Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 33 Thường Niên, Năm A
Bài đọc: Prov 31:10-13, 19-20, 30-31; I Thes 5:1-6; Mt 25:14-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chăm chỉ làm việc cho xứng đáng với sự tin tưởng của Thiên Chúa.
Chăm chỉ làm việc là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của một người. Truyện ngụ ngôn của Jean de La Fontaine đã nhiều lần chứng minh điều này qua câu truyện của con ve sầu và con kiến, con rùa và con thỏ, … Dù không có tài năng nhiều, nhưng nếu chăm chỉ làm việc, sớm muộn rồi cũng thành công đạt đích; nhưng nếu tài năng xuất chúng mà lười biếng không chịu làm việc, sẽ không bao giờ thành công được. Các Bài đọc hôm nay cho chúng ta nhìn thấy sự cần thiết của chăm chỉ làm việc: Bài đọc I dẫn chứng hình ảnh của người vợ khôn ngoan, bà chuyên cần làm việc để mưu ích cho gia đình. Bài đọc II dẫn chứng hình ảnh người đầy tớ trung thành, anh biết tỉnh thức và sống tiết độ để chờ ngày chủ trở về. Phúc Âm dẫn chứng 2 hình ảnh trái ngược: 2 người đầy tớ trung thành và khôn ngoan, biết lợi dụng tài sản chủ trao, chăm chỉ làm việc để sinh lợi cho chủ; và người đầy tớ biếng nhác, chẳng những đã không sinh lời cho chủ, mà còn cay đắng trách luôn cả chủ là người hà khắc, keo kiệt.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người vợ khôn ngoan
Bài đọc hôm nay nằm trong chương cuối cùng của Sách Châm Ngôn. Sau khi đã chưng dẫn rất nhiều ý tưởng khôn ngoan của người xưa và của các dân tộc trong Sách, tác giả tổng kết lại trong hình ảnh của một người vợ lý tưởng. Khôn ngoan trong Israel ngày xưa không như khôn ngoan trong triết học ngày nay, lối khôn ngoan rất cách xa với cuộc sống thực tế và không mấy quan tâm để tìm ra lẽ sống. Khôn ngoan ngày xưa trước tiên là biết quán xuyến đời mình. Vai trò của người vợ trong gia đình là phải biết cách tạo nên một tổ ấm cho gia đình được hạnh phúc, và giúp đào tạo những người con có khả năng phục vụ gia đình và xã hội trong tương lai. Theo tác gỉa, tìm được một người vợ khôn ngoan như thế là như tìm được một kho tàng: “Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai hoạ cho chồng.”
Thế nào là một người vợ lý tưởng? Phải chăng là sắc đẹp hay duyên dáng? Tác giả cho “duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân.” Giống như quan niệm của cha ông ta ngày xưa, “cái nết đánh chết cái đẹp.” Sắc đẹp mau tàn, nhiều khi đã chẳng sinh lợi, lại còn làm cho gia đình tan nát; nhưng các đức tính tốt sẽ tồn tại và chắc chắn sinh lợi ích cho gia đình. Nhưng đâu là những đức tính quan trọng của người vợ lý tưởng? Tác giả liệt kê 2 nhân đức:
(1) Mến Chúa yêu người: là 2 tiêu chuẩn quan trọng nhất để xác định một người vợ lý tưởng.
- Kính mến Chúa: Theo truyền thống khôn ngoan của Do-Thái: “Kính sợ Chúa là đầu mối mọi khôn ngoan.” Người vợ kính sợ Chúa sẽ biết cách khuyên bảo chồng và dạy dỗ con biết kính sợ Chúa và giữ các giới răn của Ngài: “Người phụ nữ kính sợ Đức Chúa mới đáng cho người đời ca tụng.”
- Yêu tha nhân: Ai kính sợ Thiên Chúa, cũng phải yêu tha nhân. Người vợ khôn ngoan không chỉ biết lo cho gia đình ở đời này, nhưng còn biết lo liệu sao cho gia đình được đòan tụ trên Nước Trời đời sau. Giúp đỡ người nghèo khổ là chuẩn bị cho gia đình đời sau. Vì vậy, người vợ khôn ngoan là người biết “rộng tay giúp người nghèo khổ và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.”
(2) Chuyên cần làm việc: Vì “ở không là mẹ các tật xấu,” người vợ khôn ngoan không phí thời giờ để bàn chuyện thiên hạ; “nàng tìm kiếm len và vải gai, rồi vui vẻ ra tay làm việc; nàng tra tay vào guồng kéo sợi, và cầm chắc suốt chỉ trong tay.” Bằng chăm chỉ làm việc, người vợ khôn ngoan biết chăm lo mọi sự trong nhà, chăm sóc miếng ăn cho chồng con. Nàng biết nhìn xa trông rộng, không tiêu xài hoang phí, và biết kiếm thêm tiền để phòng xa, chứ không chỉ trông vào đồng lương của chồng mà thôi.
Hậu quả người vợ khôn ngoan gặt hái đựơc là thành công: cá nhân nàng, gia đình nàng, và xã hội. Thiên hạ tán dương nàng: “Ước chi nơi cổng thành nàng luôn được tán dương ca tụng do những việc nàng làm.”
2/ Bài đọc II: Người đầy tớ trung thành biết tỉnh thức và sống tiết độ.
2.1/ Sự bất thình lình của ngày giờ Chúa đến: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm.” Điểm “bất ngờ” này đã được Chúa Giêsu đề cập đến nhiều lần trong các Tin Mừng (x/c Mt 24:43, Lk 12:39). Chính khi người ta nói: "Bình an biết bao, yên ổn biết bao!" thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được.
2.2/ Người đầy tớ trung thành biết tỉnh thức và chăm chỉ làm việc: Vì không biết khi nào Ngày ấy sẽ đến, nên con người phải luôn tỉnh thức sẵn sàng. Đêm tối là lúc cám dỗ con người nhiều nhất, và con người dễ bị sa ngã trong khỏang thời gian này vì mê ngủ và vì không chuẩn bị sẵn sàng. Để có thể thắng vượt được cám dỗ, Thánh Phaolô khuyên: “Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ.”
3/ Phúc Âm: Trung thành làm việc cho xứng với niềm tin của chủ.
Chúa Giêsu kể cho dân một ngự ngôn như sau: Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Yến bạc có giá trị tương đương khỏang 5000-6000 dennari thời đó; và tiền công nhật mỗi ngày là 1 dennari; như thế, một yến tương xứng với khỏang 18 năm làm việc mỗi ngày, một số tiền không phải nhỏ.
3.1/ Sự khôn ngoan và tin tưởng của ông chủ:
- Sự khôn ngoan của ông chủ: Nhiều người thắc mắc: “Tại sao ông chủ không trao đồng đều để tránh sự ganh tị?” Lý do là vì ông chủ biết rõ tính các đầy tớ của mình, nên ông giao của tùy khả năng mỗi người. Điều này chứng tỏ sự khôn ngoan của ông: tiền bạc đầu tư là phải sinh lời. Nếu là người lười biếng thì có giao cho họ dù chỉ một yến cũng là vô ích.
- Ông tin tưởng nơi các đầy tớ: Khi giao cho họ xong là ông trẩy đi phương xa, chứ không ở gần để xem xét dòm ngó hay khuyên răn chỉ bảo. Họ có tự do hòan tòan để dùng khôn ngoan mà đầu tư tiền của chủ dưới bất cứ hình thức nào.
3.2/ Đầy tớ khôn ngoan và phần thưởng trung thành: Điểm đặc biệt của ông chủ là ông không ra giá phải sinh lợi bao nhiêu, ông để cho các đầy tớ hòan tòan quyết định điều đó.
(1) Đầy tớ tài giỏi: Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Họ bắt đầu làm việc “ngay lập tức,” chứ không phí thời giờ chờ đợi.
(2) Phần thưởng trung thành: Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ:
- Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây." Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!"
- Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây." Ông chủ nói với người ấy: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!"
3.3/ Đầy tớ lười biếng và hình phạt:
- Phản ứng của người lãnh một yến: Đã không sinh lời cho chủ, anh còn tìm lý do để biện minh cho sự biếng lười của mình bằng cách tố cáo chủ: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!”
- Phản ứng của ông chủ: "Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
- Ý hướng của ông chủ: Ông không đặt nặng vấn đề lời lãi vì ông không ra giá phải sinh lời bao nhiêu phần trăm. Ông trao cho mỗi người tùy theo khả năng và ông mong họ cũng sinh lời cho ông tùy theo khả năng của họ. Điểm ông muốn nhắm tới ở đây là sự chăm chỉ làm việc; qua dấu chỉ này, các đầy tớ chứng tỏ cho ông biết họ có xứng đáng với lòng tin của ông vào họ hay không. Ông chủ nói rõ: “Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa cho chúng ta thời giờ, tài năng, sức khỏe, của cải vật chất trong cuộc đời là để cho chúng ta chăm chỉ làm việc sinh lời cho Thiên Chúa. Chắc chắn sẽ có ngày chúng ta phải tính sổ với Ngài. Nếu chúng ta luôn chăm chỉ làm việc, chúng ta sẽ không quan tâm đến ngày phải tính sổ; nhưng nếu chúng ta ngủ mê lười biếng, ngày ấy sẽ là ngày kinh hòang cho chúng ta.
- Chúng ta đừng bận tâm nhìn chung quanh để so sánh bản thân với người khác; nhưng để tâm xét mình để nhìn ra chúng ta có thể làm gì với những quà tặng Thiên Chúa đã ban. Ngài ban cho mỗi người tùy khả năng: ban càng nhiều thì phải sinh lời càng nhiều và ngược lại. Điều quan trọng không phải ở chỗ lời lãi; nhưng ở chỗ chúng ta chăm chỉ làm việc và trung thành sống xứng đáng với lòng tin tưởng của Thiên Chúa.
- Nếu chúng ta sống xứng đáng với sự tin tưởng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ban cho chúng ta thêm và cho chúng ta hưởng muôn vàn phúc lành khác; nhưng nếu chúng ta ngủ mê, than phiền, lười biếng, Ngài sẽ lấy đi tất cả và chúng ta sẽ phải khóc lóc suốt đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 32 TN2
Bài đọc: 3 Jn 5-8; Lk 18:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành trong việc cầu nguyện và làm việc bác ái
Con người thời nay làm việc gì cũng mong có kết quả tức khắc: học nghành gì để có việc ngay và kiếm được nhiều tiền dẫu mình không có khả năng về nghành đó, đầu tư vào những gì sẽ sinh lời ngay dẫu có nhiều nguy hiểm mất cả vốn. Thái độ này cũng lan tràn vào các mối liên hệ của con người với nhau và với Thiên Chúa. Con người không còn đủ kiên nhẫn để sửa sai cho mình và cho người khác, họ quyết định ly dị nhanh chóng sau vài ba lần khác biệt ý kiến. Tương tự như thế trong mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa: sau vài lần cầu xin mà không được như ý hay qua một vài đau khổ thử thách, họ mất niềm tin và chấm dứt mối liên hệ với Ngài. Nói tóm, họ không có đủ kiên nhẫn chờ đợi để nhìn thấy kết quả trong tương lai. Nhưng họ quên đi rằng việc gì cũng phải có thời gian của nó, và người thành công là người biết kiên trì chờ đợi và biết vượt mọi khó khăn để đạt đích. Các Bài đọc hôm nay cho chúng ta 2 lời khuyên về việc trung thành. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan khuyên các tín hữu phải trung thành trong việc giúp đỡ các nhà truyền giáo. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải trung thành trong việc cầu nguyện qua câu truyện bà góa và ông quan tòa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Trung thành làm việc bác ái.
1.1/ Bổn phận phải giúp đỡ mọi người: Yêu thương Thiên Chúa không chỉ bằng môi miệng, nhưng phải cụ thể hóa bằng những việc bác ái làm cho tha nhân; vì điều gì con người làm cho tha nhân là họ làm cho chính Thiên Chúa (Mt 25). Vì thế, các tín hữu có bổn phận phải giúp đỡ tất cả mọi người, nhất là những người cô thế cô thân. Thánh Gioan khuyên Gaio, cộng sự viên của ngài: “Anh thân mến, anh hành động theo đức tin trong mọi việc anh làm cho các người anh em, dù họ là những người xa lạ.”
Việc bác ái còn giúp con người nhận biết tình thương Thiên Chúa và tin vào Ngài, như Chúa Giêsu đã nói: “Sự sáng của các con cũng phải tỏ hiện để họ nhìn thấy các việc chúng con làm và ngợi khen Cha trên trời.” Mẹ Têrexa thành Calcutta đã đưa không biết bao nhiêu người trở lại với Thiên Chúa qua các việc bác ái Mẹ làm cho các người nghèo khổ khắp nơi trên thế giới, cách riêng tại Ấn-Độ. Thánh Gioan cũng thuật lại lời của một nhân chứng đã nhận sự giúp đỡ từ Gaio: “Họ đã làm chứng về đức bác ái của anh trước mặt Hội Thánh. Anh sẽ làm một việc nghĩa, nếu anh giúp đỡ cho chuyến đi của họ cách xứng đáng trước mặt Thiên Chúa.”
1.2/ Bổn phận phải giúp đỡ các nhà truyền giáo: Chính vì muốn cho mọi người nhận biết Chúa, các nhà truyền gíao đã hy sinh lên đường đi rao giảng Tin Mừng. Làm thế nào để các nhà truyền gíao đi lại và sinh sống nơi đất khách quê người? Họ không thể làm việc để kiếm tiền sinh sống vì nếu muốn có tiền sinh sống, họ có thể ở nơi quê hương của họ để làm việc kiếm tiền. Bổn phận truyền giáo không chỉ là bổn phận của họ, mà là bổn phận của mọi tín hữu. Vì thế, kẻ góp công người góp của, Thánh Gioan khuyên các tín hữu: “chúng ta phải tiếp đón những con người như thế, để cộng tác vào việc truyền bá sự thật.”
2/ Phúc Âm: Trung thành trong việc cầu nguyện
2.1/ Ông quan tòa vô đạo và bà góa quấy rầy: Mục đích tại sao Chúa Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn này là để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.
(1) Ông quan toà: chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, huống hồ một bà góa nghèo. Một thời gian khá lâu, ông không chịu nghe lời kêu xin của bà góa; nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: "Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc."
(2) Bà góa: Bà là người cô thân cô thế, chẳng có chồng để nương nhờ; vì thế, trở thành mồi ngon cho người khác hãm hại. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông quan tòa: "Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.” Bị ông quan tòa từ chối nhiều lần, nhưng Bà không nản chí và nhất định kiên trì xin cho tới khi được.
2.2/ Thiên Chúa yêu thương các con của Ngài: Chúa Giêsu so sánh ông quan tòa vô đạo đó với Cha của Ngài, và bảo đảm sự đáp trả: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ.”
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Thiên Chúa sẽ ban cho con người tất cả những gì họ xin, vì:
- con người có thể xin những gì có hại cho mình: Con người không nhìn được trước tương lai nên không biết hậu quả của những gì mình xin; ví dụ: việc xin cho trúng số có thể đưa tới tan nát gia đình, hay xin cho được quyền hành có thể đưa con người đến chỗ thiệt mạng.
- con người có thể xin những gì làm hại người khác: chẳng hạn, xin tiêu diệt kẻ thù. Họ quên đi kẻ thù cũng là con của Chúa.
Cách xin tốt nhất là hãy để cho Chúa chọn những gì có lợi cho mình và mọi người. Có một câu truyện kể về một vị vua kia muốn để gia tài lại cho các con của mình. Để dạy cho các con một bài học, Vua cho để những món quà quí giá trong những hộp xấu xí và để những món quà xòang trong những hộp đẹp. Các hòang tử được nhà Vua cho tự ý chọn lựa, và hầu hết chọn những hộp đẹp. Khi đến lượt chàng hòang tử út, anh tần ngần một lúc rồi nói với Vua Cha: “Con không biết chọn, xin cha chọn cho con.” Vua Cha đã chọn phần quà tốt nhất cho con, vì chỉ Vua biết đâu là món quà giá trị nhất.
Sau đó Chúa nói: "Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?" Đức tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô là món quà vô giá Thiên Chúa ban cho con người, nhưng để bảo vệ đức tin và làm cho đức tin ngày một tăng trưởng là bổn phận của con người. Để đức tin được tăng trưởng, đau khổ thử thách là điều không thể thiếu. Nếu xin chưa được, con người không được nản chí thất vọng, nhưng càng phải kiên trì xin cho tới khi được.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải học kiên nhẫn chờ đợi và vuợt mọi khó khăn thử thách thì mới có thể thành công trong cuộc đời.
- Chúng ta phải trung thành làm việc lành cho tất cả mọi người, nhất là giúp đỡ các nhà truyền giáo trong việc mở mang Nước Thiên Chúa.
- Chúng ta phải kiên trì trong việc cầu nguyện và xin ơn. Thiên Chúa có thể thử thách không ban ngay để chúng ta có thời giờ nhìn ra giá trị của điều đang xin, hay Ngài có thể ban cho chúng ta điều khác tốt hơn nếu Ngài thấy điều chúng ta xin không có lợi sau này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 32 TN2
Bài đọc: 2 Jn 4-6; Lk 17:26-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải yêu mến Thiên Chúa hơn yêu những gì Ngài tạo dựng.
Con người thường có khuynh hướng yêu thích những gì đẹp trước mắt hơn những giá trị cao quí ẩn dấu bên trong. Chẳng hạn, yêu thích những món ăn ngon mà quên đi tình thương của người đã bỏ thời giờ, tiền của để chuẩn bị bữa ăn đó; đến nỗi nhiều khi một tiếng cám ơn cũng quên không nói. Đối với Thiên Chúa cũng vậy, con người nhiều khi quá yêu thích những tạo vật do Thiên Chúa tạo dựng mà quên đi tình thương của Ngài; đến nỗi nhiều khi quên luôn đích điểm của cuộc đời là về sống với Chúa muôn đời. Các Bài đọc hôm nay nhắc nhở con người phải biết quí trọng những gì có giá trị vĩnh cửu hơn là những hào nhóang chóng qua. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan nhắc nhở cho tín hữu của ngài biết giá trị cao quí của tình yêu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tiếp tục nhắc nhở cho con người phải luôn biết chuẩn bị cho Ngày Chúa đến lần hai; để đừng bị tiêu diệt như Nạn Hồng Thủy thời ông Noe và Mưa Diêm Sinh thời ông Lot.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
/ Bài đọc I: Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa.
1.1/ Yêu thương là điều răn đã có từ lúc khởi đầu: Đối với Thánh Gioan, điều quan trọng hơn hết mọi sự là tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Chỉ có một tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa, lan tràn qua Đức Kitô, và chảy xuống tất cả mọi người. Ngài nói điều răn này đã có từ ban đầu, được khắc trong Thập Giới và ban cho con người qua ông Mose: 3 điều liên quan đến Thiên Chúa và 7 điều liên quan đến tha nhân. Chúa Giêsu đã tóm gọn mọi Lề Luật trong 2 giới răn: mến Chúa yêu người. Thánh Phaolô đẩy xa hơn khi ngài nói, cả 3 nhân đức tin, cậy, mến đều quan trọng trong cuộc đời, nhưng chỉ có một nhân đức tồn tại muôn đời khi con người về với Thiên Chúa là đức mến. Đó là lý do tại sao Thánh Gioan viết cho tín hữu của người: “Tôi rất vui mừng vì đã gặp thấy trong số con cái của Bà, những người sống trong sự thật, đúng như điều răn chúng ta đã nhận được từ Chúa Cha. Thưa Bà, bây giờ tôi xin Bà điều này - đây không phải là một điều răn mới tôi viết ra, nhưng là điều răn chúng ta đã có từ lúc khởi đầu - đó là: chúng ta phải yêu thương nhau.”
1.2/ Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa: Con người dễ bị lẫn lộn khi đứng trước quá nhiều Luật Lệ của Cựu Ước. Đó là lý do tại sao một Kinh-sư đã hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy trong các giới răn, giới răn nào quan trọng nhất.” Chúa Giêsu đã trả lời: “Yêu mến Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình.” Rất nhiều các thánh đã nhận ra chân lý khi tìm hiểu hai giới răn này. Thánh Phaolô nói: “Yêu thương là chu tòan mọi Lề Luật.” Thánh Thomas Aquinô: yêu thương là động lực thúc đẩy con người mong muốn mọi sự tốt lành cho tha nhân và không bao giờ muốn làm hại họ. Lề Luật chỉ có thể cầm giữ hai tay; nhưng yêu thương có thể cầm giữ cả trí khôn và con tim. Thánh Gioan trong đọan văn hôm nay cũng nhận ra điều đó: “Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa. Như anh em đã được nghe từ lúc khởi đầu, điều răn này là: anh em phải sống trong tình thương.”
2/ Phúc Âm: Ngày Chúa đến lần thứ hai
2.1/ Con người không chuẩn bị: Mặc dù đã được báo trước về tai họa sắp xảy ra, nhưng con người vẫn ngoan cố không chịu chuẩn bị. Tại sao con người không chịu chuẩn bị? Họ có thể nghĩ chuyện đó không bao giờ có thể xảy ra: Kinh nghiệm dạy con người: không ai học được chữ ngờ; chẳng hạn: vụ không tặc khủng bố 9/11 hay cơn bão Katrina. Hay chuyện đó còn lâu mới tới: cứ việc vui chơi ăn uống cho tới khi nhận ra những tín hiệu báo trước rồi ăn năn cũng không muộn. Nhưng một lý do có lẽ chính đáng hơn cả là vì con người quí trọng vật chất hơn Đấng đã tạo dựng ra chúng. Chúa Giêsu gợi lại 2 biến cố đã xảy ra và được ghi lại trong Sách Sáng Thế Ký để dẫn chứng sự khờ dại của những người không chịu chuẩn bị:
(1) Nạn lụt Hồng Thủy: “Cũng như thời ông Nôê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nôê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả.”
(2) Mưa lửa diêm sinh từ trời: “Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót: thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. Nhưng ngày ông Lot ra khỏi Sođom, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả.”
Và Chúa kết luận: “Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, Ngày Con Người được mặc khải.”
2.2/ Những gì sẽ xảy ra và việc cần làm trong Ngày Tận Thế.
(1) Sự việc sẽ xảy ra nhanh chóng, con người sẽ không có thời giờ chuẩn bị. Khi sự việc đó xảy ra, con người cần ý thức:
- Không phải là lúc để bảo vệ của cải: “Ngày ấy, ai ở trên mái nhà mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy.”
- Không phải là lúc quay trở về nhà: Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót: vì không nghe lời sứ thần Thiên Chúa dạy nên tiếc của ngóai đầu trở lại, đã bị hóa thành cột muối.
- Phải can đảm để trốn thóat: “Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống.”
(2) Không có sự lẫn lộn giữa người lành và kẻ dữ trong ngày đó: Sứ thần của Thiên Chúa biết phân biệt rõ người lành ra khỏi kẻ dữ; các ngài sẽ đóng ấn trên các tôi tớ của Thiên Chúa trước khi các sứ thần khác ra tay tàn sát. Chúa Giêsu trưng dẫn 3 ví dụ cho sự chính xác này: “Thầy nói cho anh em biết: đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.”
(3) Đâu là chỗ người lành được đem đi và kẻ dữ bị bỏ lại? Các môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy, ở đâu vậy?"
- Nơi của kẻ dữ: Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp nhưng nói với các ông câu châm ngôn: "Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó." Tất cả những người khinh thường không chịu chuẩn bị sẽ bị tiêu diệt; và xác của họ sẽ bị diều hâu bâu tới rúc rỉa.
- Chỗ của người lành: Chúa Giêsu không cho biết ở đây; nhưng như gia đình của Noe và của Lot, họ sẽ thóat mọi nguy hiểm và được sống muôn đời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hai điều kiện cần để chuẩn bị cho Ngày Chúa đến là vững tin nơi Đức Kitô và sống yêu thương mọi người.
- Chúa đã cảnh cáo con người nhiều lần và khuyên con người phải tỉnh thức sẵn sàng trong khi chờ đợi Ngày Chúa đến lần thứ hai. Dẫu vậy, sẽ có rất nhiều kẻ khinh thường không chịu chuẩn bị cho đến giây phút cuối và bị hư đi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 32 TN2
Bài đọc: Phm 7-20; Lk 17:20-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những dấu chỉ để nhận ra Triều Đại của Thiên Chúa trong tâm hồn.
Con người thường phán xét theo những gì họ xem thấy bên ngòai. Họ muốn dùng những tiêu chuẩn bên ngòai để xác định khi nào Đấng Thiên Sai và khi nào Ngày Phán Xét tới. Khác với con người, Thiên Chúa phán xét theo những gì Ngài thấy bên trong. Ngài mời gọi con người nhìn sâu vào tâm hồn bên trong, để nhận ra những tiêu chuẩn của Nước Trời. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô cố gắng thuyết phục Philemon nhận lại người nô lệ của ông đã lỡ dại trốn đi. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cho biết để nhận ra triều đại của Thiên Chúa đến hay chưa, con người không thể dựa vào những sự kiện bên ngòai, nhưng phải dựa vào những thay đổi trong tâm hồn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải lấy tình bác ái mà đối xử với nhau.
Thư Thánh Phaolô gởi cho Philemon, cộng sự viên của ngài, chỉ vỏn vẹn trong hai trang và liên quan chỉ một vấn đề chính: Ngài xin ông nhận lại người nô lệ, Oneximo, đã trót dại bỏ trốn qua Roma tìm tự do. Nhiều người đã so sánh việc Phaolô bầu cử cho Oneximo như việc Chúa Giêsu bầu cử cho con người trước tòa Thiên Chúa. Đức bác ái của Kitô Giáo được nhấn mạnh trong tòan thể thư này:
(1) Thánh Phaolô khen đức bác ái của Philemon: Ngay từ đầu thư, Phaolô đã đề cao đức bác ái của Philemon: “Thật thế, tôi rất vui mừng và lấy làm an ủi, khi thấy đức bác ái của anh, bởi vì, thưa anh, anh đã làm cho lòng trí các người trong dân thánh được phấn khởi.”
(2) Ngài nhân danh đức bác ái xin Philemon làm cho Ngài một chuyện: nhận lại Oneximo. Theo luật của Roma thời đó, người chủ có tòan quyền trên nô lệ của mình. Nếu người nô lệ trốn đi và bị chủ bắt lại, anh có thể bị chủ giết chết. Thánh Phaolô rất hiểu tâm lý: Con người không thích bị bắt buộc phải làm, nhưng muốn có tự do để quyết định, nên Ngài nói với Philemon: “Mặc dầu nhờ kết hợp với Đức Kitô, tôi có đủ mạnh dạn để truyền cho anh làm điều anh phải làm; nhưng tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh hơn, để xin anh làm điều đó. Tôi, Phaolô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Kitô Giêsu.”
(3) Thánh Phaolô đối xử bác ái với Oneximo: Ngài không coi anh như một người nô lệ nhưng như một người con ruột thịt. Ngài nói với Philemon: “Tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Oneximo, kẻ xưa kia đối với anh là vô dụng, thì nay đã thành người hữu ích cho cả anh lẫn tôi, tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi.”
(4) Thánh Phaolô quan tâm đến người khác nhiều hơn mình: Mặc dù ngài muốn giữ Oneximo ở lại để giúp đỡ ngài trong lúc già yếu và tù đày, nhưng Oneximo thuộc về Philemon; vì thế chỉ Philemon mới có quyền quyết định: “Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện.”
(5) Thánh Phaolô khuyên Philemon nên đối xử tốt với Oneximo: không phải như một người nô lệ nữa, mà như một người anh em trong gia đình và trong Chúa: “Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa.”
(6) Thánh Phaolô coi việc tiếp nhận Oneximo là tiếp nhận chính ngài: “Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi.” Và Ngài xin Philemon cho ngài được hưởng ân huệ này nhờ Đức Kitô: “Xin anh cho tôi được hưởng niềm vui đó trong Chúa. Anh hãy làm cho lòng trí tôi được phấn khởi trong Đức Kitô.”
2/ Phúc Âm: Triều Đại của Thiên Chúa đang ở giữa các ông.
2.1/ Khi nào triều đại của Thiên Chúa đến? Các động từ chính liên quan đến “triều đại của Thiên Chúa” trong câu 21 và 22 đều được dùng ở thời hiện tại. Điều này chứng tỏ Thánh Luca muốn phân biệt triều đại của Thiên Chúa đến trong trần gian với Ngày Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai trong 4 câu kế tiếp. Triều đại của Thiên Chúa đã đến trong trần gian, nhưng để nhận ra con người không thể:
- dựa vào những dấu chỉ bên ngòai như lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: Ở đây này! hay Ở kia kìa!” nhưng phải nhận ra nhờ những dấu chỉ bên trong như đức tin vào Thiên Chúa, sống bác ái với mọi người.
- triều đại của Thiên Chúa đang ở giữa (hiện tại) các ông: Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa. Nhận ra Đức Kitô và tin vào Ngài là dấu hiệu Triều Đại của Thiên Chúa đã đến trong lòng mỗi tín hữu.
2.2/ Khi nào Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai? Các động từ chính của cả 3 câu 22, 23, 24 đều được dùng ở thời tương lai. Câu 25 là lời tiên tri: Chúa Giêsu báo trước những gì sắp xảy ra cho Ngài trong tương lai gần. Về Ngày Chúa Giêsu sẽ đến lần thứ hai:
- Không ai biết được thời gian: “Vì thế, khi người ta sẽ bảo anh em: Người ở kia kìa! hay Người ở đây này! Anh em đừng đi, đừng chạy theo.”
- Không ai biết được nơi chốn: “Vì như ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong Ngày của Người.”
- Các môn đệ biết những gì sắp xảy ra cho Chúa Giêsu trong tương lai gần: “Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.” Khi chứng kiến những sự kiện này, các môn đệ sẽ biết triều đại của Thiên Chúa đã đến trong thế gian. Sau đó, Chúa Giêsu sẽ được cất đi khỏi các ông. Lúc đó, các ông sẽ mong sống lại những ngày với Chúa Giêsu, nhưng không còn nữa: “Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một trong những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có thể nhận ra Triều Đại của Thiên Chúa đã đến với chúng ta bằng niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô, biểu lộ qua việc bác ái chúng ta đối xử với những người chung quanh, nhất là những người kém may mắn, như Phaolô khuyên Philemon đối xử với Onesimo, người nô lệ.
- Triều đại của Thiên Chúa đến không từ bên ngòai để chúng ta có thể nhận ra như những vương quốc của trần gian; nhưng chúng ta có thể nhận ra triều đại của Thiên Chúa đã đến trong tâm hồn nhờ vào những dấu chỉ bên trong như ăn năn xám hối, tin vào Đức Kitô, và sống bác ái với mọi người.
- Về Ngày Chúa đến lần hai, Chúa Giêsu đã nói rõ: Chắc chắn Ngày đó sẽ xảy ra, nhưng không ai biết được thời gian và nơi chốn. Vì thế, đừng tiên đóan hay tin ai cho biết về Ngày đó. Tốt hơn, chúng ta nên chuẩn bị và sẵn sàng chờ đợi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 32 TN2
Bài đọc: Tit 3:1-7; Lk 17:11-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết ơn
Rất nhiều người ngày nay quí chó hơn con người; lý do đơn giản là chó biết ơn và trung thành hơn con người. Chỉ cần cho nó một cục xương là chó đã vẫy đuôi rối rít để cám ơn. Chó sẵn sàng hy sinh để bảo vệ chủ khỏi nguy hiểm. Trong khi đó, con người càng ngày càng vô ơn; nhiều cha mẹ thấy con đối xử quá tệ bạc với mình đã phải thốt lên: “Nếu biết trước con thế này, chẳng thà đẻ ra cái trứng luộc ăn còn tốt hơn!” Chúng ta không thích người vô ơn, nhưng rất nhiều lần chúng ta đã vô ơn Thiên Chúa. Các Bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm để nhìn ra những gì Thiên Chúa đã làm cho con người, để giúp chúng ta biết cám ơn Thiên Chúa và biết sống thế nào cho xứng với những hồng ân Ngài đã ban cho.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nhận ra ơn bằng cách nhận ra sự khác biệt trước và sau khi trở lại.
(1) Tình trạng các tín hữu trước khi trở lại: Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu nhìn lại quá khứ của họ: “Thật vậy, cả chúng ta nữa, xưa kia chúng ta cũng ngu xuẩn, không vâng lời, lầm lạc, làm nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống trong gian ác và ganh tị, đáng ghét và ghen ghét lẫn nhau.”
(2) Tình trạng các tín hữu sau khi trở lại: Lý do của sự khác biệt: không phải do sự cố gắng của con người, nhưng là do lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Ngài đối với nhân loại qua việc ban cho con người 2 hồng ân quan trọng:
- Ban Đức Giêsu Kitô: Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Thiên Chúa thương xót, nên Ngài đã ban cho chúng ta Người Con Một duy nhất là Đức Kitô, để những ai tin vào Đức Kitô, sẽ được tha thứ mọi tội và trở nên công chính.
- Ban Chúa Thánh Thần: Qua Bí-tích Rửa Tội, Thiên Chúa đã ban cho con người Chúa Thánh Thần để con người được tái sinh và đổi mới: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta.”
(3) Để cảm tạ những hồng ân của Thiên Chúa ban, con người phải sống cuộc đời tốt lành với tha nhân. Thánh Phaolô nhắc nhở cho Titô: “Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người.”
2/ Phúc Âm: Lòng biết ơn.
Bài Phúc Âm này được đọc trong ngày Lễ Tạ ơn mỗi năm. Mục đích là để nhắc nhở cho con người biết nhận ra ơn và cám ơn Thiên Chúa.
2.1/ Phải biết ơn trước khi cám ơn: Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!"
- Tình trạng bi thảm của những người phong cùi: Vì người Do-Thái rất chú trọng đến vấn đề thanh sạch bên ngòai, những người phong cùi không được ở chung với dân; mà phải sống cách biệt bên ngòai làng của dân ở (Lev 13:46, Num 5:2). Họ không được phép tiếp xúc trực tiếp với dân và phải la lớn để mọi người được biết sự có mặt của họ mà tránh đi (Lev 13:45).
- Để chứng tỏ mình đã hết bệnh phong cùi, họ phải được xem xét cẩn thận bởi các tư tế. Khi nào các tư tế tuyên bố họ đã sạch; bấy giờ họ có thể trở về sinh họat bình thường với dân trong làng (Lev 14:2-3). Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế." Đang khi đi thì họ được sạch.
2.2/ Những người “ở ngòai” dễ nhận ra ơn hơn những người “ở trong”:
- Tâm tình biết ơn của người Samaria: Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samaria. Đức Giêsu nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?"
- Người Do-Thái khinh thường và sống xa cách với người Samaria. Điểm lạ ở đây là 9 người phong Do-Thái khi bị chính dân mình khai trừ đã mở rộng vòng tay cho người phong Samaria được sống chung với họ. Khi con người bị đau khổ và bỏ rơi, có lẽ con người dễ đòan kết và sống chung với nhau hơn.
- Người Samaria, tuy bị người Do-Thái khinh thường, nhưng nhiều lần được chính Chúa Giêsu khen tặng. Trong câu truyện “Ai là người thân cận của tôi?” Chúa Giêsu đã đề cao người Samaria Nhân Hậu hơn các thầy tư tế và Lêvi, vì ông là người biết tỏ lòng thương xót với người bị đánh trọng thương dọc đường: ông đã vực người trọng thương lên lừa và đưa về quán trọ săn sóc cẩn thận và hứa sẽ trả mọi phí tổn tương lai cho chủ quán trọ (Lk 10:30-37). Trong cuộc đàm thọai giữa Đức Kitô và người phụ nữ xứ Samaria, chị đã trở thành nhà truyền giáo đầu tiên của Chúa Giêsu, nhiệt thành loan báo về Người cho các dân trong làng của chị (Jn 4:39-41).
- Biết ơn là xứng đáng đón nhận thêm ơn: Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." Không phải chỉ được thanh sạch bên ngòai, anh còn được thanh sạch cả bên trong. Chính vì lòng tin mà anh đã xứng đáng được hưởng ơn cứu độ.
2.3/ Tại sao con người vô ơn? Có nhiều lý do: (1) vì con người không chịu suy nghĩ để nhận ra ơn, họ nghĩ mọi sự trên đời tự nhiên mà có mà không cần suy nghĩ tại sao nó có; (2) họ giả sử tất cả mọi người phải hành động như vậy: là Thiên Chúa phải ban ơn; là cha mẹ phải nuôi nấng con cái; là thầy phải dạy dỗ học sinh; và (3) họ sợ nếu nhận ra ơn, họ phải trả ơn. Vì thế, họ vô ơn:
(1) với Thiên Chúa: Đấng đã dựng nên và không ngừng ban mọi ơn lành cho họ. Ngày Lễ Tạ Ơn là dịp để con người nhận ra và tạ ơn Thiên Chúa qua việc tham dự Thánh Lễ và làm ơn cho những người kém may mắn; nhưng thử hỏi được bao nhiêu người làm những điều này? Thay vào đó, họ lo tổ chức ăn uống vui chơi cho bản thân và cho gia đình họ.
(2) với cha mẹ: những người đã cưu mang, nuôi nấng, và dạy dỗ họ trong suốt một phần tư của cuộc đời. Lẽ ra, khi cha mẹ về già không còn tự săn sóc mình được nữa, họ phải phụng dưỡng và săn sóc trở lại, thì họ lại cho vào các nhà hưu dưỡng rồi tự an ủi mình: “chính phủ sẽ săn sóc các ngài tốt hơn ta.”
(3) với tha nhân: những người đi trước nhiều khi đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu, xây dựng, và phát minh ra những tiện nghi mà chúng ta đang được hưởng. Bổn phận của những người thụ hưởng là tiếp tục để làm cho thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn chứ không phải chỉ ù lỳ thụ hưởng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Phải biết nhìn nhận và so sánh để nhận ra ơn. Đã nhận ơn phải biết nói lời cám ơn.
- Cám ơn xuông chưa đủ, mà còn phải biết thi ơn cho người đã làm ơn hay cho người khác để sự tốt lành tiếp tục lan tràn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 32 TN2
Bài đọc: Tit 2:1-8, 11-14; Lk 17:7-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người có bổn phận phục vụ Thiên Chúa.
Trong lãnh vực thương mại, khi một người ra ngân hàng mượn tiền, họ có bổn phận phải trả lại cho ngân hàng cả vốn lẫn lời. Cùng một cách như vậy đối với Thiên Chúa, Ngài đã cho con người vay tất cả mọi sự: tình yêu, ơn thánh, sự sống, khôn ngoan, tài năng, thời gian, của cải vật chất. Con người phải trả lại tương xứng tất cả những gì Thiên Chúa đã cho vay, và còn phải hơn thế nữa cho phân lời. Khi hòan tất cả vốn lẫn lời, con người mới chỉ chu tòan bổn phận mà thôi. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô nhắc nhở Titô bổn phận phải trau dồi kiến thức cũng như đức hạnh trước khi có thể gíao dục mọi thành phần Dân Chúa trong giáo đòan. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chỉ dạy các môn đệ: Thiên Chúa không cần phải biết ơn con người; vì nếu con người hết lòng phục vụ Thiên Chúa, họ mới chỉ chu tòan bổn phận của họ mà thôi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải giáo dục mọi thành phần của Dân Chúa biết sống tốt lành.
Thư gởi Titô là một trong các Thư Mục Vụ. Gọi là các Thư Mục Vụ vì nội dung liên quan đến đời sống các tín hữu. Bổn phận người lãnh đạo là phải giáo dục và chăm sóc mọi thành phần trong giáo đòan, không được lơ là bất cứ một thành phần nào. Đọan văn hôm nay nói tới:
1.1/ Bổn phận giáo dục mọi thành phần trong Giáo-đòan của Titô:
(1) Bản thân người lãnh đạo: Không ai có thể cho cái mình không có nên Phaolô khuyên Titô phải biết trau dồi bản thân về cả 2 phương diện tri thức và đức hạnh:
- về phương diện tri thức: Lãnh đạo phải khôn ngoan sáng suốt. Điều quan trọng trước tiên là phải rành rẽ đạo lý mình tin tưởng: “Khi anh giảng dạy thì đạo lý phải tinh tuyền, thái độ phải đàng hoàng, lời lẽ phải lành mạnh, không ai bắt bẻ được, khiến đối phương phải bẽ mặt, vì không thể nói xấu chúng ta được điều gì… Hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh.”
- về phương diện đức hạnh: Không phải chỉ dạy đạo lý thôi, mà “chính anh hãy làm gương về mặt đức hạnh.”
(2) Các thành phần trong cộng đòan: Người lãnh đạo không được chỉ chú trọng đến một hay vài giới trong dân, nhưng phải giáo dục mọi thành phần của Dân Chúa. Lý do đơn gỉan: tất cả đều là các chi thể của một thân thể; và nếu một chi thể đau, tòan thân sẽ phải chịu cùng hậu quả. Thánh Phaolô khuyên Titô nên dạy:
- Các cụ ông: Là những người chủ trong gia đình, họ có bổn phận làm gương và hướng dẫn gia đình của họ: “Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến, và đức nhẫn nại.”
- Các cụ bà: Phúc đức tại mẫu. Các bà có bổn phận dạy dỗ con: “Phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành.”
- Các thiếu nữ: Các bà mẹ phải dạy cho những bà mẹ tương lai: “biết yêu chồng, thương con, biết sống chừng mực, trong sạch, chăm lo việc nhà, phục tùng chồng, để lời Thiên Chúa khỏi bị người ta xúc phạm.”
- Các thanh niên: Anh cũng hãy khuyên các thanh niên phải giữ chừng mực trong mọi sự.
1.2/ Lý do tại sao phải sống tốt lành: Thánh Phaolô đưa ra 3 lý do:
(1) Ân sủng của Thiên Chúa ban: là để sống tốt lành. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này.
(2) Niềm hy vọng vào cuộc sống đời sau: Mọi tín hữu phải sống tốt lành vì “chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang.” Trong ngày đó, con người sẽ phải lãnh nhận hậu quả cho các việc mình đã làm.
(3) Là Dân Riêng của Thiên Chúa: Các tín hữu đã được rửa sạch bằng Máu Thánh của Đức Kitô, nên họ phải sống cuộc đời thanh sạch: “Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân Riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.”
2/ Phúc Âm: Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.
2.1/ Bổn phận và việc thiện nguyện: Để hiểu ý nghĩa đọan văn ngắn này, chúng ta cần phân biệt 2 hành động:
(1) Bổn phận phải làm: Bổn phận của đầy tớ là phải phục vụ chủ, không cần biết việc phải làm nhiều đến đâu: "Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: "Mau vào ăn cơm đi!" chứ không bảo: "Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!” Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?”
(2) Việc thiện nguyện: Nếu một người không phải là đầy tớ, mà tình nguyện phục vụ người khác; đó mới là việc thiện nguyện. Người lãnh nhận phải biết ơn người tình nguyện phục vụ.
2.2/ Thiên Chúa có cần phải biết ơn con người? Cũng vậy, con người có bổn phận phục vụ Thiên Chúa, vì Ngài đã dựng nên con người; đồng thời Ngài đầu tư vào con người tất cả những gì cần thiết để làm việc sinh lời cho Ngài: ơn thánh, thời gian, sức khỏe, tài năng… Khi con người ra sức làm việc để sinh lời tương xứng cho Chúa, đó mới chỉ là hòan tất bổn phận hay công bằng, vì mượn vốn thì phải trả cả lời lẫn vốn. Vì mọi sự trên đời là của Thiên Chúa, nên Ngài không cần phải biết ơn con người như Chúa Giêsu nói hôm nay: “Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa ưu đãi và đối xử tốt với con người như trong trình thuật khác của Luca: “Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ” (Lk 12:37); đó là vì Ngài quá thương yêu con người mà thôi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Bổn phận của người lãnh đạo cộng đòan là phải giáo dục đức tin và nhân bản cho mọi thành phần trong giáo đòan. Để có thể chu tòan bổn phận, người lãnh đạo trước tiên phải có một đức tin vững mạnh, khôn ngoan học hỏi, dạy dỗ mọi thành phần, và phải làm gương sáng cho mọi người.
- Chúng ta phải ra sức tận dụng những quà tặng Thiên Chúa ban: sự sống, ơn thánh, thời gian, khôn ngoan, tài năng, của cải vật chất, để sinh lời cho Ngài.
- Cho dẫu hòan tất tốt đẹp và trả lại tương xứng cho Thiên Chúa, con người cũng không có quyền đòi Thiên Chúa phải biết ơn họ; vì họ mới chỉ làm tròn bổn phận đã được giao phó mà thôi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 32 TN2
Bài đọc: Tit 1:1-9; Lk 17:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người môn đệ Đức Kitô phải tin mình có thể làm thế giới tốt hơn.
Sống trong một thế giới có quá nhiều gương xấu: tranh giành, ghen ghét, hận thù, bạo lực, chiến tranh, con người thường dễ có thái độ an phận tránh né hay phê bình chỉ trích. Người xưa dạy: “Thà thắp sáng một ngọn nến hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối.” Người môn đệ Đức Kitô phải tin mình có thể làm thế giới tốt hơn bằng việc rao giảng Tin Mừng và bằng việc chọn lựa các nhà lãnh đạo tốt lành. Các Bài đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra những gì mình có thể làm cho thế giới đang sống tốt hơn: Bài đọc I tường thuật sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Phaolô và sứ vụ tổ chức lãnh đạo của Titô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cần tránh làm cớ cho người khác vấp phạm, phải sửa dạy, và sẵn sàng tha thứ cho tha nhân; nhưng trên hết tất cả phải có đức tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa Đấng có thể làm mọi sự, và vào sự có thể thay đổi của tha nhân.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Rao giảng Tin Mừng và lãnh đạo giáo đòan.
Thư của Thánh Phaolô gởi cho cộng sự viên của ngài, Titô, cho chúng ta cái nhìn vào một trong những giáo đoàn các tín hữu đầu tiên tại Đảo Crête. Tuy việc rao giảng Tin Mừng để làm cho con người tin vào Đức Kitô là điều đầu tiên và quan trọng hơn cả; nhưng việc tổ chức giáo đòan để bảo vệ đức tin của các tín hữu giữa bao nhiêu cám dỗ nguy hiểm của ba thù là điều không kém phần quan trọng. Thánh Phaolô đã khôn ngoan nhìn nhận ra điều này nên đã cắt đặt các cộng sự viên như Timôthê và Titô, và đặt ra những điều kiện cần thiết để các ông lựa chọn các Kỳ-mục và Giám-quản để lãnh đạo các giáo đòan tại địa phương.
1.1/ Sứ vụ của Phaolô: Thánh Phaolô liệt kê 3 điều ngài phải làm cho các tín hữu:
(1) Trước tiên, đưa những kẻ Thiên Chúa chọn đến đức tin.
(2) Sau đó, phải hướng dẫn để họ nhận biết chân lý cho phù hợp với đạo thánh.
(3) Sau cùng, phải hướng dẫn họ biết sống làm sao để đạt được sự sống đời đời mà Thiên Chúa, Đấng không hề nói dối, đã hứa từ thuở đời đời.
1.2/ Sứ vụ của Titô: Thánh Phaolô sớm nhận ra một mình ngài không thể chu tòan mọi công việc, mà phải cần đến sự cộng tác của nhiều người. Nhưng trước khi giao cho họ sứ vụ, ngài phải chọn và huấn luyện các cộng sự viên. Điều cần thiết nhất và trên hết là tất cả phải đều có một đức tin chung: tin Thiên Chúa là Cha và tin Đức Kitô là Đấng Cứu Độ. Chính đức tin chung này là động lực cần thiết để giúp xóa bỏ mọi khác biệt và cùng nhau làm việc để phát triển Nước Thiên Chúa. Thánh Phaolô lặp lại những gì ngài mong muốn Titô làm: “Tôi đã để anh ở lại Đảo Crête, chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và đặt những kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh.” Ngài thiết lập các điều kiện cần thiết để lựa chọn hai giới lãnh đạo trong giáo đòan:
(1) Kỳ-mục (presbusteros = lớn tuổi): Cũng giống như truyền thống Do-Thái, những người lớn tuổi được chọn trong dân là một thành phần của Ban Lãnh Đạo. “Kỳ mục phải là người không chê trách được, chỉ có một đời vợ, con cái cũng tin đạo, và không mang tiếng là sống phóng đãng hay bất phục tùng.” Vì Kỳ-mục là người sống giữa dân, nên đức tin và tư cách của họ và gia đình sẽ được mọi người chung quanh quan sát: Nếu họ không tu thân tề gia trước, làm sao họ có thể hướng dẫn người khác?
(2) Giám-quản (episkopos = giám mục, người đứng đầu): là người đứng đầu và chịu trách nhiệm trước Hội-Thánh về giáo đòan địa phương. Vì đây là chức vụ địa phương quan trọng, nên Thánh Phaolô không những ra điều kiện về những tật xấu không nên có, mà còn những đức tính phải có khi lựa chọn Giám-quản:
- không có các thói quen xấu: phải là người không chê trách được, không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn.
- phải có những đức tính tốt: phải hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ. Người ấy phải gắn bó với lời đáng tin cậy và đúng đạo lý: để vừa có khả năng dùng giáo lý lành mạnh mà khuyên nhủ, vừa có khả năng bẻ lại những kẻ chống đối.
2/ Phúc Âm: Đời sống đạo của người Kitô hữu
Trình thuật hôm nay đưa ra 3 điều liên quan đến đời sống của Kitô hữu, mỗi điều tóm gọn trong 2 câu:
2.1/ Cớ làm cho người ta vấp ngã: Tiếng Hy-Lạp dùng chữ cớ làm cho người ta vấp ngã, skandalon. Từ ngữ này có 3 ý nghĩa:
(1) cái bẫy: để bắt chuột, cái đinh trên đường để làm nổ bánh xe người khác;
(2) nguyên nhân cho tội: các sòng bài, tửu lầu, nhà chứa, websites xấu, nói hành, nói chơi giỡn; ngay cả Thập Giá của Chúa Giêsu cũng là nguyên nhân cho tội nơi những người không tin;
(3) người làm cho người khác sa ngã: khách đưa đường, người mặc quần áo khêu gợi, khinh thường trẻ nhỏ … Chúa Giêsu gọi Phêrô là Satan vì ông trở thành cớ cho Chúa phạm tội.
Không có lửa thì làm sao có khói! Không có cớ thì sẽ không có tội. Không thể không có cớ làm con người sa ngã trong thế giới; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người khác vấp ngã. Những người làm cớ cho các trẻ nhỏ phạm tội nặng hơn vì chúng chưa đủ trí khôn để suy nghĩ tốt xấu. Đối với hạng người này, cần buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển cho chết.
2.2/ Sửa lỗi và tha thứ: Trình thuật của Matthêu về 2 đề tài này rõ ràng hơn (x/c Mt 18:15, 21-22). Trong Luca, 2 đề tài được tóm gọn lại trong 2 câu: (1) Phải sửa lỗi trước và tha thứ nếu ăn năn: Chúa Giêsu nói: “Anh em hãy đề phòng! Nếu người anh em của anh xúc phạm đến anh thì hãy khiển trách nó; nếu nó hối hận thì hãy tha thứ cho nó.” (2) Phải luôn luôn tha thứ: “Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: "Tôi hối hận", thì anh cũng phải tha cho nó.”
2.3/ Sức mạnh của đức tin: Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con," vì không dễ để tránh làm cớ cho người khác phạm tội và không dễ để luôn tha thứ cho người xúc phạm đến mình. Chúa đáp: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em.” Thái độ tin tưởng cần thiết để ra tay làm việc: nếu không có thái độ này, sẽ không thể hòan tất bất cứ điều gì. Thiên Chúa không truyền cho con người làm điều không thể: Nếu con người tin nơi Thiên Chúa, họ có thể làm những chuyện không ngờ; vì không có điều gì là không thể đối với Thiên Chúa. Lịch sử đã nhiều lần chứng minh những điều này: các phép lạ thực sự xảy ra.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tin mình có thể xây dựng thế giới tốt đẹp hơn: (1) bằng việc rao giảng Tin Mừng hay bằng việc cắt cử những nhà lãnh đạo tốt lành; hay (2): tạo môi trường sống lành mạnh: dạy cho mọi người biết làm gương sáng, tránh gương mù, sửa dạy, và tha thứ cho nhau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật XXXII Thường Niên A
Bài đọc: Eze 47:1-2, 8-9, 12; I Cor 3:9b-11, 16-17; Jn 2:13-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đền thờ cá nhân, gia đình, và Giáo Hội phải luôn được thanh tẩy.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính ngày xây dựng thánh-đường St. John Lateran, một trong bốn Đại Vương Cung Thánh Đường của Rôma, và là chỗ ở chính thức của Giáo Hoàng, Giám Mục Rôma, hơn 1000 năm, từ khoảng 350 AD cho đến thời kỳ lưu đày bên Avignon (~ 1350). Giống như Đền Thờ Jerusalem, Vương Cung Thánh Đường Lateran cũng bị phá hủy và xây dựng lại nhiều lần vì tội lỗi và khuyết điểm của con người; nhưng vẫn còn đứng vững cho đến ngày nay.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con người phải luôn thanh tẩy mọi đền thờ khỏi mọi nhơ bẩn của tội lỗi vì là nơi Thiên Chúa ngự. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Ezekiel thấy một thị kiến về tương lai của Đền Thờ Jerusalem. Nước từ bên phải Đền Thờ chảy ra nhiều đến nỗi làm thành một con sông chảy ra sông Jordan, rồi đổ ra Biển Chết. Nước chảy đến đâu, chữa lành con người tới đó và mang lại sự sống cho con người. Thị kiến này muốn nói về sự bành trướng của Giáo Hội từ Jerusalem lan tràn ra khắp nơi trên thế giới để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho con người, qua nước Rửa Tội có sức thanh tẩy tội lỗi và mang lại sự sống cho con người.
Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Corintô phải luôn xem xét đền thờ cá nhân là tâm hồn mọi người cho Thiên Chúa ngự. Sau khi ngài đã đặt nền móng chắc chắn cho họ trên nền tảng là Đức Kitô, họ phải xét xem cách thức họ xây nhà có xứng đáng với nền tảng là Đức Kitô hay không. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thanh tẩy Đền Thờ Jerusalem, Nhà Cha của Ngài; vì họ đã làm cho Đền Thờ trở nên ô uế bằng buôn bán và trao đổi tiền bạc. Khi được chất vấn lấy quyền gì để làm như thế, Ngài cho họ biết nếu họ phá "đền thờ này" đi, Ngài sẽ xây dựng lại trong ba ngày. Các môn đệ hiểu Ngài ám chỉ "đền thờ này" chính là thân thể của Ngài, sau khi nhìn thấy Chúa sống lại sau ba ngày từ cõi chết.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.
1.1/ Nước từ bên phải Đền Thờ chảy ra: Đền Thờ trong thị kiến của tiên-tri Ezekiel là Đền Thờ Jerusalem. Tiên tri thấy "có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ và chảy về phía đông, vì mặt tiền Đền Thờ quay về phía đông. Nước từ phía dưới bên phải Đền Thờ chảy xuống phía nam bàn thờ." Theo địa hình của thành Jerusalem, phía Đông Nam của Đền Thờ là thung lũng Kedron, thường khô cạn nên một người có thể từ Đền Thờ băng qua thung lũng để trèo lên Núi Olive, như Chúa Giêsu và các môn đệ có lẽ đã làm sau khi hoàn tất Bữa Tiệc Ly để leo lên Núi Olive cầu nguyện. Thị kiến hôm nay rất lạ vì khó có thể có nhiều nước đến nỗi làm đầy thung lũng sâu Kedron, cho có đủ nước để tạo lên một giòng sông để chảy ra phía Đông và nhập vào sông Jordan để chảy vào Biển Chết. Nhiều người cho thị kiến này là biểu tượng của việc phát triển Giáo Hội ra khỏi Jerusalem và lan tràn đến các Dân Ngoại.
1.2/ Hiệu quả của nước là chữa lành và ban sự sống: Điều lạ thứ hai là nước của Biển Chết mặn đến nỗi không một sinh vật nào có thể sống sót nổi vì có quá nhiều muối. Trong khi thị kiến hôm nay tiên-tri Ezekiel mô tả: "Nước này chảy về miền đất phía đông, xuống vùng Arabah, rồi đổ ra Biển Chết và làm cho nước biển hoá lành. Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống. Trên hai bờ sông sẽ mọc lên mọi giống cây ăn trái, lá không bao giờ tàn, trái không bao giờ hết: mỗi tháng các cây đó sẽ sinh trái mới nhờ có nước chảy ra từ thánh điện. Trái dùng làm lương thực còn lá để làm thuốc." Nếu hiểu cách biểu tượng là nước Rửa Tội hay ơn thánh của Chúa Thánh Thần, Nước này quả thực có sức mạnh để rửa sạch, chữa lành, và thánh hóa những người tin vào Đức Kitô.
2/ Bài đọc II: Không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.
Theo Phaolô, khi một người chịu phép Rửa Tội, người đó đã đổ nền cuộc đời mình trên nền tảng là Đức Kitô; vì thế người đó phải xây dựng căn nhà là cuộc đời mình sao cho xứng đáng với nền tảng là Đức Kitô, để biến thành ngôi đền thờ cho Thiên Chúa ngự. Mọi tín hữu phải thường xuyên xem xét ngôi nhà của mình xây dựng để bảo đảm phẩm chất của đền thờ Thiên Chúa; nếu không, ngôi nhà sẽ không đứng vững nổi trước những phong ba bão táp của cuộc đời.
Trong Thư Ephêsô, thánh Phaolô ví tất cả các tín hữu là thành phần sống động của Đền Thờ Thiên Chúa, được xây dựng trên nền tảng là các tông-đồ và ngôn-sứ, với Đức Kitô là Tảng Đá góc tường. Giáo Hội, bao gồm tất cả các tín hữu, cũng phải thường xuyên xem xét để bảo vệ sự thánh thiện cho Đền Thờ của Thiên Chúa ngự.
3/ Phúc Âm: Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.
3.1/ Phản ứng của Chúa Giêsu khi thấy Nhà Cha của Ngài bị ô uế: Trình thuật thanh tẩy Đền Thờ Jerusalem được tường thuật cả bốn thánh-ký, nhưng trình thuật của Gioan được mang lên đầu giai đoạn rao giảng của Đức Kitô; trong khi trình thuật của Phúc Âm Nhất Lãm mang xuống cuối, và là một trong những lý do làm người Do-thái tức giận và tố cáo Chúa Giêsu với Thượng Hội Đồng. Tại sao có sự khác biệt này? Lý do chính có lẽ Gioan muốn trình bày quan điểm thần học của mình về Đức Kitô: Ngài ý thức rõ ràng vai trò của mình là Con Thiên Chúa, khi Ngài tự nhận Đền Thờ là Nhà Cha của Ngài khi nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." Hơn nữa, Ngài cũng muốn dạy cho dân chúng biết cách thờ phượng Thiên Chúa cách trong sạch và theo sự thật; không lệ thuộc vào tiền bạc cách bất chính.
3.2/ Cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do-thái: Chứng kiến hành động của Chúa Giêsu, người Do-thái tức tối hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" Đức Giêsu đáp: "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại."
Chúa Giêsu muốn ám chỉ "Đền Thờ này" là chính thân thể của Ngài; nhưng người Do-thái nghĩ Ngài nói về Đền Thờ Jerusalem, nên họ tranh luận với Chúa Giêsu: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?"
Họ nghĩ Chúa Giêsu nói khuếch đại; các môn đệ của Chúa Giêsu chỉ hiểu điều Chúa Giêsu nói "khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thân thể chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi, đã được xây dựng trên nền tảng là chính Đức Kitô. Chúng ta phải thường xuyên xem xét để bảo đảm chất lượng và xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị; nếu không, nó sẽ biến thành chỗ ở của quỉ thần.
- Gia đình, cộng đoàn giáo xứ, và toàn thể Giáo Hội cũng là Đền Thờ của Thiên Chúa. Bổn phận của mỗi tín hữu là phải chăm sóc và thanh tẩy những gì có thể trong khả năng của chúng ta để Thiên Chúa ngự trị, và chúng ta được lãnh nhận muôn ơn phúc của các Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 31 TN2
Bài đọc: Phil 4:10-19; Lk 16:9-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết cách xử dụng tiền của
Tiền của là con dao hai lưỡi: nếu biết xử dụng, nó sẽ sinh ích trở lại cho chủ nhân; nếu không biết xử dụng, nó có thể làm cho chủ nhân mất tất cả, ngay mạng sống đời này và cuộc sống đời sau. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô khen các tín hữu Philipphê biết xử dụng tiền của để chia sẻ tình thương với ngài và sinh ích cho việc truyền giáo. Thiên Chúa sẽ ban muôn ơn cho họ vì đã biết dùng những của cải Ngài ban. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chỉ dạy cho biết cách xử dụng tiền của để sinh những lợi ích thiêng liêng. Ngài cảnh cáo thái độ làm tôi hai chủ, thái độ coi Thiên Chúa ngang hàng với những nhu cầu vật chất.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Biết dùng tiền của Chúa ban để sinh lợi ích cho mình và tha nhân.
1.1/ Thánh Phaolô khen các tín hữu Philipphê biết dùng tiền của. Ngài khen họ:
- không phải vì ngài cần tiền, vì ngài nói rõ với họ: “Không phải vì thiếu thốn mà tôi nói thế, bởi lẽ tôi đã học sống tự lập trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả… Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết.”
- nhưng vì lòng yêu mến của họ dành cho ngài được biểu tỏ qua sự chăm sóc: “Nhờ Chúa, tôi rất vui mừng vì cuối cùng thấy tình cảm của anh em đối với tôi lại thắm thiết. Tình cảm đó vẫn sống động, nhưng anh em chỉ thiếu dịp tỏ ra… Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn bách, như thế là phải.”
1.2/ Các tín hữu Philipphê nhận ra những lợi ích họ đã nhận được từ Thánh Phaolô:
- Nhiều người nhận ơn nhưng không mấy kẻ biết và trả ơn: Thánh Phaolô đã thành lập nhiều giáo đòan và ngài đã dành tình thương cho tất cả các giáo đòan, nhưng Giáo đòan Philipphê là giáo đòan duy nhất tình nguyện giúp đỡ Thánh Phaolô, và ngài cám ơn tình thương của họ dành cho ngài: “Chính anh em, những người thành Philípphê, anh em biết là trong giai đoạn tôi bắt đầu rao giảng Tin Mừng, lúc rời khỏi Macêđônia, không một Hội Thánh nào đã đóng góp vào các khoản chi thu của tôi, chỉ có anh em thôi; bởi vì ngay khi tôi còn ở Thessalônica, đôi lần anh em đã gửi cho tôi những gì tôi cần dùng.”
- Thiên Chúa đòi các tín hữu phải giúp các nhà truyền giáo vì họ đã nhận được những ơn lành Ngài ban cho họ qua các nhà truyền giáo. Con người dễ nhận ra những lợi lộc vật chất hơn là những ơn lành thiêng liêng. Ví dụ: đức tin là quà tặng vô giá mà Thiên Chúa ban cho con người qua việc rao giảng Tin Mừng của các nhà truyền giáo; vì những lợi ích do đức tin đem tới không phải chỉ ở đời này mà còn giúp cho con người đạt tới kết quả mai sau. Vì có đức tin, nên con người có thể sinh hoa trái dồi dào, và hoa trái đầu tiên là những công việc từ thiện. Thánh Phaolô chỉ cho các tín hữu thấy điều này: “Điều tôi tìm kiếm không phải là quà tặng, mà là những gì sinh hoa kết quả dồi dào cho anh em.”
1.3/ Của dâng cho Thiên Chúa sẽ được Ngài chấp nhận và ban trở lại gấp trăm: Của cải là của Thiên Chúa trao ban cho con người xử dụng. Nếu con người biết xử dụng như các tín hữu Philipphê, chúng sẽ trở thành của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa và được Ngài vui lòng chấp nhận. Thiên Chúa sẽ không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người, Ngài sẽ ban lại cho người dâng gấp ngàn lần, như Thánh Phaolô cầu nguyện cho các tín hữu: “Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu.”
2/ Phúc Âm: Hãy học cho biết cách dùng tiền của đời này.
2.1/ Biết dùng tiền của: Người biết dùng tiền của sẽ không tiêu xài hoang phí vào những việc không cần thiết, nhưng biết dùng tiền để sinh ích lợi cho chính mình và cho người khác như:
(1) dùng tiền của để trau dồi các tài năng cần thiết cho cuộc sống như sách vở, học hành; hay có thể cho những người cần dùng nó bằng cách cung cấp học bổng hay các công trình nghiên cứu có lợi cho gia đình nhân lọai.
(2) dùng tiền của để giúp đỡ người nghèo khó: Tin Mừng Matthêu, chương 25 dạy: Những gì chúng ta làm cho những người khốn khổ là làm cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng tái xác nhận điều này: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.”
2.2/ Hãy chứng tỏ lòng trung tín với Thiên Chúa qua việc dùng tiền của: Cuộc đời là bãi chiến trường để học hỏi và thử nghiệm, nó cũng là dịp để Thiên Chúa đánh giá con người:
- qua sự trung tín trong việc nhỏ: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn.
- qua sự trung tín trong việc dùng những của cải bất chính: “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?”
- qua sự trung tín trong việc dùng của cải người khác: của đau con xót, con của mình đau hơn con của người: “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?”
2.3/ Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ: Không giống như thời đại ngày nay, người nô lệ hay gia nhân thời xưa chỉ có thể phục vụ một chủ mà thôi.
Cho dẫu ngày nay con người có thể làm tôi hai chủ, mức độ trung thành với hai chủ không bằng nhau: hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ.
Cũng vậy trong việc phục vụ Thiên Chúa: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được.” Rất nhiều người suy nghĩ ngược lại với Chúa Giêsu: họ nghĩ họ có cách để phục vụ cả hai một lúc. Một ví dụ điển hình là người Pharisêu: “họ vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giêsu.” Có những người vì ham hố kiếm tiền nên đã không còn thời giờ cho Thiên Chúa, ngay cả việc đi tham dự Thánh Lễ ngày Chủ Nhật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mọi của cải trên đời này là của Thiên Chúa trao ban cho chúng ta để xử dụng. Chúng ta không phải là chủ nhân, mà chỉ là người quản lý.
- Chúng ta phải biết xử dụng của cải Chúa ban đời này để sinh lợi ích cho mình và tha nhân, đồng thời mua lấy những lợi ích đời sau.
- Chúng ta không thể làm tôi hai chủ: vừa mong muốn mọi hưởng thụ đời này vừa mong ước đạt tới Nước Trời mai sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 31 TN2
Bài đọc: Phil 3:17-4:1; Lk 16:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Giá trị của tiền bạc
Mục đích của Thiên Chúa khi cho con người sống trên trần gian không phải để đầu cơ tích trữ của cải, nhưng là để làm vinh danh Thiên Chúa, và để xứng đáng lãnh nhận cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Tiền bạc là của Thiên Chúa ban cho con người xử dụng, nó chỉ là phương tiện sinh sống chứ không phải đích điểm. Con người cần biết xử dụng tiền của để mưu ích cho mình và tha nhân trong cuộc sống đời này để chuẩn bị cho cuộc sống đời sau. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu Philipphê đừng quên mục đích cao trọng của cuộc đời để chỉ tôn thờ của cải vật chất. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khen người quản lý bất lương vì ông biết dùng của cải vật chất để mua bạn bè; ông hy vọng họ sẽ giúp ích lại cho ông trong tương lai.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thái độ sống các tín hữu cần có về cuộc đời.
1.1/ Đừng chỉ nghĩ đến những của cải thế gian: Nếu chết là hết, con người cứ việc làm hết cách để kiếm tiền và hưởng thụ; nhưng vì chết không hết, nên các tín hữu không được sống theo kiểu của thế gian, kiểu của những người không tin Thiên Chúa và cuộc sống đời đời mai sau. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu của ngài đề phòng lối sống này vì những lý do sau đây:
(1) Sống theo thế gian là sống đối nghịch với Thập Giá Đức Kitô: “Như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với Thập Giá Đức Kitô. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian.” Trong đọan văn này, Thánh Phaolô không cắt nghĩa rõ ràng thế nào là lối sống theo thế gian và thế nào là sống đối nghịch với Thập Giá Đức Kitô; nhưng chúng ta có thể thấy ngài cắt nghĩa rõ ràng hơn trong (2 Tim 3:2-4): “Quả thế, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa.”
(2) Hậu quả của lối sống theo thế gian: Tất cả những ai sống theo lối sống này, sẽ không được thừa hưởng vinh quang Thiên Chúa hứa ban, và “chung cục họ sẽ phải chịu hư vong.”
1.2/ Hãy nghĩ đến những sự trên trời: Là những tín hữu đã được rửa sạch tội lỗi bằng Máu Thánh của Đức Kitô và đã được giao hòa với Thiên Chúa, họ có quyền hy vọng được thừa hưởng những gì Thiên Chúa và Đức Kitô đã dọn sẵn cho họ trên Thiên Đàng: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.
2/ Phúc Âm: Phải biết dùng những của cải thế gian.
Trước khi phân tích dụ ngôn này, chúng ta cần lưu ý một điều: Khi xử dụng dụ ngôn, tác giả chỉ muốn nêu bật một điều chính, và không bao giờ có ý làm thỏa mãn tất cả mọi điều; vì sẽ rất khó để thực hiện. Điểm Chúa Giêsu muốn nêu bật trong dụ ngôn này là cách hành xử của viên quản lý khi anh biết anh sẽ mất việc.
2.1/ Người quản gia bất lương: Ngay từ đầu trình thuật đã cho khán giả biết đây là một quản gia không tốt, và đó là lý do tại sao anh bị thất nghiệp. Một người quản gia tốt không phải chỉ biết cách làm việc mà còn phải biết trung tín với chủ. Người quản lý này có thể rất khôn ngoan, nhưng không trung tín; vì anh bị tố cáo đã phung phí tài sản của chủ. Vì thế, chủ mới gọi anh ta đến mà bảo: "Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!”
2.2/ Người quản gia khôn lanh: Ông biết dùng tài sản của chủ như một phương tiện để chuẩn bị cho tương lai của ông: "Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” Ông nghĩ ra cách dùng tài sản của chủ để mua chuộc nhân tâm: Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: "Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu ô-liu.” Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.” Rồi anh ta hỏi người khác: "Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: "Một ngàn giạ lúa.” Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.” Với 50 thùng dầu ôliu bớt cho con nợ thứ nhất và 200 giạ lúa bớt cho con nợ thứ hai, anh hy vọng sẽ được họ thương chia bớt cho phần nào khi cơn túng cực tới. Anh cũng có thể nghĩ trước, nếu họ không chịu chia chác, anh sẽ tố cáo với chủ và họ sẽ phải hòan lại cho chủ.
2.3/ Chủ khen cách cư xử của người quản lý bất lương: Trước tiên chúng ta cần chú ý là ông chủ không khen tư cách của người quản lý: ông gọi hắn là bất lương. Điều ông chủ khen là cách cư xử khôn khéo của hắn: biết đặt con người trên tiền của; còn người là còn tiền, bao giờ hết người mới hết tiền.
Nhiều người đã xử sự sai khi đặt tiền của trên con người; hậu quả là họ mất cả người lẫn tiền. Ví dụ: Khi tìm được người có tài và tin cậy, chủ phải trả họ đồng lương tương xứng mới có thể giữ họ làm việc cho mình; nếu không họ sẽ làm cho hãng khác và chủ bị thiệt hại vì không kiếm được người đủ khả năng. Hay có những người chồng quá chi li cho việc tiêu xài trong nhà nên mất vợ, vì không biết đánh giá đúng những việc vợ làm cho mình: chăm giữ con, nấu ăn, rửa chén, thu dọn nhà cửa …
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta sống trên đời này không phải là để ra sức vơ vét của cải, vì chúng ta biết rất rõ: chúng ta không thể mang theo được gì khi xuôi hai tay nằm xuống.
- Chúng ta phải biết xử dụng của cải Chúa ban để sinh lợi ích cho mình và tha nhân ở đời này; đồng thời biết dùng tiền của để đầu tư sinh lợi cho cuộc sống mai sau.
- Chúng ta đừng bao giờ quên nấc thang giá trị để biết hành xử cho đúng: (1) Thiên Chúa, (2) con người, và (3) của cải vật chất. Đảo lộn thứ tự của nấc thang giá trị này, sẽ mang lại những hậu quả vô cùng tai hại cho người làm nó.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP