nhi Giêsu thì chúng ta phải thốt lên sự ngạc nhiên về lòng vâng phục của Ngài. Vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng Giêsu đã chấp nhận hạ mình xuống làm con một người nữ. Và dưới mái nhà nơi miền Nazareth, Giêsu đã luôn vâng phục Giuse và Maria. Ngài đã luôn vâng phục trong tình yêu mến để hầu chương trình cứu chuộc nhân loại được thực thi.
Gia đình ấy quả thực là một Gia đình Thánh, một gia đình luôn yên vui đầm ấm. Mọi thành viên luôn gắn bó với nhau trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, luôn nâng đỡ nhau trong tình yêu mến, trên thuận dưới hoà. Còn gì đẹp hơn một đời sống gia đình như thế; một gia đình luôn tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa và gắn bó với nhau trong tình yêu vị tha, không lo cho mình mà chỉ lo cho người khác.
Một gương mẫu cho mọi gia đình
Đời sống gia đình trong xã hội ngày hôm nay đang bị khủng hoảng trầm trọng. Tỷ lệ các cặp hôn nhân đổ vỡ có nguy cơ cao hơn các cặp chung thuỷ. Những trẻ nhỏ được sinh ra đang chịu ảnh hưởng của một nền giáo dục hay ít dở nhiều, gian dối hơn là thành thật. Vợ chồng coi trọng hưởng thụ thân xác hơn là những đứa con. Nhiều người sẵn sàng giết con khi còn trong bụng để đỡ phiền hà. Các thành viên trong một gia đình ít có cơ hội để ngồi xuống cùng chung một bàn ăn. Tất cả đang làm cho định chế đời sống gia đình trở nên gánh nặng trong cuộc sống.
Các gia đình sẽ đứng vững trong sự bình an khi biết dập khuôn theo mẫu gương Gia đình Thánh.
Người chồng biết lắng nghe và sống tinh thần trách nhiệm. Anh biết noi gương Thánh Giuse, luôn trở nên cột trụ trong gia đình; sẵn sàng đương đầu với những khó khăn để nâng đỡ vợ con; luôn biết cảm thông với vợ trong những lúc vợ yếu đau, mệt mỏi. Đặc biệt, anh biết chạy đến với Thiên Chúa khi phải đối mặt với những thực tại phũ phàng mà đôi khi chỉ vì vợ chồng không hiểu nhau. Biết lắng nghe Thiên Chúa và quan tâm đến vợ con hết mình là bổn phận của người chồng.
Người vợ luôn sống dịu hiền, yêu thương chồng, chăm sóc cho con. Hình ảnh Đức Maria luôn là lời mời gọi cho chị biết đi vào đời sống cầu nguyện để nhận biết con đường thật mà dẫn dắt con cái; biết dõi bước theo con của mình đế uốn nắn dạy dỗ chúng nên người. Chị biết lo cho chúng không chỉ học thức nhưng còn biết dẫn con mình tới bàn thờ Thiên Chúa để chúng được gặp gỡ nguồn cội của mình. Thái độ thương yêu của chị dành cho chồng luôn là những làn gió mát làm xua tan những cơn nóng giận của anh. Một người vợ luôn biết yêu thương và hết mình chăm sóc con cái là chiếc nôi bảo đám cho gia đình yên vui hạnh phúc.
Những người con trong gia đình chỉ có thể trưởng thành đầy đù khi biết tôn trọng và tùng phục cha mẹ trong tình yêu mến. Chính trong gia đình mà người con mới học được thế nào là yêu thương; thế nào là trên, thế nào là dưới. Sự vâng phục cha mẹ luôn đảm bảo cho người con có những bước đi vững chắc bước vào đời. Bạn hãy yêu mến cha mẹ mình, đừng bao giờ để cho người đã sinh ra mình, nuôi mình lớn lên phải buồn phiền vì mình.
Có được như vậy, đời sống gia đình chúng ta sẽ đẹp biết bao. Gia đình sẽ là chiếc nôi để ươm trồng sự sống, là không gian cho tình yêu triển nở, là đền thờ cho Thiên Chúa ngự.
Lạy thánh cả Giuse, Đức Trinh nữ Maria và Chúa Giêsu Hài Đồng, xin các Ngài chi dẫn và nâng đỡ gia đình chúng con.
25.Lễ Thánh Gia--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ Thánh Gia nhắc chúng ta nhớ đến những năm tháng Đức Giê-su sống thầm lặng trong suốt thời thơ ấu và trưởng thành dưới mái ấm gia đình Na-da-rét, mẫu gương của mọi gia đình.
Hc 3: 2-6, 12-14.
Hiền nhân Si-rác khuyên con cái phải có lòng thảo kính đối với cha mẹ, nhất là khi các ngài già yếu.
Cl 3: 12-21.
Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-lô-xê thực hành những đức tính như “thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại”, đặc biệt là “yêu thương” đó là mối dây tuyệt hảo liên kết mọi thành viên nên một trong đời sống gia đình và cộng đoàn.
Lc 2: 22-40.
Tin Mừng Lu-ca trước hết tường thuật lễ thanh tẩy Đức Ma-ri-a và lễ thánh hiến Hài Nhi Giê-su ở Đền Thánh, tiếp đó gợi lên một cách ngắn gọn thời thơ ấu của Đức Giê-su ở dưới mái ấm gia đình Na-da-rét.
BÀI ĐỌC I (Hc 3: 2-6, 12-15)
Ông Si-rắc là một hiền nhân Do thái vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Ông mở trường dạy học và ghi lại vốn kinh nghiệm cũng như những gẫm suy thế sự của mình. Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Híp-ri, sau đó được cháu nội của ông dịch sang Hy ngữ vào năm 130 trước Công Nguyên.
Tác phẩm của ông là sách dạy đạo đức về cách ăn nếp ở thực tiển. Ông viết tác phẩm nầy vì muốn trung thành với niềm tin của cha ông mình, đồng thời không muốn dân mình bị ảnh hưởng do văn hóa ngoại giáo chung quanh, đặc biệt do sức quyến rủ của sự khôn ngoan Hy lạp. Sách ông bàn đến nhiều đề tài rất đa dạng. Sách được điểm xuyết bằng những câu châm ngôn dễ nhớ và được Do thái giáo mến chuộng. Giáo Hội cũng xem sách nầy như Sách Thánh của mình.
Sách cho thấy ông nhất mực gắn bó với Lề Luật. Theo ông, việc thực hành Lề Luật là nguồn mạch khôn ngoan. Trong chương 3, hiền nhân Si-rắc khai triển phận làm con là phải có lòng thảo kính đối với cha mẹ mình, một trong Mười Giới Răn: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20: 12; Đnl 5: 16).
1. Thảo kính cha mẹ, đạo tự nhiên:
Bổn phận thảo kính cha mẹ nhất là vào lúc các ngài già yếu thuộc về những truyền thống rất lâu đời của các nền văn hóa, được các tôn giáo lẫn triết học ca ngợi. Chúng ta có thể sánh ví những lời khuyên bảo của hiền nhân Cựu Ước nầy với nhiều bản văn của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy lạp xưa. Ở Trung Quốc cũng như ở Ấn độ, bổn phận làm con đối với cha mẹ trở thành đạo hiếu đòi buộc hết mọi người. Ở Hy-lạp, xin được trích dẫn mẫu gương của hiền nhân Socrate khuyên các con của mình phải bày tỏ tấm lòng hiếu thảo với mẹ của chúng, vì tình sâu nghĩa nặng của cha mẹ đối với mình (Xénophon, Les Mémorables, II, 2). Ở Việt Nam chúng ta, không ai không thuộc câu ca dao nầy:
“Công cha như núi Thái Sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
2. Thảo kính cha mẹ, đạo Thiên Chúa.
Thảo kính cha mẹ không chỉ thuộc đạo tự nhiên, nhưng cũng còn chương trình của Đấng Tạo Hóa đối với con người. Cuộc sống gia đình ở Ít-ra-en được ghi khắc trong chiều kích siêu nhiên: không chỉ lưu truyền nòi gióng, mà còn truyền đạt từ thế hệ này đến thế hệ khác niềm tin của cha ông vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tự mặc khải mình ra:
“Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái,
cho người mẹ thêm uy quyền với con cái” (3: 2).
Chính Đức Chúa chúc phúc cho con cái nào giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ của mình:
“Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ
Ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (3: 6).
Đây là lời chúc phúc cổ truyền nhất. Cuộc sống trường thọ là phần thưởng dành cho con cái có tấm lòng đạo hiếu đối với cha mẹ được đánh giá cao nhất vào thời kỳ mà những niềm hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được biết đến (chỉ vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, viễn cảnh niềm tin vào cuộc sống mai sau mới xuất hiện).
Chúng ta còn ngạc nhiên hơn nữa khi bậc hiền nhân hứa với những ai thờ cha kính mẹ sẽ được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của mình:
“Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm
Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (3: 3-4).
Trong các lời khuyên, lời khuyên cảm động nhất, chính là kính trọng cha lúc người già yếu:
“Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già;
bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi.
Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông,
chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người” (3: 12-13).
Lý do được tác giả nêu ra:
“Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng,
và sẽ đền bù tội lỗi cho con.
Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó,
và các tội con sẽ biến tan
như sương muối biến tan lúc đẹp trời” (3: 14-15).
Trong Do thái giáo sau thời lưu đày Ba-by-lon, người ta rất nhạy bén trước tội lỗi và bận lòng thanh luyện nội tâm. Hiền nhân Si-rắc thuộc vào những thế hệ nầy: gẫm suy giáo huấn của các ngôn sứ. Đến phiên mình, ông ca tụng việc thực hành đức hạnh hơn việc tế tự thuần túy bên ngoài. Theo đường hướng nầy, ông khai triển rất xa như ở đây ông đánh giá việc thảo kính cha mẹ như hy tế xá tội. Tuy nhiên, chúng ta nhận ra một sự khác biệt ở đây: trong khi các ngôn sứ rất bận lòng đến ơn cứu độ của toàn thể dân chúng, thì các hiền nhân quan tâm nhiều hơn đến ơn cứu độ cá nhân.
Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng hiền nhân Si-rắc cẩn trọng trích dẫn “thờ cha” và “kính mẹ” gần như tương xứng với nhau. Điều nầy rất hiếm trong Cựu Ước ở đó người cha là gia trưởng thường chiếm vai trò gần như độc tôn.
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 12-21)
Như thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thư gởi tín hữu Cô-lô-xê đã được thánh Phao-lô viết trong cảnh thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma vào khoảng những năm 61-63 sau Công Nguyên, vì thế nội dung của hai bức thư nầy rất gần nhau.
1. Hoàn cảnh:
Thành phố Cô-lô-xê miền Tiểu Á đã khai sinh một cộng đoàn Ki-tô hữu. Cộng đoàn nầy được Epaphras, bạn đồng hành đồng thời cũng là môn đệ của thánh Phao-lô, thiết lập. Những sai lạc đạo lý, những biện luận về quyền năng của thiên thần, những thực hành khổ chế, những khuynh hướng Do thái giáo gây nguy hiểm cho đức tin của cộng đoàn non trẻ nầy. Thánh Phao-lô hiện đang bị giam cầm, nên không thể đến tận nơi được. Vì thế, thánh nhân gởi bức thư nầy cho các tín hữu Cô-lô-xê. Thánh nhân tập chú giáo huấn của mình vào Đức Ki-tô và quy chiếu cuộc sống Ki-tô hữu vào điều cốt lõi: sống hiệp nhất với Đức Ki-tô, noi gương Đức Ki-tô, thực hành các nhân đức, đặc biệt là đức ái.
2. Nội dung:
Phụng vụ đề nghị cho chúng ta đoạn trích của thư này và mời gọi chúng ta đọc nó trong ý hướng của ngày lễ hôm nay: đời sống gia đình: “Anh em hãy có lòng thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại. Hãy chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau”.
Đức ái Ki-tô giáo là nguồn mạch của sự hiệp nhất và bình an trong đời sống cộng đoàn, huống gì trong đời sống gia đình, ở đó tình yêu phải là mối dây liên kết tuyệt hảo. Theo thói quen của mình, thánh Phao-lô mời gọi tạ ơn và cầu nguyện, nhất là cầu nguyện chung: “Hãy đem hết lòng biết ơn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, những khúc thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh hứng”, nghĩa là cầu nguyện tự phát.
Đoạn thư hoàn tất với vài lời khuyên bảo đặc thù về bổn phận giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái. Thánh nhân khai triển những điều nầy trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô 5: 21-32.
TIN MỪNG (Lc 2: 22-40)
Vào ngày lễ Thánh Gia, với đoạn Tin Mừng nầy, Giáo Hội tưởng niệm hai nghi thức được cử hành cùng một lúc trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem: lễ thanh tẩy người mẹ là Đức Ma-ri-a và lễ thánh hiến con trai đầu lòng là Hài Nhi Giê-su.
Chung quanh con trẻ sáu tuần lễ nầy, chúng ta thấy Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se không chỉ “tuân theo Luật Chúa truyền”, nhưng họ còn ngạc nhiên bỡ ngỡ trước lời sấm của cụ già Si-mê-on về Hài Nhi. Điều nầy cho thấy thánh Giu-se đã nhận con trẻ nầy như đứa con ruột thịt của mình. Như vậy, thánh Lu-ca, vốn đã nhấn mạnh đức đồng trinh của Đức Ma-ria, không ngần ngại nói: “cha mẹ của Đức Giê-su”.
Luật Mô-sê đòi buộc người mẹ, sau bốn mươi ngày sinh con trai và sau tám mươi ngày sinh con gái, dâng hy lễ thanh tẩy: một con chiên một năm tuổi, nhưng nếu người nghèo, một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Vì thế, của lễ của gia đình thánh là của lễ của một gia đình nghèo.
Lễ thánh hiến con trai đầu lòng là đòi buộc, nhưng không cần phải lặn lội xa xôi đem con lên Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Chúa. Ở đây, thánh Lu-ca đề cao tấm lòng đạo đức tuyệt vời của Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se.
Vào giây phút Đức Giê-su được trao ban hoàn toàn vào tay của con người và được dâng tiến lên Cha Ngài, Thánh Thần linh hứng cho hai nhân vật khả kính: cụ già Si-mê-on và bà ngôn sứ An-na, mặc khải sứ mạng của Hài Nhi nầy.
1. Cụ già Si-mê-on (2: 25-35):
Cụ già Si-mê-on đang mong chờ “niềm an ủi của Ít-ra-en”, đây là tước hiệu chỉ Đấng Mê-si-a từ thời ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, tức là cuối thời lưu đày (x. Is 49: 13). Cụ nhận ra Hài Nhi nầy là Đấng Cứu Độ không chỉ của dân Ít-ra-en nhưng của muôn dân nữa. Mặc Khải nầy làm cho Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se ngạc nhiên và bỡ ngỡ. Bài thánh thi của cụ già Si-mê-on tiên báo về sứ mạng của Đức Giê-su đối xứng với bài thánh thi của ông Da-ca-ri-a tiên báo sứ mạng của con ông là Gioan Tiền Hô. Thánh Lu-ca thiết lập một sự đối xứng cuộc đời thơ ấu của hai con trẻ nầy.
“Ông Si-mê-on chúc phúc cha hai ông bà”, nhưng chỉ hướng về một mình Đức Ma-ri-a và nói với chỉ một mình Mẹ. Cụ già Si-mê-on báo trước cho Đức Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi, số phận bi thương đang chờ đợi Mẹ: Mẹ sẽ đau khổ vì dân Ít-ra-en bị chia rẻ về Con của Mẹ vì tin vào Ngài hay từ chối Ngài. Chúng ta có thể đọc thấy trong lời tiên báo nầy viễn cảnh thập giá.
2. Bà ngôn sứ An-na (2: 36-38):
Bà ngôn sứ An-na cảm tạ Thiên Chúa và lớn tiếng thông báo cho những ai mong chờ ngày Thiên Chúa giải phóng Giê-ru-sa-lem qua con trẻ nầy.
Đây là sự ghi nhận mang đậm nét của thánh ký Lu-ca. Đối với thánh Lu-ca, Giê-ru-sa-lem là trung tâm Mặc Khải. Dung mạo của hai ông bà cao tuổi nầy đại diện rất rõ nét nỗi mong chờ dài lâu của dân Ít-ra-en. Thế nên, đây là hai người tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa đến chứng thực rằng việc dân Ít-ra-en chuẩn bị chờ đón Đấng Mê-si-a đã đến hồi kết thúc. Họ được sánh ví như thời Cựu Ước đã đến hồi hoàn tất để nhường chỗ cho thời Tân Ước, kỷ nguyên Mê-si-a. Trong số bốn tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký nhấn mạnh nhiều nhất những giai đoạn cứu độ.
3. Lời kết (2: 39-40)
Thánh Lu-ca kết thúc đoạn Tin Mừng hôm nay với đời sống ẩn dật của Đức Giê-su trong mái ấm gia đình Na-da-rét. Thánh ký ghi nhận rất ngắn gọn cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su: “Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh”. Lời nhận xét nầy được đặt đối xứng với lời nhận xét khác liên quan đến cuộc đời thơ ấu của Gioan Tiền Hô: “Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh” (Lc1: 80) . Tuy nhiên, thánh ký còn nói thêm về Chúa Giê-su: “Đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Chúa”. Như vậy, Đức Giê-su vĩ đại hơn Gioan Tiền Hô ngay từ thời thơ ấu.
26.“Gia Đình, Nguồn Gốc của Tình Yêu”--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Ai trong chúng ta cũng có gia đình. Bạn và tôi có thực sự hạnh phúc khi sống trong gia đình của mình? Nếu trong gia đình và sống bên cạnh những người thân yêu làm cho bạn hạnh phúc, thì nó đến từ đâu, hay điều gì tạo nên? Còn nếu bạn chưa cảm nghiệm được hạnh phúc, thì tại sao? ACE rất thân mến, gia đình ngày nay hơn bao giờ hết, đang có những thách đố, khó khăn, khủng hoảng và ngay cả những đổ vỡ…Trong những bối cảnh thách đố, tế nhị như vậy, chúng ta sẽ làm gì để bảo vệ gia đình của mình và tạo nên hạnh phúc cho những người thân yêu của chúng ta. Các bài đọc Lời Chúa soi sáng và cho chúng ta những bí quyết tuyệt hảo hầu giúp chúng ta có tình yêu và hạnh phúc đích thực cho tổ ấm gia đình của mình.
Tin mừng theo Thánh Luca tường thuật việc cha mẹ Chúa Giêsu đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa vì ý thức và tin rằng Chúa Giêsu là con trai đầu lòng của hai ông bà, nhưng Ngài phải là Người thuộc về Thiên Chúa trước hết. “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa”. Chính qua việc dâng hiến trẻ Giêsu cho Thiên Chúa, Thánh Gia thất đã giúp và nêu gương cho chúng ta nhận ra để sống giá trị ơn gọi cao quý trong đời sống hôn nhân-gia đình. Hôn nhân-gia đình chính là quà tặng ân sủng đến từ Thiên Chúa, vì yêu thương Chúa đã tuyển chọn để ban cho con người nhận ra được ơn gọi để trở nên người vợ-người chồng, người cha-người mẹ. Qua hôn nhân-gia đình ơn gọi tình yêu được gắn kết, triển nở; đỉnh cao và kết quả của tình yêu chính là con cái. Thật vậy, cha mẹ thực sự là những người được Chúa thương mời gọi để cộng tác với Ngài trong công trình tạo dựng tuyệt hảo này. Trên tất cả mọi sự, các thành viên trong gia đình đều được mời gọi để nhận ra ơn gọi tình yêu, ơn gọi nên thánh. Qua mẫu gương và ơn phúc từ Thánh Gia Thất, những ai sống trong ơn gọi gia đình phải nên sống đáp trả với lòng tin yêu, tri ân-cảm tạ. Thật vậy, cách đáp trả đẹp nhất đó chính là quyết tâm để nhận ra, thực thi thánh ý Chúa qua chính bổn phận và trách nhiệm hằng ngày.
Vấn nạn của các gia đình trẻ ngày hôm nay, ngay cả với những gia đình công giáo, những lúc gặp khó khăn thì họ liền nghĩ ngay đến giải pháp “ly dị”; họ nói và hành động rất đơn giản để đi đến giải pháp này. Khi được hỏi về những nguyên nhân làm cho hôn nhân-gia đình tan vỡ, có rất nhiều lý do được đưa ra như: không có tình yêu thương chân thành, không thể cảm thông-tha thứ, tính tình không hợp nhau…nhưng căn bản nhất của việc đổ vỡ là họ không có, hay không nhận ra ơn gọi mà Chúa đã ban cho mình trong cuộc sống gia đình; nói khác hơn gia đình không có ơn thánh Chúa Chúa hiện diện.
Bài đọc hai trong thư Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Côlôse chính là kim chỉ nam cho những ai đang sống trong ơn gọi gia đình muốn được hạnh phúc-bình an. “Từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau …trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương”. Tại sao trong đời sống hôn nhân-gia đình cần phải có và sở hữu những nhân đức quan trọng này mà không phải là lo đi tìm kiếm tiền bạc, của cải, vật chất hay danh vọng, địa vị? Ai trong chúng ta cũng muốn kiến tạo hạnh phúc-an vui cho mình và gia đình. Nhưng để tạo nên hạnh phúc đích thực không phải do chúng ta mà có, hạnh phúc là ơn thánh do Chúa thương ban, phần chúng ta phải cố gắng gìn giữ, bảo vệ và trân quý. Và bí quyết tối thượng để có hạnh phúc trong gia đình chính là: “Tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.”
Vấn nạn mà xã hội và gia đình ngày nay đang phải đau khổ khi đối diện, đó là khi các thành viên trong gia đình không còn quan tâm lo lắng bảo bọc che chở lẫn nhau, chỉ vì lợi ích cá nhân hay vì sự hẹp hòi ích kỷ mà họ không còn có tôn tri trật tự trong gia đình. Do đó, đạo hiếu cũng chính là chìa khóa để giúp các gia đình có được một nguồn, nền tảng vững chắc. Bài đọc một từ sách Huấn ca giúp cho chúng ta tìm lại chính căn tính, cột trụ của gia đình đó là đạo hiếu. Thờ cha, kính mẹ, tỏ lòng hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ lúc các ngài còn sống cũng như qua đời. Phụng dưỡng, giúp đỡ và thảo hiếu với cha mẹ trong tinh thần cảm tạ tri ân chính là sự khôn ngoan để giữ được hạnh phúc cho gia đình mình.
Trên thực tế thì thật là khó, nan giải, nhiều lúc làm chúng ta cảm thấy bất lực và muốn bỏ cuộc rút lui khi gặp những khó khăn, thử thách, sóng gió của đời sống hôn nhân-gia đình. Những lúc như vậy, Thánh Gia Thất và Lời Chúa chính là nơi để chúng ta tìm đến, bám víu, nương náu và kêu xin sự trợ giúp. Ba Đấng sẽ luôn đồng hành, chuyển cầu ban ơn thánh cho chúng ta, vì các Ngài cũng đã trải qua và đã sống chứng tá trọn vẹn để nêu gương cho chúng ta. Thánh Gioan Tông đồ, tác giả sách Tin mừng, người môn đệ Chúa yêu, dẫu không mừng kính trong ngày hôm nay, nhưng trong âm thầm, Ngài cũng là thành viên của Thánh Gia Thất, vì Ngài đã rước Mẹ Maria về nhà mình, Ngài đã sống trọn vẹn cho ơn gọi chứng tá tình yêu của mình.
Lạy Thánh Gia Thất, lạy Thánh Gioan Tông đồ, xin thương che chở, bảo vệ gia đình của con và các gia đình, để mỗi gia đình luôn có Chúa là nguồn tình yêu, hạnh phúc và bình an đích thực. Amen.
27.Lễ Thánh Gia--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
Bạn đã đối xử với những người xung quanh và cộng đoàn như một gia đình chưa? Tin mừng dạy bạn nên làm như thế.
Hôm nay, chúng ta cùng mừng lễ Thánh Gia Thất - Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse. Những chủ đề về gia đình và cộng đoàn rất nổi bật trong nhiều bài đọc có thể lựa chọn trong Sách Bài đọc.
Bài đọc thứ nhất có thể chọn trong sách Huấn ca hoặc Sáng thế. Bài đọc từ sách Huấn ca đưa ra sự khôn ngoan về cách thức mà cha mẹ và con cái nên tương tác với nhau như thế nào. Cha mẹ có quyền hướng dẫn và quyền hành trong việc nuôi dạy con cái, còn con cái được dạy dỗ để tôn trọng và chăm sóc cha mẹ, đặc biệt khi họ đã cao niên. Bài đọc trích sách Sáng thế là một sự kết hợp của chương 15 và 21, trong đó Thiên Chúa hứa rằng dòng dõi Abraham sẽ trở nên đông vô kể. Phần thứ hai của bài đọc là sự ứng nghiệm lời hứa qua bà Sara với việc sinh hạ Isaac. Các phần thiếu giữa hai chương bao gồm mối quan hệ giữa Abraham và bà Haga, đưa đến việc sinh hạ Ismael. Cả hai bài đọc thứ nhất này đều ghi nhận tầm quan trọng năng động giữa cha mẹ - con cái và khẳng định con cái chính là phúc lành từ Thiên Chúa, thậm chí đôi khi không tuân theo những ràng buộc sinh lý của con người, như trường hợp của Abraham và Sara.
Bài đọc thứ hai có thể trích từ thư thánh Phaolô gửi tín hữu Côlôsê hoặc thư Do Thái. Nếu chúng ta chọn thư Côlôsê, thì nên ưu tiên chọn bài đọc ngắn để loại bỏ ngôn ngữ tai hại về sự lệ thuộc của người phụ nữ. Bài đọc ngắn nhấn mạnh đến những phương cách mà một cộng đoàn nên noi theo Thiên Chúa và đối xử với nhau như một gia đình, trao yêu thương, lòng trắc ẩn, sự kiên nhẫn và tha thứ. Ngoài ra, có thể đọc bài trích thư Do Thái nếu chúng ta chọn sách Sáng thế làm bài đọc thứ nhất. Thư Do Thái suy niệm về việc Abraham sẵn lòng hiến tế Isaac, giải thích cho Sáng thế chương 22 như một dấu chỉ cho thấy đức tin của Abraham vào quyền năng và lời hứa của Thiên Chúa.
Bài Tin mừng sẽ trích từ thánh Luca và có bài dài lẫn bài ngắn. Bài đọc ngắn thiếu hầu hết nội dung tường thuật, vì vậy nên ưu tiên chọn bài đọc dài. Trong bài đọc này, Mẹ Maria và thánh Giuse dâng Hài nhi Giêsu trong Đền thờ. Các ngài dâng của lễ và đón nhận lời tiên tri từ hai thành viên của cộng đoàn, là ông Simêon và bà Anna. Trong Tin mừng Luca, việc dâng hiến này là hoạt động công khai đầu tiên mà Gia đình thánh thực hiện. Hành động này nối kết gia đình khi họ chu toàn nghĩa vụ tôn giáo được qui định trong Lề luật. Hơn nữa, cộng đoàn, mà hai ngôn sứ Simêon và Anna đại diện, đã chấp nhận và nhìn nhận tầm quan trọng của thánh gia cũng như Chúa Giêsu là Đấng Mêsia. Sự nhìn nhận và xác nhận công khai đã làm cho bản văn này thích hợp dùng trong ngày lễ Thánh Gia, vì gia đình cộng đoàn này luôn ủng hộ Thánh gia. Thêm nữa, Tin mừng còn gợi nhớ đến câu ngạn ngữ của người Phi châu “Cả làng mới nuôi được con”, vốn nêu bật vai trò của cộng đoàn trong việc trao ban tình thương cũng như hướng dẫn để trẻ em sống và phát triển.
Các bài đọc hôm này như một lời nhắc nhở rằng gia đình là tương quan nền tảng phải được nuôi dưỡng, và cộng đoàn là sự mở rộng của gia đình. Các bài đọc sẽ truyền cảm hứng cho chúng ta hầu củng cố sự nối kết với gia đình và cộng đoàn của mình.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/11/19/holy-family-advent-gospel-reflection-catholic
28.Mái ấm gia đình--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Vào Hiệp hội Thương Mại quốc tế, đất nước chúng ta càng ngày càng mở cửa ra cho nền kinh tế thị trường phát triển. Thế là bao Công ty, doanh nhân nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam kinh doanh buôn bán. Cửa mở thì gió lùa vào. Gió lành lẫn gió độc chen nhau vào. Những người có chút lương tri đều băn khoăn trước những cơn gió độc làm băng hoại các giá trị tinh thần đạo đức. Một trong những cơn gió độc cần chân nhận đó là sự sa sút của nền tảng xã hội đó là gia đình.
Không phải chúng ta quen thói bài ngoại. Nhưng chính một số nhà đạo đức của trời Tây- Mỹ cũng đã từng nhìn nhận thực trạng này trên quên hương của họ. Bác sĩ Benjamin Spack đã có những nhận định về tình trạng trên cùng với những nguyên nhân như sau trong cuốn sách được hâm mộ của ông. Đó là:
1. Vì thích độc lập, sống riêng rẽ nên các gia đình trẻ mất sự hổ trợ, mất sự đùm bọc yêu thuơng của cha mẹ, anh chị em.
2. Cuộc sống kinh tế nghề nghiệp làm các gia đình hay thay đổi chỗ ở, làm mất tình làng nghĩa xóm ( bà con xa không bằng láng giềng gần ).
3. Cũng do sinh kế mà cả cha lẫn mẹ đều bôn ba cảnh cơm áo gạo tiền và vì thế thiếu thời giờ dành cho nhau, dành cho con cái.
4. Nạn ly hôn ngày càng phổ biến ảnh hưởng rất tai hại trên con cái, trên sự thiêng liêng của đời gia đình.
5. Óc thượng tôn của cải khiến vật chất thành thước đo giá trị làm cho con người thiếu niềm tin vào các giá trị tinh thần và đạo hiếu là một trong những số phận hẩm hiu ấy.
Hôm nay Hội Thánh mời gọi chúng ta hướng cái nhìn đến gia đình Nagiarét để chiêm ngắm nền tảng tuyệt vời của xã hội là gia đình thánh: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Đặc biệt năm nay cùng với Hội Thánh Việt Nam chúng ta sống chủ đề Giáo Dục Gia Đình, xin cùng nhau nhớ lại lời dạy của Đức Phaolô VI: “Ước gì Nagiarét dạy chí chúng ta biết ý nghĩa của gia đình là trường học của Tin Mừng. Ở đó có một sự hiệp thông trong tình yêu, một vẻ đẹp khắc khổ nhưng sáng ngời, một sự linh thánh bất khả xâm phạm”. Gia đình chính là mái trường đào tạo con người cách hữu hiệu tuyệt vời mà không có nơi nào có thể sánh ví.
1. Gia đình: nơi huấn luyện con tim. Vì yêu thương hai trái tim chung nhịp đập tìm đến nhau và nên duyên vợ chồng. Tình yêu này trổ sinh hoa trái là những đứa con.
Con nằm giữa cha, con nằm giữa mẹ.
Cuộc đời nằm giữa yêu thương.
Thi sĩ Tế Hanh diễn tả một hình ảnh quen thuộc nhưng rất thân thương. Hài Nhi Giêsu nằm đó trong máng cỏ giữa mẹ Maria và thánh Giuse hẳn gợi nhớ cho chúng ta nhiều điều. Chỉ với tình yêu và trong tình yêu của Đấng Tạo Thành thì người chồng, người cha, người vợ, người mẹ và cả đàn con mới có thể vượt qua nhiều sóng gió cuộc đời. Maria với bào thai trong dạ hẳn mang nhiều trăn trở, nhiều thao thức trước tấm lòng của Giuse, người bạn đã đính hôn với mình, và trước cả cái án tử hình ném đá theo luật hiện hành. Mẹ đã vượt qua, nhờ yêu Chúa và yêu người bạn đời. Giuse không muốn làm hại bạn mình chỉ vì yêu. Và bởi mến Chúa, sau khi được sứ thần báo mộng, ngài đã đón Maria và Hài nhi trong dạ về nhà. Hai trái tim tràn đây tình yêu đã góp phần cho Đấng là Tình Yêu chào đời, dù cho lòng người lúc ấy lắm bạc bẽo. vô tình.
2. Gia đình: nơi đào tạo niềm tin. Đã yêu hẳn nhiên dẫn đến sự tin cậy. Tin tưởng, tín nhiệm nhau là một trong những dấu chỉ của tình yêu. Tin Mẹ Maria, thánh cả Giuse không một lời cật vấn, hỏi han. Tin vào Chúa, dù thánh ý Người chỉ bàng bạc trong giấc mộng, Giuse đã mau mắn thi hành là đón nhận Maria về nhà cũng như sau đó đưa Hài Nhi và Mẹ Người đi lánh nạn sang Ai Cập một thời gian rồi lại trở về quê hương. Đón nhận Ngôi Hai nhập thể bằng tiếng xin vâng là một hành vi quả cảm của cô thôn nữ làng quê Nagiarét. Hành vi ấy chắc chắn được thực hiện nhờ lòng tin vào người bạn đời, Giuse. Sau khi tìm được Giêsu tại đền Thờ trong chuyến lên Giêrusalem hành hương, cả Maria và Giuse dù chưa hiểu câu nói của Chúa Giêsu: “Sao Cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”, thì cả hai ông bà vẫn tin vào con. Chắc chắn với niềm tin của Maria và Giuse đã góp phần dệt nên một Đấng Cứu độ sau này khi đi rao giảng tin mừng thường đòi hỏi lòng tin nơi cử toạ, nơi những người muốn đón nhận ân phúc của Người. Và chúng ta không quên Người đã từng than thở rằng liệu khi Người trở lại còn thấy niềm tin trên mặt đất này chăng.
Niềm tin và tình yêu là hai yếu tố căn bản gìn giữ sự ổn định và phát triển của xã hội loài người. Đó cũng chính là những yếu tố nền tảng giúp con người phát triển và tồn tại. Khi con người không còn yêu thương nhau thì tai hoạ sẽ ập đến, vì lúc bấy giờ người với người là những con thú dữ chỉ biết tranh giành, ăn thua đủ để sống còn. Khi con người không còn tin tuởng nhau thì sẽ không có chuyện gì tốt đẹp tồn tại. Không có niềm tin thì chẳng có hợp đồng, chẳng có thoả thuận… Không có niềm tin thì chẳng có sự chung sống, và cũng chẳng có bất cứ sự cộng tác nào một cách đúng nghĩa.
Mái trường đầu tiên để con người học được chữ tình và chữ tin đó là gia đình. Gia đình đổ vỡ thì xã hội suy tàn và chính con người sẽ bị tận diệt. Mừng kính lễ thánh gia thất Chúa Giêsu, mẹ Maria và thánh cả Giuse hôm nay, một lần nữa thánh ý Chúa và lời dạy của Hội Thánh nhắc bảo chúng ta cần trân trọng giá trị cao quý của mái ấm gia đình, cần nổ lực bảo vệ các giá trị cao quý của hôn nhân. Một trong những cách thế trân trọng và bảo vệ gia đình đó là hãy biến gia đình chúng ta thành mái trường đích thực, nơi đào tạo tình yêu, nơi huấn luyện niềm tin.
29.Hạnh phúc gia đình--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Qua bài Tin Mừng, bạn thấy Giuse có những nỗi khó khăn nào? Và ông đã có thái độ nào khi giải quyết những khó khăn ấy?
2. Hạnh phúc gia đình tùy thuộc vào ai nhiều nhất? Tại sao?
3. Để gia đình được hạnh phúc, mọi người trong gia đình cần có tinh thần nào?
Suy tư gợi ý:
1. Giuse, người chủ gia đình gương mẫu
Bài Tin Mừng hôm nay chủ yếu nói về thánh Giuse với tư cách chủ của gia đình Nagiarét. Ngài đã phải hết sức cực nhọc vất vả vì gia đình của mình, nhất là vì con trẻ Giêsu, kể từ khi thấy Đức Maria mang thai, một cái thai không phải là của mình, nhưng trước mắt mọi người thì lại chính thức là của mình. Thử đặt mình vào địa vị Giuse, ta sẽ thấy vai trò của ngài không phải dễ dàng.
Đối với con trẻ Giêsu, cho đến lúc lìa đời, thánh nhân luôn luôn phải dùng con mắt đức tin, tin vào lời sứ thần hiện ra trong giấc mơ, để khỏi nghĩ rằng mình đang phải nuôi đứa con của người đàn ông khác. Cuộc đời đâu phải lúc nào cũng phẳng lặng để Giuse có thể yên ổn với niềm tin ấy. «Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ», đức tin của Giuse chắc chắn bị thử thách nhiều phen, nhất là những lúc phải vượt thắng những khó khăn vượt quá sức mình như tình huống của bài Tin Mừng hôm nay.
Từ khi nhận Maria về nhà mình đến giờ, khó khăn cứ dồn dập xảy tới. Chưa yên thân với Maria tại nhà mình, thì có lệnh phải đưa Maria – đang mang thai đã đến thời sinh nở – từ miền Bắc vào miền Nam, từ Nagiarét xứ Galilê đến Bê-lem xứ Giuđê theo lệnh kiểm tra dân số của Hoàng Đế Augústô (x. Lc 2,1-6). Cuộc hành trình mà theo đường chim bay đã dài tới 120km, và đương nhiên phải đi bằng một phương tiện rất thô sơ của những người nghèo thời đó, có thể chỉ là một con ngựa hay con la. Người nghèo đi tới đâu cũng gặp khó khăn, chẳng mấy ai giúp đỡ. Và Maria đã bị buộc phải sinh hạ con trẻ Giêsu – mà Giuse tin là đấng Thiên Sai – trong một chuồng bò lừa. Là chủ gia đình, chắc chắn Giuse không tránh khỏi đau lòng và nhục nhã trước sự nghèo nàn và bất lực của mình! Nhưng nào đã hết! Con trẻ mới sinh chưa được bao lâu, đang chuẩn bị đưa hai mẹ con hồi hương, thì lại có lệnh của thiên thần – cũng lại trong giấc mơ – buộc phải đưa cả hai mẹ con trốn sang Ai-Cập. Chỉ thẳng đường chim bay từ Bê-lem tới biên giới Ai Cập thôi đã phải là 100km. Hành trình lần này chắc chắn vất vả hơn lần trước, vì có thêm con trẻ Giêsu hết sức yếu đuối, dễ nhiễm bệnh. Ở nơi đất khách quê người, Giuse phải tìm cho ra chỗ ở, việc làm tạm thời để nuôi sống cả gia đình, chắc hẳn điều ấy không luôn luôn dễ dàng. Rồi cuối cùng lại phải đưa cả gia đình về Nagiarét. Tại đây Giuse phải bao bọc, che chở và nuôi sống gia đình, đồng thời giáo dục con trẻ Giêsu nên người. Đối với Đức Giêsu, câu «công Cha như núi Thái Sơn» chắc chắn cũng rất đúng khi áp dụng cho cha nuôi của mình.
Tất cả những khó nhọc vất vả ấy đòi hỏi Giuse phải có rất nhiều tình yêu và nhiều đức tính mới có thể vượt qua một cách tốt đẹp. Nếu Giuse và Maria sống đời vợ chồng bình thường, thì những khó nhọc của Giuse sẽ được bù đắp bởi những giây phút hạnh phúc thân mật bên Maria. Nhưng theo niềm tin Công giáo, Giuse bảo vệ cho Maria sống đồng trinh trọn đời, nên tình yêu đầy tính thiên thần và hết sức cao thượng của Giuse đối với Maria phải hết sức lớn lao. Ngài thật là một người đàn ông cao cả, và là một người chủ gia đình hết sức gương mẫu. Thiết tưởng bất kỳ người chủ gia đình nào bắt chước Giuse cũng sẽ làm cho gia đình mình yên vui hạnh phúc.
2. Hạnh phúc gia đình tùy thuộc người chồng rất nhiều
Hạnh phúc gia đình có hay không, và đến mức nào, tùy thuộc vào tất cả mọi thành viên trong gia đình, nhất là vào cách đối xử của hai vợ chồng đối với nhau. Muốn gia đình hạnh phúc, mọi thành viên phải thực hiện những điều Thánh Phaolô đề nghị trong bài đọc 2: «Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng».
Nhưng nếu so sánh giữa hai vợ chồng, thì theo sự thường, nghĩa là trong đa số các trường hợp, hạnh phúc và sự êm ấm trong gia đình tùy thuộc vào người chồng nhiều hơn. Câu nói trên của thánh Phao-lô hàm ẩn những điều kiện trong đó. Muốn vợ phục tùng chồng, thì người trước đó người chồng cần phải tỏ ra yêu thương vợ một cách cụ thể, qua việc đối xử độ lượng, không cay nghiệt với vợ, biết thông cảm, hy sinh, thường xuyên giúp đỡ vợ trong mọi việc, nỗ lực bao bọc che chở vợ mình trong mọi hoàn cảnh. Người vợ có cảm thấy được chồng yêu thương, có cảm phục chồng vì tính quảng đại, cao thượng, bỏ qua mọi lầm lỗi nhỏ nhặt, thì mới dễ dàng phục tùng chồng. Nói chung, tâm lý của mọi người là chỉ tự nguyện phục tùng những ai mình nể phục và yêu mến mà thôi. Người vợ không thoát ra ngoài tâm lý chung ấy. Người chồng không nên lấy quyền làm chồng, hoặc dùng bạo lực hay áp lực kinh tế để ép buộc vợ phải phục tùng mình. Làm như thế thì có khác gì mình đang thực hiện một chế độ độc tài nho nhỏ trong gia đình. Người vợ cảm thấy mình bị áp bức một cách bất công, tất nhiên – như một định luật – là sẽ có ngày nổi loạn, nhất là khi người chồng trở nên yếu thế, không còn khả năng về kinh tế hay thể chất nữa. Lúc đó người chồng không thể chỉ biết trách vợ, mà trước tiên hãy nhận ra lầm lỗi của mình.
Ngược lại, muốn được chồng yêu thương, người vợ cũng cần phải tỏ ra mình là một người dễ thương, nghĩa là nói năng dịu dàng, ngọt ngào, biết chiều ý chồng, biết hy sinh tận tụy phục vụ gia đình, làm tròn mọi bổn phận của mình trong gia đình, nhất là biết tỏ ra nể phục chồng. Mình không dễ thương thì dù là chồng mình cũng chẳng thể thương mình được.
Tâm lý chung của mọi người đàn ông là dễ đem lòng yêu thương những phụ nữ tỏ ra nể phục mình, và tâm lý chung của mọi phụ nữ là dễ yêu thương những người mà mình nể phục. Nhưng làm sao người phụ nữ có thể yêu thương một người mà mình khinh thường vì thấy không có gì đáng nể phục? Và làm sao người đàn ông có thể yêu thương được người vợ không kính nể mình? Do đó, để gia đình hạnh phúc, yếu tố rất quan trọng là người chủ gia đình phải có một điều gì đấy, một đức tính nào đấy khiến người vợ cũng như con cái trong nhà nể phục. Có thể chỉ cần một đức tính nào đó thật nổi bật, không cần nhiều. Nhưng càng nhiều thì càng tốt! Nhưng đức tính không thể thiếu được là lòng độ lượng, bao dung, và sự hy sinh quả cảm.
Gia đình thánh gia rất dễ có hạnh phúc, một phần rất lớn là vì Giuse, người chủ gia đình, có rất nhiều đức tính đáng để Maria kính phục. Có thể nói bản lĩnh, cách hành xử cao thượng, và sự quảng đại trong yêu thương của người đàn ông là nền tảng và là yếu tố đầu tiên cần thiết cho hạnh phúc của cả gia đình. Thiếu nó, gia đình khó có hạnh phúc.
3. Quên mình để yêu thương hữu hiệu, là bí quyết gây hạnh phúc gia đình
Một trong những trở ngại lớn nhất của hạnh phúc gia đình là cái tôi và ý riêng của mỗi thành viên. Nói chung, ai cũng coi cái tôi và ý riêng của mình là quan trọng, và tỏ ra rất bực mình khó chịu khi thấy cái tôi và ý muốn của mình bị coi thường, hoặc không được ai để ý tới. Ai cũng bị cái tôi và ý riêng của mình thu hút đến độ quên đi cái tôi và ý muốn của người khác vốn cũng thu hút hết tâm trí của họ. Ai cũng muốn cái tôi và ý kiến của mình được mọi người quan tâm chú ý, nhưng chẳng ai muốn quan tâm đến cái tôi và ý kiến của kẻ khác. Chính vì thế, chẳng ai được thỏa mãn, cuộc sống chung do đó chẳng hạnh phúc, thậm chí biến thành hỏa ngục. Muốn làm cho người khác hạnh phúc, nghĩa là làm cho họ được thỏa mãn vì cảm thấy cái tôi và ý kiến của họ được tôn trọng, thì chính tôi phải quên cái tôi và ý riêng của mình đi để đặt nặng cái tôi và ý kiến của họ lên. Như thế họ cảm thấy hạnh phúc khi ở bên cạnh tôi. Nếu người ấy cũng biết làm như thế đối với tôi, thì tôi cũng cảm thấy hạnh phúc, và thế là cả hai đều hạnh phúc. Nhưng cách tốt nhất và bảo đảm nhất để được hạnh phúc là tôi lấy hạnh phúc của người tôi thương làm hạnh phúc của mình. Như thế tôi sẽ hạnh phúc khi làm cho họ được hạnh phúc.
Hạnh phúc gia đình luôn luôn đòi hỏi phải có một ai đó trong nhà biết quên mình, biết quên cái tôi của mình đi, để quan trọng hóa cái tôi của người khác lên. Thái độ ấy như một cái ngòi khởi động, làm cho những người khác trong nhà cũng hành động như vậy, và nhờ đó, hạnh phúc gia đình mới bùng lên. Thái độ khởi động ấy phải được lập lại hàng ngày hàng giờ trong đời sống gia đình. Ai sẽ khởi sự thái độ quan trọng ấy nếu không phải là chính bạn, là người ý thức được bí quyết hạnh phúc đó, bất kể bạn là vợ hay chồng? Thật vô phúc cho gia đình nào không có ai tự nguyện làm cái ngòi khởi động tình yêu thương ấy hàng ngày trong cuộc sống!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã chọn thánh Giuse là người đứng đầu gia đình Nagiarét với những đức tính rất cần thiết của một người làm chủ gia đình để gia đình ấy được hạnh phúc. Xin cho tất cả những người làm chủ trong các gia đình Ki-tô hữu biết noi gương bắt chước Ngài, biết coi nhẹ cái tôi của mình để thường xuyên quan tâm đến hạnh phúc của mọi thành viên khác trong gia đình. Xin cho những người làm vợ và làm mẹ noi gương Đức Maria biết luôn tỏ ra dễ thương, dịu dàng, và biết hy sinh ý riêng của mình cho hạnh phúc gia đình. Và xin cho mọi con cái trong gia đình Ki-tô hữu biết noi gương Đức Giêsu luôn kính trọng và vâng phục cha mẹ mình. Amen
30.Gia đình là trường thực tập yêu thương--JNK
Để giúp con người có một môi trường thuận lợi để phát triển và thực tập tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng và đặt con người sống trong gia đình. Khi vừa sinh ra, mọi người đều nhận được một tình thương dồi dào, vô điều kiện và vô vị lợi của cha mẹ - một tình yêu thuộc loại tốt đẹp nhất trên thế gian - đồng thời được mời gọi đáp lại tình yêu thương ấy. Đó là một bài tập hết sức dễ dàng về yêu thương mà mỗi người đều có thể thực tập ngay từ thuở nhỏ. Không gì dễ dàng bằng yêu thương người đã hết lòng yêu thương mình và hy sinh cho mình. Tình yêu đáp trả này tự phát sinh do mình nhận được từ cha mẹ mình quá nhiều. Đây là thứ tình yêu nhận nhiều hơn cho.
Lớn lên một chút, mỗi người khám phá ra, ngoài cha mẹ mình, thì các anh chị em mình cũng yêu thương mình bằng một tình yêu tương đối vô vị lợi. Với tình yêu này, con người phải tập cho nhiều hơn và nhận ít hơn so với tình yêu đối với cha mẹ. Ngoài gia đình, mỗi người còn có bạn bè do chính mình chủ động chọn lựa và yêu thương.
Đến khi trưởng thành, con người có tình yêu hôn nhân. Tình yêu này là một tình yêu do mình chọn lựa và tương đối có điều kiện: mình yêu và đòi hỏi người kia phải yêu lại, nếu đơn phương thì tình yêu sẽ khó tồn tại. Con người chủ động hiến thân và hy sinh cho người mình yêu với một ý chí tương đối tự do.
Đến khi có con cái, con người tự nhiên yêu thương con bằng một tình yêu vô vị lợi, vô điều kiện, không lựa chọn. Đó là tình yêu cao cả nhất và phản ảnh trung thực nhất tình yêu của Thiên Chúa mà con người kinh nghiệm được trong đời sống gia đình.
Như vậy con người thực tập yêu thương - từ dễ đến khó - trong môi trường gia đình. Trong gia đình, con người kinh nghiệm tình yêu một cách tự nhiên và sâu xa: con người được yêu và chủ động yêu, nhận hy sinh từ người khác và chính mình cũng hy sinh cho người khác.
Thế nhưng con người còn được mời gọi yêu một cách rộng rãi hơn, vượt khỏi phạm vi gia đình, để đến với những người ngoài, không ruột thịt máu mủ. Các tín đồ trong các tôn giáo, đặc biệt người Ki-tô hữu, còn được mời gọi yêu thương cả những người không hề quen biết, thậm chí cả kẻ thù. Yêu như thế khó hơn rất nhiều, nhưng nhờ áp dụng những kinh nghiệm về yêu thương đã có trong gia đình, việc yêu thương người ngoài gia đình, thậm chí kẻ thù, trở nên khả thi hơn.
Như vậy, vai trò của gia đình trong việc đào luyện tình yêu cho con người thật hết sức quan trọng, không gì thay thế được.
Nếu những người trong gia đình - là những người cùng máu mủ ruột thịt, những người tự nhiên yêu thương ta nhất và ta dễ yêu thương nhất - mà ta không yêu thương được, thì làm sao ta có thể yêu những người xa lạ, những người khó có cảm tình, nhất là những người thường gây bất lợi cho ta?
Kinh nghiệm cho tôi thấy, những ai đối xử đã không tốt với chính cha mẹ, với vợ, với chồng, với con cái, với anh em mình, thì khi họ đối xử tốt với những người khác, sự tốt ấy thật đáng nghi ngờ! Rất có thể chỉ là giả tạo để đạt một mục đích nào đó, chứ không thể là thực tình được! Vậy, các bậc cha mẹ hãy cho con cái mình những kinh nghiệm về yêu thương tốt đẹp nhất có thể. Đó là những gì tốt đẹp nhất mà họ có thể làm cho con cái họ!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ và Thánh Giuse đã làm cho gia đình của mình trở thành một gia đình gương mẫu vì mọi trong đó đều yêu thương nhau. Xin cho mọi người trong gia đình con thực tập từ bỏ tính ích kỷ để biết yêu thương nhiều hơn, hy sinh cho nhau nhiều hơn, để nên thánh thiện hơn.
31.Đầy tràn khôn ngoan--Lm. Trầm Phúc
Trong niềm vui của lễ Chúa giáng sinh, Giáo hội muốn cho chúng ta nhìn về thánh gia để thấy Chúa Giêsu làm người như thế nào. Ngài sống như mọi người. Sinh ra, thân phận bé bỏng, phải cần bàn tay của mẹ để sống và lớn lên. Ngài làm người thật trong khi Ngài vẫn là Thiên Chúa thật. Ngài là Thiên Chúa đã tự hủy cho con người. Ngài muốn mang lấy trọn vẹn thân phận con người, không loại trừ một gánh nặng nào. Ngài phải cần cha mẹ như mọi trẻ em. Ngài nhận lấy một dòng tộc, là người Do Thái. Vì thế Ngài được cha mẹ đem đến Đền thờ dâng cho Chúa như mọi trẻ em đầu lòng của người Do Thái: “Mọi con trai đầu lòng thuộc về Ta”, Chúa phán như thế. Ngài phải chịu cắt bì là dấu hiệu thuộc về Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Khi tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới lề Luật…”
Hai bài đọc Kinh Thánh nhắc đến gia đình của ông Abraham, xem như hình ảnh của gia đình Nadaret vì trong đó có đứa con của lời hứa là Isaac. Chúa Giêsu cũng là đứa con của lời hứa. Bà Sara không còn có thể có con vì bà đã già. Ông Abraham than thở với Chúa: “Chúa không ban cho con một dòng dõi”… Nhưng Chúa đã bảo ông nhìn lên trời đếm các vì sao và hứa sẽ cho ông một dòng dõi đông như sao trên trời, như cát bãi biển. Abraham tin vào lời hứa của Chúa và Chúa đã thăm viếng bà Sara và cho ông một con trai. Chúa cũng đã hứa từ xa xưa sẽ ban cho dân Chúa một Đấng cứu thế, và Ngài đã giữ lời hứa và thăm viếng Mẹ Maria, và đã ban Con Một mình cho chúng ta.
Gia đình Nadaret là một gia đình như mọi gia đình khác. Nhưng lại không giống như gia đình khác vì trong gia đình đó, trẻ Giêsu là Con Thiên Chúa, nó mang tên Giêsu, nghĩa là Chúa cứu. Nó được ông già Simêon, khi bồng em trên tay đã nhìn nhận em bé này là ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân, là ánh sáng soi đường cho muôn dân, là vinh quang của Israen.
Gia đình này không thể như gia đình khác, vì Giuse và Maria không đi ngang qua thử thách của xác thịt. Giuse yêu Maria như mọi thanh niên khác, nhưng ông là người công chính, ông biết mình đang làm gì, đang giữ những kho tàng nào và tuyệt đối trung thành. Tình yêu của ông đã chuyển hướng. Ông trở thành người đầy tớ trung thành của Thiên Chúa.
Maria, nữ tỳ vừa nhỏ hèn vừa cao cả của Thiên Chúa, cũng yêu Giuse như một người vợ yêu chồng, nhưng nàng đã hiểu được giá trị của tình yêu và đã thăng hoa tình yêu đến một mức độ tuyệt đối. Tất cả cuộc đời của nàng chỉ biết sống cho Đứa con thần linh của mình và phục vụ gia đình trong khiêm tốn và tận tụy.
Trong gia đình này, tình yêu tràn ngập và Giáo hội xem như gương mẫu của mọi gia đình, là “Hội thánh tại gia”, như Đức Gioan-Phaolô II đã nói. Trong gia đình này Thiên Chúa là trung tâm, là tất cả. Tất cả là của Chúa, tất cả là cho Chúa.
Gia đình Nadaret nghèo như mọi gia đình nghèo. Giuse chỉ là một ông thợ mộc nhà quê, làm mướn kiếm ăn. Nhưng hạnh phúc biết bao! Giêsu lớn lên cũng học nghề của cha, cũng làm thuê làm mướn để kiếm sống. Thánh Luca, tóm kết cuộc sống của Chúa Giêsu chỉ trong một câu: “Con trẻ luôn vâng lời cha mẹ”.
Chúng ta cầu xin cho các gia đình hôm nay biết cố gắng noi theo gương yêu thương như gia đình Nadaret, vì ngày nay gia đình đang ở trong tình trạng nguy hiểm, chịu nhiều áp lực tứ phía vì nhiều kẻ thù muốn tàn phá gia đình, hủy hoại hạnh phúc gia đình. Những kẻ thù đó mang nhiều hình thức khác nhau rất độc hại là ly dị, phá thai, tự do luyến ái, ngoại tình, và biết bao nhiêu hình thức khác. Người ta chỉ nghĩ đến lạc thú, không cần tình yêu, không cần hạnh phúc. Các Đức Giáo Hoàng đã nhiều lần lên tiếng bảo vệ gia đình nhất là Thánh Gioan-Phaolô II. Ngài không thôi lo lắng về gia đình, kêu gọi mọi người tôn trọng giá trị của gia đình, bảo vệ giá trị của tình yêu. Tông huấn nền tảng của Ngài: “Cộng đoàn gia đình” vẫn là tiếng gọi bảo vệ những giá trị căn bản của gia đình vẫn còn là một tiếng gọi khẩn thiết mà chúng ta, những gia đình Kitô hữu phải chú ý lắng nghe. Đọc lại các thư của thánh Phêrô, thánh Phaolô, chúng ta thấy sự ân cần của các ngài đối với gia đình Kitô hữu. Chúng ta không nên bỏ qua những lời răn dạy thực tế và tốt đẹp đó.
Những người thiện chí vẫn biết rằng gia đình là nền tảng của xã hội. Tàn phá gia đình là tàn phá xã hội. Nhưng hình như nhiều người không muốn tự ràng buộc mình trong một gia đình, người ta chỉ muốn tự do để sống theo ý thích, theo đam mê nhục dục. Chỉ cần hưởng thụ. Họ vẫn có gia đình, nhưng đó chỉ là trạm dừng chân sau khi đã tung hoành theo bản năng. Vì muốn sung sướng, người ta không muốn có con, xem con cái như là một của nợ. Gia đình trong xã hội hôm nay tan rã rất nhiều vì những tệ nạn xã hội. Người ta giết thai nhi như một vật thừa thãi.
Các gia đình Công giáo phải vững tin vào lòng thương của Chúa. Chúng ta không thể sống hạnh phúc nếu chỉ nghe theo bản năng. Gia đình vẫn là một gánh nặng, nhưng là một gánh nặng êm đềm, vì tình yêu vẫn là một bảo đảm cho cuộc sống. Con người cần hạnh phúc chứ không cần giàu sang. Tình yêu mới mang lại hạnh phúc chứ không phải chỉ có khoái lạc. Những người chạy theo khoái lạc, một ngày nào đó cũng sẽ thấy chán chường, tâm hồn trống vắng. Và một ngày nào họ cũng nếm mùi của bệnh tật. Những nhà tỷ phú vẫn bị ung thư, vẫn bị nhiều thứ đau khổ. Không ai tránh khỏi đau khổ. Gia đình mới có thể bảo đảm cho con người một cuộc sống bền vững, những nâng đỡ cần thiết khi gặp bệnh hoạn gian nan.
Gia đình Kitô giáo cũng là cái nôi cho sự sống, là đền thờ của sự sống, như thánh Gioan-Phaolô đã nói, xem con cái là hồng ân của Chúa chứ không là một món nợ không tránh khỏi. Con cái là kết quả của tình yêu chứ không là một điều tai hại. Các gia đình quảng đại đón nhận con cái luôn được Chúa chúc phúc, mặc dù gánh nặng vẫn có nhưng với sự trợ lực của Chúa, gia đình vẫn có thể vượt qua mọi khó khăn.
Hãy tin như Abraham. Ông chỉ có một đứa con duy nhất, nhưng khi Chúa bảo ông sát tế đứa con yêu quí, ông vẫn vâng phục, vì ông tin rằng Chúa có thể giữ lời hứa của Ngài. Chúng ta phải tin và quảng đại đón nhận con cái theo ý Chúa. Chúng ta không tạo được con, chúng là hồng ân, và Chúa không bao giờ bỏ quên những người dám tin vào tình yêu của Ngài.
Gia đình là nơi sự sống phát triển, và cũng là nơi giáo dục, trường học đầu tiên về đạo đức. Cha mẹ chuyển thông cho con cái niềm tin và những đức tính tốt. Và như thế, khi con cái khôn lớn, được lớn lên trong tình yêu chứ không lớn lên trong tội, sẽ là nguồn hạnh phúc cho cha mẹ. Việc giáo dục con cái là một gánh nặng đòi hỏi cha mẹ nhiều hy sinh, nhiều kiên nhẫn. Ngày nay, trẻ em lớn lên trong môi trường xã hội bị ô nhiễm vì những lối sống vô luân, học đường và các phương tiện truyền thông xã hội và gương mù gương xấu khắp nơi. Cha mẹ cảm thấy như bất lực. Nhưng những cha mẹ kiên trì dạy dỗ con, nhất là bằng gương sáng sẽ nhận thấy thành quả tốt đẹp của những cố gắng của mình và ơn Chúa sẽ nâng đỡ.
Nguyện xin thánh gia thất luôn chuyển cầu cho thiện chí của các gia đình luôn cố gắng đi theo đường lối của Giáo hội, làm phát triển trong gia đình những giá trị của tình yêu, đặt Chúa làm trung tâm của gia đình, góp phần vào việc thánh hóa gia đình, và như thế làm cho Giáo hội thêm tươi đẹp nhờ tình yêu gia đình. Các gia đình thánh thiện là bông hoa tươi tắn mà Chúa chúc phúc và là niềm hãnh diện của Giáo hội.
Các gia đình càng thêm thánh thiện khi cùng nhau đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, là nguồn sống mãnh liệt cho mọi người trong gia đình. Mọi người đều chia sẻ tấm bánh Tình Yêu sẽ đủ can đảm để yêu nhau trọn vẹn hơn. Tất cả đều bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa và sẽ kết thúc trong tình yêu vĩnh cửu của Chúa.
32.Lễ Thánh Gia Thất--Lm Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Lc 2: 22-40: Gia đình là một vườn ươm thuận lợi để làm phát triển các đức tính tốt cho con trẻ như yêu thương, vâng lời, phục vụ, hiền hòa, hy sinh, nhịn nhục, tha thứ.
Phong trào gia đình công giáo đã có từ thế kỷ 16, nhưng đến cuối thế kỷ 19, Đức Giáo Hòang Lêô XIII cỗ vũ mạnh và đặt ra lễ Thánh Gia nhằm thúc giục mọi người theo gương Thánh Gia Thất mà sống trên thuận dưới hòa để tạo lập những gia đình hạnh phúc. Năm 1994 Liên hiệp quốc cũng như Giáo Hội đã chọn làm năm quốc tế về gia đình.
Ngày nay, gia đình đang gặp cơn khủng hỏang trầm trọng, đang trên đà xuống dốc. Gia đình là nền tảng của xã hội mà nền tảng đã lung lay thì xã hội cũng sụp đổ. Do đó, Giáo Hội muốn chúng ta mừng lễ Thánh Gia là để đề cao vai trò của gia đình và đưa ra một tấm gương tuyệt hảo cho mọi người bắt chước, hầu củng cố gia đình và giúp cho xã hội thêm vững mạnh. Gia đình là một vườn ươm thuận lợi để làm phát triển các đức tính tốt cho con trẻ như yêu thương, vâng lời, phục vụ, hiền hòa, hy sinh, nhịn nhục, tha thứ… một trong những yêu tố quan trọng để làm cho gia đình được hạnh phúc là mỗi phần tử trong gia đình phải có một tình yêu vô vị lợi.
Chúng ta thấy thánh Giuse và Đức Maria không bao giờ bận tâm về tư lợi của mình mà bỏ quên ích lợi của Chúa Giêsu. Trái lại, chúng ta chỉ thấy các ngài hòan tòan quên mình, coi nhẹ sở thích riêng tư. Tâm trí và ánh mắt các ngài luôn để ý đến những nhu cầu nhỏ bé, những mong ước đơn sơ của người khác, vì hạnh phúc là gì nếu không phải là làm cho người khác được hạnh phúc.
Hạnh phúc gia đình luôn luôn đòi hỏi phải biết quên mình, hy sinh cho kẻ khác.
Những tấm gương của gia thất trong đời thường:
1. Tài tử Galicopter và người vợ
Một trong những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng nhất thập niên 50 là nam tài tử Galicopter. Ông nổi tiếng không những vì tài nghệ diễn xuất mà còn vì cuộc sống hôn nhân mẫu mực của ông. Vào khỏang cuối đời, quằn quại trong thể xác, ông đã nói về Rochi, người vợ đã chung sống với ông gần 30 năm như sau :“Rochi là một người đàn bà tuyệt vời. Nàng là một người vợ đã biết thích nghi với tính khí và công việc của tôi. Nàng cũng biết cảm thông với những lỗi lầm của tôi. Nhất là nàng đã biết ở cạnh tôi khi nàng có thể, mỗi khi tôi cần đến nàng. Nàng là người vợ đích thực”.
Những lời khen tặng trên đây của tài tử Galicopter là một khẳng định rằng: người nắm giữ hạnh phúc gia đình, người nắm vai chủ động trong việc xây dựng hạnh phúc hôn nhân chính là người vợ. Dĩ nhiên, sự thành công của hôn nhân là do sự hợp tác của hai vợ chồng, nhưng người vợ vẫn giữ vai trò chủ yếu: “đàn ông dựng nhà, đàn bà xây tổ ấm”
2. Bà mẹ thánh thiện và đảm đang thành Luân Đôn
Đầu thế kỷ XX này, tại Luân Đôn, có một gia đình công nhân vừa nghèo khó lại vừa đông con: cả thảy 13 đứa! Bố của chúng phải đi làm việc suốt ngày ở xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà làm nghề phụ và lo việc nội trợ. Dù đầu tắt mặt tối, bận rộn suốt ngày suốt đêm, nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay mặt chồng dạy dỗ con cái học giáo lý, tập luyện chúng có tinh thần đạo đức, khuyên chúng chịu khó học tập, lao động, và đặc biệt trưa nào rửa chén bát xong bà Vaughan cũng đến nhà thờ chầu Chúa một giờ.
Láng giềng ai cũng lấy làm lạ và hỏi bà: "một bầy con 13 đứa, bận rộn sáng tối, mà sao trưa nào chị cũng đi chầu Thánh Thể?" Bà tươi cười bảo: "thấy một bầy con lúc nhúc, ăn bữa mai chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế chúng còn đến trước trường học, theo bạn bè rủ rê đi chơi hoặc ra phố phường xa hoa, do đó nhiều nguy hiểm, tôi càng thao thức hơn. Thành thử mỗi ngày dầu bận việc đến đâu, tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Chúa, sốt sắng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi nấng các cháu hằng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức".
Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaughan: trong 13 người con, một người làm Hồng Y Tổng Giám Mục giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám Mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ, còn 5 người ở thế gian lập gia đình lưu truyền nòi giống, sống cuộc đời đạo đức thánh thiện.
3. Nhà bác học Louis Pasteur
Ngày 14/07/1883, hội đồng thành phố Dole quyết định đặt tấm đồng ghi danh trên cửa nhà mà Pasteur đã sinh ra. Hôm ấy, trong bài đáp từ cao thượng, nhà bác học trứ danh đã để lòng trào ra lòng biết ơn cha mẹ: “ôi, hỡi cha con, mẹ con! Ôi, hỡi những người thân yêu đã chết! Các ngài đã sống bình dị quá trong căn nhà nhỏ bé này, con đã chịu ơn các ngài. Những nhiệt tình của người, hỡi người mẹ can đảm của con, mẹ đã chuyển nó cho con. Nếu con bao giờ cũng đã nối kết vinh quang khoa học vào vinh quang tổ quốc, chính là vì con đã thấm nhuần những tình cảm mà mẹ phấn khích ở trong con. Và hỡi người cha thân yêu, trong đời sống cũng như nghề nghiệp, cha đã tỏ cho con biết đức kiên nhẫn trong cố gắng lâu dài có thể làm được những gì… con xin chúc tụng cả hai, hỡi cha mẹ thân yêu, cho cuộc sống các ngài, và xin để cho con hướng về các ngài cái vinh hạnh mà người ta hiến lên căn nhà này ngày hôm nay.”
33.Thánh hóa gia đình--AM Trần Bình An
Tổ chức Kỷ lục Việt Nam được sự hỗ trợ của Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam vừa qua đã công nhận kỷ lục cặp vợ chồng cao tuổi nhất Việt Nam thuộc về vợ chồng cụ Cao Viễn (SN 1908) và Vũ Thị Hai (SN 1914) ở làng Phượng Lịch, xóm Hai, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, Nghệ An.
Cụ Cao Viễn chia sẻ bí quyết sống lâu của hai cụ là sống thật lạc quan và vui vẻ. Dù đều đã bước qua tuổi 100 nhưng hai cụ vẫn còn rất khỏe mạnh và minh mẫn. Cụ ông Cao Viễn vẫn còn rất lanh lợi. Hai cụ vẫn có thể đọc báo, xem ti vi, làm những công việc trong gia đình, nuôi dạy các cháu, chắt. Cụ ông vẫn viết nhật ký, làm thơ, viết chữ với những nét rõ ràng khiến nhiều người trẻ phải bái phục.
Vừa mở chiếc ti vi nhỏ của gia đình cụ, ông Cao Viễn vừa tâm sự: “Tôi rất thích xem các chương trình thời sự, tin tức và đọc báo. Thấy chúng tôi sống “lâu quá”, người ta cứ đồn thổi rằng chúng tôi có bí quyết, hay thuốc gia truyền gì. Nhưng điều đó là hoàn toàn không có. Chúng tôi cũng chỉ ăn uống bình thường, thậm chí có thời gian còn không có cháo mà ăn ấy chứ”, nói đoạn cụ ông Cao Viễn nhìn sang vợ mình cười hạnh phúc.
Hai cụ kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện từ nạn đói 1945. Lúc đó các con còn nhỏ, hai vợ chồng cụ phải chia bát cháo ít ỏi cho các con ăn cầm hơi. Rồi đến những ngày đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh, lúc cụ ông lên đường nhập ngũ, rồi lần lượt các con cũng ra chiến trận. Trong trí nhớ của hai cụ, lịch sử vẫn còn vẹn nguyên, không hề bị xáo trộn.
Lấy nhau sinh được 8 người con (3 trai, 5 gái), hiện hai cụ đã có 34 cháu nội, ngoại. Cùng nhau bước qua thế kỷ thứ 2, đôi vợ chồng già vẫn vẹn nguyên những hạnh phúc như thuở ban đầu.“Ngày trước có những năm đến cháo không có mà ăn gia đình phải đào cả củ chuối, nhặt từng cái rễ khoai mà ăn chứ nói đến thuốc thang hay bí quyết gì để mà sống được lâu. Nhưng với vợ chồng chúng tôi, khi nào gia đình cũng phải vui vẻ lạc quan, sống nhân đức, hòa thuận. Khó khăn thì phải cùng nhau khắc phục chứ không được cãi cọ hay mâu thuẫn. Như vậy mình mới sống được mà không đau ốm bệnh tật và sống được lâu với con cháu” - cụ bà Vũ Thị Hai chia sẻ về cuộc sống hạnh phúc của gia đình vợ chồng mình suốt 2 thế kỷ qua.
Hiện tại con cháu hai cụ đều đã ra ở riêng, thỉnh thoảng mới đến chăm sóc được bố mẹ. Vì vậy mọi sinh hoạt thường nhật từ bữa cơm, giấc ngủ hai vợ chồng cụ đều tự lo liệu. Tất cả mọi công việc hai cụ đều cùng nhau làm, từ xem ti vi, dọn dẹp nhà cửa đến nấu một nồi cháo. Cũng vì cuộc sống viên mãn, trường thọ của hai cụ mà người dân trong vùng thường xuyên nhờ hai cụ làm người chúc phúc lành cho những cặp vợ chồng mới cưới. (Nguyễn Tình - Lany Nguyễn, Dân Trí, Cặp vợ chồng cao tuổi nhất Việt Nam chia sẻ bí quyết trường thọ)
Hôm nay, Hội Thánh long trọng mừng Lễ Thánh Gia, khuôn mẫu lý tưởng cho mọi gia đình sống hạnh phúc, bình an và vững bền. Khi tất cả thành viên gia đình đều quy hướng về Đức Giêsu, luôn là trọng tâm của mỗi người, thì cuộc sống gia đình mãi ổn định và phát triển.
Sống cùng
Mẹ Maria được sứ thần Gabriel loan báo vinh dự được làm Mẹ Đấng Cứu Thế, cũng như Người Công Chính, Thánh Giuse được báo mộng đón nhận bổn phận cao cả làm cha nuôi Đức Giêsu. Cả hai đấng cùng nhau đồng tâm thực hiện Thánh Ý Chúa trao phó, mặc bao gian nan, thử thách. Cùng nhau lận đận về quê Bêlem, khi Mẹ Maria sắp đến ngày lâm bồn. Chật vật, khó khăn, thiếu thốn khi sinh nở. Trốn tránh, tản cư, vượt biên, khi vua Hêrôđê tàn sát con trai đầu lòng. Thánh Gia vẫn bền vững trong bao cơn sóng gió, vì Thánh Giuse và Mẹ Maria luôn vâng theo Thánh Ý hướng dẫn, và luôn có Chúa ở cùng.
Bao lâu, có Chúa cùng đồng hành, thì gia đình vượt qua tất cả mọi nghịch cảnh, mọi thách đố, kể cả bệnh tật, tai ương, hoạn nạn. Có Chúa sống cùng trong tâm hồn, trong lời nói, trong hành xử, trong việc làm, mọi thành viên gia đình thảy đều đồng cảm, đồng tâm, đồng hành với nhau, như Thánh Phaolô khuyên sống hòa đồng, hòa hợp cùng nhau: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12, 15).
Sống cho
“Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” (Lc 9, 23) Để có Chúa hiện diện trong tâm hồn, thì tiên quyết phải xả kỷ, từ bỏ bản ngã, cái tôi hẹp hòi, độc đoán bất nhân, bất nghĩa, bất khoan dung, để sống cho người, cho tha nhân. “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” Người Công Chính không so đo, tự ái, vị kỷ, không bối rối vương vấn, không sống theo ý riêng, quyết tâm vâng theo Thánh Ý Chúa, nhiệt thành, hăng say, cộng tác, phục vụ đắc lực chương trình Cứu Độ.
Mẹ khiêm hạ, tự xóa mình đi, sẵn sàng vâng theo Thánh Ý, khi thưa sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi, như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 38) Mẹ hoàn toàn phó thác, sống cho Ơn Gọi.
Còn Đức Giêsu gặp lại cha mẹ sau ba ngày ở lại đền thờ giải đáp Kinh Thánh, cũng luôn tuân phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. “Người đi xuống cùng vời cha mẹ, trở về Nadareth và hằng vâng phục các ngài. (Lc 2, 51) Thánh Phaolô cũng dạy dỗ con cháu biết hiếu thảo cha mẹ: “Con cháu phải học cho biết ăn ở hiếu thảo đối với gia đình mình, và đền ơn đáp nghĩa các bậc sinh thành. Đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa.” (1Tm 5, 4).
Sống vì
Ông bà cụ Cao Viễn kể trên đã sống đúng theo truyền thống dân tộc: "Sống vì mồ mả, không sống vì cả bát cơm." Sống không phải bon chen, giành giựt, gian ác, làm giàu, mà nghĩ đến khi qua đời, làm sao mồ yên mả đẹp, để lo tu thân tích đức.Nên dù khó khăn, đói rách, các cụ vẫn vui vẻ chia sẻ, phục vụ lẫn nhau, con cháu và xóm giềng, mong để lại phúc đức cho con cháu hưởng nhờ. Người Kitô hữu có mục đích sống còn linh thiêng, cao quý hơn nữa. Đó là sống vì đạo. Trở nên chứng nhân của Đức Giêsu, giữa xã hội xô bồ tôn thờ bái vật.
Thánh Phaolô vạch rõ mục đích sống của Kitô hữu: “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.Vì Đức Kitô đã chết và sống lại, chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,7-9).
Me Maria luôn sống vì Con Mẹ, đồng cảm, đồng hành cùng Người suốt 33 năm, âm thầm đau khổ trước thái độ chống báng và ám hại của thần quyền lẫn thế quyền đối với Con Mẹ, như ông Simêôn đã tiên tri: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà.” (Lc 2, 5)
“Phần thứ nhất của tiệc cưới Cana là yêu thương và hưởng thụ, nhưng giữa tiệc cưới chỉ còn nước! Đôi tân hôn mới ý thức rằng: phương tiện mình hạn hẹp, tình yêu mình lạnh nhạt!
Phần thứ hai của tiệc cưới Cana là khám phá ra kho tàng đạo đức chưa được sử dụng, rượu sau ngon hơn rượu trước: Một tình yêu chân thực, một quả tim biết thắng mình, quên mình, trung thành và hiến dâng không đòi lui.” (Đường Hy Vọng, số 464)
Lạy Chúa Giêsu, xin Người dạy chúng con biết sống cùng nhau, chia sẻ ngọt bùi cay đắng, biết sống cho đi, phục vụ tha nhân, cũng như biết sống vì Chúa, làm chứng nhân Tình Yêu. Kính xin Người ban Đức Chúa Thánh Thần xuống cho chúng con, biết can đảm sống theo Lời Chúa.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ cầu bầu, chỉ dạy chúng con noi gương Mẹ, luôn sống bên Chúa, luôn vâng theo Thánh Ý Chúa, cùng luôn chấp nhận đau thương vì Chúa. Amen.
34.Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan, ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người--Lm. Jos. Đăng
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Bà và Thánh Giuse, một gia đình gương mẫu cho mọi gia đình trên thế giới. Bài Tin Mừng cho chúng ta một hình ảnh của đời sống gia đình, dù đó là gia đình Thánh. Các Ngài đã chu toàn lề luật Do Thái lúc đó: "Đủ ngày thanh tẩy theo luật Môisen, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa... và cũng để dâng lễ vật cho Chúa". Chính tại nơi đó Thánh Thần Chúa đã tỏ cho ông Simêon và và Anna về ơn Cứu Độ của Thiên Chúa đối với dân Người. Cũng tại nơi đây, được ơn linh ứng, ông già Simêon đã tiên báo về sự tham gia của Đức Maria trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sau này.
Nhìn vào xã hội ngày nay, nhiều nền tảng gia đình lung lay, rối loạn và khủng hoảng. Đây chính là lúc mỗi người tín hữu Kitô phải nhìn lại mình trong ơn gọi gia đình qua gương mẫu của gia đình Thánh Gia Thất mà củng cố gia đình trong đức tin và cuộc sống. Một trong những điều căn bản nơi hạnh phúc gia đình mà nhiều khi người ta quên lãng, tức mỗi thành viên gia đình biết trao tặng tình yêu thương và thời giờ cho nhau. Chúng ta thường mong đợi người khác quan tâm đến những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, nhưng chính chúng ta lại ít khi nhớ tới hoặc để ý tới nhu cầu của những người thân yêu của mình. Bởi vì tình yêu thương không phải là cho đi cái gì, mà chính là cho đi bản thân mình. Nhưng không thể nói được là chúng ta đã cho đi chính mình hay tận hiến nếu chúng ta còn là nô lệ "cái tôi" ích kỷ nơi chính bản thân mình. Bao lâu chúng ta biết biến đổi bản thân mình để chấp nhận một cuộc sống yêu thương nơi tương quan vợ chồng, cha mẹ với con cái, chúng ta sẽ thể hiện một sự tận hiến của tình yêu thương.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hằng nhắc nhở chúng ta về sự thánh thiêng của gia đình khi ngài gọi gia đình là: "Nền tảng của Giáo Hội". Còn Đức Phaolô VI gọi gia đình là: "Cung Thánh của Giáo Hội", là "trường học đầu tiên của con cái, mà cha mẹ là thầy dạy". Thật vậy, gia đình là Giáo Hội đầu tiên, nơi tình yêu chung thủy của hai vợ chồng thể hiện như dấu chỉ tình yêu chung thủy giữa Chúa Kitô và Giáo Hội: gia đình nơi trẻ em được Rửa tội qua đức tin của cha mẹ, ông bà. Gia đình còn là trường học đầu tiên, nơi bàn ăn gia đình, các em được học hiểu ý nghĩa của Tiệc Thánh Thể trước khi các em được Rước lễ lần đầu; cũng nơi đó mỗi thành viên gia đình tha thứ cho nhau những lầm lỗi, để cho con cái học hiểu hiệu quả nơi nhiệm tích Hòa giải. Gia đình còn là nơi đặc biệt sống lời Chúa Giêsu đã phán: "Đâu có hai ba người hợp nhau cầu nguyện nhân danh Thầy, Thầy ở giữa họ" (Mt 18,20)
Như vậy, trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, khi mỗi người chúng ta biết thành tâm tìm kiếm Chúa và phụng sự Ngài, chắc chắn mỗi gia đình sẽ thể hiện được ơn gọi sống Thánh giữa đời của mình, tìm được bình an hạnh phúc cho nhau ở trần gian và đạt được hạnh phúc vĩnh cửu quê trời. Vì Thiên Chúa luôn là chìa khóa của hạnh phúc nơi cuộc sống gia đình.
Ước mong mỗi bậc cha mẹ luôn là tấm gương của tình yêu chân thành, tình yêu vô vị lợi, của hy sinh, chấp nhận, tha thứ và quảng đại trong cuộc sống hôn nhân. Vì con cái chỉ có thể lớn lên, khôn ngoan, có ơn nghĩa cùng Thiên Chúa nếu như chúng cảm nhận một bầu khí thánh thiện đạo đức nơi cha mẹ, như gương lành của Đức Maria và Thánh Giuse khi xưa.
Ước mong con cái ngày nay biết nhìn gương Chúa Giêsu đã vâng lời khiêm hạ với Đức Mẹ và Thánh Giuse suốt 30 năm trường dưới mái nhà Nazareth để trở nên một tấm gương hiếu thảo cho mọi người con biết thực thi lệnh truyền của Thiên Chúa: Vâng lời và yêu mến cha mẹ. Vì niềm vui và hạnh phúc của cha mẹ cũng là nơi con cái mình.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhóm lên trong mỗi phần tử trong gia đình ngọn lửa tình yêu Chúa để mỗi người biết sống trọn vẹn ơn gọi của mình, để gia đình chúng ta có hạnh phúc thật như gia đình Nazareth xưa. Amen
35.Gia Đình vui sống theo Luật Chúa--Lm. Nhất Tiến
Trong Phụng vụ Lời Chúa lễ kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta được nghe lại đoạn Tin mừng (Lc 2:22-40) kể lại việc Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse dâng Chúa Giêsu Hài Nhi vào Đền Thờ Giêrusalem. Đặc biệt, ngay từ câu đầu tiên (22), trình thuật đã cho chúng ta thấy cả ba thành viên của Gia Đình Thánh lần đầu tiên cùng đi lên Giêrusalem với mục đích rõ ràng là để “chu toàn lề luật”.
Trước hết, chúng ta thấy chỉ trong một câu chuyện, từ ngữ theo “luật - law - loi” đã được Thánh ký Luca nhắc đến 5 lần (22,23,24,27,39). Như vậy, Thánh Gia lên Thành Thánh Giêrusalem là để tỏ lòng trung tín với Luật Môse; nói cho đúng hơn, để thi hành Luật Chúa (24) qua Môse truyền cho dân Israel, bao gồm quy định người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con và người con trai đầu lòng thì phải được sớm hiến thánh cho Thiên Chúa (cf. Lev.12:8; Nkm.10:36-37). Thế là, bởi hành vi theo Lề Luật, Chúa Giêsu đã được cha mẹ dâng hiến và chuộc lại bằng lễ vật hạng nhà nghèo, để nên đồng hoá với anh em nhân loại của mình mọi đàng - ngoại trừ tội lỗi (Dt.4:15). Nhưng cũng là để qua hành vi khiêm tốn vâng phục Lề Luật này, Chúa Giêsu vừa trình diện trước Thánh Nhan Chúa Cha như một người Con Rất Yêu Dấu, lại vừa công khai xuất hiện trước Cộng Đoàn Do Thái đại diện cho cả nhân loại, trong thân phận giới hạn của một Hài Nhi yếu đuối, sinh ra và sống dưới chế độ lề luật (cf. Gal 4:4). Nói cách khác, Đức Kitô, Con Thiên Chúa đến để bày tỏ Mạc Khải Cứu Độ cao vời của Thiên Chúa ngay trong phạm vi không gian và thời gian, trong sự lệ thuộc vào những quy định dành cho con người.
Như thế, Thánh Gia, từ ban đầu và trong tất cả, đã thực sự tự tình sống trong sự vâng phục Lề luật, như một bảo đảm cho cả gia đình được sống trong Ánh nhìn quan phòng yêu thương của Chúa Cha nhân từ. Con Thiên Chúa đến cứu độ nhân loại đã thật sự hoà nhịp vào cuộc sống thực tại nhân sinh; với hoàn cảnh, môi trường, giới hạn, quy định, luật lệ… cho trọn nghĩa kiếp phận con người. Nói khác đi, cả nhà gồm cha - mẹ - con đã vui lòng sống trong tinh thần lụy phục và phó dâng, trong thái độ nghiêm cẩn và khiêm hạ, trong trạng thái đón đợi Thánh Ý Thiên Chúa và chấp nhận cảnh vực trần gian với những quy luật cần thiết và chính đáng. Cũng vậy, tâm tình ngoan thảo và thái độ vâng phục của chúng ta đối với Thiên Chúa giữa thực tại gia đình, trong cộng đoàn và ngoài xã hội không phải chỉ là để tuân thủ luật pháp ràng buộc con người cho được sống bình an, hạnh phúc mà thôi; nhưng còn là để không ngừng được thăng hoa và vui tươi hơn nữa trong vị thế tự do của con cái Thiên Chúa.
Thứ đến, như trên đã nói, không những ông bố Giuse và bà mẹ Maria ẵm con trẻ Giêsu lên Đền Thờ Giêrusalem để thánh hiến cho Đức Chúa, mà còn để công khai giới thiệu Đấng Cứu Thế với cộng đoàn nhân loại. Cụ Simêon, mặc dầu không phải là tư tế, nhưng với tư cách là một tiên tri cao niên và nhờ Thánh Thần thúc đẩy, đã vui mừng và công khai xác nhận Ánh Sáng Thiên Tính của Đấng Cứu Độ muôn dân giữa trung tâm Đền Thờ tôn nghiêm, bằng bài ca “Nunc dimit is” (29-32) bất hủ của cụ. Và rồi, cùng với bà Anna, cụ Simêon đã chúc phúc cho hai ông bà và tuyên xưng Vinh Quang Thiên Chúa đã đến giữa nhân trần.
Như vậy, một khi ý thức cùng đưa nhau đến với Chúa qua Giáo Hội và sống chan hoà với mọi người chung quanh, các gia đình Kitô hữu sẽ tìm ra nhiều cơ hội thích hợp và điều kiện thuận lợi để cùng nhau ca tụng, ngợi khen Chúa vì cuộc sống chung tươi đẹp Chúa thương ban trong bậc sống gia đình, đồng thời hy vọng được nhận lãnh muôn phúc lành từ Thiên Chúa, nơi cộng đoàn Giáo Hội và qua các thánh nhân, người lành khi ở giữa khung cảnh thánh thiện của những nơi dành riêng cho việc thờ phượng Người. Ở bất cứ nơi đâu và trong hoàn cảnh nào, các gia đình thân yêu của chúng ta cũng có thể cùng nhau đồng hành trọn vẹn trong đời sống thiêng liêng và đạo đức. Hơn bao giờ hết, trong thời đại ngày nay, việc cầu nguyện cho nhau trong tình thân, quan tâm đến nhau trong cuộc sống chung, nhất là cùng thúc đẩy nhau sống Lời Chúa ngay trong môi trường gia đình, cộng đoàn và xứ đạo là tuyệt đối cần thiết! Cách riêng, gia đình vẫn là môi trường giáo dục tuyệt hảo đầu tiên, trong đó ông bà, cha mẹ, anh chị có cơ hội tốt để làm gương và dậy dỗ con cái, cháu em của mình sống trong sự hiện diện thật sự của Chúa và cảm nhận sự đồng hành sống động của Người giữa cuộc sống chung gia đình và trong cuộc đời cá nhân mỗi người; từ đó đưa dẫn những người thân yêu của mình đến lãnh nhận phúc lộc an vui từ nơi Thiên Chúa ăm ắp tình thương.
Tôi chợt nhớ đến một hình ảnh đẹp: Trên một chuyến tàu điện metro ở thủ đô Manila - Philippines, tôi ngồi đối diện với một bà mẹ trẻ đẹp, quần áo hợp thời, đang ôm chặt đứa con trai nhỏ xinh xắn trong lòng. Tay phải của chị không ngừng mân mê tràng chuỗi Mân Côi đơn sơ. Đặc biệt, mỗi khi tàu điện chạy ngang qua một nhà nguyện hay nhà thờ, chị đều nhắc con trai nhỏ của mình hướng ánh nhìn về những nơi đó và cúi đầu chào Chúa. Một lúc sau, tôi thấy chị không cần phải nhắc nữa, nhưng đứa bé cứ nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ và tự động cúi đầu xuống mỗi khi thấy một ngôi nhà thờ, nhà nguyện hay đơn giản chỉ là một cây thánh giá trên nóc một toà nhà. Một hình ảnh đẹp khác, như một bài học sống đạo đơn sơ mà sâu sắc từ một bà mẹ dáng nhỏ nhắn ở một giáo xứ vùng quê Cái Sắn, miền tây Việt Nam mà tôi đã từng đến giúp mục vụ ít tuần. Sau mỗi thánh lễ chiều, bà mẹ nhà quê ấy bồng đứa con trai nhỏ trên tay, nhanh chân đi về phía đài Đức Mẹ, theo sau bà là đứa con gái khoảng 3 tuổi bám chặt lấy tà áo bà ba giản dị của mẹ. Đến trước đài Đức Mẹ, bà cầu nguyện một chút, rồi cả ba mẹ con cúi mình chào kính Đức Mẹ thật sâu rồi mới ra về. Đôi khi, bà phải lấy một tay nhấn đầu đứa con trai bé bỏng mà bà đang bế, để nó cúi hẳn đầu xuống mà cùng bà chào kính Đức Mẹ.
Thật là hai hình ảnh tuyệt đẹp của cùng một cung cách bày tỏ Niềm Tin truyền thống và bình dân giữa cuộc sống đời thường. Trong khuôn viên nhà thờ miền quê hay trên hành trình xe điện thành phố, cả hai bà mẹ đều thực hành việc Giáo Dục Đức Tin cho con cái mình thật đơn thành nhưng đầy hiệu quả. Giáo Dục Đức Tin ngay từ trong gia đình là rất cần thiết, đặc biệt trong thời đại hôm nay không ít người còn rất trẻ nhưng đã sớm thất vọng não nề sau những cơn mê đắm khoái lạc giả tạo và thần tượng vô bổ chóng qua. Thực vậy, đối với các gia đình Kitô hữu, vắng bóng Thiên Chúa đồng nghĩa với bề tắc cuộc đời. Cầu mong các bậc phụ huynh của các gia đình Kitô Giáo thực sự nhận thức trách nhiệm đối với các con em mình, biết can đảm nêu gương sáng đạo đức và tích cực giáo dục người trẻ ân cần “giữ đạo” cách xác tín và “sống đạo” cách trưởng thành; bằng cách không ngừng thúc đẩy và dẫn đưa chúng tìm đến Thiên Chúa là Cội nguồn Tình yêu và Ân sủng, Bình an và Hạnh phúc đích thực trường cửu.
“Lạy Thánh Gia Nazareth, xin làm cho các gia đình chúng con trở nên Nơi hiệp thông và Nhà tạm của cầu nguyện, trở thành Trường học đích thực của Phúc Âm và Giáo Hội bé nhỏ tại gia…” (trích Lời kinh Đức thánh cha Phanxicô soạn trong dịp chuẩn bị Thượng hội đồng Giám mục về Gia đình, 10.2014).
36.Gia đình cầu nguyện--Lm Mark Link, SJ
Cách đây ít lâu, tạp chí Reader’s Digest có đăng một bài báo tựa đề “thăm dò gia đình”. Bài này gồm 12 câu hỏi dành cho các bậc cha mẹ. Một trong những câu hỏi đó như sau: “Hôm lễ Giáng Sinh, trong bữa ăn tối có mời khách, bạn có cảm thấy thoải mái, dễ dàng khi bạn yêu cầu bất cứ một đứa con nào của bạn đọc kinh không?”. Câu hỏi này khiến ta phải lưu ý tới một trong những vấn đề chính yếu phải quan tâm của mọi gia đình đó là đời sống cầu nguyện trong gia đình.
Đời sống cầu nguyện trong gia đình phải được thực hiện dưới ba hình thức khác nhau:
Trước hết là hình thức cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người trong gia đình cầu nguyện riêng với Thiên Chúa. Chẳng hạn người cha cầu nguyện trên đường đi tới sở làm việc. Người mẹ cầu nguyện khi chăm sóc đứa con sơ sinh bị đau. Các con trong nhà cầu nguyện trước khi đi ngủ. Có nhiều cách cầu nguyện riêng một mình.Có thể cầu nguyện bằng cách đọc kinh đã làm sẵn, chẳng hạn như kinh Lạy Cha, vừa đọc vừa suy gẫm những lời ta đọc. Cũng có thể cầu nguyện bằng Thánh Kinh bằng cách đọc một đoạn ngắn rồi suy gẫm những tư tưởng trong đó. Chúng ta cũng có thể cầu nguyện bằng chính những lời lẽ của mình, tự do nói với Thiên Chúa những tâm tình từ trái tim mình.
Chúa Giêsu thường cầu nguyện một mình. Chẳng hạn Ngài cầu nguyện khi để Gioan tẩy Gỉa rửa tội cho mình tại dòng sông Giođan. Ngài cầu nguyện khi thi hành tác vụ rao giảng Tin Mừng của Ngài. Ngài hay cầu nguyện ở trong các khu vườn.
Một trong những món qùa qúi báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích và thường thức những giây phút cầu nguyện một mình. Không có cách nào thực hiện điều đó tốt hơn là dùng chính những gương sáng của mình.
Dorothy Day là một phụ nữ được báo New York Times gọi là “người có nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử công giáo Hoa kỳ”, bà nói rằng một trong những hấp lực đầu tiên lôi kéo bà đến với đạo công giáo là khi còn nhỏ bà được nhìn thấy một người công giáo đứng tuổi đang cầu nguyện. Bà viết: “hôm đó vào khoảng 10 giờ sáng, tôi đến nhà Kathryn để thăm và để rủ cô ấy đi chơi. Lúc đó không có ai ngoài hành lang hay trong nhà bếp cả…Tôi bước đại vào nhà thì thấy bà Barrett đang qùi đọc kinh ở phòng ngoài. Bà quay lại bảo tôi rằng Kathryn và bọn trẻ đã đi ra cửa hàng mua đồ, rồi bà lại tiếp tục cầu nguyện. Thế là tôi cảm thấy có một niềm yêu thương ấm áp nẩy sinh trong tâm hồn tôi đối với bà Barrett”. Đó là một cảnh tượng thật đẹp, và tôi chắc chắn rằng nhiều người trong chúng ta cũng có thể kể những thí dụ tương tự về những người công giáo đã lớn tuổi đang cầu nguyện như thế.
Hình thức thứ hai của việc cầu nguyện trong gia đình là cầu nguyện chung: mọi người trong gia đình cầu nguyện chung với nhau. Chẳng hạn cầu nguyện lúc mọi người tề tựu chung quanh bàn ăn để dùng bữa hay lúc chuẩn bị đi ngủ, hay vào những lúc thuận tiện khác. Đức Giêsu thường cầu nguyện chung với gia đình Ngài. Người Do Thái đặt rất nặng việc cầu nguyện chung trong gia đình, đặc biệt vào các bữa cơm gia đình. Người Do Thái có một câu tục ngữ cổ nói rằng ai ăn mà không tạ ơn Thiên Chúa thì đó là người ăn cắp của Thiên Chúa. Đức Giêsu thường cầu nguyện trong các bữa ăn. Chẳng hạn Người cầu nguyện khi cho đám dân chúng đang đói được ăn no trên sườn đồi (Lc.9,16). Ngài cầu nguyện trong bữa tiệc ly (Lc.22, 19). Ngài cầu nguyện khi ăn chung với hai môn đệ làng Emmau (Lc 24,30).
Một lần nữa, ta có thể nói rằng một trong những món qùa qúi báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích và thưởng thức việc cầu nguyện chung cho gia đình. Trong tiểu sử của tướng Douglas Mac Arthur, Couttney Whitney có trưng dẫn một câu nói của ông: “Tôi là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh diện hơn rất nhiều vì được làm một người cha…và niềm hy vọng của tôi là: Khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi vẫn nhớ đến tôi không phải với những hình ảnh ở trận chiến mà là những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó bài kinh thường đọc hàng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”
Cuối cùng là hình thức cầu nguyện với cộng đoàn, trong đó gia đình cầu nguyện với những gia đình khác, vào các ngày Chúa nhật. Dĩ nhiên không phải lúc nào cũng tổ chức được những buổi cầu nguyện chung cho nhiều gia đình như thế. Nhưng nếu các gia đình đều cố gắng thực hiện những điều đó, thì vẫn có thể tổ chức được dưới hình thức này hay hình thức khác. Chẳng hạn các gia đình công giáo ở gần nhau, trong cùng một khu vực, một xóm hay một làng, có thể cùng tụ họp ở một gia đình nào đó, luân phiên nhau nay nhà này mai nhà khác, để cùng cầu nguyện chung với nhau hằng ngày hay hằng tuần. Nhờ vậy các gia đình trở nên gần gũi nhau hơn, sự gắn bó và đoàn kết các gia đình trở nên chặt chẽ hơn. Thông thường hơn cả là các gia đình tụ họp chung tại nhà thờ họ đạo vào những giờ giấc nhất định trong ngày, chẳng hạn như vào các buổi tối, như một sinh hoạt bình thường của họ đạo.
Đức Giêsu thường cầu nguyện theo kiểu này. Ngài cùng cầu nguyện chung với các gia đình khác. Thánh Luca có viết trong Tin Mừng của ngài: “Đức Giêsu trở về Nazaret nơi Ngài sinh trưởng, hôm đó là ngày Sabat, Ngài đến hội đường (để đọc Kinh Thánh và cầu nguyện ) như thường lệ (Lc. 4.16)
Lễ Thánh Gia hôm nay là một dịp để chúng ta tự vấn về chất lượng cầu nguyện trong gia đình của mình. Nói cụ thể hơn là chúng ta – cha mẹ, con trai, con gái- đã góp phần vào đời sống cầu nguyện trong gia đình như thế nào. Chúng ta hãy nhớ lại cách mà bài “thăm dò về gia đình” đặt vấn đề đối với các bậc cha mẹ: “hôm lễ Giáng Sinh, trong bữa ăn tối có mời khách, bạn có cảm thấy thoải mái, dễ dàng, khi bạn yêu cầu bất kỳ đứa con nào của bạn đọc kinh không?” Nếu chúng ta trả lời không (nghĩa là không thoải mái dễ dàng), thì những bài đọc Thánh Kinh hôm nay là một sứ điệp quan trọng đối với chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện bằng một bài kinh. Tướng Douglas Mac Arthur viết bài kinh này khi ở Philippines trong những ngày mở đầu cuộc chiến tranh tại Thái Bình Dương. Mặc dù đó là bài kinh ông cầu nguyện cho các con trai ông, nhưng nó cũng thích hợp cho các thiếu nữ. Xin mọi người hãy im lặng và cùng cầu nguyện với tôi:
“Lạy Chúa, xin hãy ban cho đứa con trai của con được đủ sức mạnh để biết được lúc nào nó yếu đuối, đủ dũng cảm để đối diện với chính mình khi nó cảm thấy sợ hãi…Xin đừng để cho đứa con trai của con chỉ biết ước muốn mà không dám hành động…Xin Chúa đừng để nó đi vào con đường thích dễ dãi tiện nghi, nhưng hãy hướng dẫn nó đi vào con đường bắt buộc nó phải cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách.
“Xin hãy tập cho nó đứng vững trong bão tố, nhưng lại biết thông cảm với những ai gục ngã.
“Xin hãy ban cho đứa con trai của con có một trái tim trong sạch, có một mục đích cao cả, biết tự chủ lấy mình trước khi muốn làm chủ người khác, biết lo lắng cho tương lai mà không bao giờ quên qúa khứ.
“Và khi Chúa đã ban cho nó tất cả những điều ấy, xin Chúa hãy ban cho nó có đủ tính khôi hài để nó có thể luôn luôn nghiêm nghị nhưng không bao giờ nghiêm nghị một cách qúa đáng.
“Như vậy, là cha nó, con dám tự nhủ rằng con đã không sống một cách vô ích”.
37.Thánh Gia Thất--Lm. Munachi Ezeogu
Một cậu bé đón cha mình đi làm về và hỏi: “Bố ơi! bố đi làm được bao nhiêu tiền một giờ?”. Ông bố rất ngạc nhiên và bảo: “Này con, ngay cả mẹ của con cũng chẳng biết, đừng quấy rầy bố vì bố đang mệt.” Cậu bé lại hỏi: “Bố cứ cho con biết, lương của bố mỗi giờ được bao nhiêu tiền?” Cuối cùng thì ông bố bảo rằng: “Mỗi giờ bố được hai mươi đồng”. Cậu bé liền hỏi: “Vậy bố cho con mượn mười đồng”. Ông bố tỏ vẻ giận và mắng con: “Thì ra đấy là lý do con muốn biết tiền lương của bố? Bây giờ đi ngủ đi và đừng quấy rầy bố nữa”.
Đêm hôm ấy, ông bố nghĩ lại những điều đã nói với con mình và cảm thấy hối hận. Ông cho rằng có thể con mình đang cần tiền để mua món gì mà nó đang cần. Ông sang phòng của con mình và hỏi: “Con đã ngủ chưa?” Con ông đáp: “Con chưa ngủ”. Ông bố đưa tiền và bảo: “Đây là tiền con hỏi xin lúc nãy” Nó vui vẻ cám ơn bố, rồi lấy thêm tiền trong gối ra và nói: “ Con đã có đủ rồi! hai mươi đồng. Bây giờ bố bán cho con một giờ của bố.”
Bài phúc âm hôm nay nhắn nhủ ông bố kể trên và tất cả chúng ta là hãy dành cho gia đình mình nhiều thì giờ hơn nữa.
Thánh Luca đã cho chúng ta thấy Đức Giêsu ở tuổi mười hai, lứa tuổi được xem là trưởng thành và mọi thiếu niên Do Thái ở tuổi ấy phải tuân giữ luật Do Thái. Đây cũng là lúc thiếu niên Do Thái được chúc mừng để trở thành người lớn. Kể từ đấy, họ phải tuân giữ luật lệ và phải tham dự hành hương hằng năm tại đền thánh Giêrusalem. Thời ấy, có những thanh niên thì đánh dấu ngày này bằng cách đi chơi hoặc làm những điều không đúng với điều mà luật Do Thái đòi hỏi. Chúng ta thường cảm thấy con của mình đã lớn, khi chúng đi chơi với bạn bè mà không xin phép. Như chúng ta đã biết, Đức Giêsu cũng vậy. Để đánh dấu ngày đến tuổi trưởng thành theo luật Do Thái, Ngài đã tham dự lớp học kinh thánh tại đền thờ mà không báo cho cha mẹ mình biết. Khi cha mẹ tìm được Người sau hai ngày tìm kiếm khắp nơi, Người chỉ trả lời rằng “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Luca 2:49). Ngay cả thánh gia đôi khi cũng có những lúc căng thẳng và những hiểu lầm.
Điều làm cho chúng ta thắc mắc là trong đoạn cuối cuả phúc âm hôm nay “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazaret và hằng vâng phục các ngài.” (Luca 2:51). Thiếu niên Giêsu mười hai tuổi, đã biết rằng sứ mạng của mình là ở trong nhà của Cha mình và thực thi những sứ mạng ấy. Trong thời gian ngắn ngủi tại Giêrusalem, Người đã chứng tỏ khả năng và sự hiểu biết của Người, vì “Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu” (Luca 2:47). 1 Điều làm cho chúng ta phải suy nghĩ là: Nếu Đức Giêsu đã được mười hai tuổi, đã sẵn sàng và bằng chứng là có khả năng để bắt đầu sứ vụ giảng dạy công khai. Vậy tại sao Người lại đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazaret và sống ẩn dật mười tám năm trong căn nhà nghèo nàn của người thợ mộc, và chỉ bắt đầu sứ vụ giảng dạy công khai ở tuổi ba mươi? Vậy mười tám năm ấy là vô vị và không có ích lợi gì chăng? Chắc chắn làcó lợi ích! Điều chúng ta nên tìm hiểu là cuộc sống ẩn dật cuả Đức Giêsu tại Nazaret là một phần trong sứ vụ của cuộc sống công khai của Người. Phúc âm nhắc chúng ta rằng: “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Luca 2:52). Khi chúng ta suy niệm về điểm này, thì cứ một năm Người giảng đạo thì mười năm Người ở với gia đình. Từ đấy chúng ta sẽ hiểu tầm quan trọng và sự ưu tiên Người đã dành cho đời sống gia đình như thế nào.
Đời sống của chúng ta được chia thành hai phần: gia đình và công việc. Hai phần này thông thường thì phải hài hòa nhưng đôi khi lại đối chọi nhau và gây ra căng thẳng. Đức Giêsu đã hóa giải sự căng thẳng ấy bằng cách dành sự ưu tiên cho đời sống gia đình. Còn chúng ta thì thường hay cố gắng giải quyết mối căng thẳng ấy bằng cách dành sự ưu tiên cho công việc của mình, và để cho đời sống gia đình chịu tổn thương. Bà Rose Sands viết về người đàn ông bất hạnh, người mà chỉ nghĩ rằng mình có thể chứng minh tình thương của mình đối gia đình là phải làm việc hết sức mình “Để chứng tỏ tình yêu đối với vợ mình, ông ta bơi qua khúc sông sâu nhất, vượt vùng sa-mạc rộng nhất và leo ngọn núi cao nhất. Vợ của ông đã lìa bỏ ông, vì ông ta chẳng bao giờ có mặt ở nhà”.
Hôm nay, nhân dịp chúng ta mừng kính lễ Thánh Gia của thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu, chúng ta hãy ôn lại và nhắc nhở chính chúng ta rằng: hãy đặt giá trị của đời sống gia đình lên trên công việc của mình, kể cả những việc quan trọng như việc bảo tồn thế giới này.
38.Mái ấm gia đình--Lm Vũ Đình Tường
Mái ấm gia đình là ngôi trường đầu tiên và là ngôi trường quan trọng nhất trong đời. Gia đình không những đã nuôi dưỡng ta mà còn cho ta vào đời. Qua mái trường gia đình ta được nuôi dưỡng bằng tình thương, nghe giọng nói ngọt ngào và thưởng thức những ca khúc êm dịu ru con mắt lim dim. Phong tục tập quán, truyền thống văn hoá, chuyện cổ tích dân tộc đều được mái ấm gia đình truyền thụ. Cha mẹ chúng ta học những phong tục đó từ cha ông và truyền lại cho chúng ta và rồi chúng ta lại truyền đạt cái hay đó cho thế hệ kế tiếp. Mái trường gia đình là nơi đào tạo ta trở thành con người xã hội tương lai. Mái trường gia đình cách nào đó gieo vào lòng ta mầm mống của ước mơ và hy vọng tương lai. Nếu gieo những hạt giống tốt ta sẽ trở thành người tốt, người hữu dụng. Nếu gieo cỏ dại ta sẽ sống với cỏ dại, dần dần kéo bè, kết phái và sẽ xa dần những tấm lòng chân tình. Quanh ta toàn nịnh bợ hay lời nói ngon ngọt đầu môi.
Những gì ta học ở gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến con người tương lai và niềm tin gia đình gieo vào lòng ta lúc ấu thơ sẽ ảnh hưởng đến cách xử thế sau này. Nếu gia đình tạo cho ta một nền tảng đức tin vững chắc ta sẽ trở thành chứng nhân Kitô tốt lành. Không những ta có một đời sống tốt lành mà còn hiểu rõ í nghĩa và cùng đích cuộc đời. Cùng đích của niềm tin Kitô là giúp chúng ta sống tốt lành trong xã hội trước khi bước vào cuộc sống vĩnh cửu trên quê trời vì thế mái ấm gia đình cách nào đó vạch cho ta một con đường tiến về quê hương vĩnh cửu. Con đường đó được chỉ đạo bằng Lời Hằng Sống đó là Lời Chúa và giáo huấn của Ngài. Ngoài Lời Chúa và giáo huấn của Ngài ra thế giới này không thể bảo đảm cho hạnh phúc thật. Thế giới chỉ có thể cho hạnh phúc nhất thời bởi chính sự vật của thế giới cũng chỉ là nhất thời nên chúng chỉ có khả năng làm điều đó.
Để giáo huấn của Đức Kitô hướng dẫn cuộc đời chúng ta học biết đón nhận tình yêu Chúa ban, đồng thời học chia sẻ tình yêu đó cho tha nhân. Chính việc đón nhận và chia sẻ tình yêu giúp ta tiến trên con đường lành thánh. Mừng kính lễ Thánh Gia Thất chúng ta mong học được các nhân đức từ gia đình Thánh Gia. Một gia đình sống trong tình yêu Chúa và chia sẻ tình yêu đó là bằng chứng cho thấy điều Chúa muốn ta thực hiện thuộc khả năng của mọi người. Gia đình thánh là gia đình sống không cho chính mình nhưng chung sống với tha nhân và trên hết mọi sự sống cho Thiên Chúa và thực hiện í Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Bà Maria từ bỏ í riêng sống độc thân để trở thành Mẹ Thiên Chúa. Ông Giuse định từ bỏ mà Maria cách kín đáo và rồi từ bỏ í riêng đón nhận í Chúa làm cha nuôi Đấng Cứu Thế. Đức Kitô trong cuộc đời rao giảng công khai tuyên bố:
Ta không đến để làm theo í Ta nhưng theo í của Cha Ta Gn 6,38.
Một nhân đức rất quan trọng khác đó là khiêm nhường mà chúng ta cần học theo, bắt chước. Gia đình Thánh Gia nhận biết tất cả những gì chúng ta có trong tay đều không phải của riêng ta mà là của Chúa ban cho, kể cả sức khoẻ và sự sống đang có trong tay cũng đều do Chúa ban vì thế Chúa có toàn quyền xử dụng những gì thuộc về Chúa, hành xử theo í Chúa mà í Chúa chính là mang tình yêu của Ngài đến cho mọi người. Xem thế việc thực thi í Chúa không gì khác hơn là đối xử bình đẳng và yêu thương mọi người. Gia đình Thánh Gia thể hiện điều này qua việc Đức Trinh Nữ xin vâng, thánh Giuse vâng phục hướng dẫn của Thánh Thần và Đức Kitô nghiêng vai vác thập giá trên đường lên núi thánh.
Lễ Thánh Gia chúng ta cảm tạ Chúa cho cha mẹ chúng ta đã hy sinh cuộc sống riêng mình đồng thời rèn luyện đức tin của ta trong tình yêu Chúa.
Chúc Mừng Giáng Sinh an bình và Năm Mới phúc lộc đến quí vị.
39.Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh--Lm. FX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Chương 1–2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đanien 9–10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca “Chúc tụng” (Benedictus) và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm “sự hoàn tất các ngày” (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày.
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Israel”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml (3,1).
2.- Bố cục
Nên đọc bản văn này từ câu 21, để duy trì được sự song đối giữa Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24):
- cắt bì và đặt tên (c. 21),
- thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24).
2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38):
- tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35),
- tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (2,39-40).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22): “Các ngài” là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật không buộc thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy, “các ngài” phải được hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài là chủ từ của động từ “đem [con] lên”. Các nhà chú giải nhìn nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina, nên đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ sau khi sinh con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có được không phát xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
- theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi 12,2-8, một phụ nữ sinh một con trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì (vào ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, “cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của bà” (Lv 12,4), trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu non.
- để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc nối kết việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu được gọi là “con trai đầu lòng” ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm vụ của cha mẹ Người. Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: “Đức Chúa phán với ông Môsê: ‘Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”. Sự thánh hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con đầu lòng được chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc), tính theo đơn vị đo lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc không nhắc gì đến việc trả số bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như là việc dâng con vào Đền Thờ Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah nói cả.
- để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.
- công chính và sùng đạo (25): Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những đại diện của những người Do Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.
- niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại Israel (x. Is 40,1; 61,2).
- ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
- một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (35): Có những tác giả cho rằng “thanh gươm” đây là nỗi ngờ vực về chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek…). Cách giải thích này không tương ứng với TM Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách giải thích truyền thống (kể từ Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi “thanh gươm” này là nỗi đau đớn đồng cảm Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân thập giá trong TM Ga mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55; 24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như trái với cái nhìn của tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác giả Tân Ước, tâm lý của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong Lịch sử cứu độ (ta thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria chỉ luôn đóng một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải thích này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh “thanh gươm” là biểu tượng của sự “chia rẽ” và “mâu thuẫn" (x. Ed 12; 14;...). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một “lưỡi gươm sắc bén”. Sách Khải huyền đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là “Lời của Thiên Chúa” và “từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén” (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung được gọi là “ánh sáng muôn dân”, tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện trong tâm trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh sáng của Xp 3,14-15 và Dcr 2,14). Theo hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng một kiểu nhân-cách-hóa tiên trưng để trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền Thờ, và như vậy, ngài đã đặt vào miệng ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi Mẹ, chính là Israel sẽ bị thanh gươm của Đức Chúa đâm thâu.
Cách giải thích này (được gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin, Boismard, Benoýt…) có điểm thuận lợi là làm cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này trở thành một mắt xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được nối tiếp và tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng hoảng gây ra nơi Israel bởi “dấu hiệu gây chống báng” được ngôn sứ Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c. 35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới chỗ thâm tâm của người ta phải lộ ra.
Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh họa cc. 30-32. Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức tranh bộ đôi: một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn dân được cứu độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng hoảng của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp ngã. Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông Simêôn trình bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong Tin Mừng cũng như trong Công vụ.
(2) Có một cách giải thích khác cũng có thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa khác của câu này, và như một cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết “thanh gươm” với “đâm thâu (= xuyên qua)”. Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người để bị tiêu diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc, hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức Maria, là thành viên của Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc, chính Đức Giêsu sẽ được mô tả như một người gây chia rẽ trong các gia đình (12,51-53). Như vậy, với hình ảnh thanh gươm đâm thâu Đức Maria, ông Simêôn gợi đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới học ra rằng việc vâng phục Lời Thiên Chúa phải vượt lên trên cả những dây liên hệ gia đình (x. 8,21; 11,27-28).
4.- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu (21-24)
Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ tỏ mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và đạt tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp nhập vào Israel (x. Gs 5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được chính Thiên Chúa ban cho. Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.
Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc. 22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc. 22b.23). Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm 1,22-24) mà tả cảnh này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và ông Giuse, như là những người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của Luật Môsê. Trong các câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện tỏ mình ra cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1 Sm 1–2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã tiên báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca “Chúc tụng”, nay sự cao cả của Đức Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế, đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc. 29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.
Tác giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một truyện về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của Đức Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào; vai trò của bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (39-40)
Hai câu kết làm vọng lại điệp khúc đã có trong bài tường thuật về Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80). Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm 2,21c.26.
+ Kết luận
Câu truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta thấy Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.
5.- Bài học
1. Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của Israel có thế nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời đã hứa. Vào dịp chúng ta chịu phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm con. Cho dù chúng ta có bất trung thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù các tội lỗi của chúng ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là trái tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải. Hãy mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón Đức Kitô.
2. Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc. Chúng ta cũng có thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong lòng. Khi đó, Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính xác hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời môn đệ của Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện cũng như sống nếp sống hằng ngày.
3. Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng ta về cách sống hy vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng. Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn bị với thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết ơn.
4. Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập trung vào Đức Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác. Nhưng “ơn nghĩa của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu” (c. 40) đã tạo nên trong gia đình này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức Giêsu. Đây là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô thật là trung tâm của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương người khác và được người khác yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
5. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của Người. “Đó mãi mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm …” sự thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết … Không thể khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ, loài người không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến cố lớn là những sự kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực tại theo một tầm nhìn hoàn toàn loài người… Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự thể hiện ngày qua ngày” (Hồng Y John Henry Newman, 1801-1890).
40.Chú giải của Noel Quesson
Khi đã đến ngày phải làm lễ tẩy uế theo luật Môsê... tiến dâng như Luật Chúa quy định... để chu toàn nghi thức theo Luật Chúa truyền...theo như những gì đã ghi trong luật... khi họ chu toàn nghi lễ, như thiên hạ thường làm theo luật.
Chắc chắn, đây không phải là ngẫu nhiên mà Luca nhấn mạnh tới 5 lần (các câu 22, 23, 24, 27, 39) về việc chu toàn lề luật. Dù là "Con Thiên Chúa" Đức Giêsu đã tuân theo lề luật của con người. Đó là nét thâm sâu và sự thật về mầu nhiệm nhập thể. Ngài không tự coi mình như “có đặc quyền". Người hành xử "như mọi người" không có gì phân biệt Người với kẻ khác. Tôi dùng thời giờ để suy niệm lâu hơn về sự khiêm hạ phi thường này, rnà Thánh Phaolô gọi là: một "cuộc làm cho mình hóa ra không", một “kénose" (Pl 2,7). Đừng tự đặt mình vào số ngoại lệ. Không nên đòi hỏi những đặc quyền. Nên thực tế chấp nhận những nghịch chướng thường có trong cuộc sống, những dịch vụ không vinh dự của thân phận chúng ta.
Cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Giêrusalem... vào Đền thờ.
Cuộc lên đường này mang đầy ý nghĩa. Đó là đỉnh cao của "hai chương" Luca dành cho tuổi thơ của Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu. Nhưng Luca hữu ý tạo cho bước đường của Đức Giêsu sự ngược với Gioan. Việc báo tin cho Dacaria diễn ra trong khung cảnh trang trọng và huyền diệu của buổi lễ tế tự nơi Đền Thánh (Lc 1,0) nhưng Gioan con trai của ông lại ẩn mình "trong hoang địa" (Lc l,80). Còn việc truyền tin cho Maria xảy ra tại làng Nagiarét nhỏ bé tầm thường (Ga l,46), nhưng Giêsu con trai của bà lại được nhận biết như Đấng "Mêsia" trong thành thánh Giêrusalem; tại Đền thờ, giữa trung tâm thành phố, nơi hiện diện kỳ diệu của Thiên Chúa (Lc 2,27; 2,37). Như thế là chúng ta dang dừng lại trước " trang cuối cùng"... kết thúc Cựu ước! Những người Do Thái, đôi vợ chồng trẻ, đang "chu toàn lề luật Môsê”. Một cách tượng trưng, lề luật được chấm dứt với cử chỉ này sẻ không cần tới Đền thờ nữa: người ta cũng sẽ phá hủy Đền. thờ, đó là "cuộc trở lại đầy Vinh quang của Thiên Chúa giữa Dân Người" như vị ngôn sứ loan báo (Ml 3, 1-4). Nhưng Thiên Chúa đến cách đột xuất, bất ngờ biết bao "! Không khi nào Người đến như người ta chờ đợi.
Có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo... Lại cũng có một bà ngôn sứ tên là Anna.. Bà ở góa, đến nay đã 84 tuổi, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa trong Đền thờ”.
Không phải ngẫu nhiên mà ta thích thú nhận ra rằng, theo Luca, không phải giới có thẩm quyền như các thầy tư tế các kinh sư nhận biết Đức Giêsu.. mà là những con người tầm xoàng, nhưng kẻ nghèo khó? Qua hai người tiêu biểu cho những kẻ "bé mọn" trên đây, thì toàn thể dân chúng thuộc "nhóm người nghèo Thiên Chúa yêu thương" đã đến gặp gỡ Đấng Cứu độ của họ. Đằng khác, điều đó cũng đã được các ngôn sứ loan báo: "Ta sẽ chừa lại giữa ngươi một dân khiêm nhu hèn mọn..: “ một số nhỏ "còn sót lại (Xp 3,12; Is 16.14 + 30, 17,37.4; Gr 6,9; Ge 3,5) Simêon và Anna tiêu biểu cho những người nghèo. Họ đều đã già cả; thuộc hạng người mà toàn thể xã hội muốn quên bỏ không mấy trân trọng "(Kn 3,13). Hơn nữa, Anna lại là cụ già "góa bụa", nghĩa là theo ngôn ngữ Kinh thánh, là cái nghèo hiện thân, vì cụ đã mất đi tất cả những gì đảm bảo cho mình chỗ đứng trong một xã hội mà chỉ người chồng mới có quyền pháp lý. Lạy Chúa, xin biến trái tim chúng con trở nên những tâm hồn của người nghèo, để chúng con biết nhận ra Chúa, trong những dạng bề ngoài khó nghèo mà Chúa thường ẩn dấu...
Simêon ẵm lấy hài nhi trên tay... Đấng Mêsia của Chúa... ơn cứu độ dành sẵn cho muôn dân... ánh sáng soi đường cho dân ngoại... vinh quang của Israel...
Thiên Chúa ưa đột xuất, dễ gây ngỡ ngàng! Người ta mong chờ "vinh quang", "quyền lực"! Thì Ngài lại xuất hiện trong thân phận một "trẻ nhỏ", một bé thơ thật sự khóc oe oe, chưa biết đứng thẳng, phải bồng ẵm trên tay! Chỉ có cụ già đó, tự để cho Đức tin và Thánh Thần mở mắt mình! Ba lần gọi tên trong bản văn, mới có thể nhận thấy được sự khám phá ra được điều đó, cần phải trở nên khó nghèo, Đức tin là một thứ nghèo khó: người ta nhìn mà không nhận biết (Ga 20,29). ấy thế mà dưới lớp vẻ bề ngoài nghịch thường bé bỏng của em nhỏ (ta nghĩ đến "hình dạng bề ngoài" của bánh mà ta lãnh nhận...), lại chính là lễ tấn phong cách công khai của Đức Giêsu "trong Đền thờ của Người": Những tước hiệu mà hai người nghèo khó trên đây tặng cho Người, thật là ngời sáng! Đức Giêsu – gói thịt đáng thương này (và Ngôi lời đã mặc xác phàm) lại chính là Đấng Mêsia của Thiên Chúa... "ơn cứu độ của muôn người "... "ánh sáng"... "Vinh quang"... "Sự giải thoát" Giêrusalem... Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đức tin.
Những lời ông Simêon nói về Hài nhi làm cho cha mẹ Người ngạc nhiêm bỡ ngỡ.
Như thế, đây cũng là lời xác nhận rằng, "đức tin của cha mẹ" cũng cần phải tiến triển! Không biết lòng tin của họ ra sao, nhưng Maria và Giuse đều rất đỗi ngạc nhiên và bỡ ngỡ trước những "tước hiệu” mà ngời ta gán cho con mình. Biến cố này gợi lên lòng tin của ông bà. Mười hai năm sau, tại Đền thờ này, ông bà cũng sẽ không hiểu gì (Lc 2,48-50) và vẫn còn ngạc nhiên. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa giúp chúng con luôn được ngạc nhiên bỡ ngỡ như thế.
Ông bà đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa... và dâng của lễ theo luật định.
Đó là hai kiểu nói Luca đã sử dụng để trình bày "nghi thức" mà đôi vợ chồng trẻ trên đây đã thi hành. Động từ Hy-lạp được dùng ở đây là (“parastènai": "dâng hiến"), cũng chính là từ mà Phaolô sẽ dùng để nói lên thái độ căn bản của Kitô hữu. Đừng quên rằng, Luca là thư ký của Phaolô, và các bức thư đều được viết trước các Tin Mừng. Thế nên, Luca đã chủ ý dùng một ít mang ý nghĩa. "Anh em đừng hiến thân xác anh em phục vụ tội lỗi nữa, nhưng anh em hãy hiến toàn thân để phục vụ Thiên Chúa" (Rm 6,13). "Anh em hãy hiến thi thể anh em để phục vụ sự công chính, để trở nên thánh thiện" (Rm 6,19). "Thưa anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thực xứng hợp để anh em thờ phượng Người" (Rm 12,1.).
Như vậy, Maria và Giuse đến thi hành trước, điều mà sau này chính Đức Giêsu sẽ thực hiện trong bữa tiệc ly và trên thập giá... và mọi Kitô hữu được mời gọi thể hiện trong mọi thánh lễ: hiến dâng mạng sống của mình! "Đây là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con". Lạy Chúa, khi thông hiệp với Chúa, chớ gì con biết hiến mạng sống mình vì yêu. Để làm nổi bật hai sự việc trên chỉ là một ("tiến dâng con" và "hiến dâng của lễ"), Luca trích dẫn hai đoạn văn Kinh Thánh, khi cần vẫn có thể tăng cường chiều kích "vượt qua" của trình thuật này: "Tất cả các con trai đầu lòng đều được thánh hiến dành cho Thiên Chúa" (Xh 13,2.12.15). Chúng ta hãy nhớ lại nguồn gốc của nghi thức này. Dân tộc Israel làm nô lệ bên Ai Cập. Để chấp nhận việc giải phóng vượt qua, vua Pharaô đã phải chứng kiến mọi con trai đầu lòng thuộc xứ sở mình đều chết hết. Một của lễ chiên vượt qua ghi dấu máu nơi cửa nhà Do Thái. Và để "ghi nhớ" ngày cứu độ giải phóng này, mọi con trai đầu lòng người Israel đều thuộc về Thiên Chúa! Muốn dẫn chúng trở lại gia đình, cần phải "chuộc lại". Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa? Muốn dân chúng trở lại gia đình, cần phải "chuộc lại". Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa: là một vật được hiến thánh!
Chính Đức Giêsu cũng được "hiến thánh" cách trọn vẹn! Và việc đó được diễn ra vào "ngày thứ bốn mươi", thời gian tròn đầy.. và sau này còn có một "ngày thứ bốn mươi" nữa, để kết thúc mùa phục sinh dẫn tới biến cố lên trời làm cho sự hiện diện hữu hình của Đấng phục sinh biến khỏi. Đúng vậy, toàn bộ Tin Mừng đang nằm ở trang này. Và một cảnh vượt qua khác cũng sẽ diễn ra "ở Giêrusalem" (Lc 24, 47-52).
Phép rửa đã thánh hiến tôi cho Chúa. Biến cố đó có ý nghĩa gì đối với tôi không?
Của lễ là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non…
Thật là cảm động, phải không? Nhưng coi chừng, ta có thể biến toàn thể trình thuật trên đây của Luca thành giai thoại mất thôi! Một lần nữa, ta cần ghi nhận rằng, Luca đã không thêm bớt gì. Rõ ràng ông chỉ dựa vào những thực hành tôn giáo Do Thái hiển nhiên. Nhưng ta cũng có thể nhìn ra, tại sao Đức Giêsu lại không được miễn chước khỏi việc tuân giữ những tập tục đó. Mà thôi, đối với Luca, điều quan trọng thực sự đó là "nội dung” thần học, là "ý nghĩa" thâm sâu của các sự kiện lịch sử. Vậy ta cứ chấp nhận quan điểm của người thuật chuyện. Nào ta sẽ đọc toàn bộ bản văn mà Luca đã trích dẫn một đoạn nơi sách Lêvi (12,8): "Nếu người mẹ không đủ khả năng kiếm đủ tiền mua con vật, thì có thể dùng đôi phim gáy hay một cặp bồ câu. Đó! đúng là lễ vật của người nghèo. Maria đã không thể làm gì hơn được. Bà không thể trả tiền cao hơn! Đó là điều mà Luca nhằm gợi lên cho ta, nếu ta biết đoán ra ý người viết, và ta biết rằng toàn bộ Tin Mừng của ông sẽ là "tin vui cho người nghèo (Lc 4,18). Phải, toàn bộ Tin Mừng đã nằm ở trang này, bề ngoài xem ra đầy hình ảnh dân gian. Phúc thay những người nghèo, vì nước trời là của họ.
Được “thánh hiến" cho Thiên Chúa... điều đó không đòi hỏi những dấu hiệu huy hoàng. Mọi người nghèo trên thế giới với áo quần rách rưới, lại "xứng đáng" với Thiên Chúa và được thánh hiến... Những người nghèo được "thánh hiến"! Tôi có kính trọng họ không?
Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải hư vong hay được ơn cứu độ, cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.
Đức Giêsu cũng là một "dấu hiệu”, một "dấu hiệu bị chống báng", một "dấu hiệu mà người ta có thể phủ nhận". Thiên Chúa không muốn áp đặt. Người đã trao ban tự do. Người chấp nhận " dấu chỉ tình yêu của Người có thể bị người đời chối bỏ! Péguy sẽ nói: "Những khúm núm lụy phục của kẻ nô lệ không nói lên cho Người điều gì cả". Như thế mỗi người phải tự quyết định trước trường hợp "Giêsu” Ta có thể từ chối Ngài, nghĩa là phải hy vọng, phải quỳ xuống... ta có thể đón nhận Người, nghĩa là được ơn cứu độ được nâng lên...
Ngay tại trang này, ta đã có Đấng "Thẩm phán vũ trụ”, Đấng phân chia loài người ra làm hai trong Ngày cánh chung (Mt 25-31). Lạy Chúa xin nâng con lên. Xin giúp con biết chọn Chúa.
Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê, còn hài nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh... tiến triển...
Cuộc hành trình lên thủ đô đã kết thúc. Đôi vợ chồng trẻ lại trở về miền quê tăm tối của mình. Nhưng giờ đây, chính Thiên Chúa luôn ở cùng. Người sắp sống tại xưởng thợ nơi gia đình. Dần dần, Người sẽ tập sống làm người. Người sẽ học đời, học đi (ban đầu có thể lao đao, rồi té xuống). Người sẽ học đọc tại trường, học nghề thợ mộc... ôi thôi! kéo cưa của cậu mới ‘tập sự’ chưa giúp được việc gì. Những, Người cứ tập tành... Người sẽ tiến bộ.
41.Lòng tin không đắm đo của Đức Maria và thánh Giuse--Fiches Dominicales
Trung thành với Luật Môsê, các ngài dâng hiến Hài Nhi cho Thiên Chúa và cùng Đức Giêsu dấn thân lên đường.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Chúa Giêsu tỏ mình ra trong đền thờ.
Đây là lần Chúa tỏ mình ra trong Đền thờ, trung tâm sinh hoạt tôn giáo của người Do Thái. Cũng trong tư cách là Đấng Cứu Thế, việc tỏ mình này có liên hệ chặt chẽ với việc tỏ mình ra cho các mục đồng vùng Bêlem.
Luca làm cho các độc giả của mình liên tưởng ngay đến "Luật Môsê" ấn định một thời hạn là bốn mươi ngày kể từ ngày sinh con cho đến khi làm lễ thanh tẩy cho người mẹ trẻ. H.Cousin nhận xét: Như vậy là "Bảy mươi tuần đã trôi qua kể từ ngày Thiên Thần Gabrien loan báo Gioan Tẩy Giả chào đời ": Công cuộc giả phóng Giêrusalem được loan báo trong Isaia (Is 40-55) nay trở thành hiện thực, như lời ông Simêon rồi đây sẽ hát lên ("L'evangile de lúc", Centurion, trang 42).
Việc xảy ra tại thành đô "Giêrusalem”, nơi khi lên mười hai tuổi Đức Giêsu sẽ đi hành hương lần thứ nhất (2,42); nơi sẽ diễn ra cuộc "xuất hành" của Người (khổ nạn, chết, sống lại, lên trời) vào những ngày chót của cuộc hành hương long trọng cuối đời. Đây là điểm quan trọng, vì đối với Luca, Giêrusalem sẽ là trung tâm của biến cố Phục sinh và khởi điểm của công cuộc truyền bá Kitô giáo.
- Bối cảnh của sự việc là "Đền thờ', nơi đây Luca đã khởi đầu Tin Mừng bằng việc truyền tin cho ông Dacaria (1,5,25); nơi đây Tin Mừng Luca sẽ kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu "Hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa" (24,25). ' '
"Cha mẹ Đức Giêsu" đem con lên Giêrusalem, "để tiến dâng cho Chúa”. Luca đặt vào đây hai nghi lễ riêng biệt:
+ Một đàng theo sách Lêvi 12,8, lễ "thanh tẩy" cho người mẹ
trẻ, 40 ngày sau khi sanh con, nếu là con trai, kèm theo của lễ là “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non" đối với gia đình nghèo.
+ Đàng khác, theo sách Xuất Hành 13,12 và để kỷ niệm ngày tổ phụ Abraham sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa người con trai duy nhất của ông là Isaac (bài đọc 2), còn có việc thánh hiến và chuộc "con trai đầu lòng”.
Có tới ba lần Luca nhấn mạnh đến ý muốn của Giuse và Maria là trung thành làm xong mọi việc "như Luật Chúa truyền”. Ngay cả những việc không tiên liệu nữa, bởi lẽ các ngài đích thân dâng tiến con trai đầu lòng theo gương bà Anna đến Nhà Chúa dâng bé Samuen vậy (1 Sam 1,22-24).
2. Ứng nghiệm những lời hứa, loan báo sứ mệnh của Đức Giêsu.
Hai nhân vật bất ngờ xuất hiện, một nam một nữ tiêu biểu cho niềm mong đợi Đấng Cứu Thế từ bao đời nay của Israel. Không hẹn, mà cả hai cùng đến gặp Maria và Giuse: "Và này đây tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon... cũng có một nữ ngôn sứ là Anna”. Hai khuôn mặt đẹp gợi nhớ lại những vị thánh nam nữ trong Thánh Kinh kể từ Abraham là sa ra.. Hai bậc cao niên mà vì họ Hài nhi được Thánh Thần tác động, sẽ đến vén lên bức màn bao trùm biến cố để lộ ra ý nghĩa thực: nơi Hài nhi ấy các lời hứa đã được ứng nghiệm, hát nhi ấy loan báo việc sắp xảy ra.
- Trước tiên phải nói đến ông Simêon. Ông không phải là người có trách nhiệm phục vụ Đền Thờ vì ông không phải là tư tế, cũng chẳng phải là lê vi hay Kinh sư. ông chỉ là "người công chính" (nghĩa là người hoàn toàn "khớp với ý muốn của Thiên Chúa) và sùng đạo (nghĩa là người được lòng tin và niềm hy vọng của Israel hun đúc).
+ Trong Bài ca “an bình ra đi" của ông, ông chào mừng cuộc giáng lâm của Đấng cứu độ và tỏ ra mãn nguyện thấy lời Chúa hứa nay được thể hiện nơi Đức Giêsu.
Hài Nhi này đến làm cho lòng mong đợi của riêng ông và dân tộc ông được mãn nguyện; ông lên tiếng ngợi ca ơn lạ lùng Chúa đã ban cho chính ông, người trông đợi cuối cùng của Giao ước cũ, là được "bồng bế trên tay mình" Hài Nhi trưởng tử của một thế giới mới mà ông đã hình dung ra.
Rồi ngỏ lời trực tiếp với hài nhi, ông chào mừng con trẻ là Đấng Mêsia " là "ơn cứu độ " của Thiên Chúa, một ơn cứu-độ vượt khỏi biên giới Israel và có liên can tới mọi dân tộc, bởi lẽ hài nhi Giêsu này "là ánh sáng soi đường cho dân ngoại”. Ông kết thúc bài ca khi loan báo rằng nhiệm vụ trông đợi của Ông đã đến hồi kết thúc: "Giờ đây ông có thể ra đi an bình”.
Những lời tiên tri của ông Simêon khiến cho cha mẹ Hài Nhi "ngạc nhiên”, đồng thời cũng gây cho ông bà những thắc mắc đi đôi với sự hài lòng (xem dưới).
+ Thế rồi, sau khi chúc phúc cho cha mẹ Hài nhi, ông nói với Maria một lời tiên tri đau buồn, tương phản với niềm vui được bày tỏ trong Bài Ca: "Này, người con của bà đây...ông loan báo cảnh "chia rẽ”, sẽ có sự chia lìa vì Đức Giêsu: những kẻ ủng hộ Người thì người sẽ là sức mạnh vực họ chỗi dậy, những ai chống đối người, thì Người khiến họ phải "vấp ngã”. Bởi lẽ, R.Meynet chú giải "Chúa không áp đặt ơn cứu độ của người cho ai cả; người chỉ đưa ra, chỉ "dành sẵn cho muôn dân”, cho mọi dân tộc cũng như cho Israel. Người chỉ kêu mời người ta đón nhận trong tự do. Nhưng rnọi người đều sẽ phải quyết định. Đức Giêsu không phải là một chứng cứ không thể phi bác người là một dấu chỉ trước niềm tin và tự do của con người. Nhiều người trong Israel sẽ từ chối Người, nhưng những người khác sẽ chấp nhận đi theo Người. Nơi các dân tộc cũng thế thôi. Mọi người sẽ bị phân rẽ, ngay cả giữa cha mẹ mình, ngay cả Đức Maria cũng sẽ phải chịu thử thách ấy. Sự ngạc nhiên của cha mẹ Người là sự ngạc nhiên của lòng tin trộn lẫn với những thắc mắc và sự hài lòng trước những biến cố bất ngờ này. Trước xì-căng-đan của thập giá, lòng tín của Đức Maria cũng như của tất cả các môn đệ đều sẽ phải trải qua cơn xâu xé dày vò" ("L'evangile se lon saint lúc – Analyse rhétorique". Cerf, trang 40).
Và này đây một nhân vật khác, bà Anna, mà Luca gọi là "nữ ngôn sứ”. J. Potin viết: ""Bà cũng là hình ảnh người phụ nữ thánh thiện của Kinh Thánh. Bà kết hôn từ thuở niên thiếu, nhưng có lẽ chịu phận son sẻ, giống như bà mẹ của Samuen đã một thời hiếm muộn; bà ở goá để tưởng nhớ chồng, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phụng Thiên Chúa trong đền Thờ. Qua bà, cả một đoàn lũ đông đảo các phụ nữ thánh thiện Israel đang dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì từ nay Người khởi sự thực hiện việc giải thoát dân Người" ("Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 95).
Phần cuối câu truyện không quên nhắc lại việc cha mẹ Đức Giêsu trung thành tuân thủ Lề Luật. Rồi bằng ít lời vắn gọn, Luca tóm kết tất cả cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu ở Nagiarét như sau: "Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Ơn khôn ngoan mà Hài Nhi được tràn đầy, chẳng bao lâu nữa người ta sẽ thấy biểu lộ trong trình thuật tìm gặp lại con trong Đền thờ (Lc 2,46-47).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. "Một khởi đầu mới mong manh”.
(L. Sintas, trong "Parole du Dteu pour la méditation ét l'homélie. Năm B", Médiaspaul. trang 22-23).
Để ghi nhớ việc tổ phụ Abraham hiến tế con đầu lòng cho Thiên Chúa, Luật truyền cho mọi con trai đầu lòng phải được hiến dâng cho Chúa (...). Maria và Giuse tuân thủ Luật Chúa truyền. Vì hai ông bà nghèo, nên dâng một cặp bồ câu non làm của lễ.
Hôm nay nghi lễ hiến dâng này có một tầm mức thật là độc đáo. Nếu đúng là mọi Hài Nhi ra đời đều là ơn huệ của Thiên Chúa mà mọi cha mẹ phải nhìn nhận và vui mừng, thì điều đó càng đúng biết bao đối với trường hợp của Hài Nhi Giêsu. Không ai trong số những người được trông thấy Maria và Giuse tiến vào Đền thờ hôm ấy, hiểu được điều ấy. Các môn đệ, các thánh sử thực ra chỉ hiểu rõ điều này sau khi Chúa phục sinh. Chỉ tới lúc ấy các ông mới nhận ra sự cao cả lạ lùng của Đức Giêsu, Đấng các ông đã sống kề cận trong ba năm qua. Sự cao cả lạ lùng đó Đức Giêsu đã có từ lúc đức Maria mang thai và sinh ra Người, dầu rằng lúc đó còn bị che giấu. Chỉ sau biến cố phục sinh, các ông mới có thể viết Tin Mừng về thời thơ ấu của Đức Giêsu là làm nổi bật được tính cách độc nhất vô nhị của Người.
Nơi bản thân ông Simêon, Luca như đọc được một bản tóm tắt toàn bộ mầu nhiệm ấy. Simêon là một con người được nhào nặn trong lòng tin của Israel. Nếu ông được coi là một người công chính, thì điều đó có nghiã là nơi ông, người ta gặp được sự thánh thiện của những chính nhân đầy lòng tin. Ông giữ một vị trí chính đáng trước mặt Thiên Chúa, trước lề luật của Thiên Chúa, cũng như trước mặt mọi người. Bởi được viết sau biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, nên Luca có thể gọi đích danh nhiệt tình thúc đẩy ông Simêon lên Đền Thờ, là sức mạnh dun dũi của Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được giới thiệu ở đây như là sức mạnh duy nhất kiến tạo nên dân Chúa, dẫn dắt dân trong lòng tin (...). Sự hiệp nhất sống động giữa Cựu ước và Tân ước được biểu lộ ra bằng một biến cố. Một ông già mà cả đời đã được nuôi dưỡng trong lòng tin của tổ phụ Abraham giờ đây tiến đến trước Đấng Mêsia của lời hứa và được khao khát từ bao đời. Ông già ấy giờ đây ẵm bế trên tay mình Đấng Mêsia kia và hát lên-lời ca chúc tụng và tri ân Thiên Chúa:
Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi (...).
Ông già ấy có thể qua đi. Vậy thì ngọn lửa thiêng kia phải được trao lại cho ai? Trao cho một hài nhi bé bỏng. Điều này muốn nói lên rằng giai đoạn đầu mới lạ này quả là mong manh bé nhỏ. Nước Thiên Chúa giống như một hạt giống dù là loại hạt nhỏ nhất, nhưng vẫn hứa hẹn sẽ trở nên một cây to lớn. Nó cũng nói lên tầm quan trọng của Thánh Gia trong vai trò được trao phó và gìn giữ hạt giống mỏng manh kia. Quả là mong manh bé nhỏ khi toàn bộ thế lực sự ác sẽ ập đến tấn công hạt giống ấy. Và ông Simêon cũng nói cho Maria hay một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà. Cuộc khổ nạn đã có mặt ngay từ đây rồi. Phải, người ta sẽ chia rẽ vì hài nhi này. Trẻ ấy sẽ làm cho nhiều người phải vấp ngã. Thực tế cho thấy hận thù ghen thét dường như toàn thắng. Những thù địch của Đức Giêsu sẽ thắng được Người. Họ sẽ kết tội và đóng đinh Người.
Tuy nhiên, cũng chính Giêsu ấy sẽ làm cho nhiều người được chỗi dậy. Phục sinh đã được loan báo và ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đem đến một cuộc phục hồi lớn lao vô cùng. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã danh sẵn cho muôn dân.
Đó chính là lý do khiến nữ ngôn sứ Anna, lúc ấy cũng tới nơi để cùng hát lên những lời tán tụng Thiên Chúa với ông Simêon.
2. “ Trung tín với thần khí”
(Đức Cha L.Daloz, trong "diệu a visité son peuple"; Desclée de Brouwer, trang 21-22).
"Để chu toàn các điều Luật truyền, cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Đền Thờ dâng tiến cho Thiên Chúa, và dâng của lễ nghèo hèn là "một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non" dành cho việc thanh tẩy Đức Maria. Được Thần Khí thúc đẩy, ông Simêon lên Đền Thờ gặp hai ông bà. "Ông Simêon là người đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa? Hoạt động của thần Khí là sợi đây nối kết mọi hoàn cảnh xảy ra khi Đức Giêsu giáng sinh. Công trình Thần Khí thực hiện thì sung mãn, phong phú và hưng phấn. Câu truyện trong hai chương đầu của Tin Mừng Luca mang dấu ấn rõ rệt về hoạt động của Thần Khí. Những biến cố luôn hàm ý về tương lai, và người ta đã linh cảm được sứ mệnh phổ quát của Đức Giêsu. Những nhân vật như Maria, Dacaria, Êlisabét, Simêon và nữ ngôn sứ Anna đều là những người loan báo ơn giải thoát mà hạt giống đã được chôn vùi trong thế giới chúng ta. Các ngài đều làm chứng rằng ơn cứu độ đã tới và hết sức vui mừng. Thần Khí hoạt động dựa trên các ngôn sứ, Thần Khí ấy của Thiên Chúa tràn đầy vũ trụ, đến thực hiện các lời hứa và ban ơn thông hiểu. Qua miệng ông Simêon, Thần Khí tỏ cho thấy ánh sáng đang đi vào thế giới và người Con của Đức Maria nắm giữ vai trò quyết định. Người con ấy sẽ là dấu hiệu cho người ta chống đối, khi phanh phui ra những tranh cãi của nhiều tâm hồn. Chúng ta hết thảy đều liên can tới điều mạc khải này vì nó cũng phanh phui những tranh chấp trong tòng ta. Cũng Thần Khí ấy của Thiên Chúa còn thâm nhập vào nơi sâu thẳm của bản thân ta và thúc đẩy ta, phải nhận biết Đấng ban ơn cứu độ. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại ”... Chỉ mình Thần Khí mới có thể mở mắt ta đón nhận ánh sáng này. Như ông già Simêon, như nữ ngôn sứ Anna, tâm hồn ta phải biết lắng nghe và nhạy bén với làn gió âm thầm của Thần Khí. Như vậy, chúng ta mới có thể đón nhận Đức Kitô - Anh sáng.
42.Trình dâng Chúa Giêsu tại Đền thờ--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Theo luật Môisen": người ta có thể thắc mắc tại sao Luca nhấn mạnh quá nhiều đến việc Thánh Gia hoàn tất các nghi thức Do thái. Nếu nhớ Luca là môn đệ của Phaolô, ta sẽ tìm ra được lý do tuyệt diệu trong suy tư sau đây của thư Galata: "Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài, sinh bởi người nữ, sinh dưới quyền Lề luật, để giải phóng những kẻ ở dưới quyền Lề luật, ngõ hầu ban quyền nghĩa tử: cho ta. Và bởi vì anh em là nghĩa tử, nên Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con Ngài đến trong lòng anh em, chính Thần khí kêu lên: Abba, Cha ơi! Cho nên anh em không còn là nô lệ, nhưng là con; mà nếu là con, thì cũng là kẻ thừa tự thể theo (ý của) Thiên Chúa" (14,4-7). Bản văn này làm sáng tỏ Tin mừng thời Thơ ấu cách lạ lùng thật. Vì chẳng có nơi nào cho thấy rõ ràng Chúa Giêsu thật là Con Thiên Chúa, sinh bởi người nữ; chẳng có nơi nào mà Tin mừng nhấn ngạnh mãnh liệt việc Người tuân giữ các quy khoản Lề luật như đoạn văn hôm nay.
"Họ phải được thanh tẩy": Theo luật Môisen trong Lv 12 thì sau khi sinh con trai, người mẹ trở nên ô uế trong 7 ngày xét theo luật phụng tự (nghĩa là không được chạm đến vật gì đã thánh hiến cũng như tham dự phụng vụ tại Đền thờ) và tiếp đó phải ở riêng trong nhà 33 ngày nữa. Sau thời gian thanh tẩy theo nghi thức ấy bà phải đến Đền thờ dâng một của lễ. Người ta ngạc nhiên khi nghe thánh sử bảo: Họ phải được “thanh tẩy", vì chỉ mình người mẹ là cần chuyện này mà thôi. Có thể giải thích như sau: họ phải được thanh tẩy. Nghĩa là việc thanh tẩy này có liên can tới họ; thanh tẩy là điều bắt buộc đối với một mình người mẹ do việc sinh con ra, là việc sinh nở thì vừa liên hệ tới bà mẹ và liên hệ tới đứa bé. Người
ta cũng có thể ức đoán rằng Lc quan niệm lễ nghi thanh tẩy như được thi hành trong thực tế, nghĩa là có kèm theo nghi thức trình dâng đứa trẻ. Nếu thế thì đây là một lễ nghi tại Đền thờ trong đó Maria dâng các lễ tế tiên liệu cho việc thanh tẩy, đồng thời lợi dụng cơ hội để trình dâng Hài Nhi Giêsu. Nhưng dù sao chắc một điều là Giuse không dính dáng gì đến việc "họ được thanh tẩy", vì Lề luật chẳng hề buộc người chồng phải thanh tẩy.
"Và khi đến ngày, theo luật Môisen. họ phải được thanh tẩy, thì họ đem người lên Giêrusalem": Hai chữ “họ” của câu này xem ra giống nhau, nhưng văn mạch cho thấy là không phải vậy; chữ "họ" thứ nhất nhắm Maria và Giêsu, chữ "họ" thứ hai nhắm Maria và Giuse; câu văn hơi sai đôi chút. Vì Luca quá muốn gãy gọn mà lại quên lưu ý là các đại danh từ số nhiều đi liền nhau đây không chỉ cùng nhân vật. Tuy nhiên ý nghĩa cũng khá rõ ràng. Việc trình dâng Hài Nhi tại Đền thờ này không có trong lề luật. Chỉ việc chuộc đứa bé là truyền buộc thôi. Nhưng Luca chẳng hề nói qua một tiếng đến lễ nghi chuộc Chúa Giêsu đó, mà chỉ đề cập tới việc dâng trình Người. Ông lại còn nhấn mạnh đến việc trình dâng này bằng cách liên kết vào đó hai văn từ của lề luật mà thật ra chỉ liên hệ tới việc chuộc con. Làm như vậy là để mặc cho việc trình dâng một ý nghĩa long trọng: dâng hiến và thánh hiến. Thành thử đối với Luca, việc long trọng trình dâng Chúa Giêsu cho Giavê hôm nay tương đương với việc chu toàn cách thiêng liêng nguyên tắc pháp luật của Xh 13, theo đó mọi con trai đầu lòng (và nhất là Đứa Con đầu lòng này) đều thuộc về Giavê. "Một người tên là Simêon” Tên này rất thông dụng thời đó. Có kẻ đã đồng hóa ông Simêon với một giáo sĩ tên Simêon, con của Hillel và cha của Gamaliel, cả ba đều là những đại giáo sĩ ở Giêrusalem. Nhưng việc đồng hóa này không bảo đảm. Lời kinh Nunc dimittis quả cho thấy Simêon là một cụ già, song Luca chẳng quả quyết điều này một cách minh nhiên. "Niềm an ủi của Israel": Từ Is 40, 1; 51, 12; 61,2... từ ngữ này ám chỉ thiên sai thời đại.
“Thánh Thần ở trên ông": Theo ngôn ngữ Cựu ước (Ds 11, 17.11,25.29; 2V 2, 15; Is 11,2; 41, 1; Ed 11,5), thành ngữ này muốn nói Simêon là ngôn sứ.
“Đức Kitô của Chúa": Đây là tước hiệu cổ truyền của Đấng thiên sai trong Cựu ước Hy lạp (1Sm 24,7,11; 26, 9. 11. 16.23; 2 Sm 1, 14. 16...) và tương đương với tước hiệu "Đấng Messia của Giavê”. Đừng lẫn lộn với thành ngữ Kitô Chúa" (thành ngữ riêng biệt của Lc trong Tin mừng, x. 2, 11) mà người ta thấy trong Ac 4,20 bản Hy lạp) và Tv Salomon 17,36 cũng như trong Phaolô nhiều lần về sau. Tước hiệu "Kitô Chúa" này rõ ràng có một ý nghĩa siêu việt mà những đồng hóa Đấng Messia với Giavê. Nó giàu nghĩa hơn tước hiệu "Đức Kitô của Chúa".
"Cha mẹ": Vì đã nhấn mạnh nhiều đến việc đầu thai đồng trinh của Chúa Giêsu, nên Lc không ngần ngại dùng chữ. "cha mẹ Người" (x. cc. 41.43) và ngay cả "cha Người" (cc. 33.48). Các sao lục viên vẫn thường thay các hạn từ vừa nói bằng chữ Maria và Giuse để làm nổi bật sự kiện Chúa Giêsu chỉ có một Cha ở trên trời.
"Giờ đây, lạy Chúa...": Sấm ngôn nơi cc.29-32 này tương ứng với thánh ca Dacaria về Gioan Tẩy Giả trong Lc 1,67-79; nhưng thay vì cảm hứng từ các Thánh vịnh, ở đây sấm ngôn mượn lời của sách Isaia đệ nhị, phần thứ hai, và công bố rằng trong Chúa Ciêsu, ơn cứu độ đã được ban tặng. Thánh thi này đã được dùng trong kinh nguyện phụng vụ của Giáo Hội (kinh tối) từ thế kỷ V (x. Hiến pháp Sứ đồ 7,48).
"Theo lời Ngài": Các chữ này làm ta liên tưởng tới việc Thánh Thần đã mặc khải (c.26) cho Simêon biết ông sẽ được nhìn thấy Đấng Messia trước khi lìa đời.
"Anh sáng rạng soi dân ngoại": Việc cứu rỗi dân ngoại lần đầu tiên được loan báo ở đây trong tác phẩm Lc. Nhưng nó chỉ cược công bố cách minh nhiên rõ ràng từ sau mặc khải phục sinh (Lc 24,47).
“Vinh quang của Israel dân Ngài": Tước hiệu này rất đặc biệt. Nó đưa ta về đoạn Xh 40,35: "Đám mây bao phủ nhà tạm và Vinh quang Giavê lấp đầy chỗ Thần cư ". Đây là việc Vinh quang đi vào trong cung thánh; và Vinh quang chính là Giavê. Ở đây cũng vậy, cũng nói về Vinh quang trong cung thánh, nhưng Vinh quang được mạnh dạn đồng hóa với Chúa Giêsu: người là Vinh quang. Có một dấu chứng nói lên ý tưởng táo bạo này là: theo quan niệm Cựu ước, ai đã thấy Giavê (Xh 19,21; 33,20; Lv 16,2; Ds 4,20) hoặc chỉ nghe Ngài nói thôi (Xh 20,10, Đnl 5,24-26; 18,16) đều phải chết. Thế mà trong giai thoại trình dâng Chúa Giêsu đây, các thành ngữ "thấy cái chết" (2,26), “thấy Chúa Kitô của Chúa" (2,26), thấy... Vinh quang" (2,30.32) lại liên quan mật thiết với nhau. Môisen đã không vào lều tạm vì sợ chết (Xh 40,35). Simêon thấy "vinh quang" và có thể lìa trần. Theo lối chơi chữ trong bản văn, thì ông "thấy" Vinh quang đồng thời với cái chết.
“Cha mẹ người đều kinh ngạc": Lc cố ý cho thấy sau các lần mặc khải đầu tiên ở 1,31-35 và 2, 11. 14, cha mẹ Chúa Giêsu vẫn chưa quán triệt hết mầu nhiệm của Người.
"Người có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel": Chúa Giêsu là nhân vật bắt ta phải quyết định chọn lựa. Trong Người hoàn tất cái sấm ngôn hình như tiềm ẩn trong các lời Simêon nói: “Đối với các người, Ngài (Giavê) sẽ là cơ hội thánh hóa, là đá vấp phạm, là thạch nham nên dịp trượt ngã cho đôi nhà Israel, là tròng lưới là là cạn bẫy cho dân Giêrusalem. Lắm người sẽ trượt nhà trên đó; chúng ngã lăn và tan xương, chúng sẽ sa bẫy và bị chụp" (Is 8, 14). Nhưng lời tiên tri sau đây cũng đúng cho Chúa Giêsu: "Này Ta đặt trên Sion một viên đá hoa cương, viên đá góc quý giá làm nền. Ai cậy tin vào viên đá này sẽ không nao núng" (Is 28,16). Khi buộc mỗi người phải chọn theo hay chống lại người, Chúa Giêsu sẽ là dấu chỉ gây cớ vấp phạm. “Và hồn bà, một mũi gươm sẽ đâm thâu qua": Câu này từ lâu đặt ra cho các nhà chú giải nhiều vấn đề lóc búa. Một số dựa theo Origène (Reuss, Bleek...) cho rằng lưỡi gươm là sự nghi ngờ sẽ đâm thâu suốt cuộc đời Maria, nỗi nghi ngờ về lai lịch sâu xa của Quý tử; nhưng lối chú giải này không mấy phù hợp với phần còn lại của Tin mừng là xem ra là một lối giải thích có tính cách tâm lý học vô bằng cứ. Lối giải thích cổ truyền (từ paulin de no le và thánh Augustin) đã xem lưỡi gươm chính là việc Maria hiệp thông và nỗi đớn đau của đứa con tử nạn. Lối giải thích này dĩ nhiên có thể chấp nhận, nhưng không chắc chắn. Quả thế, nó cắt đứt chuyển thông liên tục của bản văn và xem ra đưa vào đấy một dấu ngoặc (BJ và Nguyễn thế Thuấn đặt câu nói giữa hai gạch ngang) là như thế là ngược lại với thói quen của người sêmita. Tiếp đến, nó quá thu gọn tư tưởng vào cá nhân con người Maria, một điều xem ra ngược với nhãn giới của thánh sử, vì đối với ông cũng như đối vật mọi tác giả Tân ước, tâm lý các nhân vật không đáng lưu tâm bằng vai trò của họ trong lịch sử cứu rỗi; người ta thấy rõ điều này trong các quang cảnh của thời Thơ ấu, trong đó Maria bao giờ cũng chỉ đóng một vai trò phụ thuộc sánh với vai trò Chúa Giêsu. Sau cùng lối giải thích cổ truyền đây quá quy chiếu về đồi Canvê mà loại bỏ mọi cái khác.
Gần đây, việc chú giải câu này đi theo một chiều hướng khác biệt. Trong Cựu ước, hình như lưỡi gươm vẫn thường được xem như là biểu tượng của sự đối kháng và chia rẽ (Ed 12. 14). Hơn nữa, Isaia lại còn bảo Thiên chúa đã biến miệng Người tôi tớ thành một "lưỡi gươm sắc bén" (49,2). Hình ảnh này đã được Khải Huyền lấy lại khi nói về Chúa Kitô (1.16; 2, 12. 16; 19, 15.21). Khi nhớ rằng viên Ky mã trong Khải huyền, mà miệng võ trang bằng một lưỡi gươm sắc bén, được gọi là “Ngôi lời Thiên Chúa" (Kh 19, 13) và khi lưu ý rằng Is 49,2 đi trước Is 49,6 là đoạn gọi Người Tôi tớ là "ánh sáng muôn dân", thì ta phải lập tức nghĩ rằng cả hai câu này đã có trung tâm trí lực khi ông viết các câu 32.35a và rằng lưỡi gươm phân rẽ Israel làm đôi (c.34) chính là Lời mặc khải đến trong Chúa Giêsu, lời cứu độ nhưng cũng là lời phán xét (x. Dt 4, 12). Thế mà hình như chắc là trong hai chương đầu này. Luca trình bày Maria như là Nữ tử Sion, nghĩa là Israel nhân cách hóa (x. chứng minh dài dòng của Laurentin, sđd, tr.148- 163). Theo viễn ảnh như vậy, có thể Lc còn muốn tiếp tục việc nhân cách hóa này (trong quang cảnh trình dâng Chúa Giêsu và có lẽ rằng chính vì xét như là Nữ tử Sion mà Maria đã được Simêon ngỏ lời ở c.35a: trong con người của bà. Chính Israel sẽ bị gươm của Giavê xuyên thấu.
Lối chú giải này (của Sahlin. Black, Laurentin. Boismard, Benoit...) có lợi điểm là làm cho c.35a thuần nhất với văn mạch của nó. Thay vì nằm trong ngoặc đơn, thì câu này trở thành một khâu trong chuỗi khai triển; nó t.iếp tục tư tưởng của câu trước và chuẩn bị cho tư tưởng kế tiếp theo. Chúng ta đã thấy mối liên lạc giữa c.34 và 35a: cơn khủng hoảng gây ra trong Israel bởi "dấu chỉ vấp phạm" được mô tả, theo Edêkien, như lưỡi gươm Giavê đâm thâu tâm hồn (dân Chúa). Còn c.35b thì đưa ra một kết luận ăn khớp: thử thách gây nên do việc Chúa Giêsu đến rồi đây sẽ vạch trần bí ẩn của mọi tâm hồn khi đòi con người phải chọn lựa theo hay chống Chúa Giêsu.
Được hiểu một cách ăn khớp với nhau như thế, cc.34-35 sẽ cân xứng tuyệt vời với các cc.30-32. Lời tiên tri của Simêon phân chia thành một bức song bình: một bên là việc chiếu soi dân ngoại và ơn cứu độ phổ quát, vốn tựng trưng cho vinh quang Israel; bên kia là cơn khủng hoảng trong chính Israel, cơn khủng hoảng sẽ khiến nhiều con cái tuyển đến ngã gục. Đó là tất cả bi kịch của lịch sử cứu rỗi, được Lc trình bày trong Tin mừng và sách công vụ; tấm bi kịch này được Simêon loan báo ở đây cách vắn tắt nhưng vô cùng mạnh mẽ.
Để biện minh cách tiêu cực cho lối giải thích vừa nêu, chúng ta hãy đưa ra một bắt bẻ quan trọng đối với lối giải thích cổ truyền. Trong Tin mừng Luca, chẳng có chỗ nào nói đến việc Maria hiệp thông vào số phận đau đến của Chúa Giêsu cả. Dĩ nhiên người ta có quyền giả thiết bà đã hiệp thông một cách nào đó. Nhưng nếu Luca đã muốn ngụ ý điều này khi đặt trên miệng Simêon lời tiên tri bí ẩn, thì hẳn sau đó ông đã cho thấy việc hiệp thông được thể hiện trong nhiều sự kiện rõ rệt. Thế mà Lc đã chẳng nhắc đến tên Trinh nữ trong số các người đàn bà theo dõi việc đóng đinh thập giá.
"Ngày đêm tham dự phụng tự (Nguyễn Thế Thuấn: “Bà không rời khỏi đền thánh, thờ Chúa ngày đêm”): Nét này, mà người ta còn gặp lại trong Lc 18,7; Cv 20,31; 26,7, hình như hơi lý trưởng hóa. Vì dù sao, các phụ nữ không được phép ở lại đêm trong khuôn viên Đền thờ.
"Họ trở về Galilê, đến Nagiarét...": Đây chỉ là một lối tóm tắt, hoàn toàn theo kiểu của Luca. Matthêu cho thấy Thánh Gia đã ở lại Bêlem khá lâu (Mt 2,11), và thời hạn cuộc lưu trú này tùy thuộc vào ngày giờ gán cho cuộc thăm viếng của các đạo sĩ. Dựa vào Mt 2, 16, có người bảo là hai năm. Nhưng dầu giả thiết thế nào chăng nữa, thì việc Trình dâng tại Đền thờ cũng phải xảy ra trước cuộc Hiển Linh. Vì khó cho rằng Giuse, mà trong suốt thời thơ ấu của Chúa Giêsu luôn luôn tỏ ra khôn ngoan thận trọng, ai đi lôi kéo cơn lôi đình của Hêrôđê xuống trên đứa bé. Thành thử việc trở lại Nagiarét mà Luca nói ở đây trước tiên giả thiết việc lui về Bêlem rồi chạy trốn đến biên giời Ai Cập (hợp với Mt 2,13-15), và trùng hợp với việc định cư tại Nagiarét mà Mt 2,19-23 đã nói.
KẾT LUẬN
Với nhiều điển tích, nhiều ám chỉ Kinh thánh, Luca cho thấy việc Trình dâng Chúa Giêsu tại Đền thờ khai mào thời đại thiên sai, cái thời đại đã được các ngôn sứ xưa loan báo và được đánh dấu bằng việc Vinh quang của Giavê long trọng tiến vào Đền thờ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Từ thuở ấu thơ, ngay cả khi chưa nói được. Chúa Giêsu đã hoàn tất các lời Kinh thánh. Hôm nay, Ngài thực hiện lời hứa đã ban cho Đanien (9,21-24), cho Malaki (3,1) và cho biết bao ngôn sứ khác ngày xưa. Hôm nay, trong con người trẻ bé Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại cung thánh bị bỏ phế của Ngài. Vì, dù tội Israel thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẩn luôn trung thành với lời mình đã hứa. Sự thất trung của Israel chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa này, chứ không thể hủy bỏ chúng được. Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày chúng ta được Rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử Ngài. Rồi dù chúng ta có lắm bất trung, Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Dù tội chúng ta có xua đuổi Ngài ra khỏi cung thánh lòng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp chúng ta ăn năn thống hối. Hôm nay chúng ta hãy mở rộng cung thánh chúng ta cho Ngài, hãy mời Chúa Kitô đã từ nay vinh hiển đến ở mãi trong cuộc đời chúng ta, hãy cùng với Người tận hiến bản thân cho Thân phụ chí hảo của Người, để chúng ta cũng được trở nên "ánh sáng" (2,32) chiếu soi hết mọi người sẽ gặp chúng ta.
2. Hành động của Thánh Thần có mặt khắp cả bài Tin mừng hôm nay. Chính Thánh Thần ở trên Simêon (c.25) đã mặc khải cho ông biết ông sẽ thấy Đấng Messia trước khi qua đời (c.26), đã thúc đẩy ông vào Đền thờ ngay lúc Chúa Giêsu đến (c.27). Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới sự hoạt động của Thánh Thần cách thường xuyên nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa thánh và biết chăm chỉ tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Thánh Thần cũng có thể trở nên trong chúng ta một nguồn sáng giúp ta hiểu rõ hơn đức tin và bổn phận chúng ta, một nguồn sức mạnh và năng lực thiêng liêng giúp ta can đảm sống trọn đời môn đồ Chúa, một nguồn linh ứng cho lời cầu nguyện cũng như cho cuộc sống chúng ta thường ngày.
3. Simêon và Anna đã suốt đời chờ đợi giờ được cho xem thấy Chúa Kitô. Đối với chúng ta, họ là những tấm gương hy vọng và trung tín. lòng trung tín của họ đã được ân thưởng: họ được niềm vui bồng ẵm trên tay “Ang sáng dân ngoại”, “Vinh quang Israel", đích thân Thiên Chúa. Chúng ta cũng được hồng ân như vậy mỗi lần đi rước lễ. Chúng ta hãy chuẩn bị tiếp lấy ân sủng này trong sự trung tín mong chờ và đón nhận nó với tất cả tâm tình biết ơn như Simêon và Anna.
4. Maria và Giuse đã chấp hành hoàn hảo mọi yêu sách của Lề luật Môisen. Các đấng lại vâng phục dẫn độ còn thi hành thói quen đạo đức là Trình dâng con trai đầu lòng tại Đền thánh, một điều là luật không đòi hỏi. Sở dĩ các đấng đã đi quá Lề luật như thế, đó là vì các đấng đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ hãi.
5. Maria, thụ tạo tinh tuyền nhất trong lịch sử nhân loại, đã khiêm tốn chấp hành nghi thức thanh tẩy. Phần chúng ta là những người đã bị tội lỗi làm cho ra vô cùng ô uế, chúng ta cũng hãy khiêm tốn lãnh nhận bí tích cáo giải để được thanh tẩy tâm hồn. Cho đến tận thế, Chúa Giêsu vẫn là dấu chỉ vấp phạm (c.34) vì buộc con người phải chọn lựa theo hay chống lại Ngài. Phần chúng ta, hãy làm lại việc dấn thân theo Ngài vô điều kiện. Nếu chúng ta trung thành với Ngài, thì "ân sủng Thiên Chúa cũng sẽ ngự xuống" (c.40) trên chúng ta và đổ đầy cuộc đời chúng ta niềm vui và ánh sáng.
7. Maria và Giuse đã ngạc nhiên khi nghe những điều Simêon và Anna nói về Quý tử. Sở dĩ ngạc nhiên, là vì các Đấng chưa hoàn toàn quán triệt mầu nhiệm sâu xa bao phủ con mình. Dù được sống thân mật với Chúa Giêsu, các đấng cũng phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các đấng được đào sâu vì các đấng "gẫm suy mọi sự ấy trong lòng" (2,19). Đối với chúng ta, cũng chẳng có gì lạ nếu chúng ta không hiểu hết mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù đã qua 20 thế kỷ, Giáo Hội vẫn luôn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Chúa Kitô. Như Chúa Kitô, đức tin chúng ta phải lớn lên, triển nở trong sức mạnh và ân sủng. Đức tin chúng ta, chính là sự tăng trưởng liên tục và dần dần của Chúa Kitô trong chúng ta.
43.Chú giải của William Barclay
Lc 2, 21-24: Các nghi lễ được tuân giữ
Ở đây, chúng ta thấy gia đình Chúa Giêsu đã tuân thủ ba nghi lễ cổ mà người Do Thái phải giữ.
1) Cắt bì. Mỗi con trai Do Thái phải chịu cắt bì ngày thứ tám, sau khi sinh. Nghi lễ này quan trọng đến nỗi có thể làm vào ngày sabát, là ngày mà luật cấm làm hầu hết các công việc không tuyệt đối cần thiết, và như chúng ta đã biết, trong ngày đó đứa trẻ được đặt tên.
2) Chuộc con đầu lòng. Theo luật (Xh 13,2) thì mọi con đầu lòng dù người hay súc vật, đều biệt riêng ra cho Chúa. Luật này có thể là sự tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa đã ban cho loài người sự sống hay cũng có thể là dấu tích của thời kỳ trẻ con còn được dâng cho các thần. Dĩ nhiên nếu tục đó được tuân thủ sít sao thì sự sống không còn trên mặt đất. Vì thế mới có nghi lễ chuộc con đầu lòng (Ds 15,16). Người ta quy định rằng: dâng một số tiền năm shekel -chừng 15 shillings- cha mẹ có thể chuộc lại đứa con từ nơi Chúa. Số tiền đó phải cho các tư tế và không thể nộp trước 31 ngày sau khi sinh đứa trẻ và cũng không trì hoãn lâu.
3) Lễ Tẩy sạch sau khi sinh nơ. Khi người đàn bà sinh con trai thì người mẹ bị ô uế trong 40 ngày, nếu con gái thì mẹ phải chịu ô uế trong 80 ngày. Người mẹ có thể đi lại trong nhà, làm công việc hàng ngày, nhưng không thể vào Đền Thờ hoặc tham dự các nghi lễ tôn giáo (Lv 12). Khi thời hạn đó chấm dứt, người mẹ phải vào Đền Thờ, đem theo một con chiên làm của lễ và một bồ câu non làm của lễ chuộc tội. Đó là một của lễ khá tốn kém, vì thế luật cũng định (Lv 12,8), nếu người mẹ không thể mua một con chiên thì có thể đem đến một con bồ câu thứ hai. Của lễ bằng hai bồ câu thay vì một con chiên và một con bồ câu gọi là “Của Lễ Của Người Nghèo”. Maria đã dâng của lễ đó. Một lần nữa, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình nghèo, không chút sang trọng, ở đó mỗi đồng xu cũng phải được tính kỹ, ở đó các phần tử trong gia đình biết rõ những khó khăn của cuộc sống và những gian nan của kiếp người. Khi nào đời sống trở nên bế tắc cho chúng ta, chúng ta nên nhớ rằng Chúa Giêsu đã nếm trải đủ mọi mùi cay đắng đó rồi.
Ba nghi lễ này là nghi lễ cũ và lạ, nhưng cả ba cùng nói lên một niềm tin: con cái là phúc lộc Chúa ban. Những người khắc kỷ nói con cái không phải được ban cho cha mẹ mà là cho mượn. Trong các ơn phúc Chúa đưa đến, không có ơn nào khiến ta mang nhiều trách nhiệm với Chúa cho bằng con cái.
Lc 2, 25-35: Giấc mơ thành tựu
Không có người Do Thái nào không coi dân tộc mình là dân tộc được ưu tuyển. Nhưng họ biết rõ bằng phương tiện tự nhiên, đất nước của họ không thể đạt được tầm cỡ tuyệt vời trên thế giới mà họ chỉ tin đó là phần phúc cho họ. Đa số họ tin rằng vì Do Thái là tuyển dân nên một ngày kia họ sẽ làm bá chủ thế giới. Nhiều người tin rằng vào ngày đó sẽ có một vĩ nhân, một anh hùng từ trời giáng trần; nhiều người khác tin rằng sẽ có một vị vua bởi dòng dõi Đavít và mọi vinh hiển xa xưa sẽ trở lại; nhiều người khác tin chính Thiên Chúa sẽ trực tiếp bước vào lịch sử bằng những cách siêu nhiên. Nhưng ngược lại, cũng có một số ít người được gọi là “những kẻ yên lặng trong xứ”. Họ không mơ tưởng gì về sức mạnh và quyền thế, về quân đội với cờ bay trống giục, họ tin cậy vào một đời sống kiên trì cầu nguyện và lẳng lặng đợi chờ cho đến khi Thiên Chúa ngự đến. Suốt đời sống, họ trông đợi Chúa cách lặng lẽ và nhẫn nại. Simêon là một trong số những người đó, bằng đời sống cầu nguyện và thờ phượng, cứ khiêm nhường trung tín đợi chờ, ông trông mong được thấy người Thiên Chúa an ủi dân Ngài. Thiên Chúa đã hứa với ông qua Thánh Thần là ông sẽ không qua đời trước khi được xem thấy Đấng Xức Dầu của Ngài. Ông nhận biết vị vua đó nơi hài nhi Giêsu và ông mừng rỡ. Bây giờ ông sẵn sàng ra đi bình an và những lời của ông đã trở thành bài ca “Bây Giờ Xin Chết” (Nunc Dimittis), cũng là bài ca tuyệt tác của Hội Thánh.
Trong câu 34, Simêon cho một bản tóm lược về công việc và số phận của Chúa Giêsu.
1) Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người vấp ngã. Câu đó nghe lạ tai và khó chịu, nhưng đó là sự thật. Không phải Thiên Chúa đoán xét người ta cho bằng người ta tự đoán xét mình, và đoán xét của mỗi người là do phản ứng của họ đối với Chúa Giêsu. Nếu khi đối diện với sự nhân từ, thương yêu của Chúa Giêsu, họ mở lòng ra tiếp nhận tình yêu đó thì họ được ở trong vương quốc của Ngài. Nhưng nếu lòng họ cứ lạnh lùng cứng cỏi hoặc thù nghịch thì họ bị kết án. Có nhiều người chối bỏ Ngài, đồng thời không thiếu những người sẵn sàng nhận Ngài làm Chủ đời sống họ.
2) Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người được chỗi dậy. Triết gia Seneca nói rằng nhu cầu lớn nhất của loài người là được một bàn tay đưa xuống để nâng họ lên. Chính bàn tay Chúa Giêsu đã nâng vực con người lên khỏi đời sống cũ và đem vào đời sống mới, đem tội nhân khỏi vũng bùn tội lỗi và bước vào đời sống thánh thiện, ra khỏi những nhục nhã và bước vào chốn vinh quang.
3) Chúa Giêsu sẽ gặp nhiều sự chống đối. Đối với Chúa không có sự trung lập. Hoặc chúng ta tuân phục Ngài, hoặc đối nghịch với Ngài. Thảm kịch của đời sống là tính kiêu ngạo đã ngăn cản chúng ta thực hiện sự tuân phục dẫn đến chiến thắng.
Lc 2, 36-40: Tuổi già đáng yêu
Anna cũng là một trong số những người lặng lẽ trong xứ. Chúng ta không biết nhiều về bà, ngoài mấy câu Kinh Thánh này, nhưng bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta có một bức họa về tâm tính bà.
1) Anna là một quả phụ. Bà đã từng nếm trải đau buồn nhưng lòng bà không hề cay đắng. Sự buồn rầu có thể đem đến cho chúng ta một trong hai điều: nó có thể làm chúng ta cứng lòng, cay đắng, uất hận, phản nghịch lại Chúa, hoặc làm chúng ta mềm mại hơn, dịu dàng hơn, nhân từ hơn. Nó có thể cướp mất lòng tin tưởng của chúng ta hoặc có thể giúp đức tin chúng ta đâm rễ sâu hơn, và trở nên bất khuất. Tất cả tùy thuộc cách chúng ta suy hiểu về Thiên Chúa. Nếu chúng ta nghĩ về Thiên Chúa như một bạo chúa thì chúng ta sẽ oán hận Ngài. Nếu nghĩ về Ngài như một người cha nhân từ thì chúng ta tin chắc rằng: tay của một người cha sẽ không làm cho con mình phải đổ một giọt nước mắt vô ích nào cả.
2) Bà đã già (84 tuổi) và không hề thôi hy vọng. Tuổi già cướp mất màu tươi thắm và vẻ cường tráng của thân thể chúng ta, nhưng còn tệ hại hơn, là năm tháng có thể giết chết sự sống trong tâm hồn chúng ta, đến nỗi bao hy vọng từng ôm ấp cũng chết lịm và chúng ta trở nên ảm đạm, ê chề, an phận thủ thường, không còn thiết tha điều gì nữa. Và điều đó cũng tùy thuộc vào cách chúng ta nhìn về Chúa: nếu chúng ta nghĩ rằng Chúa là một Đấng xa cách, không hề quan tâm đến chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ tuyệt vọng, Ngược lại, chúng ta tin Thiên Chúa có liên hệ mật thiết với cuộc sống chúng ta, Ngài điều khiển mỗi bước của chúng ta trên đường đời thì chúng ta sẽ thấy tương lai thật tốt đẹp. Tuổi tác, thời gian, sẽ không hề giết được hy vọng của chúng ta. Nhưng bà Anna làm sao để giữ vững niềm hy vọng đó?
a) Bà không hề ngưng nghỉ trong việc thờ phượng. Bà dâng đời sống mình trong nhà Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Hội Thánh của Ngài để làm mẹ chúng ta trong đức tin. Chúng ta đánh mất một kho tàng vô giá khi chúng ta không muốn thông công trong việc thờ phượng với dân Chúa.
b) Bà hằng cầu nguyện không ngừng. Việc thờ phượng công cộng là quan trọng, nhưng việc thờ phượng riêng cũng quan trọng. Có người đã nói rất đúng: “Người nào biết cầu nguyện riêng tốt sẽ biết cầu nguyện chung tốt”. Năm tháng đã không đem cay đắng vào lòng Anna, không làm tan hy vọng của bà vì mỗi ngày bà biết kết hợp với Đấng vốn là Nguồn sức mạnh, và trong sức mạnh của Ngài, sự yếu đuối của chúng ta trở nên mạnh mẽ.
44.Tổ ấm--Beliefnet.com--Trầm Thiên Thu
“Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu. Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Người ơi, làm người ở trên đời, nhớ công người sinh dưỡng, đó mới là hiền nhân. Vì đâu anh nên người tài ba…”. Đó là lời trong ca khúc “Ơn Nghĩa Sinh Thành” của cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, đầy tính nhân bản, khá phổ biến suốt nhiều chục năm qua. Kinh thánh dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ” (Hc 3:1-16), kinh Phật dạy: “Tột cùng thiện không gì bằng có hiếu, tột cùng ác không gì bằng bất hiếu”.
Nói đến gia đình là nói đến yêu thương. Gia đình là Tổ ấm. Có tình yêu thương thì gia đình mới “ấm”, đầy ắp tiếng cười, chan hòa niềm cảm thông và tha thứ; ngược lại, thiếu tình yêu thương thì gia đình sẽ “lạnh”, không khí ngột ngạt, khó thở. Thật vậy, ở đâu có tình yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa hiện diện. Có Thiên Chúa thì gia đình nghèo khó vẫn “ấm”, vắng Thiên Chúa thì gia đình giàu sang vẫn “lạnh”.
(Hc 3:3-7,14-17 Sách Huấn ca phân tích: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. Người đó phục vụ các bậc sinh thành như phục vụ chủ nhân” (Hc 3:3-7). Không chỉ vậy, chính lòng hiếu nghĩa đối với cha mẹ sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho chính mình (x. Hc 3:14). Điều đó chứng tỏ Chúa và Giáo hội Công giáo rất tôn trọng chữ Hiếu, không như người ta lầm tưởng. Ai làm ngược lại là mắc trọng tội, vì “ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc 3:16).
Ca dao Việt Nam cũng so sánh:
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi
Và xác định:
Dù cho đi hết cuộc đời
Cũng không đi hết những lời mẹ ru
Ơn cha và nghĩa mẹ thật cao vời và bao la biết bao! Mỗi thành viên gia đình đều phải cộng tác với nhau để tạo nên một tổ ấm đích thực, một gia đình thánh cho hợp Thánh Ý Chúa. Đáp ca lễ Thánh Gia dùng Tv 128 nói về các giá trị gia đình: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Tác giả Thánh vịnh cho rằng “đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4).
Cl 3:12-21; 3:12-17 Thánh Phaolô nói: “Anh chị em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh chị em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh chị em, thì anh chị em cũng vậy, anh chị em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3:12-13). Yêu thương và tha thứ luôn có liên kết với nhau: Tha thứ là thể hiện tình yêu thương, mà yêu thương thì phải tha thứ. Không thể làm cái này mà bỏ điều kia, làm một trong hai chỉ là nói dối.
“Trên hết mọi đức tính, anh chị em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3:15). Yêu thương là đức mến, mà đức mến lại quan trọng nhất trong ba đức đối thần, đến khi vào Thiên đàng rồi cũng vẫn còn và chỉ còn đức mến, không còn đức tin và đức cậy nữa. Thánh Phaolô nói thêm: “Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan” (Cl 3:16), và “anh chị em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3:17).
Thánh gia là gương mẫu cho các gia đình, nhưng có thể chúng ta chỉ “nghe và biết” mà không triệt để và tích cực thi hành. Do đó, thánh Phaolô nói chi tiết về vai trò và bổn phận của các thành viên trong gia đình: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3:18-21). Ai cũng biết trách nhiệm riêng và làm tròn bổn phận mình thì gia đình chắc chắc là một Tổ ấm thực sự vậy.
Gia đình như con thuyền lênh đênh trên “biển đời”, có lúc sóng yên biển lặng, nhưng có lúc lại đầy cuồng phong sóng vỗ. Thánh gia đã từng như vậy, không chỉ trước khi Chúa Con sinh ra mà vừa sinh ra cũng chẳng yên thân với những người ác – điển hình là vua Hêrôđê. Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho Đức Thánh Giuse: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” (Mt 2:13). Thế nên “gia trưởng” Giuse, người chống mũi chịu sao, liền trỗi dậy để đưa Vợ Con trốn sang Ai-cập ngay giữa đêm tối. Thánh gia phải lưu trú ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, và cũng là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập” (Mt 2:18).
Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với Đức Thánh Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người về đất Ítraen, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi”. (Mt 3:20). Đức Thánh Giuse liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và Mẹ Người về đất Ítraen. Thật vất vả cho Đức Thánh Giuse! Cũng chưa yên, vì nghe biết Áckhêlao đã kế vị phụ vương Hêrôđê và cai trị miền Giuđê, nên Đức Thánh Giuse sợ không dám về đó, đành đưa Vợ Con lui về miền Galilê, đến ở thành Nadarét (Mt 2:21-22). Từ đó, Đức Giêsu nghiễm nhiên trở thành người Nadarét.
Người cha và người chồng có cái khổ của người cha và người chồng, người mẹ và người vợ có cái khổ của người mẹ và người vợ. Ai có bổn phận và trọng trách của riêng mình. Chồng hoặc vợ cũng đều lo cho gia đình và con cái, và cũng là lo cho hạnh phúc của riêng mình, đừng vì lý do gì mà “tị nạnh” hoặc “chảnh” mà lênh mặt và khinh miệt nhau. Trọng trách đó cũng chính là Ơn Gọi mà Thiên Chúa kêu mời để thực hiện trọn vẹn để chính mình nên thánh, đồng thời giúp các thành viên trong gia đình cùng nên thánh.
Gia đình là tế bào xã hội, là tế bào cơ bản, để từ đó có những đại gia đình khác là gia đình cộng đồng, gia đình làng xóm, gia đình quốc gia, gia đình nhân loại, gia đình Công giáo,…
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết noi gương Thánh gia từng giây phút để có thể kiến tạo hòa bình và công lý, xây dựng văn minh tình thương, văn hóa sự sống, xứng đáng là thành viên thánh trong đại gia đình Công giáo. Chúng con cầu xin nhân Danh Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
***
BÀI 2: Trường học Gia đình
Khi nhập thể và nhập thế, Con Thiên Chúa là Đức Kitô Giêsu đã sinh trong một gia đình. Khi đi lễ đền, Ngài ở lại “lo việc của Chúa Cha” nhưng cha mẹ Ngài không biết, sau ba ngày, Ngài ngoan ngoãn theo cha mẹ về quê và hằng vâng phục cha mẹ (Lc 2:51). Điều đó chứng tỏ gia đình là quan trọng và là trường học đầu tiên của mọi người.
Văn sĩ Charles Dickens (1) nhận định: “Gia đình là một cái tên, một từ ngữ mạnh mẽ, mạnh hơn lời của những pháp sư hay tiếng đáp của các linh hồn. Đó là lời nguyện cầu hùng mạnh nhất”.
Các nhà xã hội học coi gia đình là nơi đặt những “viên gạch đầu tiên” trong việc hình thành nhân cách con người. Điều đó cho thấy gia đình là trường học đầu tiên của mỗi con người. Quả thật, giáo dục gia đình rất quan trọng, đặc biệt là người mẹ, vì người mẹ gần gũi con cái ngay từ khi nó mới sinh ra và suốt những tháng năm đầu đời.
Nhân cách là tính cách của một con người, và rồi con người đó có thể tốt hoặc xấu. Vì thế, giáo dục nhân cách rất quan trọng, phải bắt đầu từ gia đình, nhưng giáo dục gia đình lại là vấn đề rộng lớn. Ở đây chúng ta nói về vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục hình thành nhân cách cho trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
Như đã nói, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên, tức là trường học đầu tiên của bất kỳ con người nào. Mỗi con người đều được sinh ra từ cha và mẹ. Đứa trẻ luôn gần gũi và lắng nghe những “âm thanh cuộc sống” đầu tiên từ cha mẹ – đặc biệt là từ người mẹ. Người mẹ hiền lành, dịu dàng, ăn nói nhẹ nhàng, đứa trẻ đều nhận biết và chịu ảnh hưởng. Ngày xưa, người mẹ ru con bằng những câu hò, ca dao, điệu lý,... nhẹ nhàng và trong sáng. Rất tiếc là ngày nay không phổ biến, nhưng vẫn còn phần nào những lời “ầu ơ”, “ví dầu”,… khi mẹ ru con ngủ. Lời ru không thể nào gắt gỏng hoặc như “dùi đục chấm mắm cáy”, vì thế mà đứa trẻ vẫn ảnh hưởng sự dịu dàng của lời mẹ ru.
Khi con trẻ chập chững những bước đi đầu đời, người đầu tiên chỉ dạy cho bé cách đi đứng, nói năng, không ai khác là cha mẹ. Vì vậy, cha mẹ là người thầy đầu tiên của con cái. Điều đó xác định việc giáo dục gia đình vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con cái. Dĩ nhiên, vì lý do nào đó, có những đứa trẻ thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ nhưng nó vẫn có thể hình thành nhân cách tốt, đó là nhờ quá trình tự giáo dục tốt. Nhưng hầu như sự giáo dục gia đình không tốt thì nhân cách đứa trẻ ắt có phần khiếm khuyết, đôi khi hoàn toàn xấu. Do đó, giáo dục gia đình rất quan trọng đối với mỗi con người, vì còn trẻ người non dạ, không ai có thể hiểu biết về mình, về xã hội, về cuộc sống,... nhưng được gia đình định hướng và dạy dỗ, nhờ đó mà tích lũy kinh nghiệm và trưởng thành dần theo thời gian.
Ngoài ra, gia đình còn là hành trang “ắt có và đủ” đối với mỗi con người. Trong thời gian đầu đời, ai cũng được sống với ông bà, cha mẹ, anh chị em. Lớn lên, những người lập gia đình rồi có con, cháu. Trong gia đình, mọi người đùm bọc nhau về vật chất, tinh thần, tâm linh,... Người trẻ có điều kiện để lớn khôn, người già có nơi nương tựa, người u buồn được an ủi, người yếu đau được nâng đỡ,… Như vậy, gia đình là một cộng đồng luôn gắn bó với nhau trên từng bước đường của cuộc sống. Dù là ai, được sống trong tình yêu thương của gia đình là hạnh phúc. Ai không được như vậy thì thật là nỗi bất hạnh. Trong quá trình sống với gia đình, cùng trao và nhận tình yêu thương, mỗi người lại tiếp tục tự hoàn thiện mình và tự hoàn thiện nhân cách.
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình luôn có mối quan hệ mật thiết với xã hội, đơn giản nhất là quan hệ với làng xóm, khu phố. Như tục ngữ có câu: “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Động từ “bán” và “mua” ở đây không mang nghĩa “thương mại”, nhưng có ý nói rằng láng giềng gần gũi và cần thiết lắm. Họ là những người “tối lửa tắt đèn có nhau”, mình có chuyện gì thì thân nhân ở xa đâu biết được, chỉ có láng giềng biết. Nói theo Công giáo, đó là những người lân cận, những người mà Đức Giêsu đề cao qua dụ ngôn “Người Samari Nhân Hậu” (Lc 10:29-37).
Gia đình cũng là nơi tái tạo con người. Thành viên nào lỗi lầm vẫn được gia đình an ủi, khuyên nhủ, che chở, bảo vệ, nâng đỡ,... Nhờ đó mà người lầm lỗi có thể đứng dậy và làm lại cuộc đời. Mỗi thành viên gia đình là một người tốt thì xã hội sẽ tốt, đất nước có những công dân tốt, Giáo hội cũng có những “chiên ngoan”. Xã hội có nhiều công dân tốt, ắt hẳn đất nước có thể vững mạnh, xã hội có thể văn minh, cộng đồng ít tệ nạn. Có ít cái xấu sẽ có nhiều cái tốt, con người quan tâm đối xử với nhau bằng tình thân ái và lòng nhân hậu. Nói vậy có nghĩa là cả xã hội phải thực sự chú tâm tới sự nghiệp giáo dục, không thể lơ là hoặc “đánh trống bỏ dùi”. Vì chú trọng số lượng hơn chất lượng, chạy theo thành tích, không lo “tiên học lễ, hậu học văn” nên đạo đức mới bị sa sút trầm trọng, đi đâu cũng thấy tội phạm! Học sinh cần phải được giáo dục về giao tiếp và ứng xử ngay trong cộng đồng, hội đoàn, đặc biệt phải bắt đầu từ gia đình.
Xã hội càng ngày càng văn minh và tiến bộ, đó là niềm vui. Nhưng cứ đua đòi hoặc chạy đua theo lối sống xa hoa thì dễ sa đọa, đi đâu cũng thấy treo bảng “văn hóa” nhưng lối sống chẳng thấy gì là văn hóa. Trị bệnh phải trị tận căn, nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Nhiều hiện tượng xã hội mới liên quan vấn đề trẻ em đặt ra những thách thức mới trong việc giáo dục gia đình: Trẻ em lang thang, trẻ em phạm pháp, trẻ em bị lạm dụng tình dục, trẻ em bị bóc lột sức lao động, trẻ em quan hệ tình dục sớm, ấu dâm, mại dâm trẻ em, lạm dụng ma tuý, lạm dụng chất có men,… Điều đó đòi hỏi việc quản lý và kiểm soát chặt chẽ của các nhà hữu trách, nhưng vấn đề chính vẫn là phải giáo dục trước tiên từ gia đình. Một việc không dễ, vì vừa đòi hỏi gia đình phải phát huy hết các sức mạnh, vừa đòi hỏi các thành viên trong gia đình phải chung tay góp sức và phải là những tấm gương sáng lẫn nhau – đặc biệt là đối với trẻ em. Cây phải được uốn từ lúc cây còn nhỏ, con người cũng vậy, phải được uốn nắn từ nhỏ và ngay tại gia đình, sau đó mới tới nhà trường và xã hội.
Đã có nhiều trường hợp con cái hư, rồi lấy cớ là bận rộn, lo làm ăn. Không thể viện cớ như vậy! Các cha mẹ khá giả chiều chuộng con cái quá mức, để chúng tự do, muốn gì được nấy, tiêu xài xả láng, cứ tưởng như vậy là yêu con, sai lầm nghiêm trọng. Tục ngữ Việt Nam rất chí lý: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Về tâm linh, Thánh Phaolô cũng nói: “Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” (Dt 12:6).
Gia đình nào thường xuyên cãi cọ, mâu thuẫn, xung đột, bạo lực,... nhất là các gia đình có cha mẹ ly hôn hoặc ly thân, con cái bị ảnh hưởng rất nặng về cả tâm lý lẫn sinh lý. Trẻ em không được chăm sóc, nhất là khi bị tổn thương về tình cảm hoặc tinh thần, nhiều trẻ em đã bỏ nhà đi bụi đời, sống lang thang, bất cần đời, rồi dễ sa vào tội lỗi và tệ nạn xã hội. Nguyên nhân là chúng mất cái gốc quan trọng là gia đình, không được dưỡng dục thể chất và tinh thần để có thể nên người. Trước thực trạng đó, việc giáo dục trẻ em ở gia đình càng trở nên cấp bách hơn.
Quả thật, chuẩn mực đạo đức và trình độ nhận thức của một con người phải được hình thành từ nhỏ, bắt đầu từ môi trường gia đình. Việc giáo dục đạo đức dần dần đưa chúng vào nền nếp gia phong từ những gì nhỏ nhất trong cuộc sống hằng ngày như thật thà, vị tha, không vị kỷ, biết giữ lời hứa, lễ phép, nhân hậu, hiền dịu, hiếu thảo, nhường nhịn,... Nói chung là biết quên mình mà sống vì người khác. Đơn giản nhất là các động thái nhỏ về ứng xử, lời ăn, tiếng nói: Chào hỏi, xin phép, xin lỗi, cảm ơn,... Đó là phép lịch sự tối thiểu trong phép xã giao. Tục ngữ Việt Nam đã cảnh báo: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. Đừng khinh suất những điều nhỏ!
Sống tốt không chỉ là tránh điều xấu mà còn phải tích cực làm điều thiện. Sống thật thà không chỉ là không ăn gian, không nói dối, mà còn phải tôn trọng những gì là của người khác: Thấy tiền hoặc vật dụng của người khác mà không nổi máu tham thì mới là thật thà, chứ không thấy thì có gì mà tham, mà lấy? Về tâm linh cũng vậy, có dịp phạm tội mà không phạm thì mới là thánh thiện, chứ không có dịp phạm tội thì chưa biết ai hơn ai.
Gia đình là vườn ươm mầm đời sống và là nơi tôi luyện các nhân đức của con người. Cha mẹ không nên khắt khe, nhưng phải cương nghị, thấy con cái sai thì phải nghiêm túc chấn chỉnh ngay, không được làm ngơ! Cha mẹ nên hiền từ, nhưng đừng nhu nhược. Cha mẹ nhu nhược cũng “tiếp tay” cho con cái hư hỏng. Văn sĩ Robert Anson Heinlein (2) khuyên: “Đừng gây bất lợi cho con cái bạn bằng việc cho chúng cuộc sống dễ dàng”.
Cha mẹ phải là người đầu tiên điều chỉnh con cái, để chúng không chỉ chấp nhận mà còn tích cực cố gắng sửa đổi ngay. Cha mẹ cũng không được hành động cho thỏa cơn giận, nhưng phải kiên nhẫn, tìm hiểu, để biết rõ nguyên nhân, để ngày càng thích ứng và sống chan hòa với con cái.
Hiện nay, không ít cha mẹ lo nuôi con về thể lý mà coi thường việc giáo dục tinh thần, lo đầu tư cho việc dạy chữ mà quên việc dạy người. Có những cha mẹ không chú ý vai trò làm “người thầy đầu tiên” của con cái, phó mặc mọi việc giáo dục con cho nhà trường. Đó là sai lầm lớn cần chấn chỉnh càng sớm càng tốt!
Giáo dục đa dạng, đơn giản là hai phần chính: Giáo dục thể lý và giáo dục tinh thần. Nhưng có một phần quan trọng không được bỏ quên, đó là việc giáo dục tâm linh. Mến Chúa thì phải yêu người. Thánh Gioan giải thích: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối” (1 Ga 2:4 và 9).
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12:50; Mc 3:35; Lc 8:21). Chỉ có những người như vậy mới thực sự là thành viên trong Đại Gia Đình Kitô Giáo, Đại Gia Đình của Thiên Chúa.
--------------
(1) Charles John Huffam Dickens (1812–1870) có bút danh là Boz. Ông là tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng nhất thời đại Nữ hoàng Victoria. Ông được coi là một trong những văn sĩ vĩ đại viết bằng Anh ngữ, được ca ngợi về khả năng kể chuyện và trí nhớ, được nhiều người ở khắp nơi yêu mến. Các tác phẩm của ông chủ yếu dành cho thiếu nhi và mang tính chất hiện thực.
(2) Robert Anson Heinlein (1907–1988) là nhà văn khoa học viễn tưởng Mỹ. Ông được coi là văn sĩ gạo cội trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng, là một trong những tác giả nổi tiếng nhất có ảnh hưởng nhất và cũng gây nhiều tranh cãi nhất về thể loại này. Ông đã lập ra một chuẩn mực cao đối với sự hợp lý về khoa học kỹ thuật trong văn học và góp phần thúc đẩy chất lượng chung của thể loại khoa học viễn tưởng. Ông là văn sĩ khoa học viễn tưởng đầu tiên thu hút được sự chú ý của công chúng, đặc biệt trên những tạp chí chính thống như tờ “The Saturday Evening Post” vào cuối thập niên 1940. Ông cũng là một trong những tiểu thuyết gia thành công đầu tiên về thể loại khoa học viễn tưởng thời hiện đại.
***
BÀI 3: Điều gì xác định một gia đình?
Khi nghĩ về gia đình, bạn nghĩ tới ai? Điều tốt đẹp về gia đình là đa dạng, nhiều kích cỡ, nhiều kiểu. Gia đình “pha trộn” nhiều người với tính cách khác nhau nhưng luôn quan tâm lẫn nhau. Điều đó không xác định bằng máu huyết mà là một nhóm người tạo nên sự khác biệt trong cuộc sống và tiếp tục hướng dẫn nhau.
Bộ phim Annie, được khởi chiếu ngày 19-12-2014, co biết tại sao máu huyết không xác định một gia đình. Annie nói: “Chúng ta có gia đình ở một nơi nào đó”. Sống theo cách nói đó sẽ giúp chúng ta đánh giá gia đình mình và những điều tốt lành mà chúng ta có.
KÍCH CỠ
Một số gia đình nhỏ, một số gia đình vừa, và một số gia đình lớn, nhưng dù gia đình có kích cỡ nào thì vẫn luôn đầy ắp tình yêu thương. Một gia đình không thể định lượng vì tình yêu được cá nhân hóa bởi mỗi thành viên. Người ta tạo một gia đình không bởi số người.
MÀU DA
Gia đình pha trộn, chứ màu da không là yếu tố. Nếu có một người quan tâm bạn và người đó là một phần trong cuộc đời bạn, màu da của họ chỉ biểu hiện cá nhân họ dù họ có thể hoặc không thể là một phần trong gia đình bạn. Gia đình tràn đầy tình yêu và tình yêu không phân biệt màu da.
HUYẾT THỐNG
Huyết thống không xác định một gia đình. Trong cuộc sống, bạn thấy rằng những người thân có liên quan huyết thống, nhưng điều đó không nhất thiết và không hoàn hảo, vấn đề quan trọng là cả gia đình sum vầy bên nhau vào cuối ngày. Khi trưởng thành, chúng ta tìm một người bạn đời cùng chia sẻ cuộc sống, và rồi chúng ta còn có những nối kết với con cái, bạn bè, thú cưng,... Chúng ta tạo mối quan hệ “máu” và chu kỳ cứ tiếp diễn khi chúng ta già, con cháu lại tiếp tục hành trình của chúng.
HỆ LỤY
Trong hành trình cuộc sống, bạn sẽ gặp những người mà bạn có quan hệ, và các mối quan hệ đó giúp bạn xác định cuộc sống. Chúng ta gọi họ là bạn bè, nhưng sự thật là những người đó gần gũi chúng ta hơn anh chị em trong gia đình. Những người bạn này là những người mà chúng ta có thể chia sẻ nỗi buồn và có thể khóc trước mặt họ, hoặc có thể chia sẻ niềm vui với họ. Các hệ lụy khó tả này chính là gia đình đấy!
Chúa Giêsu xác định: “Phần anh em, đừng để ai gọi mình là ráp-bi [thầy], vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23:8). Nếu là hung đệ thì chúng ta phải làm gì? Thánh Phaolô cho biết: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2:5).
***
BÀI 4: Gợi ý kết hiệp với Chúa
Chúng ta rất cần có Thiên Chúa trong cuộc đời mình, nhưng quan trọng hơn là chúng ta phải kết hiệp mật thiết với Ngài. Có nhiều điều chúng ta có thể làm để sự hiện diện của Chúa rõ ràng hơn và phong phú hơn. Đây là 5 gợi ý giúp bạn kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.
DÀNH THỜI GIAN CHO CHÚA
Dành thời gian cho Chúa không chỉ là tới nhà thờ tham dự các giờ phụng vụ. Mỗi ngày chúng ta nên dành thời gian để sống riêng với Chúa. Hãy kết hiệp với Ngài và cho Ngài biết điều gì đang diễn tiến trong cuộc đời bạn.
CHÂN THẬT
Thiên Chúa biết rõ tất cả, vì thế chúng ta không thể viện cớ gì để biện hộ. Chân thật là cách tốt nhất để giao tiếp với mọi người, nhất là đối với Thiên Chúa.
CẦU NGUYỆN
Hãy cầu nguyện khi bạn đứng chờ xe buýt, chờ đèn đỏ, khi đi dạo, khi tập thể dục, khi nấu cơm, khi rửa chén,... Với người muốn kết hiệp với Chúa, người ta có thể cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc, thậm chí cả khi chúng ta đang lái xe. Cầu nguyện là cách tốt để tâm sự với Ngài về mọi nhu cầu, mọi nỗi niềm của chúng ta. Cầu nguyện sẽ giúp bạn mạnh mẽ hơn và đến gần với đức tin.
HIỂU BIẾT GIÁO HUẤN CỦA CHÚA
Hãy làm quen với việc đọc Kinh Thánh và hiểu biết các giáo huấn của Thiên Chúa. Hãy tìm hiểu việc hy sinh và cách sống tốt. Khi biết Chúa và các giáo huấn của Ngài, bạn sẽ cảm thấy được kết hiệp với Ngài sâu sắc hơn.
ƯU TIÊN THIÊN CHÚA
Dù gì thì Thiên Chúa cũng phải là ưu tiên số một trong cuộc đời chúng ta. Chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng ban phúc lành cho chúng ta để chúng ta có thể sống kết hiệp với Ngài. Ngài là tất cả!
Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:9 và 14). Đấng Emmanuel là Thiên Chúa ở với chúng ta.
45.Con trẻ lớn lên, đầy khôn ngoan, ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người--Lm. Jos. Đăng
Hôm nay chúng ta mừng kính Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Bà và Thánh Giuse, một gia đình gương mẫu cho mọi gia đình trên thế giới. Bài Tin Mừng cho chúng ta một hình ảnh của đời sống gia đình, dù đó là gia đình Thánh. Các Ngài đã chu toàn lề luật Do Thái lúc đó: "Đủ ngày thanh tẩy theo luật Môisen, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa... và cũng để dâng lễ vật cho Chúa". Chính tại nơi đó Thánh Thần Chúa đã tỏ cho ông Simêon và và Anna về ơn Cứu Độ của Thiên Chúa đối với dân Người. Cũng tại nơi đây, được ơn linh ứng, ông già Simêon đã tiên báo về sự tham gia của Đức Maria trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sau này.
Nhìn vào xã hội ngày nay, nhiều nền tảng gia đình lung lay, rối loạn và khủng hoảng. Đây chính là lúc mỗi người tín hữu Kitô phải nhìn lại mình trong ơn gọi gia đình qua gương mẫu của gia đình Thánh Gia Thất mà củng cố gia đình trong đức tin và cuộc sống. Một trong những điều căn bản nơi hạnh phúc gia đình mà nhiều khi người ta quên lãng, tức mỗi thành viên gia đình biết trao tặng tình yêu thương và thời giờ cho nhau. Chúng ta thường mong đợi người khác quan tâm đến những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, nhưng chính chúng ta lại ít khi nhớ tới hoặc để ý tới nhu cầu của những người thân yêu của mình. Bởi vì tình yêu thương không phải là cho đi cái gì, mà chính là cho đi bản thân mình. Nhưng không thể nói được là chúng ta đã cho đi chính mình hay tận hiến nếu chúng ta còn là nô lệ "cái tôi" ích kỷ nơi chính bản thân mình. Bao lâu chúng ta biết biến đổi bản thân mình để chấp nhận một cuộc sống yêu thương nơi tương quan vợ chồng, cha mẹ với con cái, chúng ta sẽ thể hiện một sự tận hiến của tình yêu thương.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hằng nhắc nhở chúng ta về sự thánh thiêng của gia đình khi ngài gọi gia đình là: "Nền tảng của Giáo Hội". Còn Đức Phaolô VI gọi gia đình là: "Cung Thánh của Giáo Hội", là "trường học đầu tiên của con cái, mà cha mẹ là thầy dạy". Thật vậy, gia đình là Giáo Hội đầu tiên, nơi tình yêu chung thủy của hai vợ chồng thể hiện như dấu chỉ tình yêu chung thủy giữa Chúa Kitô và Giáo Hội: gia đình nơi trẻ em được Rửa tội qua đức tin của cha mẹ, ông bà. Gia đình còn là trường học đầu tiên, nơi bàn ăn gia đình, các em được học hiểu ý nghĩa của Tiệc Thánh Thể trước khi các em được Rước lễ lần đầu; cũng nơi đó mỗi thành viên gia đình tha thứ cho nhau những lầm lỗi, để cho con cái học hiểu hiệu quả nơi nhiệm tích Hòa giải. Gia đình còn là nơi đặc biệt sống lời Chúa Giêsu đã phán: "Đâu có hai ba người hợp nhau cầu nguyện nhân danh Thầy, Thầy ở giữa họ" (Mt 18,20)
Như vậy, trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, khi mỗi người chúng ta biết thành tâm tìm kiếm Chúa và phụng sự Ngài, chắc chắn mỗi gia đình sẽ thể hiện được ơn gọi sống Thánh giữa đời của mình, tìm được bình an hạnh phúc cho nhau ở trần gian và đạt được hạnh phúc vĩnh cửu quê trời. Vì Thiên Chúa luôn là chìa khóa của hạnh phúc nơi cuộc sống gia đình.
Ước mong mỗi bậc cha mẹ luôn là tấm gương của tình yêu chân thành, tình yêu vô vị lợi, của hy sinh, chấp nhận, tha thứ và quảng đại trong cuộc sống hôn nhân. Vì con cái chỉ có thể lớn lên, khôn ngoan, có ơn nghĩa cùng Thiên Chúa nếu như chúng cảm nhận một bầu khí thánh thiện đạo đức nơi cha mẹ, như gương lành của Đức Maria và Thánh Giuse khi xưa.
Ước mong con cái ngày nay biết nhìn gương Chúa Giêsu đã vâng lời khiêm hạ với Đức Mẹ và Thánh Giuse suốt 30 năm trường dưới mái nhà Nazareth để trở nên một tấm gương hiếu thảo cho mọi người con biết thực thi lệnh truyền của Thiên Chúa: Vâng lời và yêu mến cha mẹ. Vì niềm vui và hạnh phúc của cha mẹ cũng là nơi con cái mình.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhóm lên trong mỗi phần tử trong gia đình ngọn lửa tình yêu Chúa để mỗi người biết sống trọn vẹn ơn gọi của mình, để gia đình chúng ta có hạnh phúc thật như gia đình Nazareth xưa. Amen.
46.Lễ Thánh Gia--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
Hơn hết tất cả, lễ Giáng sinh thật sự là một lễ dành cho gia đình. Và trong khi tâm trí chúng ta còn đang hướng về Bêlem và Thánh gia, thì các bài đọc Phụng vụ hôm nay lại nhắc đến nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống gia đình. Nói đến Thánh Gia, có lẽ là nói đến một cái gì xa vời chăng, vì gia đình chúng ta đây có lẽ còn quá cách xa gia đình lý tưởng này.
Chúng ta đừng quên rằng Maria và Giuse, cũng như các bậc cha mẹ khá, đều phải đương đầu đối diện với biết bao vấn đề khó khăn. Bóng đen của thập giá đã phủ xuống chiếc nôi ở Bêlem, đã tràn vào trái tim Mẹ Maria khi nghe lời tiên tri lạnh lùng của Simêon, nào là Con trẻ sẽ nên cớ vấp phạm của nhiều người trong Israel, nào là trái tim của Mẹ sẽ bị lưỡi gươm sắc đâm thâu qua. Ngày từ đầu con trẻ mà Maria và Giuse hết lòng yêu thương trìu mến lại là một huyền nhiệm to lớn, và khi con trẻ trưởng thành dưới sự bao bọc của mình, Maria và Giuse chỉ biết hết lòng phó thác tín nhiệm vào Thiên Chúa mà thôi. Chúng ta cũng phải làm như thế thôi. Gia đình là một định chế lâu đời nhất của nhân loại, và gia đình đã tồn tại đến ngày nay là vì nó được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Chúng ta có thể không có khả năng làm xoay chuyển thế giới nhưng ảnh hưởng của cúng ta vẫn có thể vươn ra bao bọc lấy gia đình tổ ấm chúng ta.
Cũng giống như bất cứ kế hoạch đáng giá nào khác, cuộc sống gia đình muốn thành công mỹ mãn phải cần đầu tư nhiều thời giờ và sức mạnh. Gia đình hạnh phúc không tự dưng mà đến. Tình yêu, hoà điệu, kính trọng lẫn nhau, vốn là những yếu tố cơ bản của một gia đình hạnh phúc, phải được chứng minh bằng hành động cụ thể. Câu Latinh “Lời nói bay qua, gương bày lôi kéo” (Verba volant, exampla trahunt). Gương sáng là những lời giảng dạy hùng hồn nhất. Những thái độ yêu thương ân cần chăm sóc, vốn rất cần trong những buổi ban đầu, cũng có nhiều ảnh hưởng sâu đậm và dài lâu. Trong cuộs sống sau này, con cái sẽ trở nên những gì mà chúng được nhào nặn, uốn nắn, được hấp thụ, và mội khi chúng học được cách cho đi và nhận lãnh, thì đồng thời chúng cũng sẽ phát triển được sự hiểu biết tha nhân một cách trưởng thành hơn.
Đây là cơ hội tốt cho những người mới trưởng thành suy nghĩ lại về tình yêu và lòng kính trọng mà họ cần biểu lộ với cha mẹ mình, vì đối xử tử tế với cha mẹ là một việc quí giá trước nhan Thiên Chúa. Buồn thay, về phương diện này, giới trẻ thường không sống phù hợp với tinh thần phúc âm cho lắm.
Cha mẹ ngày nay thường hay bị hoang mang bối rối không biết cái gì đang xẩy ra, khi thấy con cái đang trưởng thành lại hay diễn tả những giá trị cũng như niềm tin khác với thế hệ trước. Cũng cần phải tỏ lòng tôn kính đặc biệt với ông bà nội ngoại trong quãng đời về chiều, và đừng để các ngài kết thúc cuộc đời trong nỗi cô đơn dày vò. Hơn bất cứ gì khác, điều đáng nói nhất là cần sống bình an trong vòng tay êm ấm của gia đình. Đã đành một gia đình được chu cấp đầy đủ, và một mức sống tươm tất là điều quan trọng nhưng chúng ta cũng cần nhớ rằng nếu như gia đình không duy trì cầu nguyện hướng về cuộc sống thiêng liêng, thì mọi chuyện khác cũng nhất định sẽ trục trặc mà thôi.
Đời sống gia đình không bao giờ trôi chảy êm ả mãi, ngày nay còn có biết bao khó khăn phải nỗ lực phấn đấu hơn xưa nhiều lắm. Nhưng đó là những nguyên liệu chúng ta sử dụng để hình thành nên đời sống thánh thiện của chính mình. Nhân dịp Lễ Thánh Gia, chúng ta cầu xin Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse giúp gia đình chúng ta biết sống đẹp lòng Chúa hầu đem lại một tinh thần mới cho đơn vị cơ bản nầy của xã hội loài người.
47.Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng
Giáo hội thiết lập Lễ Thánh gia để chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình, và cái gương mẫu của gia đình thánh. Chính Chúa Giêsu đã chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình qua cuộc đời của Người tại thế. Chúa chỉ dành có ba mươi năm - nhiều hơn 10 lần - sống trong trong bầu khí gia đình, có Mẹ có Cha, để thu thân luyện đức. Theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa, trinh nữ Maria được chọn làm mẹ Đấng cứu thế. Còn thánh Giu-se được chọn làm cha nuôi để săn sóc cho gia đình thánh. Chúa Giêsu bắt đầu sống trong gia đình theo nhân tính của Người như mỗi người để giúp ta dễ liên kết với Người.
Gia đình đời nay lớn hay nhỏ là đá tảng của đời sống quốc gia. Trong quá khứ, nhiều quốc gia đã muốn tiêu diệt đơn vị gia đình, nhưng thất bại. Sống và lớn lên không có gia đình, người ta có thể mất đi cái thăng bằng về đời sống tâm linh và tình cảm. Khi gia đình đổ vỡ, những căn tính về phái tính về gia đình của con cái sẽ bị thuyên giảm. Nói theo phương diện đạo đức thì gia đình là một đơn vị tôn giáo đầu tiên. Chính trong bầu khí an toàn và cái khung cảnh ấm cúng của gia đình mà những giá trị nhân bản, luân lý và đạo giáo được truyền đạt xuống cho con cháu và con cháu học được những việc làm đạo hạnh của ông bà cha mẹ.
Thiên Chúa biết rõ trước khi Người tạo dựng A-đam và Ê-va. Sách Sáng Thế Sử ghi lại: Thiên Chúa tác thành con người theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Thiên Chúa hài lòng với công việc Người tạo dựng, chúc lành cho người nam và người nữ, và phán: Hãy sinh sản cho đầy mặt đất, và khắc phục đất đai (St 1,28). Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ để làm thành gia đình, có cha có mẹ và con cái để yêu thương săn sóc lẫn nhau. Sợi dây ràng buộc gia đình lại với nhau là tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Chúa Giêsu mặc lấy thân xác loài người và sinh ra giữa nhân loại. Chính tình yêu đã khiến trinh nữ Maria chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế. Chính tình yêu đã khiến thánh Giuse đưa Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt 1,25).. Và cũng chính tình yêu đã đưa gia đình thánh trở về Na-za-rét. Ở đó thánh Giu-se cung phụng cho gia đình thánh như có thể bằng cách làm nghề thợ mộc. Giáo hội thánh hoá đời sống gia đình qua Bí tích hôn phối. Giáo hội coi Bí tích hôn phối là thánh thiện vì đời sống nhân loại mong được thánh thiện nếu muốn được phản ảnh Gia đình thánh. Gia đình thánh nêu ra tấm gương mà mỗi gia đình tốt phải noi theo. Gia đình Na-gia-rét được gọi là thánh, không phải chỉ tại Chúa Giê-su là thánh, mà còn tại Gia đình thánh đã đem ra thực hành những lời khuyên dạy khôn ngoan mà người Do thái đã tích lũy cho đời sống gia đình hạnh phúc. Đó là điều mà bài sách Huấn ca hôm nay dạy ta: Ai vâng lệnh Chúa, sẽ làm cho mẹ an lòng (Hc 3,6). Điều đó có nghĩa là người mẹ sẽ được hạnh phúc khi con mình vâng lệnh Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan.
Giáo hội trình bày Gia đình Na-gia-rét là Gia đình lý tưởng cũng ý thức được những khiếm khuyết mà có thể làm ly tán bất cứ đời sống gia đình nhân loại nào. Đó là lý do tại sao trong thư gửi tín hữu Co-lo-sê thánh Phaolô khuyên họ làm sao sống tinh thần Ki-tô giáo. Thánh nhân khuyên họ hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và hãy tha thứ cho nhau (Cl 3,12-13). Trong gia đình, các phần tử được kêu gọi mang trách nhiệm cho nhau. Thành phần tàn tật, thành phần đổ vỡ trong gia đình phải được coi là thành phần trong gia đình. Và thành phần quá cố trong gia đình cũng phải nằm trong lời cầu nguyện của gia đình.
Gia đình thánh mà Giáo hội mừng lễ hôm nay phải là mẫu mực cho mọi gia đình noi theo. Mỗi phần tử trong gia đình có thể bắt chước được những gì nơi Chúa Hài nhi, nơi mẹ Mara, nơi thánh Giu-se? Và ta cũng cầu nguyện cho sự thành đạt và hạnh phúc cho đời sống gia đình.
48.Gia đình, cộng đoàn yêu thương--Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Lc 2: 22-40: Trong cuộc sống bình dị nhưng chất chứa bao tình thương ấy, Chúa Giêsu đã sống thân mật với Cha Ngài, đã sống thảo hiếu với cha mẹ trần thế của Ngài, đã sống chan hòa bác ái với những người chung quanh.
Khi gợi lại kỷ niệm đáng ghi nhớ về gia đình của mình, Đức cố Hồng Y Marty, nguyên Tổng Giám Mục Giáo phận Paris, đã nói: “Tôi đã bập bẹ những tiếng đầu tiên về Thiên Chúa, khi nhìn mẹ tôi và cha tôi đọc kinh cầu nguyện. Tôi đã học biết sự sống, học biết sự chết, tôi đã học biết thế nào là yêu thương trong cuộc sống hằng ngày, khi tôi giao tiếp với thân nhân và những người quen thuộc. Tôi yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo Hội như đã yêu mến mẹ tôi. Tôi không học mà cũng biết người phụ nữ đó đã cho tôi sự sống và mạc khải cho tôi tình yêu”. Gương sáng của cha mẹ đã giáo dục cho con cái nhiều điều tốt.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình, mà lại là một gia đình nghèo. Ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ thơ khác, như mỗi người chúng ta. Và cha mẹ Ngài cũng là những người lao động, phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu hết các gia đình khác. Là Thiên Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con trẻ, bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che chở của những người thân. Cũng như bao trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ thơ ấu và thành niên, Chúa Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài. Ngài cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học Thánh Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa, bào, đục… trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm tại Nagiarét là một chuỗi ngày bình dị, như hàng trăm gia đình cùng thôn làng, như hàng triệu cuộc sống của con người qua các thời đại.
Đó là thời kỳ ẩn dật, vì Chúa Giêsu không để lộ chân tính đích thực của mình ra cho những người chung quanh biết. Đó cũng là thời gian chuẩn bị cho quãng đời công khai của Ngài, theo nghĩa là Ngài tích lũy cho mình những kiến thức và kinh nghiệm cần thiết cho việc rao giảng Nước Thiên Chúa sau này.
Dưới một khía cạnh khác, chúng ta có thể nói, đó là những năm tháng trao đổi, cho và nhận giữa Con Thiên Chúa và gia đình nhân loại, được đại diện nơi Thánh Giuse và Đức Maria. Nếu chỉ là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế không cần phải nhận ở nhân loại một thứ gì cả. Nhưng vì Ngài là Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, nên Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều của những người thân, nhất là của Mẹ Maria: cưu mang, sinh đẻ, nuôi dưỡng, giáo dục. Ngài cũng đã nhận rất nhiều từ cộng đoàn Nagiarét, từ Hội đường Do Thái, từ cuộc sống của những người chung quanh, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, lao động. Chúng ta khó hình dung được những điều đó, vì chúng ta có khuynh hướng đặt Thiên Chúa ở chốn cao xa mà quên điều hệ trọng là Thiên Chúa đã làm người, đã nhập thể và nhập thế.
Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều từ gia đình nhân loại, nhưng thực ra Ngài còn cho nhiều hơn, vì Ngài đã cống hiến tất cả cho chúng ta, cả bản thể Thiên Chúa, cả năm tháng, cuộc sống và cái chết của Ngài, một cách âm thầm, khiêm tốn vô vị lợi.
Trong cuộc sống bình dị nhưng chất chứa bao tình thương ấy, Chúa Giêsu đã sống thân mật với Cha Ngài, đã sống hiếu thảo với cha mẹ trần thế của Ngài, đã sống chan hòa bác ái với những người chung quanh. Rồi cha mẹ Ngài là những người kính sợ Thiên Chúa cũng đã sống hết mình với Thiên Chúa, tận tụy và thương yêu con cưng của mình. Giữa Đức Maria và Thánh Giuse thì thật là một mối liên hệ có một không hai trong lịch sử loài người, chắc chắn tình yêu thương đậm đà và lòng tôn kính là những nét đặc thù nhất, khiến Thánh Giuse được gọi là người công chính, còn Maria là người có phúc hơn mọi người phụ nữ.
Sách Huấn ca hôm nay đã nhấn mạnh đến lòng hiếu thảo của người con đối với cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ hình dung ra cách sống của Con Thiên Chúa làm người dưới mái nhà Nagiarét. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôsê đề cập đến mối quan hệ giữa những người được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn sống thành gia đình, gia đình của Thiên Chúa: đó là lòng từ bi, nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng, chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau. Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là một gia đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các thành viên trong gia đình thánh này đều là những tôi tớ của Thiên Chúa, trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng đoàn ba vị đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia đình Nagiarét là gương mẫu, là lời mời gọi đối với mỗi người chúng ta, đối với mỗi gia đình Công giáo ngày nay.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, với sự tiến bộ của ngành khoa học nhân văn và xã hội, con người càng khám phá ra chiều kích xã hội của mình và tầm quan trọng của cộng đoàn gia đình trong đời sống xã hội. Gia đình là cái nôi đầu tiên đón tiếp con người và cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết của cuộc sống và hạnh phúc. Đối với các kitô hữu, gia đình còn mang một ý nghĩa khác nữa: đó là một cộng đoàn yêu thương phản ảnh cộng đoàn của Thiên Chúa, theo gương gia đình Nagiarét. Trách nhiệm thật lớn lao của các bậc làm cha làm mẹ. Chức năng nhiệm vụ ấy cha mẹ chỉ có thể hoàn thành được nếu biết yêu thương và tha thứ như chính Chúa Kitô đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta. Đó là quy luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con cái và cha mẹ. Vì trong cuộc sống gia đình, con người có thể biến cuộc sống ấy thành thiên đàng hay hỏa ngục trần gian. Cuộc sống gia đình tạo cho cha mẹ những cơ hội quý báu để thực hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh phúc cho người khác. Cuộc sống gia đình luôn luôn đòi hỏi cha mẹ phải dẹp bỏ ý riêng mình, quan điểm riêng của mình, để tôn trọng và giúp đỡ con cái phát triển về mọi mặt.
Do sự khác biệt về tính tình, môi trường giáo dục, tuổi tác và sở thích, nên chuyện xung đột, căng thẳng, là chuyện đương nhiên không thể tránh được giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Nhất là trong một vài hoàn cảnh khó khăn về kinh tế tài chính. Muốn vượt qua những cảnh xung đột, những giờ phút căng thẳng ấy, mỗi người, dù là vợ hay chồng, cha mẹ hay con cái, đều phải thấm nhuần tinh thần của Chúa Kitô: “Tôi đến để phục vụ chứ không để được phục vụ”. “Ai muốn làm đầu thì hãy làm tôi tớ phục vụ mọi người” (x. Mt 20,26-28). Ở đây, cha mẹ có trọng trách nêu gương cho con cái, vợ chồng có trách nhiệm làm chứng cho nhau tình yêu quảng đại và vô vị lợi của Thiên Chúa. Lời căn dặn của Thánh Phaolô phải là phương châm cho các bậc cha mẹ cũng như con cái trong gia đình: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Ngài mà cảm tạ Chúa Cha”(Cl 3,17).
Như thế, gia đình kitô hữu, theo gương đời sống gia đình của Thánh Gia Thất, với tình yêu thương và tha thứ, với tinh thần phục vụ quảng đại và vô vị lợi, sẽ là ngọn đèn tỏa sáng, sẽ là cái nôi hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho anh em đồng bào trong xã hội chúng ta hôm nay.
49.Suy niệm của Lm Hà Ngọc Đoài
"Con trẻ lớn lên đầy không ngoan." (Lc 2:40 ) Gia đình là hai chữ nói lên nhiều kỉ niệm êm ấm và yêu thương cho mọi người. Cho dù con ngườii ở khác văn hóa chủng tộc, tiếng nói.. gia đình vẫn là cội nguồn, trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, từ đó mọi người được sinh ra. Khi gặp một người mới lạ và muốn làm quen, chúng ta thường tìm hiểu gia đình của họ. Thấy một đứa trẻ ngoan, ta khen "con nhà ai ngoan thế!" Cha mẹ biết giáo dục con, xã hội được một người tốt, bớt một người xấu. Con cái nên người tốt là nhờ giáo dục tại gia đình, vì thế ca dao Việt Nam có câu "con nhà tông không giống lông cũng giống cánh". Giữa xã hội đa văn hóa, mỗi gia đình có những lối sống khác nhau. Tuy vậy gia đình Kitô giáo vẫn là khuôn mẫu cho mọi gia đình khác. Cô Dorothy Day đăng kể sự hạnh phúc đời mình trong tờ báo New York Times. Khi còn nhỏ cô chưa biết đến Thiên Chúa, nhưng cô thích làm bạn với những người thường đi dự lễ. Cô nhận thấy rằng mỗi khi thấy ai đi lễ về, thì gương mặt của họ phảng phất nét đẹp linh thiêng và hiền dịu. Cô nghĩ rằng người Công Giáo chỉ đi lễ ngày Chúa Nhật mà thôi. Nhưng một buổi sáng sớm, cô chạy sang nhà một người bạn rủ đi chơi. Cửa nhà mở. Gõ nhẹ, không ai trả lời. Rón rén bước vào thì thấy cả gia đình đang quỳ gối cầu nguyện trước bàn thờ! Cô bạn nhỏ cũng qùy chung với gia đình! Nét mặt đẹp như thiên thần! Bâ giờ cô Dorothy mới biết rằng người Công Giáo tốt là nhờ biết thánh hóa đời họ mỗi ngày và nhờ vậy họ sống quây quần và nâng đỡ nhau. Chỉ tình cờ trông thấy sinh họat thường nhật của một gia đình công giáo, mà cô như thấy một bí mật trong đời! Đó là gia đình cầu nguyện! Cô diễn tả niềm vui được thấy một gia đình cầu nguyện và từ đó cô cũng xin học Đạo và được ơn sống an bình giúp cô trải qua những khó khăn thử thách trong đời sống. Đây chỉ là một trong những gương sống Đạo âm thầm của các gia đình Công Giáo. Còn nhiều gia đình có những sinh hoạt riêng nữa mà cô chưa được biết. Những sinh hoạt linh thiêng đó cũng đã giúp cho nhiều gia đình sống trong hạnh phúc.
Thực Hành: “Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh chị em.”(Col 3:16) Xã hội kỹ nghệ hôm nay gây khó khăn cho nhiều gia đình! Họ ít có giờ cầu nguyện chung! Vì thế mà mỗi ngày tình tương trợ trong gia đình bị giảm đi! Thế rồi gia đình trở nên “quán trọ”! Xin cho mọi gia đình Kitô hữu là mái ấm đầy yêu thương.
50.Lễ Thánh Gia Thất--Phan Hữu Lộc
Lễ Thánh Gia 2002 đến với chúng ta hôm nay quả thực là đúng thời, đúng lúc, vì thời buổi ngày nay, trong nước cũng như ở hải ngoại, gia đình Công giáo Việt-nam hiện đang và đã gặp nhiều rạn nứt, nếu không nói trầm trọng. Tình yêu vợ chồng, tình mẹ cha, con cái... không còn được khăng khít như xưa. Vì đâu? Vì xã hội quê hương đã biến hóa, làm cho rất nhiều gia đình tan tác, con cái nhỏ tuổi lại chỉ còn biết đi kiếm ăn; giá trị truyền thống yêu thương, hiếu đễ của cha ông, đã bị đảo ngược; hoặc vì bị ngoại cảnh văn minh vật chất của nước người, chỉ chạy theo hưởng thụ khoái lạc; vì nhiều tà thuyết ra đời hô hào cuộc sống mới như tự do kết hôn, tự do ly dị như ta thấy dưới đây.
BỨC TRANH ẢM ĐẠM
Linh Mục Augustine S.J trong bài Suy niệm Lễ Thánh Gia năm 1999, đã nhập đề, trước khi nói đến nhìn lên gương thánh thiện của gia đình Nagiarét:
«Mừng lễ Thánh gia năm nay (1999) người Công giáo Việt Nam biết rõ hình ảnh gia đình ở VN cũng như trên thế giới không mấy rực rỡ qua các phương tiện truyền thông.» Rồi ngài nhắc đến vụ «cậu bé Đỗ như Hàn (Johnathan Prevette) 6 tuổi, đã bị đình chỉ đến trường vì vi-phạm chính sách khuấy rối tình dục. Còn ở Việt Nam, dư luận chưa hết sôi nổi vì những vụ gia đình nghèo, nên đã gả con cho người ngoài, bất kể tới hạnh phúc của con, thậm chí còn có bố mẹ cho con đi phục vụ khách hàng du lịch tình dục ở một nước bên cạnh...» (Vietcatholic 26.12.1999)
Và ngày nay, bốn năm sau, ta còn có thể kê thêm nhiều trường hợp đau thương không kém: tình vợ chồng (tương lai) không do tình yêu định đoạt, nhưng do tiền bạc chàng trai giàu có, bỏ ra trước để nuôi người con gái nghèo, ham học. Hai bên ký giao kèo sẽ làm lễ cưới sau khi nàng dùng tiền của chàng để học và thi đỗ vào đại học! Nếu rủi ra, nàng không chịu lấy chàng ân nhân cao-cả hào hùng đó, khi đã đỗ đạt, thì nàng phải bồi tiền gấp đôi cho chàng để «dứt nợ trần ai!». Rất nhiều cô gái nghèo tiền bạc, nhưng giàu thông minh, đã phải rơi vào «hũ gạo» đau thương đó!!!
NẠN LY DỊ
Tài liệu Hội nghị giáo hoàng về gia đình họp trong tháng 10.2002, đã đưa ra nhận định đáng buồn về vợ chồng ngày nay ly dị quá dễ dàng: «(...) Sự tan rã quá sớm về sự trói buộc vợ chồng là một đặc điểm của thời đại chúng ta, khắp nơi và làm cho xã hội trở nên lung lay. Sự ly dị dễ dàng làm suy yếu tình vợ chồng. (...) Ly dị không chỉ là một khủng hoảng nhất thời, nhưng ảnh hưởng lâu dài và sâu xa đến những người trong cuộc. Việc cắt đứt và hủy bỏ mọi liên lạc giao tiếp, luôn để lại những vết không bao giờ hàn gắn được.
(...) Hội nghị nhắc đến hiện trạng thế giới càng ngày càng thiên về vật chất, và nhiều gia đình tan rã vì lý do tài chánh, cũng như những lớp chống đối chỉ trích của lớp người đòi hỏi tự do phóng túng sai lầm, không dám dấn thân, không muốn sống chung và đặt nặng vấn đề tình dục...
(...) Hội nghị tin tưởng rằng nền văn hóa hiện tại cổ động lối sống mới, thời trang mới, giải trí mới, làm cho người ta ngờ vực giá trị hôn nhân và phát triển ý tưởng «việc kéo dài tình vợ chồng đến trọn đời là một ảo tưởng». (Vietcatholic News 13.11.02)
PHƯƠNG THUỐC
Trước tình trạng suy đồi của nhiều gia đình Công giáo Việt Nam (vì không phải tất cả), chỉ còn một phương thuốc: «phải đặt lại nấc thang giá trị: Tình yêu không chỉ là tình dục và khoái lạc, nhưng là một kế hoạch cho cuộc sống lứa đôi bằng cách hợp nhất và tương trợ cởi mở» (Hội nghị giáo hoàng)
Ta có thể đi xa hơn nữa: phải đặt để tình yêu gia đình, vợ chồng con cái trong tình yêu của Thiên Chúa đối với Giáo Hội, trong tình yêu Thiên Chúa đối với mỗi gia đình. Hãy sống lại bí tích hôn nhân lãnh nhận ngày mới thành hôn; hãy biết yêu thương chân thành thì biết tha thứ, hy sinh, chịu đựng, dạy dỗ con cái vì tương lai hạnh phúc của con mình, chứ không vì mình được nở mặt nở mày với thiên hạ, để được lợi lộc, được có tiếng con tôi thế này, thế kia. Tình yêu chân thật là tình yêu nghĩ đến kẻ khác, nghĩ đến kẻ mình yêu, chứ không nghĩ đến chính mình!
Ta hãy mượn Lời Phụng vụ lễ Thánh gia hôm nay để cầu xin Chúa ban cho ánh sáng và sức mạnh thi hành điều Chúa mong đợi:
«Lạy Chúa, Chúa đã muốn ban cho chúng con Thánh gia để làm mẫu mực, xin cho chúng con, noi gương ba đấng để thực hành nhân đức đời sống gia đình, và liên kết với tình yêu Chúa, trước khi chúng con được đoàn tụ đời đời trong niềm vui của nhà Cha» (Lời Nhập Lễ)
«Lạy Chúa, khi dâng của lễ làm hòa chúng con với Chúa, chúng con khiêm cung cầu xin: nhờ lời cầu của Maria, Mẹ Thiên Chúa, và lời cầu của thánh Giuse, Chúa củng cố gia đình chúng con trong ơn Chúa và ban cho chúng con được bình an» (Lời Dâng lễ).
51.Con cái là triều thiên của cha mẹ.--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Triều thiên là dấu chỉ của vinh dự và quyền lực. Tất cả đều ước mong được đội triều thiên. Khẳng định con cái là triều thiên của cha mẹ, có nghĩa là: các cặp vợ chồng đều mong ước có con.
Sinh con đáp ứng nhiều khát vọng, vừa thuộc bản năng, vừa mang đặc tính xã hội.
Nói thuộc bản năng, vì, nhờ con cái, cha mẹ kéo dài sự sống trong thời gian, từ thế hệ này sang thế hệ kia.
Nói rằng, mang chiều kích xã hội, vì, con cái sẽ phụng dưỡng cha mẹ trong lúc tuổi già: “Trẻ cậy cha, già cậy con” (ca dao).
Gia đình nhân loại cũng một niềm khát khao Đấng muôn dân mong đợi, Giê-su/Messia, Danh Ngài chính là Thiên Chúa cứu độ.
Bài đọc I, trích sách Đức Huấn Ca, đề cao chữ hiếu đối với cha mẹ, tổ tiên. Những hành động hiếu thảo đứa con phải làm là lệnh truyền của Thiên Chúa. Khi người con sống hiếu thảo với cha mẹ, nó làm đẹp lòng Chúa, hành động đáng được chúc lành và được thưởng công: “Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi, ai thảo kính mẹ mình thì như người thu được kho tàng và khi cầu nguyện sẽ được nhận lời” (Hc 3, 3).
Mô hình của sự hiếu thảo là Chúa Giê-su. Trong tư cách là “con” trong gia đình Thánh Gia, Giê-su luôn tỏ ra là người con ngoan. Phúc Âm ghi nhận: Ngài trở về Nazareth vâng phục hai ông bà và quyết tâm ép mình học cho được vâng phục theo ý Chúa muốn.
Câu chuyện dâng Chúa trong đền thờ mạc khải nhiều yếu tố tích cực của lịch sử cứu độ:
* Một là: Thiên Chúa làm người là chân lý đức tin, là có thật. Giê-su Kitô, Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đến để hòa giải để ban ơn cứu độ. Đức Giê-su là con người thật: có một mái ấm gia đình, một nơi chốn cư ngụ, một luật lệ để tuân thủ...
* Hai là: Giê-su là triều thiên của gia đình Nazareth, gia đình nhân loại.
Tất cả vui mừng hân hoan việc Người sinh ra. Cụ già Simêon bộc lộ niềm vui được gặp Hài Nhi trong đền thờ. Cụ được lời Chúa hứa: sẽ không chết trước khi thấy Đấng Kitô của Thiên Chúa. Lời hứa cho Si-mê-on, cũng là lời hứa cho toàn dân: “hôm nay Đấng cứu thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô, Chúa chúng ta” (Lc 2, 11). Như vậy, niềm vui của cụ, cũng là niềm vui của chúng ta và lời tạ ơn kia cũng là của mỗi người.
Như cụ Si-mê-on, chúng ta bồng Hài Nhi trên chính cánh tay mừng mà dâng lời chúc tụng: “Giờ đây, lạy Chúa, xin để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an, như lời đã hứa, vì chính mắt tôi đã được nhìn xem ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Ánh sáng soi đường cho dân ngoại và là vinh quang của Israel dân Chúa” (Lc , 29 – 32).
Giáo Hội dạy chúng ta mừng lễ thánh gia là để nêu gương về sự thánh thiện của gia đình đặc biệt: Giê-su, Đức Mẹ và thánh Giuse. Gia đình thánh hệ tại ở tình liên đới hiệp thông, biết hy sinh cho nhau.
Thưa anh chị em,
Tình liên đới hiệp thông là nền tảng sự thánh thiện và ơn cứu độ. Nó không ban tặng cách ngẫu nhiên, cũng không thể kiến tạo nó bằng lý thuyết suông, nhưng bằng sự cố gắng bồi đắp liên lỉ, trên căn bản của sự lắng nghe, vâng phục thánh ý Chúa và quan tâm săn sóc nhau.
Phúc Âm ghi nhận: cha mẹ hài nhi Giê-su chu toàn mọi lề luật Chúa truyền, đủ ngày thanh tẩy theo luật Mô-se, các ngài đem con lên Jerusalem để hiến dâng cho Chúa và khi làm trọn mọi việc luật truyền, các ngài trở về Nazareth, Giê-su ở đó giãi dầu học vâng phục.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, dạy cách sống tình liên đới hiệp thông là luôn ý thức mình là người được tuyển chọn của Chúa, nên hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau. Hãy lấy đức yêu thương làm nên tảng cho mọi lời nói, cử chỉ, việc làm. Đặc biệt phải lấy tình yêu thương mà sẵn sàng tha thứ cho nhau. Tuân thủ những lời khuyên tông đồ, chúng ta mới có thể kiến tạo một gia đình ấm êm hạnh phúc.
Mừng lễ Thánh Gia hôm nay, chúng ta học nơi gia đình mẫu mực này hai điểm căn bản:
* Một là: luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa thể hiện qua bổn phận hàng ngày. Dầu ăn, dầu uống hay làm bất cứ việc gì, chúng ta làm vì Danh Chúa Kitô, nhờ Ngài mà tạ ơn Thiên Chúa Cha. Chính trong sự lắng nghe, thực thi ý Chúa, chúng ta nên giống Giê-su và cũng được kể như con yêu dấu của Người.
* Hai là: tình yêu tha thứ là nền tảng tình liên đới hiệp thông. Không có tha thứ thật lòng, thì không có tình yêu thật, cũng không thể có hiệp thông đích thực. Kết quả là chia rẽ, hận thù, ghen ghét, cuộc sống chung trở nên hỏa ngục, không được bình an, hạnh phúc và cũng chẳng có thiên đàng. Chỉ nhờ tình yêu tha thứ, chúng ta mới có thể kiến tạo gia đình theo khuôn mẫu gia đình Thánh Gia. Xứng đáng được Chúa chúc lành và ban ơn cứu độ. Amen.
52.Gia đình thánh--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Hôm nay, Giáo Hội giới thiệu với mọi Gia Đình Công Giáo về Gia Đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Một Gia Đình lý tưởng, gương mẫu mà mọi Gia Đình Công Giáo phải bắt chước noi theo. Gia Đình Thánh Gia đã sống thế nào để nêu gương cho mọi người noi theo, bắt chước?
Thiên Chúa đã chọn cho Con của Ngài một hình thức thông thường nhất mà bất cứ ai muốn có mặt trên thế giới này đều phải chấp nhận một gia đình. Chúa Giêsu cũng có một gia đình. Mẹ Ngài là Maria và cha của Ngài là thánh Giuse. Thiên Chúa không muốn cho Con của Ngài từ trên trời xuống như một vị tiên giáng trần hay không như một Phù Đổng Thiên Vương vươn vai lớn mạnh, hay như một vị thần trong một câu chuyện thần thoại nào đó. Chúa Giêsu đã được Mẹ Maria cưu mang trong cung lòng trinh khiết của Mẹ do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúa được giáng sinh nơi hang đá máng lừa nghèo nàn vùng Bêlem...Thiên Chúa đã chọn cho Con của Ngài sinh ra trong cảnh khó nghèo để cảm thông với kiếp sống khó nghèo của đa số người.
Thiên Chúa đã ban cho Con của Ngài một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương, tôn trọng và chăm sóc, chăm lo cho nhau. Gia đình Nagiarét là Gia đình lý tưởng vì trên thuận dưới hòa, yêu thương, tôn trọng và đùm bọc nhau. Xét về mặt thiêng liêng, Chúa Giêsu là Chúa, nên Ngài lớn lao và uy quyền hơn Cha Mẹ của Ngài, nhưng trong Gia đình thánh: Chúa Giêsu luôn tôn trọng, yêu thương, vâng lời Cha Mẹ của Ngài. Ngược lại, Mẹ Maria và thánh Giuse luôn yêu thương, tôn trọng Chúa Giêsu. Cả gia đình thánh luôn luôn trên thuận dưới hòa, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Chính vì thế, thánh sử Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp về Thánh Gia như sau: “ Và Ngài đã xuống với ông bà về Nagiarét. Và Ngài hằng tùng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ hết các điều trong lòng bà. Và Đức Giêsu cứ tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dạng, và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta “ ( Lc 2, 51-52 ).
Vâng, gia đình là nền tảng của xã hội và Gia đình cũng là nền tảng của Giáo Hội. Xã hội mà thiếu vắng các gia đình tốt, gia đình lành mạnh thì chắc chắn không thể có xã hội tốt đẹp được. Do đó, cuộc sống của mọi gia đình phải có đạo đức, thánh thiện thì Xã hội và Giáo hội mới tốt đẹp được. Thực tế, trên thế giới có biết bao gia đình tốt đã lưu danh muôn đời và để lại biết bao ấn tượng tốt cho nhân loại, cho mọi người. Tuy nhiên, bên cạnh các gia đình tốt vẫn còn đó đây một số gia đình xấu. Trước một thế giới văn minh, nhiều gia đình đã xuống cấp trầm trọng: nan ly dị, ly thân, trẻ em bụi đời, nạn mại dâm, phá thai, ma túy, sì ke hầu như càng ngày càng gia tăng. Trước thực trạng ấy, việc đào tạo lớp trẻ, và hướng dẫn Giáo lý Hôn nhân cần phải được quan tâm kỹ lưỡng hơn nữa. Đức cố Giáo Hoàng Piô XI đã viết: “ Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao ‘’.
Lễ Thánh Gia hôm nay là một dịp để chúng ta tự vấn xem gia đình chúng ta như thế nào? Gia Đình Thánh: Chúa Giêsu, Mẹ Maria, thánh Giuse có là mẫu gương sáng ngời cho mỗi gia đình chúng ta không? Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay số 22 đã viết: » Bằng việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã hợp nhất với mọi thành phần của nhân loại. Ngài đã làm việc với đôi tay con người, suy nghĩ với tâm trí nhân loại, hoạt động bởi sự chọn lựa, đã yêu thương với một trái tim nhân loại. Ngài sinh ra bởi trinh nữ Maria, Ngài đã thực sự là một con người ở giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự ngoại trừ tội lỗi...Ngài đã trình bày cho chúng ta một con đường, và nếu chúng ta đi theo con đường đó, sự sống và cái chết đã được trở nên thánh thiện và mặc cho nó một ý nghĩa mới “.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa cũng có một gia đình để sống những năm tháng ở trần gian này, xin ban cho mọi gia đình Kitô hữu luôn biết noi gương Thánh Gia để mọi gia đình trở nên nhhững gia đình thánh thiện, đạo đức và gương mẫu. Amen.
53.Một gia đình tuyệt vời--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mỗi năm mừng lễ Thánh Gia, tôi vẫn cảm thấy thật hạnh phúc khi được diễm phúc nói về gia đình của Chúa Giêsu. Một gia đình vô cùng thánh thiện: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse sống yêu thương, hài hòa, trên thuận dưới hòa, luôn là mẫu gương sáng cho mọi gia đình.Đoạn Kinh Thánh ghi lại nét rất ấn tượng và rất đẹp của gia đình thánh như sau: ” …Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các Ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.Còn Đức giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta “ ( Lc 2, 51-52 ).
Khi đề cập tới Thánh Gia, tôi lại nhớ hình ảnh hết sức ấn tượng và gợi cảm của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi về quê hương Ba Lan vào dạo tháng 5 năm 1987, Ngài đã làm hai cử chỉ để đời: viếng mộ song thân và cử hành Thánh Lễ đặc biệt cho các đôi vợ chồng. Viếng mộ cha mẹ, Đức Thánh Cha không những muốn lên lòng hiếu thảo, tôn kính, tri ân cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục Ngài, nhưng Ngài còn muốn đề cao giá trị của đời sống hôn nhân. Đức Thánh Cha muốn nói lên với tất cả nhân loại hãy bảo vệ gia đình, hãy trung thành với nhau. Bởi vì khi người nữ và người nam nói lên lời cam kết yêu thương nhau và yêu thương nhau trọn đời, họ lập lại lời của chính Chúa Giêsu, Đấng đã yêu thương nhân loại và yêu cho đến cùng bằng chính cái chết ô nhục trên thập giá để cứu độ và để gánh tội cho mọi người theo ý Thiên Chúa Cha.Gia đình của Chúa Giêsu trong đó mẹ Maria và thánh Giuse luôn hết lòng tôn kính lẫn nhau. Dù rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng nơi gia đình thánh, Chúa Giêsu luôn một lòng hiếu thảo, vâng lời cha mẹ của Người. Còn thánh Giuse luôn làm gương là một gia trưởng đầy yêu thương, luôn nắm vững cột trụ của gia đình. Mẹ Maria là mẫu gương tuyệt vời của mọi người mẹ trần thế, mẹ luôn cần cù làm những việc trong nhà, xứng đáng là người nội trợ đảm đang, hết mực yêu thương chồng và yêu thương con. Gia đình thánh quả thực đã nêu gương mẫu tuyệt vời cho mọi gia đình. Dưới lăng kính của người đời, gia đình thánh không giầu có, không sang trọng như nhiều gia đình khác, nhưng với con mắt đức tin, gia đình thánh là một gia đình hết mực thánh thiện, hết mực đầm ấm, yêu thương, gia đình thánh là một gia đình hết sức hạnh phúc.
Nếu chúng ta nghe rađiô, xem Tivi, đọc báo, xem mạng, chúng ta thấy quả thực trên thế giới nhiều nước nền tảng gia đình đang bị lay chuyển mạnh mẽ: nhiều gia đình ly tán, nhiều đôi vợ chồng mất hạnh phúc, truyền thống ấm êm hạnh phúc của các gia đình nơi nhiều nước ngày càng sút giảm đến báo động. Ly thân, ly dị, trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi, lang thang bụi đời đi vào những con đường tội lỗi, ma túy, mãi dâm, cướp dựt, thanh niên thanh nữ nổi loạn, nạn nạo phá thai vv…càng ngày càng gia tăng cách khủng khiếp. Gia đình là nền tảng của xã hội. Đối với người công giáo, gia đình còn là nền tảng của Giáo Hội, là Hội Thành nhỏ. Nếu không có những gia đình tốt, xã hội sẽ không lành mạnh. Chính vì thế, không lạ gì, Đức Cố Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gióng lên tiếng nói: ” Hãy trung thành với nhau. Hãy yêu thương nhau và hãy bảo vệ gia đình “. Mà không những chỉ riêng Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói lên tiếng nói khẩn thiết: ” Hãy bảo vệ nề nếp gia đình “ mà hầu như tất cả các Đức Cố Giáo Hoàng đều luôn nhắc nhở mọi gia đình hãy sống đạo đức, thánh thiện noi gương gia đình thánh. Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI cũng luôn nhắc nhở các gia đình: ” Hãy bảo vệ hạnh phúc.Hãy vun đắp cho gia đình luôn sống đạo đức, nề nếp gia phong “. Đứng trước sự báo động của nền tảng gia đình bị lung lay, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư chung mục vụ năm 2008 đã lấy chủ đề: ” Môi trường Giáo Dục Gia Đình Công Giáo “. Ngay trong Lời Mở đầu bức thư mục vụ, số 3, các Đức Giám Mục đã viết: ” …Giáo dục tại gia đình là vấn đề quan trọng và cần thiết, tạo tiền đề cho việc giáo dục nói chung, vì gia đình là nền tảng của Giáo Hội và Xã Hội. Nếu nền tảng gia đình được củng cố chắc chắn, Giáo Hội và Xã Hội tương lai sẽ phồn thịnh và phát triển. Qua thư Mục vụ này, chúng tôi muốn bày tỏ mối ưu tư đối với hiện trạng gia đình Việt Nam và nêu lên những đề nghị cụ thể để góp phần canh tân mục vụ trong lãnh vực này, một lãnh vực căn bản của đời sống con người và đời sống Giáo Hội “.
Gia đình là nền tảng của Giáo Hội và Xã Hội. Do đó, không có gia đình nào tuyệt vời cho bằng gia đình thánh: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Thánh Gia luôn là mẫu gương tuyệt vời cho mọi gia đình công giáo noi theo. Nếu, đời sống các gia đình không còn căn rễ, Giáo Hội và Xã Hội sẽ bị lung lay. Do đó, mọi gia đình công giáo ý thức bổn phận làm con Chúa và làm con Giáo Hội của mình hãy xây dựng gia đình theo mẫu Thánh Gia. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư Mục Vụ 2008 trong Lời Kết số 20 viết: ”Nếu gia đình là nhân tố quyết định sự tồn vong của Giáo Hội và xã hội, thì việc đầu tiên chúng ta phải nghĩ tới là củng cố và thăng tiến gia đình, để bảo đảm cho hôn nhân và gia đình có được sức sống yêu thương tràn đầy và sự thăng tiến về nhân bản cũng như lòng đạo đức“ “…Trong gia đình Nadarét mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngaon và trung tín. Xin các Ngài chuyển cầu và luôn phù trợ cho các gia đình chúng ta”.
54.Chúa Giêsu có một gia đình--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thiên Chúa đã sai con của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến trong một gia đình. Chúa đã chọn con đường bình thường như mọi người để sinh ra. Ngài có thể tự mình trên trời xuống, hay tự mình vươn vai lớn lên như Phù Đổng Thiên Vương. Ngài có thể trở thành huyền thoại nếu Ngài muốn kỳ dị, khác thường như những sự việc về nhiều nhân vật đã xẩy ra trong những câu chuyện cổ tích. Chúa không làm như vậy mà Ngài được sinh ra rất tự nhiên, hoàn toàn bình thường và hoàn toàn người. Chúa được sinh ra trong một gia đình có mẹ có cha.
Chúa Giêsu thực ra có thể sinh ra như một nhân vật thần kỳ nào đó trong các truyện thần thoại hay được giáng trần như Thánh Gióng, Tiên Nga. Nhưng Chúa Giêsu không muốn làm thế, Ngài muốn có một tổ ấm bình thường như nhiều tổ ấm khác trên thế gian trong đó một gia đình có mẹ có cha. Một gia đình như mọi gia đình nhưng rất phi thường vì gia đình của Chúa Giêsu là một gia đình thánh thiện trong đó Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là những con người hoàn toàn phi thường nơi sự thánh thiện. Một gia đình luôn luôn sống trong sự tuân phục Thiên Chúa. Theo lẽ tự nhiên, thánh Giuse là chủ gia đình phải có uy quyền tuyệt đối. Mẹ Maria là mẹ và là nội trợ. Chúa Giêsu xét theo sự thường là con, nhỏ nhất trong gia đình thánh. Nhưng cả ba nhân vật trong gia đình thánh đều sống tôn trọng lẫn nhau và hoàn toàn sống rập theo thánh ý Thiên Chúa.
Gia đình thánh luôn làm nổi bật những nét căn bản của sách đức huấn ca 3, 3-7.14-17a nêu lên, và còn hơn thế nữa gia đình thánh gia lại còn sống sáng ngời những nhân đức, luân lý của một gia đình như thánh Phaolô nêu trong thơ thánh Phaolô gửi tín hữu Côlosê 3, 12-21.Thánh gia thất đã luôn sống trong tình yêu vì gia đình của ba Đấng đặt nền tảng trên: " Thiên Chúa là tình yêu". Và như thế, thánh Luca thánh sử trong đoạn tường thuật 2, 22-40 càng làm rõ nét hơn về sự nhẫn nhục, chấp nhận đau khổ trong ý định của Thiên Chúa.
Đây là sự thử thách nghiêm trọng nhất trong đời sống của gia đình thánh gia vì sóng gió mới tạm yên sau biến cố Chúa Giêsu sinh ra, trốn qua Ai Cập và giờ đây lời tiên tri của ông già Siméon quả thực giống như một mũi tên xuyên nát tâm hồn Mẹ Maria. Tuy nhiên, thánh Giuse và mẹ Maria vẫn can đảm chấp nhận ý Thiên chúa. Sự vâng phục trong khiêm nhượng đã làm cho mẹ Maria và thánh Giuse trở nên anh hùng vì những nhân đức các Ngài thực hiện đã vượt quá sự anh hùng bình thường.
Gia đình thánh ở Nagiarét đã nên mẫu gương cho mọi gia đình noi theo, bắt chước vì rằng gia đình của mẹ Maria và thánh Giuse luôn có Chúa ở cùng. Một gia đình có Chúa ở cùng là một gia đình hạnh phúc. Chúa Giêsu đã rất là người vì Ngài đã chọn một gia đình để sinh ra và qua đó nêu gương gia đình thánh của mình cho mọi gia đình.
Năm 2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh về gia đình. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cũng ra một thư mục vụ năm 2002 nói về gia đình. Cả Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, cả các Đức Giám Mục Việt Nam và các Giám Mục trên thế giới đã luôn coi trọng gia đình.
Quả, nhiều người chắc còn nhớ tới biến cố quan trọng khi Đức thánh Cha Gioan Phaolô II vào tháng 5/1987 trở về thăm quê hương Ba Lan, Đức Thánh Cha đã làm hai cử chỉ ấn tượng và vô cùng cao quí: viếng mộ song thân và cử hành thánh lễ đặc biệt cho những đôi hôn phối. Sở dĩ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II làm hai cử chỉ ấy vì Ngài tôn trọng, đề cao vai trò sinh thành, dưỡng dục của Cha mẹ, đồng thời đề cao gia đình. Ngài gióng lên tiếng nói giữa một thế giới mà nhiều gia đình bị lung lay tới tận gốc rễ. Đức Thánh Cha nói: " Hãy gìn giữ gia đình, hãy bảo vệ gia đình".
Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình là Giáo Hội nhỏ trong đó đức tin phải được tỏa sáng tới mọi gia đình. Mẹ Maria và thánh Giuse đã rất thực tế, các Ngài không sống mông lung, không như những người trời. Các Ngài luôn tin tưởng, luôn phó thác, luôn sống tình người, luôn sống con người thật và nhờ có Chúa ở với gia đình, các Ngài đã lướt thắng tất cả. Mọi khó khăn, thử thách đều được giải quyết êm đẹp nhờ có Chúa hiện diện, ở cùng.
Hôm nay, mừng lễ thánh gia Nagiarét, mọi gia đình hãy hiểu rằng tất cả các gia đình đều có những khó khăn, nhưng nếu có Chúa hiện diện, ở cùng mọi sự sẽ được giải quyết êm đẹp, thỏa đáng.
Chiêm ngắm gia đình thánh gia Nagiarét là nhận ra rằng ba Đấng trong gia đình thánh luôn sống hài hòa, tôn trọng, vâng phục lẫn nhau và trên hết là vâng phục ý Chúa.
Chúa Giêsu quả rất thực tế khi chọn một gia đình muôn muôn vàn thánh để sinh ra, để lớn lên... Chúa nâng cao phẩm giá gia đình và làm cho gia đình có nền tảng vững chắc nhờ sự hiện diện liên tục của Ngài trong mọi gia đình.
Lạy Chúa Giêsu, xin thánh hóa mọi gia đình để mọi gia đình luôn biết noi gương gia đình thánh Nagiarét vì mãi mãi gia đình thánh là gia đình nổi bật nhất về mọi phương diện.
55.Những nét đẹp của Thánh Gia Thất--Lm. Gioan Lê Quang Tuyến
Hôm nay, Chúa nhật đầu tiên sau lễ Giáng sinh và cũng là Chúa nhật cuối cùng của năm tây lịch 2017 hôm nay, Giáo hội cử hành phụng vụ tôn kính Gia Đình Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Mẹ Và Thánh Giuse.
Ngày 17/12/2017 vừa qua, ai trong chúng ta cũng sửng sốt và rùng mình khi nghe tin về vụ án người vợ đã giết chồng tại thị xã Thuận An, Bình Dương. Theo kết luận của cơ quan điều tra của Công An tỉnh Bình Dương, Chị Diễm là nghi can đã sát hại chồng là ông Trần Thanh Tú (SN 1980, quê Sóc Trăng, tạm trú tại thị xã Thuận an) rồi phân xác phi tang ở nhiều bãi rác dân sinh trên địa bàn phường Thuận Giao, TX.Thuận An. Cũng đến thời điểm hiện nay, công an làm rõ, Diễm 1 mình gây án, chưa xác định là có đồng phạm cùng giúp sức. Theo cơ quan điều tra thông tin, nguyên nhân Diễm gây án là xuất phát từ mâu thuẫn vợ chồng. Thật là một vụ án đắng lòng làm tổn thương đời sống gia đình.
Hôm nay, Chúa nhật đầu tiên sau lễ Giáng sinh và cũng là Chúa nhật cuối cùng của năm tây lịch 2017 hôm nay, Giáo hội cử hành phụng vụ tôn kính Gia Đình Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Mẹ Và Thánh Giuse. Đây là dịp thuận lợi để Giáo hội tôn vinh đời sống gia đình và mời gọi chúng ta xây dựng đời sống gia đình theo những nét đẹp của gia đình Thánh Gia Thất.
1. Nét đẹp của việc sống tuân giữ lề luật Chúa.
Nét đẹp trước hết của Gia đình Thánh Gia Thất là sự tuân giữa luật Chúa. Thánh Giuse trong tư cách là người chủ của gia đình Nagiaret, đã tuân giữ luật Chúa như trong sách luật Mô-sê đã qui "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa. Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con”. Trước đó, Thánh Giuse cũng đã cùng Mẹ Maria tuân hành luật lệ của việc thanh tẩy đối với người nữ sau khi sanh con khi cùng nhau lên đền thờ cầu nguyện và dâng của lễ theo qui định của luật. Chính nét đẹp này của Thánh Gia Thất phải là gương mẫu cho các gia định chúng ta hôm nay.
Trong tông huấn niềm vui của tình yêu, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã mời gọi mỗi gia đình công giáo hãy noi gương Thánh Gia Thất để thể hiện nép đẹp tuân giữ lề luật Chúa qua việc chuyên cần cầu nguyện trong đời sống gia đình. Ngài nói “Cầu nguyện trong gia đình là một phương thế ưu việt để diễn tả và củng cố đức tin phục sinh. Gia đình có thể dành vài phút mỗi ngày để qui tụ với nhau trước Thiên Chúa hằng sống, nói với Ngài những về những lo lắng bận tâm, cầu xin với Ngài cho những nhu cầu của gia đình, cho một ai đó đang gặp khó khăn, xin Ngài trợ giúp ta biết sống yêu thương, tạ ơn Ngài về cuộc sống và về bao ơn lành khác, cầu xin Đức Trinh Nữ che chở chúng ta dưới tà áo Mẹ. Với những lời đơn sơ như thế, giờ cầu nguyện này có thể đem lại điều tốt lành lớn lao cho gia đình” (AM 318).
Do đó, để bảo vệ cho cuộc sống gia đình hạnh phúc chúng ta hãy noi gương Thánh Gia Thất mà chuyên chăm chu toàn luật Chúa nhất là việc cùng nhau tham dự thánh lễ và cùng nhau đọc kinh chúng trong gia đình vào ban tối hoặc sáng. Đây là yếu tố quan trọng giúp chúng ta bảo vệ hạnh phúc gia đình trong sự chúc phúc của Chúa.
2. Nét đẹp của sự đồng cộng tác trong đời sống gia đình
Nét đẹp thứ hai mà chúng ta học được nơi Gia đình Thánh Gia Thất chính là sự đồng cộng tác chăm lo cho đời sống gia đình. Tin Mừng Thuật lại rất vắn vỏi về cuộc sống đồng cộng tác này trong cuộc sống thường nhật của Thánh Gia Thất tại Nagiaret. “Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.”
Để Con trẻ Giêsu lớn khôn, ngoan hiền được mọi người quanh làng yêu mến khen ngợi, chắc hẳn Thánh Giuse và Mẹ Maria phải vất vả nhiều lắm. Thánh Giuse phải cần mẫn hơn trong lao động để có miếng cơm manh áo. Maria phải nhọc nhằn thức khuya dậy sớm để chăm lo cho gia đình có bữa cơm ngon. Và nhất là cả hai phải cùng đồng tâm trong cách giáo dục để có được con trẻ Giêsu có được những đức tính tốt của một con người hiếu thảo, ngoan hiền vơi hết mọi người và nhất là với Thiên Chúa.
Giáo dục con cái là một nhiệm vụ quan trong hàng đầu mà người cha người mẹ phải chu toàn. Cha ông chúng ta đã từng chê trách những cha mẹ không biết giáo dục con khi ví von rằng: nuôi con chẳng dạy chẳng răn, thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng”. Do đó, sự đồng lòng đồng chí hướng trong giáo dục con cái là điều hết sức quan trọng và không được khoán trắng cho ai khác kể cả nhà trường. Chúng ta cùng lắng nghe sự nhắn nhủ này nơi Tông huấn niềm tình yêu “Dẫu cha mẹ cần đến trường học để bảo đảm cho con cái mình có được một nền giáo dục cơ bản, nhưng họ không bao giờ có thể khoán trắng việc huấn luyện đạo đức cho con cái nơi một ai khác. Sự phát triển tình cảm và đạo đức của một con người đòi hỏi một kinh nghiệm cơ bản: tin rằng cha mẹ của mình là đáng tin cậy. Đó là một trách nhiệm trong giáo dục: với tình thương và gương sáng cha mẹ tạo sự tin tưởng nơi con cái, truyền cho chúng một lòng kính trọng trong yêu thương. Khi một đứa con nào đó không còn cảm thấy mình được quý yêu trước mặt cha mẹ, dù đó là do khuyết điểm của mình, hoặc nó không nhận thấy cha mẹ đang quan tâm thật sự đến nó, điều đó gây tổn thương sâu sắc và tạo nhiều nhiều khó khăn trên bước đường trưởng thành của nó. Sự vắng mặt này, tức là sự bỏ rơi do thiếu tình thương, sẽ gây ra một nỗi đau sâu sắc hơn là một sự sửa dạy nào đó có thể có do trẻ làm một hành động sai trái” (AM 263)
3. Nét đẹp của sự hiếu thảo và vâng phục cha mẹ của Chúa Giêsu
Sau cùng, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm và học hỏi nét đẹp thứ 3 trong Gia đình Thánh Gia thất là sự hiếu thảo và vâng phục cha mẹ của Chúa Giêsu.
Khi mô tả cuộc sống ẩn dật của Chúa Giêsu trong gia đình Thánh Gia Thất tại Nagiaret, thánh Luca viết “Người đi xuống cùng cha mẹ, trở về Nagiaret và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51). Dù là con Thiên Chúa, nhưng khi đã nhập thể làm người, Chúa Giêsu đã nêu gương cho mọi nguời chúng ta gương hiếu thảo của người con trong đời sống gia đình. Ngài luôn biết lắng nghe lời dạy bảo của Thánh Giuse và Mẹ Maria. Chính sự hiếu thảo và vâng phục đã làm nên nét đẹp của người con ngoan đối với cha mẹ và đối với Thiên Chúa.
Sự hiểu thảo và vâng phục cha mẹ còn ban tặng cho người con biết bao ơn trọng khác. Sách Huấn Ca đã minh định cho chúng ta điều ấy: “Ai yêu mến cha mình, thì được đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ” (Hc 3, 3-5).
Là cha là mẹ, ai ai cũng mong cho cái được nuôi dạy lớn khôn, thành nhân trong cuộc đời. Cha Mẹ sẽ không cần chúng ta phải trả công cho những nhọc nhằn vất vả, nhưng các ngài rất cần chúng ta sống chữ hiếu thảo. Hãy chiêm ngắm nét đẹp hiếu thảo của Chúa Giêsu trong gia đình Thánh Gia, và sống noi gương ngài để chúng ta có thể làm cho gia đình chúng ta ngày càng hạnh phúc.
Lạy Chúa, Chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con những nét đẹp trong mẫu gương Thánh Gia Thất. Xin cho các bậc gia trưởng, các vị hiền mẫu và những người con luôn chu toàn vai trò của mình để gia đình được hạnh phúc, Thiên Chúa được vinh danh, và xã hội được an bình. Amen.
56.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Trong lá thư gửi cho các gia đình Công Giáo năm 2016, ở mục NHỮNG THÁCH ĐỐ CHO GIA ĐÌNH NGÀY NAY, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã nêu lên bốn thách đố đáng báo động của gia đình hôm nay là: Ly thân và ly dị; bạo hành gia đình; sống chung, sống thử; nạn phá thai. Trước những thách đố đó, các gia đình công giáo chúng ta phải làm gì? Đó là nội dung tôi muốn gợi với anh chị em suy niệm trong ngày lễ Thánh Gia Thất hôm nay.
I. Bốn thách đố trên đáng báo động như thế nào?
1. Ly thân và ly dị: Tình trạng ly dị ở Việt Nam ngày càng gia tăng: Cuộc điều tra do Bộ VH-TT&DL, phối hợp với Tổng cục Thống kê, với sự hỗ trợ của UNICEF cho thấy, số vụ ly hôn đang tăng nhanh. Năm 2000 có 51.361 vụ ly hôn. Năm 2005 có tới 65.929 vụ. Có 4 nguyên nhân thường xảy ra nhiều là: Mâu thuẫn về lối sống: (chiếm 27,7%); ngoại tình (25,9%); kinh tế (13%); bạo lực gia đình (6,7%). (Nguồn: http://vienthongke.vn/)
Ngoài ra, còn có nhiều nguyên nhân khác nữa. Gần đây, có một bài viết nói về sự giàu có của một làng xã nhờ bà con đi xuất khẩu lao động. Nhưng cũng có một bài báo khác cho biết rằng: do đi xuất khẩu lao động, vợ chồng xa nhau sinh ra nhiều cám dỗ...cuối cùng nhà cửa, của cải thì có nhưng vợ chồng lại phải chia tay, con cái thì bơ vơ. Đây là một thực tế đáng buồn cho người dân Việt nam nói chung và cho các gia đình trong các giáo xứ nói riêng.
2. Bạo hành trong gia đình: Theo một nghiên cứu về bạo lực ở các gia đình Việt Nam cho biết: 66% các vụ ly hôn ở Việt Nam liên quan đến bạo hành gia đình. Trong đó: 82% hộ dân nông thôn và 80% hộ ở thành phố có xảy ra bạo lực; 5% phụ nữ thường xuyên bị chồng đánh đập; 9-10% trường hợp nạn nhân của bạo lực gia đình là nam giới và thủ phạm chính là người vợ. (Nguồn: https://vi.wikipedia.org)
Bạo lực cũng có thể do con cái cháu chắt gây nên: Gần đây, một loạt những câu chuyện giới trẻ dùng từ ngữ xúc phạm, hỗn xược với người lớn, thậm chí là chửi bới ông bà, bố mẹ mình đang gióng lên một hồi chuông báo động. Thậm chí có những vụ án giết người thân như bà giết cháu, cha giết con, vợ giết chồng, con cái giết cha mẹ...thật đau lòng.
3. Sống chung, sống thử trước hôn nhân: Theo thống kê của khoa xã hội học Đại học Mở Sài Gòn, năm 2010, có khoảng 1/3 các bạn trẻ sống thử trước hôn nhân. Đó là những đôi nam nữ sống chung như vợ chồng không có đăng ký kết hôn. Sau một thời gian, nếu thấy phù hợp thì họ tiến tới hôn nhân, đăng ký kết hôn theo pháp luật. Còn nếu thấy không phù hợp, họ sẽ chia tay nhau, không cần đến pháp luật. Người ta gọi đó là “sống thử”. Hiện tượng “sống thử” hay còn gọi là “góp gạo thổi cơm chung” đã và đang trở thành một thứ “mốt” trong lối sống của giới trẻ hiện nay, không chỉ trong giới công nhân sống xa nhà mà còn cả ở những sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường.
Xét theo giáo lý Công giáo thì “sống thử” là trái với luật Chúa, luật Hội Thánh. Cho nên, những người “sống thử” là mắc tội. Đồng thời, “sống thử” khó được toàn xã hội chấp nhận, đó là lối sống sai lầm, buông thả, phóng túng, làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống, là một biểu hiện của sự xuống cấp về đạo đức trong lối sống thực dụng ngày nay.
Xét theo truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam thì “sống thử” là một lối sống không phù hợp, nó có tác động xấu đến đời sống và mang lại nhiều hậu quả đáng tiếc cho bản thân, gia đình, Giáo hội và xã hội như: không chồng mà có con, dễ dẫn đến tội phá thai. (x. bài: Vấn đề “Sống thử” của giới trẻ ngày nay - Tu sĩ Lôrensô Vũ Văn Trình MF).
4. Tệ nạn nạo phá thai: Theo các số liệu thống kê cho biết hàng năm trên thế giới có khoảng: 42 triệu ca phá thai; 20 triệu ca phá thai không an toàn; 70.000 ca tử vong bà mẹ; 5 triệu ca khuyết tật. Riêng ở Việt Nam: bình quân mỗi năm cả nước có khoảng 300.000 ca nạo phá thai (chiếm 20% tổng số ca nạo phá thai), cao nhất các nước Đông Nam Á và xếp thứ 5 thế giới. Có nhiều nguyên nhân đưa đến nạn phá thai, trong đó nguyên nhân đầu tiên là do “sống thử”, sống buông thả nên có thai ngoài ý muốn, nguyên nhân thứ hai là bị ảnh hưởng bởi các chương trình KHHGĐ và giáo dục sai lầm. Ví dụ: Công nhân viên chức chỉ được sinh 1-2 con, nếu sinh đứa thứ ba thì phải giáng chức, cắt lương. Người dân sinh con thứ ba: có nơi bị chính quyền phạt, hoặc bắt đóng góp tiền vào quỹ dân số... Vì sợ mất chức, sợ mất tiền... dẫn đến việc phá thai.
Trên đây là bốn thách đố trong muôn vàn thách đố đang xảy ra trong các gia đình, đang tiềm ẩn những hiểm họa không chỉ phá vỡ nền tảng gia đình mà còn đẩy nhân loại đến bờ vực của sa đọa và hủy diệt.
II. Chúng ta cần phải làm gì trước những thách đố trên?
1. Hãy đến với Chúa qua đời sống cầu nguyện: Trước những thách đố về đời sống gia đình, chúng ta rất cần lời cầu nguyện. Thánh Nữ Mônica chung sống với người chồng hoang đàng, trác táng và thiếu chung thuỷ. Augustinô là đứa con sống vô luân, ngã theo lạc giáo… nhưng thánh nữ không sờn lòng nãn chí mà kiên trì hy sinh cầu nguyện. Cuối cùng, chồng và con đã được ơn trở lại, đặc biệt là Augustinô đã trở thành một vị đại thánh.
2. Hãy lãnh nhận các Bí tích: Đức Kitô đã để lại cho Hội Thánh những bí tích, là những dấu chỉ hữu hình làm máng chuyển thông ơn thánh cho các tín hữu. Các bí tích có mục đích thánh hoá con người, xây dựng thân thể Đức Kitô và thờ phượng Thiên Chúa. Nhờ lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Giao hoà và Thánh Thể đời sống Kitô hữu, đời sống các gia đình được nuôi dưỡng và ngày càng tăng trưởng hơn.
3. Phải biến gia đình thành cộng đoàn yêu thương:
Khi đã có tình yêu thương, các thành viên trong gia đình sẽ loại trừ được các thứ bạo hành về thể xác, tâm lý, tinh thần, loại trừ được sự bất trung… ở trong chính gia đình của mình. Vợ - chồng; cha mẹ - con cái sẽ “có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13). Đó là điều các thành viên trong gia đình phải cố gắng để thực hiện.
4. Một số thực hành khác: Ngoài các việc làm chủ chốt để gìn giữ gia đình trên đây, trong thư gửi các gia đình năm 2016, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam còn nhắc đến các bổn phận khác của gia đình như: bổn phận đón nhận và tôn trọng sự sống; bổn phận hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ; bổn phận chăm sóc người cao tuổi; bổn phận cha mẹ giáo dục con cái về mọi phương diện nhân bản, đạo đức, tri thức và đức tin; việc chuẩn bị cho giới trẻ bước vào đời sống hôn nhân và gia đình cũng là đòi hỏi khẩn thiết hơn bao giờ hết.
Kết luận: Để gia đình chúng ta luôn được êm ấm hạnh phúc trước những thách đố của thời đại, các thành viên trong gia đình hãy quyết tâm siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, xây dựng gia đình thành một mái ấm của tình yêu và lòng thương xót. Xin Thánh Gia Thất đổ tràn đầy ân sủng trên mỗi người, mỗi gia đình chúng ta. Amen.
57.Gia đình nơi để yêu thương--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Ngày 16-12-2014, trên trang mạng xã hội Zing.vn có đăng một bài văn độc mới và lạ của em học sinh Nguyễn Thị Cúc được cô giáo cho điểm 10. Trong bài bài văn, em Cúc viết: “Mới chiều hôm qua đây thôi, trên đường đi học về tôi gặp một cảnh tượng thật đau lòng, một người đàn ông đánh tới tấp vào mặt, lưng một người phụ nữ. Vừa cố chống chọi với cơn khát bạo hành của chồng, chị vừa khóc lóc van xin: "Sao anh lại đánh em thế này... đừng đánh em nữa anh ơi!. Tôi hơi sững người, nhưng cũng không lấy làm lạ vì đã từng chứng kiến cảnh như thế này nhiều lần. Ấy thế mà lâu nay tôi lại nghe người ta nói rằng: "Gia đình là nơi để yêu thương. Đã trôi qua một khoảng thời gian khá dài tôi đã sống, đã ra đi... và tìm tòi những minh chứng cho điều mình nghe thấy. Thế rồi, lại đắng lòng biết mấy, khi tôi chợt nhận ra thời gian càng quay nhanh thì tình người cũng dần tan biến. Cuộc sống vô tâm làm nguội lạnh tình cảm trong trái tim mỗi người. Xã hội đổi thay và lòng người cũng dần thay đổi, mọi tính toán thiệt hơn trong cuộc sống làm mất đi những vẻ đẹp tự nhiên vốn có, hạnh phúc thì ít nhưng đắng cay lại nhiều, bao nhiêu mảnh đời bất hạnh vì cuộc sống gia đình không hòa thuận, thậm chí tan vỡ, và những hiểm nguy luôn rình rập”.
Một em học sinh lớp 12, tuổi teen, tuổi học trò mộng mơ, tuổi chuẩn bị bước vào đời mà đã thấy, cảm nghiệm và thấu hiểu nỗi đau con người và gia đình ngày nay tàn nhẫn, ác tâm và tội lỗi như thế! Tại sao, cảnh bạo cảnh gia đình ngày nay xảy ra nhiều như thế! Là người tại sao ác tâm như thế, “nhân chi sơ tính bản thiện đâu rồi? Trong Tông huấn Niềm vui của tình yêu, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói đến những nguyên nhân dẫn đến tình trạng gia đình đổ vỡ. Đó là kỳ vọng quá cao về đời sống hôn nhân, sự thu hút ban đầu qua đi, cùng với những khó khăn mới mà đôi bạn chưa được chuẩn bị để đối diện. Ngoài ra, còn phải nói đến tác động của bối cảnh văn hoá xã hội ngày nay, đề cao tự do cá nhân hơn hạnh phúc gia đình, đo lường tình yêu dựa vào những tiêu chuẩn vật chất và hưởng thụ hơn là những giá trị tinh thần. Vì kinh tế thị trường, xã hội hưởng thụ mà người ta vô cảm với nhau và thiếu tình nghĩa vợ chồng, con cái, cha mẹ.
Lời Chúa hôm nay cho một hướng sống và một cung cách sống noi gương gia đình Thánh gia. Bài Tin Mừng kể Đức Maria dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, đây là truyền thống quen thuộc của Do Thái giáo từ thời xuất hành. Và việc dâng con ngày xưa vẫn còn một ý nghĩa cần thiết cho chúng ta hôm nay bởi vì cha mẹ không phải là nguồn mạch và là tác giả của sự sống nơi đứa con, chính Chúa mới là nguồn mạch và là tác giả tuyệt đối còn cha mẹ chỉ là cộng tác viên mà thôi. Cho nên giáo lý hôn nhân dạy mục đích của hôn nhân là yêu thương và giúp đỡ, đồng thời cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh sản và giáo dục con cái. Vì vậy, sự sống là quà tặng của Thiên Chúa, thuộc chủ quyền của Thiên Chúa, con người không bao giờ được phép định đoạt cho đứa con này được sống, được sinh ra, đứa kia phải chết. Thánh Giuse và Đức Mẹ ý thức rất rõ mầm sống trong lòng của Mẹ Maria là chính Thiên Chúa nữa. Vì thế mà Thánh Giuse và Đức Maria đã hết lòng để bênh vực và bảo vệ sư sống này. Khi vua Hêrôđê ra lệnh tiêu diệt tất cả các hài nhi trong vùng, thì Thánh Giuse đã dựa vào giải pháp của Thiên Chúa, đó là đem Hài nhi và Mẹ Người trốn qua Ai Cập. Một cuộc tẩu thoát như thế quả thật là nhiều nguy hiểm gian nan, nhưng bằng mọi giá, Thánh Giuse đã đem Đức Maria và Hài nhi ra đi ngay lúc nửa đêm để tránh bàn tay độc ác của Hêrôđê và bảo vệ sự an toàn cho Hài nhi. Rồi khi được lệnh trở về, Thánh Giuse cũng đã khôn ngoan để chọn vùng Nazaret là một làng quê bình yên để cư ngụ giúp cho sự an toàn của hài nhi và cả gia đình.
Vâng, Thánh Giuse là Cha nuôi, nhưng hơn tất cả mọi người cha ruột thịt, Ngài đã âm thầm hy sinh, hiến trọn mạng sống mình để phụng dưỡng Con Thiên Chúa, bảo vệ an toàn gia đình thoát khỏi mọi nguy hiểm và làm cho mọi thành viên trong gia đình được bình an. Mẹ Maria, người mẹ thánh thiêng trinh trong tuyệt vời, luôn luôn sống với tinh thần tôi tớ của Thiên Chúa, sống dịu hiền, thương mến, thăm viếng, phục vụ bà con xóm làng, tích cực cộng tác với Con Thiên Chúa trong công trình cứu độ muôn dân và xây dựng Hội thánh. Quả thực, không một ai đứng kề thánh giá của con bằng Mẹ, không một ai sống giữa các môn đệ trong lúc cô đơn xao xuyến để cầu nguyện Thánh Linh xuống soi sáng và củng cố tinh thần các môn đệ bằng Mẹ. Còn Chúa Giêsu, Người chí hiếu, con thảo độc nhất của gia đình. Người con chí ái độc nhất của Thiên Chúa, đã sinh ra trong hang lừa hèn hạ, đã lớn lên trong cảnh lao động nghèo khó. Nhưng, cháu bé này là nguồn an bình muôn thuở cho những cụ già như Simêon ẵm bế, là nguồn hy vọng vinh phúc cho những bà góa neo đơn như Anna, là nguồn sáng soi đường cứu độ cho muôn dân và vinh quang cho Israel dân Ngài.
Noi gương gia đình Thánh gia, trong đời sống gia đình chúng ta cũng vậy, hỡi những bậc làm cha mẹ hãy biết xây dựng gia đình mình thành một tổ ấm, một cái nôi chan hòa “tình thương yêu êm ái, nhân hậu, khoan dung, hiền lành, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau, cởi mở chân thành để liên kết với nhau trong mối giây bác ái yêu thương tuyệt hảo”. Hơn nữa, cha mẹ phải tạo dựng gia đình thành một đền thờ, trong đó “dâng lên Thiên Chúa những bài Thánh vịnh, những khúc hát Thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh ứng. Hãy dùng lời Chúa dạy dỗ răn bảo nhau cho thật khôn ngoan để lời Chúa Kitô sinh hoa kết quả dồi dào trong gia đình. Khi làm gì, nói gì, hãy làm và nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Người mà cảm tạ Chúa Cha” (Bài đọc 2 mà chúng ta vừa mới nghe: Cl. 3, 12-21), như thế gia đình chúng ta sẽ trở nên như gia đình Thánh Gia.
Trong đời sống gia đình hôm nay, chúng ta gặp không ít những khó khăn, khủng hoảng trong đời sống hôn nhân gia đình, do công ăn việc làm khó khăn, con cái hư hỏng, cha mẹ bất hoà… Phương thế vượt qua không phải là giận ghét, bạo lực, nghi kỵ, nhưng là tình yêu vì chỉ có tình yêu mới “cứu độ” được gia đình, một tình yêu dựa trên lòng đạo đức, vâng giữ điều răn Chúa dạy như gia đình Thánh gia. Vậy, ước gì qua Lời Chúa và Thánh lễ tôn vinh gia đình Thánh gia: Chúa Giêsu, Thánh Giuse và Đức Mẹ hôm nay, xin Chúa dạy mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta biết sống giữa cảnh phàm trần với tinh thần người con thảo hiếu, người cha, người mẹ có trách nhiệm yêu thương, tha thứ và phục vụ ngõ hầu xây dựng mái ấm tình thương thật sự, gìn giữ gia đình luôn hạnh phúc vững bền và mọi thành viên trong gia đình mỗi ngày một nên thánh và thiện như lòng Chúa ước mong. Amen.
58.Gia đình hiến dâng cho Thiên Chúa
Loài người được Thiên Chúa dựng nên để hưởng hạnh phúc trong Ngài. Vì vậy, mỗi người, mỗi gia đình muốn được hạnh phúc và bình an phải qui hướng hoàn toàn về Thiên Chúa là cùng đích tối hậu của mình. Gia đình Thánh Thất là là mẫu gương cho tất cả mọi người, mọi gia đình trong thế gian này. Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse luôn luôn tin tưởng và tuân phục ý Chúa, dâng hiến cả cuộc đời mình cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
1. Maria dâng hiến cuộc đời mình cho chương trình của Thiên Chúa
Từ khi Ðức Maria nhận lời Thiên Thần truyền tin làm Mẹ Đấng Cứu Thế thì cả cuộc đời Mẹ thuộc về Chúa và phục vụ công trình cứu độ của Ngài. Mẹ chấp nhận mọi hoàn cảnh vui buồn sướng khổ Chúa gởi đến cho mình và phó thác cho Chúa tất cả. Dù thánh Giuse chưa đón Mẹ về nhà, Mẹ vẫn không ngại mang thai Đấng Cứu Thế. Mẹ hoàn toàn tin cậy ở Chúa. Mẹ đi chăm sóc cho bà Ysave suốt 3 tháng. Lúc trở về thì thánh Giuse và mọi người thấy rõ Mẹ đang mang thai nhưng Mẹ không vì thế mà tiết lộ bí mật. Mẹ phó thác cho Chúa lo liệu tất cả. Ngay khi Giuse quyết định bỏ đi thì Chúa can thiệp, sai Thiên Thần báo mộng cho thánh Giuse và ngài đã mau mắn đón Maria về nhà mình. Khi những ngày sinh nở sắp đến, Mẹ cũng tín thác và để Chúa lo liệu. Dù phải sinh con trong hang bò lừa, Mẹ vẫn không trách Chúa nhưng chấp nhận sự xếp đặt của Chúa. Mẹ dâng cho Chúa tất cả. Đặc biệt nhất là khi đứng dưới chân thánh giá, dù đau đớn vô cùng trước cảnh con mình bị người ta hành hạ và sỉ nhục cho đến chết, Mẹ vẫn không quỵ ngã nhưng hướng nhìn về Con, cùng chịu khổ với Con và cùng Con hoàn thành ý Chúa Cha. Mẹ là mẫu gương hoàn hảo về đời sống dâng hiến cho Chúa trước những thử thách đau thương vì mục đích cứu độ loài người.
2. Thánh Giuse vâng phục ý Chúa
Một mẫu gương dâng hiến nữa là thánh cả Giuse. Khi Thiên Thần báo mộng thì Giuse mau mắn vâng theo và từ đó, ngài luôn chu toàn bổn phận của một người gia trưởng. Ngài luôn vâng phục thánh ý Chúa, không chần chừ, không phân vân về sứ mạng Chúa giao. Dù nghèo, thánh Giuse vẫn không từ nan bất cứ điều gì với Chúa. Việc đưa Đức Maria về Bêlem khai nhân khẩu và dưỡng nuôi Đấng Cứu Thế dựa vào sức lao động của mình là một vất vả lớn lao. Thánh Giuse vẫn không than phiền gì về nhiệm vụ gánh vác gia đình này. Ngài làm mọi việc cách thầm lặng nhưng mau mắn theo sự hướng dẫn của thiên thần. Khi cuộc sống ở Bêlem ổn định đôi chút thì một đêm nọ, thiên thần bảo chỗi dậy đem hài nhi và Maria trốn sang Aicập. Thánh Giuse liền đi ngay trong đêm. Sang Ai cập, Giuse lại phải vất vả tìm việc làm kiếm sống cho gia đình của Chúa. Chưa được bao lâu thì Chúa gọi trở về Nazaret. Chắc chắn Thánh Giuse phải rất vất vả lo từng bữa ăn và những nhu cầu thiết yếu cho gia đình. Tuy nhiên, khi thánh Giuse chu toàn nhiệm vụ chăm sóc Đấng Cứu Thế đến trưởng thành thì Chúa muốn ngài chấm dứt cuộc sống trần gian. Thánh Giuse quả là mẫu gương lao động phục vụ tuyệt vời trong âm thầm khiêm tốn.
3. Đức Giêsu, của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa và nhân loại:
Mẫu gương dâng hiến hoàn hảo nhất là Đức Giêsu bỏ trời xuống thế làm người. Ngài là Thiên Chúa nhưng tự nguyện trút bỏ vinh quang của mình, trở nên giống phàm nhân, vâng lời cho đến chết trên thánh giá. Cả cuộc đời Ngài không lúc nào ngơi vâng phục và làm theo ý Thiên Chúa. Từ việc chấp nhận sinh ra trong máng cỏ, chịu bắt bớ từ nhỏ, sống trong cảnh nghèo khổ âm thầm, khiêm hạ ở làng Nazareth. Lớn lên, Ngài đi giảng dạy khắp nơi trong lãnh thổ Do thái và được dân chúng hồ hởi đón nhận, nhưng cũng có những người cứng lòng, tìm cách làm khổ Chúa. Cuối cùng, vì yêu thương nhân loại, Ngài đã nhận lấy cái chết hy sinh trên thánh giá. Dù mọi người chưa hiểu thấu nỗi khổ và sự hy sinh cao cả của Ngài nhưng vì tình yêu Chúa và nhân loại, Ngài đã dâng mình làm của lễ toàn thiêu trên thánh giá. Tất cả là vì yêu thương chúng ta.
Nhìn tấm gương hiến dâng của gia đình thánh ở Nazaret, chúng ta thấy mình quá thiếu sót trong việc đáp trả ơn cứu độ của Chúa, còn thờ ơ và kém lòng tin mến Chúa. Phải chi ngay từ bây giờ con biết sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan thử thách cũng như những an ủi Chúa gởi tới. Chúa là Cha chúng con sẽ không để chúng con thiệt thòi và hư mất nếu chúng con biết nghe theo lời Ngài chỉ dạy.
59.Vươn cao hơn
Theo Tin Mừng kể lại, thì Thánh gia không phải chỉ gặp toàn những chuyện may mắn và suôn sẻ. Trái lại, thánh Giuse có lần đã tính đến chuyện tháo lui. Còn Chúa Giêsu, lúc được đưa tới đền thờ, khi còn đang ăm ngửa, đã được tiên đoán là sẽ trở thành như một lưỡi gươm đâm thâu qua cõi lòng người mẹ. Vào dịp theo cha mẹ lên đền thờ tham dự lễ Vượt Qua năm mười hai tuổi, Ngài đã là duyên cớ của những nỗi khổ tâm không cầm nén được của cha và mẹ Ngài. Có một lúc nào đó, trong khi giảng dạy, Ngài đã tuyên bố: Ngài đến không phải là để đem lại sự hòa thuận, mà là sự chia rẽ giữa các thành viên trong gia đình.
Những đoạn Phúc âm ngắn ngủi và họa hiếm về Thánh gia và về mối quan hệ thân thuộc, lại không phải là những bức họa rõ nét của một gia đình gương mẫu, hiểu theo nghĩa thông thường. Không ai có thể hồ nghi về sự thánh thiện của từng thành viên trong gia đình này. Vậy phải chăng Thánh gia không còn là gương mẫu cho các gia đình Kitô hữu nữa sao?
Hoàn toàn không phải là như vậy. Thánh gia vẫn luôn là mẫu mực cho các mối quan hệ giữa các thành viên của gia đình Kitô hữu. Thực vậy, Đức Maria vẫn một lòng tin tưởng và tôn trọng việc làm của Người Con, dù rằng có những lức Mẹ đã tỏ ra không hiểu hết tầm mức của việc làm đó. Không chỉ tôn trọng mà thôi, Mẹ còn dõi theo những bước chân Con đi, dù là những bước chân dẫn lên Núi Sọ. Còn thánh Giuse thì vẫn âm thầm lao động để tìm kiếm chén cơm manh áo, nuôi sống cả gia đình, cũng như chu toàn thánh ý của Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thể hiện và hoàn tất công việc của Chúa Cha, không chỉ đối với các thành viên của gia đình ruột thịt, mà còn để mọi người trở thành anh em trong gia đình của ơn cứu chuộc.
Thánh gia là gương mẫu của một tình yêu vượt ra ngoài giới hạn của những quan hệ bình thường theo một nghĩa nào đó, vốn được gọi là tự nhiên, ruôt thịt, họ hàng, chủng tộc. Thánh Gia là gương mẫu cho một mối quan hệ đi ngược lại với óc cục bộ và sự kỳ thị, cho một lối sống gắn bó, không chỉ với những người thân quen, mà còn với hết mọi người.
Nhìn vào cuộc sống Thánh gia, chúng ta nhận ngay ra rằng: Còn có một cái gì lớn hơn cuộc sống gia đình, mà chính cuộc sống gia đình phải hướng tới. Tứ hải giai huynh đệ. Bốn bể đều là nhà. Bốn bể đều là anh em. Từ quan hệ ruột thịt tiến tới quan hệ của một huynh đệ, của một tình liên đới, của một tình đồng loại, một tình của những người con làm theo ý Chúa, hoạt động cho chính nghĩa, cho lẽ phải.
Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, trở nên con của thánh Giuse và Mẹ Maria, để mọi người chúng ta được trở thành con Thiên Chúa và trở thành anh em với nhau.
60.Những nhân vật
Giờ đây chúng ta cùng nhau dừng lại để tìm hiểu về những nhân vật qua đoạn Tin Mừng vừa nghe.
Trước hết là Chúa Giêsu
Từ thuở thơ ấu, ngay cả khi chưa nói được, Chúa Giêsu đã hoàn tất các lời Thánh Kinh. Hôm nay Ngài thực hiện lời hứa đã được ban cho Đaniel, Malakia và nhiều tiên tri khác. Hôm nay trong con người hài nhi Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại cung thánh đã bị bỏ phế của Ngài. Dù tội của Israel có thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời mình đã hứa. Sự bất trung của Israel chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa ấy chứ không thể huỷ bỏ chúng được.
Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày chúng ta được rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử. Mặc dù chúng ta có lắm bất trung, Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Mặc dù chúng ta có xua đuổi Ngài ra khỏi cung lòng chúng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp đỡ chúng ta ăn năn sám hối. Hôm nay, chúng ta hãy mở rộng cung thánh tâm hồn chúng ta cho Ngài, hãy mời Ngài đến ở mãi trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta sẽ trở nên ánh sáng chiếu soi cho những người chúng ta gặp gỡ trên vạn nẻo đường đời.
Tiếp đến là Maria và Giuse
Các Ngài đã chấp nhận chu toàn mọi lề luật. Các Ngài vâng phục đến độ còn thi hành thói quen đạo đức là trình dâng con trai đầu lòng tại đền thánh, một điều luật không đòi hỏi. Sở dĩ các Ngài đã đi quá lề luật như thế là vì các Ngài đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ hãi. Riêng Mẹ Maria là thụ tạo tinh tuyền nhất của nhân loại, đã khiêm tốn chấp hành nghi thức thanh tẩy. Phần chúng ta là những kẻ bị tội lỗi làm cho trở nên xấu xa, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận bí tích Cáo giải để tâm hồn được thanh tẩy.
Sau khi nghe ông già Simêon nói về hài nhi Giêsu, hai ông bà đã ngạc nhiên. Sở dĩ như vậy vì các ngài chưa hoàn toàn thấu triệt mầu nhiệm sâu xa che phủ trên Con mình. Dù được sống thân mật với Chúa Giêsu, các ngài vẫn phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các ngài luôn được đào sâu, vì các ngài suy gẫm trong lòng. Đối với chúng ta, cũng chẳng có gì lạ, nếu chúng ta không hiểu hết được những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù qua hai mươi thế kỷ, Giáo Hội vẫn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Đức Kitô. Nơi Đức Kitô, đức tin của chúng ta cũng phải triển nở và lớn lên trong sức mạnh và ơn sủng. Đức tin của chúng ta chính là sự tăng trưởng liên tục của Đức Kitô trong tâm hồn chúng ta.
Sau hết là ông Simêon và bà Anna
Chúa Thánh Thần đã ở trên ông Simêon, mạc khải cho ông biết Đấng Messia trước khi qua đời, thúc đẩy ông vào đền thờ chờ đón Hài Nhi Giêsu đến. Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới sự hoạt động của Chúa Thánh Thần cách thường xuyên, nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa và biết chăm chỉ tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Chúa Thánh Thần cũng có thể trở nên trong chúng ta một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu rõ hơn đức tin và bổn phận của chúng ta. Ngài đem đến một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời sống chứng nhân cho Thiên Chúa.
Simêon và Anna đã suốt đời chờ mong Đức Kitô. Với chúng ta họ là những tấm gương hy vọng và trung tín. Lòng trung tín của họ đã được ân thưởng. Họ đã được niềm vui bồng ẵm trên tay ánh sáng dân ngoại, vinh quang Israel, là chính Chúa Giêsu. Trong mùa Giáng sinh này, chúng ta cũng hãy chuẩn bị và đón nhận hồng ân Thiên Chúa trong sự trung tín đợi chờ và đón nhận nó với tất cả tâm tình biết ơn ơn Simêon và Anna ngày xưa.
61.Gia đình nhân loại
Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng gia đình Kitô hữu thành một cái nôi của tình thương, thành một mái trường dạy cho chúng ta những bài học làm người. Trong chiều hướng đó, Thánh Gia với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse vốn được coi là những mẫu gương sáng chói của gia đình công giáo.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không muốn đóng khung nhãn giới của chúng ta trong khuôn khổ một gia đình theo huyết thống. Bài học lớn nhất Ngài để lại cho chúng ta đó là bài học làm người trong xã hội. Ngài không vun xới cho gia đình riêng của mình, nhưng Ngài lại xây dựng đại gia đình nhân loại được cứu chuộc.
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã phải trải qua một cuộc bôn ba, đã là một con người bị ruồng bắt bởi quyền lực thế gian. Con đường trốn qua Ai Cập cũng chính là con đường dân riêng của Chúa đã đi qua thuở xưa, con đường dẫn tới cuộc sống nô lệ trong suốt 400 năm. Nhưng rồi Ngài cũng được đưa về lại Galilê tượng trưng cho cuộc xuất hành của dân riêng khỏi đất nô lệ Ai Cập. Như thế Phúc Âm đã tóm gọn cuộc đời Chúa Giêsu và đặt cuộc đời ấy trong lịch sự của dân Chúa.
Qua Ai Cập và từ Ai Cập trở về, Chúa Giêsu đã không chỉ đi với cha mẹ Ngài mà còn đi với dân của Ngài. Qua cái chết và sống lại của Ngài, một dân mới được thiết lập và các môn đệ của Ngài được sai đi đến tận cùng trái đất để mọi người, không phân biệt màu da, tiếng nói, ý thức được mình là con Thiên Chúa và là anh em với nhau.
Việc xây dựng đại gia đình nhân loại nhiều khi vượt lên trên quyền lợi của gia đình ruột thịt hay dòng họ. Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó một cách thật rõ ràng. Ngài đã từng cho người ta hiểu rằng Ngài đến không phải để đem hoà bình mà là gươm giáo, đến để chia rẽ con cái khỏi cha mẹ, nàng dâu khỏi mẹ chồng và làm coh những người trong gia đình trở thành kẻ thù của nhau. Những lời lẽ quả là lạ lùng, khó nghe. Dĩ nhiên chúng ta không thể coi Ngài như một kẻ chủ trương phá hoại gia đình hay coi nhẹ giá trị gia đình. Nhưng Ngài muốn cho người ta hiểu rằng: Còn một gia đình khác lớn hơn phải được xây dựng. Cái mối quan hệ lớn lao, cao quý mà người ta cần phải quan tâm thiết lập và vun xới, không phải là mối quan hệ cha con, anh em theo máu huyết. Mà là mối quan hệ cha con, anh em theo việc thực thi ý định của Chúa: Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta. Đó là người nghe và thực hành lời Chúa.
Nếu mọi thành phần trong gia đình cùng nhìn về một phía, cùng theo đuổi một lý tưởng phục vụ hạnh phúc của con người trong xã hội. Đó chính là gia đình gương mẫu, thánh thiện theo cái nhìn của Tin Mừng. Để đạt tới lý tưởng ấy, mỗi người trong gia đình cần phải tìm hiểu và đào sâu những đòi hỏi của Tin Mừng, thấy rõ trách nhiệm làm người và làm môn đệ của Chúa trong xã hội và trong thế giới hiện tại, đồng thời cố gắng giúp nhau chu toàn trách nhiệm ấy.
62.Giáo Hội cỡ nhỏ
Gia đình là tế bào sống động của quốc gia, của nhân loại, cũng như của Hội Thánh. Tế bào căn bản này có khỏe mạnh và phát triển, thì toàn thể thân xác mới khỏe mạnh và phát triển. Sức khỏe và sự ổn định của gia đình ảnh hưởng tới sức khỏe và sự ổn định của quốc gia và Giáo Hội. Chính vì thế chúng ta phải đem vào trong gia đình một tinh thần Kitô giáo đích thực.
Thế nhưng ngày nay, vì chiến tranh, vì những trào lưu duy vật và chối bỏ đức tin, gia đình đã bị khủng hoảng và suy sụp, tế bào nền tảng này đã bị nhiễm độc. Vậy chúng ta phải làm gì để cứu vãn tình thế?
Điều tôi nhấn mạnh giờ đây, đó là tinh thần cộng đoàn. Thực vậy, mỗi người chúng ta phải biết từ bỏ tính ích kỷ để tiến đến một sự hòa hợp và yêu thương, như hình ảnh về thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô mà thánh Phaolô đã đề cập tới. Gia đình là một Giáo Hội cỡ nhỏ, là một nhiệm thể được thu hẹp. Đây không phải chỉ là một hình ảnh tượng trưng, mà còn là một thực thể sống động.
Người cha là đầu thân thể như Đức Kitô là đầu Giáo Hội. Người mẹ là thân thể như vai trò của Giáo Hội, và con cái là những phần tử như những tín hữu là chi thể của Đức Kitô.
Một gia đình đích thực phải hiệp nhất và trở nên một: Một tư tưởng, một ước muốn, một cõi lòng, một con tim. Người cha tìm kiếm cơm áo, người mẹ phân phát cơm áo và con cái thì lãnh nhận máu huyết và sự sống nơi cha mẹ. Người cha thì giống với Đức Kitô là đầu nhiệm thể. Người mẹ thì giống với Giáo Hội, còn con cái thì giống những chi thể trong nhiệm thể ấy.
Bởi đó hãy đón nhận và thực thi tinh thần hợp nhất. Là con cái, hãy nhìn thấy Đức Kitô nơi người cha, hãy yêu mến và trọng kính Đức Kitô nơi người cha của mình. Trgkhi đó, những người cha hãy sống như Đức Kitô và điều hành gia đình của mình trong tinh thần yêu thương.
Còn người mẹ, hãy lấy Giáo Hội làm lý tưởng cho mình, để có sự trung thành và hiền dịu. Con cái chính là những tế bào, trong đó Đức Kitô phải lớn lên, phải trưởng thành. Muốn thấm nhuần tinh thần ấy, chúng ta phải cần đến một bầu khí đạo đức. Bầu khí đạo đức này được tạo nên do thánh lễ, do phụng vụ, do các bí tích và đặc biệt do những giờ kinh chung trong gia đình.
Đây là những giây phút linh thiêng, cha mẹ, vợ chồng, con cái cùng quây quần bên nhau và cùng nhau quây quần bên Chúa, để dâng lên Ngài của lễ chung là những hy sinh gian khổ trong cuộc sống. Đây cũng là một liều thuốc thần diệu hàn gắn những đổ vỡ, vì trong những phút giây ấy chúng ta thực sự trở nên một.
Hãy xây dựng gia đình mình trong tinh thần hợp nhất như các chi thể hợp nhất với nhau và nhất là như Đức Kitô hợp nhất với Giáo Hội của Ngài.
63.Sống vì nhau
Ngày 21.8.2007, không những người dân nước Pháp, mà cả thế giới xúc động trước sự ra đi của một người phụ nữ ở tuổi 33, có tên là Caroline Aigle. Caroline được miêu tả rất xinh đẹp: một phũ nữ tóc vàng, mắt xanh, tràn đầy sức sống. Đặc biệt, cô là người đầu tiên lái lái máy bay tiêm kích của không quân Pháp, và đạt rất nhiều những thành tích khác nữa. Điều đã làm cho Caroline đi vào huyền thoại không chỉ là tài năng, sắc đẹp của cô, mà là việc cô sẵn sàng hy sinh sự sống để cho đứa con trong bụng của cô mới được 5,5 tháng tuổi có cơ hội sống sót.
Carôline rất hạnh phúc khi biết mình được mang thai đứa con thứ 2. Nhưng rồi ít lâu sau, các bác sĩ phải nói sự thật cho cô biết là cô đã bị ung thư với một khối u ác tính. Các Bác sĩ cho biết, có thể chữa được căn bệnh nguy hiểm đó, nhưng phải điều trị theo liệu pháp “sốc”, và chắc chắn đứa con trong bụng không thể chịu nổi, phải hy sinh cháu bé. Các bác sĩ hỏi cô có bằng lòng không? Carôline đã có một quyết định rất anh hùng: không. Cuối cùng thì chuyện gì đến đã đến. Khi không còn chịu đựng nổi với cơn đau được nữa, các bác sĩ đã phải mổ lấy thai nhi ra lúc cháu bé chỉ được 5,5 tháng tuổi. Carôline đã sống được với con là Gabriel được 18 ngày; và cô đã từ giã cõi đời này trước sự thương tiếc và sự kính phục cả biết bao con người trên thế giới.
Gabriel đã bước vào cuộc đời này với những tiếng khóc thật non nớt của một chú bé chưa đủ tháng ngày để chào đời như bao nhiêu những đứa trẻ khác, rồi phải sống trong sự cô đơn vì thiếu vắng bàn tay của người mẹ dù có rất nhiều những bàn tay nhân ái khác đang giang rộng để giúp đỡ cho em. Nhưng chắc chắn, đối với Gabriel, sự mất mát tinh thần là khó có gì có thể bù đắp nổi.
Hôm nay, toàn thể Giáo hội Công giáo mừng lễ Thánh gia Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse, một cơ hội rất tốt để chúng ta suy niệm về tình thương và sự hy sinh cho nhau trong đời sống hôn nhân gia đình. Chúa Giêsu ra đời làm người và Ngài đã chấp nhận tất cả những gì trong kiếp sống của một con người. Ngài chịu sinh ra trong hoàn cảnh cùng khốn nhất trong số những con người cùng khốn để có thể yêu thương hết mọi người, đặc biệt là những người nghèo khổ khốn khó.
Có điểm nào giống nhau giữa trẻ Giêsu và trẻ Gabriel không? Điểm giống nhau rõ nét nhất là 2 trẻ này đều có một người mẹ tuyệt vời, sẵn sàng hy sinh tất cả những gì có thể để cho con mình có cơ hội được sống. Nếu như trẻ Gabriel thiếu vắng tình mẫu tử để chăm sóc em trong những ngày đầu đời non nớt, thì trẻ Giêsu thiếu sự đón tiếp của con người, thiếu sự an toàn cho sự sống của Ngài.
Nhưng xét ra thì trẻ Gabriel còn hạnh phúc hơn trẻ Giêsu nhiều lần. Nếu trẻ Gabriel được mọi người giang rộng bàn tay tiếp đón, thì trẻ Giêsu đang bị vua Hêrôđê tìm giết vì nghĩ rằng Ngài đang đe doạ vương quyền của ông. Nếu trẻ Gabriel được mọi người hướng về và săn sóc em với những phương tiện tốt nhất nếu có thể trong một quốc gia, thì trẻ Giêsu chỉ có chiên bò sưởi ấm, chỉ có những mục tử giữ chiên nghèo khổ đến chúc mừng... Vua trời đất sinh ra trong cảnh khốn cùng nhất của kiếp người. Quả là “Thiên Chúa từ trời bước xuống dương gian để con người dương gian được bước lên trời”. Và Ngài trở thành con đường, thành ánh sáng soi dẫn mọi người về thiên quốc.
1. Nền tảng của đời sống Thánh gia:
Gia đình thánh gia nếu nhìn theo phương diện con người thì quả là mong manh, thiếu thốn, nghèo khổ... mọi bề. Nhưng Thánh gia lại trở thành mẫu gương cho tất cả mọi gia đình dõi theo. Nền tảng chính yếu của Thánh gia là tình yêu và sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Thánh gia đã dựa trên 2 nền tảng căn bản ấy để làm nên mọi sự, và thực tế đã trở thành một mô hình tuyệt hảo cho mọi gia đình bước theo. Ước gì mọi gia đình công giáo hãy noi gương thánh gia của Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse để xây dựng gia đình mình để có thể có một gia đình mẫu mực, hạnh phúc và thánh thiện.
2. Gương mẫu của đời sống Thánh gia:
Gương mẫu của đời sống thánh gia chính là sự hy sinh cho nhau và thực thi thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Thánh Giuse đã chu toàn trách nhiệm của một người trưởng trong gia đình, sẵn sàng gánh lấy mọi công việc nặng nề nhất cách vui lòng và mau mắn. Ngài quả thực là mẫu mực của những người chồng trong gia đình, và là mẫu mực của những con người thích làm hơn nói. Khi nói đến thánh Giuse, ta nhớ ngay đến câu nói của thánh Phalô: “Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2, 14-15) Thánh Giuse quả thực đã trở thành kiểu mẫu cho những con người vẹn toàn của Thiên Chúa trong phương diện này.
Đức Maria là người mẹ gương mẫu, hết lòng yêu thương và chăm sóc cho gia đình hết sức có thể. Nết đặc biệt nhất của Đức Maria chính là sự khiêm tốn nơi con người của Mẹ. Trước những biến cố xảy ra mà ngài chưa hiểu thấu, thì ngài ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, chứ không bực bội hay kêu trách với ai, nhất là không hề kêu trách đối với Thiên Chúa. Mẹ đã theo bước Đức Giêsu cho đến cùng trong suốt cuộc hành trình dương thế của Đức Giêsu, cho đến khi Ngài trút hơi thở cuối cùng trên Thánh giá và mẹ đã giang tay ẩm lấy xác con trong đau đớn tột cùng.
Đặc biệt hơn cả là tấm gương của Đức Giêsu, Ngài dù là Con Thiên Chúa, nhưng đã trở nên con của loài người và hoàn toàn vâng phục Đức Maria và Thánh Giuse trong tư cách là người con trong gia đình để nêu gương cho mọi người trong tư cách làm con. Ngài đã chu toàn trách nhiệm không những là người con đối với Đức Maria và thánh Giuse mà còn là trong tư cách người Con của Cha trên trời. Ngài đã tự nguyện chấp nhận sự tự huỷ để hoàn thành chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha cho con người.
Mừng lễ Thánh gia hôm nay, mỗi người chúng ta hãy tự kiểm điểm lại đời sống của mình trong cương vị mà mình đang có: làm cha, làm mẹ và làm con cái trong gia đình của mình. Hãy chu toàn trách nhiệm trong sự hiền hoà, khiêm tốn và hy sinh cho nhau. Mỗi người hãy vì mọi người để gia đình thật sự trở thành tổ ấm cho mọi người và cho cả Chúa Giêsu vào ngụ ở đó. Chu toàn trách nhiệm là nên thánh!
64.Tình yêu trong gia đình
1. GIA ĐÌNH LÀ HÌNH ẢNH CỦA BA NGÔI THIÊN CHÚA
Nếu con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì có thể nói rằng gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa sống đơn độc, mà là một Thiên Chúa mang tính gia đình, trong đó Ba Ngôi khác biệt nhau nhưng yêu thương nhau, sống chung, làm việc chung, và kết hợp với nhau thắm thiết như trong một gia đình, tới mức độ tuy là Ba Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì "Tập Thể Ba Ngôi" là một môi trường để Ba Ngôi Thiên Chúa thể hiện tình yêu của mình với nhau. Vì Ba Ngôi yêu thương nhau vô cùng, nên sự hiệp nhất của Ba Ngôi đạt được mức độ tối đa là trở thành một Thiên Chúa duy nhất. Tình yêu và sự hiệp nhất ấy tạo nên thiên đàng hay hạnh phúc của Ba Ngôi.
Cũng vậy, nếu gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi, thì mọi thành viên trong đó phải yêu thương nhau, hòa hợp với nhau đến mức hiệp nhất với nhau. Nhờ đó gia đình trở thành một thiên đàng tại thế. Như vậy, mọi thành viên của gia đình đã được hưởng nếm trước phần nào hạnh phúc của thiên đàng mai sau. Hạnh phúc trong những gia đình yêu thương nhau - được biểu lộ và hình thành cụ thể bằng việc quan tâm, lo lắng và hy sinh cho nhau - chính là hình ảnh trung thực của thiên đàng vĩnh cửu. Trái lại, nếu các thành viên trong gia đình không yêu thương nhau, không sẵn sàng hy sinh cho nhau, thì họ sẽ biến gia đình thành hỏa ngục tại thế, là hình ảnh của hỏa ngục vĩnh cửu. Trong 8 cái khổ mà Đức Phật kể ra, có cái khổ gọi là "oán tắng hội khổ", nghĩa là khổ vì không ưa nhau, ghét nhau mà lại phải sống chung với nhau.
2. TÍNH ÍCH KỶ, NGUỒN GỐC BẤT HẠNH CỦA MỌI GIA ĐÌNH
Nhìn vào bất cứ một gia đình bất hạnh nào - nghĩa là một gia đình không hạnh phúc - ta luôn luôn thấy bóng dáng tính ích kỷ của một thành viên nào đó trong gia đình. Chính tính ích kỷ của thành viên này là nguồn gây nên đau khổ trong gia đình. Nếu thành viên ích kỷ ấy là người cha hay người mẹ, thì đau khổ trong nhà sẽ hết sức lớn lao. Gia đình nào càng có nhiều người ích kỷ, gia đình ấy càng bất hạnh. Gia đình mà càng có nhiều người sống vị tha, biết hy sinh cho người khác, gia đình ấy càng ít bất hạnh. Một gia đình mà mọi thành viên đều vị tha, đều quan tâm, chăm sóc và hy sinh cho nhau, đều sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho nhau, gia đình ấy chắc chắn hạnh phúc.
Câu chuyện minh họa về thiên đàng và hỏa ngục sau đây thật phù hợp với thiên đàng và hỏa ngục của gia đình. Cả thiên đàng và hỏa ngục đều dùng bữa với những thức ăn y như nhau, trong khung cảnh giống y hệt nhau, trong đó mỗi người đều phải dùng một đôi đũa dài cả thước để ăn. Thiên đàng và hỏa ngục chỉ khác nhau ở chỗ này: trên thiên đàng, mọi người không ai tự gắp thức ăn cho mình, mà gắp cho người khác ăn, vì thế, ai cũng được ăn no. Còn trong hỏa ngục, mọi người chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn cho mình, nhưng vì đũa quá dài, chẳng ai gắp cho mình được gì cả, thế rồi chẳng ai được no, hết giờ ăn mà đói vẫn hoàn đói, từ đó họ trở nên căm thù nhau.
Cũng vậy, trong gia đình, không ai tự tạo hạnh phúc cho mình được mà không cần đến người khác, nên nếu ai cũng chỉ biết lo cho hạnh phúc của mình, thì chẳng ai hạnh phúc cả, và rồi sẽ phát sinh đủ thứ đau khổ. Tuy nhiên trong gia đình, người ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác, vì thế, nếu mọi người trong nhà đều biết lo cho nhau, tạo hạnh phúc cho nhau, thì ai nấy đều hạnh phúc.
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là tình thương, nên bản chất của con người cũng là tình thương. Vì thế, chỉ khi con người sống phù hợp với bản tính của mình là yêu thương, và thể hiện cụ thể tình yêu thương ấy với những người chung quanh, thì con người mới hạnh phúc. Nếu con người sống ích kỷ, tức ngược lại bản chất yêu thương của mình, con người sẽ đau khổ và làm cho những người chung quanh đau khổ.
3. LÀM SAO ĐỂ CÓ TÌNH YÊU THƯƠNG?
Nhưng làm sao người ta có thể yêu thương nếu không có một động lực, một nguồn yêu thương ngay từ trong lòng mình phát xuất ra? Làm sao có được nguồn yêu thương ấy? - Vì "tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa" (1 Ga 4, 7), nên chính "Thiên Chúa là nguồn yêu thương" (2 Cr 13, 11). Vì thế, muốn yêu thương, muốn loại trừ tính vị kỷ, con người phải kết hợp làm một với Thiên Chúa, nguồn tình thương. Kết hợp với Thiên Chúa là luôn luôn ý thức rằng mình "là hình ảnh của Thiên Chúa" (St 1, 27; 9, 6; Ep 4, 24), được tạo dựng giống như Thiên Chúa (x. St 1, 26; 5, 1), và "được thông phần bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1, 4), một Thiên Chúa mà bản chất là yêu thương (x.1 Ga 4, 8.16).
Nếu bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, mà ta giống Ngài, là hình ảnh của Ngài, được thông phần bản tính Ngài, tất nhiên bản chất của ta cũng là yêu thương. Ta không yêu thương hay không yêu thương đủ, là ta sống không đúng với bản chất của ta. Nhờ thường xuyên ý thức như thế, tình yêu và sức mạnh của tình yêu ngày càng lớn mạnh trong ta, khiến ta ngày càng yêu thương mọi người cách dễ dàng, và sẵn sàng làm tất cả để mọi người được hạnh phúc. Sống đúng với bản chất của mình là yêu thương, là hình ảnh Thiên Chúa, chính là sống thánh thiện.
65.Yêu thương - Vâng lời
Gia đình được xây dựng trên mối quan hệ căn bản là vợ chồng, cha mẹ và con cái. Cũng thế, Gia Đình Thánh: Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse đã thật sự thành hình sau biến cố Hài Nhi Giêsu ra đời. Do đó, sau khi mừng lễ Giáng Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn về Thánh Gia, một gia đình có những phẩm chất hoàn hảo đáng để mọi người noi gương. Mỗi người, tùy vị thế trong gia đình, có thể nhận được từ Thánh Gia một gương mẫu cho mình. Riêng các bạn trẻ, bài học dành cho bạn sẽ là gì?
Bài học đầu tiên có thể dễ dàng nhận thấy nơi Thánh Gia chính là sự tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã cất tiếng “xin vâng” trước lời mời gọi của Thiên Chúa (Lc 1,38) và đã đáp trả trọn vẹn tiếng xin vâng của mình cho đến trọn đời. Đức Giêsu thì đến trần gian với sứ mạng “thi hành thánh ý Cha”. Đặc biệt, trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Giuse tỏ ra là người mau mắn thi hành thánh ý Thiên Chúa: mau mắn mang Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập, rồi ngay lập tức đưa trở về quê hương khi được sứ thần báo mộng. Bài Phúc Âm phát họa lên bức tranh một gia đình đùm túm nhau bước đi trong đêm tối, phó thác đời mình cho thánh ý Thiên Chúa.
Mỗi người có một thánh ý Chúa dành cho mình. Đối với bạn trẻ, còn ở độ tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới”, Chúa không buộc bạn phải làm gì to lớn, cao xa, Chúa chỉ cần bạn vâng phục những vị có trách nhiệm, đại diện hữu hình của Chúa ở trần gian dạy dỗ bạn. Tuy nhiên, ở trong một xã hội thay đổi mau chóng hiện nay, nhiều khi con cái lớn lên lại thấy cha mẹ là những người không hợp thời nữa. Do vậy mà không ít bạn đã tỏ ra không còn nghe lời dạy bảo của cha mẹ, những người có trách nhiệm nữa. Dẫu biết rằng bạn hiểu rõ vấn đề của riêng bạn hơn các vị ấy, có khi kiến thức của bạn trổi vượt hơn các ngài nữa. Nhưng nếu bạn nhận ra tiếng nói của cha mẹ, những người có trách nhiệm là tiếng nói của Thiên Chúa, Đấng biết rõ con đường bảo đảm hơn cả cho hạnh phúc của bạn, thì bạn sẽ mau mắn, vui vẻ mà đáp trả cách mau mắn.
Một bài học khác cũng toát lên rõ nét từ đời sống Thánh Gia là tình yêu trong mối tương quan gia đình. Thánh Cả đón nhận Chúa Giêsu và Mẹ Ngài để yêu thương và chăm sóc trong khi ngài có quyền từ chối. Đức Maria đón nhận Chúa Giêsu vì yêu thương cho dù biết mình sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Đức Giêsu là niềm hãnh diện của cha mẹ khi tỏ ra “hằng vâng phục” và “càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và vững mạnh” (x. Lc 2,51-52). Chính tình yêu đã giúp Thánh Gia vượt qua mọi thử thách hiểm nguy.
Sinh ra nơi thế gian này, bạn đã được đặt trong các mối tương quan gia đình: gia tộc thân thích, gia đình xã hội và gia đình Giáo Hội. Bạn được mời gọi sống yêu thương để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa thế gian nầy. Ngày nay không thiếu những gia đình thiếu vắng tình yêu. Nguyên nhân dẫn đến thảm trạng nầy đến từ các bậc cha mẹ, từ các con hư hỏng. Nếu bạn sống trong một gia đình luôn ấm êm, thuận hòa thì thật là một hồng ân lớn lao. Nhưng nếu chẳng may gia đình bạn lúc nào cũng có tiếng cãi vã, ngột ngạt thì thật là đáng buồn. Tuy nhiên, là người con Chúa, dù gia đình bạn thế nào, dù bạn còn nhỏ tuổi, bạn cũng có thể trở nên niềm an ủi cho cha mẹ bằng sự vâng lời, ngoan ngoãn, dễ thương. Do vậy, bạn hãy quan tâm đóng góp cho đời sống gia đình được êm ấm. Bạn cũng đừng quên rằng, sự hư hỏng của con cái là nguyên nhân gây nên bao nỗi bi đát cho gia đình, xã hội và Giáo Hội.
Mừng lễ Thánh Gia Thất, rất nhiều bài học có thể được rút ra khi chiêm ngắm Ba Đấng. Nhưng thiết nghĩ, nếu bạn cố gắng làm thật tốt hai bài học gợi ra hôm nay cũng đủ để bạn góp phần đem lại sự hiệp nhất yêu thương cho gia đình, cho xã hội và cho Giáo hội. Xin Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse phù trợ cho gia đình bạn và giúp bạn cùng chung tay xây dựng thế giới nầy tốt đẹp hơn.
66.Gia đình là cộng đoàn yêu thương
Một trong những nỗi lo lắng của giới hữu trách đạo cũng như đời hiện nay là nền tảng gia đình ngày càng có xu hướng tuột dốc. Con số những gia đình đổ vỡ ngày càng trở nên báo động. Dĩ nhiên có rất nhiều nguyên nhân. Nhưng một trong những nguyên nhân đó là các gia đình thiếu yêu thương nhau thật sự.
Là người Công giáo chúng ta thật may mắn vì vào mỗi mùa Giáng sinh Chúa và Giáo hội cho chúng ta mừng lễ Thánh Gia. Thánh Gia gồm có Chúa Giêsu - Ðức Mẹ và Thánh Giuse. Gia đình là cộng đoàn yêu thương chính là điều rất quý giá mà chúng ta học được qua mẫu gương gia đình Thánh Gia.
Yêu thương nhau là điều kiện tiên quyết để gìn giữ hạnh phúc gia đình. Khi người thanh niên và cô thiếu nữ tự nguyện đến với nhau chắc chắn là vì yêu thương nhau. Dù vậy, chúng ta xem kỹ họ đã yêu thương nhau vì động lực nào và họ yêu thương nhau như thế nào. Ðộng lực để yêu thương nhau là vì muốn đền đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa ban cho mình.Với người Công giáo chúng ta đã được Chúa Giêsu dạy: “Các con hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15, 12 ). Yêu như Thầy yêu là hy sinh, là quan tâm cho nhau.
Chỉ khi thật sự cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho mình bao la như thế nào thì chắc chắn chúng ta sẽ biết làm gì để yêu thương những người trong gia đình mình. Chính từng thành viên trong gia đình Thánh Gia cũng đã vì thế mà đã yêu thương nhau thật sự.
Kết quả của tình yêu vợ chồng sẽ sinh ra những đứa con. Như thế, những người làm cha mẹ cũng được kêu gọi hãy biết quý trọng con cái mình sinh ra. Chúng ta thấy, Ðức Mẹ và Thánh Giuse với cái nhìn bình thuờng thì Hài nhi Giêsu chẳng phải là máu mủ của mình nhưng các ngài đã bằng mọi cách mà bảo vệ. Trước khi sinh Chúa Giêsu thì họ đã bị đuổi và phải trốn chui trốn nhủi. Rồi khi sinh ra thì cũng chưa yên phải trốn sang Ai Cập để tránh cơn bạo hành của vua Hêrôđê.
Ngày nay chúng ta thấy có nhiều người làm cha mẹ chỉ vì ích kỷ nên sẵn sàng giết con của mình ngay từ trong bào thai. Họ viện đủ lý do để biện minh cho hành vi sai trái của mình. Con cái chính là quà tặng tình thương mà Thiên Chúa ban cho những ai sống trong bậc gia đình. Có cảm nhận được cực khổ của bổn phận làm cha mẹ thì mới biết thương cha mẹ của mình.
Chúa Giêsu đã chọn gia đình để được sinh ra và lớn lên thì chắc hẳn Chúa thấu hiểu được tất cả nỗi khổ cực của chúng ta. Chúng ta hãy chạy đến với Thánh Gia để xin các Ngài phù giúp chúng ta làm tròn bổn phận của mình trong gia đình.
67.Gia Đình Thánh
Quý ông bà anh chị em thân mến!
Nên thánh, làm thánh là mơ ước của mọi người Kitô hữu. Ai cũng muốn làm thánh. Ai cũng muốn được vào Nước Trời. Nhưng con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải biết từ bó ý riêng để ý Chúa được thực hiện trong cuộc đời chúng ta. Con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải vào cửa hẹp và tránh tìm sự dễ dãi bản thân. Vì đường thênh thang thì nuông chiều bản thân và tính xác thịt. Đường thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Còn đường hy sinh, đường từ bỏ mới giúp cho chúng ta chiến thắng sự yếu duối bản thân để nên thánh từng ngày trong cuộc sống.
Nhìn vào gia đình thánh gia, chúng ta thấy các ngài luôn đi vào con đường hẹp. Các ngài luôn sống công chính trước mặt Chúa. Sự công chính hệ tại ở việc để thánh ý Chúa được nên trọn trong cuộc đời các ngài. Chúa Giêsu hằng luôn tìm kiếm ý Chúa Cha và thực thi. Thánh Giuse đã đón nhận ý Chúa khi nhận Maria về nhà làm vợ. Mẹ Maria đã bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa qua lời thưa xin vâng. Nếu Chúa Giêsu không đón nhận ý Chúa Cha thì chén đắng cứu độ sẽ không thể thực hiện. Nếu Mẹ Maria không từ bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa thì mùa xuân của ơn cứu độ vẫn chưa thực hiện. Nếu thánh Giuse không bằng lòng đón nhận Mẹ Maria vì ý Chúa thì sự nguy hiểm thật ghê sợ có thể xảy đến với Mẹ. Thế nhưng, ý Chúa các ngài đã thực thi. Chương trình của Chúa Cha đã hoàn tất nhờ sự vâng phục của các ngài. Cũng nhờ sự chung lòng chung ý mà gia đình thánh gia luôn gìn giữ được sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.
Thực vậy, nếu trong gia đình mà mỗi người một ý, gia đình ấy sẽ tan nát, chẳng ai nghe ai. Trong gia đình mà ai cũng đề cao ý riêng của mình, thì gia đình ấy sẽ là một hỏa ngục, vì lúc nào cũng xảy ra tranh cãi tương tàn. Nhưng nếu mỗi người biết bỏ ý riêng để ý Chúa được thực hiện, thì gia đình ấy sẽ có những giây phút bình an hạnh phúc. Chính khi biết từ bỏ ý riêng, con người mới khiêm tốn đón nhận nhau, yêu thương nhau hầu tránh được những bất hòa đổ vỡ. Nhất là biết đón nhận nhau vì Chúa, thì chắc chắn sẽ xây dựng được một gia đình thánh, một thiên đường hạnh phúc ngay ở cuộc đời này.
Thực thi ý Chúa không phải là lời mời gọi mà là luật buộc chúng ta, vì không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu mà là những ai thực thi lời Chúa mới được vào Nước Trời.
Có một câu chuyện kể rằng: Một nông dân nghèo được vào thiên đàng, ông nhìn thấy người ta mang những vật rất kỳ lạ vào trong nhà bếp. Ông thắc mắc và lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái tai của con người. Khi sống ở trần gian, tai giúp họ nghe những điều tốt lành, nhưng họ không làm điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có tai của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Một lát sau, người nông dân lại nhìn thấy người ta mang vào nhà bếp những vật kỳ lạ khác. Ông cũng lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái lưỡi của con người. Khi sống trên đời, lưỡi khuyên bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ lại không sống; không làm những điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có lưỡi của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Gia đình nào cũng muốn được hạnh phúc. Gia đình nào cũng muốn thuận vợ thuận chồng để gia đình thăng tiến. Điều tiên quyết là mỗi người hãy để cho ý Chúa dẫn dắt. Hãy trở thành một khí cụ để thực hiện chương trình của Chúa. Hãy là những người không dừng lại ở lời nói lạy Chúa, lạy Chúa mà là những người luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
Ước gì, mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta đều là những gia đình thánh. Ước gì từng người luôn là thánh khi biết chết đi cái tôi của mình để sống cho gia đình và nhất là cho ý Chúa được thể hiện. Amen.
68.Đức Kitô tiếp tục lớn lên
Đoạn Phúc âm được đề nghị với chúng ta hôm nay thuật lại những sự kiện khá đơn giản, xét về bản chất chúng ta. Nếu coi đó như một đoạn văn, không hơn không kém thì có thể đặt một vài câu hỏi, về chi tiết thôi, chẳng hạn: sau khi dâng Con trẻ Giêsu trong Đền thờ, ông Giuse và bà Maria có thể trở về Nazaret ngay không? Vụ lánh nạn sang Ai Cập xảy ra lúc nào? Chúng ta đừng tìm kiếm trong Phúc âm một thứ tự rõ ràng, chắc chắn, cho ngày tháng và sự kiện. Điều chắc là thời kỳ Con trẻ Giêsu hết là ‘bé thơ’, giờ là một ‘nhi đồng’, đang lớn lên về phạm vi thiêng liêng – hai ông bà đã trở lại Nazarét rồi. Nghiên cứu đoạn văn người ta có thể dừng lại ở hai nhận vật Simêon và Anna, để suy niệm về sự kiện tâm trông đợi Đấng Cứu Thế và cầu nguyện của hai vị về lời tiên tri Simêon, khiến cho Maria lo sợ một kết cục đau khổ (cuộc thương khó của Đức Giêsu). Tốt hơn, chúng ta hãy chọn một đề tài cao hơn, đó là một tư tưởng lớn nằm trong hạ tầng toàn bộ Phúc âm và được thánh Luca diễn tả như sau: Con trẻ lớn lên, thân thể phát triển và được ơn khôn ngoan sung mãn. Ý niệm lớn đó là ý niệm tăng trưởng.
1) Chúng ta gặp thấy sự tăng trưởng thiêng liêng trước hết ở bà Maria và ông Giuse. Maria được gọi là người có phúc lớn, vì đã tin, trong biến cố Truyền tin. Rõ ràng là ở giây phút ấy nàng tin vào đề nghị của Thiên Chúa yêu cầu nàng ưng thuận một sự kiện xảy ra lúc đó. Đức tin của nàng không cho nàng xem thấy trước phối cảnh tương lai của toàn thể lịch sử Đức Giêsu, lúc đó mới sinh ra trong lòng nàng. Do một sự ưng thuận mỗi ngày, liên tục, nàng tiến dần vào mầu nhiệm định mệnh đời mình. Niềm tin Maria là 1 niềm tin luôn luôn tăng trưởng. Lời tiên tri của Simêông cho nàng biết trước 1 đường đời đau khổ, nhưng không cho rõ chi tiết. Do sự ưng thuận ngày một đổi mới, nhắc đi nhắc lại, Trinh nữ Maria hiểu rõ thêm Thiên Chúa đòi hòi gì ở nàng, biết rõ thêm Con Trẻ Giêsu là ai. Đối với Giuse cũng vậy. Đây là một điều quan trọng đối với chúng ta. Dường như mầu nhiệm tăng trưởng nhân tính của Đức Giêsu có mục đích là nhờ đức tin đưa chúng ta tiến vào mầu nhiệm tăng trưởng thần tính của chúng ta. Sự tăng trưởng thần tính đó, Maria và Giuse là những người đầu tiên được hưởng. Thật là một điều tốt lành khi nghĩ rằng hai ông bà rất gần với chúng ta trong điểm đó. Vì đã trải qua nên biết rõ, hai ông bà cầu bầu cho niềm tin của chúng ta tăng trưởng tốt.
2) Con trẻ lớn lên… Điều ghi nhận này liên hệ trực tiếp đến sự tăng trưởng thể chất của Đức Giêsu. Đó là một sự kiện trong phần lịch sử đã qua, thật sự qua rồi. Tuy nhiên có một sự kiện khác thuộc lĩnh vực mầu nhiệm, được hoàn tất trong lịch sử của chúng ta, ngày nay Đức Kitô tiếp tục lớn lên. Thật vậy, Người không những là Giêsu, một người như những người khác, đã sống ở Palextin từ năm nào đến năm nào đó. Người còn là Con Thiên Chúa đã xuống thế để thần hoá nhân loại. Người tiếp tục lớn lên trong nhân loại. Thánh Phaolô nói đên sự xây dựng thân thể mầu nhiệm Đức Kitô cho đến khi chúng ta hết thảy đạt thấu sự duy nhất trong kính tin và am tường về Con Thiên Chúa, mà nên người thành toàn, đạt đến tầm vóc xứng với sự viên mãn của Đức Kitô (Eph.4,13). Như vậy, Đức Kitô lớn lên trong tâm khảm sâu thẳm của mỗi người chúng ta. Dịp lễ Thánh Gia Thất, Giáo Hội dùng một đoạn Phúc âm gợi lên một trong những mối quan tâm chủ yếu của mọi gia đình, đó là sự lớn lên của đứa con. Chúng ta có thể từ đó suy niệm về sự lớn lên của Đức Kitô trong đại gia đình loài người, nghĩa là trong tâm hồn mỗi chúng ta.
69.Gia đình, cộng đoàn yêu thương
Khi gợi lại kỷ niệm đáng ghi nhớ về gia đình của mình, Đức cố Hồng Y Marty, nguyên Tổng Giám Mục Giáo phận Paris, đã nói: “Tôi đã bập bẹ những tiếng đầu tiên về Thiên Chúa, khi nhìn mẹ tôi và cha tôi đọc kinh cầu nguyện. Tôi đã học biết sự sống, học biết sự chết, tôi đã học biết thế nào là yêu thương trong cuộc sống hằng ngày, khi tôi giao tiếp với thân nhân và những người quen thuộc. Tôi yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo Hội như đã yêu mến mẹ tôi. Tôi không học mà cũng biết người phụ nữ đó đã cho tôi sự sống và mạc khải cho tôi tình yêu”. Gương sáng của cha mẹ đã giáo dục cho con cái nhiều điều tốt.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình, mà lại là một gia đình nghèo. Ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ thơ khác, như mỗi người chúng ta. Và cha mẹ Ngài cũng là những người lao động, phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu hết các gia đình khác. Là Thiên Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con trẻ, bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che chở của những người thân. Cũng như bao trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ thơ ấu và thành niên, Chúa Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài. Ngài cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học Thánh Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa, bào, đục… trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm tại Nagiarét là một chuỗi ngày bình dị, như hàng trăm gia đình cùng thôn làng, như hàng triệu cuộc sống của con người qua các thời đại.
Đó là thời kỳ ẩn dật, vì Chúa Giêsu không để lộ chân tính đích thực của mình ra cho những người chung quanh biết. Đó cũng là thời gian chuẩn bị cho quãng đời công khai của Ngài, theo nghĩa là Ngài tích lũy cho mình những kiến thức và kinh nghiệm cần thiết cho việc rao giảng Nước Thiên Chúa sau này.
Dưới một khía cạnh khác, chúng ta có thể nói, đó là những năm tháng trao đổi, cho và nhận giữa Con Thiên Chúa và gia đình nhân loại, được đại diện nơi Thánh Giuse và Đức Maria. Nếu chỉ là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế không cần phải nhận ở nhân loại một thứ gì cả. Nhưng vì Ngài là Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, nên Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều của những người thân, nhất là của Mẹ Maria: cưu mang, sinh đẻ, nuôi dưỡng, giáo dục. Ngài cũng đã nhận rất nhiều từ cộng đoàn Nagiarét, từ Hội đường Do Thái, từ cuộc sống của những người chung quanh, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, lao động. Chúng ta khó hình dung được những điều đó, vì chúng ta có khuynh hướng đặt Thiên Chúa ở chốn cao xa mà quên điều hệ trọng là Thiên Chúa đã làm người, đã nhập thể và nhập thế.
Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều từ gia đình nhân loại, nhưng thực ra Ngài còn cho nhiều hơn, vì Ngài đã cống hiến tất cả cho chúng ta, cả bản thể Thiên Chúa, cả năm tháng, cuộc sống và cái chết của Ngài, một cách âm thầm, khiêm tốn vô vị lợi.
Trong cuộc sống bình dị nhưng chất chứa bao tình thương ấy, Chúa Giêsu đã sống thân mật với Cha Ngài, đã sống hiếu thảo với cha mẹ trần thế của Ngài, đã sống chan hòa bác ái với những người chung quanh. Rồi cha mẹ Ngài là những người kính sợ Thiên Chúa cũng đã sống hết mình với Thiên Chúa, tận tụy và thương yêu con cưng của mình. Giữa Đức Maria và Thánh Giuse thì thật là một mối liên hệ có một không hai trong lịch sử loài người, chắc chắn tình yêu thương đậm đà và lòng tôn kính là những nét đặc thù nhất, khiến Thánh Giuse được gọi là người công chính, còn Maria là người có phúc hơn mọi người phụ nữ.
Sách Huấn ca hôm nay đã nhấn mạnh đến lòng hiếu thảo của người con đối với cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ hình dung ra cách sống của Con Thiên Chúa làm người dưới mái nhà Nagiarét. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôsê đề cập đến mối quan hệ giữa những người được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn sống thành gia đình, gia đình của Thiên Chúa: đó là lòng từ bi, nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng, chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau. Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là một gia đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các thành viên trong gia đình thánh này đều là những tôi tớ của Thiên Chúa, trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng đoàn ba vị đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia đình Nagiarét là gương mẫu, là lời mời gọi đối với mỗi người chúng ta, đối với mỗi gia đình Công giáo ngày nay.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, với sự tiến bộ của ngành khoa học nhân văn và xã hội, con người càng khám phá ra chiều kích xã hội của mình và tầm quan trọng của cộng đoàn gia đình trong đời sống xã hội. Gia đình là cái nôi đầu tiên đón tiếp con người và cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết của cuộc sống và hạnh phúc. Đối với các kitô hữu, gia đình còn mang một ý nghĩa khác nữa: đó là một cộng đoàn yêu thương phản ảnh cộng đoàn của Thiên Chúa, theo gương gia đình Nagiarét. Trách nhiệm thật lớn lao của các bậc làm cha làm mẹ. Chức năng nhiệm vụ ấy cha mẹ chỉ có thể hoàn thành được nếu biết yêu thương và tha thứ như chính Chúa Kitô đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta. Đó là quy luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con cái và cha mẹ. Vì trong cuộc sống gia đình, con người có thể biến cuộc sống ấy thành thiên đàng hay hỏa ngục trần gian. Cuộc sống gia đình tạo cho cha mẹ những cơ hội quý báu để thực hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh phúc cho người khác. Cuộc sống gia đình luôn luôn đòi hỏi cha mẹ phải dẹp bỏ ý riêng mình, quan điểm riêng của mình, để tôn trọng và giúp đỡ con cái phát triển về mọi mặt.
Do sự khác biệt về tính tình, môi trường giáo dục, tuổi tác và sở thích, nên chuyện xung đột, căng thẳng, là chuyện đương nhiên không thể tránh được giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Nhất là trong một vài hoàn cảnh khó khăn về kinh tế tài chính. Muốn vượt qua những cảnh xung đột, những giờ phút căng thẳng ấy, mỗi người, dù là vợ hay chồng, cha mẹ hay con cái, đều phải thấm nhuần tinh thần của Chúa Kitô: “Tôi đến để phục vụ chứ không để được phục vụ”. “Ai muốn làm đầu thì hãy làm tôi tớ phục vụ mọi người” (x. Mt 20,26-28). Ở đây, cha mẹ có trọng trách nêu gương cho con cái, vợ chồng có trách nhiệm làm chứng cho nhau tình yêu quảng đại và vô vị lợi của Thiên Chúa. Lời căn dặn của Thánh Phaolô phải là phương châm cho các bậc cha mẹ cũng như con cái trong gia đình: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Ngài mà cảm tạ Chúa Cha”(Cl 3,17).
Như thế, gia đình kitô hữu, theo gương đời sống gia đình của Thánh Gia Thất, với tình yêu thương và tha thứ, với tinh thần phục vụ quảng đại và vô vị lợi, sẽ là ngọn đèn tỏa sáng, sẽ là cái nôi hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho anh em đồng bào trong xã hội chúng ta hôm nay.
70.Mái nhà lý tưởng
Những biến cố chung quanh việc thụ thai và sự ra đời của Đức Giêsu đánh dấu rằng Người là một con trẻ đặc biệt, với một vận mệnh duy nhất. Thông qua Người, lời hứa đối với ông Apbraham sẽ được nên trọn. Người sẽ trở thành niềm hy vọng và an ủi của dân Israen, và là ánh sáng cho các dân tộc. Nhưng Tin Mừng cũng nói về sự khước từ Đức Giêsu, một sự khước từ sẽ gây ra một lưỡi gươm đâm thấu qua trái tim của Đức Maria. Cha mẹ chia sẻ niềm vui và nỗi đau khổ của con cái họ, và ngược lại.
Không có lý do gì để tin rằng Đức Maria và thánh Giuse hiểu biết rõ ràng trọn vẹn hoặc về vận mệnh vĩ đại của Con Trẻ Giêsu. Tuy nhiên, khi đón nhận Người vào trong cuộc đời của mình, và nuôi dưỡng Người trong lòng tin và tình yêu thương, các ngài đã góp phần trong việc giúp đỡ Người nhận ra vận mệnh của mình. Tin Mừng cho thấy rằng tại nhà Nagiarét, các ngài đã tạo ra một bầu khí mà trong đó, Đức Giêsu có thể phát triển đến khi trưởng thành.
Mỗi đứa con đều là một quà tặng của Thiên Chúa. Và mỗi đứa con đều có một vận mệnh duy nhất. Nhưng vận mệnh đó còn ẩn giấu đối với cha mẹ. Họ thắc mắc không biết con cái họ sẽ trở thành gì. Một cách tự nhiên, họ mong muốn điều tốt đẹp nhất cho chúng. Nhưng tất cả điều mà họ có thể làm được, đó là khai mở cho chúng trên con đường đời của chúng. Vượt lên trên tất cả, họ phải cẩn thận để không ngăn cản kế hoạch của Thiên Chúa đối với con cái.
Cha mẹ nên cầu xin Thiên Chúa hướng dẫn con cái của mình theo những chọn lựa mà chúng thực hiện. Nếu chúng ta phải hoàn tất điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta hoàn tất, thì tất cả chúng ta đều cần sự hướng dẫn của Người.
Nói một cách lý tưởng, gia đình phải là một cộng đoàn yêu thương nhỏ bé. Bầu khí trong gia đình là yếu tố quan trọng nhất. Bầu khí đó được xác định do phẩm chất của các mối tương quan. Cha mẹ và con cái đều đóng góp vào việc tạo ra bầu khí đó.
Cuộc sống gia đình mang rất nhiều thử thách. Gia đình không chỉ biết tiếp nhận; mà còn phải biết cống hiến nữa. Những mối dây liên kết trong gia đình làm cho chúng ta được phong phú, nhưng cũng ràng buộc chúng ta. Chúng lôi kéo theo những ràng buộc của trách nhiệm và tình yêu thương.
71.Gương mẫu Thánh Gia
“Theo luật Môsê… cha mẹ dâng con cho Chúa”.
Một ông vua muốn thử tài phán đoán của các con, ông đưa ra hai viên ngọc quý, một viên thật, một viên giả, viên ngọc thật ông gói trong giấy báo cũ, còn viên giả ông để trong một hộp thật đẹp. Ông gọi người con đầu tới và bảo anh chọn lấy một viên. Anh bỏ qua gói giấy xấu, lựa lấy viên trong hộp đẹp. Thế là anh đã chọn viên ngọc giả. Đến lượt người con thứ, vua cha cũng bảo như thế, anh này vốn là đứa con hiếu thảo, anh nói: “Thưa cha, con xin cha lựa giùm con”. Dĩ nhiên vua cha lựa cho anh viên ngọc thật.
Chúa Cứu Thế đến trần gian cũng ví được như một ngọc quý nhưng được che phủ trong dáng vẻ bình dị, tầm thường, ít người nhận ra. Muốn nhận ra Chúa Cứu Thế phải có ơn đặc biệt, phải chuẩn bị tâm hồn xứng hợp.
Chúa Giáng Sinh chẳng những như một em bé bình thường, mà còn kém các em bé bình thường nữa. Chúa cũng tuân giữ luật lệ như mọi người, dù em bé Giêsu là Thiên Chúa, dù Đức Maria vô cùng tinh sạch, Mẹ cũng bồng Chúa lên đền thờ làm nghi thức thanh tẩy và dâng lễ vật chuộc Chúa về. Một cặp chim, đó là lễ vật của nhà nghèo. Gia đình Chúa lên đền thờ như một gia đình nghèo khó thi hành luật định. Chúa như là viên ngọc dấu kín, thế nhưng đã có ông Simêon và bà Anna nhận ra Người.
Trong đền thánh có bao nhiêu người giỏi giang, thông thái như các tư tế, các luật sĩ. Họ am tường Kinh Thánh, hiểu rõ các lời ngôn sứ tiên báo về Chúa Cứu Thế, nhưng họ không nhận ra Chúa, vì Chúa quá nghèo khó bình dị. Trong khi ông chỉ là một ông lão nghèo. Bà Anna chỉ là một quả phụ, bần cùng yếu đuối, không quyền hành trong xã hội. Nhưng họ vốn là những người con hiếu thảo của Thiên Chúa: khiêm tốn, đạo hạnh, biết thờ Chúa với tất cả tấm lòng tin yêu phó thác vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Họ giống như người con thứ của vua trong câu chuyện kể trên. Họ đã được Chúa Thánh Thần soi sáng để nhận ra Chúa Cứu Thế qua dáng vẻ tầm thường của một hài nhi. Họ đã được đón nhận Chúa Cứu Thế, như những người nghèo hèn bé nhỏ được Chúa chúc phúc vậy.
Simêon và Anna nghèo khó đã hân hạnh được bồng ẵm Chúa Cứu Thế, được thay mặt nhân loại nói lời đầu tiên tung hô Chúa đến.
Simêon cũng đã tiên báo Chúa Cứu Thế sẽ là một báu vật được giấu kín giữa lòng thế nhân. Vì vậy có người nhận ra nhưng đa số vẫn từ chối Ngài, thậm chí còn chống đối Ngài. Do đó Ngài sẽ là duyên cớ cho nhiều người vấp ngã. Và thái độ họ sẽ như một lưỡi gươm đâm thấu trái tim Đức Maria, sẽ làm Mẹ tan nát cõi lòng như ta thấy về sau.
Chu toàn bổn phận theo luật định xong, gia đình Chúa Giêsu trở về Nagiarét. Ở đó, Chúa Giêsu lớn khôn, học hành, tập nghề thợ mộc như các bạn thiếu nhi. Cuộc sống Chúa vạch rõ tầm quan trọng của gia đình, cái nôi cần thiết cho mọi người. Chúa sống ở trần gian 33 năm, thì đã sống 30 năm bình thường trong gia đình nghèo khó.
Xin Chúa giúp chúng con theo gương Chúa sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính ông bà cha mẹ ở trần gian và sống tình huynh đệ với mọi người. Biết vâng giữ luật Chúa, luật Hội Thánh và các luật lệ chính đáng trong xã hội.
72.Gia đình Giuse - Maria - Hài Nhi Giêsu
Đề tài "gia đình" là một đề tài xưa như trái đất, mà cũng rất thời sự như "tình yêu", "tình yêu và tuổi trẻ", "dự bị hôn nhân", "thăng tiến hôn nhân", vân vân và vân vân...
Ai cũng biết rằng tất cả các tạo vật - giống nào theo giống đó - có một mối tương quan rất chặt chẽ, một sự hỗ tương tác dụng để "sinh sôi nẩy nở" (Kn 1,22) và lan tràn khắp mặt đất, bầu trời lẫn biển khơi. Riêng loài người thì được Đấng Tạo Hóa ban cho quyền năng "sinh sôi nẩy nở và nên đầy dẫy trên mặt đất, và làm bá chủ muôn loài" (Kn 1,28-31). Đó là "tính xã hội" của muôn loài nói chung, của loài người nói riêng = xã hội loài người thành hình.
Quả thật "không ai là một hòn đảo" (Thomas Merton), mặc dầu dưới một góc độ nào đó, "mỗi người là một hòn đảo" (Carl Rogers). Tựu trung, có lẽ ngoại trừ ông Adong và bà Eva [và cả hài nhi Giêsu? - ai muốn kiểm chứng thì hỏi hài nhi Giêsu đi!] còn hết thảy chúng ta, ai cũng có lổ rốn. Phải chăng lổ rốn là dấu chứng rõ nét nhất của mối tương quan giữa các tạo vật, giống nào theo giống đó, đặc biệt là giống người? = nhân tố của xã hội loài người: gia đình.
Trong chiều hướng đó, Ngôi Lời mặc xác phàm đến ở-với-chúng-ta trong một gia đình - một gia đình rất đặc biệt, có thể nói rằng gia đình duy nhất ở trần gian biểu hiện nếp sống hoàn toàn phù hợp với ý định của Đấng Tạo Hóa khi tạo dựng loài người, và là mẫu mực cho tất cả mọi gia đình của nhân loại trong tiến trình đón nhận ơn cứu độ, ơn canh tân đổi mới để đạt đến sự viên mãn của "Bình An dưới thế cho người Chúa thương".
Chúng ta đã suy niệm và hân hoan ca hát: "Vinh Danh Thiên Chúa trên trời - Bình An dưới thế cho người Chúa thương". Và chúng ta cũng biết rằng Đêm Giáng Sinh chỉ là khởi điểm của chương trình "tạo dựng mới" mà Thiên Chúa đã hứa ban cho loài người ngay sau khi tổ tông phạm tội.
Tiến trình canh tân đổi mới này phải có "hợp đồng hai chiều" giữa Thiên Chúa và loài người, như thánh Augustinô đã nói: "Thiên Chúa tạo dựng chúng ta mà không hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Thiên Chúa sẽ không cứu độ chúng ta nếu không có sự đồng tình của chúng ta". - Ai không muốn kiểu "hợp đồng hai chiều" này thì "thương lượng lại" với Đấng Tạo Hóa đi!!!
Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đầy quyền năng, là Cha rất nhân từ hằng yêu thương hết mọi người (đọc lại Matthêu, 5-7) - Người không để chúng ta thiệt thòi trong "hợp đồng hai chiều" này đâu! Trái lại, như một nhà giáo dục tuyệt vời, Người còn mách lối chỉ đường cho chúng ta, không chỉ bằng Lời giảng dạy, mà nhất là bằng gương mẫu nếp sống cụ thể của chính Ngôi Lời ở-với-chúng-ta trong một gia đình bằng xương bằng thịt như chúng ta: gia đình Giuse-Maria-Giêsu.
Trước khi vào nếp sống gia đình, cô nàng thùy mị Maria đã phải đương đầu với một cuộc thương lượng gay go: hợp đồng với Thiên Chúa để bắt đầu thực hiện chương trình canh tân đổi mới tạo vật bất chấp mọi dư luận thế gian trần tục? [chưa cưới mà mang thai!]
Trước khi vào nếp sống gia đình, anh chàng Giuse đã phải ký kết hợp đồng với Thiên Chúa, một hợp đồng mà xét theo con mắt trần tục, phần thua thiệt chua cay đau khổ thì Giuse hoàn toàn lãnh đủ!
Vừa bước vào "nếp sống gia đình" (nếp sống gia đình trong dấu ngoặc kép), cả hai Giuse và Maria đều vỡ mộng: lời hứa hẹn của thiên sứ, nào là "Người sẽ làm vua", nào là "Người sẽ cứu dân độ thế"... hóa ra là lời hứa cuội. Tìm chỗ trú ẩn tầm thường để Maria sinh ra "vua cả trời đất" mà cũng chẳng ai thèm cho!
Ngày "vua cả trời đất" sinh ra, họa chăng có vài mục tử nghèo hèn đến viếng thăm. Rồi nghe đâu có ba (3) nhà hiền sĩ từ phương Đông tò mò đến như thể để kiểm chứng sự khám phá "ngôi sao lạ" vừa xuất hiện trên bầu trời.
"Hoàng Nhi" vừa thôi nôi mã đã có người tìm giết cho bằng được. Giuse lại phải đương đầu với hợp đồng ông đã ký kết với Thiên Chúa: dẫn "hiền thê" và "Con đầu lòng" đi trốn sang Ai-Cập, nơi mà hơn 1000 năm trước, các tổ phụ của Giuse đã bị bắt làm nô lệ...
Thời đó chắc chưa có chính sách tị nạn, nghĩa là chưa có "green card" hoặc "thi nhập quốc tịch", Giuse lại phải tiếp tục chấp hành đúng theo điều cam kết trong hợp đồng với Thiên Chúa: đem "hiền thê" và "Hoàng Nhi" về quê cũ.
Ôi! con đường Thiên Chúa dẫn dắt gia đình Giuse-Maria-Giêsu đến sự "Bình An dưới thế cho người Chúa thương" thật kỳ lạ, vượt xa mọi tư tưởng và cảm nhận của người trần thế!
Đấng Tạo Hóa "khôn" lắm! Người biết thế nào chúng ta cũng so đo phàn nàn về "hợp đồng hai chiều" mà phần thua thiệt - dưới con mắt trần tục của chúng ta - bảo đảm chúng ta phải lãnh đủ, nên gần 500 năm trước khi Ngôi Lời mặc xác phàm đến ở-với-chúng-ta, Người đã dùng miệng ngôn sứ Isaia báo trước: "Quả thế, ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi... Vì trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ của các ngươi." (Is. 55:8-9)
Trong suốt 30 năm Ngôi Lời mặc xác phàm ở-với-chúng-ta, gia đình Giuse-Maria-Giêsu hầu như im hơi lặng tiếng - chỉ một lần lúc Giêsu lên 12 tuổi (tuổi "có trí khôn" theo quan niệm thời bấy giờ?), Thiên Chúa hé mở cho chúng ta thấy thế nào là nếp sống gia đình gương mẫu, một nếp sống trông rất bình thường nhưng vượt trên mọi sự bình thường:
+ Giuse thì luôn luôn LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng nói của lương tri, của Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn trong mọi biến cố của cuộc đời;
+ Maria thì luôn luôn "suy niệm trong lòng", nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa qua mọi biến cố và XIN VÂNG;
+ Giêsu thì luôn luôn "ở nơi nhà Cha" (Luca 2:49), tùng phục cha mẹ, và "lớn lên [bình thường như mọi người] càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta" (Luca 2:51).
Quả là một cuộc thách đố Đấng Tạo Hóa "trêu" con người!
Nhưng "vui mừng và hy vọng" thay! Chương trình tái tạo muôn loài nhờ Ngôi Lời mặc xác phàm ở-với-chúng-ta đã thành tựu = gia đình Giuse-Maria-Giêsu làm chứng điều đó, và trải qua gần 2000 năm nay, biết bao nhiêu gia đình - cộng đoàn tu sĩ nam nữ cũng là những gia đình trong ý nghĩa trọn vẹn của gia đình - đã noi theo gương Thánh Gia làm chứng điều đó.
Phần chúng ta hôm nay, bây giờ, gia đình chúng ta có muốn theo gương các vị tiền nhân, ký kết "hợp đồng hai chiều" với Thiên Chúa để mỗi một chúng ta: cha mẹ, con cái, anh chị em chúng ta đạt đến sự viên mãn của "Bình An dưới thế cho người Chúa thương" không? - Nhờ ơn Chúa hợp với tâm tình LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng nói của Thần Khí Thiên Chúa của chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ thu lợi trong "hợp đồng" này.
73.Gia đình có Chúa, có bình an
Hà Linh tác giả truyện ngắn, kể hạnh phúc của một gia đình như thế này: Trước kia cuộc sống khó khăn vất vả, Bố thường đi công tác xa, ở nhà, hai mẹ con ăn uống thật khắc khổ. Mỗi lần bố về, tôi rất vui, vì Mẹ thường nấu món ăn ngon cho cả nhà cùng ăn. Tôi hỏi Mẹ tai sao thì Mẹ nói: Chỉ khi nào có mặt ở nhà đầy đủ thì mẹ mới nấu ăn ngon được. Tôi vẫn chưa hiểu được nổi nhớ của Mẹ. Bây giờ, Bố Mẹ mất hết, tôi mới hiểu rằng: một bữa cơm ngon chỉ có khi gia đình sum họp đầy đủ, và mọi người biết đem lại niềm vui cho nhau.
Hôm nay, Hội Thánh mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lên gia đình Thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu mà chúng ta quen gọi là gia đình Thánh gia thất. Đây là một gia đình gương mẫu để tất cả các gia đình công giáo chúng ta noi theo. Như vậy, chúng ta đã học được những điều tốt đẹp nào qua gia đình thánh gia thất.
Nhìn Thánh Giuse, Ngài là một người cha rất cương nghị nhưng cũng rất giàu tình thương, biết hành động và cân nhắc trước những tình huống khó khăn, một người cha rất nhanh nhẹn và sẵn sàng. Dù là đang đêm nhưng vẫn không ngại khó khăn vất vả chổi dậy đưa Maria và Hài nhi Giêsu đi trốn qua Ai cập. Một người cha dám bỏ những gì là thân thương và riêng tư nhất như tài sản, họ hàng, quê hương để sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Quả thật Giuse đúng là một mẫu gương tuyệt vời cho các gia trưởng noi theo.
Nhìn Mẹ Maria, Ngài là một người vợ và là một người mẹ hết sức thánh thiện, bởi vì trước những biến cố rất kinh khủng, trước những biến cố rất quan trọng có liên quan đến cả một cuộc đời, mà Mẹ Maria không hề thắc mắc, không nghi ngờ, không ngại khó để sẵn sàng vâng phục theo thánh ý Chúa. Trong hang đá Belem, Mẹ chính là niềm vui cho trẻ Giêsu, là sự hãnh diện cho Thánh Giuse, là niềm hạnh phúc cho các mục đồng, và là nguồn an ủi cho ba nhà đạo sĩ. Mẹ cũng là nụ cười cho trẻ Giêsu, Mẹ chính là một cái máy điều hòa không khí để cho hang đá Belem đang giá lạnh được trở nên ấm cúng một cách lạ thường. Quả thật Mẹ Maria đúng là một mẫu gương tuyệt vời cho các bà Hiền mẫu noi theo.
Nhìn Hài Nhi Giêsu, Ngài là một con người nhỏ bé nhất, nhỏ bé nhất nhưng lại quan trọng nhất. Quan trọng nhất, bởi vì đôi tay của Ngài tuy bé nhỏ, nhưng chính đôi tay ấy đã dựng nên cả đất trời, chính đôi tay ấy đã chữa lành cho biết bao trái tim của những người đang tan vỡ, và chính đôi tay ấy đã xoa dịu bao nổi lòng còn đang lo âu, thổn thức. Quả tim của hài nhi Giêsu tuy nhỏ bé, nhưng chính quả tim ấy lại có một tình yêu thật to lớn, một tình yêu thí mạng cho người mình yêu, một tình yêu có một không hai trong lịch sử này. Hài nhi Giêsu đúng là một mẫu gương lý tưởng để chúng ta nhìn vào đó mà suy gẫm.
Sau khi chiêm ngắm gia đình Thánh Gia chúng ta thấy rằng: Gia đình nào cũng phải có tình thương, và tổ ấm gia đình chỉ được xây dựng được khi nào có tình thương. Có tình thương thì mọi thành phần trong gia đình sẽ có quảng đại để lo cho nhau, và để đem lại niềm vui cho nhau. Đem lại sự bình an cho nhau.
Qua truyện ngắn và nhìn lại gia đình thánh gia thất. Quả thật, gia đình nào cũng có vui có buồn, có sướng có khổ, và mọi người trong gia đình phải biết thương mến nhau và chấp nhận nhau.
Nhìn lại gia đình Thánh gia, tôi thấy đây là một gia đình Thánh, gồm toàn những người Thánh, nhưng gia đình thánh cũng không tránh được những chuyện buồn phiền. Giuse cũng buồn khi biết Maria có thai mà không phải do ông. Rồi Giuse và Maria cũng buồn khi mới sinh có mấy ngày, mà phải vội vã đi trốn mãi sang Aicập, hoặc là hai ông bà buồn khi con đi lạc ở đền thờ Giêrusalem… Gia đình Thánh mà cũng gặp phải những chuyện buồn như vậy thì huống chi là gia đình của mỗi người chúng ta. Đó là những chuyện buồn bình thường, bởi vì đâu có gia đình nào tránh được hết những bất trắc đâu, gia đình nào cũng có những hoàn cảnh riêng của gia đình đó, gia đình nào cũng có những buồn vui của gia đình đó, gia đình nào cũng có những bất ngờ riêng như: đau ốm, nợ nần, hết tiền, thiên tai, bảo lụt, cải nhau, bị nghi ngờ, bị hiểu lầm, bị chống đối… Vậy khổ đau thì luôn có, và mỗi người chúng ta hôm nay học được bài học của Thánh gia, là chúng ta phải biết biến những nổi buồn trong cuộc sống gia đình của chúng ta thành những niềm vui, cũng như chúng ta hãy lợi dụng những hoàn cảnh trong gia đình để làm cho nhau nên tốt hơn, mới hơn, và yêu thương nhau hơn noi theo gương của gia đình Thánh gia thất.
Chúng ta cùng hướng về gia đình Thánh gia thất và thầm thỉ kêu cầu:
Lạy Thánh Giuse, xin làm cho gia đình chúng con được trở thành tổ ấm của tình yêu.
Lạy Mẹ Maria, xin làm cho gia đình chúng con được hạnh phúc.
Lạy Hài nhi Giêsu, xin làm cho mọi người trong gia đình chúng con biết yêu thương nhau.
74.Tình yêu và lòng kính trọng trong gia đình
Hơn hết tất cả, lễ Giáng sinh thật sự là một lễ dành cho gia đình. Và trong khi tâm trí chúng ta còn đang hướng về Bêlem và Thánh gia, thì các bài đọc Phụng vụ hôm nay lại nhắc đến nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống gia đình. Nói đến Thánh Gia, có lẽ là nói đến một cái gì xa vời chăng, vì gia đình chúng ta đây có lẽ còn quá cách xa gia đình lý tưởng này.
Chúng ta đừng quên rằng Maria và Giuse, cũng như các bậc cha mẹ khác, đều phải đương đầu đối diện với biết bao vấn đề khó khăn. Bóng đen của thập giá đã phủ xuống chiếc nôi ở Bêlem, đã tràn vào trái tim Mẹ Maria khi nghe lời tiên tri lạnh lùng của Simêon, nào là Con trẻ sẽ nên cớ vấp phạm của nhiều người trong Israel, nào là trái tim của Mẹ sẽ bị lưỡi gươm sắc đâm thâu qua. Ngày từ đầu con trẻ mà Maria và Giuse hết lòng yêu thương trìu mến lại là một huyền nhiệm to lớn, và khi con trẻ trưởng thành dưới sự bao bọc của mình, Maria và Giuse chỉ biết hết lòng phó thác tín nhiệm vào Thiên Chúa mà thôi. Chúng ta cũng phải làm như thế thôi. Gia đình là một định chế lâu đời nhất của nhân loại, và gia đình đã tồn tại đến ngày nay là vì nó được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Chúng ta có thể không có khả năng làm xoay chuyển thế giới nhưng ảnh hưởng của chúng ta vẫn có thể vươn ra bao bọc lấy gia đình tổ ấm chúng ta.
Cũng giống như bất cứ kế hoạch đáng giá nào khác, cuộc sống gia đình muốn thành công mỹ mãn phải cần đầu tư nhiều thời giờ và sức mạnh. Gia đình hạnh phúc không tự dưng mà đến. Tình yêu, hoà điệu, kính trọng lẫn nhau, vốn là những yếu tố cơ bản của một gia đình hạnh phúc, phải được chứng minh bằng hành động cụ thể. Câu Latinh “Lời nói bay qua, gương bày lôi kéo” (Verba volant, exampla trahunt). Gương sáng là những lời giảng dạy hùng hồn nhất. Những thái độ yêu thương ân cần chăm sóc, vốn rất cần trong những buổi ban đầu, cũng có nhiều ảnh hưởng sâu đậm và dài lâu. Trong cuộs sống sau này, con cái sẽ trở nên những gì mà chúng được nhào nặn, uốn nắn, được hấp thụ, và mội khi chúng học được cách cho đi và nhận lãnh, thì đồng thời chúng cũng sẽ phát triển được sự hiểu biết tha nhân một cách trưởng thành hơn.
Đây là cơ hội tốt cho những người mới trưởng thành suy nghĩ lại về tình yêu và lòng kính trọng mà họ cần biểu lộ với cha mẹ mình, vì đối xử tử tế với cha mẹ là một việc quí giá trước nhan Thiên Chúa. Buồn thay, về phương diện này, giới trẻ thường không sống phù hợp với tinh thần phúc âm cho lắm.
Cha mẹ ngày nay thường hay bị hoang mang bối rối không biết cái gì đang xẩy ra, khi thấy con cái đang trưởng thành lại hay diễn tả những giá trị cũng như niềm tin khác với thế hệ trước. Cũng cần phải tỏ lòng tôn kính đặc biệt với ông bà nội ngoại trong quãng đời về chiều, và đừng để các ngài kết thúc cuộc đời trong nỗi cô đơn dày vò. Hơn bất cứ gì khác, điều đáng nói nhất là cần sống bình an trong vòng tay êm ấm của gia đình. Đã đành một gia đình được chu cấp đầy đủ, và một mức sống tươm tất là điều quan trọng nhưng chúng ta cũng cần nhớ rằng nếu như gia đình không duy trì cầu nguyện hướng về cuộc sống thiêng liêng, thì mọi chuyện khác cũng nhất định sẽ trục trặc mà thôi.
Đời sống gia đình không bao giờ trôi chảy êm ả mãi, ngày nay còn có biết bao khó khăn phải nỗ lực phấn đấu hơn xưa nhiều lắm. Nhưng đó là những nguyên liệu chúng ta sử dụng để hình thành nên đời sống thánh thiện của chính mình. Nhân dịp Lễ Thánh Gia, chúng ta cầu xin Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse giúp gia đình chúng ta biết sống đẹp lòng Chúa hầu đem lại một tinh thần mới cho đơn vị cơ bản nầy của xã hội loài người.
75.Tầm quan trọng của đời sống gia đình
Giáo hội thiết lập Lễ Thánh gia để chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình, và cái gương mẫu của gia đình thánh. Chính Chúa Giêsu đã chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình qua cuộc đời của Người tại thế. Chúa chỉ dành có ba mươi năm - nhiều hơn 10 lần - sống trong trong bầu khí gia đình, có Mẹ có Cha, để thu thân luyện đức. Theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa, trinh nữ Maria được chọn làm mẹ Đấng cứu thế. Còn thánh Giuse được chọn làm cha nuôi để săn sóc cho gia đình thánh. Chúa Giêsu bắt đầu sống trong gia đình theo nhân tính của Người như mỗi người để giúp ta dễ liên kết với Người.
Gia đình đời nay lớn hay nhỏ là đá tảng của đời sống quốc gia. Trong quá khứ, nhiều quốc gia đã muốn tiêu diệt đơn vị gia đình, nhưng thất bại. Sống và lớn lên không có gia đình, người ta có thể mất đi cái thăng bằng về đời sống tâm linh và tình cảm. Khi gia đình đổ vỡ, những căn tính về phái tính về gia đình của con cái sẽ bị thuyên giảm. Nói theo phương diện đạo đức thì gia đình là một đơn vị tôn giáo đầu tiên. Chính trong bầu khí an toàn và cái khung cảnh ấm cúng của gia đình mà những giá trị nhân bản, luân lý và đạo giáo được truyền đạt xuống cho con cháu và con cháu học được những việc làm đạo hạnh của ông bà cha mẹ.
Thiên Chúa biết rõ trước khi Người tạo dựng A-đam và Ê-va. Sách Sáng Thế Sử ghi lại: Thiên Chúa tác thành con người theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Thiên Chúa hài lòng với công việc Người tạo dựng, chúc lành cho người nam và người nữ, và phán: Hãy sinh sản cho đầy mặt đất, và khắc phục đất đai (St 1,28). Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ để làm thành gia đình, có cha có mẹ và con cái để yêu thương săn sóc lẫn nhau. Sợi dây ràng buộc gia đình lại với nhau là tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Chúa Giêsu mặc lấy thân xác loài người và sinh ra giữa nhân loại. Chính tình yêu đã khiến trinh nữ Maria chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế. Chính tình yêu đã khiến thánh Giuse đưa Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt 1,25).. Và cũng chính tình yêu đã đưa gia đình thánh trở về Na-za-rét. Ở đó thánh Giuse cung phụng cho gia đình thánh như có thể bằng cách làm nghề thợ mộc. Giáo hội thánh hoá đời sống gia đình qua Bí tích hôn phối. Giáo hội coi Bí tích hôn phối là thánh thiện vì đời sống nhân loại mong được thánh thiện nếu muốn được phản ảnh Gia đình thánh. Gia đình thánh nêu ra tấm gương mà mỗi gia đình tốt phải noi theo. Gia đình Na-gia-rét được gọi là thánh, không phải chỉ tại Chúa Giêsu là thánh, mà còn tại Gia đình thánh đã đem ra thực hành những lời khuyên dạy khôn ngoan mà người Do thái đã tích lũy cho đời sống gia đình hạnh phúc. Đó là điều mà bài sách Huấn ca hôm nay dạy ta: Ai vâng lệnh Chúa, sẽ làm cho mẹ an lòng (Hc 3,6). Điều đó có nghĩa là người mẹ sẽ được hạnh phúc khi con mình vâng lệnh Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan.
Giáo hội trình bày Gia đình Na-gia-rét là Gia đình lý tưởng cũng ý thức được những khiếm khuyết mà có thể làm ly tán bất cứ đời sống gia đình nhân loại nào. Đó là lý do tại sao trong thư gửi tín hữu Co-lo-sê thánh Phaolô khuyên họ làm sao sống tinh thần Ki-tô giáo. Thánh nhân khuyên họ hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và hãy tha thứ cho nhau (Cl 3,12-13). Trong gia đình, các phần tử được kêu gọi mang trách nhiệm cho nhau. Thành phần tàn tật, thành phần đổ vỡ trong gia đình phải được coi là thành phần trong gia đình. Và thành phần quá cố trong gia đình cũng phải nằm trong lời cầu nguyện của gia đình.
Gia đình thánh mà Giáo hội mừng lễ hôm nay phải là mẫu mực cho mọi gia đình noi theo. Mỗi phần tử trong gia đình có thể bắt chước được những gì nơi Chúa Hài nhi, nơi mẹ Mara, nơi thánh Giuse? Và ta cũng cầu nguyện cho sự thành đạt và hạnh phúc cho đời sống gia đình.
76.Bếp lửa
Lễ Giáng sinh là lễ của ánh sáng. Đêm Noel, không những trong ngôi thánh đường này, mà khắp nơi trên thế giới, ánh sáng rực rỡ hơn mọi ngày. Không phải chỉ là ánh sáng vật chất bên ngoài, nhưng chính là ánh sáng chân thật của Đấng Cứu thế bừng lên trong lòng thế giới. Sự kiện lớn lao ấy đã bắt đầu một cách khiêm tốn tại một nơi được dùng để nhốt thú vật, một nơi tối tăm hôi thối và ẩm ướt. Việc đầu tiên của thánh Giuse khi tới đó, là nhóm lên một bếp lửa, cho ấm áp và sáng sủa để dọn dẹp.
Trong triết học người ta thích định nghĩa ngôi nhà bằng bếp lửa. Nếu chỉ có bốn bức vách và hai mái che mưa nắng thì chưa được gọi là nhà, cần phải có một bếp lửa nữa mới thực sự là chỗ ở của con người.
Bếp lửa cần thiết không những để sưởi ấm mà còn để nuôi sống con người. Một trong những điểm làm cho con người khác hẳn con vật là biết dùng lửa. Khi bếp lửa được nhóm lên nơi hang đá Bêlem, thì chỗ cư ngụ của thú vật đã trở nên một tổ ấm, một mái nhà cho một gia đình nghèo khổ của thánh Giuse, Đức Mẹ và hài nhi Giêsu, cũng như đã trở nên một hình ảnh tượng trưng cho thế giới, cho nhân loại.
Thực vậy, từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ và Ngài đã đem tình thương của Ngài đặt vào đó, và thế giới này trở thành một quê hương, một tổ ấm của con người. Thế nhưng con người đã từ chối tình thương ấy, khi xua đuổi Thiên Chúa. Con người đã dập tắt bếp lửa yêu thương mà Thiên Chúa đã nhóm lên trong lòng họ. Từ đó, chỗ ở của họ đã trở thành hoang vu, tình thương đã bị thay thế bằng hận thù, sự thật đã bị thay thế bằng gian tham lừa đảo.
Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc con người. Ngài đã sai con Ngài sinh ra trong cảnh tiêu điều tăm tối, để nhóm lại bếp lửa, biến đổi nơi hoang tàn trước kia trở thành một tổ ấm. Đức Kitô đã trở nên anh em của loài người. Ngài đã qui tụ tất cả lại trong gia đình con cái Thiên Chúa.
Vì vậy tiên tri Isaia đã xác quyết: Nhân loại bước đi trong u tối đã nhìn thấy ánh sáng chan hòa. Anh sáng ấy, ngọn lửa ấy không phải là của một que diêm, một bó đuốc, nhưng là của mặt trời. Đức Kitô là mặt trời công chính soi chiếu khắp chốn trần gian. Ngài là tình thương của Thiên Chúa sưởi ấm loài người.
Kể từ nay, thế giới biến thành một tổ ấm, một gia đình của con cái Thiên Chúa, vì có bếp lửa là chính Chúa Giêsu ở giữa. Hôm nay, ánh sáng không phải chỉ bao trùm trên những người chăn chiên, mà còn bao trùm trên toàn thể Bêlem, toàn thể xứ Giuđêa và toàn thể địa cầu.
Thế nhưng Bêlem vẫn ngủ mê, Giuđêa vẫn đắm chìm trong quên lãng và nhân loại vẫn vùi sâu trong lầm lạc. Chỉ có những tấm lòng đơn sơ nhỏ bé như những người chăn chiên mới đón nhận được ánh sáng ấy.
Đức Kitô đã biến thế giới này trở thành một tổ ấm, một gia đình cho những người con cái Thiên Chúa, nhưng điều ấy có ý nghĩa gì nếu chính gia đình nhỏ bé của chúng ta vẫn hoang tàn lạnh lẽo thiếu hẳn hơi ấm yêu thương, chỉ còn là một chỗ cho cãi cọ, xích mích và đay nghiến.
Bởi đó, hãy nhóm lại bếp lửa yêu thương cho gia đình chúng ta. Đây không phải là một chuyện quá khó, bởi vì lễ Giáng sinh nhắc cho chúng ta nhớ rằng: Anh sáng mặt trời đã tràn ngập, chỉ cần mở rộng cửa cho ánh sáng ấy tràn vào. Hãy đón Chúa Giêsu vào nhà để Ngài qui tụ mọi người thành con cái Thiên Chúa.
Hãy để tình yêu Ngài tràn ngập hầu gia đình chúng ta thực sự là một mái ấm đầy tràn hạnh phúc của những người con Thiên Chúa.
77.Dung mạo
Hoàng đế của một vương quốc hùng cường và thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân An Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai Cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng. Mỗi phái đoàn thi thố tài năng của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của mình do các họa sĩ An Độ vẽ. Ông càng thán phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc. Sau cùng, đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy chân dung mình hiện ra từng nét. Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì họ đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng ta cần phải đánh bóng lòng mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận được khuôn mặt rạng ngời của Chúa.
Khi Đức Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang, am tường Kinh Thánh, và hiểu rõ các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu thế, nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simêon, và bà Anna đã nhận ra được dung mạo của Người. Simêon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu thế đã tỏ hiện sáng ngời trước mặt các ngài. Simêon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu thế như những người nghèo hèn bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em lang thang, thanh niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma túy ngày càng gia tăng. Gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì không thể có một xã hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của thiên đàng.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta phải nhìn lên Thánh Gia thất: một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương và chăm lo cho nhau. Thánh Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh Gia như sau: “Đức Giêsu đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nagiarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng Mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”.
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu gương đạo hạnh: Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia kỷ niệm tại gia đình ông: “Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất bóng, các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn cha mẹ về hết mọi điều…”.
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp cũng tâm sự: “Những lời khuyên nhủ dịu dàng của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của tôi, khuyến khích nâng đỡ tăng sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người mà tôi có đức tin”.Có lẽ thế giới biết nhiều đến thủ tướng Thái Lan, nhưng ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo, và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: “Giờ đây, con đã là một chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ”.
Đức Pio XI trong thông điệp về Giáo dục Kitô giáo có viết: “Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao”.
78.Gia đình, nơi Thiên Chúa làm người
Khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Thiên Chúa muốn Ngài được sinh ra trong một gia đình, có cha và mẹ như chúng ta. Với việc này, Ngài muốn mặc cho gia đình một ý nghĩa mới: là chiếc nôi của ân sủng, của sự thánh thiện, của yêu thương và hạnh phúc. Chúng ta cùng khám phá cái bí quyết nên Thánh nơi gia đình Thánh Gia, một gia đình kiểu mẫu về lòng đạo đức, biết kính sợ Thiên Chúa, chu toàn trách nhiệm trong gia đình. Đây hẳn là tấm gương sáng ngời mà chúng ta cần suy niệm và học hỏi.
Bài Tin mừng hôm nay diễn tả về gia đình Thánh Gia. Theo luật Môsê, khi con trai đầu lòng sinh được 40 ngày thì cha mẹ đem con hiến dâng cho Thiên Chúa. Bằng việc làm này, Thánh Gia đang từng bước sống chu toàn bổn phận của mình đối với Thiên Chúa. Thái độ và việc làm này của các ngài đã biểu lộ một tâm tình đạo đức, một đời sống đức tin sâu xa và một lòng kính sợ Thiên Chúa. Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy:
Trong vai trò làm gia trưởng, Thánh Giuse đã chu toàn trách nhiệm của người “đứng mũi chịu sào” trong gia đình để lo lắng phục vụ Đức Maria và Chúa Giêsu. Không khoe khoang, không lớn tiếng, Thánh Giuse hoàn toàn âm thầm, tích cực lao động, chu toàn trách vụ là trụ cột chính về kinh tế trong gia đình. Chắc chắn để có được của lể dâng Chúa hôm nay, dù chỉ là một đôi chim gáy, Ngài cũng nỗ lực hơn với đôi tay chai cứng của mình. Ngài chỉ lo chu toàn thánh ý Chúa trong bổn phận mình.
Bên cạnh hy sinh của Thánh Giuse, là một gương mẫu hoàn hảo của Đức Maria. Ý thức vai trò làm mẹ Con Thiên Chúa, Mẹ Maria không lấy đó làm vinh dự để tự cao tự mãn. Trái lại, Mẹ đã tìm cách để kiện toàn bổn phận theo thánh ý Chúa. Hôm nay ông Simêon loan báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ”. Đây là cái giá mà Mẹ phải trả. Thế nhưng, Mẹ không than trách, chỉ biết cúi đầu vâng theo ý Chúa và suy niệm trong lòng.
“Cây lành sinh trái tốt”. Nhờ Đức Mẹ và Thánh Giue đã chu toàn trách nhiệm trong gia đình thánh gia mà Trẻ Giêsu đã được ảnh hưởng. Trẻ Giêsu được nuôi dưỡng, được lớn lên trong cái nôi của sự thánh thiện, đạo đức, biết kính sợ Thiên Chúa.Tin mừng Luca cho biết sau lần thất lạc ở Đền Thờ lúc 12 tuổi, Người theo hai ông bà về Nagiareth và vâng phục hai ông bà, sống trong ân nghĩa của Thiên Chúa.
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội sẽ tốt. Ngày nay, các gia đình đang sống trong nguy cơ dễ bị đỗ vỡ thì mẫu gương của gia đình Thánh Gia quả là một nâng đỡ, khích lệ và là điểm tựa cho chúng ta rất nhiều. Thật vậy, chúng ta chỉ tìm thấy cho gia đình một chỗ đứng, một điểm tựa, để hạnh phúc nhờ mọi thành phần biết cùng nhau lắng nghe, tìm kiếm và thực hành ý Chúa. Chính tâm tình kính sợ, yêu mến và tuân giữ lời Chúa là cơ sở để Thiên Chúa tuôn đổ hạnh phúc xuống cho gia đình
Hơn nữa, trong điều kiện chức vị mỗi người trong gia đình tùy vào khả năng và bổn phận, mình phải biết góp phần kiến tạo và xây dựng hạnh phúc gia đình. Là người cha, ta không chỉ lo làm kinh tế cho gia đình mà còn phải biết dắt dìu, hướng dẫn gia đình, hướng dẫn con cái sống sự thật, trong sạch. Là người mẹ, ta không quên trách nhiệm cùng chồng chăm sóc gia đình, lo cho con cái về đời sống đức tin, về cuộc sống và còn phải biết bảo vệ hạnh phúc gia đình. Cuối cùng phận làm con, ta bắt chước Chúa Chúa Giêsu, vâng lời cha mẹ dạy dỗ, giúp đỡ cha mẹ trong bổn phận và khả năng. Sống và hành động theo mẫu gương của Thánh Gia, là luôn tìm ý Chúa, chu toàn bổn phận, để kiến tạo nên một gia đình yêu thương và hạnh phúc.Xin gia đình Thánh Gia tuôn đổ phúc lành cho gia đình chúng ta, giúp chúng ta hoàn thành mọi trách nhiệm và chu toàn bổn phận của mình trong gia đình, để chẳng những chúng ta được hạnh phúc ở đời này mà còn được vào hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa trong Nước Trời. Amen.
79.Gia đình, Hội Thánh tại gia
Có một đôi vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc. Chòm xóm xung quanh rất khen ngợi, và người ta đã bầu chọn họ là gia đình gương mẫu, là gia đình hạnh phúc. Nhà báo đến làm một cuộc phỏng vấn. Họ hỏi người chồng: “nghe nói gia đình của ông bà hạnh phúc nhất vùng này phải không?” Người chồng cười đáp: “không hẳn thế, nhưng vợ chồng chúng tôi tự thấy với nhau là có hạnh phúc”. “sao ông dám khẳng định như vậy?” “chúng tôi là người công giáo; hơn nữa, tôi chưa thấy vợ tôi nặng lời với tôi khi nào, vì thế, tôi không nở lòng nào đối xử không tốt với bà ấy”. Nhà báo bèn đến hỏi người vợ; người vợ trả lời: “vì tôi rất yêu chồng tôi, nên tôi luôn cố gắng nói tốt và làm điều tốt cho chồng tôi”. Hóa ra hạnh phúc gia đình được bảo vệ một cách đơn giản như vậy sao? Ngày hôm nay, chúng ta mừng kính một mẫu gương gia đình tuyệt vời: Gia đình Thánh. Hội Thánh đề cao gia đình này có quá đáng không? Đây là điều hôm nay chúng ta cùng suy niệm.
a/. Thế giới hôm nay, người ta đặc biệt quan tâm đến gia đình, vì có nhiều nguy cơ làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình, ngay cả gia đình công giáo. Ảnh hưởng văn minh vật chất của xã hội ngày hôm nay, do quá chú trọng giá trị bên ngoài, đã làm cho nhiều gia đình mất phương hướng, không biết sống làm sao, cư xử thế nào…. Thực ra, ngày hôm nay hơn bao giờ hết, con người cần có ánh sáng Lời Chúa để hướng dẫn, nhất là giúp cho các gia đình hiểu ý nghĩa và sứ mạng của mình. Đức Thánh Cha Bênêditô 16 nói: “Con cái có quyền có một gia đình như Thánh Gia thất. Gia đình là nơi lý tưởng để mọi người học biết cho đi và đón nhận tình yêu.”
b/. Bây giờ chúng ta hãy xem lại bài sách thánh ngày lễ hôm nay: Thư thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côlôssê (3, 12-21): thánh Phaolô dạy:
• Hãy sống hiền hòa, nhẫn nại, tha thứ cho nhau, như chính Chúa tha chứ cho anh em.
• Lấy đức bác ái làm nền tảng; đó chính là mối dây liên kết giữa mọi con cái Chúa.
• Ước gì ơn bình an, và Lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. Trong tâm tình tạ ơn, khi ta làm gì nói gì, cũng đều nhân danh Chúa Giêsu Kitô…
• Vợ hãy phục tùng chồng; chồng hãy yêu thương vợ. Con cái hãy yêu thương cha mẹ. Cha mẹ đừng dùng uy quyền kẻo con cái nhác đãm.
Trong thư này, thánh Phaolô đã dạy rất xác đáng bổn phận của các thành viên trong gia đình: lấy đức yêu thương làm nền tảng trong việc đối xử - dùng tính nhẫn nại, tha thứ mà cư xử với nhau – trong tất cả mọi sự, mọi người cư xử với nhau nhân danh Chúa. Mọi người khi có sự bình an thật sự của Chúa ở cùng, người ta sẽ dễ dàng tha thứ cho nhau; nhất là làm sao người ta nở cư xử cứng cỏi với nhau?
b/. Gia đình Thánh: Trong Phúc âm không ghi được bao nhiêu về cuộc sống của Gia đình Thánh. Dù vậy Hội thánh vẫn coi Gia đình Thánh chính là mẫu gương tuyệt vời về việc thực hiện những lời dạy của thánh Phaolô trên đây. Gia đình Thánh cũng chính là mẫu gương về việc lấy đức ái làm nền tảng cho gia đình, nhất là dùng đức ái làm dây liên kết với nhau.
Mẹ Maria là một Tạo Vật hoàn hảo của Thiên Chúa. Hiểu rõ chân lý này, chúng ta sẽ hiểu được chân lý tiếp theo: Mẹ là như thế đó, làm sao ta có thể hiểu được, nếu Mẹ không sống đức ái? hoặc không đặt nền tảng gia đình trên đức ái? Nói cách khác, vì Mẹ sống trong tình yêu hiệp thông liên lỉ với Con Mẹ, Đức Giêsu Kitô, nên khi ta nói Mẹ lấy đức ái làm nền tảng của gia đình, xem ra điều đó là thừa; vì tình yêu hiệp thông nơi Mẹ chính là hình bóng của tình yêu hiệp thông vĩnh cửu nơi Thiên Chúa.
Còn Thánh Giuse nữa, vị thánh đồng trinh và khiêm tốn hết mực, được gọi là tôi trung của Thiên Chúa, làm sao lại không sống trong tình yêu hiệp thông như Mẹ Maria; có chăng mức độ hiệp thông của Thánh Cả không sao so sánh được với Mẹ Maria thôi. Những điều nói trên không phải là những ý niệm tưởng tượng; đó chính là sự thật thần linh trong Gia đình Thánh. Cũng chính vì lẽ đó mà ta gọi gia đình này là Gia đình Thánh…
c/. Gợi ý suy niệm:
Gia đình là một cộng đoàn yêu thương và hiệp nhất, vì gia đình là một tế bào xã hội, một Hội thánh thu nhỏ”. Câu nói trên không hẳn đúng với hết mọi gia đình, nhưng lại hoàn toàn đúng với gia đình Nadareth. Chính vì vậy gia đình Nadareth là gương mẫu, là bài học quí giá cho mọi gia đình công giáo. Bầu khí gia đình là môi trường tốt, để đào tạo con người tốt, người công giáo tốt. Chúng ta nghĩ thế nào? Gia đình chúng ta có sẵn sàng muốn và cố gắng sống theo gương gia đình Nadareth không?
80.Gia đình thánh
Trong những ngày này, nếu có theo dõi tin tức thời sự, anh chị em thường nghe nói đền tình hình ở trung đông, đặc biệt là tình hình chiến sự tại Irac. Đất nước Irac giờ đây đang trong tình trạng chiến tranh hỗn loạn vì những người có trách nhiệm cai trị không hợp lòng dân, họ xem quyền lợi cá nhân là trên hết, chỉ biết có bản thân mình. Người trong nước lại đánh nhau, những người cùng tôn giáo tranh giành ảnh hưởng và tàn sát lẫn nhau, những người có thế lực, có trách nhiệm thì lại đàn áp và chà đạp người khác, tình trạng trở nên hỗn loạn, người người oán than. Tình hình như thế, tự họ không giải quyết cho đất nước mình được, nên những người bên ngoài đến và giải quyết cho họ. Tình trạng càng trở nên tệ hại hơn, cảnh tàn sát càng ác liệt hơn.
Nếu họ biết yêu thương nhau hơn, biết nghĩ về nhau nhiều hơn, biết lo cho nhau và lo cho đất nước, thì người bên ngoài không thể vào đất nước họ được. Cảnh yên bình chỉ trở lại khi mọi người nhìn thấy trách nhiệm và biết lo cho nhau.
Trong ngày lễ mừng kính Gia Đình Thánh, gương mẫu cho mọi gia đình, qua bài Phúc Âm chúng ta nhận ra: mỗi người trong Gia Đình Thánh đều sống đúng vai trò của mình, chu toàn trách nhiệm cách hết sức hoàn hảo.
Thánh Giuse người gia trưởng là chỗ dựa vững chắc cho mọi người trong gia đình. Khi được biết gia đình gặp nguy hiểm, Ngài không quảng ngại khó khăn cho bản thân, không phiền trách người khác, không coi mọi người là gánh nặng, nhưng ngay tức khắc Ngài lo bảo vệ cho gia đình được an toàn.
Còn Mẹ Maria nhìn thấy trong sự hiểu biết và thông cảm, cùng với lòng tin yêu, Mẹ chấp nhận trong sự vâng phục mà không lời phiền trách. Mẹ còn phụ giúp trong hành động để công việc được nhẹ nhàng và nhanh chóng hơn.
Ngôi Hai Thiên Chúa, trong giây phút này cũng thinh lặng, chấp nhận theo những toan tính của con người, để mọi người được chu toàn trách nhiệm của mình.
Nếu trong lúc đó, Mẹ Maria hay Thánh Giuse không bằng lòng với hiện tại, kêu la khóc lóc mà không hành động, hay hành động trái ngược lại, hoặc tệ hại hơn nữa là không chấp nhận nhau, thì mọi việc sẽ ra sao?
Gương sáng cho mọi gia đình đó là Thánh Gia. Nhiều người biết đến Thánh Gia, nhiều người biết đến gương tốt đẹp này, nhưng họ không thể nào sống theo được. Chúng ta nhìn thấy chiến tranh, khủng bố vẫn còn tái diễn hằng ngày, ở mọi nơi, vì con người không biết chấp nhận nhau.
Trong gia đình cũng thế; biết bao nhiêu cuộc ly tan, biết bao nhiêu cảnh hỗn độn trong gia đình, những điều mà tưởng chừng như không thể, lại diễn ra: vợ chồng nói xấu nhau đưa ra trước nơi công cộng để cho mọi người xét xử, con cái trong gia đình không chấp nhận cha mẹ, hay ngược lại và cũng đưa trước nơi công cộng để chờ sự phán quyết của những người không thuộc thành phần gia đình của họ. Trong gia đình Giáo hội mà chúng ta là thành phần, chúng ta cũng chỉ trích, không chấp nhận nhau, tìm cách loại trừ nhau và cũng chờ sự phán quyết của những người không thuộc gia đình Giáo Hội. Như thế không phải tại Irac mới có chiến tranh khủng bố, mà ngay tại mỗi người chúng ta chiến tranh và khủng bố cũng xảy ra hằng ngày.
Gương của Thánh Gia chúng ta biết rất rỏ. Nhưng cái biết và sống lại không đi đôi với nhau. Chúng ta nhìn vào đời sống chính mình, nếu nhận thấy rằng: chúng ta chu toàn trách nhiệm hằng ngày được trao phó một cách tốt đẹp, với một tâm tình phó thác và với nụ cười trên môi thì thật hạnh phúc cho chúng ta. Những lúc đó chúng ta đang noi gương theo Gia Đình Thánh, những lúc đó chúng ta biết chấp nhận nhau và cùng giúp nhau để tạo sự bình an cho nhau.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn Giúp sức cho mỗi người chúng ta, biết chu toàn trách nhiệm của mình trong gia đình, trong cuộc sống cùng giúp nhau tiến bước theo Thánh Gia.
81.Cộng đoàn nên thánh
Nhiều ca dao tục ngữ Á đông nói về gia đình và ảnh hưởng của gia đính: con không cha như nhà không nóc, con không mẹ như cột nhà xiêu – cha còn gót đỏ như son, đến khi cha mất gót con đen sì – gia đình chính là Hội Thánh thu nhỏ - gia đình là Hội thánh tại gia …
Thế giới ngày hôm nay, người ta đặc biệt quan tâm đến gia đình, vì nhiều nguy cơ làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình, ngay cả gia đình công giáo. Ảnh hưởng văn minh vật chất của xã hội, ý thức tự do cao độ, do quá chú trọng giá trị bên ngoài… những yếu tố trên đã làm cho nhiều gia đình mất phương hướng, không biết sống làm sao, cư xử thế nào…. Thực ra, ngày hôm nay hơn bao giờ hết, con người cần có ánh sáng Lời Chúa để hướng dẫn, nhất là giúp cho các gia đình hiểu ý nghĩa và sứ mạng của mình. Đức Thánh Cha Bênêditô 16 nói: “Con cái có quyền có một gia đình như Thánh Gia thất. Gia đình là nơi lý tưởng để mọi người học biết cho đi và đón nhận tình yêu….”
a/. Gia đình thánh là mẫu gương các gia đình kitô hữu và cả nhân loại nữa; chính vì lẻ đó, mà Hội thánh mừng kính hôm nay. Bây giờ ta hãy đọc lại Thư thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côlôssê (3, 12-21), xem thánh Phaolô dạy thế nào? Gia đình kitô hữu phải:
Hãy sống hiền hòa, nhẫn nại, tha thứ cho nhau, như chính Chúa tha chứ cho anh em.
lấy đức bác ái làm nền tảng; đó chính là mối dây liên kết giữa mọi con cái Chúa.
Ước gì ơn bình an, và Lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. Trong tâm tình tạ ơn, khi ta làm gì nói gì, cũng đều nhân danh Chúa Giêsu Kitô…
Vợ hãy phục tùng chồng; chồng hãy yêu thương vợ. Con cái hãy yêu thương cha mẹ. Cha mẹ đừng dùng uy quyền kẻo con cái nhác đãm.
Thánh Phaolô đã dạy rất xác đáng bổn phận của các thành viên trong gia đình: lấy đức yêu thương làm nền tảng trong việc đối xử với nhau - dùng tính nhẫn nại, tha thứ mà cử xử nhau – trong mọi sự, mọi người cư xử với nhau, nhân danh Chúa. Mọi người khi có sự bình an của Chúa ở cùng, sẽ dễ dàng tha thứ cho nhau; nhất là làm sao nở đối xử cứng cỏi với nhau?
b/. Phúc âm không nói nhiều về Gia đình Thánh; dù vậy Hội thánh vẫn coi Gia đình Thánh chính là gương mẫu của các gia đình công giáo, là mẫu gương tuyệt vời về việc thực hành lời dạy của thánh Phaolô. Gia đình Thánh cũng chính là mẫu gương cao cả về việc lấy đức ái làm nền tảng cho gia đình, nhất là dùng đức ái làm dây liên kết với nhau.
Mẹ Maria là một Tạo Vật hoàn hảo của Thiên Chúa. Hiểu rõ điều này, ta sẽ hiểu được chân lý tiếp theo: Mẹ là như thế đó, làm sao ta có thể hiểu được Mẹ, nếu Mẹ không sống đức ái? Nói cách khác, vì Mẹ sống trong tình yêu hiệp thông liên lỉ với Con Mẹ, nên khi ta nói Mẹ lấy đức ái làm nền tảng của gia đình, xem ra là thừa; vì tình yêu hiệp thông nơi Mẹ chính là hình bóng của tình yêu hiệp thông vĩnh cữu nơi TC.
Còn Thánh Giuse nữa, vị thánh đồng trinh và khiêm tốn hết mực, được gọi là tôi trung của Thiên Chúa, làm sao lại không sống trong tình yêu hiệp thông như Mẹ Maria; có chăng mức độ hiệp thông của Thánh Cả không sao so sánh được với Mẹ Maria thôi. Những điều nói trên không phải là những ý niệm tưởng tượng; đó chính là sự thật thần linh trong Gia đình Thánh. Cũng chính vì lẻ đó mà ta gọi gia đình này là Gia đình Thánh…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Gia đình thánh là như thế. Ta có muốn gia đình mình cũng là gia đình thánh không? Dù gia đình mình chưa phải là gia đình thánh, Mẹ Maria hằng ngày vẫn luôn cầu nguyện cho gia đình chúng ta nên thánh, ta có muốn cộng tác với Mẹ Maria, để biến gia đình ta nên thánh không?
82.Giáo hội nhỏ
Hôm nay Giáo Hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng Thánh Gia: Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, một gia đình kiểu mẫu cho mọi gia đình. Vậy theo gương Thánh Gia, mỗi gia đình Công giáo phải thế nào?
Tình yêu không phải là một xa xỉ phẩm, nó là một thứ tối cần để nâng đỡ và xây dựng cuộc sống. Tình yêu làm nên hạnh phúc. Vì thế, đi tìm và đón nhận tình yêu không phải là việc không quan trọng. Nhưng trước khi đi tìm tình yêu ở nơi khác, hãy tìm và hun đúc tình yêu nơi chính gia đình mình.
Tình yêu gia đình là tình yêu tự nhiên nhất, sớm sủa nhất và lành mạnh nhất. Gia đình phải là một tổ ấm tình yêu, để rồi lại trở thành nền tảng cho mọi thứ tình yêu khác. Tuy nhiên, tình yêu nào mà lại chẳng có hy sinh. Tình yêu thiếu hy sinh là tình yêu dỏm. Hy sinh thiếu tình yêu là hy sinh thừa. Tình yêu trong tổ ấm gia đình không phải là một luật trừ, cho dù gia đình gồm toàn những người rất thánh, cũng khó tránh khỏi những chuyện làm buồn lòng nhau. Vì thế, điều quan trọng không phải là tránh được hết mọi chuyện không vui, nhưng là biết lợi dụng tất cả những vui buồn để dắt nhau về cõi phúc. Nếu biết hiểu như thế, nhất là nếu biết thực hiện như thế, thì gia đình sẽ vừa là tổ ấm tình yêu, vừa là nơi đặt nền cho mọi tình thương, và cũng là lò luyện hy sinh.
Mỗi gia đình là một Giáo Hội, một Giáo Hội rút gọn. Đã là một Giáo Hội rút gọn thì mỗi gia đình phải lập lại hình ảnh Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi hiệp nhất, yêu dấu và chia sẻ mọi sự với nhau thế nào, thì mỗi gia đình cũng phải đoàn kết trong tình yêu thương lẫn nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái như vậy. Mỗi người không còn ích kỷ, tìm lợi riêng cho mình, nhưng quên mình để làm sao cho những người khác trong gia đình được nâng đỡ, được hạnh phúc vui tươi trong bầu khí yêu thương đó.
Nếu mọi người trong gia đình biết sống như thế thì gia đình thật là một Giáo Hội nhỏ, sống trong tình thương, và dâng lên Thiên Chúa những của lễ thiêng liêng là những hoạt động hằng ngày của gia đình. Như thế, dù chúng ta ở đâu, gần nhà thờ hay xa nhà thờ, gia đình chúng ta vẫn là một đền thờ tốt đẹp quí báu.
Một gia đình sống theo những điều trên đây sẽ là một trường rất tốt để dạy đức tin cho con cái. Có nhiều người trong gia đình chỉ lo làm ăn và nuôi dưỡng phần tự nhiên cho con cái. Điều đó tốt thôi, nhưng nếu xao lãng không quan tâm một chút nào đến việc dạy dỗ đức tin cho con cái thì là một thiếu sót lớn. Đàng khác, có nhiều gia đình cũng quan tâm đến việc ấy nhưng lại ỷ vào người khác như các cha, các tu sĩ, các giáo lý viên, các hội đoàn. Như vậy cũng không được. Đã đến lúc những người làm cha mẹ phải ý thức: công việc đó trước tiên là công việc của mình và chính mình phải chịu trách nhiệm về đức tin của con cái trước mặt Thiên Chúa sau này, như trong Hiến Chế về Giáo Hội, Công Đồng Vaticanô II đã nói: “Những người đầu tiên phải lấy lời nói và gương sáng mà dạy dỗ đức tin cho con cái chính là cha mẹ”.
Thực vậy, gia đình là trường dạy đức tin cho con cái tốt nhất, vì không phải chỉ dạy một tuần một hai giờ mà dạy hằng ngày, luôn luôn. Ước chi các bậc cha mẹ đều bắt chước thánh Giuse và Đức Mẹ như Tin Mừng nói: “Các ngài luôn vâng giữ lời Chúa và siêng năng dự các lễ nghi như luật dạy”. Nếu các người làm cha mẹ có lòng tin vững chắc, biết truyền lại cho con cái niềm tin của mình, bằng lời dạy dỗ, bằng gương sáng trong cách ăn ở hằng ngày, thì con cái chắc chắn sẽ theo đường lối ấy. Ước chi mỗi gia đình Công giáo đều hiểu và sống như vậy.
83.Công cha – Nghĩa mẹ
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Câu ca dao này dường như là người Việt nam ai cũng thuộc nằm lòng. Có thể nói bất cứ người Việt nam nào dù sang hay hèn, dù có hay không có địa vị đều ý thức và tôn trọng chữ Hiếu. Đây chình là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt nam.
Không ai có thể phủ nhận rằng cha mẹ là những người có công lớn trong việc sinh thành và dưỡng dục ta. Lại nữa, trong đức tin ta biết rằng cha mẹ được ơn đồng sáng tạo với Thiên Chúa khi sinh ra ta. Do đó, con người dù thành đạt cách mấy mà không biết hiếu thảo với cha mẹ thì cũng được xem là thấp. Bởi vì, một trong những tiêu chuẩn để đánh giá một con người đó tấm lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
Với thân phận làm người, Chúa Giêsu cũng được sinh ra và lớn lên trong gia đình như ta. Người luôn ý thức và chu toàn tốt bổn phận làm con của mình. Phải công nhận gia đình Nagiareth là gia đình hạnh phúc và kiểu mẫu. Dù rằng có thể gia đình này thua sút nhiều mặt.
Trong mười điều răn Đức Chúa Trời sau ba điều về Chúa liền đó là điều dạy phải thảo kính cha mẹ. Rồi hằng năm vào mùng hai Tết âm lịch cũng như cả tháng 11 Giáo hội không ngừng nhắc nhở giáo dân nhớ đến ông bà cha mẹ. Ta không thể nào sống hiếu thảo với Chúa nếu như trước đó ta chưa sống hiếu thảo với cha mẹ.
Không biết đã có bao nhiêu bài hát, ca dao, tục ngữ, bài thơ......ca ngợi công ơn cha mẹ. Tuy nhiên, ngày nay do ảnh hưởng lối sống thực dụng nên có nhiều người dường như xem thường công ơn cha mẹ. Có nhiều kẻ làm con vì quá ích kỷ nên đã bỏ cha mẹ cô đơn, trong khi đó mình dư khả năng để lo cho các ngài. Thật đáng tiếc.
Có câu chuyện kể rằng trong gia đình nọ, ngày kia đứa con thấy cha nó gọt cái gáo dừa mới hỏi cha nó gọt làm chi. Lặng nhìn đứa con hồi lâu ông ta trả lời: “Để cho ông nội mày ăn cơm. Vì lúc này ông nội mày làm bể chén hoài, phí quá!”. Đứa con suy nghĩ và không nói gì. Vài ngày sau đó, nó cũng đem gáo dừa khác ra gọt. Tưởng là con cũng đồng tình với mình, người cha hí hởn hỏi: “Bộ mày tính giúp tao lo cho ông nội mày hả?”. Đứa con trả lời: “Đâu có, cái này con để dành cho cha. Khi nào cha như ông nội con sẽ cho cha xài”. Nghe xong câu trả lời người cha tái mặt......
Như vậy, công ơn cha mẹ không biết làm sao ta có có thể đáp đền cho cân xứng. Dù rằng ta có thành tài cách mấy đi nữa mà không có lòng hiếu thảo cha mẹ thì cũng kể bằng không. Hơn nữa, thái độ của ta với cha mẹ như thế nào thì con cháu sẽ nhìn vào đó để cư xử với ta như vậy.
84.Vai trò của gia đình
Nếu chúng ta trồng cây nơi đất trống, thì cây đó sẽ rất dễ bị lay động, vì đành phải phó mặc cho cơn gió thổi. Nếu còn sống sót, nó sẽ bị cong queo, trơ trụi, có thể trở thành một mẫu vật nghèo nàn. Nếu muốn trồng một cây để nó được phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó, thì bạn phải trồng nó ở một nơi mà nó có thể được che chở nhiều hơn. Bạn đừng trồng cây đó ở riêng một chỗ, mà phải trồng nó cùng với một số cây khác.
Điều quan trọng sống còn là cần phải có một khoảng cách thích hợp giữa các cây. Chúng phải gần nhau đủ, để có khả năng cung cấp chỗ trú ẩn và bảo vệ cho nhau. Tuy nhiên, chúng không được quá gần gũi nhau, đến nỗi có thể hiếp đáp nhau. Chúng phải được trồng xa nhau vừa đủ, đảm bảo sao cho mỗi cây đều có một khoảng cách thích hợp, để phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó.
Trồng cây một mình một chỗ là không tốt. Cũng vậy, nếu chúng ta ở một mình thì cũng không tốt. Vì tính cách toàn diện, và vì sức khỏe tinh thần của mình, chúng ta cần ràng buộc tình yêu và tình bạn với người khác. Thiên Chúa không dựng nên chúng ta để ở một mình, nhưng là để sống cộng đồng. Bản thân con người chúng ta không đủ để đáp ứng cho chính mình. Chúng ta cần có người khác nữa, để trở nên những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta.
Đây cũng là trường hợp được ứng dụng cho các gia đình. Cây cối được trồng trong cái hố nhỏ là hình ảnh tốt về gia đình. Trong một gia đình lý tưởng, phải có sự gần gũi, đồng thời cũng phải có một khoảng cách nhất định. Cần có sự gần gũi để các phần tử có thể giúp đỡ nhau. Cần có khoảng cách để đảm bảo rằng họ không xâm phạm vào sự riêng tư của mỗi người. Mỗi phần tử cần có một giới hạn, một sự thân mật và ấm cúng mà mỗi người cần có. Tuy nhiên, cũng cần phải có một khoảng không gian, để mỗi người phát triển đúng tiềm năng của mình. Đây là một thách đố lớn: Đó là phải làm thế nào để đạt được sự gần gũi, mà không xâm phạm hoặc thống trị nhau.
Trong gia đình, chúng ta học hỏi để hình thành những mối tương quan với những người khác, một điều gì đó là quan trọng sống động đối với chúng ta. Khi không có khả năng quan hệ, đó là sự cản trở và buồn phiền lớn. Nếu không có quan hệ gần gũi, chúng ta đành phải phó mặc cho cơn gió lạnh của nỗi buồn phiền và cô đơn.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình, chúng ta học hỏi để liên đới với người khác. Ở đây, chúng ta tạo ra một căn phòng cho người khác trong đời sống của chúng ta. Ở đây, chúng ta học hỏi cách thức chia sẻ và sống có trách nhiệm với người khác.
Trong xã hội, gia đình bị đặt dưới nhiều sức ép. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không coi trọng giá trị của gia đình. Đó là vì chúng ta không được chuẩn bị các nguyên tắc để giữ được bầu khí êm thấm trong gia đình. Gia đình được xây dựng dựa trên những cam kết của lời hứa, sự trung thành và tự hiến. Bằng cách sống trong cộng đồng nhỏ bé của tình yêu với Đức Mẹ, thánh Giuse ở Nagiarét, Đức Giêsu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan và nhân đức, trong lòng yêu mến của Thiên Chúa và loài người.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình, chúng ta có một nơi chốn, chúng ta có những ràng buộc, chúng ta có một căn tính, chúng ta có gốc rễ. Mặc dù gia đình nào cũng đều có khó khăn, nhưng đây không hẳn là điều xấu. Khó khăn có thể là một ân huệ. Những cây nào bị trồng trong đất xấu, thì cần phải có một bộ rễ vững chắc. Vì vậy, cần phải co sự đoàn kết với nhau hơn, để chống trả lại với những bão táp không thể tránh khỏi của cuộc đời.
85.Mái ấm gia đình
Sinh ra làm con người ai cũng có một gia đình, có cha, có mẹ, có anh chị em...Thiên Chúa làm người Người cũng chọn cho mình một gia đình. Ngài có cha, có mẹ. Chính gia đình này là mẫu gương cho tất cả mọi gia đình. Vì sao thế?
Gia đình Nagiareth là Thánh Gia Thất vì gia đình này luôn có Chúa hiện diện. Chính Chúa là trung tâm của đời sống gia đình. Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria luôn xác tín rằng con mình là Thiên Chúa, Thiên Chúa làm người ở với nhân loại. Nên mọi sự trong gia đình đều được sưởi ấm bởi niềm xác tín này. Là Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu không miễn trừ cho mình luật lên Giêrusalem hằng năm và Ngài đã ở lại trong Đền Thờ để làm công việc của Cha Ngài mà Thánh Giuse và Đức Mẹ không biết. Thánh Luca thuật lại việc lạc mất Chúa Giêsu cho ta thấy rõ vai trò của Chúa Giêsu trong gia đình quan trọng như thế nào. Sau ba ngày tìm Con mới gặp lại con trong hoàn cảnh làm cho Đức Mẹ và Thánh Giuse ngạc nhiên sửng sốt. Thánh Giuse và Mẹ Maria mặc dù biết Con mình là Ai nhưng làm sao hiểu được ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Câu trả lời của Chúa Giêsu với Đức Mẹ: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” đây cũng là một mặc khải đòi hỏi Thánh Giuse và Đức Mẹ phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa mặc dù hai ông bà chưa thể hiểu thấu.
Gia đình Kitô hữu chúng ta noi gương gia đình Nagiareth hãy để Chúa Giêsu làm trung tâm đời sống gia đình mình, hãy để Chúa Giêsu nối kết mọi thành viên trong gia đình. Có Chúa Giêsu hiện diện chắc chắn mọi sự sẽ được quan phòng, chăm nom trong tình yêu Thiên Chúa. Có những lúc gia đình chúng ta cũng lạc mất Chúa, mất niềm tin, mất hy vọng... hãy bắt chước Đức Mẹ và Thánh Giuse mau mắn đi tìm Chúa. Việc đi tìm Chúa đòi hỏi gia đình chúng ta phải có sự kiên trì và nhận ra Ngài trong những cảnh huống của cuộc sống. Xưa Thiên Chúa đòi hỏi Thánh Giuse và Đức Mẹ từng bước từng bước nhận ra mặc khải của Thiên Chúa trong cuộc sống của Chúa Giêsu thì nay Chúa cũng đòi hỏi chúng ta nhận ra Ngài, tin tưởng vào Ngài trong cuộc sống với tinh thần vâng phục cho dù ta chưa hiểu, cho dù khó chấp nhận...
Thánh Giuse và Đức Mẹ đã hoàn thành trọn vẹn ý định của Thiên Chúa là làm cha và làm mẹ Đấng Cứu Thế. Trong bản văn (Lc 2, 41- 52 ) được đọc hôm nay ta không thấy Thánh Giuse nói lên một tiếng nói nào, hình bóng của Thánh Giuse thật mờ nhạt nhưng không vì thế mà ta có thể nói vai trò của Thánh Giuse là không quan trọng. Thánh Giuse là chủ gia đình. Gia đình có vững chắc, có nề nếp hay không là do ở người chủ này. Mười hai tuổi Chúa Giêsu được phép theo người chủ này lên Giêrusalem. Khi lạc mất con Thánh Giuse phải vất vả và tìm kiếm. Người ở người nam thường là thế, lo lắng lắm, vất vả lắm, đau khổ lắm... nhưng ít có khi bộc lộ. Ở đây ta thấy vai trò thầm lặng của Thánh Giuse thật đặc biệt. Thầm lặng dõi tìm con để nhận ra ý Chúa muốn cho cuộc đời mình. Mẹ Maria cũng thế, sau khi gặp Con, nghe câu nói của Con dù Mẹ không hiểu nhưng Mẹ không đòi giải thích hay oán trách nhưng Mẹ suy niệm những lời ấy trong lòng.
Chúa Giêsu đã chọn gia đình là bước khởi đầu cho hành trình bước lên đồi Sọ của Ngài. Ngài đã sống vâng phục cha mẹ Ngài, thánh hóa gia đình và làm cho gia đình có một ý nghĩa đặc biệt là môi trường dưỡng nuôi Con Thiên Chúa làm người. Luca hôm nay cũng cho ta thấy đâu là cùng đích thực sự mà ta phải tiến về và đâu là bổn phận mà ta phải vâng phục “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”. Hỡi các bậc làm cha mẹ hãy vâng lời Thiên Chúa chăm lo dạy dỗ con cái, hãy yêu thương nâng đỡ chúng. Hỡi những người làm con hãy vâng lời cha mẹ và như thế là vâng phục thánh ý Chúa. Hãy làm tròn bổn phận của mình trong gia đình vì gia đình môi trường để nên thánh, môi trường đã được chính Con Thiên Chúa sống và thánh hóa. Hỡi các gia đình hãy để Thiên Chúa hiện diện trong gia đình, hãy để Chúa làm trung tâm của mọi suy nghĩ, mọi sinh hoạt...khi đó chắc chắn gia đình bạn cũng sẽ là một thánh gia thất.
86.Cha mẹ và con cái
Bài đọc 1 tường thuật về giới răn thứ bốn “Hãy thảo kính cha mẹ”. Thật đáng tiếc, người ta lại hay nhìn vào giới răn này theo nghĩa hẹp. Có ba yếu tố chính trong giới răn này:
Trước hết, bổn phận đầu tiên của cha mẹ là phải yêu thương và săn sóc con cái. Chúng ta nhận thấy tấm gương tốt đẹp nhất về phương diện này trong bài Tin Mừng hôm nay. Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy những điều mà Đức Mẹ và thánh Giuse đã làm để bảo vệ sự an toàn cho con trẻ Giêsu. Ngay khi các ngài biết rằng đời sống con trẻ bị nguy hiểm, các ngài đã ra đi sống tha phương. Và khi cơn hiểm nguy qua đi, các ngài lại quay trở về quê hương của mình, và đã định cư ở Nagiarét. Trong nhà của mình tại Nagiarét, các ngài đã tạo ra được một môi trường mà trong đó, theo Tin Mừng thuật lại, Đức Giêsu có thể lớn lên trong sự khôn ngoan, có tầm cỡ, và trong lòng yêu mến đối với Thiên Chúa và mọi người.
Thứ đến, con cái bắt buộc phải vâng lời cha mẹ. Ở Nagiarét, Đức Giêsu là nhân vật chính đối với Đức Mẹ và thánh Giuse. Đức Mẹ là người phụ nữ của lòng tin, ngài đã yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn. Còn thánh Giuse đã được Tin Mừng mô tả là một người công chính, nghĩa là một người luôn sống và làm việc theo luật của Thiên Chúa. Các ngài đã nuôi dưỡng, dạy dỗ và uốn nắn con trẻ Giêsu nên người.
Tại Nagiarét, Đức Giêsu có thể âm thầm lớn lên trong sự che chở của cha mẹ Người. 30 năm đầu đời của Đức Giêsu rất quan trọng đối với Người. Trong suốt 30 năm ấy, Người đã lớn lên, trưởng thành và đã chín mùi. Trong suốt những yếu tố ảnh hưởng trên chúng ta, gia đình là yếu tố gây ảnh hưởng nhiều nhất. Những ảnh hưởng của gia đình tồn tại nơi chúng ta suốt đời.
Thứ ba, những người con đã trưởng thành bắt buộc phải đảm bảo cho cha mẹ khi về già, có thể được sống thoải mái, xứng đáng với nhân phẩm. Đây là trọng tâm của bài đọc 1.
Điều này liên quan đặc biệt đến thời đại chúng ta, khi những người lớn tuổi có khuynh hướng hay bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Với sức mạnh của mình, chúng ta dễ dàng quên rằng họ là những người yếu đuối, và có lẽ hơi bị lão suy rồi. Có một câu tục ngữ “Một mẹ có thể nuôi được 10 con, nhưng 10 con không thể nuôi được một mẹ”. Dưới nhan Thiên Chúa, chúng ta mắc nợ cha mẹ chúng ta đủ thứ. Tác giả sách Giảng Viên đã quả quyết rằng lòng tận tụy của con cái đối với cha mẹ đặc biệt làm hài lòng Thiên Chúa, Người đón nhận tấm lòng đó như là một hành động chuộc lại lỗi lầm.
Gia đình Thánh Gia là mẫu mực. Khi Đức Giêsu sắp trút hơi thở cuối cùng trên thánh giá. Người đã nghĩ đến Mẹ Người, và đã trao phó Mẹ Người cho môn đệ Gioan chăm sóc. (Theo truyền thống, lúc đó thánh Giuse qua đời rồi).
Ngoài ra, việc quan tâm chăm sóc người thân trong họ hàng cũng không phải là điều dễ. Khi hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải nuôi dưỡng những người đó, thì quả thật là khó khăn. Nhất là đối với những người vốn có tính hay yêu sách. Mặc dù thế, khi chúng ta cư xử với họ bằng lòng từ tâm, là chúng ta đã làm một công việc thánh thiện nhất. Cũng như khi nhân danh Thiên Chúa, chúng ta cho người anh em một ly nước, đó là chúng ta đã phục vụ chính Thiên Chúa vậy.
87.Gia đình cần có một cõi riêng tư dành cho Chúa
Chúa Nhật hôm nay, Giáo Hội cử hành Thánh lễ mừng kính gia đình Thánh Gia. Gia đình Thánh Gia là một gia đình gương mẫu của mỗi gia đình chúng ta. Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu xem gia đình Thánh Gia là một gia đình như thế nào.
Nhìn vào trong hang đá máng cỏ, chúng ta thấy gia đình Thánh Gia là một gia đình gồm các thành viên, có: cha là thánh Giuse, mẹ là Đức Maria, con là Chúa Giêsu. Những thành viên trong gia đình này luôn gắn bó với nhau, sát cánh bên nhau và luôn tạo nên hơi ấm tình thương cho nhau.
Tuy nhiên, trong bài Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy trong gia đình Thánh Gia, ngoài thánh Giuse, Đức Maria, Chúa Giêsu ra, còn có một thành viên khác nữa. Thành viên này được Chúa Giêsu coi trọng hơn Thánh Giuse, trọng hơn Đức Maria, trọng hơn những người bà con dòng họ cùng đi hành hương với Ngài. Chính vì thế mà khi được sống trong nhà của thành viên này, Chúa Giêsu hầu như đã quên đi tất cả những thành viên khác. Và Ngài đã ở nhà của thành viên này cho tới khi Đức Maria và Thánh Giuse tìm được Ngài sau khi đã thất lạc Ngài trong suốt ba ngày trời.
Thưa ông bà anh chị em! Ôâng bà anh chị em đã biết rõ thành viên này là ai rồi. Thưa, Người đó chính là Chúa Cha, là Người Cha thật sự của Chúa Giêsu.
Khi suy gẫm về bài Phúc Âm này, tôi nhận thấy, thời gian mà một mình Chúa Giêsu ở lại trong nhà Cha, là một trong những khoảnh khắc đẹp nhất, hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Lúc đó, Chúa Giêsu như không còn để ý, không còn vương vấn với bất cứ một ai khác, kể cả những người vốn rất thân thiết trong gia đình Ngài. Lúc đó, Chúa Cha trở nên đẹp nhất, quan trọng nhất, gắn bó nhất đối với Chúa Giêsu. Tôi xin mượn tên của một bài hát trong CD. TÌNH CA VÔ TẬN của linh mục nhạc sĩ Thái Nguyên để gọi khoãng không gian và thời gian này là một cõi riêng tư dành cho Chúa. Một cõi riêng tư mà Chúa Giêsu dùng để cầu nguyện với Chúa Cha. Một cỏi riêng tư Chúa Giêsu dùng để học hỏi, tìm hiểu về Chúa Cha qua các bậc thầy khôn ngoan. Một cõi riêng tư được Chúa Giêsu dùng để gặp gỡ Chúa Cha, đón nhận thánh ý Chúa Cha và múc lấy Tình Yêu của Chúa Cha.
Thưa ông bà anh chị em! Về điểm này thì Chúa Giêsu chắc chắn hơn hẳn chúng ta. Mặc dù trong căn nhà của chúng ta có dành một chổ nhỏ ưu tiên cho việc làm bàn thờ, thờ Chúa. Và trong thời gian sống của chúng ta, chúng ta cũng nhín ít thời gian để đọc kinh, cầu nguyện, tham dự Thánh lễ. Tuy nhiên, bên trong tâm hồn của chúng ta, chưa chắc đã có một cỏi riêng tư, hoàn toàn dành cho Chúa. Vì vậy mà khi chúng ta đến với chúa qua những việc đọc kinh, cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, chúng ta thường không cảm nhận được Chúa một cách thật sự sống động. Điều này dễ hiểu thôi. Tại vì lúc đó, chúng ta chưa thiết lập được một cỏi riêng tư dành cho Chúa ngay trong tâm hồn của mình. Khi đến với Chúa, chúng ta đã không dám mạnh dạn như Chúa Giêsu, không dám mạnh dạn buông bỏ tất cả những gì làm chúng ta lo ra chia trí, không dám buông bỏ tất cả những gì ngăn cản chúng ta tiếp cận với Chúa. Vì vậy mà khi chúng ta đến với Chúa, chúng ta thường mang theo biết bao những ưu tư, những mặc cảm, những lo lắng, những chương trình, những dự định, những công việc, những con người mà chúng ta đang quan tâm. Nếu chúng ta không cố tình mang những thứ đó theo, thì ít ra là những thứ đó đang chi phối chúng ta đến mức mà chúng ta không thể nào buông bỏ được nó. Chúng ta muốn bỏ nó, nhưng nó cứ bám lấy chúng ta. Điều này chưa chắc đã là xấu. Tuy nhiên, nó chỉ tốt khi những quan tâm lo lắng của mình không chiếm hết chổ trong tâm hồn mình. Nếu không, mình chỉ cảm nhận Chúa như là một cái máy có nhiệm vụ ghi âm và sử lý những mối bận tâm của mình. Và mình sẽ không bao giờ cảm nhận Chúa như là một thực thể sống động biết yêu thương, biết rung cảm trước những đau khổ phiền muộn của mình.
Vì vậy, tôi khuyên ông bà anh chị em hãy thiết lập một cõi riêng tư trong tâm hồn mình để dành riêng cho Chúa. khi đó, ông bà anh chị em mới cảm nhận được Chúa sống động như thế nào và Chúa yêu thương mình như thế nào. Và chỉ có như vậy, ông bà anh chị em mới thật sự cảm thấy vui tươi, bình an và hạnh phúc. Và lúc đó, ông bà anh chị em sẽ trở nên một mối dây liên kết những thành viên khác trong gia đình mình. Ôâng bà anh chị em trở nên hơi ấm chả Tình Yêu Thiên Chúa sưởi ấm gia đình mình. Và gia đình của ông bà anh chị em sẽ trở nên mái ấm cho Thiên Chúa ngự trị. Kính chúc ông bà anh chị em luôn cảm nhận được Thiên Chúa đang hiện diện sống động nơi mình, nơi gia đình mình khi ông bà anh chị em thiết lập được một cõi riêng tư dành cho Chúa ngay trong tâm hồn, ngay trong cuộc sống gia đình của ông bà anh chị em! Amen.
88.Gia đình tôn thờ Thiên Chúa
Một bà mẹ trẻ ngồi ôm cậu con trai 4 tuổi trong lòng, bà nói với con là nó sắp có em bé. Bà mẹ giải thích cho con mình rằng nó có thể giúp săn sóc cho em bằng cách cầm chai sữa, đi lấy tã cho em khi cần, và đẩy xe cho em... Sau khi nghe mẹ nói một hơi, chú bé tuột xuống khỏi lòng mẹ, đứng nhìn vào mẹ và nói một cách nghiêm nghị:
- Vậy là bao nhiêu việc con phải làm hết, còn mommy không phải làm gì sao?
Gia đình là cộng đoàn tình yêu trong đó mỗi phần tử đều có vai trò phải chu toàn, đóng góp. Vợ chồng phải biết kính trọng yêu thương nhau. Cha mẹ có trách nhiệm dưỡng nuôi và dạy dỗ con cái nên người tốt, giúp ích cho xã hội. Con cái phải vâng lời, thảo kính cha mẹ. Đó là trật tự Thiên Chúa đã xếp đặt để mỗi người được sinh ra và lớn lên trong một bầu khí tràn đầy tình thương. Tuy nhiên trật tự đó đã bị con người ngày nay làm hư hại nặng nề vì cuộc sống buông thả theo tính dục. Con cái sinh ra không có gia đình yêu thương bao bọc, để rồi lớn lên trong sự hờ hững, hất hủi, đưa đến kết quả mang tâm trạng nổi loạn, bất cần đời, hận thù, giết hại người khác.
Gia đình là viên gạch xây dựng xã hội. Khi viên gạch bị hư hỏng, mục nát thì xã hội cũng bị xụp đổ, điêu tàn. Muốn gây dựng lại xã hội, người ta phải gầy dựng lại gia đình. Muốn tái lập gia đình, con người phải đặt Thiên Chúa vào địa vị tối cao nơi gia đình. Đó là bài học con người ngày nay cần học nơi Thánh Gia.
Bài Phúc Âm hôm nay diễn tả một hình ảnh đẹp của gia đình: Thánh Giuse và Đức Mẹ bế Chúa Giêsu hài nhi vào Đền thờ để dâng của lễ, phụng thờ Thiên Chúa. Tại Đền Thờ, Đức Maria đã được mạc khải rằng tương lai và sứ mạng của Mẹ gắn liền với Chúa Kitô trong những khổ đau đem lại ơn cứu chuộc cho nhân loại. Thánh gia đã đến thờ phượng Thiên Chúa như một gia đình. Từ đó Thiên Chúa đã mạc khải cho mỗi người nhận ra vai trò của mình nơi gia đình và trong xã hội. Muốn cho gia đình được đời sống êm ấm, hạnh phúc, chúng ta phải đặt tinh thần thờ phượng Thiên Chúa lên trên hết. Tinh thần đó thể hiện qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật. Gia đình cùng đi dự lễ, cùng ngồi với nhau. Cha mẹ dùng dịp này để giáo dục cho con cái về ý nghĩa việc dự lễ, ý nghĩa các bài đọc, lời linh mục giảng. Đứa trẻ nào cũng có vài cảm nghĩ nào đó mỗi khi dự lễ, về nhà thờ, về ca đoàn, về linh mục, về những nghi thức phụng vụ... Dò hỏi các em về những cảm nghĩ đó để hiểu biết tâm tư các em, lợi dụng cơ hội đó để dạy cho các em biết tham dự thánh lễ cách có ý nghĩa hơn. Ngoài ra gia đình nên có giờ đọc kinh tối mỗi ngày sao cho thích hợp với tuổi trẻ: một vài chục kinh Mân Côi, một đoạn Kinh Thánh với vài lời suy niệm, một lời nguyện tự phát dâng lên Chúa... Điều đó đem lại nhiều lợi ích cho người trẻ hơn những tràng kinh vô cùng, không Amen.
89.Thánh Gia
Có người cho rằng Thánh gia là một gia đình thánh. Còn chúng ta là người phàm, yếu đuối, làm sao bắt chước cho được. Hơn nữa, các Ngài sống trong bầu khí bình lặng, êm đềm, ít phải cạnh tranh và chụp dựt, ít bị những ảnh hưởng xấu như thời buổi hiện đại. Quả thật, Thánh gia là một gia đình thánh, nhưng sự thánh thiện ấy không miễn chuẩn cho các Ngài những khó khăn vất vả, những cố gắng bươm chải. Cứ đọc lại Tin Mừng thời thơ ấu của Chúa Giêsu là chúng ta sẽ thấy: Có những thức thách khi Giuse thấy Mẹ Maria bỗng dưng có thai mà ngài không biết. Có những vất vả của hành trình từ Nagiarét lên Giêrusalem để kiểm tra dân số đang lúc Mẹ Maria sắp nở nhuỵ khai hoa. Có những buồn tủi khi không còn chỗ cho Mẹ Maria trong quán trọ, khiến Con Thiên Chúa phải sinh ra nơi máng cỏ khó nghèo. Và chắc hẳn Thánh gia đã thấu hiểu thế nào là thân phận lưu lạc nơi đất khách quê người bên Ai Cập để trốn thoát âm mưu hãm hại của bạo vương Hêrôđê. Trước những thử thách ấy, Thánh gia có hai phương thức để giải quyết.
Trước hết là tình yêu. Thực vậy, ngày nay hơn bao giờ hết, người ta càng khám phá ra tầm quan trọng của gia đình trong đời sống xã hội: gia đình là cái nôi của con người, vì chính ở đó con người được sinh ra. Là mái trường đầu tiên của con người, gia đình giữ một vai trò đặc biệt trong sự hình thành cá tính và nhân phẩm của con người. Nhưng cũng chính ngày nay, người ta phải chua chát thừa nhận rằng đang có những khủng hoảng trầm trọng làm lung lay tận nền tảng gia đình. Chính trong bối cảnh ảm đạm đó, hình ảnh Thánh gia vụt sáng lên như ánh sao chỉ đường. Vâng. Thánh gia mời gọi các gia đình hãy biết yêu thương và sống cho nhau. Nước chảy không ngược dòng, cây không sống cho chính mình nhưng sống cho quả. Cũng vậy, cha mẹ sống cho con cái. Thánh Giuse với tư cách là gia trưởng đã miệt mài làm việc để nuôi sống gia đình, ngài ghi dấu ấn lao động trên cuộc đời của người con, khiến sau này Chúa Giêsu khi rao giảng Tin Mừng, người ta đã phải tự hỏi: Ông ấy không phải là con bác thợ mộc và Maria sao? Còn Mẹ Maria với tư cách nội trợ, Mẹ đã tập cho Chúa Giêsu cầu nguyện, giúp cho con biết quan sát thế giới chung quanh. Phải chăng những lời dạy dỗ của Mẹ Maria vẫn tiềm ẩn trong cung cách rao giảng của Chúa Giêsu sau này khi Ngài nói: Nước trời giống như men, như muối… Và cậu bé Giêsu dưới mái nhà Nagiarét đã chia sẻ mọi cảnh ngộ của gia đình, đã sống đạo làm con đối với cha mẹ trong tinh thần yêu thương và vâng phục. Như thế, mẫu gương yêu thương và sống cho nhau đã được mọi thành viên trong Thánh gia thực hiện. Cha mẹ không chỉ nuôi con bằng cơm bánh vật chất, nhưng còn dạy dỗ, làm gương sáng cho con, còn người con đáp trả bằng tình hiếu thảo và vâng phục. Phải chăng chính sự yêu thương và ân cần dưỡng dục của cha mẹ đã ghi dấu ấn sâu xa trong tâm hồn Đức Giáo Hoàng Gioan 23, nên trong ngày sinh nhật thứ 50 của mình, ngài đã viết thư cho cha mẹ như sau: Thưa ba má, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức vụ trong Hội Thánh. Con đã đi nhiều nơi, đã học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con như hồi con được ngồi bên ba má.
Tiếp đến, phương thức thứ hai đó là ý Chúa. Thực vậy, yêu thương và sống cho nhau vẫn chưa đủ, đối với người Kitô hữu, tình yêu thương còn phải được định hướng bằng thánh ý Chúa. Thiếu sự định hướng này, lắm khi tình thương chỉ còn là tiếng loa dội lại của lòng ích kỷ, hoặc biến thành một thứ tình cảm mù quáng sai lầm. Không ít bậc cha mẹ, theo như kinh nghiệm cho thấy, đã giết chết tuổi thanh xuân của con cái qua sự cưng chiều quá đáng của mình. Cho nên cha mẹ thương con mà phải nhận ra rằng yêu thương không có nghĩa là chiếm đoạt, giữ rịt cho riêng mình. Mẹ Maria sẵn lòng trao Hài nhi Giêsu cho ông cụ Simêon, cũng như sau này, Mẹ dâng con trên đỉnh cao thập giá.Và Mẹ ý Chúa là trên hết. Mẹ Maria và thánh Giuse đã vâng theo ý Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Một khi đã lấy ý Chúa làm ngọn đèn hải đăng hướng dẫn thuyền đời, thì mái ấm của chúng ta chắc chắn sẽ vượt qua được những sóng gió của đại dương cuộc đời.
90.Lớn lên
Ở Chicago, khi trời vừa lập đông, từng đàn ngỗng lũ lượt kéo nhau bay hàng ngàn dặm về phương Nam đi tìm nắng ấm. Chúng kêu gọi nhau xôn xao. Có những con lạc bầy vừa bay vừa kêu: “Quéc! Quéc! Quéc!” Khiến kẻ tha phương cũng phải chạnh lòng buồn theo vì nhớ mái ấm gia đình! Các nhà khoa học nghiên cứu cuộc di cư hằng năm đi tìm nắng ấm của loài ngỗng đã đưa ra sáu điểm nhận xét giúp ta suy nghĩ về đời sống gia đình nhân dịp lễ Thánh Gia Thất hôm nay:
1. Chúng bay với nhau theo hình chữ vê ngược. Mỗi con đều vỗ cánh rất nhịp nhàng, êm ái. Một hàng chữ vê ngược bay chung với nhau như vậy sẽ tạo thêm được 17 phần trăm sức mạnh hơn là từng con bay riêng rẽ.
Đúng là “Hợp quần gây sức mạnh”. Tất cả mọi người trong một gia đình hay cộng đoàn hợp tác với nhau làm việc sẽ nhanh hơn và dễ hơn, vì họ cùng thúc đẩy và nâng nhau lên. “Niềm vui góp lại, niềm vui lớn. Nỗi lo chia sẻ, nỗi lo vơi!”
2. Khi có con nào bị rơi ra khỏi hàng ngũ, nó phải tìm cách mau chóng trở về hàng ngay để có sức mạnh nâng đỡ của cả bầy. Nếu không nó phải bay cô đơn một mình!
Bước ra khỏi gia đình hay cộng đoàn, ta sẽ cảm thấy bơ vơ lạc lõng, mất đi một điểm tựa nâng đỡ lớn lao. Khi phải một thân một mình chống chọi giữa đời, ta mới cảm thấy sự quý giá của mái ấm gia đình. Khi mồ côi ta mới thấy giá trị của tình phụ mẫu.
3. Khi con ngỗng dẫn đàn ở chính giữa mệt mỏi, nó sẽ trở xuống hàng phía dưới, con khác sẽ thay phiên lên dẫn đầu.
Thật là bất công khi trong gia đình hay cộng đoàn, có những người phải làm việc quá sức đang khi đa số những người khác lại nhàn hạ. Có nhiều gia đình cha mẹ phải làm việc đầu tắt mặt tối, trong khi con cái chơi bời lêu lổng suốt ngày. Theo thống kê, chỉ có 20/o số người đứng ra làm việc, nhưng phải đảm đương tới 80/o công việc của một tập thể, hay cộng đoàn!
4. Những con ngỗng vừa bay vừa kêu “Quéc! Quéc!” Am thanh vang dội trong bầu trời. Cuộc hành trình dài muôn ngàn dặm. Cứ thẳng cánh mà bay. Những con bay phía sau kêu lên để khích lệ những con phía trước phải cố gắng giữ cho đúng tốc độ.
Trong gia đình hay cộng đoàn thường có sự ghen tương, dèm pha lẫn nhau hơn là khích lệ, cổ võ, và khen ngợi những ưu điểm của nhau! Trong cuốn “Người Trung Quốc Xấu Xí” của Bá Dương, bản dịch của Nguyễn Hồi Thủ, tác giả đả kích tính ích kỷ, ghen tương, đấu đá lẫn nhau của người Trung Hoa bằng một kinh nghiệm như sau: “Ví dụ tôi đến thăm anh, thấy anh nhà cao cửa rộng, học vấn uyên bác, trong lòng tôi kính phục, hâm mộ anh. Trên đường về đáng lẽ tôi nghĩ phải cố gắng phấn đấu, làm việc, học hành để có thể được như anh. Đằng này lúc ra khỏi nhà anh tôi lại bảo: Ở nhà đẹp thế! Không biết ăn cắp hay ăn cướp ở đâu ra lắm tiền! Cầu trời cho ngày mai có đám cháy thiêu rụi cái nhà nó đi cho rồi!” Tác giả dẫn chứng sự mất đoàn kết của người Trung Hoa bằng câu nói mỉa mai: “Một Hoà Thượng gánh nước uống. Hai Hoà Thượng khiêng nước uống. Ba Hoà thượng không có nước uống!”
5. Khi nào dừng cánh nghỉ ngơi, kiếm ăn trên đồng cỏ, không bao giờ tất cả mọi con ngỗng đều cúi đầu xuống ăn cùng một lượt! Luôn luôn có 4 hay 5 con canh chừng trong khi những con khác ăn. Chờ đợi cho những con khác ngẩng đầu lên, lúc đó chúng mới cúi xuống.
Trong gia đình hay cộng đoàn, chúng ta phải biết tỉnh thức, canh chừng và bảo vệ nhau tránh khỏi những nguy hiểm của ma thù. Đừng vì say mê hưởng thụ vật chất mà quên đi những kẻ thù tinh thần rình rập trên hành trình tiến về quê trời.
6. Khi một con ngỗng bị bệnh hay bị bắn thương tích rơi xuống đất, sẽ có 2 con khác bay theo xuống đất để giúp đỡ và bảo vệ. Chúng ở lại cho đến khi con bị thương có thể bay được, hay phải chết, chúng mới bay đi nhập vào một hàng khác để bắt kịp bầy cũ của mình.
Tình nghĩa gắn bó, liên kết mọi người sống chết với nhau trong gia đình. Thường thường trước khi nhắm mắt xuôi tay, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, đều muốn có nhau trong giờ phút cuối. Ai cũng muốn ra đi trong tình thương mến của gia đình. Không ai muốn chết trong cô đơn buồn tủi.
91.Lớn lên
Trong bài Phúc âm hôm nay, thánh Luca kể lại việc Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đưa Hài Nhi Giêsu lên đền thờ “để hiến dâng Ngài cho Thiên Chúa… Và khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nagiarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
Thánh Phaolô còn diễn tả chi tiết hơn những đặc tính của gia đình Thánh Gia ở Nagiarét, nơi Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên: “Như những người được Thiên Chúa chọn, những người thánh thiện và được yêu thương anh em hãy học lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau…
Có một chú rể nọ, trước ngày cưới, cùng với cô dâu đến xin lời khuyên của cha mẹ vợ trước khi về chung sống ăn ở với nhau. Cha mẹ vợ đã có tuổi, ống rất hạnh phúc với nhau trong 40 năm. Nhìn vào gương sáng của cha mẹ, chàng rể xin các ngài dạy cho bài học phải làm sao để giữ hạnh phúc trong gia đình. Ông bố vợ mới dạy một bí quyết như sau: “Để giữ cho gia đình hạnh phúc, êm ấm, bố mẹ đã cố gắng giữ một nguyên tắc như sau: Trong gia đình, bất cứ chuyện gì quan trọng, bố quyết định hết!” Nghe vậy, chú rể khoái chí, thúc cùi chỏ vào cô dâu dặn dò: “Nghe rõ chưa em?” “Những chuyện nhỏ, mẹ con quyết định!” Ông bố nói tiếp: “Nhưng trong 40 năm chung sống với mẹ của các con, bố chưa thấy có chuyện gì đáng kể là quan trọng cả!”
Thánh Kinh đề cao những nhân đức giúp cho gia đình hạnh phúc. Các nhân đức này đều nhằm đến việc duy trì một hòa khí yêu thương, đồng tâm nhất trí, ý hợp tâm đầu. Đây chính là chìa khoá mở cửa hạnh phúc gia đình. Sau đây là bức thư đăng trong mục Ann Landers trên các tờ nhật báo lớn ở Mỹ.
Ann Landers thân mến.
Tôi năm nay 46 tuổi, ly dị chồng, đang sống với ba đứa con thơ. Tiếp theo việc giải phẫu ngực vì ung thư, vài tháng sau đó tôi được điều trị bằng hóa chất – chemotherapy. Tôi sắp xếp mọi công việc để đi bác sĩ khám bệnh lại, và vô cùng tuyệt vọng vì ung thư lại tái phát mạnh mẽ hơn trước!
Những người thân trong gia đình chẳng ai nâng đỡ, ngó ngàng gì đến tôi cả. Tôi là người đầu tiên trong gia đình bị ung thư, nên có lẽ chẳng ai biết cư xử với tôi ra sao. Họ cố gắng tử tế với tôi, nhưng tôi có cảm giác rằng họ sợ bị lây bệnh. Họ giữ khoảng cách ở xa xa, và gọi điện thoại hỏi thăm qua loa. Điều này làm tôi tủi thân và đau lòng.
Chúa nhật vừa qua tôi đem quần áo ra tiệm giặt. Tôi cũng gặp gỡ những khuôn mặt quen thuộc như mọi lần, cũng chào hỏi qua loa, nói vài câu. Tôi cố gắng giữ không tỏ lộ sự buồn bã, nhưng tinh thần sa sút trầm trọng. Đang khi đưa quần áo từ ngoài xe vào trong tiệm giặt, ngẩng đầu lên, tôi bắt gặp một người đàn ông, khuôn mặt quen quen. Ông vừa giặt xong, đang đưa quần áo ra xe đi về. Ông mỉm cười và chào tôi. Hôm nay có khoẻ không?” Tôi bị mất tự chủ, trút hết nỗi lòng: “Hôm nay là ngày tệ nhất trong đời tôi! Ung thư lại nặng thêm!” Rồi tôi bật lên khóc nức nở.
Ông choàng tay qua vai tôi, để tôi khóc tức tưởi, rồi nói, “Tôi hiểu chị. Vợ tôi cũng đã bị như vậy”. Sau vài phút tôi cảm thấy dễ chịu hơn, cám ơn ông vì sự thông cảm của ông, rồi bưng thùng quần áo đưa vào tiệm giặt. Khoảng 15 phút sau, người đàn ông tôi vừa gặp trở vào cùng với vợ ông. Chị bước đến với tôi, và không cần phải nói lời nào, chị ôm lấy tôi và nói, “Đừng ngại ngùng gì, hãy tâm sự với tôi, xưa kia tôi cũng đã từng bị như chị bây giờ. Tôi biết những khó khăn chị đang phải chịu”.
Bà Ann thân mến, tôi không thể diễn tả ra được cử chỉ của chị ấy đã giúp tôi là dường nào. Ở đây một người hòan tòan xa lạ, bỏ công lao, thì giờ ra để nâng đỡ và khích lệ tôi can đảm hướng về tương lai vào một thời điểm mà tôi dường như sắp sửa muốn buông xuôi. Tôi hy vọng Thiên Chúa sẽ ban cho tôi cơ hội để làm cho một người nào đó điều mà người phụ nữ tốt lành kia đã làm cho tôi. Nhưng trong lúc chờ đợi cơ hội đó, bà Ann thân mến, hãy làm ơn cho độc giả biết rằng mặc dù có rất nhiều người cứng lòng trên thế gian này, nhưng cũng có những người rộng lượng và nhân hậu không thể tưởng tượng được”.
Ngày nay đời sống hôn nhân và gia đình ở các nước tân tiến đang gặp khủng hoảng trầm trọng. Cuộc sống vật chất và ích kỷ đã tạo ra những sự sụp đổ trong quan hệ gia đình và vợ chồng. Theo thống kê một nửa hôn nhân kết thúc bằng ly dị!
Vì tình trạng gia đình tan vỡ, nên có nhiều trẻ em lớn lên không có cha hay mẹ săn sóc. Theo sách Sáng Thế, Thiên Chúa đã hoạch định cho con người có đời sống hôn nhân không phải vì ích lợi của đôi vợ chồng, bớt cô đơn, “người đàn ông ở một mình không tốt”, mà còn để sinh sản và giáo dục con cái trong sự quân bình tâm lý của một gia đình, biết được cả nam lẫn nữ là cha mẹ mình.
Nhân dịp đầu năm 1994, cử hành thánh lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, và cầu nguyện cho hoà bình thế giới, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đề cập đến việc trẻ em học được sự hòa bình qua đời sống gia đình ấm áp và yêu thương nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái. Ngài nói: “Một người hoạt động để xây dựng đời sống gia đình tốt đẹp là làm việc cho hòa bình”.
Hôm nay mừng lễ Thánh Gia, ước gì những lời khuyên nhủ của thánh Phaolô gửi cho tín hữu Côlossê là yếu tố có thể thay đổi được tình trạng suy đồi nơi các gia đình và hôn nhân hiện nay. Những nhân đức đó, giúp cải thiện sự liên hệ giữa con người với con người, và tạo nên hòa khí trong một gia đình hạnh phúc, yêu thương nhau như gia đình Thánh Gia.
92.Thánh gia là gương mẫu mọi gia đình
Minh họa Lời Chúa Lễ Thánh Gia Thất
1. Gia đình cầu nguyện
Một trong những việc gia đình làm để thờ phượng Chúa là đọc kinh cầu nguyện.
Tạp chí Reader’s Digest của Hoa Kỳ có đăng một bài báo tựa đề: “Thăm dò gia đình”, gồm 12 câu hỏi. Một trong những câu hỏi đó như sau: “Dịp một lễ của gia đình, bạn có mời khách đến dự, bạn có thấy thoải mái dễ dàng yêu cầu mọi người trong gia đình bạn đọc kinh không?”
Câu hỏi này khiến chúng ta phải lưu ý đến một việc chính yếu của gia đình biết noi gương Thánh Gia Thất, siêng năng cầu nguyện để thờ phương Chúa.
Cầu nguyện trong gia đình có thể thực hiện dưới ba hình thức:
1. Cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người cầu nguyện riêng với Chúa. Như người Cha cầu nguyện khi đi làm… Chúa Giêsu thường cầu nguyện theo hình thức này.
2. Mọi người trong gia đình cũng cầu nguyện, như cầu nguyện khi mọi người tề tựu chung quanh bàn ăn, nhất là trước bàn thờ tối sáng… Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện theo cách này: như trong Bữa Tiệc Ly (Lc.9,16), với hai môn đệ Emmau (Lc.24,30)
3. Cầu nguyện với cộng đoàn, cùng với các gia đình khác trong một xóm đạo hay trong nhà thờ… Chúa Giêsu cũng nêu gương cầu nguyện theo hình thức này. (Lc.4,6)
----------
Lễ Thánh gia hôm nay là dịp hy hữu để chúng ta tự vấn về việc cầu nguyện trong gia đình của chúng ta. Nói cụ thể hơn là chúng ta (gồm cả ông bà, cha mẹ, con cháu trong gia đình) có đọc kinh cầu nguyện không? Đọc kinh cầu nguyện sốt sắng không? Đọc kinh cầu nguyện thường xuyên không?
2. Không có thời giờ
Một linh mục đang kiểm điểm tình hình sống đạo trong giáo xứ. Ngài hỏi một gia đình:
- Chúng con có thường xuyên cầu nguyện chung trong gia đình không?
Người gia trưởng trả lời:
- Thưa Cha, chúng con bận việc quá, không có giờ đọc kinh cầu nguyện.
- Giả như con biết đứa con nào của con sẽ bị bệnh nếu chúng con không cầu nguyện, thì gia đình chúng con có cầu nguyện không?
- Ồ chắc chúng con sẽ cầu nguyện.
- Giả như con biết ngày nào gia đình chúng con lười biếng cầu nguyện thì một đứa con phải bị tai nạn. Các con có cùng cầu nguyện không?
- Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.
- Giả như ngày nào chúng con không đọc kinh cầu nguyện thì phạt năm chục ngàn. Chúng con có bỏ việc cầu nguyện không?
- Chắc chúng con không dám bỏ cầu nguyện. Nhưng thưa Cha, Cha hỏi như thế có ý gì?
- Vì con nói không có thời giờ cầu nguyện, tại con chưa xác tín rằng: nhờ lời cầu nguyện Chúa sẽ ban mọi ơn lành cho vợ cùng con cái con. Chúa sẽ cứu giúp gia đình con khỏi mọi gian nan thử thách. Nhất là con sẽ chu toàn bổ phận thờ phượng Chúa theo gương Thánh gia Thất. (Theo “Minh họa Lời Chúa”)
3. Lời cầu nguyện rất hiệu nghiệm
Một đứa trẻ nhờ cha mẹ dạy và làm gương, nên luôn giữ thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày nọ em bị bệnh nặng phải vào nằm bệnh viện. Bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật mới hỏi bệnh. Trước khi tiêm thuốc mê để mổ, bác sĩ cho em biết: em sẽ ngủ một giấc thật lâu. Nghe noi đến ngủ, em xin bác sĩ chờ em một chút, để em cầu nguyện như thường lệ. Và em kết thúc lời nguyện bằng cầu:
- Lạy Chúa, xin cho con mau hết bệnh.
Sau đó em tự nằm xuống cho bác sĩ thi hành việc của ông… Khi thức dậy, câu hỏi đầu tiên của em là:
- Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không?
Bác sĩ nhìn em và cảm động nói:
- Cháu hãy để Chúa lo liệu… Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu rất hiệu nghiệm. Chúa đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác không đến nhà thờ, không đọc kinh cầu nguyện, cũng chẳng bao giờ nhớ đến Chúa. Nhưng hôm nay khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động lòng bác. Sáng sớm hôm nay, bác đã đến nhà thờ xưng tội rước lễ và đọc kinh cầu nguyện.
--------
Lời cầu nguyện chẳng những để thờ phượng Chúa theo gương Thánh Gia Thất, mà còn cứu được chính mình và kẻ khác phần hồn phần xác. (Theo “Minh họa Lời Chúa”).
4. Quà tặng
Đức Tổng Giám Mục Milan ở phía Bắc nước Ý có kể câu chuyện:
Vào dịp lễ Giáng Sinh có đông trẻ em, Chúa Giêsu đến với các em. Thấy Chúa, các em mừng quá, vỗ tay treo hò vang dội. Bỗng có một em xin Chúa tặng quà mừng Sinh Nhật của Chúa. Và tất cả các em khác đồng thanh hưởng ứng. Chúa Giê su có vẻ suy nghĩ lo lắng một lúc, vì dường như Người nghèo quá không có quà tặng. Rồi Người mỉm cười giang rộng hai tay ra ôm các trẻ. Nhưng các em vẫn chờ đợi quà. Một em nói với đứa bạn bên cạnh:
- Ngài không tặng quà cho mình đâu. Thật đúng như lời người ta nói: Tôn giáo không có ích gì, vì nó đâu có mang lại cho chúng ta món quà nào.
Nhưng em đó trả lời:
- Khi Chúa Giê su giang rộng hai tay ôm lấy chúng ta là Ngài ban tặng chính Ngài cho chúng ta. Chính Ngài là quà tặng cho chúng ta đó.
----------
Chúng ta noi gương Thánh Gia Thất cầu nguyện. Thay vì ban ơn này ơn khác cho chúng ta, Chúa Cha đã ban Con Một của Người cho chúng ta. Và chính Chúa Giêsu là quà tặng cho chúng ta, yêu thương gia đình chúng ta, chịu chết cứu gia đình chúng ta, sống lại và lên trời để dọn chỗ sẵn cho gia đình chúng ta… (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập 1)
5. Dung mạo Chúa Cứu Thế
Ngày nọ hoàng đế của một nước hùng cường thình vượng triệu tập các nghệ nhân các nước đến dự cuộc thi, mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân Ấn Độ, Acmêni, Ai cập mang đầy đủ vật liệu và dụng cụ đến. Còn nghệ nhân Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn thi thố tài năng trong một phòng riêng. Đến ngày giờ ấn định, hoàng đế và đoàn tùy tùng đến từng phòng chấm điểm, ông hết sức khen ngợi các nghệ nhân Ấn độ đã vễ chân dung ông đặc sắc, các nghệ nhân Acmêni và Ai cập điêu khắc dung mạo ông cũng không khém sắc sảo. Nhưng khi đến phòng các nghệ nhân Hy Lạp, nhà vua chẳng thấy gì, chỉ có bức tường của căn phòng được đánh bóng sáng chói, đến độ ông nhìn vào thì thấy chân dung mình rõ né t. Thế là giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp.
---------------
Muốn mang lại dung mạo Chúa Kitô, cần đánh bóng lòng mình cho sạch mọi vết nhơ. Một khi tâm hồn đã được đánh bóng sáng ngời, chúng ta sẽ thấy dung mạo Chúa Kitô rạng ngời trong đó.
Lúc Thánh Giuse và Đức Mẹ dâng Chúa Hài Nhi trong đền thờ, có biết bao tư tế và luật sĩ ở đó thông thạo Kinh Thánh, am tường các lời ngôn sứ, nhưng họ không nhận ra Chúa, duy chỉ có ông Simêon và bà Anna nhận ra dụng mạo Chúa Cứu Thế.
Sở dĩ hai người này nhận ra Chúa Cứu Thế là vì họ đã mài bóng đời mình bằng đạo đức và bằng lời cầu nguyện, việc hi sinh hãm mình hằng ngày trong Đền Thờ.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào các gia đình. Truyền thống tốt đẹp gia đình ngày càng sa sút: ly thân, ly dị, phá thai, mại dâm, trẻ bụi đời, ma túy ngày càng gia tăng!... Gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo Hội. Nếu gia đình không lành mạnh, làm sao xã hội và Giáo Hội tốt đẹp?!...
(Theo “Như Thầy đã yêu”).
30/12 Bà tiên tri Anna.
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Bà tiên tri Anna.
Thứ Bảy – Ngày thứ sáu tuần Bát Nhật Giáng Sinh.
"Bà đã nói về Người với tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel".
LỜI CHÚA: Lc 2, 36-40
Khi ấy, có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm. Rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ngày càng lớn lên
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S. J.)
Khi viết sách Tin Mừng, thánh Luca thích nêu bật vai trò của phụ nữ,
vì trong xã hội Ítraen thời xưa, việc lãnh đạo chủ yếu do đàn ông.
Luca hay đặt sóng đôi những câu chuyện về các nhân vật nam và nữ.
Sau trình thuật sứ thần Gabrien truyền tin cho ông Dacaria,
thì đến trình thuật sứ thần truyền tin cho Đức Mẹ.
Sau sự xuất hiện của ông già Simêon nói tiên tri về Hài Nhi,
thì bà Anna cũng được giới thiệu minh nhiên như một nữ ngôn sứ.
Làm ngôn sứ đâu phải là đặc quyền dành cho phái nam!
Khuôn mặt của Simêon và Anna có những nét giống nhau.
Cả hai đều là những người tuổi cao và đạo hạnh.
Đời sống của họ gắn bó với Đền thờ.
Riêng cuộc đời của cụ bà Anna thì thật đáng phục.
Cụ xuất giá được bảy năm thì ở góa, nay cụ đã tám mươi tư.
Giả như cụ lấy chồng vào năm mười lăm tuổi,
thì hẳn cụ đã sống trong cảnh góa bụa hơn sáu mươi năm.
Một thời gian dài không có chỗ dựa vững chắc của người chồng.
Nhưng cụ Anna lại tìm thấy một chỗ dựa khác, vững hơn.
Đó là Thiên Chúa mà cụ đêm ngày thờ phượng (c. 37).
Đó là Đền thờ mà cụ coi như nhà của mình.
Đời sống của một góa phụ trẻ, lúc mới ngoài hai mươi, thật không dễ.
Ăn chay cầu nguyện là cách để cụ làm chủ bản thân và thắng cám dỗ.
Simêon và Anna đều là những người cao tuổi đã và đang chờ.
Họ sống để chờ những lời Chúa hứa được thành tựu,
sống để chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem (c. 38).
Anna có biết hôm nay nỗi đợi chờ của cụ được đáp ứng không?
Với trực giác của một ngôn sứ, cụ nhận ra ngay vị Cứu tinh bé nhỏ
đang được bồng ẵm trên tay của đôi vợ chồng nghèo.
Như xuất thần, cụ nói về Hài Nhi cho những người chung quanh.
Không phải chờ nữa, vì ơn cứu chuộc mong mỏi từ lâu nay đã đến.
Thiên Chúa đã giữ trọn lời hứa của Ngài.
Chúng ta đang mừng Lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa làm người.
Chúng ta có ít thời gian để suy niệm về thời gian của Ngài ở Nadarét.
Hơn ba mươi năm để Hài Nhi từ từ lớn lên, trở nên người trưởng thành.
Làm người là chấp nhận lớn lên mỗi ngày một chút về mọi mặt.
Thân xác của cậu Giêsu trở nên mạnh mẽ, trí tuệ cậu đầy khôn ngoan,
và về mặt tâm linh, ân lộc của Thiên Chúa ở trên cậu (c. 40).
Hài Nhi Giêsu đã lớn lên một cách quân bình
để thành Thầy Giêsu đi rao giảng vào lúc ngoài ba mươi.
Con Thiên Chúa cũng phải chăm chỉ học làm người,
qua tha nhân và kinh nghiệm, qua lao động và thách đố trong cuộc sống.
Ngài chia sẻ phận người long đong của chúng ta,
nên Ngài hiểu gánh nặng của phận người.
Xin được học nơi Nadarét về chia sẻ và phục vụ, về tha thứ và yêu thương.
Xin được trở nên người có khả năng dám sống và chết cho người khác.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người – cũng như con –
đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
Suy Niệm 2: Lớn lên trong Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sức mạnh của thế gian thật khủng khiếp. Nó hấp dẫn. Nó thúc đẩy. Nó chiếm đoạt. Nó thống trị. Nó giống như con thú dữ vồ lấy, cắn xé, ngấu nghiến và tàn phá con người. Nó là sức mạnh tàn phá. Nhưng ai chạy đuổi theo nó cuối cùng chỉ thấy hư vô. Như thánh Gio-an dậy: “Mọi sự trong thế gian như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó”.
Trái lại sức mạnh của Thiên Chúa thật nhẹ nhàng. Khởi đầu rất mong manh. Như trẻ thơ sơ sinh. Rất yếu ớt. Rất bé nhỏ. Nhưng cứ lớn mãi. Như Chúa Giê-su “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Tiên tri An-na làm chứng về điều đó. Sau 7 năm sống đời hôn nhân ngoài đời, bà càng nhận rõ sự phù du của thế gian. Bà gắn bó với Chúa và với đền thờ suốt cuộc đời. Chuyên chăm hãm mình, ăn chay, cầu nguyện. Từ bỏ cả những gì cần thiết ở đời như việc ăn uống, vui chơi, giải trí. Bà siêu thoát trần gian. Vì bà tìm được niềm vui trong Chúa. Thân xác bà nhỏ bé đi. Nhưng tâm hồn bà lớn mạnh. Bà được mặc khải cho biết khi Chúa Cứu Thế xuất hiện. Vì thế khi Chúa Giê-su được dâng vào đển thờ, lập tức bà nhận ra. “Bà tiến lại gần, cảm tạ Thiên Chúa”. Cảm nghiệm về Chúa quá rõ ràng và phong phú, nên bà, một phụ nữ nghèo nàn tầm thường, có thể “nói về Hài Nhi cho hết thảy những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc giê-ru-sa-lem”.
Chúa Giê-su chính là mẫu hình lý tưởng của con người. Chúa phát triển mọi mặt. Về thân xác khoẻ mạnh. Để có thể làm việc đêm ngày không ngừng nghỉ. Để có thể chịu cực hình thâu đêm. Sáng vẫn còn vác thánh giá đi lên Núi Sọ. Về trí tuệ thông minh. Kẻ thù nhiều lần gài bẫy. Nhưng không bắt bẻ được điều gì. Trái lại mọi người say mê lời giảng dạy của Chúa. Và Chúa hỏi những câu không ai trả lời được. Đặc biệt về đức hạnh. Không ai chê trách được điều gì. Kẻ thù rình rập đêm ngày. Đến nỗi tuốt một bông lúa họ cũng biết. Vậy mà không tìm được tội nào để kết án Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa con người mới có thể phát triển quân bình mọi mặt đến mức thập toàn như thế.
Xin cho con siêu thoát thế gian. Tìm về bên Chúa. Để con được lớn lên trong Chúa.
Suy Niệm 3: Lời Tiên Báo Về Chúa Hài Nhi
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Vào một mùa Giáng Sinh nọ, trước giờ đi lễ, vị chủ nông trại đang ngồi thưởng thức nhạc Giáng Sinh, bỗng đâu cả đàn ngỗng của ông tụ lại trước sân nháo nhác tìm chỗ trú. Chúng vừa đói, vừa lạnh, lông cánh rối bời. Tất cả người làm đều đã nghỉ cả, người chủ cũng đều sắp đóng cửa để về thành phố dự Thánh Lễ. Bởi vậy ông bèn ra lùa đàn ngỗng về chuồng, nhưng chúng không biết ông nên dù cho gào thét khàn cả tiếng, chạy ngược chạy xuôi, đã rời cả đôi chân mà ông vẫn không đem được một con nào về chuồng. Thấy vậy ông thầm ước với mình: "Ước gì tôi được làm ngỗng trong chốc lát, để tôi có thể dùng tiếng loài ngỗng mà nói cho chúng hiểu ước muốn của tôi và cho chúng biết đâu là chốn hiểm nguy, đâu là nơi an toàn". Bỗng chốc, ông đã thành một con ngỗng đứng giữa bầy như ước nguyện.
Có thể chúng ta sẽ là phi lý khi thấy người biến thành ngỗng. Thế nhưng, có một điều khác còn phi lý hơn nữa mà Giáo Hội đang mời gọi chúng ta chiêm ngắm, đó là hang đá Belem, nơi Thiên Chúa Vua Cả trời đất giành lấy thân phận làm người, sinh ra trong hang bò lừa máng cỏ. Ngài làm người để rồi Ngài sẽ dùng ngôn ngữ của loài người mà chỉ dạy cho con người lối về quê thật.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca thuật lại cho chúng ta một trong những điều con người được nhận lãnh nhờ vào hành động phi lý ấy. Là Ngôi Hai Thiên Chúa thì Chúa Giêsu đâu cần phải được hiến dâng cho Thiên Chúa theo luật Môisê, thế nhưng ngài vẫn tuân giữ nghi lễ này, vì Ngài muốn giống con người trong hết mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Ngài giống con người để con người không còn phải e ngại khi đến với Ngài cũng như hiểu được lời mời gọi của Ngài. Nếu trước đây, Ngài đã sinh ra trong chuồng bò là để cho mọi người có thể đến với Ngài, không phân biệt giàu sang hay nghèo khổ, có địa vị hay chỉ là dân đen. Các trẻ chăn chiên được mời gọi, ba nhà đạo sĩ Phương Ðông được chỉ lối, tất cả đến với Ngài và đã tìm được nguồn vui.
Hôm nay, Ngài vào Ðền Thánh bằng nghi lễ thanh tẩy và hiến dâng. Thật ra chỉ có con người tội lỗi mới cần thanh tẩy, chỉ có loài thụ tạo mới cần hiến dâng. Vậy mà Chúa Giêsu Ngài vẫn chấp nhận tất cả để nên như một cơ hội quí báu cho tiên tri Siméon và Anna gặp Ngài. Niềm vui bấy lâu mong đợi, giờ đây Siméon đã đạt được như ý nguyện, giờ đây ông có thể ra đi bình an không còn gì phải tiếc nuối.
Siméon và Anna là tiêu biểu cho nhóm những người nghèo của Giavê. Họ ăn chay cầu nguyện, sống nghèo khổ để canh thức trông chờ Ðấng Cứu Thế, dù cho cuộc sống có đầy dẫy những lạc thú thì vẫn không quyến dũ được họ cho bằng niềm vui cứu chuộc họ đang trông chờ.
Thời gian chờ đợi luôn là thời gian dài dẵng lê thê và nếu dành cả một đời để trông ngóng đợi chờ thì không khỏi bị coi là phi lý điên rồ. Chắc chắn Siméon và Anna cũng bị gán cho nhãn hiệu này. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại cần đến sự phi lý điên rồ ấy, vì Ngài cũng đã từng hành động như vậy. Một Ðấng Tạo Hóa mà lại hóa thân làm một thụ tạo. Một người Chủ uy quyền mà lại nhận thân phận tôi tớ. Siméon và Anna đã chấp nhận con đường này và Thiên Chúa đã đáp lời họ.
Thế nhưng, khi hưởng niềm vui bất diệt ấy, họ lại chỉ không dành hết cho mình nhưng còn mau mắn chia sẻ với người khác. Bà Anna đã nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel, vì thế bà được coi là nữ tiên tri, dù rằng suốt cuộc sống bà cũng chẳng làm một điều gì như các tiên tri ở Israel.
Vị tiên tri là gì nếu không phải là kẻ truyền rao Thiên Chúa, truyền rao ơn cứu độ. Như vậy, chúng ta có thể gọi bà Anna là mẫu mực cho người tín hữu trong cuộc sống và hành động. Bà đã can đảm và chấp nhận một cuộc sống thiếu thốn trong chay tịnh và cầu nguyện, cũng như luôn hy vọng đợi chờ, dù cho sự việc chẳng biết bao giờ mới xảy ra và khi đã đón nhận hồng ân thì lại sẵn sàng truyền rao chia sẻ cho kẻ khác. Hồng ân bà nhận được hôm nay luôn là một chứng từ thôi thúc tín hữu thêm lòng cậy trông, vì Thiên Chúa sẽ không chê bỏ những ai đặt hết hy vọng vào Ngài.
Trong mùa Giáng Sinh, mùa kỷ niệm một biến cố phi lý mà con người không thể hiểu thấu. Ước mong rằng mỗi người trong chúng ta biết bắt chước như bà Anna là sẵn sàng đón nhận những đau khổ, những phi lý về ơn cứu độ và nhất là luôn nhớ sứ mệnh tiên tri đã được trao ban từ ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để rồi ta có thể bắt chước thánh Phaolô mà nói được như Ngài: "Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Ðức Kitô". Amen.
Suy Niệm 4: Mẫu người thánh thiện
Bầu khí tưng bừng của Mùa Giáng sinh dễ làm chúng ta quên đi một sự kiện quan trọng đó là Con Thiên Chúa đã đến thế gian một cách hết sức nhẹ nhàng, êm thắm. Ngài không đến để phút chốc làm đảo lộn tất cả nhịp sống bình thường của con người, nhưng chỉ tế nhị thay đổi từ từ cõi lòng và đời sống mỗi người bằng tình thương dịu dàng của Ngài.
Bài Tin mừng hôm nay gợi lên cho ta một mẫu người thánh thiện nơi bà Anna. Tác giả Tin mừng theo thánh Luca gọi bà là một tiên tri, nhưng theo ý kiến các nhà chú giải thì bà chỉ là một người đơn sơ bé nhỏ thuộc về nhóm những người nghèo của Yavê, những kẻ ưu tiên được hưởng lời hứa và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bà chỉ xuất hiên một lần trong biến cố dâng Chúa vào Đền thờ. Dung mạo bà được mô tả bằng những chi tiết đơn sơ nhưng thật quan trọng: bà đã được 84 tuổi đời, goá bụa nghèo khó, trung thành với những bổn phận đạo đức, sống nơi đền
Bài Tin mừng hôm nay gợi lên cho ta một mẫu người thánh thiện nơi bà Anna. Tác giả Tim mừng theo thánh Luca gọi bà là một tiên tri, nhưng theo ý kiến các nhà chú giải thì bà chỉ là một người đơn sơ bé nhỏ thuộc về nhóm những người nghèo của Yavê, những kẻ ưu tiên được hưởng lời hứa và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bà chỉ xuất hiên một lần trong biến cố dâng Chúa vào Đền thờ. Dung mạo bà được mô tả bằng những chi tiết đơn sơ nhưng thật quan trọng: bà đã được 84 tuổi đời, goá bụa nghèo khó, trung thành với những bổn phận đạo đức, sống nơi Đền thờ, phụng sự Thiên Chúa ngày đêm trong kinh nguyện và trong chay tịnh. Thật khó mà sống được như thế nếu không cố gắng cộng tác với ơn Chúa. Bà tin tưởng vào lời hứa cứu độ của Thiên Chúa sẽ thực hiện và cuối cùng đã được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc nơi Hài nhi Giêsu.
Mỗi người chúng ta có thể noi gương bà Anna sống kết hiệp với Chúa trong cầu nguyện và chay tịnh, nghĩa là sông đời khổ hạnh, để có thể nhìn thấy hành động của Thiên Chúa trong lịch sử nói chung và trong chính đời sống mỗi người chúng ta nói riêng. Không phải sự khôn ngoan thông thái làm cho con người gặp được Thiên Chúa và lãnh nhận ơn cứu rỗi của Ngài, nhưng chỉ những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng, như bà Anna mới lắng nghe được lời mời gọi đến gặp Chúa.
Chiêm ngắm Hài nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta hãy xin Ngài ban cho ánh sáng và sức mạnh hầu diệt trừ mọi ảnh hưởng của thế gian và chân thành phụng sự Chúa trong khiêm tốn và yêu mến.
Suy Niệm 5: Cần trở về với nội tâm
Chúng ta vừa đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh với những tổ chức sinh hoạt rầm rộ và những trang hoàng hoành tráng bên ngoài làm toát lên vẻ huy hoàng, cao trọng của biến cố có một không hai trong lịch sử cứu độ qua việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người.
Tuy nhiên, những sinh hoạt bên ngoài đó đôi khi làm cho chúng ta quên đi ý nghĩa và giá trị tinh thần của ngày lễ. Hơn nữa, chính Con Thiên Chúa giáng sinh trong cảnh nghèo nàn, nhẹ nhàng, êm đềm chứ không phải rầm rộ bên ngoài ... Sự kiện Đức Giêsu giáng sinh thời đó rất âm thầm và Ngài muốn trở thành một người bình thường như mọi người.
Như vậy, muốn có được một mùa Giáng Sinh ý nghĩa và lắng đọng, có lẽ chúng ta phải trở về với cuộc sống nội tâm sâu xa thì mới đi được vào luồng tình yêu của Thiên Chúa, qua đó, sứ điệp giáng sinh mà Con Thiên Chúa mang đến cho nhân loại, trong đó có chúng ta mới thực sự có ý nghĩa trên và trong cuộc đời của mỗi người ... Nếu không có yếu tố đó, đại lễ Giáng Sinh chỉ thuần túy là một lễ hội với những sự sầm uất bề ngoài.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta biết mẫu gương của một bà quả phụ đã sống điều đó trong cuộc đời của bà. Quả thật, bà là người nghèo của Thiên Chúa, bà chẳng có gì để dâng cho Chúa cả, bà chỉ có tấm lòng và đời sống lương thiện cũng như đạo đức.
Kinh Thánh diễn tả bà hết sức đơn sơ như: bà đã được 84 tuổi, goá bụa nghèo khó, trung thành với những bổn phận đạo đức, sống nơi đền thờ, phụng sự Thiên Chúa ngày đêm trong kinh nguyện và trong chay tịnh.
Qua cuộc đời của bà, chúng ta thấy toát lên một điều, đó là: bà đã lấy Chúa làm trung tâm của cuộc đời mình, cho nên, mọi sinh hoạt đều hướng về Cái Tâm đó. Muốn đi vào tương quan với Thiên Chúa cách thân tình như vậy, hẳn bà phải có tình yêu thúc đẩy.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta, mỗi lần chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu bọc tã nằm trong máng cỏ, chúng ta hãy có tâm tình đơn sơ như bà Anna. Sống tinh thần khó nghèo, phó thác để cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại qua việc trao ban Đức Giêsu, quà tặng vô giá cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã nêu gương cho chúng con về tinh thần nghèo khó. Chỉ những ai có được tinh thần như thế, mới được gọi là con Thiên Chúa thực sự. Xin Chúa ban ơn cho mỗi chúng con biết noi gương bà Anna trong bài Tin Mừng hôm nay, ngõ hầu được sống trong tình yêu của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Gặp Chúa trong cuộc sống bình dị đơn sơ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Con Thiên Chúa đã giáng trần trong khiêm cung và khó nghèo, không phô trương và hào nhoáng. Vì vậy chỉ những tâm hồn nhỏ bé đơn sơ, thành kính chay tịnh và âm thầm cầu nguyện như bà tiên tri Anna mới dễ dàng gặp Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bầu khí vui nhộn của lễ Giáng sinh ngày nay, với những hang đá rực rỡ, sang trọng và ánh đèn mầu hiện đại, dễ làm cho con quên rằng cách đây hơn 2000 năm, Chúa đã đến với con người âm thầm và khiêm nhu. Chúa đến chỉ vì yêu thương, mà tình yêu chân thật thì đi đôi với sự tế nhị, kín đáo, và thâm trầm.
Xin Chúa cho con biết noi gương bà tiên tri Anna, suốt cuộc đời âm thầm liên lỉ cầu nguyện, để con có thể gặp gỡ và chúc tụng Chúa. Xin cho con hiểu được rằng con không thể tìm gặp Chúa trong sự ồn ào náo động của những lo toan vật chất hay những đam mê trần tục, mà chỉ được gặp Chúa trong kinh nguyện hằng ngày, trong cuộc sống bình dị đơn sơ.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu rằng: để chuẩn bị cho ba năm công khai giảng đạo, Chúa đã sống ẩn dật trong ba mươi năm tại Na-da-rét. Xin cho con như hạt giống nhỏ dần dần lớn lên, như nắm men từ từ làm dậy cả khối bột, để con biết chu toàn cách phi thường những công việc bổn phận tầm thường hằng ngày.
Và xin cho con được nên giống Chúa, với tháng năm dần dần trưởng thành, được nên dũng mạnh, khôn ngoan và tràn đầy ân sủng của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: ”Bà đã nói về Người với tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel”.
Suy Niệm 7: Đức Giêsu sống ẩn dật
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng ghi lại việc bà Anna nói tiên tri về Hài Nhi Giêsu cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa đến cứu chuộc.
Lúc thánh Giuse và Đức Maria dâng Chúa Hài Nhi trong Đền thờ, cũng có bà tiên tri Anna ở đó. Bà sống trong đền thờ, ăn chay cầu nguyện và phụng sự Chúa đêm ngày. Bà thấy trẻ Giêsu thì chúc tụng và giới thiệu cho mọi người. Còn thánh Giuse và Đức Maria, sau khi làm xong mọi việc theo luật dạy thì đem Chúa Giêsu về nhà. Người càng lớn thì càng thêm mạnh mẽ, khôn ngoan và đầy ân sủng.
2. Bà Anna hôm nay quan trọng vì bà là một tiên tri, đã báo cho mọi người biết con trẻ Giêsu là Đấng mọi người mong đợi, nay đã đến.
Bà là một quả phụ già nua với tuổi đời trên 80. Với xã hội bà chỉ là một người góa bụa nghèo nàn, vô tích sự. Nhưng trước mặt Chúa bà có giá trị vì bà không rời bỏ Đền thờ, hằng ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa.
Bà quả là mẫu gương cho tất cả những ai đang sống trong phận nhỏ: nghèo hèn, bệnh tật, dốt nát, vô tích sự đối với xã hội. Vì những người phận nhỏ này Chúa cần dùng đến để hiệp thông với Chúa trong việc ăn chay, cầu nguyện và phụng thờ Thiên Chúa; đồng thời Chúa còn dùng đến để cộng tác vào công việc loan báo Chúa cho tha nhân bằng chứng tích của đời sống, bằng lời nói và việc làm.
3. “Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40).
Trong gia đình, Hài nhi Giêsu cần được giáo dục về mọi phương diện để thành người: nuôi dưỡng sức khỏe thể lý, củng cố sự vững mạnh tâm lý, phát triển trí khôn, lớn lên trong ơn nghĩa Chúa. Vì thế, trong gia đình Thánh gia, mặc dù là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, Chúa Giêsu vẫn hoàn toàn chu toàn bổn phận với Chúa Cha trong tư cách là Con Thiên Chúa (x. Lc 2,49) và chu toàn bổn phận là con trong một gia đình khi sống đời khiêm hạ và hằng vâng phục Mẹ Maria và thánh Giuse. Người ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, vả hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa (x Lc2,40).
Như vậy, noi gương Chúa Giêsu, trong phận làm con, chúng ta có bổn phận hiếu kính cha mẹ mình. Sự hiếu kính đó không phải chỉ là điều hợp với lẽ phải, hợp với khao khát chính đáng của con người, nhưng còn là điều đẹp ý Chúa. Bởi lẽ Thiên Chúa muốn con cái thờ cha kính mẹ (x Đnl 5,16). Bởi lòng hiếu thảo của con cái là quà tặng đẹp nhất dâng cho cha mẹ và được Chúa chúc lành.
4. “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao” (Lc 2,49)?
Sau mười hai năm dưỡng dục, Đức Maria và thánh Giuse dẫn người con Giêsu nay đã lớn khôn lên Giêrusalem “trình làng”. Bổn phận làm cha làm mẹ khiến hai Đấng chạy đôn chạy đáo tìm kiếm khi thất lạc cậu con. Nỗi lo lắng ấy được bù đắp khi tìm thấy con mình ngồi giữa các thầy thông thái, vừa đáp vừa hỏi thật khôn ngoan. Dù đã chu toàn trách nhiệm, hai đấng vẫn không khỏi ngỡ ngàng trước câu trả lời khó hiểu của con mình: ”Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha Con sao”? Thì ra bổn phận làm cha mẹ không chỉ là chăm sóc dạy dỗ con về phương diện tư nhiên, xã hội mà còn hướng dẫn cho con cái nhận biết, đáp lại ơn gọi và sứ mạng Chúa dành cho chúng nữa; cha mẹ không chỉ dưỡng dục con thành người mà còn phải giúp con mình lớn lên thành con cái Chúa.
5. Qua biến cố Giáng sinh, Thiên Chúa đã trao cho nhân loại một viên ngọc vô cùng quí giá, là Chúa Giêsu, để nhờ đó mà nhân loại được sống. Thế nhưng thử hỏi có được bao nhiêu người trong nhân loại đã giơ tay ra để đón lấy viên ngọc quí đó. Thánh sử Gioan, trong bài tiền ngôn Tin Mừng của Ngài, Ngài đã đau xót nói lên rằng: ”Người ở giữa thế gian, nhưng thế gian lại không nhận biết Ngài (Ga 1,10). Và còn hơn thế nữa: ”Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Người” (Ga 1,11).
Chính vì thế “Ngài đã đến, nhưng Ngài lại phải ra đi”.
Tại sao nhân loại đã có thái độ như vậy? Thưa, chỉ vì nhân loại chưa nhận biết giá trị của viên ngọc quí Giêsu. Chính vì thế mà nhiều người đã đi chọn cho mình những viên ngọc giả hiệu là danh vọng, lạc thú, giầu sang, chức quyền thay vì chọn viên ngọc thật, vô cùng qui giá là Chúa Giêsu.
6. Truyện: Chọn viên ngọc quí.
Người ta kể rằng có một chàng thanh niên đến xin thọ giáo với một sư tổ về ngọc thạch. Sau khi đã chấp nhận người môn sinh, vị sư tổ trao cho chàng một viên ngọc thạch quí giá, và bảo chàng hãy nắm thật chặt lấy nó ở trong tay. Thế rồi ông nói thao thao với người môn sinh về triết lý nhân sinh, về thiên văn địa lý. Sau hơn một giờ đồng hồ, ông bảo người môn sinh trả lại ông viên ngọc thạch, rồi cho chàng về nhà.
Hôm sau, chàng thanh niên đó trở lại, và cái cảnh hôm trước lại tái diễn. Thế rồi ngày này qua ngày khác, tháng nọ qua tháng kia, không có một điều gì khác lạ.
Nhưng rồi một hôm vị sư tổ bảo chàng nhắm mắt lại, rồi trao cho chàng một viên đá thay vì một viên ngọc như mọi khi, và cũng bảo chàng nắm tay lại.
Vừa nắm bàn tay lại chàng thanh niên nói: - Thưa thầy, đây không phải là viên bảo ngọc.
Vị tổ sư về ngọc thạch reo lên: - Khá lắm, khá lắm, thế là con đã thành tài rồi đó.
Sống trong cuộc sống, chúng ta phải tập cho mình biết nhạy bén với những dấu chỉ dù nó thật nhỏ bé, chúng ta mới có thể nhận ra những điều kỳ diệu Chúa làm cho chúng ta.
Suy Niệm 8: Sống kết hiệp với Chúa như bà Anna
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
Bầu khí tưng bừng của Mùa Giáng Sinh dễ làm chúng ta quên đi một sự kiện quan trọng đó là Con Thiên Chúa đã đến thế gian một cách hết sức nhẹ nhàng, êm thắm. Ngài không đến để phút chốc làm đảo lộn tất cả nhịp sống bình thường của con người, nhưng chỉ tế nhị thay đổi từ từ cõi lòng và đời sống mỗi người bằng tình thương dịu dàng của Ngài.
Bài Tin mừng hôm nay gợi lên cho ta một mẫu người thánh thiện nơi bà Anna. Tác giả Tin mừng theo thánh Luca gọi bà là một tiên tri, nhưng theo ý kiến các nhà chú giải thì bà chỉ là một người đơn sơ bé nhỏ thuộc về nhóm những người nghèo của Giavê, những kẻ ưu tiên được hưởng lời hứa và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bà chỉ xuất hiện một lần trong biến cố dâng Chúa vào Đền thờ. Dung mạo bà được mô tả bằng những chi tiết đơn sơ nhưng thật quan trọng: bà đã được 84 tuổi đời, goá bụa nghèo khó, trung thành với những bổn phận đạo đức, sống nơi Đền thờ, phụng sự Thiên Chúa ngày đêm trong kinh nguyện và trong chay tịnh. Thật khó mà sống được như thế nếu không cố gắng cộng tác với ơn Chúa.
Bà tin tưởng vào lời hứa cứu độ của Thiên Chúa sẽ thực hiện và cuối cùng đã được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc nơi Hài nhi Giêsu.
Mỗi người chúng ta có thể noi gương bà Anna sống kết hiệp với Chúa trong cầu nguyện và chay tịnh, nghĩa là sống đời khổ hạnh, để có thể nhìn thấy hành động của Thiên Chúa trong lịch sử nói chung và trong chính đời sống mỗi ngừơi chúng ta nói riêng. Không phải sự khôn ngoan thông thái làm cho con người gặp được Thiên Chúa và lãnh nhận ơn cứu rỗi của Ngài, nhưng chỉ những tâm hồn đơn sơ như các mục đồng, như bà Anna mới lắng nghe được lời mời gọi đến gặp Chúa.
Chiêm ngắm Hài nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta hãy xin Ngài ban cho ánh sáng và sức mạnh hầu diệt trừ mọi ảnh hưởng của thế gian và chân thành phụng sự Chúa trong khiêm tốn và yêu mến.
Suy Niệm 9: Dùng cuộc sống làm lễ dâng tiến Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Bà Anna đã đến tuổi “tri thiên mệnh” nên bà biết phải theo đuổi những gì cần thiết cho cuộc sống của mình. Đó là việc cầu nguyện, tu thân tích đức và mong chờ ơn cứu độ. Đây quả là một thái độ rất khôn ngoan trước mặt Chúa.
Người ta kể lại rằng, có một chàng thanh niên đến xin thọ giáo với một vị sư tổ chuyên về ngọc thạch. Sau khi chấp nhận anh ta làm môn sinh, vị sư tổ đã trao cho anh ta một viên ngọc thạch quí giá, và bảo anh hãy nắm chặt lấy nó ở trong tay. Sau đó thay vì những giáo huấn về nghề nghiệp, ông lại thao thao bất tuyệt nói với người đệ tử của ông về triết lý nhân sinh, về thiên văn địa lý. Ông nói cả hơn một giờ đồng hồ như thế rồi ông bảo người môn đệ trả lại cho ông viên ngọc thạch đó rồi cho chàng về nhà.
Hôm sau, chàng thanh niên đó lại trở lại, và cái cảnh hôm trước lại tái diễn. Thế rồi ngày này qua ngày khác, tháng nọ qua tháng kia, không có một điều gì khác lạ cả.
Bỗng một hôm vị sư tổ bảo chàng thanh niên đó nhắm mắt lại, rồi thay vì một viên ngọc như mọi khi, ông trao lại cho chàng một viên đá và cũng bảo chàng nắm tay lại.
Vừa nắm bàn tay lại chàng thanh niên nói:
- Thưa Thầy, đây không phải là viên bảo ngọc.
Vị sư tổ về ngọc thạch reo lên:
- Khá lắm, khá lắm, thế là con đã thành tài rồi đó.
Vâng! Chúng ta vừa mừng kính mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Sinh làm người, lấy tên là Giêsu.
Qua biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa đã trao cho nhân loại một viên ngọc vô cùng quí giá, là Chúa Giêsu, để nhờ đó mà nhân loại được sống.
Thế nhưng thử hỏi có được bao nhiêu người trong nhân loại đã giơ tay ra để đón nhận lấy viên ngọc quí đó. Thánh Sử Gioan, trong bài tiền ngôn Tin Mừng của Ngài, Ngài đã đau xót nói lên rằng: ”Người ở giữa thế gian, nhưng thế gian lại không nhận biết Ngài" (Ga 1,10). Và còn hơn thế nữa: ”Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Người" (Ga 1,11).
Chính vì thế “Ngài đã đến, nhưng Ngài lại phải ra đi".
Tại sao nhân loại đã có thái độ thờ ơ như vậy?
Thưa chỉ vì nhân loại chưa nhận biết được giá trị của viên ngọc quí Giêsu. Chính vì thế mà nhiều người đã đi chọn cho mình những viên ngọc giả hiệu là danh vọng, lạc thú, giàu sang, chức quyền thay vì chọn viên ngọc thật, vô cùng quí giá là Chúa Giêsu.
2. Nhưng có một người trong loài người đã biết được giá trị của viên ngọc Giêsu và đã chọn viên ngọc đó. Đó là bà Anna mà Tin Mừng hôm nay nhắc đến.
Thánh sử Luca cho biết về bà rằng: ”Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được 7 năm, rồi ở goá, cho đến nay đã 84 tuổi”. (Lc 2,36-37)
Trong Thánh Kinh, người góa bụa được đồng nghĩa với người nghèo. Như thế ở đây, bà Anna không những nghèo, mà lại còn già nữa, vì bà đã 84 tuổi.
Thế nhưng, con người khốn khổ đó đã sáng suốt và chọn lựa đúng. Thánh sử viết: “Bà không rời bỏ Đền thờ, những ăn chay, cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa”. (Lc 2,37)
Thì ra bà đã biến đổi cuộc đời mà nhiều người có thể cho là vô tích sự, trở thành một của lễ hy sinh dâng lên cho Thiên Chúa. Lý do khiến cho bà: “không rời bỏ Đền thờ, những ăn chay cầu nguyện” chỉ là vì bà thấy được giá trị của việc chọn Chúa. Với bà, Chúa là một viên ngọc vô giá.
Và khi đã chiếm hữu được viên ngọc đó rồi, một niềm vui tràn ngập tâm hồn bà, khiến bà quên đi thân phận góa bụa, già nua, để chỉ nghĩ đến một việc là phụng thờ Chúa. Và khi cơ hội đến, bà đã không ngần ngại nói “về Hài Nhi cho những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Jêrusalem" (Ga 2,38).
Bà Anna mà Tin Mừng hôm nay nói đến phải trở thành một mẫu gương sống động cho chúng ta, đặc biệt là cho những người nghèo khổ, già nua bệnh tật.
Đừng bao giờ chúng ta nghĩ rằng, cuộc đời vô tích sự của chúng ta là vô giá trị trước mặt Thiên Chúa, mà chúng ta phải nghĩ rằng, chúng ta có thể làm cho nó trở nên vô giá trước mặt Chúa, nếu chúng ta biết chọn Chúa, nếu chúng ta biết biến nó thành một của lễ hy sinh, bằng một đời sống kết hợp với Chúa trong chay tịnh và cầu nguyện.
Đây chính là điều mà Thánh Gioan đã căn dặn chúng ta trong bài đọc I: "Các con đừng yêu mến thế gian và những điều thuộc về thế gian” (1Ga 12,17) mà phải yêu mến Thiên Chúa và những điều thuộc về Người.
Trong Thánh lễ hôm nay chúng ta hãy cầu xin Chúa mọi người chúng ta biết dùng chính cuộc sống của mình, dù cuộc đời đó giàu hay nghèo, sung sướng hay khổ đau, trẻ trung hay già cả . v. v ... làm của lễ dâng lên cho Thiên Chúa. Như thế là chúng ta đã chọn Chúa. Và nếu chúng ta đã chọn Chúa, thì Chúa cũng sẽ chọn chúng ta.
29/12 Cụ già Si-mê-on
- Viết bởi Lc 2, 22-35
Cụ già Si-mê-on.
Thứ Sáu – Ngày thứ năm trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh.
"Ánh sáng đã chiếu soi các lương dân".
LỜI CHÚA: Lc 2, 22-35
Khi mãn thời hạn thanh tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa", và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề luật Chúa là "một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con".
Và lúc đó tại Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ơn cứu độ cho muôn dân
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Luật lệ thường làm người ta cảm thấy gò bó, mất tự do.
Người Do Thái phải giữ Luật Chúa đã ban cho Môsê.
Con trai thì phải được cắt bì và đặt tên tám ngày sau khi sinh (Lc 2,21).
Con trai đầu lòng thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2),
nên cha mẹ phải nộp năm sê-ken bạc cho tư tế
để chuộc lại con cho mình (Ds 3,47-48).
Người phụ nữ sau khi sinh con, bị coi là nhơ uế (Lv 12, 2-8),
phải ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền thờ.
Bốn mươi ngày sau khi sinh con trai, bà cần làm lễ thanh tẩy.
Bà phải dâng cho Đền thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu,
và một con chim gáy hay bồ câu để làm lễ tạ tội.
Nếu nghèo, bà chỉ cần dâng một cặp bồ câu non hay chim gáy là đủ.
Giuse và Maria đã vui vẻ giữ những luật này,
dù ngày nay đối với chúng ta, chúng thật là khó hiểu và khó chấp nhận.
Hãy nhìn ngắm đôi vợ chồng nghèo lên Giêrusalem.
Họ đã vượt một quãng đường xa, với đứa con mới hơn tháng tuổi.
Maria chịu thanh tẩy, dù bà biết mình đã cưu mang Đấng Thánh.
Bà đã dâng lễ vật đơn sơ của một người nghèo (c. 24).
Dù Luật không buộc, ông bà cũng đem Con lên Đền thờ để dâng.
Họ muốn con mình thuộc trọn về Thiên Chúa (x. 1 Sm 1, 22).
Ông bà đã không đòi hỏi một đặc ân hay miễn trừ nào.
Giữ Luật là cách họ thể hiện tình yêu đối với Chúa.
Có ai nhận ra đôi vợ chồng với đứa con nhỏ này là ai không?
Có, một người công chính và sùng đạo tên là Simêon.
Thánh Thần hằng ngự trên ông (c. 25),
và nói cho ông biết ông sẽ thấy Đức Kitô trước khi lìa đời (c. 26).
Chính Thánh Thần thúc đẩy ông lên Đền thờ vào lúc này (c. 27).
Bỗng nhiên ông thấy mầu nhiệm lớn lao đang tỏa sáng,
nơi Hài Nhi bé nhỏ, con của đôi vợ chồng nghèo.
Mọi mong chờ lâu nay của ông được đền đáp.
Các mục đồng đã nhận ra Đức Kitô nơi bé thơ quấn tã, nằm máng cỏ,
còn Simêon nhận ra Ngài nơi em bé được bồng ẵm bởi đôi vợ chồng.
Ông đã bồng Hài Nhi trong vòng tay, ngất ngây vì hạnh phúc.
Môi ông bật lên lời chúc tụng của người sẵn sàng nhắm mắt ra đi.
Ơn cứu độ cho muôn dân đã đến đây rồi (cc. 30-31).
Hài Nhi bé nhỏ này là Ánh sáng cho muôn dân,
là Vinh quang cho Dân Ítraen của Đức Chúa (c. 32).
Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày,
cần có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon.
Thánh Thần như trò chuyện, mách bảo, thôi thúc ông từ bên trong.
Thánh Thần soi sáng để ông nhận ra điều lớn lao mắt phàm không thấy.
Nhưng để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần,
chúng ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon.
Chẳng còn mơ ước gì ngoài việc được gặp mặt Đức Kitô qua cuộc sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ
như tấm bánh nơi nhà Tạm,
nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,
nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người
gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo Hội
gồm những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa cũng ở rất sâu
trong lòng từng kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa
đang tạo dựng cả vu trụ
và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra
Chúa đang hẹn gặp con
nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước đường đời của con. Amen.
Suy Niệm 2: Ánh sáng muôn dân
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cụ già Simeon nhìn thấy Chúa Giêsu xuất hiện như ánh sáng soi đường. Đó chính là ánh sáng tình yêu và sự sống soi vào đêm tối bất hòa chết chóc của nhân loại. Không phải tình yêu nói suông nhưng tình yêu cụ thể bày tỏ bằng việc làm.
Tình yêu đối với Thiên Chúa được bày tỏ qua việc tuân giữ điều răn của Người. Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse không buộc phải giữ luật Môse dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa. Nhưng các ngài đã khiêm nhường và vâng lời tuân giữ để tỏ lòng hiếu thảo với Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu đến không phải để bãi bỏ lề luật nhưng để kiện toàn. Người Do thái tuân thủ lề luật vì sợ hãi, nên giữ luật cặn kẽ với tinh thần nô lệ. Chúa Giêsu đã kiện toàn lề luật bằng cách tuân giữ lề luật vì lòng yêu mến đối với Đức Chúa Cha, giữ trọn vẹn trong tinh thần tự do của người con hiếu thảo. Đó là tình yêu tuyệt hảo vì được minh chứng bằng hành động. Đó là cách giữ luật tuyệt hảo vì được thực thi với tình yêu.
Tình yêu đối với tha nhân được bày tỏ qua việc tuân giữ điều răn mới của: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chúa Giêsu đến chiếu lên làn ánh sáng mới chan hòa yêu thương soi đường cho nhân loại. Từ nay sáng tối phân minh, thiện ác tách bạch. Ai ghen ghét vẫn còn bị giam cầm trong bóng tối sự chết. Ai yêu thương sẽ được hưởng ánh sáng ban sự sống. Ai ghen ghét sẽ bị bóng tối phủ lấp, không thấy đường đi và vĩnh viễn bị lầm lạc. Ai yêu thương sẽ được ánh sáng soi dẫn, sẽ “ở lại trong Chúa Giêsu, đi trên con đường của Chúa Giêsu”, “là con đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống”.
Tình yêu chính là con đường sáng. Con đường dẫn đến sự thật và sự sống. Chúa Giê-su chính là đường đi. Ta hãy đi theo Người. Đi trong tình yêu. Ta sẽ góp phần chiếu ánh sáng vào thế giới. Ánh sáng ban sự sống. Ánh sáng ban hoà bình.
Lạy Chúa Giêsu Bé Thơ, con chiêm ngưỡng hình ảnh đẹp đẽ của Chúa được dâng trong Đền Thờ. Xin cho con được noi gương Chúa có lòng hiếu thảo yêu mến Đức Chúa Cha, vui vẻ tự nguyện giữ trọn vẹn luật Chúa. Xin cho con biết yêu mến anh em thật lòng, để không còn một bóng tối nào che phủ tâm hồn con, để con hoàn toàn sống trong ánh sáng tình yêu của Chúa.
Suy Niệm 3: Dâng Chúa vào Đền thờ
Một đêm khuya nọ, tại một vùng quê hẻo lánh bên Anh quốc, một cậu bé đang hấp hối và người mẹ goá phải đi bộ cả chục cây số để tìm bác sĩ. Nhìn dáng vẻ quê mùa nghèo nàn của người đàn bà, ông bác sĩ không tỏ ra mấy sốt sắng: có nên mất giờ cho thằng bé đó không? Lại nữa nếu cứu sống nó thì lớn lên nó cũng tiếp tục kiếp nông dân cùng khổ như cha ông nó mà thôi. Ông bác sĩ định từ chối. Thế nhưng bị lương tâm nghề nghiệp cắn rứt, cuối cùng ông đã đến chữa bệnh cho đứa bé. Sau này đứa bé đó đã trở thành một trong những nhà chính trị lỗi lạc nhất của nước Anh.
Người Mỹ thường nói: “Mỗi đứa trẻ sinh ra đều có thể là một tổng thống tương lai của Hoa Kỳ”. Quả thực mỗi đứa trẻ sinh ra đều mang lại hy vọng cho người lớn. Với cái nhìn đức tin thì niềm hy vọng ấy lại càng lớn lao hơn. Đó là cái nhìn của cụ già Simêon về Hài Nhi Giêsu. Nơi Hài nhi Giêsu, cụ đã nhận ra ánh sáng soi đường cho dân ngoại, vinh quang của Israel Dân Chúa. Thế nhưng ánh sáng và vinh quang ấy được tỏ lộ xuyên qua tăm tối của Thập giá và khổ đau.
Đó cũng là cái nhìn chúng ta phải có khi chiêm ngắm Hài nhi trong máng cỏ. Trong Hài nhi bé nhỏ, chúng ta nhìn thấy Đấng cứu độ trần gian; trong cảnh nghèo hèn tăm tối của máng cỏ, chúng ta nhận ra hào quang sáng chói của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Xuyên qua cái bé nhỏ tâm thường nhận ra những giá trị siêu việt, xuyên qua tăm tối của thất bại khổ đau nhận ra ánh sáng hy vọng, đó là cái nhìn đích thực của niềm tin. Chúng ta cũng cần có cái nhìn như thế trong cách giao tiếp với tha nhân: nơi những con người nghèo hèn thấp kém trong xã hội, chúng ta luôn được mời gọi nhận ra hình ảnh Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của nhân vị. Chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào cuộc sống hằng ngày với cái nhìn ấy: từng phút giây của cuộc sống độc điệu âm thầm mỗi ngày đều là hạt giống của sự sống vĩnh cửu; thất bại mất mát, khổ đau cũng là khởi đầu của những ân phúc dồi dào mà Thiên Chúa luôn có thể ban tặng con người.
Nguyện xin Hài nhi Giêsu củng cố chúng ta trong niềm tin ấy. Nguyện xin Đức Maria, người mà một lưỡi gươm sẽ đâm thấu qua tâm hồn nhưng vẫn luôn tin tưởng cậy trông, phù trợ chúng ta trong cuộc lữ hành đầy gian nan thử thách này.
Suy Niệm 4: Hạnh phúc cho người được gặp Chúa
Ngày nay, những gia đình Công Giáo thường mang con mình đến nhà thờ xin cho bé được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, để gia nhập Giáo Hội, tham dự vào đoàn dân những người tin Chúa.
Khi xưa, thời Đức Giêsu cũng vậy, khi được tám ngày, cha mẹ Ngài bồng Hài Nhi Giêsu đến đền thờ để dâng cho Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Thiên Chúa tối cao. Tuy nhiên, trong ngày trọng đại này, chúng ta không thấy có những người sang giàu, quyền chức, nhưng chỉ có những người bé mọn hiện diện! Kinh Thánh cho hay, những người đón chào và diễm phúc được gặp Đức Giêsu trong ngày này không ai khác ngoài ông Simêon và bà Anna. Họ là những người bình thường, đơn sơ, nghèo khó ... là những người nghèo của Giavê, nhưng tâm hồn thánh thoát, nên đã được gặp Chúa của bình an.
Mặt khác, chúng ta còn nhận thấy nơi Đức Maria và thánh Giuse một tấm gương khiêm tốn, trung thành với luật. Thật vậy, các ngài thừa biết được Hài Nhi Giêsu này là Con Thiên Chúa, và các ngài đang được đặc ân lớn lao là chăm sóc Đấng Cứu Độ trần gian. Như vậy, xét theo lẽ thường, các ngài có quyền từ trối việc giữ luật này, bởi vì Đức Giêsu chính là trọng tâm của luật. Nhưng không, các ngài đã khiêm tốn, tuân hành lề luật của Thiên Chúa cách yêu mến, không tìm đặc lợi cho mình chỉ vì có uy thế ...
Ngày nay, nhiều người hay nhân danh chức quyền, công trạng hay giàu có để xin miễn chuẩn cho mình những việc bổn phận với Giáo Hội, xã hội ... Tuy nhiên, khi làm như thế, chúng ta quên mất một điều là phần thưởng mai hậu của chúng ta đã bị đóng lại, vì hẳn nhiên chúng ta đã được nguồn lợi rồi! Tệ hơn nữa là khi chúng ta muốn được miễn chuẩn việc bổn phận mà không được đáp ứng, nhiều người đã có những lời lẽ tiêu cực, chỉ trích trong sự kiêu ngạo ... và như thế, những sự quảng đại chia sẻ cách này hay cách khác trước đó của chúng ta đã đứng lên tố cáo và như bản án vạch trần hình thức vụ lợi, thực dụng của chúng ta thuần túy chứ không phải vì lòng yêu mến Chúa!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: trước tiên, nhìn vào Đức Mẹ và thánh Giuse, không tìm những đặc ân miễn chuẩn cho mình, nhưng các ngài đã thi hành, chu toàn bổn phận cách yêu mến. Thứ đến, noi gương ông Simêon và bà Anna, sống khiêm tốn, chân thành, đơn sơ để được Thiên Chúa mặc khải những điều kín nhiệm.
Cuối cùng, khi được diễm phúc gặp Chúa, chúng ta hãy có tâm tình tạ ơn, chúc tụng Thiên Chúa như những người nghèo của Thiên Chúa trong đền thờ khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương Mẹ Maria và thánh Giuse trong việc yêu mến và tuân giữ luật Chúa. Xin cho đời sống của cụ già Simêon và Anna là nguồn gợi hứng cho chúng con trong việc thờ phượng Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Cụ già Simêon gặp Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Cụ già Si-mê-on khao khát được gặp Đấng Cứu Thế. Được ôm Chúa Giêsu vào lòng, cụ cảm thấy mãn nguyện và sẵn sàng ra đi về với Thiên Chúa. Hạnh phúc cao cả nhất của đời người là được gặp Chúa và đón nhận Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cụ già Si-mê-on đã đi gần trọn một cuộc đời, từng trải qua những vui buồn sướng khổ, từng tận hưởng hân hoan hạnh phúc. Nhưng cuộc sống đời này dù có hấp dẫn đến đâu cũng không làm cho cụ được thỏa mãn. Cụ vẫn cảm thấy thiếu, chỉ biết trông đợi Chúa là niềm an ủi duy nhất của đời cụ. Còn gì sung sướng hơn là được gặp Chúa, còn gì hạnh phúc hơn là được bồng ẵm Chúa trên tay. Bấy nhiêu dù chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi, cũng đủ làm cho cụ mãn nguyện hơn cả một đời người đã đi qua. Cụ sẵn sàng ra đi trong bình an, không còn điều gì để luyến tiếc.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa cho con hạnh phúc hơn cụ Si-mê-on rất nhiều. Hằng ngày Chúa cho con được gặp Chúa trong niềm tin, được ôm Chúa vào lòng qua bí tích Thánh Thể, Chúa đồng hành với con mọi nơi mọi lúc. Xin Chúa giúp con cảm nhận hồng ân cao cả này. Cuộc đời này nhiều cám dỗ mời mọc, lắm thứ lôi cuốn hấp dẫn, nhưng lạy Chúa, đó chỉ là những niềm vui giả tạo, những hạnh phúc chóng qua. Tất cả chỉ để lại trong con một sự chán ngấy và càng khơi sâu niềm khát vọng trong con. Chỉ có Chúa mới là niềm hạnh phúc chân thật và lẽ sống của con. Xin Chúa đừng để con lạc đường.
Hôm nay con cầu xin cho những người lớn tuổi, xin Chúa cho các cụ được mãn nguyện trong niềm vui gặp Chúa, được sống tuổi già hạnh phúc và về với Chúa trong bình an. Amen.
Ghi nhớ: ”Ánh sáng đã chiếu soi các lương dân”.
Suy Niệm 6: Dâng con trong Đền thờ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đến ngày theo luật định, thánh Giuse và Đức Maria bồng Chúa Hài Nhi đến đền thờ Giêrusalem để dâng cho Đức Chúa Cha. Ở đó có ông Simêon là người công chính. Ông được Chúa Thánh Thần soi sáng nên nhận biết Chúa Giêsu và cất tiếng khen ngợi Chúa, vì Chúa đã thương cho Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc dân Người; đồng thời ông cũng cho Đức Maria biết: Mẹ phải chịu nhiều đau khổ vì Chúa Hài Nhi.
Mẹ Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài Nhi trong đền thánh để tuân giữ luật thời đó. Và việc dâng hiến này báo trước Chúa Giêsu tự dâng hiến đời Người chịu chết trên khổ giá để cứu độ loài người.
2. Đức Giêsu là “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7), theo luật Maisen: “Mọi con trai đầu lòng phải được dâng hiến lên Thiên Chúa”, như chúng ta đọc thấy trong Cựu ước: “Đức Chúa phán với Maisen: “Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”(Xh 13,1-2). Vì thế, Đức Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Hài nhi Giêsu cho Thiên Chúa trong Đền thờ.
Từ nay cuộc đời Hài Nhi hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Ngài đã được dâng và cũng tự hiến dâng, để Thiên Chúa toàn quyền xử dụng trên Ngài trong sứ mạng nhập thể cứu độ: Dâng trọn vẹn trên đỉnh cao Thập Tự.
Người Kitô hữu được dâng cho Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội để trở thành con cái Thiên Chúa. Là Kitô hữu, chúng ta ý thức được diễm phúc làm con Thiên Chúa để cảm tạ bằng cách thờ phượng Thiên Chúa hết mình, và sống xứng đáng với phẩm giá đó bằng cách thánh hóa bản thân mỗi ngày.
3. Chúng ta nhận thấy: hai ông bà đang được diễm phúc làm mẹ Thiên Chúa và làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng không tìm đặc ân riêng cho mình, vẫn khiêm nhường tuân giữ lề luật: thanh tẩy và dâng con vào Đền thờ. Noi gương hai Đấng: người Kitô hữu không nên tìm đặc ân gì để miễn chước cho mình những bổn phận đối với xã hội, cộng đoàn, gia đình và tha nhân, nhưng phải khiêm nhường đơn sơ và nhiệt tình tuân giữ mọi lề luật chính đáng.
Đối với các bậc cha mẹ Kitô hữu, con cái là quà tặng của Thiên Chúa. Để bầy tỏ lòng trân trọng quà tặng quí báu đó, các bậc cha mẹ tiến dâng con cái của mình cho Thiên Chúa. Tiến dâng bằng cách nuôi dạy con cái theo ý Chúa; giúp con cái đón nhận và nuôi dưỡng đức tin, giúp con cái hướng tình yêu về Thiên Chúa.
4. Cụ già Simêon nói với Đức Maria: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng” (Lc 2,34).
Cụ Simêon trong tư cách là tiên tri tiên báo rằng con trẻ sẽ trở nên dấu cho người ta chống đối. Lời tiên tri được ngỏ cho Đức Maria để nói về sứ mạng cứu độ của Hài Nhi trong tương lai và sự mật thiết hiệp nhất trong công cuộc cứu độ của người con trong vai trò cộng tác: “Phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Lc 2,35). Maria không hiểu lời cụ Simêon mang ý nghĩa gì, nhưng khắc ghi nghiền ngẫm trong lòng và xin Thiên Chúa ban cho được thêm can đảm, Maria cũng chịu đau khổ thương khó như Con Mẹ, nhất là tại Núi Sọ hiến tế con Mẹ trên Thập giá.
Đức Giêsu cũng đã đến để yêu thương, cứu giúp mọi người. Ngài vốn là Thiên Chúa cao sang nhưng đã trở nên thấp hèn để nâng đỡ con người lên. Nhưng cuối cùng Ngài đã bị con người đóng đinh thập giá, bỏ mặc trong cái chết đau đớn và tủi nhục.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta theo gương Mẹ tiếp bước theo Chúa trên con đường yêu thương, dẫu có bị người đời chống báng hay từ chối.
5. Truyện: Lời cầu xin tốt đẹp.
Có người coi như mình bị thất bại, vì Chúa không nhận lời cầu xin của mình. Có vẻ nản lòng. Nhưng một ngày kia, đang khi cầu nguyện Chúa soi sáng cho người ấy hãy vững tin và đặt tất cả niềm tin phó thác vào Chúa. Họ đã sáng tác được lời cầu nguyện sau đây:
Lạy Chúa, con cầu xin ơn mạnh mẽ để thành đạt, thì Chúa làm cho con ra yếu ớt để biết vâng lời, khiêm hạ.
Con cầu xin có sức khỏe để thực hiện những công trình lớn lao, thì Chúa lại bắt con bị tàn tật và chỉ làm được những việc tốt nho nhỏ.
Con cầu xin được giầu sang để sống một cuộc đời sung sướng, thì Chúa lại bắt con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.
Con cầu xin có được uy quyền để mọi người phải kính nể, thì Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần đến Chúa.
Con cầu xin cho có được tất cả để tận hưởng cuộc đời, thì Chúa lại cho con cả một cuộc đời để được hưởng mọi sự.
Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn, nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin, thì Chúa lại đã ban cho con thật dư đầy từ lâu.
Lạy Chúa, hóa ra con lại là người có phúc hơn hết trên đời này. Bởi con đã nhận được ơn phúc Chúa vô vàn.
Suy Niệm 7: Cụ già Simêon chúc tụng Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
Phân tích
Đoạn Kinh Thánh này gồm 2 phần:
Phần thứ nhất nói về nghi lễ thanh tẩy và phần thứ hai là lời tiên tri của ông Simêon.
1. Thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu lên Đền thờ Giêrusalem để chu toàn 2 bổn phận của lề luật: Thanh tẩy cho Đức Maria sau khi sinh con; dâng Chúa Giêsu là con trai đầu lòng cho Thiên Chúa. Câu chuyện cho thấy các Ngài tuân giữ lề luật rất chu đáo; đồng thời những lễ vật các Ngài dâng chứng tỏ các Ngài thuộc gia đình nghèo khó.
2. Trong dịp này Thánh Gia đã gặp được cụ Simêon. Cụ được Thánh Thần soi sáng cho biết trẻ Giêsu chính là Đấng Messia, cho nên toại nguyện vì gặp được Ngài. Lời tiên tri của Simêon gồm 2 phần:
a. Phần đầu nói về Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu Thế. Lời tiên tri của cụ già Simêon khiến Đức Maria và Thánh Giuse ngỡ ngàng và kinh ngạc. Như thế, Mẹ Maria dần dần đi vào toàn thể mầu nhiệm cứu chuôc.
b. Phần thứ hai cụ già Simêon đặc biệt nói với Mẹ Maria, mẹ của Hài Nhi, vì số phận của mẹ và con liên kết mật thiết đặc biệt. Lời tiên tri cho Mẹ biết trước: Con Mẹ là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế nhưng không được mọi người tin nhận. Do đó, Hài Nhi là dấu hiệu mâu thuẫn, là đá vấp ngã (Is 8,14). Con Mẹ sẽ phải khổ nhục do sự mâu thuẫn đó.
Suy gẫm
1. Tiến dâng Chúa Giêsu cho Chúa Cha
- Nghi lễ dâng con trai đầu lòng có mục đích nhắc lại rằng, mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Ngôi Hai nhập thể muốn chứng tỏ mình là Con của Chúa Cha.
Mỗi Kitô hữu được thuộc về Thiên Chúa, trở thành con Thiên Chúa qua Bí tích Rửa tội. Là Kitô hữu, chúng ta phải ý thức được diễm phúc làm con Thiên Chúa để cảm tạ bằng cách thờ phượng Thiên Chúa hết mình, và sống xứng đáng với phẩm giá đó bằng cách thánh hoá bản thân mỗi ngày.
- Việc dâng Đức Giêsu vào Đền thờ mang ý nghĩa: Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, lần đầu tiên đi vào nhà của Ngài, thế nhưng, không một ai thuộc giới lãnh đạo Giêrusalem, không một ai trong hàng tư tế, luật sĩ ra đón chào. Ngược lại, kẻ chào đón Vua của mình chỉ là ông Simêon, bà Anna, những kẻ thuộc nhóm “những người nghèo của Giavê”. Ngày diễm phúc vĩ đại đến với thành thánh, thì chỉ có hai con người thấp kém, tầm thường, bị quên lãng trước mặt xã hội được ơn nhận biết diễm phúc đó.
Chỉ những ai có tâm hồn đơn sơ nghèo khó, khiêm nhường và thanh thoát mới dễ đón nhận ơn soi sáng của Chúa để thực thi ý Ngài và nhận ra diễm phúc của mình.
2. Nhìn vào Đức Mẹ và Thánh Giuse
Hai ông bà được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa và làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng không tìm đặc ân riêng cho mình, vẫn khiêm nhường tuân giữ luật: thanh tẩy và dâng Con vào Đền thờ.
Noi gương hai Đấng, chúng ta không nên tìm đặc ân, miễn chước cho mình những bổn phận đối với xã hội, cộng đoàn, gia đình và tha nhân, nhưng phải khiêm nhường, đơn sơ và tuân giữ mọi lề luật cua.
3. Nhìn vào ông Simêon
Sau khi đã nhận ra Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu Thế, ông đã thốt lên bài ca chúc tụng:
- Tạ ơn Chúa đã cho ông trông thấy và bồng ẵm Đấng Cứu Thế trên tay;
- Tạ ơn Chúa đã sai Vị Cứu Tinh làm đèn soi cho thiên hạ và làm vinh danh cho nòi giống;
Sau đó, ông Simêon chúc phúc cho Hài Nhi và báo trước những đau khổ mà Người và Mẹ Người sẽ phải chịu.
Ông Simêon mới được nhìn thấy và ẵm Chúa vào lòng mà ông đã cảm nghiệm được diễm phúc lớn lao như vậy; huống chi chúng ta được rước Chúa vào lòng khi hiệp lễ thì diễm phúc biết mấy! Nhưng chúng ta có biết cảm tạ Chúa sau khi rước Chúa vào lòng Không?
4. Cha Mẹ Hài Nhi ngạc nhiên, không phải vì những lời ông Simêon nói về Con Trẻ, nhưng vì thấy Thiên Chúa cũng cho những người xa lạ biết về Con Trẻ như vậy.
Khi thấy người khác, kể cả những người xa lạ được những ơn lành, được thành công trong đời sống, trong nghề nghiệp… chúng ta phải có tấm lòng rộng rãi để nhận ra ơn Chúa ban cho họ và hiệp thông với họ để tạ ơn Thiên Chúa.
5. Việc Đức Mẹ đem Hài Nhi vào đền thờ để làm nghi lễ thanh tẩy nhắc nhở chúng ta rằng, Mẹ là loài thụ tạo tinh ròng nhất trong nhân loại thế mà Mẹ đã vâng lời, tuân theo luật thanh tẩy của Môsê. Đó là mẫu gương cho chúng ta, những con người đầy tội lỗi, chúng chúng ta hãy nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và nài xin Chúa thanh tẩy chúng ta.
6. Cụ già Simêon đã trông mong cả một đời mới được nhìn thấy Đấng Cứu Thế. Đó cũng là mẫu gương cậy trông và trung tín. Ai trung thành cậy trông như ông Simêon không bao giờ uổng công. Ông Simêon đã ẵm bế Hài Nhi, ẵm bế “Ánh Sáng muôn dân”, ẵm bế “vinh quang Israen”, là nắm chắc ơn cứu rỗi của mình. Ông Simêon biết chắc như thế nên ông thưa: “Lạy Chúa giờ đây xin cho tôi tớ Chúa ra đi bình an. ”
Ước gì vào giây phút cuối đời, mỗi người chúng ta cũng thưa được với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa ra đi bình an” như một bảo chứng của lòng trung thành, trông cậy vào Chúa.
Suy Niệm 8: Khao khát gặp Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Qua câu chuyện trên đây chúng ta thấy muốn gặp Chúa thì người ta phải có điều kiện nào. Phải nói điều kiện đầu tiên là phải có lòng khao khát.
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo, có một câu chuyện sau đây:
Một đệ tử đến thưa vị linh sư của mình:
- Thưa thầy, con muốn gặp Chúa.
Vị linh sư chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau người môn sinh trở lại và bày tỏ cùng một ước muốn. Vị linh sư cũng chỉ mỉm cười và tiếp tục giữ thinh lặng.
Rồi một ngày đẹp trời, ông dẫn người đệ tử đến dòng sông. Thầy trò cùng dầm xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát. Bất thần vị linh sư túm lấy cổ anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để ngóc đầu lên khỏi mặt nước.
Bấy giờ vị linh sư mới hỏi anh:
- Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?
Không chút suy nghĩ, người đệ tử đáp ngay:
- Thưa, con cần không khí để thở.
Lúc bấy giờ vị linh sư mới giải thích:
- Con có cảm thấy ước ao được gặp Chúa như vậy không? Nếu con khao khát Chúa như vậy con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không có ước muốn ấy, thì cho dù có vận dụng hết cả tài năng và sức lực, con cũng sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài.
Cả cuộc đời cụ Simêon chỉ mong ước khao khát có một điều: Được gặp Chúa. Đây là một khát vọng rất lớn và hôm nay thì cụ đã được mãn nguyện. Chúng ta thấy cụ sung sướng đến mức độ như thế nào! Sung sướng đến mức độ không còn tha thiết gì với cuộc sống trên đời nữa. Lý do, bởi vì cụ đã được thấy Đấng Cứu Thế và biết rằng, thời đại Cứu Thế đã khai mở.
"Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Israel dân Ngài. " (Lc 2,29-32)
2. “Ông Simêon nói với bà Maria: ”Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. ” (Lc 2,34)
Như vậy theo lời tiên tri của cụ già Simêon, thì Đức Giêsu sẽ là một dấu gây chia rẽ: kẻ thì theo, người thì chống đối; kẻ theo thì đứng lên, người chống thì té ngã. Cụ đã nói rất đúng. Ngay trong chính bản thân tôi, có khi tôi theo Chúa nhưng cũng có khi tôi không muốn theo Ngài. Lý do rất dễ hiểu bởi vì không phải lúc nào Chúa cũng làm thỏa mãn mọi ước nguyện của tôi. Nhưng kinh nghiệm dạy cho tôi rằng: Khi biết đi theo Chúa tôi sẽ vững bước trên đường đời. Ngược lại, khi không cùng đi với Chúa, cuộc đời tôi sẽ bơ vơ và rất dễ vấp ngã.
Đây là một bằng chứng:
Roy Cam Parisella, bị bại liệt phải ngồi xe lăn. Hằng ngày cô vẫn phải đến Trung Tâm Vật Lý Trị Liệu vốn là một cơ sở tôn giáo để được chăm sóc. Lần nào cô cũng thấy có một số người thường dừng lại trước một tấm bảng đồng được gắn ở tường ngay trong phòng tiếp nhận bệnh nhân. Một buổi chiều kia, cô cũng dừng xe lăn, tò mò nhìn lên và thấy cả một bài cầu nguyện được khắc ở trên tấm bảng đó. Cô đọc một cách hết sức chậm rãi. Bỗng cô cảm thấy một niềm phấn khởi trào dâng lên từ tận đáy tâm hồn bấy lâu nay đã tuyệt vọng vì âu sầu tủi nhục của cô.
Đây là lời cầu nguyện ấy:
Lạy Chúa,
Con cầu xin ơn mạnh mẽ để thành đạt trong cuộc đời,
thì Chúa lại làm cho con ra yếu ớt để biết vâng lời khiêm hạ,
Con cầu xin có sức khỏe để mong thực hiện những công trình lớn lao,
thì Chúa lại bắt con chịu tàn tật và chỉ làm được những việc tốt lành nho nhỏ.
Con cầu xin được giàu sang để sống một cuộc đời sung sướng thoải mái,
thì Chúa lại bắt con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.
Con cầu xin được có uy quyền để mọi người phải kính nể ca ngợi con,
thì Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần đến Chúa.
Con cầu xin cho có được tất cả để tận hưởng cuộc đời,
thì Chúa lại cho con cả một cuộc đời để được hưởng mọi sự.
Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn.
Nếu chỉ dừng lại ở đây thì quả cuộc đời là một bế tắc, nhưng Parisella đã biết nhìn xa hơn khi cô đọc thêm những lời cầu nguyện ở cuối bài. Những lời đó như thế này:
Nhưng những điều con đáng phải mơ ước
mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin;
thì Chúa lại đã ban cho con thật dư đầy từ lâu.
Lạy Chúa,
Hóa ra, con lại là người có phúc hơn hết trên đời này.
Bởi con đã nhận được ơn phúc Chúa vô vàn.
(PARADOXES OF PRAYERS)
28/12 Hài Nhi chết vì Chúa
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Hài Nhi chết vì Chúa.
Thứ Năm – Ngày thứ tư tuần Bát Nhật Giáng Sinh – THÁNH ANH HÀI. Lễ kính.
"Hêrôđê giết hết các con trẻ ở Bêlem".
LỜI CHÚA: Mt 2, 13-18
Khi các đạo sĩ ra đi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrođê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người". Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrođê băng hà, hầu làm trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập".
Bấy giờ Hêrođê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Khóc thương con mình
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh, một thời gian rất vui,
chúng ta cũng nhớ đến cái chết của các Thánh Anh Hài.
Không rõ đã có bao nhiêu trẻ thơ bị giết bởi vua Hêrôđê Cả.
Vị vua này điên cuồng bảo vệ ngôi báu nên đã giết nhiều người,
trong số đó có người vợ Do Thái và ba con trai của ông.
Đối với ông, việc sát hại trẻ thơ ở Belem chỉ là chuyện nhỏ.
Trước khi giết các bé trai ở Belem, vua đã muốn giết Hài Nhi Giêsu.
Nhưng Thiên Chúa có cách bảo vệ cho Con của Ngài.
Giuse vẫn là người đứng mũi chịu sào trong cơn nguy khó.
Sứ thần báo mộng cho ông, để ông đưa Hài Nhi và Mẹ trốn qua Ai Cập.
Khi được báo, ông đã trỗi dậy giữa đêm khuya và lên đường.
Cuộc trốn chạy vội vã trong đêm với những lo sợ, thiếu thốn, vất vả.
Ngay từ khi chào đời, Đức Giêsu đã bị đe dọa, phải sống xa quê nhà.
Đấng đem đến ơn cứu độ lại cần được cứu.
Đau khổ và thập giá đã có mặt ngay từ khi Vầng Dương ló rạng.
Biết Hài Nhi Giêsu đã trốn thoát, vua Hêrôđê nổi cơn thịnh nộ,
vì thấy mình bị mắc lừa bởi các nhà Đạo sĩ.
Ông bực tức ra lệnh giết các bé trai dưới hai tuổi ở Belem.
Tiếng khóc của trẻ thơ và của các bà mẹ vang lên như oán than.
Có ai còn nghe tiếng hát cao vút của các thiên thần?
Cái chết của Các Thánh Anh Hài là cái chết đặc biệt,
cái chết của những nạn nhân bé bỏng, vô tội, chưa có ý thức và tự do.
Cái chết của những người chưa biết nói, chưa có lòng tin vào Giêsu.
Nhưng đây là cái chết vì Đức Giêsu, nên thực sự là cái chết tử đạo.
Có bao nhiêu cái chết như thế trên thế giới mỗi ngày.
Cái chết không tự nguyện, không tiếng nói phản kháng.
Cái chết làm bằng chứng về một giá trị quan trọng bị chối bỏ.
Cái chết ấy có thể đưa người ta về với Giêsu.
Thế giới hôm nay vẫn có bao trẻ thơ chết vì bị giết.
Có những trẻ thơ chết trong lòng mẹ,
chết vì nghèo đói, vì chiến tranh, vì bệnh tật.
Có những trẻ em phải nghỉ học để đi làm, bị bóc lột bởi chủ nhân.
Có những em bị lạm dụng, bị bỏ rơi, tuổi thơ bị cướp mất.
Nơi những em này, ta thấy hình bóng của Các Thánh Anh Hài,
và thấy cả khuôn mặt của Hài Nhi Giêsu ngây thơ.
Xúc phạm đến trẻ thơ là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Thánh Giuse và Mẹ Maria đã bảo vệ Hài Nhi Giêsu an toàn tại Ai Cập.
Ai sẽ bảo vệ những trẻ em hôm nay khỏi bao tấn công của cái xấu?
Ai sẽ làm gương sáng để các em còn hy vọng?
Vẫn có những tiếng khóc của các bà mẹ, vì con bị giựt khỏi tay mình.
Lễ Giáng Sinh và lễ các Thánh Anh Hài là lễ của trẻ thơ.
Chăm sóc cho trẻ thơ hiện tại là cách xây dựng tốt nhất cho tương lai.
Xin Chúa cho chúng ta dám làm một điều gì đó cho các em.
Cầu nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay
của từng người chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Đi trong ánh sáng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thánh Gio-an đưa ra một cách nói khác của Thiên Chúa là tình yêu. Đó là định nghĩa: “Thiên Chúa là ánh sáng”. Con Chúa giáng trần chiếu ánh sáng vào trần gian. Từ đó có cuộc chiến khốc liệt giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng yêu thương rực rỡ đem lại an bình. Đem lại hiệp thông. Nhưng bóng tối là thù hận ghen ghét. Là chia rẽ bất hoà. Là gian tham độc ác. Là đàn áp bất công. Khi ánh sáng đến bóng tối run sợ. Sợ vì bóng tối bị phá tan. Sợ vì những ám muội bị phơi trần.
Hê-rô-đê tượng trưng cho bóng tối. Ham hố quyền lực. Tìm đủ cách để có quyền lực. Có quyền lực rồi tìm mọi cách để bảo vệ ngai vàng. Ông hoàn toàn thuộc về bóng tối. Bóng tối thống trị ông. Đời ông chìm ngập trong bóng tối. Không còn lương tri. Không có trái tim. Nói dối để gài bẫy ba nhà đạo sĩ. Giết hàng loạt trẻ em vô tội. Bóng tối tàn ác hiểm độc. Và nhất thời ta tưởng như bóng tối đã che lấp được ánh sáng. Hận thù tràn ngập thế giới.
Ánh sáng ban đầu quá yếu ớt. Như Chúa Giê-su “sơ sinh bọc tã, nằm trên máng cỏ”. Như các trẻ em bị giết chết oan ức. Như các bà mẹ chỉ biết khóc tức tưởi. Như dân làng chỉ biết nhẫn nhục chịu đựng. Nhưng ánh sáng càng lúc càng sáng lên mạnh mẽ. Sáng lên trong lương tri để nhận biết đâu là lẽ phải. Sáng lên trong trái tim để biết tình yêu là lẽ sống. Với thời gian những cái chết vô tội trở thành lời buộc tội cường quyền. Những tiếng khóc tức tưởi trở thành bản án cho lương tâm. Những nhẫn nhục âm thầm trở thành lực lượng tái thiết thế giới.
Các thánh Anh Hài không hiểu vì sao mình bị giết. Nhưng giờ đây chúng ta hiểu. Các ngài bị giết vì liên hệ với Chúa Giê-su. Bị giết vì Chúa. Các ngài được hiệp thông với Chúa. Các ngài đi trong ánh sáng. Trở thành lực lượng xây dựng thế giới. Thức tỉnh lương tri. Rung động trái tim. Khơi nguồn hiệp thông.
Ba Vua đã theo đường khác mà về. Không đi về đường của Hê-rô-đê. Gặp Chúa rồi các ngài giã từ con đường đi vào bóng tối. Để đi vào con đường ánh sáng.
Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối còn kéo dài và khốc liệt. Chúng ta cần sức mạnh của Chúa để có thể đi vào con đường ánh sáng. Để chiếu lên ánh sáng. Để yêu thương và sự sống tràn ngập địa cầu.
Suy Niệm 3: Lễ Kính Các Thánh Anh Hài
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
"Dù một chấm một phẩy trong Kinh Thánh
cũng không bỏ qua cho đến khi tất cả được nên trọn".
Không cần phải đưa Hài Nhi ra khỏi Ai Cập, chỉ cần đi xa vài làng mạc thành phố thôi cũng đủ để thoát khỏi bàn tay sát hại của Hêrôđê, hoặc có thể khiến cho ba đạo sĩ không đi ngang qua lối ấy để vua Hêrôđê không biết. Thế nhưng để ứng nghiệm lời tiên tri như đã chép mà Chúa đã làm như vậy. Từ đó chúng ta nhớ lại đoạn Phúc Âm Chúa Giêsu đã nói: "Ai tuân giữ và dạy người khác thực hành những điều nhỏ mọn nhất trong luật Chúa thì sẽ là kẻ lớn nhất trong Nước Trời".
Chúng ta đừng hiểu theo nghĩa đen như những người biệt phái và luật sĩ ngày xưa, nhưng phải đem tinh thần của lề luật vượt lên trên hết tất cả mọi điều luật. Ðó là tình yêu khoan dung bao la tha thứ của Thiên Chúa đối với những người ăn năn hối cải quay trở về với người Cha nhân từ.
Hôm nay lễ kính các thánh Anh Hài Tử Ðạo, chúng ta nói qua về vấn đề có tội và vô tội. "Nhân vô thập toàn", không ai là hoàn toàn cả: "Tinh thần thì hăng hái, xác thịt thì nặng nề". Nhóm người cổ Hy Lạp ngày xưa cùng thời với Platon, Aristote cho thân xác là tù ngục của linh hồn là thế. Cho nên nếu chúng ta nói: "Tôi là người vô tội" thì coi chừng tôi đang lừa dối tôi đấy. Thánh Phaolô đã cảnh tỉnh chúng ta: "Khi anh em tin rằng, anh em mạnh mẽ đứng vững, anh em hãy coi chừng kẻo ngã đấy".
Trong bài Thánh Thư hôm nay, thánh Gioan Tông Ðồ có viết thêm: "Nếu chúng tôi nói rằng chúng tôi không phạm tội thì chúng tôi là kẻ kêu Ðức Giêsu Kitô là kẻ nói dối và lời của Ngài không có ở trong chúng tôi". Vì sao? Vì Ðức Kitô đến để chuộc tội cho nhân loại tội lỗi, trong đó có mỗi người trong chúng ta. Thánh Gioan còn nói rõ hơn nữa: "Chính Ðức Kitô là của lễ đền tội chúng ta, không nguyên đền tội chúng ta mà thôi nhưng còn đền tội cho cả thế gian nữa". Như thế không ai trong chúng ta là kẻ vô tội.
Lúc mới sinh ra, con người đã mang lấy tội Tổ Tông ngoại trừ Ðức Kitô là Thiên Chúa làm người, ngoại trừ Mẹ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, và như Gioan Tẩy Giả được Mẹ Maria mang Chúa đến viếng thăm, dù đang ở trong bụng mẹ cũng đã nhảy mừng và thoát khỏi tội Tổ Tông, còn tất cả chúng ta đều mắc tội Tổ Tông.
Khi lớn lên tới tuổi khôn là tuổi nhận biết, phân biệt được hành vi việc làm của mình, Giáo Hội xác định là bảy tuổi, tức là chúng ta bắt đầu tới tuổi khôn, bắt đầu thêm tội mình nữa. Có một thánh nhân đã thú nhận: "Trong một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ, không khỏi có năm phút sai lỗi". Tội nặng hay nhẹ tùy hai yếu tố quan trọng sau đây:
1. Lý do bởi luật buộc là nặng.
2. Do sự chú ý cố tình sai phạm khi biết đó là tội trọng.
Vậy phạm một tội trọng cũng không phải là chuyện dễ, vì phải gồm có hai yếu tố trên.
Con người tuy mang lấy bản tính yếu đuối hay sa ngã, chán nản, mỏng dòn nhưng con người được Thiên Chúa biết và thông cảm cho. Nếu trong một ngày, người anh em con phạm tội đến con và nói với con rằng: "Tôi hối hận" thì con cũng phải tha thứ cho anh em con bảy lần không?" Chúa Giêsu trả lời: "Thầy không bảo con phải tha bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha thứ luôn luôn".
Vì nếu chúng ta tính được tới bảy mươi lần bảy thì chúng ta đã trở thành máy móc, trở thành thói quen quán tính tha tội cho người anh em của mình mãi. Chúa đã dạy chúng ta như thế, phương chi lòng Chúa càng phải bao dung tha thứ biết bao nhiêu lần. Tội hay vô tội, vấn đề đó không quan trọng, quan trọng của vấn đề là có lòng thống hối ăn năn hay không? Ðược tha nhiều sẽ mến Chúa nhiều hơn, như Maria Madalena trong Phúc Âm đã xức dầu thơm chân Chúa, như Phanxicô Xaviê, Augustinô chẳng hạn. Từ đó, con người đam mê trong trụy lạc thời còn trai trẻ được Thiên Chúa cho giác ngộ để dấn thân theo tiếng Chúa gọi và trở nên những vị thánh nổi tiếng lừng danh trong Giáo Hội.
Lạy Chúa, trong ngày lễ kính các Thánh Anh Hài hôm nay, xin cho mỗi người chúng con ý thức được vấn đề tội lỗi và tình thương của Chúa để chúng con sống đẹp lòng Chúa hơn trong giây phút hiện tại. Amen.
Suy Niệm 4: Tàn sát các hài nhi
Lễ Giáng sinh trước tiên là lễ của Nhi đồng. Như Đức Gioan Phaolô II đã viết trong thư gửi các thiếu nhi trên thế giới nhân năm quốc tế gia đình: “Những gì đã xảy ra cho Hài nhi Giêsu ở Belem cũng xảy ra cho các trẻ em trên khắp thế giới. Có biết bao trẻ em đang là nạn nhân của đói khổ, của chiến tranh, đang bị cha mẹ bỏ rơi, đang sống cảnh màn trời chiếu đất, đang đau khổ vì biết bao hình thức bạo động và gây hấn của người lớn”.
Để có một vài con số cụ thể, chúng ta chỉ cần lắng nghe báo cáo của tổ chức Nhi đồng quốc tế (UNICEF) về tình trạng trẻ em trên thế giới năm 1995 như sau: “Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 đang có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì chiến tranh, từ 4 đến 5 triệu tật nguyền, hơn 5 triệu sống trong các trại tị nạn, trên 12 triệu sống cảnh không nhà không cửa”. Bản báo cáo ước tính cần phải có ít nhất 34 tỉ Mỹ kim mới có thể đảm bảo các nhu cầu về dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục cho các trẻ em trên khắp thế giới.
Vài con số trên đây đặt chúng ta trước một trong những thảm trạng của thời đại, đó là sự chà đạp hay chối bỏ quyền của trẻ em. Qui ước của Liên hiệp quốc về quyền của trẻ em đã được 167 quốc gia ký tên chuẩn nhận, thế nhưng trong thực tế bao khốn khổ mà trẻ em tại những nước nghèo đang trải qua lại là một chối bỏ quyền của trẻ em. Thảm trạng đã xảy ra cho trẻ em Do thái thời Chúa Giêsu sinh ra, ngày nay cũng đang tiếp diễn trên khắp thế giới. Vấn đề trẻ em là một vấn đề chiến lược của thế giới, vấn đề trẻ em là vấn đè chính sách của quốc gia, những nhà lãnh đạo thế giới và những nhà cầm quyền trong một quốc gia phải chịu trách nhiệm trước nhân loại và dân tộc mình về thảm trạng của các thiếu nhi.
Tuy nhiên, chính những người Kitô hữu cũng cần phải ý thức rằng với tư cách là cha mẹ, là anh chị, là người thân trong gia đình, tất cả chúng ta đều là những người trước tiên có trách nhiệm đối với con em chúng ta. Thánh Giuse và Đức Maria đã lặn lội đưa Hài nhi trốn sang Ai cập, đó là điển hình của những bậc cha mẹ có trách nhiệm đối với sự sống còn của con cái. Sống cho con cái, giáo dục chúng nên người, đó là trách nhiệm hàng đầu của bậc cha mẹ.
Nguyện xin Hài nhi Giêsu mà chúng ta chiêm ngắm trong máng cỏ soi sáng hướng dẫn chúng ta trong trọng trách dưỡng dục con cái. Xin Ngài đánh động chúng ta trước thảm cảnh của biết bao trẻ em đang lâm cảnh khốn khổ chung quanh chúng ta và ban cho chúng ta tấm lòng quảng đại để góp phần xoa dịu thương đau của dân tộc mà chính các thiếu nhi phải gánh chịu.
Suy Niệm 5: Quyền trẻ em có còn được tôn trọng?
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Đây là quy luật mà ai cũng phải biết.
Tuy nhiên, có một sự thật đau buồn về tình trạng cuộc sống của các trẻ em hiện nay: theo thống kê của các tổ chức quốc tế, ngày nay có hàng triệu triệu trẻ em chết vì chiến tranh, tật nguyền; hay sống trong hoàn cảnh thiếu thốn tại các trại tỵ nạn và nơi các đường phố, gầm cầu... Biết bao trẻ em thất học, không được đến trường. Tệ hơn nữa là có quá nhiều trẻ em chết dưới bàn tay của chính các bậc làm cha mẹ khi họ quyết định phá thai...!
Tất cả đều do sự chểnh mảng, thiếu quan tâm, vô nhân và chối bỏ quyền của các trẻ em nơi những nhà lãnh đạo, các tổ chức và ngay cả các bậc làm cha mẹ trong các gia đình...
Thảm trạng đau buồn hiện nay của thế giới về các trẻ em cũng chính là đại họa mà các thánh Anh Hài thời Đức Giêsu phải chịu dưới sự tàn độc, ích kỷ, ghen tương của vua Hêrôđê.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đứng lên, tùy khả năng và trách nhiệm của mỗi người, hãy bảo vệ quyền trẻ em. Không ai được phép đứng nhìn những thảm trạng bi đát mà các trẻ em đang phải hứng chịu do nạn buôn bán, bóc lột, lạm dụng và vô lương tâm của người lớn gây nên...
Hãy ý thức vai trò và trách nhiện cao cả của thiên chức làm cha làm mẹ trong các gia đình, không bao giờ chúng ta cho phép mình có quyền trên sự sống sự chết của các trẻ em, dù các em mới là bào thai. Nên nhớ quyền đó thuộc về Thiên Chúa và không ai được phép cướp quyền của Người. Thiên Chúa luôn muốn cho con người được hạnh phúc và được sống dồi dào. Chính vì lý do đó mà Ngài đã giáng sinh để cứu chuộc con người.
Hình ảnh thánh Giuse và Đức Maria vội vã trong đêm đem Hài Nhi trốn sang Aicập đủ cho chúng ta thấy trách nhiệm của các ngài với Đức Giêsu.
Vì vậy, khi mừng lễ các thánh Anh Hài, chúng ta không gợi lại một thảm trạng buồn, nhưng đây là cơ hội để chúng ta học được bài học về tinh thần trách nhiệm, sống hết mình vì con cái như Đức Mẹ và thánh Giuse. Mặt khác, đây cũng chính là dịp để chúng ta hồi tâm nhằm nhận ra sự hờ hững, thiếu trách nhiệm trong việc nuôi nấng và giáo dục con cái. Hơn nữa, nếu có ai đó trong cộng đoàn đã một lần phá thai hay cổ vũ, tiếp tay cho tội ác tầy trời này, thì đây là thời thuận tiện để chúng ta nhận ra hình ảnh Hêrôđê ác độc qua hành vi mất nhân tính của mình để sám hối và xin ơn tha thứ cũng như biến đổi.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin Chúa ban cho chúng con biết ý thức vai trò và trách vụ phải có đối với các trẻ em. Xin Chúa gìn giữ và bảo vệ các trẻ em thoát khỏi những nanh vuốt của những Hêrôđê thời hiện đại khi họ khước từ quyền trẻ em.
Xin Chúa cũng ban cho có nhiều tổ chức từ thiện, nhiều tấm lòng quảng đại ra tay cứu giúp các trẻ em nhằm xoa dịu những đau thương mà các trẻ em phải gánh chịu trong xã hội hiện nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Những vị thánh âm thầm vô danh
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Các Thánh Anh Hài là những vị thánh đã chết vì Đức Kitô mà không hay biết mình chết vì Đạo. Các Ngài là kiểu mẫu của rất nhiều vị thánh âm thầm vô danh, trong đó có chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Giáo hội Việt Nam chúng con có 117 vị tử đạo được nêu danh tánh, gốc gác, được Đức Giáo Hoàng tôn phong lên bậc Hiển thánh cho cả thế giới tôn kính noi gương. Nhưng quê hương chúng con có cả hàng trăm nghìn vị khác cũng đã chết vì đạo mà chẳng được ai biết rõ danh tánh. Đó cũng là thân phận của đa số chúng con.
Chúng con là những người cha lam lũ, chúng con là những người mẹ tất bật suốt ngày, chúng con là những người trẻ ăn chưa no, lo chưa tới. Công việc của chúng con rất tầm thường. Hằng ngày chúng con phải vì Chúa mà vác thánh giá và chấp nhận hy sinh. Nhưng chúng con là những người vô danh không được ai biết đến, không được ai nhắc nhở. Dù vậy lạy Chúa, trong ánh sáng của mầu nhiệm Giáng Sinh, Chúa mời gọi chúng con nhìn vào những giá trị của những hy sinh âm thầm từng ngày. Xin cho chúng con hiểu được ý nghĩa và giá trị của cuộc sống hy sinh, âm thầm, độc điệu hàng ngày. Xin cho chúng con nhìn thấy Con Chúa trong dáng vẻ yếu ớt bé bỏng của một Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Xin cho chúng con nhìn ra Đấng Cứu Độ trong dáng vẻ của một người dân quê làng Na-da-rét vô danh bé nhỏ.
Lạy Chúa, ơn thánh đã làm cho phận liễu yếu thơ nhi của các thánh Anh Hài trở nên chứng tá và cột trụ của đức tin Giáo Hội. Xin cho con hiểu được rằng bản thân con, một Kitô hữu bé nhỏ tài hèn, cũng là một thành phần của Hội Thánh và cũng có thể góp phần tích cực để xây dựng Hội Thánh. Amen.
Ghi nhớ: ”Hêrôđê giết hết các con trẻ ở Bêlem”.
Suy Niệm 7: Các thánh Anh Hài
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Ba nhà chiêm tinh thờ lạy Chúa Hài Đồng xong thì ra về. Chúa liền sai Thiên thần đến báo tin cho thánh Giuse đem Hài nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập vì vua Hêrôđê đang tìm giết Người.
Vua Hêrôđê trông mãi không thấy ba nhà chiêm tinh trở lại cho biết Hài Nhi Giêsu sinh ra ở đâu thì tức giận, sai quân lính đi giết hết các trẻ mới sinh từ hai tuổi trở xuống, ở làng Belem và các làng lân cận. Ông ta đinh ninh khi giết hết các trẻ như thế thì giết được Hài Nhi Giêsu để bảo vệ ngôi vua của ông ta. Như thế, đúng theo lời tiên tri Giêrêmia đã báo trước: Ở Rama, người ta than khóc thảm thiết vì con mình đã bị giết.
2. Trong thư gửi các thiếu nhi thế giới ngày 3/12/1994 Đức Gioan Phaolô II viết: “Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là những ngày lễ (... ) Ngay từ những ngày đầu sau khi sinh hạ, Hài Nhi Giêsu đã phải đương đầu với một đe dọa trầm trọng: bạo vương Hêrôđê ra lệnh tàn sát các trẻ thơ dưới hai tuổi, và vì lý do này Chúa Giêsu bị bắt buộc cùng với cha mẹ trốn sang Ai cập...” Mầu nhiệm giáng sinh gắn liền với mầu nhiệm tử nạn. Trong hài nhi nằm trong máng cỏ nghèo hèn, cuộc tử nạn đã được báo trước... Trong ánh sáng của mầu nhiệm giáng sinh, phải chăng chúng ta không được mời gọi nhận ra bóng đêm của mầu nhiệm tử nạn? Bóng thập giá phải chăng đã không phủ trên máng cỏ của Hài Nhi Giêsu? (Mỗi ngày một tin vui).
3. Con Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta, trở thành niềm vui mừng cho người này và nỗi buồn bực của người kia. Tùy tâm trạng mỗi người. Các trẻ thơ bị Hêrôđê giết, báo trước cái chết của Đấng sẽ đổ máu ra cứu chuộc loài người. Cái chết của các thánh Anh Hài đã thành lời chứng tuyệt hảo cho Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Vấn đề đau khổ, nhất là đau khổ của kẻ vô tội, đặc biệt là đau khổ của những trẻ thơ, đã là một thắc mắc thấy được giá trị của cái chết của các em. Cái chết ấy góp phần vào việc thực hiện kế hoạch Thiên Chúa cứu độ muôn người. Tấm gương này mời ta hãy nhìn đau khổ theo con mắt của Chúa.
4. Hiện nay trên toàn thế giới đang xẩy ra một cuộc thảm sát đẫm máu. Liên hiệp quốc đã tiết lộ rằng: đã có từ 45 đến 55 tiệu sinh mạng con người bị thủ tiêu mỗi năm trước khi chào đời. Chỉ trong có 5 năm, con số phá thai đã tăng lên gấp đôi, do chính luật pháp nhiều quốc gia đã chính thức cho phép phá thai... Khi giết chết một đứa trẻ còn trong thai, chúng ta không thể lấy bất cứ một đứa trẻ nào khác trên thế giới để thay thế được. Biết đâu, đó sẽ là một nhà bác học, một vị thiên tài, hoặc chỉ là một con người bình dị.
Như trường hợp sau đây: người cha mắc bệnh giang mai, mẹ bị lao phổi với một hoàn cảnh rất bi đát: đứa con đầu lòng bị mù, đứa thứ hai mới sinh ra đã chết, đứa thứ ba bị điếc và câm. Đứa thứ tư sớm bị lao phổi. Bây giờ bà mẹ lại mang thai một đứa nữa. Vậy mà, thai nhi ấy đã không bị giết đi. Em đã được sinh ra là người con thứ năm của gia đình, đó chính là Ludwig Beethoven nhạc sĩ thiên tài, tác giả của 9 bản symphonie bất hủ của mọi thời đại.
5. Có biết bao nhiêu người đang âm thầm đau khổ và hy sinh cầu nguyện mà không thể thấy được kết quả của lời cầu nguyện. Có biết bao người âm thầm phục vụ tha nhân cách này cách khác mà không hề được đền đáp hoặc nhắc nhớ.
Trong ánh sáng của mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta được mời gọi để tìm thấy giá trị của những hy sinh âm thầm từng ngày. Sự thinh lặng bé nhỏ của Hài Nhi Giêsu trong hang đá Be Lem, 30 năm âm thầm của Ngài tại Nagiarét: đó là ý nghĩa của cuộc sống phiền toái, độc điệu mỗi ngày mà Hài Nhi Giêsu mời gọi ta nhận ra giá trị của cuộc sống.
Những đau khổ, những mất mát, khiến chúng ta nghi ngờ tình yêu của Ngài ư? Hãy xác tín rằng Ngài đang nhìn thấy và cảm thông với từng nỗi khốn khổ của ta, và tình yêu mầu nhiệm của Ngài đang nhào nặn để biến những đắng cay chua xót ấy thành ân phúc cho ta.
6. Truyện: Con sâu trong tảng đá.
Một hôm, Đức Ala gọi một thiên sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có bốn đứa con thơ”.
Thiên sứ ra đi. Ngài gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với bốn đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết như xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách biệt người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng ánh mắt van xin của sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng, sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đem về trời.
Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị sứ thần lại có vẻ buồn. Phải, vui làm sao được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con. Thấy sứ thần buồn, Đức Ala mới gọi đến và đưa vào giữa sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra.
Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì trong lòng tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên:
“Ôi lạy Đấng Tối Cao, mầu nhiệm thay công việc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được bốn đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài”. (Trích D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 307-308).
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu là Môsê mới
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
Phân tích
Đoạn này viết theo văn thể Midrash nhằm cho thấy Chúa Giêsu là Môsê mới:
- Ngày xưa ở Ai Cập, một bạo vương đã tàn sát các trẻ sơ sinh Do Thái, nhưng trẻ Môsê đã được Thiên Chúa che chở, sau này chính Môsê đã đưa dân Chúa ra khỏi Ai Cập và tiến vào Đất Hứa.
- Ngày nay, Hêrôđê cũng tàn sát các hài nhi, nhưng Chúa Giêsu đã thoát chết. Ngài sẽ dẫn Dân Mới (Giáo Hội) thoát ách nô lệ tội lỗi và tiến vào Đất Hứa thực sự.
Suy gẫm
1. Trong thư gởi các thiếu nhi thế giới ngày 3/12/1994 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: “Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là những ngày lễ (... ). Ngay từ những ngày đầu sau khi sinh hạ, Hài Nhi Giêsu đã phải đương đầu với một đe dọa trầm trọng: bạo vương Hêrôđê ra lệnh tàn sát các trẻ thơ dưới hai tuổi, và vì lý do này Chúa Giêsu bị bắt buộc cùng với cha mẹ trốn sang Ai Cập... ” Mầu nhiệm giáng sinh gắn liền với mầu nhiệm tử nạn. Trong Hài Nhi nằm trong máng cỏ nghèo hèn, cuộc tử nạn đã được báo trước... Trong ánh sáng của mầu nhiệm giáng sinh, phải chăng chúng ta không được mời gọi nhận ra bóng đêm của mầu nhiệm tử nạn? Bóng Thập Giá phải chăng đã không phủ trên máng cỏ của Hài Nhi Giêsu?
2. Vấn đề đau khổ, nhất là đau khổ của kẻ vô tội, đặc biệt là đau khổ của những trẻ thơ, đã là một thắc mắc khó hiểu đối với nhiều người. Chuyện các Thánh Anh Hài chịu chết giúp ta bớt thắc mắc giá trị cái chết của các em. Cái chết ấy góp phần vào việc thực hiện kế hoạch Thiên Chúa cứu độ muôn người. Tấm gương này mời ta hãy nhìn đau khổ theo con mắt của Chúa.
3. Con sâu trong tảng đá: Một hôm Đức Ala gọi một Thiên Sứ đến và truyền lệnh: "Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ. " Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng lời van xin của Thiên Sứ chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Thiên Sứ đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị Thiên Sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con? Thấy Thiên Sứ buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, Thiên Sứ ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, vị Thiên Sứ bỗng thốt lên: “Ôi lạy Đấng Tối Cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài. ”
4. Bạn xét đoán Chúa chỉ vì không thể thấy kế hoạch của Ngài vì những đau khổ của bạn, giống như con chuột chui vào cây đàn piano gặm nhấm dây đàn làm nhạc sĩ rối loạn khi biểu diễn bản nhạc của Chopin hoặc Beethoven. Với trí óc nhỏ bé, chuột nghĩ rằng nó đâu làm gì, nhưng cả vũ trụ bị đảo lộn. Khi xét đoán kế hoạch của Chúa theo quan điểm của ta, phải chăng sự thể cũng như vậy?
Tương tự, con nhện cuốn tơ trên một xà sắt, sẽ bất mãn khi cây xà được chuyển đi xây một cây cầu. Nó chẳng bao giờ nghĩ rằng kế hoạch của một kỹ sư có giá trị hơn tơ của nó…
5. “Vua Hêrôđê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa thì đùng đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống” (Mt 2,16)
Chẳng bao lâu sau tiếng đàn ca xướng hát của các thiên thần trong đêm Chúa Giáng Sinh là tiếng khóc than rền rĩ của những bà mẹ mất con trong cuộc sát hại con trẻ ở Bêlem của Hêrôđê. Chẳng lẽ việc Chúa ra đời lại là nguyên nhân gây ra cái chết của trẻ thơ vô tội? Không, Thiên Chúa đã tạo dựng con người và ban cho con người tự do. Hêrôđê có tự do, và ông đã lạm dụng tự do để sát hại trẻ thơ, hầu trút cơn giận dữ và thoả lòng ghen tị. Tôi cũng có tự do, và tự do của tôi đã được sử dụng để vun đắp sự sống hay để huỷ diệt?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, thế giới con đang sống còn đầy những thảm họa do con người đã lạm dụng tự do của mình. Xin cho con biết sử dụng tự do để làm vinh danh Chúa hơn và mang lại niềm vui hạnh phúc cho mọi người.
Suy Niệm 9: Đắng cay và đau khổ luôn có giá trị
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Lịch sử cho chúng ta biết rằng, Hêrôđê là một bậc thầy trong nghệ thuật ám sát. Vừa lên ngôi ông đã thủ tiêu các thành viên trong Tòa Án Tối Cao của người Do Thái. Sau đó ông tàn sát các nhân viên trong tòa án mà không cần suy tính trước. Về sau ông lại giết vợ là Mariamne và mẹ nàng là Alexandra. Ông giết luôn con trưởng là Antipater, hai con trai thứ là Alexandre và Aristobolus. Ông cũng đã sắp đặt trước để khi ông lâm chung thì cuộc tàn sát các nhân sĩ tại thành Jêrusalem sẽ được thực hiện. Vì thế Hêrôđê không thể nào lặng lẽ chấp nhận một ấu vương nào đó mới ra đời. Ông đã cẩn thận tra hỏi các nhà thông thái về thời điểm ngôi sao xuất hiện và đã quỉ quyệt suy tính tuổi của Hài Nhi thánh để trù tính biện pháp sát nhân và bây giờ ông mau chóng thi hành kế hoạch man rợ của mình. Ông truyền lệnh giết tất cả bé trai từ hai tuổi trở xuống tại thành Bêlem và các vùng phụ cận. Có điểm cần lưu ý, Bêlem không phải là một thành phố lớn và số bé trai dưới hai tuổi không quá 20-30 hài nhi. Chúng ta không nên nghĩ đến con số hàng trăm em. Thế nhưng, việc này cũng không khiến tội ác của Hêrôđê kém phần khủng khiếp.
2. Trong thư gởi các thiếu nhi thế giới ngày 3/12/1994 Đức Gioan Phaolô II viết: “Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là những ngày lễ”. Vâng! Ngay từ những ngày đầu sau khi sinh hạ, Hài nhi Giêsu đã phải đương đầu với một đe dọa trầm trọng: bạo vương Hêrôđê ra lệnh tàn sát các trẻ thơ dưới hai tuổi, và vì lý do này Chúa Giêsu bị bắt buộc cùng với cha mẹ trốn sang Ai Cập…” Như vậy, chúng ta thấy mầu nhiệm Giáng sinh đã được gắn liền với mầu nhiệm tử nạn ngay từ lúc Chúa Giêsu mới chỉ là một hài nhi.
3. Chính từ biến cố này mà chúng ta hiểu được một phần nào về vấn đề đau khổ, đau khổ của những kẻ vô tội, đặc biệt là đau khổ của những trẻ thơ. Việc các thánh Anh Hài chịu chết hé mở cho chúng ta thấy một phần nào giá trị của những cái chết. Cái chết của các thánh anh hài đã góp phần vào việc thực hiện kế hoạch Thiên Chúa cứu độ muôn người.
Người ta kể rằng: Một hôm Đức Ala gọi một thiên sứ đến và truyền lệnh: “Ngươi hãy xuống trần gian và đưa về đây cho Ta người đàn bà góa có 4 đứa con thơ”. Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con còn non dại, rồi trở lại với Đức Ala và tha thiết nài xin Người rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy? Nhưng lời van xin của sứ thần chẳng đánh động được Đức Ala. Cuối cùng, sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời. Hoàn thành công tác xong, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, thì sứ thần hết sức ngạc nhiên, vì từ trong tảng đá đó có một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên:- Ôi lạy Đấng Tối Cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài. (Trích “Món quà giáng sinh”)
4. Vâng, sẽ thật là khó hiểu khi chúng ta thấy các em bé vô tội Bêlem phải chết cách oan ức như thế! Phải chờ cho đến ngày chiến thắng Phục Sinh, chúng ta mới có thể hiểu được giá trị những cái chết của các em bé sơ sinh này: chết vì Chúa thì sẽ được sống với Người. Phải, nếu không có biến cố Phục Sinh thì cái chết của các em bé Bêlem hôm nay, cũng như cuộc sống đầy đau khổ của chúng ta thật phi lý, vô nghĩa. Và cuộc đời Chúa Giêsu chỉ là một thất bại đắng cay mà thôi.
Như vậy, từ cuộc tử đạo của Các Thánh Anh Hài, chúng ta có thể rút ra được một bài học quý giá này: trong đức tin, những đắng cay và đau khổ luôn có giá trị của nó. Nếu cái chết của Các Thánh Anh Hài xem ra khó hiểu, thì cuộc đời của chúng ta cũng có những cái khó hiểu: sao Chúa lại chọn một người như tôi nhỉ? Sao Chúa lại thương một người như tôi? Chỉ có tình thương của Chúa mới biết được điều đó.
Lạy Chúa, thế giới con đang sống còn đầy những thảm họa do con người đã lạm dụng tự do của mình. Xin cho con biết sử dụng tự do để làm vinh danh Chúa và mang lại niềm vui hạnh phúc cho mọi người.
27/12 Môn đệ Chúa yêu
- Viết bởi Ga 20, 2-8
Môn đệ Chúa yêu.
Thứ Tư – Ngày thứ ba tuần Bát Nhật Giáng Sinh – THÁNH GIOAN, TÔNG ĐỒ THÁNH SỬ. Lễ kính.
"Môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông".
LỜI CHÚA: Ga 20, 2-8
Ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna chạy đến gặp Simon Phêrô và môn đệ kia mà Chúa Giêsu yêu, bà nói: "Người ta đã lấy xác Chúa khỏi mộ rồi, chúng tôi không biết họ để đâu".
Bấy giờ Phêrô ra đi với môn đệ kia đến mộ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông. Cúi nhìn vào, người môn đệ đó thấy tấm khăn liệm xác hãy còn, nhưng không vào. Bấy giờ Simon Phêrô theo sau cũng đến, và đi vào trong mộ, thấy khăn liệm xác còn đó, và khăn che mặt để trên phía đầu Người, không để chung với khăn liệm xác, nhưng đã cuốn riêng để vào một chỗ.
Bấy giờ môn đệ đã đến trước cũng vào; ông đã thấy và đã tin.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ông đã thấy và đã tin
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm trước bà không chợp mắt được,
chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25)
và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên,
trước cả người môn đệ được Ðức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải,
đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2. 13. 15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh,
bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ,
những bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó,
còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala,
nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố:
ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ,
ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin
để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng,
trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Ðời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất,
trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11)
Nhưng nếu xác Ðức Giêsu cứ nằm yên trong mồ,
để cho bà Maria đến thăm viếng,
thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài,
những băng vải không ngăn được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu,
nhưng bà sẽ gặp chính Ðấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh liệt
khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự phục sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả. Amen.
Suy Niệm 2: Người môn đệ Chúa yêu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ta đoán “người môn đệ Chúa yêu” là thánh Gio-an. Vì chỉ thấy danh xưng này trong Tin mừng Gio-an.
Chắc chắn ai cũng được Chúa yêu. Có điều không cảm nhận được. Hoặc không nói ra. Đáng lẽ Phê-rô phải xưng mình là người được Chúa yêu hơn cả. Vì ông đã lỗi lầm và được tha thứ. Như lời Chúa dạy: “Ai được tha nhiều thì yêu mến nhiều”. Cả Giu-đa, nếu ăn năn trở lại, cũng có thể xưng mình là người môn đệ được Chúa yêu. Nhưng chỉ có Gio-an xưng mình là “người môn đệ được Chúa yêu”. Vì ông là người có nhiều tình cảm nên cảm nhận được một cách rõ ràng và sâu xa. Và ông có tài diễn tả. Và ông muốn cho mọi người biết rằng ai cũng được Chúa yêu. Ai cũng có thể xưng mình là “người môn đệ được Chúa yêu”.
Tình yêu có trí nhớ rất sắc bén. Yêu ai ta nhớ từng lời nói, thái độ, cử chỉ. Thánh Gio-an nhớ rất kỹ những lời nói việc làm của Chúa Giê-su. Chẳng hạn về ngày đầu tiên gặp gỡ. Thánh nhân ghi nhớ từng chi tiết. Cả thời giờ: “Lúc đó khoảng giờ thứ mười” (Ga 1,35-39). Nên nhớ, hơn nửa thế kỷ sau, thánh Gio-an mới viết Tin mừng. thế mà vẫn ghi nhớ từng chi tiết. Chắc chắn đó là một kỷ niệm khắc sâu trong tâm hồn.
Tình yêu có trực giác rất mạnh. Dễ nhận ra những dấu vết của người yêu. Việc thánh Gio-an bén nhậy tin Chúa phục sinh sau khi nhìn ngôi mộ trống là một trực giác của tình yêu. Nhìn khăn liệm và khăn che mặt xếp đặt gọn gàng Ngài nhận ra ngay dấu vết của Chúa. Cũng như ngài là người đầu tiên nhận ra Chúa Giê-su phục sinh bên bờ hồ sau mẻ cá lạ. Mẻ cá lạ chỉ có thể do Chúa. Và gợi lại những mẻ cá khi Người chưa chịu khổ nạn.
Tình yêu đi vào hiệp thông sâu xa. Hiệp thông khiến tình yêu thành cụ thể và sống động. Thánh Gio-an thấy tận mắt, sờ tận tay Lời Thiên Chúa. “Điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống”. Chạm được vào Lời là có mối thân tình rất sâu xa. Nên được “hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người”.
Nếu tôi ghi nhớ tất cả những gì Chúa làm cho tôi. Nếu tôi đủ nhậy bén. Tôi sẽ đi vào hiệp thông với Chúa. Và sẽ nhận biết tôi là “người môn đệ Chúa yêu”. Khi đó tôi sẽ vô cùng hạnh phúc.
Suy Niệm 3: Chạy đến mồ
Thông thường mỗi dịp Giáng sinh, các trẻ em thuộc hầu hết các nước thế giới đều nhận được quà của ông già Noel. Thế nhưng năm vừa qua tại một số trường tiểu học nọ, ông già Noel đã đảo lộn truyền thống: thay vì mang quà cáp đến cho các em, ông đến với bàn tay trống rỗng, thay vì tặng quà cho các thiếu nhi, ông lại là người nhận quà từ tay các em để rồi chuyển cho các thiếu nhi tại nhiều nơi khác.
Hình ảnh ông già Noel với đôi bàn tay trống không có thể gợi lên cho chúng ta vài suy nghĩ khi kính nhớ thánh Gioan Tông đồ trong tuần bát nhật Giáng sinh. Tin mừng hôm nay cũng nói đến một sự trống rỗng, đó là sự trống rỗng của ngôi mộ. Được Maria Madalena thông tin, Phêrô và Gioan đã vội vã chạy ra mồ, hai người không còn thấy xác Chúa trong ngôi mộ nữa, nhưng nhìn thấy cảnh tượng ấy, Goan đã tuyên bố: “ông đã thấy và đã tin”. Niềm tin đã bừng dậy từ một sự trống rỗng, đó là sứ điệp Gioan muốn gửi đến chúng ta, nhất là trong những ngày này khi chúng ta chiêm ngắm Hài nhi Giêsu nằm trong máng cỏ. Bên kia những hoa đèn và trưng bày lộng lẫy của Mùa Giáng sinh, có lẽ chúng ta phải nhìn thấy cái thiết yếu trong những biểu tượng của lễ Giáng sinh. Cái thiết yếu ấy là gì, nếu không phải là một Hài nhi nằm trong máng cỏ; cái thiết yếu ấy là gì, nếu không phải là cảnh trơ trụi nghèo nàn trống rỗng trong đó Ngôi Hai Thiên Chúa đã giáng sinh.
Ngôi mộ trống mà Gioan đã nhìn thấy hay máng cỏ trơ trụi nghèo nàn của Hài nhi Giêsu, cả hai cảnh tượng đều có chung một ý nghĩa; Thiên Chúa đến với con người qua những cái nhỏ bé, tầm thường và ngay cả những mất mát của cuộc sống. Đức tin luôn là một bước nhảy vượt qua cái trống rỗng ấy, hay đúng hơn đức tin là một cái nhìn xuyên suốt qua cái trống rỗng ấy.
Chúng ta hãy chiêm ngắm Hài nhi Giêsu nghèo nàn trơ trụi trong máng cỏ. Qua cảnh nghèo nàn ấy, niềm tin nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến hoá thân làm người để là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Qua cảnh nghèo nàn trơ trụi ấy, niềm tin nói với chúng ta rằng mỗi người sinh ra trên cõi đời này dù khốn khổ đến đâu cũng đều có một phẩm giá cao cả vì là hình ảnh của Thiên Chúa. Qua cảnh nghèo nàn trơ trụi ấy, niềm tin cũng nói với chúng ta rằng chúng ta đã trở nên giàu có thật sự. Và cái giàu có ấy chính là biết mở rộng đôi bàn tay để trao ban.
Suy Niệm 4: Lòng mến giúp dễ dàng nhận ra Chúa
Theo truyền thống, phong tục Việt Nam, thì khi có người thân qua đời, sau khi đã lo liệu việc chôn cất xong, khoảng hôm sau hay những ngày kế tiếp...tùy mỗi nơi, họ thường hay có tục ra nghĩa địa viếng mộ để bày tỏ niềm thương tiếc, nhớ nhung người đã khuất.
Ngày xưa tại đất nước Palestine cũng có phong tục đó. Tuy nhiên, họ để ba ngày mới ra viếng mộ. Vì vậy, chúng ta không lạ gì khi thấy sự kiện Maria Mađalêna ra viếng mộ Chúa từ tờ mờ sáng. Bà đến sớm là vì nóng lòng chờ đợi từng giây phút để được đến với Chúa.
Tuy nhiên, điều mà Maria Mađalêna ngỡ ngàng là thấy phiến đá lấp cửa mồ đã được lăn ra khỏi mộ...và khi nhìn vào thì không thấy xác Chúa đâu cả...Trong tâm trí của bà lúc này là: đã có ai đó lấy cắp xác Chúa...???
Sau đó, Maria Mađalêna vội về nhà báo tin cho các Tông đồ biết sự việc lạ lùng này...Gioan và Tông đồ trưởng Phêrô đã chạy đến mộ để phục kích tận mặt xem thực hư thế nào. Khi tới nơi, Tông đồ trưởng chỉ thấy ngỡ ngàng và chưa thể đoán được sự việc ra sao! Nhưng Tông đồ Gioan thì biết, ông đã thấy và đã tin, vì ngài nhớ lại lời Đức Giêsu đã loan báo trước đó là: “ngày thứ ba sẽ sống lại...”.
Điều mà chúng ta cần khám phá nội dung tiềm ẩn hay chủ đạo trong bài Tin Mừng hôm nay chính là hai chữ: “Lòng mến”. Vì yêu mến Chúa tha thiết, nên Maria Mađalêna đã đến mồ từ tảng sáng của ngày thứ nhất trong tuần. Vì yêu, nên Tông đồ Gioan cũng nhận ra Chúa đã sống lại một cách chắc chắn. Ngài cũng là người đầu tiên hiểu và tin vào việc này. Sau này chúng ta còn thấy Gioan đã nhận ra Chúa trước tiên trên bãi biển trước hết...
Như vậy, chính tình yêu đã nối kết lòng với lòng. Tình yêu đã lý giải những chuyện phi thường và mầu nhiệm cách dễ dàng. Ngôn ngữ tình yêu là ngôn ngữ của tấm lòng...
Vậy Gioan là ai? Thưa ngài là một trong những người con ông Dêbêđê, có thể ngài là bà con họ hàng với Đức Giêsu, là em của Giacôbê, làm nghề đánh cá trên biển. Ngài cũng là một trong ba Tông đồ được Đức Giêsu tỏ mình cách đặc biệt trong cuộc thần hiện trên núi Tabor. Và, ngài còn là một con người được biết đến với tính khí nóng nảy, tham vọng, nhưng cũng là người dũng cảm.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: tình yêu là ngôn ngữ không lời để hiểu và đi vào mối tương quan thân tình với Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu, chúng ta mới có thể hiểu được những điều kín nhiệm trong mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa. Cũng chỉ có tình yêu mới lý giải được những nghịch lý của Tin Mừng. Như vậy, nhờ tình yêu mà chúng ta thêm sự trung tín, can đảm, trung thành.
Mừng lễ thánh Gioan Tông đồ hôm nay, chúng ta hãy noi gương ngài: yêu mến Thiên Chúa tha thiết; sẵn sàng sống chết để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình; hãy yêu rồi làm gì thì làm. Chỉ có tình yêu mới làm cho những việc chúng ta nói và làm có giá trị mà thôi …
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con cháy lửa yêu mến Chúa như thánh Gioan khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Lễ Kính Thánh Gioan Tông Ðồ
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Thông thường người ta đi chứ không chạy, người ta chỉ chạy khi có một xúc động mạnh thúc đẩy. Có nhiền nguyên nhân gây nên xúc động: Có thể xúc động vì sợ hãi, kẻ thù đang đuổi bắt sau lưng thì chẳng ai mà lại không chạy, hay tai họa sắp giáng xuống thì không cần bảo người ta cũng tìm đường thoát thân. Xúc động còn do một sự lôi cuốn thôi thúc như đang rảo bước nhưng bất chợt có điều lạ xảy ra trước mặt thì các bước chân đều rầm rập chạy tới cho kịp để xem điều lạ ấy. Và xúc động hơn là khi nghe tin người thân yêu đang gặp tai nạn hay nguy hiểm, nếu ở xa thì bằng mọi giá phải quay về cho kịp thời, nếu ở gần thì tức tốc chạy đến nơi.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cũng nói về hai cuộc chạy đua của hai Tông Ðồ Gioan và Phêrô. Tại sao họ lại chạy mà không đi? Ðiều gì đã buộc họ chạy như thế? Các Tông Ðồ khi đến mồ thấy mất xác Chúa Giêsu, bà Maria Madalena đã chạy đi báo tin cho các môn đệ. Nhận được tin này, Phêrô và Gioan vội vã chạy đến mồ, cả hai đều chạy, nhưng Gioan chạy đến trước. Hẳn là vì sức thanh niên trai tráng mà Gioan có thể chạy nhanh hơn. Tuy nhiên, không đơn thuần như thế nhưng còn có một động lực khác buộc ông phải chạy nhanh, đó là vì lòng yêu mến. Ðể được nhìn thấy Thầy đã sống lại, tất cả các môn đệ đều nao nức bàng hoàng, nhưng sự bàng hoàng mang nhiều cường độ sắc thái khác nhau, và dù sao đi nữa người được gọi là môn đệ yêu dấu thì sự bàng hoàng phải lên đến tột độ. Sự bàng hoàng đã làm ông quên mất người bên cạnh, chỉ khi đến mồ ông mới sực nhớ ra và ông đã nhường bước cho Phêrô.
Chỉ một thoáng diễn tả của đoạn Tin Mừng trên, chúng ta cũng thấy được lòng mến của Thánh Gioan Tông Ðồ đối với Chúa Giêsu như thế nào. Tin Mừng không nói lý do tại sao có sự mến yêu đặc biệt này mà chỉ thuật lại diễn tiến.
Từ bước đầu, Gioan cũng được kêu gọi như bao nhiêu người khác, đang vá lưới cùng với anh và cha là Giêbêđê thì hai anh em được kêu gọi trở thành kẻ chài lưới người. Hai người đã từ giã cha mà đi theo Ngài. Ông cũng không phải là kẻ ôn nhu nhưng là kẻ nóng nảy và được biệt danh là con của "sấm sét" được gán cho hai anh em khi hai người xin lửa bởi trời thiêu đốt dân thành Samaria, vì họ không chịu tiếp đón Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã quở trách hai ông và có lẽ nhờ vào lời quở trách này mà Gioan biết nhìn vào Chúa Giêsu hơn, vì Ngài là Ðấng đến để cứu chữa chứ không phải để trừng phạt. Càng nhìn vào Chúa Giêsu, Gioan lại càng yêu mến Ngài hơn. Nhưng rồi sau khi đã thưa được trước chén đắng Ngài trao cho thì Gioan đã sẵn sàng cất bước theo Ngài trên con đường tử nạn. Dù rằng lúc này quanh ông chỉ còn đầy những khuôn mặt sát khí muốn giết chết cả Thầy lẫn trò, nhưng Gioan vẫn kiên trung theo Thầy dù các bạn đồng môn đã bỏ trốn và người anh cả Phêrô đã chối Thầy.
Nhờ lòng kiên trung này mà Gioan đã được thay mặt cho cả nhân loại và cho Chúa Giêsu. Thay mặt nhân loại khi ông được gọi là "con của Mẹ", và thay mặt cho Chúa Giêsu khi ông lãnh nhận trách nhiệm săn sóc cho Mẹ "Gioan đón nhận Bà về nhà mình". Và cứ thế mà tình yêu chuyển lướt vào nơi ông, làm cho ông chỉ có một lòng khăng khít sống mật thiết với Chúa, sẵn sàng bước theo Thầy mình đến cùng trong cuộc sống của mình.
Sau khi xác Chúa được táng trong mồ, lòng thánh nhân còn luôn hướng về đó. Vừa nghe tin xác Thầy bị mất, ông liền vội vã chạy đến mồ, ông đã thấy và ông đã tin. Trong lúc các môn đệ khác còn nghi ngờ vì tình yêu đã tạo một mối liên kết vô hình, không đòi hỏi nhiều diễn tả. Thoạt nghe tiếng Ngài gọi ở trên bờ hồ Tibéria, ông đã nhận ra Ngài. Tuy nhiên, Phêrô nhanh nhẹn nhận ra Thầy mình, và ông liền nhảy xuống biển nhưng Phêrô lại không nhạy cảm bằng Gioan.
Trong ngày mừng kính thánh Gioan Tông Ðồ hôm nay, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta biết hun đúc tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu, để rồi chúng ta cũng sẽ nhạy cảm trước những tiếng gọi của Ngài. Ðặc biệt trong mùa Giáng Sinh này, lúc Vua tình yêu đang giáng hạ trong máng cỏ nghèo hèn. Ước gì chúng ta sẽ nghe tiếng gọi của Ngài, và đến quì chầu bên máng cỏ để chiêm ngắm Vua Tình Yêu. Vì càng chiêm ngắm chúng ta sẽ càng yêu mến Ngài, càng học biết được sự hiền lành và khiêm nhượng của Ngài.
Suy Niệm 6: Phúc cho ai có lòng trong sạch
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: “Phúc cho ai có lòng trong sạch vì họ sẽ đựơc nhìn thấy Thiên Chúa”. Mối phúc ấy hôm nay được thể hiện nơi Thánh Gioan Tông đồ. Thật vậy, nhờ đồng trinh, Thánh Gioan có diễm phúc nhận ra mầu nhiệm Phục Sinh sớm hơn các tông đồ khác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, khoa học kỹ thuật càng văn minh tiến bộ thì đời sống con người càng dễ bị tục hoá, người ta càng dễ đánh mất sự nhạy bén của thế giới linh thiêng, với những giá trị tâm linh. Đã có một thời người ta đả kích đời sống độc thân và đức đồng trinh. Người ta bảo như thế là đi ngược với bản năng, trái với luật tự nhiên. Người ta bảo như thế là làm cho con tim bị khô héo, làm cho tình cảm bị cằn cỗi, làm cho con người trở nên bất bình thường. Nhưng lạy Chúa, thực tế lại cho con thấy khác hẳn. Thánh Gioan hôm nay là một điển hình. Nhìn sự kiện mồ trống, Thánh Gioan đã đọc ngay được rằng: Chúa đã sống lại. Rồi khi Chúa hiện ra bảo thả lưới bên hữu thuyền thì chính Thánh Gioan cũng là người đầu tiên nhận ra Chúa. Vâng lạy Chúa, đức đồng trinh đã giúp Thánh Gioan mở mắt linh hồn nhìn rõ hơn người khác.
Khi nhìn lại hơn 2000 năm lịch sử Kitô giáo, con nhìn thấy biết bao đóng góp của những người đồng trinh. Nhờ đức đồng trinh, tâm hồn tự do hơn, dễ dàng tận hiến cho Chúa và các linh hồn hơn. Con cầu nguyện cho Giáo hội có nhiều người biết quý trọng bậc độc thân và đức trinh khiết. Con cầu nguyện cho xứ đạo con có nhiều người được ơn gọi sống đời tận hiến để phục vụ Chúa và các linh hồn.
Con cầu nguyện cho gia đình con dù sống giữa các mối liên hệ gia đình, dù sống giữa thế giới văn minh vật chất hưởng thụ, vẫn biết sống trong trắng, để nhờ đó nhận ra sự hiện diện của Chúa và vươn lên tới những giá trị tâm linh cao cả. Amen.
Ghi nhớ: ”Môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông”.
Suy Niệm 7: Thánh Gioan Tông đồ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Thánh Gioan Tông đồ cho chúng ta biết: Bà Maria Madalena từ sáng sớm đã ra thăm mộ Chúa Giêsu. Bà không thấy xác Chúa thì hoảng hốt chạy về báo cho thánh Phêrô và thánh Gioan. Hai ông liền chạy đến mộ. Các ông thấy khăn liệm và khăn che mặt Chúa còn đó, mà xác Người đâu mất? Nhưng thánh Gioan tin chắc là Chúa đã sống lại, vì theo Thánh Kinh: thì Người phải sống lại từ cõi chết.
2. Gioan quê ở Bethsaiđa, được Chúa gọi làm môn đệ cùng với anh là Giacôbê đang vá lưới với cha. Ông là môn đệ độc thân, được Chúa Giêsu yêu các riêng, được tham dự vào các biến cố quan trọng của Thầy như: Biến hình trên núi Tabôrê, trong vườn Cây Dầu trước khi Chúa bị bắt, đứng dưới cây Thập giá Chúa cùng với Mẹ Ngài, chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu, là nhân chứng về ngôi mộ trống và về sự hiện diện của Đấng Phục Sinh.
Gioan sẽ phải chịu sự bắt bớ thời hoàng đế Nêrông, đã bị bỏ vào vạc dầu sôi ở cửa Latinh, nhưng ông thoát chết kỳ lạ, sau đó bị khổ lưu đầy tại đảo Patmos. Ông là vị Tông đồ duy nhất không phải đổ máu đào như các Tông đồ khác.
3. Tông đồ Gioan là “môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” (x. Ga13,23), người đã ngã đầu và ngực Chúa trong bữa Tiệc ly như là biểu tượng của tình yêu gắn bó với Thầy. Thánh Augustinô đã nhìn thấy mối gắn bó tình yêu này như sau: “Từ trong lồng ngực Chúa, Gioan đã tìm thấy nguồn suối ban cho chúng ta thứ nước không còn khát và sự hiểu biết”.
Thật thế, Gioan được ở gần bên Chúa, gắn bó và chứng kiến những việc Chúa làm. Sống và cảm nghiệm tình yêu của Thầy, ông đã ghi chép lại diễn từ tình yêu của Thầy (x. Ga 14-15) mà chỉ có ghi nhận nơi Tin Mừng Gioan, vì thế được gọi là con người của tình yêu.
4. Xem ra Gioan là con người hiền lành, dễ thương, nhưng thực sự ông là một con người xông xáo, nhiều tham vọng. Chúa Giêsu đã đặt cho ông một cái tên cúng cơm là Boanet, nghĩa là con của sấm sét. Giacôbê và Gioan là những người hết sức độc đoán và bất khoan dung, tính tình nóng nảy. Có lần họ đã muốn tiêu diệt cà một làng Samaria chỉ vì dân làng này không chịu tiếp đón đoàn của Chúa khi Chúa phải đi qua đó. Có lần cùng với Giacôbê và qua bà mẹ họ đã công khai xin được ngồi bên phải bên trái Chúa trong Nước của Ngài. Tin Mừng còn cho chúng ta biết chính Phêrôvà Gioan là những người được trao cho việc thu xếp bữa ăn tối cuối cùng.
5. “Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
Đây là sự kiện mà bài Tin Mừng hôm nay, “người môn đệ được Chúa yêu” chạy ra mộ, thấy ngôi mộ trống và đã tin.
Nhiều người chú giải rằng, Gioan nhường Phêrô vào mộ trước là vì ông nhận quyền “bề trên” của Phêrô. Giải thích như thế có lẽ không chính xác lắm, bởi lẽ, lúc này Chúa Giêsu chưa trao quyền cho Phêrô, mà phải chờ lúc hiện ra sau này với các môn đệ (x. Ga 21,15-19). Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây không phải là chuyện ai trước ai sau, mà là nền tảng đức tin của chúng ta, như “môn đệ được Chúa yêu đã thấy và ĐÃ TIN”. Như vậy, chủ đích của đoạn Tin Mừng hôm nay, trong ngôn ngữ biểu tượng, “người môn đệ Chúa yêu” là hình ảnh Giáo hội chứng kiến sự kiện ngôi mộ trống, chứng kiến những chứng tích và ĐÃ TIN. Đó là Đức tin muôn đời không lay chuyển của Kitô hữu chúng ta (cf Hiền Lâm).
6. Người môn đệ được Chúa yêu mến nói về mình: “Ông đã thấy và đã tin”. Ông đã thấy bằng trái tim và đã tin bằng tình yêu. Phải chăng người môn đệ muốn quả quyết rằng: bằng tình yêu, người ta có thể đi từ chỗ thấy những dấu chỉ bên ngoài, đến chỗ tin vào Chúa Phục Sinh vô hình? Vậy, thánh Gioan đã thấy và đã tin nhờ đâu? Nhờ thánh nhân là môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến. Chính tình yêu giúp chúng ta nhạy cảm, tiến sâu vào các mầu nhiệm của Chúa.
7. Truyện: Hãy yêu thương nhau.
Chính thánh Hiêrônimô đã kể lại câu chuyện về mấy lời cuối cùng của Gioan. Lúc ông hấp hối, các môn đệ hỏi ông còn gì để trối lại với họ không?
Ông bảo: - Hỡi các con bé bỏng của ta, hãy yêu mến lẫn nhau.
Ông lặp đi lặp lại nhiều lần, họ lại hỏi ông có phải đó là tất cả những gì ông muốn nói với họ không?
Ông đáp: - Như thế là đủ, vì đó là mệnh lệnh của Chúa.
Suy Niệm 8: Người môn đệ Đức Giêsu thương mến
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A. Hạt giống...
Đoạn Tin Mừng này cho chúng ta biết đôi nét về thánh Gioan:
- Ngài tự xưng mình là “người môn đệ Đức Giêsu thương mến”. Điều này đúng một cách khách quan (vì Chúa Giêsu thương mến ngài thật), và cũng đúng cách chủ quan (ngài biết Chúa Giêsu thương mình). Khía cạnh chủ quan này rất quan trọng.
- Dù biết mình được Chúa Giêsu thương mến, nhưng ngài vẫn tôn trọng Phêrô là trưởng nhóm 12, cho nên tuy vì trẻ nên chạy tới mồ trước, ngài vẫn nhường cho Phêrô vào trước.
- Lòng yêu mến Chúa đã giúp ngài sớm nhận ra ý nghĩa dấu chỉ ngôi mồ trống: “Ông đã thấy và đã tin”. Nói cách khác, đức mến hỗ trợ cho đức tin.
B.... nẩy mầm.
1. “Tin Mừng hôm nay nói đến một sự trống rỗng. Được Maria Mađalêna thông tin, Phêrô và Gioan đã vội vã chạy ra mồ. Hai người không còn thấy xác Chúa Giêsu trong ngôi mồ nữa. Nhưng nhìn thấy cảnh tượng đó, Gioan đã tuyên bố “Ông đã thấy và đã tin”. Niềm tin đã bừng dậy từ một sự trống rỗng. Đó là sứ điệp Gioan muốn gởi đến chúng ta, nhất là trong những ngày này khi chúng ta chiêm ngắm Hài nhi Giêsu nằm trong máng cỏ. Bên kia những hoa đèn và trưng bày lộng lẫy của mùa Giáng sinh, có lẽ chúng ta phải nhìn thấy cái thiết yếu trong những biểu tượng của lễ Giáng sinh. Cái thiết yếu ấy là gì nếu không phải là một Hài nhi nằm trong máng cỏ? Cái thiết yếu ấy là gì nếu không phải là cảnh trơ trụi nghèo nàn trống rỗng trong đó Hài nhi Giêsu đã giáng sinh? Ngôi mộ trống mà Gioan đã nhìn thấy hay máng cỏ trơ trụi nghèo nàn của Hài nhi Giêsu, cả hai cảnh tượng đều có chung một ý nghĩa: Thiên Chúa đến với con người qua những cái nhỏ bé tầm thường và ngay cả những mất mát của cuộc sống. Đức tin luôn là một bước nhảy vượt qua cái trống rỗng ấy, hay đúng hơn đức tin là một cái nhìn xuyên suốt qua cái trống rỗng ấy” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
2. Một cuộc đối thoại giữa hai người yêu nhau:
- Em có bằng lòng lấy anh không?
- Bằng lòng.
- Chúng ta chỉ mới quen nhau mấy tháng. Em chỉ nghe anh nói thôi chứ chưa có dịp “kiểm tra” lý lịch và quá khứ của anh. Sao em tin anh thế?
- Vì em yêu anh!
Tình yêu hỗ trợ cho niềm tin.
3. “Bà Maria Magđala chạy về tìm và báo tin cho hai ông Phêrô và Gioan: Người ta đã lấy mất Chúa rồi. Người không còn trong mộ nữa, chẳng biết họ để Người ở đâu”. Cả hai liền chạy ra mộ” (Ga 20,2-3)
Hồi tôi còn học ở Cao đẳng Sư phạm Đồng nai, có người bạn hỏi tôi: “Bạn là người công giáo phải không?” Tôi tự hào trả lời: “Đúng vậy”. Nhưng khi bạn ấy yêu cầu tôi cho biết đôi điều về đạo thì tôi đã bối rối và chỉ trả lời cách chiếu lệ. Từ ấy tôi đã nhận ra rằng mình là người công giáo nhưng rất hời hợt; đối với Chúa còn lạnh nhạt hơn… Tôi đã tìm học hỏi về Chúa, nhất là dành nhiều thời gian để cầu nguyện và sống với Chúa. Như Maria Magđala và như hai môn đệ Phêrô và Gioan, tôi muốn tin và yêu Chúa hết lòng.
Lạy Chúa, Chúa biết rõ mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa. Xin nâng đỡ tình yêu của con. (Epphata)
Suy Niệm 9: Thánh Gioan tông đồ, môn đệ Chúa yêu
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Gioan là ai?
Gioan là con thứ của ông Dêbêđê, làm chủ một thuyền đánh cá trên biển Galilê. Mẹ ông là bà Salômê, dường như bà là chị em với Đức Maria. Cùng với anh là Giacôbê, Gioan vâng theo lời kêu gọi của Chúa Giêsu và đi theo Ngài. Ông là một trong những môn đệ thân tín của Chúa Giêsu, vì trong danh sách các môn đệ Chúa luôn luôn khởi đầu bằng tên Phêrô, Giacôbê và Gioan.Về tính tình, rõ ràng ông là một người xông xáo, nhiều tham vọng. Chúa Giêsu đặt cho ông một cái tên cúng cơm: Boanet. Tên này có nghĩa là con của sấm sét. Giacôbê và Gioan là những người hết sức độc đoán và bất khoan dung, tính tình nóng nảy. Có lần họ đã muốn tiêu diệt cả một làng người Samaria chỉ vì dân làng này không chịu tiếp đón đoàn của Chúa khi Chúa phải đi qua đó. Ông cũng là người có nhiều tham vọng. Có lần cùng với Giacôbê và qua bà mẹ, đã công khai xin được ngồi bên phải bên trái Chúa trong Nước của Ngài. Tin Mừng còn cho chúng ta biết chính Phêrô và Gioan là những người được trao cho việc thu xếp bữa ăn tối cuối cùng.
2. Trong sách công vụ, Gioan xuất hiện như bạn đồng hành của Phêrô. Ông cùng đi với Phêrô lúc Phêrô chữa người què tại Cửa Đẹp. Cũng cùng với Phêrô, ông bị kéo ra Tòa Công Luận và đã dũng cảm đối diện với các nhà cầm quyền Do Thái khiến họ phải kinh ngạc. Cùng với Phêrô, ông đã đi từ Jêrusalem đến Samaria để chăm sóc công tác mà Philipphê đã làm. Gioan là con người phức tạp. Ông là một trong các lãnh tụ của mười hai tông đồ, là một trong các môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu. Ông là một người nóng tính, nhiều tham vọng, bất khoan dung, nhưng cũng rất dũng cảm.
Chúng ta có thể biết thêm về Gioan nhờ những câu chuyện được kể trong Hội Thánh đầu tiên.
Eusêbiô cho biết, ông bị đày sang đảo Patmos dưới thời trị vì của Domitianô. Eusêbiô đã thuật lại một câu chuyện độc đáo về Gioan mà ông được nghe Clêmentê kể lại. Khi Gioan làm Giám mục tại Tiểu Á, ông đến thăm một cộng đoàn gần Êphêsô. Nhìn thấy trong đám tín hữu có một thanh niên cao lớn, khôi ngô, ông quay sang vị giáo sĩ đang phụ trách cộng đoàn ấy và nói:- Tôi trao chàng thanh niên này cho ông lo lắng chăm sóc. Tôi yêu cầu cộng đoàn làm chứng là tôi đã giao cho ông.
Vị giáo sĩ liền đem chàng thanh niên này về nhà chăm sóc dạy dỗ cho đến ngày chàng được chịu Rửa tội gia nhập đạo. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, chàng thanh niên này bị bạn xấu lôi kéo vào con đường tội lỗi. Cuối cùng, anh ta đã trở thành lãnh chúa của một đảng cướp. Ít lâu sau Gioan trở lại thăm cộng đoàn, ông bảo vị giáo sĩ:
- Hãy trả lại cho tôi chàng thanh niên mà tôi và Chúa đã trao cho ông với cộng đoàn mà ông phụ trách.
Lúc đầu, vị giáo sĩ kia chẳng hiểu Gioan muốn nói gì.
Gioan nói tiếp: - Tôi hỏi về linh hồn của chàng thanh niên mà tôi đã giao phó cho ông đó.
Vị giáo sĩ đáp: - Than ôi, cậu ta đã chết rồi.
Gioan ngạc nhiên hỏi: - Chết rồi à?
Vị giáo sĩ tiếp:
- Cậu ta đã chết đối với Chúa. Cậu ta đã bỏ Chúa. Sau khi phạm tội trọng, cậu ta đã bỏ thành phố trốn lên núi, và bây giờ là một tướng cướp ở trên núi.
Gioan lập tức lên núi, ông cố tình để cho bọn cướp bắt. Chúng điệu ông đến trước mặt tên lãnh chúa của mình. Nhìn thấy Gioan, anh ta xấu hổ, bỏ chạy cốt ý để tránh mặt ông. Thế nhưng, mặc dầu đã cao tuổi, Gioan vẫn đuổi theo chàng ta. Ông kêu to:- Con ơi, con nỡ chạy trốn cha sao? Cha đã cao tuổi và yếu lắm rồi, hãy thương cha, con ơi! Đừng sợ! Con vẫn còn hi vọng để được cứu. Cha sẽ đứng với con trước mặt Chúa Giêsu Cứu Thế. Nếu cần, cha sẽ vui lòng chịu chết thay cho con như Ngài đã chịu chết thay cho cha. Hãy đứng lại, hãy đứng lại, hãy tin cha! Chính Chúa Cứu Thế đã sai cha đến cùng con đây. Tiếng gọi làm nát lòng chàng thanh niên. Anh ta dừng lại, vứt bỏ khí giới và khóc. Hai người xuống núi, chàng thanh niên được đưa trở về với Hội Thánh, trở lại cùng Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta thấy tình yêu thương và lòng can đảm của Gioan vẫn hành động.
Chính thánh Hirônêmô đã kể lại câu chuyện về mấy lời cuối cùng của Gioan. Lúc ông hấp hối, các môn đệ hỏi ông còn gì để trối lại cho họ không. Ông bảo: “Hỡi các con bé bỏng của ta, hãy yêu mến lẫn nhau”. Ông lặp đi lặp lại nhiều lần, họ lại hỏi ông phải đó là tất cả những gì ông muốn nói hay không, ông đáp: “Như thế là đủ, vì đó là mệnh lệnh của Chúa”.
Gioan sống rất lâu, đến độ có tiếng đồn ông sẽ sống cho đến lúc Chúa Giêsu trở lại. Gioan sống để làm chứng nhân cho Chúa. Chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta trở thành chứng nhân cho Ngài.
26/12 Tử Đạo tiên khởi
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Tử Đạo tiên khởi.
Thứ Ba – Ngày thứ hai tuần Bát Nhật Giáng Sinh – THÁNH TÊPHANÔ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI. Lễ kính.
"Không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha"
LỜI CHÚA: Mt 10,17-22
Ngày ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng:
"Chúng con hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp chúng con cho công nghị, họ sẽ đánh đòn chúng con nơi hội đường. Vì Ta, chúng con sẽ bị điệu đến trước vua quan, để làm chứng trước mặt họ và các dân.
Nhưng khi người ta nộp chúng con, chúng con chớ lo lắng phải nói sao và nói gì, vì không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha chúng con sẽ nói thay cho.
Anh sẽ nộp em cho người ta giết, cha sẽ nộp con, con cái chống đối cha mẹ và làm cha mẹ phải chết.
Vì Ta, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu rỗi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Xin nhận lấy hồn con
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Giáo Hội mừng kính lễ thánh Têphanô vào ngay sau lễ Giáng Sinh.
Ngài đã chết như chứng nhân đầu tiên cho Chúa Giêsu.
Người làm chứng đã trở thành người tử đạo.
Stêphanô là một phó tế đầy đức tin và Thánh Thần (Cv 6, 5),
đầy ân sủng và quyền năng, làm được những điềm thiêng dấu lạ (c. 8).
Ông gặp sự chống đối từ một số người Do Thái gốc Hy Lạp (c. 9).
Nhưng họ không địch nổi sự khôn ngoan và Thần Khí nơi ông.
Ông đã bị bắt, bị đem ra xử trước Thượng Hội Đồng (c. 12).
Stêphanô đã giảng một bài dài về dòng lịch sử cứu độ (Cv 7).
Chính bài giảng này đã khiến họ tức điên lên chống lại ông.
Khi đứng trước Thượng Hội Đồng Do Thái giáo,
khuôn mặt của Stêphanô giống như thiên thần (Lc 6, 15).
Ông nhìn lên trời, thấy trời mở ra và thấy vinh quang Thiên Chúa.
Nhưng hình tượng quan trọng ông thấy là Đức Giêsu.
Ngài đang đứng ở bên hữu Thiên Chúa, ở vị trí danh dự (c. 56).
Ông đã tuyên xưng trước mặt mọi người điều mình vừa thấy.
“Tôi thấy Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa. ”
Stêphanô gọi Đức Giêsu là Con Người,
một lối nói Đức Giêsu vẫn hay dùng để nói về bản thân.
Tuyên xưng của ông bị coi là xúc phạm đến Thiên Chúa.
Những người nghe đã xông vào, lôi ông đi và ném đá ông ở ngoài thành.
Stêphanô bị ném đá vì tội nói phạm thượng (cc. 57-58).
Thật ra ông đã chỉ làm chứng về Đấng Công Chính là Đức Giêsu (c. 52).
Cái chết tử đạo của Stêphanô được thánh Luca kể lại
với những nét giống với cái chết trước đó của Đức Giêsu.
Cái chết của ông là cái chết an hòa và bao dung.
Như Đức Giêsu trên thập giá, ông chết khi ông đang cầu nguyện.
Đức Giêsu đã kêu lên Thiên Chúa, Đấng mà Ngài âu yếm gọi là Cha:
“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46).
Khi cận kề với cái chết, Stêphanô cũng cầu xin với Đấng ông vừa thấy:
“Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con” (c. 59).
Ông gọi Đức Giêsu phục sinh là Chúa và ông trao đời ông cho Ngài,
như Ngài đã trao đời Ngài trong Cha.
Như Đức Giêsu, Stêphanô đã kêu một tiếng lớn trước khi chết,
Ông chết trong tư thế quỳ, đống đá đè trên người ông và vùi lấp ông.
Ông chết trong tư thế cầu nguyện cho kẻ giết mình.
“Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (c. 60).
Bầu khí xử án Stêphanô là bầu khí của Ba Ngôi.
Có sự hiện diện của Thiên Chúa, của Chúa Giêsu và Thánh Thần.
Thánh Thần giúp chúng ta làm chứng về Chúa Giêsu cho thế giới.
Ơn gọi Kitô hữu bao giờ cũng đòi chúng ta lội ngược dòng.
Ngược dòng với thế gian, với những cám dỗ đến từ chính lòng mình.
Không chỉ trao linh hồn ta vào tay Chúa lúc ta gần chết,
chúng ta phải trao đời ta vào mỗi buổi sáng và trong suốt hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá, những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có, tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: Triều thiên
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tê-pha-nô là triều thiên. Ngài là triều thiên của người môn đệ. Được vinh dự tôn kính ngay sau ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Không chỉ vì là vị tử đạo đầu tiên trong Hội Thánh. Nhưng còn vì ngài nên giống Chúa Giê-su. Nên một với Chúa Giê-su. Và vì thế trở thành vị chứng nhân cho Nước Trời.
Tê-pha-nô là triều thiên của người môn đệ. Vì ngài theo sát Chúa Giê-su. Hoàn toàn từ bỏ mình. Vác thánh giá mình mà theo Chúa. Như Chúa truyền dạy. Ngài kết hợp mật thiết với Chúa. Và nhất là đã đồng hoá với Chúa. Chịu chết như Chúa. Và trong giờ chết ngài ăn nói cư xử y hệt Chúa. Như Chúa ngài phó thác linh hồn khi kêu lên: “Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con”. Như Chúa ngài xin tha thứ cho kẻ giết mình: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Phải kết hợp chặt chẽ với Chúa Giê-su nên trong giờ phút nguy nan nhất lời nói và hành động bộc phát ra như trong lòng đã ấp ủ sâu xa.
Tê-pha-nô là triều thiên của các chứng nhân. Vì ngài không chỉ làm chứng bằng lời nói. Nhưng còn bằng chính đời sống. Ngay lúc bị xử tử ngài làm chứng rằng: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và con Người đứng bên hữu Thiên Chúa”. Thật là một bằng chứng hùng hồn. Chân thực và sống động. Ngài chẳng màng gì đến thân xác trần gian đang bị hành hạ đau đớn. Ngài chỉ hướng về trời. “Ông đăm đăm nhìn trời”. Và thấy vinh quang Thiên Chúa đã làm quên đi những đau khổ đang hành hạ. Đó là bằng chứng trung thực nhất.
Ngài đã thực hiện đúng lời Chúa: “Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho các dân ngoại”. Và còn hơn nữa: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”. Quả thật, Tê-pha-nô đầy tràn Thánh Thần nên “họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông”.
Ngài quả thật là triều thiên của Chúa ban cho nhân loại. Xin triều thiên ngài chiếu sáng tâm hồn con. Để con được trở nên môn đệ đích thực. Và làm chứng cho Nước Trời trong thế giới tục hoá ngày càng mạnh này.
Suy Niệm 3: Cuộc Tử Ðạo Tiên Khởi Của Thánh Stêphanô
(Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Hôm nay lễ kính thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội. Giữa bầu khí an bình hân hoan của Mùa Giáng Sinh mà mừng kính một vị tử đạo thì xem ra không bình thường, vì sự tử đạo thường gợi lên máu đào và chết chóc. Nhưng chắc chắn Giáo Hội đã có một lý do rất đặc biệt để mừng lễ của vị tử đạo tiên khởi này vào ngay sau Lễ Giáng Sinh.
Trong lá thư gởi cho các thiếu nhi khắp thế giới được ký vào ngày 3/10/1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II xem ra muốn giải thích cho chúng ta cái lý do sâu xa ấy. Ngài viết cho các em thiếu nhi như sau: "Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là đến ngày lễ theo truyền thống của Cựu Ước, tám ngày sau đó Hài Nhi đã được đặt tên, tên của Ngài là Giêsu".
Sau bốn mươi ngày chúng ta tưởng niệm việc Ngài được dâng hiến trong đền thờ giống như bất cứ đứa con trai đầu lòng nào của Israel. Trong dịp này, một cuộc gặp gỡ phi thường đã diễn ra, vừa cùng với Hài Nhi đến trong đền thờ, Mẹ Maria đã gặp cụ già Simêon. Cụ đã bồng Hài Nhi Giêsu trên tay và tiên báo như sau: "Lạy Chúa, giờ đây xin để tôi tớ Chúa được ra đi bình an theo như lời Chúa hứa, vì chính tôi tớ Chúa đã thấy ơn cứu độ mà Ngài đã chuẩn bị trước mặt muôn dân. Ðó là ánh sáng soi cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài". Sau đó ông nói với Mẹ Maria: "Con Trẻ này sẽ là duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy, Con Trẻ là dấu hiệu bị người đời chống đối, và chính là một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà. Ngõ hầu những ý nghĩ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra".
Như vậy, ngay từ những ngày đầu của cuộc đời Chúa Giêsu, chúng ta đã nghe được lời tiên báo về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, và cũng ám chỉ đến cuộc tử đạo của Maria, Mẹ Ngài. Ngày thứ Sáu Tuần Thánh, Mẹ sẽ đứng thinh lặng bên Thập Giá của Con Mẹ. Cũng thế, không bao lâu sau khi Chúa Giêsu được sinh hạ thì Hài Nhi Giêsu đã phải đương đầu với một mối đe dọa trầm trọng. Ông vua hung bạo Hêrôđê sẽ ra lệnh tàn sát tất cả các trẻ em dưới hai tuổi. Và vì lý do này, Chúa Giêsu sẽ phải bị bắt buộc cùng với cha mẹ trốn sang Ai Cập.
Chắc hẳn tất cả chúng con đã biết các biến cố gắn liền với việc sinh hạ của Chúa Giêsu. Cha mẹ chúng con, các linh mục, các giáo lý viên và những biến cố ấy, và cùng với toàn thể Giáo Hội, mỗi người trong chúng con sống lại một cách thiêng liêng trong biến cố ấy trong Mùa Giáng Sinh. Như vậy, chúng con đã biết những khía cạnh bi thảm trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu.
Sống lại một cách thiêng liêng những biến cố bi thảm trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu, đó không phải là những lời nhắn nhủ mà Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II gởi riêng cho các em thiếu nhi. Vì qua các em, Ngài cũng mời gọi tất cả mọi người sống một cách thiêng liêng cuộc tử nạn của Chúa Giêsu ngay trong chính mầu nhiệm Giáng Sinh.
Mầu nhiệm Giáng Sinh gắn liền với mầu nhiệm Tử Nạn Thập Giá của Ngài. Hài Nhi nằm trong máng cỏ nghèo hèn, cuộc tử nạn đã được báo trước, có lẽ đó là lý do tại sao ngay ngày thứ nhất của tuần bát nhật Giáng Sinh, Giáo Hội mừng kính vị thánh Tử Ðạo tiên khởi là thánh Stêphanô.
Thật thế, Tin Mừng hôm nay nhắc nhở cho chúng ta về mầu nhiệm tử nạn được tiếp diễn trong lịch sử Giáo Hội. Trong ánh sáng của mầu nhiệm Giáng Sinh. Phải chăng chúng ta không được mời gọi để nhận ra bóng đêm của mầu nhiệm tử nạn? Bóng Thánh Giá phải chăng đã không chập chờn phủ xuống trên máng cỏ của Hài Nhi Giêsu? Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ ôn lại những bi thảm trong thời thơ ấu của Ngài. Khi tưởng niệm việc tử đạo vị thánh tiên khởi của Giáo Hội, chúng ta hẳn phải được nhắc nhở về số phận ơn gọi làm Kitô hữu của chúng ta, đó là bước theo Chúa Giêsu qua từng giai đoạn của cuộc sống Ngài, và như Ngài, như vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội đã vạch ra cách sống kiên trung cho đến cùng trong sứ mệnh làm chứng cho Chúa.
Ước gì niềm vui Giáng Sinh củng cố chúng ta trong những cố gắng theo Chúa Giêsu, sẵn sàng đón nhận và đương đầu với những thử thách bách hại mà Thiên Chúa an bài gởi đến cho chúng ta, như Ngài đã loan báo trước: "Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người thù ghét".
Suy Niệm 4: Muốn được Chúa bình an, phải đương đầu với nhiều đối kháng
Chúng ta mới mừng lễ Chúa Giáng Sinh ngày hôm qua, dân Chúa tiếp tục phụ họa tiếng hát thiên thần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Lời ca này như còn đang văng vẳng bên tai, thế mà ngày hôm sau (26/12), Phó tế Stêphanô là mẫu người sống hết lòng tin theo Chúa Giêsu, thì bình an chẳng đến với ông, trái lại bị nhiều người căm phẩn, họ hùa nhau ném đá cho chết, đó là mẫu người được hưởng sự bình an Chúa Giáng Sinh ban đấy ư? Đúng thế, Chúa Giêsu đã nói với những môn đệ đi theo Ngài: “Thầy ban bình an chúng con không như thế gian ban” (Ga 14,27). Do đó, những kẻ ước mơ thứ bình an “rẻ tiền” để hưởng thụ, thì Chúa Giêsu dạy: “Đừng tưởng Ta đến đem bình an trên mặt đất, ta đến không phải đem bình an, mà là đem gươm giáo. Ta đến gây chia rẽ ngay nơi những người trong cùng một gia đình, và kẻ thù của người ta lại là người nhà của mình” (Mt 10,34-36). Quả thật, những người Do Thái cùng gọi Thiên Chúa là Cha, cùng tôn thờ Ngài theo Luật Môsê hướng dẫn để tin vào Chúa Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất (x Gl 3,24), thì chính những người này lại đối nghịch với ông Stêphanô, vì ông đã chia rẽ niềm tin của họ. Đó là lý do họ quyết liệt loại trừ ông khỏi mặt đất.
Chúng ta còn nhớ ngày Đức Giêsu bị xét xử, ông Philatô không muốn nhúng tay vào tội ác giết Ngài, nên ông nói với người Do Thái: “Các ông cứ đem xử theo Luật của các ông”, thì người Do Thái lại trả lời: “Chúng tôi không có phép lên án xử tử ai” (Ga 18,31). Người Do Thái trả lời cho ông Phi-la-tô như thế, là vì vào thời ấy, Do-thái đang bị đặt dưới ách thống trị Roma, quyền bính Roma không cho phép người Do Thái lên án xử tử ai, dù Luật Do Thái cho phép họ ném đá kẻ nào phạm đến Luật Môsê. Thế mà tại sao những người Do Thái lại tự quyền ném đá ông Stê-pha-nô? Thưa vì vào năm 36, tổng trấn Phi-la-tô đang cai trị miền Giu-đa, ông bị hoàng đế triệu về Roma, mãi đến năm 37 Roma mới đặt tổng trấn Marxili cai trị miền Giuđa, như thế người Do Thái lợi dụng lúc không có ai điều hành pháp luật, họ đã ném đá Stêphanô cho chết ! Sự cố này đã làm ứng nghiệm Lời Chúa Giê-su nói: “Kẻ thù là người nhà của mình” (Mt 10,36). Khi Phó tế Stêphanô bị “người nhà” ném đá, tâm tư ông giống hệt Chúa Giêsu, lúc sắp chết ông hướng tâm hồn về đồi Golgotha, chiêm ngưỡng Đức Giêsu bị treo trên thập giá, và ông bắt chước Ngài cầu nguyện cho kẻ hại mình: “Lạy Chúa Giêsu, xin đoái nhận hồn con, và xin Chúa đừng chấp tội kẻ hại con” (Lc 23,34-46 = Cv 7,59-60). Như thế nội dung lời cầu nguyện của ông Stêphanô giống hệt nội dung lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá, chỉ khác một điều là ông đã đảo lộn thứ tự lời cầu: Đức Giêsu thì cầu nguyện cho kẻ hại mình trước, sau đó mới phó dâng linh hồn cho Chúa Cha, xem ra như Ngài muốn yêu sách: Nếu Cha không tha tội cho kẻ hại Con, thì Con không dám dâng hồn Con cho Cha ; Còn ông còn Stêphanô, vì là phàm nhân nên cần được Thiên Chúa cứu độ mình trước, ông mới có khả năng cứu được người khác, nên ông đã cầu nguyện: Xin Chúa đón nhận lấy hồncon trước, sau đó ông mới xin Chúa tha tội cho kẻ giết ông. Chính nhờ ông Stêphanô biết cầu nguyện cho kẻ hại mình, ông đã thực hành đúng Lời Đức Giêsu đã dạy: “Hãy yêu mến thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Sống như thế mới được đồng danh với Chúa Giêsu vì cùng là Con Đấng Tối Cao (x Lc 1,32 = Lc 6,35). Nhờ ông Stêphanô cầu nguyện cho những kẻ giết mình, nhất là cầu cho Saulô, kẻ ôm áo động viên những người Do Thái ném đá ông (x Cv 7,58: Bài đọc). Hiệu quả lời cầu nguyện ấy là Chúa biến “sói Saulô” thành “bồ câu Phaolô” đem Tin Mừng bình an đến cho muôn dân. Đó mới thực là phúc bình an Chúa ban cho ai biết dùng “gươm” chân lý để chiến đấu. Bởi vậy trong giờ Kinh Phụng Vụ buổi Sáng kính thánh Stêphanô, Hội Thánh đã đặt vào miệng chúng ta lời Thánh vịnh: “Thanh gươm hai lưỡi (Lời Chúa) cầm chắc trong tay, để trả thù muôn nước và trừng trị chư dân, để xiềng chân vua chúa (kẻ ác), và xích cổ vương hầu, để thi hành án phạt, Chúa đã viết từ xưa, đó là niềm vinh dự cho những kẻ trung hiếu với Người” (Tv 149,6-9).
Để sống niềm tin vào Chúa Kitô như ông Stêphanô, chúng ta phải cầu nguyện: “Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn con, xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ con. Xin giải thoát con khỏi tay địch thù, khỏi người bách hại con” (Tv 31/30, 3. 4. 6a. 16bc: Đáp ca).
Suy Niệm 5: Tin vào Chúa Kitô là hy vọng nơi ngày cánh chung
(Linh mục Giuse Đinh Quang Thịnh)
Trong mùa Vọng, người Kitô hữu ai cũng thích nghe lời ngôn sứ Isaia tiên báo về thời đại Thiên Chúa ra tay cứu độ loài người thoát khỏi mọi sự dữ: “Sói sống chung với chiên, trẻ con thọc tay vào hang rắn lục…” (Is 11,1-4: Bài đọc). Có nghĩa là vào thời Con Thiên Chúa làm người, kẻ ác không còn làm hại người lành, sự thiện thắng sự dữ, hoặc kẻ ác, người lành vẫn sống chung hòa bình, nhờ Đấng Cứu Thế đến như Mục Tử chăn dắt con chiên thuộc ràn của Ngài. Thế mà Đấng ấy đã đến trần gian gần 40 năm rồi, và Ngài đã đánh gục tử thần, sống lại vinh hiển ; rồi về Trời dọn chỗ cho những kẻ đi chung đường phục vụ với Ngài (x 1Ga 2,6), và tiếp tục tuôn đổ bình an xuống cho loài người Chúa thương. Vậy tại sao Chúa lại để cho “sói Saulô” vẫn ăn thịt “chiên Stêphanô”, và rắn lục là các đầu mục Do Thái vẫn cắn chết “trẻ thơ Stê-pha-nô”?
Thắc mắc này chỉ có thể trả lời vào ngày cánh chung, vì ngày ấy mới thấy “sói Saulô” và “chiên Stêphanô” sống chung với nhau. Khi ấy “sói Saulo” và “chiên Stêphano” có thể đùa giỡn với nhau.
Hãy hình dung:
Stêphanô vừa thấy Phaolô tới cửa Thiên Đàng, ông Stêphanô lên tiếng thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, tên này xưa kia động viên người ta ném đá con, nay hắn lại vào đây, chắc rồi hắn sẽ lại kích động cả các thần thánh ném đá Chúa không chừng?
Ông Phaolô cũng không vừa, ông kêu cầu tới Chúa:
- Lạy Chúa, Ngài dạy phải tha thứ cho kẻ thù mình tới 70 lần 7 mỗi ngày, thế mà anh Stêphanô này được vào Thiên Đàng trước con mà tâm hồn vẫn còn chấp nhất tìm cách trả thù kẻ đã hại mình kìa.
Lúc ấy, hẳn Chúa Giêsu lên tiếng can thiệp:
- Thôi mà hai anh em con đừng chọc ghẹo nhau nữa.
Thế là hai ông ôm nhau khóc bởi qua vui mừng: Nhờ Stêphanô đã cầu nguyện cho Saulô mà Chúa xuất hiện đón lấy hồn Stêphanô ; còn Saulô được Stêphanô cầu nguyện mà ông trở nên Tông Đồ xuất sắc không thua các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5), nay cùng nhau được sum họp trên Thiên Đàng hưởng phúc vinh với Chúa.
Vậy hai ông Stêphanô và Phaolô đã minh họa “sói – chiên” sống chung với nhau trong bình an vô tận với Chúa.
Suy Niệm 6: Vinh dự lớn lao là được chết cho Chúa
Xét theo góc độ con người thì khi chúng ta nghe bài Tin Mừng hôm nay, hẳn mỗi người cảm thấy buồn buồn! Buồn bởi vì niềm vui mừng, hân hoan của cả thế giới đón chào Chúa Giáng Sinh chưa hết, thì hôm nay, lời Đức Giêsu làm chúng ta không khỏi ngỡ ngàng cho những ai bước vào sứ mạng làm môn đệ của Đức Giêsu, Ngài phán: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy”.
Lời loan báo của Đức Giêsu đi ngược hẳn với các nhà lãnh đạo thế gian. Thật vậy, khi muốn chiêu mộ ai, người đời thường đưa ra những lời đường mật, an ủi, họ đưa dẫn chúng ta đi trên con đường đầy hoa thơm, và hứa hẹn những sự dễ dãi ... cho người mà họ muốn chiêu dụ ... Nhưng làm môn đệ của Đức Giêsu thì khác hẳn: những thử thách, đau thương và đôi khi cả chính cái chết là là những quà tặng mà người môn đệ sẽ nhận được trong cuộc đời sứ vụ của mình.
Kinh nghiệm cho thấy, trải qua biết bao thế hệ, hàng hàng, lớp lớp những môn đệ của Đức Giêsu khắp năm châu đã phải đón nhận những hệ quả tang thương đó. Tuy nhiên, những đau khổ đó không thể làm chùn chân bước của các môn đệ. Lớp này ngã xuống, lớp kia đứng lên, đến nỗi những người gây ra những tội ác đó cũng phải ngỡ ngàng và không hiểu nổi! Tuy nhiên, đối với chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta hiểu được nguyên lý đó, vì: “Hạt lúa cuộc đời phải mục nát đi thì mới sinh được nhiều bông hạt khác”; hay “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu”. Đây là nguyên lý bất hủ và trường tồn vĩnh viễn nơi những người con của Chúa. Vì thế, không ai và không có gì có thể dập tắt được tình yêu của những người “say men Giêsu”.
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng kính lễ thánh Têphanô, ngài là một người can đảm, anh hùng hào kiệt. Chắc hẳn, thánh nhân đã cảm nghiệm được sâu xa nguyên lý của hạt lúa trong thân phận tự hủy. Bởi lẽ, sự hào hùng, can trường mới làm toát lên đặc tính của những người thuộc về Đức Kitô là: không bao giờ và không thể chấp nhận thỏa hiệp với sự dữ, sự tội. Vì thế, thánh nhân đã xuất sắc trong khi thi hành sứ vụ, bởi vì ngài được tình yêu Đức Kitô nung đốt tâm hồn. Thánh Têphanô xứng đáng lãnh nhận lời khen ngợi của Kinh Thánh: ngài là người “đầy lòng tin và đầy Thánh Thần". Quả thật, ngài đã hăng say rao giảng về Đức Giêsu, và sẵn sàng đón nhận chính cái chết để làm chứng về Đấng mà mình loan báo.
Thánh Têphanô đã thay đổi thế cuộc, vì lúc ban đầu là một phiên tòa ghê rợn với bản án tử hình khủng khiếp với trò ném đá đến chết bị cáo; cảnh náo động bao trùm phiên tòa bất chính này, nhưng bị cáo hôm nay thì khác hẳn, và chính lúc mọi người thi hành án thì ngài lại cảm thấy bình an, thanh thoát, nhẹ nhàng và tràn đầy hy vọng. Khung cảnh này đã làm đảo ngược tình thế, và cáo trạng mà người ta gán ghép cho Têphanô giờ đây lại chất vấn lương tâm họ, khiến họ cảm thấy bất an và lo sợ.
Trong xã hội ngày nay, nhiều người trong chúng ta còn ái ngại, dè dặt khi loan báo về sự thật mà Giáo Huấn của Đức Giêsu cũng như Giáo Hội mời gọi. Có khi vì cảm thấy sợ hãi, liên lụy đến tính mạng mà im hơi lặng tiếng để cho qua cầu; hoặc cũng có thể rơi vào tình trạng như đức Hồng Y Thuận đã nói: họ là những hạng người: “Sợ tiếng chửi và ăn mày tiếng khen”, nên khi không có lợi cho bản thân là họ sẵn sàng trở thành kẻ nịnh thần để cho xong chuyện ...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta can đảm, trung thành làm chứng cho Chúa dẫu có gặp phải thử thách gian truân. Noi gương thánh Têpphanô, sống chết vì sứ vụ, miễn sao sự thật được loan báo và Đức Kitô được tin nhận.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con khi mừng kỷ niệm ngày Chúa giáng trần, thì cũng hiểu được sứ vụ của Chúa trong tương lai và trách nhiệm của người môn đệ khi bước theo Chúa trên con đường đó. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Không thuộc về thế gian
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu tiên báo sự bách hại. Tin theo Chúa, chúng ta sẽ bị người đời đối kháng. Nhưng ta không được sợ hãi, vì Chúa Thánh Thần hằng hoạt động trong ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, ý định của Chúa khi Chúa đến trần gian là để con được trở nên con người sống cho Thiên Chúa, không thuộc về thế gian. Và như thế con sẽ gặp cảnh bị ghét bỏ. Có những lúc vì sống theo Lời Chúa, con bị thế gian cười chê. Con cũng có thể bị mất nhiều quyền lợi chỉ vì con thuộc về Chúa. Ngay trong gia đình có thể con còn bị cả người nhà ghét bỏ nữa.
Cuộc đời của con theo Chúa là cuộc đời chết cho chính mình. Con sẽ luôn nhìn lên Chúa để sống. Con cũng sẽ luôn nhìn lên thánh giá để noi gương. Thánh Tê-pha-nô hôm nay Giáo hội mừng kính quả là gương chói ngời cho con. Con cũng được diễm phúc như Ngài: con đã là một người thuộc về Chúa. Con đã được diễm phúc mang danh là Kitô. Thánh Tê-pha-nô đã bị chống đối. Ngài đã bị khổ đau. Và Ngài đã thể hiện cuộc sống theo Tin mừng. Xin cho con được sống chết cho Nước Trời như Ngài, bất chấp chống đối hiềm thù.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã tuyên báo cho con biết về sự bách hại vì đạo mà con sẽ nhận lãnh trong suốt cuộc đời theo Chúa. Từ thế gian, từ gia đình, đều có những sự dấy lên ghì con sống khác Chúa. Xin Chúa giúp con luôn. Xin Chúa trợ giúp con liên tục để con được mạnh sức và khôn ngoan sống theo gương Chúa như thánh Tê-pha-nô đã sống. Xin cho con được kiên trì dâng hiến khi gặp những khó khăn vì Tin mừng và sẵn sàng yêu thương tha thứ cho mọi người gây khó dễ cho con. Cả khi họ làm hại con, xin cho con được biết thương yêu và cầu nguyện cho họ nữa. Amen.
Ghi nhớ: “Không phải chúng con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha”.
Suy Niệm 8: Thánh Têphanô Tử đạo
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1 Theo bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết: các ông sẽ bị người ta ganh ghét, bách hại. Họ sẽ tố cáo và sẽ nộp các ông cho vua quan. Có khi cả người thân trong gia đình cũng tố cáo giết hại nhau.
Đó là dịp may để các ông làm chứng cho Chúa. Lúc đó, Chúa Thấn Thần sẽ soi sáng cho các ông ăn nói khôn ngoan. Và ai bền đỗ theo Chúa đến cùng thì được cứu rỗi.
Thánh Têphanô được phúc chết vì Chúa trước hết. Như thế, Chúa muốn cho chúng ta biết: môn đệ phải gặp khó khăn bách hại mới xứng với Thầy, sống chết như Người ...
2. Thánh Têphanô là một trong bảy phó tế trong Giáo hội tiên khởi. Nhiệm vụ của Ngài là quản lý tài sản của Giáo hội và thường đi thăm các tín hữu trong các hang toại đạo. Ngài là người tử đạo đầu tiên của Giáo hội Công giáo. Ngài đã đi theo đúng đường lối hy sinh anh dũng của Chúa Giêsu, và do đó, được hưởng ơn cứu chuộc bằng chính máu đào đổ ra để minh chứng cho tình yêu.
Hôm qua chúng ta mừng kính Sinh nhật của Đấng Cứu Thế sinh ra cho trần gian. Hôm nay chúng ta lại mừng ngày sinh vào Nước Trời của thánh Têphanô vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội đã sống một đời sống đau khổ khải hoàn, nay về trời.
3. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Đức Giêsu loan báo cho các Tông đồ về những sự bách hại trên đường truyền giáo của các ông.
Câu mở đầu: “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói ... ” (Mt 10,16) kết thúc những lời Đức Giêsu huấn thị khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, đồng thời cũng là câu cảnh giác các Tông đồ trước những sự nguy hiểm trên bước đường truyền giáo.
Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng yên ủi và khích lệ các ông, vì bị bách hại là số phận thường tình của người môn đệ, vì chỉ có thế, Nước Trời mới đến được trần gian này. Nhưng giữa những cuộc bách hại, người môn đệ có được hai lý do để hãnh diện và an ủi mình:
- Một là mình vì Thầy mà bị bách hại.
- Hai là bách hại lại là dịp để đưa lời chứng hùng hồn của mình ra trước Hội đồng Do thái, vua chúa quan quyền ngoại giáo về Thầy.
4. Cái chết của thánh Têphanô là mở đầu cho cuộc bách hại trong Giáo hội. Chúng ta gọi những người được chết vì Chúa là các “người tử đạo”. Hai chữ ‘Tử đạo” chúng ta quen dùng ngày nay có nguyên ngữ Hy Lạp là Martus nghĩa là làm chứng. Người tử đạo là người làm chứng cho Chúa bằng chính những đau khổ và cái chết của mình. Bởi đó trong đoạn Tin Mừng này, khi báo trước những sự bách hại, Đức Giêsu nói: “Chúng con sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng ... ”
5. Những cuộc bách hại các Kitô hữu chắc chắn sẽ xẩy đến, nhưng đó là dịp tốt để họ làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người. Cái chết làm chứng của thánh Têphanô và các thánh Tử đạo làm ứng nghiệm những lời Chúa nói. Cuộc bách hại vì danh Chúa Kitô có thể xẩy ra ngay trong gia đình, giữa những người thân thuộc, là thành viên trong gia đình , có khi tôi phải chịu thiệt thòi, bất công, chỉ vì muốn sống theo thánh ý Chúa. Tôi có dám coi đó là cơ hội tốt để làm chứng cho Chúa không?
6. Trong cuộc Tử đạo của thánh Têphanô, chúng ta thấy Ngài có một thái độ hết sức đáng khâm phục, đó là biết tha thứ cho kẻ hành hạ mình. Sách Công vụ Tông đồ còn ghi lại: Họ ném đá Têphanô đang lúc ông cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quì xuống kêu lớn tiếng: “ Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ (Cv 5,59-60).
Thánh Têphanô là người chứng thứ nhất tái hiện sự tha thứ mà Chúa Giêsu đã thực hiện trên thánh giá. “Lấy ân báo oán” là phương châm hành động của thánh Têphanô. Không có cách trả thù nào cao quí hơn bằng yêu thương, tha thứ cho chính kẻ thù. Lấy bạo động để tiêu diệt bạo động, con người chỉ đổ thêm dầu vào ngọn lửa hận thù và kích thích thêm bạo động mà thôi, chỉ có tình thương, chỉ có lòng tha thứ mới có thể tiêu diệt được hận thù. Têphanô đã làm như Chúa Giêsu đã làm: “Trên Thập giá, Chúa đã tiêu diệt sự hận thù” (Ep 2,16).
7. Truyện: Tình yêu thắng hận thù.
Một binh sĩ người Anh đã viết cho một người mẹ Đức như sau: “Là một quân nhân của một lực lượng được chỉ định tấn công vào một ngôi làng ở Pháp, phận sự trong quân ngũ đã khiến tôi giết chết con bà. Tôi là một tín hữu Kitô giáo, và vì lẽ đó, tôi thành khẩn xin bà hãy tha thứ cho tôi. Tôi hy vọng là một ngày kia, khi chiến tranh chấm dứt, tôi có thể đích thân đến gặp bà”.
Mấy tháng sau, khi bà mẹ người lính Đức hay tin con bà tử trận, bà mới nhận được bức thư trên đây, và bà đã trả lời như sau cho người lính Anh:
“Tận thâm tâm, tôi đã tha thứ cho anh, mặc dù anh đã giết chết người con yêu dấu của tôi. Tôi tha thứ cho anh, bởi vì cũng như anh, tôi là một tín hữu Kitô. Nếu anh và tôi đều sống sót sau cuộc chiến, tôi hy vọng anh có thể sang Đức để thăm tôi, và mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, anh có thể thế chỗ cho con tôi, đứa con mà anh đã giết chết”.
Điểm đáng chú ý nhất trong hai bức thư trên, là lời tuyên xưng: “Tôi là một tín hữu Kitô”, và với niềm tin cả anh lính người Anh và bà mẹ người Đức đã để cho Lời Chúa tách họ ra khỏi vòng luẩn quẩn của bạo lực: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, và đưa họ vào con đường yêu thương.
Suy Niệm 9: Cuộc bách hại đối với các môn đệ Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
Phân tích
Chúa Giêsu tiên báo những cuộc bách hại đối với các môn đệ Ngài:
- Bách hại do những nhà cầm quyền thù nghịch với Chúa. Nhưng đó là dịp để ta làm chứng cho Chúa.
- Bách hại do chính những người thân của mình (cha mẹ, anh em, con cái) vì họ không đồng quan điểm đức tin với mình. Nhưng hãy kiên trì, vì “ai bền chí đến cùng thì sẽ được cứu thoát. ”
Suy gẫm
1. Hai chữ tử đạo chúng ta quen dùng ngày nay có nguyên ngữ Hy Lạp là Martus nghĩa là làm chứng. Người tử đạo là người làm chứng cho Chúa bằng chính những đau khổ và cái chết của mình. Bởi đó trong đoạn Tin mừng này, khi báo trước những sự bách hại, Chúa Giêsu nói “Chúng con sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng ... ”
2. Thánh là ai? Ngày kia một em bé theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai mẹ con đi qua một thánh đường nguy nga. Em bé ngước nhìn thánh đường rồi đưa tay chỉ mẹ và nói: “Mẹ xem kìa, những cửa kính màu bám đầy bụi, trông chả đẹp tí nào. ”
Bà mẹ không nói gì, nhưng lại nắm tay con dẫn vào bên trong thánh đường. Từ bên trong thánh đường nhìn ra, những cửa kính dơ bẩn xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc tuyệt đẹp. Em bé ngạc nhiên mở to mắt nhìn. Em thích thú đặc biệt khi ngắm nhìn 4 vị thánh trên cửa kính sau bàn thờ đang rực rỡ chói lòa nhờ ánh mặt trời chiếu thẳng qua.
Vài ngày sau, trong một lớp giáo lý, tình cờ cô giáo hỏi: “Các em có biết vị thánh là ai không?” Trước câu hỏi bất ngờ, cả lớp đều thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào nhà thờ hôm trước giơ tay xin trả lời. Em nói: “Thưa cô, vị thánh là người được ánh sáng mặt trời chiếu qua. ”
Stêphanô là một vị thánh vì ngài đã phản ánh Chúa Giêsu, nhất là qua cái chết của ngài. Bài đọc I (Cv 6,8-10 7,54-60) tường thuật ngài chết giống Chúa Giêsu: cũng phó linh hồn trong tay Chúa (c. 59) và cũng cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ hại mình (c. 60).
3. “Vì danh Thầy các con sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền đỗ đến cùng thì sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22)
Một người bạn hỏi tôi: “Bạn có thấy anh ấy đã làm điều xấu xa đó không?” Dù thấy nhưng tôi đã trả lời không, vì anh ấy là con của thầy hiệu phó, và vì tôi không muốn bị liên luỵ. Điều này làm tôi ray rứt. Tôi cảm thấy xấu hổ vì đã nhát đảm không dám nói lên sự thật.
Thánh Stêphanô đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho sự thật. Còn tôi hôm nay chưa phải hy sinh đến mạng sống mà đã chối quanh, thì thử hỏi làm sao dám bênh vực và đấu tranh cho sự thật?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, có những lúc con đã sống hèn yếu như vậy. Xin cho con cảm nghiệm được sự bình an và niềm hạnh phúc của người biết làm chứng cho sự thật.
Suy Niệm 10: Thánh Têphanô
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dặn dò các môn đệ ba điều:
- Số phận những người theo Chúa là chịu bắt bớ như Ngài: Họ sẽ nộp anh em cho Hội Đồng. Nhưng trong những thử thách đó, người môn đệ cảm thấy được an ủi, vì đó là dịp làm chứng cho Thầy. Sau này sách Công vụ còn nói: Các Tông đồ hân hoan vì cảm thấy xứng đáng chịu khổ vìChúa Kitô.
- Chúa Thánh Thần sẽ đồng hành với họ trong những cuộc bắt bớ và sẽ dạy họ phải nói gì trước những kẻ bắt bớ. Lý lẽ hùng hồn của Stêphanô đã minh chứng điều đó.
- Lời dặn thứ ba là nhiều khi chính những người thân thuộc sẽ bắt bớ họ, cũng như Chúa Giêsu đã chịu đồng bào mình lên án chết: Anh sẽ nộp em, cha nộp con cho ngươi ta giết.
Khi suy gẫm những lời dặn đò của Chúa hôm nay, tôi có cảm tưởng Chúa cũng đang dặn dò chúng ta như vậy:
- Người tông đồ nhiều khi bị hiểu lầm, bị bách hại. Đó là số phận chung của những người theo Chúa.
- Nhưng trong những thử thách của đời sống đức tin, dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta vui mừng vì có dịp làm chứng cho Chúa.
- Và chúng ta đừng lấy làm lạ, nhiều khi những người làm khổ chúng ta, bách hại chúng ta không là ai khác mà lại chính là những người thân của chúng ta, vì hiểu lầm không biết hay vì ác ý. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị môn đệ thân tín là Giuda bán đứng.
2. Mừng lễ thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương ngài. Ngài là một vị phó tế của cộng đoàn Jêrusalem (Cv 6,5) một người được mô tả là đầy Thánh Thần. Ngài được trao phó làm việc bác ái trong cộng đoàn, nhưng sách Công Vụ cho thấy là các phó tế vẫn tham dự vào việc giảng dạy và bênh vực đức tin. Trước khi chịu chết, Stêphanô đã giảng một bài thật dài và thật hùng hồn, tóm tắt lịch sử ơn cứu độ để minh chứng và qui trách nhiệm cái chết của Chúa Giêsu cho các Thượng tế, luật sĩ và Pharisiêu. Và cũng vì lời giảng dạy đó mà Stêphanô phải chịu ném đá chết.
Cuộc tử đạo của Stêphanô được diễn ra theo mô hình của cuộc khổ nạn của Chúa Kitô: người ta cũng xách động dân chúng làm chứng gian chống lại ông; ông đối chất với Thượng tế có uy quyền trước mặt mọi người. (Cv 6,15). Ông nhìn thấy Con Người tức là Chúa Giêsu bên hữu Chúa Cha (7,55). Ông cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ giết ông (7,60). Cuộc thương khó của thánh Stêphanô giống hệt cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Trong quang cảnh này có nhiều điều đáng ghi nhận về Stêphanô:
a/ Chúng ta thấy được bí quyết lòng can đảm của ông. Vượt trên những gì người ta có thể làm hại ông, ông đã thấy Chúa của ông đang chờ đợi để đón tiếp ông. Ông thấy cái chết của người tử đạo là cánh cửa mở ra, đưa ông đến với Chúa Cứu Thế.
b/ Chúng ta thấy Stêphanô đã có những cách ứng xử thật giống Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã cầu nguyện xin Thiên Chúa tha tội cho kẻ giết Ngài, thì Stêphanô cũng làm y như vậy.
Trong lời cầu nguyện của thánh lễ hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương thánh Stêphanô yêu thương cả kẻ thù.
Một binh sĩ người Anh đã viết cho một người mẹ Đức như sau: "Là một quân nhân của một lực lượng được chỉ định tấn công vào một ngôi làng ở Pháp, phận sự trong quân ngũ đã khiến tôi giết con bà. Tôi là một tín hữu Kitô giáo, và vì lẽ đó, tôi thành khẩn xin bà hãy tha thứ cho tôi. Tôi hy vọng là một ngày kia, khi chiến tranh chấm dứt, tôi có thể đích thân đến gặp bà!"
Mấy tháng sau, khi bà mẹ người lính Đức hay tin con bà tử trận, bà mới nhận được bức thư trên đây, và bà đã trả lời như sau cho người lính Anh:
"Tận thâm tâm, tôi đã tha thứ cho anh, mặc dù anh đã giết chết người con yêu dấu của tôi. Tôi tha thứ cho anh, bởi vì cũng như anh, tôi là một tín hữu Kitô. Nếu anh và tôi đều được sống sót sau cuộc chiến, tôi hy vọng anh có thể sang Đức để thăm tôi, và mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, anh có thể thế chỗ cho con tôi, đứa con mà anh đã giết chết".
Điểm đáng chú ý nhất trong hai bức thư trên, là lời tuyên xưng: "Tôi là một tín hữu Kitô", và với niềm tin xác tín này, cả anh lính người Anh và bà Mẹ người Đức đã không để cho chiến tranh lôi kéo mình vào trong trận chiến của ghen ghét và hận thù. Trái lại, họ đã để cho giáo huấn của Đức Giêsu tách họ ra khỏi vòng luẩn quẩn của bạo lực: "Mắt đền mắt, răng đền răng", và đưa họ vào con đường yêu thương, hoà giải: "Các con hãy yêu thương những kẻ thù địch của các con, hãy làm ơn cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, vu khống các con. " (Mt 5,44). Amen.
Suy Niệm 11: Thánh Têphanô yêu thương những kẻ thù địch
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dặn dò các môn đệ ba điều:
- Số phận những người theo Chúa là chịu bắt bớ như Ngài: Họ sẽ nộp anh em cho Hội Đồng. Nhưng trong những thử thách đó, người môn đệ cảm thấy được an ủi, vì đó là dịp làm chứng cho Thầy. Sau này sách Công vụ còn nói: Các Tông đồ hân hoan vì cảm thấy xứng đáng chịu khổ vì Chúa Kitô.
- Chúa Thánh Thần sẽ đồng hành với họ trong những cuộc bắt bớ và sẽ dạy họ phải nói gì trước những kẻ bắt bớ. Lý lẽ hùng hồn của Stêphanô đã minh chứng điều đó.
- Lời dặn thứ ba là nhiều khi chính những người thân thuộc sẽ bắt bớ họ, cũng như Chúa Giêsu đã chịu đồng bào mình lên án chết: Anh sẽ nộp em, cha nộp con cho ngươi ta giết.
Khi suy gẫm những lời dặn đò của Chúa hôm nay, tôi có cảm tưởng Chúa cũng đang dặn dò chúng ta như vậy:
- Người tông đồ nhiều khi bị hiểu lầm, bị bách hại. Đó là số phận chung của những người theo Chúa.
- Nhưng trong những thử thách của đời sống đức tin, dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta vui mừng vì có dịp làm chứng cho Chúa.
- Và chúng ta đừng lấy làm lạ, nhiều khi những người làm khổ chúng ta, bách hại chúng ta không là ai khác mà lại chính là những người thân của chúng ta, vì hiểu lầm không biết hay vì ác ý. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị môn đệ thân tín là Giuda bán đứng.
2. Mừng lễ thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương ngài. Ngài là một vị phó tế của cộng đoàn Jêrusalem (Cv 6,5) một người được mô tả là đầy Thánh Thần. Ngài được trao phó làm việc bác ái trong cộng đoàn, nhưng sách Công Vụ cho thấy là các phó tế vẫn tham dự vào việc giảng dạy và bênh vực đức tin. Trước khi chịu chết, Stêphanô đã giảng một bài thật dài và thật hùng hồn, tóm tắt lịch sử ơn cứu độ để minh chứng và qui trách nhiệm cái chết của Chúa Giêsu cho các Thượng tế, luật sĩ và Pharisiêu. Và cũng vì lời giảng dạy đó mà Stêphanô phải chịu ném đá chết.
Cuộc tử đạo của Stêphanô được diễn ra theo mô hình của cuộc khổ nạn của Chúa Kitô: người ta cũng xách động dân chúng làm chứng gian chống lại ông; ông đối chất với Thượng tế có uy quyền trước mặt mọi người (Cv 6,15). Ông nhìn thấy Con Người tức là Chúa Giêsu bên hữu Chúa Cha (7,55). Ông cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ giết ông (7,60). Cuộc thương khó của thánh Stêphanô giống hệt cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Trong quang cảnh này có nhiều điều đáng ghi nhận về Stêphanô:
a/ Chúng ta thấy được bí quyết lòng can đảm của ông. Vượt trên những gì người ta có thể làm hại ông, ông đã thấy Chúa của ông đang chờ đợi để đón tiếp ông. Ông thấy cái chết của người tử đạo là cánh cửa mở ra, đưa ông đến với Chúa Cứu Thế.
b/ Chúng ta thấy Stêphanô đã có những cách ứng xử thật giống Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã cầu nguyện xin Thiên Chúa tha tội cho kẻ giết Ngài, thì Stêphanô cũng làm y như vậy. Trong lời cầu nguyện của thánh lễ hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương thánh Stêphanô yêu thương cả kẻ thù. Một binh sĩ người Anh đã viết cho một người mẹ Đức như sau: “Là một quân nhân của một lực lượng được chỉ định tấn công vào một ngôi làng ở Pháp, phận sự trong quân ngũ đã khiến tôi giết con bà. Tôi là một tín hữu Kitô giáo, và vì lẽ đó, tôi thành khẩn xin bà hãy tha thứ cho tôi. Tôi hy vọng là một ngày kia, khi chiến tranh chấm dứt, tôi có thể đích thân đến gặp bà!”
Mấy tháng sau, khi bà mẹ người lính Đức hay tin con bà tử trận, bà mới nhận được bức thư trên đây, và bà đã trả lời như sau cho người lính Anh: “Tận thâm tâm, tôi đã tha thứ cho anh, mặc dù anh đã giết chết người con yêu dấu của tôi. Tôi tha thứ cho anh, bởi vì cũng như anh, tôi là một tín hữu Kitô. Nếu anh và tôi đều được sống sót sau cuộc chiến, tôi hy vọng anh có thể sang Đức để thăm tôi, và mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, anh có thể thế chỗ cho con tôi, đứa con mà anh đã giết chết”.
Điểm đáng chú ý nhất trong hai bức thư trên, là lời tuyên xưng: ”Tôi là một tín hữu Kitô”, và với niềm tin xác tín này, cả anh lính người Anh và bà Mẹ người Đức đã không để cho chiến tranh lôi kéo mình vào trong trận chiến của ghen ghét và hận thù. Trái lại, họ đã để cho giáo huấn của Đức Giêsu tách họ ra khỏi vòng luẩn quẩn của bạo lực: “Mắt đền mắt, răng đền răng”, và đưa họ vào con đường yêu thương, hoà giải: “Các con hãy yêu thương những kẻ thù địch của các con, hãy làm ơn cho những kẻ ghét các con và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, vu khống các con” (Mt 5,44). Amen.
26/12 Vì Danh Chúa
- Viết bởi Mt 10,17-22
26/12/2023 – THỨ BA, NGÀY II TRONG TUẦN BÁT NHẬT GS
Th. Tê-pha-nô, phó tế, tử đạo tiên khởi
Mt 10,17-22
VÌ DANH CHÚA
“Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10,22)
Suy niệm: Ai cũng có thể cảm nghiệm được rằng niềm tin của chúng ta được củng cố là nhờ đời sống gương mẫu của các chứng nhân đức tin, nhất là các chứng nhân tử đạo. Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su đã tiên báo cho các môn đệ biết dù bị thế gian thù ghét, bách hại, nhưng các ông không được nhượng bộ, thỏa hiệp, mà phải can trường làm chứng tá cho Chúa. Vậy mà các ông chỉ có thể thực hiện vai trò chứng tá ấy khi để Thiên Chúa hoàn toàn chi phối cuộc đời mình vì lòng yêu mến. Nhìn vào đời sống thánh Tê-pha-nô tử đạo, chúng ta thấy rõ trái tim yêu mến một lòng một dạ thực hiện lời Chúa của ngài. Chúng ta hôm nay cũng vậy thôi, khi để cho các giá trị Tin Mừng như lòng chân thành, chung thủy, bác ái… chi phối lối hành xử của mình, là ta đang sống tinh thần tử đạo, làm rạng danh Thiên Chúa.
Mời Bạn: Khao khát, mong ước được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su phải là tiền đề, kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong đời sống thường nhật của bạn và tôi. Bạn thấy sao khi được mời gọi xây dựng hình ảnh đẹp của một Ki-tô hữu trong thời đại hôm nay? Bạn đáp lại bằng phương thế nào?
Chia sẻ: Bạn đã làm gì để những người xung quanh nhận ra niềm vui mới mẻ của người được Chúa Hài Đồng ở cùng? Sống Lời Chúa: Luôn tâm niệm chỉ có Hài Nhi Giê-su mới là Hoàng tử Hòa bình đích thực, và nỗ lực sống tâm tình hòa bình ấy với người lân cận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban ơn can đảm cho mọi người Ki-tô hữu, để họ luôn sống đúng với tên gọi của mình, nỗ lực làm rạng danh Chúa. Amen.
25/12 Chúa giáng sinh
- Viết bởi Mt 1, 18-25
Chúa giáng sinh.
Thứ Hai – LỄ CHÚA GIÁNG SINH – Lễ Đêm.
"Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
THÁNH LỄ VỌNG
LỜI CHÚA: Mt 1, 18-25
"Maria sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu".
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình: vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
THÁNH LỄ BAN ĐÊM
LỜI CHÚA: Lc 2, 1-14
"Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm".
THÁNH LỄ RẠNG ĐÔNG
LỜI CHÚA: Lc 2, 15-20
"Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: "Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết". Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
THÁNH LỄ BAN NGÀY
LỜI CHÚA: Ga 1, 1-18
"Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi".
Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm LỄ GIÁNG SINH
Lời Chúa:
Lễ Đêm: Is 9, 2-4. 6-7; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14
Lễ Rạng Đông: Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2, 15-20
Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18
Contents
1. Ngôi Lời là ánh sáng thật--Ga 1, 1-18--‘Manna’
2. Tin Mừng trọng đại--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
3. Tin mừng trọng đại-- Lc 2, 1-14--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
4. Ngôi Lời đã thành Người-- Ga 1, 1-18--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
5. Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta--ĐTC Gioan Phaolô II
6. Hài nhi Giêsu mang đến niềm an ủi đích thực--Lễ Đêm--ĐTC Phanxicô
7. Vinh danh Thiên Chúa trên trời--Lc 2,1-14--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
8. Đêm Ánh Sáng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
9. Lời ngỏ của Tình Yêu--Ga 1,1-18--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
10. Ngôi Lời đã tỏ mình--Lễ Rạng Đông Lc 2, 15-20--TGM Giuse Nguyễn Năng
11. Lễ Ban Ngày: Mầu Nhiệm Lòng Thương Xót--TGM. Giuse Nguyễn Năng
12. Lòng thương xót của Thiên Chúa nơi mầu nhiệm Giáng Sinh--GM Giuse Nguyễn Năng
13. Lễ Đêm Giáng Sinh--TGM Phaolô Bùi Văn Đọc
14. Noel: Lễ nhập cuộc--‘Nút vòng xoay’--GM. Giuse Vũ Duy Thống
15. Tình nghĩa-- GM. Gioan Baotixita Bùi Tuần
16. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em--GM GB Bùi Tuần
17. “Vinh danh Thiên Chúa, bình an cho loài người”--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
18. Lời đã trở thành nhục thể--Lm Carôlô Hồ Bắc Xá
19. Thiên Chúa ở cùng chúng ta--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
20. Lễ Giáng Sinh: Con Thiên Chúa làm người--Lm Giuse Đinh Tất Quý
21. Ánh sáng đã đến chiếu soi cho mọi người trong trần thế--Ga 1, 1-18--Lm. Đan Vinh
22. Sứ điệp yêu thương của mầu nhiệm Giáng Sinh--Lm Đan Vinh
23. Nhân loại đang cần Vua Hòa Bình: lễ đêm--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
24. Đêm trời đất giao hòa--Lễ đêm giáng sinh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
25. Tại sao Thiên Chúa làm người?--Lễ Ban Ngày: Ga 1, 1-18-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
26. Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta--Lễ đêm--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
27. Bài học khiêm hạ nơi máng cỏ Belem--Lễ Đêm-- Lm. Giuse Lê Danh Tường
28. Một Người Con Được Tặng Ban Cho Nhân Loại—Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
29. Nụ hôn nồng nàn của Thiên Chúa--Lễ đêm--Lm. Giuse Trương Đình Hiền
30. Tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại--Lễ đêm--Lm Uyên Nguyễn
31. Noel! Ngày lễ Hòa Bình--Thiên Phúc
32. Ánh sáng rạng ngời--Ga 1,1-14--Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
33. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh--Lc 2,1-14--“Suy Niệm Lời Chúa”--Radio Veritas Asia
34. Ngôi Lời đã trở nên người phàm--Ga 1,1-8--Niềm Vui Chia Sẻ
35. Ôn cố tri tân--Lễ Đêm--Lm JP. Vũ Minh
36. Ánh Sáng đã đến thế gian--Lm. Anmai
37. Ba quả táo--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
38. Tại sao Thiên Chúa xuống thế làm người?--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
39. Chúa tìm gì nơi ta?--Lc 2, 1-14--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
40. Lòng nhân ái thực sự--Lc 2, 1-14--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
41. "Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta"--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
42. Chúa giáng sinh giữa những người khổ đau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
43. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta--Lc 2,1-14--Camille Gagnon
44. Đánh mất cơ hội ngàn vàng--Lc 2, 1-14--Lm. Ignatiô Trần Ngà
45. Chúa Giêsu là vầng đông toả sáng--Lm. Ignatiô Trần Ngà
46. Loài người Chúa thương--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
47. Verbum Dei, Lời Thiên Chúa ở giữa chúng ta--Ga. 1,1-18--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
48. Lễ Giáng Sinh--Lm Giacobe Tạ Chúc
49. Các mục đồng, chứng nhân đầu tiên--Ga. 1,1-18--Lm Trịnh Ngọc Danh
50. Suy niệm của R. Gutzwiller--Lc 2, 1-20
51. Sứ điệp vinh quang và bình an--Lc 2,1-14
52. Chiêm ngắm Mầu nhiệm Giáng Sinh--Lm Thái Nguyên
53. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
54. Lễ Giáng Sinh--JKN
55. Đừng thờ lầm--Ga 1, 1-18--Lương Thực Ngày Chúa Nhật
56. Của lễ dâng Chúa Hài Nhi—Lễ Đêm-- Lm Giuse Nguyễn Thành Long
57. Dấu hiệu của Chúa--Lm. Phạm Quốc Hưng
58. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
59. Chú giải của Fiches Dominicales
60. Chú giải của Noel Quesson
61. Thiên Chúa làm người vì chúng ta--Noel Quesson
62. Đêm hôm nay--Lm. Jos. DĐH
63. Ngày hồng phúc--Lm. Jos. DĐH
64. Một người con đã được ban tặng cho ta--Lc 2,11--Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
65. Hài nhi Giêsu là ai?--Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
66. Từ trí qua tâm, đến hành động--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
67. Đêm ánh sáng – Đêm an bình--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
68. Loan báo niềm vui Giáng Sinh cho anh em--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
69. Ánh sáng tin mừng--Trầm Thiên Thu
70. Sung mãn--Trầm Thiên Thu
71. Tin Mừng--Lễ đêm--Trầm Thiên Thu
72. Tỏ tường--Lễ rạng đông--Trầm Thiên Thu
73. Đón Chúa Giáng Sinh với tâm tình nào?--Lễ Rạng Đông--Jos. Vinc. Ngọc Biển
74. Đức Giêsu là quà tặng vô giá--Lễ Đêm--Giuse Vinc. Ngọc Biển
75. Thiên Chúa đến với con người trong lịch sử--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
76. Cứ dấu nầy--Lm. Damien OFM
77. Chúa đã tặng Người Con để cứu ta--Lm. Raymond Châu Diên, CMC
78. Con người--Lc 2,1-20
79. Không nhà không cửa
80. Bệnh Giêsu
81. Ngạc nhiên
82. Đêm Thánh
83. Noel: Tình bạn
84. Noel: Hữu hình
85. Noel: Lễ vật dâng Chúa
86. Noel: Đổi đời
87. Đêm An Bình
88. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương
89. Chiêm ngắm Ngôi Lời
90. Sức mạnh--Lc 2,1-20
91. Chuẩn bị chỗ cho niềm vui
92. Noel: Yêu thương
93. Vinh danh
94. Ai thực sự mừng lễ Chúa Giáng Sinh
95. Tìm kiếm
96. Món quà vô giá
97. Ánh sáng nào soi chiếu trong ta?--Ga 1,1-18
98. Chúa giáng trần--Ga 1, 1-18
99. Giáng sinh: Nhập thể--Ga 1, 1-18
100. Giáng sinh: Hoà Bình--Ga 1, 1-18
101. Lúc nào cũng có chỗ cho thêm một người nữa
102. Sứ điệp Giáng sinh
103. Những điều bất ngờ
104. Gia đình
105. Những lá thư chết
1. Ngôi Lời là ánh sáng thật--Ga 1, 1-18--‘Manna’
Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động,
vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu,
một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát.
Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người.
Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha.
Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.
Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi,
Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn.
Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người.
Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang:
Ngài sinh ra trong đêm tối; không một chút quyền lực:
Ngài là trẻ thơ khóc oe oe.
Đấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian.
Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.
Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp,
không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.
Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo
để chúng ta được trở nên giàu có (2Cr 8,9).
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua
kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất.
Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm.
Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9).
Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối,
vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19).
Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi.
Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11).
Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.
Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay,
trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc,
trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa,
trong thế giới đã bước qua năm 2000.
Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác,
đón nhận Đức Giêsu vào đời mình,
cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới.
Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn.
Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời.
Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?
Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn đang sống?
Cầu Nguyện
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hàng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con.
2. Tin Mừng trọng đại--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ 2022
Một người Do-thái sẽ rất khó nhận ra Đấng Mêsia
khi đứng trước hang bò lừa ở Bê-lem đêm hôm ấy.
Một đôi vợ chồng trẻ, lúng túng vì không tìm ra chỗ,
vất vả với đứa con trai đầu lòng mới chào đời.
Em bé được quấn tã, đặt nằm trong máng cỏ.
Nghĩ đến Đấng Mêsia, người ta nghĩ ngay đến một vị vua,
với hoàng cung cao sang và ngai vàng quyền lực.
Khó lòng tin em bé tầm thường này là Đấng Mêsia,
Đấng được sai đến để giải phóng Israel.
Một người Do-thái theo độc thần lại càng khó tin
em bé này là Thiên Chúa trở nên người phàm.
Giữa Thiên Chúa và con người có một khoảng cách vô tận,
Thiên Chúa có những phẩm tính siêu việt vô biên.
Ngài là Đấng quyền năng, cai quản trên trời dưới đất.
Ngài là Đấng vô hình nên không ai tô vẽ được.
Ngài là Đấng tạo dựng muôn loài, Đấng ba lần thánh,
Đấng tỏ mình long trời lở đất ở núi Sinai.
Chẳng ai thấy Ngài mà còn sống.
Một Thiên Chúa như thế làm sao thành người được?
Điều con người không dám mơ, thì Thiên Chúa dám làm,
vì Tình yêu làm được mọi sự.
Thiên Chúa đã làm vượt quá những gì Ngài đã hứa.
Ngài không chỉ ban một Mêsia hay một ngôn sứ như Môsê,
Ngài còn ban chính Ngôi Lời là Thiên Chúa Con Một,
đã trở nên người phàm, đã sống trên trái đất,
và đã đảm nhận toàn bộ phận người của chúng ta.
Kitô hữu là người dám tin vào mầu nhiệm lạ lùng này.
Nơi Hài Nhi Giêsu, chúng ta gặp gỡ một Thiên Chúa
chẳng những nghe được, mà còn thấy được và chạm được.
Một Thiên Chúa hữu hình, gần gũi, yếu đuối, mong manh.
Thiên Chúa ấy được cưu mang trong lòng một phụ nữ,
được sinh ra, biết khóc, biết cười,
sống nhờ sữa mẹ, ấm áp nhờ được quấn tã.
Thiên Chúa ấy phải vâng theo lệnh của hoàng đế Rôma,
nên chào đời xa nhà, thiếu thốn đủ điều,
chỗ nằm là máng ăn của súc vật.
Thiên Chúa nơi Hài Nhi Giêsu không làm ai sợ hãi.
Không thấy quyền lực uy nghi, chỉ thấy tình yêu dịu dàng.
Thiên Chúa thu hút con người bằng sự buông bỏ thẳm sâu.
Hài Nhi dang hai tay để đón lấy cả nhân loại.
Không thấy Maria và Giuse nói gì trong đêm ở Bê-lem.
Cả hai có nhiều điều cần làm và cần suy nghĩ.
Khi Mẹ Maria sinh con trong sự thiếu thốn tư bề,
Mẹ nghĩ đến lời thiên sứ Gabriel xưa báo về Hài Nhi.
Con của Mẹ sẽ thừa kế ngai vàng của vua Đa-vít,
sẽ trị vì một vương quốc đến muôn đời muôn thuở.
Vậy mà bây giờ Con của Mẹ không có chỗ để nằm.
Khi các người chăn chiên huyên thuyên kể chuyện
về việc thiên sứ hiện ra, loan tin Đấng mới chào đời,
kể chuyện đạo binh thiên quốc tưng bừng hát xướng,
Maria đã chăm chú lắng nghe và kinh ngạc.
Mẹ nghĩ đến bầu khí yên tĩnh ở Bê-lem đêm nay,
có ít ánh sáng và tiếng ca, có nhiều bận tâm và lo lắng.
Không phải biến cố nào cũng dễ hiểu đối với Maria.
Maria có thói quen giữ kỹ mọi chuyện (Lc 2,19.51),
và nghiền ngẫm mọi chuyện trong trái tim của mình.
Maria chấp nhận mình không hiểu ngay mọi biến cố,
nên lúc nào cũng cần hồi tâm để đọc ra ý Chúa.
Như các mục đồng, chúng ta cũng được mời đến Bê-lem.
Dấu hiệu để nhận ra Chúa đang đến hôm nay
vẫn rất đơn sơ và làm chúng ta ngỡ ngàng.
Thiên Chúa đến dưới dạng những người nghèo khổ,
không cơm ăn áo mặc, không có chỗ để nằm.
Nơi những phụ nữ không được đi học ở Afghanistan,
những trẻ sơ sinh bị phá thai mỗi ngày trên thế giới,
những gia đình tan nát vì chiến tranh.
Hãy vội vã đi Bê-lem với tất cả lòng tin đơn sơ,
vui sướng vì gặp được dấu chỉ như lời sứ thần báo.
Hãy làm một điều gì đó cho Chúa Giêsu hôm nay.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Hài Nhi Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho nhân loại,
nhưng chúng con thích xung đột và chiến tranh,
Chúa đến để bày tỏ tình thương của Chúa Cha,
nhưng chúng con thích chiếm đoạt hơn chia sẻ,
thích chinh phục hơn trao hiến.
Bởi đó thế giới này còn mang nhiều vết thương.
Xin cho chúng con đừng trách Chúa,
dù Chúa đã đến làm người từ hai ngàn năm qua.
Chúa đã gõ cửa, những chúng con không mở.
Chúa đã đến nhà mình, nhưng chẳng ai ra đón.
Xin cho chúng con nhận ra Chúa
nơi khuôn mặt của kẻ thù,
và nhận ra kẻ thù cũng là anh em cần được yêu thương.
Nhờ đó chúng con được hưởng bình an của Chúa:
“Bình an cho người thiện tâm.” Amen.
3. Tin mừng trọng đại-- Lc 2, 1-14--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy niệm:
Thiên Chúa vẫn cứ làm con người ngỡ ngàng.
Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh bởi một phụ nữ,
làm người Do Thái, sống dưới thời đế quốc Rôma đô hộ (cc. 1-2).
Như thế Đấng Tuyệt Đối đã từ trời xuống,
chấp nhận thân phận hữu hạn của con người.
Ngài không khoác lớp áo người, nhưng là người trọn vẹn.
Ngài được cưu mang trong dạ mẹ, được sinh ra như mọi trẻ thơ.
Đêm Con Thiên Chúa chào đời là một đêm lạ lùng.
Ngài không được chào đời tại mái nhà thân yêu ở Nadarét.
Ngài cũng không được chào đời
nơi một căn phòng tử tế dành cho lữ khách ở Bêlem.
Đơn giản là vì không có chỗ (c. 7).
Nhưng tại sao lại không có, thì ta không rõ câu trả lời.
Ngài đã phải sinh ra nơi máng cỏ, nơi để đồ ăn cho súc vật.
Phải mất bao lâu Giuse mới tìm được chỗ này trong đêm?
Hãy hình dung khung cảnh âm thầm của máng cỏ ngày xưa.
Có một ngọn đèn nào để chiếu sáng không?
Có ngọn lửa nào để xua đi giá lạnh không?
Hãy cảm nếm nỗi lo sợ, vất vả, lúng túng của đôi vợ chồng trẻ.
Họ đang phải đối diện với những rắc rối lớn lao và bất ngờ.
Điều cần nhất là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
Khi tiếng khóc đầu tiên của Hài Nhi cất lên giữa đêm khuya,
ơn cứu độ đã mỉm cười với nhân loại.
Lạ lùng thay cách thức Con Thiên Chúa làm người!
Nhóm người chăn chiên, những kẻ sống bên lề xã hội,
chứ không phải là những nhà lãnh đạo tôn giáo hay trần thế,
mới là những người đầu tiên được sứ thần loan báo Tin Mừng.
Họ sống ngoài đồng, chia phiên nhau thức đêm để canh giữ đoàn vật.
Bất ngờ họ bị bao trùm bởi vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa (c. 9).
“Hôm nay, Đấng Cứu độ, Đấng Kitô, Đức Chúa được sinh ra cho anh em.”
Đấng dân tộc anh em chờ mong từ lâu, nay đã đến.
Đây là Tin Mừng! Đây là Niềm Vui cho mọi người!
Nhưng dấu hiệu để nhận ra vị Tân Vương thuộc nhà Đavít
thì vừa bình thường: “một trẻ sơ sinh được quấn tã”,
vừa lạ thường: “nằm trong máng cỏ” (c. 12).
Đấng Mêsia mới được sinh ra không ngự nơi cung vua.
Dấu hiệu sứ thần cho ông Dacaria là bị câm.
Dấu hiệu sứ thần cho Maria là bà chị Êlisabét mang thai lúc đã già.
Dấu hiệu sứ thần cho các anh chăn chiên là trẻ thơ quấn tã nơi máng cỏ.
Các anh chăn chiên cần có đức tin để dám tin vào dấu hiệu ấy.
Thiên Chúa vẫn đến với con người bằng những nẻo đường bất ngờ.
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (c. 14).
Hoàng đế Augustô được ca ngợi là đấng cứu độ.
Ông được coi là người đem lại hòa bình,vì ông đã chấm dứt chiến tranh.
Hôm nay, Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta bình an thật qua Đức Kitô.
Ngài muốn ban cho chúng ta Đấng Cứu Độ thật là Đức Giêsu.
Xin cầu cho hòa bình trên mặt đất, bình an trong lòng người.
Ước gì chúng ta biết được rằng mình là những người được Chúa thương.
Cầu nguyện:
Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong
và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con
với bao điều không như ý.
Và cuối cùng,
xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con.
4. Ngôi Lời đã thành Người-- Ga 1, 1-18--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy niệm:
Trong ngày đại lễ mừng Chúa Giáng Sinh,
Giáo Hội cho chúng ta nghe Lời mở đầu Tin Mừng theo thánh Gioan.
Lời mở đầu này là một bài ca về sự cao trọng vô song của Ngôi Lời.
Ngôi Lời là Đấng vĩnh hằng, đã hiện hữu từ nguyên thủy.
Ngài là Thiên Chúa, là Con Một luôn hướng về Thiên Chúa Cha (c. 1).
Tương quan giữa Thiên Chúa và Ngôi Lời là tương quan giữa Cha với Con.
Thiên Chúa Cha đã muốn Ngôi Lời cộng tác trong việc tạo dựng vũ trụ.
Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành (cc. 3, 10).
Chẳng có thụ tạo nào hiện hữu mà lại không được dựng nên bởi Ngôi Lời.
Dù khác nhau về màu da, ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo…
mỗi con người đều mang trong mình Sự Sống của Ngôi Lời.
Sự Sống ấy là Ánh Sáng vẫn chiếu soi cả nhân loại (c. 4),
và soi chiếu lương tâm từng con người, chẳng trừ ai (c. 9),
bất chấp sức mạnh gớm ghê của bóng tối (c. 5).
Rồi khi đến thời viên mãn, vì quá yêu thương con người trầm luân
Thiên Chúa đã sai Ngôi Lời, Con Một của Ngài vào trần gian để cứu độ.
Ngôi Lời vĩnh cửu đã trở nên người phàm, mang tên Giêsu,
mang thân xác giới hạn như chúng ta, sống trong dòng lịch sử,
và ở giữa chúng ta trên cùng một trái đất (v. 14).
Đấng Tạo thành vạn vật bây giờ trở nên một thụ tạo bé nhỏ,
được sinh ra, được bú mớm, từ từ lớn lên và trưởng thành.
Đấng Tạo thành vạn vật nay sẽ là Đấng Cứu độ loài người,
để ai tin vào Ngài thì Ngài cho họ quyền làm con cái Thiên Chúa (c. 12).
Khi vâng ý Cha chấp nhận nhập thể và nhập thế,
Ngôi Lời đã cúi xuống bắc cầu nối kết Thiên Chúa với con người,
để đưa con người vào sống tình thân với Thiên Chúa.
Chưa bao giờ và mãi mãi về sau,
chẳng bao giờ có một Vị Trung Gian cứu độ nào tuyệt vời đến thế.
Vì chỉ mình Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là một con người thật.
Mừng lễ Giáng Sinh là mừng đại lễ Thiên Chúa đến cứu con người.
Thiên Chúa Cha không muốn cứu độ nhân loại bằng cách chỉ phán một lời.
Ngài muốn tặng cho ta món quà cao quý là chính Người Con duy nhất.
Chẳng ai thấy tận mắt hay biết rõ Thiên Chúa bao giờ.
Nhưng nơi Đức Giêsu, chúng ta được quen biết và gặp gỡ Thiên Chúa.
Vì duy chỉ mình Ngài là Con hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha (c. 18).
Lễ Giáng Sinh đem lại niềm vui cho toàn thể thế giới con người.
Vì Con Thiên Chúa đã mang phận người vất vả, long đong,
nên đời người, dù đổ vỡ khổ đau, cũng có ý nghĩa, và đáng sống.
Vì Con Thiên Chúa đã mang khuôn mặt, và thân xác con người,
nên bất cứ ai là người, đều mang hình ảnh của Con Thiên Chúa.
Vì Con Thiên Chúa đã cư ngụ trên trái đất nhỏ xíu này của chúng ta,
đã sống nhờ không khí, nước và thức ăn của trái đất này,
nên trái đất này thật là thế giới linh thánh, cần trân trọng.
Lễ Giáng Sinh bao giờ cũng mời ta nhìn lại đời mình,
nhìn lại khuôn mặt những người chung quanh, nhìn lại trái đất mình sống,
với lòng kính trọng, vui sướng, và biết ơn.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại.
Ước gì tôi biết đưa hai tay ra để đón lấy quà tặng cao quý ấy.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương,
và đã ban cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết khi chưa mở mắt chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, hận thù ở khắp nơi.
Người ta cứ giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Bêlem,
Chúa đã cứu độ thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn có mặt trên địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Bêlem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
5. Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta--ĐTC Gioan Phaolô II
Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Lời loan báo Chúa Giáng Sinh vang lên đêm nay, lời loan báo xa xưa và luôn mới mẻ. Lời loan báo vang lên cho những ai đang tỉnh thức, cho những mục đồng tại Bêlem cách đây 2,000 năm, nó vang lên cho những ai đang sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng, và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng đón nhận sứ điệp vui mừng được hát lên trong Thánh Lễ hôm nay: "Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta".
Dân Kitô đang tỉnh thức, toàn thể thế giới đang tỉnh thức trong đêm Giáng Sinh này. Trong những ngày này, dường như Giáo Hội không bao giờ ngừng lặp lại rằng: “Hôm nay Đấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta". Lời rao giảng này có tích chứa sức mạnh không bao giờ cạn để canh tân, nó vang dội trong Đêm Thánh này một cách mạnh mẽ đặc biệt. Đây là Giáng Sinh của đại năm thánh, kỷ niệm sống động của hai ngàn năm của Chúa Kitô, kỷ niệm cuộc sinh hạ kỳ diệu, một biến cố đã ghi dấu điểm khởi đầu mới của lịch sử. "Ngày hôm nay Ngôi Lời đã làm người và sống giữa chúng ta".
Ngày hôm nay trong đêm cực thánh này, thời gian được mở ra đến cõi đời đời, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Kitô, Ngài đã từ trời cao mà sinh xuống giữa chúng con. Ngài sinh xuống trần gian từ cung lòng của một người nữ đã được chúc phúc hơn mọi người nữ. Ngài là con của Đấng Tối Cao, sự thánh thiện của Ngài đã thánh hóa thời gian của chúng con một lần vĩnh viễn luôn mãi, những ngày tháng, những thế kỷ, những ngàn năm. Với sự Giáng Sinh của Ngài, Ngài đã làm cho thời gian trở thành cái hôm nay của ơn cứu rỗi.
Hôm nay Đấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Đêm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm của một đêm đặc biệt cách nào đó nằm trong thời gian vừa đồng thời vượt qua thời gian, trong cung lòng của Đức Nữ Đồng Trinh một Con Trẻ đã sinh ra, một máng cỏ đã trở thành cái nôi cho Đấng là sự sống đời đời.
Lễ Giáng Sinh là lễ của sự sống, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Giêsu, khi đến trong thế gian như một người trong chúng con, Ngài đã chúc phúc cho giờ Ngài đã sinh ra, một giờ nói lên cách tượng trưng cho mầu nhiệm của cuộc sống con người, vừa liên kết những đau khổ của sự sinh hạ với niềm hy vọng, liên kết đau khổ với niềm vui. Tất cả những điều này đã xảy ra tại Bêlem, một người mẹ đã sinh con, một con người đã sinh ra trong trần gian, đó là con người, đó là mầu nhiệm của Bêlem.
Với niềm cảm xúc trong tâm hồn, tôi nghĩ lại những ngày hành hương năm Thánh của tôi bên Thánh Địa, tâm trí tôi trở lại với hang đá nơi tôi được dịp dừng lại cầu nguyện. Tôi hôn kính trong tinh thần, hôn kính miền đất được chúc phúc kia nơi phát sinh niềm vui không bao giờ tàn cho thế giới. Tôi lo âu cho những nơi Thánh và đặc biệt là thành Bêlem nơi mà buồn thay vì hoàn cảnh chính trị khó khăn không thể nào diễn ra Lễ Nghi Giáng Sinh với sự long trọng như mọi khi. Tôi mong muốn sao cho trong đêm nay, những cộng đoàn Kitô tại đó cảm thấy được tình liên đới tràn đầy của toàn thể Giáo Hội đối với họ.
Thưa anh chị em rất thân mến tại Bêlem,
Chúng tôi gần gũi với anh chị em với lời cầu nguyện thật sốt sắng. Cùng với anh chị em, chúng tôi rung động vì số phận của toàn vùng Trung Đông.
Nguyện xin Thiên Chúa lắng nghe lời chúng ta khẩn cầu. Ước chi từ quảng trường này, trung tâm của thế giới Công Giáo được vang lên một lần nữa với sức mạnh được canh tân, vang lên lời loan báo của các thiên thần, của các mục đồng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao và hòa bình dưới thế cho mọi người được Chúa yêu thương".
Niềm hy vọng của chúng ta không thể nào bị lung lay, cũng như không thể nào thiếu đi sự khâm phục những gì chúng ta đang cử hành. Ngày hôm nay, Đấng ban hòa bình cho thế gian Giáng Sinh. Hôm nay Đấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, Ngài được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa Cứu Rỗi, bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi.
Không phải trong một lâu đài mà Đấng Cứu Chuộc sinh ra, Đấng có sứ mạng thiết lập lại Vương Quốc đời đời và phổ quát. Ngài sinh ra trong một chuồng loài vật và sống giữa chúng ta, Ngài thắp lên trong thế giới ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa và ngọn lửa này sẽ không bao giờ tắt. Ước chi ngọn lửa này cháy lên trong các tâm hồn như một ngọn lửa tình bác ái hữu hiệu, tình bác ái trở thành sự tiếp đón, nâng đỡ cho biết bao anh chị em bị thử thách bởi sự nghèo cùng và đau khổ.
Lạy Chúa Giêsu mà chúng con chiêm ngắm trong cảnh nghèo hèn tại Bêlem, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu Chúa, của tình yêu đã thôi thúc Ngài cởi bỏ vinh quang của Thiên Chúa để sinh ra sống giữa con người và chịu chết vì chúng con, xin Ngài hãy đổ vào chúng con Thánh Thần của Ngài, ngõ hầu ân sủng của mầu nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi tín hữu sự dấn thân góp sức cách quảng đại hơn, phù hợp hơn với sự sống mới do Bí Tích Rửa Tội trao ban. Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường hòa bình.
Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng của Ngài với lời nguyện:
Lạy Chúa, Hoàng Tử của Hòa Bình, Đấng Cứu Chuộc đã Giáng Sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo Hội Chúa trên con đường đang mở ra dẫn đưa Giáo Hội bước vào ngàn năm mới.
6. Hài nhi Giêsu mang đến niềm an ủi đích thực--Lễ Đêm 2015--ĐTC Phanxicô
Đêm nay "một ánh sáng tuyệt vời" chiếu sáng (Is 9: 1); ánh sáng của Chúa Giêsu giáng sinh tỏa sáng chung quanh tất cả chúng ta. Thật đúng và thời điểm trong những lời của tiên tri Isaia mà chúng ta vừa nghe: “Ngài đã mang lại niềm vui dồi dào và niềm vui lớn lao" (9: 2)! Trái tim chúng ta đã vui mừng trong chờ đợi thời điểm này; bây giờ niềm vui sung mãn và tràn đầy, vì cuối cùng lời hứa đã được thực hiện. Vui mừng hớn hở là dấu chỉ chắc chắn rằng sứ điệp chứa đựng trong mầu nhiệm của đêm này thật sự là từ Thiên Chúa. Không còn nghi ngờ gì nữa; hãy để lại sự nghi ngờ đó cho những người còn bi quan, vì chỉ tìm kiếm lý lẽ không thôi thì không bao giờ tìm ra sự thật. Không có chỗ cho sự thờ ơ đó ngự trị trong trái tim của những người không thể yêu vì sợ mất một cái gì đó. Tất cả nỗi buồn đã bị trục xuất, vì Hài Nhi Giêsu mang lại sự an ủi đích thật cho mọi trái tim.
Hôm nay, Con Thiên Chúa sinh ra, và tất cả mọi thứ thay đổi. Đấng Cứu Thế của thế giới đến để tham dự vào bản tính con người của chúng ta; chúng ta không còn lẻ loi và bị bỏ rơi. Đức Trinh Nữ cho chúng ta Con của Ngài như là sự khởi đầu của một cuộc sống mới. Ánh sáng thật đã đến để soi sáng đời sống chúng ta mà thường xuyên bị bao vây bởi bóng tối của tội lỗi. Hôm nay, chúng ta một lần nữa phát hiện ra chúng ta là ai! Tối nay chúng ta đã được chỉ cho biết con đường để đạt được đoạn kết của cuộc hành trình. Bây giờ chúng ta phải bỏ đi tất cả nỗi sợ hãi, vì ánh sáng cho chúng ta thấy con đường đến Bethlehem. Chúng ta không còn bị bỏ lại đàng sau nữa; chúng ta không được phép đứng nhàn rỗi. Chúng ta phải bước ra đi để xem Đấng Cừu Thế của chúng ta nằm trong máng cỏ. Đây là lý do để vui mừng hớn hở của chúng ta: Hài Nhi này đã được "sinh ra cho chúng ta"; Ngài đã được "ban cho chúng ta", như tiên tri Isaia đã loan báo (9: 5). Biết bao con người qua hai ngàn năm đã đi qua tất cả các con đường của thế giới để loan báo cho mỗi người đàn ông và người phụ nữ hầu chia sẻ niềm vui này mà bây giờ là sứ mệnh của mỗi người chúng ta làm cho vị "Hoàng tử của hòa bình" và trở nên người tôi tớ hiệu quả ở giữa của các quốc gia.
Vì vậy, khi chúng ta nghe về câu chuyện Giáng sinh của Chúa Kitô, chúng ta hãy im lặng và để cho Hài Nhi này nói. Chúng ta hãy đem lời nói của Ngài vào trong tâm hồn trong chiêm niệm say mê về khuôn mặt của Ngài. Nếu chúng ta bồng Ngài trong vòng tay và để cho mình được Ngài ôm, Ngài sẽ đem đến hoà bình vô tận trong trái tim. Hài Nhi này dạy chúng ta những gì là thực sự cần thiết trong cuộc sống của chúng ta. Ngài sinh ra trong sự nghèo đói của thế giới này; không có chỗ trong nhà trọ cho Ngài và gia đình của Ngài. Ngài đã tìm thấy nơi trú ẩn và hỗ trợ trong chuồng chiên và được đặt nằm trong máng cỏ cho gia súc. Chưa hết, từ chỗ hư vô này, ánh sáng vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa. Từ bây giờ, con đường giải thoát đích thực và sự cứu rỗi viên mãn được mở ra cho mỗi người đàn ông và người phụ nữ, những người có trái tim đơn sơ. Hài Nhi này, với khuôn mặt chiếu tỏa sự tốt lành, lòng thương xót và tình yêu của Chúa Cha, huấn luyện cho chúng ta, các môn đệ của Ngài, như Thánh Phaolô nói, "hãy chối bỏ những con đường không có Chúa" và sự phú qúy của thế gian, để sống "tiết độ, công minh, sốt sắng "(Tit 2:12).
Trong một xã hội thường xuyên bị đầu độc do chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa khoái lạc, giàu có và xa hoa, vẻ bề ngoại và tự đại, Hài Nhi này kêu gọi chúng ta phải hành động nghiêm nghị, nói cách khác, trong một cách thế đơn giản, cân bằng, phù hợp, có khả năng thấy và làm những gì cần thiết. Trong một thế giới mà tất cả mà thường là tàn nhẫn với người tội lỗi nhưng nhân nhượng với tội lỗi, chúng ta cần phải nuôi dưỡng một ý thức mạnh mẽ về công lý, để phân biệt và làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Giữa một nền văn hóa của sự thờ ơ mà không phải là không thường xuyên trở thành tàn nhẫn, phong cách sống của chúng ta phải là đạo đức, đầy sự cảm thông, lòng từ bi và lòng thương xót, hàng ngày xuất nguồn từ nguồn cội của sự cầu nguyện.
Giống như những người chăn chiên của Bethlehem, có thể chúng ta cũng vậy, với đôi mắt đầy kinh ngạc và bỡ ngỡ, khi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, Con Thiên Chúa. Và trước sự hiện diện của Ngài, ước chi trái tim của chúng ta oà tung ra trong lời cầu nguyện: "Lậy Chúa, xin chỉ cho chúng con lòng thương xót của Chúa và ban cho chúng con ơn cứu độ" (Tv 85: 8).
7. Vinh danh Thiên Chúa trên trời--Lc 2,1-14--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.
Tại sao “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”, ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa với con người không?
2) Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta thực sự yêu mến Chúa?
3) Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng đón Chúa đến?
8. Đêm Ánh Sáng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đêm Giáng Sinh chìm trong lớp lớp bóng tối dày đặc.
Bóng tối tự nhiên của một đêm mùa đông ảm đạm. Bóng tối cay đắng của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm trong ách thống trị ngoại bang. Bóng tối âm thầm nhẫn nhục của những kiếp người nghèo hèn lam lũ. Bóng tối âm u trong túp lều lúc nhúc súc vật hôi tanh. Bóng tối u mê của tội lỗi nhơ nhớp.
Giữa màn đêm dày đặc, Hài nhi Giêsu xuất hiện như một làn ánh sáng rực rỡ.
Đó là ánh sáng tình yêu.
Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm. Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên chúa dành cho nhân loại. Tình yêu đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì có thể so sánh được. Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho thêm gì nữa. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên chúa đi tìm con người. Thiên chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người. Thiên chúa đã tìm thấy con người trong những khốn cùng tột độ của nó. Thật lạ lùng, Thiên chúa quá yêu thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại. Thiên chúa đã cưới lấy bản tính nhân loại. Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên chúa. Bóng đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương. Anh sáng Thiên chúa soi sáng kiếp người tăm tối. Ánh sáng Thiên chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.
Đó là ánh sáng niềm tin.
Anh sáng Giáng Sinh chiếu toả trên những tâm hồn thiện chí. Đêm nhân gian vẫn còn mê đắm. Nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí tỉnh thức. Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn. Đó là những cuộc đời khiêm tốn sống âm thầm trong bóng tối. Đó là những người nghèo của Thiên chúa. Đó là thánh Giuse, Đức Maria. Đó là Ba Vua. Đó là các mục đồng. Khiêm nhường nên các ngài sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên chúa. Tỉnh thức nên các ngài nhạy bén đón nhận những dấu chỉ Thiên chúa gửi đến. Thiện chí nên các ngài hăng hái lên đường ngay khi nhận được tín hiệu. Đơn sơ nên các ngài nhận được ánh sáng. Hê rô đê và Giêrusalem chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt. Trái lại "vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh các mục đồng". Và ngôi sao xuất hiện dẫn đường cho Ba Vua. Anh sáng đã bao phủ các ngài. Anh sáng đã dẫn đưa các ngài đến bên máng cỏ. Anh sáng đã khiến các ngài nhìn thấy "một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ" và các ngài đã tin.
Đó là ánh sáng hy vọng.
Hài nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế giới. Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu. Những người nghèo của Thiên chúa âm thầm kiên trì chờ đợi. Những tâm hồn thiện chí như Ba Vua ngước mắt lên trời tìm kiếm. Niềm khao khát đã được đáp ứng. Đã đến mùa Thiên chúa gieo hạt. Hạt mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ thần hoá cả nhân loại. Hạt giống Giêsu sẽ triển nở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Mặt trời bé nhỏ Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian. Anh bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh sáng. Với Hài nhi Giêsu, một thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo hèn được kính trọng. Giêsu chính là hạt mầm hy vọng Thiên chúa gieo vào thế giới.
Đó là ánh sáng Tin Mừng.
Được thắp lửa, những tâm hồn thiện chí trở thành những ngọn đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng, mà còn chia sẻ ánh sáng với những người chung quanh. "Họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này". Tin Mừng được loan đi. Niềm vui lan tới mọi tâm hồn. Ánh sáng bừng lên phá tan đêm tối.
Hài nhi Giêsu như mầm cây vừa nhú. Mầm cây cần bàn tay ân cần chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum xuê. Hài nhi Giêsu như ngọn nến đem ánh sáng vào đêm tối. Ngọn nến cần được nhiều bàn tay liên đới chuyền nhau cho ánh sáng lan rộng.
Xin cho con được trái tim của các mục đồng biết mở lòng ra đón nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, để đêm tối trần gian được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của Chúa.
9. Lời ngỏ của Tình Yêu--Ga 1,1-18--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?
2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
10. Ngôi Lời đã tỏ mình--Lễ Rạng Đông Lc 2, 15-20--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Ngôi Lời Thiên Chúa đã xuống thế làm người tại một chuồng bò lạnh lẽo hôi tanh. Nơi gia đình thánh Giuse và Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã sinh sống. Với người nghèo khổ đơn sơ, Ngôi Lời đã tỏ mình ra.
Cầu nguyện: Ôi lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, vinh dự thay cho các mục đồng đến chiêm ngắm thờ lạy Chúa nơi hang Be-lem như lời các thiên thần đã báo. Hồng phúc thay! Biết bao người đã ngóng trông Đấng Cứu Tinh mà không được. Biết bao người đã sống cạnh Đấng Cứu Thế mà không nhận ra Ngài. Có những người chức quyền như Phi-la-tô, Hê-rô-đê, đã không được diễm phúc như các mục đồng. Có những người tài giỏi như các tiến sĩ cũng chẳng nhận ra Đấng Cứu Thế. Lại cũng có những người mang trách nhiệm trong đạo như các Biệt phái, Thượng tế, đã không nhận ra Chúa. Thật các mục đồng hạnh phúc quá.
Còn con, con không ngớt cảm tạ Chúa. Con được diễm phúc Chúa tỏ mình cho con. Con đã được làm con Thiên Chúa, gia đình con cũng được Chúa ngự trị. Linh hồn thân xác con mỗi ngày đều được Chúa sinh hạ. Chúa không chê gia đình con. Chúa không chê thân xác linh hồn con. Mỗi lần con mời Chúa ngự trị, con đều được Chúa viếng thăm.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Mẹ Maria đã chiêm ngắm và hằng ghi nhớ những kỷ niệm này. Xin Chúa giúp cho con hằng ghi nhớ hồng ân Chúa dành cho con. Mỗi ngày xin Chúa giúp con thích thú đến với Chúa cách mau mắn và ngây ngất như các mục đồng. Xin cho con mỗi ngày mỗi sống thân tình với Chúa hơn. Amen.
Ghi nhớ: “Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi”.
11. Lễ Ban Ngày 2015: Mầu Nhiệm Lòng Thương Xót--TGM. Giuse Nguyễn Năng
Trung tâm điểm và đồng thời cũng là cao điểm của bài Tin Mừng hôm nay là lời khẳng định của thánh Gioan: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Con Thiên Chúa đã trở nên con người và đi vào lịch sử loài người. Con Thiên Chúa nhập thể để làm gì?
1. Thánh Gioan nói trong lời mở đầu của Tin Mừng: Ngôi Lời đến để chiếu sáng thế gian, để tỏ cho thế gian biết Chúa Cha; nhưng đây là thế gian chìm ngập trong bóng tối. Tác giả thư Do Thái (Bài đọc 2) cho thấy Con Thiên Chúa đến trần gian để mạc khải Chúa Cha cho chúng ta, và còn hơn nữa, để chịu chết và đền tội cho chúng ta. Con Thiên Chúa đến trần gian để tẩy trừ tội lỗi, và “sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Con Thiên Chúa lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời”.
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Ngôi Lời làm người để cứu độ nhân loại. Ơn cứu độ trước hết hệ tại ở ơn tha tội. Thiên Chúa tha thứ cho tội lỗi của nhân loại. Chúa Giêsu đã thực sự sống cuộc đời của con người, trải qua những kinh nghiệm của đời người, chỉ trừ tội lỗi, để đền tội cho chúng ta.
2. Ơn cứu độ không phải là một trò ảo thuật. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối tội lỗi cần được Ánh sáng chiếu soi. Nhưng Thiên Chúa không đọc câu thần chú để làm tiêu tan bóng tối. Để chiếu sáng thế gian, Ánh sáng đã đi vào thế gian tăm tối, chứ không chiếu sáng từ bên ngoài. Nhân loại chìm ngập trong tội lỗi cần được tha thứ. Nhưng Thiên Chúa không cứ ở mãi trên trời cao tuyên bố lời tha bổng tội lỗi cho con người. Không, tội lỗi quá nặng nề, nên ơn tha tội không quá rẻ như thế. Thiên Chúa không ở trên toà cao, trái lại, đã cho Con Một mình đi vào đời, làm người để đền tội cho chúng ta.
Có tội thì phải đền tội. Đó là lẽ công bằng, là đòi hỏi của công lý. Nếu không đền tội, thì còn đâu công lý? Nhưng ngược lại, nếu Thiên Chúa cứ đòi hỏi theo luật công bằng thì còn đâu tình yêu thương? Hơn nữa, loài người đâu có gì để đền bù cho cân xứng với sự xúc phạm đến Thiên Chúa.
Trong mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã làm một tổng hợp tuyệt vời, vừa thực thi công lý vừa biểu lộ lòng thương xót. Đúng hơn, công lý của Thiên Chúa lại cũng chính là lòng thương xót, bắt nguồn từ lòng thương xót. Do lòng thương xót, Thiên Chúa ban cho chúng ta có cái gì đó để đền bù tội lỗi cho cân xứng. “Cái gì đó” là chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Người ta kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau. Một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một ổ bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi đang chết đói”.
Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lão, ông thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải nộp 10 đôla”. Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của mình ra 10 đôla và trao cho người đàn ông khốn khổ.
Đó là phần đầu của câu chuyện. Cùng một lúc, ông thị trưởng vừa thi hành công lý vừa tỏ lòng thương xót đối với kẻ ăn trộm, thi hành công lý bằng cách thương xót.
Thiên Chúa là vị Quan toà tối cao đòi loài người phải đền tội vì đã phạm tội, xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa. Đó là công lý. Nhưng Thiên Chúa lại thi hành công lý bằng cách thực thi lòng thương xót. Vì quá yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã ban tặng Con Một cho thế gian, để người Con ấy đền tội thay cho chúng ta. Con Một của Thiên Chúa đã làm người để đền bù tội lỗi thay cho toàn thể nhân loại. Thiên Chúa đi bước trước và biểu lộ lòng thương xót để chúng ta có khả năng thi hành công lý đối với Thiên Chúa.
Công lý là những gì chúng ta nhận được do việc chúng ta làm. Còn lòng thương xót là những gì chúng ta nhận được do việc Thiên Chúa làm. Lòng thương xót của Thiên Chúa bao trùm và vượt trên cả những đòi hỏi của công lý.
Mầu nhiệm Giáng sinh là mầu nhiệm của lòng thương xót. “Thiên Chúa ta đầy lòng thương xót, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta” (Lc 1, 78). Khi mừng mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã ban cho chúng ta người Con Một để người Con ấy đền tội nhân danh toàn thể nhân loại. Mầu nhiệm Giáng sinh là quà tặng của lòng thương xót. Lòng thương xót được biểu lộ hôm nay qua mầu nhiệm Giáng sinh, và sẽ đạt tột đỉnh qua việc Thiên Chúa hy sinh trọn vẹn Con Một mình trong mầu nhiệm Thập giá.
3. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Mầu nhiệm Nhập thể chiếu toả ánh sáng vào thân phận con người để chúng ta nhận ra rằng những anh chị em nghèo hèn đói khổ đang sống bên cạnh chúng ta là chính Chúa. Chúng ta đã được Thiên Chúa thương xót, vì thế hãy thương xót lẫn nhau.
Trở lại với câu chuyện ăn cắp ổ bánh mì.
Sau khi trao cho người ăn cắp 10 đôla để nộp phạt, ông thị trưởng quay xuống cử tọa nói tiếp: “Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp". Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho ông lão. Khi chiếc mũ đã được chuyền một vòng, người ta đếm được 47 đôla 50 xu. Ông thị trưởng trao tất cả cho ông lão. (Trích từ “Lẽ Sống”).
Có bao giờ chúng ta nhận thấy mình cũng có trách nhiệm về những tội ác xảy ra hằng ngày chung quanh chúng ta không? Biết đâu vì chúng ta dửng dưng vô cảm, thiếu liên đới chia sẻ, nên mới xảy ra biết bao tội ác trong xã hội! Không nhiều thì ít, một cách nào đó, trực tiếp hoặc gián tiếp.
Nếu chúng ta ý thức về trách nhiệm liên đới, chia sẻ, thực sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, chúng ta sẽ góp phần giảm bớt cảnh đói khổ, và như thế tội ác trên thế giới cũng sẽ giảm đi. Thế giới không thiếu thực phẩm, không thiếu tài nguyên. Chỉ tại thiếu lòng thương xót.
Chúng ta thực sự có lỗi, có tội, có trách nhiệm, và là lỗi nặng, trách nhiệm nặng, khi không quan tâm đến cảnh đói khổ của tha nhân. Dụ ngôn về ngày phán xét chung (x. Mt 25, 31-46) cho ta hiểu rằng sự dửng dưng vô cảm trước những nỗi đói khổ của người khác là một lỗi nặng đưa chúng ta đến lửa đời đời. Mầu nhiệm Nhập thể nhắc chúng ta nhớ rằng mỗi người sẽ bị xét xử tuỳ theo thái độ của mình đối với người anh chị em nghèo hèn đói khổ, không phải chỉ vì họ là hình ảnh của Chúa, mà hơn nữa, vì khi chúng ta giúp đỡ họ là chúng ta giúp đỡ Chúa, và ngược lại, khi sống vô cảm mà gạt bỏ họ là chúng ta gạt gạt bỏ chính Chúa.
4. Có bao giờ chúng ta tự hỏi: nếu thế giới này không có Chúa Giêsu thì sẽ ra sao? Nếu Thiên Chúa không thương xót nhân loại mà ban tặng Con Một, nhân loại có còn tồn tại đến hôm nay không? Thư Do Thái (Bài đọc 2) trả lời: “Thiên Chúa đã nhờ Con Một mà dựng nên vũ trụ”; hơn nữa, vạn vật được duy trì và tồn tại là nhờ Chúa Giêsu. Còn trong Tin Mừng, thánh Gioan khẳng định: “Từ nguồn sung mãn của (Ngôi Lời làm người), tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”.
Mầu nhiệm Giáng sinh củng cố niềm hy vọng của thế giới. Nhân loại còn sống và tồn tại được là vì có Chúa Giêsu, cuộc đời chúng ta tràn đầy niềm vui và hy vọng là nhờ tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Tương lai của nhân loại tuỳ thuộc thái độ của con người sống lòng thương xót như thế nào, tuỳ thuộc con người có biết đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa và biết thương xót lẫn nhau không. Thế giới này là “nhà” của Chúa Giêsu, nhưng khi “Ngài đến nhà mình, thì người nhà đã không đón nhận”. Qua mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta hiểu rằng nhân loại không thể hưởng bình an và hạnh phúc nếu không có Chúa Giêsu, thế giới này sẽ không có tương lai khi gạt bỏ Chúa Giêsu là hiện thân của lòng thương xót.
Lễ Giáng sinh là khởi đầu cho tương lai tươi sáng của nhân loại. Hãy xây dựng đời mình trên nền tảng chân lý và ân sủng là chính Chúa Giêsu.
12. Lòng thương xót của Thiên Chúa nơi mầu nhiệm Giáng Sinh 2015--GM Giuse Nguyễn Năng
Đêm nay, chúng ta họp nhau nơi đây để mừng ngày sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Đây là biến cố vĩ đại, như lời thánh Phaolô (Bài đọc 2), đêm nay “ân sủng của Thiên Chúa được biểu lộ”, Con Thiên Chúa sinh ra trong thế giới của chúng ta để “đem ơn cứu độ đến cho mọi người”. Đây là ngày Thiên Chúa biểu lộ lòng thương xót đối với nhân loại đang sống trong khổ đau, tinh thần và thể xác.
1. Khi bị lưu đày bên Babylon, dân Do Thái sống trong cảnh khổ đau trên bình diện tinh thần và thể xác, cá nhân cũng như quốc gia. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót không nỡ để họ mãi mãi chìm ngập trong khổ đau và thất vọng. Qua lời tiên tri Isaia (Bài đọc 1), chính Thiên Chúa lên tiếng loan báo cho họ ngày giải thoát, ngày Thiên Chúa cứu họ khỏi bàn tay hung dữ độc ác của kẻ thù. Ngài sẽ cho một trẻ thơ chào đời để cứu họ. Người con ấy là Đấng quyền năng, là Thủ lãnh hoà bình, sẽ thiết lập nền hoà bình vô tận, trong một vương quốc được xây dựng trên nền tảng chính trực và công minh. Chính niềm hy vọng này đã nâng đỡ dân Do Thái qua những chặng đường lịch sử. Họ luôn trông đợi sẽ có ngày Thiên Chúa biểu lộ lòng xót thương.
Thế giới của chúng ta hôm nay cũng đầy dẫy những khổ đau. Từ bản thân đến gia đình, từ họ hàng đến làng xóm, từ cá nhân đến xã hội, từ quê hương đất nước đến thế giới toàn cầu, cuộc sống tràn ngập khổ đau. Sự dữ lớn nhất là tội lỗi, tội cá nhân, tội tập thể. Rồi nào là hận thù, áp bức, cướp của, chém giết, xung đột, khủng bố, bạo hành, đang diễn ra từng ngày trên thế giới, ngay trong xã hội, trường học và gia đình của chúng ta. Trầm trọng hơn, nhiều quốc gia vẫn chìm trong khói lửa của chiến tranh loạn lạc. Nhiều nơi khác, nguy cơ chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Chúng ta mong đợi một sự giải thoát, khao khát ấm no hạnh phúc. Có lẽ chúng ta chờ đợi một phép mầu xoá tan mọi đau khổ để khai sinh một thế giới mới bình an và hạnh phúc. Thiên Chúa có thương xót nhân loại nữa chăng? Lòng thương xót của Chúa có đủ quyền năng để giải cứu loài người không?
Với niềm tin Kitô hữu, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương nhân loại, yêu thương từng người chúng ta. Ngài là Chúa của lịch sử, là Đấng quyền năng vô biên. Ngài sẽ cứu thế giới như đã cứu dân Do Thái.
2. Tuy nhiên, lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ giới hạn nơi việc giải thoát dân Do Thái. Lời hứa của Thiên Chúa nhắm đến những thực tại lớn lao và sâu xa hơn. Trong đêm Giáng sinh này, lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ qua việc ban tặng cho nhân loại người Con Một yêu dấu. “Chúa Giêsu Kitô chính là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha… Vào thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài xuống thế gian, sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria, để biểu lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta một cách quyết liệt… Chúa Giêsu thành Nazareth, qua lời nói, hành động và toàn bộ con người của Ngài, đã thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa” (Dung mạo lòng thương xót, số 1). Con Thiên Chúa đã làm người sống giữa nhân loại. Nhờ mầu nhiệm Nhập thể, loài người được giao hoà với Thiên Chúa, và mọi người trong thế giới được giao hoà với nhau. Đó là sự giải cứu sâu xa và lớn lao đem lại bình an và hạnh phúc đích thực cho nhân loại.
3. Thiên Chúa thương xót chúng ta bằng cách ban tặng Chúa Giêsu để Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và dục vọng. Tội lỗi và dục vọng, phải, mọi đau khổ đều bắt nguồn từ đó. Con người gây ra đau khổ cho nhau là vì trước hết con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa và trở thành kẻ phản loạn phá đổ công trình tạo dựng của Ngài. Một khi loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, thì đồng thời con người cũng loại trừ nhau. Một tâm hồn bất an và bị xâu xé bởi đủ loại dục vọng làm sao có thể sống hài hòa với người khác được?
Do lòng thương xót muốn cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi và dục vọng là căn nguyên của mọi đau khổ, nên đêm nay, Con Thiên Chúa từ trời cao đã đi vào trần gian đi tìm chúng ta. Nhân loại tựa như đoàn chiên lầm đường lạc lối, hôm nay được Chúa Giêsu xuống thế tìm kiếm đưa về Nhà Cha. Vị Mục tử giàu lòng thương xót ôm chúng ta vào lòng và đưa về sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Hoặc có thể dùng một hình ảnh khác, nhân loại tựa như nạn nhân bị cướp đánh nhừ tử và bỏ dở sống dở chết bên đường, hôm nay đã được Chúa Giêsu như người Samari nhân hậu, xuống lừa, xoa dầu, băng bó vết thương và chữa lành. Lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ như thế đó.
Vì thế điều đầu tiên phải làm để được cứu độ là nhìn nhận mình có tội để được Thiên Chúa thương xót thứ tha. Nếu muốn sống khoẻ mạnh, điều kiện đầu tiên là loại trừ bệnh tật. Mang mầm bệnh trong người thì làm sao khoẻ mạnh? Mà muốn khỏi bệnh, phải nhận mình có bệnh. Không nhận mình có bệnh thì làm sao được chữa khỏi bệnh? Cũng thế, hãy nhìn nhận mình cần được Chúa thương xót.
4. Một khi đã được Thiên Chúa thương xót và thứ tha, chúng ta hãy trở thành chứng nhân và sứ giả của lòng thương xót. Chúa Giêsu đã đi vào đời và gieo mầm tin yêu khắp nơi, để đến phiên mình, mỗi người cũng biết thực thi lòng thương xót, để nhờ đó góp phần kiến tạo một thế giới mới, một xã hội mới, được xây dựng trên công lý và tình thương.
Nếu không có lòng bao dung nhân ái và tha thứ, bạo lực sẽ sinh ra bạo lực, hận thù sinh ra hận thù, tựa như vòng xoáy luẩn quẩn ngày càng lan rộng và không bao giờ chấm dứt. Nếu như vậy thì cuộc đời không thể sống nổi. Chỉ có tình yêu mới cứu được thế giới. Chỉ có tình yêu mới đem lại bình an và hạnh phúc đích thực. Đừng gieo rắc hận thù ghen ghét, đừng sử dụng bạo lực nữa. Gia đình hãy thôi cảnh bạo hành. Đừng dạy cho giới trẻ lòng hận thù báo oán, nhưng hãy thông truyền cho họ tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Giới trẻ và học sinh đừng đánh đập chém giết nhau. Thay cho hận thù và bạo lực, hãy đối xử với nhau theo lối sống của nền văn minh tình thương.
Cùng với lòng bao dung tha thứ, trái tim chúng ta cũng mở ra để thương xót những anh chị em nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, những người sống trong hoàn cảnh đau thương, những người bị bỏ rơi, bị loại trừ. Trong đêm Giáng sinh, thánh Giuse và Đức Mẹ không tìm được chỗ trong quán trọ, đã bị xua đuổi và loại trừ, nên Chúa Giêsu phải sinh ra trong hang lừa bò. Ngày nay biết bao người nghèo khổ cũng bị bỏ rơi và quên lãng, bị xua đuổi và loại trừ. Là Kitô hữu, chúng ta không được thờ ơ vô cảm. Trái tim của chúng ta phải nên giống trái tim của Chúa, biết chạnh lòng thương xót, biết động lòng trắc ẩn. Khi chúng ta cảm thông giúp đỡ họ là chúng ta làm cho Chúa; ngược lại, khi lòng chúng ta khép lại, là chúng ta từ chối Chúa. Hãy nhớ rằng “vào lúc cuối đời, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu” (Dung mạo lòng thương xót, số 15).
5. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói: nhân loại được cứu độ không phải là nhờ “các lời hứa hẹn to tát”, nhưng là nhờ “ánh sáng thầm lặng của sự thật, của lòng nhân lành của Thiên Chúa”. Những chủ thuyết, những nhà độc tài, những chính sách chuyên chế, chỉ để lại cho thế giới này một sự“trống rỗng vĩ đại” và một “sự tàn phá khủng khiếp”. Chúa Giêsu đã không làm một “cuộc cách mạng đẫm máu”, “không thay đổi thế giới bằng vũ lực”, nhưng Chúa đã đến “thắp lên bao nhiêu ánh sáng để tạo thành một đại lộ ánh sáng qua suốt bao nhiêu thiên niên kỷ” (Bài giảng tại giáo xứ Maximilianô Kolbê, Roma, ngày 13-12-2010).
Chỉ có tình yêu mới thay đổi được thế giới. Hãy làm cho lòng thương xót thấm vào mọi sinh hoạt hằng ngày, hãy đổi mới xã hội bằng cách đổi mới lối sống của chúng ta. Đó chính là Phúc-Âm-hoá đời sống xã hội. “Sự khả tín của Giáo hội được biểu lộ qua cách thức Giáo hội thực thi lòng thương xót và trắc ẩn” (Dung mạo lòng thương xót, số 10). Nếu biết sống lòng thương xót, chúng ta sẽ chiếu toả vẻ đẹp của Phúc Âm và làm cho lời rao giảng của Giáo hội có sức thuyết phục.
Trong đêm Giáng sinh, các thiên thần hát mừng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người được Thiên Chúa yêu thương”. Lời ca của thiên thần trên trời đã trở thành lời ca của con người ở dưới đất. Đó là lời ca được hát nhiều nhất trên thế giới trong đêm nay, đêm bình an. Xin “Thủ lãnh hòa bình” ban bình an cho thế giới và quê hương Việt Nam; xin cho xã hội, từng gia đình và từng người được sống bình an hạnh phúc trong tình yêu thương. Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng là hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa ban cho chúng ta một trái tim mới.
Chúc anh chị em mừng lễ Giáng Sinh đầy tràn niềm vui, ân sủng và bình an của Chúa Giêsu.
13. Lễ Đêm Giáng Sinh 2015--TGM Phaolô Bùi Văn Đọc
1. Tối nay, chúng ta cùng nhau cử hành Lễ Đêm mừng Chúa Giáng Sinh tại giáo xứ Hợp An, chúng ta vui mừng hân hoan đón Chúa đến với chúng ta. Chúng ta muốn suy nghĩ sâu xa hơn về ý nghĩa của việc Chúa đến.
Chúa đến đây làm gì? Chúa đến trần gian để đem Niềm Vui, đem Hạnh Phúc của Chúa đến cho chúng ta. Chúa đến trần gian để đem Ơn Tha Tội đến cho loài người đã sa ngã phạm tội từ thời đại này sang thời đại kia. Chúa đến trần gian để mạc khải Tình Yêu, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha cho loài người chúng ta. Chúa đến để đem Bình An, để hòa giải loài người lại với Thiên Chúa và con người lại với nhau.
2. Bài Phúc Âm theo Thánh Luca (Lc 2, 1-14) cho chúng ta biết việc Chúa sinh ra ở đời là một sự kiện lịch sử, xảy ra thời Hoàng đế Augustô (x. Lc 2,1). Thánh Giuse và Mẹ Maria từ Nazareth thuộc vùng Galilê đến Bêlem miền Giuđê, quê hương của Vua Đavít, tổ tiên ngài (x. Lc 2,4). Hai ông bà, vì không có tiền thuê quán trọ, đã sinh Chúa Giêsu trong hang bò lừa (x. Lc 2,7). Đó là một sự kiện lịch sử, nhưng cũng là một Biến Cố Siêu Việt, Siêu Lịch Sử. Đấng Sinh Ra là Đấng Thánh, là Đấng Tạo Thành Trời Đất, là Chủ và là Chúa của Lịch Sử. Chính vì thế mà có sứ thần Chúa hiện ra cho các mục đồng đang chăn chiên: “Anh em đừng sợ! Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân.” (Lc 2,10)
3. Theo Thánh Phaolô trong thư gởi Titô (Tt 2,11-14), Đấng Thánh sinh ra cho nhân loại chúng ta, Người Con giáng trần vì chúng ta, là Ân Sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người (x. Tt 2,11). Ân Sủng đó là chính Chúa, dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục (x. Tt 2,12). Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính (x. Tt 2,14).
4. Chúng ta hát lên mừng Chúa một bài ca mới; hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh (x. Tv 96 (95),1-2a). Chúa đã ban cho Dân Chúa chứa chan niềm hoan hỷ, đã tặng thêm nỗi vui mừng (x. Is 9,2a). Họ mừng vui trước Nhan Ngài, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt (x. Is 9,2b). Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một Người Con đã được ban tặng cho ta (x. Is 9,5a). Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh (x. Is 9,6b).
5. Noel năm nay mọi người chúng ta hãy hướng tới Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi cũng như khuyết điểm và chúc phúc cho chúng ta. Chúng ta đã mở cửa Năm Thánh Lòng Thương Xót tại Nhà Thờ Chính Tòa. Giờ đây chúng ta hãy đón nhận Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vào trong cuộc sống và đưa ra thực hành. Hãy xót thương những người nghèo khổ, những người cô thế cô thân, những người khuyết tật, những người bị bệnh nan y…
14. Noel: Lễ nhập cuộc--‘Nút vòng xoay’--GM. Giuse Vũ Duy Thống
Đi qua trường Kinh Tế Tài Chính 4 bên cạnh Đại Chủng Viện hôm qua, tình cờ nghe được mẩu đối thoại giữa mấy cô gái. Có tiếng hỏi: “Noel, bồ có đi đâu không?”. Có tiếng đáp: “Không, mình ở nhà”. Và khi tiếng đáp vừa mới dứt đã có tiếng ai đó xen vào: “Noel mà lại ở nhà à? Người ta phải ra đường chứ!”.
Vâng! Noel người ta ra đường thật. Từ Đại Chủng Viện tới đây mặc dù đường đi chỉ có mấy bước, nhưng tôi vẫn bị kẹt xe bởi những con đường lớn đều chật ních những người là người. Dường như cả thành phố đều ở trên đường. Kẻ đi người lại, đông ơi là đông. Vì thế, tiếp cận với Tin Mừng Giáng Sinh đêm nay, tôi bỗng thấy thánh Giuse và Đức Maria cũng đang ở trên đường, đường dong duổi cho cuộc đăng ký hộ khẩu kiểm tra dân số. Những điều tai nghe mắt thấy ấy đã tự nhiên gợi lên hình ảnh Noel là một lễ nhập cuộc.
1) Noel là lễ của sự nhập cuộc.
Nếu trong Mùa Vọng, tín hữu đã sống lại niềm trông mong đợi chờ Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm thao thức của họ làm kinh nghiệm thức tỉnh cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp đường lối của họ làm tâm tình chuẩn bị cõi lòng của mình, thì hôm nay không còn úp mở nữa, vị Thiên Chúa được trông chờ ấy chính là Thiên Chúa nhập cuộc.
Khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là “Đấng khôn tả”, nên muốn tả về Ngài người ta chỉ dám dùng đường lối phủ định nghĩa là thêm chữ “vô cùng” vào sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng khác với lối nhìn của ngày xa xưa vốn coi Thiên Chúa là “Đấng đáng sợ”, nếu lơ mơ đến gần Ngài sẽ phải mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến thật sát thật gần. Người hóa thân làm người ở giữa chúng ta.
Người nhập cuộc trong lịch sử chung của toàn thể nhân loại cũng như trong lịch sử riêng của đời Người. Sự nhập cuộc ấy đã được lịch sử cắm mốc thời gian rõ ràng là “thời Hoàng đế Cêsarê Augustô” và được cấp sổ đỏ không thể chối cãi là “thành Bêlem xứ Giuđêa” như Phúc Âm ghi lại. Sự nhập cuộc ấy đã làm nên lý lịch trích ngang của Đấng Cứu Thế. Người có một gia đình, đã được cưu mang chín tháng như bất cứ ai để cuối cùng mở lòng mẹ bước ra chào đời và sống đời như bao người khác.
Thánh Kinh vẫn quen gọi đây là cuộc “Thiên Chúa viếng thăm Dân mình”, nhưng cuộc viếng thăm này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn ra trong chốc lát, cũng không thể được lặp lại trong lần khác nữa. Người là vua vinh quang trên trời đã nhận lấy kiếp người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thể trở nên con người thật với tiểu sử riêng rõ nét. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử chung nhân loại rõ ràng. Đó là sự nhập cuộc.
2) Và nhập cuộc là chấp nhận vòng quay nghiệt ngã của cuộc sống.
Trong bài đọc thứ nhất, qua lăng kính của Isaia, Thiên Chúa được xưng tụng là “Chúa hùng dũng”, thế mà Người đã hóa nên con người yếu đuối trong hình hài một thơ nhi bé bỏng.
Dẫu được gọi là “Thủ Lĩnh bình an”, nhưng chính Người khi xuống thế đã nhập cuộc vào những xáo trộn của cuộc đời, để chẳng được an thân sinh ra trong nhà của mình. Hoàng đế Rôma chỉ là thụ tạo, nhưng lại nắm quyền ra lệnh khai sổ nhân danh khiến Thủ Lĩnh đích thực là Người lại phải chịu sinh ra trên đường đăng cai hộ khẩu. Hộ khẩu dẫn tới “hậu khổ”! Người ta dòng dõi vua chúa sinh ra được bọc vải điều nơi lầu vàng gác tía giữa đông đảo kẻ hầu người hạ, còn Người lại tự nguyện sinh ra nghèo khó nơi hang đá trong máng cỏ bò lừa. Người là “Cha vạn thuở”, bản thân Người là căn nguyên vạn vật, thân thế Người là cội nguồn nhân sinh, muôn vật muôn loài đều phải nhờ Người mới có, thế mà hôm nay Người lại chịu sinh ra trong thời gian bởi một người phụ nữ với tiến trình trưởng thành tuần tự bình thường. Người là “Cố Vấn kỳ diệu”, nhưng khi sinh ra làm người hôm nay chẳng thấy Người cố vấn cho ai, mà ngược lại xem ra Người đã “cố mà vấn vào đời mình” những gì là bình thường nhất nếu không muốn nói là hèn mạt nhất của kiếp phận nghèo khổ.
Rõ ràng là Người đã nhập cuộc trong quỹ đạo của một đời người giữa những người đời. Nhập cuộc như thế cũng có nghĩa là ăn đời ở kiếp giữa đời với những hệ quả muôn thuở của cuộc đời. Nếu cuộc đời luôn bằng phẳng có lẽ đã không có kiểu nói diễn tả “bụi trần”, và nếu cuộc đời luôn hạnh phúc có lẽ cũng chẳng phải lắm điều đặt chuyện “đời là bể khổ” làm chi. Chẳng bi quan cũng thấy cuộc đời không luôn ổn định. Thế mà Chúa đã yêu thương đón lấy cuộc đời ấy, để chính khi hóa thân làm người là cùng lúc Người dấn thân vào trong những bấp bênh bồng bềnh bó buộc của cuộc sống.
3) Để cứu độ trần thế và con người.
Nếu nhập cuộc chỉ có nghĩa là hòa vào dòng chảy cuộc đời thì có lẽ chẳng có lễ Noel. Nhưng sở dĩ có lễ Noel là bởi vì Chúa nhập cuộc để cứu độ trần thế và con người.
Người nhập thế để làm gì? Thưa để đem trần thế vào lại “trật tự nguyên thủy” như nét đẹp ban sơ của trần thế ngày sáng tạo mà tội lỗi đã làm hư đi. Nên Noel còn gọi là “Ngày sáng thế mới”. Đêm Noel là đêm đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của ơn cứu độ.
Người nhập thể để làm gì? Thưa để đem con người về với ơn cứu độ. Người là Emmanuel của một Thiên Chúa không đến rồi đi, không ở rồi về mà là một “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, một Thiên Chúa đến ăn đời ở kiếp với nhân loại để nâng nhân loại lên ngang tầm với vinh quang của Người. Thảo nào, các thiên thần đã hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Và cũng chính vì thế các Giáo phụ Đông phương đã bảo: “Thiên Chúa làm người cho người được làm con Thiên Chúa”. Như vậy, Noel chính là lễ của một sự nhập cuộc tuyệt vời cũng như chữ Noel đến từ danh xưng Emmanuel đã làm nên Thánh lễ đêm nay.
Thiên Chúa nhập cuộc để đem ơn cứu độ. Đó là Tin Mừng trọng đại cho toàn dân, nên sứ điệp của đêm nay là hãy nhập cuộc cùng với Noel.
Nhập cuộc tức thời là hãy mở lòng mình ra mà đón Chúa sinh vào, và nhập cuộc dài hơi là biết sinh Chúa ra bằng một đời sống tín hữu gương mẫu. Đừng để Noel trở thành dịp phô trương đời sống hoặc phô bày đam mê như trong báo Công An tuần qua đăng tải về một Việt kiều tổ chức sinh nhật của mình một cách trụy lạc. Đừng để Noel qua đi mà lòng mình vẫn còn trĩu nặng ước muốn quyền hành hoặc tình cảm ghét ghen. Và nhập cuộc lớn hơn cả chính là biết cùng với Chúa mà cưu mang xây dựng, cảm thông nâng đỡ những anh chị em túng quẫn hoặc đau khổ vốn không thiếu trong đời, cho dẫu chính khi nhập cuộc như thế mình phải hy sinh đi theo quỹ đạo của nhập cuộc.
Noel nhập cuộc là thế, là Tin Mừng sống động, là chan hòa sự sống. Nhưng Noel bao giờ cũng là lễ của niềm vui, của bàn tay nắm lấy bàn tay, của bước chân tiếp nối bước chân dấn thân vào đời phục vụ cho hạnh phúc con người. Niềm vui và hạnh phúc là điều người ta thường cầu chúc trong đêm Noel. Chân thành kính chúc cộng đoàn một Noel tràn đầy niềm vui: thứ niềm vui cứu độ, quên mình, nhập cuộc; và hạnh phúc dẫy đầy: thứ hạnh phúc không phải chờ đến xa xôi mai hậu, nhưng đã bắt đầu đêm nay bằng cách biết tiếp nhận Chúa sinh vào và biết sinh Chúa ra trong quyết tâm nhập cuộc của mình.
15. Tình nghĩa-- GM. Gioan Baotixita Bùi Tuần
Nhìn hang đá Belem, tôi thấy nhiều điều nên suy nghĩ. Như sự Chúa giáng sinh tự chọn cảnh nghèo. Như sự những người sống đạo ở Belem bấy giờ đã không quan tâm đủ đến kẻ lỡ đường xin trọ. Như những người mục đồng làm thuê làm mướn lại được phúc gặp Chúa Cứu thế sớm nhất.
Nhưng có một điều nho nhỏ nơi hang đá Belem cũng đã lôi cuốn tôi. Điều nho nhỏ đó là tình nghĩa.
Vai trò tình nghĩa trong đời Chúa Giêsu.
Tình nghĩa là bầu khí bao trùm Hài nhi Giêsu. Ngoài Đức Mẹ và Thánh Giuse vây quanh hài nhi, tôi thấy còn có các mục đồng và ba vua. Cả con lừa và mấy con chiên cũng đứng sát vào một cách thân yêu. Những hơi thở, những ánh mắt, những cử chỉ của người và vật đều diễn tả tình nghĩa thân thương đối với Hài Nhi.
Nhìn cảnh này, tôi có cảm tưởng: Đây không phải là một sự tình cờ, nhưng là một điều Chúa muốn. Người muốn tình nghĩa nên được hiểu là một điều tốt. Chúa quý mến tình nghĩa. Tình nghĩa là một nâng đỡ quý giá đồng hành với Chúa Cứu thế từ hang đá Belem đến thánh giá trên núi Sọ.
Thực vậy, căn cứ vào Phúc Âm, tôi thấy Chúa Cứu thế đã có những tình nghĩa mặn nồng nâng đỡ sứ mạng của Người suốt hành trình dài.
Đầu tiên là thánh Gioan Baotixita. Tình nghĩa của Gioan đối với Chúa Giêsu nổi bật ở hai điểm này:
Một là Gioan khiêm tốn, tự nhận mình chỉ là kẻ dọn đường cho Chúa Cứu thế.
Hai là Gioan giới thiệu giá trị đích thực của Chúa Giêsu ở tại việc hy sinh gánh tội trần gian, và tự nguyện chịu chết để đền tội cho nhân loại. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian" (Ga 1,29). Lời giới thiệu đó nói lên một tình nghĩa đi vào căn bản.
Sau thánh Gioan Baotixita, tôi thấy tình nghĩa của gia đình chị em Matta, Maria và Ladarô. Gia đình này nâng đỡ Chúa Giêsu về mọi mặt, tinh thần và vật chất, tình cảm và làm chứng. Họ làm chứng về niềm tin Chúa Giêsu là Đấng cứu thế.
Sau cùng là tình nghĩa của các môn đệ Chúa, nhất là thánh Phêrô và thánh Gioan tông đồ.
Tình nghĩa của thánh Phêrô nổi bật ở điểm nhiệt thành, táo bạo trong tuyên xưng đức tin.
Tình nghĩa của thánh Gioan đậm nét ở chỗ được Chúa yêu thương, chia sẻ cho những sự sâu kín nhiệm mầu về đời sống Chúa Ba Ngôi, nhất là ở chỗ được Chúa cho thấu hiểu sâu xa điều răn mới là yêu thương nhau.
Trên đây là những tình nghĩa thường xuyên đậm đà. Cũng còn một vài tình nghĩa vắn, trong các trường hợp đặc biệt. Như trên đường vác thánh giá lên núi Sọ, Chúa được nâng đỡ bởi bà Veronica,một số phụ nữ và ông Simon, người nông dân.
Sau cùng, ở núi Sọ, dưới chân thánh giá, số người nâng đỡ Chúa chỉ còn một số rất nhỏ.
Nói chung, những tình nghĩa đã nâng đỡ Chúa Giêsu khi Người vừa sinh ra ở Belem cho tới khi Người tắt thở trên thánh giá ở núi Sọ, đều rất khiêm tốn, âm thầm. Dầu vậy, những tình nghĩa đó phải được coi là rất quý giá.
Với nhận thức đó, tôi nhìn vào các môn đệ Đức Kitô, xưa và đặc biệt là hôm nay.
Vai trò của tình nghĩa nơi các môn đệ Đức Kitô.
Trên đường bước theo Chúa Cứu thế, môn đệ Chúa cũng gặp được những nâng đỡ. Nếu "đầy tớ không trọng hơn Thầy" (Ga 15,20), thì những nâng đỡ dành cho các ngài cũng rất giới hạn. Tất nhiên nâng đỡ nói đây phải hiểu là nâng đỡ chính đáng.
Cũng vẫn là nâng đỡ của số ít như tại hang đá Belem. Cũng vẫn là nâng đỡ của một số ít làm chứng cho niềm tin hơn là cho cá nhân người môn đệ. Cũng vẫn là nâng đỡ của một số ít như ở Calvariô.
Riêng tôi, tôi coi những tình nghĩa đó là những ơn đặc biệt Chúa ban cho đời tôi.
Kinh Thánh nói: "Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc. Ai gặp được người bạn như thế là gặp được kho tàng. Không gì đổi lấy được một người bạn trung thành, và giá trị của người bạn ấy không cân nào lường được" (Hc 6,14-15).
Trung thành ở đây phải được hiểu là trung thành trong những trường hợp không mấy ai muốn chọn. Như trường hợp sau đây:
Ngày 19 tháng 9 năm 1997, tại một nhà thờ ở Berne, thủ đô Thuỵ Sĩ, có lễ an táng một nữ tu. Nư tu này tên là Rosalba, dòng Tuổi Muội.
Khi còn sống, chị nữ tu này là bạn trung thành của những bệnh nhân mắc bệnh ung thư. Chị thường xuyên thăm họ. Ngoài ra, chị cũng là bạn trung thành của những nữ phạm nhân đã hết hạn tù. Chị thường xuyên liên lạc với họ. Đặc biệt, chị là bạn trung thành của những nữ phạm nhân còn bị giam trong tù. Chị tình nguyện và được phép sống chung với họ trong tù, chịu chế độ tù y như các phạm nhân thực sự. Có chị Rosalba ở trong tù, mỗi phạm nhân như cảm thấy một lễ Noel đến với mình mỗi ngày.
Ngày an táng chị là ngày của những nước mắt. Nước mắt của những người bệnh ung thư, của những nữ tù nhân đã được tha, của những nữ tù nhân còn bị giam giữ. Họ khóc một người bạn trung thành. Chị nữ tu này đã tìm tình nghĩa nơi những người bị loại trừ. Nhiều người nức nở tiễn biệt chị bằng những lời liên quan đến đức tin như: "Thưa chị, nếu thực có thiên đàng, khi lên đó rồi, xin chị vẫn hãy là bạn của em". Những nước mắt trong lễ hôm ấy gieo vào biết bao lòng người những hạt giống khao khát đi tìm dung mạo thực của Thiên Chúa tình yêu, mà chị dòng Tiểu Muội đã giới thiệu chỉ bằng đời sống tình nghĩa của chị đơn sơ, khó nghèo, phục vụ.
Một cái nhìn về tình nghĩa hôm nay.
Tôi đã tìm tình nghĩa với kẻ túng nghèo như ở Belem. Tôi đã tìm tình nghĩa với kẻ bị loại trừ như ở chân thánh giá trên núi Sọ.
Tôi đã thấy. Tôi đã gặp. Tôi hết lòng cảm ơn họ.
Những tình nghĩa ấy đã nâng đỡ tôi. Qua những nâng đỡ đó, tôi cảm nhận được Chúa ở bên tôi. Chúa giáng sinh đến với tôi không phải để tôi bớt khổ, nhưng để chia sẻ nỗi khổ đời tôi.
Người chịu khổ cùng với tôi, chịu nhục cùng với tôi, chịu vất vả cùng với tôi, chịu thử thách cùng với tôi. Tôi cảm nhận được sự thực đó. Tôi coi đó cũng là gương, để tôi biết sống như thế với những người đau khổ.
Trên thực tế hôm nay, cuộc sống đang phơi bày khoảng cách giữa người nghèo và người giàu, giữa người bệnh tật và những khoẻ mạnh, giữa người có quyền chức và người dân thường. Nhiều khoảng cách rất lớn. Nhìn vào, tôi thấy vừa choáng váng và vừa xót xa.
Trong thực tế này, đang nảy sinh những lo âu, những phũ phàng, những ganh tỵ, những tranh giành, những nghi kỵ, những phe nhóm và những mưu lược, những chịu đựng xót lòng. Có đủ thử giả, kể cả tình nghĩa. Cả những tự tử, như bước đường cùng.
Tôi áy náy, không biết Hội Thánh Việt Nam, trong năm truyền giáo này, đã đóng góp được nhiều hay ít trong việc cải thiện thực tế đáng ngại đó, mà ai cũng đang thấy.
Với những cảm nhận như thế, tôi rất mong và rất trân trọng những tình nghĩa. Cho dù đó chỉ nhỏ hẹp khiêm tốn âm thầm như tình nghĩa ở hang đá Belem.
Chớ chi tình nghĩa xưa tại hang đá Belem sẽ là một thời sự của hôm nay. Mong thời sự hôm nay sẽ hứa hẹn một cuộc sống mới, không phải chỉ giàu hơn về văn hoá, nhưng nhất là giàu hơn về tình nghĩa trung thành và tình thương chân thành.
Riêng tôi, trong hoàn cảnh nào, tôi vẫn ghi sâu trong lòng mọi tình nghĩa và tình thương của bất cứ ai dành cho Hài nhi Giêsu luôn hiện diện lặng lẽ trong tôi và cuộc đời tôi.
16. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em 2004--GM GB Bùi Tuần
Chúng ta đang mừng lễ Chúa Giáng Sinh.
I. Theo tôi, chúng ta mừng lễ Chúa Giáng sinh, không có nghĩa là chúng ta nhớ lại hoặc kỷ niệm một Noel đã xảy ra hơn 2000 năm trước đây. Mà là chúng ta đón nhận Chúa Giáng sinh đang đến với chúng ta hôm nay. Người thực sự đang đến với bản thân mỗi người chúng ta, đang đến với gia đình chúng ta, đang đến với Quê Hương chúng ta, đang đến với thế giới chúng ta, đang đến với Hội Thánh chúng ta. Người đang đến hôm nay. Người đang đến lúc này.
Tình hình hôm nay nói chung có nhiều điều tốt, nhưng cũng có nhiều điều đáng ngại. Đáng ngại nhất là về mặt bình an và về mặt đạo đức.
Chính trong một tình hình như thế mà Chúa đến với chúng ta.
Người đến vì mục đích gì? Thưa mục đích đó đã được khẳng định trong kinh Tin Kính: "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã trừ trời xuống thế". Nghĩa là Chúa Giáng sinh xuống trần là vì mục đích cứu độ chúng ta. Đó là mục đích chúng ta rất mong chờ.
Mục đích của Chúa Giáng sinh là như thế. Còn hành trình ta đón nhận Người sẽ phải thế nào?
II. Theo tôi, hành trình của chúng ta cũng phải tương tự như hành trình các mục đồng ở Belem xưa. Các mục đồng ở Belem xưa có một hành trình đơn sơ gồm 4 điểm:
1/ Họ lắng nghe thiên thần từ trời báo: "Hôm nay, Đấng Cứu thế đã sinh ra cho anh em" (Lc 2,11).
2/ Nghe vậy, các mục đồng liền vui mừng ra đi. Kinh Thánh nói: "Họ hối hả ra đi" (Lc 2,16).
3/ Đến hang đá, họ ngạc nhiên thấy một Hài nhi nằm trong máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn. Tuy vậy, họ tin Hài nhi đó là Đấng Cứu thế. Kinh Thánh kể: "Họ vừa ra về, vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa" (Lc 2,20).
4/ Họ cảm được sự bình an sâu lắng, mà các thiên thần hát khen trước đó: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" (Lc 2,14).
Trên đây là hành trình sơ lược của các mục đồng Belem xưa. Hành trình này cũng đang diễn lại tương tự nơi những ai muốn đón nhận Chúa Giáng sinh hôm nay.
Trong đời tôi, tôi đã gặp vô số trường hợp như vậy.
Trước hết, Chúa báo tin mừng cho họ qua một vài sự việc rất nhỏ. Như một gặp gỡ tốt, một trang sách đạo, một bài giảng gây chú ý, một tấm ảnh Chúa, một vài soi sáng nội tâm vv...
Được gợi ý, họ khát khao đi tìm Chúa. Có nhiều cách tìm, như: Cầu nguyện tự phát, làm quen với người sống đức tin, đi vào nhà thờ, gặp gỡ những người có vài nét như Đức Mẹ và thánh Giuse. Rồi, dần dần, họ được ơn đức tin.
Sau cùng, tâm hồn họ được bình an như một dấu chỉ họ đã có Chúa Cứu thế đến trong lòng họ.
Tất cả mọi chi tiết như thế đều diễn ra một cách âm thầm, không ồn ào, không tốn kém.
III. Tiện đây, tôi xin phép chia sẻ kinh nghiệm của riêng tôi: Chính tôi đã thường được đón Chúa Cứu thế vào lòng tôi và đời tôi, cũng qua những chi tiết tương tự. Điều quan trọng là phải có thiện tâm, thiện chí.
Ơn cứu độ là một ơn rất trọng, Chúa sẵn sàng ban cho mọi người. Nhưng Chúa không áp đặt, không ép buộc ai phải nhận. Ai muốn nhận, thì phải biết lắng nghe tiếng Chúa kêu mời, phải chịu khó lên đường, phải khiêm tốn nhận ra Chúa Cứu thế, cho dù Người đến dưới hình thức nghèo hèn, ẩn dật. Sau cùng phải biết gìn giữ sự bình an Người ban cho.
Anh chị em thân mến,
Lễ Noel trước năm 1955, tôi đã sống trong một tình hình đạo đời gây nhiều lo âu. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều, để Chúa Giáng sinh ban ơn cứu độ.
Lễ Noel trước năm 1975, tôi cũng đã sống trong một tình hình đạo đời gây nhiều bất ổn. Tôi cũng đã cầu nguyện rất nhiều, để Chúa Giáng sinh ban ơn cứu độ.
Hôm nay, lễ Noel trước năm 2005, tôi có một cảm tưởng tốt hơn, nhưng cũng không vắng những lo âu về nhiều mặt. Nhất là lo âu cho sự bình an và đời sống đạo đức xã hội, gia đình, Hội Thánh và các cộng đoàn.
Nhưng trong tình hình lo âu, tôi vẫn nghe tiếng thiên thần báo tin "Hôm nay, Đấng Cứu độ đã sinh ra cho anh em" (Lc 2,11).
Tôi mong anh chị em cũng lắng nghe được lời báo đó, biết tìm đến Chúa Cứu thế, biết tin vào Chúa, và biết đón nhận ơn bình an Chúa chia sẻ cho những người thiện tâm, thiện chí.
Với vài tâm tình đơn sơ trên đây, cùng với Đức Cha Già Micae và Đức Cha Giuse, Đức Giám Mục giáo phận, tôi xin thân ái chúc anh chị em một lễ Giáng sinh và một mùa Giáng sinh tốt đẹp nhất.
17. “Vinh danh Thiên Chúa, bình an cho loài người”--TGM Giuse Vũ Văn Thiên 2022
Lời ca của các sứ thần tại Belem đêm đông năm xưa đã trở thành bài thánh thi quen thuộc của phụng vụ Kitô giáo. Thánh Luca nói với chúng ta: đây là bài ca của đạo binh thiên thần đông đảo, cất tiếng ca tụng Thiên Chúa.
Việc Hài Nhi sinh hạ tại Belem năm xưa đã diễn tả vinh quang Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng trọn hảo. Vinh quang của Ngài có từ ngàn đời. Tuy vậy, vinh quang rạng ngời ấy, từ bao thế hệ vẫn ẩn giấu, hoặc có tỏ lộ, thì chỉ ở mức giới hạn hoặc nhất thời. Trong Cựu ước, Thiên Chúa đã tỏ vinh quang của Ngài với ông Môisen và với dân tộc Do Thái trong hành trình về đất hứa. Ngài cũng tỏ vinh quang của Ngài khi vua Salomon khánh thành đền thờ Giêrusalem (vào khoảng năm 930 trước Công nguyên). Nay, nơi Hang đá Belem, vinh quang ngàn đời của Thiên Chúa đã xuất hiện và chiếu soi rạng rỡ. Tác giả thư Híp-ri viết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Hr 1,1-2). Vâng, nếu trong Cựu ước, Thiên Chúa chỉ nói với con người qua các trung gian, thì nay Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Đó là khẳng định của Thánh Gioan, một khẳng định táo bạo và có thể là “mạo phạm” đối với người Do Thái. Vinh quang Thiên Chúa đã xuất hiện giữa nhân loại. Hài Nhi Giêsu là “Ánh sáng bởi Ánh sáng; Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”, như chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Khi khẳng định: Ngôi Lời đã trở nên người phàm, thánh sử Gioan diễn giải tiếp: chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”. Như thế, nhìn thấy Đức Giêsu là nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Những người đương thời với Chúa Giêsu, khi họ chứng kiến những phép lạ của Chúa và khi nghe những lời giáo huấn sâu sắc của Người, đã cảm nhận được vinh quang Thiên Chúa nơi Người. Nhiều người đã thốt lên: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” (Lc 7,16). Những người này đã được chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đến trần gian để tôn vinh Thiên Chúa, để danh Thiên Chúa được cả sáng, và để muôn dân nhận biết quyền năng cao cả của Đấng Sáng tạo. Cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá của Người cũng là để Thiên Chúa được tôn vinh. Người đã tuyên bố với các kỳ mục Do Thái: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là: Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). Trong truyền thống Thánh Kinh, danh xưng “Hằng Hữu” chỉ được dành cho Thiên Chúa, quy chiếu về lời của Chúa nói với ông Môisen trong sự kiện bụi gai bừng cháy mà không bị thiêu rụi (x. Xh 3,14). Lời ca tụng vinh danh Thiên Chúa của triều thần thiên quốc tại Belem, vừa là lời ca ngợi quyền năng vinh hiển của Ngài, vừa diễn tả vinh quang Ngài đã bày tỏ qua Hài Nhi mới sinh. Qua Hài Nhi này, Thiên Chúa được tôn vinh ca ngợi.
Đêm Belem là đêm nối kết đất với trời. Đêm ấy, Thiên Chúa được vinh danh và con người được an bình. Đức Giêsu là Hoàng Tử bình an. Ông Dacaria đã ngẫu hứng hát lên trong ngày con mình là Gioan Tẩy giả sinh ra: “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,78-79). Với Dacaria, Đức Giêsu chính là Vầng Đông và là Bình An được Thiên Chúa gửi đến trần gian, nhờ đó mọi người trong gia đình nhân loại có thể bước đi trong cuộc lữ hành trần gian tăm tối. Khung cảnh thanh bình của Hang Đá Belem diễn tả sự bình an, và cũng hứa hẹn bình an cho những ai đón nhận Chúa Giêsu trong cuộc đời.
Nếu vinh quang Thiên Chúa đã tỏ hiện trong đêm Giáng sinh, thì hôm nay, vinh quang của Ngài vẫn hiện hữu nơi thế gian này. Đó là Đức Giêsu, Đấng đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Người hiện diện để khẳng định với nhân loại mọi thời: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Vinh quang Thiên Chúa còn thể hiện nơi cuộc đời của mỗi tín hữu, như thánh Giám mục Irênê (130-202) đã khẳng định: “Vinh quang Thiên Chúa là con người đang sống – La gloire de Dieu, c’est l’homme vivant”. Con người đang diễn tả vinh quang Thiên Chúa qua đời sống của mình. Khẳng định này vừa giúp chúng ta tôn trọng sự sống nơi bản thân, vừa nhắc nhở chúng ta tôn trọng sự sống và phẩm giá của người khác. Khi chúng ta nhận ra giá trị của sự sống và trân trọng nó, là chúng ta tôn vinh Thiên Chúa.
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Người là vinh quang của Thiên Chúa. Đón nhận Ngôi Lời là đón nhận vinh quang của Thiên Chúa. Đón nhận Ngôi Lời cũng là đón nhận ơn an bình cho tâm hồn và cuộc đời mỗi chúng ta.
18. Lời đã trở thành nhục thể--Lm Carôlô Hồ Bắc Xái
A. Phân tích (Hạt giống... )
Các chuyên viên Thánh Kinh đã gọi đoạn này là quyển Tin Mừng Thứ Tư tóm lược vì chứa đựng dưới dạng súc tích tất cả những chủ đề chính của tác phẩm như: Chúa Giêsu là Lời, Sự Sống, Sự Sáng, Làm chứng, Sự thật...
1. Đức Giêsu là “Lời” của Thiên Chúa, tiền hữu và hằng hữu (cc 1-2)
2. Ngài là Đấng Tạo hóa (c 3a)
3. Ngài là sự sống và sự sáng (cc 3b-5)
4. Gioan Tiền hô là người làm chứng cho Chúa Giêsu (cc 6-8)
5. Chúa Giêsu là sự thật (c 9)
6. Ngài đến ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Ngài mà có. Nhưng thế gian đã không nhận Ngài (c 10-18)
B. Suy niệm (... nẩy mầm)
1. “Lời đã trở thành nhục thể”. Trong những thế kỷ đầu, có những lạc thuyết không chấp nhận việc Thiên Chúa nhập thể vì cho rằng thể xác là xấu xa không đáng cho Thiên Chúa nhập vào. Nhưng Con Thiên Chúa đã thực sự nhập thể, chứng tỏ thân xác chúng ta không xấu xa, chứng tỏ lòng Ngài quá thương chúng ta, và còn cho biết từ nay Thiên Chúa muốn gặp gỡ chúng ta qua thực tại nhân tính với tất cả những yếu đuối hèn hạ của nó. Hệ luận của mầu nhiệm nhập thể này là từ nay ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa khi gặp gỡ con người, ta có thể yêu mến Thiên Chúa khi yêu mến con người...
2. “Ánh sáng chiếu trong bóng tối và bóng tối đã không tiêu diệt được ánh sáng": Nói một cách triết lý, Tối chỉ là thiếu Sáng, cho nên khi nào Sáng đến thì Tối phải tan. Chỉ một ngọn nến nhỏ được đưa vào một gian phòng mênh mông cũng đủ đuổi bóng tối ra khỏi gian phòng. Suy rộng ra, Ác chỉ là thiếu Thiện, cho nên Ác không thể nào thắng Thiện, ngược lại Thiện thắng Ác là điều tất yếu. Ngôi Hai đã nhập thế và nhập thể, ai đón nhận Ngài vào lòng mình thì chắc chắn sẽ đẩy lùi bóng tối và sự ác khỏi lòng mình. Bởi thế, trong quyển sách “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, Đức Gioan Phaolô II luôn lặp đi lặp lại lời kêu gọi đầy lạc quan: “Đừng sợ. Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”.
3. Một đêm kia, trên một đường phố vắng vẻ, Bóng Tối ngồi co ro, buồn bã. Từ một xó nọ loé lên một Tia Sáng, rất nhỏ và rất yếu, nhưng là một tia sáng, phát ra từ một cây nến nhỏ mà ai đó đã cắm ở đấy. Một người khách đi qua nhìn thấy cây nến nhỏ và nói:
- Sao mi lại chiếu sáng trong cái xó kẹt này? Thiếu gì chỗ khác, mi đến đó mà chiếu sáng thì sẽ hữu ích hơn nhiều.
- Tại sao hả, cây nến trả lời. Tôi chiếu sáng bởi vì tôi là cây nến. Tôi có chiếu sáng thì tôi mới là cây nến. Vả lại tôi chiếu sáng đâu phải chỉ để cho người ta thấy mà còn để cho tôi vui, vui vì được làm Tia sáng, vui vì được chiếu sáng.
Bóng Tối nghe thế rất bực bội. Nó nhào tới phủ lên Tia sáng mong làm cho Tia sáng bị tắt. Nhưng chẳng những Tia sáng không tắt, trái lại Bóng Tối còn bị rách nát ra. (Willi Hoffsuemmer).
19. Thiên Chúa ở cùng chúng ta--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
EMMANUEL hay NOEL có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Hôm nay cả thế giới hân hoan mùng lễ Noel, là kỷ niệm ngày Thiên Chúa xuống thế làm người, là việc kỷ niệm Thiên Chúa hạ cố làm người để nâng con người lên làm Thiên Chúa. Hôm nay trời đất gặp nhau, hôn nhau âu yếm, tạo nên một chữ đồng. Chúa giáng trần để cứu rỗi loài người, đem con người trở lại làm con Thiên Chúa và ban cho con người tràn trề hy vọng trong cuộc sống mai hậu. Ta hãy hợp cùng Giáo hội long trọng mừng lễ đêm nay để cảm tạ Chúa về hồng ân Giáng sinh này, và xin Chúa ban cho mọi người được sựï bình an hồn xác như các thiên thần ca hát:
Thượng vinh ư Thiên Chúa
Hạ hòa ư thiện nhân.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 9,1-6.
Vì bất trung với Giao ước, dân Israel đã kéo cơn thịnh nộ của Chúa xuống trên mình: quân đội Assyria đã xâm chiếm vương quốc Israel và bắt một phần dân xứ đó đi lưu đầy ở Babylon. Họ trở thành “dân tộc bước đi trong u tối”, bị quân thù áp bức đủ bề.
Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo là họ sẽ được giải thoát: “Dân tộc bước đi trong u tối sẽ được thấy ánh sáng chứa chan”. Đó là một hài nhi sẽ sinh ra cho họ. Trước mắt, hài nhi này thời đó, là vua Ezechias, nhưng thực ra vua Ezechias không thực hiện được tất cả nội dung của lời tiên tri này. Nội dung đầy đủ của lời tiên tri này sẽ chỉ được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô mà thôi. Đây là Tin mừng mà ngôn sứ Isaia loan báo cho dân Israel khi họ còn sống trong “miền âm u của sự chết”.
+ Bài đọc 2: Tt 2,11-14.
Thánh Phaolô viết thư này cho ông Titô có lẽ vào khoảng năm 65 trước khi thánh nhân chịu tử đạo tại Rôma. Ngài nhấn mạnh về tính chất nhưng không của ân sủng mà Thiên Chúa ban cho ta qua Đức Giêsu Kitô. Kitô hữu hãy hướng lòng tới cuộc xuất hiện vinh quang của Đức Giêsu Kitô sau này. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của chúng ta không dựa trên những công việc tốt lành mà chúng ta thực hiện được, nhưng dựa vào lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa.
Trong lúc chờ đợi, Kitô hữu phải cố gắng từ bỏ sự gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức.
3. Bài Tin mừng: Lc 2, 1-14.
Thánh Luca thuật lại cho chúng ta bối cảnh ngày Chúa Giáng sinh. Bối cảnh này có thể chia thành hai phần đối chọi nhau:
* Phần đen tối: lúc đó người Rôma đặt ách cai trị trên dân tộc Israel, dân chúng phải sống trong cảnh áp bức, đời sống tinh thần và vật chất gặp nhiều khó khăn, phải tuân hành mệnh lệnh của nhà cầm quyền đô hộ... Gia đình Thánh gia cũng là một gia đình nghèo nàn như nhiều gia đình khác, không tìm được chỗ trọ trong hàng quán nên phải sinh Đức Giêsu nơi hang đá Be lem, nằm trong máng cỏ.
* Phần sáng chói: Chính trong sự đơn sơ khó nghèo này mà quyền năng và nhất là lòng nhân từ của Thiên Chúa được tỏ rạng. Hài sinh mới sinh này là Con Thiên Chúa. Do đó, quang cảnh ngày Giáng sinh rất rực rỡ: đoàn thiên sứ báo tin vui, ánh hào quang của Thiên Chúa chiếu tỏa, tiếng ca hát của muôn thiên thần vang lên trên không trung:
Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Việc Đức Giêsu sinh ra đã làm đảo lộn cục diện thế giới: đen tối trở thành ánh sáng, tội lỗi sẽ được thay thế bằng ân sủng, buồn sầu sẽ trở thành mừng vui vì Đấng Cứu thể đã sinh ra.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thiên Chúa ở cùng chúng ta
I. CHÚNG TA MỪNG LỄ GIÁNG SINH.
1. Ý nghĩa ngày lễ Giáng sinh.
Hôm nay khắp nơi trên thế giới hoan hỉ mừng lễ Chúa Giáng sinh, đó là ngày lễ quốc tế chứ không phải của một dân tộc nào ; đối với Kitô hữu, hôm nay được gọi là lễ Chúa Giáng sinh. Nhiều người không muốn dùng từ lễ Giáng sinh mà chỉ dùng chữ Noel trên các tấm thiệp cũng như trong các đèn ông sao và nơi hang đá.
Tại sao gọi là Noel? Chính ra phải gọi là lễ Nuel mới đúng, vì từ Nuel được rút ra từ chữ Emmanuel, có nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Sau này người ta đổi chữ Nuel thành Noel. Như vậy mừng lễ Noel là mừng ngày Thiên Chúa giáng trần và ở cùng chúng ta.
Ngược dòng lịch sử: khi Ađam và Evà phạm tội bất trung, Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà, nhưng đồng thời cũng hứa ban Đấng Cứu thế đến cứu chuộc nhân loại bằng cách cho Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta, và sẽ dùng cái chết của mình trên thập giá để xóa bỏ tội lỗi cho con người. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Ngôi Hai Thiên Chúa đầu thai trong lòng Trinh Nữ Maria và đã được sinh ra tại hang đá Belem trong một đêm đông lạnh lẽo.
Hôm nay khắp thế giới kỷ niệm ngày Thiên Chúa giáng trần để ở cùng loài người. Loài người chúng ta hân hạnh quá vì được đồng hành với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hoá thân làm người như chúng ta, nhận lấy kiếp sống phàm trần như ta để chia sẻ buồn vui với loài người và nâng cao thân phận con người lên để xứng đáng làm con Thiên Chúa.
2. Mừng ngày Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hôm nay Con trẻ Giêsu được sinh ra tại hang đá Belem, mọi người đều hướng về Ngài. Vậy Ngài là ai mà quan trọng thế? Ngài vừa là Con Thiên Chúa vừa là con của loài người. Ngài đến nối kết trời và đất, Ngài là Đấng Trung hòa. Trong Ngài trời và đất không còn xa nhau, không còn khoảng cách. Tất cả đều nên một cho nên phải nói:Ngài thực sự là Đấng “Chí Trung Hoà”, là Đấng “Thái Hoà” thực hiện đúng lý tưởng của văn hóa Đông phương hằng mong ước.
Ngài là Con Thiên Chúa, cho nên Ngài nên một với Thiên Chúa. Ngài là con người nên hoà đồng với con người, nhận lấy thân phận khốn khổ của loài người. Chính thánh Phaolô đã giải thích mầu nhiệm này: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất thiết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, sống như người trần gian. Người lại còn hạ mình vâng lời bằng lòng chịu chết trên cây thập tự” (Pl 2,1-8). Người đồng hóa như vậy đó: “Cho loài người tham dự với Người vào các mầu nhiệm Thiên Chúa. Biến đổi loài người nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Cầu bầu cho nhân loại, và cứu rỗi họ bằng sự chết của mình” (Thân văn Tường, Kitô học, tr 136).
Theo Đông phương, Đức Giêsu Kitô là Đấng “Chí Trung Chí Hoà”. Chữ Trung gồm nét sổ thẳng chính giữa tâm hình tròn. Hình tròn biểu tượng thái cực là Trời, là Thiên Chúa. Hình tròn viết thành chữ thì biến thành hình vuông. Vuông chỉ đất là người. Nét sổ thẳng chính trung tâm vuông tròn không xê dịch, sai lệch một chút nào, đó là Chí Trung, dấu chỉ Đức Giêsu là trung tâm trời đất. Còn Chí Hoà, chữ Hoà gồm chữ hoà là lúa và chữ khẩu là miệng: cơm bánh là thực phẩm hợp khẩu vị nhất, là đồ ăn hoà đến cùng cực để trở nên sự sống của loài người. Đức Kitô đã biến bánh miến và rượu nho trở nên Thịt Máu mình để trở nên của ăn của uống ban cho chúng ta sự sống muôn đời. Một sự hoà đồng cùng cực: Chí Hoà”. Thật Người là Đấng Chí Trung Chí Hoà để cho tất cả nên một. Thiên Chúa và con người không còn xa cách, không còn không gian, thời gian nào phân ly được nữa... (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 22)
Truyện: hoàng tử và cậu bé nghèo.
Văn hào Mark Twain cách đây ba thế kỷ, có viết một cuốn sách tiểu thuyết nổi tiếng tựa đề “Hoàng tử và cậu bé nghèo”. Chuyện kể lại tình bạn của hai cậu bé giống hệt nhau khiến người ta tưởng là sinh đôi. Một trong hai cậu bé tên là Edward, hoàng tử xứ Galles. Còn Tom Canty, người bạn của vị hoàng tử, lại là một cậu bé con nhà nghèo.
Một ngày kia, hai cậu bé có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào thế chỗ của vị hoàng tử Edward trong triều đình, còn Edward thì khoác lên mình một mảnh áo rách rưới và bắt đầu cuộc phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ bên cạnh những người cùng cực nhất trong xã hội.
Thế nhưng một lúc nào đó, hai cậu cũng cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu lưu này. Edward mới sực tỉnh về ngôi vị hoàng tử của mình. Trong bộ áo rách rưới nhơ bẩn, cậu tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng mình là hoàng tử nối ngôi của xứ Galles. Nhưng cảnh sát đã không tin... Thế là hoàng tử Edward đành phải lặng lẽ bước vào tù vì tội giả mạo.
Giữa lúc Tom cậu bé nghèo sắp sửa được tấn phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất hiện... Không mấy chốc cậu đã được phục hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu. Chính nhờ kinh nghiệm của những tháng ngày làm người ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ với những người cùng khổ, mà Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và giầu lòng thương người (Lẽ sống,447)
Cũng giống như câu chuyện trên đây, Thiên Chúa đã đến giữa loài người để hoán đổi vị thế với chúng ta. Người mặc lấy thân xác nghèo hèn của chúng ta để chúng ta được mang lấy tước hiệu làm con Thiên Chúa. Nhờ ân sủng của Ngài, Ngài chia sẻ với chúng ta sự sống thần linh và đón nhận trong thân xác Ngài tất cả những hệ lụy của kiếp sống khổ đau của con người.
3. Những Đấng Kitô ngày nay!
Chúa Giêsu đã xuống thế lần thứ nhất vào ngày Ngài giáng sinh. Ngài hứa sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang của Ngài để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Trong khi chờ đợi Ngài đến lần thứ hai, ngày nay ta thấy xuất hiện nhiều người tự xưng là Đấng Kitô, Chúa Cứu thế. Cho đến nay, đã xuất hiện 18 tân Kitô tại Ấn độï, Nga, Mỹ và Pháp và tự xưng mình là Chúa, trong đó có một nữ Chúa Cứu thế với 15 triệu tín đồ. Điên khùng hay bịp bợm, các nhà tiên tri ấy hứa hẹn với các tín đồ một thiên đàng dưới đất chăng?
Cách đây 1000 năm, loan báo ngày tận thế sẽ vào năm 1000, phải chăng nay lại tái diễn? Trong số các Đấng Cứu thế này có Sathya Sai Baba là nổi tiếng nhất trong số các Messie hiện tại. Ông ở tuổi 68, ông Kitô Ấn độ này với kiểu tóc bờm ngựa, đã chiêu tập được 10 triệu tín đồ. Xuất hiện trước công chúng, ông ta luôn mặc cái áo dài màu cam, ngồi trên ngai và để chân lên đệm. Ông cũng làm được một vài điều lạ như đẻ ra trứng trước mặt nhiều người, chữa bệnh bằng thần giao cách cảm. Có một cặp vợ chồng người Tây phương hỏi ông có phải là Đấng Kitô đăng quang lần thứ hai không, ông ta chỉ mỉm cười.
Còn Đấng Kitô đáng chú ý nữa là Mary Davy Christ, Kitô đàn bà, người Do thái. Theo truyền thống Do thái, lại không nhận có Kitô đàn bà. Nhưng các đệ tử của Mary Davy Christ lại lý giải thật đơn giản: đăng quang lần đầu tiên Kitô là đàn ông, thì lần thứ hai để loan báo ngày tận thế, Kitô sẽ là đàn bà: chuyện đó rất đơn giản.
Đấng Cứu thế đã đến rồi và Ngài sẽ trở lại mà chưa biết ngày nào, chúng ta hãy chờ đợi. Còn những Kitô giả hiệu không được có chỗ đứng trong suy nghĩ của chúng ta: Chúng ta chỉ có một Chúa Kitô là Đức Giêsu.
II. CẢM NGHĨ VỀ LỄ GIÁNG SINH.
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Người Con yêu qúi của Ngài là Đức Giêsu. Trong ngày kỷ niệm ngày Ngài giáng sinh, chúng ta phải có những tâm tình nào đây? Không lẽ chúng ta chỉ coi lễ Giáng sinh như là một ngày vui chơi sao? Như thế lễ Giáng sinh không còn có ý nghĩa thiêng liêng nữa.
1. Ngày lễ của Tình yêu.
Hôm nay chúng kỷ niệm ngày Đức Giêsu ra đời. Ngày đáng ghi nhớ. Ngày trời đất gặp nhau hôn nhau âu yếm. Ngày trời đất se chữ đồng. Ngày Thiên Chúa hạ xuống làm người để con người được làm Thiên Chúa. Lễ hôm nay phải được gọi là lễ của Tình yêu, tình yêu cao vời của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa đã bỏ mọi vinh quang trên trời, hạ mình xuống làm con người hèn hạ. Nhìn vào hang đá, ta thấy một hài nhi bé bỏng nằm trong nôi, ngoài Đức Maria và thánh Giuse chỉ có mấy con bò lừa thở hơi ấm cho Chúa Hài nhi, và trên không trung chỉ có tiếng ca hát của các thiên thần. Sau đó, các thiên thần báo tin cho mục đồng đến chiêm bái Chúa Hài đồng.
Người ta ai cũng có quan niệm rằng: Đấng Cứu thế phải là con vua con chúa, phải sinh ra nơi lầu son gác tía, được mọi người tung hô chúc tụng ; nhưng thực tế lại khác hẳn, Ngôi Hai Thiên Chúa sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát: không nhà không cửa, không giường không chiếu, không lấy một mảnh chăn êm, không ai đến thăm hỏi. Thật là cám cảnh. Có ai trong chúng ta đi lễ đây đã bao giờ sinh con trong hoàn cảnh như vậy chưa? Chắc chắn là không. Thế mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã sinh ra trong hoàn cảnh như vậy đó. Vậy lý do nào đã khiến Thiên Chúa hành động như vậy? Không còn lý do nào khác ngoài tình yêu đối với chúng ta, vì đã yêu thì không có tính toán hơn thiệt.
Truyện: Hoàng đế Sabat.
Hồi đó, Hoàng đế Sabat cai trị vương quốc Ba tư và rất được toàn dân mến phục. Nhà vua thường cải trang như một thường dân để dễ tiếp xúc với dân chúng. Một hôm, nhà vua cải trang như một công nhân nghèo khổ lần mò các bậc thang để xuống tận hầm tối của lâu đài là nơi cư ngụ của một cụ già chuyên lo việc củi lửa sưởi ấm cho cả lâu đài. Giường ngủ của cụ là đống tro tàn và lương thực hằng ngày là mẩu bánh mì đen với ly nước lã. Nhà vua đến ngồi bên cạnh cụ già và bắt đầu gợi chuyện. Đến bữa ăn, cụ già mời nhà vua chia sẻ mẩu bánh mì khô cứng thấm mềm trong ly nước lã. Cả hai cùng ăn và tiếp tục chuyện trò thân mật.
Nhà vua động lòng thương cụ già và từ ngày đó, nhà vua nhiều lần cải trang để đến thăm cụ. Riêng cụ già, tuy không biết lý lịch của người đến thăm mình là ai, nhưng vẫn tiếp tục đáp trả cử chỉ nhân đạo của nhà vua. Sau cùng, nhà vua tự nhủ: ta sẽ tỏ lộ cho cụ già này biết ta là ai, để xem ông ta sẽ xin ta sự gì. Ít hôm sau, nhà vua xuống hầm tối thăm cụ già trong y phục sang trọng và nói:
- Bấy lâu nay có lẽ ông tưởng ta chỉ là một công nhân nghèo khổ như ông, nhưng nay ta nói thật ta là vua, ta rất mến tình bạn của ông, vậy ông muốn gì, cứ nói, ta sẽ ban cho.
Nhà vua tưởng cụ già sẽ xin tiền bạc hoặc ân huệ, nhưng ông chỉ ngồi yên lặng. Tưởng cụ già không hiểu mình nói gì, nhà vua cắt nghĩa thêm:
- Có lẽ ông chưa hiểu rằng ta là vua, ta có thể làm cho ông nên giầu sang, danh vọng.
Cụ già cúi đầu đáp:
- Tâu Hoàng thượng, con đã hiểu tấm lòng của Hoàng thượng trong những lần đến hầm tối này để thăm con và không ngần ngại chia sẻ với con mẩu bánh mì đen và ly nước lạnh. Đó là món quà cao qúi nhất rồi, con không muốn gì hơn nữa, con chỉ xin một điều là Hoàng thượng đừng bao giờ lấy lại món quà quí giá ấy bao lâu con còn sống trong cảnh cô đơn nghèo khổ này.
2. Tâm tình trong ngày lễ.
Hôm nay mọi người đều nô nức đi dự lễ, kể cả những người ngoài công giáo. Mỗi người có một cái nhìn về lễ Giáng sinh: họ cũng mừng lễ, chúng ta cũng mừng lễ, nhưng tâm tình về ngày lễ thì khác nhau. Vậy chúng ta có tâm tình nào? Với ý tưởng gì? Ta có những ý tưởng tốt đẹp và cao qúi trong ngày lễ Giáng sinh không? Hay chỉ nghĩ rằng hôm nay là ngày lễ để vui chơi, để có dịp gặp gỡ nhau hoặc có dịp khoe thời trang?
Truyện: Ý tưởng về Lễ Giáng sinh.
Một giáo sư tâm lý của trường đại học tại Hoa kỳ ra một bài thi để dò xem ý tưởng của 40 sinh viên trong lớp của mình. Trước hết ông bảo họ lấy giấy bút ra viết chữ “Lễ Giánh sinh”, rồi ông nói: “Bây giờ các anh chị hãy viết vào sau chữ ấy ý nghĩ đầu tiên mà các anh chị liên tưởng đến về ngày lễ ấy”.
Khi họ nộp quyển, ông coi lại thì thấy có những chữ sau đây: cây giáng sinh, dây kim tuyến, tặng phẩm, gà tây, bài ca giáng sinh và ông già Noel, không có một ai viết “Ngày Chúa Giêsu ra đời”.
Ngày này lễ Giáng sinh không còn ý nghĩa cao qúi ấy nữa, người ta đã tục hóa lễ Giáng sinh, người ta chỉ coi lễ Giáng sinh là một ngày vui chơi cho mọi người, thậm chí có những người lợi dụng lễ Giáng sinh để kinh doanh.
Tôi xin nhắc lại câu hỏi: hôm nay anh chị em nghĩ gì về lễ Giáng sinh? Nếu anh chị em quên hay không biết, tôi xin được phép nhắc lại: Hôm nay chúng ta mừng lễ Giáng sinh là có ý kỷ niệm ngày Thiên Chúa giáng trần, ngày Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta. Anh chị em hãy nhìn vào chữ Emmanuel hay chữ Noel để nhớ đến ý nghĩa của ngày lễ. Emmanuel hay Noel có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa.
Trong dịp lễ Giáng sinh hôm nay, tôi xin gửi đến mỗi người một tấm thiệp Noel với hàng chữ ghi trong tấm thiệp mà tôi mới nhận được từ bên Mỹ:
Every day is Christmas for me
because I love you.
20. Lễ Giáng Sinh: Con Thiên Chúa làm người--Lm Giuse Đinh Tất Quý
LỄ ĐÊM
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm, có một người được Thiên Chúa ban cho ơn đặc biệt, đó là tiên tri Isaia, ông hướng về tương lai của nhân loại mà thần của Thiên Chúa đã hé mở cho ông, ông nói những lời mà chúng ta vừa được nghe lại.
Kể từ ngày đó, nhân loại đợi trông Con trẻ đã được tiên báo ra đời. Rồi người ta thấy một Người có những điểm rất kì diệu xuất hiện.
Ngài là Con Trời nhưng lại chịu làm con một người thợ mộc tầm thường. Dầu sống bình thường, nhưng tuổi thơ ấu của Ngài làm cho vị Vua Hêrôđê đầy kiêu ngạo và gian ác phải khiếp sợ. Ngài là Đấng Tạo Hóa quyền năng, nhưng gặp nhiều hiểm nguy có liên hệ đến tính mạng nên cha mẹ Ngài đã phải ẵm Ngài đi tị nạn.
Ngài là Đấng giàu có tột đỉnh trong nước trời, nhưng lại chịu trở nên nghèo nàn vô cùng trên trái đất. Ngài nghèo đến nỗi, khi sinh ra, không có chỗ đặt lưng. Phải nằm nhờ trên một máng cỏ trong hang chứa súc vật của một người không quen biết. Ngài không có tiền đến nỗi phải bảo một môn đi câu để tìm một đồng bạc nơi miệng cá để đóng thuế. Muốn đãi toàn dân một bữa ăn, Ngài phải nhờ bánh và cá của một em bé. Khi muốn qua bên kia bờ biển, Ngài phải đi nhờ thuyền của người chài lưới. Muốn vào thành Giêrusalem Ngài phải dùng con lừa mượn của người khác. Khi chết, Ngài chỉ còn một cái áo, nhưng bọn lính cũng lấy cái áo đó của Ngài. Sau khi chết, Ngài không có tiền để lại để mua một cái huyệt, mà người ta phải chôn Ngài trong một cái huyệt của người khác. Thế mà ngày nay đâu đâu cũng có nhà của Ngài.
Ngài không có cấp bằng đại học, nhưng cho dù sự khôn ngoan cao nhất ở đại học từ cổ chí kim, cũng không sao so sánh được với sự khôn ngoan của Ngài. Khi mới mười hai tuổi, Ngài đã làm cho bao người thông thái phải ngạc nhiên vì những lời đối đáp cao siêu của Ngài. Nghe lời Ngài giảng dạy, mọi người phải ngạc nhiên vì Ngài giảng dạy có uy quyền….. khác hẳn những người khác, vì Ngài có đầy đủ thẩm quyền phán quyết cho mọi vấn đề. Ngài có quyền trên định luật thiên nhiên. Một đám tiệc cưới bất ngờ thiếu rượu, Ngài đã biến nước thành rượu để giúp chàng rể khỏi bẽ mặt trong ngày vui của chàng. Chỉ dùng một phần ăn của anh em nhỏ, năm cái bánh và hai con cá, Ngài đã đãi hơn năm ngàn người một bữa ăn no nê lại còn dư ra mười hai giỏ đầy những miếng bánh vụn. Một đêm khuya kia trong một cơn giông dữ dội, Ngài đã coi thường định luật hấp lực của trái đất, Ngài đã đi trên mặt biển rộng đang lộng gió để đến với các môn đệ. Họ đang kinh hãi vì các ngọn sóng biển cao gầm thét, nhưng Ngài không sợ mà trái lại, Ngài đã quở gió và biển, chúng phải vâng lệnh ….. im lặng như tờ. Việc lạ lùng đến nỗi các môn đệ kinh ngạc hỏi nhau “Ngài là ai?”
Các bác sĩ phải dùng thuốc để chữa bệnh, nhưng Ngài chỉ dùng lời phán để chữa lành mọi bệnh tật. Thật lạ lùng! Ngài đã giải tán đám tang bằng cách rờ vào quan tài của cậu trai đã chết và cho cậu sống lại để trở về nhà cùng bà mẹ của cậu. Ngài biến cảnh đau thương biệt ly của Mátta thành cảnh vui mừng sum họp bằng cách gọi Ladarô sống lại, ra khỏi mồ, dù chàng đã chết và đã chôn được bốn ngày.
Ngài chẳng hề viết một cuốn sách nào nhưng hiện nay trên thế giới, không có một thư viện nào có đủ chỗ để chứa những sách người ta viết về Ngài. Ngài không hề vẽ một bức tranh nhưng ngày nay không biết bao nhiêu bức tranh người ta vẽ về Ngài. Ngài không sáng tác một bài nhạc hay một bài ca nào để nói về Ngài, nhưng những bản nhạc đại hòa tấu chúc tụng Ngài nhiều vô kể và đang vang tiếng khắp bốn bể năm châu!
Ngài không hề có vũ khí trên tay. Ngài cũng không hề tuyển mộ binh sĩ để thành lập quân đội, nhưng không có một tướng lãnh nào hay bất kì vị lãnh tụ nào có nhiều người bằng lòng tuân lệnh Ngài. Đã có hàng tỉ người tự nguyện tuân lệnh Ngài từ hai ngàn năm nay và mãi mãi về sau. Trong lịch sử loài người đã có rất nhiều người quyết tâm chống trả Ngài với tất cả khả năng quyền lực của họ, nhưng rồi trong số đó đã có người phải chịu quy hàng, đầu phục Ngài. Không phải vì Ngài đã chinh phục họ bằng vũ lực, nhưng Ngài đã chinh phục họ bằng tình yêu nhân lành Ngài dành cho họ.
Các đế quốc hưng thịnh rồi suy tàn. Các vua chúa lần lượt ra đi, nhưng Ngài còn lại đời đời. Vua Hêrôđê không giết được Ngài, đế quốc La Mã không tiêu diệt được Ngài. Sự chết không có quyền trên Ngài. Mồ mả không giữ được Ngài, vì vị trí của Ngài là ở bên hữu Đấng Toàn Năng.
Tất cả ai nấy đều chết vì mình, nhưng Ngài lại chết vì tội nhân. Tất cả mọi người đều bị khuất phục trước sự chết, nhưng ngài đã chiến thắng sự chết và bước ra khỏi mồ một cách khải hoàn. Người đời thường rời cuộc đời trần thế bằng nấm mồ chôn ba tấc đất, nhưng ngài rời cuộc đời trần thế bằng cách thăng thiêng về trời. Lúc đó một đám đông ngơ ngác, ngước mắt lên nhìn theo Ngài vì việc quá lạ lùng xảy ra trước mắt họ!
Ngài đã từng bị khinh bỉ nhục nhã, nhưng nay Ngài đang ngồi trên ngai vinh hiển của Thiên Chúa. Trước khi trở lại ngôi trời, Ngài đã hứa một điều lạ lùng cùng những kẻ thuộc về ngài rằng: Ta đi và sắp sẵn cho các con một chỗ. Khi Ta đã sắp sẵn cho các con một chỗ rồi, Ta sẽ trở lại đem các con đi với Ta, hầu ta ở đâu thì các con cũng sẽ ở đó với ta. Lời hứa lạ lùng này sẽ thành tựu trong tương lai gần đây. Lúc đó những người của Ngài sẽ vui mừng trọn vẹn vì được sống hạnh phúc vĩnh cửu với Đấng kì diệu của họ.
Đấng kì diệu ấy là ai? Thưa Ngài chính là Chúa Giêsu. Ngài là con trẻ đã sinh ra tại chuồng chiên nằm trong máng cỏ cách đây hơn 2000 năm. Ngài đã từ trời giáng thế để đem những ai tin nhận Ngài từ trần gian về cõi trời.
Xin kính chúc tất cả một mùa Giáng Sinh vui vẻ và đầy hồng ân của Chúa Giêsu.
LỄ RẠNG ĐÔNG
Kính thưa anh chị em.
Chúng ta đang ở trong bầu khí mừng Chúa Giêsu giáng sinh làm người.
Nhìn vào biến cố diễn ra tại hang đá Belem, chúng ta thấy một cảnh tương phản khó hiểu xuất hiện trước mắt chúng ta.
1. Trước hết là cảnh tương phản giữa trời và đất.
Bầu trời hôm ấy rực sáng... ”trong vùng ấy” đêm hôm ấy bừng sáng. Cả bầu trời vang dội tiếng ca mừng biến cố, với quy mô lớn lao và hoành tráng chưa từng có “Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời; bình an dưới thế cho loài người Chúa thương “. Vâng! Đất trời tưng bừng mở hội
Còn gì cao đẹp hơn! Còn gì tuyệt diệu hơn. “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời - Và Bình an dưới thế cho người Chúa thương.
Nhưng dưới bầu trời rực sáng đó là một hang đá nghèo hèn, tăm tối người ta dùng để làm chỗ trú đêm cho loài vật lúc đêm về. Trong hang đá đó có một cặp vợ chồng trẻ vì hoàn cảnh nghèo, nghèo quá cho nên không tìm được chỗ trọ ở trong phố chợ, đã phải ra đó để nương nhờ, mượn chỗ đó làm nơi hạ sinh cho đứa con đầu lòng thân yêu của họ. Vâng! Giữa cảnh rực sáng của bầu trời, không dè lại tồn tại một cảnh nghèo hèn như thế ngay ở trên cõi dương gian này!
2. Tiếp đến là cảnh tương phản giữa người với người trong biến cố này.
Nào mấy ai hiểu được rằng hài nhi được sinh ra trong hang đá nghèo hèn đó là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Nào mấy ai hiểu được rằng Hài Nhi đó là Đấng mà muôn dân đợi trông... đợi trông từ bao ngàn năm qua! Nào có mấy ai hiểu được rằng Hài nhi nghèo khó tại hang đá Belem hôm đó là Đấng Cứu Thế, Đấng đem lại ơn Cứu độ cho cả loài người. Và có mấy ai ngờ được rằng những người đầu tiên được đón nhận mạc khải của biến cố, lại không phải là những người giàu có, quyền uy... mà lại là những con người mạt rệp của xã hội thời ấy: “những người chăn chiên “, những người thường bị coi là những tên bất lương, phường trộm cắp. Những người ở nấc thang cuối cùng của xã hội thời đó. Nào mấy ai ngờ được rằng những người vốn bị khinh bỉ ấy lại là những người đầu tiên được chia sẻ ơn Giáng sinh của Đấng có một người mẹ là “kẻ khiêm hạ”, và Đấng sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo khổ (4. 18).
Vâng sứ điệp mà “Thiên thần Chúa” gởi đến cho họ là “Một Tin Mừng” một niềm vui trọng đại. Đó là tin vui “cho toàn dân “, tin vui về một hài nhi Giáng sinh, mà chỉ hài nhi đó mới có đầy đủ những danh hiệu là “Đấng Cứu độ, Đấng Mêsia”, “Đức Chúa “, bởi vì hài nhi đó là mạc khải sống động của lòng nhân hậu Chúa.
Và “Dấu chỉ” được ban cho các người chăn chiên trong vùng Bêlem hôm ấy không phải là giường vàng nệm ấm, cũng chẳng phải là hoàng tử của ông hoàng bà chúa mà là “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ “, Thật là lạ lùng, ai mà ngờ được dấu chỉ đó lại là dấu chỉ cho các mục đồng nhận ra Đấng Cứu Thế!
Khi suy niệm về sự việc này, R. Meynet viết: “Kẻ đứng đầu trở nên người rốt hết. Người là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia sẽ được ban cho ngôi báu Đavít, lại đã nằm trong máng cỏ bò lừa; Người được bọc tã nằm trong cái nôi của số phận nghiệt ngã, và chính cái đó, cái dấu chỉ ngược đời này đã được ban cho các người chăn chiên cũng như cho những kẻ có lòng tin của mọi thời. Bằng chứng oai phong của Chúa là sự thấp hèn, bé nhỏ của Người, dấu chỉ quyền năng của Người là vẻ yếu đuối”,
Khi vùng quê Bêlem đã trở về với đêm tối và tĩnh mịch, các người chăn chiên đã hối hả ra đi “đến xem sự việc đã xảy ra “. “Họ thấy bà Maria, ông Giuse cùng với hài nhi đặt nằm trong máng cỏ “.
3. Kính thưa anh chị em, ngày xưa là như vậy. Và hôm nay cũng vậy thôi, Người đến xô đẩy những gì người ta vẫn coi là ưu tiên, những quan điểm hẹp hòi và những chương trình to lớn vĩ đại của ta. Ở đâu người ta ít chờ đợi Người, thì Người lại xuất hiện. Và với một Đức Kitô như thế, thì rất có nguy cơ lại trở về tình trạng chẳng khác gì đêm Noel xa xưa ngày ấy: sẽ chẳng ai mà đoái hoài đến, chẳng ai biết cho, luôn bị đe doạ, bị thành phần ưu tú của tín hữu và những kẻ thế lực đời này ruồng rẫy thôi. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”.
Mà tại sao lại thế? Là vì Người không chỉ bằng lòng với việc kêu gọi cầu nguyện và tổ chức những lễ lạy rình rang, nhưng Người giảng dạy sự tha thứ và lòng xót thương; Người tuyên bố phẩm giá và những quyền của con người phải được tôn trọng. Là vì Người vạch rõ những con đường để thực thi công lý, hòa bình, hiệp nhất và 'huynh' đệ' bằng việc hoán cải cái tâm, thay đổi cái tính và uốn nắn cái tình.
Vâng! Thiên Chúa đến làm cho chúng ta trở nên “một dân hăng hái làm điều thiện”. Thế nên ta hãy làm cho lòng ta thành một cái nôi lãnh nhận Lời ban sự sống. Và khi bàn tay ta, giống như máng cỏ, giơ ra để nhận Lời hóa bánh, thì hãy nhớ rằng Người đến trong ta để lấy đó làm nơi cư ngụ, để soi sáng, giải thoát, biến đổi ta và để làm cho ta trở thành những chứng nhân và làm bằng chứng cụ thể cho tình yêu của Người đối với mọi người vậy...
(J. Debruyne, trong “Jésus, sa chair, ses racines”, Desclée, trg 201-202).
“Đêm đó các người chăn chiên đã lên đường đi tìm Chúa.
Phải chăng hài nhi sơ sinh kia
Là người thân của họ
Nên đã sinh ra trong chuồng bò lừa như thế
Có lẽ rồi đây Người cũng sẽ là kẻ chăn chiên chăng?
Thế tại sao hài nhi bé bỏng kia
Rồi đây lại không muốn làm
“một chú bé mục đồng “
Họ là những người canh giữ đoàn vật
Luôn trông chờ bình minh mau tới,
Qua ánh sao, họ nhận ra dấu chỉ
Giữa trời đêm, họ đọc Thánh Kinh.
Họ là những người nay đây mai đó,
Mòn vết chân trên những đồng cỏ thưa,
Họ khéo léo tập hợp bầy chó dại.
Và rất dễ dàng quy tụ đoàn chiên.
Hơn là bế bồng nâng niu em nhỏ,
Có lẽ họ là lời loan báo
Rằng đêm nay
Một cuộc xuất hành mới bắt đầu chăng?
Có lẽ vì họ là
Những con người của lều trại
Không cố định ở một chốn nào lâu.
Vì họ là những anh em bà con của Chúa,
Nên khi ở với họ,
Chúa cảm thấy như ở nhà mình chăng?
Phải có được những con mắt như họ,
Mới có thể giữa trời đêm
Nhắm ánh sao mà tiến tới,
Để nhận ra Thiên Chúa ẩn mình
Dưới hình hài một trẻ sơ sinh...
Đêm hôm đó,
Đêm vui của những người nghèo
Vẫn chưa trở thành ngày lễ
Cho những kẻ giàu sang.
Nét thanh bần
Vẫn chưa phải là lễ hội của quà chia,
Đêm lặng lẽ đó,
Vẫn chưa phải là lễ hội đem tưng bừng thật sự
Đêm hôm đó.,
Chẳng cần cổ võ thêm những cuộc vui,
Mà nên triệt bỏ đi mới phải.
Nếu đêm nay Chúa đang ở đó,
Thì ta phải cúi xuống tìm gặp Người,
Và quỳ xuống
Để lượm lấy Người nằm dưới đất.
Hài nhi sơ sinh đó
Còn chưa nói ra được một tiếng
Thế mà lại đã là Lời
Mà ý nghĩa thật là đảo lộn.
Là thế giới đảo ngược,
Là đảo ngược các thang giá trị,
Là tương lai đã đang đi trên đầu rồi.
LỄ BAN NGÀY
“Lời trở thành người phàm” và cư ngụ giữa chúng ta”
Lời khẳng định trên đây là một lời quả quyết huyền bí và có nhiều ý nghĩa nhất trong bất cứ một thứ ngôn ngữ nào
A. Dĩ nhiên, đâu phải ai cũng biết “Lời” là gì. Trong truyền thống Do thái, “Lời” có nghĩa là cách thế mà Thiên Chúa hành động. Ví dụ trong câu truyện tạo dựng được thuật lại trong sách Khải Nguyên (Kn 1,1-31), Thiên Chúa đã không làm gì khác nhưng Người chỉ “phán” tức là sử dụng lời: “Thiên Chúa đã phán: “Hãy có ánh sáng, thì liền có ánh sáng... ”
“Lời” có nghĩa là điều mà con người chúng ta nói về tất cả những gì chúng ta có thể biết được về Thiên Chúa, thông qua những hành động của Người.
“Lời trở thành người phàm”. Gioan đã không viết là Ngôi Lời đã trở nên người nhưng ông cao rao rằng Ngôi Lời đã trở nên người phàm, một từ chỉ toàn diện con người cả xác lẫn hồn.
Từ “người phàm” được dịch từ từ “sarx” của Hy lạp. Từ đó chỉ toàn diện con người, cả xác lẫn hồn với tất cả sự yếu đuối, mỏng giòn hay hư nát của nó. Đó là cái bao bọc nhân vị con người. Từ sarx (người phàm) cũng là căn nguyên của tất cả niềm vui, của tất cả sức mạnh và là cội rễ của tất cả những yếu đuối cũng như những nỗi bất hạnh của chúng ta.
Một điều khó khăn và thật là kỳ khôi sẽ xảy ra khi chúng ta nối liền hai từ “Lời” và “Người phàm” bằng từ “Trở thành”.
“Lời trở thành người phàm” và cư ngụ giữa chúng ta” (dịch sát chữ là: “đã dựng lều giữa chúng ta”): Đối với các độc giả của Gioan lúc ấy, kiểu nói “dựng lều “ gợi nhớ ngay đến “nơi cư ngụ của Chúa” giữa dân Người. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người xưa được biểu tượng bằng Nhà Lều ở sa mạc thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, thì giờ đây được thể hiện một cách trọn vẹn và triệt để nơi Đức Giêsu. Thiên Chúa làm người (cf. Ga. 2. 19-22: “Đền thờ Người muốn nói ở đây là chính thân thể Người”
Nơi con người Đức Giêsu, cộng đoàn của thánh Gioan quả quyết rằng họ đã được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là nhìn thấy một phẩm chất, một ánh rạng ngời tỏ lộ Thiên Chúa. “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người “
Thiên Chúa là Đấng vô hình, vô tượng, vô sú, vô thanh nhưng chính Đức Giêsu Kitô đã tỏ cho chúng ta. “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết “
Vâng quả thật là lạ lùng khi nói rằng “Thiên Chúa đang ở đây, Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta!”.
B. Chúng ta có thể tự hỏi: “Tại sao Ngôi Lời lại trở thành người phàm?
Đây quả là một mầu nhiệm cao cả và câu trả lời có thể là: Ngôi lời đã trở thành người phàm là để Thiên Chúa và thế giới mà Người đã tạo thành được gắn chặt lại với nhau một cách vĩnh viễn, đời đời.
C. Hằng năm, cứ vào đêm Giáng sinh Hài Nhi Giêsu thường đi một vòng rảo qua khắp các làng mạc và đô thị để tặng quà cũng như nhận quà và phân phát cho những ai cần đến.
Năm nay tại một đô thị nọ, Ngài đang cần một món quà không dễ tìm ra. Đó là một quả tim lành mạnh để thay thế cho quả tim của một người đang hấp hối.
Bệnh nhân có quả tim gần như ngừng đập này là một nhân vật nổi tiếng trong cả nước. Đó là bộ trưởng tài chánh!
Tất cả các các bác sĩ trong nước đều bó tay. Cuối cùng họ mới chạy đến với Chúa Hài Nhi Giêsu vì tin tưởng rằng ít ra trong Đêm Giáng Sinh Ngài sẽ làm một phép lạ. Nhưng Hài Nhi Giêsu trả lời với các bác sĩ: “Không phải ta là Người làm phép lạ nhưng chính là lòng quảng đại của một người sẵn sàng dâng hiến quả tim của mình”.
Tin tưởng ở lòng người, Hài Nhi Giêsu đã đến gõ cửa nhà của thân nhân, bạn hữu của vị bộ trưởng. Họ đang mừng lễ Giáng Sinh: cây Giáng sinh của họ đầy rẫy những hoa đèn và quà tặng, bàn ăn của họ đầy rẫy những thịt rượu và của ngon vật lạ. Họ đang ăn uống say sưa. Vừa thấy Hài Nhi đứng trước cửa nhà, họ tưởng Ngài là một cậu bé vô lại phá đám, cho nên đã tống khứ Ngài đi càng sớm càng tốt.
Hài Nhi Giêsu buồn bã bỏ đi... Nhưng Ngài vẫn chưa thất vọng về tình người. Lần này Ngài đến gõ cửa những người thân cận của vị bộ trưởng. Họ là những người đã từng bán đứng lương tâm, chối bỏ phẩm giá của mình để tìm kiếm lạy lục một chút cặn bã của vinh hoa, lợi lộc phù phiếm. Hài Nhi Giêsu nghĩ thầm ít ra đây cũng là dịp để họ tỏ lòng biết ơn đối với ông bộ trưởng. Nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Trái tim của họ đang hướng đến người sẽ lên thay thế ông bộ trưởng trong những ngày gần đây.
Hài Nhi Giêsu lại tiếp tục đi gõ cửa từng nhà nhưng nhà nào nhà nấy đang bận bịu với cuộc vui đêm Giáng Sinh.
Ngài đi, đi mãi trong đêm, để rồi mệt lả không còn lê bước được nữa. Ngài ngồi xuống vệ đường ven đô thị. Ngài đang miên man nghĩ đến tình người thì bỗng dưới ánh đèn đường mờ ảo, một bóng đen thất thểu tiến lại gần Ngài. Con người này xem chừng như không biết đến lễ Giáng sinh là gì. Quần áo bẩn thỉu, dáng đi ngập ngừng. Trên vai của anh đeo lủng lẳng một chiếc đàn vĩ cầm cũ kỹ. Đó là tất cả vốn liếng của một kẻ lãng tử. Vừa thấy em bé ngồi tiu nghỉu bên vệ đường, anh mới dừng lại, lấy chiếc đàn ra và dạo lên những khúc nhạc du dương, trầm buồn. Bản nhạc bỗng mang lại hy vọng cho Hài Nhi. Trên môi Ngài một nụ cười bé thơ cũng vừa hé nở. Con người lang thang phiêu bạt này, con người không có lấy một mái nhà để nương náu, không có được một ngày lễ trong cuộc sống, không biết được đêm nay là đêm Giáng Sinh: Vậy mà con người ấy có được một trái tim quảng đại sẵn sàng dâng hiến!
Hài Nhi Giêsu đến nắm tay anh, đưa anh vào bệnh viện. Tại đây, với nụ cười tươi nở trên môi, anh để cho các bác sĩ khoét vào lồng ngực của anh để lấy quả tim quảng đại của anh và đặt vào chỗ của tim đang thoi thóp của ông bộ trưởng tài chính.
Cuộc ghép tim vừa chấm dứt thì mọi người đã có thể thấy được phép lạ. Ông bộ trưởng với quả tim quảng đại và yêu đời của người lãng tử đứng dậy khỏi giường và bắt đầu ca hát.
Ông đã ném quả tim chỉ biết rung động vì tiền của, để thay thế bằng quả tim quảng đại biết ca hát và sẵn sàng tự hiến cho mọi người.
21. Ánh sáng đã đến chiếu soi cho mọi người trong trần thế--Ga 1, 1-18--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 1, 1-18
1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. 2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. 3 Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành 4 ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. 5 Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. 6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. 7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8 Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 9 Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. 10 Người ở giữa thế gian,và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. 12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. 13 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. 14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. 15 Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”. 16 Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. 17 Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có. 18 Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng lễ Ban Ngày mừng Chúa Giáng Sinh chính là Lời tựa của sách Tin Mừng theo thánh Gio-an (1,1-18). Nội dung bài Tin Mừng gồm hai điều như sau:
Một là trình bày Đức Giê-su chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Sự Sống và là Ánh Sáng chiếu soi cho trần gian (1,1-13).
Hai là Người đến để ban ân sủng cứu độ và mặc khải sự thật về Thiên Chúa cho nhân loại (1,14.16-18).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”. (Ga 1,14).
2. CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM:
1) GIÁNG SINH LÀ LỄ HỘI VUI MỪNG CHUNG CỦA TOÀN THỂ NHÂN LOẠI:
– Hai em học sinh nói chuyện với nhau, một em hỏi bạn: “Bạn có biết lễ gì mà hầu hết mọi người trên thế giới đều biết và chia sẻ niềm vui cho nhau không?”
Người bạn kia ấp úng trả lời: “Đó là lễ mừng Chúa Giáng Sinh của đạo Công giáo đấy”.
– Niềm tự hào của em bé đó cũng có thể là niềm tự hào của mọi tín hữu chúng ta. Lễ Giáng Sinh là một lễ hội chung của mọi người trên trái đất nầy. Nhưng bên cạnh những vẻ hào nhoáng vui mừng của ngày lễ, điều mà chúng ta phải tự hỏi, nhất là đối với các tín hữu chúng ta, là có mấy ai trong chúng ta đã hiểu và sống đúng ý nghĩa của mầu nhiệm lễ Giáng Sinh hay không?
2) GIÁNG SINH MỜI GỌI CHIA SẺ TÌNH NGƯỜI:
– Hôm ấy, vào đêm vọng Giáng Sinh, trong một trường giáo dục trẻ em tàn tật ở Mỹ, người ta cho các trẻ em diễn một hoạt cảnh Giáng Sinh, trước sự hiện diện của phụ huynh và ân nhân.
Vở kịch có ba màn. Màn đầu diễn ra ở Nagiaret, với sắc lệnh của Hoàng đế Xê-sa-rê Au-gút-tô. Màn hai diễn lại cảnh Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a vào quán trọ, bị chủ quán xua đuổi. Màn ba là cảnh Chúa Giáng Sinh trong hang lừa máng cỏ.
Ban giám đốc và các phụ huynh khá lo âu, sợ các em diễn xuất vụng về. Nhưng màn đầu diễn ra tốt đẹp. Qua màn hai, người ta thấy Giu-se và Ma-ri-a đến gõ cửa các quán trọ. Nhìn thấy ông Giu-se áo quần nghèo khó, còn Ma-ri-a lại đang bụng mang dạ chửa, các chủ quán đã giơ tay xua đuổi lia lịa với lời từ chối: “Không có chỗ, không có chỗ! “ Hai vợ chồng lên tiếng năn nỉ vì trời đêm giá lạnh. Chủ quán tỏ vẻ lưỡng lự, những rồi sau đó chỉ vào hàng chữ trên quán: “Không còn chỗ”. Cảnh van xin và từ chối lại diễn ra. Nhưng khi thay vì nói: “quán đã hết chỗ” theo kịch bản, thì em đóng vai chủ quán đã nghẹn ngào không nói nên lời. Em đưa tay ra giật tấm bảng có ghi hàng chữ “Không còn chỗ” xuống, và nói trong nước mắt: “Con xin nhường phòng con cho hai người!”.
Trước cảnh xảy ra bất ngờ đó, giáo viên đạo diễn tỏ vẻ lúng túng và cho ngưng vở diễn vì đã ra ngoài kịch bản. Nhưng hầu như toàn thể khán giả hiện diện đều cảm xúc ra mặt, trước vẻ hồn nhiên trong sáng của em bé diễn viên tốt bụng. Cử chỉ, ngôn ngữ và cung cách của em nói cho mọi người hay về ý nghĩa thực sự của Lễ Giáng Sinh: Giáng Sinh là lễ của tình thương chia sẻ.
– Có lẽ nhiều người chúng ta, cách nầy hay cách khác, cũng đã có lần đóng vai chủ quán năm xưa khi chúng ta xua đuổi những kẻ nghèo hèn đến nhà ăn xin. Có lẽ nhiều lần chúng ta cũng đã treo tấm bảng: “Không còn chỗ” của chủ quán năm xưa qua thái độ giả điếc làm ngơ, trước những nhu cầu của tha nhân. Ước gì khi nghe câu Lời Chúa: “Bà Ma-ri-a đã bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”, chúng ta quyết tâm sẽ không bao giờ xua đuổi Chúa ra khỏi lòng chúng ta, ra khỏi gia đình chúng ta.
3) GIÁNG SINH ĐÒI CẢM THÔNG “VUI VỚI NGƯỜI VUI, KHÓC VỚI NGƯỜI KHÓC”:
– Trong một gian hàng bán quà Giáng Sinh, một cậu bé 5 tuổi đang cầm trên tay một con búp bê rất xinh. Người bán hàng nói với cậu rằng: “Chắc cháu không đủ tiền mua con búp bê đắt tiền này đâu?”. Nhưng cậu bé vẫn tiếp tục cầm con búp bê xinh đẹp trên tay.
Bấy giờ một người đàn ông bước đến gần hỏi xem cậu bé mua con búp bê làm gì? Cậu đáp: “Đây là con búp bê mà em gái cháu rất thích. Nó luôn tin rằng năm nay thế nào ông già No-en cũng sẽ mang đến tặng nó một búp bê xinh đẹp trong đêm Giáng Sinh”. Khi được hỏi em gái đang ở đâu, cậu bé trả lời: “Em cháu mới được về với Chúa rồi và mẹ cháu cũng sắp sửa đi theo em gái cháu”. Cháu yêu mẹ nhiều lắm và ước mong mẹ đừng đi, nhưng bố cháu bảo rằng mẹ cháu bệnh nặng sắp phải theo em cháu rồi”.
Lựa lúc cậu bé không để ý, người đàn ông cho tay vào túi quần lôi ra một ít tiền lẻ. Ông nói với cậu: “Cháu đã có bao nhiêu tiền rồi? Để ta giúp cháu đếm lại lần nữa xem sao nhé”. Sau khi đếm xong số tiền trong đó có thêm số tiền người đàn ông kín đáo cho vào, cậu bé vui vẻ nói: “Cảm ơn Chúa đã cho cháu có đủ tiền mua búp bê rồi. Cháu đã cầu xin Chúa cho cháu để dành đủ tiền mua búp bê tặng em gái dịp lễ Giáng Sinh và Chúa đã nhậm lời”.
Người đàn ông chợt nhớ lại bản tin ông đã đọc trên tờ báo vào chiều hôm trước: “Một chiếc xe tải đi quá tốc độ đâm vào xe hơi cùng chiều, làm một bé gái thiệt mạng và mẹ em cũng bị chấn thương sọ não khó lòng qua khỏi”. Hôm sau, báo lại đưa tin, người phụ nữ trẻ trong tai nạn hôm trước đã chết. Chiều hôm đó, người đàn ông theo địa chỉ trên báo đã đến nhà thăm. Ông ta thấy hai quan tài với di ảnh của hai mẹ con mới qua đời. Đứa con trai đứng gần quan tài chính là cậu bé ông mới gặp chiều hôm trước. Ông cũng thấy một con búp bê xinh xắn nằm trên quan tài của cô bé gái.
– Khi biết đón nhận Hài Nhi Giê-su vào lòng, chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông với tha nhân để chia sẻ niềm vui nỗi buồn với họ, giống như người đàn ông trong câu chuyện trên. Chúng ta sẽ sẵn sàng trao tặng người khác một nụ cười, một cái bắt tay thân ái, một cử chỉ thân thiện,… chúng ta sẽ dễ dàng giúp đỡ người nghèo vượt qua hoàn cảnh khó khăn với hết khả năng Chúa ban. Trong mùa Giáng Sinh năm nay chúng ta sẽ làm gì để thi hành sứ điệp của Chúa là viếng thăm chia sẻ tình người như lời thánh Phao-lô: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15).
4) GIÁNG SINH NGÀY LỄ CỦA HÒA BÌNH:
– Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích: “Anh em hãy lắng nghe đi!”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.
Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính hai bên vui vẻ đi dạo chung quanh khu vực đang có chiến tranh, nhưng người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện gia tăng thêm, thì người ta tổ chức một trận bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin hai bên hòa hoãn này đã lan tới tai các vị tướng trên cao, và họ đã ban những mệnh lệnh gay gắt phải cấp thời chấm dứt mọi chuyện. Các sĩ quan đã dồn binh lính trở lại xuống hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Sau lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến giữa hai bên lại tiếp tục như trước.
Chúa đến đem bình an cho nhân loại như lời các thiên thần đã ca hát trong đêm Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14).
– Mỗi người chúng ta tuy không thể làm được những việc xây dựng hòa bình trên bình diện quốc tế, nhưng chúng ta vẫn có thể ăn ở thuận hòa với những người chung quanh như kinh Tám Mối Phúc: “Phúc cho ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Vậy trong Mùa Giáng Sinh năm nay mỗi chúng ta có thể làm gì để làm hòa với những người đang có ác cảm với chúng ta thể hiện qua hành động nói hành nói xấu và gây thiệt hại cho chúng ta?
3. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA. xin cho chúng con trở thành những ông già No-en đầy lòng nhân ái, luôn sẵn sàng cho đi một nụ cười thân ái, một lời động viên an ủi, một món quà chứa đựng tình người. Xin cho chúng con biết đến vói những người bất bạnh để chia sẻ tình thương cho họ. Ước gì niềm vui trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh không dừng lại ở việc trao tặng của cải vật chất bên ngoài, nhưng ở tình người được nhân lên mãi, được nối kết trở thành vòng tay lớn, xây dựng thế giới chúng con đang sống ngày một an bình thịnh vượng và đầy tràn niềm vui của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
22. Sứ điệp yêu thương của mầu nhiệm Giáng Sinh--Lm Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 2,1-14
(c 1) Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. (c 2) Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. (c 3) Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. (c 4) Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. (c 5) Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. (c 6) Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa. (c 7) Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ. (c 8) Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đoàn vật. (c 9) Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. (c 10) Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: (c 11) Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. (c 12) Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”.(c 13) Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: (c 14) “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng Lu-ca mô tả hoàn cảnh và thời gian của Con Thiên Chúa giáng trần: Tuy được sinh ra trong cảnh nghèo hèn… nhưng Người lại là Thiên Chúa quyền năng. Người đời đã hất hủi xua đuổi Đấng Cứu Thế trong khi các thiên thần lại vui mừng hát ca. Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót đã đến trong thân phận nghèo hèn để đồng cảm với người nghèo và mời gọi mọi người hãy yêu thương nhau, thể hiện qua việc quảng đại chia sẻ cơm áo và niềm vui cho nhau.
3. CHÚ THÍCH:
– C 1: + Hoàng đế Au-gút-tô: Hoàng đế Rôma cai trị từ năm 29 trước Công nguyên (CN), đến năm 14 sau CN).
– C 2: + “thành vua Đa-vít”: Khi gán tước hiệu “thành Vua Đa-vít” cho Bê-lem (x. Mt 2,6), Tin Mừng dựa vào lời sấm của ngôn sứ Mi-kha về quê hương của Đấng Cứu Thế (x. Mk 5,1).
– C 5: + “Người đã đính hôn với ông Giu-se là bà Ma-ri-a đang có thai”: Câu này nhắc lại việc sứ thần Gáp-ri-en đến truyền tin cho Trinh Nữ Ma-ri-a (x. Lc 1,27).
– C 7: + Bà sinh con trai đầu lòng: Sinh “Con đầu lòng” chỉ có nghĩa là sinh “đứa con đầu tiên hay con thứ nhất”, không nhất thiết sẽ phải sinh thêm con kế tiếp. Sở dĩ Lu-ca đề cập đến “con trai đầu lòng” ở đây là muốn nhắc đến điều luật Mô-sê qui định phải dâng “các con đầu lòng cho Chúa”(x. Xh 13,2), và cách cha mẹ phải làm để chuộc lại con, sắp được hai ông bà Giu-se Ma-ri-a thực hiện cho Hài Nhi Giê-su (x. Lc 2,23). + Không tìm được chỗ trong nhà trọ: Các chủ quán từ chối không cho ở trọ phần vì dáng vẻ quê mùa nghèo khó của hai ông bà Giu-se Ma-ri-a, phần vì họ sợ đón phụ nữ mang bầu vào nhà sẽ mang lại xui xẻo cho việc kinh doanh của họ!
– C 11: + Đấng Ki-tô Đức Chúa: Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a. Quyền Chúa Tể và Vương Đế của Người được chính Thiên Chúa trao ban (x. Cv 2,36).
– C 14: + Bình an dưới thế”: Lời của các sứ thần ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa cho thấy sứ mệnh của Hài Nhi Cứu Thế là làm vinh danh cho Thiên Chúa và thiết lập một nền hòa bình vĩnh cửu (x. Is 9,5-6; Mk 5,4).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI: Phải chăng bà Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi thụ thai Đấng Cứu Thế (x. Is 7,14), rồi sau khi đã sinh “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,6) thì sống đời vợ chồng bình thường với ông Giu-se, và từ đó đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác (x. Mt 13,55-56)?
ĐÁP: Thực ra không phải như vậy. Vấn đề ở đây là ý nghĩa thực sự của từ “cho đến khi” và “anh em và chị em của Đức Giê-su” như thế nào?:
+ “Cho đến khi”: Câu Mt 1,24-25 nên được diễn giải như sau: Khi tỉnh giấc, ông Giu-se đã thi hành 3 lệnh truyền của sứ thần trong giấc mộng: Một là ông “tổ chức lễ cưới chính thức để rước cô dâu Ma-ri-a” về nhà mình; Hai là ông “không ăn ở với Ma-ri-a như vợ chồng” vì Ma-ri-a đã được thánh hiến dâng mình phục vụ Thiên Chúa như một nữ tu khấn trọn; Ba là “cho đến khi” Ma-ri-a sinh con thì ông “đặt tên cho con trẻ là Giê-su” như lời sứ thần truyền để nhìn nhận trẻ Giê-su là con chính thức của mình về luật pháp (x. Lc 3,23). Tin Mừng không viết: hai ông bà đã không ăn ở cho đến khi Ma-ri-a sinh con thì lại ăn ở với nhau, như có người lầm tưởng!
+“anh em và chị em của Chúa Giê-su”: Trong Tin Mừng Mát-thêu, các từ “anh em ông”, “chị em ông” (x. Mt 13,55-56) hay “mẹ và anh em của Người” (x. Mt 12,46-47) chỉ là các anh chị em bà con mà thôi. Vì Chúa Giê-su là “con trai đầu lòng”, là người con thứ nhất, nên nếu Đức Ma-ri-a có thêm các người con khác thì họ phải được gọi là “các em trai” và “các em gái” thay vì được gọi chung chung là “anh em” và “chị em” như ở đây. Hơn nữa, bằng chứng quan trọng nhất cho thấy Đức Ma-ri-a chỉ có một con trai duy nhất là: Chúa Giê-su đã trối Mẹ Người làm mẹ của môn đệ Gio-an và “Kể từ giờ đó, người môn đệ đã rước bà về nhà mình” (Ga 19,26-27). Chắc Đức Giê-su sẽ không trối Mẹ Ma-ri-a cho môn đệ Gio-an rước về nhà mà phụng dưỡng sau khi Người chết, nếu Mẹ Ma-ri-a còn có nhiều người con khác.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa (Lc 2,11).
2. CÂU CHUYỆN:
1) MÓN QUÀ GIÁNG SINH QUÍ NHẤT
Người ta tìm thấy trên bàn làm việc của một ông giám đốc xí nghiệp vừa từ trần một bức thư với nội dung như sau: “Thưa ông giám đốc, chiều nay tôi và cả gia đình tôi mới nhận được một tin vui là ông giám đốc đã nhận tôi vào làm công nhân trong nhà máy của ông. Tôi coi tin này là một món quà to lớn trong mùa Giáng Sinh năm nay. Vì từ hôm nay, vợ con tôi lại có cơm ăn áo mặc hàng ngày và có tiền để trang trải các khoản chi phí mà chúng tôi đang thiếu hụt. Tôi xin chân thành cám ơn ông giám đốc”. Bên dưới bức thư này có mấy dòng chữ của ông giám đốc mới qua đời phê vào bức thư như sau: “Bức thư này quả là một món quà tinh thần quí giá nhất mà tôi đã nhận được trong lễ Giáng Sinh năm nay. Tôi chắc sẽ không bao giờ quên được niềm vui lớn lao mà món quà này đã mang lại cho tôi”.
2) MỘT LỄ GIÁNG SINH ĐẸP NHẤT TRONG ĐỜI THÁNH GIÁO HOÀNG GIO-AN 23:
Theo một thông lệ từ lâu trong Giáo Hội, các Đức Giáo Hoàng đều bị hạn chế đi lại trong bốn bức tường rào của điện Va-ti-can và không được tự do ra ngoài. Đây là điều Đức Gio-an 23 khi mới được bầu làm Giáo Hoàng cảm thấy vô lý. Cuối cùng ngài đã quyết định phá bỏ thông lệ ấy. Ngài chia sẻ: “Vào ngày Lễ Giáng Sinh năm đầu tiên làm Giáo Hoàng, tôi muốn đến thăm các trẻ em đau yếu đang được điều trị tại bệnh viện Chúa Giê-su Hài Đồng ở thủ đô Rô-ma. Nếu lễ Giáng Sinh là lễ của các trẻ em thì tại sao môt vị Giáo Hoàng lại không đến thăm các em? ”. Thế là vị Giáo Hoàng được mệnh danh là người cha hiền từ, đã quyết định ra ngoài Va-ti-can để đến gặp gỡ các em bệnh nhi tại bệnh viện dành riêng cho các em. Vừa thấy bóng ngài, các em đã réo gọi ngài bằng tên Gio-an như một người bạn thân. Ngài đã gặp gỡ chuyện trò thân mật với các em. Ngài ngồi bên cạnh một em bé bị thương nặng thể hiện lòng nhân từ thương xót của Chúa Giê-su. Sau này Ngài đã coi Lễ Giáng Sinh năm đó là ngày đẹp nhất trong đời giáo hoàng của ngài và cũng là ngày vui vẻ hạnh phúc nhất đối với các em nhi đồng.
3. THẢO LUẬN:
Đấng Cứu Thế đến thiết lập một Nước Trời bình an, hy vọng, vui tươi và hạnh phúc. Trong Mùa Giáng Sinh này, mỗi người chúng ta cần làm gì cụ thể để tích cực cho Nước Trời ấy mau đến ngay tại gia đình, khu xóm và nơi làm việc của chúng ta?
4. SUY NIỆM:
1) Giáng Sinh là lễ của tình thương: Thiên Chúa là Tình yêu đã sai Con Một xuống thế cứu chuộc làm người là Đức Giê-su. Người là Lời sáng tạo quyền năng nhưng đã hóa nên một trẻ thơ yếu đuối, sinh bởi một trinh nữ, nên giống như chúng ta mọi đàng ngọai trừ không có tội. Khi giáng sinh, Người đã hóa nên một trẻ thơ để mời gọi mọi người yêu thương trẻ nhỏ, nâng đỡ người nghèo hèn. Đến ngày tận thế, Đức Vua Thẩm Phán Giê-su sẽ tái lâm để phán xét chung mọi người: “Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-40).
2) Giáng Sinh là Tin Mừng trọng đại cho tòan dân: Trong bài Tin Mừng hôm nay sứ thần đã báo tin vui cho các mục đồng ở ngọai ô Bê-lem: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người.: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” ( Lc 2, 10-12). Trong Mùa Giáng Sinh này mỗi người chúng ta sẽ làm gì để chia sẻ tin mừng cho tha nhân bên cạnh?
3) Giáng Sinh với việc thực hiện bài ca thiên thần: Lời ca khen hát mừng của các sứ thần trong đêm Chúa Giê-su giáng sinh “Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” vẫn luôn vang lên trong dịp Giáng Sinh và cần phải được tiếp tục vang lên trong tâm hồn của các tín hữu, biến thành lời ca chúc bình an với ước mong cho mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa và đều đem bình an hạnh phúc cho tha nhân. Chúng ta hãy noi gương các mục đồng ở Bê-lem cùng nhau đến thăm viếng giúp đỡ những trẻ Giê-su khó nghèo tại các trại mồ côi, an ủi những ai đang bị giam cầm và những tâm hồn đau khổ bị đối xử bất công giữa lòng xã hội. Đêm nay, dưới gầm cầu, bên hàng hiên của những ngôi nhà cũng vẫn còn đó những trẻ Giê-su đang nằm co ro vì lạnh, vì đói và vì không có nhà để đi về…
4) Giáng Sinh – lễ của niềm vui chia sẻ: Vào dịp lễ Giáng Sinh, người ta thường thể hiện tình cảm quí mến đối với bạn bè và những người thân quen, bằng việc gửi đi những cánh thiệp chúc mừng Giáng Sinh. Theo phong tục của những nước phương tây, buổi sáng ngày lễ Giáng Sinh, cha mẹ thường thay ông già No-en tặng quà cho con cái của mình, người lãnh đạo tặng quà cho các nhân viên thuộc cấp, chủ nhà tặng quà cho các người giúp việc… còn chúng ta thì sao? Trong mùa Giáng Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ tặng gì cho những người thân quen, những người đã giúp đỡ chúng ta suốt năm qua, nhất là những người đáng thương như các cụ già neo đơn, các bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang, các người mù lòa khuyết tật và những người đang lang thang đầu đường xó chợ…?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giê-su. Trong đêm Giáng Sinh, Hai ông bà Giu-se Ma-ri-a đã lâm vào hoàn cảnh cùng cực tại thành Be-lem, khi Đức Ma-ri-a phải sinh con trong một chuồng chiên nghèo hèn, giữa cảnh trời đồng lạnh giá. Tin Mừng đã ghi lại như sau: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Ôi! Thật trớ trêu: “Ngôi Lời Thiên Chúa ở giữa thế gian và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,5.10-11).
– LẠY CHÚA. Hôm nay Giáng Sinh lại về. Trần gian rực sáng, cờ xí giăng đầy, người người quên ngủ, vui vẻ liên hoan… Kìa, hai người lữ hành Be-lem đã từng lỡ bước đêm xưa vẫn đang còn lỡ bước đêm nay, vì các chủ quán trọ năm xưa vẫn đang còn đó! Giàu: chủ đón rước vào nghỉ trong khách sạn. Nghèo: hãy theo gót Giu-se Ma-ri-a ra vỉa hè công viên hoặc tại những nơi đầu đường xó chợ! Xin Chúa giúp chúng con biết nhìn thấy hài nhi Cứu Thế đang hiện thân nơi những kẻ nghèo hèn, những bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị, những trẻ em đang sống lang thang hè phố, những cụ già cô độc không con cái chăm sóc… để chúng con biết thể hiện tình thương đối với họ bằng những việc làm cụ thể như: thăm viếng và chia sẻ tình người, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó, chúng con xứng đáng trở thành những môn đệ đích thực của Chúa.
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
23. Nhân loại đang cần Vua Hòa Bình: lễ đêm--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 2022
“Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14) là câu cuối của đoạn Tin Mừng công bố đêm nay chúng ta vừa nghe. Lời các Thiên Thần và một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa, từ 21 thế kỷ qua, Giáo Hội vẫn không ngừng hát lên trong các Thánh Lễ Chúa nhật và Lễ Trọng.
Thế giới hiện nay
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất an, bất ổn. Thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 được đánh dấu bằng vụ tấn công khủng bố kinh hoàng vào tòa Tháp Đôi ngày 11 tháng 9 năm 2001 ở nước Mỹ làm hơn 4.000 người chết, khiến nhân loại bị ám ảnh về hiểm họa khủng bố ở khắp mọi nơi, làm cho con người cảm thấy lo sợ, bất an nhiều hơn. Tiếp theo đó là cuộc chiến gọi là “chống khủng bố” nổ ra và những hệ lụy của nó càng đưa thế giới vào tình trạng bất an, bất ổn hơn bao giờ hết. Đại dịch Covid-19 xảy đến chỉ cho con người biết mình thật sự mong manh và nhận ra sự giới hạn của chính mình. Những tin tức hằng ngày về bạo hành, xung đột, dịch bệnh, thiên tai, nhân họa, ngày càng nhiều trên các phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet, nhất là chiến do Nga châm ngòi tại Ucraina gần 1 năm nay… khiến nhiều người lo âu tự hỏi không biết thế giới chúng ta đang sống sẽ đi về đâu.
Về phương diện nội tâm, lòng người vốn bất an nên sinh ra bất hòa, bất mãn, bất bình, bất nhân, bất nghĩa, bất cần đời….bao nhiêu là chữ “bất” thậm chí đưa đến những cái chết “bất đắc kỳ tử”. Thật vậy, con người trong xã hội hiện đại ngày càng bất an, bất hòa, bất đồng nên tình yêu, hôn nhân, gia đình đổ vỡ; tỷ lệ ly hôn ngày càng gia tăng ngay ở những nước mới thoát khỏi nghèo đói như Việt Nam. Tỷ lệ ly dị ở Việt Nam đang gia tăng đến mức báo động, khoảng 30%. Đáng lo ngại là hiện tượng mà các nhà tâm lý gọi là “ly hôn xanh”, tức là những vụ ly hôn xảy ra ở những cặp vợ chồng mới kết hôn vài ba năm, con còn quá nhỏ, mà đã kéo nhau ra tòa ly dị với những lý do chưa đáng để ly hôn như thường thấy.
Điểm qua tình hình thế giới và con người, một câu hỏi cần đặt ra là tại sao con người từ xưa đến nay không tìm thấy sự bình an thật? Mặc dù có nhiều triết lý, tôn giáo xưa nay đã bàn luận nhiều đến nan đề này, tuy nhiên, có thể nói con người không thể tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Đúng như Isaia nói là: “Dân tộc bước đi trong u tối” (Is 9,2). Nhân loại hiện nay đang khao khát sự bình an. Có người tưởng rằng vật chất, tiền bạc, tiện nghi khoa học, kỹ thuật sẽ đem lại hạnh phúc, bình an nhưng con người đã nhầm.
Tội làm cho con người bất an
Sách Sáng Thế ghi lại bi kịch trong vườn địa đàng khi tổ tông loài người phạm tội bất tuân lệnh Chúa mà ăn trái cấm (x. St 3,6). Tội lỗi đã khiến con người bối rối, sợ hãi. Dòng dõi loài người do A-đam sa ngã sinh ra lại tiếp tục ghen ghét, chém giết nhau. Bi kịch trong gia đình đầu tiên của nhân loại: Ca-in đã giết em ruột mình là A-ben vì ganh tị (x. St 4,8). Lịch sử nhân loại cũng từ đó trở thành lịch sử của chiến tranh. Hòa bình chỉ là sự ngưng nghỉ của chiến tranh mà thôi. Đúng như Isaia nói: “Những kẻ ác chẳng hưởng sự bình an bao giờ” (Is 48,22).
Hài nhi giáng sinh là Vua Hòa Bình
Isaia loan báo một tin vui toàn thế. Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết… Một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi… Người là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàn, Người Cha Muôn Thủa, Ông Vua Thái Bình” (Is 9,1.5).
Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, con người có lẽ cần đến Ðấng Vua Hòa Bình hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở nên phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, đem lại bình an cho con người, nếu không phải là Ðấng yêu thương loài người cho đến mức độ trao ban chính Con Một là Vua Hòa Bình cho con người.
Cuộc chiến do Nga khai mào mệnh danh là “đặc biệt” kéo dài gần một năm chưa có hồi kết cho thấy. Nhân loại đang rất cần Hòa Bình. Con người khiêm nhường cúi đầu quỳ gối xuống trước “một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,7) là Vua Hòa Bình đem bình an cho dương thế.
“Thế Giới Đang Cần Đến Hòa Bình” là một thông điệp gửi đến tất cả mọi người trên thế giới này, giữa lúc cuộc chiến giữa Nga và Ucraina ngày khốc liệt. Thế giới nói chung, Âu Châu nói riêng bất an và dường như không còn dựa vào sức riêng của mình được nữa, thế giới đang cần Vua Hòa Bình hơn bao giờ hết. Chỉ có Vua Hòa Bình mới mang bình an và ơn cứu độ đến cho nhân loại.
Cùng với các Thiên Thần chúng ta vang lời ca hát và khẩn khoản nài xin: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiên tâm” (Lc 2,14).
Xin chúc tất cả Giáng Sinh an lành, thế giới được hòa bình!
24. Đêm trời đất giao hòa--Lễ đêm giáng sinh 2018--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đêm nay là đêm vui nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta, cũng là đêm linh thiêng nhất, đêm trời đất giao hòa, vì đêm nay Giáo hội loan báo tin vui cho toàn thể nhân loại, cho mọi người và từng người: “Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta” (đáp ca).
Nghe lại những lời trên của Thiên Thần báo cho các mục đồng tuy xa xưa những vẫn luôn mới mẻ trong đêm nay, làm chúng ta sống lại bầu khí linh thiêng của Ðêm Thánh, Ðêm mà cách đây 2018 năm tại Bêlem, Con Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã thân hành xuống thế, giáng sinh làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, và cư ngụ giữa chúng ta. Đây là cuộc hòa mình của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại.
“Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. Đây là lời loan báo vang vọng trong đêm đen cho những ai đang tỉnh thức, như các mục đồng tại Bêlem; Lời ấy vang lên cho những ai đã sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng tiếp nhận sứ điệp của niềm vui, được hát lên trong Thánh lễ đêm nay.
Khi nghe những lời trên Giáo hội hết sức vui mừng, niềm hy vọng dâng trào và đức tin được củng cố. Noel là lễ Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, gần gũi với con người, đã từ bỏ tất cả vì chúng ta. Con Trẻ nằm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật. Thiên Chúa không hiện hữu đơn độc, nhưng là một cộng đoàn Ba Ngôi, với tình yêu hỗ tương trong sự cho đi và nhận lại. Ngài là Cha, Con và Thánh Thần. Hài Nhi ấy không chỉ biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, nhưng còn hiến mạng vì chúng ta, mà không đòi hỏi một đặc quyền nào hết. Nếu như thánh Iréné khi suy niệm về Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Con đã viết: “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”.
Chúa Cha đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao tặng Người Con Một, Người Con ấy là Ân Sủng của Thiên Chúa, là Tình Yêu đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người (x. Tt 2, 11 ), là Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Cuộc giáng sinh diệu kỳ của Con Một Chúa đã đánh dấu bước điểm khởi đầu mới của lịch sử. Tình Yêu ấy vượt qua thời gian, vì trong mỗi phút giây sống, tất cả các lễ đều là lễ Giáng sinh! Ngoài những khuôn mặt của thế giới này, Người còn ở lại với chúng ta. Và bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày có sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Và nếu xưa kia tại Bêlem, các thiên thần ca hát, hôm nay đây chúng ta vẫn cùng với các Thiên Thần và Tổng Lãnh Thiên Thần hát ca mỗi lần dẫn vào mầu nhiệm Thánh Thể: “Thánh! Thánh! Thánh! Chúa Thiên Chúa các đạo binh!”
Trong đêm cực thánh này, Chúa Kitô đã từ trời cao sinh xuống giữa chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ “bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi” (Mt 1,21). Không phải trong một lâu đài mà Ðấng cứu chuộc sinh ra, nhưng trong một chuồng loài vật; và sống giữa chúng ta. Người sinh xuống trần gian, từ cung lòng của một Người Nữ được chúc phúc hơn mọi người nữ; Người là Con Ðấng Tối Cao. Sự giáng sinh của Người đã làm cho chúng ta được ơn cứu rỗi.
Quả thật, khi chiêm ngắm Chúa Hài Nhi nằm trong máng cỏ, chúng ta khám phá được rằng, Tình yêu của Thiên Chúa là chung kết và tối thượng, nghĩa là ở ngay từ một Hài Nhi bé bỏng đã mang đến cho chúng ta một tình yêu không bao giờ vơi cạn, tình yêu đó chấp nhận bước vào cuộc đời này trong một thân phận không thể thấp hèn hơn được nữa, để những ai trong Đêm Giáng Sinh dù không có một mái nhà, dù đang đau khổ vì tình yêu bị phản bội, khổ đau vì bị con cái hắt hủi thì nhìn vào mái ấm gia đình ở nơi hang đá vẫn cảm thấy trong cuộc đời này có ai đó đồng cảm và thông cảm được với mình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con chiêm ngắm Chúa, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu Chúa, tình yêu đã thôi thúc Chúa cởi bỏ vinh quang Thiên Chúa, để sinh ra sống giữa con nguời và chịu chết vì chúng con.
Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay, sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường Hòa Bình.
Lạy Chúa là Hoàng tử Bình An, là Ðấng Cứu Chuộc, đã giáng sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo hội Chúa trên con đường lữ thứ trần gian! Amen.
25. Tại sao Thiên Chúa làm người?--Lễ Ban Ngày: Ga 1, 1-18-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Trong Thánh Lễ Đêm Giáng Sinh chúng ta được nghe đọc: Khi Chúa Giêsu giáng sinh có Thiên Thần báo tin cho các mục đồng: "Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt… Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Đavít" (Lc 2,10-11).
Câu "Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi ", gợi lên cho chúng ta những câu hỏi: Con người là gì và làm sao mà phải cứu độ? Tại sao Thiên Chúa làm người? Tại sao Thiên Chúa làm điều đó? Tôi nhớ đến câu bổn, hỏi vì lẽ nào mà Ngôi Thứ Hai ra đời? (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13)
Con người là gì?
Có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng: Con người là con vật thượng đẳng đã đạt tới chặng cuối cùng trong quá trình tiến hóa ( Đác- Uyn). Có ý kiến khác cho rằng: Con người là cây sậy biết suy tư. Trước sự bao la của vụ trụ, sức mạnh của thiên nhiên, thân phận con người chỉ như một cây sậy, nhưng là một cây sậy có lý trí. Thiên nhiên có thể đè bẹp con người, nhưng không biết mình thắng, ngược lại con người bị thiên nhiên quật ngã, nhưng con người ý thức được mình thua. Những ý kiến đó không nói lên đầy đủ về phẩm giá và định mệnh con người theo kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo con người giống hình ảnh Chúa (St 1, 26).
Vì không biết đầy đủ về giá trị con người nên nhiều kẻ sống không xứng đáng với phẩm giá của mình, và xúc phạm đến phẩm giá người khác một cách bất công và tàn bạo, quyền con người bị tước đoạt, kể cả quyền sống, người nô lệ trở thành con vật trong tay chủ nhân ông. Ngày nay chế độ nô lệ được bãi bỏ, nhưng cảnh người bóc lột người vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức khác nhau, mà nạn nhân luôn là kẻ yếu người thua. Mãi đến năm 1948, Liên Hiệp Quốc mới công bố bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, trong đó nói: "Mọi người sinh ra đều bình đẳng có quyền bất khả xâm pham: như quyền sống, quyền cư trú, quyền làm việc, quyền đi lại, quyền tự do tôn giáo…" Tuyên ngôn thì như thế, nhưng trong thực tế thì nhân phẩm và nhân quyền luôn bị chà đạp ở nhiều nơi và dưới nhiều hình thức.
Con người cần được cứu độ
Để cứu con người ra khỏi tình trạng đó, Thiên Chúa đã thân hành xuống thế làm người nơi Đức Giêsu mà hôm nay cả thế giới kỷ niệm ngày sinh nhật của Người. Nhất là vì tôi lỗi loài người đã mất lòng Đức Chúa Trời, cho nên Ngôi thứ Hai đã ra đời mà lập công chuộc tội (Sách bổn Địa Phận Hà Nội tr. 13).
Trẻ Giêsu nằm trong máng cỏ chưa biết đi biết nói, nhưng đã mang cho loài người một bài học nhân sinh quan đầy đủ và sâu sắc nhất đúng theo kế hoạch của Thiên Chúa Tạo Hóa, kế hoạch mà tội lỗi con người đã làm sai lệch đi.
Noel, Thiên Chúa làm người, đã đảm nhận lấy nơi mình thân phận con người với mọi chi tiết đặc thù của nó để bất kỳ ai dù ở địa vị nào, gặp hoàn cảnh nào cũng tìm được nơi Chúa một người bạn đồng hành và một tấm gương sống cho xứng đáng với phẩm giá con người.
Chúa đã giáng sinh làm con trẻ và sống đời thơ ấu để dạy cho ta biết con trẻ dù còn là thai nhi trong dạ mẹ, cũng có một nhân phẩm như người lớn cần được tôn trọng và kẻ nào làm hư hỏng một trẻ em đó thì đáng chúc dữ và buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn.
Noel, Thiên Chúa làm người, đồng hóa mình với tất cả mọi người, để cứu độ con người. Nhưng con người chỉ được cứu độ với điều kiện là có thiện tâm, như lời Thiên Thần hát mừng đêm Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14). Thiện tâm là tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và hăng say thực hiện những điều Chúa truyền dạy tóm lại: Kính mến Thiên Chúa như Cha, yêu thương nhau như là anh em. Ngày nào con người thực hiện được hai điểm đó, cảnh thái bình sẽ xuất hiện trên mặt đất như lời các thiên thần cầu chúc đêm Chúa Giáng Sinh.
Thiên Chúa đã làm người vì yêu
Để trả lời cho câu hỏi tiếp theo được đặt ra xuyên suốt hai ngàn năm lịch sử kitô giáo: Tại sao Thiên Chúa đã làm người? Tại sao Thiên Chúa đã làm như vậy?
Thưa vì yêu thương con người, tất cả vì yêu, tình yêu là lý do cuối cùng Thiên Chúa Nhập Thể. Về điểm này, H.U. von Balthasar đã sau: "Thiên Chúa, trước hết, không phải là một quyền lực tuyệt đối, nhưng là tình yêu tuyệt đối, mà chóp đỉnh của tình yêu đó không được thể hiện trong việc giữ lại cho mình những gì thuộc về mình, mà trong việc từ bỏ những điều đó" (Trích Mầu nhiệm Vượt Qua I,4). Thiên Chúa mà các mục đồng gặp thấy nằm trong máng cỏ, có Mẹ Maria và thánh Giuse ấy là Thiên Chúa Tình Yêu (x. Lc 2, 16). Vì yêu thương nhân loại: "Người đã đến nhà các gia nhân Người" (Ga 1,11).
Trong Mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa đã đến sống giữa chúng ta; Người đến và ở lại với chúng ta, vì yêu chúng ta như Kinh Tin Kính chúng ta vẫn đọc “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta "; " Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14) ban cho những ai tiếp nhận Người "quyền trở nên con cái Thiên Chúa"(Ga 1,12).
Hiện nay, con người đã lên tới Mặt Trăng và Sao Hoả, sẵn sàng chinh phục vũ trụ. Con người đang không ngừng khám phá những bí mật của thiên nhiên và giải mã thành công cả những điều kỳ diệu nơi tế bào "gen", đi vào trong đại dương ảo của internet, nhờ những kỹ thuật truyền thông tân tiến, biến trái đất, ngôi nhà chung to lớn thành một làng nhỏ toàn cầu, Thử hỏi Đấng Cứu Thế có còn cần thiết cho con người nữa hay không?
Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, thời hậu tân tiến, con người có lẽ cần đến Đấng Cứu Thế hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở thành phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, nếu không phải Đấng yêu thương con người cho đến mức độ trao ban chính Con Một làm giá chuộc muôn người.
Thiên Chúa đã làm người trong Chúa Giêsu Kitô, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, mang đến cho chúng ta tình yêu, bình an và hạnh phúc của Chúa Cha trên trời gửi tặng nhân loại nhân ngày mừng Sinh nhật Con Chúa. Chính Người là Đấng cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng con tim để Chúa ngự vào, và hãy đón tiếp Người, ngõ hầu Vương Quốc tình yêu và an bình của Người ngự trị trên toàn thế giới.
Xin chúc tất cả Giáng Sinh an lành!
26. Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta--Lễ đêm 2018--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Từ 21 thế kỷ qua, lời rao giảng vui mừng trên vang lên từ con tim Giáo Hội. Trong đêm thánh này, Thiên Thần Chúa lặp lại với mỗi người chúng ta những lời như sau: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Vua Ðavít” (Lc 2,10-11).
Trong bầu khí linh thiêng của đêm Noel năm nay, khi chiêm ngắm Con Chúa ra đời, chúng ta xin Chúa điều gì? Chắc chắn mỗi người mỗi tâm tình, mỗi ý nguyện, phần lớn những người hiện diện nơi đây đều có những lời cầu xin của riêng mình. Tôi đề nghị một lời cầu xin tha thiết nhất, một nỗi khát vọng mãnh liệt và triền miên của toàn thể nhân loại chúng ta hôm nay đó là xin ơn “Đức tin và Bình an“.
Đề nghị thứ nhất: xin ơn Đức tin
Đấng cứu độ chúng ta đã ra đời, Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa thật. Những điều chúng ta vẫn tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa
Giáng Sinh là dịp thuận lợi để chúng ta suy niệm về mầu nhiệm Chúa Kitô, và khẳng định lại những điều chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tinh Kính của Công Đồng Nicê năm 325 và Công Đồng Constantinôple năm 381. Những điều ấy dẫn chúng ta vào mầu nhiệm của Chúa Kitô.
“Một Hài Nhi, được sinh ra bởi Thiên Chúa Cha từ trước muôn đời“, đây là cách diễn đạt nghịch lý của Giáo phụ Romanos de Mélode. Có lúc, Thiên Chúa gần gũi đến lạ thường, và cũng thật siêu việt, vượt quá sự hiểu biết của chúng ta, Một Hài Nhi là Con Thiên Chúa Cha từ trước muôn đời. Để hiểu được cách diễn đạt “sinh bởi Đức Chúa Cha “, chúng ta cần phải đọc lại chương mở đầu của Tin Mừng theo Thánh Gioan: “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa ” (Ga 1,1).
Chúng ta không nghĩ đến sự sinh bởi Thiên Chúa, vì chúng ta có những ý niệm về không gian và thời gian… Nhưng ở nơi Thiên Chúa, thì không có khởi đầu và kết thúc. Chúa Cha sinh ra Chúa Con tự đời đời. Vì thế Chúa Cha là Cha tự đời đời, và Chúa Con là Con tự đời đời.
Đặc điểm của Chúa Cha là trao ban hoàn toàn cho Con mình. Và đặc điểm của Chúa Con là lãnh nhận hoàn toàn từ nơi Cha và vâng phục trong tình yêu đối với Chúa Cha. Chúa Kitô là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa; điều này thường thấy trong Tin Mừng, khi mà Chúa Kitô dùng từ ” TA LÀ ” (Ga 9, 58).
Quả thật, trong trình thuật cuộc thương khó Chúa Giêsu theo Thánh Gioan, lúc ở trong vườn Giệtsimani, Đức Giêsu hỏi những người đến tìm bắt Ngài rằng: “Các ngươi tìm ai?” Họ trả lời: “Giêsu Nagiarét“. Đức Giêsu nói: Này ta, “Khi Đức Giêsu nói với họ này ta, họ liền lùi lại và ngã ra đất hết ” (Ga 18,6). Họ ngã, không phải là vì họ trượt chân, nhưng là vì họ ở trong tư thế tôn thờ, vì lời Đức Giêsu nói với họ: chính Ta hay là Ta có nghĩa là thần thánh.
Thập giá đối với người Do Thái là sự sỉ nhục, đối với người dân ngoại là sự điên dồ, nhưng đây là sự mạc khải của Thiên Chúa: “Khi nào tôi được treo lên khỏi đất, tôi sẽ kéo mọi người lên cùng tôi, lúc đó các người sẽ biết ta là ai“. Nhưng Giáng sinh có ý nghĩa, vì Giáng sinh là Thánh Giá có một cái bóng được gọi là Phục Sinh.
“Ánh Sáng bởi Ánh Sáng“
“Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng” (Ga 1, 4-5).
Như vậy, với tác giả Tin Mừng, ánh sáng đồng nghĩa với sự sống thần linh; Nhập thể của Người là ánh sáng, là một trận chiến chống lại bóng tối. Ánh sáng đã đến trong thế gian, nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục cho đến khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang.
Vậy, đâu là bóng tối? Chắc chắn là thế gian rồi, nhưng trước hết vẫn là trong lòng người ta. Chúng ta có vùng tối mà chúng ta không muốn thấy, ánh sáng không phải là bạo lực, do đó ánh sáng tràn ngập, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Ánh sáng này sau đó sẽ xuất hiện trên khuôn mặt của nhân loại: thần linh hóa mọi tạo vật, chiếu dọi vào tâm hồn, phản ánh vinh quang rực rỡ của Chúa Cha.
Thế giới của chúng ta đang cần những chứng nhân cho ánh sáng. Ở những thế kỷ đầu của Giáo hội, những người chịu phép Rửa tội được gọi là “ánh sáng” chiếu tỏa ánh sáng Thần Linh.
Việc tái truyền giảng Tin Mừng, là làm thế nào để người môn đệ biến đổi. Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng đã nói với các linh mục rằng: “Người ta muốn thấy Chúa Giêsu qua anh em“. Nơi mỗi người đã chịu phép Rửa tội, bởi vì họ là nhà của “ánh sáng từ ánh sáng” phải được chiếu soi rạng ngời.
Nguồn gốc của ánh sáng là Tình Yêu. Vì vậy, đừng quên rằng nếu như tội lỗi, nghĩa là bóng tối tách ra, Tình Yêu biến thành ánh sáng thần linh. Trong máng cỏ, Hài Nhi Giêsu chiếu tỏa ánh huy hoàng của Người trên khuôn mặt rạng ngời của Thánh Giuse.
“Thiên Chúa thật và là Người thật“
Công đồng Chacédoan năm 451 đã tuyên xưng: “Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và người thật“.
Tuyên xưng Chúa Kitô là Thiên Chúa thật, không phải vì một người là Thiên Chúa, những là bởi Thiên Chúa đến vì các tội nhân, Ngài đến để cứu từng người trong chúng ta!
Làm thế nào để Thiên Chúa toàn năng, Thánh, chí Thánh, ngàn trùng chí Thánh, ba lần thánh này, có thể đồng bàn với phường tội lỗi? Làm thế nào để Thiên Chúa đến thi thố tình yêu cho chúng ta?
Hài Nhi nằm trong máng cỏ đến thanh tẩy tội lỗi chúng ta và đem dâng lên trước tòa Chúa. Không, Thiên Chúa không phải là một người cha ngáo ộp, hay một thẩm phán, cũng không phải một kẻ giáo điều. Hài Nhi, Thiên Chúa thật nhỏ bé đến mạc khải cho chúng ta Một Thiên Chúa thật.
Đó là lý do tại sao Chúa Con được sai đến trong thế gian. Không chỉ mạc khải về Chúa Cha, nhưng để nối kết chúng ta với Thiên Chúa. Làm cho chúng ta nhận ra khuôn mặt thật của Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng thương xót.
Khi tuyên xưng Hài Nhi năm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật, là loại bỏ các lạc thuyết, Ảo thân thuyết, dưỡng tử thuyết. Chúng ta tin rằng Chúa Kitô vừa là Thiên Chúa thật và là người thật. Người là Đấng cứu chuộc chúng ta.
Nếu Đức Kitô chỉ là Thiên Chúa, thì Người không thể cứu độ tất cả chúng ta! Người là Thiên Chúa và là người, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Tuy nhiên, “Tất cả những gì được Người đảm nhận đều được cứu.” (St. Athanasius)
Con Thiên Chúa đã đảm nhận một thân xác, và vì thế từ nay, Người trở nên người nhờ Chúa Thánh Thần, đó là lý do tại sao thân xác của chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta đã được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Bởi tội nguyên tổ, chúng ta đã đánh mất sự sống, nhờ Hài Nhi nằm trong máng cỏ, chúng ta tìm lại được. Vì thế, chúng ta càng theo Chúa Kitô, chúng ta sẽ càng trở nên giống Người hơn. Chúng ta được trao ban cho Chúa Kitô, chúng ta được thần linh hóa.
Khi chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta, để chúng ta tin vào Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Đề nghị thứ hai là: xin ơn bình an.
Chúng ta cầu xin Chúa “ơn bình an” như chính lời Kinh Thánh gợi ý: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương! ” (Lc 2,14). Đây là điều rất cần thiết và thực tế. Theo Kinh Thánh, sự bình an đi đôi với hạnh phúc mà Chúa ban cho loài người. Ai trong chúng ta mà không khao khát hạnh phúc cho mình và tha nhân? Ai trong chúng ta mà không ước muốn được bình an? Thiếu sự bình an, thì không thể có hạnh phúc. Hạnh phúc trước hết và trên hết là niềm vui “được yêu”, được Thiên Chúa yêu thương, được loài người yêu thương.
Sự bình an là một ân sủng, là “quà tặng Giáng Sinh” của Thiên Chúa cho chúng ta. Để có được quà tặng ấy, chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này (x. Tt 2,12).
Nguyện xin ân sủng và bình an của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và tình yêu của Chúa Cha ở cùng tất cả chúng ta. Amen.
27. Bài học khiêm hạ nơi máng cỏ Belem--Lễ Đêm-- Lm. Giuse Lê Danh Tường
“Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”
Hang đá Belem năm ấy không như hang đá giáng sinh ngày nay. Người ta làm hang đá mỗi khi Giáng sinh về. Ai cũng cố gắng dùng mọi hình thức để diễn tả cái nghèo khó và vắng lặng của hang đá Belem năm xưa, cố gắng trang hoàng làm nổi bật điều mình muốn diễn tả. Và rồi, sự tấp nập của đêm Giáng sinh và ánh sáng trang trí nơi hang đá đã khiến ta không còn cảm được cái nghèo, cái vắng của Belem nơi Chúa hạ sinh.
Đứng trước máng cỏ với Hài nhi Giê-su ta đối diện với sự khiêm hạ, một sự hạ mình xuống đến tận cùng. Một Thiên Chúa hạ mình đến với con người trong hang súc vật, một Hoàng tử hạ mình xuống nơi hoang vắng nghèo hèn, một vị vua chấp nhận lùi xa trước sự xua đuổi của thần dân mình, Đấng uy quyền xuất hiện trong thân phận hài nhi bé nhỏ không khả năng tự vệ, Đấng là ánh sáng xuất hiện giữa đêm đen.
Thiên Chúa đã đến với con người không với tư cách cha chú hay kẻ cả. Nhưng Ngài đến trong âm thầm, nhỏ nhẹ, kiên trì gõ cửa tâm hồn con người, chờ đợi để được con người mở cửa lòng đón tiếp.
Bởi đâu mà Thiên Chúa phải nhọc công làm vậy? Thưa bởi lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.
Trong bài đọc thứ nhất trích từ sách Isaia, một bài thơ chan chứa niềm hy vọng của tiên tri Isaia: sự sáng bừng lên trong u tối, lòng người reo vui như ngày được mùa, như ngày thắng trận, mọi gông cùm, áp bức bị đập tan, vị Vua Hòa Bình đến ngự trị giữa muôn dân.
Isaia đã tiên báo về một cảnh trời mai chói lọi ấy trong hoàn cảnh dân bị tan tác, mất nhà cửa, bị đi lưu đày. Một cảnh huống mà Isaia diễn tả: Dân tộc đang bước đi trong u tối. Vì sao nên nỗi lầm than như vậy. Dọc chiều dài Kinh thánh cho ta thấy chính con người đã vất bỏ giao ước với Thiên Chúa, từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa trong xã hội mình, trong cuộc đời mình. Chính khi rời bỏ Thiên Chúa, lòng người ly tán.
Họ bất trung với Thiên Chúa và quay ra đàng điếm với các thần ngoại; họ cầu cứu những phương thế của loài người để giải quyết chiến tranh; dân cậy dựa vào sức lực của con người để vượt lên số phận; họ tin tưởng và tuyệt đối bám víu vào của cải mau qua ở thế giới này. Con người rời xa Thiên Chúa.
Làm gì đây khi con người đã đóng sầm cánh cửa trước lời mời gọi trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa thua con người rồi sao. Thiên Chúa chấp nhận ly dị với con người sao. Lời thề ước trung thành không lẽ hết giá trị rồi ư.
Không. Tình thương của Thiên Chúa đã không chịu khuất phục trước tội lỗi của loài người. Thiên Chúa đã duy trì mối dây liên kết với con người bằng mọi giá. Chúng ta kiêu căng, Ngài sẵn sàng hạ mình xuống; chúng ta từ chối đón tiếp, Ngài kiên trì chờ đợi; chúng ta lên tiếng sỉ vả, Ngài nhẫn nhục lắng nghe; chúng ta phản bội, Ngài âm thầm dõi theo để chờ đợi giây phút hoán cải.
Thiên Chúa đã hạ mình trong thân phận Hài nhi nơi máng cỏ trong hang đá giữa trời khuya giá rét. Ấy là vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta. Tình yêu xả kỷ đã chiến thắng tội lỗi.
Giờ đây, khi đứng trước hang đá với hàng ngàn bóng điện nhấp nháy như bầu trời sao, bạn và tôi, chúng ta nghĩ gì.
Đứng trước lòng trung thủy trong khiêm hạ của Hài Nhi Giê-su khiến ta chạnh lòng nghĩ tới lòng trung thủy của lòng mình. Tôi và bạn, chúng ta phải làm gì đây trong một xã hội mà dường như sự trung tín, lòng trung thủy với lời kết ước đã trở thành thứ xa xỉ phẩm; khi mà lời kết ước hôn nhân trở thành thứ vô vị và chỉ còn là thủ tục giấy tờ; khi mà mối tương quan được đo bằng tiền.
Lạy Chúa Giê-su Hài Đồng, xin dạy con biết khiêm nhu sống tín thác vào Chúa và tin tưởng ở tha nhân. Giữa những đổ vỡ trong cuộc sống bởi lòng kiêu căng, xin Người hàn gắn và vực con chỗi dậy. Nguyện xin Người kéo lòng con về bên máng cỏ, để con cảm nếm cái thực của một tình yêu tinh tuyền trong khiêm hạ.
28. Một Người Con Được Tặng Ban Cho Nhân Loại 2017—Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
Dân Israel là dân riêng của Thiên Chúa, được Người tuyển chọn giữa muôn dân, có nhiệm vụ thay cho nhân loại đón nhận Đấng Cứu Độ mà Người đã hứa, ngay sau khi Nguyên tổ phạm tội (x. St 3,15).
Tuy nhiên, thay vì trung thành với sứ vụ của mình, thì dân Israel đã nhiều lần bất trung. Nhưng dù dân Israel có bất trung, thì Thiên Chúa vẫn luôn tín trung. Người dùng miệng các ngôn sứ mà lặp lại lời hứa cứu độ và làm cho dân Israel nhớ lại lời hứa ấy.
Isaia là một trong những ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến để làm công việc ấy. Ngôn sứ Isaia đã loan báo rằng: “Đoàn dân đang lẫn bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng… Chúa sẽ ban cho họ chứa chan niềm vui mừng, hoan hỉ… Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người là Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. Người sẽ mở rộng quyền bính và lập nền hòa bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít…” (x. Is 9,1-6).
Người con được ban tặng cho nhân loại mà ngôn sứ Isaia loan báo, đó chính là Đức Giê-su. Người là Ngôi Lời vĩnh cửu, là Con Một Chúa Cha, được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời, muôn vật muôn loài nhờ Người mà được tạo thành…. Nhưng Người cũng là con của Đức Maria và thánh Giuse khi xuống thế làm người và làm Đấng cứu độ, Người được thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, chứ không phải do tác động của nam nhân, Người được sinh ra nơi hang chiên lừa nghèo hèn, giữa trời đêm đông, trong cánh đồng Bê-lêm mà chẳng có ai hay ai biết, chỉ có thần thánh trên trời và các mục đồng mà thôi.
Dù được sinh ra trong hoàn cảnh như vậy, nhưng Người được gọi là ‘Tin mừng trọng đại cho toàn dân, là Đức Ki-tô và là Đức Chúa’. Người đến để làm cho lời hứa cứu độ được nên trọn, khai mở một kỷ nguyên mới cho nhân loại, kỷ nguyên ‘Thiên Chúa ở cùng con người mọi ngày cho đến tận thế’ (x. Mt 28,20), kỷ nguyên Thiên Chúa yêu thương và bảo vệ sự sống con người và giá trị của hôn nhân, gia đình.
Quả thật, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo, Chúa có trăm ngàn cách để cứu độ nhân loại, nhưng Chúa đã chọn cách thế làm người và làm người nghèo hèn nhất trong thế giới loài người, dưới dáng hình của một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ, cần được yêu thương, chăm sóc và bảo vệ.
Giáng sinh trong hoàn cảnh như thế, Chúa muốn dạy con người bài học về giá trị và phẩm giá con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, cần phải được tôn trọng bảo vệ. Sự sống con người là vô giá và linh thánh. Vô giá và linh thánh đến nỗi ‘không có gì trên trần gian này đổi được mạng sống con người’ (x. Mc 8,37), Thiên Chúa đành phải sai Con mình xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết và sống lại, để cho con người ‘được sống và sống dồi dào’ (x. Ga 10,10).
Hơn nữa, khi xuống thế làm người, với quyền uy của mình, Con Thiên Chúa có thể ‘xé trời mà xuống’ (Is 63,19), đâu cần đến gia đình, xã hội và tôn giáo. Nhưng cũng như mọi người, Chúa đã chọn sinh ra trong một gia đình có mẹ có cha (Đức Maria và thánh Giuse) và thuộc về một dân tộc, xã hội và tôn giáo nhất định (dân tộc, xã hội và tôn giáo Do-thái).
Lựa chọn như thế, Chúa có ý tôn trọng và bảo vệ định chế hôn nhân, gia đình và xã hội mà Chúa đã thiết lập, đồng thời Chúa cũng mời gọi mọi người hãy tôn trọng và bảo vệ các giá trị của hôn nhân, gia đình, xã hội và tôn giáo.
Tiếc thay, dù Chúa đã xuống thế làm người hơn hai ngàn năm và hàng năm sứ điệp giáng sinh của Chúa vẫn luôn được nhắc lại ít nhất một lần, nhưng xem ra phần đông nhân loại vẫn khước từ và dửng dưng trước sứ điệp của Người. Khủng bố, bạo lực, vi phạm nhân quyền, xúc phạm nhân phẩm, hủy diệt sự sống, đàn áp tôn giáo, phá vỡ định chế hôn nhân và gia đình vẫn luôn xảy ra khắp nơi trên thế giới.
Riêng ở Việt Nam dường như sự sống con người, nhất là trẻ em và những người nghèo, bị bỏ rơi và phó mặc cho những thế lực đen tối thao túng, khiến người dân phải sống trong cảnh bất an và cơ cực… Đặc biệt trong những ngày gần đây, qua các phương tiện thông tin đại chúng, người dân rúng động bởi những vụ việc ‘bà nội giết cháu ruột ở Thanh Hóa, chồng giết vợ…, vợ giết chồng rồi chặt xác phi tang ở Bình Dương…’ Phải chăng đó là hậu quả của một xã hội và một nền giáo dục được định hướng bởi chủ nghĩa “Tam vô”: vô tổ quốc, vô gia đình và vô tôn giáo?
Trước một xã hội dửng dưng, vô cảm và đầy bóng tối như thế, người Ki-tô hữu phải sống sứ điệp của Chúa giáng sinh một cách vui tươi và linh động, để làm chứng và biểu lộ tình thương, ân sủng của Chúa đang hiện diện và hoạt động trong chúng ta và trong thế giới này. Nghĩa là ‘chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này’ (x. Tt 2,12), chấp nhận những hy sinh lớn lao, vượt qua mọi khó khăn thử thách để sống trung thành với Chúa, tôn trọng và bảo vệ sự sống con người trong mọi hoàn cảnh, nhiệt thành trong công việc tông đồ và bác ái xã hội, chăm lo cho con cái được giáo dục toàn diện về thể dục, trí dục, cũng như đức dục và tâm linh.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng con, dưới hình hài một trẻ thơ bé nhỏ trong gia đình Thánh Gia, cần được yêu thương, chăm sóc và bảo vệ của xã hội và tôn giáo. Xin cho chúng con và thế giới này biết tận dụng mọi phương thế để tôn trọng nhân phẩm và bảo vệ sự sống con người, bảo vệ định chế hôn nhân và gia đình mà Chúa đã thiết định an bài. Amen.
29. Nụ hôn nồng nàn của Thiên Chúa--Lễ đêm 2013--Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Kính thưa Ông Bà Anh Chị em giáo dân,
Kính thưa Quý Vị và các bạn ngoài Kitô giáo,
Trước hết, thay mặt cho bà con giáo dân giáo xứ Quảng Ngãi, giáo hạt Quảng Ngãi, tôi xin được trân trọng gởi đến quý vị không có chung niềm tin Kitô đang có mặt ở-đây-giờ-nầy lời cám ơn chân tình và lời chúc mừng Giáng Sinh tốt đẹp và trân trọng nhất.
Tôi muốn dành những lời đầu tiên nầy để chia sẻ cùng quý vị không cùng niềm tin với chúng tôi. Chúng tôi cám ơn quý vị, quý bạn đã đến đây để chia sẻ niềm vui Giáng Sinh với chúng tôi, để tham quan ngôi từ đường của đại gia đình kitô hữu Quảng Ngãi, để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, để nghe những bài thánh ca Noel, để lòng lắng đọng trước một đôi gợi ý của Kinh Thánh về huyền nhiệm đức tin Kitô,… và đối với các bạn trẻ hoặc một số người, Giáng Sinh còn mang theo cả một trời kỷ niệm, kỷ niệm của những mối tình đầu thơ mộng, mà bài hát “Hai Mùa No-en” của Ns Nguyên Vũ đã phần nào diễn tả:
Mùa Noel đó chúng ta quen bên giáo đường
Mùa Noel đó anh đón em vào tình yêu
Quỳ bên hang sâu nghe lời kinh thánh van cầu
Nhìn nhau không nói nên câu
Vì biết nói nhau gì đâu…
Với chúng tôi, những người Công Giáo của miền Núi Ấn-Sông Trà, quả thật đây là dịp duy nhất trong một năm, chúng tôi được đón tiếp quý vị như những vị khách quý để có thể chia sẻ với quý vị đôi điều về niềm tin của chúng tôi, để giới thiệu đôi nét đan thanh về Chúa Giêsu, mà với niềm xác tín của những người Kiô hữu chúng tôi, là Đấng Cứu Độ duy nhất, một Đấng mà chắc chắn quý vị còn rất mù mờ, có khi được hiểu cách lệch lạc và rất nhiều khi được thông tin với một ý đồ không mấy thiện chí, nếu không muốn nói là xuyên tạc và thù nghịch.
Đặc biệt năm nay, Năm mà Giáo Hội Công Giáo muốn các gia đình đem Tin Mừng hiện thực trong chính mái ấm của mình, tôi xin được chia sẻ cùng cônghj đoàn Kitô hữu và toàn thể quý vị một khía cạnh, một ý nghĩa đặc biệt về Chúa Giêsu và về cuộc Giáng Sinh của Ngài:
Chúa Giáng Sinh: Nụ hôn nồng nàn của Thiên Chúa.
Để minh họa cho ý nghĩa nầy, tôi xin được kể một câu chuyện nhỏ mang tựa đề: NHỮNG NỤ HÔN TRONG CHIẾC HỘP RỖNG.
Gia đình nghèo và việc chi tiêu rất eo hẹp. Nhưng cô bé lại dùng cuộn giấy gói xa xỉ đó chỉ để bọc một cái hộp đặt dưới gốc cây thông Nô-en. Người cha tỏ ra vô cùng giận dữ trước sự phí phạm của con gái. Mặc dù vậy, buổi sáng hôm sau, cô bé vẫn mang hộp quà đó tới trước mặt cha và hớn hở nói: “Cha ơi, con tặng cha món quà Giáng sinh!”. Người cha cảm thấy vô cùng bối rối bởi phản ứng thái quá trước đó của mình: Cô con gái nhỏ dù sao cũng chỉ muốn một hộp quà bọc gói thật đẹp để tặng cha. Nhưng khi mở gói quà ra, nụ cười vừa nở trên môi ông đã tắt lịm. Trước mắt ông chỉ là một chiếc hộp rỗng! Nhìn thẳng vào mắt con gái, người cha quát rất to: “Con không biết điều này hay sao? Khi con tặng quà ai đó, chắc chắn phải có gì đó bên trong gói quà!”. Cô bé nước mắt giàn giụa nhìn cha và nói: “Không, cha ơi. Chiếc hộp con tặng cha có rỗng đâu. Con đã thổi rất nhiều nụ hôn vào đó. Tất cả những nụ hôn đó con dành tặng cha mà.”...
Một thời gian ngắn sau đó, tai nạn xảy ra cướp đi cuộc sống của cô bé dễ thương. Còn người cha vẫn giữ bên mình chiếc hộp bọc giấy vàng tuyệt đẹp nhiều năm sau đó.
Và bất cứ khi nào ông cảm thấy tuyệt vọng, chán nản, ông đều lấy chiếc hộp ra và hình dung đến con gái bé bỏng yêu thương đang ôm và thơm vào má cha – những nụ hôn trong chiếc hộp ngọt ngào...
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Phải chăng, ý nghĩa đầu tiên và sâu sắc nhất của mầu nhiệm Thiên Chúa Giáng Sinh chính là “Chiếc hộp bằng vàng chứa đựng nụ hôn tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta”, đúng như lời khẳng định trong Tin Mừng Thánh Gioan:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong lịch sử con người.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách trọn vẹn và hết mình.
- Giáng sinh: đó là cách thế để Thiên Chúa dạy cho con người biết thế nào là yêu thương và phải đáp trả tình yêu dành Ngài và cho nhau phải được thể hiện làm sao.
Thi sĩ linh mục Trăng Thập Tự đã cảm nhận sâu xa ý nghĩa nầy trong bài thơ Tại Sao mà xin được trích ra đây đôi dòng tiêu biểu:
Còn Ngài yêu con, Ngài đã làm người
Để có thể khóc, để có thể cười,
Để có thể chết thay con mà chuộc tội,
Và nhờ đó con hiểu thế nào là tội lỗi,
Thế nào là lòng Chúa thương yêu.
Để con hiểu ra vẽ diễm kiều
Khi được làm người, khi được làm con Thiên Chúa.
Lạy Đấng Cứu Thế, là Trời, là Tạo Hóa,
Chiều nay trên thập giá,
Chúa có ân hận đã làm người?
Con hỏi và con tự trả lời
Khi con đã biết
Ngài yêu là yêu cho đến đời đời kiếp kiếp
Lạy Thượng Đế làm người, lạy Chúa Giêsu
(Trăng Thập tự, “Có ai về Cát Minh”, Bài “Tại Sao”, tr.184-186)
Thiên Chúa vẫn tiếp tục giáng sinh trong thế giới nầy.
Tuy nhiên, trong đêm nay cũng có kẻ sẽ tự nói rằng: Giáng Sinh đó là câu chuyện huyển tưởng của bọn Kitô giáo, có liên hệ gì đến mình đâu.
Không có liên hệ đấy quý vị. Chỉ cần 6 ngày nữa, khi tấm lịch cuối cùng ngày 31 tháng 12 năm 2013 được xé bỏ để bắt đầu tờ lịch mới 1.1.2014, cũng đã nói với quý vị rầng: Ngày sinh của Chúa Giêsu mà hôm nay chúng ta mừng kính đã được chọn làm cột mốc của khởi đầu cho Công lịch. Kể từ năm sinh của Ngài đến hôm nay đã được 2013 năm.
Nhưng điều chúng ta cần dừng lại đó lại là ý nghĩa tâm linh và chiều kích nhân sinh, xã hội mà mầu nhiệm Giáng Sinh mang đến cho con người.
Chúng tại phải trở về với lời Kinh Thánh, đặc biệt sứ điệp Tin Mừng được công bố hôm nay để tìm những chỉ dẫn cho những ý nghía nầy:
Bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch sử mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với những lời và bối cảnh thật ấn tượng: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiện ra loan báo rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng sinh…”
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng và hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã tìm được điều gì nơi Đấng Cứu Thế giáng sinh cách đây 2013 năm?
Thật trái với mong đợi của bao khát vọng trần tục của loài người.
- Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đấng Cứu Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
- Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi chen lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
- Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương kinh tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng “Tám Mối Phúc Thật” chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
- Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gươm đao để mở rộng cõi bờ, sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chủ trương “phúc cho ai xây dựng hòa bình, phúc cho ai bị bách hại vì chính đạo...”
- Thay kéo bè kết cánh với những thế lực uy quyền và giàu có, Đấng Cứu thế lại giao du thân mật với những người nghèo, kẻ bất hạnh và chọn lựa những kẻ thất học, dân chài vai u thịt bắp để làm môn sinh và xây dựng. Giáo Hội
- Thay vì đăng quang chấp chánh trên ngai vàng lẫm liệt bắt muôn dân sấp mặt cuối đầu thì Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu tử hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ, giữa những người tội lỗi…
Và phải chăng, đó chính là ý nghĩa cuối cùng của mùa nhiệm Giáng Sinh, mầu nhiệm EMMANUEL, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm để chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một “Ông Giêsu” chỉ với mục đích là được no cơm ấm áo, chỉ với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật chất, chỉ với một mưu cầu là đạt được những mưu đồ chính trị…thì có lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh, Chân lý của Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng ta những giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị-kinh tế, cho dù đã có không ít đề nghị, chủ trương Ngài là Nhà Cách mạng vô sản, Ngài là lãnh tụ của thành phần dân nghèo đứng lên đòi quyền giả phóng.... Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi duy nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh “ trong Bài đọc 2 vừa được công bố hôm nay “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh phúc vĩnh hằng.
Tin và đón nhận Đức Ki-tô đó chính là không ngừng khám phá và gặp gỡ chính Ngài đang hiện diện thật sự trong thế giới nầy, trong nhân loại nầy, đặc biệt, Ngài hiện diện trong những con người bé nhỏ khó nghèo, bị chà đạp, bị tổn thương, bị vất bỏ bên vệ đường xã hội…
Câu chuyện trong kho tàng khôn ngoan của Ấn Độ sau đây đã phần nào diễn tả ý nghĩa nầy:
“Có một vị linh sư Ấn giáo và các môn sinh ngồi quây quần bên một bếp lửa hồng. Sức nóng của than hồng và hơi nóng của từng người làm cho căn phòng ấm hẳn ra….Nhưng bổng chốc, vị linh sư già run lập cập, môi ông bập bẹ không nói ra lời. Các môn sinh lo lắng cho sức khỏe của thầy: “Thưa thầy, chắc thầy yếu trong người, chúng con xin phép được cho thêm củi vào lò sưởi”. Trong cơn thổn thức, vị linh sư già cố gắng nói từng tiếng: “Lửa và sức nóng trong căn phòng nầy quá đủ cho ta…Ta cảm thấy lạnh là bởi vì bên ngoài có một người hành khất đang run lập cập”. Quả thật, đúng như lời của vị thầy, các môn sinh đã mở cửa và nhìn ra ngoài, và họ đã tìm thấy một người hành khất đang rét run vì đói và lạnh….Họ đưa ngươi đó vào trong căn phòng, săn sóc cho anh và từ giây phút ấy, vị linh đạo sư cũng trút bớt nổi rét run của mình...”
Kính thưa cộng đoàn và toàn thể ông bà anh chị em,
Trong năm vừa qua, chúng ta đã ghe biết và chứng kiến bao nhiêu đau thương, tệ nạn liên tiếp xảy ra trong các gia đình Việt Nam chúng ta. Từ vụ xác của chị Lê thị Huyền bị bác sĩ thẩm mỹ Cát Tường ném xuống sống Hồng Hà cho đến hành vi chém và đốt xác người yêu tại Đà Nẵng hay sự kiện người bảo mẫu hành hạ đến chết trẻ em được giao chăm sóc…thì quả thật, sứ điệp Giáng Sinh hôm nay quả thật cần thiết biết bao! Cần thiết biết bao cuộc nhập thể giáng sinh của Ngôi Lời trong mọi cơ cấu của xã hội để hoán cải, để chữa lành, để phục sinh, như chính lời của Đức Thánh Cha Phanxicô đã cắt nghĩa trong bài huấn dụ trước lễ Giáng Sinh ngày 18.12.2013 tại Quảng trường Rôma:
“Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Bếtlehem: một năng lực tinh thần giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim. Thật thế việc sinh ra của Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta một tin vui: đó là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và một cách đặc biệt, và tình yêu này Ngài không chỉ làm cho chúng ta nhận biết, mà còn ban tặng và thông truyền nó cho chúng ta nữa! “
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Trong mùa Giáng Sinh nầy chúng ta đã từng nhận được rất nhiều cánh thiệp chúc mừng Giáng Sinh cùng với những lời chúc tốt đẹp, và chắc chắn ai trong chúng ta cũng ước mơ những lời chúc ấy sẽ trở thành hiện thực. Riêng tôi, tôi ước mong anh chị em phải biến cuộc đời mình, gia đình mình, cộng đoàn mình thành Tin Mừng Giáng Sinh, thành một Quà Tặng Sự sống, quà tặng của sự trung thành và hy sinh trong mái ấm gia đình, quà tặng của yêu thương và phục vụ ở giữa cộng đoàn, quà tặng của bác ái vị tha với mọi người chung quanh, quà tặng của bao dung tha thứ dành cho những người ghét ghen đố kỵ và xúc phạm đến mình. Chắc chắn, khi có được những quà tặng như thế, chúng ta sẽ nhận được “chiếc hộp vàng đựng nụ hôn chúc phúc của Chúa Hài Nhi Giêsu”, nụ hôn của niềm vui và an bình, nụ hôn của tin yêu và hạnh phúc hôm nay để dẫn dắt chúng ta đi trót cuộc hành trình dương thế để nhận được nụ hôn của Ba Ngôi Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh hằng. Bởi vì, đó chính là lời chúc mà các thiên sứ đã hát lên trong đêm Giáng Sinh đầu tiên ở Bê-lem: ”Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”; và đó cũng chính tiêu đích của cuộc Nhập thể - Giáng sinh mà chính Chúa Giêsu đã từng khẳng định: “Ta đến để chúng được sống và sống phong phú”. Amen.
30. Tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại--Lễ đêm--Lm Uyên Nguyễn
‘Tôi loan báo cho anh em một
Tin Mừng trọng đại, là niềm vui cho toàn dân’.
Trong đời, tưởng chừng không gì bất tử với lòng người nhân loại hay thay đổi. Tuy nhiên vẫn có những điều trường tồn ngoài sự suy đoán? Lạ lùng hơn là những việc xem ra dưới mức bình thường, trong âm thầm, quạnh quẽ, dần qua thời gian đã nên rạng ngời vinh quang, lưu tồn bất tận. Những sự kiện như vậy thường không là ngẫu nhiên, cũng vì tự tại đầy sức toả sáng, bất tử, huy hoàng giữa nhân loại.
Xem ra không mấy sự lạ lùng được như vậy, ngoại trừ biến cố được gọi là Giáng Sinh hay còn gọi là Noen. Lần theo tường thuật của Luca được GH trích đọc trong đại lễ truyền thống trọng trị tràn ngập hân hoan đêm nay, không thể không nhận ra những gì đã gây nên ấn tượng tôn vinh khó phai trong lòng nhân loại từ sự kiện Giáng Sinh trải qua bao thế hệ!
Điều thứ nhứt, Giáng sinh là ‘con đường’ làm người của Ngôi Con TC. Con đường hiện diện để yêu thương, hiện diện cho nhân loại, cho đời. Để là vậy, Người trải qua con đường chung của bất cứ ai được sinh ra làm người, nghĩa là cũng thụ thai, cũng được sinh hạ. Tuy nhiên quá trinh sinh làm người của con TC được phủ bóng quá giản đơn, phút chốc, có gì đó dưới thấp hèn. Sinh ra trong thời điểm mọi người vâng lệnh hoàng đế Augustô trở về quê hương để tuân hành pháp lệnh kiểm tra dân số. Người mẹ đang đến thời mãn nguyệt khai hoa, không tìm được nơi tá túc giữa lòng Thành Phố chật ních người. Theo đó, Luca tường thuật bằng một chất giọng nao nao tình trong cảm kích trọng thị: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”( c.7). Luca cố tình dùng những cụm từ quen thuộc gần gũi đời thường: dành cho những người có gia cảnh bé mọn, lãng quên giữa phố chợ phồn hoa. Bà sinh con trai, lấy tã bọc, đặt nằm trong máng cỏ, vì không tìm được chỗ. Luca tự mình tra vấn: là con TC sinh hạ ư? Sao quá giản tiện, đơn hèn, bất đắc dĩ vì hoàn cảnh hay vì thâm ý? Mà Con TC được Tin Mừng Gioan gọi là Lời, Lời của TC Cha. Nếu TC như Gioan định tín: “TC là Tình Yêu”. Vậy Tình Yêu với vai trò diễn tả tình yêu Chúa Cha bằng Lòi tự tỏ bày như thế ư? Quả quyết vậy, chắc cũng không sai, bởi ngạn ngữ nói: “Đầu xuôi đuôi lọt”, cả cuộc đời với vai trò Con TC cứu độ đã theo đuổi cách sống không có gì là rạng rỡ như thế từ khởi sự cho đến trọn 33 năm hoàn tất nhân sinh! Sinh không vinh quang, chết cũng không rõ vinh quang. Tuy nhiên lẽ sinh, lẽ chết, ý nghĩa và hành vi cống hiến cho đời mới là cứu cánh định giá khác biệt để mới có thể gọi là sinh trong cùng đinh để chết đat đỉnh vinh quang tối hậu. Thế mới biết đâu là Lời của TC Cha, Lời vâng phục Chúa Cha, đã vì để trở nên cứu cánh nhân loại phải là thế?!
Điểm thứ hai, một biểu trưng cho một dáng vóc của tột cùng thấp hèn. Trước nhãn giới mang tính thèm khát cao vọng hồn nhiên của con người, Con TC sinh ra như thế được kể là thấp hèn. Thực chất không là thấp hèn mà là một TC tự hạ để sau này trên đường đi loan báo TM, giữa cuộc sống đời trần đầy dẫy ganh ghét, bon chen, dẫm trèo lên nhau, trong chân tình, Người dạy: “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường”( x.11,29). Vậy ở đây chắc chắn không phải là thấp hèn mà phải được nhìn nhận và tôn vinh là khiêm hạ. Con TC khiêm hạ vì Người bằng lòng hoá thân tự hạ để khả thi thực hiện điều được gọi là ‘nhập thể’, nên một giữa khối nhân loại bởi Người mà được tạo thành. Thấy rõ hơn về điều ấy, khi được đọc lại những gì Luca viết nêu giãn dị đôi nét về lai lịch vị trí sinh hạ: “Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật” (c.2,8). Sinh ra trong vùng, giản đơn là nơi nào đó trên cánh đồng chỉ có những người chăn chiên đêm đêm thao láo mắt thức canh đàn vật.
Những người chăn chiên là ai? Phẩm vị họ cao thấp, được tôn trọng hay, trước tâm khảm những ai khác họ, có bị nhìn là những kẻ đáng khinh vì bị liệt vào hàng thấp hèn không ít lần phạm phải hành vi trộm cướp cắp? Dẫu vậy, chính họ là những người mà Luca trong tường thuật, là những kẻ ưu tiên được diễm phúc, ưu tiên đón nhận tin mừng, ưu tiên được loan báo tin vui cho toàn dân, ưu tiên đi xem sự việc, ưu tiên chiêm ngưỡng và thực sự là những nhân chứng tiền thân. Xem ra là vậy! nên có thể hỏi tình thương đích thực mang đến ban phúc, đã thực hiện theo quá trình nào, khởi sự từ cao trọng xuống thấp hay từ thấp hèn lên cao trọng? ở đây xem ra Tình thương con TC làm người mang diễm phúc cho đời không theo quy trình hành xử như người đời mà bằng con đường độc lập của lòng ưu ái TC. Để xác quyết như vậy, qua tường thuật của Luca, sẽ rõ những gì mà nhóm những người này bộc lộ cho nhau: “ Nào chúng ta sang Belem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho chúng ta biết” ( c.2. 15). Luca cũng nói đến những cảm nghĩ của họ, bộc phát từ ơn lành, cho nhau: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng TC, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (c.20). Cảm nghĩ của các kẻ chăn chiên là tin cẩn dấu lạ loan báo, xác tin vào tin vui loan báo, tin vào phúc mà họ bỗng dưng được ban từ trời giữa đêm buồn quạnh quẽ giá rét, lòng họ đầy hân hoan trong trào dâng cảm xúc ca ngợi và cảm tạ TC.
Phần chúng ta cảm nghĩ gì? Có phải Giáng Sinh không là vậy không là Giáng sinh, là Noen! Chắc là vậy vì mọi tình huống ấy đã được công bố từ khơi nguồn do lời và tiếng hát hoà vang nhiệm lạ của các ‘thần thiêng’ trên không trung trong đêm tịch liêu khuya khoắt, công bố cho hiện tại và cho cả mọi thế hệ tương lai! Thế nên điều tưởng chừng không giá, không nghĩa, lại đầy sức mầu khoác cho mình ánh sáng rực rỡ hấp dẫn, bùng lên vẻ vang qua mọi thời. Là như vậy, chỉ có là: Giáng Sinh, Noen. Bởi chính đó là Đấng cứu độ, Đấng mang lửa yêu thương từ trời cao ném vào băng giá trần gian, bằng con đường làm người trong và qua giản đơn, mọn hèn, để như lửa len mình vào mọi chất đốt đủ kích cỡ làm bùng lên cháy rực giữa cõi nhân sinh đang thênh thang chung lộn trên miền băng giá! Noen vậy, rất đáng cảm kích, không thể không huy hoàng rực rỡ ư? và sẽ không vẻ vang hơn như thế cho đến ngày cùng vũ trụ?!
Thân lạy Đấng là Hài nhi mới sinh! Con xin được ngợi khen và tôn vinh Danh Người, nguyện cho Danh Người luôn được cao sang. Xin cho Giáng Sinh bừng cháy lên trong tâm hồn mọi người giữa mọi dân nước. Xin đừng ai chưa hay không đón nhận được tin vui Giáng Sinh: là ơn cứu độ tuyệt hảo dành cho những ai thành tâm cũng cố dời mình đón nhận Giáng Sinh đầy hiệu quả và trọn vẹn!
31. Noel! Ngày lễ Hòa Bình--Thiên Phúc
Ở thế chiến thứ hai, trên một mặt trận giữa hai nước Pháp và Đức, quân của hai bên giành nhau từng chiến hào; gây cấn đến độ vô phúc cho người nào sơ ý ló đầu ra khỏi chỗ núp là nát đầu ngay. Đó là tình hình vào những ngày 21, 22, 23 tháng12, 1943. Các sĩ quan hữu trách của cả hai bên đều đề phòng cấm ngặt binh sĩ của họ không được lơ là bỏ vị trí chiến đấu kể cả ngày Noel. Đến chiều 24 tháng 12, vẫn là bầu khí ngột ngạt của tử thần. Không có hưu chiến. Đó là lệnh cấp trên truyền xuống.
Đêm về, trong bầu khí yên lặng căng thẳng đó, bỗng một tiếng hát vọng lên từ một thông hào: “Đêm thanh bình, đêm ơn lành!” (Silent Night), rồi nhiều tiếng hát vọng theo, rồi người ta nghe cả hai phía Pháp Đức đều vang dậy tiếng hát Giáng Sinh; không ai bảo ai, bất chấp quân lệnh, binh sĩ của cả hai bên đều bật dậy, bỏ vị trí chạy lại bên nhau, ôm nhau cười nói, chúc lễ Giáng Sinh cho nhau. Họ trao cho nhau đồ dùng, cùng ăn uống với nhau như thể là những người bạn thân lâu ngày hội ngộ. Trước cảnh đó, các vị chỉ huy đều đồng ý hưu chiến đến hết ngày hôm sau.
Ngày 25-12 năm 1943 là một ngày đáng ghi nhớ cho những người ở trận tuyến đó. Hai bên Đức, Pháp cách đó mấy giờ là tử thù của nhau, bây giờ họ cùng chụp hình, trao kỷ niệm, chơi bóng, ăn chung với nhau như những người anh em rất yêu quí. Noel, ngày lễ Hoà bình.
***
Giáng Sinh là lễ của Hòa Bình. Hàng năm, cứ vào lễ Giáng Sinh, dù chiến trận có sôi sục đến đâu, người ta cũng thường dàn xếp để hai bên có được thời gian mừng lễ. Đó gọi là ngày hưu chiến. Sở dĩ có hưu chiến trong ngày lễ Giáng Sinh vì Ngôi Hai đã xuống thế làm người để giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và loài người. Giao ước cứu chuộc sẽ được ký kết bằng máu của Ngôi Hai là Thiên Chúa và cũng là người thật. Đó là niềm vui vô cùng lớn lao của cả loài người được ơn cứu độ. Từ nay, tội tổ tông đã được tẩy xoá nhờ máu thánh của Con Thiên Chúa. Con người không còn vương vấn tội nhơ thì an bình sẽ ngự trị trong tâm hồn: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”
***
Lạy Chúa, tâm hồn bình an thì không còn hận thù, đố kỵ, ganh ghét, nhưng luôn tin yêu, hy vọng, vui sống. Xin ban cho con sự bình an của Chúa để con luôn là sứ giả của an bình. Chúa đã hứa: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.” Xin cho cầu nguyện cảm nếm được sự ngọt ngào của an bình trong tâm hồn và như thế là đủ cho con rồi. Vì có Chúa là đời con bình an. Amen!
32. Ánh sáng rạng ngời--Ga 1,1-14--Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Vào một đêm kia, nhà văn Anh John Ruskin nhìn thấy những người thợ thắp đèn đường trong thành phố (lúc đó chưa có điện đường). Họ phải cầm một ngọn đuốc chiếc đèn khác dọc theo các con đường.
Trong đêm tối, Ruskin không thấy được người thắp đèn, ông chỉ nhìn thấy bó đuốc của người ấy và một vệt dài ánh sáng người ấy để lại đàng sau mình. Qua hình ảnh đó, cụ già Ruskin đưa ra một nhận định hết sức thâm thúy: “Đây là một minh họa tuyệt đẹp về người Kitô hữu. Có thể người ta chẳng bao giờ nhận biết người ấy, cũng chẳng bao giờ gặp anh, nhưng họ đều biết anh ta đã đi qua thế giới của họ nhờ vào chuỗi ánh sáng anh để lại phía sau mình”.
***
Giáng sinh là một biến cố vô cùng trọng đại, một trang sử mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh thánh, nối kết giữa trời và đất, giao hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng rạng ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối, nguồn ánh sáng của tình yêu, chân lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).
Ánh sáng tình yêu
Thiên Chúa là đấng quyền năng vô hạn, con người là phận hèn mọn. Thiên Chúa là đấng sáng tạo muôn loài, con người là vật thụ tạo nhỏ nhoi. Trớ trêu thay, loài hay chết lại liều mình xúc phạm đến Đấng cao cả. Phận tôi đòi lại cả dám ngạo mạn Đấng Thánh vô cùng đã vượt lằn ranh vô biên, đích thân xuống với con người, để tha thứ, cứu chuộc và yêu thương họ còn hơn cả trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại hồng ân cao cả ấy, trí khôn con người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng, chính tình yêu đã làm nên những điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng tình yêu từ trời xuống, đã thắp sáng màn đêm tăm tối của trần gian bằng tình yêu cứu thế. Đúng như lời ngôn sứ Isaia: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).
Ánh sáng chân lý
Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển đời u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có thể chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức Giêsu khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18).
Ánh sáng ban nguồn sống.
Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc nhất với con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống thần linh.
Ánh sáng của Hài Nhi Giêsu khi đem xuống trần gian không chỉ xóa tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu tỏa vào linh hồn con người ánh sáng trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người phán: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống” (Ga 8,12).
Mừng lễ Giáng Sinh chính là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã đem ánh sáng huy hoàng của Người đến trong trần gian, trong tâm hồn chúng ta, và trong lòng mọi người.
Mừng lễ Giáng Sinh chính là bắt chước Gioan, làm chứng cho Ánh Sáng: là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi người đến cùng Thiên Chúa.
Mừng lễ Giáng Sinh chính là thực thi những điều thiện hảo, vì “ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3,20).
***
Lạy Hài Nhi Giêsu, Ánh sáng rạng ngời. Xin cho chúng con luôn trở nên ngọn đèn rọi sáng giữa đêm đen. Xin dậy chúng con biết tích cực lan tỏa ánh sáng đến các tâm hồn, để Ánh sáng rạng ngời của Chúa luôn luôn tỏa sáng. Amen.
33. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh--Lc 2,1-14--“Suy Niệm Lời Chúa”--Radio Veritas Asia
Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thật thế, chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào cho âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh, và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về lễ Giáng sinh. Kỳ thực, lễ Giáng sinh cũng chính là một bản nhạc bất hủ Thiên Chúa dành cho con người. Nếu như âm nhạc là một sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là một thứ âm nhạc.
Thánh Gioan tông đồ, người đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy, người đã sống mầu nhiệm ấy, đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau: "Và Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể". "Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể" nghĩa là đã hóa thành một người trong chúng ta. Ngài đã sống giữa chúng ta. Ngài đã nói thứ ngôn ngữ vào thời đại của Ngài. Những lời của Ngài đã được ghi chép lại và quảng bá khắp cùng thế giới từ 2,000 năm qua. Lời ấy đã được dịch ra trên 5 ngàn thứ ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau trên khắp thế giới. Và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và lương thực cho tất cả nhân loại.
Thế nhưng trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc, thì Chúa Giêsu đã sống trong thinh lặng. Thinh lặng của hang đá Bêlem và nhất là thinh lặng trong suốt ba mươi năm tại Nagiarét. Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế? Thưa, bởi vì Ngài không những nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn nói với chúng ta bằng sự thinh lặng nữa. Ngài nói với chúng ta bằng tất cả cuộc sống của Ngài. Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở thành thân thiết với mọi người và mỗi một người sinh ra trong cõi đời này. Ngài muốn nói với chúng ta rằng sự sống của con người là một giá trị thánh thiêng bất khả nhân nhượng, bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng mỗi con người sinh ra trong thế gian này dù xấu xa, thấp hèn, mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, cũng đều là con cái của Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy, Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống thinh lặng, lam lũ, nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2,000 năm. Sự hiện hữu của Ngài là sự hiện hữu có giới hạn. Giới hạn trong một không gian, một thời đại, giới hạn trong một cách sống. Chúa Giêsu đã không hề là một người chồng, Chúa Giêsu không hề là một người cha trong gia đình. Chúa Giêsu cũng chưa từng sống trong một xã hội thuộc xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, cuộc nhập thể làm người của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tiếp tục tái diễn trong lịch sử nhân loại. Lễ Giáng sinh không chỉ đến mỗi năm một lần, nhưng tiếp tục được cử hành trong từng giây phút của cuộc sống chúng ta.
Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Ngài được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh, là khi chúng ta để cho Lời của Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng ta. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta tiếp nhận ra ý nghĩa cuộc đời này cho dẫu chúng ta phải trãi qua biết bao nhiêu đắng cay, chua xót trong cuộc sống này. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quý của Thiên Chúa trong mỗi một người anh em của chúng ta. Và có lễ Giáng sinh, khi chúng ta làm một nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh đó không chỉ được cất hát lên mỗi năm một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng phút giây cuộc sống chúng ta.
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng tiếp tục nhập thể trong từng tâm tư, suy nghĩ, hành động và cư xử của chúng ta để mỗi người chúng ta bằng lời nói cũng như bằng chứng tá thinh lặng, chúng ta trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người.
34. Ngôi Lời đã trở nên người phàm--Ga 1,1-8--Niềm Vui Chia Sẻ
Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ tên Thad. Nhiều người ở Mỹ và Canađa đã góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi người ta chuyển đến “Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố” một bức thư đầy lỗi chính tả của em. Em viết như sau:
“Thưa Ông “dà” Noen, Giáng Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn…
Con muốn được lên “chời” để ở chung với các thiên thần. Ông mang con lên “chời” nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ làm cho bố mẹ con “xung xướng”. Xin Ông mang cho bố con một chỗ làm và ít thức ăn…
Con sẽ không ngủ đâu. Khi Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy tuần lộc… Con gởi lời chúc Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.
Ký tên: Thad.
Người ta vẫn chưa tìm ra em Thad y như rất nhiều người Do Thái đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm xưa. Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ trời lành, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo. Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên trong nhà, tự mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây thông đủ ánh đèn màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Những người giàu ấy sẽ phải khóc vì không nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa Hài Đồng.
Chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Quả thức, Thiên Chúa không phải chỉ làm người giả hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta. Để nhận ra điều đó, chúng ta hãy bước đến hang đá. Hẳn nhiên đó chỉ là biểu tượng. Nhưng là một biểu tượng nhắc nhớ một biến cố lịch sử duy nhất. Một cảnh sống nghèo nàn, thanh bạch đến thiếu tất cả, giữa một đêm tối không đèn, không đóm, nơi một góc trời không tên không tuổi. Hai người bạn trẻ, hai người lao động đơn sơ nằm nhờ trên đống rơm giữa những con vật hiền lành. Một hài nhi mới sinh trong một cuộc hành trình bất đắc dĩ. Nhưng Thiên Chúa đó! Thiên Chúa không yêu thương chúng ta từ trời cao. Ngài đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong da thịt Đức Giêsu Nazarét. Điều mà không ai có thể tưởng tượng ra, đó là Thiên Chúa liên đới trọn vẹn với số phận mạt kiếp của chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, như là một người nghèo nhất tại Bêlem trước khi trở thành người rốt hết trên thập giá. Giáng Sinh nhắc nhớ cuộc gặp gỡ thân tình có một không hai đó giữa Thiên Chúa và con người như một huyền nhiệm, như một trao đổi kỳ diệu.
Và như vậy, thưa anh chị em, chúng ta thấy Thiên Chúa “người” hơn chính chúng ta. Ngài ở dưới đất. Đừng đi tìm Ngài trên khung trời cao! Chúng ta là như vậy đó: Khi tình yêu quá lớn, nghĩa là quá khiêm tốn thì chúng ta lại không dám nhận ra, không dám chấp nhận. Chúng ta không chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức Ngài đến gặp chúng ta trong huyền nhiệm Nhập Thể của Ngài. Nhưng dù chúng ta có muốn hay không, thì từ nay Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của ngõ hẹp, của chuồng chiên bò, của hang đá, máng cỏ.
Và nếu Thiên Chúa đã tự hạ gần gũi như vậy, tầm thường như vậy, thì không có gì xảy ra trong đời thường của chúng ta lại ở ngoài ánh sáng thần linh của Thiên Chúa, “ánh sáng cho nhân loại, ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và ánh sáng ấy là sự sống”. Khi đất này đã được sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu bao trùm, thì đất này đã là túp lều của Con Thiên Chúa nhập thể. Mọi đóng góp cho đất này đã trở thành nơi ở, chẳng những ở được mà còn ở tốt cho Thiên Chúa và cho con cái loài người của Ngài, là một điều không ai được khước từ nếu không muốn phủ nhận niềm tin của mình và mầu nhiệm Giáng Sinh. Không có con người nào là con người bị loại ra ngoài tình yêu của chúng ta nếu chúng ta không muốn cho đức ái chỉ là chữ viết trên giấy. Không có cảnh đời nào là cảnh đời chúng ta phải chạy trốn, nếu chúng ta thật sự muốn sống lòng cậy trông của mình. Chúng ta thường đi gặp Chúa ở ngoài cuộc sống cụ thể, hằng ngày, trong khi Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong cuộc sống cụ thể hằng ngày đó.
Chính vì thế mà những người Mỹ, những người Canađa, những cảnh sát ở thành phố Los Angeles vẫn chưa tìm ra được em Thad khi họ nhận được bức thư em gởi cho ông già Noen. Bởi em Thad là hiện thân của bao nhiêu em bé và gia đình nghèo đói trên trái đất này, nơi Thiên Chúa đã làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta trong những gia đình, những em bé khốn khổ đó.
Anh chị em thân mến, tôi không tin là chúng ta có thể gặp được Chúa trong nhà thờ nếu đã không gặp cho được Ngài trong cuộc sống qua một khuôn mặt nào đó, như khuôn mặt của các em bé mồ côi, khuôn mặt của những ông già bà cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những con người ốm đau, bệnh tật, của những người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi, bị loại trừ, thiếu vắng tình thương… Bởi vì, đối với chúng ta, cụ thể mà nói, quê hương này là nơi Thiên Chúa làm người để anh em đồng bào chúng ta không phân biệt giai cấp, được làm con Chúa; là nơi Thiên Chúa hẹn gặp chúng ta; là nơi chúng ta phải gặp Ngài qua chứng từ về ánh sáng, để nhờ ánh sáng anh em đồng bào chúng ta sẽ nhìn thấy Ánh sáng của Tình thương, Ánh sáng của sự sống.
35. Ôn cố tri tân--Lễ Đêm 2013--Lm JP. Vũ Minh
Cuộc kiểm tra đầu tiên (Lc 2:1-3): Kinh Thánh Sử Gia Eusebius* (260-340) đã nhắc tới cuộc kiểm tra này, và còn nói thêm là người Do Thái thời đó cho rằng việc kiểm tra để bắt dân chúng đóng thuế không khác hơn là Đế Quốc La Mã ra lệnh kiểm tra để đánh thuế sẽ làm cho họ trở thành như những người nô lệ, và đây cũng là khởi điểm để người Do Thái vùng lên chống lại bạo quyền. Xã hội Hoa Kỳ cũng làm kiểm tra 10 năm một lần không phải vì để tìm người đóng thuế nhưng là để phân định lãnh thổ chính trị trong nước và theo tỷ số mà chọn những người đại diện cho dân làm dân biểu trong quốc hội, và di chuyển nguồn lợi từ thuế má để trang trải cho những phí khoản về y tế và trợ giúp người nghèo. Người trong xã hội tự do này tuy dù phải đóng thuế nhưng người ta không phản loạn vì họ nhận thấy việc đóng thuế là một điều đương nhiên trong khi đó ở xã hội cộng sản - như ở Việt Nam - người ta phải đóng thuế, nhưng tiền thuế đó dân không được hưởng; trái lại, những số tiền đó chỉ có làm giầu cho những người thu thuế và những người này cũng phải “chung tiền” lại cho cấp trên… do đó thuế má trong xã hội cộng sản không đem lại lợi ích gì cho công chúng.
Các mục đồng: Họ là những bần cố nông chỉ biết làm lụng để nuôi sống cho mình và gia đình họ; họ bị kềm chế mọi mặt nhất là về thuế má và không có cơ hội để vươn lên; họ là những người ngày đêm lái xe vận tải hay xe đò, những người chỉ biết làm thợ thuyền trong các công xưởng… họ không có tương lai, nhưng giờ đây họ được thiên thần loan tin là một vị cứu tinh sẽ đến để giải thoát họ trong cảnh lầm than này. Họ rất hoan hỷ khi nghe tin đó vì lý do tại sao nữa?
Thành của David (Lc 2:11): Vua Đavid, theo truyền thống, đã được sinh ra ở Be-Lem (nhà của bánh mì), là vị vua đầu tiên mà Thiên Chúa chọn - người tuy dù nhỏ bé nhưng đã đánh chết người lính thuộc dòng giống khổng lồ (David và Goliad) - để lãnh đạo và làm ổn định xã hội của dân Chúa nơi Đất Hứa. Nhà của bánh này cũng có nghĩa là “Bánh Hằng Sống bở trời” để nuôi sống trần gian (Ga 6:26-58)!
Bọc trong khăn vải sô (Lc 2:12): Vua Salomon là con của Vua Đavid đã viết trong Sách Khôn Ngoan rằng chính ông cũng đã được bọc trong khăn vải sô khi ông chào đời (KN 7:3-6); do đó, Vị Cứu Tinh mà thiên thần loan báo thuộc về dòng giõi David sẽ lên ngôi để cứu họ khỏi cảnh lầm than. Thêm vào đó, các mục đồng biết rằng những con chiên mà họ bán để làm con vật tế sinh sẽ phải là những con chiên không tỳ ố và họ thấy những con chiên lành mạnh tốt đẹp thì họ sẽ để riêng ra để chăm sóc thì sau đó họ mới bán dược nhiều tiền… những con chiên đo sẽ được họ gói bó thật kỹ trong những vải sô như Vua Solomon đã được gói trong đó (tấm - không mịn màng như cám - nhưng vẫn còn êm ấm chứ không như vải gai khó chịu)… Chúa Giêsu cũng đã được tẩm liệm khi chết bằng tấm vải sô… Các mục đồng nghe lời các thiên thần và hiểu ngay là đứa trẻ này sẽ là con chiên làm lễ tế sinh cho họ và họ thấy mừng vui cho số phận của mình. Số phận của bạn thế nào thì bạn đã biết… và trong cảnh trầm luân này, bạn có hy vọng gì thì hãy dâng lời nguyện xin để cho mọi ước vọng của bạn được toại nguyện, và biết thêm rằng: chúng ta chỉ biết cậy nhờ vào Thiên Chùa trong mọi sự mà thôi!
Nằm trong máng cỏ (Lc 2:12): Máng cỏ là chỗ để đồ ăn cho bò lừa và dê chiên. Tuy dù là nơi để nuôi thú vật, Đấng Cứu Tinh này nằm trong máng cỏ cũng là biểu tượng của ơn từ Trời để nuôi sống mọi loài trên trần gian; do đó, khi Chúa Giêsu nói: “Ta là Bánh Hằng Sống, là bánh ban phát từ trời…” (Ga 6:26-58), lời này mang ý nghĩa rất sâu đậm mà các mục tử là những kẻ tin đã hiểu ngay về tin vui này và họ đã tấp tốc đi tìm Đấng Cứu Tinh mà thiên thần đã báo cho họ. Xin bạn hãy cùng vui với tôi, và chúng ta đi tìm Chúa Giêsu Đấng cứu Tinh cho đời mình theo lời của thiên thần loan báo.
Nguyện xin lời của thiên thần và chứng nhân của các mục tử sẽ làm cho anh chị em vui mừng khi chúng ta đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh 2013!
36. Ánh Sáng đã đến thế gian--Lm. Anmai
Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài nhưng rồi tội lỗi đã làm cho tình yêu đó bị vụn vỡ. Thế nhưng, dù con người thế nào đi chăng nữa, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người.
Thuở đầu mới tạo dựng, ánh sáng, tình yêu của Thiên Chúa chan hòa và chiếu tỏa trên con người cách riêng nơi ông bà nguyên tổ Ađam - Eva. Điều đáng tiếc là hai ông bà đã không nhận ra hay nói một cách khác là khước từ tình yêu của Thiên Chúa. Từ giây phút hái trái cấm cũng chính là giây phút khước từ tình yêu Thiên Chúa. Khi, ấy bóng tối của tội lỗi đã bao trùm trần gian. Tội lỗi của hai ông bà không dừng lại ở nơi hai ông bà mà ngay chính con của hai ông bà cũng đã khước từ tình yêu Thiên Chúa bằng cách giết hại chính đứa em mình. Cain đã giết Aben cũng chỉ vì hờn ghen, cũng chỉ vì ganh tỵ.
Bóng tối của tội lỗi cứ lan tràn mặt đất. Nhưng, bên cạnh đó, lời hứa của Thiên Chúa chính là lời hứa cứu độ cũng được gởi đến ngay lúc hai ông bà phạm tội. Thiên Chúa đã phán với con rắn: "Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." (St 3, 14.15).
"Dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi". Dòng giống ấy được tiên báo đó chính là Đức Trinh Nữ Maria. Và, từ Mẹ, Đấng Cứu Độ trần gian được sinh ra như lời đã hứa.
Giữa đêm tối của tội lỗi, giữa bóng tối của kiêu căng có một luồng sáng mới chiếu tỏa, có ơn cứu độ xuất hiện. Ánh sáng, ơn cứu độ đó được Isaia nói trong trang sách hôm nay:
Dân đang lần bước giữa tối tăm
đã thấy một ánh sáng huy hoàng;
đám người sống trong vùng bóng tối,
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ,
đã tăng thêm nỗi vui mừng.
Họ mừng vui trước nhan Ngài
như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt,
như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.
Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ,
và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy
như trong ngày chiến thắng quân Mađian. (Is 9, 1-3)
Và, Isaia cũng loan báo:
Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó".
Thế đấy! Cũng chính vì yêu thương, Đức Chúa sẽ thực hiện điều đó cho dân.
Lời hứa cứu độ mà Đức Chúa hứa ở vườn Địa Đàng, lời hứa mà Đức Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia loan báo đó được thực hiện vào thời Đức Trinh Nữ Maria.
Thánh sử Luca ghi lại thời gian, không gian rất rõ ràng: "Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giu-se từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ". (Lc 2, 1-7).
Hôm nay muôn dân đã được thấy Ánh Sáng của Thiên Chúa. Ánh Sáng của Thiên Chúa không như ánh sáng của thế gian. Ánh Sáng của Thiên Chúa đến nhưng rồi ta lại bắt gặp những con người hết sức đơn sơ nghèo hèn đến gặp Ánh Sáng chính là những mục đồng. Những mục đồng chăn chiên, chúng ta biết rằng cuộc sống và đời của họ như thế nào. Nay đây mai đó, chẳng có gì là ổn định, chẳng có gì là bảo đảm cho cuộc sống của họ cả và rồi nghe tiếng của thiên thần, họ đã đến và tìm gặp Ánh Sáng của Thiên Chúa.
Ánh Sáng của Thiên Chúa đã đến trần gian này hơn hai ngàn năm rồi nhưng Ánh sáng đó vẫn bị khước từ như những chủ quán trọ ngày xưa, như những người Biệt Phái và Luật Sĩ ngày xưa. Họ là những người giữ đạo rất tốt và họ cũng đang mong chờ Đấng Mêsia đến với đời họ nhưng rồi họ không tìm gặp được Đấng mà họ mong đợi bởi lẽ suy nghĩ của họ khác, cái nhìn của họ khác và cung cách sống của họ khác.
Những mục đồng đơn sơ nghèo hèn đã đến và đã thờ lạy Ánh Sáng. Không chỉ dừng ở chỗ đến thờ lạy mà các mục đồng cũng đã đi loan báo tin vui Đấng Cứu Độ đã đến trần gian. Lời loan báo cứu độ có đó nhưng rồi mấy ai đón nhận lời đó.
Thánh Gioan đã nhắc nhớ sự khước từ của lòng người:
Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người.
Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. (Ga 1, 9-12)
Ai tin và đón nhận Ánh Sáng vào trong đời mình sẽ được trở nên con Thiên Chúa
Khi Ánh Sáng xuống trần gian, ta thấy muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương." Thiên Chúa đã gửi Ánh Sáng xuống trần gian để mang ơn cứu độ đến cho muôn người rồi nhưng liệu rằng người ta có đón nhận Ánh Sáng đó hay không mà thôi.
Mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh không phải là mừng một biến cố, mừng một kỷ niệm để rồi tổ chức lễ nghi linh đình và tiệc tùng hoành tráng. Mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh để nhắc nhớ ta rằng Ánh Sáng đã đến thế gian thật rồi. Hãy mở lòng ra đón nhận Ánh Sáng đó vào trong cuộc đời chúng ta.
Tâm tình Thánh Phaolô trong thư gửi cho Titô thật hay: Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này
Để mừng Đại Lễ Giáng Sinh thật ý nghĩa, chắc có lẽ chúng ta cũng phải nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày bớt đi lòng đam mê trần tục, sống chừng mực và công chính. Chỉ có như thế Ân Sủng của Ánh Sáng mà Thiên Chúa trao ban mới có thể đến và ở lại trong cuộc đời của ta được.
37. Ba quả táo--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
LỄ GIÁNG SINH
Một bạn giáo lý viên mới mua điện thoại iphone, đến khoe và hỏi tôi: tại sao quả táo trên iphone bị khuyết mất một góc? Tôi lên google tìm câu trả lời và thú vị biết thêm mấy quả táo đặc biệt nữa.
Trong lịch sử nhân loại có ba quả táo nổi tiếng liên quan đến đời sống con người. Đó là quả táo của bà Evà trong trình thuật sách Sáng thế, quả táo của Newton trong định luật vạn vật hấp dẫn và quả táo của hãng Apple qua ứng dụng ipad iphone không ngừng cải tiến.
1. Quả táo Newton
Isaac Newton (1642-1727) là nhà vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là "người sáng lập ra vật lý học cổ điển". Ông đã khám phá ra "Nguyên lý vạn vật hấp dẫn". Đây là nguyên lý cơ sở cho những phát minh vật lý học, cơ học, thiên văn học trong nhiều thế kỷ.
Vào một ngày mùa thu, Newton ngồi trên chiếc ghế trong vườn hoa đọc sách, bỗng nhiên một quả táo từ cây rơi xuống "bịch" một tiếng trúng đầu Newton. Ông xoa đầu, nhìn quả táo chín lăn xuống vũng bùn. Quả táo đã cho ông một gợi ý làm ông nghĩ miên man.Quả táo chín rồi, tại sao lại rơi xuống đất? Tại vì gió thổi chăng? Không phải, khoảng không rộng mênh mông, tại sao lại phải rơi xuống mà không bay lên trời chứ? Như vậy trái đất có cái gì hút nó sao? Mọi vật trên trái đất đều có sức nặng, hòn đá đã ném đi rốt cuộc lại rơi xuống đất, trọng lượng của mọi vật có phải là kết quả của lực hút trái đất không?
Sau này Newton nêu ra: mọi vật trên trái đất đều chịu sức hút của trái đất, mặt trăng cũng chịu sức hút của trái đất, đồng thời trái đất cũng chịu sức hút của mặt trăng; trái đất chịu sức hút của mặt trời, mặt trời đồng thời cũng chịu sức hút của trái đất. Nói một cách khác là vạn vật trong vũ trụ đều có lực hấp dẫn lẫn nhau. Vì có loại lực hấp dẫn này mà mặt trăng mới quay quanh trái đất, trái đất mới quay quanh mặt trời.
Chuyện quả táo rơi xuống đất chứng tỏ trái đất có lực hút quả táo, đương nhiên quả táo cũng có lực hút của trái đất, nhưng lực hút của trái đất đối với quả táo lớn nên quả táo rơi xuống đất. Nếu ta coi mặt trăng là một quả táo khổng lồ, như vậy trái đất cũng có lực hút nó, vậy tại sao nó không rơi xuống mặt đất? Vì mặt trăng là một quả táo lớn, sức hút của trái đất đối với nó không đủ để làm nó rơi xuống đất, chỉ có thể làm nó quay quanh trái đất mà thôi. Đối với mặt trời thì trái đất cũng là một quả táo khổng lồ, nó quay quanh mặt trời.
Vào buổi tối khi nhìn lên bầu trời thấy vô vàn những vì sao đang nhấp nháy, giữa chúng đều có lực hút lẫn nhau. Đây chính là định luật "Vạn vật hấp dẫn" nổi tiếng của Newton.
2. Quả táo Steve Jobs
Apple Inc là tập đoàn công nghệ máy tính của Hoa Kỳ.Theo số liệu khảo sát đầu năm 2013 của IDC, Apple đã trở thành hãng điện thoại lớn thứ nhất thế giới, đứng trước Nokia và Samsung. Hàng của Apple nổi tiếng là đẹp, vừa toát lên vẻ hiện đại, kỹ nghệ cao, vừa tiện dụng. Logo đầu tiên của hãng do Steve and Wayne thiết kế năm 1976 vẽ hình nhà vật lý Isaac Newton ngồi dưới gốc cây táo và có dòng chữ Apple Computer Co quấn quanh.Sau đó, logo đã được thay đổi bởi nhà thiết kế Rob Janoff với một quả táo màu cầu vồng (vì nó có nhiều màu sắc) và bị cắn một bên phải được cho là để kỷ niệm sự kiện khám phá lực hút trái đất và sự tán sắc ánh sáng của Isaac Newton.Qua vài năm, logo Apple xuất hiện với nhiều màu sắc khác nhau và đến giờ thì chỉ sử dụng màu trắng hoặc màu crôm bạc.Theo quan niệm của người phương Tây thì táo tượng trưng cho sức mạnh, sự khám phá và cái đẹp cao quý.Còn về chi tiết quả táo bị cắn mất một miếng phía bên phải cũng có một cách lý giải khác là xuất phát từ một quả táo nguyên vẹn, nhưng Steve Jobs cho là Apple chưa thực sự hoàn hảo, và ông luôn muốn đi tìm kiếm sự hoàn hảo, coi như là một thông điệp để nhắc nhở các nhân viên phải luôn sáng tạo.
3. Quả táo Evà
Sách Sáng Thế kể về công trình sáng tạo tốt đẹp, vũ trụ chào đời, mùa xuân về theo gió, nắng phủ cho rừng lá xanh, muôn hoa xinh tươi vẫy gọi. Thiên Chúa chúc lành trao quyền làm chủ muôn loài cho Nguyên Tổ với một điều kiện duy nhất là phải tuân phục: “Mọi cây trong vườn ngươi đều được ăn. Nhưng cây ‘sự biết tốt xấu’ ngươi không được ăn, vì chưng ngày nào ngươi ăn nó, tất ngươi phải chết” (St 2,16-17).
Ađam, Evà phơi phới trong hạnh phúc mùa xuân địa đàng.Thế rồi một hôm, Evà đi dạo một mình trong vườn Eđen, ngang qua cây biết lành biết dữ. Không may gặp phải Satan quyến rũ. Lời Satan đường mật: Evà, Evà ơi, cô có muốn giữ mãi nhan sắc tuyệt vời này không? hay cô có muốn bằng Đức Chúa Trời không? Evà phản kháng: không dám đâu, không dám đâu, đừng dụ dỗ tôi, Thiên Chúa đã dặn kỹ lắm rồi. Sau một hồi đôi co lý sự, con rắn ngọt ngào: “Chẳng chết chóc gì đâu, Thiên Chúa biết ngày nào người hái quả táo ấy mà ăn mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu” (St 3, 4-5).Người thiếu nữ thấy giấc mơ đẹp như màu hồng của quả táo “nhìn thì đã thấy sướng mắt” (St 3,6). Nàng đã hái. Nàng đã ăn. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
Còn Ađam thì sao? Một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tiếng lương tâm và lời nài nỉ của người yêu: ăn đi anh, ăn đi, đây là cơ hội ngàn vàng, cơ hội chúng ta bằng Đức Chúa Trời đó anh; Ađam đừng ăn, nếu ăn sẽ vi phạm luật Chúa truyền, đừng, xin đừng…“Và ông đã ăn” (St 3,6). Lời Thánh Kinh ngắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược đến sa ngã của Ađam trước cám dỗ quá ư dịu ngọt. Thôi rồi, xong hết cả rồi, còn đâu địa đàng, còn đâu ân nghĩa Thiên Chúa dành cho ngươi, Ađam ơi!
Nguyên Tổ cắn vào quả táo “Mắt họ liền mở ra và họ thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân” (St 3,7). Kể từ đó Địa Đàng đóng ngõ cài then. Xuân Địa Đàng đã thành mùa đông ảm đạm cho trần thế. Kinh Thánh viết về một nổi đớn đau làm sao: “Những gai cùng góc nó sẽ mọc lên cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ lả ngoài đồng nội. Mồ hôi đẫm mặt, ngươi mới có bánh ăn cho đến lúc ngươi về lại với bụi đất” (St 3,18-19).
4. Giáng sinh đất trời giao duyên
Trong ba quả táo đó thì quả táo của bà Evà có tầm vóc và mức độ ảnh hưởng sâu rộng hơn cả, không chỉ ghi dấu trên một thế hệ mà còn “gây hậu quả nghiêm trọng” đến sự tồn vong của cả nhân loại gọi là “Tội Tổ Tông”.
Nhưng cũng từ ngày quả táo Eva nhiễm nộc độc Satan, nhân loại lại được nghe vang lên lời hứa của Thiên Chúa: một người thuộc dòng giống người nữ sẽ đến giải cứu “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó" (St 3,15). Một người trong dòng giống người nữ, đó là Đấng Cứu Thế (Gl 4,4). Người nữ ấy chính là Đức Maria (Lc 1,30-33). Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới quyền lực sự dữ.Người hứa sẽ thực hiện cứu độ con người và nhân loại. Niềm tin đó đi liền với niềm hy vọng. Nên từ đó, lời kinh cầu luôn vang vọng qua các thế hệ: “Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng Chuộc Tội. Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời”.
Thiên Chúa đã nghe tiếng vọng cầu kinh. Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người để cứu rỗi nhân loại. Con Thiên Chúa vào đời nối lại tình người với tình thánh, làm nhịp cầu liên kết con người với Thiên Chúa và nối kết con người với nhau. Bởi vậy, Mầu nhiệm Nhập Thể chính là Mầu nhiệm Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban chính Con Một của mình đến trần gian làm người để cứu nhân loại khỏi tội lỗi, để đem ơn bình an cho con người.Thánh Luca ghi lại dấu chỉ để nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa, đó là “một Hài Nhi bọc tã, nằm trong máng cỏ”.
Trong đêm Đấng Cứu Thế Giáng Sinh, Sứ thần loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa“ (Lc 2, 11). Khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Dấu chỉ quá bình thường, chẳng có gì đặc biệt.
Mẹ Maria và Thánh Giuse vất vả một hành trình xa xôi từ Nadarét về Bêlem để kê khai nhân hộ khẩu.Các quán trọ khinh người nghèo hất hủi. Hài Nhi Giêsu chào đời nơi đồng hoang giá lạnh. Chẳng có ai thân thích. Chỉ có các mục đồng và bò lừa sưởi ấm.
Chẳng có gì kỳ diệu, không có gì ngoại thường, không có gì huy hoàng được trưng dẫn như một dấu chỉ cho những mục đồng.Tất cả những gì họ thấy chỉ là một Hài Nhi bọc tã, một hài nhi như bao hài nhi khác, cần sự chăm sóc của người mẹ; một Hài Nhi sinh ra trong chuồng súc vật, và như thế, không nằm trong nôi nhưng là trong máng cỏ. Dấu chỉ của Thiên Chúa là một hài nhi cần sự trợ giúp và đang sống trong nghèo khó. Chỉ bằng con tim, những mục đồng mới có thể thấy nơi Hài Nhi này sự viên mãn lời hứa của tiên tri Isaia: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9,5).
Dấu chỉ của Thiên Chúa thật là đơn sơ. Đó là một Hài Nhi mới sinh. Dấu chỉ của Thiên Chúa là Ngài trở nên bé nhỏ vì chúng ta. Ngài không đến với quyền lực và một bề ngoài xa hoa. Ngài đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngài không muốn choáng ngợp chúng ta với sức mạnh của Ngài. Vì thế, Ngài đã hóa chính mình thành nhỏ bé. Ngài không muốn điều gì khác nơi chúng ta ngoại trừ tình yêu, qua đó chúng ta phải học biết cách tiếp cận với cảm giác, tư duy và ý chí của Ngài. Chúng ta học biết sống với Ngài và thực hành với Ngài sự khiêm hạ từ bỏ mình là điều tinh túy nhất của tình yêu. Ngài đã hóa thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu Ngài, chào đón Ngài, và yêu thương Ngài.
Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Hài Nhi Giêsu ra đời trong cảnh nghèo hèn chính là một vị Thiên sai. Ngài đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía.
Thiên Chúa làm người trong thân phận một bé thơ yếu ớt nhưng chất chứa một tình yêu lớn lao. Một trẻ thơ sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang đá bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn. Dưới con mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những trẻ thơ khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi Giêsu là một niềm vui cao cả, trọng đại, đặc biệt. Một niềm vui khởi điểm cho mọi niềm vui và vượt lên trên mọi niềm vui.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại. Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang…. Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi nhà thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn màu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14)
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau.Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau. Dấu chỉ của tình yêu nằm nơi sự đơn sơ của tấm khăn bọc Hài Nhi, đó là sự chân tình không lừa lọc giả dối.Dấu chỉ của tình yêu ở nơi sự nghèo hèn của máng cỏ, đó là sự phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa không cậy dựa vào vật chất thế gian.
Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng ban cho mỗi người chan chứa ân sủng và bình an của Tình Yêu Thiên Chúa.
38. Tại sao Thiên Chúa xuống thế làm người?--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh Phanxicô Assissi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự hỏi: tại sao Thiên Chúa quyền năng lại trở nên một em bé thấp hèn? Tại sao Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong hang lừa nghèo khó? Từ đó, ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập lòng yêu mến và không thể kiềm chế cảm xúc, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: “Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng”.Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thốt lên lời thán phục: “Thiên Chúa quá cao cả đến nỗi Người có thể trở nên bé nhỏ, quá toàn năng đến nỗi có thể trở nên yếu kém và để gặp gỡ ta như một đứa trẻ không có bảo vệ để ta có thể yêu mến Người”.
Tất cả ý nghĩa của lễ Giáng Sinh đều xoay quanh một đứa trẻ. Hài Nhi ấy là Thiên Chúa đã thật sự làm người, đã thật sự sinh ra trong hình hài một đứa trẻ, với cha mẹ là Giuse và Maria.Và đó là Tin Mừng mà thiên sứ đã trao cho những người chăn chiên: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,10-11). Tin Mừng sứ thần loan báo cho các mục đồng tại làng Bêlem năm xưa thực sự là Tin Mừng cho nhân loại mọi nơi và mọi thời.
Thiên Chúa siêu việt đã trở thành một con người.Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy đã hiện thân nơi một đứa trẻ bé bỏng mong manh, bọc tã, nằm trong máng cỏ.
Tại sao Thiên Chúa xuống thế làm người?
Kinh Tin Kính Công đồng Nixêa (năm 325) đã trả lời: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.
Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo đã đưa ra 4 lý do: là để cứu độ chúng ta, là để giúp chúng ta nhận ra tình thương của Chúa, là để trở thành mẫu mực thánh thiện cho chúng ta và là để chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (GLCG số 457-460).
1. Thiên Chúa sinh xuống làm người là để cứu độ loài người.
Các thiên thần báo tin cho các mục đồng tại Bêlem: “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, cũng là tin mừng cho cả toàn dân: hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi trong thành vua Đavít” (Lc 2,10-11). Thánh Gioan tông đồ viết: “Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng Cứu Độ thế gian” (1Ga 4,14).
Từ nay,Thiên Chúa không còn đến với con người qua trung gian mà là Con Một được tặng ban cho nhân loại. Tình yêu Thiên Chúa không chỉ là lời hứa mà bằng chính nghĩa cử cao đẹp Ngôi Lời nhập thể. Từ nay, lời hứa cứu độ đã được thực hiện nơi Một Hài Nhi đã sinh ra. Lời hứa ngọt ngào từ thưở địa đàng khi Nguyên Tổ sa ngã đánh rơi khỏi tầm tay trái táo hạnh phúc (St 3,15). Rồi trải qua hàng ngàn năm bằng sự loan báo của các Ngôn sứ, Thiên Chúa vẫn mãi lời hứa tình yêu cứu độ.
Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.
2. Thiên Chúa sinh xuống làm người để giúp con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa.
Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8).Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai thấy được và do đó con người cũng khó nhận ra tình yêu của Người. Vì thế thánh Gioan viết tiếp: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9).
Nếu tội tổ tông gây tác hại là làm mất tình trạng ơn phúc và để cho tội lỗi lẻn vào thế giới, từ đó đau khổ và sự chết mặc sức hoành hành. Hài Nhi Giêsu sinh đến trong xác phàm lại là khởi đầu một mùa giải thoát. Hết rồi đêm tối vì Hài Nhi là ánh sáng. Hết rồi lỗi tội vì Hài Nhi là thánh ân. Hết rồi chết chóc vì Hài Nhi là nguồn sống. Hết rồi sầu muộn vì Hài Nhi là thiên đàng. Như vậy, khi xuống thế, Thiên Chúa đã đem thiên đàng vào cõi trần gian, để mối tình trời đất bị cắt đứt bao đời lại được kết nối một cách mầu nhiệm cho vinh danh trời cao và cho an bình dưới thế.
Tình yêu Thiên Chúa được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha (Ga 14,10). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.
Trong ba năm rao giảng công khai, Ngài đã luôn gần gũi với những người nghèo hèn trong xã hội, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền của họ và ưu tiên rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho những người bé nhỏ, những người bị bỏ rơi.Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Điều đó, sự khôn ngoan của bậc hiền triết không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì nó có lý lẽ riêng của nó. Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm sợ hải. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng Nadarét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các môn đệ, rồi chọn cây thập giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Giakêu để tạm trú, chọn người thiếu phụ Samari để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Mađalêna, đã chọn kẻ trộm lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phaolô kẻ bắt bớ Giáo hội làm Tông Đồ Dân Ngoại…Ngài chính là Thiên Chúa yêu thương.
3. Thiên Chúa sinh xuống làm người để trở thành mẫu mực thánh thiện cho con người.
“Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri” (Ga 1,18). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa “Ai thấy Thầy là thấy Cha“. Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha nhân hậu giàu lòng xót thương.
Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chúa Giêsu đã dạy con người phải sống thánh thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Chúa Giêsu, một con người thánh thiện không có một dấu vết tội lỗi nào. Chính Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống đã làm người, giống chúng ta mọi phần, chỉ trừ tội lỗi. (Dt 4,15). Ngài dạy cho nhân loại con đường thánh thiện, và nêu gương thánh thiện. Vì thế, Ngài đã có thể nói: “Hãy học cùng tôi” (Mt 11,29). Khuôn mẫu thánh thiện mà Ngài để lại cho chúng ta được biểu lộ một cách rõ ràng qua tình yêu của Ngài đối với chúng ta, vì tình yêu là cốt lõi của lề luật. Vì thế Ngài dạy rằng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Nơi Thiên Chúa, tình yêu và sự thánh thiện là một, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu và đồng thời cũng là Đấng Thánh.
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11,3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu.
4. Thiên Chúa sinh xuống làm người để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
Thánh Irénée đã nói về Đức Kitô rằng: “Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở thành như Người”. Đó không phải là một sự thần hóa thật sự và trọn vẹn trong Con Thiên Chúa nhập thể sao? Về sau, Clément (Alexandrie) và Grégoire (Naziance) đã làm biến đổi suy tư ấy một cách sâu xa khi quả quyết: “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. Nhà thần học Karl Rahner viết: “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”, để con người trở thành con Thiên Chúa, với món quà tuyệt vời: “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa…” ( 2Pr 1,4).
Trước Máng Cỏ Bêlem, thật ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện. Thiên Chúa tỏ bày tình thương bằng cách trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại.Thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Ngôi Lời làm người mang lấy bản tính nhân loại và làm cho bản tính ấy được thông phần bản tính Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa, Ngài đã tự nguyện sinh ra làm con loài người để loài người trở thành con Thiên Chúa nhờ kết hợp với Ngài. Từ khi xuống thế làm người, Con Thiên Chúa đã tự đồng hóa mình với mỗi người trong nhân loại. Từ đây, phẩm giá của con người được nhìn nhận không chỉ vì họ là con người vượt trên mọi loài, nhưng còn vì họ là con Thiên Chúa.
Tin Mừng Giáng Sinh nâng cao phẩm giá con người ngay từ khi được cưu mang trong dạ mẹ và vừa mới sinh ra. Chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta sẽ học được nhiều bài học về Sự Thật, Tự Do, Công Lý, Hoà Bình và Tình Thương. Hài Nhi Giêsu đã mở ra triều đại của Công Lý Tình Thương trên “nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,5-6). Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại.
Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang… Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi Nhà Thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn mầu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời.
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương’’
Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau.
39. Chúa tìm gì nơi ta?--Lc 2, 1-14--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thánh Gioan đã nói: "Thiên Chúa yêu thế gian đã tặng ban Con Một của Ngài cho thế gian". Người Con của Lời hứa. Người Con mà cả dọc dài lịch sử dân thánh luôn khắc khoải mong chờ. Ngài chính là Thái Tử Bình An. Ngài đến để ban bình an xuống cho nhân trần như lời các thiên thần ca hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người lòng ngay".
Vâng thưa anh chị em, món quà mà nhân loại luôn khao khát mong chờ không phải là cơm áo gạo tiền mà là niềm vui của bình an hoan lạc. Có tiền mà sống trong loạn lạc, có lẽ cũng chẳng có bụng dạ nào để no say hưởng thụ. Có tiền mà không có lương tâm an bình có lẽ cũng chẳng có niềm vui và hạnh phúc từ trong sâu thẳm tâm hồn.
Cách đây hơn 20 năm vào mùa Giáng sinh năm 1989, trong cuộc họp thượng đỉnh tại đảo Malta, Tổng thống Bush cha đã tặng chủ tịch Gorbachov của liên bang Xô Viết một viên gạch. Viên gạch này mà một thời nó đã góp phần làm nên một bức tường "ô nhục Bá Linh". Một bức tường ngăn cách tình người. Tình người trong một đất nước, một dân tộc. Một sự ngăn cách tưởng chừng như vô bờ, thế mà hôm nay bức tường này đã được đập bỏ. Tổng thống Bush tặng viên gạch này như dấu chỉ một khao khát hoà bình. Một khao khát sống liên đới thuận hoà để con người cùng nhau xây dựng một thế giới an bình và thịnh vượng.
Thiên Chúa cũng đã tặng ban cho chúng ta không phải là một viên gạch vô tri, vô giác mà là chính Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người. Ngài đã mang lấy thân phận con người để đưa con người trở về với Thiên Chúa. Con người là hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải sống đúng với phẩm giá làm người của mình. Ngài đến để ban bình an, nhưng Ngài cũng đòi con người hợp tác để bình an của Chúa được trải rộng khắp muôn nơi. Dấu chỉ của sự hợp tác tích cực mà Chúa muốn con người là: hãy tặng lại cho Ngài chính hình ảnh trong sáng, ngay thẳng, đầy yêu thương mà Ngài đã tạo dựng con người ngay từ ban đầu.
Trong kỳ họp Apec tổ chức tại Việt Nam, các thành viên đều nhận được một món quà là chính hình ảnh của mình được các nghệ nhân Việt Nam điêu khắc trên đá. Có lẽ đó là món quà qúy giá mà các nguyên thủ các quốc gia đã nhận được từ các nghệ nhân Việt Nam. Họ đã đến Việt Nam và họ đã nhận lại được hình ảnh của họ từ những con người rất hiếu khách của dân tộc Việt Nam. Một dân tộc luôn ưa chuộng hoà bình, luôn lấy "dĩ hoà vi qúy" làm nền tảng cho mọi giao tiếp hằng ngày. Một dân tộc luôn đề cao tình làng nghĩa xóm đến mức độ "tối lửa tắt đèn có nhau", để rổi sống liên đới chia sẻ với nhau trong tình thần "chị ngã em nâng" và "lá lành đúm lá rách". Nhất là luôn sống tha thứ cho nhau để có được một cuộc sống vui tươi an bình, vì "một điều nhịn chín điều lành". Đó cũng là những hình ảnh rất đẹp mà các nguyên thủ các quốc gia đến họp hội nghị Apec đã thấy nơi nền văn hoá Việt Nam. Thế nhưng, thử hỏi lại lòng mình, chúng ta đã thực sự sống điều đó để giữ mãi bản sắc tươi đẹp của văn hoá dân tộc Việt Nam? Với bốn ngàn năm văn hiến, chúng ta đã thực sự sống những nét cao đẹp của văn hoá Việt Nam mà cha ông đã để lại cho chúng ta hay chưa? Hay chúng ta đang quên dần, và cố đuổi theo những trào lưu hưởng thụ, thoái hoá đạo đức, băng hoại luân lý và xa rời tình người?
Với tư cách là người kytô hữu, là những con người luôn ý thức mình mang hình ảnh Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta còn giữ sự tinh tuyền của Ngài nơi tâm hồn chúng ta hay không? Hay hình ảnh của Ngài đã bị hoen ố bởi thói hư tật xấu của chúng ta? Có lẽ trong giờ phút này, Thiên Chúa cũng đang cần chúng ta tặng lại cho Ngài hình ảnh tinh tuyền ban đầu của tạo dựng. Một hình ảnh trong sáng không bỉ hoen ố bởi đam mê nhục dục, bởi tham vọng thống trị anh em và tham lam vô độ. Một hình ảnh chân thật không quanh co, giả dối đến nham hiểm hại người hại đời. Một hình ảnh đầy tình yêu không bị những toan tính trục lợi, những bất công lừa đảo, và lỗi công bình bác ái với anh em. Tất cả những cách sống sai lệch với hình ảnh ban đầu của tạo dựng, đã làm mờ nhạt đi hình ảnh của Thiên Chúa nơi cuộc sống thường nhật của chúng ta. Và là bức tường ngăn trở cho nước Chúa trị đến, cho an bình của Chúa trải rộng khắp muôn nơi.
Mỗi người chúng ta được mời gọi sống thánh giữa đời, được cụ thể qua việc tuân giữ hai giới răn quan trọng nhất đó là Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự nghĩa là phải để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc sống. Đừng vì những đam mê danh lợi thú mà quên đi giá trị đích thực của phẩm giá con người là hình ảnh của Chúa. Con người được gọi là "nhân linh ư vạn vật", nghĩa là con người hơn muôn loài vật. Không loài nào sánh bằng con người. Không loài nào xứng đáng để con người tôn thờ. Do vậy, chỉ có Thiên Chúa mới đáng cho chúng ta tôn thờ. Tiền bạc, địa vị, sắc dục chỉ là thọ tạo thấp bé và rất tầm thường so với con người. Vì thế đừng vì nó mà bỏ quên Chúa. Đừng vì nó mà xúc phạm đến anh em. Đồng thời, mến Chúa phải yêu mến anh em. Yêu mến không chỉ trên đầu môi chóp lữơi, nhưng bằng những hành động cụ thể: đó là kính trọng anh em, là sống công bình bác ái với anh em, và đỉnh cao của tình yêu là sự dấn thân phục vụ anh em trong khiêm tốn và chân thành.
Lạy Chúa, Chúa đã sinh ra trong thân phận con người. Chúa đã tự đồng hoá mình với những người khổ đau. Xin cho chúng con luôn nhận ra Chúa trong anh em để chúng con luôn đối xử với nhau trong công bình, bác ái, trong kính trọng và yêu thương. Xin giúp chúng con luôn biết gìn giữ hình ảnh tinh tuyền của Chúa nơi chúng con. Xin gìn giữ linh hồn chúng con khỏi những đam mê bất chính làm hoen mờ hình ảnh Chúa nơi chúng con. Amen.
40. Lòng nhân ái thực sự--Lc 2, 1-14--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một bà mẹ kể rằng: Một cơn bão vừa tàn phá thị trấn nhỏ gần thành phố của chúng tôi làm nhiều gia đình phải sống trong cảnh khốn khó. Tất cả các tờ báo địa phương đều đăng hình ảnh và những câu chuyện thương tâm về một số gia đình mất mát nhiều nhất. Có một bức ảnh làm tôi xúc động. Một phụ nữ trẻ đứng trước ngôi nhà đổ nát của mình, gương mặt hằn sâu nỗi đau đớn. Đứng cạnh bà là một cậu bé chừng 7 hay 8 tuổi, mắt nhìn xuống. Đứa con gái nhỏ bám chặt quần mẹ, nhìn chằm chặp vào máy ảnh, mắt mở to vẻ bối rối và sợ hãi. Bài báo đi kèm cùng kêu gọi mọi người giúp đỡ những người trong gia đình đó. Tôi nhận thấy đây sẽ là một cơ hội tốt để dạy các con mình giúp đỡ những người kém may mắn hơn.
Tôi đưa tấm ảnh gia đình đó cho các con tôi xem, giải thích nỗi khổ của họ cho hai đứa con trai sinh đôi 7 tuổi và đứa con gái 3 tuổi. Tôi bảo chúng: "Chúng ta có quá nhiều trong khi những người này bây giờ không còn gì cả. Chúng ta hãy chia sẻ với họ những gì mình có". Tôi và hai con trai chất vào thùng cứu trợ nào đồ hộp và xà bông, mì gói... Tôi cũng khuyến khích chúng chọn ra một số đồ chơi mà chúng không chơi nữa. Đứng nhìn hai anh sắp xếp mọi thứ, con gái tôi có vẻ nghĩ ngợi. Tôi nói với con: "Mẹ sẽ giúp con tìm một thứ gì đó cho em bé trong ảnh".
Trong lúc hai anh mình đặt những món đồ chơi cũ chúng đã chọn vào thùng, con gái tôi đi vào, tay ôm chặt con búp bê cũ kỹ nhạt màu, tóc rối bù, nhưng là món đồ chơi nó yêu thích nhất. Nó ôm hôn con búp bê lần chót trước khi bỏ vào thùng. Tôi nói: "Con không cần phải cho nó, con thương nó lắm mà".
Con gái tôi gật đầu nghiêm trang: "Nó đem lại niềm vui cho con mẹ ạ, có lẽ nó cũng sẽ đem lại niềm vui cho bạn kia".
Khi bạn tặng hoa, bạn sẽ chọn một hông hoa đẹp nhất để tặng. Khi bạn chọn một tặng vật, bạn cũng gởi gắm một sứ điệp nào đó qua món quà. Người ta nói: "Vượt lên trên món quà là cả một tấm lòng". Quà tặng không dựa trên giá trị vật chất nhưng quan trọng ở tấm lòng người tặng. Thế nhưng, con người chúng ta thường dễ dàng đem cho những thứ mình bỏ đi, ít ai dám đem tặng những cái mình yêu thích nhất. Điều đó chưa hẳn phát xuất từ tấm lòng nhạy cảm trước nhu cầu tha nhân, mà thường là việc làm chiếu lệ cho qua. Lòng nhân ái thực sự là đem cho những gì mình yêu quý nhất. Sự chia sẻ chân thành là lòng mong muốn người khác cũng được vui tươi, được hạnh phúc như chính mình. Đó mới thực sự là nghĩa cử cao đẹp của người có tấm lòng quảng đại, vị tha.
Thiên Chúa cũng dành một món quà vô cùng quý giá cho con người, chính là cho Con Một Ngài giáng trần. Ngài là Emmanuel ở giữa nhân loại. Ngài là niềm vui cho những mảnh đời bất hạnh lầm than. Qua Ngôi Lời giáng thế, Thiên Chúa đã đi sâu vào kiếp người chúng ta. Thiên Chúa có thể chia sẻ buồn vui trong kiếp người chúng ta. Thiên Chúa có thể lau khô những giọt nước mắt lầm than cho những người nghèo khổ, cho những kẻ tật nguyền. Vâng, Chúa đã làm người nên Ngài có thể hiểu được nhu cầu của con người. Ngài có thể thông chia những vui buồn cùng con người. Chính Ngài đã đi cùng con người qua những thăng trầm của đời người. Chính Ngài cũng muốn nếm cảm sự mỏng dòn của kiếp người vô thường: sinh - bệnh - lão - tử. Chính Ngài đã đi đến tột cùng của hiến dâng là dám chết cho người mình yêu.
Như vậy, sứ điệp của giáng sinh là trao ban, là chia sẻ, là bác ái cảm thông. Chúa giáng sinh là món quà quý báu mà Thiên Chúa Cha đã tặng ban cho trần gian. Đồng thời, khi chiêm ngắm Ngôi Hai Thiên Chúa trong hình hài một hài nhi yếu đuối, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy dành cho Ngài một chút chia sẻ tình thương. Ngài cũng cần chúng ta thi thố tình thương cho Ngài. Ngài đã sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã và đang thiếu thốn tư bề. Ngài đang cần chúng ta làm điều gì đó cho Ngài. Như các mục đồng năm xưa đã dâng cho Hài Nhi Giêsu những con lừa, con bò, những cọng rơm để sưởi ấm cho Chúa. Hôm nay, Chúa cũng đang đồng hoá mình trong thân phận những con người lầm than, cơ hàn. Ngài đang cần chúng ta chia sẻ một chút tình người, một chút lòng bác ái, một chút tinh thần dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi đau thể xác và tinh thần trên những con người bất hạnh mà chúng ta gặp trên mọi nẻo đường. Có thể chúng ta đang mang trong mình những dự tính thật lớn lao để phục vụ anh em, nhưng thực ra, Thiên Chúa đang cần chúng ta phục vụ Ngài từ những việc rất bình thường trong đời sống hằng ngày. Vâng, một cái nhìn cảm thông và một nụ cười khích lệ tưởng như nhỏ nhoi, chẳng đáng kể, nhưng điều đó lại có thể xua tan những mây mù giữa trần đời và kiến tạo mùa xuân yêu thương cho trần gian. Một đồng tiền lẻ, một chén gạo tình thương xem ra thật nhỏ bé nhưng có thể làm ấm lòng bao người đang đói rách tư bề.
Vâng, Chúa giáng sinh đang tiếp tục giáng sinh trong trần thế qua những thân phận bất hạnh, yếu đuối, bị bỏ rơi. Ngài đang cần chúng ta đến với Ngài trong yêu mến và phục vụ chân thành như các mục đồng năm xưa. Đây chính là lời mời gọi thiết thực nhất từ hang đá Belem. Chúa Giáng sinh đang cần bạn và tôi không chỉ đến thờ lạy Ngài mà còn dâng tặng cho Ngài một chút tình thương để sưởi ấm Ngài trong đêm thâu giá lạnh.
Ước gì mỗi người chúng ta khi mừng Chúa Giáng sinh chúng ta cũng biết nghĩ đến những người nghèo chung quanh chúng ta. Xin đừng lạnh lùng, vô cảm trước những bất hạnh của tha nhân. Ước gì tình người chúng ta được liên đới với nhau bằng sợi dây yêu thương sẽ làm cho việc kỷ niệm Con Chúa Giáng sinh thêm nồng ấm tình thương. Amen.
41. "Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta"--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Lễ Noel là lễ của chia sẻ, lễ của bác ái. Chia sẻ không chỉ cơm bánh, gạo tiền cho anh em nghèo khó mà còn chia sẻ tình người cho anh em đang sống chung quanh chúng ta. Vì con người sống cần cơm bánh để lớn lên và cũng rất cần tình thương để tồn tại. Chính vì lẽ đó, mà khi nhập thể làm người Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong cung điện nguy nga, trong hoàng thân quốc thích. Ngài đã sinh ra trong cơ hàn, trong một gia đình lao động bình thường giữa chúng sinh. Ngài còn đồng hoá mình với những con người nghèo đói cơ hàn, những con người bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Chính Ngài đã từng nói rằng: "Hỡi những kẻ được cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp đã dành sẵn cho các ngươi, vì khi ta đói, ta khát, ta trần truồng, bị bỏ rơi, tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn, cho uống và tiếp đón ân cần". Ngài đã đồng hoá mình với những người khổ đau để con người biết vì Ngài mà biết thương nhau, biết vì Ngài mà phục vụ lẫn nhau, biết vì Ngài mà hy sinh cho nhau, mà đón nhận lẫn nhau trong yêu thương và tha thứ.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con người bị loại trừ, vẫn còn đó những ánh mắt thiếu cảm thông, những cái nhìn tẩy chay của con người dành cho nhau. Xem ra Thiên Chúa vẫn bị khước từ. Ai cũng biết rằng Thiên Chúa là Emanuel đang ở cùng chúng ta, nhưng chúng ta vẫn cố tình loại trừ lẫn nhau, vẫn đang tìm cách xua đuổi anh em của mình một cách bất khoan dung. Ai cũng biết rằng xúc phạm đến nhau là xúc phạm đến Chúa, thế nhưng, có mấy ai đã vì Chúa mà nhịn nhục lẫn nhau, đã vì Chúa mà sống khoan dung, tha thứ cho nhau. Đôi khi, chính cách đối xử bất khoan dung đó đã khiến anh em không có cơ hội để sửa đổi và làm lại cuộc đời.
Người ta kể rằng: Trong một xóm đạo nhỏ ở một miền quê hẻo lánh, có một thanh niên nổi tiếng ăn chơi, trộm cắp được người đời đặt cho biệt hiệu: "Hiền bụi đời". Với thành tích, trộm cắp và gây mất trật tự thôn xóm, anh đã bị tập trung cải tạo. Thời gian anh cải tạo là thời gian xóm làng bình an. Người ta cảm thấy hạnh phúc khi không có anh. Cho đến khi nghe tin Hiền bụi đời sắp trở về xóm nhỏ này sau thời gian dài trong trại giam. Người dân xem ra chẳng vui mừng mà còn lo sợ. Lâu lâu người ta lại nghe tiếng búa, tiếng đục cửa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo để chống trộm. Hôm ấy, hắn trở với khuân mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào một cuộc sống mới để cải tà quy chính, một cuộc sống lương thiện như bao người khác. Đối với hắn, dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui, hắn tiến về phía Dì Năm hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi của những người dân trong xóm. Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bặt khi hắn tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười ngượng gạo, cáo lui. Không lâu sau đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: "Vì muốn trả thù đời".
Vâng, Hiền bụi đời đã tiếp tục cuộc sống trộm cắp vì sự loại trừ của đồng loại. Anh không được đón nhận trong cuộc đoàn. Anh bị khước từ bởi lầm lỗi quá khứ. Chính thái độ bất khoan dung của thôn xóm đã tạo nên một Hiền bụi đời để trả thù đời.
Hôm nay ngày lễ giáng sinh, là dịp để chúng ta nhắc lại với nhau, Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Ngài đang cần chúng ta yêu thương. Ngài đang cần chúng ta giúp đỡ. Ngài đang cần chúng ta đón nhân. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài cái nôi đón nhận trong sâu thẳm lòng mình. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài những cọng rơm hy sinh của nhịn nhục, của bác ái vị tha làm ấm áp lòng Ngài. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài hơi ấm của tình thương chia sẻ với tấm lòng quảng đại, nhiệt thành như các mục đồng năm xưa.
Nguyện xin Đấng Emanuel chúc lành cho những nghĩa cử yêu thương cùa chúng ta. Nguyện xin Ngài đón nhận những hy sinh nhịn nhục và bác ái vị tha của chúng ta dành cho nhau như là dành cho chính Ngài. Và cầu chúc cho mỗi người chúng ta biết đón nhận nhau như là đón nhận Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta để nhờ đó mà chúng ta biết trao cho nhau những nghĩa cử ấm áp tình người và chan hoà tình nhân ái bao dung. Amen.
42. Chúa giáng sinh giữa những người khổ đau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đôi khi nghe bài hát “Điệu lý qua cầu ”tôi vẫn tự hỏi liệu có ai dám bỏ phố thị về quê chung sống theo người tình trăm năm hay không? Liệu dòng sông thơ mộng với cù lao xanh có mang lại hạnh phúc khi phải sống thiếu thốn dưới mái tranh nghèo và chiếc xuồng ba lá làm phương tiện sinh sống mà bài hát đã diễn tả thật rộn ràng hấp dẫn hay không?
Bằng lòng đi em về với quê anh
Một cù lao xanh một dòng sông xanh
Một vườn cây xanh hoa trái đơm hương
Thuyền ai qua sông dòng hò mênh mông.
Bằng lòng đi em anh đón qua cầu
Mùa mưa cầu tre dẫu khó đưa dâu
Bằng lòng theo anh dưới mái tranh nghèo
Về đây người quê chỉ có tấm lòng
Có chiếc xuồng ba lá để yêu em
Ôi đóa hoa tím trôi líu riu
Dòng sông nước chảy líu riu
Anh thấy em nhỏ xíu, nhỏ xíu nên anh thương ơ…ơ…
Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc
Mình anh ca điệu lý qua cầu.
Ôi đoá hoa …..anh thương ơ…ơ…
Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc
Mình anh ca điệu lý qua cầu.
Hình như tình yêu của đôi uyên uơng này có gì khang khác với các đôi trai gái thời nay. Bởi vì khi yêu ai thì người ta muốn được giàu sang và có mọi phương tiện hiện đại, nhưng với anh này thì anh chỉ có mái tranh nghèo với tình yêu bằng cả tấm lòng. Và, người yêu của anh chỉ nhỏ xíu bên cạnh cái dòng sông nước chảy liu riu thôi!
Cái nhìn của anh, quan niệm của anh rất khác so với nhiều người, nhưng quan niệm tình yêu ấy lại rất đúng vớicái nhìn, quan niệm của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa yêu con người và tìm đến với con người nơi những mảnh đời khổ đau. Ngài đã bỏ tất cả để đến cư ngụ giữa những người mình yêu dầu chỉ là dưới mái tranh nghèo nơi cánh đồng hoang Belem và lớn lên sinh sống bên mái tranh nghèo miền thôn dã Nagiaret.
Đêm nay chúng ta cùng với muôn thiên thần hát lên thật to rằng: “Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời, Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi khó nghèo”. Đây là niềm vui và hạnh phúc cho những người thành tâm thiện chí xây dựng hoà bình, và đặc biệt là những gia đình đang khổ đau. Vì từ nay Con Thiên Chúa đã ở cùng chúng ta. Từ nay Ngài đi vào cuộc đời để hiểu và đồng cảm những khó khăn của chúng ta.
Đây là cái nhìn của Thiên Chúa khác với loài người chúng ta, vì chính Ngài cũng từng nói: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi ”(Is 55,8). Đúng vậy, có bao giờ chúng ta ngạc nhiên và sửng sốt bởi cách hàng động của Chúa không? NhưngThiên Chúa là vậy! Ngài giáng trần không phải vì tìm kiếm sự giầu sang phú quý. Ngài càng không tìm đến những chốn phố thị nguy nga tráng lệ. Ngài đã đến để cư ngụ giữa những người khổ đau đang thất vọng vì cuộc sống có quá nhiều vất vả lầm than.
Điều quan yếu là Ngài đã tự nguyện đến và lưu lại nơi những người Ngài thương yêu đang còn đói nghèo, bất hạnh và khổ đau. Ngài mong tình yêu của Ngãi sẽ bồi đắp lại cho những bất hạnh của họ bằng chính tình yêu phục vụ của Ngài.
Năm nay với đường hướng đồng hành với gia đình khó khăn, giáo hội muốn nhắn nhủ các gia đình đang gặp những khó khăn hãy vui lên vì Chúa đang ở giữa anh chị em. Hãy tin tưởng và hân hoan vì Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt khổ đau cho anh chị em. Hãy tin tưởng vào tình thương của Ngài. Ngài sẽ đến và lưu lại nơi những mái tranh nghèo, nơi những con người lầm than bởi bệnh tật, bởi vất vả bôn ba với miếng cơm manh áo. Ngài sẽ đồng hành với anh chị em di dân đang lênh đênh nơi đất khách quê người.
Ước mong lời loan báo tin vui Chúa đã giáng sinh cho chúng ta được loan đi khởi đầu dành cho những mái tranh nghèo của các mục đồng hôm nay lại tiếp tục được loan báo đến cho những ai đang gặp bất hạnh hôm nay. Hãy vui lên vì Chúa đã giáng sinh cho chúng ta. Hãy vui lên vì Ngài là hoàng tử bình an, là ông vua thái bình sẽ mang lại niềm vui hạnh phúc cho chúng ta.
Cầu chúc cho mọi người một đêm giáng sinh an lành. Xin Chúa Hài đồng ngự đến từng mái nhà đơn sơ của chúng ta để chúc phúc và ban bình an cho những ai thành tâm đón nhận Ngài. Amen.
43. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta--Lc 2,1-14--Camille Gagnon
Đây là thời gian hoan lạc.
Từ vài tuần lễ nếu không phải là vài tháng chúng ta đã dự tính và tổ chức lễ Giáng Sinh: Chúng ta sẽ đi đến nhà ai, ai sẽ đến nhà chúng ta. Điều này đối với nhiều người là một mối bận tâm lớn, để sắp xếp mọi cuộc gặp gỡ và mọi lời mời. Thậm chí thời tiết cũng ảnh hưởng đến những lo toan của chúng ta: Có bão là các cha mẹ trẻ tuổi sẽ không lên đường được vì sẽ quá nguy hiểm cho trẻ thơ. Rồi những tuần sau, khi nhà sẽ đầy người, niềm vui sẽ lớn lên: “Ôi, tôi rất vui được gặp bạn!” – “Ôi, cuối cùng bạn đã đến rồi!” – “Thật mừng là bạn có thể đến được!”.
Ở đây, trong nhà thờ chúng ta có thể lập lại một lời gì giống như vậy trong suốt mùa Vọng: “Vì Ngài ở với chúng ta! Vì Chúa Giêsu ở với chúng ta”. Lời này đã trở thành khẩu hiệu cho việc chuẩn bị lễ Giáng Sinh. Nhưng tối nay, những lời ngắn gọn này thốt ra như một tiếng kêu của con tim: “Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa ở với chúng con, chúng con cũng ở với Chúa. Nơi nhà Chúa, tối nay người ta đi viếng thăm nhau. Chúa đến nơi nhà chúng con và chúng con đi đến nhà Chúa! Con ở đây, vì Chúa cũng ở đây nữa!”.
Tiếp khách.
Thường lệ khi khách đến, người ta tiếp đón, hỏi han một chút. Người ta hỏi thăm có điều gì mới không và khi có một em bé cùng đi người ta quan tâm kỹ hơn, vuốt ve ân cần hơn. Tại sao chúng ta hết thảy không đón tiếp Chúa Giêsu như vậy?
Quả thật, chính với tư cách một hài nhi mà Ngài đến viếng thăm: “Đức Maria hạ sinh một con trai đầu lòng, quấn tã và đặt nằm trong máng cỏ”. Nhưng hài nhi này đến viếng thăm chúng ta với những nét đặc biệt, mang một niềm hy vọng rất đặc biệt, như bài đọc thứ nhất đã nói: Ngài sẽ là “cố vấn tuyệt vời”, Ngài sẽ là “quyền năng của Thiên Chúa”, “Nguồn sự sống đời đời”. Ngài sẽ là “một mầm mống bình an”. Một hài nhi như vậy thật là quí báu. Trong một gia đình, đây là một phúc lành thật sự làm cho mọi người vui mừng.
Không có Ngài, chẳng có gì như vậy được.
Chăm sóc một em bé vài tiếng đồng hồ, thời gian một cuộc viếng thăm ngắn ngủi, không đòi hỏi nhiều lắm. Nhưng khi người ta đến ở lâu, ở mãi, làm cho gia đình tăng số, lúc đó sự việc trở nên nghiêm túc hơn. Mỗi lần một người nào khác đến ở bên cạnh chúng ta, điều này sẽ mang lại bao nhiêu sự thay đổi! Phải thay đổi bao nhiêu thói quen.
Đêm nay, Chúa Giêsu đến ở luôn nơi chúng ta. Ngài tự mời để trở nên thành phần cuộc sống của tôi và Ngài chờ mong nhận được những sự chăm sóc, quan tâm, tình thương. Ngài cũng chờ mong ta để Ngài lớn lên, phát triển. Các bạn thấy không, xúc động khi tiếp đón “bé Giêsu” có ích gì nếu ta không để chỗ cho Ngài lớn lên, phát triển đến nỗi chiếm cả cuộc đời của chúng ta, tới độ Ngài trở thành Chủ của chúng ta như một bài ca cổ xưa đã nói: “Thầy chí thánh của chúng ta vừa mới sinh ra cho chúng ta”. Vì ta phải ý thức: chấp nhận Thiên Chúa đến viếng thăm tức là chúng ta phải dấn thân vào những nẻo đường đầy yêu sách. Ngay đêm nay, điều đó muốn nói rằng đối với người này hay người khác trong chúng ta phải quên đi một cuộc tranh chấp và tăng thêm thiện chí. Phải đi một hay hai bước thêm nữa. Việc Thiên Chúa đến viếng thăm cũng mang lại cho chúng ta một sự ngạc nhiên rất lớn nữa. Quả thật, Ngài không đến một mình, Ngài kéo theo một đám người không mấy danh giá. Một câu hỏi vang lên đặc biệt mạnh trong đem Giáng Sinh này: “Nhưng lạy Ngài có khi nào chúng tôi đã nuôi nấng, đón tiếp, viếng thăm Ngài đâu? Có khi nào chúng tôi đã không làm điều đó?”. Anh chị em đã biết rõ câu trả lời rồi. Khi ta để Chúa Giêsu lớn lên, Ngài thực sự mang gương mặt của những người đàn ông đàn bà của ngày hôm nay, và rất thường là những gương mặt của những người nghèo nhất và xấu số nhất.
Đây là thời hoan lạc.
Nhưng đêm nay, chỉ với một con tim tươi trẻ mà chúng ta mới có thể nhận ra những lần Thiên Chúa đến viếng thăm trong cuộc đời chúng ta và để cho niềm hoan lạc bùng lên. Phải, ta có thể nói: Không có Ngài cuộc đời của chúng ta không thể như vậy được. Vì bao nhiêu niềm vui đã nhận được và cho đi, bao nhiêu tình nhân ái đã trổ hoa trong lòng con người vì Hài Nhi này. Hài Nhi mà người ta để cho lớn lên trong nội tâm mình.
Chính nhờ thế mà chúng ta có thể kêu lên: “Vì Ngài ở với chúng con, nên đây là thời gian hoan lạc!”.
44. Đánh mất cơ hội ngàn vàng--Lc 2, 1-14--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến. Thế rồi, do lòng yêu thương thúc đẩy, anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực, hay chỉ yêu chàng vì gia tài, địa vị, quyền thế của chàng, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái.
Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng, làn da cháy nắng, đôi tay chai sần. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và khát mong được kết hôn với vị hoàng tử mà cô đã gặp trong rừng, nhưng trớ trêu thay, cô ta không nhận ra vị hoàng tử nầy trong dáng dấp người nông dân nghèo khổ. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh đi, trong khi lòng cô vẫn thổn thức nhớ thương chàng hoàng tử hào hoa mà cô đã gặp trong rừng!
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lại.
* * *
Như vị hoàng tử hoá thân thành nông dân đến cắm lều ở bên cạnh nhà cô gái, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời, hoá thân thành người phàm và đến ở giữa chúng ta.
Trong khi chúng ta vẫn yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa uy linh trên cõi trời cao, chúng ta lại tỏ ra thờ ơ hờ hững với những chi thể của Ngài, với hiện thân của Ngài đang sống quanh ta.
* * *
Thánh Phao-lô nhấn mạnh:
"Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6,15)
"Anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận" (I Cr 12, 27)
"Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể." (I Cor 12, 13)
* * *
Chúa Giêsu cũng khẳng định rằng tha nhân là hiện thân của Ngài, vì thế ai khước từ bạc đãi người khác là bạc đãi Ngài, xúc phạm đến người khác là xúc phạm đến Ngài.
Khi Chúa Giêsu phục sinh khiển trách Sao-lô: "tại sao ngươi bắt bớ Ta"(Rm 9,4) đang khi Sao-lô chỉ đụng đến các tín hữu, là Ngài tự đồng hoá mình với họ. Ngài dạy: "Những gì các ngươi đã làm cho các anh em bé mọn của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta." (Mt 25, 40)
* * *
Thánh Phanxicô Assisi nhận ra người phong cùi là một phần chi thể đang bị ung nhọt của Chúa nên ngài đã ôm hôn người phong ấy với tình yêu thắm thiết.
Mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta cũng đã nhận ra những người bệnh tật, hấp hối là những phần chi thể bị tổn thương của Chúa Giêsu nên Mẹ đã dành phần lớn đời mình yêu thương chăm sóc họ.
* * *
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đóng vai người nông dân, người cùng khổ, người láng giềng, người bạn đồng nghiệp và cả những người nhà, để sống với chúng ta. Thế nhưng chúng ta rất khó nhận ra đó là hiện thân của Thiên Chúa nên thường đối xử tệ bạc với tha nhân. Thế là bi kịch cô gái nghèo hết lòng yêu thương chàng hoàng tử hào hoa nhưng lại phụ bạc anh ta dưới lốt nông dân nghèo khổ vẫn còn đang tiếp diễn từng ngày, từng giờ từng phút. Thế là "Người đã đến nhà của Người mà người nhà đã không tiếp nhận Người." (Gioan 1, 11)
* * *
Thật vô cùng đáng tiếc cho cô gái trong câu chuyện trên vì cô đã đánh mất cơ hội ngàn vàng: cơ hội trở thành công nương chốn cung đình, cơ hội được hạnh phúc trăm năm bên hoàng tử giàu sang phú quý!
Và cũng vô cùng đáng tiếc cho chúng ta khi chúng ta tiếp tục lặp lại bi kịch ấy trong cuộc đời mình.
45. Chúa Giêsu là vầng đông toả sáng 2014--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Nhà văn Hans Christian Andersen, người Đan-mạch, có sáng tác một câu chuyện nổi tiếng khắp thế giới mang tựa đề “Cô gái bán diêm”.
Tôi xin lược thuật lại chuyện đó như sau:
Hôm ấy là buổi chiều rét buốt cuối năm. Tuyết không ngừng rơi và đêm đang xuống dần. Một bé gái bán diêm, đôi chân bầm tím vì lạnh, co ro lê bước giữa phố phường giá rét. Suốt ngày qua, em chẳng bán được hộp quẹt nào và cũng chẳng có ai bố thí cho em xu nào.
Em muốn rảo bước về nhà để tránh cơn lạnh cắt da, nhưng nếu chưa bán được hộp diêm nào, chưa được ai thí cho đồng nào mà lê gót về nhà thì sẽ bị mẹ mắng nhiếc thậm tệ và bị ba đánh đập tàn nhẫn.
Em cảm thấy đói khát và mệt lả. Mùi thơm từ những con ngỗng quay toả ra từ tiệm ăn đầu phố làm cho cơn đói dằn vặt em nhiều hơn.
Càng về đêm, trời càng thêm lạnh. Tuyết vẫn rơi đều trên phố và phủ trắng mái tóc vàng óng của em. Đôi chân tê cứng vì lạnh không cho phép em bước xa hơn. Em ngồi xuống, thu mình vào một góc hẹp giữa hai căn phố. Người qua lại chẳng ai để ý đến đứa bé cùng khốn như em.
Khao khát lớn nhất của em bây giờ là được sưởi ấm, nhưng em không dám phí phạm những que diêm. Mất một que diêm có nghĩa là mất đi ít bánh rất cần thiết cho gia đình. Em không được phí phạm. Nhưng rét quá. Hai bàn tay gần như chết cóng rồi. Em chỉ ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm thôi.
Một que diêm được bật lên. Ôi, giữa đêm tối rét buốt, ánh sáng que diêm nhỏ bé kia sao mà tuyệt vời đến thế! Với trí tưởng tưởng mạnh của trẻ thơ, em nhìn ánh lửa que diêm mà hình dung ra một lò sưởi ấm áp. Em định đưa chân ra để sưởi cho đôi chân bớt cóng thì ngọn lửa đã biến đi và lò sưởi cũng biến theo. Đánh bạo hy sinh thêm một que diêm nữa. Ánh sáng lại bùng lên. Ôi thích quá! ấm áp quá! Ánh lửa ấm áp gợi lên trong tâm trí em một phòng ăn ấm cúng, có khăn trải bàn trắng xóa, có bát đĩa bằng pha lê, và tuyệt vời hơn hết là trên bàn có một con ngỗng quay đang tỏa hương thơm phức. Suốt đời mình, chưa từng được thưởng thức một bữa ăn có thịt, nên giờ đây, đang lúc bụng đói cồn cào, em ao ước biết bao! Thế nhưng ánh lửa diêm lại lụi tàn, phòng ăn biến mất, em lại trở về với thực tại đen tối, đói khát và rét buốt.
Thế rồi, em bị cám dỗ bật thêm que diêm thứ ba. Dưới ánh sáng của que diêm này, tuyệt vời thay, em thấy hình ảnh bà ngoại hiện về. Mừng quá, em gào lên: “Bà ơi, chờ cháu với, cho cháu đi theo bà!” Em sợ diêm tắt và hình ảnh của bà cũng tắt theo, nên em bật thêm que diêm thứ tư, thứ năm và rồi bật hết những que diêm còn lại, bởi vì em khao khát có bà ở lại với mình. Trong trí tưởng tượng phong phú của tuổi thơ, em thấy bà rất đẹp, rất hiền. Bà ôm lấy em và cả hai bà cháu cùng bay lên cõi Thiên đàng, đến nơi chẳng còn lạnh lẽo, chẳng còn đói khát, chẳng còn đau thương.
Qua sáng hôm sau, khi trời hừng sáng, người qua lại phát hiện em bé ngồi trên vỉa hè, đầu nghiêng một bên, trên môi còn nở nụ cười nhưng em đã chết cóng tự bao giờ.
Thân phận đứa bé bán diêm trong câu chuyện trên đây cũng là thân phận của nhân loại hôm nay. Nhiều người trên thế giới hiện nay vẫn đang còn chịu đựng những hình thức đói, rét hết sức thảm hại. Đó là tình trạng đói tình thương, khát hoà bình, rét vì thiếu hơi ấm của tình người và lòng thương xót.
Vì thế, nhân loại đang cần được sưởi ấm bởi một “lò sưởi tình thương”. Tuy nhiên, tình thương trên thế giới nầy chỉ lập lòe như một ngọn lửa diêm, bùng lên giây lát rồi tắt ngúm, không đủ sưởi ấm cõi lòng băng giá của bao người.
Nhân loại đang khát khao một lò sưởi ấm áp như em gái trong chuyện trên đây cần ánh lửa của một que diêm, để sưởi ấm cho đôi tay lạnh cóng của mình.
Phúc thay! Khát vọng của nhân loại đã được Thiên Chúa đáp ứng. Ngài rộng ban cho họ cả một Mặt Trời, cả một Vầng Đông rực rỡ để chiếu soi, để sưởi ấm, như lời Chúa trong Tin Mừng Luca:
“Thiên Chúa Ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông từ trời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và từ trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an.” (Lc 1, 78-79)
Chúa Giêsu chính là Vừng Đông rực rỡ, là Ánh Thái Dương mà Thiên Chúa ban tặng cho loài người.
Vầng đông đem lại cho loài người hai lợi ích lớn: Một là soi sáng, hai là sưởi ấm cho toàn thể địa cầu.
Chúa Giêsu là Vầng Đông soi sáng tâm hồn
Như ánh sáng của mặt trời xua tan đêm tối che phủ địa cầu để vạn vật được tỏ bày, thì ánh sáng của Đức Giêsu, tức là Tin Mừng của Ngài, sẽ xoá tan bóng tối bao phủ lòng người, giúp mọi người nhận ra Thiên Chúa là Cha của mình, nhận biết Đức Kitô là Đấng cứu độ, nhận ra Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, nhận ra mình có một quê thật trên trời.
Chúa Giêsu Vầng Đông sưởi ấm địa cầu
Như ánh sáng của mặt trời sưởi ấm quả địa cầu này, giúp cho nó khỏi bị chết đông vì băng giá, thì Tin Mừng và quy luật yêu thương của Đức Kitô cũng làm cho mọi người biết nhận ra nhau là anh chị em một nhà, biết sống yêu thương đùm bọc nhau, nhờ đó, nhân loại được ấm lên bởi tình yêu thương huynh đệ.
Lạy Chúa Giêsu,
Trong đêm thánh nầy, đêm tưởng niệm biến cố Chúa là Vầng Đông từ trời đến chiếu soi tâm hồn nhân loại, chúng con cầu xin cho tất cả mọi người biết mở lòng đón nhận ánh sáng của Chúa, để ai nấy đều nhận ra một sự thật tuyệt vời, đó là Thiên Chúa là Cha thật của mình, nhận ra mỗi người chung quanh đều là anh em con cùng một Cha; nhờ đó, mọi người đều yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà; nhờ đó, tất cả đều được sưởi ấm bằng tình yêu thương; tất cả đều được no đầy hạnh phúc vì được làm con của Cha trên trời.
46. Loài người Chúa thương--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Khi hai người đang ở đó thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đạt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”. Sự kiện đơn sơ như thế mà tác giả Lu-ca lại cất công ghi chép rất chi tiết niên đại như một biến cố có một không hai trong lịch sử nhân loại. Cộng đoàn Kitô hữu thời sơ khai đã sớm nhận ra điều này: hài nhi mới sinh ra tại Bê-lem trong đơn nghèo lại đang làm đảo lộn cả một lịch sử bi tráng của toàn nhân loại. Sự kiện mang tính cách mạng này lại không phải là một chiến thắng vẻ vang, một cuộc lật đổ ngoạn mục, mà nhiều khi chỉ mang lại lo âu và sợ hãi, cũng không phải là hoàn tất một công trình hoành tráng vĩ đại đòi nhiều đóng góp khó nhọc và lao công. Một ‘Trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ’ lại là một ‘tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân’. Việc hạ sinh này tỏ lộ ‘vinh quang Thiên Chúa trên trời’, đồng thời cũng mang lại ‘bình an cho loài người Chúa thương dưới thế’. Có thể thế được chăng? Tin Mừng vĩ đại lại có thể đơn sơ đến như thế sao?
Thế đấy, cái đêm lễ hội phức tạp và công phu nhất trong năm (chỉ cần nhìn vào cách người ta trang hoàng đường phố cửa tiệm, dọn dẹp nhà cửa, trang trí nhà thờ, mua sắm quà cáp, nấu dọn yến tiệc cho ngày đại lễ) lại có một ý nghĩa, một nội dung quá ư giản dị và thuần khiết! Và để có thể khám phá ra sự đơn thuần này cần phải có được một đêm tĩnh mịch, đêm thầm lặng, đêm sâu lắng của cõi lòng (Silent Night). Vinh quang Thiên Chúa (Gloria Dei) không tỏ hiện trong hào quang sáng chói, không tiền hô hậu ủng trong tiếng nhạc tiếng sấm vang rền, không phô trương rầm rộ với binh hùng tướng mạnh. Vinh quang đó âm thầm xuất hiện giữa đêm đông tĩnh mịch, trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt sinh ra trong chuồng chiên bò hôi hám… Điều đó sẽ là hoàn toàn hợp lý khi nào người ta nếm cảm được cái thứ vinh quang của tình yêu thương, của lòng nhân ái; âm thầm và thinh lặng như người cha ngỗi bên giường bệnh của đứa con thoi thóp thở trong góc phòng của một bệnh viện vắng lạnh, hoặc bà vợ đứng sau chiếc xe lăn của người chồng tật nguyền trong xó nhà quạnh hưu… Lúc đó sự thinh lặng, nghèo nàn, tăm tối…, và chỉ có như thế, mới nói lên được tất cả, nói cách hùng hồn và diễn đạt đầy đủ nội dung sâu sắc nhất của tình yêu thương vĩ đại.
Và một khi loài người dưới thế, trong thinh lặng và sâu lắng. nhận ra rằng mình được Thiên Chúa yêu mến xót thương, được ‘đầy ân sủng và Đức Chúa ở cùng’ (Lc 1:28), họ sẽ biết đón nhận biến cố này với tâm hồn an bình, với tâm tình mừng vui diễn tả qua lời ca ngợi tri ân. Đặc biệt Kitô hữu chúng ta, duy nhất giữa muôn người được nhận biết mình là phần tử của ‘loài người Chúa thương’, một loài người không chỉ gồm toàn những kẻ lương thiện tốt lành, mà bao gồm cả các tội nhân bất hảo. Qua kinh nghiệm bản thân, các Kitô hữu hiểu rõ mình thuộc về thứ loài người này trong cả diện tích cực lẫn tiêu cực của nó. Và khi cử hành sự kiện Hài Nhi giáng sinh tại Bê-lem, họ nhận mình chính là người đầu tiên tiếp lấy lòng xót thương thần linh. Tâm hồn họ lúc đó được tràn ngập thứ bình an độc nhất vô nhị, như chính Đức Giêsu sẽ khảng định sau này: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng” (Ga 14:27)… Đúng là “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Maria là người nữ đã chào đón ‘hài nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ’ trong thinh lặng và sâu lắng như thế. Sinh nở luôn kéo theo không biết bao nhiêu vấn đề thể lý, tinh thần, vật chất và giao tế… dễ làm xáo trộn bất cứ ai, nhất là các sản phụ đặc biệt trong hoàn cảnh xa nhà, giữa muôn vàn thiếu thốn và bị xua đuổi… Tác giả Lu-ca đã đề cao thái độ lạ lùng của người mẹ rất đặc biệt này: ‘Còn Maria thì hằng ghi nhờ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng’. Maria đúng là Kitô hữu tiên khởi, tuyệt vời nhất ngay từ giờ phút đầu tiên khi ‘vinh quang Thiên Chúa’ xuất hiện nơi dương thế.
Là một Kitô hữu, hơn nữa là linh mục - tu sĩ, tôi không thể cử hành biến cố Hài Nhi giáng trần cách nào khác. Dầu có bận rộn tới mấy đi nữa (chưa bằng một phần nhỏ của Maria đâu!), tôi vẫn phải tự nhủ: để khám phá ra và ca tụng ‘Vinh quang Chúa’, và nhận biết mình là ‘loài người Chúa thương’, tôi tuyêt đối cần phải giữ cho tâm hồn mình được thinh lặng và sâu lắng trong suốt thời gian cử hành lễ Giáng Sinh này.
Lạy Hài Nhi sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ, con muốn cùng Mẹ Maria thinh lặng chiêm ngắm tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa giáng trần. Xin cho con nhận ra tăm tối, giá lạnh và nghèo nàn… tại Bê-lem hôm đó lại chính là tiếng ca ngợi vinh quang tình yêu Thiên Chúa cách vang dội nhất. Đặc biệt xin cho con nghe được thấu hiểu lời tuyên bố long trọng về Hài Nhi giáng thế: “Thiên Chúa yêu thương loài người”, trong đó có chính con, và mọi người tội lỗi thấp hèn…, để con và ‘loài người Chúa thương’ được hưởng bình an trọn vẹn và cất lời ca ngợi Chúa không ngừng. Amen.
47. Verbum Dei, Lời Thiên Chúa ở giữa chúng ta--Ga. 1,1-18--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Lời tựa sách Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một khảng định quan trọng: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả”. Như vậy mọi hiểu biết về Thiên Chúa trước khi Đức Giêsu xuất hiện (Cựu Ước, mọi tôn giáo khác, cũng như các suy luận triết học) đều chỉ là phỏng định; hay nói cách khác là nhân cách hóa, có nghĩa là người ta dựa phần lớn vào tư duy con người, cho dầu có siêu việt đến đâu đi nữa. Nắm bắt và thấu triệt Thiên Chúa cách chính xác chỉ có thể có được qua sự xuất hiện của Lời Thiên Chúa (Verbum Dei) trên trần gian. Vấn đề quan trọng ở đây là xác định được nội dung chính của Lời đó là gì?
Một số khảng định liên quan tới Lời - Verbum được nêu lên: ‘Lời đã có từ lúc khởi đầu… Lời vẫn hướng về Thiên Chúa… Lời là Thiên Chúa… Lời tạo thành vạn vật… Lời là sự sống, là ánh sáng… Lời hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha’. Tất cả các điều này chỉ qui vào một điểm duy nhất: ‘Lời phản ánh, và là hình ảnh trung thực nhất của Chúa Cha’ (xem Dt 1:3; Cl 1:15). Chính Đức Giêsu sau này cũng đã không ngừng lặp đi lặp lại ý tưởng này cho các môn đệ Người, “Không phải là đã có ai thấy được Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha” (Ga 6:46), “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha, sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?” (Ga 14:9)
Lời - Verbum đó ‘đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’. Như vậy là từ nay loài người có thể trực tiếp đọc được Lời, nói cách khác có thể trực tiếp thấy và biết Thiên Chúa. Để làm được điều này, cách duy nhất (và tuyệt đối không có bất cứ cách nào khác!) là chịu khó đọc Lời, là chiêm ngắm Lời - Giêsu từ lúc còn mang hình hài một ‘trẻ sơ sinh, bọc tã, nằm trong máng cỏ’ (Lc 2:12), cho tới giờ phút cuối cùng của thập giá khi ‘một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra’ (Ga 19:34). Maria là người duy nhất đã có mặt ở cả hai biến cố đó, đã cẩn thận đọc Lời – Giêsu trong tư thế chiêm niệm thâm sâu nhất. Và rồi Mẹ đã hiểu: ‘Thiên Chúa là Đấng cứu độ… hằng thương xót…nâng cao kẻ khiêm nhường… ban cho kẻ khó nghèo đầy dư…’ (Lc 1:47-55). Người môn đệ Gio-an cũng đã theo sát, gần gũi với Thầy Giêsu nên đã có thể đọc được: ‘Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe… đã thấy tận mắt… đã chiêm ngưỡng… tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.’ (1Ga 1:1) và lên tiếng làm chứng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4:8) ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…’ (Ga, 3:16); đồng thời quả quyết: “Lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật…” (Ga 19:35).
Chỉ những ai chân thành đọc Lời, chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu với tâm hồn sâu lắng nhất mới có cơ hội nhận biết Thiên Chúa cách đích thực; bằng không ý niệm họ có về Người sẽ mãi mãi chỉ là mơ hồ và méo mó. Thực tế cho thấy rất nhiều người vẫn tự cho là mình biết rõ, biết sâu về Thiên Chúa (các tư tế, Biệt Phái và luật sĩ thời Đức Giêsu ngày xưa, hoặc có thể cả các triết - thần học gia lỗi lạc ngày nay), thậm chí còn mở miệng giảng dạy cho người khác về Thiên Chúa thế này thế nọ, nhưng lại không cất công đọc Lời - Giêsu, không dành thời giờ chiêm ngắm, gần gũi và kết hiệp với Lời. Những người như thế thì làm sao có thể vỗ ngực cho là mình hiểu biết về Thiên Chúa? Phải chăng chính họ là các tiên tri giả mà Đức Giêsu đề cập tới (xem Mt 7:15-20). Chẳng trách, Thiên Chúa tình yêu tạo thành thế gian nhưng khi Lời tình yêu đến ‘thế gian lại không nhận biết Người’. Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh tình yêu của Người, nhưng khi Lời tình yêu ‘đến nhà mình, thì người nhà lại chẳng chịu đón nhận’. Họ quá quen với suy luận của tri thức rồi, quá quen với ý niệm về một Thiên Chúa cao sang quyền phép rồi, thì làm sao nhận ra ‘Hài Nhi bọc trong tã’ chính là Ngài?
Tôi vẫn được nhắc nhở phải chiêm ngắm mầu nhiệm Giáng Sinh. Thế nhưng tôi trộm nghĩ, còn hơn cả mầu nhiệm Giáng Sinh như một biến cố, tôi cần chiêm ngưỡng Giêsu như một ‘người phàm và đang cư ngụ giữa chúng ta’ với mục đích để biết rõ hơn về Thiên Chúa tình yêu. Giáng Sinh chỉ là khởi điểm để tôi chuyển từ một hiểu biết Thiên Chúa từ suy luận triết thần, qua Thiên Chúa từ nhân của Đức Giêsu Kitô. Giáng Sinh phải bắt đầu nơi tôi một thứ linh đạo chiêm ngắm, đào sâu và kết hiệp với Lời - Giêsu để, như Maria, tôi đặt niềm tin tuyệt đối nơi Thiên Chúa, Đấng cứu độ và giầu lòng xót thương.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết thinh lặng quì bên máng cỏ và chiêm ngắm Hài Nhi giáng trần; cũng xin giúp con biết ngước nhìn lên Giêsu chết trên thập giá để nhận ra một Thiên Chúa cứu độ đầy từ tâm. Qua việc lần hạt con muốn được cùng Mẹ ghi nhớ mọi điều trong cuộc đời Giêsu và suy niệm trong lòng, hầu biến trọn niềm tin Kitô hữu thành một khám phá và minh chứng cho mọi người về ‘Thiên Chúa, đấng cứu độ… hằng xót thương’. Kể từ lễ Giáng Sinh này, xin Mẹ đưa tay dẫn dắt con tiến bước trên con đường chiêm niệm và sâu lắng, mà Mẹ đã từng bước đi. Amen.
48. Lễ Giáng Sinh 2013--Lm Giacobe Tạ Chúc
Kính thưa quý ông bà và anh chị em!
Chúng ta đang long trọng và vui sướng đứng trước một cử hành rất lớn của Giáo hội Công giáo hoàn vũ. Đêm nay, trên tòan thế giới, những anh chị em tin Thiên Chúa, lòng trào dâng những cảm xúc dạt dào vô tận, vì được chiêm ngắm Máng cỏ, Hang đá nơi mà Chùa Hài nhi cất tiếng khóc chào đời, bên cạnh Thánh Giuse, Mẹ Maria.
Thật vậy, mỗi dịp Giáng sinh về, chúng ta cầu chúc cho nhau được an lành hạnh phúc. Những cánh thiệp gởi trao nhau, những món quà cho những người già yếu, một chút bánh kẹo tượng trưng cho các trẻ em, qua hình ảnh ông già noel…Tất cả là biểu cảm của tình yêu thương. Quả vậy, Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại nên Ngài đã hạ mình, nhập thể trong thân xác một con người, một trăm phần trăm là người như chúng ta, để mời gọi anh chị em biết sống và yêu thương nhau. Chỉ tiếc rằng, thế giới hôm nay đang còn quá nhiều thù hận, ghen ghét và đố kỵ. Chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh vẫn xảy ra như cơm bữa. Tình người đang bị xơ cứng và nạn dửng dâng, vô cảm ngày một nhiều. Vừa qua, trên các trang báo Thanh niên, tuổi trẻ đều đồng loạt đưa tin: “Vụ hôi bia ở Biên hòa”, câu chuyện được kể rằng, ngày 4/12/2013 anh tài xế tên là Hồ Kim Hậu lái xe tải chở bia từ Sài gòn ra Huyện Bắc bình Bình thuận thì gặp nạn tại vòng xoay Tam hiệp Biên hòa. Thế là mọi người thay vì giúp tài xế thì họ xông vào hôi của, chở bia đem về nhà mình. Thật đau lòng cho con người Việt Nam ngày hôm nay, và cũng thật vô cùng xấu hổ khi tình yêu thương đồng loại đang ngày một vắng bóng. Chúa Hài nhi mời gọi con người nhìn nhận nhau là anh chị em có cùng Cha chung trên trời. Mừng Chúa Giáng sinh là thông điệp để chúng ta biết bảo vệ sự sống bảo vệ và chăm sóc các trẻ em. Cũng còn đó biết bao nhiêu trẻ thơ không được nhìn nhận và giúp đỡ. Những bào thai vô tội bị bứng ra khỏi lòng mẹ khi chưa kịp cất tiếng khóc chào đời. Những em bé bị chính cha mẹ, người thân, những bảo mẫu hành hạ và giết chết cũng vẫn thường xảy ra. Chúa Hài Nhi Giê-su nhắc nhở mỗi người sứ điệp bảo vệ chân lý chống lại những bất công bạo tàn.
Anh chị em thân mến! năm 2014 sắp đến, năm Phúc âm hóa gia đình, hơn bao giờ hết mẫu gương gia đình Chúa Hài Đồng vẫn là một tấm gương lớn cho chúng ta noi theo và học hỏi. Sống trong một cuộc sống biến động và đổi thay, những bực làm cha mẹ phải biết cho con bú sữa đức tin, dòng sữa ngọt ngào là ân sủng của Thiên Chúa, chứ không chỉ sữa của người mẹ, hay các loại sữa được con người chế biến. Mừng Chúa Giáng sinh anh chị em hãy sống thật tình của lòng yêu thương, sự tha thứ và tinh thần trách nhiệm của những người con cái Chúa. Về trong gia đình, cha mẹ vợ chồng con cái hãy dành cho nhau những lời nói, cử chỉ và tình yêu mà chúng ta đón nhận được từ chính Chúa Hài Đồng. Cầu chúc cho anh chị em tin tưởng và nhận được ơn phúc lành từ Thiên Chúa chúng ta qua con một rất yêu dấu của Ngài là trẻ thơ Giê-su. Anh chị em hãy mời và đón tiếp những anh chị em không cùng tôn giáo đến, để chia sẻ niềm vui Giáng sinh và một năm mới dương lịch sắp đến với mỗi người chúng ta. Amen.
49. Các mục đồng, chứng nhân đầu tiên--Ga. 1,1-18--Lm Trịnh Ngọc Danh
Cách nay hơn hai ngàn năm, vào một đêm đông năm ấy, tại thành Bêlem, miền Giuđê thuộc thành vua Đavít, đã xảy ra một biến cố có một không hai trong lịch sử loài người. Biến cố ấy như thế này:
“Hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi”. Trong số những người trở về nguyên quán, có một cặp vợ chồng mới cưới là ông Giuse và bà Maria, từ thành Na-da-rét, miền, Ga-li-lê. “ Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa”, vì không tìm được chỗ trong nhà trọ. Hai ông bà đã phải tìm đến một hang nuôi súc vật. Ơ đó, bà Maria đã sinh con đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt trong mang cỏ”.
Kể ra thì việc bà Maria sinh con vào trường hợp ấy thì cũng có gì đáng nói so với bao cảnh sinh ra nghèo nàn, thiêu thốn khác!
Nhưng chuyện gì đã xảy ra trong cái tầm thường ấy?
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ! Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Bỗng có muôn vàn thiên binh họp với sứ thần cất tiếng ngơi khen Thiên Chúa rằng: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Làm sao một đứa trẻ sinh ra trong cảnh nghèo hèn hạ như thế lại có thể là “một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân!” Lại càng không thể tin được rằng hài nhi sinh ra trong cảnh nghèo hèn túng thiếu đủ mọi thứ thế lại có thể là “ một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít. Người là Đấng Kitô Đức Chúa”!
Giả sử tin vui ấy cũng được loan báo cho các chức sắc trong tôn giáo hay cho những người có quyền thế, có điạ vị xã hội, chắc gì họ đã mau mắn tin vào lời loan báo của thiên sứ, dù họ vẫn mong đợi Đấng Mêsia sẽ đến như lời các ngôn sứ đã nói! hay khi nghe tin ấy, sợ đụng chạm đến quyền lợi, điạ vị của mình lại tìm cách triệt hạ như Hêrôđê đã sát hại biết bao nhiêu hài nhi! Và giá như chúng ta cũng sinh sống vào thời đó, khi nghe tin báo như thế, có mấy ai tin đó là sự thật!
Nhưng các mục đồng khi nghe thiên sứ báo tin, họ không phân vân đắn đo thiệt hư thế nào. Họ tin và mau mắn lên đường: Sau khi thiên sứ từ biệt, họ bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết”. Đến nơi, họ đã trông thấy cảnh tượng như thiên sứ đã nói, họ thuật lại chuyện đã nghe và thấy. Ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (xem Lc 2, 1-20).
Các mục đồng đã thuật lại chuyện đã nghe và thấy. Ai cũng ngạc nhiên, nhưng chưa chắc người ta đã tin Hài Nhi nằm trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế! Chỉ có “bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.”
Các mục đồng là ai? Họ không phải là những nhà thông thái, cũng không là những vị chức sắc trong tôn giáo, hay những bậc vị vọng trong xã hội.
Họ là những người thấp kém về địa vị xã hội và cả về học vấn. Họ là những người đơn sơ, chất phát, dễ tin. Họ là những người sống lam lũ. Đời sống của họ gắn chặt với đàn súc vật. Nhưng họ lại được diễm phúc đón nhận tin vui cứu độ, được hân hạnh là những người đầu tiên được diện kiến Đấng Cứu Thế. Họ đã nghe tận tai, thấy tận mắt những gì thiên sứ đã nói. Họ là những nhân chứng của biến cố vĩ đại có một không hai ấy cho người đương thời và cho những thế hệ mai sau.
Cách thức Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm của Ngài khác với những suy luận của con người: Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế theo suy luận của con người thì phải sinh ra nơi cung điện sang trọng, thì Hài Nhi lại giáng thế trong cảnh túng thiếu, bần cùng; con người khát vọng giàu sang phú quí, thích có địa vị xã hội, muốn được người ta nể phục.. thì Thiên Chúa lại chúc phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo, cho những ai hiền lành, sầu khổ, cho những ai trở nên như trẻ thơ…Ý muốn của Thiên Chúa trái nghịch với ý muốn khát vọng của con người. Những gì Thiên Chúa muốn và kêu gọi con người sống và hành động để đạt được hạnh phúc, thì con người lại chối bỏ, không tin hoặc không muốn tin vì ý riêng của mình.
Những mục đồng xưa kia trong đêm đông năm ấy đã hành động như thế nào khi được sứ thần loan báo tin mừng trọng đại?
Trong đêm đông lạnh giá, khi mọi người trong thành đang ngủ say, thì họ là những người đang thức. Chính nhờ sự thức tỉnh của họ mà thiên sứ đã đem tin vui đến với họ.
Trong tâm tình tin tưởng, khiêm nhu, đơn sơ, chất phát, không nghi ngờ, thắc mắc, họ đã mau mắn lên đường để nhìn thấy tin vui; và sau khi đã tận mắt thấy nhìn thấy Hài Nhi nằm trong máng lừa, họ đã tin Hài Nhi ấy là: Đấng Cứu Độ. Họ đã tường thuật lại cho mọi người điều họ đã nghe và thấy, và ra về, họ đã ca tụng tôn vinh Thiên Chúa.
Những hành động của các mục đồng vào đêm đông năm ấy: thức tỉnh, nghe, ra đi, thấy, thuật lại, và ca tụng tôn vinh Thiên Chúa cũng là những đòi hỏi hành động đối vơi hết mọi người Kitô hữu, những chứng nhân Đấng Cứu Thế.
Trong cuộc sống Kitô hữu cũng thế, chỉ khi chúng ta có thức tỉnh tâm hồn, cố đi tìm thánh ý Thiên Chúa nơi chính mình, nơi cuộc sống, chúng ta mới có thể nhận ra tin vui cứu độ đến từ Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn đến với chúng ta hằng ngày qua Bí tích Thánh Thể, nhưng chúng ta có thức tỉnh tâm hồn để tìm kiếm Ngài, để được Ngài tỏ hiện như đã tỏ hiện cho các mục đồng xưa kia hay không! Ngài vẫn luôn hiện diện cận kề với chúng ta qua cuộc sống, giữa những công việc chúng ta làm, giữa môi trường chúng ta sinh sống; điều quan trọng là chúng ta có thức tỉnh như các mục đồng để mong tìm gặp Ngài hay không.
Khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng đón nhận tin vui cứu độ, chúng ta cũng được thấy Đấng Cứu thế, nhưng chúng ta đã hành động như thế nào sau khi được gặp gỡ Đức Kitô?
Các mục đồng đã thuật lại cho người khác những gì họ đã nghe, đã thấy; và ra về, họ vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa.
Họ đã thực thi lời vị chủ tế tuyên bố khi kết thúc thánh lễ: Thánh Lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an! Đó cũng là lúc chúng ta ra về để ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời mang sứ vụ sống làm chứng và loan báo cho mọi người ơn cứu độ như các mục đồng xưa kia đã làm.
Các mục đồng trở về với cuộc đời thường, nhưng từ biến cố họ đã được chứng kiến, họ đã trở thành những chứng nhân của Đức Kitô. Họ đã có một cái nhìn mới làm thay đổi niềm hy vọng của họ trong cuộc sống.
Ước gì qua sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ của mỗi người Kitô hữu, lời ca tụng và tôn vinh của các thiên thần vào mùa đông năm ấy sẽ mãi mãi còn vang vọng trong tâm tình chúc tụng và tôn vinh tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho loài người: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
50. Suy niệm của R. Gutzwiller--Lc 2, 1-20
NGÀY CHÚA GIÁNG SINH
Việc truyền tin Chúa Giêsu nhập thể đã là lạ lùng vì tính cách trái ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với sự cao cả bên trong. Tính cách trái ngược này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn nơi việc Người sinh ra.
1) Chúa Giáng Sinh.
Việc Giáng Sinh không xảy ra tại Nagiarét như thường tình, nhưng là tại Bêlem, và không phải do một lời nói chính thức của thiên thần mà bằng mmột biến cố hoàn toàn trần thế, nghĩa là do sắc chỉ của Hoàng Đế Rôma. Như vậy Chúa Giêsu ngay từ ngày mở mắt chào đời đã tỏ ra phục luỵ quyền hành thế trần, như một kẻ yếu thế phải chịu khuất phục kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên, đó là công việc của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy rằng ở đây hành động của con người không ai ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của Thiên Chúa. Hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra nhân số trong đế quốc lớn lao của ông để gom thế giới lại thành một, biết rõ quân số, bảo đảm được sự thu thuế mà ông cần dùng tới với những chương trình vĩ đại của ông. nhưng thực tế, quyền năng thế tục đó bên ngoài hình như kìm kẹp Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa và qua đó, chương trình Cứu độ được hoàn thành.
Như vậy Chúa Giêsu đã giáng sinh tại Bêlem trong thành cảu Đavít, như Tin Mừng đã nhấn mạnh điều đó. Chính nơi đây, Đavít khi còn là mục đồng, được gọi về hiến Thánh, thì giờ đây, cũng chính ở đây, người con đích thực của Đavít lại sinh ra, Đấng chăn chiên thực sẽ chăn dẫn bầy chiên Thiên Chúa, Ngài là Đấng được ưu tuyển ngay trong bản chất thâm sâu của Ngài và như Đấng Messia, Đấng Thiên tử, Đấng được xức dầu.
Sắc lệnh của Hoàng đế Augustô còn kéo theo một hậu quả khác, đó là việc giáng sinh của Chúa Giêsu được tác thành và lồng vào lịch sử thế giới. Người ta xác định được nơi chốn và thời kỳ xảy ra việc đó. Đây là một biến cố lịch sử đích thực (chứ không phải là chuyện hoang đường hay thần thoại) có chỗ đứng trong không gian và thời gian. Bên cạnh Hoàng đế Augustô, muốn mang lại cho thế giới cơm no áo ấm, với thứ ‘hoà bình của Rôma’, thì Chúa Giêsu đúng là vị Cứu tinh thực sự của vũ hoàn vì đã mang đến ‘bình an của Thiên Chúa’.
Tuy thế, ở Bêlem, không còn chỗ cho Ngài, nên phải sinh trong chuồng bò lưà. Khi nói Chuá không có chỗ trong quán trọ, điều đó có thể hiểu là, thực sự thì những người lang thang, không còn chỗ ở trong quán đó. Nhưng cũng có ý nói, và đúng hơn, quán trọ là nơi những người khách lạ tạm trú, thì không phải là nơi xứng hợp đối với mầu nhiệm Thánh Chúa sinh ra. Vậy Chúa sẽ đến thế trần, không mái nhà, trong cảnh đơn côi và nghèo nàn của chuồng bò lừa. Nôi của Ngài là cái máng khô, đục vào ngay trong tảng đá để cho bò lừa ăn. Tin Mừng đặc biệt nhấn mạnh tới việc Hài nhi được bọc trong khăn. Cho thấy rằng bên cạnh cảnh nghèo hèn còn có nhân tính hoàn toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối của tính con người.
Con đầu lòng của Thiên Chúa, hay nói cho gọn là Con Một Thiên Chúa đã đến thế gian này như là một trẻ nhỏ. Khung cảnh thật đơn giản, thanh bạch, nghèo hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn này ai sánh được; tuy vậy, lại chẳng có biến cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi phú túc sẽ được trao cho Đấng vừa sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào nhoáng bên ngoài với tất cả những gì liên hệ tới nó. Mà phải trái lại, cái vẻ bên ngoài càng lui đi thì mới càng thấy rõ vẻ lớn lao bên trong. Tất cả những gì phồn vinh, giả tạo, khoa trương, chỉ có bên ngoài thôi thì đi ngược lại bản tính của Chúa Giêsu ngay từ giờ đầu tiên của ngày Giáng Sinh của Ngài cho tới lúc cuối cùng với cái chế nghéo hèn và trần trụi trên cây thập tự.
2) Loan báo tin Chúa Giáng Sinh.
Các mục đồng là những người đầu tiên nhận được sứ điệp. Israel là dân của các mục tử và Chúa Giêsu chính là Đấng chăn giữ nhân loại mới. Những hạng quyền quý sao hiểu được vẻ cao trọng này, người giàu thì chạy theo của cải, còn người thông thái thì lại hiểu sai về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế những người được gọi đầu phải là những người chăn chiên khiêm hạ, nghèo nàn, và là ít học chốn quê mùa.
Nội dung của sứ điệp là một lời loan tin vui tóm trong ba danh hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức dầu và là Chúa. Ngài là Đấng Cứu thế, vì Ngài đến giải phóng những người không thể tự giúp mình khỏi cảnh đau thương. Ngài là Đấng xức dầu vì bản tính nhân loại của Ngài đã được thánh hiến bằng dầu Thánh của Thiên Chúa: Ngài trở thành Tư tế, tiên tri và Vua cả. Và Ngài là Chúa vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài.
Thật là một dấu chỉ lạ lùng: ‘Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ’. Điều nhỏ bé sẽ biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ quyền năng và nghèo khổ– cảnh giàu sang. Việc Chúa Giêsu sinh ra làm đảo lộn những cái chúng ta đã biết cho tới khi đó, và làm biến đổi các thực tại thần thiêng nhờ các phạm trù khác và ứng dụng chúng vào các quy luật khác.
Sứ điệp kết thúc bằng ca khúc của các Thiên thần gồm hai phần, mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song với nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy có ‘trời, vinh danh và Thiên Chúa’. Phần hai có ‘thế trần, hoà bình và con người’.
Thiên Chúa ở trên trời sẽ đón nhận danh dự và vinh quang, vì vinh quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ nhờ Con Ngài. Còn chính Chúa Giêsu, mà mọi tác động của Ngài đều mang dấu vô biên sẽ có thể thực sự tôn vinh Thiên Chúa mà không một tạo vật nào có thể làm được. Bây giờ ở dưới thế, bình an sẽ ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn thánh. Và tất cả những điều ấy có được là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho nhân loại nhờ Thiên Chúa Nhập Thể.
Như vậy bài ca của các Thiên Thần là điệp ca trang trọng của Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài ca mang nặng ý nghĩa của một biến cố vĩ đại đang được thực hiện trên sân khấu cuộc đời này. Hơn cả một lời cầu chúc hay lời nguyện xin. ‘Chúc tụng Thiên Chúa’ đó là một lời loan báo và cũng là một lời tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh dâng lên Thiên Chúa và an bình ban xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công việc cứu rỗi đã bắt đầu vì Chúa hoàn vũ đã sinh ra.
Và đây là kết quả đầu tiên, các mục đồng quyết định đón nhận lời loan báo trong niềm tin và đi theo lời đó. Sau khi tìm kiếm, họ đã thấy Đức Maria, Thánh Giuse, và Hài nhi. Sự kiếm tìm đã không bõ công; họ đã ngạc nhiên, đầy thán phục.
Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy niệm đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen thuộc giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong lòng.
Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:
Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các thiên thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.
51. Sứ điệp vinh quang và bình an--Lc 2,1-14
Từ nhiều thế kỷ nay, những bài Phúc Âm tường thuật về cuộc đời thơ ấu của Chúa đã kích thích trí tưởng tượng thi nhân và nuôi dưỡng lòng đạo đức của bao tâm hồn đơn sơ. Còn ngày nay chúng làm đối tượng cho những sự phân tích tinh vi và óc tưởng tượng huyền hoặc của một số trí khôn phức tạp đã tìm cách hạ thấp chúng xuống cho ngang với tầm mức của mình. May mắn thay, có một khoa học nghiêm chỉnh vẫn duy trì những bài tường thuật ấy ở trình độ mà Giáo Hội từ xưa nay vốn đặt chúng. Bài tường thuật của thánh Luca kể lại một sự kiện. Ngài kể lại một cách giản dị không vẽ vời thêu dệt, khả dĩ giúp ta chiêm thờ được. Ở đó người ta không nhận thấy một cách tỏ tường như trong những bản văn khác, cái mối ưu tư của tác giả là làm sao đặt việc Chúa Giáng Sinh trong tương quan với những gì đã được loan báo bởi Cựu Ước. Nhưng người ta bắt gặp cái tư tưởng tiêu biểu của thánh sử Luca: là Đức Giêsu Kitô là Cứu Chúa. Hôm nay, trong thành Đavít, một vị Cứu Tinh đã sinh ra cho các ngươi. Ta thử đứng thật sát đoạn văn đơn sơ mà tuyệt vời này để rút ra một vài nét về ý nghĩa của danh xưng ‘Cứu Chúa’.
* Chúa Giêsu là Cứu Chúa đã được hứa hẹn. Đó là lý do tại sao Người được mô tả là phát sinh từ dòng dõi Đavít, ít ra về mặt pháp lý, và điều đó rất quan trọng trong xã hội Do Thái.
* Chúa Giêsu sinh ra bởi một Trinh Nữ. Thánh Mátthêu cho ta biết thánh Giuse đã nhận Maria làm bạn trăm năm trong hoàn cảnh nào.
* Chúa Giêsu là một con người. Người là Con Thiên Chúa, nhưng cũng là người thật. Người đã bắt đầu cuộc sống và sự sống Người đã nẩy nở trong lòng Maria. Sinh ra bởi một người phụ nữ, như thánh Phaolô nói, Người không tách rời khỏi lịch sử, là lịch sử của mọi người. Người không giả bộ làm người; Người là người thật.
* Chúa Giêsu được loan báo cho người nghèo khó, cho người chăn chiên, nghĩa là người đến trong nhân loại thông thường nhất, giữa hạng người không có thời giờ để lo sao cho có nhiều tiện nghi, hạng người bám vào phận sự hàng ngày cốt sao cho được sống mà thôi.
* Người mang tới sứ điệp vinh quang và bình an, nghĩa là người đến tái lập trong linh hồn con người cái ý thức rằng Thiên Chúa là Chúa, Người tập hợp loài người lại và bảo họ rằng Chúa yêu thương tất cả mọi người, vì thế họ là anh em với nhau.
Ngoài ra, chúng ta hãy nêu lên trong bài tường thuật này một sắc thái căn bản mà con người thời đại ta đang cần, đó là sự thờ phượng.
+ Thờ phượng, ấy là đức tuân phục của Maria và Giuse đến Bêlem, khi nhận ra ý Chúa qua một biến cố, là cuộc kiểm tra dân số.
+ Thờ phượng, ấy là công bố rằng: Hài Nhi chính là Đức Kitô Chúa Tể. Sự sợ hãi của bọn mục đồng có thể tan biến khi viếng máng cỏ, nhưng Hài Nhi gần gũi với họ đó, vẫn là Thiên Chúa. Ta hãy nghĩ tới Thánh Thể; bí tích ấy làm cho Thiên Chúa trở nên gần gũi ta, và một sự tục hóa thiếu suy nghĩ có khuynh hướng coi thường. Một cộng đoàn họp mặt cử hành Thánh Thể nâng cao con người trong lời ngợi khen và tạ ơn.
52. Chiêm ngắm Mầu nhiệm Giáng Sinh--Lm Thái Nguyên
Chúng ta mừng lễ Chúa Giáng Sinh không chỉ để tưởng niệm một biến cố đã qua hơn 2000 năm nay, hoặc để kỷ niệm ngày sinh của một con người siêu vượt, nhưng là một thực tại phát sinh ơn cứu độ cho tất cả nhân loại chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh:
Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Những ai tin nhận và yêu mến Ngài thì tràn đầy hy vọng đạt tới chính Thiên Chúa, là niềm vui sự sống muôn đời.
Ai cũng có một khát vọng sâu xa là muốn được tồn tại và hạnh phúc mãi mãi. Người ta đua nhau đi tìm kiếm điều đó nơi các thần tượng, các triết thuyết, các chế độ, các tổ chức xã hội... Nhưng chẳng có thần minh nào, triết thuyết nào, cũng chẳng có tổ chức xã hội hay hệ thống kinh tế nào, hay bất cứ ai có thể ban cho chúng ta điều đó, vì tất cả chỉ là tạm bợ, là hư vô, là những kẻ phải chết.
Chỉ có Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô mới làm cho chúng ta được toại nguyện khát vọng vĩnh cửu đó thôi. Vì thế, những ai chỉ lo đi tìm thỏa mãn vật chất, danh vọng, tiền tài trong cuộc đời này mà quên mất lẽ sống chân thật của mình là chính Thiên Chúa, thì đều là những kẻ chạy theo ảo vọng.
Gốc gác của mỗi người chúng ta là thần linh. Dù tin hay không tin, dù nhận biết hay không nhận biết, thì đó vẫn là sự thật, bởi vì chúng ta được sinh ra từ chính sự sống và tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Và chỉ có Thiên Chúa mới đưa chúng ta trở về cội nguồn là chính Ngài. Chỉ có Ngài mới ban cho chúng ta khả năng hoàn thành một cuộc đời tốt đẹp nhất, và cho chúng ta đạt tới cuộc sống sung mãn nhất. Chính vì vậy mà Thiên Chúa đã làm người, đã sống trọn kiếp người, và trở nên mô mẫu của việc làm người cho mỗi người chúng ta.
Khi chiêm ngắm Mầu Nhiệm Giáng Sinh, ta mới thấy Thiên Chúa yêu thương nhân loại chúng ta sâu thẳm dường nào, và từ đó ta cũng nhận ra thân phận cao cả của mình là con cái Thiên Chúa. Vì yêu thương vô biên, nên Chúa đã chọn bước xuống làm người bé mọn, chọn cha mẹ quê mùa, chọn gia đình vô danh, chọn nơi chốn sinh ra tồi tàn, chọn cuộc sống nghèo hèn, chọn hoàn cảnh bấp bênh, chọn một dân tộc cứng đầu cứng cổ, chọn những môn đệ yếu kém, chọn con đường thập giá, chọn chén đắng ô nhục, và cuối cùng, chọn cái chết bi thảm (x.Pl 2, 6-8).
Có ai được tự do hoàn toàn và quyền năng vô cùng, mà lại lựa chọn cuộc sống như thế không? Chẳng ai làm thế ngoài một mình Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chọn làm người như thế, để không ai còn có thể than trách về số phận hay tình cảnh của mình, mà phải nhận ra thân phận Chúa trong chính thân phận mình. Dù cuộc đời mình có gian nan khốn khó nào đi nữa thì cũng là cuộc đời của chính Thiên Chúa đã làm người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người cho ta tuyệt đối xác tín rằng: Chúa đã một lần giáng sinh trong cuộc đời ta, Ngài đã bước xuống lòng ta. Từ đó Ngài ở trong ta và âm thầm sống cho ta. Ngài thật sự đảm nhận trọn vẹn cuộc đời ta qua mọi tình trạng và hoàn cảnh. Ngài đã đón nhận và cùng đau cái nỗi đau của ta qua những vấp váp, yếu đuối, trì trệ và thất bại; Ngài đang đón đợi và hoàn thiện hoá từng nổ lực kiên trì vươn lên của bản thân ta trong mọi lúc. Quả thật, chính Chúa đang sống trong ta, và cho ta kinh nghiệm sống trong Chúa.
Lễ Giáng Sinh nhắc nhở, mời gọi và thúc đẩy ta biết chọn Chúa một cách quyết liệt hơn để hoàn thành sự sống cao cả của mình. Hãy để cho Chúa Giêsu bước vào cuộc đời mình, được cư ngụ trong tâm hồn mình. Hãy để Ngài được sinh ra và lớn lên trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta được trở nên khuôn mặt và tấm lòng của Ngài ở giữa mọi người. Để từ đó ta có thể trao ban Chúa Giêsu cho người khác bằng chính sự hiện diện của mình: một sự hiện diện khiêm hạ và đầy nhân ái yêu thương; một sự hiện diện đem lại bình an, vui mừng và tràn đầy hy vọng cho mọi người chung quanh.
53. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Có một bài ca Giáng Sinh bất hủ mà mỗi độ Giáng Sinh về chúng ta đều nghe vọng lại cách thân thương quen thuộc: Bài Đêm Thánh Vô Cùng. (Silent night, Holy night). Vâng Đêm nay quả thật là Đêm Thánh. Bởi vì đêm nay, hầu như tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ lớn bé, tín ngưỡng hay vô thần, tin Chúa hay tin Phật…đều đỗ nhau ra đường, tuôn đến các Thánh đường, các tụ điểm sinh hoạt văn hoá, để chung một niềm vui: Vui Noel, để rạo rực một tâm tình: tâm tình Giáng Sinh.
Nhưng nếu lễ Noel chỉ đem lại cho mỗi người chúng ta chỉ một niềm vui thoáng qua, một hạnh phúc chóng tàn, như cái bóng hạnh phúc ảo ảnh trong ánh lửa của cô bé bán diêm trong câu chuyện “Cô bé bán diêm” của văn hào Andecxen, để rồi sau đó, đêm Noel qua đi, những bài ca Giáng Sinh ngừng lại, ánh sáng của sao lạ, hang đá máng cỏ vụt tắt, rồi tất cả lại quay về với một đời thường tăm tối, đắng cay, thất vọng, khổ sầu…thì việc đón mừng Giáng Sinh của chúng ta chẳng khác nào tiếp đón một người khách xa lạ, khách đi rồi mà chẳng để lại nơi tâm hồn ta, nơi mái nhà ta, nơi cuộc sống ta một dư âm nào, một kỷ niệm nào, và nhất là, một chuyển biến nội tâm nào.
Không, trong phút giây đặc biệt nầy, tôi xin mời gọi ông bà và anh chị em hãy cùng tôi khám phá những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Giáng Sinh, để niềm vui đêm nay, ánh sáng đêm nay, âm thanh đêm nay, không chỉ loé sáng lên để rồi vụt tắt lịm như những que diêm của Cô bé bán diêm xấu số cùng với cái chết thương tâm của cô giữa trời tuyết lạnh; nhưng phải được nối dài, phải được vang vọng trên mọi nẽo đường cuộc sống của chúng ta.
I. GIÁNG SINH: MỘT MẦU NHIỆM ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA
Thiên Chúa làm người: Phải chăng đây là một khẳng định táo bạo, một sự lừa bịp, một tuyên truyền láo khoét? Không, với mỗi người Kitô hữu chúng ta, “Thiên Chúa làm người” đó là một xác tín cơ bản, một niềm tin căn cốt đã ăn sâu trong hồn, đã thuộc lòng trên môi miệng và đã được cử hành, nhắc nhớ trên từng cây số của cuộc sống. Chân lý nầy lại được một lần nữa long trọng cử hành trong chính đêm nay, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính của Thánh lễ nầy “ Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong long Trinh Nữ Maria và đã làm người”.
Nhưng với những người không chia sẻ cùng một niềm tin với chúng ta, thì quả thật “mầu nhiệm Thiên Chúa Làm Người” quả là một thách đố, nếu không nói là xa lạ và ảo tưởng. Điều nầy cũng đễ cảm thông thôi; vì, cách đây 2000 năm, cho dù được các Sứ ngôn tiên báo, cho dù được Sách Thánh thông tin xa gần, dân Do Thái vẫn không hề chấp nhận được “Một Đấng Cứu Thế” sinh ra trong hang lừa máng cỏ, một Đấng Emmanuel con của gia đình Bác Thợ Mộc Giuse và Bà Maria ở làng quê Nadarét. Với tâm thức chung của họ lúc bấy giờ, và cũng là tâm thức của nhiều người trong nhân loại hôm nay, Thiên Chúa phải là một “Ông Trời” toàn năng trên các tầng mây, một Thượng Đế uy nghi lẫm liệt trên cõi vĩnh hằng; nếu Ngài có “hạ cố làm người”, thì cũng phải làm người trong cung cách của một vị đế vương oai hùng lẫm lẫm nơi gác tía lầu son, nơi cung đình tráng lệ, chứ làm gì có một “Ông Trời sinh ra trong thân phận của một Em Bé khóc oa oa vấn tả nằm trong máng chiên lừa bao quanh chỉ có mấy chú mục đồng khổ nghèo kiết xác. Cũng vì quan niệm như thế mà địa chỉ đầu tiên Ba Nhà Đạo Sĩ Phương đông tìm đến để kiếm tìm Đấng Cứu thế là Thủ đô Giêruxalem nơi cung điện của đại vương Hêrôđê. Nhưng nơi đó làm gì có Đấng Cứu thế giáng sinh. May mắn, nhờ “Sao Lạ dẫn đường, các Đạo sĩ đã tìm gặp Đấng Emmanuel nơi hang lừa máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem, trong thân phận của một em bé nghèo hèn yếu đuối. Vâng, nếu không có “Anh sao lạ”, nếu không có “thiên thần hiện ra loan báo Tin vui”, nghĩa là, nếu không có sự “mặc khải”, sự dẫn đưa của Thiên Chúa, thì loài người chúng ta không ai có thể khám phá, nhận biết được mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Chúng ta sẽ mãi mãi ngủ vùi trong một giấc ngủ triền miên của sự lầm lạc, cách xa và mù tối về sự hiện diện của Thiên Chúa làm người. Thật cần thiết biết bao “ánh sao mặc khải của Thiên Chúa”.
II. GIÁNG SINH: VÌ YÊU THIÊN CHÚA CHIA SẺ PHẬN NGƯỜI.
Nhưng làm sao Thiên Chúa lại phải làm người, và làm người trong thân phận nghèo nàn, tăm tối, thấp hèn?
Để hiểu phần nào chân lý nầy, chúng ta có thể mượn câu ca dao của Việt Nam:
“Yêu nhau trăm sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Một trăm chỗ lệch: Giữa chúng ta, giữa con người với Thiên Chúa không phải chỉ có “một trăm chỗ lệch” nhưng là cách xa muôn trùng. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, toàn thiện, toàn mỹ, còn chúng ta chỉ là thân phận tạo vật do bàn tay Người tác tạo. Sự cách biệt đó càng lớn, càng sâu, càng cách xa vời vợi khi con người phản bội, chối từ Ngài, mà Lời Chúa trong Sách Sáng Thế đã nói với chúng ta qua câu chuyện “bi kịch ăn trái cấm nơi vườn địa đàng”.
Tuy nhiên, Thiên Chúa cao xa quyền năng đó, lại là một “Thiên Chúa nhân từ” và giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa luôn nhớ lại lòng khoan dung. Chính vì tình yêu bao la đó, mà Thiên Chúa đã không đành bỏ mặc con người trong khoảng cách xa vời vợi, trong thân phận mồ côi lạnh lùng, trong sự lạc loài cách biệt. Thánh sử Gioan đã nói: “Thiên Chúa đã yêu thương con người đến đổi đã ban Con Một xuống trần…” (Ga 3,16).
Thiên Chúa làm người để con người được ơn cứu rỗi, hay như lời một Giáo Phụ: “Thiên Chúa làm người để con người được làm Chúa”. Nói cách khác: Thiên Chúa muốn nâng con người lên, đem con người vào vị trí cao cả mà ngay từ đầu Thiên Chúa đã muốn tác tạo: đó là giống hình ảnh Người. Đúng là “một trăm chỗ lệch…”
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong lịch sử con người.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện cách trọn vẹn và hết mình. Cho nên, mừng mầu nhiệm Giáng Sinh chúng ta mừng hai ý nghĩa, hai tác động có liên quan mật thiết:
- Thiên Chúa làm người và con người được nâng lên
- Là ngày “chúng ta tái diễn cuộc vào đời của Thiên Chúa “, là dịp chúng ta ý thức “Hồng ân vĩ đại, cao cả của mỗi người chúng ta vì chúng ta được mời gọi làm con Thiên Chúa, được chia sẻ vinh quang thần linh của Thiên Chúa.
III. GIÁNG SINH: THIÊN CHÚA DẪN LỐI ĐƯA ĐƯỜNG
Nhưng khẳng định trên, chân lý trên, có ích gì cho xã hội hôm nay, cho mỗi người chúng ta hôm nay? Vâng, đã hơn 2000 năm rồi, Thiên Chúa đã làm người, đã cứu chuộc chúng ta bằng chính cái chết và sự sống lại của Ngài, bằng chính Giáo Hội mà Ngài thiết lập để qui tụ nhân loại và ban ơn cứu độ là chính Thánh Thần của Thiên Chúa…thì thế giới vẫn còn nguyên đó với chiến tranh đầu rơi máu đỗ, với chết chóc hận thù, với bịnh tật khổ đau…Để hiểu tại sao như thế, chúng ta phải trở về với chính những Lời Chân Lý được công bố hôm nay:
Bài đọc 1, trích sách Sứ ngôn I-sa-ia đã vang vọng những lời tuyệt đẹp: “Đoàn người bước đi trong tăm tối, đã nhìn thấy ánh sáng bao la, ánh sáng bừng lên trên những miền âm u sự chết…vì một Hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người con đã được ban tặng cho chúng ta”
Trong khi đó, bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch sử mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với những lời và bối cảnh thật ấn tượng: “Trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng…bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiên ra loan báo rằng: “Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng Cưứ thế đã giáng sinh…”
Vâng, giữa cảnh nô lệ, lưu đày nước mất nhà tan khi đế quốc Assur thôn tính Ít-ra-en vào khoảng 700 năm trước Công Nguyên, vị tiên tri thi sĩ I-sa-ia đã tiên báo “ một Đấng Emmanuen sẽ được một Trinh nữ sinh ra”… và 700 năm sau, trong buổi bình minh của thiên niên kỷ đầu tiên của công nguyên, cũng lại là một đất nước Ít-ra-en tan nát dưới quyền đô hộ của Rôma, sứ thần đã loan Tin Mừng vĩ đại cho các mục đồng ở Bê-lem: “Đấng Cứu thế đã giáng sinh”.
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng và hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã có được những gì, đã chứng kiến được, đã cảm nhận thật sự điều gì đã xảy ra? Có hay không Một Đấng Cứu thế như lòng họ hằng mơ ước? Có hay chăng một Vị Vua oai hùng lẫm liệt đăng quang trở về chấp chính để an bang tế thế? Có hay chăng một Đấng Cứu tinh mang lại no cơm ấm áo, đất đai biên giới mở rộng thênh thang, quyền uy chính trị trãi trên ngàn dân nước?
Không! Hoàn toàn trái ngược hẳn:
- Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đâng Cứu Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
- Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng lẫm liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi chen lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
- Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương kinh tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng “Tám Mối Phúc Thật” chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
- Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gưom đao để mở rộng cõi bờ, sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu tử hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ…
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm để chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một “Ông Giêsu” chỉ với mục đích là được no cơm ấm áo, chỉ với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những bảo đảm vật chất…thì có lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng Giáng Sinh, Chân lý của Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề nghị cho chúng ta những giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn đó. Bởi vì Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị-kinh tế. Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi duy nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh “ trong Bài đọc 2 vừa được công bố hôm nay “đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (BĐ 2), là Đấng qui tụ nhân loại thành anh em trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh phúc vĩnh hằng.
Cũng chính vì lẽ đó, “Hiến chương Nước Trời” được Ngài vạch ra như nẽo đường dẫn tới cõi phúc chân thật lại là những giá trị xem ra thật ngược đời, nhưng cũng thật anh hùng và đòi hỏi: Tinh thần khiêm hạ khó nghèo, hiền lành nhân ái, hy sinh để chia sẻ và cho đi, yêu thương để xây dựng hòa bình, không ngừng biết khoan dung để tha thứ…
Chính cuộc đời 33 năm trần thế của Ngài, cho dù không để lại một công trình kiến trúc vĩ đại, không một tác phẩm văn chương uyên bác, không một sáng chế khoa học diệu kỳ…thì 20 thế kỷ qua vẫn là cột trụ của nhân loại, là hy vọng của muôn thế hệ, là điểm tựa cho muôn ức triệu tâm hồn. Từ máng cỏ Bê-lem cho tới đỉnh đồi Núi Sọ, cuộc đời của Chúa Giêsu duy nhât chỉ là một định nghĩa đúng đắn nhất về tình yêu: Yêu là cho đi và cho đi đến cùng: Thiên Chúa trở nên nghèo hèn, tự hiến để con người được cứu độ vinh quang; Thiên Chúa chấp nhận làm “hạt lúa gieo vào trần gian mục nát”, để con người ngẩng cao đầu đứng lên tìm được hạnh phúc vĩnh hằng. Đó cũng chính là ý nghĩa cuối cùng của mầu nhiệm được cử hành hôm nay: mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mầu nhiệm Nhập thể - Giáng Sinh.
Kết luận: Như vậy, chúng ta đón nhận và sống mầu nhiệm Giáng Sinh như thế nào đây cho đầy đũ ý nghĩa và mang giá trị hiện thực? Để thay cho câu trả lời tôi xin kể một câu chuyện nhỏ: “Tiệm tạp hóa bên kia ngọn đồi”
Khi ánh mặt trời vừa ló dạng, có một chàng thanh niên đứng đợi trước cửa hàng tạp hóa bên kia ngọn đồi. Chờ mãi mà cửa vẫn chưa mở. Sắp sửa định bỏ đi, thì bổng có tiêng mở cửa và một thiên thần xuất hiện:
- Anh cần gì? Tôi là chủ ở đây.
- Ở đây Ngài có bán hòa bình không?
- Tôi bán tất cả.
- Con muốn mua hòa bình đem vào nơi chiến tranh, mua an hòa đem vào nơi tranh chấp, mua chân lý đem vào chốn lỗi lầm…
- Còn mua gì nữa nào?
- Con muốn mua ánh sáng chiếu vào nơi tối tăm, mua niềm vui đem vào chốn u sầu…Con muôn mua tất cả những gì để thế giới không còn khủng bố, chiến tranh, bạo lực, hận thù, ghen ghét, để mọi người hít thở trong không khí trong lành, huynh đệ yêu thương…Vâng con muốn mua được những liều thuốc chữa được mọi bệnh tật, mọi người được no cơm ấm áo…
- Thiên thần từ tốn đáp: Nầy anh, ở đây không bán quả. Thượng Đế giao cho tôi chỉ bán hạt giống thôi…
Thưa ông bà và anh chị em. Sứ điệp Giáng Sinh hôm nay cũng là “Hạt Giống” Tin mừng được trao gởi cho mỗi người chúng ta. Hạt giống của Niềm vui và bình an, hạt giống của yêu thương và chia sẻ, hạt giống của hy sinh và tận hiến, hạt giống của tha thứ và khoan dung, hạt giống của huynh đệ và đoàn kết…Đó chính là những hạt giống mà Con Thiên Chúa đã trao tặng khi xuống thế làm người và muốn chúng ta sinh hoa kết trái. Ước gì niềm vui và ân sủng của Giáng Sinh năm nay sẽ ở lại nơi tâm hồn mỗi người chúng ta và biến đổi cuộc đời chúng ta thành nhứng chứng nhân của hòa bình và công lý, của bác ái yêu thương, của khoan dung tha thứ, của phục vụ quên mình. Và như thế, chiến tranh bạo lục, khủng bố hận thù, ghét ghen tranh chấp, đói khát nghèo nàn…sẽ bị đẩy lùi để nhường chõ cho một thế giới tốt đẹp hơn, anh bình hơn, vui tươi và hạnh phúc hơn như lời sấm của Sứ Ngôn I-sa-ia trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi làm mồi nuôi lửa. Vì Một Hài đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Giờ phút nầy, lời sấm ngôn đó không còn là một lời tiên báo nữa, vì chút nữa đây, chúng ta sẽ được chia sẻ chính thịt máu Ngài được ban tặng cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết tri ân và cảm tạ, hân hoan và yêu mến. Amen.
54. Lễ Giáng Sinh--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu bạn khám phá ra cha bạn - một người rất giàu có - đã xếp đặt để mẹ bạn sinh bạn ra trong một chuồng bò hay chuồng heo của nhà ai đó, bạn sẽ nghĩ thế nào về cha của bạn? Bạn lý giải thế nào về việc Thiên Chúa đã quan phòng để Đức Giêsu, Con Ngài, ra chào đời trong một chuồng bò?
2. Đặt mình vào địa vị của Đức Maria và thánh Giuse, bạn sẽ nghĩ và nói thế nào về Thiên Chúa khi hai Ngài phải rời Nagiarét vào Bêlem, không tìm được chỗ trọ, và phải sinh con trong chuồng bò?
3. Tại sao Thiên Chúa lại để cho Đức Giêsu phải chịu đau khổ, nhục nhã từ khi sinh ra đến lúc chết? Thiên Chúa ghét và muốn hành hạ Con của Ngài chăng? Nếu không, phải lý giải thế nào về sự kiện ấy?
Chia Sẻ
1. Con Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong cảnh tột hèn kém
Chúng ta thử tưởng tượng xem một vị hoàng đế trần gian nếu biết trước đứa con mình sinh ra sẽ là vị cứu tinh của trần gian, thì hoàng đế ấy sẽ chuẩn bị cho người con ấy chào đời như thế nào? Chắc chắn ông sẽ chuẩn bị cho con mình một nơi thật xứng đáng, với quần áo, tã lót, chăn mền... thật sang trọng. Và cũng tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người mẹ sẽ sinh ra con mình. Chính vì tưởng rằng Thiên Chúa trên trời cũng suy nghĩ như mình, nên người Do Thái thời Đức Giêsu đã tưởng Đấng Cứu Thế sẽ phải sinh ra trong cung vàng điện ngọc. Nhưng họ không ngờ Thiên Chúa suy nghĩ khác hẳn với cách nghĩ của họ!
Theo Tin Mừng, Đức Giêsu đã sinh ra trong hang bò lừa. Đã là chỗ nuôi và chứa sức vật đương nhiên phải hôi tanh và bẩn thỉu. Chắc chắn Giuse và Maria phải hết sức ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa đối xử với mình, nhất là với Đấng Cứu Thế hài nhi như vậy! Nhục nhã thay cho Đấng Cứu Thế! Bất kỳ ai biết mình chào đời trong một chỗ tối tăm và nhục nhã tận cùng như thế đều không tránh được mặc cảm cho rằng cuộc đời mình cũng sẽ tối tăm và nhục nhã như thế!? Trước sự thật phũ phàng trước mắt, chắc hẳn phải có lúc hai ông bà nghi ngờ rằng: liệu lời thiên sứ nói với mình về đứa trẻ mình sinh ra có thật hay không? Nghi ngờ để rồi lại tự nhủ, tự an ủi, tự tìm lấy lý do để cố mà tin cho vững hơn! Thực tế thật phũ phàng, nhưng đó lại chính là thánh ý của Thiên Chúa. Muốn cứu thế giới khỏi những nhơ nhớp của tội lỗi, Con của Ngài cũng phải nhập thể từ chốn nhơ nhớp nhất của trần thế! Muốn đưa con người lên thật cao, Thiên Chúa nhập thể phải xuống cho thật thấp, thấp đến tận cùng!
2. Cách xếp đặt của Thiên Chúa… thật hết sức nghịch lý!
Thật là nghịch lý và không thể hiểu nổi cách Thiên Chúa đối xử với người Con độc nhất và hết sức yêu quí của Ngài, và với hai người đặc biệt mà Ngài chọn để hạ sinh, bảo vệ và nuôi dưỡng người Con ấy! Giuse và Maria đang sống yên lành tại Nagiarét, những tưởng đứa con trong bụng nàng sẽ ra đời tại nhà mình ở làng ấy. Chắc hẳn chàng và nàng đã mua sắm đồ này vật nọ để chuẩn bị cho xứng đáng với chức vị cao cả của đứa bé sắp chào đời! Nào ngờ chiếu chỉ kiểm tra dân số của Hoàng Đế Rô-ma đã đảo lộn tất cả, đã đẩy đôi trai gái đức hạnh - chỉ biết nghĩ đến thánh ý Thiên Chúa - vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ đầy gian khổ!
Từ làng Nagiarét vùng Galilê thuộc miền Bắc Do Thái, chàng và nàng phải vượt qua vùng Samari đầy đồi núi của miền Trung để về tận làng Bêlem vùng Giuđê thuộc miền Nam Do Thái. Đường chim bay đo theo tỷ lệ xích trên bản đồ cũng phải là 120 cây số, đường ngòng ngoèo trong thực tế hẳn phải trên 150 cây. Thời ấy có lẽ hai người phải dùng một con la để di chuyển. Hành trình chắc chắn vất vả! Điều nghịch lý nhất nằm ở chỗ Thiên Chúa lại quan phòng cho ngày phải di chuyển ấy xảy ra khi Maria mang thai đến thời kỳ sinh nở. Sau một hành trình vất vả như thế, khi tới nơi những tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho Con của Ngài một chỗ để sinh nở tương đối xứng đáng, nhưng khốn thay... tất cả mọi người mọi nơi đều từ chối! Nếu hai ông bà có tiền, chắc hẳn không đến nỗi! Chưa sinh ra, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể đã phải đối diện với sự ích kỷ và tính coi trọng tiền bạc hơn tình nghĩa của con người! Không kiếm được chỗ để trọ và sinh con, hai ông bà đành trọ và sinh con trong chuồng súc vật!
Kết quả của những nghịch lý ấy là gì? ai phải khổ đây? Cả gia đình gồm 3 người Giuse, Maria và Giêsu là khổ nhất. Phải chăng Thiên Chúa ghét và muốn đày đọa gia đình này? Chắc chắn không phải! - Có thể nói đây là gia đình quan trọng nhất, được Thiên Chúa quan tâm, ưu ái đặc biệt nhất! Vì thế, nếu đã xảy ra như vậy - đương nhiên là do sự quan phòng vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa - thì ắt hẳn đây phải là cách có lợi nhất cho đại cuộc cứu chuộc nhân loại. Như vậy, vì đại cuộc, Thiên Chúa buộc những «người của Ngài» phải hy sinh, phải chấp nhận nhục nhã, đau khổ hơn những người khác. Nhưng bù lại, Ngài sẽ ân thưởng cho «người của Ngài» vinh quang, hạnh phúc cao quí nhất!
3. Nghịch lý... nhưng lại rất hợp lý và khôn ngoan
Như vậy ta thấy Thiên Chúa coi hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã chóng qua trong hiện tại không quan trọng bằng hạnh phúc hay đau khổ, vinh quang hay nhục nhã lâu dài trong tương lai. Nếu phải chịu khổ hay chịu nhục một chút trong hiện tại để rồi được hạnh phúc hay vinh quang lâu dài trong tương lai, thì ai khôn ngoan cũng đều sẵn sàng chấp nhận. Còn nếu được hưởng hạnh phúc hay vinh quang thật ngắn ngủi trong hiện tại để rồi phải chịu đau khổ và nhục nhã lâu dài trong tương lai, thì chỉ có người ngu mới chấp nhận! Những cha mẹ thật sự yêu thương con cái sẵn sàng chọn lựa để con cái mình phải đau khổ hay chịu nhục nhã một chút hầu về sau chúng được hạnh phúc và vinh quang lâu dài. Bạn chưa tin ư? Này nhé, giả như bạn phải chọn lựa cho bạn hoặc cho con cái bạn giữa ba khả thể sau đây, thì bạn chọn khả thể nào: một là đau khổ hiện tại 1 mà hạnh phúc tương lai 10, hai là đau khổ hiện tại 2 mà hạnh phúc tương lai 100, và ba là đau khổ hiện tại 3 mà hạnh phúc tương lai 1.000? Chắc chắn bạn sẽ chọn khả thể thứ ba. Thiên Chúa cũng chọn lựa cho những người Ngài đặc biệt yêu thương tương tự như vậy. Chính vì thế, Ngài sẵn sàng để Đức Giêsu, Người Con độc nhất mà Ngài yêu quý nhất phải chịu đau khổ và nhục nhã ngay từ khi chào đời đến giây phút cuối cùng của cuộc đời để cứu chuộc nhân loại, hầu cuối cùng, trong vĩnh cửu, Đức Giêsu trở thành người hạnh phúc và vinh quang nhất không ai sánh bằng!
Nếu ta biết nhìn bằng con mắt đức tin và khôn ngoan như thế, thì việc Đức Giêsu phải chịu đau khổ và nhục nhã từ khi sinh ra cho đến hết cuộc đời sẽ trở thành một sự kiện bảo đảm, một căn cứ để hy vọng, và một niềm an ủi lớn lao cho ta khi ta gặp phải những đau khổ lớn lao trong cuộc đời. Khi Thiên Chúa dành cho chúng ta đau khổ hay nhục nhã trong hiện tại, thì điều đó không có nghĩa là Ngài ghét bỏ ta. Trái lại có thể là Ngài đang dành cho ta một ưu đãi, một sự yêu thương đặc biệt mà ta có quyền chấp nhận hay từ chối. Nếu tự nguyện chấp nhận thì hạnh phúc và vinh quang của ta sẽ rất lớn, và lớn thế nào tùy thuộc vào chất lượng sự tự nguyện của ta và mức độ đau khổ ta sẵn sàng đón nhận. Nếu từ chối, ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội quí báu mà Thiên Chúa vì yêu thương đã dành cho ta, vì «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!» (Rm 8,18).
Vậy, người thường hay kẻ không tin kêu ca về nghịch cảnh, về đau khổ mình phải chịu thì không có gì là lạ. Nhưng người Kitô hữu, người mang danh theo Chúa, người có lý tưởng tông đồ, người được Chúa chọn, được mang danh là «người của Ngài», mà lại than vãn khi gặp nghịch cảnh thì quả là... vẫn còn sống theo tính xác thịt, như thánh Phaolô đã phiền trách: «Tôi không thể nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô. Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt» (1Cr 3,1-3).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu sinh ra thật nhục nhã và sống một cuộc đời đầy đau khổ, nhưng đã sống lại trong vinh quang và trở thành Chúa Tể trời đất. Qua sự việc ấy con mới hiểu được giá trị của đau khổ. Đúng lý ra khi gặp đau khổ, nhục nhã, trái ý… con phải vui mừng vì biết khi cho phép xảy ra như vậy là Cha thương con cùng một cách như Cha đã từng thương Đức Giêsu và bao vị thánh của Cha. Đúng ra con nên nói «con được đau khổ» chứ không phải «con bị đau khổ»!
55. Đừng thờ lầm--Ga 1, 1-18--Lương Thực Ngày Chúa Nhật
Phần tự ngôn Phúc âm theo thánh Gioan khuyên nhủ chúng ta nhận thức rõ tầm mức siêu phàm của lễ Giáng Sinh, cũng như sự uy nghi của mầu nhiệm Giáng Sinh. Con trẻ Giêsu là Ngôi Lời nhập thể đến cư ngụ giữa chúng ta. Đứng trước Hài nhi bé mọn ở Bêlem, chúng ta được mời tiến sâu vào chính mầu nhiêm Thiên Chúa, tới chỗ của Ngôi Lời – tức là Lời hằng sống và thân mật của Thiên Chúa đã có trước toàn thể vũ trụ. Như vậy chúng ta được mời hãy đến thờ lạy. Kẻ thờ phụng là kẻ khi được tới gần bên Thiên Chúa liền nhận thức sâu sắc rằng mình là kẻ tuỳ thuộc, vô giá trị, tội lỗi nữa. Kính thờ và thinh lặng, cảm tạ và vui sướng, đó là cách tuyên xưng Chúa là sự Thiện tuyệt đối và nguồn mọi ơn lành. Lễ Giáng Sinh mời chúng ta đến thờ lạy Con trẻ Giêsu. Trong Hài Nhi, Thiên Chúa rất gần gũi – trong Hài nhi có sự sung mãn của Thiên Chúa – và nhờ Hài nhi, chúng ta được có mặt trên thế gian để sống, hiểu biết và yêu thương. Sự suy niệm về một vài từ ngữ trong tự ngôn của thánh Gioan có thể cung cấp cho chúng ta một phong cách thờ phụng.
1) Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng tạo hóa. Não trạng nhân lạo thời nay dễ loại bỏ ý niệm về Đấng tạo hoá, con người chỉ muốn những gì mình có là do sức mình. Một số tiến bộ nào đó để tìm hiểu những diễn biến vật chất của sự sống, đã đem lại chước cám dỗ xui con người muốn quyết định ai sẽ có quyền được sinh ra và cuộc đời mình sẽ diễn tiến thế nào. Con người quên mất nguồn gốc mình, quên hẳn sự thể bởi đâu mà mình có được thân xác, có được sự sống. Con người suy tư và hành động như thể không bị hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng tạo hoá đã tạo thành y. Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng đang có, trước đây vốn có, và đến trong thế gian (Mạc khải 4, 8), nghĩa là Đấng hiện hữu ngoài thời gian, đã có trước hết mọi khởi đầu, do Người mà muôn vật được tạo thành. Lễ Giáng Sinh tức lễ Nhập Thể cho thấy một sự tự ý hạ mình nào đó của Thiên Chúa. Để làm nổi bật sự tương phản giữa tất cả và hư vô. Chúng ta được mời hãy ý thức lại về thân phận thụ tạo của mình hãy thờ phụng Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta. Thiên Chúa là Đấng tự hữu, Người không được tạo thành- phần chúng ta, chúng ta đã được tạo thành. Vì thế, chúng ta phải suy tư và hành động theo chiều nghĩ: nhờ Thiên Chúa mà chúng ta có được mọi sự.
2) Nhờ Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy trong tâm trí và trong sự thật. Một trong những diện chủ yếu và bi kịch nhân loại là con người thường nhiều phen lầm lạc trong khi thờ phụng. Luôn luôn con người bị cám dỗ thờ ngẫu tượng. Tại sao? Vì lẽ, nếu không có Đức Kitô thì nhân lại chỉ còn biết dò đường trong đêm tối – trí tuệ bị u ám, trái tim chán nản hết sinh động. Thế mà Đức Kitô là Ánh sáng. Người là Sự Sống, và sự sống là Ánh sáng nhân loại. Thờ phụng cách linh hoạt giống như tâm hồn tiến bước trên đường tới đích là Thiên Chúa. Phải được soi sáng mới khỏi lạc đường. Đức Kitô- Anh sáng soi sáng trí tuệ con người và chỉ con người thấy đường đi của số mệnh y.
Ánh sáng và sự sống liên kết với nhau. Kẻ thờ các ngẫu tượng (khoái lạc, danh vọng, tiền của, thế gian) thì dò dẫm trong bóng tối linh hồn, và hiến mình cho những vật chết. Cách vô hình, và nhiều phen thật bất hạnh cho y, kẻ ấy liên kết trong tâm hồn bóng tối và sự chết. Trái lại, người nào tiếp nhận ánh sáng, tức quy tắc về Chân Lý, do niềm tin vào Đức Kitô phát ra, người ấy liên kết trong tâm hồn Ánh sáng và sự sống.
Lễ Giáng Sinh mừng ánh sáng. Trong khi vui ngắm những giây đèn giăng mắc ngoài đường phố và trong tư gia, chúng ta hãy nhớ đến sự cần thiết hàng đầu là làm thế nào để Ánh sáng Đức Kitô soi sáng lòng và trí chúng ta.
56. Của lễ dâng Chúa Hài Nhi—Lễ Đêm 2014-- Lm Giuse Nguyễn Thành Long
Chúng ta đang cùng với toàn thể Giáo Hội long trọng mừng kỷ niệm một biến cố đặc biệt, biến cố Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đi vào trần gian. Tất nhiên, Ngài đi vào trần gian không phải để đi du lịch, hay để đi tham quan một vòng cho biết trần gian; cũng không phải để vi hành như các vua chúa trần gian thường làm. Con Thiên Chúa nhập thể vào trần gian là để làm người và ở với con người.
Con Thiên Chúa đi vào trần gian cũng không phải như một nhân vật thần thoại hóa nhân, hay một siêu nhân hoá kiếp... Ngài đi vào trần gian cũng không phải như là một sản phẩm của trí tưởng tượng con người, đại loại như một thần đồng vươn vai lớn lên như Phù Đổng, mạnh mẽ phi thường như Thiên Vương khiến hùm beo phải sợ. Ngài là một nhân vật lịch sử có phả hệ, có lý lịch hẳn hoi như mọi người; có dòng tộc tổ tiên (gia phả dài), có ông bà cha mẹ, có quê hương đất nước. Thật ra, nếu Thiên Con Thiên Chúa đến trần gian để làm vua hay làm Chúa thì chẳng có gì để nói, bởi vì tự bản tính Ngài là Vua trên các vua, là Chúa trên các chúa. Nhưng Ngài đã làm người như ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi.
Chúa Giêsu đã đi vào gia phả của nhân loại với mục đích nào? Ngài đi vào gia phả của nhân loại để thiết lập tương quan huyết thống với con người. Ngài đi vào gia phả của nhân loại để đưa con người vào phả hệ thần linh của Thiên Chúa. Có điều, Ngài đi vào trần gian, đi vào gia phả nhân loại trong cảnh nghèo hèn khiêm hạ. Tại sao vậy?
Trong nhân loại chúng ta, chẳng ai có quyền được chọn lựa gia đình hay gia cảnh để sinh ra, ngoại trừ Đức Giêsu Kitô, vì Ngài là Thiên Chúa. Vậy tại sao Đức Giêsu lại chọn sinh ra trong cảnh nghèo hèn như thế?
Có lần tôi hỏi các thầy đang học tại Chủng Viện thánh Nicôla, Phan Thiết rằng nếu Chúa Giêsu giáng sinh trong thời đại ngày hôm nay thì Ngài sẽ chọn quốc gia nào và hoàn cảnh nào để sinh ra?
Có thầy bảo: “Theo con Chúa sẽ chọn nước Mỹ để sinh ra vì nước Mỹ hùng mạnh và Chúa Giêsu sẽ có những phương tiện tốt nhất để để loan báo Tin Mừng cho cả thế giới”.
Có thầy cho rằng Chúa Giêsu sẽ chọn một nước ở Phi Châu vì ở đó có nhiều người nghèo đói, hơn nữa Chúa sinh ra làm một người da đen cũng tốt thay vì da trắng. Là da đen, Chúa sẽ gần gũi với người Phi Châu nghèo khổ hơn.
Thầy khác thì bảo rằng Chúa Giêsu sẽ chọn nước Anh, vì ngày nay ngôn ngữ quốc tế thông dụng nhất đó là tiếng Anh. Và lúc đó mọi người sẽ hiểu được những gì Chúa nói khỏi cần thông dịch viên.
Một số thầy khác thì cho rằng Chúa Giêsu sẽ chọn Trung Quốc, bởi vì Trung Quốc là một quốc gia đông dân nhất thế giới, Trung Quốc cũng là nơi có nhiều hàng độc hại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, và Chúa sẽ đổi mới người dân Trung quốc để họ bớt gian dối và rất có thể ngài sẽ biến Trung Quốc thành kinh đô của Kitô giáo. Nhưng thầy này cũng lưu ý Đức Mẹ khi mang thai coi chừng bị người ta bắt phá thai!?
Một số thầy khác nữa thì bảo rằng Chúa Giêsu sẽ chọn Philipin hoặc Việt Nam, vì ở hai quốc gia này quanh năm phải chịu nhiều thiên tai bão lụt. Sinh ra ở đây Chúa Giêsu sẽ đồng cảm với người dân những nước này hơn.
Có thầy lại chọn Nam Cực làm nơi cho Chúa sinh ra, vì ở đó có nhiều gấu và chim cánh cụt rất dễ thương, khí hậu lại trong lành. Chúa Giêsu có thể dùng xe tuyết đi lại an toàn.
Đặc biệt có thầy không chọn một quốc gia nào hết, mà lại chọn trạm không gian. Vì trên trạm không gian không bị ô nhiễm môi trường, nên sẽ tốt cho trẻ sơ sinh và bà mẹ đang cho con bú. Vả lại, sinh ở trên đó, Chúa Giêsu sẽ là của cả trái đất, chứ không phải của một dân tộc nào, khỏi phân bì, v.v…
Tuy nhiên, đại đa số các thầy vẫn cho rằng Chúa Giêsu vẫn sẽ chọn cảnh nghèo để sinh ra và để làm người. Sở dĩ Ngài chọn sinh ra trong cảnh nghèo là để “ở với” con người, để cảm thông với thân phận con người, đặc biệt là thân phận của những người thấp cổ bé miệng, và hơn thế nữa là để chết cho con người, để rồi qua cái chết của Ngài, con người được hưởng ơn cứu độ.
Quả thật, nếu Thiên Chúa sinh ra trong cung điện, trong đền đài vua chúa, hay sinh ra trong một gia đình giàu sang quyền quý, có lẽ những người phận hèn không bao giờ có cơ hội đến được với Ngài, càng không bao giờ dám được làm bạn với Ngài. Thực tế, Thiên Chúa đã đến trần gian để ở với con người và làm bạn với con người. Đó là điều có thật, chứ không phải là giấc mơ nữa.
Vậy thì sứ điệp của ngày lễ hôm nay muốn mời gọi ta điều gì? Mời gọi chúng ta hai điều:
- Thứ nhất: hãy như các mục đồng theo lời mời gọi của các thiên thần đến chiêm ngắm Chúa Hài Nhi trong hang đá bò lừa.
Chiêm ngắm Chúa Hài Đồng nơi hang đá máng cỏ để ta cảm nghiệm ngày một sâu xa hơn tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta mà năng biết dâng lời tạ ơn Chúa. Thật vậy, Hài Nhi Giêsu là Thiên Chúa quyền năng vô tận, nhưng đã chấp nhận mặc lấy thân phận con người,sống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Chấp nhận thân phận con người thì cũng chấp nhận sự mỏng dòn, yếu đuối của thân xác: cũng đói, cũng khát, cũng có khi nhức đầu sổ mũi. Thân xác Hài nhi, cũng phải chấp nhận sự lớn lên, sự nuôi dưỡng như mọi người…
Chiêm ngắm Chúa hài Đồng trong hang đá máng cỏ, để chúng ta biết ý thức hơn về phẩm giá và địa vị cao quý của con người, dù còn bé tí hay già nua bệnh tật. Con người có địa vị và phẩm giá cao quý vì con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa, được Con Thiên Chúa đến làm bạn, và hiến ban chính cả mạng sống mình.
Chiêm ngắm Chúa hài Đồng trong hang đá máng cỏ, để chúng ta cũng biết yêu mến anh chị em mình nhiều hơn, nhất là những người bé nhỏ nghèo hèn. Vì họ là hiện thân của chính Chúa.
- Thứ hai: hãy như các nhà đạo sĩ biết quảng đại tiến dâng của lễ đời mình cho Chúa. Của lễ nào?
Khi hỏi các thầy ở Chủng Viện cùng câu hỏi này, tôi nhận được rất nhiều câu trả lời. Có thầy thì nói rằng con cũng không biết dâng gì, vì dạo này toàn hàng Trung Quốc, nên đụng đâu cũng hàng giả. Nếu có dâng thì con dâng tặng Chúa chiếc xe đạp ba bánh để thánh Giuse chở Chúa đi dạo thôi.
Có thầy thì bảo Chúa sinh ra mùa đông lạnh lẽo, nên con sẽ dâng cho Chúa mấy bộ áo em bé để Chúa mặc, và tặng cho Chúa vài thùng sữa Vinamilk hoặc Milô để Chúa uống khi chỉ có thánh Giuse ở nhà.
Có thầy thì bảo con sẽ dâng Chúa hài Nhi một chiếc Attila để thánh Giuse có thể chở Đức Mẹ và Chúa Hài Nhi đi Aicập nhanh hơn. Có thầy thì dâng cho Chúa một visa để Chúa có cơ hội đi du lịch.
Có thầy bảo rằng con sẽ dâng cho Chúa một bình sữa không bao giờ cạn để Mẹ Maria đỡ vất vả. Có thầy bảo rằng nếu con là một trong ba nhà đạo sĩ, con sẽ dâng cho Chúa một cái máy sưởi hiệu Panasonic, loại tốt nhất, để sưởi cho Chúa bớt lạnh. Có thầy khiêm tốn hơn thì bảo rằng con sẽ dâng cho Chúa một cây viết và một cuốn sổ để Chúa viết nhật ký hằng ngày. Nhờ đó mà sau này hậu thế có chữ viết của Chúa và các Tông đồ khỏi vất vả ghi chép.
Có thầy quan tâm hơn đến thời thế thì bảo rằng con sẽ dâng cho Chúa một bộ áo chống đạn và một hộp sữa Trung Quốc nhiễm Melamine. Áo chống đạn để Chúa bình an giữa chiến tranh của Palestine và Israel. Sữa Trung Quốc nhiễm Melamine để Chúa thấy sự tồi tàn của một số doanh nhân Trung Quốc ngỏ hầu Chúa biến đổi họ…
Và rồi có thầy thì rất thực tế, bảo rằng con sẽ dâng Chúa Hài Đồng Vắccin chích ngừa miễn phí tất cả các thứ bệnh, học bổng từ lớp một đến hết đại học, và sau đó là quyền đặc cách vào Chủng Viện Saigon, v.v…
Tóm lại, của lễ dâng Chúa của mỗi thầy mỗi khác. Và có lẽ mỗi người chúng ta cũng thế. Cách chung đối với các em Thiếu nhi và Huynh Trưởng trong giáo xứ trong những ngày qua, của lễ thiết thực đó là thời giờ, và công sức mà các em bỏ ra để đi tập hát, tập múa, tập hoạt cảnh… Còn đối với nhiều người lớn của lễ đó có thể là tiền bạc vật chất. Từ đầu Mùa Vọng đến nay, tôi đã nhận được một số quà dâng Chúa Hài Đồng từ những người lớn: tiền, mì tôm, gạo….
Thực sự Chúa Giêsu Hài Đồng có cần chúng ta trực tiếp cho Chúa của cải hay các tiện nghi vật chất không? Không. Nhưng Chúa cần ta cho Chúa cách gián tiếp qua những người nghèo khổ bệnh tật neo đơn… Họ là hiện thân của Chúa Giêsu Hài Đồng. Vì thế, khi ta giúp đỡ chia sẻ với những kẻ bé mọn là ta đã làm cho chính Chúa.
Thấy Chúa Giêsu năm nào cũng mừng Giáng sinh trong háng đá nghèo hèn, năm nay anh em gia trưởng quyết định làm cho Chúa một “căn nhà” tình thương. Lúc đầu tính làm nhà cấp 3, nhưng thấy không đủ kinh phí, nên thu nhỏ lại thành nhà cấp 4. Làm nhà cấp 4 mà cửa chính cửa sổ vẫn chưa có cánh.
Thiết nghĩ, qua hình ảnh đó, anh chị em được mời gọi hãy chung tay, chung sức làm những căn nhà tình thương cho những Giêsu đang hiện thân nơi những anh chị em nghèo khổ. Ngay trên đất nước Việt Nam này, có rất nhiều Giêsu bằng xương bằng thịt đang cần những “ngôi nhà mơ ước”, tức những ngôi nhà tình thương. Họ đang phải sống tạm bợ nơi những căn nhà chòi, hay nhà lá tạm bợ không đủ che mưa che nắng, chứ chưa nói đến tiện nghi vật chất.
Dù khi không thể làm được nhà cho những người vô gia cư thì ta cũng có thể làm nghĩa cử nào đó cho họ. Đức Thánh cha Phanxicô, trong ngày mừng sinh nhật lần thứ 77, đã quyết định mời 3 người vô gia cư vào ăn trưa với mình. Một nghĩa cử đầy nhân ái làm ấm lòng những người bất hạnh. Âu đó cũng là một cách dâng lễ vật cho Chúa Hài Đồng trong Mùa Giáng Sinh.
Và trên hết, thiết nghĩ có một thứ của lễ mà ai trong chúng ta, dù giàu hay nghèo cũng luôn có sẵn, có sẵn ngay lúc này đây, và đây cũng là của lễ mà Chúa Giêsu luôn chờ đợi, đó chính là con người của chúng ta với cả tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Dâng cho Chúa để làm gì? Để cho Chúa tha thứ, chữa lành và biến đổi nên tốt đẹp hơn. Hãy dâng Chúa của lễ này. Amen.
57. Dấu hiệu của Chúa--Lm. Phạm Quốc Hưng
"Và sự này làm dấu cho các ngươi: các ngươi sẽ gặp thấy một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ."
Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta cũng nhận biết tầm quan trọng của các dấu hiệu. Có hai loại dấu hiệu: một loại là tự nhiên và một loại khác là qui ước. Khói và ánh sáng cùng sức nóng là dấu hiệu tự nhiên của lửa. Đèn đường xanh đỏ hay các bảng chỉ đường là những dấu hiệu qui ước của luật lưu thông. Khuôn mặt tươi vui là dấu hiệu của một con người hạnh phúc. Thân xác sống động của một người cũng là dấu hiệu của sự hiện diện toàn vẹn của cả người ấy với hồn thiêng bất tử. Cái bắt tay hay nụ hôn là dấu hiện của tình thân ái. Ngôn ngữ cũng là một loại dấu hiệu để con người trao đổi tâm tình và kiến thức với nhau. Và có lẽ ngôn ngữ là loại dấu hiệu quan trọng bậc nhất trong các liên hệ giữa con người với nhau. Chúng ta không thể có một liên hệ thân mật với ai, nếu chúng ta không nhận biết các dấu hiệu và ngôn ngữ của người ấy.
Thiên Chúa cũng dùng các dấu hiệu để thiết lập và hàn gắn tương quan yêu thương với con người chúng ta.
Thực vậy, Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Người, nghĩa là cho chúng ta có lý trí và ý chí tự do để chúng ta có thể yêu thương và đón nhận tình thương. Người đã cho con người sống trong liên hệ yêu thương mật thiết với Người, và chỉ trong liên hệ này con người mới tìm được hạnh phúc đích thực và viên mãn. Vì tội tổ tông, mối tương quan yêu thương giữa Thiên Chúa và con người đã bị tổn thương. Nhưng một lần nữa vì yêu thương, Thiên Chúa đã quyết định cứu chuộc con người, nghĩa là Người muốn hàn gắn lại liên hệ yêu thương giữa Người và nhân loại.
Để thực hiện việc hàn gắn lại mối tương quan yêu thương giữa Thiên Chúa và nhân loại còn gọi là việc cứu độ nhân loại, Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái làm dân riêng trong thời Cựu Ước để chuẩn bị cho việc xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa đã bày tỏ ý định yêu thương này cho dân Do thái qua các tổ phụ và ngôn sứ do chính Người tuyển chọn. Về điều này, thánh Phaolô viết: "Đã lắm phen cùng nhiều kiểu, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông nơi các tiên tri"(Dt 1:1). Những tổ phụ và ngôn sứ - những người được chọn để chuyển thông ý định cứu chuộc của Thiên Chúa trong thời Cựu Ước - cùng với chính dân tộc Israel vì vậy chính là những dấu hiệu Thiên Chúa đã dùng để bắt đầu việc gầy dựng lại mối tương quan yêu thương với nhân loại chúng ta. Họ đã là những sứ giả của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô viết tiếp: "Vào thời sau hết, tức là những ngày này, Người đã nói với ta nơi một Người Con, mà Người đã đặt làm Đấng thừa tự tất cả mọi sự, và cũng nhờ Ngài mà Người đã làm ra các thế giới: Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Người, và cầm giữ cả vạn vật bằng lời quyền năng của Ngài, sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi, Ngài đã lên ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cữu trùng, trổi hơn thiên thần vạn bội, bời khác với họ, Ngài đã thừa hưởng một Danh khôn ví"(Dt 1:2-4)
Thời sau hết mà thánh Phaolô nói đến ở đây chính là thời Tân Ước kể từ khi Chúa Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã "hóa thành xác phàm và ở giữa chúng ta" (Ga 1:14). Đây là một biến cố trọng đại nhất trong lịch sử ơn cứu độ. Và đây chính là ý nghĩa sâu xa nhất của đại lễ Giáng Sinh mà chúng ta cử hành hôm nay.
Khác với các tổ phụ và các ngôn sứ trong thời Cựu Ước là những dấu hiệu hay những sứ giả Thiên Chúa dùng để chuẩn bị để trao ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại, Chúa Giêsu là chính Đấng Cứu Thế, là Trung Tâm của lịch sử nhân loại, là Dấu Hiệu của Sự Hiện Diện Đích Thực của Thiên Chúa ở giữa nhân loại, là chính Ơn Cứu Độ, và là chính Sự Bình An mà con tim nhân loại hằng mong mỏi đợi chờ.
Chính Thiên Chúa đã long trọng công bố sự kiện vô cùng trọng đại này cho nhân loại qua các lời thiên thần nói với những mục đồng trong đêm Chúa giáng sinh như sau:
"Đừng sợ! Này ta đem tin mừng cho các ngươi về một niềm vui to tát, tức là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, đã sinh ra cho các ngươi Vị Cứu Chúa, tức là Đức Kitô Chúa, trong thành của Đavít. Và sự này làm dấu cho các ngươi: các ngươi sẽ gặp thấy một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ" (Lc 2:10-12)
Như vậy, dấu hiệu của Sự Hiện Diện Đích Thực của Thiên Chúa ỡ giữa nhân loại là "một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ".
Đây thật là một mầu nhiệm siêu việt của Thiên Chúa Tình yêu, một mầu nhiệm vượt quá mọi suy tưởng và mơ ước của con người.
Ai dám nghĩ đến việc Thiên Chúa toàn năng nay biến thành một hài nhi nhỏ bé yếu đuối? Đấng Tạo Hóa mà muôn vật phải phục tùng nay phải lệ thuộc sự săn sóc chăm nom của đôi bạn trẻ Giuse và Maria. Chúa Tể Muôn Loài nay phải sinh ra trong cảnh nghèo hèn tận cùng của máng cỏ Bêlem.
Nhưng đó chính là đường lối của Thiên Chúa, đường lối của Tình yêu Nhập Thể - một tình yêu sẽ mãi mãi liên kết Thiên Chúa với nhân loại và với từng người nơi Chúa Giêsu.
Vì thế, từ biến cố giáng sinh mà chúng ta kỷ niệm hôm nya, đón nhận và yêu thương "một hài nhi mình vấn tả, đặt nằm trong máng cỏ" là đón nhận và yêu thương chính Thiên Chúa làm người, là đón nhận và yêu thương chính Thiên Chúa làm người, là đón nhận tình yêu nhập thể và hồng ân cứu độ của Thiên Chúa. Đón nhận và yêu thương con người với niềm tin yêu hướng về Thiên Chúa là đón nhận và yêu thường chính Chúa, như Chúa Giêsu đã phán: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25:40)
Tất cả những cố gắng sống đạo của chúng ta gồm cả việc tổ chức mừng đại lễ giáng sinh hôm nay sẽ trở thàny vô ích nếu chúng không giúp ta nhận ra dấu hiệu sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta để đón nhận và mến yêu Người, để đươc Người ban ơn cứu độ.
Ý nghĩa đích thật cho cuộc sống hiện tại và hạnh phúc vĩnh hằng đời sau của chúng ta tùy thuộc ở sự chấp nhận hay chối bỏ các dấu hiệu của Chúa trong cuộc đời chúng ta.
Ngày xưa, Chúa Giêsu đã chọn tỏ mình ra cho Đức Mẹ, thánh Cả Giuse và các mục đồng trong đêm giáng sinh đầu tiên nơi "một hài nhi mình vấn tã, đặt nằm trong máng cỏ". Ngày nay, trong mỗi thánh lễ, Người tiếp tục tỏ mình cho chúng ta yêu mến tôn thờ và kết hợp với Người nơi bí tích Thánh thể.
Ngày xưa, bạo vương Hêrôđê đã tìm giết Chúa Giêsu bằng cách giết hài nhi vô tội để củng cố ngai vàng trần thế của ông. Ngày nay, người ta tiếp tục giết Chúa Giêsu qua việc giết các bé thơ vô tội ngay khi các em còn trong lòng mẹ qua tội ác phá thai để củng cố lối sống ích kỷ buông thả vô trách nhiệm của họ.
Chúng ta sẽ chọn noi gương Mẹ Maria, thánh Giuse và các mục đồng để đón nhận và yêu mến Chúa Hài Nhi qua các nỗ lực bảo vệ và bênh vực quyền sống các thai nhi hay chọn thái độ của bạo vương Hêrôđê qua lối sống ích kỷ buông thả vô trách nhiệm với những tội xúc phạm đến phẩm giá và sự sống con người.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin dạy chúng con noi gương Mẹ Maria nhận biết các dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin Chúa cho chúng con tin nhận Chúa hiện diện đích thực trong bí tích Thánh Thể như xưa Chúa đã ngự nơi hang đá Bêlem, để chúng con thêm lòng sùng ái và sốt sắng kếp hợp cùng Chúa. Xin Chúa cho chúng con nhận biết Hội thánh chính là Nhiệm Thể Chúa, để chúng con tha thiết mến yêu và vâng phục mọi giáo huấn chân thực của Hội thánh. Xin Chúa cho chúng con cảm mến niềm vui và bình an sung mãn của Chúa, qua việc nhận biết, yêu mến và phụng sự Chúa nơi những người xung quanh chúng con, cách riêng là những người "hèn mọn nhất". Amen.
58. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
SINH HẠ, CẮT BÌ VÀ ĐẶT TÊN
CHO TRẺ GIÊSU (Lc 2, 1-20)
Từ đây bản văn sẽ phá vỡ tiến trình song song. Thực vậy, có hai khác biệt lớn lao giữa cảnh này và cảnh trước. Đối với Người Con của Đức Maria, Luca nêu bật trước hết cảnh sinh ra, trong khi việc cắt bì và đặt tên ông chỉ nhắc đến rất vắn tắt (c.21), điều này ngược với trường hợp của Gioan. Phần khác, một mặc khải đi liền theo sau việc cắt bì của vị tiền hô; nhưng việc tuyên sấm của ông Giacaria không có tầm vóc rộng lớn như cảnh sinh ra của Chúa Giêsu được gọi là Phúc Âm, Tin Mừng (c.10). Và nhất là, đối với Chúa Giêsu, cảnh mặc khải theo nghĩa chặt sẽ được chuyển đến cảnh tiếp theo trong Đền Thờ.
Các câu 1-7 trình bày việc kiểm tra dân số, hành trình của cha mẹ rồi việc sinh con trai đầu lòng. Sắc chỉ của Xêda Augustô gây khó khăn về phương diện lịch sử. Đúng là Quirinô đã cho tiến hành kiểm tra dân số xứ Giuđêa khi tỉnh này thuộc quyền cai trị trực tiếp của Rôma; điều đó đã gây ra cuộc nổi loạn của Giuđa người Galilê (Cv 5,37: có Giuđa người Galilê nổi lên vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt, và tất cả những người theo ông ta đều bị tan tác). Nhưng vào khoảng năm 6 hoặc 7 SCN, lúc đó Chúa Giêsu đã chừng mười tuổi rồi –Người sinh ra dưới triều Hêrôđê (Lc 1,5; Mt 2,1), ông này băng hà vào năm 4 TCN. Như vậy Luca đã lầm khi, trong bài khởi đầu long trọng này, muốn đăng ký Chúa Giêsu vào lịch sử thế giới– ông sẽ làm lại một cách đầy đủ hơn ở 3, 1-2 và cũng tỏ bày cho thấy Thiên Chúa sử dụng sắc chỉ của Xêda. Trong sách Công Vụ, Thiên Chúa còn sử dụng các luật lệ La Mã để dẫn dắt Phaolô đến rao giảng Tin Mừng ở Rôma… nhất là điều đó đã là một cái cớ cho cuộc hành trình, là một cái cớ bởi vì những cuộc kiểm tra như thế luôn luôn làm ở nơi thường trú chứ không làm ở nguyên quán.
Thực ra nhờ truyền thống (x. Mt 2,1) Luca biết rằng con trẻ sinh ra ở Bêlem, thành của Đavít, địa điểm này cho phép nhấn mạnh một lần nữa rằng Chúa Giêsu là con cháu (c.4) Đavít. Tuy nhiên, Luca không trích dẫn sấm ngôn của Mk 5,1 (x. Mt 2,6); thực vậy rất hiếm thấy những trích dẫn rõ ràng ở Luca 1-2. Thực vậy, đích điểm của cuộc hành trình không phải chỉ là Bêlem mà chính là một máng cỏ trong thành này. Phòng trọ chật chội đến nỗi phải đặt em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ, diễn ngữ này được dùng tới ba lần (c. 7.12.16) và điều ấy muốn nói rằng đó là kết quả của sáng kiến của Thiên Chúa. Mà có nơi nào ý nghĩa hơn đối với các mục tử cho bằng máng cỏ? Như vậy là chúng ta được quy hướng tới mấy chú mục tử này.
Luca lại dùng một lần nữa công thức thần học: “(những) ngày bà phải sinh con đã tới (hoàn tất)”, ông nói đến con trai đầu lòng để chuẩn bị cho việc dâng con trong Đền Thờ (2,23).
Bây giờ đến cảnh mặc khải cho các mục tử (cc. 8-14). Tại sao những người làm một nghề như thế lại được đón nhận mặc khải này? Hẳn là có một liên hệ văn chương giữa thành Bêlem và đề tài mục tử: Khi ấy Đavít chăn đàn súc vật của cha ông ở Bêlem (1Sm 16,11; 17,15), nhưng Luca không nói rõ về chuyện ấy, điều ông quan tâm nhiều hơn đó là các mục tử ở Palestin vẫn bị mang tiếng xấu, người ta thường coi họ là những kẻ bất lương và trộm cắp. Sách Tamud Babylon đã xếp họ vào một nhóm những người bị coi là kẻ tội lỗi: “Những mục tử và những người thu thuế thì khó mà sám hối được”. Những người bị khinh dể ở cấp bậc thấp nhất trong xã hội lại là những người đầu tiên được nói đến nhờ việc đản sinh của một em bé có mẹ là một người khiêm hạ (1,48) và sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo (4,18). “Tác động hướng về máng cỏ là dấu chỉ cho những người chăn chiên tội lỗi nhận ra được Đấng Cứu Tinh đã đến (B. Trémel); con trẻ sơ sinh đã là người sẽ đón tiếp những kẻ tội lỗi và sẽ ăn uống đồng bàn với họ (15,2)
Mặc khải đích thực (cc. 9-12) có nhiều yếu tố nhắc nhở những trình thuật về việc báo tin cho ông Giacaria và cho Đức Maria, chỉ có các vấn nạn là được bỏ đi. Sứ thần của Thiên Chúa thay thế cho thiên sứ Gabriel, việc đản sinh Chúa Giêsu được gọi là Tin Mừng, việc ấy sẽ tạo ra một niềm vui lớn: Ba tước hiệu được dành cho trẻ sơ sinh là: Hôm nay, Đấng Cứu Tinh là Đấng Kitô Đức Chúa đã sinh ra cho các ngươi, là những người nghèo và dân tộc bé nhỏ. Ba tước hiệu đều đến từ lời tuyên xưng niềm phục sinh của Giáo Hội, hai tước hiệu cuối ở môi trường Do Thái, tước hiệu thứ nhất ở môi trường lương dân để đi đôi với việc tôn thờ hoàng đế Xêdarê như vị cứu tinh. Như vậy, lời loan giảng của Giáo Hội mà Phêrô và Phaolô sẽ thực hiện sau này đã được mặc khải cho các mục tử.
Dấu chỉ –có ở đây như ở trong hai trình thuật báo tin, nhưng các người chăn chiên không đòi hỏi– thì rất trái ngược với tước hiệu Kitô học: điều đó cho phép những ai tìm dấu chỉ ấy sẽ gặp Hài Nhi mới sinh được bọc khăn, Hài Nhi ấy được đặt trong một máng cỏ chứ không phải là trong một chiếc nôi ở một đền đài đế vương nào đó. Độc giả có thể ngạc nhiên trước sự kiện dấu chỉ không có gì kỳ diệu. Trong khi Israel có thể chờ đợi Đấng Mêsia sinh ra với những dấu chỉ gây ngạc nhiên (x. ngôi sao dẫn đường các đạo sĩ ở Mt 2,2-9), dấu chỉ ở đây thích hợp với Đấng sẽ là vị Mêsia khiêm tốn và đau khổ của những kẻ nghèo, dấu chỉ ấy đặc biệt am hợp với những người chăn chiên.
Bấy giờ có tiếng khen ngợi của một nhóm đông vô kể của các thiên sứ (cc. 13-14) hợp với vị thiên sứ vừa tuyên bố Tin Mừng; bài thánh thi ngắn gọn mời các mục tử và các độc giả nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, Đấng, qua việc đản sinh của Người Con Đức Maria, sẽ đem lại bình an, yên ổn, hòa hợp và thịnh vượng cho dân là đối tượng của lòng nhân hậu Ngài. Không đặt vấn đề thiện tâm mà con người có hay không để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Cảnh diễn ra trong các câu 8-14 tập trung vào những vị sứ giả từ trời: loan báo Tin Mừng và lời ngợi khen có tính cách phụng vụ. Tin Mừng từ Thiên Chúa được thông báo cho các mục tử trước khi họ loan truyền cho dân. Như ở phần trước, những chi tiết hữu hình mắt thấy được bị hạn chế tối đa.
Cho tới lúc đó, các mục tử ở trong tư thế thụ động; họ không còn thụ động nữa trong cảnh tiếp theo, nơi đó thuật lại ba phản ứng (cc. 15-20): phản ứng của các mục tử, phản ứng của những người nghe họ kể lại và cuối cùng là phản ứng của Đức Maria. Các mục tử thấy những sự việc như thiên thần đã loan báo và loan truyền lại sứ điệp của thiên thần; khi nghe họ dân chúng ngạc nhiên – như bà con của ông Giacaria (1,63), như cha mẹ của Chúa Giêsu (2,23). Câu 20 còn nói rõ hơn về các mục tử: sau khi từ máng cỏ trở về, họ làm nhiệm vụ của các thiên sứ là ngợi khen và tôn vinh Thiên Chúa (xcc. 13-14). Về phần Đức Maria, Người nổi bật vì thái độ đón nhận (câu 19 trong đó dội lại câu 51 chương 2). Từ sứ thần Gabriel, Người đã biết rằng con mình sẽ là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Thiên Chúa và là Đức Chúa; từ các mục tử đã được sứ thần loan báo, Người biết rằng con mình là Đấng Cứu Tinh. Nhưng một cách cụ thể các tước hiệu này có ý nghĩa gì? Nếu Đức Maria suy nghĩ về tất cả những điều đó trong lòng, chính là vì Người chưa hiểu hết ý nghĩa như chương 2 câu 50 xác minh.
Câu 20 là chuyển tiếp qua cảnh sau: như đối với người con của ông Giacaria và bà Êlisabét, đặt tên dường như quan trọng hơn nghi thức cắt bì; cả hai trường hợp đều có sự vâng theo lời sứ thần Gabriel. Cảnh đặt tên là đối tượng của một khai triển dài đối với vị tiền hô, nhưng ở đây lại không phải như vậy.
59. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM
VÀ THIÊN THẦN BÁO TIN CHO CÁC MỤC ĐỒNG
(Lc 2,1-14)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bóng tối của một sự ra đời...
Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca không muốn làm công việc của một sử gia - lẽ tất nhiên không theo nghĩa hiện đại của từ ấy - nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy cảm với lịch sử cứu độ.
Thánh sử muốn đưa việc Đức Giêsu sinh ra vào lịch sử chung, bằng cách nối kết sự giáng sinh của Người với "sắc lệnh của hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ." J. Potin suy diễn thêm: "ở Syria việc kiểm tra dân số thường diễn ra 12 năm một lần. Flavius Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên chúng ta, dưới thời Quirinius có cuộc kiểm tra dân số điều này trong hợp với cuộc kiểm tra dân số Luca đã đề cập đến. Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên chúng ta, rất có thể là năm Đức Giêsu sinh ra" ("Đức Giêsu, lịch sử có thật", Centurion tr. 93).
- Vì muốn nhấn mạnh sự nối tiếp của lịch sử cứu độ và lịch sử ấy hoàn tất với Đức Kitô, nên Luca đề cập đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu:
Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse đi về Bêlem "thành của Đavid" để khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà và dòng dôi Đaviđ”.
Chính tại Bêlem “ Maria vợ ông đang có thai” sẽ hạ sinh con trẻ. Biến cố được diễn tả cách giản dị lạ thường. Trong chuyến đi về Bêlem, tuy đóng vai trò quyết định, nhưng Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ mới là người quan trọng: Ngài sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong máng cỏ " ( cảnh này gợi lên cảnh đặt vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm bọc Ngài và đặt vào mồ), vì không có chỗ cho họ trong "phòng tập thể”: (sau này chúng ta sẽ gặp lại "phòng tập thể" trong Luca, đó là phòng tiệc ly: Lc 22,11).
2. Sẽ soi sáng mọi đêm tối".
Trái với sự thanh vắng, bóng tối và sự nghèo nàn của cảnh ra đời, này đây "trong vùng lân cận”, đêm tối rạng ngời và tiếng hát vang dội, nói lên ý nghĩa của biến cố vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau, những người đầu tiên được lãnh nhận ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của thời đại: các mục đồng, một lớp người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp với hạng người tội lỗi và bọn thu thuế. H.Cousin giải thích: "ở Palestin, chăn chiên là lớp người mang tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất lương và trộm cắp. Sách Talmud ở Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý: dân mục tử, bọn thu thuế, thật khó mà ăn năn trở lại". những người bị khinh chê và được xếp vào bậc thang cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên được đoái đến bởi Đấng vừa sinh ra, con của một người mẹ "hèn hạ " (Lc 1,48: phận nữ tỳ hèn mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó (4, 18). Đấng vừa sinh ra là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn với họ " (15, 2) ("Tin Mừng thánh Luca", Centurion tr. 38-39).
- Sứ điệp mà "các thiên thần của Chúa" mang đến cho họ là một "Tin Mừng" (Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là tin vui cho "Toàn dân”. Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một hài nhi, nơi Người các tước hiệu: "Đấng cứu độ", "Đấng Mêsia ", "Chúa " đạt được sự viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải sống động về lòng nhân từ của Thiên Chúa. "Đấng cứu độ ", "Đấng Mêsia” (Kitô), "Chúa”, ba tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội tuyên xưng đức tin phục sinh, mà chúng ta sẽ thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv 2,36...) và của Phaolô (Cv 13,33...).
- "dấu chỉ" cho các mục tử vùng Bêlem: một trẻ sơ sinh, “bọc tã nằm trong máng có", để nói vòi những ai biết đón nhận rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như người đã hứa theo cách thế không ai ngờ tới. R.Meynet dẫn giải: “ Kẻ trước hết sẽ nên sau hết. Con người được coi là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia và được thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ Người, lại nằm trong máng cỏ của súc vật, bọc tã, nằm trong cái nôi tạm bợ, cũng như sau này, Người sẽ được bọc trong khăn liệm và nằm trong ngôi mộ không phải dành cho mình. Dù mâu thuẫn, đó vẫn là dấu chỉ cho các mục tử và cho Kitô hữu của mọi thời. Dấu chứng cho sự cao sang của Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và cho quyền năng của Người lại là sự hèn yếu ("Tin Mừng theo thánh Gioan: phân tích tu từ học", Cerf, tr. 36).
- Lời tạ ơn “đột nhiên" vang lên. Trên trời, biến cố được diễn tả với chiều kích rộng lớn và trong bầu khí trang trọng. Cùng lúc, dưới đất, là cuộc tổng kiểm tra dân số của Augustô: với thiên sứ, một cơ binh trên trời đông vô số ngợi khen Thiên Chúa rằng: Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương. Cả trời đất đều mừng vui: kỷ nguyên cứu rỗi đã mở đầu Thiên Chúa, Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh quang, sẽ đổ xuống trên dân Ngài sự "bình an" mà Ngài đã hứa trong ngày cứu độ: không phải sự đảm bảo vật chất của nền "hoà bình Rô-ma" Mà Con người chờ đợi ở Augustô, nhưng là sự tràn đầy sự sống là chỉ mình Ngài có thể ban cho. Trong đêm tối, trở về với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê Bêlem, mục tử lên đường để xem sự việc đã xảy ra? Họ tìm thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Sau đó, họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những gì họ đã thấy và đã nghe, họ là gương mẫu cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca sẽ trình bày trong cuốn sách thứ hai: Sách Công Vụ Tông Đồ.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Từ Bêlem đến Phục Sinh”
(A.George, trong "Assemblées du Seigneur", số 10, tr. 6f' 67).
"Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu theo truyền thống của Giáo Hội. Ông chú ý đến sự kiện này như một biến cố rõ ràng, xảy ra ở một nơi nhất định, nhưng ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi tiết. Điều đáng ông lưu ý trong sự kiện này là ý nghĩa của lịch sở cứu độ. Đó chính là tính hiện tại của ơn cứu độ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, từ Bêlem đến Phục sinh. Khi ông định nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như Kitô Đức Chúa, ông không muốn nói những gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày Ngài sinh ra, nhưng Ngài vẫn là như thế cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu chuyện các mục tử, ông nghĩ đến tất cả những ai đã rao truyền sứ điệp thời các tông đồ, nghĩ đến tất cả những ai đã đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu chuyện đó liên quan đến chúng ta. Đối với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả phân ly với lịch sử. Ông tin rằng ơn cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức Giêsu. Và vì thế ông đã viết cuốn sách này.
Đức tin của ông, cũng như của chúng ta, không chỉ dựa trên câu chuyện ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc biết Đức Giêsu trong tất cả mầu nhiệm của Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm được mặc khải dần dà, trong sứ điệp cứu rỗi muôn đời, trong việc Ngài luôn toả sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức Giêsu là một sự kiện duy nhất đã xảy ra trong thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến chúng ta, thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đưa ra một chọn lựa trước sự kiện này. Quyết định như thế thật khó khăn vì nó đòi chúng ta phải hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng không bao giờ hoàn tất, bởi vì Đức Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu biết về Người là một khám phá của tất cả cuộc đời.
Câu chuyện giáng sinh ở Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với những ai đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là Kitô Đức Chúa. Sự Giáng Sinh làm lộ rõ điều nghịch lý nơi con người giàu: sự nghèo hèn song hành với vinh quang. Điều nghịch lý này làm cho người Do Thái thời Ngài cũng như mọi người chưng hửng: một bên là sự trần trụi của một Hài nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải tùng phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được một người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón... bên kia là sự xuất hiện của cả một đạo binh ngời sáng trên trời, vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa nỗi khốn cùng của loài người và vinh quang của Thiên Chúa chính là sự kiện Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sự hiệp thông với cả nhân loại, để dấy lên niềm hy vọng, một sự hiện diện trong tình yêu cho đến muôn đời.
Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra trong mầu nhiệm của đêm Giáng Sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời Đức Giêsu, từ những phép lạ và thử thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh quang phục sinh, toàn thắng mà thế gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn đầy dấy sự yếu hèn của chúng ta nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của Thiên Chúa. Trong Giáo Hội, trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng Sinh và Phục sinh, "chính trong sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan " ( 2 C r 12, 9 ).
2. "Đã 2000 năm"
(Mgr. F.Favreau trong "Mùa Vọng năm 2000", Documents " épiscopat, số 14, tháng 10, 1 996).
(Tạm dịch)
Hai ngàn năm đã trôi qua,
Giêsu, Chúa đã sinh ra giữa đời.
Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
Mừng cùng Giáo Hôi khắp nơi, vũ hoàn.
Niềm vui cảm tạ tri ân,
Chúa đã thăm viếng cõi trần chúng con.
Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
Ở cùng nhân loại chúng con mỗi ngày.
Chúng con cảm nghiệm giờ đây,
Chúa đang hiện diện mọi ngày đời con
Ban ơn trông cậy trường tồn,
Một niềm phó thác, con luôn vững bền.
Trên vùng Đất Hứa nửa đêm,
Chúa đến mặc khải êm đềm tình Cha.
Chúa yêu ta, chết vì ta.
Chúa ơi! Xin dẫn con và anh em
Vào trong nguồn suối êm đềm
Của tình yêu Chúa ở trên cõi đời.
Tình Cha bí mật tuyệt vời
Chính là ơn gọi con nơi thế trần.
Tibêriat dừng chân,
Tám mối phúc, Chúa ân cần dạy con.
Biến con thành sử giả luôn
Loan truyền mối phúc cho muôn muôn người.
Thánh Thần xin gởi đầy vơi,
Trên Hội Thánh Chúa ở nơi thế trần:
Ngài ban sức mạnh hồng ân
Giúp con lướt thắng tinh thần cứng tin.
Dắt con vững bước đăng trình,
Anh em, đến với mối tình tri âm.
Biến con thành thợ Phúc Âm.
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM
VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA
(Ga 1,1-18)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Lời Tựa là một Thánh Thi.
Matthêu mở đầu tin Mừng bằng "Gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con vua Đavít, con Apraham”. Luca thì bắt đầu "trình thuật về những biến cố đã diễn ra giữa chúng ta " (1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn một ít giai thoại về đời thơ ấu của Đức Giêsu: những giai thoại này vừa giới thiệu vừa tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô (như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II Mùa Vọng) đặt cho tác phẩm của Ông một tựa đề đầy ý nghĩa: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”.
Về phần Gioan, ông bắt đầu Tin Mừng bằng một Lời Tựa dưới dạng Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng thánh thi này đã được hát trong cộng đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu cuốn Tin Mừng. Cũng giống như khúc mở đầu một bản hoà tấu - hay đúng hơn như đoạn kết, thánh thi này nối kết các đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh.
Alain Marchadour giải thích: "Để mở đầu cho Tin Mừng của mình. Gioan đã chọn một thánh thi. Lời mở đầu này như khúc dạo đầu một bản nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của Tin Mừng và nói đến nguồn gốc cũng như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ tường thuật cuộc đời của Ngài khi Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Ngài là Ngôi Lời, thường tình thân thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết rằng ngôi là Thiên Chúa. Vai trò của người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi vì Người là Đấng tạo thành, là Sự Sống, là Anh Sáng cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gở định mệnh với loài người và với dân Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn Kitô hữu. Thánh thi này long trọng kể ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở với Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến giũa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11) rồi nhập thể (14) cho đến ngày trở lại, "Người là Đấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa”, " ("L Evangile de Jean", Centurion 1 992, trang 31).
2. Ca ngợi cuộc hành trình của Ngôi Lời Thiên Chúa
Chúng ta hãy theo dõi sự triển khai từng phần một.
Nguồn gốc bí nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo:
+ Hai từ đầu tiên “Khởi đầu" liên kết việc Đức Giêsu xuống trần với những chương đầu sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức Giêsu từ giây phút đầu của mạc khải: xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu "như điểm hoàn tất của tất cả mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân huệ tối hậu của Thiên Chúa, như con đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như khuôn mặt của Thiên Chúa giữa loài người" (A.Marchadour, Sđd, trang 34).
+ Trước hết, thánh thi nói đến "Ngôi Lời Thiên Chúa" (danh hiệu của riêng Gioan trong Tân ước) trong hiện hữu vĩnh cửu, tình nghĩa thiết muôn đời với Chúa Cha nhưng khác biệt với Cha: và thiên tính của Người: "Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.
Sau đó thánh thi công bố tính phổ quát của công cuộc tạo thành do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa: "Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Đồng thời, Người trao ban sự sống cho vạn vật, Người đem họ vào cuộc sống.
Ngôi Lời của Thiên Chúa, Anh Sáng và Sự Sống loài người.
Ở gần Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên thuỷ đã sống trong tương quan độc nhất với con người: Người
không chỉ là Đấng tạo thành, Người còn là “Sự Sống" và “Ánh Sáng”. Người không chỉ là nguồn gốc của mọi sinh vật, nhưng sự hiện diện của Người ở giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông với sự sống siêu nhiên. Người cũng là Anh Sáng: Không phải là ánh sáng vũ trụ, mà là ánh sáng thần linh và siêu phàm, hướng dẫn con người.
- Chứng tá của Gioan Tẩy Giả.
Trái ngược với vẻ trịnh trọng trong nhưng câu đầu của Lời Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu: "Có một Người…”
Sự Sáng đến thế gian đã có một nhân chứng đi trước, đó là Gioan, con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người này là ông được Thiên Chúa sai đến, và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho Anh Sáng: với tư cách là Tiền hô, ông hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin vào Đấng là Anh Sáng, là Đấng phải chiếm được tất cả địa vị: "ông không phải là Anh Sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”.
- Anh Sáng đã đến trong thế gian.
+ Nhưng khi Anh Sáng đến thế gian thì con người lại từ chối và chống đối. Thế gian mà Ngôi Lời đã tạo thành lại khước từ Anh Sáng, thật là trớ trêu! (vấp phạm): Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.
Còn trớ trêu hơn nữa, là "gia nhân của Người”, dân của Lời hứa, dân của Giao ước, "đã không đón nhận Người”.
+ "Còn những ai đón nhận Người - dù là dân Israel hay dân ngoại thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa?
- Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
+ Gioan đã viết "người phàm”, theo đúng chữ là "trở nên xác thịt”; từ "xác thịt" ở đây không có nghĩa đối nghịch với linh hồn, nhưng có ý nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư nát.
+ "Người cư ngụ giữa chúng ta" ( theo đúng chữ: Người cắm lều của Người giữa chúng ta): độc giả của Gioan đọc cụm từ này liền nghĩ ngay đến "nơi ở" của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Người, được tượng trưng bằng Lều giao ước trong sa mạc, thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu trở nên người phàm: (Ga 2,19-22: "Chúa nói về Đền thờ thân xác Người").
+ "Chúng tôi được nhìn thấy vinh quang của người" trong con người Giêsu, cộng đoàn của Gioan quả quyết rằng họ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm chất, một vầng hào quang mạc khải Thiên Chúa.
- Đức Giêsu Kitô đã mạc khải Thiên Chúa vô hình.
"Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.
Jean Perron nhận xét: "Bài Thánh Thi đã khởi đầu từ Ngôi Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết thúc bằng tư tưởng "Con Một ở nơi cung lòng Chúa Cha": đó chính là dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu, cũng giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào cuối đời Người: "Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa" (Ga 13,3). Nhưng trong "tiến trình đi lên cùng Đấng duy nhất cần nhận biết (không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa, ngay cả đến Môsê ), Người muốn đem ta đi cùng: "Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (14,3). Và còn hơn thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà Người đã dẫn ta vào: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy" (14,23)" ("Lire de Bible", số 52, trang 34-35).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Một câu không có "động từ " thì không có nghĩa
("Bible du Dimanche" trang 51 1-512).
(Trong tiếng Pháp, "verbe" vừa nghĩa là động từ, vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)
"Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Một từ ngữ, nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được?
Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của tử ngữ, mà đã nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói qua một tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong yếu đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi người rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng nói mà đã trở nên người phàm.
Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: "Không ai đã được thấy Thiên Chúa'? Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy Người vẫn vắng bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói "Lời cuối cùng” của Người.
Chỉ có Lời ("động từ") này mới làm cho câu có ý nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc Người không loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý; Người soi sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Anh Sáng.
Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và đôi khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và trờ nên hiển nhiên trước mắt chúng ta".
2. Vài câu Kinh Thánh tóm tắt hoàn hảo cả công trình Thiên Chúa đã thực hiện thể cứu-độ nhân loại.
(L. Sintas trong "Parole de diệu pour la méditation ét l'homélte -Năm C", Médiaspaul. trang 20-2).
Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi trọng nhất trong truyền thống bình dân của tội Thánh. Cách đây không lâu, mọi thánh lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong, các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng đến nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây stola trên đầu chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một thói quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này thật ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại.
- Khởi đầu là xác quyết long trọng về bản tính của Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán... và sự vật liền có. Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày đặc, cũng không thể cản được ánh sáng tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy và quét sạch bóng tối để ngự trị.
Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa, bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. "Ngôi Lời là sự sáng thật. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người”. Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không. thể vượt qua nếu con người không đồng ý.
Con Thiên Chúa "đã đến nơi nhà Người và gia nhân Người không đón nhận Người”. Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân loại. Từ khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên Chúa mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét xử và hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể gây cho Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. "Nhưng những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa”.
Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được vẽ lên. Nó họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ danh cho những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể nào nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập giá lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự mãn của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh sáng sẽ phủ ngợp con người họ".
3. Tổng hợp sống động giữa hai quy trình xem là trái ngược ("Célébrer" số 264, trang 41-42).
Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: “Người”, “trong Người”, "nhờ người". Qua việc dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt kể ra mối tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công cuộc tạo dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử nhân loại.
Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm Ngôn đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật về đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong việc tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau vậy sự Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà Thiên Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một ngày kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người. Kế hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý nghĩa do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết Người và giao tiếp với Thiên Chúa...
- Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở trong một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng "chúng tôi" để chỉ cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan, chương 1: "Điều vẫn có ngay từ lúc thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe...? Lần này không còn nói về điều ở trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự thể với Đức Giêsu Nagiarét, một cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và xúc động: phải, chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem ra trái ngược nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự kiện Nhập Thể - đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua mọi thành phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất, qua Giao ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành và mang khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay mọi người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con".
60. Chú giải của Noel Quesson
Lc 2, 1-14
Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian. Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi xinh trước mắt chúng ta. Nhưng rõ ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một “chiêm niệm" nội tâm hơn: Trình thuật của ông là một “nhập đề" thần học dẫn vào Tin Mừng của ông, một Tin Mùng chỉ có thể nắm bắt trọn vẹn nhờ Đức tin.
Thời ấy, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Xêda Augustô là hoàng đế nổi tiếng nhất của Rôma (từ năm 30 trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK). Vào năm 27, ông đã để cho Nghị viện phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô, tiếng Hỳ Lạp là "Sebastos", có nghĩa “xứng đáng được tôn thờ". Khi sử dụng tước hiệu diệu kỳ của một ông "vua trần gian" như trên, Luca muốn minh chứng cách tương phản rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết bao: Người sẽ hạ sinh như một trẻ thơ giòn mỏng, thuộc lớp người di cư đáng thương.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện hồi ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria.
Nếu bức tranh của lễ Noel đầu tiên này khá mờ tối.
Xứ sở thì bị xâm chiếm. Dân cư thì lệ thuộc dưới ách thống trị của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch sử ngoại giáo, ta biết rằng, cuộc kiểm tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi dậy, vào năm 6, trong thời kỳ cai trị thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng đất và công trình xây cất của dân chúng... để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu cũng phải đương đầu với viên tổng trấn khác, Phongxiô Philatô.
Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên miền Giuđê".
Giuse để cho các biến cố hướng dẫn mình. Thế giới mà Đức Giêsu bước vào là một thế giới khó khăn, đầy những gò bó (Noel không đẹp chút nào). Nhưng "Thiên Chúa thường viết thẳng trên những đường cong của chúng ta". Và những biến cố là "những ông thầy mà Thiên Chúa tự tay trao cho chúng ta" (Pascal). Tôi có xác tín rằng, Thiên Chúa vẫn có đó, đang hạch hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn tiến, trong tất cả những gì đang xảy đến với tôi không? ông lên đường cùng với một người nữ đang mang thai.
Lên thành của Đavít, gọi là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia tộc của Đavít.
Luca "giải thích" biến cố dưới ánh sáng của lời sấm Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là "cứu Chúa” mà "một thiếu nữ Sion phải hạ sinh”, "trong một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê", giữa những người nghèo khổ, thuộc "số nhỏ còn lại"... trong "thành của Đavít". Nhưng thực tế, vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác với những điều người ta mong đợi Người ta mong chờ Người phải là Đấng quyền năng, giàu sang, mạnh mẽ! Thế mà Người lại đến trong tư thế bất lực, nghèo khó, yếu di... Thiên Chúa nhận thấy, những người đạo đức lầm lẫn về Người khiến Người đã phải bước vào trong thế giới "kín mật", một cách bất hợp pháp. Người đã vượt lậu qua ranh giới chúng ta. Không khi nào "những nhà hữu trách" chịu chấp nhận Người, nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta không thể có ý tưởng về một Thiên Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm thường như thế, không màng đến những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu thốn những gì xứng hợp với Thiên Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi mà tôn giáo thiết lập để tôn vinh mình!
Nếu tất cả những điều đó không đáng kể với Thiên Chúa, vậy thì cái gì đáng kể đối với Người.
Ông lên đó khai tên cùng với vợ mình là bà Maria, lúc ấy đang có thai.
Bản văn Hy Lạp viết: "Với hôn thê của mình là Maria, lúc ấy đang có thai". Ở đây Luca muốn sử dụng cùng một từ như lúc diễn tả cảnh Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn với nhau cách chính thức nhưng Giuse và Maria không sống chung đụng với nhau Maria vẫn là "trinh nữ” Vậy mà, cô lại "có thai"! Tại sao ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức của mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ có khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng sáng tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh khiết chỉ mình Thiên Chúa là "Cha" của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê đang mang thai.
Khi hai người ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyện khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
Trình thuật trên trình bày thật là quá giản dị! Khác hẳn với những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại và cổ tích. Đó là một bé thơ như bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào quang lượn quanh đầu, hoàn toàn đơn sơ và trần trụi!
Thiên Chúa phán: Ta đã tạo thành các ngươi theo “hình ảnh Ta" các người là những người cha, người mẹ, các người biết yêu con cái mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu chúng, 'đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt độ của bầu sữa, rình xem từng nụ cười... Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng giống các ngươi sao? Nhờ những cử chỉ mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần nào cũng nhận ra Ta là ai...
Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Bị tràn ngập bơi những lượng thông tin ly kỳ xa lạ cảm kích mà phương tiện thông tin đại chúng đổ trên chúng ta, liệu chúng ta còn đủ khả năng để "nhận ra" cái tầm thường Thiên Chúa đã chọn lựa để hiện diện không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vừa mới xảy ra " Từ giờ trở đi", Thiên Chúa cũng là một con người, Đức Giêsu? Từ giây phút đó, Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với số phận chúng ta. Duyên cớ đời ta đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở "củng chúng ta". Chúng ta được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này không gây cảm giác bề ngoài. Thiên Chúa nằm "trong máng cỏ", hiện diện trong một "hang" bò lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống. Thiên Chúa đó thật là dễ gây ngỡ ngàng! Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích! Khi đứng trước thái độ tự phụ của Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa không làm bộ tỏ ra yếu đuối. Trên lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ của thập giá, Người đã mạc khải cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực nhất trong Người, trong Thiên Chúa. Ai thấy tôi là thấy Cha". (Ga 149). Thiên Chúa là tình yêu. Và tình yêu trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến. Ai thống trị, thì không yêu thương!
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời canh giữ đàn vật.
Không phải là biểu tượng cho nét đẹp thôn dã và thiên nhiên, như thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel muốn làm cho ta tưởng như thế, thực sự những "người chăn chiên", trong quan niệm thời đó, là biểu tượng cho những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp của họ khiến thiên hạ dễ coi thường. Họ được kể như loại người sống "ngoài luật pháp”. Người ta coi họ như những tên cướp giật, sống bằng những của cướp bóc. Họ không được quyền dân sự để làm chứng theo lẽ công bằng. Được kể như những người ngu dốt, họ không có giờ để tham dự những buổi giáo lý mà các nhân trí thức thường truyền đạt trong các hội đường. Được xếp vào loại người ô nhơ, nên nghề nghiệp của họ cản trở họ tôn trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát thánh thiện! Và rồi là người không sạch, họ cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ là hạng "quê mùa"!
Thế mà, họ lại là những người được Thiên Chúa tuyển chọn đầu tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ "bé mọn", những người "nghèo khổ" những loại người mà kẻ khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ ơn Chúa!
Bỗng sứ thần Chúa hiện ra đứng bên họ, và vinh quang của Chúa bao trùm chung quanh.
Vẻ “huyền diệu” chỉ khởi sự từ đây trong trình thuật này. Nhà thần học có thể cảnh giác. Hãy ý tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là một diễn tả thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác định thiên thần không có thân xác. Còn nhà thi sĩ và những người bình dân lại nói: các sứ thần đó giúp ta biết ngỡ ngàng trước cảnh thần thiêng, những gì vượt quá con người mình.
Nhưng ý nghĩa của sự kiện gợi lên khá rõ: cho đến lúc này, trong toàn bộ Kinh thánh. "Vinh quang" là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi, Vinh quang này bao trùm những người nghèo. "Những gì anh em làm cho kẻ bé mọn nhất, tức là anh em đang làm cho Thầy” (Mt 25).
Một Thiên Chúa hành xử như thế, thật là ngạc nhiên! thật là cảm kích! Xin tạ ơn Chúa.
Họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”.
Chúng ta vẫn thương nói, ta chưa bao giờ nghe được tiếng nói của Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động. “Tiếng nói" của họ là im lặng. Hãy lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe! Nhất là đừng có ồn ào. Mọi "Truyền đạt" của Thiên Chúa đều là "Tin Mừng tin vui". Đây còn là một đề tài của Luca nữa. Và tin vui này mang một tầm cỡ "phổ quát” cho tất cả mọi người. Đó là một đề tài khác của Luca.
Hôm nay, Đấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
Các sứ thần không nhiều lời. Lời "truyền đạt" của họ rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay vào điểm cốt yếu. Họ công bố "giấy chứng minh" đích thực của hài nhi chưa ai biết tiếng, với ba tước hiệu của Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2. Đấng Kitô: Christos 3. Cứu Chúa? Kurios.
Luca sẽ không khi nào sử dụng những tước hiệu đó nữa trong Tin Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn sách. Thiên Chúa phán, hãy để ý, Giêsu bé nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì, nhưng chính Người sẽ là Đức Chúa vinh quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời thơ ấu đều được Luca diễn tả như một mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ thực sự hiểu dược vào lúc kết thúc. Hài nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên Chúa (Người là Đức Chúa) và mang một sứ vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ) Tính cách "Cứu Chúa" này chưa tỏ hiện. Hãy chờ xem!
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: "Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ".
Điều mà sứ thần báo hiệu như dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu độ: đó là sự "nghèo khó" và "yếu đuối"! Hãy ngừng chạy, hãy đến trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám phá ra ở đó một biểu tượng bí ẩn nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó cách thực sự để làm của "ăn”! Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho những người bé mọn" (Lc 10,21). Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm hồn người nghèo.
Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương".
Đây là lời tung hô thực hiện trước những lời ca tụng dịp rước lá (Lc 19,38).
61. Thiên Chúa làm người vì chúng ta--Noel Quesson
Đêm Giáng Sinh, cả gia đình vui vẻ đi dự lễ, nhưng người chủ gia đình không đi. Ông nghĩ Giáng Sinh là một câu chuyện huyền thoại, Thượng Đế mà thành một người là điều vô lý.
Đêm đông lạnh giá, vợ con đều đi lễ, một mình ông ở nhà, ngồi nghe gió lạnh rít qua khe cửa. Bỗng có tiếng đập mạnh vào cửa sổ. Hé rèm nhìn ra, ông thấy những con chim sẻ đang lao đầu vào cửa kính. Ông không muốn mở cửa dù thấy tội nghiệp lũ chim, vì ông sợ mưa hắt vào nhà. Những con chim bay vô sẽ làm náo động. Ông nghĩ nếu chúng muốn tìm chỗ ấm áp, an toàn thì có thể vào kho lúa ở phòng kế. Ông mặc áo ấm và đi hé mở cửa kho lúa. Nhưng không có cách nào kêu bầy chim vô kho lúa được, dù ông ráng gọi và ra hiệu. Những con chim không hiểu ý ông. Chúng vẫn lao đầu vô vọng vào các khung cửa kính có ánh đèn. Ông tự nhủ: giá mình là một chim sẻ thì mình sẽ dẫn cả bầy chim tìm được nơi trú an toàn ấm áp.
Nghĩ tới đó, ông chợt hiểu ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Con người rất khó mà hiểu Thiên Chúa, cũng như những chim sẻ không hiểu ý ông. Vì thế Thiên Chúa mới cần trở thành một con người, cần nói tiếng con người, sống cuộc sống con người, dù Ngài vẫn là Thiên Chúa. Có như thế, những ý định, những bài học của Ngài mới được con người thông hiểu và lãnh hội. Dĩ nhiên, Thiên Chúa trở thành một người có lẽ còn khiêm hạ hơn việc con người trở thành một chim sẻ. Nhưng ý nghĩa thì cũng tương tự. Cần trở nên một con chim để lãnh đạo bầy chim! Cần phải có một người, cũng là Thiên Chúa, để dạy dỗ và đưa con người đến ơn cứu độ.
Bài học đầu tiên lễ Giáng Sinh dạy ta là bài học khiêm tốn. Thiên Chúa cao cả quyền uy. Trong Cựu Ước, mỗi lần Giavê xuất hiện là có sấm chớp, mây gió làm dân chúng kinh hãi giấu mặt. Còn bây giờ Thiên Chúa Giáng Sinh nơi trần gian, Ngài đã chọn một xóm làng bé nhỏ. Nhưng ngay ở xóm làng bé nhỏ đó, Ngài cũng không có chỗ ở, phải ra cánh đồng tạm trú trong một hang đá. Mẹ Maria sinh Chúa, lấy tã bọc con và đặt nằm vào máng cỏ.
Người ta mong chờ Đấng Cứu Thế từ bao năm. Nhưng ai cũng nghĩ tới một Chúa Cứu Thế quyền uy, giàu có và mạnh mẽ! Còn đây Chúa tới như một em bé, hèn, yếu, chẳng ai biết tới và đón chào. Đường lối Thiên Chúa bao giờ cũng bí nhiệm, xem như nghịch lý, khó hiểu, ngay cả những người đạo hạnh cũng khó nhận ra.
Thiên thần Chúa đã đến với các mục đồng, những người nghèo, và ánh vinh quang Thiên Chúa bao phủ họ, ánh quang tỏa sáng, đó là dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện. Hào quang Thiên Chúa thường xuất hiện nơi đền thánh. Từ đây, ánh quang đó che phủ những người nghèo. Chúa tự nhận mình vào số những người nghèo khó: “Việc gì các con làm cho một người nhỏ bé nhất, là các con làm cho Ta”.
Thiên thần loan báo một “Tin Vui”, một tin vui cho toàn dân. Đó là Chúa Cứu Thế đã Giáng Sinh, Ngài là Đức Kitô, là Thiên Chúa. Chúng ta có thấy tâm hồn hân hoan vui vẻ khi được đón Chúa vào lòng không? Muốn được niềm vui này, muốn nhận ra Chúa Cứu Thế và đón tiếp Ngài, phải theo đúng dấu hiệu thiên thần đã chỉ: “Một em bé sơ sinh, bọc tã nằm trong máng cỏ”. Phải đơn sơ khiêm tốn, không được khinh thường những người bé nhỏ khó nghèo. Chúa nằm trong máng như một thức ăn, để nuôi sống chúng ta.
Lạy Chúa, Ngài hạ mình xuống làm người, để dẫn đưa con người về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài. Xin giúp chúng con theo gương Chúa, biết hạ mình phục vụ Chúa trong mọi người, trở nên anh chị em của mọi người trong xã hội hôm nay.
62. Đêm hôm nay--Lm. Jos. DĐH
Bậc cha mẹ có nghĩa vụ chia sẻ kinh nghiệm, cho đi sự hiểu biết của mình, cắt nghĩa, giải thích, hướng dẫn con cháu từng bước đi, hoặc “kích thích” chúng chạy thật nhanh tới một danh hiệu cao quý. Phận làm con bao giờ cũng được phản ánh bởi quan niệm rất phong phú: cây tốt, sinh trái tốt; cha anh hùng, con hảo hán. Đêm hôm nay có khác đêm hôm qua không, đêm hôm nay, bậc sinh thành sẽ chia sẻ kiến thức, sự dao động của trí lòng? Đêm hôm nay, có phải tất cả những người làm con đang thổn thức vì “món quà” được hứa hẹn, hay chỉ một số trẻ em thơ ngây đã từng tỉnh thức đợi chờ? Dù nhiệt độ có thay đổi thì đêm hôm nay, cả nhân loại vẫn đang nóng lên bởi “tình người giáng sinh”, bầu khí ấm áp yêu thương ở sát gần với mọi gia đình.
Đêm hôm nay khắp trần thế đang vui mừng kỷ niệm Con Chúa giáng trần, biết bao tâm hồn đã đi theo tiến trình thức tỉnh chờ đợi của 4 tuần mùa vọng, cũng không thiếu những hoạt động sẻ chia quà Giáng Sinh cho trẻ thơ, cho người nghèo hèn bất hạnh. Đêm hôm nay trẻ em giầu nghèo, người đau bệnh hay trẻ khoẻ, người thành tâm thiện chí, kẻ mưu mô xảo kế, tất cả đều có cơ hội quy chiếu về Hài Nhi Giêsu, hang đá trí lòng mỗi người sẽ trả lời đêm nay là ĐÊM CHÚA GIÁNG TRẦN. Lời kêu gọi trở về quê quán để đăng kiểm, hình ảnh những đôi vợ chồng túng thiếu vật chất bị xã hội lãng quên, hoàn cảnh trẻ em mất đi tuổi thơ vì phải lam lũ trước cái ăn cái mặc, thương đau đó, là lời gọi hãy trở về với cõi lòng mình. Đêm hôm nay, tiếng hát Thiên Thần vẫn vang lên: vinh danh Thiên Chúa trên trời bình an dưới thế cho người thiện tâm, cho dù sự hào nhoáng và tính thế tục còn ồn ào, chưa lắng đọng.
Đêm hôm nay là “Đêm Thánh vô cùng”, cha Giuse, mẹ Maria, Hài nhi, Các Đấng thinh lặng, nhưng các mục đồng vẫn cảm nhận được niềm vui hạnh phúc, vì tin rằng Thiên Chúa cứu độ đã đến. Đêm hôm nay, sự “linh thánh” của cõi lòng, thế trần có rất nhiều bậc cha mẹ đã hiểu: “tình yêu thương” chính là căn bản nâng phận người lên làm Con Thiên Chúa, chứ đâu phải tài giỏi, giầu sang. Đêm hôm nay, dẫu chưa hết bất công, còn nhiều gia đình nghèo đói vật chất, nhiều trẻ em đường phố đang cần được quan tâm chăm sóc. Lời nói, việc làm yêu thương sẽ còn âm vang: “các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân, hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho các ngươi”.
Đêm hôm nay Hài nhi Giêsu sẽ không cô đơn, khi mà người người đến hang Belem không phải chỉ có các mục đồng, nhưng là mọi đối tượng, có cả những người đến thăm vì hiếu kỳ, Chúa hằng có cách giúp họ. Đêm hôm nay, ở nơi thành thị, ở nông thôn trên khắp địa cầu, đều mọc lên hang đá và có ý nài xin Hài nhi Giêsu đến ở với muôn dân. Đêm hôm nay, nhiều người sẽ quên tuổi tác, nhiều người quên bệnh tật, quên hận thù, đơn giản vì mọi người tin rằng họ cần Chúa đến cõi lòng họ, cần tình yêu thương và ơn cứu độ. Đêm hôm nay sẽ còn là đêm liên kết muôn tấm lòng, vì có sự thông hiệp giữa các hiền tài với các mục đồng, có tiếng hát trầm ấm của các ca sĩ nghiệp dư, chuyên nghiệp, hoà chung với tiếng hát của các Thiên Thần hát nhắn gởi: “các ngươi sẽ thấy một Hài-nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.
Đêm hôm nay, sự hoành tráng của niềm tin đang lấn át những phàn nàn tiêu cực: trời cho ai, người ấy hưởng, vì chưng, gặp được nhau đã là một cái duyên, có những người chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng lại khiến ta lưu luyến suốt đời. Các mục đồng năm xưa được Thiên Thần dẫn dường tới gặp Gia Đình Thánh, họ trở về cuộc sống với bao niềm vui say của hồng ân Chúa ở cùng. Đêm hôm nay, từ gia đình đến xã hội, từ người thánh đức đến người lem lấm bụi trần, mọi người không phân biệt mừng Chúa Giáng Sinh hay mừng lễ hội No-el, tất cả đều đang cùng tiếng nói yêu thương, tất cả sẽ nghe tiếng rõ đất trời giao hoà phúc an. Đêm hôm nay, trẻ vui nhà, già vui chùa, muôn dân thiên hạ sẽ thấm nhuần đạo làm người, đạo làm con Chúa thật sống động, vì Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu. Hài nhi Giêsu đang sinh ra ở khắp mọi hang đá tâm hồn, tình yêu thương của Hài nhi Giêsu hiện diện ở nơi ông già No-el, ở nơi những nhà thiện nguyện, họ thật phấn khởi chia sẻ tình thân ái cho nhau. Amen.
63. Ngày hồng phúc--Lm. Jos. DĐH
Có những ca khúc chúng ta hát hoài hát mãi và vẫn thấy hay, vì lời nhạc đã đi vào lòng người, gọi là bất tử. Có thể nhiều lần chúng ta chứng kiến tình huống con cái xúc phạm đến bậc sinh thành, rồi sau đó chúng hối lỗi, các ngài vẫn tha thứ, đơn giản vì nước mắt chảy xuôi, không chảy ngược. Xung quanh chúng ta hẳn không thiếu những người đàn ông vì “máu đỏ đen”, để rồi nhà tan cửa nát, trách trời không thương. Thời nào cũng có những người tài giỏi đức độ, mà xã hội, xóm làng bỏ qua, như không hề hay biết và trọng dụng. Mơ ước thành công, tìm kiếm hạnh phúc, là điều chính đáng, còn sử dụng thời giờ hợp lý, biết ứng xử có lý có tình, lại rất cần đến một quân sư trợ giúp, nếu không ta cũng chỉ là đứa học trò đầy thiếu sót sai lầm: cây cao bóng mát không ngồi, ra ngồi chỗ nắng trách trời không râm!
Cuộc sống chớ trêu, có những người hả hê đắc thắng cho rằng: tôi làm chơi mà ăn thật; lại cũng có khối kẻ than thở, tại sao cái nghèo khổ cứ bám theo tôi! Chẳng ai so sánh và đem lên bàn cân đo, tinh thần đạo đức giữa các luật sĩ biệt phái với những mục tử chăn chiên thế nào, cũng thật là thiếu công bằng, nếu chỉ có các mục đồng mới nhận ra hôm nay là ngày “hồng phúc”, ngày Con Thiên Chúa giáng trần. Thiên Chúa không thiên vị một gia đình hay một cá nhân nào, dịp thuận tiện để tới hang Belem, cơ hội để gặp Hài nhi Giêsu, bậc hiền tài, hoặc kẻ phàm phu đều giống nhau. Cũng không phải vì may mắn hơn người, hay vì Con Thiên Chúa đến thế trần chỉ muốn thông qua các mục đồng nghèo. Vấn đề phức tạp ở chỗ là làm sao chúng ta có thể nghe, hiểu, và cảm nhận Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa thật, chuẩn, như các mục đồng?
Nghe, hiểu, tiếng hát của các thiên thần, các mục đồng không ngại cất công đến Belem khám phá sự thật về ánh quang toả rạng, dù sao thì các mục đồng cũng là những vị đã gặp, đã xem thấy, đã tin, Hài nhi nằm trong máng cỏ là Thiên Chúa mà nhân loại hằng mong đợi. Ngày hôm nay, tiếng hát của thiên thần vẫn đang vang lên, tiếng hát ấy vẫn là thiêng liêng, bất tử, mọi người có lòng thành đều cảm nhận được ngày giờ là của Chúa, thời gian cứu độ là của Chúa. Ngày hôm nay là ngày yêu thương, ngày mà Con Thiên Chúa sẽ khởi đầu cho kế hoạch giải thoát tội lỗi cho từng tâm hồn chúng ta.
Hành trình mỗi người kitô hữu chúng ta hôm nay đến Belem, hẳn vẫn như các mục đồng, bầu khí thinh lặng, nhưng ấm áp tình Chúa, tình người, mắt tâm hồn sẽ giúp ta hiểu thế nào là tình yêu Thiên Chúa. Ngày hôm nay sẽ mãi là ngày thánh, vì cường độ của tình yêu tỉ lệ với việc lãnh nhận ơn ban, người được gặp, được xem thấy, cũng là người tin Thiên Chúa yêu thương cứu độ. Ngày hôm nay, ở bên hang đá không còn là cô đơn lẻ bóng một vài cá nhân ngoan đạo, vì sự linh thánh vẫn đang toả chiếu vào tâm trí con người một niềm vui, một tình yêu không đổi thay, cũng là tình yêu của Thiên Chúa cứu độ. Ngày hôm nay, hang đá của cõi lòng mỗi người đã và đang được biến đổi thành bầu khí tin yêu, cầu nguyện, và niềm an vui thực sự trở nên chứng nhân tin mừng cho toàn dân.
Ngày hôm nay chính là ngày hồng phúc, ngày mà từng người trong chúng ta đây sẽ trở nên những mục đồng, được ghi tên vào lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ngày hôm nay, mỗi chúng ta đã ý thức việc đến Belem chưa đủ, nhưng chúng ta sẽ kết hiệp cầu nguyện để thấu hiểu Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa đến trần gian là vì muốn chúng ta được sống và sống hạnh phúc. Ngày hôm nay, người ta yêu thôi chưa đủ, người ta phải thấu hiểu tâm hồn nhau, chứng minh được lực hút của con tim khối óc mới gọi là tình yêu đúng nghĩa. Con Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta sòng phẳng theo quan niệm hòn đất ném đi, hòn chì ném lại, song niềm tin yêu của mỗi người phải được trưởng thành theo chiều dài chiều rộng của thời gian.
Cha ông chúng ta có câu: người khôn nói ít làm nhiều, còn như người dại lắm điều điếc tai. Các ngài có ý nhắc nhớ con cháu hãy bằng lòng với sự hiểu biết của mình, mỗi người hãy sống tận tâm tận lực, qua đó mỗi ngày sống là mỗi ngày chúng ta hiểu được giá trị của tình yêu mà chúng ta lãnh nhận. Các mục đồng đến hang Belem thờ lạy rồi cũng sẽ trở về với cuộc sống thường ngày, nhưng chứng nhân về Hài nhi Giêsu vẫn là trọng trách của các mục đồng. Hang đá do tay con người làm ra cho Chúa Hài nhi hôm nay, dù có lộng lẫy đồ sộ tới đâu rồi cũng sẽ cất vào kho, nhưng người nghèo khó bất hạnh vẫn ở xung quanh chúng ta, sứ mạng Con Thiên Chúa đi vào tâm hồn mỗi người không thể im lặng và đửng dưng khi chúng ta đã từng được ơn ban. Xin tình yêu của Đấng Emmanuel, mãi mãi ở trong tâm hồn chúng ta, hầu mỗi giây phút trong đời, trong ngày, mỗi lời nói việc làm của chúng ta đều phản ánh được giá trị tình yêu thương của Chúa. Amen.
64. Một người con đã được ban tặng cho ta--Lc 2,11--Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Mỗi độ Giáng Sinh về, chúng ta tặng quà cho người thân, bạn bè. Mỗi món quà dù lớn, dù bé, dù đắt hay rẻ, đều mang thông điệp yêu thương mà người tặng gửi gắm trong đó. Khi nhận quà, người nhận phải khám phá và đọc ra được sứ điệp đó.
1- Món quà ý nghĩa
Người ta kể rằng: có một anh lính từ chiến trường xa trở về thăm vợ con nhân dịp mừng lễ Giáng Sinh. Lâu ngày xa cách, nhớ vợ thương con, nay được trở về, anh muốn mua một món quà để tặng vợ nhưng trong túi không có đồng nào. Về gần tới nhà, anh nghĩ ra một cách làm vợ con ngạc nhiên. Anh lấy một băng vải, viết lên trên đó hàng chữ: “Quà tặng em.” Rồi anh mang lên ngực. Nghe tiếng gõ cửa. Người vợ liền mở cửa và rất vui mừng vì thấy chồng trở về bình an. Nhưng bất ngờ và ngạc nhiên khi nhìn thấy hàng chữ, người vợ xúc động và ôm lấy anh. Vì quả thật đối với chị, chồng là món quà quý nhất, hơn mọi món quà khác trong ngày lễ Giáng Sinh.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta nói đến một món quà khác giá trị hơn các món quà vật chất. Đó là món quà Hài Nhi Giêsu mà Thiên Chúa tặng ban cho chúng ta.
Quả thế, từ xa xưa trong Cựu Ước, tiên tri Isaia tiên báo về món quà mà Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại: “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng… Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu độ ta, một người con đã được ban tặng cho ta” (Is 9,1.5). Những lời này đã thực ứng nghiệm qua biến cố Con Thiên Chúa sinh ra tại Bêlem cách đây hơn 2000 năm. Đó là Tin Mừng cho toàn thể nhân loại, được các thiên thần loan tin trong bài Tin Mừng: “Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em, trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11).
2- Quà tặng và người tặng quà
Thần học gia nổi tiếng người Đức, Karl Rahner nói rằng: “Nơi Thiên Chúa, người tặng và quà tặng là một. Thiên Chúa không ban một cái gì, một vật gì, mà ban chính mình Người cho chúng ta. Nhờ quà tặng là Thiên Chúa, mà chúng ta mới có thể đón nhận sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta.” Thiên Chúa đã ban cho chúng ta chính Con Một yêu dấu của Người.
Thật vậy, Đức Giêsu là quà tặng quý nhất mà Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại. Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ con người nên Người sai Ngôi Hai xuống thế làm người, cứu nhân độ thế. Chiêm ngắm biến cố này, thánh Gioan cảm nghiệm: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Khi tặng ban Con Một, Thiên Chúa đã ban điều lớn lao nhất, điều quý giá nhất, để minh chứng tình yêu lớn lao nhất của Người đối với nhân loại. Yêu là cho đi. Yêu là hiến mình. Yêu là cứu độ.
Thế nên, sứ điệp mà Hài Nhi Giêsu mang đến cho nhân loại trong đêm nay là sứ điệp yêu thương: Thiên Chúa yêu thương chúng ta; Thiên Chúa muốn cứu độ chúng ta. Nếu lịch sử của con người là lịch sử của sa ngã và phản bội, thì lịch sử của Thiên Chúa là lịch sử của trung thành và cứu độ. Thiên Chúa không bỏ mặc con người phải hư mất trong lầm than và tội lỗi.
Thánh Phanxicô Assisi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự vấn: tại sao Thiên Chúa quyền năng lại trở nên một em bé thấp hèn? Tại sao Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong hang lừa nghèo khó? Từ đó, ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập lòng yêu mến và không thể kiềm chế cảm xúc, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: “Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng.”
3- Trở nên quà tặng cho nhau
Đêm nay, chúng ta cử hành đại lễ mừng Con Chúa giáng sinh. Đây là đêm an lành, đêm hồng ân và đêm ánh sáng. Tất cả chúng ta được mời gọi quỳ bên hang đá, để thờ lạy Chúa Hài Nhi, chiêm ngắm Con Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn, để cảm nghiệm tình thương của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Lễ Giáng Sinh là “lễ tình thương,” tình Chúa giáng sinh trên tình người. Khi đón nhận món quà giáng sinh, niềm vui giáng sinh là Chúa Hài Đồng, chúng ta hãy mang Chúa về trong gia đình và chia sẻ niềm vui đó với mọi người xung quanh. Sứ điệp giáng sinh là sứ điệp hãy sống hòa bình, tôn trọng và nhân ái đối với tha nhân. Và để sống mùa Giáng Sinh ý nghĩa, thánh Phaolô trong bài đọc II mời gọi chúng ta: “Phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2,11-12).
Chúng ta cũng được mời gọi trở thành món quà cho nhau. Nếu trong gia đình và cộng đoàn, ai chưa hòa giải với Chúa và với nhau, mùa Giáng Sinh và năm mới là dịp thuận tiện để chúng ta hòa giải với Chúa và làm hòa với nhau. Như thế, việc cử hành lễ Giáng Sinh mới mang lại ý nghĩa đích thực cho chúng ta. Bởi lẽ, như lời các Giáo Phụ dạy: “Nếu Chúa Giêsu tiếp tục giáng sinh hàng ngàn lần ở Bêlêm, mà không một lần giáng sinh trong lòng chúng ta, thì những lần giáng sinh đó có mang lại ý nghĩa gì cho chúng ta chăng?”
Kính chúc anh chị em được đầy niềm vui, ân sủng của Thiên Chúa trong mùa Giáng Sinh và năm mới này. Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng chúc lành cho tất cả chúng ta. Amen!
65. Hài nhi Giêsu là ai?--Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong ngày mừng đại lễ Sinh Nhật Chúa Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu câu trả lời cho câu hỏi: “Hài Nhi Giêsu là ai?”
Bài Tin Mừng trong lễ Ngày Giáng Sinh được trích từ lời Dẫn nhập của Tin Mừng Gioan. So với thánh lễ Đêm và thánh lễ Rạng Đông Giáng Sinh, chúng ta thấy sự khác biệt rõ rệt trong bài Tin Mừng của ngày lễ này. Trong khi các bài Tin Mừng của các thánh lễ trước là những tường thuật về biến cố Chúa Giêsu sinh ra đã xảy ra như thế nào, ở đây, trong Tin Mừng Gioan, chúng ta được dẫn tới một suy tư sâu sắc về ý nghĩa của tường thuật giáng sinh này. Vì thế, ở đây, chúng ta không có một tường thuật về việc Chúa giáng sinh, nhưng chúng ta có một lối nhìn chiêm niệm cao siêu về sự sinh hạ của Chúa Kitô và chúng ta có câu hỏi như là tâm điểm suy niệm của chúng về ngày Lễ Giáng Sinh: Chúa Giêsu là ai? Hài Nhi vừa mới sinh là ai? Tại sao chúng ta phải cử hành sinh nhật của Người?
Chúng ta tìm thấy câu trả lời rất rõ ràng ngay tại những dòng đầu tiên của Tin Mừng Gioan: Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, là Ngôi Lời (Logos) hằng hữu. Người hiện hữu với Thiên Chúa trước khi tạo thành thế giới. Người ở với Thiên Chúa và Người đã là và là Thiên Chúa.
Điều này đòi hỏi chúng ta có cặp mắt đức tin để có thể nhìn thấy trong Hài Nhi nhỏ bé này là Thiên Chúa, là Ngôi Lời hằng hữu, Người có tiền hữu từ trước khi tạo thành thế giới.
Trong bài đọc II, thư Do Thái quả quyết: Người chính là Lời của Thiên Chúa, Đấng đã hoạt động trong tiến trình sáng tạo. Nhờ Người mọi sự được tạo thành. Chúa Cha đã tạo dựng mọi sự và mọi loài nhờ Ngôi Lời. Ngôi Lời cũng chia sẻ vinh quang, vinh dự và quyền năng với Chúa Cha. Người là ánh sáng cho muôn dân. Người là ánh sáng bởi ánh sáng (x. Hr 1,1-6). Đó là điều chúng ta tin và tuyên xưng trong Kinh Tinh Kính Nicêa: “Người là ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Chúa Cha.” Nguồn gốc của Chúa Giêsu được nói ở đây bắt nguồn từ Lời tựa của Tin Mừng Gioan.
Như thế, câu hỏi Chúa Giêsu là ai được thánh Gioan và tác giả thư Do Thái trả lời cho chúng ta hôm nay: Người là Ngôi Lời Thiên Chúa; Người là ánh sáng của Chúa Cha; Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng mà duy trì vạn vật. Nhờ Người chúng ta mới hiện hữu và mới được sống. Nếu không có Người, không có gì được tạo dựng; Người chính là Lời sáng tạo của Chúa Cha.
Một phần của mầu nhiệm mà chúng ta đang cử hành là Ngôi Lời hằng hữu này, Ngôi Lời mà nhờ Người chúng ta hiện hữu và sống động, Ngôi Lời đó được sai đến, làm người và ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy hình dung xem: Đấng Tạo Hóa nay đã trở thành một thụ tạo, chia sẻ mọi điều kiện của thụ tạo mà Người đã tạo dựng! Thật khó tin quá! Chúng ta hãy dành nhiều thời gian trong ngày này để suy nghĩ về điều đó. Hình ảnh của Đấng Sáng Tạo quyền năng nay trở thành một em bé, nghèo hèn, đơn sơ, nhỏ bé, như chúng ta. Đấng mà nếu không có Người, chúng ta không hiện hữu được, nay lại trở thành một thụ tạo mỏng giòn như chúng ta; Đấng Sáng Tạo ra khỏi tình yêu, tự do để vâng lời Chúa Cha đã xuống thế, cắm lều ở giữa chúng ta. Người thực sự trở thành một người như chúng ta. Người vui với niềm vui con người. Người buồn với nỗi buồn chúng ta. Người cũng đói khát, cũng bị cám dỗ; Người cũng trải qua mọi kinh nghiệm thường nhật của kiếp người, ngoại trừ tội lỗi. Người thực sự “cắm lều” ở giữa chúng ta. Người thực sự đã hội nhập, sống chết với điều kiện con người. Ôi, đây thật là một vinh dự lớn lao! Thật hạnh phúc vì chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa và Thiên Chúa thuộc về chúng ta.
Chúng ta hãy hình dung, nếu có một ai đó cao trọng đến viếng thăm gia đình chúng ta, chẳng hạn như một giám mục viếng thăm một gia đình giáo dân nghèo, chúng ta thường nghe họ nói: Lạy Chúa tôi, nhà con không đáng để Đức Cha đến viếng thăm! Chúng con bất xứng để được Đức Cha viếng thăm…” Đó cũng là vọng lại âm hưởng của lời mà viên đại đội trưởng trong Tin Mừng khi ông gặp Chúa Giêsu và chúng ta nói trước khi rước lễ: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con.” Đó là cách thức Thiên Chúa đến với chúng ta, khi Người trở thành một người bé mọn, để chúng ta có thể tới gần Người và yêu mến Người. Người trút bỏ mọi thứ vinh quang, địa vị của Thiên Chúa, để trở thành một người trong chúng ta; Người quả thật là Thiên Chúa ở với loài người. Nhờ đó, chúng ta có thể đến gần, đụng chạm tới Người và yêu mến Người.
Nhưng có một thực tế thật đáng buồn vì con người đã và đang khước từ Con Thiên Chúa. Sự hiện diện của Ngôi Lời Thiên Chúa trong cách thức nhân loại, trong con người Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta có sự đáp trả, nhưng thay vì đáp trả nhiều người khước từ Người. Đoạn Tin Mừng hôm nay không dấu diếm thực tại đáng buồn này: Người đến với gia nhân của mình. Nhưng gia nhân Người không tiếp nhận Người (Ga 1,11). Đây là điều đáng buồn vì Chúa Giêsu có thể bị từ chối bởi chúng ta. Con người không nhìn thấy nơi Người ánh sáng của Thiên Chúa, ánh rạng ngời của Chúa Cha, họ không nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi Người. Nên họ không thấy và không đón nhận Người. Sự thật này có thể vẫn còn xảy ra hôm nay, cả trong ngày lễ Giáng Sinh: chúng ta đón nhận điều gì? Chúng ta đón nhận quà tặng, thích nhận phần thưởng và nhận lời mời đi dự tiệc… Chúng ta đón nhận rất nhiều món quà Giáng Sinh, cả những ân sủng và phúc lành nữa, nhưng có thể chúng ta không đón nhận chính Chúa Giêsu, là nhân vật chính của ngày lễ, là ánh sáng của Chúa Cha. Thật là một niềm vui lớn lao khi biết rằng Chúa Giêsu đến với chúng ta vì một mục đích như Tin Mừng Gioan nói: Người đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta để Người cho chúng ta quyền trở nên con Thiên Chúa (x. Ga 1,12). Người đến để chia sẻ với chúng ta quyền làm con của Người. Người đến để dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Cha, vì Người là đường dẫn tới Thiên Chúa. Người đến để thần hóa chúng ta và làm cho chúng ta nên giống Người.
Như thế, lễ Giáng Sinh không phải là dịp làm cho chúng ta thu nhập nhiều hơn vì quà cáp; cũng không phải là ngày lễ hội để chúng ta vui chơi, ăn uống nhiều hơn v.v… Nhưng là ngày để đón nhận ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa đến với chúng ta qua Hài Nhi Giêsu. Ngôi Lời trở thành người phàm nhờ đó chúng ta được trở thành con Thiên Chúa. Đây chính là quà tặng lớn nhất mà chúng ta đón nhận nơi Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy nhận biết hồng ân đó. Chúng ta hãy học biết sứ mạng và hồng ân mà Người mang đến cho chúng ta hôm nay khi đến chiêm ngắm và thờ lạy Hài Nhi Giêsu nơi hang đá. Người là Ngôi Lời hằng hữu, là Thiên Chúa, nay làm người để cứu độ chúng ta.
Kính chúc anh chị em một Mùa Giáng Sinh an lành, thánh đức và tràn đầy ân lộc của Chúa Hài Đồng Giêsu. Amen!
66. Từ trí qua tâm, đến hành động--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Thế là một mùa Giáng Sinh lại đến với nhân trần. Với bà con rất nhiều quốc gia trên thế giới thì bầu khí Giáng Sinh như đã mở hội từ đầu tháng 12. Bóng hình các ông già Noel lẫn bà già Noel tung tăng khắp các đường phố và cả ngõ ngách chốn thôn dã để gieo rắc niềm vui và tình thương đến mọi nhà. Có thể nói mùa Giáng Sinh là mùa của ân tình, mùa của thiện tâm. Mong sao tâm tình và sứ điệp Giáng Sinh không dừng lại trong một vài ngày của tháng 12 mà phải được thắp sáng trong suốt hành trình dương thế của con người, mọi thời và mọi nơi.
“Anh em đừng sợ! Này ta báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh…Người là Đức Kitô…”(Lc 2,10). Đấng giáng sinh chính là Mặt trời công chính và là Hoàng tử hòa bình. Ngài bỏ trời cao xuống thế gian này là để chiếu soi ánh sáng chân lý cho muôn người như lời Ngài khẳng định với Philatô (x.Ga 18,37). Ai đón nhận chân lý Ngài truyền thì sẽ được giải thoát khỏi ác thần và hiệu quả là sẽ được sự bình an và hạnh phúc đích thực (x.Ga 8,21-22).
Đã là người thì dẫu trong thời đại nào, hoàn cảnh nào đều khát mong được sống trong bình an và hạnh phúc. Theo các con số thống kê của các Bộ Ngành, nhất là Ngành Y tế nước Việt chúng ta thì dường như khát mong ấy đang còn quá xa khi mà chính sức khỏe, sự sống của con người đang bị đe dọa đủ bề. Căn bệnh ung thư đã hủy hoại sự sống hơn 300 người dân Việt mỗi ngày mà nguyên nhân chủ yếu là do thực phẩm bẩn, độc hại. Theo thống kê của Viện nghiên cứu phòng chống ung thư, ước tính Việt Nam có khoảng 94.000 người chết vì ung thư/năm. Bên cạnh đó vấn đề đáng lo ngại là số người mắc bệnh ung thư ở Việt Nam đang có xu hướng ngày một tăng nhanh. Năm 2000 Việt Nam có khoảng 69.000 ca ung thư mắc mới, năm 2015 lên đến 150.000 ca mắc mới. Ước tính đến năm 2020 số ca ung thư mắc mới ở Việt Nam sẽ xấp xỉ 200.000 người, một con số nếu xét tỷ lệ với dân số thì cao nhất thế giới. (Báo Việtnammới – Ung thư ở Việt Nam: Những con số đáng ngại -ngày 19-3-2018). Theo VTV – Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, mỗi năm có khoảng 300.000 ca phá thai. Đây chỉ là con số được báo cáo tại những cơ sở y tế công, số lượng thực tế chắc chắn lớn hơn rất nhiều vì chưa kể các sơ sở y tế tư và những điểm phá thai chui. (VTV9-Thứ hai, ngày 02/07/2018 11:08 GMT+7). Chỉ với con số thống kê qua các cơ sở công mà thôi thì nước Việt Nam đã đứng hàng thứ ba trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Nga.
Vì sao con người lại hành xử tàn ác với đồng loại như thế, lại độc ác với cả giọt máu của mình? Nhìn lại lịch sử thì dân Việt chúng ta vốn có đó chữ thiện trong tâm. Chuyện “thương người như thể thương thân”; “lá lành đùm lá rách”; “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”… là chuyện như rất thân thương và bình thường của con dân máu đỏ da vàng Việt Nam. Thế thì ví cớ nào sự độc dữ lại xảy ra nhan nhãn trước mắt chúng ta chỉ nội mấy mươi năm gần đây?
Cha Giuse Việt trình bày trên trang mạng xã hội của ngài qua nhân vật một nhà giáo nhận định rằng các hành vi độc dữ có nguồn là từ cái tâm ác. Cái tâm ác độc là do bởi cái trí lệch lạc, sai lầm. Xưa nhà độc tài Hitler đã gieo vào cái đầu của nhiều cộng sự viên và dân chúng thời Đức quốc xã cái ý tưởng cao ngạo về một sắc dân ưu việt Aryan. Và từ cái sai lầm về cái ý tưởng chủng tộc ưu việt của họ nên họ đã dã tâm tru diệt một sắc dân Do Thái mà họ cho là cạnh tranh với chủng tộc họ. Khoảng sáu triệu người Do Thái đã bị giết cách dã man, đặc biệt trong các lò hơi ngạt. ( Face book Joseph Viet)
Phải chăng vì bị gieo rắc một cái nhìn không có Đấng Tạo Hóa, không có linh hồn, không có lương tâm, cũng chẳng có đời sau hay chuyện thưởng phạt nên người ta dần dà làm cho lương tâm của mình thành chai đá và rồi nhìn tha nhân chỉ như là kẻ cạnh tranh sinh tồn với mình. Từ cái ý tưởng lầm lạc ấy trong đầu thì rồi sẽ dần làm cho cái tâm của ta thành ra ác, xấu khi nào chẳng hay và dẫn đến các hành vi ác độc là chuyện như đương nhiên. Miễn sao có lợi cho tôi, cho gia đình tôi, cho nhóm của tôi thì tôi sẵn sàng làm mọi sự bất nhân, vô đạo. Và chuyện sản xuất bán buôn lương thực, thực phẩm độc hại, chuyện phá thai vô tội vạ, chuyện buôn bằng bán chữ, gian lân thi cử, chuyện xách nhiễu, hối lộ, tham ô và những cuộc thanh trừng độc ác khác là những hậu quả kéo theo mà thôi.
Đêm nay, cùng với tín hữu Kitô nói riêng và cùng với cả nhân loại trên thế giới chúng ta mừng kỷ niệm biến cố Con Thiên Chúa giáng trần. Thiên Chúa đã làm người trong thân phận của một bé thơ nghèo hèn nhắc nhở cho chúng ta về phẩm vị cao quý của con người. Dù là một bé thơ dân dã hay một bào thai dị tật trong dạ mẹ… tất thẩy đều là hình ảnh của Đấng Tạo Thành, vì thế cần phải được trân quý, tôn trọng và bảo vệ. Chúng ta tin nhận Đấng làm người là Mặt trời công chính. Ngài đến để rọi soi chân lý cho loài người. Một trong những chân lý nền tảng Ngài chiếu tỏa đó là loài người chúng ta là loài thụ tạo, được dựng nên do bởi tình yêu và quyền năng của Đấng Tạo Thành là Thiên Chúa. Đấng Tạo thành chúng ta tôn thờ chính là Cha Toàn năng chí ái và như thế chúng ta là anh chị em với nhau. Con Thiên Chúa giáng sinh làm người đã mạc khải chân lý ngàn đời này khi dạy chúng ta lời kinh duy nhất: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…” (Mt 6,9-13)
Đến với máng cỏ chúng ta sẽ nhận ra cội nguồn của mình và từ đó hiểu được mối tương quan giữa mình với tha nhân. Từ cái trí suy đúng đắn và chuẩn mực này thì cái tâm thiện sẽ được dệt xây và từ đó hình thành các hành vi liên đới yêu thương.
Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương (Lc.2,14). Phải xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Lời Thánh Vịnh khẳng định rằng Thiên Chúa yêu thương hết thảy mọi loài do tay Người tác tạo. Thế nhưng để có được sự bình an và hạnh phúc đích thực thì còn tùy sự đáp trả của con người vốn là loài được Thiên Chúa phú ban cho sự tự do. Một trong những điều kiện tất yếu phải có, đó là cái thiện tâm của con người. Và ta có thể nói: Vinh Danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người có thiện tâm. Sứ điệp Giáng Sinh là thế đó. Đến với Con Thiên Chúa làm người để cái tâm của chúng ta dần dà được cải thiện. Có được thiện tâm thì bao hành vi yêu thương liên đới sẽ tự nhiên thành hiện thực. Sự bình an và hạnh phúc sẽ ngày càng tỏa lan. Và dĩ nhiên để có cái tâm thiện thì trước hết cần loại bỏ cái lối nghĩ suy cao ngạo sai lầm cho rằng không có Đấng Tạo Thành; không có linh hồn, không có đời sau; không có chuyện thánh thiêng và cứ mãi ngông cuồng lầm lạc cho rằng tín ngưỡng và tôn giáo chỉ là một thứ thuốc phiện. Đây là lối nghĩ suy của một chủ nghĩa đã bị Nghị Viện Châu Âu kết vào tội ác chống loài người và theo Victor Hugo nó “là giấc mơ của vài người nhưng là cơn ác mộng của nhân loại”.
67. Đêm ánh sáng – Đêm an bình--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Bầu khí của đêm Giáng sinh hôm nay cho chúng ta một cảm nhận rất lạ, một bầu khí nhẹ nhàng, bình an thanh thản trong tâm hồn, mặc dù cuộc sống bên ngoài có vẻ như rất vội vã. Cùng với muôn màu lấp lánh của hàng vạn dây điện là những bài thánh ca du dương mừng Con Chúa ra đời, khiến cho lòng người như lâng lâng bước vào một khung trời mới. Cảm nhận này không chỉ là của riêng những Kitô hữu, mà là cảm nhận chung của nhiều người. Trong đêm Giáng sinh, mặc dù chưa tin Chúa, nhưng nhiều người đang hiện diện nơi đây cũng muốn hòa mình vào niềm vui chung của nhân loại trong đêm Giáng sinh này. Tại sao vậy?
Dù muốn hay không muốn, tin hay không tin, thì nhân loại này cũng không thể phủ nhận được đêm nay là đêm mừng sự kiện Đức Giêsu giáng sinh. Ngài là Đấng mà các Kitô hữu tin là chính Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, là nguồn ánh sáng và là Hoàng Tử – Vua Bình An. Cuộc giáng sinh của Ngài đã đặt một cột mốc, mở ra một trang sử mới cho cả nhân loại. Các bài đọc Kinh Thánh đêm nay muốn giới thiệu cho chúng ta cuộc Giáng sinh trong đơn sơ khó nghèo của vị Vua Bình An này.
Từ năm trăm năm trước công nguyên, tiên tri Isaia đã nói trước về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Lúc đó, dân Israel đang sống trong cảnh tăm tối của tình trạng lưu đày khổ dịch bên Babylon. Trước mặt họ là một tương lai mờ mịt, niềm hy vọng trở về Giêrusalem khôi phục lại đất nước còn quá mong manh xa vời. Những lời của Tiên tri Isaia hôm nay là nguồn tăng lực cho họ, lời lẽ của ông ngập tràn ánh sáng: “Đoàn dân đang bước đi trong tăm tối đã thấy ánh sáng huy hoàng. Những người ngồi trong bóng tối nay được chiếu soi. Vì Thiên Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm vui mừng hoan hỷ. Họ hân hoan vui mừng như trong mùa gặt”.Tiên tri Isaia cho thấy lý do đổi đời của họ là vì một Đấng Cứu Tinh sẽ sinh ra, được ban tặng cho nhân loại. Đấng Cứu thế sẽ đem lại ánh sáng, niềm vui và hạnh phúc cho Israel. Ngài sẽ bẻ gẫy cái ách nô lệ đang đè trên cổ họ, Ngài thiêu hủy những cái roi đang quất xuống trên họ. Những đoàn quân của kẻ áp bức sẽ bị dẹp tan và một tương lai mới sẽ được thiết lập và ban tặng cho Israel. Vì Đấng Cứu Thế được sinh ra sẽ là đấng quyền năng, là người cha muôn thuở, là thủ lãnh hòa bình. Ngài sẽ thiết lập hòa bình trên toàn cõi địa cầu.
Lời tiên báo của Isaia ngày xưa đã được ứng nghiệm nơi cuộc sinh hạ của Đức Giêsu mà Thánh Luca thuật lại. Nếu Isaia dùng những hình ảnh hết sức mạnh mẽ, cụ thể để nói về Đấng Cứu Thế, thì hôm nay cuộc giáng sinh của Ngài lại hết sức đơn sơ, thầm lặng đến bất ngờ. Các mục đồng là những người đầu tiên được loan báo tin mừng trọng đại này và là những nhân chứng đức tin đầu tiên về cuộc giáng sinh của Đấng Cứu Thế.
Thiên Chúa đã chọn một con đường hết sức bình thường để bước vào trần gian trong gia đình Giuse – Maria. Giuse và Maria cũng giống như bao gia đình khác tại Israel, nhưng Giuse và Maria là những người biết rõ nhất về hài nhi mà Maria đang cưu mang không phài là người thường, mà là “Con Đấng Tối Cao”. Vì sự nghèo khó của hai ông bà, nên khi về quê, họ không được người thân đón tiếp và cũng không có khả năng để thuê một quán trọ để qua đêm. Hai ông bà đã phải tìm đến một túp lều ngoài cánh đồng để dừng chân. Chính trong đêm đó, trong khung cảnh tồi tàn đáng thương đó, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh. Bà Maria sinh một con trai đầu lòng, lấy tã bọc con và đặt nằm trong máng cỏ.
Tin Mừng cho thấy sự tương phản nơi khung cảnh nghèo hèn của một hang bò lừa với vẻ huy hoàng của sự xuất hiện của Thiên Chúa. Giữa đêm tăm tối, ánh sáng đã bừng lên, vinh quang của Thiên Chúa đã tràn ngập bầu trời. Những con người đầu tiên được đón nhận tin vui trọng đại này là các mục đồng. Họ là những người thấp kém trong xã hội, những người nghèo, bị loại trừ, phải đi làm thuê làm mướn, nhưng họ có một tâm hồn thật đẹp, thành tâm thiện chí, khao khát Đấng Cứu Thế. Thánh Luca thuật lại: “Sứ thần của Thiên Chúa hiện ra đứng bên họ, vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa khắp vùng khiến họ sợ hãi kinh hoàng. Sứ thần đã trấn an họ: Anh em đừng sợ, này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”.
Trong suốt thời gian đợi chờ, người Do Thái chỉ mong ngày “Thiên Chúa viếng thăm” như xưa Người viếng thăm dân Người, giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập và đưa họ về từ đất Babylon. Với cuộc giáng sinh của hài nhi Giêsu, sứ thần đã quả quyết với các mục đồng rằng: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã đến với anh em”.Hôm naylà cột mốc thời gian Thiên Chúa viếng thăm nhân loại, để vĩnh viễn giải thoát nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi, khôi phục lại phẩm giá và địa vị cho con người và đưa nhân loại trở về quê hương là Nước Trời. Vì thế khi nghe những lời loan báo của sứ thần, các mục đồng đã nhận ra đêm nay là đêm khởi đầu một kỷ nguyên mới, Đấng Cứu Độ là Hoàng Tử Bình An, là Đấng sẽ xóa tan màn đêm u tối, sẽ bao trùm nhân loại này bằng ánh sáng vinh quang và quyền năng của Ngài. Các thiên thần cũng chỉ cho các mục đồng một dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu Thế, đó là: “Một trẻ sơ sinh được bọc trong khăn và đặt nằm nơi máng cỏ”.
Các thiên thần và đạo binh thiên quốc đã phá vỡ sự im lặng và u tối của cánh đồng Bêlem bằng ánh sáng và những lời ca tụng Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.Lời ca này còn âm vang đến chúng ta ngày hôm nay và cho thấy khi Danh Chúa được tôn vinh ca tụng, được mọi người nhận biết, tôn thờ, thì bình an của Thiên Chúa sẽ ban xuống cho tất cả nhân loại là những kẻ Ngài đã yêu thương. Lời ca của sứ thần còn trao gửi cho chúng ta sứ mạng phải có bổn phận góp phần làm cho Danh Chúa được tôn vinh trên trời và dưới đất, mọi người nhận biết tôn thờ và là những người đem bình an của Chúa đến cho mọi người mọi gia đình và toàn thể nhân loại này.
Thế giới ngày nay vẫn chưa ngưng tiếng súng, sự bất công đói nghèo đang là mối đe dọa cho nhân loại. Những cuộc di dân lớn tại Châu Âu, Châu Mỹ đang khiến nhiều người bất chấp nguy hiểm, bỏ lại gia đình và quê hương để tìm đến nơi yên ổn. Bình an, ánh sáng và niềm vui Giáng sinh của Thiên Chúa dường như chưa đến được với những con người đau khổ này. Cũng vậy, quanh chúng ta còn nhiều người, nhiều gia đình vẫn đang sống trong cảnh bất an, bất ổn, đang bị đau khổ dày vò. Tình trạng bạo lực, giết người, phá thai dường như đang càng ngày càng gia tăng. Con người dường như càng ngày càng đánh mất phẩm giá của chính mình, để cho mình sống theo bản năng, phản ứng và cư xử với nhau thiếu tình người vv. Chúng ta sẽ phải làm gì để có thể đón nhận được sự bình an của Chúa Giáng Sinh, để phục hồi lại phẩm giá và tình trạng thánh thiện của tâm hồn?
Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta rằng: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được ban tặng cho con người. Ân sủng cao quý nhất chính là Đức Giêsu Kitô. Ân sủng này dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vây là vì chúng ta là những người trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi là ngày Chúa đến để đưa chúng ta về với Chúa”.Như thế có nghĩa là những Kitô hữu tuyên xưng Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian, phải đón nhận Ngài và sống theo lời dạy của Chúa Giêsu. Chúng ta phải dám từ bỏ khỏi mình lối sống bất công, gian dối, gian ác, không dùng bạo lực để đáp lại bạo lực nhưng dùng tình yêu và tha thứ. Chúa đến để phục hồi phẩm giá con người, vì thế chúng ta cần phải biết tôn trọng phẩm giá chính mình và tôn trọng phẩm giá người khác, tôn trọng sự sống và sức khỏe người khác, bảo vệ giúp đỡ những người yếu đuối, đón nhận và bảo vệ các thai nhi và các trẻ em. Khi cố gắng sống mỗi ngày như thế, niềm vui, ánh sáng và bình an của Chúa Giáng Sinh sẽ ngập tràn trong tâm hồn chúng ta và sẽ là niềm vui làn tỏa đến những người chung quanh.
Kính chúc mọi người mùa Giáng Sinh đầy tràn ơn bình an, tình yêu thương và phúc lành của Thiên Chúa. Amen
68. Loan báo niềm vui Giáng Sinh cho anh em--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Có dịp quan sát các bạn trẻ dắt nhau đi xem hang đá và dự lễ Giáng Sinh, nhiều người tỏ ra khá rụt rè. Được hỏi thăm, một bạn đã nói: “Con là người ngoại đạo, nhưng quen với các bạn Công Giáo, các bạn ấy rủ đi chơi đêm Giáng Sinh, nghe thánh ca và dự lễ, nên con cũng đến đây. Điều khiến con ấn tượng đó là trong bầu khí ấm cúng của thánh đường, những bài thánh ca giáng sinh được hát lên ngân nga vui tươi thánh thiện như tiếng hát của thiên thần”.
Thưa quý OBACE, đại lễ mừng Chúa Giáng sinh ngày nay không còn phải là lễ riêng của người Kitô hữu, mà đã trở thành ngày lễ cho nhiều người kể cả những người ngoại giáo. Đây là điều đáng mừng và cũng đáng lo ngại. Đáng mừng, vì là dịp để nhiều người biết đến đạo Công Giáo, và biết về ngày lễ mừng Chúa Giêsu Giáng Sinh. Còn việc Ngài Giáng sinh để làm gì thì nhiều người vẫn chưa biết. Điều đáng lo là một khi lễ Giáng sinh trở thành ngày lễ hội, thì chính những Kitô hữu chỉ còn đón mừng ngày lễ này như một dịp lễ hội dân gian giống như bao nhiêu lễ hội dân gian khác, là dịp đi chơi, mua sắm mà thôi và cũng không biết Chúa Giáng sinh để làm gì.
Các bài đọc Lời Chúa thôi thúc chúng ta theo bước các mục đồng: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem những việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết. Họ đến nơi và gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh được đặt nằm trong máng cỏ… Các mục đồng khi trở về vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa và nói cho mọi người những điều mắt thấy tai nghe”.Mừng lễ Chúa Giáng sinh hôm nay, Tin Mừng muốn chỉ cho chúng ta ba bước đi trong đức tin của các mục đồng. Các mục đồng không đi xem Hài Nhi như người ta đi xem hang đá, nhưng họ tin theo lời của sứ thần để lên đường; gặp và tin Hài nhi Giêsu là Đấng Messiah và khi trở về hân hoan nói cho mọi ngườivề niềm tin của mình.
Đang đêm các mục đồng bị đánh thức dậy, các anh hết sức ngỡ ngàng bởi ánh sáng bao trùm cả cánh đồng, cùng tiếng ca hát của các thiên thần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.Sứ thần của Thiên Chúa hiện ra báo tin: “Này đây ta báo cho anh em một tin mừng, hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”.Để tin vào lời của sứ thần, chắc chắn các mục đồng phải là những con người đang rất khao khát mong chờ Đấng Cứu Thế, đấng mà các tổ phụ, các ngôn sứ đã loan báo. Hơn ai hết, các mục đồng là những người đang mong chờ tin vui mừng này, vì họ tin rằng Đấng Cứu Thế sẽ giải thoát họ khỏi kiếp lầm than vất vả. Vì thế khi được sứ thần loan báo tin vui, thì chính niềm vui này trở thành động lực để họ bỏ lại đằng sau tất cả quá khứ hôi hám, bỏ đàn vật và cả cơn buồn ngủ giữa khuya để cùng nhau lên đường đến Bêlem. Kinh Thánh nói: “Họ hối hả lên đường”.Điều đó cho thấy sự mau mắn của các mục đồng khi đón nhận được tin vui giáng sinh, họ muốn tìm đến để gặp được Hài Nhi.
Hình ảnh đầu tiên các mục đồng gặp thấy tại Bêlem là hình ảnh của một gia đình nghèo khó, đơn sơ nhưng tràn đầy thánh thiện. Họ gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh. Các mục đồng đã tin Hài Nhi bé nhỏ đang bọc trong khăn nằm trong máng cỏ kia là Đấng Cứu Thế. Niềm tin này thật không dễ dàng để đón nhận. Các mục đồng đã phải vượt qua cái nhìn tự nhiên để thấy nơi hài nhi bé nhỏ kia là chính Thiên Chúa quyền năng, nơi em bé được quấn tã nằm trong máng cỏ kia lại là Đấng tạo dựng trời đất, là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Sau này Gioan suy gẫm về Mầu Nhiệm Giáng Sinh và viết trong lời tiền ngôn Phúc Âm Gioan: “Ngôi Lời đã có từ khởi đầu, Ngài là chính Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Ngài là ánh sáng chiếu soi trong đêm tối, là ánh sáng sự thật. Ngài đến nhà mình mà người nhà đã chẳng đón nhận Người, còn những ai đón nhận Người, tin vào Người, thì Người cho họ quyền được làm con Thiên Chúa”.
Bước thứ ba trong hành trình của các mục đồng đó là họ trở về; kể lại điều họ đã tai nghe mắt thấy về Hài Nhi. Điều đó có nghĩa là họ đã đón nhận được niềm vui mà sứ thần loan báo, niềm vui vì họ đã gặp được Đấng Cứu Thế, niềm vui cứu độ và đã tin vào Ngài. Niềm vui này khiến họ không thể giữ kín trong lòng cho riêng mình, nhưng phải kể ra, nói lại cho mọi người về kinh nghiệm được gặp gỡ Hài Nhi Giêsu. Những người nghe các mục đồng kể lại cũng hết sức ngạc nhiên về những việc Chúa đã làm. Kinh Thánh còn cho thấy các mục đồng không chỉ nói cho mọi người, mà còn vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa về tất cả những gì họ đã nghe và đã thấy. Điều đó chỉ ra rằng: niềm vui và tâm tình tạ ơn Thiên Chúa được các mục đồng thể hiện qua cả cuộc sống của họ, từng bước đi từng lời nói của họ giờ đây trở thành lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Các mục đồng đã thực hiện điều tiên tri Isaia loan báo: “Hãy loan truyền cho khắp cùng cõi đất; hãy nói với thiếu nữ Sion, kìa ơn cứu độ của ngươi đang tới. Chúng sẽ được gọi là ‘dân thánh’ là ‘những người được Chúa cứu chuộc’”.Ơn Cứu độ là ơn lớn lao nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại qua Hài Nhi Giêsu – Đấng cứu độ. Ơn này thanh tẩy, canh tân và phục hồi phẩm giá con người đã bị chà đạp bởi tội lỗi và ma quỷ, hơn nữa còn ban cho con người địa vị được làm con Thiên Chúa. Tất cả những con người khiêm nhường, thấp hèn trong xã hội nhưng có tâm hồn rộng mở, đơn sơ, chân thành như các mục đồng đã được ưu tiên để lãnh nhận.
Thưa quý OBACE, mừng đại lễ Giáng Sinh hôm nay, chúng ta tuyên xưng một niềm tin hết sức quan trọng về Chúa Giêsu: “Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”.Như thế, chúng ta tuyên xưng Hài Nhi được sinh ra nơi máng cỏ Bêlem năm xưa là vì chúng ta và để cứu độ chúng ta. Từ việc tuyên xưng trên môi miệng đến việc tìm đến bái thờ và hân hoan ca tụng Thiên Chúa cùng nói cho mọi người về niềm vui Giáng Sinh này là trách nhiệm của mỗi chúng ta. Chúng ta không chỉ vui niềm vui Giáng Sinh như một cuộc vui bên ngoài, nhưng phải thực sự đón nhận như một niềm vuisâu xatrong tâm hồn. Cuộc vui sẽ sớm tàn, còn niềm vui có sức biến đổi và thôi thúc chúng ta chỗi dậy lên đường tìm đến với Chúa. Có thể chúng ta nghe tin vui Chúa Giáng Sinh này rất nhiều lần trong cuộc đời, nhưng chúng ta vẫn không thoát được sự cám dỗ của cơn buồn ngủ, chiều theo dục vọng xác thịt và sự ươn hèn của mình, không chỗi dậy khỏi bóng tối để tìm đến với Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng. Nhiều người không cảm thấy bị thôi thúc để hối hả lên đường tìm kiếm Chúa, bởi vì chúng ta còn đang mải tìm kiếm nhiều thứ khác như nhà cửa, ruộng đất, tiền bạc, địa vị và thành công hơn là tìm kiếm Chúa Hài Nhi. Có nhiều người, nhiều gia đình đã không để cho Chúa giáng sinh trong tâm hồn và trong gia đình, khiến cho tâm hồn và gia đình thiếu vắng niềm vui, thiếu sự bình an và ơn lành của Chúa. Vì thế họ không cảm thấy bị thôi thúc để nói cho mọi người về niềm vui ơn cứu độ mà Chúa đem lại cho nhân loại và cho mỗi người.
Mừng lễ Chúa Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi trở thành các sứ giả loan báo niềm vui Giáng sinh và ơn cứu độ đến cho mọi người, đặc biệt là những người bé mọn, đau khổ và những người chưa biết Chúa. Chúng ta sẽ phải thành những sứ giả của sự bình an và niềm vui của Chúa để tất cả mọi người khi gặp gỡ tiếp xúc với người Công Giáo, họ cảm nhận được sự bình an lan tỏa đến họ. Chúng ta phải sống sao để mọi người có thể cảm nhận được niềm vui thiêng liêng sâu xa nơi mỗi tín hữu cho dù phải trải qua những lúc đau khổ tăm tối của cuộc sống. Mỗi người sẽ phải có trách nhiệm đem niềm vui và bình an của Chúa về trong tâm hồn, trong gia đình, trong xóm ngõ của chúng ta, tạo nên một bầu khí vui tươi hân hoan cho gia đình và lối xóm.
Xin cho lời ca của sứ thần trong đêm Giáng sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dười thế cho loài người Chúa thương”,được mỗi chúng ta cảm nghiệm cách sâu xa và làm cho lời ca ấy ngân vang trong từng ngày sống của mình; xin cho bình an của Chúa được lan tỏa trong gia đình và mọi nơi, Danh Chúa được mọi người tôn vinh. Amen.
69. Ánh sáng tin mừng--Trầm Thiên Thu
Thiên tử giáng trần – vinh danh Thiên Chúa
Thế nhân thờ kính – hạnh phúc loài người
Đêm Con Thiên Chúa giáng trần là đêm vô cùng đặc biệt đối với cả nhân loại, kể cả những người không phải là Kitô hữu, dù cho đối với họ chỉ là một lễ hội theo xã hội. Không một nhân vật nào có ngày sinh nhật được mọi người biết đến và háo hức mong chờ, chỉ có Chúa Giêsu mà thôi. Có lẽ cảm thấy mình hèn kém nên một số kẻ có chức quyền cấm cả các Ông Già Noël không được phát quà tại các trường học.
Nhưng dù những kẻ thủ ác theo phe bóng tối bày đủ trò hèn hạ để bách hại thì họ càng tự chứng minh sự hèn hạ của mình, và không thể ngăn cản ánh sáng của Thiên Chúa. Lịch sử đã và đang chứng minh như vậy. Chính Thiên Chúa Cha đã từng minh định bằng lời tuyên phán về Chúa Giêsu: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2:7). Đó là Đấng Emmanuel, cư ngụ và vào đời với chúng ta.
Trong lịch sử loài người, đã có hằng ngàn hài nhi trở thành vua, nhưng chỉ có một lần một Vị Vua trở thành một Hài Nhi: Đức Giêsu Kitô. Trong Đêm Cực Thánh lung linh muôn ánh sao này, Lời Chúa khiến tất cả chúng ta đều phấn khởi vui mừng, vì Đấng Cứu Độ đã được Chúa Cha trao ban cho nhân loại. Đó là Tin Mừng của các tin mừng, vì chính từ đêm nay, sự bình an đích thực đã từ trời ban xuống cho nhân thế – trong đó có mỗi chúng ta. Niềm hạnh phúc quá lớn lao nên không thể bày tỏ bằng phàm ngôn!
Thật tuyệt vời! Thế thì không vui mừng sao được khi mà “dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9:1). Ôi, hồng ân cao cả vô cùng, với lý do rất minh nhiên: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm” (Is 9:2). Đúng như lời ông A-xáp xưng tụng: “Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần” (1 Sb 16:25).
Cuộc đời bất công đã tạo ra nhiều đau khổ nên con người rất cần Thiên Chúa. Khi Ngài đến, không còn bất công và áp bức, công lý được sáng tỏ: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa. Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:3-5). Những Tôn Danh đó vô song, và chỉ có thể dành cho Thiên Chúa, không một người nào hoặc một thần linh nào xứng đáng với các Tôn Danh đó. Vì ảo tưởng mà ích kỷ, vì ích kỷ mà mê muội, thế nên vua chúa ngày xưa đã dám tự xưng là “thiên tử”. Kinh dị và quái gở thật!
Belem nhỏ bé, hẻo lánh, bỗng dưng trở nên to lớn và quan trọng, vì được chọn làm nơi Hài Nhi giáng sinh. Hài Nhi đó chính là Vua Công Lý, Ngài đích thân đến để giải thoát tội nhân khỏi ách nô lệ, các tử tù cũng được trắng án: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6). Lời hứa từ ngàn xưa đã ứng nghiệm, nên trọn.
Đêm Con Thiên Chúa giáng sinh là Đêm Hồng Ân, Đêm Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa, Đêm Cứu Độ, Đêm Bình An, đêm tràn ngập Ánh Sáng Tin Mừng Cứu Độ. Niềm vui trào dâng tràn ngập đất trời, chan hòa lòng người. Không ai có thể bất động mà không hân hoan thốt lên: Hãy vui lên! Thật vậy, Thánh Vịnh gia đã phải lên tiếng mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3). Không ai có thể giấu kín niềm vui, dù chỉ là thoáng vui.
Thánh Vịnh gia không chỉ mời gọi người khác mà còn kêu gọi cả muôn loài cùng thể hiện niềm vui sướng đó: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ. Hỡi cây cối rừng xanh, hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 96:11-13). Niềm vui mừng rộn rã đó thật là chính đáng, vì chính đêm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô Chúa chúng ta, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Chính Ngài là Ánh Sáng đến phá tan bóng tối, là Hòa Bình dập tắt chiến tranh, là Công lý triệt tiêu áp bức, là Tình Yêu tiêu diệt hận thù. Thật kỳ diệu, Ngài tự hạ để nâng chúng ta lên cao, Ngài chấp nhận nghèo khó để chúng ta giàu có, Ngài chịu bơ vơ để chúng ta sum họp,… Vô cùng tạ ơn Chúa Hài Đồng, phàm phu tục tử chỉ biết nói thế, vì phàm ngôn không đủ để có thể diễn tả hết ý nghĩa cao siêu về Thiên Chúa.
Đêm nay là đêm linh thánh và huyền diệu, đêm ứng nghiệm lời hứa từ ngàn xưa, tất cả đã được nên trọn theo ý Chúa: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao chúng ta phải cố gắng sống khác lúc trước? Thánh Phaolô giải thích: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14). Vâng, không còn hạnh phúc nào lớn hơn nữa. Nguyện xin tất cả vì vinh danh Chúa mà thôi, đó là trách nhiệm và bổn phận của mọi chúng nhân!
Trình thuật Lc 2:15-20 ngắn gọn mà đầy đủ chi tiết về Cổ-Tích-Giáng-Sinh, một câu chuyện cổ tích CÓ THẬT chứ KHÔNG hoang đường hoặc huyền thoại. Thánh sử Luca kể…
Vào thời gian đó, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Mọi người đều phải về nguyên quán để khai tên tuổi cho đúng thủ tục. Theo luật, Chú Giuse cũng phải từ Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành vua Đa-vít – tức là Belem, miền Giu-đê, vì Chú thuộc Hoàng tộc Đa-vít. Chú lên đó khai tên cùng với tân nương là Cô Maria, lúc ấy Cô đang mang thai.
Trong khi hai người đang ở đó, Cô Maria tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Và rồi Cô sinh Con Trai đầu lòng, lấy tã bọc con đặt nằm trong máng cỏ, vì hai Cô Chú không tìm được chỗ trong nhà trọ. Khó khăn đủ thứ, càng khó khăn hơn vì trời đã nửa khuya giữa đồng không mông quạnh!
Belem là vùng quê nhỏ bé, hẻo lánh, dân nghèo, đêm đó có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức để canh giữ đàn súc vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Hãi hùng là cái chắc, vì các mục đồng là những con nhà nghèo, học hành không nhiều, có thể cũng có người chẳng biết chữ. Dân quê chân chất, mộc mạc, nhưng rất chân thành. Đang đêm ngon giấc mà họ thấy ánh sáng chiếu sáng chói cả mắt, lại đang ngái ngủ, họ hoảng sợ là chuyện bình thường thôi, không có chi lạ.
Biết họ hoảng sợ, sứ thần liền trấn an họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Họ nghe nhưng có lẽ chả hiểu ất giáp chi cả, hẳn là họ tròn mắt và há miệng vì quá đỗi ngạc nhiên, y như những chú Tàu nghe kèn vậy. Ôi, lúc đó nhìn họ chắc thấy “tội nghiệp” lắm!
Biết họ chân chất thật thà nên sứ thần nói rõ ràng luôn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Ôi chao, dấu hiệu cũng “lạ”, hoàn toàn khác thường. Vậy mà họ không hề thắc mắc, thật thà chính hiệu. Họ liền mau mắn kéo nhau đi gặp Trẻ-Sơ-Sinh-Bọc-Trong-Tã như đã được thông báo. Và họ đã thấy y chang như sứ thần đã mách bảo. Các mục đồng thật diễm phúc vì là những người đầu tiên được thấy Đấng Cứu Thế, những chứng nhân đầu tiên đem Ánh Sáng Tin Mừng đến với người khác. Thật kỳ diệu và tuyệt vời!
Trong tâm tình tin mến và hòa chung niềm vui rộn rã tưng bừng, chúng ta cùng hợp lời với muôn vàn thiên binh hợp và sứ thần để cùng cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin tỏa Ánh Sáng Tin Mừng để dẫn chúng con đến với Nguồn Sáng Giêsu và những con người hèn mọn nhất, xin giúp chúng con nhận biết Ngài qua tha nhân và xin cho người khác cũng nhận ra Ngài nơi chúng con, làm cho chúng con trở nên chứng nhân sống động của Tình Yêu Thương qua việc xây dựng nền văn minh tình thương và văn minh sự sống. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
70. Sung mãn--Trầm Thiên Thu
Mùa vọng tím mong chờ con Thiên Chúa
Giáng sinh xanh mãn nguyện nỗi khát khao
Sung mãn là tình trạng phát triển trọn vẹn nhất. Cách sống càng sung mãn càng bình an – cả đời thường và tâm linh. Chúa Giêsu đến thế gian để chúng ta được sống và sống dồi dào (x. Ga 10:10), và chính Ngài là Đấng làm cho chúng ta sống sung mãn: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1:16). Thánh Phaolô xác định: “Nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể, và trong Người, anh em được sung mãn: Người vốn là đầu mọi quyền lực thần thiêng” (Cl 2:9-10).
Lễ Giáng Sinh là biến cố trọng đại, nhắc chúng ta nhớ sự kiện nhập thể và nhập thế của Ngôi Hai Thiên Chúa – Đức Kitô Giêsu, Đấng Ngôi Lời. Ngài đã làm người vì thương xót phàm nhân chúng ta. Ánh Sáng Lòng Thương Xót đã bừng sáng khắp nơi, và địa cầu tràn đầy Ân Sủng Thiên Chúa. Mặt Trời Công Chính đang chiếu soi rạng ngời. Ân Tình Giáng Sinh đang chan hòa khắp thế giới. Thực sự chúng ta đã nhận được Tin Mừng ấy, do đó chúng ta có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng Lòng Thương Xót cho tha nhân bằng bất cứ cách nào theo hoàn cảnh riêng của mỗi người – cụ thể là bằng cách sống tốt lành.
Mừng Chúa Giáng Sinh không cần rườm rà bề ngoài, nên giữ TĨNH LẶNG và KHIÊM NHƯỜNG theo bí quyết của Đức Mẹ dạy Thánh Kowalska Faustina (*). Đó cũng là cách loan báo Tin Mừng – nhiệm vụ chung tuyệt vời và rất giá trị mà ai cũng phải thi hành. Thật vậy, Ngôn sứ Isaia đã thốt lên: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52:7a), và ông nói với Sion: “Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị” (Is 52:7b).
Xác định và động viên, ngôn sứ Isaia cho biết: “Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion. Hỡi Giêrusalem điêu tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Giêrusalem” (Is 52:8-9). Thiên Chúa thấy loài người thật đáng thương, thế nên Thiên Chúa Cha đã sai Thiên Chúa Ngôi Con phải đích thân giáng sinh làm người để chia sẻ đau khổ với chúng ta. Thật vậy, “trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Ngài: ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta, người bốn bể rồi ra nhìn thấy” (Is 52:10). Chắc chắn không ai có thể làm ngơ hoặc im lặng khi thấy những điều kỳ lạ, đặc biệt là điều xảy ra quá đỗi nhiệm mầu.
Thánh Vịnh gia đồng cảm điều đó và đã lên tiếng mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công. Ngài chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Ngài” (Tv 98:1). Động thái xưng tụng Thiên Chúa không chỉ là bổn phận mà còn là niềm vinh hạnh của chúng ta, bởi vì “Chúa đã biểu dương ơn Ngài cứu độ, mặc khải đức công chính của Ngài trước mặt chư dân; Ngài đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 98:2-3). Lời hứa xưa đã nên trọn, sự thật đã hiển nhiên.
Rất có thể vì cảm thấy bồn chồn, sốt ruột, thế nên Thánh Vịnh gia lại phải tiếp tục kêu gọi: “Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát. Đàn lên mừng Chúa khúc hạc cầm dìu dặt, nương khúc hạc cầm réo rắt giọng ca. Kèn thổi vang xen tiếng tù và, tung hô mừng Chúa, vị Quân Vương!” (Tv 98:4-6). Biết chắc điều gì đó chính xác, người ta không thể không chia sẻ với người khác, muốn nói ra ngay với bất cứ ai, không thể trì hoãn, càng sớm càng tốt.
Tất nhiên có rất nhiều lý do để chúng ta chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa. Thánh Phaolô xác nhận bằng cách dẫn chứng chứng cớ từ xa xưa: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài” (Dt 1:1-2). Chính xác như vậy. Vả lại, “chính Ngài phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa, là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1:3a). Và rồi, “sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Ngài lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời” (Dt 1:3b). Tuần tự như tiến. Mạch lạc. Rạch ròi. Chính xác.
Thật đúng là như vậy, bởi vì Thiên Chúa quá trác tuyệt và cao siêu, vượt xa ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Danh hiệu mà Chúa Con được thừa hưởng cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu thì Ngài lại nổi trội hơn bấy nhiêu. Quả thật, chẳng bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào rằng “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”, hoặc “Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta”. Do đó, khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa đã minh định như một mệnh lệnh tuyệt đối: “Mọi thiên thần của Thiên Chúa phải thờ lạy Ngài” (Dt 1:6). Thánh Phaolô phân tích tỉ mỉ và rõ ràng. Tất nhiên trách nhiệm rõ ràng đó cũng là trách nhiệm của chúng ta, bởi vì chính Thiên Chúa đã truyền lệnh chúng ta chỉ được phép thờ lạy một Chúa duy nhất và kính mến Ngài hết lòng. Ngoài Ngài không có thần linh nào khác (Đnl 4:35 và 39; Is 45:21; Is 46:9), và người ta cũng phải công nhận như vậy (Đn 3:29).
Hài Nhi giáng sinh nơi Belem là ai? Ngài là Ngôi Hai, là Đấng Thiên Sai, là Thánh Tử, là Đức Giêsu Kitô, là Ngôi Lời, là Đấng giàu lòng thương xót. Đấng ấy có từ bao giờ? Kinh Thánh nói rõ: Từ khởi đầu đã có Ngôi Lời, chính Ngài là Al-pha và Ô-mê-ga (Kh 1:8; 21:6; Kh 22:13) – tức là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. Thánh Gioan nói: “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1:1). Cách diễn tả tuyệt vời quá! Và ông giải thích tiếp: “Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:2-5). Chính những hình ảnh đối nghịch nhau lại có thể làm nổi bật nhau. Đó là điều rất kỳ diệu và thú vị!
Thánh sử Gioan không dùng đại từ ở ngôi thứ nhất số ít, nhưng nói rằng “có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan”. Và ông dùng đại từ ngôi thứ ba số ít với ý nói về chính mình: “Ông [tức là ông ấy] đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1:7-8). Cách dùng đại từ tinh tế bao hàm sự khiêm nhường. Nhưng khi nói về Đấng Thiên Sai thì ông nói rạch ròi: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:9-11). Cũng vẫn có những điểm trái ngược. Văn phong độc đáo đấy!
Xưa nay vẫn thế đối với sự đời, chín người thì có tới mười ý, chẳng có ai giống ai. Ông Gioan nói: “Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12). Ôi, diễm phúc biết bao! Tại sao vậy? Bởi vì được làm con Thiên Chúa mà chỉ với một điều kiện đơn giản: Tin nhận và tín thác vào Ngài. Các tín nhân đó được sinh ra không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. Quả là sự kỳ diệu vô cùng!
Chính ngày này năm xưa, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14a). Con Thiên Chúa giáng sinh và ở cùng nhân loại. Niềm vui dâng cao tột đỉnh. Ông Gioan trẻ (Gioan tông đồ) làm chứng xác thực: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14b). Đã được mục kích sở thị, ông Gioan Tẩy Giả hăng say làm chứng về Đức Kitô, và ông mạnh mẽ tuyên bố: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”(Ga 1:15). Người sinh trước mà có sau, người sinh sau mà có trước. Thật khó hiểu vì quá vô lý, nhưng hoàn toàn là sự thật, và điều đó không thể lý luận theo kiểu phàm tục, nhưng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).
Giáng sinh là yêu thương. Thiên Tình Giáng Sinh là Đại Dương Thương Xót, thật là tuyệt vời và khôn tả! Niềm vui mừng đó cứ ngồn ngộn, không thể mô tả hoặc thể hiện bằng các động thái phàm nhân. Thánh Gioan giải thích: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã LÃNH NHẬN HẾT ƠN NÀY ĐẾN ƠN KHÁC. Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 1:16-17). Chưa bao giờ có ai thấy Thiên Chúa – vì con người tội lỗi bất xứng và con mắt phàm tục không thể chịu nổi ánh sáng vinh quang của Ngài, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết. Vì thế, điều rất quan trọng cần lưu ý là “Đức Tin quan trọng hơn phép lạ”. Nghĩa là đừng bao giờ “chạy đua” theo những “sự lạ” mà hãy không ngừng “chạy đua” trên Hành Trình Đức Tin, trên Hành Trình Đức Ái – tức là cố gắng hết sức để thể hiện Lòng Chúa Thương Xót một cách cụ thể và sống động, bằng tất cả con người của mình, theo điều kiện sống của mình.
Mỗi người được Chúa ban cho khả năng khác nhau. Các khả năng khác nhau là để cộng tác với nhau chứ không phải để tự mãn hoặc kèn cựa nhau. Ai có khả năng gì là cách Chúa thể hiện ý Ngài muốn người đó hoạt động về lĩnh vực đó – đặc biệt là các sở trường, thế mạnh hoặc yếu điểm – điểm mạnh (khác với nhược điểm – điểm yếu). Tất cả đều là hồng ân, chứ chúng ta chỉ là vô tích sự mà thôi!
Lạy Thánh Phụ nhân từ, xin cảm tạ Ngài đã ban Thánh Tử cho chúng con, đồng lao cộng khổ với chúng con, chia sẻ đau khổ kiếp người với chúng con. Xin thúc giục chúng con hành động theo Con Chúa bằng cách sống công bình, bác ái và thương xót mọi người theo tiêu chuẩn của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
—-
(*) Đức Mẹ cho Thánh nữ Maria Kowalska Faustina (1905-1938) biết cách đón Chúa Giêsu Hài Đồng: “Này con gái, hãy cố gắng giữ thinh lặng và khiêm nhường, để Chúa Giêsu, Đấng luôn ngự trong linh hồn con, có thể nghỉ ngơi. Hãy thờ lạy Ngài trong tâm hồn, đừng ra khỏi nội tâm”(Nhật Ký, số 785).
71. Tin Mừng--Lễ đêm--Trầm Thiên Thu
Con Thiên Chúa làm người, giao hòa Đất với Trời, vinh danh Thiên Chúa.
Tội thế nhân được sạch, đổi mới Hồn và Xác, hạnh phúc loài người.
Thiên Chúa tuyên phán: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2:7). Trong Đêm Cực Thánh lung linh muôn ánh sao này, Lời Chúa khiến tất cả chúng ta đều phấn khởi vui mừng, vì Đấng Cứu Độ đã sinh ra trong thế gian. Đó là Tin Mừng của các tin mừng, vì chính từ đêm nay, bình an chân thật đã từ trời đã ban xuống cho chúng ta. Niềm hạnh phúc quá lớn lao và khôn tả!
Không vui mừng sao được khi mà “dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9:1). Thật là một hồng ân cao cả vô cùng, với lý do rất minh nhiên: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm” (Is 9:2).
Chúa đến, không còn bất công và áp bức, công lý được sáng tỏ: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa. Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:3-5). Những Tôn Danh đó vô song, và chỉ có thể dành cho Thiên Chúa, không một người nào hoặc một thần linh nào xứng đáng với các Tôn Danh đó.
Hài Nhi giáng sinh nơi hang đá hèn hạ lại chính là Vua Công Lý, Ngài đến để giải phóng các tội nhân, các tử tù cũng được trắng án: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6).
Đêm nay là Đêm Hồng Ân, Đêm Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa, Đêm Cứu Độ, Đêm Bình An. Niềm vui tào dâng tràn ngập đất trời, chan hòa lòng người. Không ai có thể bất động mà không hân hoan thốt lên: ALLELUIA. Tác giả Thánh Vịnh đã phải mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Không chỉ mời gọi mọi người, tác giả Thánh Vịnh còn kêu gọi cả muôn loài cùng thể hiện niềm vui sướng đó: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ. Hỡi cây cối rừng xanh, hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 96:11-13). Niềm vui mừng rộn rã thật chính đáng, vì chính đêm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô Chúa Chúng ta!
Ngài là Ánh Sáng đến phá tan bóng tối, Ngài là Hòa Bình đến dập tắt chiến tranh, Ngài là Công lý đến triệt tiêu áp bức, Ngài là Tình Yêu đến phá bỏ hận thù. Ngài tự hạ để nâng chúng ta lên cao, Ngài chấp nhận nghèo khó để chúng ta giàu có, Ngài chịu bơ vơ để chúng ta sum họp,… Vô cùng tạ ơn Chúa Hài Đồng, phàm phu tục tử chỉ biết nói thế, vì không phàm ngôn nào có thể đủ mức để diễn tả!
Lời hứa từ ngàn xưa đã được thực hiện, mọi lời tiên tri đã ứng nghiệm, tất cả đã được nên trọn: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao phải như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14).
Vâng, không còn hạnh phúc nào lớn hơn nữa rồi. Nguyện xin tất cả vì vinh danh Chúa mà thôi!
Thánh sử Luca kể ngắn gọn mà đầy đủ Cổ-Tích-Thật-Giáng-Sinh...
Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, Chú Giuse từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít – tức là Belem, miền Giu-đê, vì Chú thuộc Hoàng gia Đa-vít. Chú lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với Chú là Cô Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, Cô Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Cô sinh Con Trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai Cô Chú không tìm được chỗ trong nhà trọ.
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Hãi hùng lá cái chắc, vì các mục đồng là những con nhà nghèo, học hành không nhiều, có lẽ có người cũng chẳng biết chữ, thế nên rất chân chất, mộc mạc, nhưng chân thành. Đang đêm ngon giấc mà họ thấy ánh sáng chiếu sáng chói cả mắt, lại đang ngái ngủ, không hoảng sợ sao được!
Thế nhưng sứ thần trấn an họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Họ nghe nhưng có lẽ chả hiểu ất giáp chia cả đâu, mắt chữ O và miệng chữ A, nhìn chẳng khác gì chú Tàu nghe kèn thôi. Lúc đó, nhìn họ chắc là thấy “tội nghiệp” lắm!
Sứ thần biết họ thật thà nên nói toạc móng heo luôn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Ôi chao, dấu hiệu “lạ” quá chừng. Thế nhưng họ không hề thắc mắc, rồi họ mau mắn kéo nhau đến gặp Trẻ-Sơ-Sinh-Bọc-Trong-Tã ấy. Và họ đã thấy y chang như sứ thần đã bảo. Các mục đồng thật diễm phúc vì là những người đầu tiên được thấy Đấng Cứu Thế!
Xin hợp lời với muôn vàn thiên binh hợp và sứ thần để cùng cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin chiếu tỏa Ánh Sáng Đức Tin dẫn đường chúng con đến với Đức Kitô và những con người hèn mọn nhất, xin giúp chúng con nhận biết Chúa qua mọi người và những gì nhỏ bé nhất, để chúng con trở thành những chứng nhân sống động của Tình Yêu, đồng thời chung tay xây dựng nền Văn Minh Tình Thương và Văn Minh Sự Sống ở mọi nơi và mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
72. Tỏ tường--Lễ rạng đông--Trầm Thiên Thu
Con Chúa làm người vì thương xót
Phàm nhân hạnh phúc đón Thánh Ân
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, một người con đã được ban cho chúng ta, hài nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9:6). Một sự thật minh nhiên, một chân lý tỏ tường. Đã là sự thật thì không thể chối cãi, vì sự thật mãi mãi là sự thật, và chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).
Ngôn sứ Isaia vừa thông báo vừa mời gọi: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt” (Is 62:11). Tại sao chỉ nói với thiếu nữ Sion mà không nói với nam giới Sion? Thiết tưởng, nữ giới là phái yếu, thường bị áp bức, bị khinh miệt,… Và họ có thể đại diện cho những người hèn mọn, thấp cổ bé miệng, bị chà đạp nhân phẩm, bị tước đoạt nhân quyền, bị miệt thị nhân vị,… Họ cũng chính là chúng ta, những người bị tội lỗi đè đầu, bị thói hư tật xấu kiểm soát, bị xã hội ruồng bỏ.
Thực sự Đức Chúa đã đến hơn hai ngàn năm qua rồi. Lễ Giáng Sinh chỉ là kỷ niệm đại sự kiện Con Chúa làm người mà thôi. Vấn đề là chúng ta có để Chúa đến trong linh hồn chúng ta hằng ngày, mọi nơi và mọi lúc hay không. Nếu chúng ta “cho phép” Chúa vĩnh cư nơi hang-đá-tâm-hồn thì chúng ta sẽ được gọi là “dân thánh”, là “những người được Đức Chúa cứu chuộc”, được gọi là “cô gái đắt chồng”, là “thành không bị bỏ” (Is 62:12). Như vậy thì thật là đại phúc!
Và nếu được đại phúc đó thì vô cùng vui mừng. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo! Mây u ám bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là công minh chính trực. Ngọn lửa hồng mở lối tiên phong, đốt tiêu tan địch thù tứ phía. Ánh chớp của Người soi sáng thế gian, địa cầu trông thấy mà run sợ; núi tan chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người” (Tv 97:1-6). Thiên Chúa có phong cách không hề giống phàm nhân, tất nhiên chúng ta không thể nào hiểu nổi, chỉ còn biết cúi đầu kính phục, thờ lạy và chúc tụng. Nói theo kiểu thời @ ngày nay thì đó là “trên cả tuyệt vời”!
Thiên Chúa công chính nên Ngài muốn mọi thứ cũng phải tỏ tường, nghiêm chỉnh, chính xác, trước sau như một. Và vì thế mà Ngài “bị động” theo kiểu “bất lực”. Thiên Chúa mà “bất lực” ư? Vâng, đúng vậy. Nhưng Ngài “bất lực” cái gì và tại sao? Ngài “bất lực” về sự dối trá, nhẫn tâm, thù hận, nản lòng, thất hứa,… Ngài “bất lực” trong những động thái ác độc vì Ngài là Đấng chí thiện, là sự thật và là sự sống (x. Ga 14:6). Ngài là Đấng Thánh nên Ngài cũng buộc chúng ta phải nên thánh: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). KHÔNG NÊN THÁNH là PHẢN BỘI CHÚA.
Lý do để chúng ta vui mừng rất tỏ tường: “Ánh sáng bừng lên chiếu rọi người công chính, niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng ngay. Trước nhan thánh Chúa, người công chính hãy vui mừng tưởng nhớ Thánh Danh mà dâng lời cảm tạ” (Tv 97:11-12).
Lý do vui mừng càng tỏ tường hơn theo “tầm nhìn” của Thánh Phaolô: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (Tt 3:4-5).
Niềm vui càng tăng lên theo cấp số nhân: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3:6-7). Không còn biết nói gì hơn nữa vì niềm vui đó quá lớn, ngỡ như chỉ có trong mơ, nhưng đó lại là sự thật hiển nhiên. Đúng là đại phúc cho chúng ta!
Các mục đồng nghèo khổ và dốt nát nhưng lại hạnh phúc nhất: Những người đầu tiên được báo Tin Mừng và được trực tiếp diện kiến Chúa Hài Đồng. Họ là những nhân chứng sống động mà chúng ta phải noi gương.
Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2:15). Thánh Luca cho biết là “họ liền hối hả ra đi”. Mau mắn hành động mà không chút đắn đo, suy tính. Lại một tấm gương sáng về việc “sống đạo” khiến chúng ta phải “giật mình” lắm!
Khi đế nơi phải đến, họ gặp Cô Maria và Chú Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ không ngạc nhiên, và rồi họ không thể im lặng, gặp ai họ cũng liền tíu tít kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Khi nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên vô cùng.
Riêng Cô Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2:19). Phong cách Cô Maria thật “khác người”, đúng là một thục nữ nhu mì và ngoan hiền. Thánh sử Luca cho biết thêm: “Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2:20). Quả thật, mọi điều đã tỏ tường. Kế hoạch của Thiên Chúa thật là mầu nhiệm!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết mau mắn hành động vì Danh Chúa và chứng tỏ lòng thương xót của Ngài, để bất kỳ ai gặp chúng con thì cũng gặp được chính Ngài, qua các động thái yêu thương chân thành nhất. Xin giúp chúng con biết noi gương Đức Maria và Đức Giuse là NÓI ÍT mà LÀM NHIỀU. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
73. Đón Chúa Giáng Sinh với tâm tình nào?--Lễ Rạng Đông--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Có lẽ sự nhộn nhịp của thánh lễ đêm hôm qua đã làm cho nhiều người cảm thấy rộn ràng, vui tươi và hạnh phúc. Nhưng bên cạnh đó cũng không thiếu những người cảm thấy mệt mỏi sau một đêm dài với biết bao nhiêu calo phải bỏ ra nơi những cuộc vui chơi, ăn nhậu và nhiều khi trụy lạc nơi những quán bar, nhà nghỉ…
Còn thánh lễ Giáng Sinh vào rạng sáng hôm nay, vẫn quen gọi là thánh lễ Rạng Đông thì lại là một thánh lễ rất êm đềm, không ồn ào, không náo nhiệt, không ca nhạc, kịch nghệ, chẳng có chương trình vui chơi giải trí gì…!
Đối tượng dự lễ cũng chỉ còn lại đa số là những cụ già, hay những người lớn tuổi hoặc một số bạn trẻ đạo đức mà thôi… còn lại, mọi người đang chìm trong giấc ngủ sâu!
Tuy nhiên, trong bầu không khí tưởng chừng như tĩnh lặng này, Giáo Hội lại cho chúng ta nghe bài Tin Mừng do thánh Luca trình thuật nói về việc các mục đồng hối hả đi tìm, thờ lạy và loan truyền về Hài Nhi Giêsu cho người khác. Điều này gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ?
1. Các mục đồng đi tìm Chúa như thế nào?
“Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2, 15).
Đây là lời của các mục đồng nói với nhau sau khi đã được các thiên sứ báo tin cho biết Đấng Cứu Thế đã giáng sinh trong thành Belem.
Thánh sử Luca cho biết thêm: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).
Như vậy, thánh lễ Rạng Đông của ngày Giáng Sinh giờ này có thể được gọi là lễ Chúa tỏ mình ra cho các mục đồng.
Tại sao Chúa lại không tỏ ra cho những người quyền cao chức trọng, giàu có hay những nhà lãnh đạo tôn giáo, mà lại tỏ ra cho các mục đồng là những người nghèo, đơn sơ chất phát, thấp cổ bé họng…
Thưa đơn giản, bởi vì nơi các mục đồng có điểm tương giao với Hài Nhi Giêsu.
Thật vậy, khi Con Thiên Chúa hạ sinh nơi cánh đồng Belem chốn bò lừa thanh vắng, quạnh hưu và nghèo khó như vậy, phải chăng Đức Giêsu đã phá cách để làm toát lên bản chất của Thiên Chúa là tình yêu khi không cần đến sự giàu sang của con người, nhưng Ngài muốn một sự gần gũi. Không cần đến cái bề ngoài, mà là sự thiêng thánh, chân thành và đơn sơ.
Đây chính là câu trả lời cho chúng ta biết tại sao các mục đồng và Hài Nhi Giêsu lại “Đồng thanh tương ứng”, và họ lại là người đầu tiên được diễm phúc chứng kiến Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh.
Sự đồng cảm này đã làm cho tâm hồn các mục đồng có một ngọn lửa yêu mến đến tha thiết, nên họ đã tỏ ra rất nhạy bén và tinh tế với những gì đã được các thiên sứ loan báo cho họ. Vì thế, giữa đêm tối âm u lạnh lẽo, họ đã đốt đuốc và hối hả ra đi để mong cho được sớm gặp thấy Hài Nhi mới sinh. Khi gặp thấy “Em Bé sơ sinh bọc tả nằm trong máng cỏ”, họ đã tin và nhận ra đó chính là: “Đấng Cứu Độ, là Đấng Kitô, là Đức Chúa” như thiên sứ đã báo.
Cũng trong tâm tình ấy, họ đã nghiệm được ra tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại mà chính họ là những người đầu tiên được tận hưởng ân lộc lớn lao đó, vì thế, sau khi đã ra về, họ luôn kể về những gì đã thấy cho anh em mình.
2. Con người hôm nay mừng lễ Giáng Sinh như thế nào?
Trên đây là tâm tình mừng Chúa Giáng Sinh của các mục đồng Belem, còn nhân loại và con người hôm nay mỗi khi lễ Giáng Sinh về, chúng ta đi tìm gì và đến với Chúa bằng tấm lòng nào?
Thực trạng thật cho thấy một sự trái ngược đến rõ nét giữa tâm tình và thái độ của các mục đồng thời xưa và con người ngày nay. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi những ngày trước lễ Giáng Sinh, nhiều người ưu tiên lo lắng cho những chuyện như: Giáng Sinh sắp đến rồi, chúng ta đã có tiền để mua đèn hoa trang trí chưa? Giáng Sinh năm nay chúng ta ăn gì, nhậu gì? Liệu có kiếm được món nào “độc” để đãi khách không?
Rồi đến chính đêm Giáng Sinh, nhiều người chủ yếu đi xem ca nhạc kịch, hay đèn hoa rực rỡ nơi các nhà thờ, khu phố…
Lựa chọn ưu tiên và hành động như thế, người ta đã biến lễ Giáng Sinh trở thành thời điểm mua sắm, ăn chơi hay như một lễ hội thuần túy!
Tuy nhiên, điều mà con người tưởng chừng như đem lại cho mình hạnh phúc, thì trên thực tế, hạnh phúc, niềm vui và bình an đích thực lại quá xa vời đối với họ, bởi lẽ những thứ họ tìm chính là những điều hoang tưởng hoặc chỉ là điều phụ thuộc bên ngoài.
Thật vậy, vui mừng sao được khi trong tâm không có sự chân thành. Hạnh phúc sao được khi sâu thẳm tâm hồn vẫn còn đó sự giận hơn chia rẽ. Bình an sao được khi trong tâm không có sự thánh thiện và đơn sơ!
Thiết nghĩ, khi mừng lễ Giáng Sinh với những thứ hình thức bề ngoài như vậy, chắc chắn họ sẽ không thể nào cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại. Và lẽ đương nhiên, họ không thể nào tin Chúa với một đức tin sống động như các mục đồng khi xưa, và lẽ tất yếu, không thể loan báo về Ngài cho người khác trong khi tâm hồn trống rỗng và hoang vu như vậy được.
3. Lời mời gọi của Giáo Hội
Mỗi lần lễ Giáng Sinh về, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái mình hãy noi gương các mục đồng khi xưa để tìm gặp, yêu mến, tôn thờ và loan báo về Chúa cho người khác.
Nếu xưa kia, các mục đồng đã khao khát, hối hả lên đường, tới nơi họ gặp Hài Nhi Giêsu và đã sấp mình thờ lạy, đồng thời khi ra về, họ kể lại cho những người khác được biết về những gì đã thấy trong niềm tin sâu sắc.
Thì sứ điệp ngày lễ hôm nay cũng gửi đến cho mỗi người chúng ta là: hãy để mầu nhiệm tình yêu Giáng Sinh của Chúa đụng chạm đến tận sâu thẳm tâm hồn. Hãy biết yêu mến, khát khao và tin thờ Chúa, vì chỉ có Ngài là đường, là sự thật, là sự sống, nguồn cội của niềm vui, bình an và hạnh phúc. Đồng thời, hãy cảm nghiệm và ra đi loan báo về tình thương của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh cho anh chị em chưa biết Chúa.
Thứ đến, cần phải có một tâm hồn đơn sơ, chân thành, khó nghèo. Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận trở nên nghèo hèn để cho chúng ta được nên giàu có. Ngài cũng chấp nhận cúi xuống để tôn vinh con người bằng sự nhập thể của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa đã coi trọng đến tuyệt đối nhân phẩm và nhân vị của từng người, nhất là người nghèo. Thế nên, dù trong hoàn cảnh, môi trường nào, đời sống và cung cách của những Kitô hữu không thể trở thành người xa lạ, vô cảm, dửng dưng với một trái tim hóa đá đối với những anh chị em kém may mắn hơn mình.
Chỉ khi nào chúng ta có được tâm tình liên đới, yêu thương và huynh đệ với nhau, chúng ta mới thực sự hạnh phúc và bình an để cảm nghiệm và hát lên bài ca mà các sứ thần đã cất lên trong đêm Con Thiên Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Vẫn một tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, nghèo khó và xác tín mạnh mẽ như các mục đồng khi xưa, giờ đây, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ, để chỉ lát nữa thôi, mỗi người cũng sẽ được đón nhận chính Chúa Hài Nhi Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vào trong tâm hồn của mình, để Ngài trở thành nguồn suối bình an, vui tươi và hạnh phúc cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin Chúa ban cho chúng con biết sống đơn sơ, trong trắng như các mục đồng khi xưa, để tâm hồn chúng con được diễm phúc đón Chúa đến viếng thăm và ở lại với chúng con. Amen.
74. Đức Giêsu là quà tặng vô giá--Lễ Đêm 2013--Giuse Vinc. Ngọc Biển
Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những món quà và viết những lời cầu chúc thật ý nghĩa kèm theo những cánh thiệp và những món quà đó, tất cả chỉ mong sao người nhận quà gặp được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và thành đạt.
Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng Đêm Thánh, Đêm kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Đây là món quà cao quý mà Thiên Chúa Cha đã trao tặng cho nhân loại. Thật vậy, Chúa Giêsu Giáng Sinh đã trở thành niềm vui cho toàn thể thế giới, là nguồn bình an mà muôn dân mong ngóng đợi trông, là Đấng đem lại cho con người hạnh phúc thật.
Lời Chúa trong bài đọc I gợi lại cho chúng ta thấy bối cảnh lịch sử của dân tộc Israel thời bấy giờ. Lúc ấy, họ bị lưu đầy vì quân đội Assyria xâm chiếm và bắt họ phải đi biệt xứ. Khi sống trong cảnh lưu vong như thế, họ nghĩ đến thân phận của họ như là "dân tộc bước đi trong u tối", chốn lưu đày đối với họ chính là "miền thâm u của sự chết", những khổ nhục họ phải chịu là "cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai và roi vọt của kẻ áp bức"… Tuy nhiên, cái đêm âm u, miền thâm u sự chết, những cái ách nặng nề đang đè lên trên họ đã được tiên tri Isaia tiên báo về một trời mới đất mới, họ sẽ được giải thoát: "Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan", miền thâm u sự chết đó sẽ khơi nguồn sự sống, những gông, ách và roi vọt bị bẻ gãy… và được thay vào đó là cái ách của tình thương, lòng bao dung... Bởi vì “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho chúng ta, Hài Nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9,6). Tiên tri Isaia nhấn mạnh hơn khi nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới. Kìa phần thưởng của Người theo sát một bên, và thành tích đi ngay trước mặt” (Is 62:11). Cũng vậy, tiên tri Mikêa, sống đồng thời với Isaia, đã thốt lên những lời đầy an ủi: “Hỡi Belem, nhỏ bé trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị Israel, nguồn gốc Ngài có từ xa xưa, từ trước muôn đời, Ngài sẽ cai trị với sức mạnh của Chúa Giavê… Chính Ngài sẽ đem lại cảnh thái bình”(Mk 5,1-4).
Tuy nhiên, để hiểu sâu xa lời tiên báo của tiên tri Isaia và Mikêa cho dân Israel, chúng ta hãy đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử của dân Israel đang bị cảnh lưu đầy tha phương, nỗi khổ tột cùng của thân phận nô lệ..., thì mới hiểu được thế nào là sự chờ mong da diết, khôn nguôi Đấng sẽ đến giải thoát mình! Trong khi chờ đợi như thế, những thử thách, tủi nhục, đắng cay đã làm cho họ chịu không nổi, nên đã thốt lên:
“Bên bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion;
trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn”.
Bởi vì
“Bọn lính canh đòi ta hát xướng,
lũ cướp này mời gượng vui lên:
Hát đi, hát thử đi xem
Xion nhạc thánh điệu quen một bài!"(x. Tv 137 (136), 1-3a. 4).
Và nỗi đau khổ của họ đã thấu tới Trời Cao, đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, vì thế Người đã trao ban Con Một của mình xuống để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã xuống thế và trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Từ nay, Ngài là Đấng Emmanuel mà bao đời và muôn dân mong đợi. Đêm nay, đêm Trời Đất giao duyên. Đêm Thiên Chúa và con người gặp nhau, đêm Thiên Chúa trở thành người, để con người được phục hồi nhân vị trong tư cách là con và được gọi Người bằng Áp Ba- Cha ơi, vì thế, "... anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế” (Gl 4, 4-7). Thật vậy, Hài Nhi Giê su đã trở thành "Ngôi Lời Nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga.1,14). Ngài đã trở thành "Một Hài Nhi...một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta" (Is.9,5).
Vì vậy, Đêm nay là Đêm Hồng Ân, Đêm chan hòa Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa giữa trời và đất, Đêm Tình Thương cứu thế, Đêm khơi nguồn Bình An. Ôi niềm vui tràn ngập thế giới! Vì thế, chúng ta không thể không cất cao bài ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3).
Thật vậy, việc Ngôi Hai Giáng Sinh là một quà tặng, là niềm vui, bình an, không chỉ riêng cho một thành phần nào trong xã hội loài người, mà là cho toàn thể nhân loại. Lời của Thiên Sứ báo tin cho các mục đồng chứng tỏ điều đó: “Này, tôi mang đến cho anh em một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay, Chúa Kitô, đã Giáng Sinh cho anh em”.
Như thế, chính "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Tuy nhiên, đứng trước hồng ân lớn lao đó, chúng ta không chỉ trầm trồ khen ngợi, hay tạ ơn, mà còn là mở rộng tâm hồn để đón Chúa Giáng Sinh trong lòng chúng ta, trong trái tim, trong lương tâm của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra giá trị thánh thiêng của mầu nhiệm này thì khi đó chúng ta mới an vui và hạnh phúc thật sự. Và, giá trị đích thực là gì, nếu không phải là để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong cung lòng của mỗi chúng ta.
Nếu "Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người" (x.Ga.3,16). Thì đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em chính Hài Nhi Giêsu, và bản thân của mỗi chúng ta. Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: "Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình". Nếu không hướng tha, tâm hồn chúng ta chẳng khác gì cây không sinh trái, như nước trong ao tù, như một cánh rừng cớm hoặc hoang sơ mà thôi.
Đức Giêsu, trong đêm Giáng Sinh, Ngài đã hòan tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới con người để tìm gặp con người. Ngài đã trở thành Emmanuel để cư ngụ giữa chúng ta, Ngài đã đồng hành với nhân loại, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian. Ngài vẫn còn tiếp tục như thế cho đến ngày tận cùng của nhân loại qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích cực thánh này, Ngài đã trở thành “Bánh bởi trời”, “Bánh hằng sống”,“Lương thực thần linh” để nuôi dưỡng nhân loại và để cho họ được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10).
Noi gương Chúa, và để cho Chúa sống cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta, chúng ta hãy trở nên quà tặng cho mọi người qua một cử chỉ chân thành, một hành động ý nghĩa phát xuất từ niềm tin, một nụ cười thân thiện, một nghĩa cử cảm thông, và đây có lẽ là món quà quý giá nhất mà Hài Nhi Giêsu vui mừng đón nhận, bởi lẽ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm" vì “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (x. Mt 25, 35- 45). Và, như bánh Thánh Thể, được bẻ ra, trao ban cho nhân loại thế nào, thì chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ như vậy.
Ước gì, tất cả những ai tiếp xúc với chúng ta, họ đều nhận ra một vị Thiên Chúa – người, luôn gần gũi, yêu thương và hy sinh cho người khác qua khuôn mặt dễ thương của mỗi chúng ta.
Như vậy, chúng ta đón nhận được món quà vô giá từ nơi Thiên Chúa qua hiện thân của Đức Giêsu, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy chia sẻ ân huệ đó cho người khác, nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn của Đại lễ Giáng Sinh đêm nay. Amen.
75. Thiên Chúa đến với con người trong lịch sử--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Thánh lễ Nửa Đêm cho ta chiêm ngưỡng khung cảnh Thiên Chúa đến với con người trong lịch sử nhân loại và ý nghĩa cứu độ của biến cố ấy. Còn bài Tin mừng của Thánh lễ Rạng Đông mang tính cách suy niệm, trình bày những người đầu tiên được chứng kiến Thiên Chúa làm người và phản ứng của họ trước tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ Maria, thánh Giuse và các người chăn chiên đại diện cho lớp người nghèo khó của nhân loại đã có những tâm tình nào khi đứng trước Tình Yêu nhập thể của Thiên Chúa? Những việc làm của họ không những phản ảnh những tâm tình cá nhân, mà còn trở nên những mẫu gương giúp ta biết phải làm sao đáp lại tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.
1) Hành trình đức tin tới Bêlem
Từ cánh đồng chăn chiên tới Bêlem khoảng cách không bao xa, chỉ vài ba cây số. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là hành trình ấy dễ dàng. Làm sao dám bỏ cả đàn chiên lại một mình? Hơn nữa giữa đêm đông lạnh lẽo và tối tăm, đi lại thật ngại ngùng. Những người chăn chiên ở Do Thái ngày xưa không được liệt vào số những người tốt. Họ thường bị khinh dể vì nghề nghiệp, bị nghi oan là hay cái thói trộm cắp. Do đó, đối với họ “sang Bêlem để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho biết” không phải là việc đơn giản. Điều sứ thần báo cho họ là một điều khó tin được. Đấng Cứu Độ là Đấng Kitô, là Đức Chúa mà lại là một trẻ sơ sinh bọc tã và nằm trong máng cỏ! Nhưng đó là dấu hiệu sứ thần đã nói cho họ biết. Dấu hiệu là cái giúp ta nhận ra một thực tại khác, thí dụ vương miện là dấu hiệu của hoàng đế. Nhưng ở đây, một trẻ sơ sinh nghèo nàn nằm trong máng cỏ bò lừa thì làm sao có thể là dấu hiệu của Đấng Cứu Độ, Đấng Kitô, Đức Chúa được!
Đức tin luôn đòi hỏi một thái độ liều lĩnh trong sự khiêm tốn chấp nhận thế giá của người khác. Điều các thiên sứ loan báo không thể tin được. Nhưng họ có đủ sự khiêm tốn để nhìn nhận quyền năng và tình thương của Chúa, nên họ xác tín điều sứ thần loan báo là điều chính “Chúa đã tỏ cho họ biết. ” Như thế, từ lúc các thiên sứ nói với họ cho tới lúc rời họ, họ đã có một “bước nhảy vọt của đức tin,” liều lĩnh đi tới quyết định: “Nào ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết. ”
Tiếp theo quyết định là thái độ vội vã của họ. “Họ liền hối hả ra đi. ” Chắc ta còn nhớ thái độ ấy của Mẹ Maria sau khi sứ thần truyền tin cho Mẹ đã được thánh sử Luca ghi lại: “Bà Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi” (Lc 1,39). Động lực của vội vã hối hả đều do lòng tin, hay nói khác đi, lòng tin đã khiến cho Mẹ Maria và các người chăn chiên nhận thấy không thể trì hoãn, nhưng cần phải mau chóng đáp trả.
Cuối cùng họ đã đến Bêlem và gặp được những gì sứ thần đã báo tin. Thánh Luca không ghi lại chút nào về cuộc gặp gỡ ấy. Có lẽ ngài muốn tôn trọng những riêng tư của mỗi nhân vật đang chăm chú hướng nhìn vào “Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. ”
2) “Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”
Tột đỉnh hành trình đức tin của những người chăn chiên là ở đây. Ta thắc mắc không biết Bà Maria và ông Giuse đang chăm sóc cho Hài Nhi hay đang đắm mình trong suy tư và chiêm ngưỡng Hài Nhi? Chắc là các ngài đang chiêm ngưỡng Hài Nhi, vì Hài Nhi đã được đặt nằm trong máng cỏ rồi. Tuy nhiên điều ấy không quan trọng. Ta nên hiểu dụng ý của thánh Luca khi ngài lập lại hai lần “hài nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12 và 16). Hình ảnh trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ chiên bò không phải là một hình ảnh lý tưởng. Nhưng thánh sử muốn ghi lại một biểu tượng vô cùng ý nghĩa. Máng cỏ là chỗ chứa đựng nguồn sống và lẽ sống của chiên bò thế nào, thì cũng là nơi đặt nằm Chúa Giêsu Hài Đồng, nguồn sống mới của nhân loại như vậy. Hiểu được ý nghĩa biểu tượng ấy, ta sẽ không còn ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu qua bài diễn từ của Người về bánh trường sinh trong hội đường Caphácnaum: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57).
Trong những giờ phút chiêm niệm này, cùng với Mẹ Maria và thánh Giuse, các người chăn chiên đang nhớ lại từng lời của sứ thần: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một Tin mừng Trọng Đại, cũng là Tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ. ” Bao nhiêu câu hỏi có thể đặt ra, nhưng giờ phút này không phải là lúc trả lời bằng trí óc, mà bằng những đầu gối quỳ phục bên Hài Nhi, để họ hoàn toàn sống sự hiện diện của Đấng Cứu Thế và sự hiện diện của chính họ.
3) “Họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này”
Từ chiêm niệm đi tới hành động, đó là con đường của đức tin. Đức tin được biểu lộ qua hành động. Các người chăn chiên hành động bằng cách kể lại câu truyện Hài Nhi Giêsu cho những người họ gặp tại miền đất Do Thái. Cũng như ngày nay ta nói trong Đại Hội Truyền giáo tại châu Á: chúng ta kể lại câu truyện Chúa Giêsu cho người dân châu Á. Đó là cách rao giảng Tin mừng, ngày xưa hay hôm nay thì cũng theo cùng một phương thức kể truyện. Dĩ nhiên không chỉ kể bằng lời, nhưng quan trọng hơn bằng cuộc sống hằng ngày.
Các người chăn chiên tiếp tục hành trình đức tin của họ. Họ “ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa. ” Những nẻo đường họ đi qua, dù chỉ là nẻo đường quen thuộc trở về với bổn phận coi sóc đàn chiên, cũng sẽ là những nẻo đường để họ sống và biểu lộ lòng tin vào ơn cứu độ Thiên Chúa đã ban cho họ.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nhìn ngắm hang đá được trang hoàng tại nhà thờ hay tại nhà, tôi có chú tâm vào “Hài Nhi nằm trong máng cỏ” hay chỉ thấy hoa đèn rực rỡ? Tôi có được dăm ba phút để suy niệm về những danh hiệu của Hài Nhi và ý nghĩa biểu tượng của máng cỏ không?
Tôi sẽ kể câu truyện Chúa Giêsu cho những người tôi gặp, trong gia đình, nơi sở làm... như thế nào?
76. Cứ dấu nầy--Lm. Damien OFM
Các mục đồng đi tìm Chúa Hài Nhi theo lời các thiên thần bảo: “Một em bé sơ sinh bọc tã,nằm trong máng cỏ. ”
“Noel xưa: “cứ dấu nầy”
Luca viết câu chuyện một cách hết sức đơn sơ, không nhiều tình tiết. Có gì đơn sơ bằng một em bé sơ sinh, bọc tã, đang nằm ngủ. Nhưng cũng không có gì đẹp bằng khuôn mặt trong trắng ngây thơ của một em bé sơ sinh đang nằm ngủ một giấc ngủ thiên thần; nhẹ nhàng thanh thoát làm sao.
Người ta thường đi tìm những vẻ đẹp khác, cái đẹp của nghệ thuật hay vẻ đẹp lộng lẫy của cung điện, cái đẹp của những đường nét, màu sắc bên ngoài. Người ta đi du lịch khắp nơi để tìm cái vẻ đẹp bề ngoài ấy, nơi các thành phố tối tân hay cổ kính, nơi những cảnh thiên nhiên của hang động, núi rừng hay biển cả. Nhưng ít ai biết đi tìm cái vẻ đẹp đơn sơ trong trắng của đời thường. Bởi lẽ, muốn thấy được cái vẻ đẹp nầy thì phải biết chiêm ngắm trong thinh lặng và suy tư, phải biết đưa tâm hồn lên cao, phải biết sống với nội tâm, chiêm ngắm với cả tâm hồn. Cũng như tâm hồn nhà nghệ sĩ rung động trước cảnh đẹp thiên nhiên mà người khác chẳng cảm thấy gì cả; con mắt đức tin, một tâm hồn có niềm tin nhạy bén cũng nhìn được những vẻ đẹp làm rung động tâm hồn mà người khác không thấy gì.
Noel nầy:cứ dấu nào đây?
Noel nầy, cứ dấu nào mà tìm ra Chúa đây?
Trong bầu khí Noel, các nhà thờ đầy ắp ánh sáng; các hang đá được trưng bày lỗng lẫy, đèn nến sáng trưng; các buổi biểu diễn thánh ca trên sân khấu thật thu hút, hấp dẫn. Người ta đổ xô về những nơi ấy; người ta được thiệp mời đến tham dự những buổi biểu diễn thánh ca; người ta đua nhau đi xem các nhà thờ và hang đá. Nhưng có mấy ai biết rút lui vào thinh lặng của cõi lòng mình như vào nơi hoang vắng của cánh đồng Bêlem để tìm ra Chúa Hài Nhi đang nằm trong đó, như đang nằm trong hang đá, một hang đá ngổn ngang, hôi tanh mùi tội lỗi của cuộc đời. Mấy ai biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi như tiếng thiên thần mời gọi các mục đồng xưa: hãy trở về với cõi lòng con, một cõi lòng đầy tội lỗi, cho dù đã xưng tội rồi, cũng chẳng thơm tho gì hơn chuồng bò hôi tanh ngày xưa, thế mà Chúa Hài Đồng vẫn ngự xuống. Người ta tưởng mình có quyền rước Chúa đêm Noel một cách vui vẻ vì đã xưng tội rồi!
Không, tôi phải có thái độ tâm hồn của những mục đồng, những con người biết mình hèn mọn, tội lỗi, bất xứng. Những mục đồng ấy là những người bạn, những người khách đầu tiên đến thăm Chúa Hài Nhi; họ đến trước cả Ba vua. Họ biết thông cảm với cảnh nghèo hèn của Hài Nhi sinh trong hang đá, Ngài liên đới với họ cũng đồng số phận với họ.
Phải, đêm Noel, người ta đến nhà thờ đầy tiếng nhạc du dương và đèn nến sáng trưng; rồi sau đó vui vẻ ra về, ngồi bên bàn tiệc đầy ắp thức ăn thơm ngon; chứ đêm Noel, ai lại đến thăm một người ăn mày đang run lên vì đói rét, ngồi bó gối xo ro bên vỉa hè.
Đêm Noel người ta vui vẻ nghe đàn ca xướng hát bên bàn tiệc, chứ ai lại đi nghe tiếng rên rỉ của một bệnh nhân nghèo, cô đơn!
Vì thế, nếu Chúa sinh ra hôm nay, thì cũng phải sinh ra trong chuồng bò hay bên vỉa hè vắng lặng của đêm khuya mà thôi. Vì Chúa không có có chỗ trong cõi lòng con người, thì làm gì có chỗ trong gian nhà ấm cúng, trong thành phố tráng lệ, kể cả trong nhà thờ đèn nến sáng trưng.
Noel nầy, được mấy người nghĩ đến người nghèo, chia sẻ với người nghèo? Bò lừa xưa đã biết đến chia sẻ hơi ấm với Chúa Hài Nhi, còn tôi, Noel nầy tôi đã chia sẻ gì cho Chúa, cho người nghèo đây?
Máng cỏ của tôi
Một bé sơ sinh, một sự sống thật mong manh. Một máng cỏ, một hang bò lừa, một sự nghèo khó tận cùng của sự nghèo khó; chẳng lấy gì lấy làm sạch sẽ và thơm tho, ấm cúng cho lắm. Đó phải chăng là tình trạng của lòng con đêm nay. Chúa đến với con, một tâm hồn chẳng mấy đẹp đẽ thơm tho, thế mà con vẫn rước Chúa và Chúa vẫn đến với con.
Con cám ơn Chúa đã chấp nhận sinh ra trong chuồng bò hôi tanh, nếu không thì mấy ai dám đến rước Chúa đêm nay.
Con cám ơn Chúa đã bằng lòng sinh ra trong nghèo khó, nên những người nghèo khổ cảm thấy được thông cảm và an ủi.
Cám ơn Chúa đã bằng lòng sinh ra trong đêm đông lạnh giá, để những cõi lòng băng giá của những người nghèo, người cô đơn được ấm lên khi được rước Chúa vào lòng.
Xưa nay người giàu thì ít, ít về số lượng và nhất là ít về lòng nhân ái, ít khoan dung và ít chia sẻ; còn đại đa số là người nghèo. Trong sứ điệp đêm Noel 1999, ĐGH Gioan Phaolô đã nhắc đến một tỷ tư người nghèo đói trên hành tinh khi thiên hạ đang bước vào thiên niên kỷ thứ ba.
Còn người nghèo khổ, thì Chúa còn phải đến trong lòng những con người ấy để đồng hành với họ. Nơi nào còn tội lỗi thì sứ mạng Chúa lại phải bắt đầu. Sự nghèo đói và tội lỗi trở nên dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa Giêsu, vì chính những con người ấy mới cần đến Ngài cứu vớt.
Nếu thế thì xin Chúa hãy đến vì trong con và xung quanh con, đói nghèo và tội lỗi vẫn còn ngự trị. Và xin Chúa cũng cho con biết làm như chú lừa trong hang đá, dù chỉ là một chú lừa, biết đem hơi ấm của lòng mình, sưởi ấm những tâm hồn cô đơn lạnh giá chung quanh con.
Với cảnh nghèo Bêlem, con hiểu rằng, cái nghèo đói và tội lỗi nơi người khác là dấu chỉ đã mời gọi Chúa đến và cũng đang mời con đến đó: con phải biết chia sẻ, không được xa lánh họ, dù con cũng nghèo hèn như những chú mục đồng hay như những chú lừa kia mà thôi.
Dâng cả tội cho Chúa
Đêm Giáng sinh, bé Giêsu hiện ra với một vị ẩn tu: thánh Giêrôme. Chúa hỏi:
- Giêrôme, con lấy gì mà mừng Ta khi Ta giáng sinh?
- Con xin dâng lòng con.
- Được, nhưng còn gì nữa không?
- Con xin dâng mọi kinh nguyện và mọi tâm tình của con.
- Còn gì nữa không?
- Con xin dâng tất cả con đây.
- Còn gì nữa?
- Con dâng hết rồi, lạy Chúa con chẳng còn gì để dâng cho Chúa nữa!
- Còn một cái, đối với Ta đó mới là cái quan trọng mà con quên dâng cho Ta, đó là tội của con. Con hãy cho Ta tất cả tội của con để Ta tha thứ, đó là điều Ta mong ước nhất nơi con người khi Ta đến trần gian.
- Ôi lạy Chúa! Chúa làm con phát khóc lên được!
77. Chúa đã tặng Người Con để cứu ta--Lm. Raymond Châu Diên, CMC
Trong cuộc họp thượng đỉnh ngoài khơi đảo Malta vào mùa Giáng Sinh 1989, Tổng Thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng chủ tịch Gorbachov của Liên Xô một viên gạch lấy từ bức tường ô nhục Bá Linh. Dù chỉ là một viên gạch, nó gói gém tất cả thiện chí và ước muốn hòa bình của toàn thể thế giới.
Trước đó vài ngày, trong cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô, Chủ Tịch Gorbachov đã tặng ngài một tập Sách Kinh in vào thế kỷ 14. Qua đó ông muốn khẳng định những giá trị đạo đức của tôn giáo rất cần thiết cho việc xây dựng xã hội.
Đáp lại, Đức Thánh Cha đã tặng nhà lãnh đạo Liên Xô một quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. " Đó là tất cả những gì Đức Thánh Cha và toàn thể thế giới Công Giáo có thể trao tặng cho một xã hội từ lâu gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống (Lẽ Sống 1991). Đó là những quà tặng thật ý nghĩa và giá trị.
Từ 2000 năm nay Thiên Chúa hằng ban tặng một món quà vô cùng quý giá là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho vũ trụ, cho xã hội, cho mỗi gia đình và mỗi cá nhân chúng ta.
Đối với vũ trụ, tiên tri Isaia và thánh Phaolô nói: Người Con đó là ánh sáng chiếu soi cho vũ trụ tăm tối này. Vũ trụ sẽ được bừng sáng lên trong ngày Đức Giêsu Kitô ngự đến. Người là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa vinh hiển. Người đến biến đổi trời cũ, đất cũ nên trời mới đất mới.
Đối với xã hội, đoàn dân đang lần bước trong lầm than, bao nhiêu ách đè lên cổ dân, bao nhiêu gậy đập xuống vai họ, bao nhiêu ngọn roi của kẻ hà hiếp, Thiên Chúa đều bẻ gẫy trong ngày Con Ngài chào đời. Người Con đó đã bao phủ vinh quang Thiên Chúa trên những mục đồng đang vất vả thức thâu đêm canh giữ đàn chiên và tất cả lớp dân lao động sống lầm than trong bóng tối. Người là thủ lãnh của họ và Người sẽ kiến tạo cho họ một xã hội hòa bình trên nền tảng chính trực, công minh, tồn tại từ đời này đến đời kia.
Đối với gia đình, đơn nghèo như Giuse và Maria vẫn lên đường về cố hương để khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh nhà cầm quyền. Đơn nghèo đến nỗi cố hương Belem không còn bà con thân thích nào đón nhận, đành sống thân phận như kẻ ăn xin, ra đồng tìm nương thân nơi hang bò máng cỏ. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm con những gia đình ấy, vui sống hy sinh trong cuộc sống như Maria và Giuse, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của họ và đưa bình an Thiên Chúa đến cho họ.
Đối với cá nhân, Người là cố vấn kỳ diệu, dạy chúng ta từ bỏ lối sống trần tục, thoát khỏi mọi điều bất chính, thanh luyện chúng ta sống tiết độ, công bình và nhân ái ở đời này, khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện. Người là Cha muôn thuở của chúng ta. Người đã tự hiến thân chịu chết để cứu chuộc chúng ta, ban cho chúng ta chan chứa niềm hoan hỷ. Chúng ta sẽ vui mừng trước thánh nhan Người, như thiên hạ vui mừng trong mùa gặt phong phú.
Vì yêu thương nồng nàn, Thiên Chúa càn khôn trao ban những quà tặng ấy cho vũ trụ, cho xã hội, cho gia đình và cho mọi cá nhân chúng ta. Vì thế, lễ Giáng sinh là lễ tặng quà. Cả một rừng thiệp Giáng Sinh, những bức họa đủ mọi cảnh sắc tuyệt đẹp để người ta trao tặng cho nhau. Cả một rừng cây thông mọc khắp nơi trên điạ cầu để tô điểm cho mùa Giáng Sinh thêm xanh tươi xinh đẹp. Hàng triệu quà bánh Giáng Sinh làm no lòng thỏa dạ con người và hàng ngàn bài ca du dương vang lên khắp năm châu làm êm ái lòng người để vui hưởng cảnh Giáng Sinh thanh bình.
Vũ trụ trao tặng những cây thông xanh tốt cho con người chiêm ngưỡng vẻ thanh tao, cao quý của Thiên Chúa, và xã hội đua nhau trưng bày hàng Giáng Sinh cho con người thấy được nguồn giàu sang phong phú Thiên Chúa ban cho mình. Gia đình cũng dọn những bữa ăn thơm ngon cho ông bà cha mẹ, con cháu được quây quần xum họp bên nhau thân mật đậm đà yêu thương, để vun đắp tình nghĩa gia đình được bền chắc khăng khít. Người người tặng cho nhau những tấm thiệp tuyệt đẹp để chúc mừng nhau được hưởng hồng ân hạnh phúc bởi trời.
Lạy Chúa, còn con, con lấy gì tặng quà cho Chúa và mọi người đây? Xin cho con lấy chính tình yêu của Con Chúa mà đến chia sẻ nỗi thống khổ của những người nghèo khó, của những người ngày đêm thổn thức vì lao động vất vả, của những gia đình tê tái giá lạnh giữa cảnh phân ly. Xin cho ánh sáng huy hoàng Giáng Sinh của Chúa làm cho con tim chúng con bừng cháy trong bình an và hạnh phúc muôn đời.
78. Con người--Lc 2,1-20
Ngày nay, con người là một vấn đề được chú ý nhiều nhất. Càng ngày những công trình bác ái càng được phát huy sâu rộng. Càng ngày người ta càng cảm thấy sự tôn trọng và thăng tiến con người là một yếu tố cần thiết làm nên văn minh, cũng như làm cho dân giàu nước mạnh. Lý tưởng mà con người mơ ước và theo đuổi mỗi ngày một cao đẹp và phong phú hơn. Từ đó, chúng ta đi vào mầu nhiệm giáng sinh.
Thực vậy, với mầu nhiệm giáng sinh, thì yếu tố con người cũng là yếu tố hàng đầu. Bởi vì cái giá mà Thiên Chúa đã trả để giải quyết vấn đề con người chứng tỏ con người thực là quan trọng. Đúng thế, trong kinh Tin Kính chúng ta vốn hằng tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế.
Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào những thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở nên giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá con người.
Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Mỗi khi chúng ta giúp đỡ người khác, nhất là những người ngheo túng và khổ đau, thì đó là chúng ta đã cộng tác với Chúa, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, thì đó là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy.
Cái nhìn lạc quan trên đây giúp chúng ta phấn khởi để cùng nhau tích cực góp phần giải quyết vấn đề con người hôm nay, nhất là những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Nếu chúng ta biết rằng vấn đề con người là quan trọng đến nỗi chính Thiên Chúa đã phải dấn thân, đã phải nhập cuộc để giải quyết, thì bất cứ ai thiện chí góp phần vào đều đáng được kể là cộng tác với Thiên Chúa, dù người đó không cùng một quan điểm, không cùng một niềm tin với chúng ta.
79. Không nhà không cửa
Một hài nhi không nhà không cửa.
Hẳn rằng chúng ta còn nhớ, có lần Chúa Giêsu đã phán: Con cáo có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Lời nói này đã trở thành một sự thật ngay từ đêm hôm nay, khi Ngài mở mắt chào đời.
Thực vậy, Ngài đã sinh ra trong một hang đá ngoài đồng vắng, nơi nghỉ ngơi của chiên bò. Mẹ Ngài đã đặt Ngài nằm trong một chiếc máng có. Thế nhưng đó lại là một sự kiện kỳ diệu, làm chuyển biến cả số phận của nhân loại.
Theo lệnh của hoàng đế César, những người trở về Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu, đều tìm thấy một mái nhà để nghỉ qua đêm, hoặc là nơi hàng quán, hoặc là nơi bà con thân thích. Dường như chỉ có mình Ngài, một hài nhi không nhà không cửa, không cả chốn tựa đầu.
Theo lề thói thông thường, chúng ta có thể mường tượng Ngài sinh ra trong một toà lâu đài hay trong một cung điện kín cổng cao tường. Nhưng Ngài đã không làm thế, bởi vì Ngài là người của mọi người, Ngài đến để cứu chuộc cả nhân loại. Hang đá Bêlem không có cửa, và nếu có thì cánh cửa ấy vẫn luôn mở rộng, để tất cả chúng ta đến tìm gặp Ngài, mà không cần báo trước, không cần chờ đợi, không cần những thủ tục kính chuyển.
Hơn thế nữa, Ngài đã không sinh ra dưới một mái nhà kiên cố, điều ấy như muốn chứng tỏ rằng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian này, cho nên Ngài không cần tới một tấc đất để làm sản nghiệp. Ngài không tranh giành ảnh hưởng, Ngài không gây chiến để mở mang bờ cõi. Nhưng Ngài đã để lại và trao ban cho chúng ta tất cả, cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để chứng tỏ một tình yêu thương dạt đào: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hài nhi nơi máng cỏ Bêlem, phải chăng là một hình ảnh, một biểu tượng của vị vua hoà bình. Ngài chỉ muốn giải thoát chúng ta khỏi mọi ách nô lệ, nhất là ách nô lệ của tội lỗi. Ngài chỉ ước mong cho chúng ta được nếm thử niềm vui, niềm vui của một tâm hồn trong sạch, hầu chuẩn bị cho hạnh phúc Nước Trời. Ngài không cần chúng ta dành cho Ngài một mái nhà, nhưng chính Ngài sẽ dành cho chúng ta một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trong nhà Cha trên trời.
Là một vị Vua không binh đội, không cung điện, không ngai vàng. Là một vị Vua của mọi tâm hồn, vì thế có lẽ điều Ngài mong đợi hơn cả nơi mỗi người chúng ta, đó là hãy dành cho Ngài một nơi cư ngụ trong chính thẳm sâu cõi lòng chúng ta. Tâm hồn chúng ta phải là một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa và tình yêu của chúng ta sẽ là những tia nắng sưởi ấm cho Chúa. Thế nhưng chúng ta đã ý thức và thực hiện được điều đó hay chưa?
80. Bệnh Giêsu
Cách đây hơn 20 thế kỷ, một biến cố đã xảy ra và đã làm cho cuộc sống của nhân loại được phong phú. Đúng thế. Vào một đêm đông, một hài nhi nhỏ bé đã được sinh ra trong tăm tối. Nhưng rồi ba mươi năm sau, người ta lại thấy Ngài xuất hiện đi trên các nẻo đường như một ánh lửa khác thường của nhân loại. Ngài đã mời gọi thay đổi cả thế giới. Ngài đã lật đổ mọi thứ nặng nề trì trệ của cơ chế cũng như của tôn giáo.
Đối với Ngài, không có những bức hàng rào ngăn cách những gia đình, dòng tộc, phe nhóm và quốc gia. Ngài khơi dậy nơi mọi người sự ân cần của tình thương. Ngài đã nói năng thân mật với Thiên Chúa cao cả như một người con. Nơi nào Ngài đến, thì hệ thống đẳng cấp bị sụp đổ. Người nghèo được vui mừng. Người bệnh tật và bất hạnh thấy được bảo đảm. Người cuối hết trở thành kẻ thứ nhất. Ngài đã tái sinh ông nhà giàu dính cứng trong tiền bạc bất chính, người đàn bà hư hỏng, nhà thông luật nặng hình thức và thậm chí cả viên sĩ quan của nhà vua. Một sự sống chưa từng có đã bừng lên nơi những con người này, để nhờ đó, biến đổi cả cuộc sống xã hội và xây dựng một thế giới mới đầy tình thương.
Và như chúng ta đã biết: Ngọn lửa nhân bản và yêu thương ấy đã chỉ có một thời. Những kẻ quyền hành của thế giới cũ đã liên minh chống lại Ngài. Hài nhi sinh ra trong hang đá Bêlem năm nào đã bị đóng đinh trên thập giá. Ngài đã chết sau ba giờ hấp hối, vì đã muốn biến đổi thế giới, vì đã muốn khai sinh một nhân loại mới. Dọc theo các thế kỷ, từ đó cho đến nay, nhiều người đã quên mất Ngài, thậm chí trong số đó có cả những người mang danh hiệu Kitô hữu.
Thế nhưng, tinh thần của Đức Kitô không ngừng lây lan trong tâm hồn chúng ta, hay như một người Hồi giáo đã nói: Con người mang một cái bệnh gọi là bệnh Giêsu, thì không bao giờ có thể lành được. Ngày nay cũng vậy, Ngài có những người bạn nhiệt tình của mình. Tôi nghĩ đến những người trong đêm giáng sinh thay vì đi dự một tiệc rượu, đã tới thăm viếng những người đau yếu, nghèo túng và chia sẻ với họ một phần quà nho nhỏ. Tôi nghĩ đến những ông bác sĩ sau khi tốt nghiệp, thay vì mở phòng mạch tại thành phố, thì đã đi phục vụ không công tại những nơi xa xôi heo lánh. Tôi nghĩ đến những người dâng hiến cả cuộc đời cho những kẻ phong cùi cay cực. Thay vì lãng quên hay chạy trốn, họ đã tiến lại gần và tự hiến. Họ đã là những phản ánh trong sáng nhất cho tình thương của Ngài.
Thế nhưng tới đây thì một câu hỏi được đặt ra: Vậy thì Thiên Chúa ở đâu cho chúng ta tìm kiếm, hay Ngài chỉ còn là một kỷ niệm xa xưa? Cựu Ước kể lại rằng, đang khi Đavit dự tính xây cất một đền thờ cho Thiên Chúa, thì Ngài đã viếng thăm tiên tri Nathan và nói với ông: Ta chẳng bao giờ ở trong nhà kể từ ngày Ta đem con cái Israel ra khỏi Ai Cập. Chính ta sẽ xây cho Đavit một ngôi nhà. Nhà của Đavit và vương quốc của Đavit hằng tồn tại trước mặt Ta.
Như thế chúng ta thấy Thiên Chúa không phải chỉ ở trong các đền thờ mà còn ở trong chính con người. Hay như thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Vậy thì Ngài đã thực sự hiện diện nơi bản thân chúng ta hay chưa, và hơn thế nữa chúng ta đã thực sự tìm gặp được Ngài nơi những người chung quanh, nhất là nơi những người anh em bệnh tật, đau khổ và nghèo túng hay chưa?
81. Ngạc nhiên
Tại miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Trong số các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này, du khách thường chú ý tới một con người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở rộng, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi. Vì thế, người ta đã đặt cho nhân vật này cái tên gọi là Ngạc Nhiên. Dân địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên của anh bằng một mẩu chuyện như sau:
Hôm đó, tất cả các nhân vật nơi máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì anh không có gì để mang tặng cho Chúa Hài nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của mình. Và thế là họ bắt đầu xỉ vả anh:
- Mày không biết xấu hổ hay sao? Mày đến thăm Chúa Hài nhi mà không mang theo gì cả ư?
Thế nhưng, anh không để lộ một phản ứng nào, ngoài cặp mắt mở to và chăm chú nhìn vào Hài nhi Giêsu. Những lời rủa xả vẫn cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến nỗi Mẹ Maria phải lên tiếng bênh vực cho anh.
Quả thực, mặc dù đã đến với Chúa Hài nhi bằng đôi bàn tay trằng, thế nhưng anh đã mang tới một món quà cao đẹp nhất, đó là sự ngạc nhiên của anh. Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư anh. Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:
- Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu như luôn có những người giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên trước quyền năng và tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Thực vậy, chúng ta thường nói:
- Ngạc nhiên là khởi đầu của mọi khám phá.
Có biết ngạc nhiên, có biết đặt câu hỏi, người ta mới đưa ra những giả thuyết, người ta mới tìm tòi, khảo sát và khám phá. Sự tiến bộ của loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc nhiên ấy.
Trong lãnh vực siêu nhiên cũng vậy. Thiên Chúa đã ban cho con người khả năng biết ngạc nhiên để rồi từ đó khám phá ra quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Đúng thế, khi nhìn ngắm những kỳ công trong vũ trụ, cùng với trật tự lạ lùng của nó, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và thán phục.
Từ chỗ ngạc nhiên và thán phục này, chúng ta phải đi đến một kết luận, đó là có Thiên Chúa và Ngài là Đấng quyền năng và thương xót, đã dựng nên, an bài sắp xếp và bảo tồn mọi sự. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Thiên nhiên là một cuốn sách vĩ đại, mà mỗi trang, mỗi dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa.
Vũ trụ này là một cuốn sách được mở ra để mời gọi con người tìm đọc lời ngỏ đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Tiếp đến, khi nhìn vào lịch sử nhân loại, cũng như cuộc đời riêng tư, chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên trước biết bao ơn sủng mà Ngài đã trao ban, để rồi chúng ta sẽ khám phá ra bàn tay của Thiên Chúa luôn hướng dẫn và dìu dắt nhân loại, cũng như mỗi người chúng ta trên vạn nẻo đường đời.
Và giờ đây trước máng cỏ Bêlem, nếu thực sự biết ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Thực vậy, lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện, Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương của Ngài bằng cách trao ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài, hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Trước máng cỏ Bêlem, bằng cặp mắt đức tin hẳn chúng ta sẽ phải ngạc nhiên vì tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, để rồi từ sự ngạc nhiên ấy, chúng ta sẽ tin tưởng và phó thác cho tình yêu của Ngài. Khi gặp những sự may mắn, chúng ta dâng lên Ngài lời cảm tạ đã đành, mà ngay cả lúc khổ đau và đắng cay, chúng ta vẫn có thể nhận ra dấu ấn tình yêu của Ngài. Trong mọi sự, người biết ngạc nhiên sẽ luôn luôn nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, bởi vì tất cả đều là hồng ân.
Ước gì trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy đến bên hang đá máng cỏ, ngạc nhiên trước tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, để rồi dâng lên Ngài tâm tình cảm mến tri ân.
82. Đêm Thánh
Vì sao gọi lễ cử hành hôm nay là “Đêm Thánh”? Nói cho ngay, về lịch sử, ta không có cơ sở nào để khẳng định rằng Hài Nhi Giêsu đã chào đời vào ban đêm. Đành rằng chúng ta có bản trình thuật kể chuyện các mục đồng canh giữ súc vật trong đêm tối và họ nghe sứ điệp từ trời báo tin về cuộc sinh hạ của Đấng Cứu Thế, nhưng tự nó, bản trình thuật ấy cũng không phải là bằng chứng cho phép ta kết luận rằng Đức Giêsu đã sinh ra vào ban đêm. Thế nhưng, truyền thống Kitô giáo vẫn luôn cho rằng cuộc chào đời hồng phúc này của Đấng Cứu Thế đã diễn ra trong một đêm tối. Người Đức thậm chí hội nhập niềm xác tín ấy vào chín tên gọi của lễ mừng: Weih-nacht (Đêm Thánh). Vì sao?
Đêm tối, đối với con người, vẫn có hai khía cạnh. Nó mang một ý nghĩa kép, một ý nghĩa “hàm hồ”- cũng như hầu hết mọi yếu tố khác trong cuộc đời này. Đêm tối gợi lên một cái gì thâm u, huyền bí, là thời gian mà không ai có thể làm việc- như Đức Giêsu nói đến trong Thánh Kinh. Đêm tối được cảm nhận gần như là sự chết. Đêm tối là bất định, bất quyết và hiểm nguy. Đêm tối là trùng khơi mịt mù. Vì thế, trong cảnh vực tôn giáo, đêm tối mang đầy ý nghĩa biểu tượng. Trong Thánh Kinh, đêm tối tượng trưng cho thời gian bất tín và tội lỗi, thời gian Chúa đến thăm và phán xét. Vì thế, Kitô hữu phải là con cái của ban ngày, họ phải chiếu sáng như những vì sao trong bóng đêm – để không bị bất ngờ bởi vị thẩm phán đến thình lình như kẻ trộm giữa đêm khuya. Chúng ta phải tỉnh thức, chúng ta không được ngủ say, chúng ta phải trỗi dậy và bước đi như thể đang bước đi giữa ánh sáng ban ngày.
Nhưng trong cảm nhận của con người, cũng được hàm chứa trong Thánh Kinh, đêm tối còn có một khía cạnh khác nữa. Đêm tối là lúc thinh lặng và rút lấy sức mạnh. Đó là lúc chỉ còn mình với mình, sẵn sàng đợi chờ và cho phép mọi sự triển nở, lớn lên. Chính vào lúc nửa đêm mà người ta nghe tiếng kêu: “Kìa chàng rể đến!”. Đêm tối trong Thánh Kinh còn là thời gian của những giấc mơ hướng vọng trời cao. Đêm tối là thời gian thoát ly khỏi những ràng buộc của nhịp sống ban ngày, nên đó là thời gian cầu nguyện – vì thế, Đức Giêsu đã trải qua những đêm trắng cầu nguyện cùng Cha. Đêm tối được nhìn nhận như công trình của Thiên Chúa – và tác giả Thánh vịnh có thể thốt lên: “Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa…” (Tv 74,16). Daniel (3,71) kêu gọi đến bóng đêm chúc tụng Thiên Chúa – và theo tác giả Thánh vịnh, “đêm này kể lại với đêm kia” sứ điệp về vinh quang Thiên Chúa (19,3), cũng như trời xanh mênh mông nhắc cho ta về sự vĩ đại của Ngài.
Tại sao chúng ta có thể cảm nhận về đêm tối theo những chiều hướng khác nhau như thế? Chúng ta kinh nghiệm đêm tối như một sự bắt đầu, như một cái gì đó vẫn còn bất định, nhưng cái đến sau đêm tối thì hết sức rõ ràng: đó là một bình minh rực rỡ! Tuy nhiên, sự bắt đầu và những khả năng ẩn chứa trong sự bắt đầu ấy thường rất bấp bênh – như một lời hứa nghe thật hay nhưng chưa được thực hiện, như một triển vọng to lớn nhưng chưa hiện thực, như một kế hoạch tuyệt vời nhưng chưa được triển khai… Tất cả đều còn đó ý nghĩa hàm hồ: vừa đầy hứa hẹn lại vừa đầy đe doạ, dự phóng sẵn đó rồi mà mục tiêu còn quá xa xôi và không chắc sẽ có ngày hoàn tất…
… Nhưng nếu có một đêm tối mà cái khởi điểm vô định lại mang sẵn trong mình nó sự chắc chắn hoàn thành, nếu có một đêm tối mang sẵn trong mình nó mối bảo đảm khải thắng, nếu có một đêm tối mở ra lời hứa song đồng thời cũng là lời hứa được lấp đầy … thì đêm ấy hẳn phải là Đêm Thánh. Đêm! Vì chỉ mới khởi đầu thôi. Đêm Thánh! Vì đây là một khởi đầu hồng phúc và tất thắng. Với một đêm như thế, chúng ta phải thốt lên: Ôi, Đêm Thiêng! Đêm Thánh! Như bài ca nào đó đã trở thành bất hủ: “Đêm Thánh vô cùng. Giây phút tưng bừng…”.
Không phải tình cờ mà vào thế kỷ thứ tư, lễ này được đặt vào đúng thời điểm mà thiên nhiên – cách riêng mặt trời – bắt đầu lại chu kỳ của nó. Thời ấy, người ta gán sự bắt đầu của “Mặt Trời Công Chính” (danh hiệu của Đấng Cứu Độ chúng ta theo sấm ngôn) cho ngày natalis solis invicti của dân ngoại, tức lễ mừng sinh nhật “thần mặt trời bất khuất”.
Một gán ghép vô cùng chính xác! Vì đây là phút giờ thánh thiêng. Đức tin cho các Kitô hữu biết rằng: Đây là sự khởi đầu. Thiên Chúa, từ ánh sáng chói lọi ‘khủng khiếp’ của Ngài, đã đến với chúng ta – thật lặng lẽ, thật êm dịu. Ngài đó, Thiên Chúa đó, đã âm thầm bước vào cõi dương trần khốn khổ của chúng ta. Ngài đã làm người, và Ngài bắt đầu một kiếp người y như chúng ta: rất bé nhỏ, rất mong manh, yếu ớt, bất lực. Ngài là tương lai vô cùng thăm thẳm mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình vươn tới được – bởi vì, trên con đường gập ghềnh của cuộc sống mình, ta càng sấn đến, chân trời ấy càng lùi xa. Nhưng chính Ngài đã đến với ta, đã đến ở giữa ta – vì nếu chẳng vậy, ta sẽ không bao giờ có thể đến được với Ngài.
Ngài đồng hành với chúng ta trên con đường chúng ta đi về với Ngài – nhờ đó, con đường chúng ta đi chắc chắn có một đích điểm hồng phúc. Kỳ thực, đích điểm ấy đã hoá nên khởi điểm của chúng ta rồi. Thiên Chúa đã ở bên ta. Lời ân phúc vĩnh cửu của Ngài đã ở giữa chúng ta. Lời ấy gieo bước hành trình với ta, cảm nghiệm niềm vui nỗi buồn của ta, sống cuộc sống và chết cái chết của ta. Ngài đã cứu chuộc ta, bằng con đường san sẻ chính số phận của ta. Ngài lấy khởi điểm của ta làm khởi điểm của Ngài. Ngài bước đi trên con đường định mệnh của ta và – qua đó – mở định mệnh ấy ra tới tầm vô hạn của Thiên Chúa. Và bởi vì Ngài dứt khoát chấp nhận chúng ta, bởi vì Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ không bao giờ ngừng là người, nên khởi điểm này – của ta và của Ngài – là khởi điểm của những lời hứa không thể xóa nhoà, và sự bắt đầu lặng lẽ của Ngài trong đêm tối ấy đã làm cho nó trở thành Đêm Thánh Thiêng!
Cử hành Giáng Sinh là cử hành mầu nhiệm Đêm Thánh ấy. Con tim chúng ta phải lắng đọng, thanh thoát, và phải mở rộng ra như quả tim của một trẻ thơ chưa hề biết khép lại trước bất cứ khả tính nào của hiện hữu mình, nhưng hoàn toàn sẵn sàng đón nhận tất cả…
Chúng ta phải dám ôm lấy sự yên lặng thâm u này vào tận đáy hồn mình bằng cách không chạy trốn vào công việc làm ăn, vào những cuộc chè chén hay những câu chuyện gẫu lê thê mà ta dùng để tránh né chính mình và tránh né mầu nhiệm phủ xuống trên mình (bởi vì – do lạ lẫm – chúng ta đâm ra hoảng sợ trước mầu nhiệm của tình yêu vô hạn ấy). Đêm Thánh là đêm mà cả cuộc sống của chúng ta cũng trở thành thánh thiêng; chúng ta không được phép xúc phạm đến Đêm Thánh bằng những cuộc vui quá đỗi trần tục. Tính cách chân tình, giản dị, hồn nhiên – vốn hoàn toàn phù hợp với Lễ này – cũng phải giữ cho được sự trong suốt trước mầu nhiệm khôn tả, mầu nhiệm làm cho người ta thân tình sâu xa với nhau và trao cho họ lời hứa xuân xanh mãi mãi.
Lễ Giáng Sinh phải được cử hành như nó đáng được cử hành, nếu không, nó sẽ tha hoá thành một lễ hội thuần tuý trần tục. Trong thinh lặng của Đêm Thánh cô tịch này và trong lòng dạt dào cảm mến, chúng ta chấp nhận rút vào trong đáy lòng mình tất cả những con người, những sự vật, những loay hoay căng thẳng vốn thường dễ che khuất không cho ta nhìn cái vô cùng – chỉ khi ấy chúng ta mới có thể cử hành Lễ Giáng Sinh đúng nghĩa. Đôi khi, ít nhất là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó, người ta dập tắt những ánh sáng trần tục vốn che khuất không cho phép mình nhìn thấy sao trời, và người ta đặt mình trước sự hiện diện kỳ diệu khôn tả của Thiên Chúa, sự hiện diện “lên lời” bằng chính cái thinh lặng của nó, và ta chỉ có thể ‘nghe’ được nếu biết lắng nghe. Chúng ta hãy cảm nhận như khi một mình bước đi dưới bầu trời đêm đông đầy sao; Chúng ta vẫn nghe bịn rịn nhớ nhung hơi ấm của người thân và của tất cả những gì quen thuộc dưới mái nhà mình, nhưng phía trên đầu chúng ta là bầu trời, và trong sự yên ắng ấy của màn đêm (sự yên ắng mà vào những lúc khác có thể làm cho chúng ta kinh sợ), chúng ta bắt gặp sự hiện diện lặng lẽ của mầu nhiệm vô cùng: mầu nhiệm hiện hữu của mình, mầu nhiệm vừa đầy ắp tình yêu cứu độ vừa lớn lao khôn dò.
Giáng Sinh là Đêm Thánh! Cái tương lai vô cùng đã đi vào trong thời gian của chúng ta rồi. Ánh sáng chói loà của nó vẫn còn tràn ngập chúng ta. Và ta nghĩ chắc hẳn Chúa đã ra đời vào một đêm tối! Dù gì đi nữa thì đó cũng là đêm, một đêm hồng phúc, một đêm ngập tràn hơi ấm và ánh sáng, một đêm rất tuyệt diệu và rất thực – bởi không gì chắc chắn bằng ngày vĩnh cửu mà đêm này cưu mang trong mình nó. Tuy nhiên, đêm này chỉ là Đêm Thanh, Đêm Thánh cho chúng ta nếu chúng ta đón nhận sự yên lặng thánh của đêm này vào trong trái tim mình, nếu trái tim chúng ta thức tỉnh.
Sự yên lặng và cô tịch ấy nào quá gay go! Cái khó, nếu có, là cái khó chung của mọi điều cao cả: nó vừa thật đơn giản vừa rất lớn lao! Không khó, vì dĩ nhiên cái cô tịch vốn nằm sẵn trong ta. Trong trái tim ta vốn có một vùng sâu kín của riêng mình, một vùng mà không ai có thể dò dẫm tới ngoại trừ Thiên Chúa. Nơi sâu thẳm ấy thực có đó. Vấn đề là chúng ta ngu ngơ sợ hãi và tránh né nó – ta sợ, vì không ai và không gì quen thuộc trên đời này có thể đi theo mình nếu mình bước chân vào vùng đất ấy! Nào, đừng sợ nữa, hãy lặng lẽ bước vào và đóng cửa lại phía sau mình. Hãy lắng nghe giai điệu vô ngôn vang lên trong yên ắng của màn đêm cô tịch.
Ở đó, linh hồn ta tấu lên với Thiên Chúa khúc ca trầm lắng nhất và nồng nàn nhất. Và ta tin chắc rằng Ngài đang nghe mình rất rõ. Vì khúc ca ấy không còn phải kiếm tìm đến một Thiên Chúa trên trùng khơi thăm thẳm chẳng thể nào dò tới được. Chúa đã giáng sinh rồi, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm, nên Ngài đang ở ngay đây – và lời nói thầm thì nhất trong đáy lòng ta, lời nói tỏ tình, sẽ được Ngài lắng nghe rất rõ. Và những ai đã bước vào trong cõi cô tịch của lòng mình như thế, ngay cả dù tối tăm thăm thẳm, nhất định sẽ nghe được tiếng thầm thì yêu thương của Ngài. Nào, đừng sợ đêm tối nữa, và hãy lắng hồn xuống. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng nghe gì. Vì tiếng nói cuối cùng chỉ cất lên trong sự yên lặng của đêm tối – đêm tối đời ta – qua sự xuất hiện hồng phúc của Ngôi Lời. Ngài đã đến rồi đây.
Đêm Thánh vô cùng…
Giây phút tưng bừng…
83. Noel: Tình bạn
Nhiều thế kỷ trước đây tại nước San Marinese, có một ông vua rất kính sợ Thiên Chúa và thương yêu dân chúng. Ông sống chính trực và rất được dân chúng kính trọng, mến phục. Nhà vua không chỉ hài lòng với cuộc sống trên dung lụa của hoàng cung, cũng không chỉ nghe theo lời báo cáo tường trình của các quan cận thần mà thôi. Để biết rõ hơn về hoàn cảnh sống của dân chúng, nhà vua thường hay cải trang đủ cách để có thể đi lại dễ dàng và trà trộn giữa mọi lớp người để không bị theo dõi hoặc chú ý tới. Một hôm nhà vua cải trang với manh áo rách vá chằng chịt như một người hành khất và đến ngồi ăn xin tại một công viên. Nhà vua làm quen với người phu quyét đường thường ngồi nghỉ trên ghế công viên, ăn qua loa nắm cơm nguội dưới ánh nắng mặt trời nắng gắt. Ngày qua tháng lại, nhà vua trở nên như bạn thân của người phu quét đường. Họ chia sẻ từng nắm cơm, ly nước và chuyện trò vui vẻ như hai người bạn thân vậy. Sau cùng vua quyết định nói sự thật và tỏ mình cho người phu quét đường biết mình là ai. Nhà vua còn bảo người phu quyét đường có thể xin điều gì mà anh ta ưa thích nhất như mòn quà kỷ niệm tình bạn thân thiết ấy. Nghe nhà vua tỏ tình thương mến, người phu quét đường trố mắt ngạc nhiên nhìn nhà vua và nói: Thưa hoàng đế, nhà vua đã không quản ngại khó nhọc, khước từ vinh quang của cung điện để đến chia sẻ nắm cơm chén nước và những khó nhọc của bần hèn này. Nhà vua có thể ban tặng cho quan thần những món quà quí giá, nhưng đối với phận hèn này nhà vua đã dành cho món quà lớn nhất là chính mình. Vì thế nếu được, phận hèn này chỉ xin một điều duy nhất, là xin nhà vua đừng cất đi tình bạn mà nhà vua đã dành cho kẻ hèn từ trước tới nay.
Thật vậy, tình bạn là một trong những món quà lớn lao, quí giá nhất mà con người có thể nhận được. Tình bạn là mối dây liên kết vượt hẳn lên trên những mục đích chung của công việc làm, của những lợi lộc hoặc những vấn đề cá nhân. Tình bạn chân thật là sự hiện diện cạnh bạn khi vui cũng như lúc buồn, cho dù không thể tăng thêm niềm vui, cũng chẳng biết làm vơi đi nỗi buồn của bạn. Tình bạn làm cho cuộc sống thêm tươi sáng. Có bạn cuộc đời cũng đỡ bớt cô đơn. Trong Phúc âm, chính Chúa Giêsu cũng đã để cao giá trị của tình bạn khi Ngài nói với các môn đệ rằng: “Thầy đã gọi chúng con là bạn hữu, vì Thầy đã tỏ cho chúng con am tường mọi điều Thầy nghe nơi Cha Thầy”. Cũng vì tình yêu cao quí mà Chúa Giêsu đã tự nguyện đến trần gian mặc lấy thân phận con người. Niềm vui của Chúa Giêsu là trở nên như chúng ta những con người yếu đuối hạn hẹp mà Người đã muốn nâng lên hàng bạn hữu, là trở nên thành phần của đại gia đình nhân loại và cùng đi với chúng ta trên con đường trở về với Thiên Chúa Cha. Đấng Emmaunuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là món quà cao cả nhất. Thiên Chúa ở với loài người, là ý nghĩa sâu xa nhất của mầu nhiệm Giáng Sinh Nhập Thể.
84. Noel: Hữu hình
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm một biến cố đã qua, một biến cố tràn đầy hạnh phúc nhưng đã chìm vào dĩ vãng. Vậy đâu là ý nghĩa của ngày lễ hôm nay?
Trong ngày lễ này, chúng ta xác tín: Thiên Chúa đã trở nên hữu hình đối với chúng ta. Ngài không còn là Thiên Chúa xa lạ, cách ta nghìn trùng nữa. Thiên Chúa đã đến với loài người. Ngài đã đến giữa loài người như một người trong chúng ta, sinh bởi một người phụ nữ, cần đến tất cả sự chăm sóc và âu yếm của mẹ Ngài, thừa hưởng cả một quá khứ gia đình. Việc Ngài sinh ra được bao bọc bởi vài thành viên trong gia đình và những người chất phác có Kitô hữu năng thán phục trước một hài nhi đã ra đời. Ngài đã đến trần thế này để dự phần vào những vui buồn của mỗi người trong chúng ta. Ngài không yêu cầu đặc ân nào ngoài đặc ân được ở giữa những người nghèo. Ngài đã có một chỗ đứng trong dòng tộc với quá khứ và tương lai của dòng họ. Tổ tiên của Ngài là những người chăn nuôi súc vật, những kẻ di dân, những người lao động tay chân và những người đánh giặc. Vài người trong họ đã để lại kỷ niệm xấu vì giết chóc và trộm cướp. Những người khác là những người có đức tin và lòng sùng đạo rất lớn với những nhân đức khiêm tốn nhưng bền bỉ. Chính như vậy đó mà Thiên Chúa đã trở nên hữu hình trong sự giống hệt loài người. Ngài không mặc lấy nhân tính của chúng ta như một bộ y phục. Ngài đã nhập thể và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa không ngừng trở nên hữu hình! Lý do của việc con Thiên Chúa nhập thể là “Thông ban ân sủng để cứu độ hết thảy mọi người”. Lý do này không bao giờ bị rút lại. Nó vẫn còn đó và luôn luôn được thể hiện.
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm một biến cố đã qua mà ta không muốn quên, nhưng đây là lễ đón mừng một hồng ân hiện đang được ban cho loài người. Đôi khi người ta nói về một người mà sự nghiệp đặc biệt lừng lẫy nên người ấy vẫn tiếp tục sống ở giữa chúng ta do ảnh hưởng công việc của họ. Nhưng đó chỉ là một cách biết ơn nhân vật quá cố thôi. Vì người ấy cũng như sự nghiệp của họ không tồn tại mãi mãi được.
Nhưng công trình của Thiên Chúa, ân sủng làm cho chúng ta trở nên con cái của Ngài vẫn luôn luôn được thể hiện. Thiên Chúa đã trở nên hữu hình trong những cách hiện diện với loài người mà Chúa Giêsu đã chọn sau cuộc Phục sinh của Ngài: Cộng đoàn Giáo Hội, sự hiệp thông giữa các môn đệ của Ngài, là thân mình Ngài, sự hiện diện của lời Ngài nơi những tâm hồn biết lắng nghe trong đức tin, và Bí tích Thánh Thể, hồng ân và dấu chỉ sự hiện diện thật sự của Ngài. Mối tương quan mà những kẻ đã sống với Chúa Giêsu có thể thiết lập với Ngài trong đức tin và đức cậy, cũng có thể được đối với mỗi người chúng ta. Chúa Kitô bao giờ cũng niềm nở và lắng nghe, bao giờ cũng đầy lòng thương xót và luôn sẵn sàng ban sự sống như thế cả.
Lễ Giáng sinh mà chúng ta cử hành với một niềm vui lớn lao cũng thực sự là lễ mừng ngày chúng ta được sinh vào đời sống thiêng liêng mà con Thiên Chúa đến ban tặng cho chúng ta.
85. Noel: Lễ vật dâng Chúa
Đã biết bao nhiêu đêm như đêm nay đã đến với đời mỗi người chúng ta. Thế mà cứ mỗi lần nhìn thấy hang đá, ngắm những trang trí lạ mắt, ánh sáng rực rỡ lung linh, tiếng đàn tiếng hát du dương hớn hở, chung quanh ai nấy ăn mặc, trang điểm xinh đẹp thì tâm hồn chúng ta lại dâng trào niềm vui khôn tả. Chính lúc ngây ngất sung sướng đó, mỗi người chúng ta không thể không đưa mắt chiêm ngắm Chúa Hài đồng xinh xắn mà thương mến mà thầm ước.
Và có lẽ, trong giây phút linh thiêng trang trọng này, ai cũng tự hỏi mình phải làm gì cho Chúa hài đồng vui lòng đây, mình nên dâng cái gì quí nhất đây để tỏ lòng yêu Chúa. Chắc mọi người nghĩ ra nhiều việc hay, tưởng tượng nhiều quà quí hiếm để tiến dâng. Nhưng câu chuyện sau đây muốn trình bày cho chúng ta thấy một món quà Chúa ưa thích nhất:
Số là đúng cái đêm Chúa sinh ra như đêm nay, các thú vật chung quanh Bêlem đều tới mừng Chúa và mỗi con đều dâng Chúa một món quà nhỏ: Chị bò cái dâng sữa, anh Lừa hà hơi sưởi ấm, cậu Khỉ biếu Chúa mấy trái nho, chú Sóc biểu diễn một điệu nhảy đẹp mắt, Bé Vàng khuyên hát một bài du dương, cậu Bướm tình nguyện làm đồ chơi. Chúa Hài đồng vui vẻ nhận tất cả. Đang lúc các thú vui thích quây quần bên Chúa thì chàng Cáo xuất hiện. Mọi thú đều ghét cáo vì nó gian manh xảo quyệt. Chúng chặn đường không cho Cáo đến gần Chúa. Thấy thế, Chúa can thiệp và ra hiệu cho Cáo vào. Cáo đến quỳ bên Chúa thì thầm nói với Chúa một hồi. Thấy Chúa thích thú đến độ đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng nhận và chúc lành. Riêng Cáo hớn hở, vui tươi lễ phép đứng lên cáo biệt rồi đi thẳng. Những con vật khác tức tối, tò mò hỏi Chúa Cáo đã dâng gì cho Ngài mà Ngài thích thú như vậy. Mỉm cười Chúa đáp: “Cáo đã dâng cái mà ta thích nhất: Đó là những tội lỗi của nó”.
Nghe thế ai mà chẳng bỡ ngỡ vì tưởng gì chứ tội lỗi ai mà chẳng có, lại có rất nhiều. Nhưng có lẽ ai cũng thắc mắc tại sao Chúa lại ưa cái thứ quỉ quái xấu xa đó? Có gì lạ đâu, cứ nhìn vào máng cỏ nghèo hèn, rồi nhìn vào thân phận yếu đuối của ta mà Chúa đã bỏ trời cao xuống trần mang lấy để gánh chịu mọi hậu quả của tội lỗi mà cứu thoát chúng ta. Vì khi ai biết cho Chúa mọi tội lỗi của mình thì người đó đã nhận ra sự hy sinh cao cả và tình yêu vô biên của Chúa.
Và rồi chúng ta tự hỏi cái gì trên cõi đời này làm cho con người phải điêu đứng khổ sở, phải lo lắng bối rối, phải ray rứt hối hận? Dĩ nhiên, tất cả bởi tội mà ra. Hơn nữa, khi Ngôi Hai xuống thế làm người là Ngài mong muốn chúng ta được an vui, hạnh phúc đích thực, nhưng chỉ còn một trở ngại ngăn cản cuối cùng là tội lỗi. Vì thế ai muốn có sự bình an thật thì phải dâng tội cho Chúa vì chỉ có Chúa mới tẩy xóa được chúng và giúp con người trở nên bạn hữu của Ngài.
Vậy khi dâng tội cho Chúa tức là chúng ta dâng trót cuộc đời còn lại của mình để cố gắng chừa cải ăn năn, để chỉ ước muốn làm điều đẹp lòng Chúa. Đổi lại, Chúa sẽ ban cho mỗi người chúng ta một tặng phẩm quí giá: Đó là sự anbình vui tươi của đêm thánh hôm nay đem lại cho mọi người thiện tâm thiện chí.
86. Noel: Đổi đời
Trời vừa rạng sáng, sao vừa biến và người khách cuối cùng vừa từ giã, mẹ Maria xếp lại đống rơm và Hài nhi thiu ngủ… Bỗng, cánh cửa của chuồng bò kẹt mở. Một người đàn bà xuất hiện, áo rách rưới, da nhăn nheo đến độ khuôn mặt tóp lại trông dễ sợ. Thấy bà, Mẹ Maria sợ như thể một mụ phù thủy mang xui xẻo đến. May thay, Hài nhi thiếp ngủ, bò lừa đang nhai rơm yên lành. Còn Mẹ Maria không ngớt theo dõi. Mỗi bước chân của bà già đối với Mẹ Maria hình như dài cả thế kỷ. Bà ta vẫn tiếp tục bước và đã đến bên máng cỏ. Bất chợt Bé Giêsu mở mắt nhìn và mẹ Maria hết sức ngạc nhiên khi thấy đôi mắt Con Mẹ và đôi mắt của bà già sao mà giống nhau như thể ánh lên cùng một niềm hy vọng. Đoạn bà già thò bàn tay khẳng khiu vào bọc áo tồi tàn mò tìm một vật gì cất rất kỹ. Mẹ Maria vẫn lo lắng quan sát và các con vật vẫn thản nhiên. Cuối cùng, bà ta hình như đã tìm được và lôi ra khỏi bọc một vật dấu trong bàn tay, rồi trao lại cho Hài nhi. Không biết quà tặng là cái gì và bà già là ai mà có vẻ bí hiểm. Mẹ Maria chỉ thấy chiếc lưng còng cúi xuống khá lâu trên chiếc nôi. Rồi bà già đứng thẳng dậy như trút được một gánh nặng trên hai vai, khuôn mặt rạng rỡ như tìm lại được vẻ trẻ trung cách kỳ diệu. Sau đó, bà ta từ từ rời khỏi nơi Hài nhi và biến mất vào đêm tối. Bây giờ mẹ Maria mới thấy được món quà tặng của bà già và biết rõ bà ta là ai. Thì ra, bà già ấy chính là Eva vừa trao lại cho Hài nhi một trái táo nhỏ. Trái táo của tội nguyên tổ. Và trái táo đó rạng ngời trong đôi tay xinh xắn của Hài nhi như một quả địa cầu của thế giới vừa mới được tái tạo nhờ Hài nhi.
Vậy có thể nói rằng ngay từ khi Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể đến ở giữa trần gian thì tất cả mọi tạo vật, kể cả tội nguyên tổ, đều được biến đổi, thăng hoa, ẩn chứa hồng ân cứu độ, phản ảnh tình thương của Thiên Chúa. Đặc biệt, đối với con người nhờ việc Ngôi Hai mặc lấy bản tính của họ nên họ được vinh dự lớn lao là trở thành tạo vật mới đầu tiên ở trong Chúa hài đồng.
Tuy nhiên, bất cứ một cuộc biến đổi nào muốn đi tới thành công mỹ mãn đều phải trải qua ba giai đoạn then chốt này: Một là xác định rõ hướng đi; hai là hợp tác chặt chẽ; ba là kiên trì theo đuổi đến cùng. Nhất là cuộc biến đổi hóa thần từ một bản tính yếu đuối tội lỗi thành một bản tính thần thiêng cao vời lại càng đòi buộc con người nhiều hơn nữa nếu con người muốn hóa thần thành công.
Thứ nhất là hướng đi. Đã là con người ai cũng cảm thấy thân phận mình thật mỏng dòn, yếu đuối, hay hướng chiều theo đam mê sa đọa, lúc nào cũng cảm thấy ray rứt bất an, luôn khao khát tìm kiếm mà không bao giờ được thỏa mãn. Tất cả những biểu hiện đó là do tội nguyên tổ gây ra, khiến con người cứ chìm đắm trong bến mê, thất vọng. Khi phải sống trong một tình trạng khốn khổ đó mà có ai đủ khả năng giải thoát con người khỏi bóng tối đến với ánh sáng, từ bị luận phạt giam tù đến chỗ tự do, từ đau khổ đến bến bờ hạnh phúc, chắc chắn người ta không bao giờ để tuột mất cơ hội ngàn vàng. Đó là Ngôi Hai giáng trần, một hướng đạo tài năng, một ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối cho nhân loại được cứu thoát.
Thứ hai là hợp tác. Khi đã xác định được hướng đi mà muốn thành công, hai bên phải biết hợp tác để cùng hành động và hỗ trợ cho nhau. Về phía Chúa, nguyên việc xuống thế, mặc lấy thân phận hư hèn của con người cũng đã đủ để nói lên tình thương và thiện ý của Ngài là muốn cứu thoát tất cả mọi người. Do đó, Ngài không từ chối bất cứ việc gì, ngoại trừ tội lỗi, để giúp con người đi tới hạnh phúc, nên Ngài đã không ngần ngại phó mạng sống và quyền năng của Ngài cho con người sử dụng. Còn về phía con người muốn đón nhận hồng ân cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa ban, đương nhiên phải biết hợp tác với Ngài bằng cách nhiệt tâm, tin tưởng, vâng theo những sự chỉ dẫn của Ngài. Nói khác đi, con người muốn được cứu thoát phải biết tiếp nhận Chúa như là bạn đường, như là khách quí mời vào trọ trong nhà mình để yêu mến, phục vụ Ngài tận tình chu đáo. Tất nhiên, khi có Chúa ở cùng, con người phải từ bỏ mình cùng với những xấu xa, coi ma quỷ như kẻ thù không đội trời chung…
Cuối cùng khi đã quyết chí lên đường theo Chúa để có thể đi đến cuối con đường của hạnh phúc đích thực được thì phải có lòng kiên trì bền vững luôn. Đây là một điều kiện then chốt vì con đường đến với Chúa và cùng đi với Ngài không phải là một con đường thoải mái, dễ dàng, nếu không có chí sắt đá, không có lòng kiên định thì khó mà đi trọn vẹn. Bởi vì, tin tưởng và chấp nhận đi theo Chúa không phải một vài lần là được mà phải chấp nhận suốt đời và cũng không phải lúc nào đời người đều bình yên lặng gió mà là luôn có trở ngại thử thách đủ thứ. Vì thế, chỉ có những ai bám chặt vào Chúa thì kẻ đó mới đến đích bình an.
Chúa vì thương con người đã làm một cuộc đổi đời kỳ lạ từ trời xuống đất, từ Chúa thành người để cứu vớt và đưa con người lên hàng thần thánh. Còn con người muốn được hóa thần phải biết đổi đời từ tối thành ánh sáng, từ hư hèn thành bất diệt.
87. Đêm An Bình
Trong đêm Giáng sinh, sứ thần Chúa đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
- Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Vào buổi sáng ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra và chào chúc các môn đệ:
- Bình an cho các con.
Ngài cũng đã xác quyết:
- Thầy ban bình an của Thầy cho các con.
Vậy sự bình an mà Chúa trao ban cho chúng ta là sự bình an như thế nào?
Trước hết đó phải là sự bình an trong tâm hồn qua việc giải thoát chúng ta khỏ sự kìm kẹp của tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa. Thực vậy, sự bình an bên ngoài chỉ có thể được xuất phát từ bên trong, từ tâm hồn, từ cõi lòng mà thôi. Bao lâu chúng ta còn sống trong tội lỗi, trong sự thù địch với Chúa, thì chúng ta còn băn khoăn, còn lo lắng, Chính sự bình an nội tâm này sẽ phản chiếu trên khuôn mặt và trên cuộc sống, làm cho chúng ta được vui mừng và hạnh phúc, dù hiện tại có gặp phải những túng cực và khổ đau. Chính trong chiều hướng ấy, Chúa Giêsu đã phán hứa:
- Phúc cho những ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Cũng trong chiều hướng này, Ngài đã xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi. Ngài đã bắc lại nhịp cầu đa gẫy, nối liền trời với đất. Ngài đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa. Ngài đã trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa.
Tuy nhiên, sự bình an nội tâm không phải là một quà tặng từ trời rơi xuống, mà hơn thế nữa, nó còn phải là kết quả của những cố gắng cộng tác với ơn thánh, những nỗ lực tìm kiến và xây dựng nơi chính bản thân mình, bởi vì sự bình an chỉ có cho những người thiện tâm mà thôi.
Sự bình an nội tâm này còn là nền tảng để chúng ta vun trồng một cách tốt đẹp những mối liên hệ với người chung quanh từ gia đình đến xã hội.
Trước hết là gia đình.
Như chúng đã biết gia đình ngày nay đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Nó như một cây đã bị cắt mất rễ, thì làm sao sống nổi. Gia đình là trái tim nhân loại. Nếu trái tim này mà bị đau yếu, thì làm sao nhân loại được khỏe mạnh. Gia đình phải là sợi dây liên kết đầy yêu thương, phải là nơi cho sự bình an ngự trị, bằng cách quên đi va tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng lẫn nhau theo tinh thần Phúc Âm.
Một khi tâm hồn chúng ta đã ổn định qua việc hòa giải với Chúa, thì chắc chắn gia đình chúng ta cũng sẽ được êm ấm qua việc yêu thương nhau. Lúc đó sự bình an sẽ chiếu sáng qua mọi biên giới.
Và như vậy chúng ta đã bước vào lãnh vực xã hội.
Các cụ ta ngày xưa đã bảo:
- Phải tu thân, tề gia, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
Cũng trong chiều hướng áy, Đức Hồng Y Feltin đã nói:
- Đây là lúc người tín hữu phải rời bỏ tháp chuông, phải rời bỏ quốc gia nhỏ bé của mình để hướng tới cộng đồng thế giới, bởi vì tất cả đều là anh em với nhau, cùng có chung một người cha và cùng được dựng nên theo hình ảnh Ngài. Như thế, mọi cuộc chiến tranh đều là những cuộc huynh đệ tương tàn, anh em sát hại lẫn nhau và làm cho máu Đức Kitô phải đổ ra một lần nữa, vì chúng ta đều là những chi thể của Ngài.
Thế nhưng ngày nay, viễn ảnh một cuộc chiến tranh thẳm khốc với những vũ khí tốt tân là như một cơn mộng dữ, luôn ám ảnh và đè nặng trên con người, cùng với nó là những sự tàn phá khủng khiếp nhất. Những phương tiện tự nhiên như hòa đàm, thương nghị mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải cần đến những phương tiện siêu nhiên, đó là sụ cầu nguyện và một cuộc sống được đổi mới theo tinh thần của Chúa.
Có một thi sĩ đã kể lị giấc mơ của mình như sau:
Bấy giờ Thiên Chúa ngự trên tòa và những người quyền thế nhất trần gian bắt đầu xuất hiện. Ngài hỏi Maisen:
- Con đã trao cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con trao cho họ những giới luật.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã phạm tội.
Ngài hỏi Napoléon, vị vua bách chiến bách thắng:
- Ngươi đem lại cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con đem lại cho họ vinh quang.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã bị tủi nhục.
Sau cùng, Ngài hỏi Đức Kitô:
- Con mang đến cho trần gian những gì?
- Con đã mang đến sự bình an.
- Và họ đã làm chi?
Đức Kitô không trả lời. Ngài úp mặt vào lòng bàn tay bị mang dấu đanh và Ngài đã khóc.
Đó là một giấc mơ, nói lên một sự thật. Ngày nay hơn bao giờ hết, Chúa Giêsu cũng khóc và giơ hai bàn tay mang những dấu đanh cho chúng ta chiêm ngưỡng, là như dấu ấn của sự hòa bình mà Ngài đã kiến tạo, đã xây dựng.
Hãy trở nên những chiến sĩ hòa bình, khởi đi từ tâm hồn bằng cách tẩy trừ tội lỗi, cho đến gia đình bằng một cuộc sống yêu thương và tha thứ, để rồi lan rộng ra ngoài xã hội, bằng sự hòa giải và cảm thông, để ở mọi nơi và trong mọi lúc, con người luôn được hưởng sự bình an mà Chúa Hài nhi đã đem đến nơi máng cỏ Bêlem.
88. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương
Chúng ta vừa nghe thánh Luca thuật lại cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu, chúng ta hãy nhìn vào hang đá thì sẽ thấy được sự khó nghèo của Con Thiên Chúa giáng trần làm người: chỉ có một vài mục đồng đến viếng thăm, và một vài con lừa hà hơi sưởi ấm cho hài nhi Giêsu, tất cả chỉ có thế, nghèo nàn khổ cực hơn cả người cùng cực thế gian, nhưng đó chính là niềm vui của các tâm hồn thiện chí và là sự cứu độ của toàn thể nhân loại.
Đêm nay, chúng ta hân hoan long trọng mừng Đấng Cứu Độ của chúng ta là Chúa Giêsu đã giáng trần, đó là một tin vui trọng đại, tin vui cho muôn người, tin vui này được các sứ thần của Thiên Chúa loan báo cho các mục đồng: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”.(Lc 2, 10-11)
Đêm nay được gọi là “Đêm Thánh” vì Con Thiên Chúa là Đấng Thánh đã giáng trần cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi; đêm nay cũng được gọi là “Đêm Bình An” vì chính sự giáng trần của Con Thiên Chúa là sự bình an cho mọi tâm hồn thiện chí biết xây dựng hòa bình cho anh em.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca khen hát mừng của các sứ thần trong ngày Chúa Giêsu giáng sinh vẫn còn đó, vang lên trong mọi tâm hồn của người tín hữu, và biến thành lời ca vang chúc bình an trên môi miệng của chúng ta với ước mong rằng, tất cả mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa và đem bình an cho tha nhân trong cuộc sống của mình.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca chúc mừng này biến chúng ta trở thành những mục đồng đi đến thăm viếng Chúa Giêsu khó nghèo nơi các trại mồ côi, an ủi những người bị tù ngục và những tâm hồn đau khổ vì bị bạc đãi trong xã hội này.
Đêm nay, ngoài đường vắng bóng người mặc áo quần lụa là, vì họ đang quây quần vui vẻ nâng ly rượu với bạn bè trong những nhà hàng sang trọng; nhưng đây đó dưới gầm cầu, bên góc xó hàng hiên của ngôi nhà to lớn bên đường có những em bé Giêsu đang nằm co ro vì lạnh vì đói và không nhà để trở về vì không có hộ khẩu...
Chúa Giêsu đã giáng trần cách đây hơn hai ngàn năm, và hôm nay, mỗi ngày Ngài đều giáng trần trong tâm hồn của chúng ta, để qua chúng ta, Ngài được an ủi nơi những người bất hạnh, như sứ điệp hòa bình mà các thiên thần đã loan báo: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Sứ điệp này đang ở trước mặt anh chị em, trong hang đá lộng lẫy ánh đèn nhấp nháy sáng lóe tia hy vọng, như mời gọi chúng ta hãy tỏa sáng lên tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc sống của mỗi người, bởi vì Con Thiên Chúa giáng trần không phải như ánh sao xẹt ngang bầu trời rồi tắt ngúm, nhưng là “ánh sao sáng vĩnh cửu” đầy hy vọng soi sáng tâm hồn người thất vọng, chiếu sáng người đang ở trong bóng đêm tội lỗi thấy đường để quay về với sự thiện vốn có của mình...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
89. Chiêm ngắm Ngôi Lời
Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta, đó là lời rao giảng đầy xác tín của thánh Gioan tông đồ mà chúng ta vừa nghe trong bài tin mừng hôm nay.
Ngôi Lời ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tối hôm qua chúng ta long trọng, hân hoan và phấn khởi mừng kỷ niệm ngày Ngài giáng trần và ở giữa chúng ta, nhưng với đức tin Kitô giáo, chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn thấy và chiêm ngắm Đấng vì Yêu mà trở thành xác phàm như chúng ta.
1. Chiêm ngắm Ngôi Lời trong hang đá
Không ai thấy được Thiên Chúa cũng như không ai được đưa tay đụng chạm đến Ngài, nhưng nhờ Ngôi Lời mà chúng ta biết được Thiên Chúa Cha là Đấng đã yêu thương nhân loại là dường nào.
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm em bé Giêsu nhỏ xíu đang nằm trong hang đá, em bé Giêsu tội nghiệp ấy chính là hình ảnh của Thiên Chúa Cha là Đấng vô hình, và là hình ảnh tuyệt đẹp của con người hữu hình. Trẻ Giêsu đang nằm đó, chúng ta nhìn và suy nghĩ đến hang đá Bêlem xưa kia, trời lạnh cực điểm mà không có mảnh chiếu che thân, chúng ta tội nghiệp cho Mẹ Maria và thánh cả Giuse là một gia đình nghèo đáng thương hại.
Đấng tạo dựng đất trời đang nằm trong hang đá đó chính là Đấng mà muôn dân trông đợi, Ngài đã đến nhưng người nhà không chấp nhận, xua đuổi Ngài ra nơi chuồng bò, và chỉ có những người vô danh tiểu tốt đến thờ lạy Ngài là vua vũ trụ...
2. Chiêm ngắm Ngôi Lời nơi Thánh Thể
Ngôi Lời là Thiên Chúa mà chúng ta đang ngắm nơi hang đá được trang hoàng lộng lẫy đẹp mắt ấy, chút xíu nữa đây trên bàn thờ, trong hình bánh rượu sẽ trở thành Bánh Thánh Máu Thánh nuôi sống linh hồn chúng ta.
Một Thiên Chúa làm người nằm trong hang đá Bêlem cũng là Thiên Chúa đang ngự trên bàn thờ nơi bí tích Thánh Thể, đã trở thành tình yêu dâng hiến và chia sẻ: dâng hiến chức phận Thiên Chúa và chia sẻ thân phận làm người với nhân loại tội lỗi...
Chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể để nhìn thấy được tình yêu không bến bờ mà Ngài đã dành cho chúng ta, trong suốt cuộc sống của Ngài ở trần gian và sau khi về trời, chính tình yêu ấy đã làm cho gia đình hòa thuận yêu thương, chính tình yêu ấy đã làm cho xa hội phát triễn trong hòa bình, chính tình yêu ấy là mẫu gương đại đồng nhân loại sống hợp tác và tương trợ lẫn nhau...
Chúa Giêsu vẫn cứ khiêm tốn và nghèo mãi nơi hang đá Bêlem cũng như nơi bí tích Thánh Thể, không có hang đá Bêlem nghèo nàn thì cũng không có đồi Calvê trơ trọi thê lương, nhưng chính cái nghèo khó và thê lương ấy đã trở nên nguồn sống cho những ai tin vào Ngài nơi bí tích Thánh Thể, đó chính là mầu nhiệm mà hôm nay chúng ta mừng kính: mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc...
3. Ngắm Chúa Giêsu nơi tha nhân
Mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh là mừng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, ngắm nhìn Hài Nhi trong hang đá chúng ta nhớ đến những em bé nghèo khó trên khắp thế giới sống trong cảnh khó nghèo; chúng ta cũng nhớ đến những người phải lìa xa quê hương ruột thịt để lánh nạn chiến tranh cường hào ác bá; chúng ta cũng suy nghĩ đến biết bao Giêsu đang bị bạc đãi trên khắp thế giới vì chính kiến, vì hận thù và vì đức tin...
Ngắm nhìn Chúa Giêsu nơi tha nhân là cốt lõi của tình yêu và giáo huấn của Ngài để lại cho nhân loại -qua Giáo Hội- bởi vì chúng ta không thể sống mầu nhiệm tình yêu bằng cách thờ ơ với tha nhân, và chúng ta cũng không thể trở nên một chứng nhân cho tình yêu nếu tâm hồn chúng ta vắng bóng Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lễ giáng sinh rồi cũng qua đi nhưng ơn cứu độ vẫn tồn tại cho đến tận thế; hang đá lộng lẫy rồi cũng được cất vào kho nhưng những người nghèo khó bất hạnh vẫn còn đó, trước mắt chúng ta, đó là một thực tại không thể làm ngơ, là người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để Chúa Giêsu tiếp tục mỗi ngày sinh ra trong tâm hồn những con người bất hạnh ấy, đó chính là sứ điệp giáng sinh của mỗi người trong chúng ta.
Câu hỏi gợi ý:
- Bạn có thói quen tặng thiệp, quà Noel cho người nghèo không?
- Mỗi lần Noel đến, bạn có nghĩ rằng bạn sống tốt thêm Noel năm ngoái không?
- Mỗi lần tặng thiệp, quà Noel cho bạn bè, bạn có nghĩ rằng mình là một thiên thần đem tin vui cho mọi người không?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
90. Sức mạnh--Lc 2,1-20
Có một người đi hành hương đất thánh, khi trở về, ông ta đã mua một bộ tượng sinh nhật gồm Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse. Thế nhưng, trước khi lên máy bay tại phi trường Tel Aviv, người ta đã kiểm soát từng bức tượng một, bằng quang tuyến X. Nhân viên hải quan đã xin lỗi và nói:
- Chúng tôi có nhiệm vụ bảo đảm rằng không hề có chất nổ trong những bức tượng này.
Lúc bấy giờ, ông khách hành hương đã thầm nghĩ:
- Phải chăng họ biết được rằng bộ tượng này còn chất chứa một năng lượng khả dĩ làm nổ tung cả thế giới. Vậy thì nguồn năng lượng ấy là như thế nào? Đó không phải là nguồn năng lượng vô biên của Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên vũ trụ vật chất này trong thoáng chốc và có thể hủy diệt nó bằng một cái búng tay. Năng lượng mà ông khách hành hương muốn nói tới, chính là năng lượng của Tình yêu mà Ngài đem theo khi đến với nhân loại trong đêm Sinh Nhật đầu tiên tại Bêlem.
Thực vậy, năng lượng ấy được gồm tóm trong Tin Mừng Giáng Sinh, trong sứ điệp mà Ngài muốn nhắn gửi chúng ta. Tin Mừng ấy, sứ điệp ấy như thế này:
- Thiên Chúa, mặc dầu là Đấng quyền năng vô song, nhưng đồng thời Ngài cũng là một người Cha đầy lòng nhân từ và khoan dung, Ngài đã yêu thương và chăm sóc đến mỗi người chúng ta… Và để giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi, khỏi án phạt đời đời, Ngài đã sai chính Con Một Ngài xuống thế để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.
Tuy nhiên, để loan báo Tin Mừng ấy, để công bố sứ điệp ấy, Ngài đã không đến như một ông hoàng với cung điện lộng lẫy, với binh đội hùng mạnh, nhưng Ngài đã đến như một hài nhi bé bỏng và yếu đuối, con của một gia đình nghèo nàn và túng thiếu. Ngài đã trở nên một người giống như chúng ta, cũng bơ vơ lạc lõng, cũng vất vả mệt mỏi, cũng biết đau, biết đói, biết khát… Cũng đã bị nhạo cười và hất hủi, thậm chí còn phải chịu một cái chết ê chề và nhục nhã nhất.
Khi đến, Ngài đã không được các vua chúa, các vị lãnh đạo thế giới chào đón, mà chỉ được các mục đồng, những kẻ thuộc giai cấp thấp hèn nhất đến viếng thăm. Ngài đã đồng hóa mình với những người nghèo khổ và túng thiếu, thậm chí ngay cả với những kẻ tội lỗi.
Những điều trên đây khiến chúng ta nghĩ tới quyền năng mà Ngài đem vào thế giới này. Bởi vì tư tưởng và đường nẻo của Ngài không giống với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Phải chăng đó chính là điểm đặc sắc, điểm thách đố mà mầu nhiệm Giáng Sinh đã gây nên. Sự thách đố này được diễn tả qua một bài thơ có nội dung như thế này:
- Khi ánh sao trên trời chợt tắt, khi các mục đồng và ba nhà đạo sĩ đã ra về, thì công cuộc Giáng Sinh mới thực sự bắt đầu: để tìm lại những gì đã mất, để hàn gắn những gì đã rạn vỡ, để dựng lại những gì đã gãy đổ. Người đói được ăn, kẻ khát được uống, tù nhân được giải phóng và hòa bình thực sự trở về với mọi người.
Kể từ đêm Giáng Sinh đầu tiên cho tới ngày hôm nay, trải dài hơn hai ngàn năm, sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi hài nhi Giêsu, không ngừng làm nổ tung và biến đổi bộ mặt thế giới. Sức mạnh ấy đã san bằng mọi giai cấp. Sức mạnh ấy đã phá đổ mọi bất công. Sức mạnh ấy đã giành lại những quyền lợi cho đàn bà và trẻ em. Sức mạnh ấy đã hủy diệt mọi thù oán…Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả, đó là sức mạnh tình yêu của mầu nhiệm Giáng Sinh đã tác động như thế nào đến bản thân và đến cuộc sống riên tư của mỗi người chúng ta?
91. Chuẩn bị chỗ cho niềm vui.
Những tình tiết chung quanh sự việc Đức Giêsu Giáng Sinh là nguồn đề tài cho rất nhiều thiên khảo sát thông thái, là cảm hứng bất tận cho những suy niệm thiêng liêng và thi ca hướng thượng. Những nhà uyên bác muốn xem bản văn của thánh Luca như một thiên ký sự trong đó thực tế lịch sử được thích ứng với một mẫu tín ngưỡng dân gian bắt rễ ở những công thức kinh điển Cựu Ước. Sự suy–niệm thiêng liêng đã biết nhận ra trong ký sự ảnh hưởng của thuyết hiện thực lịch sử, vừa nhân bản vừa có tính chất thần linh, khi thuyết này được áp dụng, để khảo sát sự việc Thiên Chúa đến trong nhân loại. Dù sao, những công trình khảo cứu bác học và sự suy niệm thiêng liêng cũng gặp nhau ở điểm cùng xác nhận tính chất chắc chắn của những sự kiện sau đây: bà Maria và ông Giuse đã đến Bêlem, nơi đây Đức Giêsu Cứu Thế đã Giáng Sinh, cũng tại đây những kẻ đầu tiên đã tin vào sự loan báo lớn lao này.
Thánh Luca viết bản văn này khoảng thời gian rất lâu sau biến cố. Lúc ông soạn bộ Phúc âm mang tên ông thì sự kiện Phục sinh và Hiện xuống đã xảy ra rồi. Giáo Hội sơ khai đặt ra kinh nguyện theo sát kinh nghiệm thiêng liêng thu thập được. Có thể là Giáo Hội đã tuyển trong khối tài liệu phong phú về biến cố Giáng Sinh để lựa lấy những điều nào hợp với kinh nghiệm nhất: Vinh danh dâng lên Thiên Chúa và bình an được ban cho loài người dưới thế đã được thánh Luca trích ra để dùng từ một kinh nguyện phụng vụ, chính bản kinh này bắt nguồn ở mầu nhiệm tổng quát Giáng Sinh, Vượt qua và Hiện xuống. Ngày nay khi chúng ta mừng một biến cố xảy đến trong lịch sử Đức Giêsu, điều lợi ích cho ta là chớ lãng quên toàn bộ Mầu Nhiệm Đức Kitô, Con Chúa xuống thế làm người, để nhờ tác động của thần trí Người, Đức Kitô thực hiện trong Giáo Hội sứ mạng làm vinh danh Chúa Cha và cứu rỗi nhân loại anh em Người. Xin lấy một ví dụ thực tế để gợi ý. Lĩnh ơn hoà giải qua bí tích giải tội, và tham dự sốt sắng thánh lễ tạ ơn – đó là những nguồn vui thật sự vào dịp Giáng Sinh. Ngoài ra, thi vị hoá ngày lễ và nô nức mừng lễ, cả hai chỉ là bộ áo phủ ngoài. Chúng ta có thể dừng lại ở hai chủ đề suy niệm:
1) Thiên sứ được Chúa sai đến bảo cho những mục đồng biết: Ta loan báo cho anh em một niềm vui lớn, nó cũng sẽ là niềm vui chung cho toàn dân. Đây là một niềm vui đáp ứng một hy vọng. Từ bao thế kỷ; não trạng Israel được duy trì và bồi dưỡng bởi các ngôn sứ, dựa vào niềm trông đợi Đấng Cứu Thế sẽ đến. Niềm vui này cũng là niềm vui chung cho toàn dân, chỉ có thể xuất phát từ Đấng Cứu Thế. Sứ điệp thiên thần mang đến cho những ai có tâm hồn như trầm xuống trong niềm trông đợi Đức Kitô mà Thiên Chúa hứa ban cho trần thế. Điều này gợi ra một câu hỏi: trong tâm hồn ta, có dọn dẹp chuẩn bị một chỗ cho niềm vui được Thiên Chúa loan báo không? Chúng ta có những ước vọng nào? chúng hướng về đâu? Trong chúng ta có hay không một chỗ dành cho sự mong mỏi đợi chờ Chúng ngự đến để Người tác động mạnh hơn nữa? Thiên Chúa không thể loan báo cho chúng ta một niềm vui, nếu chúng ta không cần đến Người. Tuy nhiên, nếu nhờ đức tin mà chúng ta phát hiện và ngẫu nhiên cảm thấy điều sau: chỉ Thiên Chúa mới có thể ban phát tràn đầy ơn phúc cho chúng ta, thì ta phải hiểu rằng chính đức tin chuẩn bị chúng ta tiếp nhận những sự loan báo Tin Mừng.
2) Hôm nay một Đấng Cứu Thế được sinh ra cho anh em. Dù cam phận hay nổi loạn con người bị cưỡng bách phải nhận định điều này: đời sống cá nhân tiến dần đến cõi chết, đến chỗ tiêu tan bản thể. Cam phận hay nổi loạn, cả hai đều chứa đựng đau khổ. Đấng đem đến cho nhân loại phương thế hữu hiệu để vượt thắng chết và sự trầm luân, chúng ta tôn Người là Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế được các thiên thần loan báo không chỉ đến phải cứu con người khỏi định mệnh phải chết, mà còn ban cho con người sự sống của Thiên Chúa. Não trạng thời hiện đại hướng tới chỗ xui giục một số người nào đó đành chịu rơi vào cõi chết – và xô đẩy một số khác nổi loạn cuồng nộ. Là tín đồ của Chúa, ta hãy ý thức rằng ta cần được cứu rỗi. Hãy từ khước sự can tâm nhận lấy hư vô. Mặt khác ta hãy đến với Đấng Cứu Thế, trình bày một niềm riêng tư của mình, chứ đừng có vun tưới cho những sự nổi loạn vô ích và ngu dại. Hãy hiệp thông với hành động của Chúa Cứu Thế chúng ta.
92. Noel: Yêu thương
Vào năm 1994, hai nhà giáo Mỹ được bộ giáo dục Nga mời sang dạy. Nhân mùa Giáng Sinh họ đến thăm một viện mồ côi, và kể chuyện Chúa Sinh Ra cho trẻ. Các em mồ côi cũng như ban quản đốc sung sướng há hốc mồm ngồi nghe họ kể chuyện Giáng Sinh. Sau đó, họ phát cho các em vật dụng thủ công để làm Máng Cỏ. Trong khi đi tới đi lui trông các em làm Máng Cỏ, họ ngạc nhiên khi thấy Máng Cỏ của bé Misha, trông chừng 6 tuổi, có đến hai bé sơ sinh nằm trong máng. Đức Mẹ sinh đôi? Không thể được! Bỡ ngỡ, nhưng bình thản, họ mời Misha kể lại đầu đuôi câu chuyện Chúa Sinh Ra. Nhỏ Misha kể rất thông suốt, rành mạch, đúng với Tin Mừng, từ lúc Truyền Tin cho đến khi hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ. Nhưng khi đến phần Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu và đặt trong máng, thì em bắt đầu tự do cho thêm mắm muối: Khi Đức Mẹ đặt Bé Giêsu vào trong máng, thì Bé nhìn em và hỏi: em có chỗ ở chưa? Em thưa: Con đâu có cha, có mẹ, con đâu có nhà! Vậy thì em ở với tôi nhé! Nhưng em ngại ngùng: con đâu có quà gì để tặng Chúa như người khác được! Vì em rất mong muốn được ở với Bé Giêsu, nên em nghĩ em có thể tặng Chúa tất cả những gì em có: Hay là con ôm Chúa cho Chúa ấm được không? Tuyệt, món quà quý đó chưa ai cho tôi cả. Thế là em nhảy ngay vào trong máng cỏ này và nằm ôm cho Chúa ấm. Chúa Giêsu cũng giang tay ôm lấy em và bảo: Em có thể ở với tôi luôn luôn. Vừa nói Misha vừa lấy tay chùi mắt chùi mũi. Lệ đã tuôn thành giòng trên gò má hốc hác của em bé mồ côi.
Hãy vào đây, hỡi những Misha, vì khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy (Mt 25, 35-36, 40). Giữa lòng đời hôm nay cũng lắm trẻ thơ lạnh giá. Ngay trong xã hội Hoa Kỳ, và các nước tân tiến, giàu sang cũng đầy kẻ, đầy trẻ homeless. Không những homeless vì không có căn nhà để ở, không tìm được chỗ trong quán trọ, mà còn homeless ngay giữa bốn bức tường được cách hàn, cách nhiệt (insulation) vì phải sống giữa những trái tim được insulated - cách biệt quá kỹ bởi cá nhân chủ nghĩa, tư lợi chủ nghĩa, hưởng thụ chủ nghĩa,... bởi gia đình tan vỡ, ly dị, ly thân. Các em ấy đang mong đợi vòng tay ấm áp của bạn đó! Các em ấy đang giang tay mong chờ con tim bằng thịt, biết yêu, và yêu nồng nàn ấm áp của bạn đó! Và nếu lỡ các em ấy chính là người trong nhà bạn thì đau lắm! Lạnh ngắt con tim! Mời bạn mở rộng con tim, nhảy vào máng cỏ cuộc đời, sưởi ấm những bé thơ đang cần nhờ bạn, để không phải Đức Mẹ sinh đôi mà còn là Mẹ muôn người.
Xin Chúa Giêsu ngự trị con tim bạn!
Chúa Giêsu ngự trị lòng ta, luôn luôn!
93. Vinh danh
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Nhìn vào bất cứ một hang đá nào chúng ta đều nhìn thấy hàng chữ trên, đây là sứ điệp của lễ giáng Sinh Thiên Chúa gửi cho tất cả loài người, sứ điệp đó chính là lời ca hát tung hô của các thiên thần trên hang đá Bêlem xưa kia.
Trước hết, về việc tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta thấy các thiên thần, đất đá, cỏ cây, trời đất… còn biết ca tụng vinh quang Thiên Chúa, còn con người chúng ta thì sao? Biết đâu chúng ta sống mà không sống tôn vinh Thiên Chúa, tệ hơn nữa, có thể chúng ta còn ăn cắp vinh danh Chúa hoặc xóa bỏ vinh danh Ngài. Đáng lẽ của Thiên Chúa phải trả cho Ngài, đáng lẽ chúng ta phải làm cho người khác biết mà ca ngợi Cha chúng ta trên trời thì chúng ta đã làm ngược lại chăng? Vì thế, chúng ta hãy tôn vinh danh Chúa trong cuộc đời chúng ta và bằng chính con người chúng ta, nghĩa là chúng ta hãy thể hiện bằng việc phục vụ mọi người và phục vụ bằng những việc làm tốt. Chúng ta hãy nhớ: bao lâu chúng ta còn sống với người khác và trong xã hội, bấy lâu chúng ta còn có vô số hoàn cảnh làm sáng danh Chúa, bởi vì chúng ta luôn luôn có thể phục vụ, mà phục vụ con người, phục vụ xã hội, bất cứ cách nào, miễn là bằng việc làm tốt thì chính là một cách tôn vinh danh Chúa, là góp phần làm sáng lên trong Giáo Hội và xã hội hình ảnh sống động của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, là góp phần làm sáng lên tình thương yêu của Chúa trong lịch sử cứu độ.
Còn vấn đề “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” thì sao? Câu đó bảo cho chúng ta biết: muốn có bình an, muốn được bình an, chúng ta phải có thiện tâm, nghĩa là lời các thiên thần là lời công bố bình an, nhưng lại gồm một điều kiện cần thiết: phải có thiện tâm. Thiện tâm không phải là hoàn hảo, cũng không đòi phải toàn thiện, nhưng là có một tấm lòng ngay thẳng, trong sạch, bởi vì chúng ta chỉ được bình an khi lương tâm trong sạch, như thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Một lương tâm trong sạch là nguồn bình an lớn nhất trong cơn hoạn nạn”. Hơn nữa, một tấm lòng trong sạch là một máng cỏ sẵn sàng để Chúa Hài đồng đến ngự. Nếu bình an của Chúa là như thế thì chúng ta có được lời chúc phúc của các thiên thần không? Muốn biết có hay không, chúng ta hãy nhìn vào kết quả của việc làm. Không ai cho cái mình không có, một người không có bình an thật sự của tâm hồn, họ sẽ chạy đi đây đi đó để tìm bình an giả tạo bên ngoài, nơi người khác hay sự vật và hoàn cảnh chung quanh, đó là những nơi thiếu vắng tình yêu của Chúa. Điều này rất dễ kiểm chứng, như sách Đại Học viết: “Một con tim không ngay chính, bất an xáo trộn, thì con người ấy dù có giương mắt ếch ra mà nhìn cũng không thấy, lắng tai nghe cũng không được gì, mà có ăn nhậu gì cũng chẳng biết mùi vị nữa”. Đó, một khi con tim đã bất an, đã xốn xang mà còn ảnh hưởng tới cái nhìn, việc nghe và ăn uống như vậy, thì huống chi là khi tâm hồn chúng ta hiểm độc, gian ác, tham lam còn ảnh hưởng tới gia đình và xã hội biết chừng nào, còn đâu nữa “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Hôm nay ngày Chúa Giáng Sinh, ngày Chúa ban bình an, Chúa muốn chúng ta kiểm điểm lại từng tâm hồn, từng gia đình, từng cộng đoàn có được thực sự thứ bình an mà Chúa từ trời mang xuống không? Xin mời mọi người hãy hồi tưởng lại xem cuộc đời mình đã gây bất an, xáo trộn, sóng gió cho những ai và lý do tại sao vậy, và bây giờ mình và người đó có còn bất an với nhau không? Tại sao còn nhìn nhau bằng nửa con mắt, hoặc bất ngờ gặp nhau thì lại tránh né? Xin hãy nhìn lại gia đình mình: tại sao gia đình lại ngột ngạt, xô xát, chiến tranh lạnh, chia đủ phe cánh, lườm nguýt, hành tỏi, lừa đối nhau, nghi ngờ nhau… có gia đình đang gặp chiến tranh nóng loại bỏ là làm hại nhau, chà đạp danh dự của nhau. Người ta bảo “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan”. “Hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non”, chúng ta là những bậc bề trên, là người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, đánh nhau, thù oán nhau thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho anh em, hàng xóm, cho chính con cái trong nhà và ngoài xã hội, và hiện giờ gia đình chúng ta đang ở trong tình trạng nào?
Xin mọi người hãy suy nghĩ cho kỹ hai chữ “bình an” để sống cho mình và giúp người khác cùng sống bình an. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu Hài Đồng: Lạy Chúa, Chúa đã nói “Phúc cho người xây dựng bình an, vì họ được gọi là con Thiên Chúa”, xin cho chúng con vào số chúc phúc đó. Từ địa vị một Thiên Chúa, Chúa đã hiện diện giữa nhân loại, bằng lòng chấp nhận thân phận đau khổ như mọi người để đem họ về nguồn bình an chân thật, thì xin cho chúng con biết từ bỏ mọi địa vị, khả năng, hoàn cảnh để gieo vãi tin mừng bình an. Chúa đã chết để đem lại bình an thật, thì xin đừng ai sống mà cắt xén hay làm chết đi niềm vui, hy vọng của anh em mình. Xin Chúa đoái thương riêng đến những gia đình đang bất an vì cơm áo, danh dự để họ gặp lại cảnh gia đình đầm ấm yêu thương. Xin cho chúng con luôn được sống trong bình an của Chúa.
94. Ai thực sự mừng lễ Chúa Giáng Sinh
Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng Sinh trở thành đêm hội của mọi người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng Sinh không chỉ là lễ của người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người biết đến.
Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm". Đêm nay có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu "thiện tâm" là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng Sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ.
Chúng ta nghĩ đến Palestina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin Mừng được rao giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palestin lại chim trong chiến tranh. Người ta đang giết hại lẫn nhau. Khúc hát thiên thần: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu.
Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái đêm nay ra khỏi nhà để vui đêm hội giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa?
Nếu đêm Chúa sinh ra - đêm hội Giáng Sinh là dịp để người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng Sinh làm cho người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người.
Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng Sinh phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an.
Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng Sinh, thờ phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa.
Xin kính chúc các bạn MỘT ĐÊM AN BÌNH, vì chúng ta là những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm".
95. Tìm kiếm
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại sau khi đã tìm thấy. Người thứ nhất đi tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng sông lững lờ: một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con, thì bày con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ lẽo đẽo theo bày con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mải mê tìm con như thế, anh mỉm cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì, khiến gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên: - Điều quí giá mà tôi đã tìm thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi. “Ngôi Lời đã nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta”. Nhiều khi chúng ta tưởng mình đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế hoạch cứu chuộc. Ngay khi con người phản bội bất trung, Thiên Chúa đã mở lối cho họ quay bước trở về. Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa chan hy vọng của tiên tri Isaia: “Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”.
Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời. Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa: Thánh Gioan viết: “Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con Thiên Chúa”.
Giáng Sinh là mùa tặng quà: “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người”. Đến lượt mình, chúng ta cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu quí, trân trọng như chúng ta đang dâng tặng cho chính Hài nhi Giêsu. Những kẻ nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta. Đó chính là quà tặng mà Hài nhi Giêsu đang mong đợi. Một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.
96. Món quà vô giá
Trong sinh hoạt của đời sống thường nhật, mối tương liên giữa con người được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như lời nói, thư từ, có khi là một cánh hoa hay là một tặng vật nào đó. Nhưng tất cả dù thể hiện dưới bất cứ hình thức nào nó cũng đều có chung một mục đích là diễn tả ý nghĩa của một sứ điệp mà người gởi muốn tỏ bày.
Sứ điệp đó có khi là ước muốn hoà bình của nhân loại trên thế giới gói ghém trong một viên gạch được lấy từ bức tường ô nhục Bá linh mà tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng Chủ tịch Gorbachov của Liên Xô trong cuộc họp thượng đỉnh ngoài khơi đảo Malta vào dịp Giáng Sinh năm 1989.
Sứ điệp đó cũng có khi là một lời mời gọi, một xã hội sống xa lìa Thiên Chúa hãy trở về với chính nguồn sự sống như quyển Tân Ước mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tặng nhà lãnh đạo Liên Xô, Chủ tịch Gorbachov, cũng vào mùa Giáng Sinh năm 1989. Quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống". Đó là tất cả những gì mà Đức Thánh Cha và toàn thể thế giới Công giáo gởi đến cho một xã hội đã từ lâu gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Trải qua hai ngàn năm, Thiên Chúa luôn tặng ban món quà vô giá là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho xã hội, gia đình và mỗi người chúng ta.
* Đối với xã hội:
Tiên tri Isaia và Thánh sử Luca cho chúng ta thấy quang cảnh: Một đoàn dân đang lầm bước trong lầm than, bao cái ác đè lên cổ dân, bao cái gậy đập xuống vai họ, bao ngọn roi của bọn hà hiếp, Thiên Chúa đến để bẻ gẫy trong ngày Con Ngài chào đời. Người Con đó đã bao phủ vinh quanh Thiên Chúa trên các mục đồng đang vất vả thức thâu đêm canh giữ đoàn chiên và tất cả lớp dân lao động sống trong bóng tối. Người là thủ lãnh của họ và Người sẽ kiến tạo một xã hội an bình trên nền tảng chính trực, xã hội ấy sẽ tồn tại mãi mãi.
* Đối với gia đình:
Biết bao gia đình cô đơn, nghèo khó đang mang gánh nặng, chẳng hạn như trường hợp của Đức Mẹ và Thánh cả Giuse, mặc dầu nghèo khó và Đức Mẹ đã tới ngày "mãn nguyệt khai hoa", vẫn sẵng sàng lên đường về cố hương để khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh của nhà cầm quyền. Nô đơn đến nỗi cố hương Belem không còn bà con thân thích nào đón nhận. Nghèo túng đến nỗi không có tiền mướn được một chỗ trú đêm, đành sống thân phận của kẻ hành khất, ra đồng tìm nương thân nơi hang xúc vật. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong cái gia đình nghèo khó ấy, Ngài không nổi loạn chống đối, chỉ biết vui sống trong hy sinh như Maria và Giuse, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của họ, đưa lại vinh quang Thiên Chúa và bình an cho họ.
* Đối với cá nhân:
Sống trong một thế giới đầy dẫy những bất công, chỉ lo tìm hưởng thụ mà lãng quyên hoặc xa lìa Thiên Chúa. Sự xuất hiện của Con Thiên Chúa thật là một món quà tuyệt vời; Người là cố vấn kỳ diệu, dạy chúng ta từ bỏ lối sống vô đạo và ham muốn trần tục, thoát khỏi mọi điều bất chính, thanh luyện chúng ta tiết độ, công bình và nhân ái ở đời này, nhờ đó chúng ta là dân riêng của Người. Người là Cha muôn thuở của chúng ta. Người đã tự hiến chịu chết để cứu chuộc chúng ta, ban cho chúng ta niềm hoan hỷ. Chúng ta sẽ hân hoan trước nhan Người, như thiên hạ hoan hỷ trong mùa gặt bội thu.
Chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã tặng ban món quà vô giá ấy cho xã hội, gia đình, và từng người chúng ta.
Phần chúng ta, là những người của ngàn năm thứ ba, chúng ta có thái độ nào khi chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu trong hang Belem? Chúng ta có biết đón nhận tặng ân của Thiên Chúa với tâm hồn đơn sơ như các mục đồng năm xưa, hay chúng ta lại trở thành khách bàng quang, thành những người tôi tớ mà khi chủ đến thì chẳng thèm tiếp rước (Jn 11). Để rồi chỉ có đêm lạnh lùng băng giá, chính đêm ấy đã đón tiếp Người đến giữa nhân loại.
Lạy Chúa, Chúa đã trao ban cho chúng con tất cả, nhưng chúng con biết lấy gì dâng lại cho Chúa và anh em chị em chúng con? Chúng con xin lấy chính Tình Yêu của Con Chúa mà chia sẻ những thống khổ anh chị em chung quanh chúng con đang gặp phải. Xin cho chúng con biết lấy Lời Chúa làm quà tặng cho những ai đang đói khát trong tăm tối tội lỗi, để ánh sáng huy hoàng Giáng Sinh của Chúa làm cho con tim họ bừng cháy trong an bình và hạnh phúc. Ước chi niềm vui Giáng Sinh ở cùng chúng con luôn mãi. Amen.
97. Ánh sáng nào soi chiếu trong ta?--Ga 1,1-18
Bài mở đầu Phúc Âm thánh Gioan phong phú đến nỗi đã làm đề tài cho không biết bao sách vở dày cộm. Nếu đọc với sự chăm chú và niềm kính trọng như khi người ta bước qua ngưỡng cửa một người mời mình vào nhà, thì người ta hô hấp ngay cái bầu không khí của toàn cuốn Phúc Âm thánh Gioan. Ở đây ta thấy sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, ta gặp đề tài chứng tá và sự rao giảng về việc con người được nâng lên hàng làm con Thiên Chúa nhờ Con Một Người đã đến và ngự giữa chúng ta. Danh từ ánh sáng lặp đi lặp lại nhiều nhất. Tương tự như ánh sáng đối với sinh vật, Thiên Chúa là nguồn chân lý và sự sống cho con người. Người là ánh sáng ở một trình độ cao hơn ánh sáng tự nhiên bội phần. Ánh sáng này cũng là một hồng ân Chúa ban cho vũ trụ vật chất, trở nên dấu hiệu của cái thực tại thiêng liêng cao trọng là làm cho con người đạt tới một trình độ ở đó nó có thể nói tới Chân Lý sung mãn, đến sự sống vĩnh cửu. Lễ Giáng Sinh khởi đầu một tấn bi kịch. Tấn bi kịch ấy đặc biệt là của dân Do Thái, song còn tiếp tục diễn ra nơi mỗi người. Ánh sáng đã đến nơi người nhà của mình, nhưng nhiều người đã không tiếp nhận ánh sáng. Bóng tối đã không thể và hiện không thể nào thắng được nó nhưng bóng tối vẫn là một mối đe dọa đáng sợ giữa lòng nhân loại. Ánh sáng Đức Kitô đến tiêu diệt tối tăm như thế nào?
1) Đức Kitô đánh tan mê muội.
Tự mình chúng ta hầu như không biết gì về Thiên Chúa. Đấng Con Một ngự trong lòng Chúa Cha, chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa. Không có Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ sống trong một sự vô minh dày đặc. Không trực giác nào về Chúa, dù đẹp đẽ nhất, đã có thể vượt qua ranh giới của con người, bởi vì cái cốt yếu nằm bên kia ranh giới ấy. Trí khôn nhân loại nào đã dám nói đến việc trở nên con cái Thiên Chúa như Phúc Âm bao giờ đâu? Một câu hỏi: chúng ta có tỉnh táo để không cho bóng tối che mờ ánh sáng chăng? Đâu là những điều thu hút tư tưởng và khả năng yêu thương của ta? Người Kitô hữu ngày nay khám phá lại được tầm quan trọng của cái thực tại trần thế. Nhưng họ có lưu tâm đủ về đòi hỏi tôn giáo sâu xa mà chỉ trong Đức Kitô mới tìm được giải đáp hay không? Thời đại ta, hay đúng hơn Giáo Hội chúng ta cần phải nhớ rằng không có Đức Kitô, mà ta phải tìm kiếm như một cùng đích, thì mê muội như một màn sương mù sẽ lại phủ xuống trên thế gian. Ánh sáng tiếp tục chạm trán với tối tăm và cái giá trị vẫn còn sống động trong Giáo Hội, và trong đời sống mỗi người chúng ta, ấy là giá trị chiêm niệm.
2) Đức Kitô soi sáng cho ta biết đánh giá con người.
Khi tuyên bố mọi người đều được gọi làm con Thiên Chúa, Đức Kitô mở ra cái bề sâu của những tương quan liên kết con người với nhau. Những tương quan ấy có một định luật là bác ái, là tình yêu. Tình yêu anh em giữa người và người làm nên sợi dây đỏ rực, tỏa sáng nếu được đặt dưới luồng điện của tình yêu Thiên Chúa.
Ai yêu anh em, kẻ ấy ở trong ánh sáng (lGa 2,10). Một tình yêu đích thật giữa người Kitô hữu với nhau và của người Kitô hữu với mọi người, đó phải là ánh sáng mà họ có sứ mệnh mang đến cho thế gian hôm nay. Trong mức độ mà nó tinh tuyền, nó sẽ gặp phải sức chống đối của tối tăm, nhưng kẻ nào đón nhận nó, sẽ đi trên con đường trở nên con cái Chúa.
98. Chúa giáng trần--Ga 1, 1-18
"Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa." Chưa từng có một lời văn nào diễn tả về cuộc nhập thể của Chúa Giêsu một cách hào hùng và trang trọng như thế. Một Thiên Chúa toàn năng đã mặc lấy xác phàm loài người chúng ta. Ngài là sự sống và là ánh sáng thế gian (Ga 1,4). Thánh Gioan nói cho ta biết trong và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta về tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Thế nhưng ở ngay giữa đoạn Thánh Kinh huyền nhiệm đó, chúng ta đọc thấy câu, "Ngài đã đến nhà các gia nhân Người và đã không được đón nhận." Sau đó, Thánh Gioan lại tiếp, "Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của Người Con Một đầy ân sủng và chân lý" (Ga 1,14). Ở đây, Thánh Gioan nhấn mạnh về mầu nhiệm tình thương bao la của Thiên Chúa. Cho dù có bị chối từ, Ngài vẫn đến để trao ban tình thương cho chúng ta. Thánh Gioan đã viết tiếp rằng những ai đón tiếp Ngài thì Ngài ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta hãy tự đặt ra cho mình một câu hỏi, "Làm sao để chúng ta có thể được quyền làm con Thiên Chúa? là công dân Nước Trời?" Câu trả lời chúng ta tìm thấy ngay trong Phúc Âm.
"Hãy để những trẻ nhỏ đến cùng Thầy". Chúa Giêsu đã phán với các môn đệ. "Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng. Hãy tin Ta, nếu ai không đón nhận Nước Thiên Chúa giống như chúng thì chẳng được vào Nước Trời" (Lc 18:16-17). Thật đáng tiếc là trong cuộc sống thực tế, chúng ta đang phải cảm nghiệm những cực đoan của xã hội. Mừng Giáng Sinh không có nghĩa là chúng ta được giải thoát khỏi cái thế giới đầy hỗn độn này. Hôm nay chúng ta tụ tập nơi đây để chia sẻ niềm vui và nỗi khổ của nhau. Chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện của những thử thách và gian nan trong cuộc sống của mỗi cá nhân. Có lẽ một số các bạn bây giờ đang phải khổ não phiền muộn. Một số người trong chúng ta đang suy tư về sự hiện hữu của mình. Các nước đang chiến tranh với nhau. Nhiều người đang phải đói khổ. Những tên khủng bố đang ngầm phá. Các nước lớn đang dự trữ vũ khí nguyên tử để hăm dọa nhau. Thế nhưng giữa những điều tiêu cực đó, sứ điệp của Giáng Sinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa sẽ toàn thắng và sự dữ không thể thắng được Ngài. Không bao giờ!
Trong giây phút linh thiêng của ngày Lễ Giáng Sinh, các bạn hãy để cho tâm hồn mình mở rộng để bình an của Chúa đổ tràn vào. Hãy trở nên những trẻ nhỏ. Hãy thưa tiếng "Xin Vâng" với Thiên Chúa. Ngài sẽ làm tất cả. Ngài sẽ tẩy rửa và chữa lành chúng ta, và ban cho chúng ta sự sống mới. Ngài còn chỉ cho chúng ta con đường công chính dẫn đến ơn cứu độ. Ngài sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.
Khi chúng ta còn đang nói về câu truyện Giáng Sinh, thì có lẽ chúng ta còn phải tưởng nghĩ đến một phần của câu truyện Giáng Sinh nữa là phần Đức Maria đang ngồi trên lưng con lừa đi bên cạnh Thánh Giuse trên con đường gồ ghề lởm chởm từ Galilêa đến Giuđêa. Khi đến Bethlehem, thì cả hai đều phải đối diện với một sự tủi khổ đó là cái nghèo. Chuyện xảy ra cách đây hai ngàn năm cũng đang xảy ra ngày nay. Nếu các bạn có tiền, các bạn có thể tìm được chỗ ở khách sạn, cho dù khách sạn đó có ghi câu "hết chỗ" (No Vacancy). Thánh Giuse và Đức Mẹ đều không có tiền nên cả hai đã đi ra cánh đồng và ở trọ trong một hang bò lừa. Sau khi sinh ra, Gia Đình Thánh Gia còn chưa được ổn định. Vua Hêrôđê đã lùng bắt Chúa Giêsu để giết, và cả ba Đấng Thánh lại phải chạy trốn sang Ai-Cập. Những chuyện bất công, lừa dối, giết chóc, kiêu căng, nghèo khổ... tất cả đều có đầy đủ trong câu truyện Giáng Sinh. Giáng Sinh không chỉ là một cuộc vui mừng đượm bằng những cây thông, gói quà, kẹo ngọt... nhưng là một sứ điệp rằng Chúa Giêsu đã xuống thế gian với chúng ta để chia sẻ cho chúng ta tình yêu bao la của Ngài. Tình yêu của Ngài ở với chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Xin các bạn hãy lãnh nhận lấy Chúa Hài Đồng để Ngài ban cho các bạn sức mạnh và tình yêu để các bạn có thể chia sẻ những ơn ấy cho người khác.
Xin kính chúc tất cả các bạn được an hưởng một mùa Giáng Sinh đầy tràn ơn bình an và hạnh phúc của Chúa Hài Đồng!
99. Giáng sinh: Nhập thể--Ga 1, 1-18
“Thiên Chúa là Tình yêu: chính bản chất của Thiên Chúa là Tình yêu. Khi thời gian đã viên mãn, qua việc sai Con Một Ngài và Thánh Thần của Tình yêu, Thiên Chúa đã bày tỏ bí mật sâu xa nhất của mình: chính bản thân Ngài là một sự trao đổi đời đời của tình yêu Cha, Con, Thánh Thần, và Ngài muốn chúng ta thông phần vào tình yêu này”.
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: Sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô. Sự Giáng sinh của “Đấng Cứu Chuộc thế giới là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, và chúng ta không thể được cứu độ nhờ Danh nào khác dưới gầm trời này”.
Sự Nhập Thể đó được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay: “Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Theo tiếng Hy Lạp chữ “cư ngụ giữa chúng ta” có nghĩa là: “Thiên Chúa cắm lều của Ngài ở giữa chúng ta”. Biến cố vĩ đại này của Thiên Chúa đi vào lịch sử nhân loại trong con người của Hài Nhi Giêsu được gọi là sự Nhập Thể: Thiên Chúa mang lấy thân xác con người.
Nhà huyền bí Kitô giáo An Độ, Sadhu Sundar Singh, đã diễn tả mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu Kitô qua câu chuyện được kể lại sau đây:
Xưa kia một ông vua có vị cố vấn, the Vizier, một người rất hiểu biết và thánh thiện. Đang khi hành hương trên đất thánh ở Palestine, the Vizier đã bị xúc động sâu xa vì câu chuyện của Chúa Giêsu Kitô. Ông đã xin trở thành một Kitô hữu, đã tin vào Đấng Cứu Thế, là Đấng đã đến thế gian để cứu chuộc những con người tội lỗi.
Khi trở về, vua đã thắc mắc và hỏi ông rằng: “Nếu tôi muốn làm bất cứ điều gì, tôi truyền lệnh cho đầy tớ của tôi thì việc đó được thi hành ngay lập tức. Vậy tại sao vị vua của các vua có thể cứu nhân loại bởi một lệnh truyền lại phải đích thân đến trần gian này và nhập thể làm người để làm gì?” Ông cố vấn xin vua cho một ngày ân huệ trước khi trả lời câu hỏi. Ông cho mời một người thợ mộc rất tài giỏi vào và yêu cầu phải làm một con búp bê, rồi mặc quần áo vào giống y đứa con trai một tuổi của nhà vua, và hôm sau phải mang nó đến cho ông.
Hôm sau, vua và ông cố vấn đang chèo thuyền đi chơi chung với nhau, vua yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi. Cùng lúc đó, người thợ mộc cũng đã đến và đứng ở trên bờ sông với con búp bê hình nộm con trai của vua. Đứng dưới thuyền, vua trông thấy và nghĩ rằng đó là con trai của mình. Theo như những hướng dẫn đã được ông cố vấn dặn dò trước, người thợ mộc để cho con búp bê hình nộm rơi xuống nước. Thấy vậy, vua bèn lao xuống để cứu đứa bé đang bị chết chìm. Sau một lúc, ông có vấn mới nói: “Thưa đức vua, ngài không cần phải nhẩy xuống nước. Ngài ra lệnh cho quần thần làm không được sao? Tại sao chính ngài phải đích thân nhẩy xuống vậy?” Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Đó chính là câu trả lời tại sao, để cứu nhân loại, Thiên Chúa toàn năng đã nhập thể hóa thành con người thay vì thực hiện nó chỉ bằng một lời truyền mà thôi.
“Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. Giáo Hội dùng từ “Nhập Thể” để nói lên sự kiện Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính loài người, để thực hiện ơn cứu độ ngay trong bản tính đó. “Nơi Chúa Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Với sự Nhập Thể của Người, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã nên một với mọi người”. Đó là cách biểu lộ tuyệt hảo tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
100. Giáng sinh: Hoà Bình--Ga 1, 1-18
Với mầu nhiệm xuống thế làm người, Thiên Chúa đã chia sẻ tất cả nhân tính của chúng ta, để chúng ta cũng được mời gọi tham gia vào thần tính của Ngài như Công đồng Vatican II quả quyết: “Người bày tỏ cho con người thấy bản chất đích thực của chính mình và khám phá ra ơn gọi cao cả của mình”.
Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta sống ơn gọi này theo gương Chúa Giêsu: “Anh chị em hãy có với nhau những tâm tình đã có nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài, với thân phận thần linh, đã không khư khư giữ lấy bậc ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã để mình ra hư vô, nhận lấy thân phận nô lệ và trở thành giống như một người. Và khi cư xử như một người, Ngài còn hạ mình hơn nữa bằng cách vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá”.
“Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị hoàng tử này lại thương yêu hòa hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc. Ông này nuôi mối căm thù với vua Fanxica bằng một mối thù truyền kiếp. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua độc ác biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em. Sau khi hay tin em mình bị mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua độc ác giăng bẫy bắt được. Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về người kia.
Theo thông lệ hằng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng. Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khỏe mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất. Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu me… Nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết. Cuối cùng bằng sức mạnh và sự khéo léo, đấu thủ cao người hơn đã vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra một khuôn mặt rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai anh em ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là anh em ruột thịt. Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hòa chung với máu. Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người”.
Chính ma quỉ thù nghịch của Thiên Chúa đã gây nên mọi thứ tội lỗi trên trần gian. Ma quỉ đã đeo cho con người đủ thứ mặt nạ ác thú để chém giết lẫn nhau, và không còn nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa nữa.
Chúa Giêsu Giáng sinh, Nhập Thể xuống trần gian để lột mặt nạ ác thú ra khỏi con người, để họ nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa, là anh chị em với nhau. Ngài đến để cứu chúng ta thoát khỏi vòng tội lỗi, cạm bẫy gian tà của ma quỉ, khỏi lòng hận thù oán ghét nhau như Công đồng Vatican II diễn tả: “Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đã thể hiện trong việc Con Một Thiên Chúa đã được Chúa Cha sai đến thế gian, để một khi hóa thân làm người, Người tái sinh và đoàn tụ toàn thể nhân loại nên một bằng cách cứu chuộc họ”.
Bước vào thế kỷ 21, chúng ta đã chứng kiến những cuộc khủng bố và chiến tranh tàn bạo với những vũ khí tinh vi và kỹ thuật cao hơn. Ước gì chúng ta không đầu hàng bạo lực và oán thù. Nhưng sẽ là những sứ giả của hòa bình và tình yêu. Niềm vui Giáng sinh chính là niềm vui được giải thoát khỏi sự hận thù do ma quỉ mưu đồ.
101. Lúc nào cũng có chỗ cho thêm một người nữa
Một cậu bé chín tuổi tên là Wally. Tuy là chín tuổi nhưng cậu chỉ mới học tới lớp hai. Cậu ta to và cao hơn các bạn đồng lớp, tuy thế cậu là một người vụng về và học dốt. Dầu vậy, Wally luôn tỏ ra là một cậu bé luôn sống hy vọng, có thiện chí, luôn vui tươi, biết biện hộ cho sự thiệt thòi, và cũng là người được các bạn mến. Cha mẹ cậu đã khuyến khích con mình tham gia vào hoạt cảnh Giáng Sinh của giáo xứ. Wally muốn đóng vai một chú bé chăn chiên. Thay vì đó, cậu đã được chọn để đóng vai người chủ nhà trọ mà sẽ từ chối Thánh Giuse. Trong lúc tập dượt, Wally đã được dặn dò và chỉ cách để mà cứng rắn với Thánh Giuse. Khi hoạt cảnh được bắt đầu, không có ai gây được nhiều sự chú ý cho bằng Wally. Cậu đã mở tung cánh cửa nhà khách trọ và hỏi một cách hăm dọa, "Muốn gì đó?" "Chúng tôi tìm chỗ để trọ," Thánh Giuse trả lời. "Tìm chỗ khác đi," Wally trả lời một cách cộc cằn. "Trong này hết chỗ rồi." "Làm ơn đi ông chủ tốt," Thánh Giuse nài nỉ, "Đây là vợ của tôi, Maria. Bà ấy đang có thai và rất mệt. Bà cần một chỗ để nghỉ." Sau đó là một khoảng cách thinh lặng trong khi Wally nhìn vào Maria. Người nhắc kịch đứng ở bên trong nhắc Wally cái câu kế tiếp: "Không có chỗ, đi chỗ khác đi!" Tuy vậy, Wally vẫn đứng thinh lặng. Sau đó cặp vợ chồng bị ruồng bỏ quay đầu ra đi. Thấy vậy, cặp lông mày của Wally bỗng nhíu lại có vẻ suy tư, và cặp mắt cậu bắt đầu rơi lệ. Bất chợt, cậu la lên, "Đừng đi! Hai người có thể trọ ở phòng của tôi."
Chúa Giêsu đến trần gian để mở ra cánh cửa trường sinh cho chúng ta, và mời gọi chúng ta hãy chia sẻ mối quan hệ giữa Ngài và Chúa Cha. Trong và qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào trong Ngài, chỗ mà Ngài sống. Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta đi vào Nước Ngài, chỗ mà Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta từ muôn thuở, chỗ mà luôn luôn rộng rãi cho tất cả mọi người.
Đấng Tạo Hóa của vũ trụ và nguồn gốc của mọi sự sống muốn chúng ta chia sẻ cuộc sống của Ngài. Đây là một điều tuyệt diệu mà trí óc chúng ta không thể hiểu thấu nổi. Đây là một điều phi thường vượt hơn khả năng của sự suy tư hạn hẹp của chúng ta có thể nắm được. Tuy thế, lời mời gọi đó có ý là để gợi lên một sự trả lời của chúng ta, một sự đáp lời bằng đức tin. Thiên Chúa mong muốn chúng ta đáp lời "Yes!" bằng đức tin.
Lập đi lập lại trong các Phúc Âm, Chúa Giêsu quả quyết với chúng ta đó là linh đạo dẫn chúng ta đến sự sung mãn; đó là cách thức Thiên Chúa tỏ ý muốn của Ngài cho chúng ta; đó là cách mà Đấng toàn năng muốn chữa trị vết thương của chúng ta; làm cho chúng ta nên hoàn hảo, và ban cho chúng ta sự bình an. Nói cách khác, Thiên Chúa yêu thương chúng ta! Một cách thực tế hơn, Đấng Toàn Năng muốn chúng ta đạt được hạnh phúc tuyệt đối. Đó là sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Đó là sứ điệp của ngày kỷ niệm Chúa Giáng Sinh. Đó là Tin Mừng Chúa Giêsu đem đến thế giới chúng ta.
Mỗi năm, mỗi khi mùa Giáng Sinh đến, đa số chúng ta thường hay bận rộn với những việc sửa soạn. Chúng ta len lỏi qua các khu shoppings với cái danh sách mua sắm. Chúng ta sửa soạn cây Noel. Chúng ta bị lôi cuốn bởi những bài Thánh ca. Chúng ta trang trí nhà cửa với đèn và giây kim tuyến. Chúng ta bàn bạc để tổ chức bữa ăn thịnh soạn. Đúng, tất cả những cái đó là điều tốt, nhưng nếu chúng ta không cẩn thận, thì chúng ta sẽ đánh mất và quên đi mục đích và nhân vật chính của Mùa Giáng Sinh.
Sứ điệp Giáng Sinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, và qua đó chúng ta có thể làm được nhiều chuyện. Trong con mắt của Chúa, chúng ta là những con người quí báu và giá trị. Trong và qua Chúa Giêsu Kitô, qua hang đá Bêlem, qua bờ biển Galilê, qua những ngọn đồi Palestina, qua biến cố biến hình, qua giếng Giacób, qua bữa Tiệc Ly, qua đồi Calvariô, qua ngôi mộ trống, Thiên Chúa nói với chúng ta một điều "Bây giờ con có thấy Cha yêu thương con dường nào chưa?"
Qua máng cỏ Bêlem, Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy chia sẻ cuộc sống của Ngài; trở nên một với Ngài. Chúng ta nghĩ sao về chuyện này? Chúng ta sẽ trả lời làm sao? Câu trả lời, dĩ nhiên, là đi theo Chúa Giêsu. "Ta và Cha Ta là một", Chúa Giêsu phán với các tông đồ (Gn 10:30). Sau đó Ngài tiếp, "Nếu Ta không làm việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Còn nếu Ta làm các việc đó, thì dù các ngươi không tin Ta, ít ra cũng hãy tin các việc đó" (Gn 10:37-38).
Để chúng ta có thể chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta cần phải bắt chước Chúa Giêsu biết thi hành thánh ý của Chúa Cha. "Con người đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ" (Mk 10:45). Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta cái chìa khóa để mở cánh cửa dẫn đến sự sống trường sinh, Ngài phán, "Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến viếng thăm" (Mt 25:37-38).
Chúa Giêsu đang nói với chúng ta là chúng ta sẽ không thể nào đạt được sự sống trường sinh, hưởng kiến Thiên Chúa, nhận ra giá trị toàn diện của mình, cứu chữa vết thương lòng, nếu chúng ta không biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa nơi người khác.
Nguyện xin ơn phúc của Mùa Giáng Sinh được âm vang trong trái tim và trong gia đình chúng ta hôm nay! Nguyện xin cho đức tin của chúng ta được đáp trả sứ điệp Giáng Sinh như là một bài hát thánh thót yêu thương vòng quanh thế giới! Nguyện xin cho chúng ta trở nên những người tiền phong biết đem Tin Mừng đến muôn dân!
102. Sứ điệp Giáng sinh
Con người đầu tiên Ađam trở nên hữu thể có sự sống, còn Ađam cuối cùng trở nên Thánh Thần ban sự sống. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trích lại lời thơ Corintô (1Cor 15,45), đó là những lời của thánh Phaolô Tông đồ tổng kết mầu nhiệm nhân loại được Chúa Kitô cứu chuộc, một mầu nhiệm được giấu ẩn trong chương trình đời đời của Thiên Chúa, một mầu nhiệm theo một nghĩa nào đó đã trở thành lịch sử với sự Nhập Thể của Ngôi Lời Hằng Hữu của Thiên Chúa Cha, một mầu nhiệm mà Giáo Hội đang sống một lần nữa với niềm xúc động sâu xa trong Lễ Giáng Sinh.
Ađam là con người đầu tiên, Chúa Kitô là Thần Khí ban sự sống, những lời của thánh Tông đồ Phaolô giúp chúng ta nhìn sâu xa hơn, giúp chúng ta nhìn nhận nơi Con Trẻ giáng sinh tại Bêlem là Con Chiên đã bị hiến tế và là Đấng mạc khải ý nghĩa của lịch sử. Lúc Người giáng sinh, thời gian và vĩnh cửu gặp nhau, Thiên Chúa sống trong con người và con người trong Thiên Chúa.
Con người đầu tiên Ađam trở thành hữu thể có sự sống, thiên tài bất tử Michel Ange đã vẽ ra trên trần nhà nguyện Sixtin giây phút Thiên Chúa Cha trao ban hồng ân sự sống cho con người đầu tiên và làm cho nó trở thành hữu thể có sự sống. Giữa ngón tay của Thiên Chúa và ngón tay của con người đưa ra hướng về nhau và gần như là chạm vào nhau nơi mà cách đó xem ra như có một lằn lửa vô hình, Thiên Chúa thông truyền cho con người sức mạnh của chính Ngài khi tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài và giống như Ngài.
Thần Khí này là phẩm vị duy nhất của mọi hữu thể con người, của khát vọng vô cùng của nhân tính hướng về cái vô cùng. Tâm tư chúng ta ngày hôm nay hướng về chính lúc đầu tiên của mầu nhiệm không thể hiểu thấu được, giây phút của khởi đầu sự sống con người trên mặt đất. Khi chúng ta chiêm ngắm Con Một của Thiên Chúa Cha trở thành con người, dung mạo đời đời của Thiên Chúa được phản chiếu trong dung mạo của Con Trẻ. Con người đầu tiêm Ađam trở thành trở thành hữu thể có sự sống do bởi lằn lửa Thần đặt vào bên trong con người, mà con người là một hữu thể có trí khôn và sự tự do, và như thế có khả năng chịu trách nhiệm quyết định đối với chính mình và vận mệnh riêng của mình.
Bức họa nổi tiếng của nhà nguyện Sixtin được tiếp tục với cảnh về tội nguyên tổ, con rắn cuộn tròn theo thân cây thuyết phục nguyên tổ chúng ta ăn trái cây đã bị cấm. Thiên tài của nghệ thuật và chiều sâu của biểu tượng của Kinh Thánh được hòa nhập tuyệt vời với nhau để gợi lên giây phút bi thảm đó, khởi đầu của một lịch sử phản loạn, tội lỗi và đau buồn từ phía nhân loại. Nhưng thử hỏi, Thiên Chúa có thể bỏ quên công việc do tay Ngài tạo nên tuyệt tác của tạo vật hay không? Chúng ta biết được câu trả lời của đức tin như sau: "Khi thời giờ đã nên trọn, Thiên Chúa Cha đã sai Con Ngài xuống sinh ra bởi Người Nữ, sinh ra trong lề luật để cứu chuộc những ai sống dưới lề luật, ngõ hầu chúng ta có thể trở nên dưỡng tử của Ngài".
Những lời của thánh Tông đồ Phaolô vang lên với sự hùng hồn đích thực khi chúng ta chiêm ngắm biến cố đáng phục Giáng Sinh trong năm nay. Nơi Con Trẻ mới sinh nằm trong máng cỏ, chúng ta chúc mừng Ađam mới trở thành Thần Khí ban sự sống cho chúng ta. Trọn cả lịch sử của thế giới hướng về Người, Đấng được sinh ra tại Bêlem, ngõ hầu thiết lập lại niềm hy vọng cho từng người nam, nữ trên mặt đất này.
Từ máng cỏ, đôi mắt của chúng ta hôm nay nhìn về toàn thể nhân loại, một nhân loại được mời gọi lãnh nhận hồng ân của Ađam thứ hai, dù còn phải lãnh nhận phần gia tài tội lỗi của Ađam thứ nhất. Thử hỏi, có phải lời thưa không đầu tiên đó tiếp tục làm méo mó dung mạo của nhân loại hay không? Những trẻ thơ phải gánh chịu bạo lực, bị hạ nhục và bỏ rơi. Những người nữ bị hãm hiếp và bị lạm dụng khai thác. Những người trẻ, những người lớn và những vị cao niên bị loại ra ngoài xã hội. Những lớp người khốn cùng bị đi đày và đi tỵ nạn, bạo lực và xung đột tại biết bao nơi trên thế giới.
Tôi lo âu nghĩ đến Thánh Địa, nơi mà bạo lực tiếp tục làm cho con đường khó khăn dẫn đến hoà bình bị nhuốm máu. Và có thể nói gì về những Quốc gia mà giờ đây tôi đặc biệt nghĩ đến Indonesia. Có thể nói gì về những Quốc gia nơi mà những anh chị em chúng ta trong đức tin đang phải trải qua những giây phút khó khăn của thử thách và đau khổ. Chúng ta không thể không gợi lại hôm nay rằng, những bóng tối sự chết chóc đang hăm dọa mạng sống con người ở mọi hạng tuổi và đặc biệt đang hăm dọa mạng sống con người vào ngay lúc khởi đầu và lúc kết thúc tự nhiên của nó. Càng trở nên mạnh mẽ hơn nữa, cám dỗ muốn làm chủ sư #hết bằng cách làm cho nó đến sớm hơn dường như thể chúng ta là người chủ của mạng sống mình và mạng sống của những kẻ khác. Chúng ta đang đối diện với những dấu chỉ báo nguy của một nền văn hoá sự chết đang hăm dọa nghiêm trọng tương lai.
Tuy nhiên, cho dù bóng tối xem ra dày đặc đến mấy đi nữa, niềm hy vọng của chúng ta vào sự chiến thắng của ánh sáng đã xuất hiện trong đêm Thánh tại Bêlem còn mạnh mẽ hơn. Quả thật, có biết bao điều tốt đã được thực hiện một cách âm thầm bởi những con người nam, nữ hàng ngày sống đức tin, chu toàn công việc và dấn thân phục vụ gia đình của họ và phục vụ điều thiện hảo của xã hội. Cũng thật là khích lệ vào những cố gắng của những ai, kể cả những con người nam, nữ trong đời sống công cộng, đang cố gắng cổ võ cho sự tôn trọng nhân quyền của mỗi một người và cổ võ sự gia tăng tình liên đới của các dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau, ngõ hầu món nợ của những quốc gia nghèo nhất được giải tha, ngõ hầu hiệp ước hòa bình trong danh dự được đạt đến giữa các quốc gia đang xung đột với nhau thật bi thảm.
Với các dân tộc khắp nơi trên thế giới đang can đảm tiến đến các giá trị dân chủ, sự tự do, sự tôn trọng và chấp nhận lẫn nhau. Với tất cả mọi người thiện chí bất luận thuộc về nền văn hoá nào, sứ điệp vui mừng của Mùa Lễ Giáng Sinh hôm nay được gởi đến cho họ là: "Hoà bình dưới thế cho con người được Thiên Chúa yêu thương".
Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã giáng sinh tại Bêlem vì chúng con, Chúa đã yêu cầu nơi nhân loại đang bước vào ngàn năm mới hãy tôn trọng từng người, nhất là những kẻ bé mọn và những người yếu đuối. Chúa yêu cầu chấm dứt mọi hình thức của bạo lực, chấm dứt chiến tranh, đàn áp và mọi tấn công vào sự sống.
Lạy Chúa Kitô mà chúng con hôm nay chiêm ngắm nằm trong vòng tay của Mẹ Maria, Chúa là lý do cho niềm hy vọng của chúng con. Thánh Phaolô đã nói với chúng con rằng, điều cũ đã qua rồi, và đây là điều mới đã đến. Trong Chúa và chỉ trong Chúa mà thôi nhân loại được ban cho cơ may để trở thành tạo vật mới.
Lạy Con Trẻ Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa vì món quà này, nguyện chúc tất cả Lễ Giáng Sinh đầy hạnh phúc.
103. Những điều bất ngờ
Nhìn vào hang đá Bêlem, quả thực chúng ta thấy được nhiều điều bất ngờ.
Đúng thế, Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt vời thế mà lại sinh ra tại chuồng bò, là một nơi vừa bẩn thỉu lại vừa hôi hám. Là Đấng tạo hoá quyền năng thế mà giờ đây lại nằm giữa đám chiên bò. Là bánh bởi trời thế mà giờ đây lại ngủ yên trên máng cỏ. Ngày xưa, người Do Thái đã thờ lạy con bò vàng và người Ai Cập thì thờ lạy con lừa. Loài người đã quỳ gối trước những con vật và coi những con vật ấy như là thần minh, như là Thiên Chúa, thì giờ đây để sửa lại lỗi phạm ấy, bò và lừa đã có mặt tại hang đá, phả hơi ấm cho Hài nhi Giêsu. Phúc Âm đã ghi lại, vì không tìm được chỗ nơi hàng quán, cho nên Ngài đã sinh ra nơi chuồng bò. Hàng quán là nơi gặp gỡ của mọi hạng người, là nơi trao đổi mọi lập trường, mọi quan điểm, là nơi ăn nhậu và du hí. Trong khi đó chuồng bò chỉ là nơi dành cho những kẻ nghèo túng và thấp kém. Nếu như Ngài đã sinh ra trong lâu đài cung điện thì có lẽ người ta đã đón nhận Ngài. Thế nhưng Ngài đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Hơn thế nữa, Hài nhi Giêsu, Đấng đã cho mặt trời toả chiếu trong vũ trụ, thế mà giờ đây lại nhờ tới hơi thở của bò lừa để được sưởi ấm. Đấng đã tô điểm cho những cánh hoa màu sắc rực rỡ, thế mà giờ đây lại trơ trụi giữa đêm đông giá lạnh. Đấng đã dựng nên cả bầu trời trăng sao, thế mà giờ đây đôi tay bé bỏng đang run lên vì gió rét. Là Ngôi Lời của Thiên Chúa, thế mà giờ đây lại thinh lặng và câm nín. Ngài quả thực cô đơn và nghèo túng. Thế nhưng Ngài đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Với vóc dàng của một hài nhi bé nhỏ, Đấng tạo hoá đã đến thăm những tạo vật, nhưng Ngài lại không được nhận biết. Ngài đã đến thăm những người thân của Ngài, nhưng Ngài đã không được họ đón nhận. Và cho đến ngày hôm nay, Ngài vẫn còn là một kẻ lạ mặt ngay giữa căn nhà, ngay giữa gia đình của Ngài. Và như thế Thiên Chúa đã tỏ mình ra ở chính nơi mà chúng ta không hề ngờ tới.
Và sau cùng nếu để ý, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu sinh ra nơi chuồng bò và chết đi trên thập giá. Hang đá và thập giá chính là hai đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Ngài đã chấp nhận hang đá, vì đã không tìm thấy chỗ nơi hàng quán. Ngài đã chấp nhận thập giá bởi vì con người không muốn Ngài làm vua cai trị. Ngay từ lúc khởi đầu Ngài đã nhìn thấy lúc kết thúc. Hang đá không phải là của Ngài và mộ đá cũng không phải là của Ngài. Nơi hang đá Ngài nằm giữa bò lừa, còn trên thập giá, Ngài nằm giữa hai tên trộm cướp. Thế nhưng cũng chính tại hai nơi bất ngờ này mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho chúng ta.
Trong những hoàn cảnh bất ngờ như thế, thì làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Tôi xin thưa, muốn nhận biết Ngài trong những hoàn cảnh không ngờ tới, thì chúng ta cần phải khiêm nhường. Khiêm nhường như Mẹ Maria và Thánh Giuse, khiêm nhường như những mục đồng, bởi vì chỉ có cách quỳ gối và thờ lạy chúng ta mới nhận ra Chúa, nơi hài nhi bé nhỏ trong hang đá Bêlem.
104. Gia đình
Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại. Tin mừng ấy là Đấng Cứu Thế đã ra đời. Nhưng dấu chỉ để nhận diện Người lại thật là khiêm tốn: một trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm nơi máng cỏ. Vậy ai đã bọc tã cho trẻ nhỏ ấy nếu không phải là Mẹ Maria diu hiền bên cạnh Thánh Giuse cần mẫn.
Hoá ra tin mừng trọng đại này lại là tin mừng về một gia đình. Gia đình ấy nghèo đến độ chẳng có một mái nhà lúc sinh con. Cũng vì nghèo mà họ chẳng tìm được chỗ trong quán trọ. Họ chẳng cần có một mái nhà, nhưng lại có mái ấm tình thương. Một gia đình đúng nghĩa, chẳng bù cho những gia đình nhà cao cửa rộng, nhưng có mà như không có, khiến trẻ thơ mất hẳn mái ấm tinh thần.
Gia đình ấy phải sinh con giữa cảnh đồng không mông quạnh, nhưng phải chăng chính ở đó mà vẻ đẹp của gia đình được biểu lộ. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với cõi trời mênh mông, làm rung lên cả tiếng hát thiên thần: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Vẻ đẹp của một gia đình mở ra với mọi người kể cả những kẻ nghèo hèn nhất là các mục đồng. Thật khác xa với đôi tình nhân hôm nào trong vườn địa đàng, khép kín với Thiên Chúa đến độ phải ẩn mình, khép kín với nhau vì những lời phiền hà trách móc và làm cho cả đất đai cũng trở nên gai góc. Vâng, gia đình ấy đã trở thành một tin mừng trọng đại, tất cả cũng chỉ vì Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa họ.
Trong một vở kịch mang tựa đề là “Quỷ ở với người”, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã phác hoạ khuôn mặt một gia đình đang phá sản. Khi mà mối quan hệ gia đình được xây dựng trên đồng tiền, trên tình dục và quyền lực, chứ không phải trên đạo đức. Khuôn mặt gia đình ấy cũng có thể là dự báo về tình trạng nhiều gia đình đang và sẽ xuất hiện trong thời buổi hiện nay.
Nếu nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đặt tên cho gia đình đang phá sản ấy là Quỷ ở với người, thì tôi nghĩ, giải pháp để cứu vãn gia đình chính là Chúa ở với người. Giải pháp ấy khởi đi từ tin mừng về đôi vợ chồng trẻ, sinh con giữa cánh đồng Bêlem ngày xưa. Chúa ở với Người là để Đấng cứu độ đến với mỗi thành viên trong gia đình, mang lấy tâm tư và mặc lấy con người mới theo tinh thần của Người. Chúa ở với người là để cho Người hướng dẫn và chi phối cuộc sống gia đình của chúng ta. Chúa ở với người là để cho mầu nhiệm giáng sinh được trở nên hiện thực trong chính cuộc sống của cá nhân và gia đình. Có Chúa hiện diện trong gia đình và cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, thì bản thân chúng ta mới được bình an, và gia đình chúng ta mới trở thành một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.
105. Những lá thư chết
Cách đây ít năm, một thành phố nước Anh có thanh niên tên là Fred Armstrong. Chàng làm ở bưu điện và người ta gọi chàng là trưởng ban thư chết vì chàng có nhiệm vụ giải quyết những lá thư đề sai địa chỉ hoặc thiếu sót hay khó đọc. Chàng sống trong một ngôi nhà cũ với cô vợ nhỏ nhắn. Một đứa con gái nhỏ và một cậu con trai còn bú sữa. Sau cơm tối, chàng thích phì phèo tẩu xì gà rồi kể cho cả nhà nghe những kỹ thuật mới nhất trong việc khám phá địa chỉ của những cánh thư lạc. Chàng tự coi mình như một người thám tử. Trong khung trời hiền hòa của chàng chẳng có gợn mây mù nào.
Cho đến một sáng kia, cậu con trai của chàng ngã bệnh. Thoạt nhìn thấy đứa bé, bác sĩ có vẻ suy tư. Và chỉ trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ là cục cưng của chàng không còn nữa.
Fred Armstrong buồn bã, tâm hồn chàng tan nát điếng nghẹn. Bà mẹ và cô bé Maria cũng khổ sầu không kém, nhưng họ quyết tự kiềm chế và vui sống với những gì còn lại. Nhưng ông bố thì không vậy. Cuộc đời của chàng bây giờ quả là một cánh thư chết không định hướng. Mỗi sáng đi làm việc như một người mộng du, ai hỏi chàng mới nói, mà nói rất ít. Chàng làm việc trong yên lặng, ăn một mình, ngồi như tượng đá ở bàn cơm, và đi ngủ thật sớm. Nhưng người vợ biết là chàng thức gần trắng đêm, mắt mở thao láo ngó lên trần nhà. Ngày lại ngày, tháng năm qua, tháng chạp đến, chàng càng tỏ ra thờ ơ suy nhược hơn nữa.
Bà vợ cố gắng thuyết phục chồng. Nàng bảo: "Tuyệt vọng như vậy là bất công đối với kẻ chết cũng như với người sống." Nàng sợ thái độ lầm lì đó sẽ đưa chàng tới bệnh viện tâm thần.
Giáng Sinh đã gần tới. Một buổi chiều xám ngắt. Fred đang phân loại thư từ thì thấy có một lá thư dứt khoát là không thể chuyển được. Địa chỉ của người nhận nguệch ngoạc bằng bút chì như sau:
"Kính gởi Ông già Noel Bắc Cực."
Armstrong định xé vất nó vào sọt rác nhưng có một thúc đẩy nào đó khiến chàng mở thư và đọc:
"Ông già Noel thân mến,
Năm nay nhà cháu buồn lắm. Vậy ông khỏi mang quà tới cho cháu nữa. Mùa xuân vừa rồi, thằng cu nhà cháu về trời. Cháu chỉ xin mỗi điều là khi ông tới nhà cháu, ông mang dùm đồ chơi về trời cho em cháu. Cháu để đồ chơi của nó ở gần lò sưởi góc bếp: con ngựa gỗ, cỗ xe lửa và hết mọi thứ khác. Em cháu thích phi ngựa ghê lắm, ông mang hết về cho nó và đừng để gì cho cháu cả. Nhưng xin ông cho ba cháu cái gì để ba cháu giống như hồi trước. Xin ông làm cho ba cháu lại hút xì gà và tiếp tục kể chuyện cho cháu. Cháu nghe ba nói với má là chỉ có "đời đời" mới làm cho ba cháu lành được thôi. Vậy xin ông gởi cho ba cháu một ít cái "đời đời" nhé. Cháu hứa sẽ rất ngoan ngoãn.
Ký tên
Marian."
Tối hôm đó, trên những con đường phố sáng rực đèn. Fred Armstrong rảo bước thoăn thoắt. Vào đến sân nhà chàng bật quẹt châm xì gà. Khi vừa mở cửa, chàng xả một hơi thuốc dài. Làn khói giống như một vòng hào quang quanh đầu hai mẹ con Marian đang trố mắt ngạc nhiên. Chàng lại tươi cười như trước.
***
Cuộc sống của mỗi người chúng ta đều phải trải qua những thăng trầm không thể tránh khỏi. Có những tháng ngày xem ra vô vọng không còn thiết sống. Có những lúc mây mù bao phủ khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối thoát. Đôi khi qúa tuyệt vọng, chúng ta tự hỏi: tại sao Thiên Chúa để xảy ra nhiều đau khổ và bất công như thế? Thực ra, Thiên Chúa không tạo ra đau khổ, cũng không gây ra bất công, bởi vì Ngài là tình yêu thương và là sự công bằng vô biên.
Nhiều khi chúng ta có cảm tưởng Thiên Chúa không nhận lời mình cầu xin. Nhưng chúng ta quên rằng cầu nguyện không phải là xin Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, mà là tự đặt mình trong tư thế sẵn sàng thực thi ý Chúa. Chương trình của Ngài vượt quá trí hiểu hẹp hòi và cái nhìn thiển cận của chúng ta.
Kitô giáo có một nghịch lý rất lớn, đó là kêu gọi con người nhìn vào Thập giá như biểu tượng của hy vọng, nhìn vào đau khổ và cái chết như khởi đầu của ơn phúc. Chắc chắn, Chúa Giêsu không phải là người rao giảng sự chết chóc.
Kitô giáo không phải là đạo của khổ đau. Đức Kitô cũng không tự mình đi tìm cái chết; mãi mãi cái chết ấy vẫn là một bản án bất công của con người dành cho Thiên Chúa. Ngài cũng không đòi chúng ta phải đi tìm thập giá, Ngài chỉ khuyến khích: "Hãy vác lấy thập giá mình mỗi ngày."
Mà kỳ thực, có cuộc sống nào mà không có đau khổ. Có ai thóat khỏi khổ đau? Từ khi Ngôi Hai giáng sinh và cứu chuộc, thập giá đã biến thành nguồn ơn cứu rỗi, cái chết đã trở thành Tin Mừng. Tin Mừng chính là Thiên Chúa luôn yêu thương dìu dắt con người trong mọi nghịch cảnh của cuộc sống.
Từ đây, thất vọng đã bừng sáng lên niềm hy vọng. Những đau khổ của chúng ta sẽ không đi vào quên lãng, nhưng mang lại cho chúng ta niềm hạnh phúc mai sau.
C. Delavigne đã nói: "Sống là chiến đấu mà phần thưởng ở trên trời." Cervatès còn xác quyết: "Ở đâu có đời sống thì ở đó có niềm hy vọng." Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta nhìn thấy hoa trái của hạt giống mình đã gieo vãi. Bên kia những vất vả, mất mát, thử thách đau khổ, người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhìn thấy những ánh sao của niềm hy vọng, như Ba Vua tìm lại ánh sao sau khi lạc mất.
***
Lạy Chúa Hài Đồng, Chúa đã Giáng Sinh để chia sẻ những khổ đau của nhân loại chúng con. Xin cho con đừng bao giờ thất vọng, ngã lòng vì những đau khổ thử thách, nhưng cho con luôn cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương và được lớn lên trong niềm tin tưởng phó thác. Xin ban thêm cho con niềm hy vọng và nâng đỡ con trong cuộc sống. Xin củng cố trong con niềm tin tưởng, lạc quan, để mỗi khi tiếp xúc với con, mọi người sẽ thấy bừng sáng lên niềm hy vọng vào cuộc sống. Amen!