Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần I MV1
Bài đọc: Isa 26:1-6; Mt 7:21, 24-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cuộc đời chúng ta phải được xây trên tảng đá vững chắc là Thiên Chúa.
Tất cả các mối liên hệ trong cuộc đời đều đòi phải có hai chiều: chiều cho đi và chiều nhận lại. Ví dụ, Thánh Phaolô dạy, để có hạnh phúc trong mối liên hệ vợ chồng: vợ phải vâng lời chồng và chồng phải yêu thương vợ. Càng đúng hơn trong mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa. Nếu Ngài đã thương yêu, lo lắng, mặc khải mọi sự cho con người được an bình hạnh phúc; con người phải biết tin tưởng, cậy trông, và làm theo những gì Lời Chúa mặc khải. Nếu con người không chịu đáp trả tình thương, vâng lời những gì Thiên Chúa dạy, và cứ làm theo những gì họ muốn; làm sao họ có thể đạt được bình an và sống hạnh phúc?
Các Bài đọc hôm nay đều liên quan tới mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa. Bài đọc I nói lên tất cả những gì Chúa đã chuẩn bị cho con người để có một cuộc sống vững chắc. Phúc Âm nhấn mạnh tới bổn phận con người cần đáp trả lại; phải thực hành Lời Chúa thì đời sống con người mới vững vàng, và không có chi lay chuyển được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thương yêu và bảo vệ Dân Ngài.
1.1/ Thiên Chúa là thành trì kiên cố: Jerusalem chính là tiêu biểu của thành trì này. Mặc dù Thiên Chúa đã để cho quân đội Babylon xâm lấn và phá hủy Đền Thờ vì dân không chịu nghe theo những gì Thiên Chúa dạy; nhưng chính Ngài sẽ cho tái thiết lại Đền Thờ và Thành Jerusalem sau cuộc Lưu Đày. Tiên tri nói trước về ngày này: “Ngày ấy, trong xứ Judah, người ta sẽ hát bài ca này: Chúng ta có thành trì vững chắc, Chúa đã đặt tường trong luỹ ngoài để chở che.” Đền Thờ và tường Thành được hòan tất khoảng 20 năm sau khi dân Do-thái từ nơi lưu đày trở về.
Thiên Chúa đã chuẩn bị cho dân một thành trì vững chắc, nhưng dân phải tin tưởng và làm theo những gì Ngài dạy, thì họ mới được sống an vui và hạnh phúc. Tiên tri nói tiếp: “Mở cửa ra cho dân tộc công chính bước vào, một dân tộc trọn niềm trung nghĩa. Lạy Chúa, Ngài quyết giữ cho dân được an cư lạc nghiệp, vì họ tin vào Ngài.”
1.2/ Đức Chúa là Núi Đá bền vững ngàn năm: Núi Đá thường được dùng để chỉ Núi Sion nơi mà Đền Thờ và Thành Jerusalem được xây dựng trên đó; là một biểu tượng thường xuyên Cựu Ước dùng để chỉ sự vững bền của Thiên Chúa. Chẳng hạn, trong Thánh Vịnh 18:2-3: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.” Tiên tri Isaiah khuyến khích dân đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Thiên Chúa: “Đến muôn đời, hãy tin vào Đức Chúa: chính Đức Chúa là núi đá bền vững ngàn năm.”
Không những xây dựng thành trì vững chắc cho dân ẩn náu, Thiên Chúa còn triệt hạ quân thù, những kẻ mưu đồ ức hiếp dân. Quân thù này bao gồm cả những vua quan của Do-Thái, những người lợi dụng quyền thế để ức hiếp dân nghèo. Đọan văn kế tiếp có lẽ tiên tri ám chỉ biến cố xảy ra vào năm 587 BC, khi Babylon triệt hạ Jerusalem và bắt vua quan của Judah đi lưu đày: “vì Người đã lật nhào dân sống ở núi cao, thành trì kiên cố, Người đã triệt hạ, triệt hạ cho bình địa chỉ còn là bụi đất. Nó sẽ bị chà đạp dưới chân, dưới chân người cùng khổ, dưới gót kẻ yếu hèn.”
2/ Phúc Âm: Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá.
2.1/ Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người không chỉ tòan lời nói: Nhiều người thích nói lời yêu thương mặc dù những lời yêu thương không chân thành; nhiều người cũng thích nghe những lời yêu thương mặc dù đó là những lời yêu thương giả dối, như lời của một bài hát: “Tôi xin người cứ gian dối, cho tôi tưởng người cũng yêu tôi… Tôi xin người cứ gian dối, nhưng xin người đừng lìa xa tôi!” Chuyện đó không thể xảy ra với Thiên Chúa, vì Ngài yêu mến sự thật và có thể nhìn thấu suốt tâm hồn của từng người. Chúa Giêsu cảnh cáo mọi người: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.”
2.2/ Mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa phải được biểu tỏ qua việc nghe và giữ Lời Chúa: Vì yêu thương, Thiên Chúa săn sóc và quan tâm đến đời sống con người; Ngài muốn con người được hạnh phúc và không muốn con người phải đau khổ. Là Đấng tạo thành con người và điều khiển vũ trụ, Thiên Chúa biết rõ những gì lợi ích và những gì gây đau khổ cho con người. Đó là lý do tại sao Ngài ban Lề Luật như hàng rào để gìn giữ con người đừng vượt rào kẻo phải chịu đau khổ. Nhưng nếu con người dùng tự do để không làm theo những gì Chúa dạy, con người phải lãnh nhận mọi khổ đau của việc dùng tự do không đúng cách.
Ngòai Lề Luật, Thiên Chúa còn mặc khải cho con người những sự khôn ngoan của Thiên Chúa qua tòan bộ Kinh Thánh. Con người cần phải học cho biết tất cả những Lời này, và đem ra áp dụng trong cuộc sống, thì sẽ thóat mọi hiểm nguy cuộc đời và được sống hạnh phúc. Chúa Giêsu dùng 2 hình ảnh trái ngược: xây nhà trên đá và xây nhà trên cát để chỉ người khôn ngoan hay người ngu dại mà khán giả của Ngài hiểu ngay:
(1) Người khôn ngoan: "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.”
(2) Người ngu dại: “Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mùa Vọng là thời gian cho mỗi người chúng ta nhìn lại mối liên hệ của mình với Thiên Chúa, để xem coi mối liên hệ này đã tiến triển tới đâu, và làm thế nào để cải tiến mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
- Một cách để nhìn lại là xét mình theo Lời Chúa dạy, chúng ta đã thực hành những gì Chúa dạy chúng ta phải làm chưa: Mến Chúa trên hết mọi sự? Yêu tha nhân và giúp đỡ họ như chính mình? Làm chứng cho Chúa bằng rao giảng Tin Mừng và cuộc sống tốt lành?
- Nếu không sống mối liên hệ với Thiên Chúa, làm sao cuộc đời chúng ta có thể an bình và hạnh phúc được? Đừng lạ khi thấy cuộc đời chúng ta đầy dẫy những bi quan, đổ vỡ gia đình, chán người và chán đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần I MV
Bài đọc: Isa 25:6-10; Mt 15:29-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chính Chúa sẽ chăm sóc dân Người.
Sống trong cuộc đời, con người thường xuyên bị đe dọa bởi đói khát, bệnh tật, chiến tranh, hận thù, chết chóc. Con người ước mơ một “thiên đàng trần gian,” khi tất cả những đe dọa này không còn nữa. Nỗi ước mơ này có thể thực hiện hay không? Các Bài đọc hôm nay cho thấy ước mơ này có thể hiện thực trong tương lai. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah nhìn thấy trước Ngày đó, Ngày mà chính Thiên Chúa sẽ thân hành chăm sóc dân chúng, lau khô mọi giòng lệ, và nhất là vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, được sai tới để làm những việc này. Ngài chữa lành mọi tật nguyền và làm phép lạ để có của ăn nuôi dân chúng theo Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông.
Tiên tri Isaiah là tiên tri đã thấy trước 2 cuộc lưu đày của dân Do-Thái: vương quốc miền Bắc bị thất thủ và lưu đày tại Assyria vào năm 721 BC, và vương quốc miền Nam bị thất thủ và lưu đày tại Babylon vào năm 587 BC. Nước mất, nhà tan, Đền Thờ bị phá hủy, nhưng tiên tri được Thiên Chúa cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ giải phóng Israel, cho nhóm người còn sót lại được hồi hương, tái thiết quốc gia, và xây dựng lại Đền Thờ. Hơn nữa, Tiên Tri còn được Thiên Chúa cho thấy trước Ngày Đấng Thiên Sai sẽ tới cai trị dân. Thị kiến hôm nay tường thuật những gì Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện:
(1) Ngài sẽ cho dân ăn uống: không phải là những thức ăn tầm thường, nhưng là những cao lương mỹ vị và rượu ngon tinh chế: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.”
(2) Ngài sẽ vĩnh viễn tiêu diệt thần chết: Kẻ thù lớn nhất của con người là sự chết vì nó lấy đi tất cả những gì con người có. Đối diện với cái chết, con người không thể làm gì khác là đành chấp nhận. Nhưng khi Đấng Thiên Sai tới, Ngài sẽ đánh bại thần chết, và đem lại sự sống muôn đời cho con người như Tiên Tri tuyên bố: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần.” Bằng việc chấp nhận cái chết trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã sống lại khải hòan, và cho mọi người chết sống lại.
(3) Ngài sẽ tiêu diệt mọi khổ đau: “Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô giòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy.” Đau khổ của con người có nhiều nguyên nhân: bệnh tật, tội lỗi, phân ly. Người sẽ tiêu diệt mọi nguyên nhân gây đau khổ cho con người.
(4) Ngài sẽ tiêu diệt mọi kẻ thù: Tiên tri chỉ đề cập đến Moab ở đây: “Còn Moab sẽ bị giày đạp ngay tại chỗ, như rơm bị nghiền nát trong hố phân.” Có lẽ Moab chỉ là một biểu tượng được dùng để chỉ tất cả các địch thù của con người.
Khi chứng kiến tất cả các điều trên xảy ra, người ta sẽ nói: "Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ." Và chỉ khi nào hòan tất mọi sự, “Bàn tay Đức Chúa sẽ đặt trên núi này mà nghỉ.”
2/ Phúc Âm: Triều đại của Thiên Chúa đã đến: Đấng Thiên Sai chính là Chúa Giêsu.
Tất cả những gì Tiên Tri Isaiah loan báo hơn 700 năm trước được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Hai điều Chúa Giêsu làm được tường thuật trong Tin Mừng hôm nay:
2.1/ Chúa Giêsu chữa mọi bệnh họan tật nguyền cho dân: Thánh sử Matthêu tường thuật: “Đức Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến ven Biển Hồ Galilee. Người lên núi và ngồi ở đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành, khiến đám đông phải kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được, người mù xem thấy. Và họ tôn vinh Thiên Chúa của Israel.” Không có bệnh gì Chúa Giêsu không chữa lành được; cũng không có một quyền lực nào ngăn cản Ngài không được chữa bệnh.
2.2/ Chúa Giêsu cho dân ăn: Sau khi đã dạy dỗ dân chúng 3 ngày trong nơi hoang vắng, Đức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường." Các môn đệ thưa: "Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no?" Đức Giêsu hỏi: "Anh em có mấy chiếc bánh?" Các ông đáp: "Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ." Bấy giờ, Người truyền cho đám đông ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được bảy thúng đầy.
2.3/ Bàn tiệc Thánh Thể: Phép lạ “Hóa Bánh ra nhiều” là phép lạ duy nhất được tường thuật bởi cả 4 Thánh Sử (x/c Mt 14:13-21, Mk 6:30-44, Lk 9:10-17, Jn 6:1-15); và được Thánh Sử Gioan dùng để làm chất liệu cho Bài Giảng về Thánh Thể trong chương 6. Theo Gioan, Chúa Giêsu chính là Bánh Hằng Sống từ trời xuống để trở thành của ăn uống nuôi sống muôn dân; ai ăn thịt và uống máu Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời (Jn 6:53-58).
Một điều cần đề cập tới nữa là việc Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly: Cả ba Thánh Sử tường thuật biến cố này đều tường thuật lời Chúa Giêsu nói sau cùng: “Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (x/c Mt 26:29, Mk 14:25, Lk 22:18). Lời tường thuật này nhắc nhở Bữa Tiệc trong Vương Quốc Thiên Chúa mà Tiên Tri Isaiah đã có thị kiến trong Bài đọc I.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đối diện với những đau khổ và bất tòan trong cuộc sống, chúng ta trông mong sẽ có một ngày con người sẽ không còn phải đói khát, đau khổ, chiến tranh, hận thù, chết chóc.
- Chỉ nơi Đấng Thiên Sai là Chúa Giêsu, chúng ta mới tìm được tất cả những gì Tiên Tri Isaiah đã loan báo trong Bài đọc I.
- Chúa Giêsu sẽ chữa lành chúng ta khỏi mọi tật bệnh hồn xác, và chính Ngài sẽ nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thân thể của Người. Nhờ Ngài, chúng ta được tham dự vào cuộc sống thần linh của Thiên Chúa ngay từ đời này, và sẽ được hưởng trọn vẹn tất cả trong cuộc sống mai sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần I MV
Bài đọc: Isa 11:1-10; Lk 10:21-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa làm những chuyện không thể đối với con người.
Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah cho dân một hy vọng: Khi Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy và vương quốc Judah thất thủ, các vua quan của Judah bị lưu đày qua Babylon. Sau gần 50 năm lưu đày, họ được Vua Batư, Darius, cho hồi hương để xây dựng lại Đền Thờ và kiến thiết xứ sở. Câu hỏi được đặt ra là ai sẽ lãnh đạo dân để tái thiết xứ sở? Người lãnh đạo này phải thuộc giòng dõi của David; và Zerubbabel hội đủ điều kiện để lãnh đạo dân (x/c Hag 1:1, Zech 4:9). Từ giòng dõi Zerubbabel sẽ xuất hiện Đấng Thiên Sai (Mt 1:12). Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải Kế Họach Cứu Độ cho các môn đệ và chỉ cho các ông cách làm sao để đạt đích điểm của cuộc đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Làm sao kiếm được Vua công chính cai trị dân?
1.1/ Làm sao kiếm được Vua cai trị Israel sau Thời Lưu Đày? Tiên tri Isaiah nói về Đấng Thiên Sai như sau: “Từ gốc tổ Jesse, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và can đảm, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.” Ông Jesse là cha của Vua David. Vương quốc Judah được ví như một cây, bị chặt sát gốc trong thời gian lưu đày, tưởng chừng như đã chết; nhưng Thiên Chúa đã phục hồi và làm cho sống. Bắt đầu từ một nhánh nhỏ, sẽ mọc lên một mầm non, mầm non này chính là Đấng Thiên Sai.
Thánh Thần của Thiên Chúa là hơi thở ban sự sống (ruah) mà Thiên Chúa trao tặng cho con người. Hơi thở này kèm theo những năng lực vô biên: khôn ngoan, minh mẫn, mưu lược, can đảm, hiểu biết, và kính sợ Thiên Chúa. Những năng lực vô biên này, Bản Bảy Mươi và Vulgate thêm vào năng lực “đạo đức” thay cho một “kính sợ Thiên Chúa,” đã trở thành 7 quà tặng của Chúa Thánh Thần. Người tín hữu lãnh nhận 7 quà tặng này khi chịu Bí-tích Thêm Sức.
1.2/ Vua công minh, thương yêu, can đảm: Với Thánh Thần của Thiên Chúa hướng dẫn, Đấng Thiên Sai có đầy đủ mọi đức tính cần thiết để cai trị dân:
(1) Ngài sẽ xét xử công minh: “Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người mãn nguyện, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói.”
(2) Ngài sẽ bênh vực kẻ nghèo hèn: “Ngài xét xử công minh cho những người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư cho kẻ nghèo trong xứ sở.”
(3) Ngài sẽ trừng trị kẻ ác: “Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.”
Hai đức tính cần thiết một vị anh quân cần có được tiên tri ví như dây thắt lưng và miếng vải buộc trong mình: “Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành.”
1.3/ Vua đem lại hòa bình: Sau khi đã trải qua biết bao gian khổ đau thương do chiến tranh và lưu đày gây ra, điều con người mong ước nhất là có được nền hòa bình. Mong ước này chỉ có được khi tất cả mọi người trên thế giới biết dẹp bỏ mọi khác biệt để cùng nhau chung sống và xây dựng hòa bình: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển.” Viễn tượng hòa bình này chỉ có thể đạt được trong triều đại của Đấng Thiên Sai, khi Ngài chiến thắng mọi quyền lực thế gian và thu thập mọi người về cho Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Làm sao biết được thánh ý Thiên Chúa?
2.1/ Thánh ý Thiên Chúa: Thiên Chúa khôn ngoan và uy quyền, con người yếu đuối và giới hạn; làm sao con người hiểu được những chương trình và thánh ý của Thiên Chúa? Trong Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tiên tri để nói với con người; nhưng họ chỉ mặc khải được phần nào những gì Thiên Chúa muốn bằng ngôn ngữ lòai người. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài mặc khải cho con người tất cả những gì nơi Thiên Chúa. Những mặc khải của Đức Kitô chính xác và tòan hảo vì Ngài ở với Thiên Chúa ngay từ ban đầu khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Mặc khải quan trọng nhất của Đức Kitô cho con người là Mầu Nhiệm Cứu Độ; nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được Mầu Nhiệm này như Chúa Giêsu nói hôm nay: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho. Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”
(1) Kẻ nghèo hèn được mặc khải: Khác với những khôn ngoan của thế gian, Mầu Nhiệm Cứu Độ chỉ được hiểu bởi những kẻ nghèo hèn, những người không cậy vào sức riêng mình, nhưng hòan tòan trông cậy nơi Thiên Chúa.
(2) Bậc khôn ngoan không hiểu: Cũng như tòan bộ Tin Mừng, Mầu Nhiệm Cứu Độ được rao giảng cho tất cả mọi người. Bậc khôn ngoan không hiểu là vì họ cậy vào sức mình. Nếu họ dùng lý luận và sự khôn ngoan của con người, Mầu Nhiệm Cứu Độ là chuyện điên rồ không thể hiểu được. Thánh Phaolô đã trưng dẫn điều này về Thập Giá của Đức Kitô.
(3) Các vua chúa không thấy: “Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.”
2.2/ Làm sao để đạt đích của cuộc đời? Chúa Giêsu không chỉ mặc khải cho con người biết đích điểm của cuộc đời, mà còn cả cách thức đạt tới đích điểm này:
(1) Mến Chúa, yêu người: Chúa Giêsu chứng thực câu trả lời của người Kinh-sư: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình."
(2) Thực hành giới luật yêu thương: Tuy nhiên, Chúa Giêsu nhắc nhở ông không phải chỉ biết cách mà thôi, nhưng còn phải ra sức thực hành hai giới răn này: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không gì là không thể đối với Thiên Chúa. Trong Chương Trình Cứu Độ, Ngài đã chuẩn bị mọi sự cho con người.
- Ngài cho Chúa Giêsu, Người Con của Ngài xuống để mặc khải Mầu Nhiệm Cứu Độ cho con người. Chính Người Con này sẽ là Vua cai trị dân trong công minh, yêu thương; và sẽ đem lại bình an cho con người.
- Điều kiện để hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ: phải khiêm nhường nhỏ bé mới có thể nhìn thấy Đấng Thiên Sai và hiểu biết Kế Họach Cứu Độ Ngài mặc khải. Phải thực thi 2 giới răn “Mến Chúa yêu người” như Chúa dạy.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần I MV1
Bài đọc: Isa 2:1-5; Mt 8:5-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mọi người đều tìm Chúa.
Con người có cần đến Thiên Chúa trong cuộc đời không? Nhiều người trả lời không, vì họ có thể tự làm chủ lấy cuộc đời của họ. Nhưng có những nhu cầu tâm linh mà con người không tự mình thỏa mãn được như nhu cầu tìm ra sự thật: con người từ đâu đến, sống trên đời này để làm gì, và chết rồi sẽ đi đâu? Các Bài đọc hôm nay dẫn chứng nhu cầu cần tìm Chúa. Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah nhìn thấy trước ngày muôn dân trên địa cầu sẽ tuôn về Jerusalem để trèo lên Núi Sion, Núi Thánh của Thiên Chúa; để Ngài chỉ cho biết Lề Luật và đường lối của Thiên Chúa. Ngày này được hiện thực khi Chúa Giêsu đến và mặc khải cho mọi người thánh ý của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, viên Đại Đội Trưởng, mặc dù là dân ngọai, đã tìm đến Chúa Giêsu để xin Ngài chữa bệnh cho đầy tớ của mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Giacob.
1.1/ Sự trổi vượt của Núi Sion và Đền Thờ Jerusalem: Tiên tri Isaiah, mặc dù sống trong một thời đại đen tối của lịch sử Do-Thái (trước 2 cuộc lưu đày: Assyria và Babylon), được Thiên Chúa cho thấy trước những sự kiện sẽ xảy ra: Ngài sẽ phục hồi Judah và Jerusalem, cho Đấng Cứu Thế nhập thể, và người muôn nước sẽ đến tìm Ngài chứ không giới hạn trong vòng Do-Thái nữa. Ông tiên đóan: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng: "Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Jacob.”
1.2/ Những nhu cầu của con người:
(1) Cần biết về đường lối của Thiên Chúa: Thiên Chúa tạo dựng con người cho một mục đích; làm sao con người biết mục đích này? Nếu Thiên Chúa không mặc khải, con người không thể biết. Không những con người cần biết đích, mà còn cần biết cách để đạt đích. Vì thế, con người cần tìm đến Chúa, “để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ.”
(2) Cần biết về Lề Luật của Thiên Chúa: Người Do-Thái rất tự hào về Lề Luật của họ, vì không có vị thần nào trên dương gian thân hành ngự xuống ban Lề Luật cho dân, như Thiên Chúa đã ban cho họ Thập Giới qua ông Môsê. Họ có lý do để tự hào, vì Thiên Chúa tạo dựng con người, nên chỉ mình Ngài biết những gì tốt và những gì có thể gây thiệt hại cho con người. Vì thế, con người cần tìm đến Chúa để học hỏi Lề Luật của Ngài: “Vì từ Sion, thánh luật ban xuống, từ Jerusalem, lời Đức Chúa phán truyền.”
(3) Đức Chúa sẽ phân xử các quốc gia và hòa bình sẽ ngự trị trên tòan cõi địa cầu: “Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.” Điều Isaiah muốn nói ở đây có lẽ là Ngày Tận Thế, Ngày Đức Kitô sẽ thống trị tòan cõi địa cầu và lên ngôi cai trị tất cả.
2/ Phúc Âm: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc trong Nước Trời.
Trình thuật hôm nay mô tả cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và viên Đại Đội Trưởng. Ông là người Rôma đến đô hộ Israel và là người dân ngọai; nhưng đã can đảm vượt qua bức tường chính trị và tôn giáo đến gặp Chúa Giêsu và xin Ngài chữa bệnh cho đầy tớ của mình. Chúa Giêsu nhận ra sự can đảm của ông và Ngài nói: "Chính tôi sẽ đến chữa nó."
2.1/ Nhu cầu cần được chữa lành: Các bệnh tật, hồn cũng như xác, gắn liền với thân phận con người; và biết bao nhiêu người đã chạy đến với Chúa Giêsu để xin Ngài chữa lành. Trong các Sách Tin Mừng, biết bao nhiêu phép lạ được các Thánh Ký tường thuật lại. Có các phép lạ được ban do chính người bệnh xin, có các phép lạ do thân nhân hay người ngòai xin như trình thuật hôm nay, có các phép lạ do chính Chúa Giêsu động lòng thương và chữa lành mặc dù những bệnh nhân chưa xin. Chúa chữa lành tất cả những ai đến kêu xin cho dẫu là ngày Sabbath và gặp đủ mọi chống đối từ các kinh sư Do-Thái. Không chỉ chữa bệnh phần xác, mà còn chữa cả bệnh phần hồn: Ngài gọi Matthêu người thu thuế làm môn đệ, Ngài gọi Jachaeus mà ngỏ ý muốn ở lại nhà ông, Ngài làm bạn với những người tội lỗi và gái điếm để chinh phục họ về cho Thiên Chúa.
2.2/ Nhu cầu cần biểu tỏ tin nơi Thiên Chúa: Trong hầu hết các phép lạ, đa số con người biểu tỏ niềm tin bằng việc đến và kêu xin với Chúa. Khi Ngài nhìn thấy niềm tin nơi họ, Ngài thường nói: “Hãy về bình an! Đức tin của con đã cứu chữa con.”
(1) Đức tin của ông Đại Đội Trưởng: Khi Chúa Giêsu ngỏ ý muốn đến nhà để chữa người đầy tớ, ông trả lời: "Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: "Đi!" là nó đi, bảo người kia: "Đến!" là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: "Làm cái này!" là nó làm." Qua những lời đối thọai, ông Đại Đội Trưởng chứng tỏ cho Chúa Giêsu ông biết mình và biết Thiên Chúa. Ông biết mình là người ngọai, và để tránh dị nghị cho Chúa Giêsu, ông xin Ngài chỉ cần truyền. Ông cũng biết Chúa Giêsu có thể chữa bệnh mà không cần phải đến nhà.
Chúa Giêsu khen ngợi đức tin của ông: "Tôi bảo thật các ông, tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế.” Sự biểu tỏ niềm tin của một sĩ quan ngọai giáo làm Chúa Giêsu ngạc nhiên và làm cho những người Israel và chúng ta phải suy nghĩ: chưa chắc chúng ta, những người tin Chúa lâu năm, có được niềm tin như ông Đại Đội Trưởng này. Câu trả lời khiêm nhường của ông được Giáo Hội dùng trong các Thánh Lễ để chuẩn bị tâm hồn các tín hữu trước khi đón nhận Mình Thánh Chúa vào lòng.
(2) Dân Ngọai sẽ tin vào Thiên Chúa và được hưởng Nước Trời: Rồi Chúa Giêsu nói cho những người cùng ở đó: “Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacob trong Nước Trời.” Truyền thống Do-Thái giới hạn ơn cứu độ chỉ dành cho những người Do-Thái; nhưng từ thời các tiên tri, nhiều tiên tri như Isaiah trong Bài đọc I hôm nay, đã nhìn thấy trước các Dân Ngọai cũng tin vào Thiên Chúa và đáng được hưởng ơn Cứu Độ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mọi người đều có nhu cầu tìm Thiên Chúa để được Ngài dạy dỗ, chữa lành, và nhất là để Ngài chỉ cho biết cách đạt đích điểm của cuộc đời.
- Đi tìm Thiên Chúa không phải chỉ một lúc hay trong một thời gian, nhưng là một tiến trình của cả cuộc đời.
- Thiên Chúa là Cha chung và thương xót mọi người. Chúng ta phải vui mừng khi thấy mọi người tin tưởng và yêu mến Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chủa Nhật I Mùa Vọng, Năm B
Bài đọc: Isa 63:16-17, 19, 64:2-7; I Cor 1:3-9; Mk 13:33-37
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy vọng Chúa sẽ ghé mắt thương đến.
Mùa Vọng là Mùa của trông ngóng đợi chờ; nhưng đợi chờ gì đây? Đợi chờ Đức Kitô ư? Ngài đã đến trần gian hơn 2000 năm nay rồi! Thế tại sao năm nào chúng ta cũng cử hành Mùa Vọng? Lý do quan trọng nhất là Giáo Hội muốn chúng ta nhìn lại cuộc đời mỗi người xem Đức Kitô đã đến và làm chủ cuộc đời của chúng ta chưa. Để nhận ra điều này, một cuộc hồi tâm xét mình cần thiết để con người có thể trả lời câu hỏi này với Thiên Chúa.
Các Bài đọc của Chủ Nhật đầu tiên cung cấp cho chúng ta nhiều chất liệu để suy gẫm. Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời. Nếu Thiên Chúa không hiện diện trong đời sống, con người sẽ bị điều khiển bởi ma quỉ, và tội lỗi sẽ lan tràn. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu về sự hiện diện cần thiết của Đức Kitô trong cuộc đời mỗi người. Khi con người có Ngài trong cuộc đời, con người sẽ không thiếu bất cứ điều gì khác; vì Ngài là nguồn mạch của mọi ân sủng và bình an, là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm Thánh Marcô, Chúa Giêsu cảnh cáo: Vì không ai biết được ngày giờ Con Người đến, nên tất cả phải luôn chuẩn bị sẵn sàng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời
1.1/ Nhận ra tình trạng tội lỗi của mình: Sách TT Isaiah được viết vào một giai đọan lịch sử rất khó khăn của Do-Thái: quốc gia bị xóa sạch và dân chúng bị lưu đày các nơi. Thời gian lưu đày là lúc thuận tiện để họ nhìn lại quá khứ và tìm ra lý do tại sao dân tộc của họ bị đàn áp và lưu đày.
Điều trước tiên họ nhận ra là sự vắng mặt của Thiên Chúa: chẳng còn Đền Thờ để cầu nguyện, chẳng còn tư tế và tiên tri để nhắc nhở họ nghĩ tới Thiên Chúa. Họ kêu van lên Thiên Chúa: “Lạy Đức Chúa, Ngài mới là Cha, là Đấng cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài từ muôn thuở. Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài?”
1.2/ Sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời: Dân lưu đày nhận ra sự quan trọng của Thiên Chúa trong cuộc đời, nên cầu xin với Ngài: “Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài mau trở lại. Từ lâu rồi, chúng con là những kẻ không còn được Ngài cai trị, không còn được cầu khẩn danh Ngài. Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan. Chúa đã ngự xuống và các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Đó là việc từ xưa đến nay chưa từng có ai nghe thấy; lạy Chúa, không mắt nào nhìn thấy một Chúa nào khác ngòai Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa.” Sự kiện họ nhắc lại Thiên Chúa đã thân hành ngự xuống đây có lẽ là biến cố Núi Sinai, khi Thiên Chúa ban cho họ Thập Giới.
1.3/ Xin Chúa tha thứ tội lỗi: Dân cũng nhận ra tội lỗi của mình: “Này, Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con. Chúng con đã luôn ở trong tình trạng tội lỗi, làm sao sẽ được cứu rỗi. Tất cả chúng con đều đầy vết nhơ, mọi công nghiệp của chúng con khác nào chiếc áo dơ bẩn. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi.” Nhưng họ cậy trông vào lòng nhân từ của Thiên Chúa: “Lạy Đức Chúa, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con.”
2/ Bài đọc II: Sự cần thiết của Đức Kitô trong cuộc đời
Lịch sử Cứu Độ được lật qua trang mới sau Thời Lưu Đày, Thiên Chúa đã cho Con của Ngài, Đức Kitô nhập thể để cứu độ trần gian. Nếu trong Cựu Ước, người Do-Thái không thể sống vắng bóng Thiên Chúa; thì trong Tân Ước, người Kitô hữu cũng không thể sống vắng bóng Đức Kitô, vì:
2.1/ Đức Kitô là nguồn mạch ân sủng và bình an: Thánh Phaolô cầu nguyện cho các tín hữu Côrintô: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an. Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu.” Qua Cuộc Thương Khó của Đức Kitô, Ngài đã đem lại bình an và rất nhiều ân sủng cho con người. Con người có bình an vì con người nhờ Đức Kitô mà được hòa giải với Thiên Chúa và với nhau. Đức Kitô cũng là nguồn mạch mọi ân sủng cho con người, nhất là qua các Bí-tích.
2.2/ Đức Kitô mặc khải cho con người sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Quả vậy, trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người. Thật thế, lời chứng về Đức Kitô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người.” Nếu không có Đức Kitô mặc khải, con người không thể hiểu rõ ràng Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa và rất nhiều các Mầu Nhiệm khác trong đạo.
2.3/ Đức Kitô giúp con người trung thành đến cùng: “Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em điều gì trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” Nhờ hiểu biết rõ ràng về Kế Họach Cứu Độ qua Tin Mừng, và được nâng đỡ bằng các ân sủng của Đức Kitô, con người có thể vượt qua những gian khổ của cuộc đời để trung thành với Thiên Chúa. Ngòai ra, con người cũng biết chuẩn bị mọi hành trang cần thiết để ra trước Tòa Phán Xét của Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Phải tỉnh thức trông chờ Chúa đến.
3.1/ Ngày giờ Chúa đến không ai biết: Trong câu 13:32, Chúa Giêsu nói rõ ràng: “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.” Vì không ai biết được ngày giờ, nên con người cần phải chuẩn bị luôn.
3.2/ Phải tỉnh thức, không được ngủ mê: “Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ.” Chỉ trong 5 câu, chữ tỉnh thức được lặp đi lặp lại tới 4 lần; một câu không có chữ “tỉnh thức,” lại dùng chữ đối nghịch “ngủ mê”với trạng từ “không.” Vì thế, có thể quả quyết, Thánh Marcô đã chú trọng đến “sự tỉnh thức,” và lặp đi lặp lại tới 5 lần trong 5 câu.
3.3/ Làm sao để luôn chuẩn bị? Cách chuẩn bị hay nhất là luôn có trong mình tất cả những gì cần thiết để về với Thiên Chúa. Việc “Sắp Sẵn” mọi sự theo phương pháp của Hướng Đạo sẽ giúp chúng ta chuẩn bị. Các em HĐ học và thực tập tất cả những gì cần thiết cho việc sinh tồn: dấu đi đường, nút giây, nấu ăn, cứu thương … Về cách chuẩn bị tinh thần của các tín hữu, chúng ta cầ chú ý đến những sự sau đây:
(1) Giữ thân thể nhẹ nhàng, mau mắn: Cha ông ta khuyên: “Một tinh thần mau mắn trong một thân thể tráng kiện.” Chè chén say sưa làm thân thể nặng nề. Sự nặng nề của thân xác làm con người mê ngủ, lười biếng, và tinh thần ra bạc nhược. Các ngài nói không sai: “Ăn để sống, chứ không phải sống để ăn.” Vì thế, ăn ưống ngon quá chưa chắc đã giúp cho sức khỏe, mà còn làm hại con người. Ngòai ra, chịu khó tập thể dục, chơi thể thao sẽ giúp thân thể nhẹ nhàng, di chuyển dễ dàng, và có nghị lực để vươn lên.
(2) Không quá quan tâm đến cuộc sống vật chất: Khi bị cám dỗ về nhu cầu vật chất trong sa mạc, Chúa Giêsu đã thẳng thắn tuyên bố với ma quỉ và làm gương cho chúng ta: “Con người sống không chỉ bởi cơm bánh, nhưng còn bởi những Lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4). Đa số con người hiện đại đang đơn giản hóa đời sống con người chỉ còn chiều kích vật chất (cả chủ nghĩa tư bản cũng như cộng sản; các chủ thuyết hiện đại như materialism, individualism). Họ quên đi tất cả những chiều kích khác như: tinh thần, trí tuệ, tình cảm. Nếu đời sống con người chỉ còn chiều kích vật chất, con người không bằng con vật; vì con vật không phải làm vất vả như con người mà vẫn có ăn.
(3) Quan tâm nhiều đến đời sống tinh thần: Vì con người được dựng nên và tiền định để sống cuộc đời hạnh phúc với Thiên Chúa; nên con người phải dành nhiều thời giờ cho chiều kích tâm linh này. Con người sẽ phải chịu thiệt hại nặng nề, nếu con người lấy thời giờ để chuẩn bị đời sống tâm linh để dùng vào đời sống vật chất. Làm sao để thăng tiến đời sống tâm linh? Hai điều chính được Chúa Giêsu nhấn mạnh nhiều lần:
- Nghiền gẫm Lời Chúa: Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng dẫn lối con đi (Psa:). Không hiểu biết Lời Chúa, làm sao con người có thể sống theo đường lối của Chúa? Không biết sống theo đường lối Chúa, con người sẽ sống theo đường lối thế gian, và phải chịu mọi hậu quả của nó.
- Kết hiệp mật thiết với Đức Kitô qua đời sống cầu nguyện: Nếu lúc nào con người cũng để Đức Kitô làm chủ và hướng dẫn cuộc sống, thì Ngày Ngài đến cũng chẳng làm con người ngạc nhiên. Con người kết hiệp mật thiết với Đức Kitô qua việc tham dự Thánh Lễ, đọc Kinh Thần Vụ, năng lãnh nhận các Bí-Tích, và cầu nguyện nhiều lần trong ngày.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Câu hỏi quan trọng mỗi người phải tìm ra câu trả lời trong Mùa Vọng này: Cuộc đời chúng ta đang bị hướng dẫn bởi ai? Thiên Chúa hay những cám dỗ thế gian?
- Nếu Đức Kitô đang làm chủ cuộc sống, chúng ta sẽ không thiếu bất cứ điều gì: ân sủng, bình an, khôn ngoan, sức mạnh, và trung thành.
- Chúng ta biết chắc chắn một điều Ngày của Chúa sẽ đến, nhưng không biết ngày giờ nào; vì thế, chúng ta cần phải luôn chuẩn bị. Phải giữ cho thân thể nhẹ nhàng, dành thời giờ để trau dồi cuộc sống tâm linh, để Lời Chúa thấm nhập vào mọi khía cạnh của cuộc đời, và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa trong đời sống cầu nguyện.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 33 TN2
Bài đọc: Rev 10:8-11; Lk 19:45-48.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thanh tẩy Đền Thờ
Những cám dỗ của thế gian và sự bận rộn của cuộc sống làm con người nhiều khi không còn nhận ra được đâu là sự thật và ý nghĩa của cuộc đời. Hậu quả xảy ra là thay vì con người phải chủ động điều khiển cuộc đời mình, con người lại để cho cuộc đời điều khiển. Ví dụ: để cho giới con buôn hướng dẫn tòan bộ cuộc đời: mua nhà đắt tiền, xe cộ phải như thế nào mới xứng đáng, khi đi ăn phải ở nhà hàng nào mới sang trọng, uống rượu phải rượu XO nào mới sang trọng mà không cần biết chai rượu đó đã trị giá cả ngày lương lao động của mình. Vì quen xài sang nên phải kiếm ra nhiều tiền để xài, chẳng cần xét xem cách kiếm tiền có chính đáng hay không? Bác sĩ khám bệnh nhân nghèo qua loa 5-10 phút rồi chém đẹp bằng những giá cả bằng cả tuần lương của dân lao động. Ngày Chủ Nhật để nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa, cũng dùng luôn để kiếm tiền trang trải, mà không cần biết đến những thiệt hại cho sức khỏe và cho đời sống tâm linh của mình.
Các Bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn sâu vào Đền Thờ tâm hồn để nhận ra những bụt thần cần được gạn lọc và thanh tẩy. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan được mời gọi thanh tẩy tâm hồn bằng Lời Chúa qua việc nuốt Cuộn Sách Nhỏ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vào Đền Thờ xua đuổi những kẻ đã biến Nhà Cầu Nguyện của Cha Ngài thành hang trộm cướp.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự ngọt ngào và cay đắng của Lời Chúa
1.1/ Sự ngọt ngào của Lời Chúa: Sau tiếng kèn thứ sáu và trước tiếng kèn thứ bảy, Gioan được chứng kiến 2 thị kiến nhỏ: Nuốt Cuốn Sách Nhỏ trong Bài đọc hôm nay và Hai Nhân Chứng trong Bài đọc ngày mai. Ông nghe lệnh từ trời truyền: "Hãy đi lấy cuốn sách mở sẵn trong tay thiên thần đang đứng trên biển và đất." Ông đến gặp thiên thần và xin người cho ông Cuốn Sách Nhỏ. Rồi tiếng từ trời lại truyền: "Cầm lấy mà nuốt đi! Nó sẽ làm cho bụng dạ ông phải cay đắng, nhưng trong miệng ông, nó sẽ ngọt ngào như mật ong."
Cuốn Sách Nhỏ đã mở sẵn này khác với Cuộn Sách Lớn với 7 ấn niêm phong mà chỉ có Con Chiên mới có quyền mở. Tiếng từ trời có lẽ là tiếng của Đức Kitô. Sách Tiên Tri (Eze 2:8-3:3) là nền tảng cho thị kiến này. Việc nuốt lấy Lời Chúa giống như việc thanh tẩy miệng lưỡi của Jeremia (x/c Jer 15:16), chỉ sự hòan tòan thông hiểu của Gioan về Cuốn Sách Nhỏ trước khi rao giảng cho người khác. Hai hiệu quả trái ngược của việc nuốt Sách, ngọt trong miệng nhưng chua trong bụng, tương xứng với nội dung của Sách: Nó loan báo chiến thắng vinh quang của các tín hữu; nhưng nó cũng chỉ cho thấy giá đau đớn phải trả (Rev 11:1-13), trước cuộc chiến thắng vinh quang này.
1.2/ Sự cay đắng của Lời Chúa: Gioan cầm lấy cuốn sách nhỏ từ tay thiên thần và nuốt đi. Ông cảm thấy nó ngọt ngào như mật ong trong miệng ông, nhưng khi ông nuốt rồi, thì bụng dạ ông cay đắng. Và có tiếng bảo ông: "Một lần nữa, ông phải tuyên sấm về nhiều nước, nhiều dân, nhiều ngôn ngữ và vua chúa."
Sự kiện này cũng xảy ra cho mọi tín hữu: Lời Chúa là ngọn đèn soi sáng cho cuộc đời của họ. Khi bắt đầu tìm hiểu, nó êm đềm dịu ngọt; nhưng khi phải áp dụng Lời Chúa trong cuộc đời, nó trở nên cay đắng vì phải hy sinh và chịu đựng đau khổ mới có thể thực hiệc được. Tương tự như thế cho sứ vụ tiên tri: giảng giải Lời Chúa đòi phải hy sinh vì không phải ai cũng sẵn lòng đón nhận sự thật. Hậu quả các tiên tri phải lãnh nhận là sự ngược đãi và ngay cả cái chết.
2/ Phúc Âm: Thanh tẩy Đền Thờ
2.1/ Đừng biến Đền Thờ thành sào huyệt của bọn cướp: Đền Thờ là Nhà Cầu Nguyện. Các thượng tế và tư tế là những người chịu trách nhiệm gìn giữ vẻ thánh thiêng cho Đền Thờ, nhưng họ đã để lợi lộc vật chất lên trên việc thờ phượng Chúa. Họ lợi dụng Đền Thờ để làm giầu, lợi dụng lòng tin để cướp của dân chúng. Có 2 cách họ có thể lợi dụng để kiếm lời:
(1) Đổi tiền: Jerusalem là nơi giao lưu của nhiều quốc gia: Do Thái, Hy-Lạp, Rôma, Syrian. Họ lập những quầy đổi tiền và tính phân lời trên số tiền muốn đổi. Những quầy đổi tiền như thế vẫn còn gặp thấy nhiều trong Thành Jerusalem ngày nay.
(2) Bán những vật hy sinh: Bất cứ người Do-Thái nào vào Đền Thờ cũng phải dâng lễ vật hy sinh để đền tội. Họ có thể mua những con vật bên ngòai với giá rẻ hơn nhiều; nhưng họ phải qua sự kiểm sóat của các tư tế, để những người này xác nhận nếu vật hy sinh hội đủ điều kiện như Luật qui định. Để chắc chắn có vật hy sinh hội đủ điều kiện, đa số dân chúng phải bấm bụng mua những con vật này bên trong Thành (của các tư tế hay người nhà của họ) với giá cắt cổ.
Lý do chính Chúa Giêsu tức giận vì họ đã lợi dụng tôn giáo để bắt chẹt dân nghèo, nên Ngài vào Đền Thờ, bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán và nói với họ: "Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ là Nhà Cầu Nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!"
2.2/ Sự cay đắng của Lời Chúa: Chúa Giêsu rất can đảm khi làm công việc này vì nó động đến quyền lợi của các nhà lãnh đạo. Vì không muốn mất uy quyền, danh vọng, và lợi lộc vật chất; các Thượng-tế, Kinh-sư, và các nhà lãnh đạo đã quay lưng với sự thật, và họ tìm cách giết Người.
- Đền Thờ được nói tới đây không chỉ thuần túy là Đền Thờ tại Jerusalem, nhưng được mở rộng tới tất cả Đền Thờ tại các nơi trên thế giới, tới cả Đền Thờ của gia đình và của mỗi cá nhân, vì như lời Thánh Phaolô, “thên xác anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.”
- Thanh tẩy Đền Thờ có nghĩa trả lại vị thế cho Thiên Chúa trong Đền Thờ: đừng để bất cứ một người nào hay một điều gì lên trên Ngài, vì con người phải kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Thanh tẩy Đền Thờ cũng có nghĩa là sống công bằng bác ái với tha nhân, đừng lợi dụng bất cứ lý do gì để bóc lột và làm giầu trên mồ hôi nước mắt của tha nhân.
- Cách thanh tẩy Đền Thờ hữu hiệu nhất là hãy trực diện với Lời Chúa, như Gioan đã nuốt lấy Cuốn Sách Nhỏ trong Bài đọc I; hay như các Thượng-tế và Kinh-sư trước những Lời của Chúa Giêsu thách thức họ trong Phúc Âm. Mặc dầu cay đắng vì “sự thật luôn mất lòng;” nhưng đồng thời chỉ có “sự thật mới giải thóat.” Như trình thuật hôm nay kể: “Vẫn còn những người nhìn ra sự thật. Tòan dân say mê nghe Người.”
- Từ chối không chịu để cho Lời Chúa thanh tẩy, hay tệ hại hơn như các Thượng-tế và Kinh-sư hôm nay muốn bóp nghẹt hay tìm cách tiêu diệt sự thật là khai tử chính mình; là muốn sống theo sự giả trá và ở trong bóng tối của thế gian. Một đền thờ như thế, như lời Chúa nói từ đầu, không còn là Đền Thờ của Thiên Chúa, nhưng là một sào huyệt của bọn cướp.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần phải thường xuyên thanh tẩy tâm hồn để luôn xứng đáng là Đền Thờ cho Thiên Chúa ngự. Chúng ta cần xét lại những động lực thúc đẩy chúng ta làm việc thờ phượng: Có phải vì lòng kính mến Chúa hay vì danh dự, uy quyền, và các mối lợi vật chất?
- Lời Chúa là khí cụ tốt nhất cho việc thanh tẩy tâm hồn. Đọc và suy gẫm Lời Chúa đêm ngày sẽ soi sáng trí lòng chúng ta để nhận ra những bụt thần và tội lỗi trong tâm hồn trước khi có thể thanh tẩy chúng.
- Chúng ta phải chấp nhận sự cay đắng của Lời Chúa mới có thể thanh tẩy tâm hồn được. Quay lưng lại Lời Chúa hay tìm cách bóp nghẹt Sự Thật là làm cho Đền Thờ trở thành nơi ở của Satan và tội lỗi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 33 TN2
Bài đọc: Rev 5:1-10; Lk 19:41-44.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khóc!
Con người khóc vì nhiều lý do: (1) Vì tiếc, vì không đạt được điều mình muốn: Em bé muốn xem tivi; bố mẹ bắt vào đi ngủ. (2) Vì thương, thân nhân và bạn hữu khóc thương người chết; vì họ không còn được sống nữa. (3) Vì tội nghiệp, khi thấy một người chịu quá nhiều đau khổ, nhất là chịu đau khổ cho mình. (4) Vì vui sướng, khi nhìn thấy kết quả vinh quang sau khi đã trải qua bao hy sinh gian khổ để đạt được (cầu thủ TVH khi đạt huy chương vàng). Trong Bài đọc I, Thánh Gioan khóc nức nở vì sợ không đạt được ý muốn. Ngài muốn biết những gì trong Cuộn Sách, vì nó liên quan đến lịch sử của nhân lọai sắp xảy ra; nhưng không tìm được ai xứng đáng để mở 7 ấn niêm phong của Cuộn Sách. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khóc vì tội nghiệp cho dân Thành Giêrusalem, vì họ không nhận ra ý nghĩa và mục đích sự thăm viếng của Ngài. Chúa cũng khóc vì Ngài biết Thành sẽ bị phá hủy bình địa (70 AD), và dân Thành sẽ tan tác như chiên không người chăn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thị kiến Cuộn Sách và 7 ấn niêm phong
“Tôi thấy trong tay hữu Đấng ngự trên ngai một Cuộn Sách viết cả trong lẫn ngoài, được niêm bảy ấn. Rồi tôi thấy một thiên thần dũng mãnh lớn tiếng công bố: "Ai xứng đáng mở cuốn sách và tháo ấn niêm phong?" Nhưng không ai ở trên trời, dưới đất hay trong lòng đất, có thể mở Cuộn Sách và nhìn vào đó.”
- Cuộn Sách chứa đựng ý muốn kỳ diệu của Thiên Chúa liên quan đến mọi biến cố sẽ xảy ra trong thời kỳ sau hết như đã nói từ ban đầu (x/c Rev 1:9). Nội dung của Cuộn Sách có những gì? Có nhiều ý kiến khác nhau; nhưng đa số các học giả đồng ý nội dung của Cuộn Sách là những gì được viết trong (Rev 6:1-8:1).
- Gioan khóc nức nở, vì không ai được coi là xứng đáng mở cuốn sách và nhìn vào đó. Nếu không ai mở Cuộn Sách, làm sao con người biết được những gì sẽ xảy ra? Gioan muốn biết, đó là lý do tại sao ông khóc.
- Một trong các vị Kỳ Mục bảo tôi: "Đừng khóc nữa! Này đây, Sư Tử xuất thân từ chi tộc Giuđa, Chồi Non của Đavít đã chiến thắng, Người sẽ mở cuốn sách và bảy ấn niêm phong." Truyền thống Do-Thái tin Đấng Thiên Sai sẽ xuất thân từ chi tộc Giuđa và là chồi non của Nhà Đavít.
- “Con Chiên, trông như thể đã bị giết; Chiên đó có bảy sừng và bảy mắt, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa đã được sai đi khắp mặt đất. Con Chiên đến lãnh cuốn sách từ tay hữu Đấng ngự trên ngai.” Con Chiên là danh hiệu chính thức của Đức Kitô, được dùng 28 lần trong Sách Khải Huyền. Ngài được gọi là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian (Jn 1:29).
- Khi Con Chiên đã lãnh cuốn sách từ tay của Đấng ngự trên Ngai, thì bốn Con Vật và 24 vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước mặt Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay nâng chén vàng đầy hương thơm, tức là những lời cầu nguyện của dân thánh.
- Các vị hát một bài ca mới: Bài ca mới tương xứng với tên mới được tặng cho Người chiến thắng, cho Jerusalem mới, cho trời mới đất mới, và cho vũ trụ được đổi mới.
- Ngài xứng đáng lãnh nhận Cuộn Sách và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa: Bằng Cuộc Thương Khó, cái chết, và sự Phục Sinh vinh hiển, Đức Kitô đã bắt đầu một vương quốc mới cho Thiên Chúa.
- Muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân: 4 danh từ này có ý nói tất cả mọi dân tộc trên địa cầu. Sách Khải Huyền giới hạn trong vòng các Kitô hữu trên địa cầu, những người đã đáp trả lời mời gọi và tháp tùng Con Chiên mà thôi.
- Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này: Những người đi theo Con Chiên là dân của Con Chiên, họ trở thành những tư tế để ca ngợi và phụng thờ Thiên Chúa; và cùng với Con Chiên, họ sẽ làm chủ mặt đất.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu khóc thương Thành Jerusalem.
2.1/ Chúa Giêsu khóc: Mang thân xác con người, Chúa Giêsu có đầy đủ cảm xúc như một con người. Tin Mừng đã tường thuật 2 lần Chúa khóc:
(1) Vì thương Thành Jerusalem như trình thuật hôm nay (Lk 19:41). Trong Cuộc Thương Khó, chặng thứ 8 của 14 Đàng Thánh Giá, Chúa Giêsu đứng lại yên ủi dân Thành Jerusalem vì họ khóc thương Ngài. Chúa Giêsu yên ủi họ: “Đừng khóc thương Ta, nhưng hãy khóc thương các ngươi và con cháu của các ngươi” (Lk 23:28). Chúa Giêsu biết rõ mục đích tại sao Ngài chịu đau khổ, nhưng dân Thành không biết. Điều có lẽ Chúa muốn nhấn mạnh cho họ biết ở đây là họ hãy khóc thương cho chính họ và cho con cháu của họ; vì tội lỗi của họ và con cháu mà Chúa đã phải gánh lấy Cuộc Thương Khó mà Ngài đang chịu.
(2) Vì tiếc thương Lazarô (Jn 11:35)? Nhiều người tin Chúa khóc vì thương Lazarô không còn sống nữa; nhưng suy nghĩ này cần được xét lại vì không có căn bản vững chắc. Có lẽ việc ông đừng trở lại thế gian có lẽ hạnh phúc cho ông hơn vì ít lâu nữa ông sẽ cùng được chung phần vinh quang với Chúa, và kẻ thù không có lý do để giết Chúa Giêsu. Ngài khóc là vì thấy sự chết gây đau khổ cho con người. Ngài muốn Mary và mọi người hiểu: “Ai sống và tin vào Ngài, sẽ không chết bao giờ” (Jn 11:25). Nếu ai cũng hiểu như thế, cái chết sẽ là một niềm vui.
2.2/ Hai lý do tại sao Chúa khóc:
(1) Vì dân Thành Jerusalem không nhận ra Chúa: Khỏang lưng chừng Đồi Olive, ngày nay có một nguyện đường gọi là Nguyện Đường Chúa Khóc. Truyền thống tin chính tại đây, Chúa Giêsu đã nhìn thấy tòan bộ Đền Thánh Jerusalem và sự huy hòang của nó, và Ngài đã khóc vì thương dân Thành. Lý do Ngài khóc vì tội nghiệp họ đã không nhận ra Đấng đem bình an: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất mắt ngươi không thấy được.” Nguyên ngữ Jerusalem ghép bởi 2 chữ: động từ yrw, có nghĩa là “thiết lập,” và danh từ salem, có nghĩa là “bình an.” Chúa Giêsu là Đấng từ Trời xuống thiết lập bình an và chính Ngài đang ở giữa họ; nhưng họ đã không nhận ra Ngài.
(2) Vì Thành sẽ bị phá hủy tan tành: “Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm.” Lời tiên tri này ứng nghiệm năm 70 AD, khi quân đội Rôma đem quân vây hãm và phá hủy bình địa Đền Thờ và Thành. Cho tới ngày nay Đền Thờ vẫn chưa được xây lại và vết tích của hoang tàn đổ nát vẫn còn cho các du khách viếng Jerusalem.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Con người khóc vì tiếc và vì thương. Cái khóc của con người có thể sai vì lý do tiếc hay thương có thể sai. Cái khóc của Chúa Giêsu luôn luôn đúng vì lý do tại sao Ngài khóc là sự thật. Chúng ta cần tìm hiểu rõ lý do tại sao mình khóc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 33 TN2
Bài đọc: Rev 4:1-11; Lk 19:11-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải tính sổ với Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét.
Mọi việc xảy ra trong cuộc đời đều có lý do của nó: người thợ mộc làm chiếc ghế để ngồi, nhà nông trồng lúa để có gạo ăn … Cũng thế, Thiên Chúa dựng nên và cho con người mọi sự trong cuộc đời là để con người chứng tỏ niềm tin và tình yêu của họ dành cho Ngài. Con người sẽ phải tính sổ với Thiên Chúa về những gì con người đã thực hiện trong cuộc sống trên dương gian; và tùy vào kết quả, con người sẽ được trọng thưởng hay phải chịu hình phạt.
Trong Bài đọc I, Thánh Gioan được cho nhìn thấy thị kiến về Ngày Phán Xét trên trời, khi tất cả mọi tạo vật của Thiên Chúa ra trước Ngai Thiên Chúa để chịu phán xét bởi Ngài và 24 Kỳ-mục. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu kể cho dân chúng dụ ngôn: Nước Trời cũng giống như truyện một Nhà Vua phân phối của cải cho đầy tớ trước khi trẩy đi phương xa. Khi ông trở về, họ sẽ phải tính sổ với ông; và ông sẽ phân xử họ tùy vào những gì họ đã sinh lời được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thị kiến “Ngai Thiên Chúa trên trời”
1.1/ Ngai của Thiên Chúa và 24 ngai của các Kỳ-mục:
(1) Ngai Thiên Chúa: Gioan nhìn thấy và mô tả Ngai Thiên Chúa; nhưng chính Thiên Chúa, Gioan không thể mô tả. Ông chỉ có thể nói “Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não.” Theo truyền thống Do-Thái, vinh quang Thiên Chúa được mô tả như ánh chớp của đá quí (x/c Exo 24:10, Eze 1:26-28, 10:1).
(2) 24 ngai khác: 12 ngai tượng trưng cho 12 Bộ-tộc của Cựu-Ước, và 12 ngai tượng trưng cho 12 Tông-đồ của Tân-Ước. Các vị ngồi trên ngai để cùng thống trị và phân xử với Thiên Chúa.
“Bảy ngọn đuốc, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa cháy sáng trước ngai.” 6 Thần Khí được liệt kê trong Sách Isaiah 11: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Thiên Chúa. Thần khí thứ 7 là đạo đức được GH thêm vào và gọi là 7 ơn của Thánh Thần.
1.2/ Các vật xuất hiện trước Ngai Thiên Chúa:
- Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê: truyền thống Do-Thái tin đây là bức tường ngăn cách giữa trời và đất.
- Ở giữa ngai và chung quanh ngai có bốn Con Vật, đằng trước và đằng sau đầy những mắt: Ý tưởng nền tảng của sự mô tả này là (Eze 1:10). Bốn Con Vật tượng trưng cho tất cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa; mỗi Con Vật tượng trưng cho những gì huy hòang nhất của các vật tạo dựng. Đầy những mắt: Thiên Chúa luôn hiện diện và điều khiển công trình sáng tạo của Ngài:
* Con Vật thứ nhất giống như sư tử: sự cao quí; “Sư tử của Judah = Đấng Thiên Sai.”
* Con Vật thứ hai giống như bò tơ: tượng trưng cho sức mạnh.
* Con Vật thứ ba có mặt như mặt người: tượng trưng cho sự khôn ngoan.
* Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay: tượng trưng cho sự mau lẹ.
- Tất cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa đứng trước Ngai Thiên Chúa để thờ phượng Ngài và hòan tất những gì Ngài mong muốn. Từ thời Thánh Irenê, Bốn Con Vật tượng trưng cho 4 Thánh Ký, theo thứ tự: Marcô, Luca, Matthêu, và Gioan.
- Cả trái đất và trên trời hợp lời và không ngớt tiếng tung hô Thiên Chúa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Ngài xứng đáng lãnh nhận vinh quang, danh dự và uy quyền, vì Ngài đã dựng nên muôn vật, và do ý Ngài muốn, mọi loài liền có và được dựng nên."
2/ Phúc Âm: Ngày Chúa Phán Xét
Dụ ngôn này cũng giống như trình thuật của (Mt 25:14-30). Điểm khác biệt giữa 2 trình thuật là Luca cho biết lý do tại sao nhà quí tộc trẩy đi phương xa: để “lãnh nhận vương quyền;” và thái độ của dân chúng: “Nhưng đồng bào ông ghét ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: "Chúng tôi không muốn ông này làm vua chúng tôi.”” Sự kiện lịch sử của dụ ngôn này là sau khi Vua Herôđê Cả chết, ông chia vương quốc thành 3 miền cho 3 con: Antipas, miền Galilê; Philip, miền Jordan; và Archelaus, miền Judah. Quyết định này phải được phê chuẩn bởi Hòang-đế Augustus bên Rôma. Khi Archelaus rời bỏ Judah đi Rôma để thuyết phục Hòang-đế, người Do-Thái cũng gởi một phái đòan gồm 50 người đến Rôma để nói lên nguyện vọng: “Họ không muốn Archelaus cai trị họ.” Hậu quả là Hòang-đế Augustus phê chuẩn Archelaus làm Vua cai trị Judah. Khán giả của Chúa Giêsu biết rõ sự kiện lịch sử này.
Dụ ngôn muốn làm sáng tỏ 3 điều:
(1) Thiên Chúa tin tưởng con người: Ngài không ấn định mức phải sinh lời; nhưng Ngài để con người tùy khả năng và sáng kiến để làm việc sinh lời. Ngài cũng không ở gần bên để xem xét, chỉ trích; nhưng trẩy đi phương xa để con người hòan tòan tự do để quyết định và làm việc.
(2) Thiên Chúa đòi con người phải tính sổ với Ngài: Tài sản được ban để sinh lời, không phải để hoang phí. Điều quan trọng hơn là để con người chứng tỏ niềm tin và tình yêu của mình cho Thiên Chúa: Người thứ nhất đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén.” Ông bảo người ấy: "Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành.” Người thứ hai đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén.” Ông cũng bảo người ấy: "Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành.”
Người thứ ba đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ kỹ. Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo.” Ông nói: "Hỡi đầy tớ tồi tệ! Tôi cứ lời miệng anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng? Có vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ!” Rồi ông bảo những người đứng đó: "Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén.” Họ thưa ông: "Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi!” "Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.”
(3) Phần thưởng và hình phạt: Hậu quả thu được chứng tỏ khả năng của mỗi người với Thiên Chúa. Nếu ai chứng tỏ mình xứng đáng với niềm tin của Thiên Chúa như người thứ nhất và thứ hai, Ngài sẽ tin tưởng và trao cho những trách nhiệm nặng nề hơn; vì Ngài biết họ có thể hòan thành trách nhiệm. Còn ai không chứng tỏ mình xứng đáng với niềm tin của Thiên Chúa, lại còn tìm cách biện minh cho sự lười biếng của mình bằng cách đổ tội cho Thiên Chúa như người thứ ba, làm sao Thiên Chúa có thể tin tưởng mà trao cho sứ vụ khác? Hậu quả là Ngài sẽ lấy lại hết tất cả những gì anh có mà trao cho những người biết sinh lợi cho Ngài. Kinh nghiệm cuộc sống là một bằng chứng cho lời Chúa nói: Nếu con người không chịu chăm chỉ thực hành những tài năng đã có, chúng sẽ dần dần mất đi; nhưng nếu con người biết “văn ôn võ luyện,” tài năng càng ngày càng phát triển và đem lại nhiều lợi ích cho con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Chúng ta cần biết lý do tại sao Thiên Chúa cho chúng ta sống trên đời này: là để chúng ta chứng tỏ niềm tin và tình yêu của chúng ta dành cho Ngài qua những gì chúng ta làm cho mình và cho tha nhân. Chắc chắn chúng ta sẽ phải tính sổ với Ngài trong Ngày Phán Xét.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 33 TN2
Bài đọc: Rev 3:1-6, 14-22; Lk 19:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự nguy hiểm của thái độ không nhiệt thành cũng chẳng nguội lạnh.
Bộ Nông Nghiệp và Thực Phẩm của các nước tân tiến rất chú trọng đến việc bảo vệ nhiệt độ của thực phẩm mà dân chúng mua về để tiêu thụ. Đối với họ, những thực phẩm đông lạnh như thịt cá, đồ biển, phải giữ chúng ở nhiệt độ đông lạnh; và với những thực phẩm nóng như gà chiên, cá chiên…, phải giữ chúng ở nhiệt độ thật nóng. Lý do là nếu để những thực phẩm này ở nhiệt độ trong phòng, các vi khuẩn sẽ xâm nhập và gia tăng nhanh chóng; hậu quả là khách hàng ăn vào rất dễ bị bệnh.
Hình ảnh trên cũng có thể áp dụng vào đời sống tinh thần của con người: hoặc nhiệt thành tuân giữ các điều Chúa dạy như các thánh, hoặc khô khan tội lỗi như những người thu thuế và gái điếm; chứ đừng ở lưng chừng như đa số con người. Lý do: những người tội lỗi như Zachaeus trong Phúc Âm có ưu điểm hơn những người ở lưng chừng, vì họ biết chắc mình tội lỗi và dễ dàng thú nhận tội để đón nhận ơn tha thứ. Yếu điểm của hạng người lưng chừng là khó nhận ra khuyết điểm để sửa như các tín hữu Laodicea bị Chúa trách trong Bài đọc I, và đám đông trong Bài Phúc Âm. Nếu không nhận ra tội, con người chẳng cần tha thứ và cũng chẳng cần sửa sai!
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời của Đức Kitô cho 2 Giáo Phận: Sardis và Laodicea
1.1/ Lời cho Giáo Phận Sardis: Đây là thành phố nổi tiếng về lối sống xa hoa và trác táng. Mặc dù đã được hóan cải thành Kitô Giáo, Giáo phận này từ từ rơi vào chỗ chết tinh thần vì không thực hành niềm tin của mình. “Hãy viết cho thiên thần của Giáo Phận Sardis. Đây là lời của Đấng có bảy Thần Khí Thiên Chúa và bảy ngôi sao:”
(1) Lời chê: nhấn mạnh đến việc làm của các tín hữu của Hội Thánh Sardis; họ đã không chịu thực hành Lời Chúa dạy: “Ta biết các việc ngươi làm, biết ngươi được tiếng là đang sống, mà thực ra đã chết. Hãy tỉnh thức! Hãy củng cố chút sức còn lại đang suy tàn, vì Ta nhận thấy các việc của ngươi không được hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa của Ta.” Để sửa sai, Ngài khuyên: “Vậy hãy nhớ lại: ngươi đã lãnh nhận và nghe Lời Chúa thế nào; hãy tuân giữ và hối cải! Vậy nếu ngươi không tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến với ngươi.”
(2) Phần thưởng cho những ai biết thực thi Lời Chúa: Chúa sẽ không tàn sát cả thành; Ngài sẽ cứu những đầy tớ trung thành: “Nhưng tại Sardis, ngươi có một ít người đã không làm nhơ bẩn áo mình; họ sẽ mặc áo trắng cùng đi với Ta, vì họ xứng đáng. Như thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng; Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường Sinh; Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta và trước mặt các thiên thần của Người.”
1.2/ Lời cho Giáo Phận Laodicea: Một Thành thương mại và ngân hàng giàu có, và nổi tiếng về các họat động y khoa. Laodicea cũng là Giáo Phận đã nhận Thư của Thánh Phaolô gởi cho Colossê. “Hãy viết cho thiên thần của Giáo Phận Laodicea: Đây là lời của Đấng Amen, là Chứng Nhân trung thành và chân thật, là Khởi Nguyên của mọi loài Thiên Chúa tạo dựng:”
(1) Lời chê: về 2 thái độ:
- thái độ lưng chừng: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.”
- thái độ cậy vào của cải: “Ngươi nói: "Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi;" nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng.”
Lời khuyên nhủ: “Vì thế, Ta khuyên ngươi đến với Ta mà mua vàng đã thử lửa để làm giàu, mua áo trắng để mặc khiến ngươi khỏi xấu hổ vì để lộ thân thể trần truồng, mua thuốc để xức mắt cho ngươi nhìn thấy được.” Đức tin, việc làm tốt, và Lời Chúa sẽ hướng dẫn họ thóat khỏi tình cảnh họ đang lâm vào.
(2) Phần thưởng cho những ai biết nhiệt thành và hối cải ăn năn: “Phần Ta, mọi kẻ Ta yêu mến, thì Ta răn bảo dạy dỗ. Vậy hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn! Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta. Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã thắng và ngự bên Cha Ta trên ngai của Người.”
2/ Phúc Âm: Ông Giakêu, người thu thuế, trở về với Chúa.
Tại thành phố Jericho hiện nay vẫn còn một cây sung rất to lớn, được vây quanh kỹ lưỡng cho khách hành hương đến thăm viếng. Họ gọi đây là cây sung mà ông Giakêu đã trèo lên để gặp Chúa Giêsu.
2.1/ Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu: Ông được mô tả là người đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó. Chúa Giêsu đã nhận ra ông giữa bao nhiêu người trong đám đông, và người đi bước trước để bắt đầu tiến trình hòa giải với ông: "Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!"
2.2/ Ba phản ứng khác nhau của cuộc gặp gỡ:
(1) Đám đông: xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!" Đối với người Do-Thái, những người thu thuế và gái điếm được coi như là những người tội lỗi công khai. Ai giao tiếp hay làm bạn với họ, cũng được coi là tội lỗi.
(2) Ông Giakêu: Khi nghe Chúa Giêsu ngỏ lời muốn đến nhà, ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Khi nghe mọi người xầm xì và biết rõ mình là người tội lỗi, ông thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." Chấp nhận trở về với Thiên Chúa là phải can đảm gĩa từ nếp sống cũ và bắt đầu cuộc sống mới theo tiêu chuẩn của Tin Mừng. Ông Giakêu sẵn sàng san sẻ phân nửa tài sản cho người nghèo; và sẵn sàng đền gấp bốn cho những ai ông đã lỗi đức công bằng với họ. Lời hứa này có thể lấy đi tất cả những gì ông đang có; nhưng không thể so sánh với niềm vui được Chúa Giêsu tha thứ và đến viếng thăm.
(3) Chúa Giêsu: nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất." Tuy Chúa Giêsu biết những lời dị nghị nhưng Ngài không quan tâm tới. Chỉ một điều Ngài quan tâm là ông Giakêu và Ngài muốn đưa ông trở về với Thiên Chúa; và đó chính là lý do tại sao Ngài đến trần gian.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Người biết rõ mình là người tội lỗi như ông Giakêu dễ ăn năn trở lại hơn người dở dở ương ương: không tốt lành cũng chẳng tội lỗi quá.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 33 TN2
Bài đọc: Rev 1:1-4, 2:1-5; Lk 18:35-43.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy năng làm sống lại tình yêu ban đầu!
Tình yêu là yếu tố rất quan trọng trong cuộc sống, vì nó là động lực thúc đẩy con người ham sống và làm việc. Nếu đánh mất tình yêu, con người sẽ đâm ra chán nản và mất hết nghị lực để làm việc. Kẻ thù của tình yêu là thời gian và những thay đổi của cuộc sống. Ví dụ: tình yêu vợ chồng. Rất nhiều người trong chúng ta có kinh nghiệm hay đã được chứng kiến cảnh gia đình tan rã sau biến cố tháng 4/1975. Chồng đi vượt biên, vợ và các con ở lại; mấy năm sau nghe tin chồng đã có vợ khác. Tại sao những chuyện như thế xảy ra? Thời gian và hòan cảnh là 2 yêu tố chính: xa mặt cách lòng và có mới nới cũ. Chuyện như thế cũng xảy ra trong tình yêu của con người với Thiên Chúa: bỏ nhà thờ hay cầu nguyện để chạy theo những cám dỗ vật chất là 2 lý do chính làm con người xa Chúa. Vì thế, để có thể gìn giữ tình yêu, điều cần thiết là phải năng làm sống lại tình yêu ban đầu: “tương quí như tương tân,” hãy luôn biết quí trọng nhau như thuở ban đầu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mặc khải của Đức Giêsu Kitô, mặc khải mà Thiên Chúa đã ban cho Người.
Sách Khải Huyền: không chú trọng đến những gì sẽ xảy ra trong Ngày Tận Thế như nhiều người lầm tưởng, nhưng chú trọng đến việc nhận ra những lầm lỗi để sửa sai và sống tốt đẹp hơn trước khi Ngày Tận Thế đến như tác giả trình bày hôm nay: “Phúc thay người đọc, phúc thay những ai nghe những sấm ngôn đó và tuân giữ các điều chép trong đó, vì thời giờ đã gần đến!”
(1) Mặc khải của Đức Giêsu Kitô, mặc khải mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ cho các tôi tớ Người biết những việc sắp phải xảy đến. Người đã sai thiên thần của Người đến báo cho ông Gioan là tôi tớ của Người biết mặc khải đó. Ông Gioan đã làm chứng về lời của Thiên Chúa và về lời chứng của Đức Giêsu Kitô, về những gì ông đã thấy.
(2) Ý nghĩa con số 7 trong Sách Khải Huyền: Số 7 xảy ra tất cả 54 lần trong Sách Khải Huyền; đây là con số được dùng để biểu tỏ sự tròn đầy, tòan hảo. Ví dụ: việc Đức Kitô gởi Lời cho 7 Giáo Phận có nghĩa gởi cho tất cả Giáo Hội trên tòan cầu.
(3) Thị kiến đầu tiên: Lời của Đức Kitô cho 7 Giáo Phận ở Asia Minor (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay): “Tôi là Gioan kính gửi 7 Giáo Phận Asia. Xin Đấng hiện có, đã có và đang đến, xin bảy thần khí hiện diện trước ngai của Người.”
(4) Lời cho Hội Thánh Êphêxô: Đây là thành phố thương mại rất sầm uất của Tiểu Á thời đó, là trung tâm của các Tòa Đại Sứ, là trung tâm của văn hóa và tôn giáo. Vị thế của Thành Êphêsô mở đường cho rất nhiều mê tín dị đoan và thờ các tà thần; thần phổ thông nhất của Thành là Artemis (Tđcv 19:8, 10). Thánh Phaolô thành lập Giáo Phận Êphêsô vào khỏang 53-56 AD (Tdcv 19:8-10). “Hãy viết cho thiên thần của Giáo Phận Êphêxô: Đây là lời của Đấng cầm trong tay hữu bảy vì sao, Đấng đi giữa bảy cây đèn vàng.” 7 vì sao tượng trưng cho 7 thiên thần coi giữ 7 Giáo Phận, và 7 cây đèn tượng trưng cho 7 Giáo Phận (Kh 1:20). Đấng đi giữa 7 cây đèn là Đức Kitô, như Ngài đã hứa “sẽ ở cùng Giáo Hội cho đến Ngày Tận Thế” (Mt 18:20, 28:20).
1.1/ Lời khen: Ngươi có lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi. Một việc cụ thể được liệt kê: “Ta biết ngươi không thể chịu đựng kẻ ác. Ngươi đã thử thách những kẻ xưng mình là tông đồ, mà thực ra không phải, và ngươi đã thấy rằng chúng là những kẻ nói dối.” Việc này có lẽ liên quan tới Nicolaitans (Kh 2:6, 15).
1.2/ Lời chê trách: “Nhưng Ta trách ngươi điều này: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu.” Đánh mất tình huynh đệ ban đầu là cũng đánh mất tình yêu với Thiên Chúa; vì mến Chúa đòi phải yêu người. Lời khuyên nhủ: “Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu.” Ba việc cần làm trong tiến trình hối cải đựợc đề ra: xét mình (nhớ lại) – ăn năn (hối cải) – đền tội (làm việc). Lời đe dọa: “Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải.” Cây đèn tượng trưng cho Giáo Phận; đem cây đèn ra khỏi chỗ có thể nói tới sự tiêu hủy của GP Êphêsô.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa người mù thành Jericho.
2.1/ Lời cầu xin khẩn thiết của người mù: Việt-Nam có câu tục ngữ: “Có đau mắt thì mới biết thương người mù.” Vì không thấy đường nên tất cả thế giới đẹp đẽ đối với anh là một bóng đen, và công việc duy nhất anh có thể làm được là ngồi ăn xin lòng thương xót của người qua đường. Anh mù chứ không điếc nên khi nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. Họ báo cho anh biết là Đức Giêsu Nazareth đang đi qua đó. Chắc chắn anh đã nghe về Đức Kitô chuyên chữa lành bệnh nhân, nên anh không bỏ lỡ cơ hội, anh liền kêu lên (boa,w) rằng: "Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!"
Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi. Không ai có thể hiểu nỗi đau khổ của anh; tất cả đều bận tâm với những toan tính riêng tư của họ. Những người quát nạt này có lẽ bực mình vì tiếng kêu cứu của anh làm họ không nghe rõ những gì Chúa Giêsu đang giảng giải. Nhưng anh mù không sờn lòng và càng kêu lớn tiếng hơn (krazo): "Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót tôi!"
Việc anh kêu lớn tiếng hơn có thể anh sợ Chúa Giêsu chưa nghe thấy tiếng kêu nài của anh; nhưng cũng để biểu tỏ tấm lòng kiên trì kêu cầu của anh, không một sức mạnh nào có thể ngăn ngừa anh đừng trông cậy vào Thiên Chúa. Với bệnh tật của anh, anh nghĩ có lẽ đây là cơ hội ngàn năm một thuở anh có cơ hội được Chúa Giêsu chữa lành.
2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu, người mù, và đám đông: Làm sao Thiên Chúa của lòng thương xót không động lòng trước tiếng kêu bi thương của con cái mình? Ngài dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh?" Anh ta đáp: "Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được." Người mù không xin tiền, không xin bất cứ sự gì khác, nhưng xin cho được thấy, vì anh biết sự sáng quan trọng thế nào đối với anh. Đức Giêsu nói: "Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh." Lập tức, anh ta nhìn thấy và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Anh biết Chúa Giêsu có lòng thương xót, anh biết Chúa Giêsu là người duy nhất có thể chữa anh, và chính anh đã được Chúa Giêsu thương xót chữa lành; nên chuyện anh đi theo Ngài để ngợi khen Thiên Chúa là chuyện tự nhiên phải làm. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Cuộc sống với quá nhiều quyến dũ vật chất và hưởng thụ làm cho trái tim con người ra chai đá, khiến chúng ta không còn nhạy cảm với tình thương Thiên Chúa và tình thương của tha nhân. Chúng ta hãy làm sống lại tình yêu ban đầu của chúng ta dành cho Thiên Chúa, bằng cách năng nhớ lại những gì Ngài đã làm cho chúng ta, để biết ơn, để ca tụng, và biết sống xứng đáng với tình yêu của Ngài.
- Chúng ta hãy làm sống lại tình yêu ban đầu của chúng ta dành cho nhau; để luôn biết quí trọng và dễ tha thứ cho nhau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP