Suy Niệm Lời Chúa CN TN
Chúa là Sự Sống
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
1
Chúa là Sự Sống
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XIII – B
(Mc 5, 21 43)
Sống vui, sống mãi và sống hạnh phúc, nhất là chiến thắng cái chết, không chỉ trong
tư tưởng, nhưng là một khát vọng của con người ở mọi nơi mọi thời. Sự sống lại của
Chúa Giêsu khẳng định, khát vọng ấy thực sự có thể, vì cái chết không phải là một phần
cấu trúc sáng tạo, về nguyên lý là không thể đảo ngược, Chúa là Sự Sống : "Thiên Chúa
không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết..." (Kn 1,13).
Bởi ác quỉ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian (x. Kn 1, 1315), nhưng
Thiên Chúa "sẽ không thí bỏ mạng tôi cho âm phủ" (Tv 16,10). Lời Thánh Vịnh trên
được Chúa Giêsu là đầu và là trưởng tử hoàn tất khi sống lại từ trong cõi chết. Sự chết
dẫn Người xuống mồ, nhưng không tiêu tan. Người đã chiến thắng sự chết. Chỉ có Lời
quyền năng Thiên Chúa Tình Yêu mới đủ mạnh để phá đổ những rào cản của sự chết.
« Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại » là lời tuyên xưng vào sự hiện hữu thực
sự của Thiên Chúa, cho phép chúng ta hát vang lời Alleluia ở giữa một thế giới, bóng
tối tử thần đang đe dọa chúng ta.
Đoạn Tin Mừngthánh Marcô hôm nay như một dạng "phóng sự" được thánh Phêrô
trực tiếp chứng kiến những sự kiện, chúng ta cần đọc với cái nhìn đơn giản mới thấy
được sự phong phú của nó.
Chúa Giêsu đến và đặt tay lên đứa bé
Điều mà Giairô mong đợi nơi Chúa Giêsu là "đến đặt tay lên em bé để nó được khỏi
và được sống" (Mc 5, 23). Thái độ của Giairô thật là ấn tượng. Đường đường là trưởng
hội đường Do Thái, vậy mà ông "sụp lạy và van xin" Chúa Giêsu (Mc 5, 22), ông quên
đi nhân cách, địa vị của mình trước đám đông nhiều người biết ông, ông tiên phong tin
cậy vào Chúa Giêsu. Tất nhiên, vì cô gái diệu, ông làm tất cả. Chúng ta cũng thế, trong lúc ốm đau bệnh tật, vô phương cứu chữa, hy vọng tiêu tan, thì lời kêu cầu vang lên tới Chúa thật tha thiết. Lời van xin của người cha : "Xin Ngài
đến...để nó được khỏi và được sống !" Chúa Giêsu không nói một lời nào, lời trấn an
Giairô cũng không. Đôi lúc Chúa vẫn im lặng đối với lời van xin của chúng ta, khi nhận
lời chúng ta cầu nguyện. Chúa đồng hành và ở với chúng ta, ngay cả khi chưa nhận lời
chúng ta. Ai chạm đến Ta ?
Một câu hỏi cất lên giữa đám đông khiến các môn đệ sửng sốt : "Thầy coi đám đông
chen lấn Thầy tứ phía, vầy mà Thầy con hỏi : Ai chạm đến Ta ?" (Mc 5, 31) Thì ra "có
một người đàn bà bị bệnh" (Mc 5, 25) đã đi lẫn vào trong đám đông đến sau Người. Có
thể bà sợ đến với Chúa trước nhiều người. Sợ họ biết việc mình làm. "Mười hai năm
trời sống với bệnh xuất huyết" (Mc 5, 25), nghe nói về Chúa Giêsu, Đấng đã chữa lành
những bệnh hoạn tật nguyền trong dân, cơ hội tuyệt vời đã đến, bà quyết định chạm tới
áo Chúa.
Phản ứng của Chúa Giêsu không làm bà ngạc nhiên và xấu hổ. Không ai đụng đến
áo Chúa mà Chúa không biết. Trước mặt Chúa, chúng ta không phải là người vô danh,
mất hút giữa đám đông. Chúa thấy chúng ta kêu cầu, cả lúc chúng ta không thể hiện
công khai. Chúa biết tất cả vì Người là Đấng toàn tri, là sức mạnh của Thiên Chúa, là
Sự Sống. Người đàn bà đã nhận lại được sự sống qua việc chữa lành nhờ đụng chạm tới
2
áo Chúa Giêsu (x. Mc 5, 33). Bởi trong chính cuộc đối thoại với người đàn bà nhút nhát
đang tuyệt vọng này, từ việc chữa lành thể xác Chúa ban cho bà ơn cứu độ, bình an và
sức khỏe xác hồn. Dù đến với Chúa thế nào đi chăng nữa, lời thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta : "Bạn
có biết sự hào phóng, ân hạn, nhưng không của các món quà của Chúa Giêsu Kitô"
(2Cr 8, 9). Họ liền chế diễu Người
Những "người nhà" Giairô là những người tốt. Với sự thận trọng, họ sẽ gặp người
cha và báo cho ông biết về cái chết của con gái ông : "Con gái ông chết rồi, còn phiền
Thầy làm chi nữa ?" (Mc 5, 35). Nói thế, không phải họ thiếu lòng tin, nhưng là họ
không thể tưởng tượng được một tình huống đã chết rồi có thể sống lại được. Thoáng nghe lời họ nói, Chúa Giêsu bảo : "Con bé không chết đâu, nó đang ngủ
đó" (Mc 5, 39). Họ thấy nực cười, vì chính lúc Giairô vắng nhà thì con gái ông trút hơn
thở lần cuối. Chúa mời gọi ông Giairô : "Ông đừng sợ, hãy cứ tin" (Mc 5, 36) Giairô đã
tin vào quyền năng chữa bệnh của Chúa. Ông được mời đi xa hơn sự tin tưởng là sống
niềm tin vào Chúa.
Chúa Giêsu muốn chúng ta có một niềm tin sắt đá, một đức tin chuyển núi rời non,
vượt trên sự chết. Kẻ có tội không bao giờ chết trước mặt Thiên Chúa. Người ấy có thể
sống lại nhờ ân sủng Thiên Chúa trao ban, vì Chúa là Sự Sống. "Thiên Chúa không vui
mừng khi người sống phải chết" (Kn 1,13).
Hãy cho em bé ăn
Giairô và vợ ông, cùng với ba tông đồ được Chúa mang theo. Chúa Giêsu không cầu
xin Chúa Cha, không ban một lời chúc lành nào, vì Chúa là Sự Sống. Người có thể trả
lại sự sống cho em bé một cách dễ dàng khi cầm tay nó. Người vẫn cầm tay chúng ta mà
chúng ta không biết.
Những người chứng kiến không được chuẩn bị để đánh giá một cử chỉ như vậy có
nghĩa gì. Còn quá sớm để giải thích cho họ ý nghĩa đầy đủ về sự sống lại của em bé.
Nếu Đức Giêsu giữ bí mật, khác hẳn với việc Chúa chữa người đàn bà chạm vào Chúa,
Người đã mang theo ba nhân chứng là những chứng nhân từ núi Chúa biến hình cho đến
khi Chúa chịu Khổ Nạn và Phục Sinh. Im lặng là cần thiết, vì sự sống lại như thế được
coi là dấu chỉ rõ ràng thời thiên sai.
Chúa Giêsu bảo họ : "Hãy cho em bé ăn" (Mc 5, 43). Vì em mà Chúa Giêsu đến. "Ăn" là cử chỉ Chúa Giêsu báo trước sự phục sinh của Chúa, vào buổi chiều tối Chúa
Phục sinh, Chúa hỏi các môn đệ : " các con có gì để ăn ?" không phải là để ăn cho thể
xác, nhưng là để họ có niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Kitô.
Giờ đây, Tiệc Thánh chúng ta cử hành là dấu chỉ của niềm vui được chia sẻ trong
đức tin trước Thiên Chúa hằng sống, với sự sống viên mãn tràn đầy chứng thực rằng sự
sống mạnh hơn cái chết. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
1
Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
(Lc 1, 57 66,80)
Từ thế kỷ thứ IV, Giáo hội đã mừng lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Đây là một lễ
rất lâu đời xét về mặt thời gian. Nếu như câu hỏi mà những người đương thời để bụng
suy nghĩ "con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? " Thì ngày nay người ta vẫn không ngừng đặt
ra những câu hỏi, chẳng hạn như : Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6 ? Và lý do gì mà Giáo
hội lại mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan cách trọng thể như thế ?
Tại sao lại lấy ngày 24 tháng 6 ?
Lý do lấy ngày 24 tháng 6 thay vì ngày 25 tháng 6 là vì theo cách tính ngày xưa, tức
là theo calends( ngày mùng 1), ides(ngày 15) và nones(ngày thứ chín). Dĩ nhiên, những
niên hiệu này có một giá trị phụng vụ và biểu trưng hơn là một giá trị lịch sử. Chúng ta
không biết chính xác ngày và năm Chúa Giêsu sinh ra, nên khi nào Gioan sinh ra chúng
ta cũng không hay.
Dựa vào trang Tin Mừng, thánh Luca cho biết, khi loan báo sự sinh hạ của Chúa
Kitô cho Đức Maria, thiên thần cho ngài biết bà Isave chị họ của ngài đang có thai trong
tháng thứ sáu. Cho nên, Gioan Tẩy Giả phải được sinh ra sáu tháng trước Chúa Giêsu và
như vậy bảng niên đại được tôn trọng cho đến ngày nay.
Giáo hội mừng lễ sinh nhật Thánh Gioan
Thánh Augustinô nói : " Giáo hội có thói quen lấy ngày qua đời của các vị thánh để
mừng kính, vì đó là ngày sinh nhật của các thánh trên Trời. Riêng thánh Gioan
Baotixita được miễn trừ khỏi qui luật bình thường đó, vì ngài đã được thánh hiến ngày
từ trong lòng mẹ trước khi sinh ra, nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô trong lòng Đức
Maria Trinh Nữ Rất Thánh khi thăm Bà Thánh Isave, từ đó Giáo hội tin rằng Gioan Tẩy
Giả đã được thánh hoá trong dạ mẹ nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô. Đó là lý do Giáo
hội cử hành lễ sinh nhật của ngài ".
Bài Tin Mừng chính ngày lễ nói về sự chọn tên Gioan. Bài đọc thứ nhất trích sách
Ngôn sứ Isaia và Thánh vịnh nói về giá trị cao cả của con người trước mặt Thiên Chúa :
" Ðức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã
nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới
bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của
Người" (Is 49, 13). Thánh vịnh trở lại với ý niệm này, tức là, Chúa biết chúng ta từ
trong lòng mẹ: "Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu
thân con...Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm
sâu" (Tv 138, 13). Như thế Thiên Chúa đã an bài sắp đặt mỗi người chúng ta ngay từ
khi còn trong dạ mẹ.
Lời mời gọi bảo vệ sự sống các thai nhi
Theo Kinh Thánh, con người là kẻ được Thiên Chúa nhận biết, gọi tên; và Thiên
Chúa biết chắc chúng ta từ khi còn trong lòng mẹ. Mắt Ngài thấy chúng ta : "Con mới là
bao thai, mắt Ngài đã thấy " (Tv 138,16). Chúng ta có một ý niệm rất hẹp hòi và có tính pháp lý về con người, gây nhiều
hoang mang trong sự bàn cãi về nạn phá thai. Xem ra một đứa bé chỉ được sở hữu phẩm
giá con người khi nó được các thẩm quyền con người thừa nhận.
Khoa học nói với chúng ta rằng trong phôi thai, toàn diện hữu thể nhân bản đang thành
hình, được phản chiếu trong mỗi chi tiết rất nhỏ; đàng khác, đức tin chúng ta thêm rằng, điều chúng ta có không phải là công trình vô danh của tạo vật, nhưng một công trình tình
2
yêu của đấng Sáng tạo. Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả hoàn toàn được phác họa trước lúc sinh
ra: "Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước
Chúa mở lối cho Người" (Lc 1, 76). Vấn đề nghiêm trọng ngày nay là hàng triệu trẻ em chết vì phá thai mà không được
rửa tội. Chúng ta phải nói gì về chúng? Chúng có được thánh hoá cách nào đó trong
bụng mẹ chúng không? Chúng có được cứu rỗi không?
Câu trả lời không do dự: Chắc chắn chúng được cứu rỗi. Theo một ý kiến đã trở nên
phổ thông từ Trung Cổ, những trẻ con không được rửa tội thì xuống lâm bô, một nơi
trung gian trong đó không có đau khổ cũng không được thấy mặt Chúa.
Chúa Giêsu đã thiết lập các bì tích như những phương tiện bình thường của việc cứu
rỗi. Do đó, các bí tích là cần thiết, và những ai dầu có khả năng nhận lãnh bí tích, mà từ
chối hay lười biếng nhận lãnh bí tích, đi nghịch lại với lương tâm của mình, gây lâm
nguy trầm trọng cho sự rỗi muôn đời của mình. Nhưng Thiên Chúa không bị ràng buộc
bởi những phương tiện này. Ngài có thể cứu rỗi bằng những phương tiện bất thường,
khi con người, không do lỗi mình, không được lãnh bí tích rửa tội. Chúa làm như vậy
đối với các thánh Anh Hài, những em bé đã chết không được rửa tội.
Giáo hội đã luôn luôn công nhận khả năng của một phép rửa tội bằng ý muốn và một
phép rửa tội bằng máu, và nhiều em bé chắc chắn đã biết một phép rửa tội bằng máu, dầu
thuộc về một bản tính khác. Khi làm sáng tỏ vấn đề trên sẽ mang lại một sự thoải mái cho những kẻ tin, những
kẻ mất bình thản trước số phận khủng khiếp của rất nhiều em bé trong thế giới ngày
nay.
Chúng ta hãy trở lại ngày sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Khi loan báo sự sinh của
con trẻ cho Giacaria, Thiên Thần nói với ông: " Isave vợ ông sẽ sinh cho ông một con
trai ông sẽ gọi là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở và nhiều người cũng được hỷ
hoan ngày con trẻ chào đời " (Lc 1,1314). Quả thật, nhiều người đã hỷ hoan vui mừng
khi con trẻ sinh ra, bước sang thế kỷ XXI, chúng ta ở đây đang mừng vui nói về con trẻ
này.
Xin Chúa cho tất cả những người cha và bà mẹ, như bà Isave và ông Giacaria, đang
chờ đợi hay kinh nghiệm sự sinh con, có được niềm vui và hớn hở trong đứa con Chúa
đã trao ban, và niềm vui sinh con, vì sự sống đã bừng lên nơi con cái. Xin cho mọi
người tôn trọng các thai nhi ngay từ trong lòng mẹ. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đặt niềm tin và hy vọng nơi Chúa
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đặt niềm tin và hy vọng nơi Chúa
Suy niệm Chúa nhật XI Năm - B
(Mc 4, 26-34)
Bước vào Chúa nhật XI thường niên B, trung tuần tháng Sáu, tháng kính Trái Tim
Cực Thánh Chúa Giêsu. Lời Chúa mời gọi chúng ta sống tin tưởng và hy vọng vào
Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người
chúng ta là vô cùng vô tận, một tình yêu nhập thể (gieo vào thế gian) đối thoại với con
người, khiến con người tin tưởng, kiên nhẫn, phó thác trong tin yêu vào Chúa là nguyên
nhân mọi sự (x. Ed 17, 22 - 24), là sức mạnh, là niềm vui và là động lực, giúp con người
nhận được ơn của Chúa, và sống tốt đời sống làm con Chúa.
Chủ nhật này, thánh Marcô, người con tinh thần của Thánh Phêrô thuật lại cho chúng
ta hai dụ ngôn tuyệt vời, giàu ý nghĩa của Chúa Giêsu: dụ ngôn hạt giống tự mình mọc
lên và dụ ngôn hạt cải (x. Mc 4, 26 - 34). Qua những hình ảnh nông nghiệp bình dân ấy,
Chúa trình bày mầu nhiệm Nước Trời, và mời gọi con người hy vọng và tin tưởng nơi
Chúa là Thiên Chúa quyền năng (x. Ed 17, 22 – 24).
Có người gọi dụ ngôn này là "hạt giống mọc lên một mình". "Người đó ngủ hay thức,
đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết
nữa" (Mc 4, 27). Thực tế, hạt giống không có tự mình mọc lên được như Phaolô nói:
"Tôi trồng, Apôllô tưới, những chính Thiên Chúa cho mọc lên" (1Cr 3, 6). Một khi hạt
giống được gieo vào lòng đất, tương quan giữa hạt giống với đất được thiết lập, một
chuỗi những kỳ bí vô hình tuyệt vời bắt đầu, quá trình nảy mầm sẽ xảy ra, nếu như nhà
nông không để ý đến những gì ông đã gieo và không ai quan tâm đến hạt rơi vào thửa
Đây là một trong những dụ ngôn lạc quan nhất mà chúng ta có được. Mưa hay nắng,
các thực tại thần linh được gieo trong nhân loại và chắc chắn mỗi ngày một triển nở, sự
yếu đuối của chúng ta là sức mạnh của hạt giống. Hạt giống Chúa Giêsu Con Thiên
Chúa được gieo vào mảnh đất nhân loại chúng ta.
Nước Thiên Chúa được sánh ví như hạt cải với sự lớn mạnh của nó... Liệu tất cả
những người tin có hy vọng thế không ? Và các tín hữu có trông đợi như vậy không ?
Phải chăng "những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên
nơi lòng một người phàm, hết thảy là những điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai
yêu mến Người sao ?" (1 Cr 2, 9) Thật vậy, "sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan
hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người" (1Cr 1,
25), nên điều nhỏ nhặt tốt lành của Chúa cũng lộng lẫy hơn sự bao la của thế giới.
Chúa Giêsu là Nước Trời. Theo cách thức của người gieo hạt, Người đã được gieo
vào lòng đất thân xác Đức Trinh Nữ Maria. Người đã lớn lên và trở thành cây che phủ
toàn thể địa cầu. Sau khi bị nghiền nát bởi cuộc Thương Khó, trái cây sinh ra đủ mọi
hương vị, phù hợp với khẩu vị và tỏa hương thơm cho mọi vật sống chạm đến Người.
Vì, như hạt cải, sự kiện hạt bị nứt ra chính là mạnh của nó. Tương tự như vậy, Chúa
Kitô muốn thân mình được nghiền tán ra để sức quyền năng Thiên Chúa được thể hiện
trong thế gia... Chúa là vua, là nguyên lý của mọi quyền hành là Nước Trời, vì tất cả
vinh quang của nước ấy ở nơi Chúa.
Lời Chúa Giêsu : "Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? Hay dùng dụ
ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì
2
nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây
rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được" (Mc
4, 30-32). Với ngôn ngữ văn chương của người Do thái, các loài chim tượng trưng cho
các dân ngoại và những người nước ngoài đến ẩn náu với số lượng lớn. Tiên tri Êdêkien
đã nói rất chí lý : "Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi Israel, nó sẽ đâm chồi, kết quả, và trở
thành cây hương nam vĩ đại; các thứ chim trời đều đến ẩn náu dưới thân cây và làm tổ
dưới tàn nó" (Ed 17, 23). Hình ảnh của hạt cải lớn lên trở thành nơi cho "chim trời" ẩn
núp không có mục đích gì hơn là giúp cho chim trời sống thoải mái và bình an! Hình
ảnh này nhấn mạnh đến Nước Thiên Chúa ở trong chúng ta, và hạt cải nhỏ bé sẽ trở
thành một cái cây lớn, trong đó chim trời đến làm tổ, ám chỉ tình yêu vô cùng của Thiên
Chúa được ban nhưng không cho chúng ta. Vương quốc của Thiên Chúa sẽ lan rộng đến
tất cả các quốc gia trên khắp thế giới và người ta tìm nơi trú ẩn nơi một Kitô giáo tốt
Ơn gọi của Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô không phải là để trở nên mạnh mẽ. Trở nên vĩ
đại, không phải là ơn gọi của Chúa Kitô. Giáo hội không tìm cách trở thành bình đẳng
của các vương quốc thế trần : đó không phải là sứ mạng của Giáo hội, càng không phải
là chứng nhân mà Thiên Chúa mong muốn nơi Giáo hội. Dụ ngôn nói rằng chim trời
đến ẩn núp. Đây không phải là sự bành trướng nhưng là sự hiếu khách. Nước Trời
không đến để áp đặt lên con người, nhưng đón nhận họ. Trong cây sự sống hoặc cây mà
cho phép loài chim đến đậu rồi bay đi và đôi khi được đón nhận ở đó, cho đến ngày làm
tổ, đẻ ấp trứng và sống hình thành.
Trong bước đường thiêng liêng, chúng ta thường có thói quen mơ tưởng những điều
được coi là vĩ đại. Và rồi thất vọng. Không, chúng ta phải tin tưởng và hy vọng. Niềm
hy vọng nơi chúng ta qua đức tin và lòng mến, cho phép chúng ta khám phá ra Thiên
Chúa bao bọc chung ta, khiến chúng ta không nản lòng hay thất vọng trong việc truyền
giáo, nhưng giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng sẽ dẫn dắt mọi sự đến thành toàn
mà Ngài đã khởi đầu. Dù điều gì xảy ra với chúng ta đi chăng nữa, thì đời chúng ta đã
được đồng hành bởi lời hứa đáng tin này: "Nếu ta cùng chết, ta sẽ cùng sống! Nếu ta
chịu đựng, ta sẽ đồng trị. Nếu ta chối Ngài, Ngài sẽ chối ta" (2Tm 2, 11-12).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa, chúng con đặt tin cậy và hy vọng nơi
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Này là Mình Ta. Này là Máu Ta
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Này là Mình Ta. Này là Máu Ta
Suy niệm Lễ Mình Máu Thánh Chúa Năm – B
( Mc 14, 1216. 2226)
Ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức 60 ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội cử hành
lễ của Chúa, kính Mình Máu Thánh Chúa. Tiếp liền sau lễ là cuộc kiệu trọng thể Mình
Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên các nẻo đường, vừa đi vừa hát bài : « Chúa nuôi
dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê » (Ca nhập lễ lời
của thánh Tôma Aquinô). Để loan truyền cho mọi người biết rằng : Chúa Giêsu hiện
diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Hy tế của Người là ơn cứu độ cho toàn thế giới.
Lễ này có thừ thế kỷ thứ XIII do Đức Ubanô IV thiết lập ngày 11 tháng 8 năm 1264,
nhằm nhắc lại việc cử hành đầy ý nghĩa trong Bữa Tiệc Ly của Chúa, giúp các tín hữu
sống lại bầu khí trang nghiêm ấy, với lòng biết ơn Thiên Chúa Cha cách sâu xa, có lúc
dừng lại trong thinh lặng trước mầu nhiệm Ðức Tin để chiêm ngắm sự cao cả của Bí
Tích vô cùng cao quí với trọn con người và tình thương của Chúa Giêsu. Cử hành Thánh Thể
Giáo hội công khai cách long trọng Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, mầu
nhiệm được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được tưởng nhớ vào ngày Thứ
Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho hết mọi người, bởi đức tin sốt mến và lòng sùng
kính của cộng đoàn Giáo hội.
Trên bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép.
Nhưng cần phải được soi sáng, chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình
Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết
niềm tin của chúng ta : Làm sao Bánh lại có thể là Mình Chúa Kitô và Rượu lại là Máu
Chúa Kitô được ?
Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh
trở thành Bí tích cần thiết để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, dẫn chúng ta trên đường về
về với Chúa!
Giáo hội quả quyết rằng : Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta trong Bí tích
Thánh Thể, chúng ta phải tôn thờ. Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta
nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh
Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm
tốn dưới hình bánh và hình rượu.
Theo thánh Tôma Aquinô : Con độc nhất của Thiên Chúa muốn cho chúng ta thông
phần vào thiên tính của Chúa, đã làm người. Để cứu chuộc con người, Người đã đổ máu
mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn
thờ Thập Giá.
Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là Máu Châu Báu của Chúa Kitô, Thiên
Chúa thật. Bánh và rượu trở nên Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Bí tích Thánh
Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Người đối với chúng ta : « Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu
cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: « Các con hãy
cầm lấy, này là Mình Ta » Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi
người đều uống. Và Người bảo các ông: "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho
nhiều người » (Mc 14, 2224).
2
Thánh Gioan Kim Khẩu nói : « Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em
được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi
chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng
mọi cách, Người lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Người kết hợp chúng ta với
Người, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình
và một xác vậy ». (Thánh Gioan Kim Khẩu)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta :
« Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Người đã sinh ra thì
Người nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Người làm cho ta
vững tin rằng Người đã mang lấy chính xác thân của ta ». Người tan biến trong chúng
ta, « làm một với chúng ta, làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài » (Thánh
Gioan Kim Khẩu).
Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc
thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết
sức riêng biệt là rước kiệu Mình Thánh Chúa.
Rước kiệu Mình Thánh Chúa
Sau lễ này, Giáo hội kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ, tuyên
xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với
mong ước nhà ta là nhà của Chúa, đường đời ta là đường của Chúa, xin Chúa hiện diện
hằng ngày trong đời sống chúng ta! Có Chúa Giêsu là Bánh ban sự sống, Bánh của các
thiên thần, Bánh của của kẻ hành hương cùng đi, chúng ta sẽ không cô đơn. Khi đặt Mình Thánh vào Mặt nhật, dưới dạng mặt trời, ngụ ý rằng Chúa Giêsu là
« Mặt Trời » : Ngài là ánh sáng của lòng ta (đó là ý nghĩa của từ « mặt nhật »)
Bình khói hương thơm nghi ngút vừa đi vừa xông, tượng trưng cho lời nguyện cầu
của chúng ta tỏa bay lên trước tòa Chúa.
Các em bé rắc hoa trên đường nhắc lại cuộc rước Chúa Giêsu vào Thành Thánh, và
những lời tụng ca của các em rất làm Chúa hài lòng.
Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ
đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người
già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta. Cuộc rước kiệu này
còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh đích thực nuôi dưỡng
chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh
quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng đầu thai Vô Nhiễm,
từ hai ngàn năm nay, đã chấp nhận, hiến dâng mọi sự, hiến dâng thân xác Mẹ hầu rước
lấy thân xác Đấng Sáng Tạo, xin giúp chúng con chiêm ngưỡng, xin giúp chúng con thờ
lạy và yêu mến, Đấng đã yêu thương chúng con dường ấy, hầu chúng con được sống đời
đời với Người. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần
Suy Niệm Lễ Chúa Ba Ngôi Năm – B
(Mt 28, 16 - 20)
Sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long
trọng cử hành lễ Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh, giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ
Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi.
Bài giáo lý thuộc lòng
Thủa thiếu thời, trước khi bước vào Thánh lễ Chúa nhật, sau phần Kinh Sáng Tối,
mọi người lại cùng nhau cất lên : Bổn dạy những lẽ cần cho được rỗi linh hồn. Phần thứ
Hỏi. Có mấy sự mầu nhiệm rất cần phải tin cho được rỗi linh hồn?
Thưa. Có Ba Sự Mầu Nhiệm này : một là sự Đức Chúa Trời Ba Ngôi...
Lớn lên tôi mới hiểu đây là một trong ba mầu nhiệm phải tin cho được rỗi linh hồn.
Thảo nào, những câu hỏi mà người học ai cũng được hỏi và buộc phải trả lời chính xác
Hỏi. Có nhiều Đức Chúa Trời chăng ?
Thưa. Có một Đức Chúa Trời mà thôi.
H. Đức Chúa Trời có mấy Ngôi?
T. Đức Chúa Trời có Ba Ngôi : Ngôi Nhất là Cha. Ngôi Hai là Con : Ngôi Ba là
H. Ngôi Nhất là Cha, có phải Đức Chúa Trời chăng ?
H. Ngôi Hai là Con, có phải Đức Chúa Trời chăng ?
H.Ngôi Ba là Thánh Thần, có phải Đức Chúa Trời chăng ?
H. Nếu vậy có phải ba Đức Chúa Trời chăng ?
T. Chẳng có, vì Ba Ngôi cũng một tính, một phép, vậy có một Đức Chúa Trời mà
H. Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém chăng ?
T. Ba Ngôi cũng bằng nhau. (Sách Bổn Địa Phận Hà Nội tr. 11)
Điều thứ nhất. Đoạn thứ II. Phần I Sách Bổn nói trên là một bản tóm tắt tuyệt vời
đầy đủ, dễ hiểu về Thiên Chúa là thực thể duy nhất hiện hữu trong ba ngôi vị. Ba Ngôi
bình đẳng, đồng tồn tại vĩnh cửu, tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và một uy
quyền ngang nhau, nên Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa mà thôi.
Thiên Chúa hiện hữu trong Ba Ngôi
Khi bước vào khoa Thần học, tôi được dạy và đọc thấy các nhà thần học suy tư về
Một Thiên Chúa có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức
2
Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự
đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa hòa quyện vào
nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới.
Nhưng làm sao chúng ta có thể diễn tả hay thấu hiểu về Thiên Chúa Ba Ngôi này. Ai
có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để
gặp gỡ Ngài? Thánh Augustinô viết : « Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người
không thể nào thấu hiểu được ». Phải, tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại
đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Người mầu nhiệm Thiên Chúa được vén
mở, nhờ Người mà chúng ta biết có Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha,
Giáo lý về Chúa Ba Ngôi chứng tỏ cho chúng ta thấy cả Ba Ngôi Vị đều tỏ hiện vào
lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, « Chịu thanh tẩy xong, Ðức Yêsu liền lên khỏi nước; và
này: trời mở ra, và Ngài thấy Thần khí Thiên Chúa đáp xuống như chim câu mà đến
trên Ngài. Và này có tiếng tự trời phán: « Ngài là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng
Thiên Chúa hiện hữu trong ba thân vị, luôn luôn yêu thương, và có mối giao hoà
trọn vẹn giữa ba ngôi vị. Theo như cách diễn giải của thánh Augustinô trong Ba Ngôi
Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần chính là Người yêu, Người được yêu và Tình
Yêu. Thêm vào đó, theo Tiến sĩ Thomas Hopko, nếu Thiên Chúa không phải là Ba
Ngôi, Chúa không thể trải nghiệm tình yêu thương trước khi Chúa tạo dựng các thực thể
khác (con người) và yêu họ. Sáng thế ký 1 câu 26 chép rằng « Chúng ta hãy tạo nên con
người theo hình ảnh chúng ta ».
Ba Ngôi trong đời sống Kitô giáo
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, không thể nào diễn tả
được; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu này và một trong
những cách đó là Dấu Thánh Giá : Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho
đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn,
khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm ... Dấu Thánh
Giá bao trùm toàn thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh
Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá gói ghém lời tuyên xưng đức tin và nền tảng
cầu nguyện của chúng ta. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Dấu Thánh Giá tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo
1 – Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người
phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.
2 – Dấu Thánh Giá nhắc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh
Giá để cứu chuộc chúng ta. Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng
của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của
Chúa Giêsu trên Thánh.
3 – Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc : « Nhân danh Cha, và Con và
Thánh Thần ». Chúng ta khẳng định mầu định Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hành động của Đức Cậy
3
Niềm hy vọng của chúng ta là về Trời như các thánh đã ái mộ những sự trên Trời.
Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta, nên chúng ta có thể về Trời.
Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh
Giá để cứu chúng ta, Ngài đã mở cửa Trời cho chúng ta.
Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về
Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.
Hành động Đức Mến
Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng
ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với « tha nhân ».
Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ
lấy thanh ngang : ngụ ý nói rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được « nâng
đỡ » bởi tình yêu Thiên Chúa.
Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ
nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Ý muốn nói, trong hành động của đức Ái :
« yêu tha nhân là yêu chính Chúa ».
Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn
là cây Thánh Giá nữa hay không ?
Hai điều cần thiết : là mến Chúa và yêu người ». Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên
mình nhiều lần : « Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần ». Ước gì chúng ta cũng biết
in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng
kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
24/5 Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến
Đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống
(Ga 20, 19-23)
40 ngày sau Đại lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm cao cả Chúa về Trời, tiếp đến là cầu nguyện thiết tha : Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến.
Giáo hội xin Ngài đến để làm gì ? Thưa, để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường… (Ca tiếp liên).
Đúng 10 ngày sau khi Chúa về Trời, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả, Ngài là Đấng mà Đức Giêsu đã hứa với chúng ta (x. Ga 16, 7). Ngài " hiện diện " trong lịch sử Giáo hội, và hành động không biết mệt mỏi. Giáo hội sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng cho đến muôn đời, giao tiếp với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới, và con người ở mọi nơi mọi thời sẽ còn tiếp tục sửng sốt và bỡ ngỡ, (x. Cv 2, 6), vì những người rao giảng Tin Mừng luôn đầy Thánh Thần. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy (x. Cv 2, 6), và vì thế, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ luôn đồng hành với Giáo hội để Ngài tiếp tục làm nhiệm vụ đổi mới và canh tân. Thần Chân Lý đã " nhập thể " trong Hội Thánh. Như lời ca nhập lễ diễn tả : " Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia. "
Sách Tông đồ Công vụ thuật lại : "Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói" (Cv 2, 4). Thật là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần trong ngày Ngài hiện xuống trên các thánh Tông đồ và những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng ta có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quân Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thiên Đàng.
"Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp" (Cv 2, 2).
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói : Ngôi nhà, sách Tông đồ Công vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần trong hòa bình và trật tự, người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Những " Hoa quả của Thần khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực " (Gal 5, 22).
Phải khẳng định rằng " Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến "để ở với Giáo hội luôn mãi " (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa : " Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế ". Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Chúng ta đọc thấy trong sách Tông đồ Công vụ (…) Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên những người chịu phép rửa tội và làm cho họ ngập tràn niềm vui. Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên các Tông đồ ; kể từ ngày hôm đó, Giáo hội, Vương Quốc của Đức Giêsu lan rộng khắp địa cầu, chính Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con điều khiển Giáo hội. Bằng sự thánh thiện, Ngài kiện toàn nơi tâm hồn con người ngay từ lúc khởi đầu Ơn Cứu Chuộc. Thánh Tôma Aquinô nói : "Ngài là linh hồn của thân thể nhiệm mầu là Giáo hội " (Tổng luận Thần học, I-II, q. 106, a. 1c.). Ngài ngự trong Giáo hội cách thường hằng, Ngài không ngừng trao ban sự sống và thánh hóa Giáo hội như lời Thánh Phaolô nói : " Vì Ngài lưu lại nơi các ngươi và ở trong các ngươi " (Ga 14, 17). Vì là Thần khí Sự Thật, " khi nào Ngài đến, Ngài sẽ hướng dẫn trong Chân Lý " (Ga 16, 13) và gìn giữ khỏi mọi sai lầm. Chính Ngài làm bừng lên trong Giáo hội sự phong phú siêu nhiêu : làm nảy sinh và triển nở những nhân đức anh hùng nơi tâm hồn các thánh trinh nữ ; các thánh tử đạo, các thánh hiển tu, ẩn tu, đó là một trong những dấu chỉ sự thánh thiện. Tóm lại, Chúa Thánh Thần hoạt động trong tâm hồn nhân thế ; nhờ linh hứng trong Hội Thánh, nhờ máu châu báu của Đức Giêsu Kitô đổ ra ," tinh tuyền, không vết nhơ, không tì ố" (Ep 5, 27), ngõ hầu tất chúng ta xứng đáng trình diện trước tòa Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu trong ngày thẩm phán.
Ðức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói : Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên "sự biểu lộ và phương thế" của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Thiên Chúa là Tình Yêu, số 33).
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ !" Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nên một như trong Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nên một như trong Thiên Chúa
Chúa Nhật VII Phục Sinh năm – B
(Ga 17, 11b - 19)
Bước vào Chúa nhật thứ VII, Chúa nhật cuối cùng mùa Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn mừng Chúa Thánh Thần hiện xuống như lời Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ trong bữa tiệc ly trước khi về trời là không bỏ chúng ta mồ côi, Người sẽ gửi Chúa Thánh Thần là Đấng Bầu Chữa đến.
Khi đến giờ rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ nhiều điều, toàn bộ Phúc Âm thánh Gioan chương 17 là một bằng chứng. Sau một loạt diễn từ ly biệt, được kết thúc bằng kinh nguyện vô cùng cảm động Chúa Giêsu dâng lên Cha. Kinh nguyện mở đầu bằng lời khẩn cầu danh Cha, ca tụng Ngôi Cha và Ngôi Con (Ga 17, 1-5). Thứ đến là xin "Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 17, 1). Và sau cung là lời cầu xin cho các môn đệ.
Xin cho chúng nên một
Chúa Giêsu thấu hiểu những yếu đuối mỏng giòn của các môn đệ, nên Người tha thiết cầu xin Cha cho họ được hiệp nhất trong tin yêu, để các ông có thể thi hành sứ mạng rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa, một sứ mạng vô cùng khó khăn và đầy những thử thách. Các ông phải tự mình đương đầu với những khó khăn ở trong thế gian, mặc dù sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, hoạt động của các ông phải qui hướng về thế giới khác. Đó là lý do khiến Chúa Giêsu cầu nguyện : "Xin cho họ nên một như Cha ở trong con và con ở trong Cha" (Ga 17, 21). Nhờ "sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần", được ràng buộc "bởi sợi dây bình an", tất cả họ sẽ "duy trì sự hiệp nhất của Thần khí... Chỉ có một Thân mình và một Thần khí " (Ep 4, 3 - 4), giúp họ đồng lòng hợp ý với nhau.
Vì muốn nhân loại kết hiệp ở trong Thiên Chúa, nên đã sai Con Ngài đến thế gian để thánh hiến họ trong chân lý. Khi đầu thai trong lòng Trinh Nữ Maria, Chúa Giêsu đã thực hiện một sự hiệp thông đầy kinh ngạc giữa bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người "Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật" (Kinh Tin Kính). Trong cuộc Thương Khó, Người đã xuống ngục tổ tông, nhà tù giam hãm chúng ta để giải thoát và đưa chúng ta lên cùng Thiên Chúa.
Chúa Giêsu ban vinh quang cho các môn đệ : "Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con" (Ga 17, 22). Vinh quang ở đây là Chúa Thánh Thần, Đấng liên kết con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ban cho họ vinh quang khi nói, "Hãy lãnh nhận lấy Chúa Thánh Thần" (Ga 20, 22). Chúa Giêsu đã nhận được vinh quang khi mặc lấy bản tính loài người chúng ta, bản tính đã được tôn vinh trong Thánh Thần. Vinh quang Người đã có "trước khi tạo thành thế gian" (Ga 17,5) liên kết nhân loại nên một trong Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu nói: "Lạy Cha, vinh quang mà Cha đã ban cho con, con đã ban cho chúng, để họ nên một như chúng ta là một" (Ga 17,22).
Xin Cha gìn giữ chúng
Trong suốt thời gian ở giữa các môn đệ, Chúa Giêsu đã trung thành gìn giữ họ. Khi trở về cùng Cha, Người không vắng mặt, Người cầu xin Cha cho họ, để họ giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, là Cha và Con và Thánh Thần.
Chúa Giêsu đến thế gian để hoàn thành sứ mạng mà Chúa Cha đã trao, đến lượt các môn đệ, họ cũng được trao cho một sứ mạng (x. Ga 13, 1). Chúa Giêsu không xin Cha đưa họ ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ họ khỏi những hiểm nguy của thế gian (x. Ga 17, 15). Vì nếu đưa họ ra khỏi thế gian thì sứ mạng tông đồ của họ chấm dứt. Xin Cha gìn giữ họ khỏi bị thế gian lây nhiễm, và thánh hoá họ trong sự thật (x. Ga 17, 17), xin cho họ được tràn đầy thần chân lý. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu làm sáng tỏ : "Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Chúa Giêsu xuống tận vực thẳm của con người để kéo con người lên vì : "Thiên Chúa là Tình Yêu". Đây là tột đỉnh của Mạc Khải. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu thôi thúc chúng ta hiệp nhất với Thiên Chúa, và trong vinh quang đầy quyền thế Chúa Giêsu không ngừng cầu nguyện và gìn giữ để : "Không một ai trong chúng bị mất" (Ga 17,12).
Xin thánh hiến họ
Lời khẳng định trên cho thấy Chúa Giêsu và các môn đệ không thuộc về thế gian. Để hoạt động trên thế gian và trong thế gian, mà không liên can đến thế gian, nghĩa là được miễn dịch khỏi thế gian, các môn đệ cần phải được hiến thánh (x. Ga 17-19).
Khi muốn bảo vệ các môn đệ khỏi Sự Dữ trong thế gian, Chúa Giêsu đã tự thánh hiến chính mình, Người nhấn mạnh đến tầm quan trọng là "viên mãn trong Thiên Chúa" khi "ở trong tình yêu". Nguồn gốc của sự thánh hiến này là trung thành với Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Chúa Cha, Đấng tự hiến chính mình. Người ban Chúa Thánh Thần cho họ và xin cho họ sớm đạt được điều Người cầu xin. Chúa Thánh Thần là sự hiệp nhất của Chúa Cha và Chúa Con, liên kết tâm hồn họ với Chúa Cha, kết hợp trái tim tội lỗi của chúng ta với Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế. "Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17, 14). Họ đã nhận được Lời, từ "Logos", Ngôi Lời của Thiên Chúa, đã trở thành nhục thể và ở giữa chúng ta (Ga 1, 14).
"Lời Cha là chân lý "(Ga 11, 14). Bản chất của Lời là ở với Chúa Cha, đó là chân lý. Kể từ khi Người cho họ tham dự vào sứ mạng của Chúa Con (x. Ga 10, 36 và Ga 17, 18), họ cũng phải tham gia vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Người đã chọn và cắt đặt họ để họ sinh nhiều hoa trái. Đức Giêsu được thánh hiến trong sự thật. Người cũng xin Chúa Cha thánh hiến họ "trong sự thật". Sự thánh hiến này không phải là bên ngoài nhưng nó là sự thật, sâu sắc, thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cầu xin cho chúng con được hiệp nhất. Xin cho chúng con biết thể hiện tinh thần hiệp nhất giữa chúng con bằng sự biết cộng tác với nhau trong những việc làm chung, để xây dựng nhiệm thể cộng đoàn nhỏ bé, trong tình huynh đệ tương thân tương ái. Chúng con tin tưởng vào lời Chúa hứa mà chúng con đã đọc trước bài Tin Mừng, đó là được ở với Chúa đến muôn đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Yêu như Thầy yêu
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Yêu như Thầy yêu
Chúa nhật VI Phục Sinh năm – B
(Ga 15, 9-17)
Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ lại lệnh Chúa Giêsu truyền trước khi về Trời. Quả thật : nếu chúng ta muốn về Trời với Chúa như lời hứa "Thầy đi dọn chỗ cho các con" (Ga 14, 2), người kitô hữu cần phải vâng theo lệnh Chúa truyền là "các con hãy yêu mến nhau" (Ga 15, 12).
Tôi tự hỏi, phải chăng con người dùng những tình cảm tự nhiên để yêu như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, đồng lớp đồng niên mến thương nhau, hay hai người nam nữ yêu nhau là chưa đủ hay là khác với tình yêu Chúa Giêsu đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải : Yêu như Thầy đã yêu ?
Vậy, "yêu như Thầy đã yêu" là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng ? Xem ra chữ "như" có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết : khi nói "yêu như Thầy đã yêu mến các con" là Chúa Giêsu nói đến tình yêu thí mạng : "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga 14, 13). Quả thật, chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ : "Các con là bạn hữu" (Ga 14, 14). Chúa đã yêu các môn đệ nói riêng và con người nói chung bằng tình yêu thí mạng. Nay Người đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau như Chúa yêu. Tình yêu mà Chúa Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha : "Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu các con" (Ga 14, 9). Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống các môn đệ, dòng suối ấy không ngừng chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Vậy đâu là bằng chứng để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa ? Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời, "Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người" (Ga 15, 10). Yêu như Thầy yêu là thế đấy.
Thánh Augustinô nói tiếp : "Yêu như Thầy đã yêu các con", khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Thánh Gioan Tông Đồ viết : "Thiên Chúa là Tình Yêu… hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa… Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa" (1 Ga 4, 7 - 8). Gioan quả quyết : "Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta" (1 Ga 4, 10).
Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực : thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v...
Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ? Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đó. Đây là tình yêu huyết tộc.
Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đó đây chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau.
Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.
Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc : "…vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy". Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi.
Chúng ta vẫn thường nghe nói: "gia đình là Giáo hội thu nhỏ", thế nên, gia đình cũng phải mang lấy những đặc tính mà Chúa Giêsu muốn là: "yêu thương và hợp nhất, thực thi lời Chúa, cử hành phụng vụ và loan truyền tin mừng".
Gia đình kia có một cô con gái, tính tình đào hoa, phóng khoáng. Sau lần tiếp bạn ngày đầu năm, mẹ cô nói với cô : Này con, con yêu ai thì yêu, lấy anh nào thì lấy một thôi, chứ tết này mẹ thấy nhiều anh quá, bố mẹ chẳng biết anh nào là rể tương lai nữa. Cô trả lời : ồ, bố mẹ hay thật, Chúa chẳng dạy chúng ta là yêu hết mọi người sao ?
Chuyện khác : Có một chàng thanh niên, gõ cửa một nhà dòng để xin vào tu. Cha bề trên nhìn chàng, khẽ mỉm cười và hỏi:
Thế con đã yêu ai chưa? Chàng thanh niên đỏ mặt, ấp úng trả lời: Dạ thưa cha, chưa ạ.
Cha bề trên lại mỉn cười và bảo: Thế thì con hãy về, học yêu thương trước, rồi mới tới tu học sau.
Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa : "Thầy truyền cho các con" ( Ga 14, 12 ), vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn suối tình yêu liên kết chúng con nên một trong tình yêu Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Để sinh trái phải kết hợp với cây Giêsu
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Để sinh trái phải kết hợp với cây Giêsu
SUY NIỆM CHÚA NHẬT V PHỤC SINH - B
( Ga 15, 1 - 8 )
Chúa nhật thứ IV vừa qua Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động để diễn tả tương quan rất dễ thương giữa Thiên Chúa với Dân Ngài là " Mục tử" và "đàn chiên". Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng một bức họa phúc dụ về cây nho và nhành nho, tự ví von mình là cây nho thật, các môn đệ là nhành và Chúa Cha là người trồng nho. Chúa nói : "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho" (Ga 15,1). Các môn đệ là nhành để có nhiều hoa trái thì phải kết hợp với Chúa như cành với cây, như dây với đàn. Điều này không có gì lạ, vì trong Kinh Thánh, rất nhiều lần dân Itraen được sánh ví với vườn nho sai trái khi trung tín với Thiên Chúa; nhưng một khi họ xa Chúa, tức cành lìa khỏi cây, họ trở nên khô héo, không còn khả năng làm ra "loại rượu làm phấn khởi lòng người" nữa (x. 104,15).
Thuật ngữ "hoa trái" được lặp đi lặp lại cả thảy sáu lần trong đoạn Tin Mừng (Ga 15,1-8), cho thấy hoa trái là điều tối cần đối với cây. Người trồng nho nào khi cắm nho xuống đất lại chẳng hy vọng vào tương lai vườn nho sẽ cho nhiều hoa trái. Chúa Cha muốn chúng ta sinh nhiều hoa trái, đó là chuyện bình thường. Chúa Giêsu khẳng định: "Chính Ta đã chọn các ngươi, và đã đặt các ngươi ra, ngõ hầu các ngươi đi và sinh trái, và trái trăng của các ngươi còn mãi " (Ga 15,16).
Ngày chúng ta chịu phép Rửa tội, Giáo Hội đã tháp nhập chúng ta như những nhành cây nho vào Mầu nhiệm Phục sinh và Khổ Nạn của Chúa Giêsu là thân cây nho. Từ gốc nho này chúng ta lãnh nhận nhựa sống và sống sự sống của Chúa Giêsu, tự bản chất là sinh hoa kết quả khi kết hiệp với Chúa Giêsu, hầu được tham dự vào cuộc sống vĩnh hằng. Như các môn đệ, chúng ta cũng vậy, nhờ sự trợ giúp của các Mục tử trong Giáo hội, chúng ta lớn lên trong vườn nho của Chúa, được bao bọc trong tình yêu của Ngài. Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết :"Nếu hoa trái của chúng ta là tình yêu, thì điều tạo ra hoa trái này chính là việc "ở lại" cách thâm sâu và trung tín với Chúa" (Gesù di Nazaret, Milano 2007, 305). Ðiều quan trọng là luôn gắn kết với Chúa Giêsu, phụ thuộc vào Người bởi vì "nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho" (Ga 15,4). Chúa Giêsu nói rõ ràng, "các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy" (Ga 15,5).
Chúng ta là kitô hữu, nghĩa là người có Đức Kitô, sinh nhiều hoa trái chứng tỏ chúng ta là môn đệ, là chi thể đích thực của Chúa Kitô. Chúa đã từng lên án những cây vả cằn cỗi chỉ có lá không có quả. Người kết án tên đầy tớ vô dụng đã mang bạc của chủ đi chôn. Người trách mắng những người Pharisêu không làm công việc của cha họ là Abraham (Ga 8, 39). Chúng ta đã được ghép vào thân cây mới, cây nho Giêsu. Chính nhựa Giêsu, và sự hiện diện của Chúa Giêsu khi chúng ta nhận lãnh trong Thánh Thể đổi mới chúng ta: " Nhành nào sinh trái thì Cha Thầy tỉa sạch để nó sai trái hơn'' (Ga 15, 2). Chúa Giêsu nói: "Thầy là cây nho thật" (Ga 15, 1).
Hoa quả mà Chúa Cha hy vọng nơi chúng ta, là những việc lành phúc đức, là những công việc tốt chúng ta làm. Mang lại hoa trái không có nghĩa là làm những điều phi thường, nhưng là những điều bình thường. Hoa quả ấy là những việc lành phúc đức, là những việc tốt chúng ta làm. Nhưng thử hỏi : kết hiệp với Đức Kitô như thế nào để giúp chúng ta sinh nhiều hoa trái ? Thưa, đức tin và đức ái, nghĩa là ở trong ân sủng của Thiên Chúa. Nếu chúng ta sống trong ân sủng, các hành vi đạo đức của chúng ta sẽ là hoa trái dễ chịu của Chúa Cha. Thật quí trọng biết bao khi luôn được sống trong ân sủng của Thiên Chúa! "Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như ngành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi" (Ga 15, 6).
Để là những cây sinh trái, chúng ta phải gắn bó với Chúa Kitô như nhành nho với cây nho, được Chúa Thánh Thần soi sáng, chúng ta mới có thể sinh nhiều hoa trái. Hoa trái ở đây theo thánh Phaolô là hoa trái của Thần Khí cụ thể như: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5,22-23)
Mang lại hoa trái là đưa ban tay ra giúp người ốm đau bệnh tật, thăm người già sống cảnh cô đơn, giúp đỡ những người khổ đau nghèo đói, an ủi và biết cách lắng nghe cũng như khuyến khích và tha thứ cho những người xúc phạm chúng ta, tích cực tham gia vào đời sống của giáo xứ, chia sẻ với mọi người.
Để có được nhiều hoa trái, chúng ta phải là những nhành cây duy trì mối quan hệ thường xuyên với Thầy Chí Thánh Giêsu là thân cây. Vì vườn nho thật của Thiên Chúa, có cây nho thật là Chúa Giêsu. Như Ðức Kitô ở lại trong tình yêu của Chúa Cha, các môn đệ cũng thế, những người được cắt tỉa nhờ Lời của Thầy mình. Nếu các môn đệ gắn kết với Thầy cách thâm sâu, họ trở thành những nhành nho sai trái, làm cho vụ mùa bội thu. Thánh Phanxicô de Sale viết: "Cành liên kết với thân và sinh trái không bởi tự chính nó nhưng là nhờ thây cây: hiện nay chúng ta được gắn kết trong tình mến với Đấng Cứu Thế như chi thể với đầu. Vì thế, những việc lành phúc đức hưởng nhờ từ Người đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu" (Trattato dell'amore di Dio, XI, 6, Roma 2011, 601).
Thiên Chúa cần chúng ta để tái tạo một thế giới tốt hơn, một thế giới của sự tôn trọng, huynh đệ và yêu thương. Thiên Chúa cần đến bàn tay, đôi chân và tấm lòng của chúng ta. Lời Chúa nhắc nhớ chúng ta rằng nếu kết hợp với Đức Kitô, như cành nho với cây nho, chúng ta sẽ nhận được sức mạnh và sức sống, chúng ta yêu mến nhau và chúng ta sinh nhiều hoa trái. "Ai ở lại trong Thầy kẻ ấy sẽ sinh nhiều hoa trái" (Ga 15, 5).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết luôn gắn bó và kết hiệp với Chúa cho đến trọn đời ngõ hầu sinh được nhiều hoa thơm trái tốt như lòng Chúa mong ước. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH - B
( Ga 10, 11 – 18 )
Lễ “Chúa Chiên lành” là lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã tự xưng "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10, 11). “Mục tử” là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông. "Người chăn chiên" được Chúa Giêsu dùng để diễn tả tương quan vừa mật thiết, vừa rất "dễ thương" giữa Người và chúng ta.
Chúa là mục tử
Thông thường, trong Cựu Ước, người ta gọi Thiên Chúa là mục tử của dân Ngài (St 49, 24 – 31 ; Gr 31, 10 ; Mk 7,14 v.v ...) Sự so sánh này có nguồn từ đầu lịch sử thánh, vì dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa, trước hết là Abraham từ Ur đến Canđê, thứ đến là Môisen, kẻ chăn cừu nhận được mạc khải từ bụi gai đang cháy trong sa mạc, cho tới Đavít cậu bé chăn cừu ở Belem.
Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành là một trong những hình ảnh lâu đời nhất của Kitô giáo. Hình ảnh này được tìm thấy trong các hang toại đạo, người ta khắc vẽ Chúa Giêsu với vẻ dịu dàng và trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, đưa chiên về với đàn của chúng để cùng chia sẻ một đồng cỏ xanh tươi. Khi lấy lại hình ảnh người mục tử và tự ví mình như thế, Chúa Giêsu đưa chúng ta về với hình ảnh cổ xưa trong Kinh Thánh, chứng tỏ Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn là Đấng trao ban sự sống cho dân, sự sống ấy bắt nguồn từ tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con, vì trong Người, mệnh lệnh và tự do đồng nhất với nhau : "Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Đó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta "(Ga 10, 18).
Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
Chúa Giêsu yêu thương con người bằng một tình yêu thí mạng khi tự ví mình là "mục tử tốt lành"sẵn sàng thí mạng vì đoàn chiên. Người nói thẳng : "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10, 11). Đối với Chúa Giêsu, tất cả là hiện tại, không có gì là quá khứ hay tương lai hết. Điều này đã được nói trong sách Khải Huyền : "Ta là Alpha và Ômêga chính là Ta, Chúa, Thiên Chúa phán, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, Ðấng toàn năng!" (Kh 1,8). Và trong sách Xuất Hành : "Ngươi sẽ nói với con cái Israel thế này: "Ta có" đã sai tôi đến với các người! » (Xh 3,14).
"Ta là mục tử tốt lành". Từ "mục tử" có nguồn gốc từ động từ "chăn nuôi". Chúa Giêsu Kitô nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thịt máu mình hằng ngày trong bí tích Mình Thánh. Khi Samuen hỏi Giêsê, cha của Đavít : "Các cậu này tất cả là con trai của ông sao?" Ông đáp: "Còn đứa nhỏ nhất nữa; này nó đang phải chăn cừu!" (1S 16,11). Đavít, một con người bé nhỏ và khiêm nhu, đã chăn sóc đoàn chiên mình như một người mục tử.
Chúng ta cũng đọc thấy trong sách Isaia : "Như mục tử, Người chăn đàn chiên của Người, cánh tay Người thâu họp chúng lại; Người bồng chiên con và dìu đi cừu mẹ nuôi con" (Is 40,11)... Quả thật, mục tử tốt lành dẫn chiễn tới đồng cỏ xanh tươi, tập hợp những con chiên yếu kém không thể đi được ; vác chúng trên vai, ôm chúng vào lòng ; như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa Giêsu cũng làm như thế : hàng ngày, Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống và các bí tích của Hội Thánh. Người giang cánh ta trên thập giá để thâu họp "con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một" (Ga 11,52). Người đón nhận chúng ta vào lòng nhân ái của Người, như mẹ hiền ấp ủ con thơ.
Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố : "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14 ).
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi : tôi có phải là chiên của Chúa không? Nếu phải thì tôi có biết Chúa không và nếu biết thì biết thế nào ? "Biết" ở đây, không có nghĩa là "biết" nhờ đức tin, nhưng là "biết" nhờ đức mến. "Biết" không có nghĩa là "biết" được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là "biết" được diễn tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác : "Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối" (1 Ga 2, 4).
Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.
Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo hội gọi Chúa nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa nhật Chúa Chiên lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên.
Cầu cho các mục tử
Đối mặt với hiểm nguy, Chúa Giêsu không chạy trốn như lính đánh thuê, Người sẽ chết, nhưng cái chết của Người sẽ chiến thắng và sống mãi, Người sẽ thâu họp những con chiên tán mát khắc nơi về. Chúa Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước theo mình, Người còn muốn những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở về. Người mong ước các mục tử với ơn Người trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.
Với chủ đề của Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Năm 2015 : "Xuất hành, kinh nghiệm nền tảng của ơn gọi". Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi "những người trẻ bước đi theo dấu chân của Ðức Giêsu, trong việc phụng thờ mầu nhiệm Thiên Chúa và quảng đại hiến thân cho người khác! đừng sợ ra khỏi chính mình và đặt mình vào một cuộc hành trình! " Chúng ta hãy khẩn cầu xin Ðức Trinh Nữ Maria, mẫu gương của mọi ơn gọi, đã không sợ hãi khi thưa tiếng "xin vâng" trước lời mời gọi của Thiên Chúa, đồng hành với chúng ta và dẫn dắt chúng ta. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
- Lời Chúa sưởi ấm con tim
- Lòng từ bi Chúa tồn tại đến muôn đời
- Chúa Nhật Phục Sinh-B
- Vui lên, toàn trái đất
- Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (1)
- Thứ Sáu Tuần Thánh: Khổ Giá - "Tình Yêu đến cùng": Giáo Hội
- Tình yêu và Thập Giá
- Thánh Lễ Tiệc Ly
- Thánh Thể, Thiên Chức Linh Mục Và Giới Luật Yêu Thương
- CN LL Tại làm sao Chúa chết?