Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật II Mùa Vọng, Năm B
Bài đọc: Isa 40:1-5, 9-11; II Pet 3:8-14; Mk 1:1-8
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa.
Thông điệp chính của Chủ Nhật I Mùa Vọng là nhìn lại cuộc đời mỗi người để nhận ra sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời. Thông điệp chính của Chủ Nhật này, tuần II Mùa Vọng: Phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa, để dọn đường cho Chúa vào nhà của mỗi người. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah đòi dân Do-Thái điều mà tác giả một bài hát Mùa Vọng của Việt Nam sắp xếp lại cho dễ nhớ: “quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống.” Trong Bài đọc II, Thánh Phêrô đòi các tín hữu: “trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an.” Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả lặp lại lời Tiên Tri Isaiah: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” Ông kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa an ủi dân Người.
Bài đọc hôm nay, bắt đầu chương 40, là phần giới thiệu của Sách thứ hai của Tiên Tri Isaiah. Sách này được viết trong Thời Lưu Đày (721-538 BC). Lưu đày nơi xứ lạ quê người, dân Do-Thái phải đương đầu với nhiều đau khổ, và có nguy hiểm đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa.
1.1/ Tin Mừng được loan báo: Thiên Chúa, mặc dù phải sửa phạt để thanh luyện dân, vẫn không ngừng theo dõi và quan tâm đến cuộc sống của họ. Ngài sai các tiên tri đến để sống với, an ủi, và khích lệ dân đừng đánh mất niềm tin nơi Thiên Chúa, như Tiên Tri Isaiah nói: Thiên Chúa anh em phán: "Hãy an ủi, an ủi dân Ta. Hãy ngọt ngào khuyên bảo Jerusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm." Qua những lời an ủi này, Tiên Tri muốn nói với dân: Chúa sửa phạt vì muốn cho họ trở nên tốt, chứ không phải vì ghét bỏ và muốn tiêu diệt họ.
1.2/ Chuẩn bị đường cho Chúa tới: Thời gian Lưu Đày được ví như thời gian mà Môsê hướng dẫn dân suốt 40 năm trong sa mạc trước khi vào Đất Hứa. Thời gian này cần vì nó giúp dân thanh tẩy những thói hư tật xấu: càm ràm, than trách, so đo, mê ăn uống, vô ơn, thờ bụt thần.
Cũng thế, trước khi Thiên Chúa phóng thích dân khỏi lưu đày và cho hồi hương để kiến thiết xứ sở, Ngài đòi dân phải thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi tính hư tật xấu, tượng trưng bằng hình ảnh chuẩn bị “một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta.” Tiên Tri đưa ra cách cho dân lưu đày cần phải chuẩn bị:
- Quanh co uốn cho ngay: cần dẹp bỏ những mưu mẹo gian manh để đánh lừa người khác.
- Gồ ghề san cho phẳng: cần san phẳng những ghen ghét, tị hiềm, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian.
- Hố sâu lấp cho đầy: cần lấp đầy những lòng tham không đáy về những sự thế gian: tiền của, uy quyền, danh vọng, thỏa mãn xác thịt.
- Núi đồi phải bạt xuống: những kiêu ngạo khinh thường Thiên Chúa và tha nhân phải bạt xuống; đồng thời biết khiêm nhường thực thi những lời Chúa dạy bảo qua các tiên tri.
1.3/ Thiên Chúa sẽ viếng thăm Dân Ngài: Sau khi con người đã thanh tẩy tâm hồn, “Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người sẽ cùng được thấy miệng Đức Chúa đã tuyên phán." Điều Tiên Tri nhìn thấy trước ở đây không phải chỉ là Ngày dân Do-Thái được giải phóng, hồi hương; nhưng còn là Ngày Đấng Cứu Thế xuất hiện và dạy dỗ họ.
Tiên Tri nói về Đấng Cứu Thế như sau: “Kìa Thiên Chúa các ngươi! Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên.” Đấng Cứu Thế sẽ lập nhiều chiến công hiển hách; tất cả những chiến công Người đạt được, dân chúng sẽ được hưởng những chiến công này.
Tiên Tri nói tiếp: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.” Đấng Cứu Thế không những là Vua, Người còn là Mục Tử Nhân Lành. Người sẽ tận tình dẫn dắt cả chiên mẹ và chiên con. Đây là hình ảnh Đức Kitô khi Người tuyên xưng: “Ta là Mục Tử Nhân Lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Jn 10:14).
2/ Bài đọc II: Phải kiên nhẫn chờ đợi!
2.1/ Điều Chúa hứa chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng phải kiên nhẫn chờ đợi: Các tín hữu tiên khởi cũng hiểu sai về Ngày của Thiên Chúa. Họ tưởng Ngày Chúa đến lần hai sẽ xảy ra ngay trong thời đại của họ; nhưng khi thấy chờ mãi không xảy ra, họ chán nản và nhiều người quay về nếp sống cũ. Cả hai Thánh Phêrô và Phaolô (Thư gởi các tín hữu Thessalonica) cùng khuyên dân phải kiên nhẫn đợi chờ. Các Ngài cắt nghĩa các lý do như sau:
(1) Thời gian của Thiên Chúa khác với thời gian của con người: Thánh Phêrô nói: “Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ.”
(2) Lý do tại sao phải tỉnh thức chờ đợi: Ngày của Chúa chưa tới, vì:
- Chúa muốn mọi người đều có cơ hội ăn năn: “Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải.”
- Sự bất ngờ của Ngày Chúa đến: “Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ.”
2.2/ Phải chuẩn bị xứng đáng để đón nhận Chúa: Cũng một tư tưởng như Tiên Tri Isaiah trong Bài đọc I và Marco trong Phúc Âm, Thánh Phêrô khuyên các tín hữu trong khi chờ đợi Ngày Chúa đến, họ phải sống đạo đức, công chính, và thánh thiện tinh tuyền: “Anh em thân mến, trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an.” Nếu không chuẩn bị, họ sẽ phải chung số phận với sự tiêu tan của vũ trụ: “Muôn vật phải tiêu tan như thế, thì anh em phải là những người tốt dường nào, phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao, trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng.”
3/ Phúc Âm: Tin Mừng được loan báo.
3.1/ Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Đức Kitô: Bắt đầu từ hôm nay, Tin Mừng của Marco sẽ được dùng trong suốt Năm Phụng Vụ B. Thánh Marco mở đầu Tin Mừng của ngài bằng câu: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.”
(1) Tin Mừng và người loan báo Tin Mừng: Tin Mừng là chính Đức Kitô, Người Con của Thiên Chúa. Người loan báo Tin Mừng có thể là chính Đức Kitô, khi Người mặc khải về Thiên Chúa Cha; hay các tiên tri, như Tiên Tri Isaiah trong Bài đọc I, các môn đệ của Chúa Giêsu; và ngay cả mọi tín hữu khi chúng ta rao giảng Tin Mừng.
(2) Sứ giả đi trước để dọn đường: Thánh Gioan Tẩy Giả là sứ giả đi trước để dọn đường cho Đức Kitô. Chúng ta biết sau Thời Lưu Đày (538 BC) cho đến thời Đấng Cứu Thế, cả hơn 500 năm, không có một tiên tri nào trong Israel cho đến thời của Gioan Tẩy Giả, ông được coi là tiên tri sau cùng của Cựu Ước, và là tiên tri giao thời giữa Cựu và Tân Ước. Sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả là ứng nghiệm lời của các tiên tri đã nói về ông:
- Ứng nghiệm lời tiên tri Malachi: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con” (Mal 3:1). Đúng theo lời đó, ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, ông đi trước để dọn đường cho Đức Kitô.
- Ứng nghiệm lời tiên tri Isaiah trong Bài đọc I hôm nay: “Có tiếng hô trong sa mạc.” Tiếng hô trong sa mạc là chính Gioan Tẩy Giả. Ông Gioan sống trong sa mạc, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Cuộc sống đơn giản của Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta suy nghĩ về lối sống của người môn đệ Chúa: chúng ta có cần lệ thuộc quá nhiều vào vật chất như cuộc sống của mỗi người chúng ta hiện nay không?
(3) Sứ điệp của sứ giả dọn đường: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.” Sứ điệp này cũng đã được Isaiah đề cập chi tiết trong Bài đọc I.
(4) Phép Rửa để tha tội: Theo truyền thống Do-Thái, Phép Rửa này chỉ dành cho những người muốn trở lại đạo Do-Thái: người tân tòng phải chịu cắt bì – dâng của lễ đền tội – và chịu thanh tẩy bằng nước. Điểm đặc biệt trong trình thuật hôm nay, Gioan bắt ngay cả những người Do-Thái gốc cũng phải lãnh nhận Phép Rửa này: “Mọi người từ khắp miền Judah và thành Jerusalem kéo đến với ông.” Sở dĩ Gioan Tẩy Giả bắt họ cũng phải qua tiến trình này vì có những người Do-Thái chỉ có đạo trên danh nghĩa mà không thực sự biết kính sợ Thiên Chúa. Cũng như có những người Công Giáo mà không bao giờ thực hành đạo của mình.
(5) Phải thú tội trước khi làm phép rửa: “Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Jordan.” Một cuộc hóan cải đòi hối nhân phải nhận ra tình trạng tội lỗi của mình, sự tốt lành của Thiên Chúa, và thành tâm thú nhận tội lỗi trước khi xứng đáng được hưởng ơn tha thứ. Tất cả những gì được mô tả trong trình thuật hôm nay, là căn bản cho thần học về 2 Bí-tích: Rửa Tội và Giao Hòa (hay Giải Tội).
3.2/ Gioan Tẩy Giả nói về Đấng Cứu Thế: một cách vắn tắt như sau:
(1): Người trổi vượt hơn tôi: Ông rao giảng rằng: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người.” Một câu rao giảng cũng là một lời tuyên xưng cho mọi người biết: ông biết uy quyền cao cả của Chúa Giêsu, và đồng thời cũng biết sự hèn hạ thấp kém của mình. Ông không muốn ai lẫn lộn ông với Chúa Giêsu.
(2) Phép Rửa để tha tội và Phép Rửa ban ơn thánh: “Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần.” Phép Rửa của Chúa Giêsu không chỉ tha thứ mọi tội lỗi, nhưng còn ban các ơn của Chúa Thánh Thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải biết chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa. Cách chuẩn bị thích hợp nhất là xét mình để nhận ra các tội của mình đã xúc phạm đến Chúa và tha nhân; sau đó phải thú nhận tội lỗi để xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ.
- Chúng ta phải biết kiên nhẫn đợi chờ Ngày Chúa đến. Trong khi chờ đợi Ngày đó, chúng ta phải biết sống đạo, thực hành công chính, và giữ cho con người luôn tinh tuyền thánh thiện.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần I MV
Bài đọc: Isa 30:19-21, 23-26; Mt 9:35-38, 10:1, 6-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa lo lắng mọi sự cho Dân Ngài.
Trong cuộc đời, nếu muốn biết ai là người thực sự yêu thương mình, chúng ta cứ việc nhìn vào những công việc họ đã làm cho mình; vì yêu thương thực sự phải bày tỏ qua việc làm. Để có thể nhìn ra những công việc đó, chúng ta phải có thời giờ để nhìn lại quá khứ; đồng thời cũng cần nghe những người khác chia sẻ kinh nghiệm của họ qua sách vở hoặc lời giảng.
Các Bài đọc hôm nay giúp cho con người nhận ra tình thương Thiên Chúa qua những gì Ngài đã, đang, và sẽ làm cho con người. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah muốn nói cho con người biết: Chúa yêu thương con người ngay cả trong khi Ngài sửa dạy con người. Mục đích của việc sửa dạy không phải là để tiêu diệt, làm nhục, hay hành hạ con người; nhưng là để thanh luyện, để con người nhận ra sự sai trái lầm lạc của mình, và quay về với tình yêu thực sự của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không những thân hành dạy dỗ và chữa lành bệnh tật cho dân; nhưng còn chọn và huấn luyện các môn đệ, ban quyền hành cho các ngài, và sai đi tới những nơi mà Chúa không thể đi tới. Các môn đệ, và những người kế vị các ngài trong Giáo Hội, vẫn tiếp tục làm những gì Chúa làm: rao giảng sự thật, chữa lành, và đem mọi người về cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa yêu thương sửa dạy và chuẩn bị tương lai cho dân.
1.1/ Thiên Chúa sửa dạy vì yêu thương: Con người khó chấp nhận lý do phải sửa dạy vì yêu thương; nhưng bậc làm cha mẹ hiểu rõ điều này, nên các ngài thường nói, “yêu cho roi cho vọt; ghét cho ngọt cho bùi.” Một em bé với trí khôn non nớt không thể hiểu điều này, em cho cha mẹ sửa phạt là vì ghét bỏ em; nhưng khi lớn lên rồi và nhìn lại cuộc đời, em mới thấy những lợi ích của việc sửa phạt. Nếu cha mẹ cứ để em làm những gì em muốn, em sẽ không thành công như ngày hôm nay; và có khi còn bị lãnh nhận những hậu quả xấu nữa.
Tiên tri Isaiah nhìn thấy trước những tai họa mà Israel sắp phải chịu vì phản nghịch Thiên Chúa, và tiên tri cũng hiểu tâm trạng của dân sẽ phản ứng khi phải đương đầu với nghịch cảnh; nên ông an ủi và cắt nghĩa cho dân biết mục đích của việc sửa phạt và tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân: “Phải, hỡi dân Sion đang ở Jerusalem, ngươi sẽ không còn phải khóc nữa. Khi ngươi kêu cứu, Người sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi; nghe tiếng ngươi kêu là Người đáp lại. Chúa Thượng sẽ cho ngươi chút bánh đau thương và ít nước khốn cùng; nhưng Đấng dạy dỗ ngươi sẽ không lìa bỏ ngươi, và mắt ngươi sẽ thấy Đấng dạy dỗ ngươi.”
Bản dịch của Nhóm PVCGK dịch không đúng câu Isa 30:20 khi dịch: “Chúa Thượng sẽ ban cho ngươi bánh ăn trong lúc ngặt nghèo, và nước uống trong cơn khốn quẫn. Đấng dạy dỗ ngươi sẽ không còn lánh mặt, và mắt ngươi sẽ thấy Đấng dạy dỗ ngươi.” Theo Bản Bảy Mươi và Bản Do-Thái, chúng ta phải dịch như trên. Ngay cả theo nội dung, chúng ta phải chấp nhận lối dịch này: Chúa sẽ để cho quân thù cho dân ăn bánh đau thương và uống nước khốn quẫn. Điều này làm dân cảm thấy Chúa đã bỏ họ; nhưng tiên tri khích lệ họ: Thiên Chúa không lìa bỏ dân. Sau khi sửa phạt và dân biết ăn năn, Chúa sẽ tiếp tục chăm sóc cho dân.
1.2/ Mọi người sẽ được Chúa dạy dỗ: “Khi ngươi lưỡng lự không biết quẹo phải hay trái, tai ngươi sẽ được nghe một tiếng nói từ phía sau: "Đây là đường, cứ đi theo đó!"” Tiên Tri Isaiah và Jeremiah của Cựu Ước đã nhìn thấy trước ngày “mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ” (x/c Isa 54:13, Jer 31:33). Thánh Gioan cũng lặp lại lời tiên tri ám chỉ Chúa Giêsu (Jn 6:45), và Thánh Thần (I Jn 2:27). Lời Chúa và ơn của Thánh Thần sẽ soi sáng cho con người biết đi đúng đường.
1.3/ Sau cơn mưa, trời lại sáng: Tòan cõi Israel chỉ còn lại đống tro tàn sau khi Assyria và Babylon xâm lấn, nhưng Thiên Chúa sẽ cho dân Do-Thái còn xót lại hồi hương và tái thiết lại xứ sở và phồn thịnh hơn xưa. Tiên Tri Isaiah quả quyết: “Chúa sẽ làm mưa trên hạt giống ngươi gieo trồng, cho lương thực, sản phẩm của đất đai, thật dồi dào béo bổ. Ngày đó, súc vật ngươi chăn nuôi sẽ ăn trên những đồng cỏ xanh bát ngát. Bò lừa cày ruộng sẽ được ăn cỏ khô trộn muối, cỏ người ta đã lấy xẻng và chĩa mà rải ra. Vào ngày Đức Chúa băng bó vết thương cho dân Người, và chữa lành những chỗ nó bị đánh, ánh sáng mặt trăng sẽ nên như ánh sáng mặt trời, và ánh sáng mặt trời sẽ tăng gấp bảy - ánh sáng của bảy ngày.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc mọi sự cho dân.
2.1/ Ngài chăm sóc dân chúng cả phần hồn lẫn phần xác: Tất cả những điều này đã được tường thuật bởi cả 4 Thánh Ký:
(1) Ngài dạy dỗ dân chúng: “Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời.”
(2) Ngài chữa lành mọi vết thương hồn xác: “Chúa Giêsu chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.”
(3) Ngài cho dân ăn: bằng làm phép lạ Bánh hóa nhiều.
2.2/ Ngài lo cho tương lai của dân: Chúa Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Vì thế, Chúa Giêsu chọn và huấn luyện các môn đệ để tiếp tục công việc của Ngài vì: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít.” Giáo Hội vẫn tiếp tục công việc của Đức Kitô bằng việc mời gọi, chọn lựa, huấn luyện, và sai các thợ gặt đi để hướng dẫn các thế hệ tương lai.
Sau khi đã chọn và huấn luyện các môn đệ, Đức Giêsu gọi 12 môn đệ lại, ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền, và sai các ông đi với lệnh truyền: “Hãy đến với các con chiên lạc nhà Israel. Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” Lý do tại sao Chúa Giêsu sai Nhóm Mười Hai đến với các chiên lạc nhà Israel trước vì họ là Dân Riêng. Một lý do khác nữa là muốn rao giảng thành công phải bắt đầu từ nhóm nhỏ; rồi từ từ lan rộng ra. Sau khi Chúa về trời, các môn đệ tản mác khắp nơi và rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Đức tin là quà tặng vô giá được cho không bởi Thiên Chúa và sự rao giảng của những nhà truyền giáo; vì thế, người đã lãnh nhận đức tin cũng phải cho không thời gian, sức lực, tài năng cho việc rao truyền Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Bằng việc quan sát các hiện tượng trong trời đất, đọc Kinh Thánh và các tài liệu lịch sử, và nhìn lại quá khứ mỗi người; chúng ta nhận thấy rõ ràng tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Không ai yêu chúng ta bằng Thiên Chúa.
- Vì yêu thương nên Thiên Chúa phải sửa phạt con người. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt và để con người tự do làm theo những gì mình muốn, con người sẽ xa Thiên Chúa và không thể đạt tới đích điểm của cuộc đời.
- Hình phạt Thiên Chúa dùng không phải để tiêu diệt, nhưng để thanh tẩy con người. Hình phạt giúp con người nhận ra những sai trái lầm lỗi của mình, để biết quay trở về với tình yêu đích thực của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần I MV
Bài đọc: Isa 29:17-24; Mt 9:27-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải kiên nhẫn trước khi đạt được điều hy vọng.
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Giáo Hội muốn các tín hữu mong đợi không chỉ môt ngày hay chỉ ít giờ trước Thánh Lễ Nửa Đêm; nhưng là cả 4 tuần lễ. Tại sao cần một thời gian dài chuẩn bị như thế? Lý do là để con người có dịp đọc lại lịch sử ơn cứu độ qua Lời Chúa, hồi tâm và suy xét cuộc đời mình để nhìn ra sự khác biệt giữa một người có Chúa và một người không có Chúa; những gì được hưởng và những gì bị thua thiệt. Một khi nhìn ra những điều đó, con người sẽ nhận thấy sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời; và sẽ nhiệt thành chuẩn bị để có được Chúa trong cuộc đời. Các Bài đọc hôm nay giúp con người nhận ra sự cần thiết đó. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah cho dân thấy những lợi ích con người sẽ được hưởng khi Đức Chúa can thiệp vào đời sống của dân Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành người mù, nhưng giúp các ông nhận ra lợi ích của việc đặt trọn vẹn niềm tin và hy vọng nơi Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thị kiến về Ngày Đấng Thiên Sai sẽ đến.
1.1/ Những lợi ích Đấng Thiên Sai sẽ mang đến cho dân Ngài:
(1) Con người thu thập mùa màng hoa trái: “Chỉ còn chút nữa, chút ít nữa thôi, núi Liban sẽ lại thành vườn cây ăn trái, và vườn cây ăn trái sẽ sum sê như một cánh rừng.”
(2) Mọi bệnh nhân sẽ được chữa lành: “Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những lời trong sách, mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm và sẽ được nhìn thấy.”
(3) Kẻ nghèo hèn sẽ được sống: “Nhờ Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ ngày thêm phấn khởi, và vì Đức Thánh của Israel, những người nghèo túng sẽ nhảy múa tưng bừng.”
(4) Ác nhân sẽ bị tiêu diệt: “Thật vậy, loài bạo chúa đã không còn nữa, quân ngạo mạn sẽ phải tiêu vong, và mọi kẻ rắp tâm làm điều ác ắt sẽ bị diệt trừ: đó là những kẻ dùng lời nói làm cho người ta bị kết tội, và cho người xử án tại cửa công phải mắc bẫy; chúng dùng những lời lẽ vô căn cứ mà làm cho người công chính bị gạt ra ngoài.”
1.2/ Nhà Israel sẽ nhận ra quyền năng Thiên Chúa và biết kính sợ Ngài: Sở dĩ Thiên Chúa để quân ngọai bang giầy xéo Israel là vì họ đã không còn kính sợ và nghe theo Lời Chúa; nhưng nếu họ biết ăn năn trở lại, họ sẽ nhìn thấy quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện trên quân thù. Tiên Tri xác quyết một khi đã được Thiên Chúa chăm sóc, họ sẽ không còn bị nhục nhã xấu hổ với quân thù: “Từ nay Jacob sẽ không còn phải xấu hổ, từ nay nó sẽ không còn bẽ mặt thẹn thùng, vì khi Jacob nhìn thấy nơi nó những công trình tay Ta đã làm, nó sẽ tuyên xưng danh Ta là thánh, sẽ tuyên xưng Đấng Thánh của Jacob là thánh, và sẽ kính uý Thiên Chúa của Israel. Những người tâm trí lầm lạc sẽ có được sự hiểu biết, và những kẻ ương ngạnh sẽ chấp nhận lời răn dạy.”
2/ Phúc Âm: Các anh tin thế nào thì được như vậy.
2.1/ Chúa thử 2 người mù: Trình thuật kể: “Đang khi Đức Giêsu ra khỏi nơi đó, thì có hai người mù đi theo kêu lên rằng: "Lạy Con Vua David, xin thương xót chúng tôi!" Khi Đức Giêsu về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần.” Tại sao Chúa Giêsu không chữa 2 người mù ngay khi còn trên đường, mà bắt họ chờ cho tới khi về đến nhà? Thời gian chờ đợi làm cho con người biết đánh giá đúng những gì mình cần; vì điều gì nhận được quá nhanh chóng và quá dễ dàng thường sẽ không giúp con người đánh giá đúng điều mình nhận được, và dễ dàng coi rẻ hay hoang phí quà tặng. Chẳng hạn, số tiền góp nhặt được do mồ hôi nước mắt làm ra sẽ làm con người cẩn thận trong việc tiêu xài hơn là số tiền được thừa hưởng.
2.2/ Tuyên xưng đức tin: Trước khi ban ơn như họ xin, Chúa Giêsu nói với họ: "Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?" Họ đáp: "Thưa Ngài, chúng tôi tin." Bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói: "Các anh tin thế nào thì được như vậy." Mắt họ liền mở ra. Chúa Giêsu đến không chỉ để làm phép lạ, nhưng để khơi dậy niềm tin của con người vào Ngài. Rất nhiều người đến với Chúa chỉ vì để được phép lạ, mà quên đi Đấng có uy quyền làm phép lạ. Họ quên đi phép lạ họ được hưởng chỉ xảy ra một lần, nhưng cuộc đời họ còn cần biết bao những phép lạ khác nữa. Hơn nữa, họ đã không nhìn ra được tình yêu và bao nhiêu ơn lành của Thiên Chúa đã dành sẵn cho họ.
Tin Mừng Gioan chú trọng nhiều hơn đến những gì xảy ra sau phép lạ, nhất là những phản ứng khác nhau của con người.
2.3/ Bí mật của Đấng Thiên Sai: Trong Tin Mừng Marco, rất nhiều lần Chúa Giêsu muốn những người được chữa lành phải giữ “bí mật của Đấng Thiên Sai.” Trường hợp hôm nay là một ví dụ điển hình, Chúa Giêsu nghiêm giọng bảo họ: "Coi chừng, đừng cho ai biết!" Nhưng vừa ra khỏi đó, họ đã nói về Người trong khắp cả vùng. Thông thường, những người nổi tiếng có thói quen muốn nhiều người biết đến mình; tại sao Chúa Giêsu muốn họ giữ bí mật phép lạ? Hơn nữa, ca tụng sự tốt lành của Thiên Chúa là điều cần nói ra để mọi người được biết, tại sao Chúa lại ngăn cản? Có ít nhất 2 lý do tại sao Chúa làm như thế:
(1) Lý do chính là vì Chúa không muốn con người quen thuộc với hình ảnh một Đấng Thiên Sai uy quyền, có sức mạnh làm được mọi sự, và sẽ giải phóng dân chúng, như truyền thống Do-Thái tin về Đấng Thiên Sai. Vì chẳng bao lâu nữa, Chúa sẽ phải chịu mọi cực hình trong Cuộc Thương Khó, và ngay cả chịu chết trên Thập Giá để chuộc tội cho con người. Khi nhìn thấy một Đấng Thiên Sai chịu mọi cực hình như thế, liệu họ còn tin nơi Ngài nữa không? Họ cần học để biết Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa qua con đường đau khổ.
(2) Một lý do nữa là Chúa không muốn con người đến với Chúa chỉ vì được ơn bởi phép lạ, nhưng muốn họ đến với người vì thành thật tin yêu. Tình yêu đặt căn bản trên lợi nhuận không phải là tình yêu thành thật. Ví dụ, không ai trong con người muốn người khác yêu mình vì có nhiều tiền, có quyền lực để ban ơn …, nhưng muốn họ yêu như mình là và trung thành đến cùng cho dù mình bị mất tất cả.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hy vọng phải có thời gian chờ đợi để giúp con người nhận ra sự quan trọng của điều mình mong muốn. Nếu mọi sự được ban quá dễ dàng và nhanh chóng, chúng ta sẽ không đánh giá đúng được món quà nhận được và sẽ dễ dàng hoang phí nó.
- Món quà nhiều khi chỉ mang những giá trị bên ngòai, nhưng tình yêu của người cho còn có giá trị hơn bội phần. Rất nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta đã không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, cha mẹ, và tha nhân; mà chỉ để ý đến quà tặng.
- Thiên Chúa không muốn chúng ta đến với Ngài chỉ để xin ơn; một khi đã đạt được điều mong muốn là không nhớ gì đến Ngài nữa, và chạy theo đủ mọi thứ bụt thần chóng qua. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài bằng một tình yêu chân thật, học hỏi để có khôn ngoan của Thiên Chúa, và biết sống thế nào để được hưởng hạnh phúc chân thật và bình an đời đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần I MV1
Bài đọc: Isa 26:1-6; Mt 7:21, 24-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cuộc đời chúng ta phải được xây trên tảng đá vững chắc là Thiên Chúa.
Tất cả các mối liên hệ trong cuộc đời đều đòi phải có hai chiều: chiều cho đi và chiều nhận lại. Ví dụ, Thánh Phaolô dạy, để có hạnh phúc trong mối liên hệ vợ chồng: vợ phải vâng lời chồng và chồng phải yêu thương vợ. Càng đúng hơn trong mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa. Nếu Ngài đã thương yêu, lo lắng, mặc khải mọi sự cho con người được an bình hạnh phúc; con người phải biết tin tưởng, cậy trông, và làm theo những gì Lời Chúa mặc khải. Nếu con người không chịu đáp trả tình thương, vâng lời những gì Thiên Chúa dạy, và cứ làm theo những gì họ muốn; làm sao họ có thể đạt được bình an và sống hạnh phúc?
Các Bài đọc hôm nay đều liên quan tới mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa. Bài đọc I nói lên tất cả những gì Chúa đã chuẩn bị cho con người để có một cuộc sống vững chắc. Phúc Âm nhấn mạnh tới bổn phận con người cần đáp trả lại; phải thực hành Lời Chúa thì đời sống con người mới vững vàng, và không có chi lay chuyển được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thương yêu và bảo vệ Dân Ngài.
1.1/ Thiên Chúa là thành trì kiên cố: Jerusalem chính là tiêu biểu của thành trì này. Mặc dù Thiên Chúa đã để cho quân đội Babylon xâm lấn và phá hủy Đền Thờ vì dân không chịu nghe theo những gì Thiên Chúa dạy; nhưng chính Ngài sẽ cho tái thiết lại Đền Thờ và Thành Jerusalem sau cuộc Lưu Đày. Tiên tri nói trước về ngày này: “Ngày ấy, trong xứ Judah, người ta sẽ hát bài ca này: Chúng ta có thành trì vững chắc, Chúa đã đặt tường trong luỹ ngoài để chở che.” Đền Thờ và tường Thành được hòan tất khoảng 20 năm sau khi dân Do-thái từ nơi lưu đày trở về.
Thiên Chúa đã chuẩn bị cho dân một thành trì vững chắc, nhưng dân phải tin tưởng và làm theo những gì Ngài dạy, thì họ mới được sống an vui và hạnh phúc. Tiên tri nói tiếp: “Mở cửa ra cho dân tộc công chính bước vào, một dân tộc trọn niềm trung nghĩa. Lạy Chúa, Ngài quyết giữ cho dân được an cư lạc nghiệp, vì họ tin vào Ngài.”
1.2/ Đức Chúa là Núi Đá bền vững ngàn năm: Núi Đá thường được dùng để chỉ Núi Sion nơi mà Đền Thờ và Thành Jerusalem được xây dựng trên đó; là một biểu tượng thường xuyên Cựu Ước dùng để chỉ sự vững bền của Thiên Chúa. Chẳng hạn, trong Thánh Vịnh 18:2-3: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.” Tiên tri Isaiah khuyến khích dân đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Thiên Chúa: “Đến muôn đời, hãy tin vào Đức Chúa: chính Đức Chúa là núi đá bền vững ngàn năm.”
Không những xây dựng thành trì vững chắc cho dân ẩn náu, Thiên Chúa còn triệt hạ quân thù, những kẻ mưu đồ ức hiếp dân. Quân thù này bao gồm cả những vua quan của Do-Thái, những người lợi dụng quyền thế để ức hiếp dân nghèo. Đọan văn kế tiếp có lẽ tiên tri ám chỉ biến cố xảy ra vào năm 587 BC, khi Babylon triệt hạ Jerusalem và bắt vua quan của Judah đi lưu đày: “vì Người đã lật nhào dân sống ở núi cao, thành trì kiên cố, Người đã triệt hạ, triệt hạ cho bình địa chỉ còn là bụi đất. Nó sẽ bị chà đạp dưới chân, dưới chân người cùng khổ, dưới gót kẻ yếu hèn.”
2/ Phúc Âm: Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá.
2.1/ Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người không chỉ tòan lời nói: Nhiều người thích nói lời yêu thương mặc dù những lời yêu thương không chân thành; nhiều người cũng thích nghe những lời yêu thương mặc dù đó là những lời yêu thương giả dối, như lời của một bài hát: “Tôi xin người cứ gian dối, cho tôi tưởng người cũng yêu tôi… Tôi xin người cứ gian dối, nhưng xin người đừng lìa xa tôi!” Chuyện đó không thể xảy ra với Thiên Chúa, vì Ngài yêu mến sự thật và có thể nhìn thấu suốt tâm hồn của từng người. Chúa Giêsu cảnh cáo mọi người: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.”
2.2/ Mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa phải được biểu tỏ qua việc nghe và giữ Lời Chúa: Vì yêu thương, Thiên Chúa săn sóc và quan tâm đến đời sống con người; Ngài muốn con người được hạnh phúc và không muốn con người phải đau khổ. Là Đấng tạo thành con người và điều khiển vũ trụ, Thiên Chúa biết rõ những gì lợi ích và những gì gây đau khổ cho con người. Đó là lý do tại sao Ngài ban Lề Luật như hàng rào để gìn giữ con người đừng vượt rào kẻo phải chịu đau khổ. Nhưng nếu con người dùng tự do để không làm theo những gì Chúa dạy, con người phải lãnh nhận mọi khổ đau của việc dùng tự do không đúng cách.
Ngòai Lề Luật, Thiên Chúa còn mặc khải cho con người những sự khôn ngoan của Thiên Chúa qua tòan bộ Kinh Thánh. Con người cần phải học cho biết tất cả những Lời này, và đem ra áp dụng trong cuộc sống, thì sẽ thóat mọi hiểm nguy cuộc đời và được sống hạnh phúc. Chúa Giêsu dùng 2 hình ảnh trái ngược: xây nhà trên đá và xây nhà trên cát để chỉ người khôn ngoan hay người ngu dại mà khán giả của Ngài hiểu ngay:
(1) Người khôn ngoan: "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.”
(2) Người ngu dại: “Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mùa Vọng là thời gian cho mỗi người chúng ta nhìn lại mối liên hệ của mình với Thiên Chúa, để xem coi mối liên hệ này đã tiến triển tới đâu, và làm thế nào để cải tiến mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
- Một cách để nhìn lại là xét mình theo Lời Chúa dạy, chúng ta đã thực hành những gì Chúa dạy chúng ta phải làm chưa: Mến Chúa trên hết mọi sự? Yêu tha nhân và giúp đỡ họ như chính mình? Làm chứng cho Chúa bằng rao giảng Tin Mừng và cuộc sống tốt lành?
- Nếu không sống mối liên hệ với Thiên Chúa, làm sao cuộc đời chúng ta có thể an bình và hạnh phúc được? Đừng lạ khi thấy cuộc đời chúng ta đầy dẫy những bi quan, đổ vỡ gia đình, chán người và chán đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần I MV
Bài đọc: Isa 25:6-10; Mt 15:29-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chính Chúa sẽ chăm sóc dân Người.
Sống trong cuộc đời, con người thường xuyên bị đe dọa bởi đói khát, bệnh tật, chiến tranh, hận thù, chết chóc. Con người ước mơ một “thiên đàng trần gian,” khi tất cả những đe dọa này không còn nữa. Nỗi ước mơ này có thể thực hiện hay không? Các Bài đọc hôm nay cho thấy ước mơ này có thể hiện thực trong tương lai. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah nhìn thấy trước Ngày đó, Ngày mà chính Thiên Chúa sẽ thân hành chăm sóc dân chúng, lau khô mọi giòng lệ, và nhất là vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, được sai tới để làm những việc này. Ngài chữa lành mọi tật nguyền và làm phép lạ để có của ăn nuôi dân chúng theo Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông.
Tiên tri Isaiah là tiên tri đã thấy trước 2 cuộc lưu đày của dân Do-Thái: vương quốc miền Bắc bị thất thủ và lưu đày tại Assyria vào năm 721 BC, và vương quốc miền Nam bị thất thủ và lưu đày tại Babylon vào năm 587 BC. Nước mất, nhà tan, Đền Thờ bị phá hủy, nhưng tiên tri được Thiên Chúa cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ giải phóng Israel, cho nhóm người còn sót lại được hồi hương, tái thiết quốc gia, và xây dựng lại Đền Thờ. Hơn nữa, Tiên Tri còn được Thiên Chúa cho thấy trước Ngày Đấng Thiên Sai sẽ tới cai trị dân. Thị kiến hôm nay tường thuật những gì Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện:
(1) Ngài sẽ cho dân ăn uống: không phải là những thức ăn tầm thường, nhưng là những cao lương mỹ vị và rượu ngon tinh chế: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.”
(2) Ngài sẽ vĩnh viễn tiêu diệt thần chết: Kẻ thù lớn nhất của con người là sự chết vì nó lấy đi tất cả những gì con người có. Đối diện với cái chết, con người không thể làm gì khác là đành chấp nhận. Nhưng khi Đấng Thiên Sai tới, Ngài sẽ đánh bại thần chết, và đem lại sự sống muôn đời cho con người như Tiên Tri tuyên bố: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần.” Bằng việc chấp nhận cái chết trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã sống lại khải hòan, và cho mọi người chết sống lại.
(3) Ngài sẽ tiêu diệt mọi khổ đau: “Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô giòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy.” Đau khổ của con người có nhiều nguyên nhân: bệnh tật, tội lỗi, phân ly. Người sẽ tiêu diệt mọi nguyên nhân gây đau khổ cho con người.
(4) Ngài sẽ tiêu diệt mọi kẻ thù: Tiên tri chỉ đề cập đến Moab ở đây: “Còn Moab sẽ bị giày đạp ngay tại chỗ, như rơm bị nghiền nát trong hố phân.” Có lẽ Moab chỉ là một biểu tượng được dùng để chỉ tất cả các địch thù của con người.
Khi chứng kiến tất cả các điều trên xảy ra, người ta sẽ nói: "Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ." Và chỉ khi nào hòan tất mọi sự, “Bàn tay Đức Chúa sẽ đặt trên núi này mà nghỉ.”
2/ Phúc Âm: Triều đại của Thiên Chúa đã đến: Đấng Thiên Sai chính là Chúa Giêsu.
Tất cả những gì Tiên Tri Isaiah loan báo hơn 700 năm trước được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Hai điều Chúa Giêsu làm được tường thuật trong Tin Mừng hôm nay:
2.1/ Chúa Giêsu chữa mọi bệnh họan tật nguyền cho dân: Thánh sử Matthêu tường thuật: “Đức Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến ven Biển Hồ Galilee. Người lên núi và ngồi ở đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành, khiến đám đông phải kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được, người mù xem thấy. Và họ tôn vinh Thiên Chúa của Israel.” Không có bệnh gì Chúa Giêsu không chữa lành được; cũng không có một quyền lực nào ngăn cản Ngài không được chữa bệnh.
2.2/ Chúa Giêsu cho dân ăn: Sau khi đã dạy dỗ dân chúng 3 ngày trong nơi hoang vắng, Đức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường." Các môn đệ thưa: "Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no?" Đức Giêsu hỏi: "Anh em có mấy chiếc bánh?" Các ông đáp: "Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ." Bấy giờ, Người truyền cho đám đông ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được bảy thúng đầy.
2.3/ Bàn tiệc Thánh Thể: Phép lạ “Hóa Bánh ra nhiều” là phép lạ duy nhất được tường thuật bởi cả 4 Thánh Sử (x/c Mt 14:13-21, Mk 6:30-44, Lk 9:10-17, Jn 6:1-15); và được Thánh Sử Gioan dùng để làm chất liệu cho Bài Giảng về Thánh Thể trong chương 6. Theo Gioan, Chúa Giêsu chính là Bánh Hằng Sống từ trời xuống để trở thành của ăn uống nuôi sống muôn dân; ai ăn thịt và uống máu Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời (Jn 6:53-58).
Một điều cần đề cập tới nữa là việc Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly: Cả ba Thánh Sử tường thuật biến cố này đều tường thuật lời Chúa Giêsu nói sau cùng: “Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (x/c Mt 26:29, Mk 14:25, Lk 22:18). Lời tường thuật này nhắc nhở Bữa Tiệc trong Vương Quốc Thiên Chúa mà Tiên Tri Isaiah đã có thị kiến trong Bài đọc I.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đối diện với những đau khổ và bất tòan trong cuộc sống, chúng ta trông mong sẽ có một ngày con người sẽ không còn phải đói khát, đau khổ, chiến tranh, hận thù, chết chóc.
- Chỉ nơi Đấng Thiên Sai là Chúa Giêsu, chúng ta mới tìm được tất cả những gì Tiên Tri Isaiah đã loan báo trong Bài đọc I.
- Chúa Giêsu sẽ chữa lành chúng ta khỏi mọi tật bệnh hồn xác, và chính Ngài sẽ nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thân thể của Người. Nhờ Ngài, chúng ta được tham dự vào cuộc sống thần linh của Thiên Chúa ngay từ đời này, và sẽ được hưởng trọn vẹn tất cả trong cuộc sống mai sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần I MV
Bài đọc: Isa 11:1-10; Lk 10:21-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa làm những chuyện không thể đối với con người.
Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah cho dân một hy vọng: Khi Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy và vương quốc Judah thất thủ, các vua quan của Judah bị lưu đày qua Babylon. Sau gần 50 năm lưu đày, họ được Vua Batư, Darius, cho hồi hương để xây dựng lại Đền Thờ và kiến thiết xứ sở. Câu hỏi được đặt ra là ai sẽ lãnh đạo dân để tái thiết xứ sở? Người lãnh đạo này phải thuộc giòng dõi của David; và Zerubbabel hội đủ điều kiện để lãnh đạo dân (x/c Hag 1:1, Zech 4:9). Từ giòng dõi Zerubbabel sẽ xuất hiện Đấng Thiên Sai (Mt 1:12). Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải Kế Họach Cứu Độ cho các môn đệ và chỉ cho các ông cách làm sao để đạt đích điểm của cuộc đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Làm sao kiếm được Vua công chính cai trị dân?
1.1/ Làm sao kiếm được Vua cai trị Israel sau Thời Lưu Đày? Tiên tri Isaiah nói về Đấng Thiên Sai như sau: “Từ gốc tổ Jesse, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và can đảm, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.” Ông Jesse là cha của Vua David. Vương quốc Judah được ví như một cây, bị chặt sát gốc trong thời gian lưu đày, tưởng chừng như đã chết; nhưng Thiên Chúa đã phục hồi và làm cho sống. Bắt đầu từ một nhánh nhỏ, sẽ mọc lên một mầm non, mầm non này chính là Đấng Thiên Sai.
Thánh Thần của Thiên Chúa là hơi thở ban sự sống (ruah) mà Thiên Chúa trao tặng cho con người. Hơi thở này kèm theo những năng lực vô biên: khôn ngoan, minh mẫn, mưu lược, can đảm, hiểu biết, và kính sợ Thiên Chúa. Những năng lực vô biên này, Bản Bảy Mươi và Vulgate thêm vào năng lực “đạo đức” thay cho một “kính sợ Thiên Chúa,” đã trở thành 7 quà tặng của Chúa Thánh Thần. Người tín hữu lãnh nhận 7 quà tặng này khi chịu Bí-tích Thêm Sức.
1.2/ Vua công minh, thương yêu, can đảm: Với Thánh Thần của Thiên Chúa hướng dẫn, Đấng Thiên Sai có đầy đủ mọi đức tính cần thiết để cai trị dân:
(1) Ngài sẽ xét xử công minh: “Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người mãn nguyện, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói.”
(2) Ngài sẽ bênh vực kẻ nghèo hèn: “Ngài xét xử công minh cho những người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư cho kẻ nghèo trong xứ sở.”
(3) Ngài sẽ trừng trị kẻ ác: “Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.”
Hai đức tính cần thiết một vị anh quân cần có được tiên tri ví như dây thắt lưng và miếng vải buộc trong mình: “Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành.”
1.3/ Vua đem lại hòa bình: Sau khi đã trải qua biết bao gian khổ đau thương do chiến tranh và lưu đày gây ra, điều con người mong ước nhất là có được nền hòa bình. Mong ước này chỉ có được khi tất cả mọi người trên thế giới biết dẹp bỏ mọi khác biệt để cùng nhau chung sống và xây dựng hòa bình: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển.” Viễn tượng hòa bình này chỉ có thể đạt được trong triều đại của Đấng Thiên Sai, khi Ngài chiến thắng mọi quyền lực thế gian và thu thập mọi người về cho Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Làm sao biết được thánh ý Thiên Chúa?
2.1/ Thánh ý Thiên Chúa: Thiên Chúa khôn ngoan và uy quyền, con người yếu đuối và giới hạn; làm sao con người hiểu được những chương trình và thánh ý của Thiên Chúa? Trong Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tiên tri để nói với con người; nhưng họ chỉ mặc khải được phần nào những gì Thiên Chúa muốn bằng ngôn ngữ lòai người. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho con người tất cả những gì nơi Thiên Chúa. Những mặc khải của Đức Kitô chính xác và tòan hảo vì Ngài ở với Thiên Chúa ngay từ ban đầu khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Mặc khải quan trọng nhất của Đức Kitô cho con người là Mầu Nhiệm Cứu Độ; nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được Mầu Nhiệm này như Chúa Giêsu nói hôm nay: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho. Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”
(1) Kẻ nghèo hèn được mặc khải: Khác với những khôn ngoan của thế gian, Mầu Nhiệm Cứu Độ chỉ được hiểu bởi những kẻ nghèo hèn, những người không cậy vào sức riêng mình, nhưng hòan tòan trông cậy nơi Thiên Chúa.
(2) Bậc khôn ngoan không hiểu: Cũng như tòan bộ Tin Mừng, Mầu Nhiệm Cứu Độ được rao giảng cho tất cả mọi người. Bậc khôn ngoan không hiểu là vì họ cậy vào sức mình. Nếu họ dùng lý luận và sự khôn ngoan của con người, Mầu Nhiệm Cứu Độ là chuyện điên rồ không thể hiểu được. Thánh Phaolô đã trưng dẫn điều này về Thập Giá của Đức Kitô.
(3) Các vua chúa không thấy: “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.”
2.2/ Làm sao để đạt đích của cuộc đời? Chúa Giêsu không chỉ mặc khải cho con người biết đích điểm của cuộc đời, mà còn cả cách thức đạt tới đích điểm này:
(1) Mến Chúa, yêu người: Chúa Giêsu chứng thực câu trả lời của người Kinh-sư: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình."
(2) Thực hành giới luật yêu thương: Tuy nhiên, Chúa Giêsu nhắc nhở ông không phải chỉ biết cách mà thôi, nhưng còn phải ra sức thực hành hai giới răn này: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không gì là không thể đối với Thiên Chúa. Trong Chương Trình Cứu Độ, Ngài đã chuẩn bị mọi sự cho con người.
- Ngài cho Chúa Giêsu, Người Con của Ngài xuống để mặc khải Mầu Nhiệm Cứu Độ cho con người. Chính Người Con này sẽ là Vua cai trị dân trong công minh, yêu thương; và sẽ đem lại bình an cho con người.
- Điều kiện để hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ: phải khiêm nhường nhỏ bé mới có thể nhìn thấy Đấng Thiên Sai và hiểu biết Kế Họach Cứu Độ Ngài mặc khải. Phải thực thi 2 giới răn “Mến Chúa yêu người” như Chúa dạy.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần I MV1
Bài đọc: Isa 2:1-5; Mt 8:5-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mọi người đều tìm Chúa.
Con người có cần đến Thiên Chúa trong cuộc đời không? Nhiều người trả lời không, vì họ có thể tự làm chủ lấy cuộc đời của họ. Nhưng có những nhu cầu tâm linh mà con người không tự mình thỏa mãn được như nhu cầu tìm ra sự thật: con người từ đâu đến, sống trên đời này để làm gì, và chết rồi sẽ đi đâu? Các Bài đọc hôm nay dẫn chứng nhu cầu cần tìm Chúa. Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah nhìn thấy trước ngày muôn dân trên địa cầu sẽ tuôn về Jerusalem để trèo lên Núi Sion, Núi Thánh của Thiên Chúa; để Ngài chỉ cho biết Lề Luật và đường lối của Thiên Chúa. Ngày này được hiện thực khi Chúa Giêsu đến và mặc khải cho mọi người thánh ý của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, viên Đại Đội Trưởng, mặc dù là dân ngọai, đã tìm đến Chúa Giêsu để xin Ngài chữa bệnh cho đầy tớ của mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Giacob.
1.1/ Sự trổi vượt của Núi Sion và Đền Thờ Jerusalem: Tiên tri Isaiah, mặc dù sống trong một thời đại đen tối của lịch sử Do-Thái (trước 2 cuộc lưu đày: Assyria và Babylon), được Thiên Chúa cho thấy trước những sự kiện sẽ xảy ra: Ngài sẽ phục hồi Judah và Jerusalem, cho Đấng Cứu Thế nhập thể, và người muôn nước sẽ đến tìm Ngài chứ không giới hạn trong vòng Do-Thái nữa. Ông tiên đóan: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng: "Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Jacob.”
1.2/ Những nhu cầu của con người:
(1) Cần biết về đường lối của Thiên Chúa: Thiên Chúa tạo dựng con người cho một mục đích; làm sao con người biết mục đích này? Nếu Thiên Chúa không mặc khải, con người không thể biết. Không những con người cần biết đích, mà còn cần biết cách để đạt đích. Vì thế, con người cần tìm đến Chúa, “để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ.”
(2) Cần biết về Lề Luật của Thiên Chúa: Người Do-Thái rất tự hào về Lề Luật của họ, vì không có vị thần nào trên dương gian thân hành ngự xuống ban Lề Luật cho dân, như Thiên Chúa đã ban cho họ Thập Giới qua ông Môsê. Họ có lý do để tự hào, vì Thiên Chúa tạo dựng con người, nên chỉ mình Ngài biết những gì tốt và những gì có thể gây thiệt hại cho con người. Vì thế, con người cần tìm đến Chúa để học hỏi Lề Luật của Ngài: “Vì từ Sion, thánh luật ban xuống, từ Jerusalem, lời Đức Chúa phán truyền.”
(3) Đức Chúa sẽ phân xử các quốc gia và hòa bình sẽ ngự trị trên tòan cõi địa cầu: “Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.” Điều Isaiah muốn nói ở đây có lẽ là Ngày Tận Thế, Ngày Đức Kitô sẽ thống trị tòan cõi địa cầu và lên ngôi cai trị tất cả.
2/ Phúc Âm: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc trong Nước Trời.
Trình thuật hôm nay mô tả cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và viên Đại Đội Trưởng. Ông là người Rôma đến đô hộ Israel và là người dân ngọai; nhưng đã can đảm vượt qua bức tường chính trị và tôn giáo đến gặp Chúa Giêsu và xin Ngài chữa bệnh cho đầy tớ của mình. Chúa Giêsu nhận ra sự can đảm của ông và Ngài nói: "Chính tôi sẽ đến chữa nó."
2.1/ Nhu cầu cần được chữa lành: Các bệnh tật, hồn cũng như xác, gắn liền với thân phận con người; và biết bao nhiêu người đã chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài chữa lành. Trong các Sách Tin Mừng, biết bao nhiêu phép lạ được các Thánh Ký tường thuật lại. Có các phép lạ được ban do chính người bệnh xin, có các phép lạ do thân nhân hay người ngòai xin như trình thuật hôm nay, có các phép lạ do chính Chúa Giêsu động lòng thương và chữa lành mặc dù những bệnh nhân chưa xin. Chúa chữa lành tất cả những ai đến kêu xin cho dẫu là ngày Sabbath và gặp đủ mọi chống đối từ các kinh sư Do-Thái. Không chỉ chữa bệnh phần xác, mà còn chữa cả bệnh phần hồn: Ngài gọi Matthêu người thu thuế làm môn đệ, Ngài gọi Jachaeus mà ngỏ ý muốn ở lại nhà ông, Ngài làm bạn với những người tội lỗi và gái điếm để chinh phục họ về cho Thiên Chúa.
2.2/ Nhu cầu cần biểu tỏ tin nơi Thiên Chúa: Trong hầu hết các phép lạ, đa số con người biểu tỏ niềm tin bằng việc đến và kêu xin với Chúa. Khi Ngài nhìn thấy niềm tin nơi họ, Ngài thường nói: “Hãy về bình an! Đức tin của con đã cứu chữa con.”
(1) Đức tin của ông Đại Đội Trưởng: Khi Chúa Giêsu ngỏ ý muốn đến nhà để chữa người đầy tớ, ông trả lời: "Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: "Đi!" là nó đi, bảo người kia: "Đến!" là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: "Làm cái này!" là nó làm." Qua những lời đối thọai, ông Đại Đội Trưởng chứng tỏ cho Chúa Giêsu ông biết mình và biết Thiên Chúa. Ông biết mình là người ngọai, và để tránh dị nghị cho Chúa Giêsu, ông xin Ngài chỉ cần truyền. Ông cũng biết Chúa Giêsu có thể chữa bệnh mà không cần phải đến nhà.
Chúa Giêsu khen ngợi đức tin của ông: "Tôi bảo thật các ông, tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế.” Sự biểu tỏ niềm tin của một sĩ quan ngọai giáo làm Chúa Giêsu ngạc nhiên và làm cho những người Israel và chúng ta phải suy nghĩ: chưa chắc chúng ta, những người tin Chúa lâu năm, có được niềm tin như ông Đại Đội Trưởng này. Câu trả lời khiêm nhường của ông được Giáo Hội dùng trong các Thánh Lễ để chuẩn bị tâm hồn các tín hữu trước khi đón nhận Mình Thánh Chúa vào lòng.
(2) Dân Ngọai sẽ tin vào Thiên Chúa và được hưởng Nước Trời: Rồi Chúa Giêsu nói cho những người cùng ở đó: “Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacob trong Nước Trời.” Truyền thống Do-Thái giới hạn ơn cứu độ chỉ dành cho những người Do-Thái; nhưng từ thời các tiên tri, nhiều tiên tri như Isaiah trong Bài đọc I hôm nay, đã nhìn thấy trước các Dân Ngọai cũng tin vào Thiên Chúa và đáng được hưởng ơn Cứu Độ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mọi người đều có nhu cầu tìm Thiên Chúa để được Ngài dạy dỗ, chữa lành, và nhất là để Ngài chỉ cho biết cách đạt đích điểm của cuộc đời.
- Đi tìm Thiên Chúa không phải chỉ một lúc hay trong một thời gian, nhưng là một tiến trình của cả cuộc đời.
- Thiên Chúa là Cha chung và thương xót mọi người. Chúng ta phải vui mừng khi thấy mọi người tin tưởng và yêu mến Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chủa Nhật I Mùa Vọng, Năm B
Bài đọc: Isa 63:16-17, 19, 64:2-7; I Cor 1:3-9; Mk 13:33-37
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy vọng Chúa sẽ ghé mắt thương đến.
Mùa Vọng là Mùa của trông ngóng đợi chờ; nhưng đợi chờ gì đây? Đợi chờ Đức Kitô ư? Ngài đã đến trần gian hơn 2000 năm nay rồi! Thế tại sao năm nào chúng ta cũng cử hành Mùa Vọng? Lý do quan trọng nhất là Giáo Hội muốn chúng ta nhìn lại cuộc đời mỗi người xem Đức Kitô đã đến và làm chủ cuộc đời của chúng ta chưa. Để nhận ra điều này, một cuộc hồi tâm xét mình cần thiết để con người có thể trả lời câu hỏi này với Thiên Chúa.
Các Bài đọc của Chủ Nhật đầu tiên cung cấp cho chúng ta nhiều chất liệu để suy gẫm. Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời. Nếu Thiên Chúa không hiện diện trong đời sống, con người sẽ bị điều khiển bởi ma quỉ, và tội lỗi sẽ lan tràn. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu về sự hiện diện cần thiết của Đức Kitô trong cuộc đời mỗi người. Khi con người có Ngài trong cuộc đời, con người sẽ không thiếu bất cứ điều gì khác; vì Ngài là nguồn mạch của mọi ân sủng và bình an, là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm Thánh Marcô, Chúa Giêsu cảnh cáo: Vì không ai biết được ngày giờ Con Người đến, nên tất cả phải luôn chuẩn bị sẵn sàng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời
1.1/ Nhận ra tình trạng tội lỗi của mình: Sách TT Isaiah được viết vào một giai đọan lịch sử rất khó khăn của Do-Thái: quốc gia bị xóa sạch và dân chúng bị lưu đày các nơi. Thời gian lưu đày là lúc thuận tiện để họ nhìn lại quá khứ và tìm ra lý do tại sao dân tộc của họ bị đàn áp và lưu đày.
Điều trước tiên họ nhận ra là sự vắng mặt của Thiên Chúa: chẳng còn Đền Thờ để cầu nguyện, chẳng còn tư tế và tiên tri để nhắc nhở họ nghĩ tới Thiên Chúa. Họ kêu van lên Thiên Chúa: “Lạy Đức Chúa, Ngài mới là Cha, là Đấng cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài từ muôn thuở. Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài?”
1.2/ Sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời: Dân lưu đày nhận ra sự quan trọng của Thiên Chúa trong cuộc đời, nên cầu xin với Ngài: “Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài mau trở lại. Từ lâu rồi, chúng con là những kẻ không còn được Ngài cai trị, không còn được cầu khẩn danh Ngài. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan. Chúa đã ngự xuống và các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Đó là việc từ xưa đến nay chưa từng có ai nghe thấy; lạy Chúa, không mắt nào nhìn thấy một Chúa nào khác ngòai Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa.” Sự kiện họ nhắc lại Thiên Chúa đã thân hành ngự xuống đây có lẽ là biến cố Núi Sinai, khi Thiên Chúa ban cho họ Thập Giới.
1.3/ Xin Chúa tha thứ tội lỗi: Dân cũng nhận ra tội lỗi của mình: “Này, Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con. Chúng con đã luôn ở trong tình trạng tội lỗi, làm sao sẽ được cứu rỗi. Tất cả chúng con đều đầy vết nhơ, mọi công nghiệp của chúng con khác nào chiếc áo dơ bẩn. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi.” Nhưng họ cậy trông vào lòng nhân từ của Thiên Chúa: “Lạy Đức Chúa, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con.”
2/ Bài đọc II: Sự cần thiết của Đức Kitô trong cuộc đời
Lịch sử Cứu Độ được lật qua trang mới sau Thời Lưu Đày, Thiên Chúa đã cho Con của Ngài, Đức Kitô nhập thể để cứu độ trần gian. Nếu trong Cựu Ước, người Do-Thái không thể sống vắng bóng Thiên Chúa; thì trong Tân Ước, người Kitô hữu cũng không thể sống vắng bóng Đức Kitô, vì:
2.1/ Đức Kitô là nguồn mạch ân sủng và bình an: Thánh Phaolô cầu nguyện cho các tín hữu Côrintô: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an. Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu.” Qua Cuộc Thương Khó của Đức Kitô, Ngài đã đem lại bình an và rất nhiều ân sủng cho con người. Con người có bình an vì con người nhờ Đức Kitô mà được hòa giải với Thiên Chúa và với nhau. Đức Kitô cũng là nguồn mạch mọi ân sủng cho con người, nhất là qua các Bí-tích.
2.2/ Đức Kitô mặc khải cho con người sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Quả vậy, trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người. Thật thế, lời chứng về Đức Kitô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người.” Nếu không có Đức Kitô mặc khải, con người không thể hiểu rõ ràng Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa và rất nhiều các Mầu Nhiệm khác trong đạo.
2.3/ Đức Kitô giúp con người trung thành đến cùng: “Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em điều gì trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” Nhờ hiểu biết rõ ràng về Kế Họach Cứu Độ qua Tin Mừng, và được nâng đỡ bằng các ân sủng của Đức Kitô, con người có thể vượt qua những gian khổ của cuộc đời để trung thành với Thiên Chúa. Ngòai ra, con người cũng biết chuẩn bị mọi hành trang cần thiết để ra trước Tòa Phán Xét của Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Phải tỉnh thức trông chờ Chúa đến.
3.1/ Ngày giờ Chúa đến không ai biết: Trong câu 13:32, Chúa Giêsu nói rõ ràng: “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.” Vì không ai biết được ngày giờ, nên con người cần phải chuẩn bị luôn.
3.2/ Phải tỉnh thức, không được ngủ mê: “Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ.” Chỉ trong 5 câu, chữ tỉnh thức được lặp đi lặp lại tới 4 lần; một câu không có chữ “tỉnh thức,” lại dùng chữ đối nghịch “ngủ mê”với trạng từ “không.” Vì thế, có thể quả quyết, Thánh Marcô đã chú trọng đến “sự tỉnh thức,” và lặp đi lặp lại tới 5 lần trong 5 câu.
3.3/ Làm sao để luôn chuẩn bị? Cách chuẩn bị hay nhất là luôn có trong mình tất cả những gì cần thiết để về với Thiên Chúa. Việc “Sắp Sẵn” mọi sự theo phương pháp của Hướng Đạo sẽ giúp chúng ta chuẩn bị. Các em HĐ học và thực tập tất cả những gì cần thiết cho việc sinh tồn: dấu đi đường, nút giây, nấu ăn, cứu thương … Về cách chuẩn bị tinh thần của các tín hữu, chúng ta cầ chú ý đến những sự sau đây:
(1) Giữ thân thể nhẹ nhàng, mau mắn: Cha ông ta khuyên: “Một tinh thần mau mắn trong một thân thể tráng kiện.” Chè chén say sưa làm thân thể nặng nề. Sự nặng nề của thân xác làm con người mê ngủ, lười biếng, và tinh thần ra bạc nhược. Các ngài nói không sai: “Ăn để sống, chứ không phải sống để ăn.” Vì thế, ăn ưống ngon quá chưa chắc đã giúp cho sức khỏe, mà còn làm hại con người. Ngòai ra, chịu khó tập thể dục, chơi thể thao sẽ giúp thân thể nhẹ nhàng, di chuyển dễ dàng, và có nghị lực để vươn lên.
(2) Không quá quan tâm đến cuộc sống vật chất: Khi bị cám dỗ về nhu cầu vật chất trong sa mạc, Chúa Giêsu đã thẳng thắn tuyên bố với ma quỉ và làm gương cho chúng ta: “Con người sống không chỉ bởi cơm bánh, nhưng còn bởi những Lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4). Đa số con người hiện đại đang đơn giản hóa đời sống con người chỉ còn chiều kích vật chất (cả chủ nghĩa tư bản cũng như cộng sản; các chủ thuyết hiện đại như materialism, individualism). Họ quên đi tất cả những chiều kích khác như: tinh thần, trí tuệ, tình cảm. Nếu đời sống con người chỉ còn chiều kích vật chất, con người không bằng con vật; vì con vật không phải làm vất vả như con người mà vẫn có ăn.
(3) Quan tâm nhiều đến đời sống tinh thần: Vì con người được dựng nên và tiền định để sống cuộc đời hạnh phúc với Thiên Chúa; nên con người phải dành nhiều thời giờ cho chiều kích tâm linh này. Con người sẽ phải chịu thiệt hại nặng nề, nếu con người lấy thời giờ để chuẩn bị đời sống tâm linh để dùng vào đời sống vật chất. Làm sao để thăng tiến đời sống tâm linh? Hai điều chính được Chúa Giêsu nhấn mạnh nhiều lần:
- Nghiền gẫm Lời Chúa: Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng dẫn lối con đi (Psa:). Không hiểu biết Lời Chúa, làm sao con người có thể sống theo đường lối của Chúa? Không biết sống theo đường lối Chúa, con người sẽ sống theo đường lối thế gian, và phải chịu mọi hậu quả của nó.
- Kết hiệp mật thiết với Đức Kitô qua đời sống cầu nguyện: Nếu lúc nào con người cũng để Đức Kitô làm chủ và hướng dẫn cuộc sống, thì Ngày Ngài đến cũng chẳng làm con người ngạc nhiên. Con người kết hiệp mật thiết với Đức Kitô qua việc tham dự Thánh Lễ, đọc Kinh Thần Vụ, năng lãnh nhận các Bí-Tích, và cầu nguyện nhiều lần trong ngày.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Câu hỏi quan trọng mỗi người phải tìm ra câu trả lời trong Mùa Vọng này: Cuộc đời chúng ta đang bị hướng dẫn bởi ai? Thiên Chúa hay những cám dỗ thế gian?
- Nếu Đức Kitô đang làm chủ cuộc sống, chúng ta sẽ không thiếu bất cứ điều gì: ân sủng, bình an, khôn ngoan, sức mạnh, và trung thành.
- Chúng ta biết chắc chắn một điều Ngày của Chúa sẽ đến, nhưng không biết ngày giờ nào; vì thế, chúng ta cần phải luôn chuẩn bị. Phải giữ cho thân thể nhẹ nhàng, dành thời giờ để trau dồi cuộc sống tâm linh, để Lời Chúa thấm nhập vào mọi khía cạnh của cuộc đời, và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa trong đời sống cầu nguyện.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 33 TN2
Bài đọc: Rev 10:8-11; Lk 19:45-48.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thanh tẩy Đền Thờ
Những cám dỗ của thế gian và sự bận rộn của cuộc sống làm con người nhiều khi không còn nhận ra được đâu là sự thật và ý nghĩa của cuộc đời. Hậu quả xảy ra là thay vì con người phải chủ động điều khiển cuộc đời mình, con người lại để cho cuộc đời điều khiển. Ví dụ: để cho giới con buôn hướng dẫn tòan bộ cuộc đời: mua nhà đắt tiền, xe cộ phải như thế nào mới xứng đáng, khi đi ăn phải ở nhà hàng nào mới sang trọng, uống rượu phải rượu XO nào mới sang trọng mà không cần biết chai rượu đó đã trị giá cả ngày lương lao động của mình. Vì quen xài sang nên phải kiếm ra nhiều tiền để xài, chẳng cần xét xem cách kiếm tiền có chính đáng hay không? Bác sĩ khám bệnh nhân nghèo qua loa 5-10 phút rồi chém đẹp bằng những giá cả bằng cả tuần lương của dân lao động. Ngày Chủ Nhật để nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa, cũng dùng luôn để kiếm tiền trang trải, mà không cần biết đến những thiệt hại cho sức khỏe và cho đời sống tâm linh của mình.
Các Bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn sâu vào Đền Thờ tâm hồn để nhận ra những bụt thần cần được gạn lọc và thanh tẩy. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan được mời gọi thanh tẩy tâm hồn bằng Lời Chúa qua việc nuốt Cuộn Sách Nhỏ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vào Đền Thờ xua đuổi những kẻ đã biến Nhà Cầu Nguyện của Cha Ngài thành hang trộm cướp.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự ngọt ngào và cay đắng của Lời Chúa
1.1/ Sự ngọt ngào của Lời Chúa: Sau tiếng kèn thứ sáu và trước tiếng kèn thứ bảy, Gioan được chứng kiến 2 thị kiến nhỏ: Nuốt Cuốn Sách Nhỏ trong Bài đọc hôm nay và Hai Nhân Chứng trong Bài đọc ngày mai. Ông nghe lệnh từ trời truyền: "Hãy đi lấy cuốn sách mở sẵn trong tay thiên thần đang đứng trên biển và đất." Ông đến gặp thiên thần và xin người cho ông Cuốn Sách Nhỏ. Rồi tiếng từ trời lại truyền: "Cầm lấy mà nuốt đi! Nó sẽ làm cho bụng dạ ông phải cay đắng, nhưng trong miệng ông, nó sẽ ngọt ngào như mật ong."
Cuốn Sách Nhỏ đã mở sẵn này khác với Cuộn Sách Lớn với 7 ấn niêm phong mà chỉ có Con Chiên mới có quyền mở. Tiếng từ trời có lẽ là tiếng của Đức Kitô. Sách Tiên Tri (Eze 2:8-3:3) là nền tảng cho thị kiến này. Việc nuốt lấy Lời Chúa giống như việc thanh tẩy miệng lưỡi của Jeremia (x/c Jer 15:16), chỉ sự hòan tòan thông hiểu của Gioan về Cuốn Sách Nhỏ trước khi rao giảng cho người khác. Hai hiệu quả trái ngược của việc nuốt Sách, ngọt trong miệng nhưng chua trong bụng, tương xứng với nội dung của Sách: Nó loan báo chiến thắng vinh quang của các tín hữu; nhưng nó cũng chỉ cho thấy giá đau đớn phải trả (Rev 11:1-13), trước cuộc chiến thắng vinh quang này.
1.2/ Sự cay đắng của Lời Chúa: Gioan cầm lấy cuốn sách nhỏ từ tay thiên thần và nuốt đi. Ông cảm thấy nó ngọt ngào như mật ong trong miệng ông, nhưng khi ông nuốt rồi, thì bụng dạ ông cay đắng. Và có tiếng bảo ông: "Một lần nữa, ông phải tuyên sấm về nhiều nước, nhiều dân, nhiều ngôn ngữ và vua chúa."
Sự kiện này cũng xảy ra cho mọi tín hữu: Lời Chúa là ngọn đèn soi sáng cho cuộc đời của họ. Khi bắt đầu tìm hiểu, nó êm đềm dịu ngọt; nhưng khi phải áp dụng Lời Chúa trong cuộc đời, nó trở nên cay đắng vì phải hy sinh và chịu đựng đau khổ mới có thể thực hiệc được. Tương tự như thế cho sứ vụ tiên tri: giảng giải Lời Chúa đòi phải hy sinh vì không phải ai cũng sẵn lòng đón nhận sự thật. Hậu quả các tiên tri phải lãnh nhận là sự ngược đãi và ngay cả cái chết.
2/ Phúc Âm: Thanh tẩy Đền Thờ
2.1/ Đừng biến Đền Thờ thành sào huyệt của bọn cướp: Đền Thờ là Nhà Cầu Nguyện. Các thượng tế và tư tế là những người chịu trách nhiệm gìn giữ vẻ thánh thiêng cho Đền Thờ, nhưng họ đã để lợi lộc vật chất lên trên việc thờ phượng Chúa. Họ lợi dụng Đền Thờ để làm giầu, lợi dụng lòng tin để cướp của dân chúng. Có 2 cách họ có thể lợi dụng để kiếm lời:
(1) Đổi tiền: Jerusalem là nơi giao lưu của nhiều quốc gia: Do Thái, Hy-Lạp, Rôma, Syrian. Họ lập những quầy đổi tiền và tính phân lời trên số tiền muốn đổi. Những quầy đổi tiền như thế vẫn còn gặp thấy nhiều trong Thành Jerusalem ngày nay.
(2) Bán những vật hy sinh: Bất cứ người Do-Thái nào vào Đền Thờ cũng phải dâng lễ vật hy sinh để đền tội. Họ có thể mua những con vật bên ngòai với giá rẻ hơn nhiều; nhưng họ phải qua sự kiểm sóat của các tư tế, để những người này xác nhận nếu vật hy sinh hội đủ điều kiện như Luật qui định. Để chắc chắn có vật hy sinh hội đủ điều kiện, đa số dân chúng phải bấm bụng mua những con vật này bên trong Thành (của các tư tế hay người nhà của họ) với giá cắt cổ.
Lý do chính Chúa Giêsu tức giận vì họ đã lợi dụng tôn giáo để bắt chẹt dân nghèo, nên Ngài vào Đền Thờ, bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán và nói với họ: "Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ là Nhà Cầu Nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!"
2.2/ Sự cay đắng của Lời Chúa: Chúa Giêsu rất can đảm khi làm công việc này vì nó động đến quyền lợi của các nhà lãnh đạo. Vì không muốn mất uy quyền, danh vọng, và lợi lộc vật chất; các Thượng-tế, Kinh-sư, và các nhà lãnh đạo đã quay lưng với sự thật, và họ tìm cách giết Người.
- Đền Thờ được nói tới đây không chỉ thuần túy là Đền Thờ tại Jerusalem, nhưng được mở rộng tới tất cả Đền Thờ tại các nơi trên thế giới, tới cả Đền Thờ của gia đình và của mỗi cá nhân, vì như lời Thánh Phaolô, “thên xác anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.”
- Thanh tẩy Đền Thờ có nghĩa trả lại vị thế cho Thiên Chúa trong Đền Thờ: đừng để bất cứ một người nào hay một điều gì lên trên Ngài, vì con người phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Thanh tẩy Đền Thờ cũng có nghĩa là sống công bằng bác ái với tha nhân, đừng lợi dụng bất cứ lý do gì để bóc lột và làm giầu trên mồ hôi nước mắt của tha nhân.
- Cách thanh tẩy Đền Thờ hữu hiệu nhất là hãy trực diện với Lời Chúa, như Gioan đã nuốt lấy Cuốn Sách Nhỏ trong Bài đọc I; hay như các Thượng-tế và Kinh-sư trước những Lời của Chúa Giêsu thách thức họ trong Phúc Âm. Mặc dầu cay đắng vì “sự thật luôn mất lòng;” nhưng đồng thời chỉ có “sự thật mới giải thóat.” Như trình thuật hôm nay kể: “Vẫn còn những người nhìn ra sự thật. Tòan dân say mê nghe Người.”
- Từ chối không chịu để cho Lời Chúa thanh tẩy, hay tệ hại hơn như các Thượng-tế và Kinh-sư hôm nay muốn bóp nghẹt hay tìm cách tiêu diệt sự thật là khai tử chính mình; là muốn sống theo sự giả trá và ở trong bóng tối của thế gian. Một đền thờ như thế, như lời Chúa nói từ đầu, không còn là Đền Thờ của Thiên Chúa, nhưng là một sào huyệt của bọn cướp.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần phải thường xuyên thanh tẩy tâm hồn để luôn xứng đáng là Đền Thờ cho Thiên Chúa ngự. Chúng ta cần xét lại những động lực thúc đẩy chúng ta làm việc thờ phượng: Có phải vì lòng kính mến Chúa hay vì danh dự, uy quyền, và các mối lợi vật chất?
- Lời Chúa là khí cụ tốt nhất cho việc thanh tẩy tâm hồn. Đọc và suy gẫm Lời Chúa đêm ngày sẽ soi sáng trí lòng chúng ta để nhận ra những bụt thần và tội lỗi trong tâm hồn trước khi có thể thanh tẩy chúng.
- Chúng ta phải chấp nhận sự cay đắng của Lời Chúa mới có thể thanh tẩy tâm hồn được. Quay lưng lại Lời Chúa hay tìm cách bóp nghẹt Sự Thật là làm cho Đền Thờ trở thành nơi ở của Satan và tội lỗi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 33 TN2
Bài đọc: Rev 5:1-10; Lk 19:41-44.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khóc!
Con người khóc vì nhiều lý do: (1) Vì tiếc, vì không đạt được điều mình muốn: Em bé muốn xem tivi; bố mẹ bắt vào đi ngủ. (2) Vì thương, thân nhân và bạn hữu khóc thương người chết; vì họ không còn được sống nữa. (3) Vì tội nghiệp, khi thấy một người chịu quá nhiều đau khổ, nhất là chịu đau khổ cho mình. (4) Vì vui sướng, khi nhìn thấy kết quả vinh quang sau khi đã trải qua bao hy sinh gian khổ để đạt được (cầu thủ TVH khi đạt huy chương vàng). Trong Bài đọc I, Thánh Gioan khóc nức nở vì sợ không đạt được ý muốn. Ngài muốn biết những gì trong Cuộn Sách, vì nó liên quan đến lịch sử của nhân lọai sắp xảy ra; nhưng không tìm được ai xứng đáng để mở 7 ấn niêm phong của Cuộn Sách. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khóc vì tội nghiệp cho dân Thành Giêrusalem, vì họ không nhận ra ý nghĩa và mục đích sự thăm viếng của Ngài. Chúa cũng khóc vì Ngài biết Thành sẽ bị phá hủy bình địa (70 AD), và dân Thành sẽ tan tác như chiên không người chăn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thị kiến Cuộn Sách và 7 ấn niêm phong
“Tôi thấy trong tay hữu Đấng ngự trên ngai một Cuộn Sách viết cả trong lẫn ngoài, được niêm bảy ấn. Rồi tôi thấy một thiên thần dũng mãnh lớn tiếng công bố: "Ai xứng đáng mở cuốn sách và tháo ấn niêm phong?" Nhưng không ai ở trên trời, dưới đất hay trong lòng đất, có thể mở Cuộn Sách và nhìn vào đó.”
- Cuộn Sách chứa đựng ý muốn kỳ diệu của Thiên Chúa liên quan đến mọi biến cố sẽ xảy ra trong thời kỳ sau hết như đã nói từ ban đầu (x/c Rev 1:9). Nội dung của Cuộn Sách có những gì? Có nhiều ý kiến khác nhau; nhưng đa số các học giả đồng ý nội dung của Cuộn Sách là những gì được viết trong (Rev 6:1-8:1).
- Gioan khóc nức nở, vì không ai được coi là xứng đáng mở cuốn sách và nhìn vào đó. Nếu không ai mở Cuộn Sách, làm sao con người biết được những gì sẽ xảy ra? Gioan muốn biết, đó là lý do tại sao ông khóc.
- Một trong các vị Kỳ Mục bảo tôi: "Đừng khóc nữa! Này đây, Sư Tử xuất thân từ chi tộc Giuđa, Chồi Non của Đavít đã chiến thắng, Người sẽ mở cuốn sách và bảy ấn niêm phong." Truyền thống Do-Thái tin Đấng Thiên Sai sẽ xuất thân từ chi tộc Giuđa và là chồi non của Nhà Đavít.
- “Con Chiên, trông như thể đã bị giết; Chiên đó có bảy sừng và bảy mắt, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa đã được sai đi khắp mặt đất. Con Chiên đến lãnh cuốn sách từ tay hữu Đấng ngự trên ngai.” Con Chiên là danh hiệu chính thức của Đức Kitô, được dùng 28 lần trong Sách Khải Huyền. Ngài được gọi là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian (Jn 1:29).
- Khi Con Chiên đã lãnh cuốn sách từ tay của Đấng ngự trên Ngai, thì bốn Con Vật và 24 vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước mặt Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay nâng chén vàng đầy hương thơm, tức là những lời cầu nguyện của dân thánh.
- Các vị hát một bài ca mới: Bài ca mới tương xứng với tên mới được tặng cho Người chiến thắng, cho Jerusalem mới, cho trời mới đất mới, và cho vũ trụ được đổi mới.
- Ngài xứng đáng lãnh nhận Cuộn Sách và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa: Bằng Cuộc Thương Khó, cái chết, và sự Phục Sinh vinh hiển, Đức Kitô đã bắt đầu một vương quốc mới cho Thiên Chúa.
- Muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân: 4 danh từ này có ý nói tất cả mọi dân tộc trên địa cầu. Sách Khải Huyền giới hạn trong vòng các Kitô hữu trên địa cầu, những người đã đáp trả lời mời gọi và tháp tùng Con Chiên mà thôi.
- Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này: Những người đi theo Con Chiên là dân của Con Chiên, họ trở thành những tư tế để ca ngợi và phụng thờ Thiên Chúa; và cùng với Con Chiên, họ sẽ làm chủ mặt đất.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu khóc thương Thành Jerusalem.
2.1/ Chúa Giêsu khóc: Mang thân xác con người, Chúa Giêsu có đầy đủ cảm xúc như một con người. Tin Mừng đã tường thuật 2 lần Chúa khóc:
(1) Vì thương Thành Jerusalem như trình thuật hôm nay (Lk 19:41). Trong Cuộc Thương Khó, chặng thứ 8 của 14 Đàng Thánh Giá, Chúa Giêsu đứng lại yên ủi dân Thành Jerusalem vì họ khóc thương Ngài. Chúa Giêsu yên ủi họ: “Đừng khóc thương Ta, nhưng hãy khóc thương các ngươi và con cháu của các ngươi” (Lk 23:28). Chúa Giêsu biết rõ mục đích tại sao Ngài chịu đau khổ, nhưng dân Thành không biết. Điều có lẽ Chúa muốn nhấn mạnh cho họ biết ở đây là họ hãy khóc thương cho chính họ và cho con cháu của họ; vì tội lỗi của họ và con cháu mà Chúa đã phải gánh lấy Cuộc Thương Khó mà Ngài đang chịu.
(2) Vì tiếc thương Lazarô (Jn 11:35)? Nhiều người tin Chúa khóc vì thương Lazarô không còn sống nữa; nhưng suy nghĩ này cần được xét lại vì không có căn bản vững chắc. Có lẽ việc ông đừng trở lại thế gian có lẽ hạnh phúc cho ông hơn vì ít lâu nữa ông sẽ cùng được chung phần vinh quang với Chúa, và kẻ thù không có lý do để giết Chúa Giêsu. Ngài khóc là vì thấy sự chết gây đau khổ cho con người. Ngài muốn Mary và mọi người hiểu: “Ai sống và tin vào Ngài, sẽ không chết bao giờ” (Jn 11:25). Nếu ai cũng hiểu như thế, cái chết sẽ là một niềm vui.
2.2/ Hai lý do tại sao Chúa khóc:
(1) Vì dân Thành Jerusalem không nhận ra Chúa: Khỏang lưng chừng Đồi Olive, ngày nay có một nguyện đường gọi là Nguyện Đường Chúa Khóc. Truyền thống tin chính tại đây, Chúa Giêsu đã nhìn thấy tòan bộ Đền Thánh Jerusalem và sự huy hòang của nó, và Ngài đã khóc vì thương dân Thành. Lý do Ngài khóc vì tội nghiệp họ đã không nhận ra Đấng đem bình an: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất mắt ngươi không thấy được.” Nguyên ngữ Jerusalem ghép bởi 2 chữ: động từ yrw, có nghĩa là “thiết lập,” và danh từ salem, có nghĩa là “bình an.” Chúa Giêsu là Đấng từ Trời xuống thiết lập bình an và chính Ngài đang ở giữa họ; nhưng họ đã không nhận ra Ngài.
(2) Vì Thành sẽ bị phá hủy tan tành: “Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm.” Lời tiên tri này ứng nghiệm năm 70 AD, khi quân đội Rôma đem quân vây hãm và phá hủy bình địa Đền Thờ và Thành. Cho tới ngày nay Đền Thờ vẫn chưa được xây lại và vết tích của hoang tàn đổ nát vẫn còn cho các du khách viếng Jerusalem.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Con người khóc vì tiếc và vì thương. Cái khóc của con người có thể sai vì lý do tiếc hay thương có thể sai. Cái khóc của Chúa Giêsu luôn luôn đúng vì lý do tại sao Ngài khóc là sự thật. Chúng ta cần tìm hiểu rõ lý do tại sao mình khóc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP