Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Num 6:22-27; Gal 4:4-7; Lk 2:16-21.
Ngày 1 tháng 1, Lễ Mẹ Thiên Chúa, Năm ABC
Bài đọc: Num 6:22-27; Gal 4:4-7; Lk 2:16-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lời chúc lành tốt đẹp nhất của Năm Mới.
Trong Ngày Đầu Năm, chúng ta có thói quen chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất, tùy vào những gì mà người khác muốn nghe; chẳng hạn, đối với các thương gia: phú quí, thịnh đạt; đối với các sinh viên sắp ra trường: thành công và thắng lợi trên đường công danh; đối với nhà nông: mùa màng trù phú; đối với người bệnh: sức khỏe lành mạnh. Nhưng đâu là lời chúc tốt đẹp và hòan hảo nhất của Ngày Đầu Năm? Các tín hữu tin đó là lời chúc có được Thiên Chúa; lý do của niềm tin này: có Chúa là có tất cả. Hơn nữa, chưa chắc có được những gì người khác chúc là đã tốt lành, chẳng hạn như được trúng số mà gia đình tan nát; nhưng nếu được những gì Thiên Chúa ban, chắc chắn sẽ tốt lành cho người lãnh nhận, vì Ngài biết con người cần gì.
Các Bài đọc của Ngày Đầu Năm tập trung trong các ơn lành đến từ Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa dạy cho Aaron biết cách chúc lành cho con cái Israel: phải nhân danh Thiên Chúa, phải xin Thiên Chúa tươi mặt nhìn đến và dủ lòng thương, phải xin Thiên Chúa ghé mắt nhìn đến và ban bình an. Trong Bài Đọc II, Thiên Chúa đã tỏ tình yêu của Ngài qua Mầu Nhiệm Nhập Thể: Ngài không những giải thóat con người khỏi tội, ban cho con người diễm phúc được làm nghĩa tử, và còn ban Thánh Thần để thúc đẩy con người gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! Trong Phúc Âm, Thiên Chúa đã ban cho con người, đại diện qua Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria, và các Mục-đồng được nhìn thấy Mặt của Thiên Chúa. Vì thế, khi con người có được Thiên Chúa, được Ngài đóai thương nhìn tới, con người sẽ không còn thiếu một ân huệ nào nữa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời chúc tốt đẹp nhất: Xin Thiên Chúa đóai thương nhìn tới anh em!
1.1/ Phải nhân danh Thiên Chúa mà chúc lành: Đức Chúa phán với ông Moses: "Hãy nói với Aaron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Israel, anh em hãy nói thế này: "Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em!””
Theo truyền thống Do-Thái, tên là người. Danh của Thiên Chúa, Yaweh, đồng nhất với lòng thương xót, sự tốt lành, và sự bình an. Khi Thiên Chúa hiện ra với ông Moses, Người đã mặc khải tên này cho Moses. Khi chúng ta lấy tên ai để kêu cầu, chúng ta muốn đặt những lời cầu xin dưới sự bảo trợ của người đó; chẳng hạn, khi chúng ta kết thúc lời cầu xin bằng câu: “chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen;” là chúng ta đặt lời cầu dưới sự bảo trợ của Đức Kitô. Trong đọan văn hôm nay, Thiên Chúa cũng bảo đảm điều này: “Chúc như thế là đặt con cái Israel dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng.”
1.2/ Xin Thiên Chúa ghé mặt nhìn tới: “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!" Truyền thống Do-Thái tin: Chúa nhìn thấy con người, nhưng con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa. Ai nhìn thấy Thiên Chúa sẽ phải chết. Khi Chúa nhìn đến ai, người đó được Ngài chúc lành; ví dụ, Mẹ Maria ca ngợi Thiên Chúa: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đóai thương nhìn tới.” Ngược lại, khi Thiên Chúa ngỏanh mặt đi, hay nhìn đến với nét mặt không tươi, người đó bị chúc dữ.
2/ Bài đọc II: Chúa Giêsu làm cho con người nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
2.1/ Thiên Chúa cho Con của Người nhập thể để cứu chúng ta khỏi Lề Luật: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.”
Tại sao phải cứu con người thóat khỏi Lề Luật? Vì Lề Luật mà con người phạm tội, không chu tòan những gì Lề Luật dạy. Hậu quả của tội là sự chết. Con người không thể nên công chính trước mặt Thiên Chúa bằng Lề Luật. Để cứu con người thóat khỏi sự chết, hậu quả của Lề Luật, Thiên Chúa đã cho Người Con nhập thể trong cung lòng một con người, Đức Mẹ Maria, để sinh ra làm người. Chính Người Con này sẽ gánh tất cả tội cho con người; vì thế, con người có thể trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Khi Người Con cất đi mọi tội, Ngài đã vô hiệu hóa Lề Luật - làm cho Lề Luật không còn giam hãm con người nữa.
2.2/ Thiên Chúa nhận chúng ta làm nghĩa tử qua Chúa Giêsu: Không những chỉ giải phóng con người khỏi tội, Chúa Giêsu còn ban cho con người muôn vàn ân phúc qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Thánh Phaolô nói: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thánh Thần của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Abba, Cha ơi!" Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.”
(1) Ơn làm con Thiên Chúa: Nhờ Chúa Giêsu, con người trở thành những người con của Thiên Chúa bằng niềm tin vào Đức Kitô, như Thánh Gioan nói: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Jn 1:12-13). Đã là con, cũng là người thừa kế. Con người được thừa hưởng tất cả những gì Thiên Chúa ban qua Đức Kitô, nhất là ơn được sống đời đời.
(2) Các ơn của Chúa Thánh Thần: Để có thể tin vào Đức Kitô, và gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! con người phải được Chúa Thánh Thần tác động. Nếu đã có Thánh Thần, con người sẽ không thiếu những ơn lành của Ngài, cách cụ thể là 7 ơn của Chúa Thánh Thần.
3/ Phúc Âm: Các Mục-đồng đến thờ lạy Hài Nhi.
3.1/ Ba phản ứng của các Mục-đồng: Sau khi được các Thiên-thần loan báo Tin Mừng, các Mục đồng đã đáp lại bằng 3 phản ứng:
(1) Họ đi tìm và đã thấy: Trình thuật kể: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Bà Maria, Ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.” Con người chúng ta cũng phải hối hả và nhiệt thành như các Mục-đồng trong việc tìm kiếm Thiên Chúa; vì nếu không lên đường đi tìm, làm sao chúng ta có thể thấy Ngài được. Yếu điểm của nhiều người chúng ta là nhiệt thành tìm kiếm mọi điều, nhưng không nhiệt thành trong việc tìm kiếm và học hỏi về Thiên Chúa. Với một thái độ như thế, không lạ gì khi chúng ta vẫn còn xa cách Thiên Chúa vạn dặm!
(2) Họ tôn vinh ca tụng tình yêu Thiên Chúa: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.” Không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui của người đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa. Các Mục-đồng chắc chắn đã được Hài Nhi cho cảm nghiệm được tình yêu này, khi họ chiêm ngắm Ngài. Chúng ta đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa khi chiêm ngắm Hài Nhi trong máng cỏ chưa?
(3) Phải rao giảng và làm chứng cho tình yêu này: “Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.” Một khi đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, con người trở thành khí cụ ca rao tình yêu của Thiên Chúa cho muôn người. Thánh Phanxicô Khó Khăn chỉ có thể hát lên “Kinh Hòa Bình” sau khi đã cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho ngài. Nếu các tín hữu đều phản ứng như các Mục-đồng hôm nay, chẳng mấy chốc mọi con người trong thế giới này sẽ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa.
3.2/ Mẹ Maria ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy để suy đi nghĩ lại trong lòng: Một gương sáng Đức Mẹ dạy cho con người: đứng trước Mầu Nhiệm Nhập Thể, chúng ta đừng nói nhiều, nhưng hãy ghi nhận mọi sự kiện xảy ra và suy niệm trong lòng. Như một con người, có rất nhiều điều Mẹ có thể hỏi và kêu ca trách Thiên Chúa trong ngày sinh của Chúa Giêsu; chẳng hạn: Con Thiên Chúa mà lại sinh ra trong cảnh khó nghèo như vậy sao? Uy quyền của Thiên Chúa đâu mà để cho Con Ngài mới sinh ra đã phải chạy nạn rồi? Không phải chỉ lúc sinh con, nhưng trong suốt cả cuộc đời, Mẹ đã chứng kiến cuộc sống của Chúa Giêsu: khi thì rất uy quyền làm các phép lạ như tại tiệc cưới Cana, khi thì cô đơn bại trận như lúc sinh thì trên Thánh Giá. Mẹ có thể hỏi Thiên Chúa những lý do tại sao, nhưng Mẹ đã chọn sự thinh lặng và hòan tòan tin tưởng vào Kế Họach và tình yêu của Thiên Chúa cho gia đình Mẹ.
3.3/ Đặt tên cho con trẻ là Jesus: Tên Jesus trong tiếng Do-Thái có nghĩa là “Jaweh cứu thóat,” đó là tên mà Sứ-thần đã truyền đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ (Lk 1:31). Trong Cựu-Ước, cũng có một nhân vật mang tên này là Thủ Lãnh Joshua. Ông được chọn để thay Moses mang dân vào Đất Hứa (Num 13:6). Giống như Joshua, Chúa Giêsu cũng được Chúa Cha tuyển chọn để cứu nhân lọai khỏi tội, và mang họ đế cuộc sống đời đời trên Thiên Đàng. Khi ban cho chúng ta Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã sống đúng với Danh của Ngài là Thiên Chúa Thương Xót.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong Ngày Đầu Năm, chúng ta hãy dùng danh Đức Kitô mà chúc cho nhau được Thiên Chúa đóai thương nhìn tới.
- Vì Thiên Chúa đóai thương, nên Người ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài, để gánh tội và để cho chúng ta thành những người con của Ngài.
- Thuở xưa, con người không được phép nhìn mặt Thiên Chúa; nhưng qua Biến Cố Nhập Thể, con người có thể chiêm ngưỡng dung nhan Thiên Chúa qua khuôn mặt của Chúa Hài Nhi.
- Với nền kinh tế bấp bênh của thế giới và của quốc gia chúng ta đang định cư, chúng ta không biết tương lai sẽ thế nào; nhưng chúng ta biết chắc chắn một điều: “những người được Thiên Chúa đóai thương, sẽ chẳng thiếu chi những điều tốt lành và bình an.”
- Cầu chúc quí khán giả khắp nơi luôn hăng hái nhiệt thành trong việc học hỏi Lời Chúa, và luôn sống trong tình yêu và ơn thánh của Ngài. Chúng con cầu xin nhờ Danh Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi I Jn 2:18-21; Jn 1:1-18.
Ngày 31 tháng 12, BNGS
Bài đọc: I Jn 2:18-21; Jn 1:1-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những kẻ Phản-Kitô là những người từ chối tiếp nhận Đức Kitô.
Đối diện với sự xuất hiện của Đức Kitô, con người buộc phải tỏ thái độ: tin hay không tin. Tùy thuộc vào thái độ này, con người tự chọn cho mình phải hư đi hay đạt tới cuộc sống đời đời. Thiên Chúa không cần phán xét con người, nhưng Ngài để cho con người tự phán xét lấy. Điều này đã rõ ràng trong Tin Mừng Gioan: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Jn 3:16-18).
Các bài đọc hôm nay xoay chung quanh việc từ chối tiếp nhận Đức Kitô. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan đề cập đến những kẻ Phản-Kitô và cuộc giao chiến cuối cùng của các Kitô hữu với những kẻ này. Trong Phúc Âm, Thánh Gioan tường thuật hai phản ứng của con người khi Ngôi Lời xuất hiện: (1) Có những kẻ từ chối tiếp nhận Người: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Jn 1:10-11). (2) Nhưng nếu ai tiếp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (Jn 1:12).
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cuộc chiến cuối cùng với những kẻ Phản-Kitô
1.1/ Cuộc chiến với những kẻ Phản-Kitô:
(1) Giờ cuối cùng là khi nào? Có 2 ý kiến khác nhau:
- Thời gian trước Ngày Tận Thế: Từ thời các Tông-đồ, con người luôn cố gắng đóan xem khi nào Ngày Tận Thế xảy ra: Thánh Phaolô trong Thư gởi tín hữu Thessalonica I đã tiên đóan Ngày này sẽ xảy ra trong tương lai gần; nhưng sau đó, ngài đã xét lại sự tiên đóan này trong các Thư: Thessalonica II, chương 2; và Corintô I, chương 7.
- Thời gian từ lúc Đấng Cứu Thế đến cho tới Ngày Tận Thế: Đây là ý kiến được đa số công nhận hơn vì được Chúa Giêsu nói tới nhiều lần trong các Tin Mừng. Chính Chúa Giêsu đã quả quyết: Ngày ấy chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng khi nào xảy ra không ai biết, trừ một mình Thiên Chúa Cha. Vì không ai biết khi nào Ngày đó xảy ra, nên mọi người phải luôn chuẩn bị.
(2) Ai là kẻ Phản-Kitô? Giới từ anti có 2 nghĩa trong tiếng Hy-Lạp: chống lại hay thay chỗ của. Vì thế từ Phản-Kitô cũng có 2 ý nghĩa:
- Kẻ chống lại Đức Kitô: những ai trực tiếp và đơn giản chống lại Ngài, chẳng hạn: các bè rối chống thiên tính hay nhân tính của Đức Kitô hay Con Thú trong Sách Khải Huyền.
- Kẻ muốn thay thế chỗ của Đức Kitô: những ai muốn thay thế chỗ của Đức Kitô cách gián tiếp và không minh bạch, chẳng hạn: thay vì chỉ cho mọi người tới với Chúa, họ lợi dụng những gì Chúa nói để chỉ vào mình hay từ từ đưa con người xa Chúa.
1.2/ Dấu để nhận ra kẻ Phản-Kitô:
(1) Là người ở giữa chúng ta: không phải là quỉ vương ra đời như nhiều người lầm tưởng. Thánh Gioan chỉ rõ: “Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng không phải là người của chúng ta; vì nếu là người của chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng như thế mới rõ: không phải ai ai cũng là người của chúng ta.” Vì kẻ Phản-Kitô lẫn lộn trong cộng đồng, nên các tín hữu cần cẩn thận đề phòng, vì khó nhận ra họ.
(2) Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra kẻ Phản-Kitô: “Phần anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết. Tôi đã viết cho anh em, không phải vì anh em không biết sự thật, nhưng vì anh em biết sự thật, và vì không có sự dối trá nào phát xuất từ sự thật.” Chúa Thánh Thần là sự thật, chính Ngài sẽ giúp các tín hữu nhận ra ai là kẻ Phản-Kitô.
2/ Phúc Âm: Người ở giữa thế gian, nhưng thế gian lại không nhận biết Người.
2.1/ Ngôi Lời tỏ mình cho thế gian: Thánh Gioan nêu ra ít là 3 cách Ngôi Lời đã tỏ mình:
(1) Trong việc tạo dựng: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” Con người có thể nhận ra Thiên Chúa qua việc tạo dựng và quan phòng.
(2) Qua nhân chứng Gioan: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” Gioan Tẩy Giả là nhân chứng đã biết và đã chỉ cho dân chúng thấy khi Ngài xuất hiện: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian” (Jn 1:29).
(3) Qua biến cố Nhập Thể: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.” Các Tông-đồ đã nhìn thấy Ngôi Lời bằng xương thịt. Ngài đã ở giữa họ, đã dạy dỗ, và đã làm bao phép lạ để chứng tỏ uy quyền của Ngài. Thánh-sử Gioan làm chứng cho chúng ta, những người không có kinh nghiệm nhìn thấy Chúa, trong cả Phúc Âm và Thư của ngài.
2.2/ Phản ứng của con người: Có 2 phản ứng chính:
(1) Từ chối và không tin Ngài: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” Có những người không nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa qua việc tạo dựng. Họ cũng chẳng nhận ra Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Sau cùng, họ cũng chẳng tin vào lời các người làm chứng cho Thiên Chúa. Thời của Chúa cũng như thời nay, vẫn có những hạng người này.
(2) Tiếp nhận và tin vào Ngài: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tin vào Đức Kitô để được làm con Thiên Chúa và để đạt được cuộc sống đời đời.
- Con người tự phán xét lấy mình trong việc lựa chọn tin hay không tin vào Đức Kitô.
- Chúng ta phải cẩn thận đề phòng những kẻ Phản-Kitô: những người từ chối Đức Kitô, những người mạo nhận danh nghĩa của Ngài, và những người muốn thay Ngài bằng những điều khác.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi I Jn 2:12-17; Lk 2:36-40.
Ngày 30 tháng 12 BNGS
Bài đọc: I Jn 2:12-17; Lk 2:36-40.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúng ta được trang bị đầy đủ để sống theo ý của Thiên Chúa.
Một lầm lẫn lớn nhất của con người là tội chạy theo các lòai thụ tạo Thiên Chúa dựng nên thay vì chạy theo Chúa, Người dựng lên chúng. Nếu con người chịu khó suy nghĩ, họ có thể nhận ra sự phi lý của lối sống này: Làm sao những thụ tạo có thể so sánh với Đấng đã tạo dựng nên mọi sự cho con người hưởng dùng? Mục đích Thiên Chúa tạo dựng lên chúng không phải để cho con người thờ phượng chúng, nhưng để con người biết dùng chúng như phương tiện để sinh sống trong những ngày còn sống trên dương gian mà thôi. Nhiều người tức cười khi thấy có người quỳ lạy con bò; nhưng chính họ nhiều khi đang tôn thờ “bò vàng” mà họ không hay biết!
Các Bài đọc hôm nay xoay quanh việc con người phải hết lòng từ bỏ lối sống theo kiểu thế gian, và tập sống theo ý của Thiên Chúa. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan xác quyết Thiên Chúa đã trang bị cho con người đầy đủ những khí cụ cần thiết để có thể thắng vượt được những cám dỗ của thế gian và sống theo ý của Thiên Chúa. Gioan liệt kê một số các khí cụ như: sự chiến thắng của Đức Kitô, ơn tha tội, Lời Chúa. Trong Phúc Âm, Thánh Luca cho chúng ta tấm gương của một nữ ngôn sứ biết sống theo ý Thiên Chúa: Bà Anna, con ông Penuel, thuộc chi tộc Aser. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa trang bị mọi sự cho con người.
1.1/ Những hồng ân con người đã lãnh nhận từ Đức Kitô: Thánh Gioan liệt kê 3 điều chính:
(1) Ơn tha tội nhờ Danh Đức Kitô: Nhờ cái chết của Đức Kitô, Ngài đã xóa đi tội Tổ Tông và mọi tội con người đã, đang, và sẽ phạm. Không những thế, Ngài còn thiết lập Bí-tích Hòa Giải và ban quyền tha tội cho các Tông-đồ và những người kế vị các Ngài. Điều Ngài đòi hỏi nơi các tín hữu là năng xét mình và chạy đến với Bí-tích Hòa Giải để được tha tội.
(2) Biết Đức Kitô, Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu: Nhờ sự mặc khải của Kinh Thánh và của Đức Kitô, con người biết Ba Ngôi Thiên Chúa và tất cả các việc Thiên Chúa làm, nhất là Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa cho con người. Một đời sống cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa, và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa sẽ làm cho con người càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa hơn.
(3) Đã thắng ác thần: nhờ chiến thắng của Đức Kitô và nhờ Lời Thiên Chúa ở lại trong anh em. Vì Đức Kitô đã chiến thắng mọi quyền lực của ác thần (Satan) và của thế gian (giới cai trị), con người được giải thóat khỏi mọi quyền lực này.
1.2/ Lối sống theo thế gian và lối sống theo ý Thiên Chúa:
(1) Lối sống theo thế gian: Trước tiên, Thánh Gioan không có ý khinh thường thế gian vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên đều tốt. Hơn nữa, Thánh Gioan còn nói: “Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã hy sinh Người Con Một của mình” (Jn 3:16). Điều ngài muốn nhấn mạnh ở đây là các khuynh hướng xấu của thế gian đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa.
- Những dục vọng của tính xác thịt: không chỉ giới hạn trong những ham muốn về tình dục, mà còn cả những ham muốn khác nữa như: danh vọng, quyền hành, của cải, và các thú vui làm con người không còn thời giờ cho Chúa, và ngăn cản con người trên đường về với Chúa.
- Những ham muốn của đôi mắt: Con mắt là cửa sổ của linh hồn, vì qua đó các hình ảnh được thâu nhận vào trí óc. Khi có dịp thuận tiện, các hình ảnh này sẽ thao túng linh hồn và làm cho con người phải khốn đốn. Hai điều răn thứ chín và thứ mười là tội liên quan đến con mắt, vì từ chỗ nhìn ngắm sẽ đưa tới chỗ tham muốn. Để tránh những tội này, điều con người có thể tránh là “ăn chay” con mắt. Với phương diện truyền thông liên mạng hiện nay, việc ăn chay con mắt càng cần hơn bao giờ hết.
- Thói ba hoa chích chòe, hay tiếng thời đại quen dùng “nổ”: Bản dịch của Nhóm PVCGK không sát nghĩa khi dịch: “thói cậy mình có của,” vì tiếng Hy-Lạp dùng từ avlazonei,a, có nghĩa ám chỉ không những cậy mình mà còn cậy vào cái mình không có. Câu truyện sau đây dẫn chứng sự hợm hĩnh của lọai người này: Có một bà mới khai trương cửa hiệu của mình. Khi Bà thấy một người kéo cửa vào tiệm, Bà vội bốc điện thọai lên và khoe tiệm ầm ĩ, với mục đích để cho người mới vào biết tiệm Bà tuy mới mở nhưng đông khách là chừng nào. Sau một hồi khoe khoang khóac lác, Bà bỏ điện thọai xuống và hỏi khách hàng cần gì; người ấy thưa ông là nhân viên của hãng điện thọai xuống để nối đường giây điện thọai cho Bà. Lúc ấy, mặt Bà đỏ ửng lên vì biết người đối diện đã biết “tẩy”của Bà.
(2) Lối sống theo ý Thiên Chúa: là ngược lại hòan tòan với lối sống theo thế gian vì “tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.” Thánh Gioan khuyên: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha.”
2/ Phúc Âm: Mẫu gương của những người biết sống và làm theo ý Thiên Chúa.
2.1/ Cuộc đời của Bà Ngôn-sứ Anna: Bà con ông Penuel, thuộc chi tộc Aser. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Một cuộc sống quanh quẩn nơi Đền Thờ như thế đã giúp Bà nhận ra những gì là chính yếu hay phụ thuộc trong cuộc đời. Khi được Thánh Thần thúc đẩy cho nhận ra Đấng Cứu Thế, Bà tiến lại gần bên Gia Đình Thánh, Bà cảm tạ Thiên Chúa và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Jerusalem.
2.3/ Gia đình Thánh trở về Nazareth: “Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nazareth, miền Galilee. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” Thánh Giuse trở về với công việc của người thợ mộc để kiếm tiền nuôi sống gia đình, chứ không xin Thiên Chúa làm phép lạ để có tiền cho Chúa Giêsu ăn học. Mẹ Maria trở về với công việc nội trợ để chăm sóc cho Thánh Giuse và Chúa Giêsu trong suốt 30 năm Ngài sống trên dương thế. Riêng Chúa Giêsu, tuy là Thiên Chúa, Ngài đã ẩn mình trong 30 năm bên Thánh Giuse và Đức Mẹ: vâng lời và giúp đỡ các Ngài, và chuẩn bị trước khi bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng. Cả ba thành phần của Gia Đình Thánh đều sống âm thầm thực hiện ý Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn thờ phượng một mình Thiên Chúa, và đừng bao giờ để những cám dỗ của thế gian lôi kéo chúng ta xa Ngài.
- Một cách để chúng ta nhận ra nếu chúng ta đã làm điều này chưa là năng kiểm điểm cuộc sống, nhất là thời giờ và những nỗ lực chúng ta dành cho Thiên Chúa. Nếu chúng ta bận rộn làm ăn đến nỗi chúng ta không còn thời giờ để cầu nguyện, tham dự Thánh-lễ, và tham gia các họat động mở mang Nước Chúa; chúng ta đang chạy theo các thần không phải là Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi I Jn 2:3-11; Lk 2:22-35.
Ngày 29 tháng 12 BNGS
Bài đọc: I Jn 2:3-11; Lk 2:22-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết Thiên Chúa là bước đi trong đường lối của Ngài.
Quan niệm về “biết” của người Việt-Nam gần gũi với người Do-Thái hơn Hy-Lạp. Người Hy-Lạp quan niệm biết là họat động của tri thức, trong khi người Do-Thái quan niệm biết phải ảnh hưởng đến đời sống. Người Việt-Nam chúng ta quan niệm “tri hành phải đồng nhất” thì mới mang lại kết quả tốt đẹp cho con người, và chúng ta đặt tầm quan trọng trên việc làm hơn là lời nói: “lời nói mới lung lay, nhưng gương bày lôi kéo.” Biết mà không làm, có lợi chi đâu?
Các Bài đọc hôm nay đặt trọng tâm vào việc biết Thiên Chúa là phải bước đi trong đường lối của Người. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan làm sáng tỏ quan niệm “biết Thiên Chúa” cho người Hy-Lạp. Theo ngài, biết Thiên Chúa không phải chỉ thuần tri thức, nhưng liên quan đến đời sống luân lý của người tin. Ngài quả quyết: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy.” Trong Phúc Âm, Thánh Luca nêu lên những tấm gương của những người biết và sống theo đường lối của Thiên Chúa: Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria, và cụ già Simeon.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.
1.1/ Hai lối hiểu biết khác nhau: Khi Kitô Giáo vượt qua lãnh thổ Do-Thái tràn vào Hy-Lạp, Thánh-sử Gioan phải đương đầu với sự hiểu biết và lý luận của người Hy-Lạp; một trong những điều ngài phải làm sáng tỏ là quan niệm “biết Thiên Chúa.”
(1) Theo Hy-Lạp: Biết Thiên Chúa là lãnh vực của trí tuệ, chứ không phải là lãnh vực của luân lý; vì thế, một người có thể nói mình biết Thiên Chúa mà không cần giữ giới răn của Ngài. Đối với người Hy-Lạp, con người có thể tự mình giải thóat bằng kiến thức và suy luận (Gnosticism, chủ thuyết thuần tri thức).
(2) Theo Do-Thái: Biết Thiên Chúa là bước đi theo đường lối của Ngài, là giữ cẩn thận các giới răn của Ngài. Đó là lý do tại sao ngài cắt nghĩa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.”
1.2/ Giới răn yêu thương vừa cũ vừa mới: “Anh em thân mến, đây không phải là một điều răn mới tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ mà anh em đã có ngay từ lúc khởi đầu. Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe. Nhưng đó cũng là một điều răn mới tôi viết cho anh em, điều ấy thật là thế nơi Đức Giêsu và nơi anh em, bởi vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.”
(1) Là giới răn cũ: vì đã được nhắc tới ngay từ đầu. Sách Levi có giới răn này: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lev 18:19).
(2) Là giới răn mới: vì được thực hiện bởi Đức Kitô (Jn 13:34). Có những cái cũ, nhưng trở nên mới vì người thực hành nó; chẳng hạn, bài nhạc cũ nhưng được trình bày theo lối mới. Cũng vậy, khi Đức Kitô sống giới răn yêu thương, Ngài mở ra cho con người một chân trời hòan tòan mới. Ngài mở rộng giới răn yêu thương tới tội nhân và kẻ thù. Ngài dạy: “không có tình yêu nào cao quí cho bằng tình yêu của người dám thí mạng sống cho người mình yêu.” Ngài đã đi trước làm gương cho con người bằng cái chết trên Thập Giá.
1.3/ Ánh sáng và bóng tối: Thánh Gioan đồng nhất:
- Ánh sáng là yêu thương: “Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm.”
- Bóng tối là hận thù: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối... Ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng.”
2/ Phúc Âm: Các mẫu gương của những người sống theo đường lối của Thiên Chúa.
2.1/ Gia Đình Thánh tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Moses, Bà Maria và Ông Giuse đem con lên Jerusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa," và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
2.2/ Ông Simeon tin vào Lời Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.
(1) Ông Simeon là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.
(2) Lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài."
2.3/ Ông Simeon nói tiên tri:
(1) Về con trẻ: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được đứng dậy là hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời của Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ chối không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng dậy là các người thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng khi được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2) Về Mẹ Maria: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành với con từ lúc sinh ra trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải chứng minh việc biết Thiên Chúa bằng đời sống chứng nhân: tuân giữ những gì Thiên Chúa truyền dạy.
- Giới răn quan trọng nhất Thiên Chúa dạy chúng ta là “mến Chúa yêu người.” Chúng ta không chỉ biết giới răn này, nhưng phải mang ra áp dụng trong cuộc đời và với mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Sir 3:2-6, 12-14; Col 3:12-21; A: Mt 2:13-15, 19-23, (B: Lk 2:22-40, C: Lk 2:41-52).
Lễ Thánh Gia, Năm ABC
Bài đọc: Sir 3:2-6, 12-14; Col 3:12-21; A: Mt 2:13-15, 19-23, (B: Lk 2:22-40, C: Lk 2:41-52).
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bí quyết để có một gia đình Thánh
Mọi người trong chúng ta đều đã nhìn thấy và cảm nghiệm được sự khủng hỏang của gia đình hôm nay. Chúng ta phải đương đầu với bao nhiêu những vấn nạn liên quan đến gia đình như: săn sóc và báo hiếu cha mẹ già, cho vào viện dưỡng lão, giết người già bằng cái chết êm dịu; ly dị, ly thân, và độc thân; hạn chế sinh sản và phá thai; con cái bỏ học, bỏ nhà, và bỏ đạo.
Gia đình Thánh cũng có những vấn đề như gia đình chúng ta: Thánh Giuse cũng toan bỏ Đức Mẹ cách kín đáo để bảo tòan sự công chính; Đức Mẹ cũng có những quyết định riêng cho đời mình bằng cuộc sống độc thân để phục vụ Chúa trong Đền Thờ; Chúa Giêsu cũng để cho cha mẹ vất vả mệt nhọc đi tìm kiếm mình, khi cha mẹ tìm thấy trong Đền Thờ lại còn hỏi: “Tại sao cha mẹ đi tìm con? Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao?” Nhưng làm sao Gia Đình Thánh có thể vượt qua những trở ngại trong đời sống gia đình? Câu trả lời đơn giản là họ biết lắng nghe và làm theo ý Thiên Chúa.
Các vấn nạn xảy ra khi con người quá ích kỷ chỉ biết lo cho mình, và đánh mất tính tương giao với người khác. Họ không biết định giá, cám ơn, và trả ơn những gì Thiên Chúa và những người khác đã làm cho họ. Họ không biết kiên nhẫn và tha thứ cho người khác như Thiên Chúa và những người khác vẫn tha thứ cho họ. Họ quên đi rằng nếu Thiên Chúa và những người khác cũng ích kỷ như thế, họ sẽ không có cơ hội để có mặt trên trái đất này.
Hậu quả phải lãnh nhận: Vì gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo Hội, nên khủng hỏang gia đình đứa tới khủng hỏang trong xã hội và Giáo Hội. Một ví dụ cụ thể: Việc hạn chế sinh sản dẫn tới việc mất quân bằng dân số trong quốc gia, các thống kê cho biết mỗi gia đình cần có 2.2 người con thì mới giữ được sự thăng bằng về dân số, các nước Âu Châu, Bắc Mỹ, và một số nước kỹ nghệ đã không có đủ tỉ lệ này. Hạn chế sinh sản cũng là lý do chính của việc khan hiếm linh mục và tu sĩ; nếu chỉ có một hay hai con, rất khó cho cha mẹ dâng con để phục vụ Chúa!
Các Bài đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những chất liệu suy tư và nhìn lại hòan cảnh gia đình của mỗi người chúng ta. Trong Bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca khuyên con cái phải săn sóc và báo hiếu cha mẹ già, dẫu các ngài đã lú lẫn và không tự săn sóc mình được nữa. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô liệt kê những đức tính và các cách cư xử cần có để bảo đảm hạnh phúc gia đình. Trong Phúc Âm, Thánh Luca tường thuật Ngày Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ của Thánh Gia. Một gia đình hạnh phúc phải biết kính sợ Thiên Chúa, và giữ cẩn thận Lề Luật của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy săn sóc cha con khi người đến tuổi già.
1.1/ Giới răn thứ tư: Phải thảo kính cha mẹ.
(1) Lời Thiên Chúa dạy: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.”
(2) Lập luận của con người: Quá bận, không có thời giờ lo cho cha mẹ! Già yếu bệnh họan như thế đưa vào viện dưỡng lão tốt hơn. Có bác sĩ và y tá săn sóc thường trực. Thỉnh thỏang vào thăm tí được rồi. Thực tế: Có những viện dưỡng lão cả ngày không thay tã cho cha mẹ; có những y tá đã không săn sóc, chẳng để ý cha mẹ có ăn không, lại còn đánh luôn cha mẹ. Chúng ta cứ thử hỏi: Nếu cha mẹ đứt ruột đẻ ra và hy sinh chăm sóc cho mình, mình còn không chịu đựng săn sóc được, sao chờ đợi người khác chăm sóc cẩn thận? Điều chúng ta cần nhận ra là người già rất dễ cô đơn và tủi nhục. Họ không cần những chăm sóc bên ngòai, nhưng cần tình thương của con cháu. Chúng tôi đã từng đi xức dầu, và từng thấy các bậc cha mẹ từ giã cuộc đời trong cay đắng của nước mắt.
(3) Điều nên làm: Mọi người trong gia đình sẽ học được rất nhiều điều khi săn sóc cha mẹ già. Tất cả đều nhận ra sự mong manh của cuộc sống và biết nương tựa vào nhau hơn. Các anh chị em biết đòan kết với nhau để chia sẻ trách nhiệm. Các trẻ học biết cách chia sẻ bổn phận với cha mẹ: Khi thấy cha mẹ quá vất vả trong việc làm ăn và săn sóc ông bà, chúng sẽ tình nguyện chia sẻ gánh nặng với cha mẹ; điều này sẽ giúp chúng trưởng thành hơn so với những trẻ không có cơ hội thực tập. Các trẻ cũng sẽ học kinh nghiệm chăm sóc và đối xử với người già, và chúng sẽ áp dụng những gì chúng học được khi săn sóc cha mẹ.
1.2/ Ơn lành Thiên Chúa ban cho những ai hiếu thảo với cha mẹ: Sách Huấn Ca liệt kê những ơn lành như sau:
(1) Con cái cũng hiếu thảo với mình: “Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con.” Tục ngữ Việt Nam cũng khuyên: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đó.” Người biết hiếu thảo và chăm sóc cha mẹ cũng sẽ được hưởng sự hiếu thảo và chăm sóc từ con cái mình. Ngược lại, người đối xử tàn tệ với cha mẹ, sẽ bị con cái mình đối xử tàn tệ hơn nhiều.
(2) Tội lỗi được tha thứ, ân sủng được thương ban: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu… Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con.”
(3) Lời cầu xin được Thiên Chúa nhận lời: “Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe.”
(4) Được sống trường thọ: “Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.” Khi một người săn sóc cha, người ấy cũng làm vui lòng mẹ.
2/ Bài đọc II: Những đức tính và cách xử thế cần có để giữ gia đình hạnh phúc.
2.1/ Những đức tính cần học:
(1) Đức bác ái yêu thương: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo… Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh, và yêu thương.” Bí-tích Thánh Thể là nguồn mạch yêu thương; gia đình nào năng tham dự Thánh-lễ và lãnh nhận Mình Thánh, sẽ có tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu này mới mạnh đủ để xóa tan những bất hòa và khác biệt trong gia đình, và liên kết mọi người trong gia đình với nhau.
(2) Kiên nhẫn chịu đựng và tha thứ cho nhau: “Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau.” Mọi người trong gia đình cùng nhau năng lãnh nhận Bí-tích Hòa Giải là cách thức để học và thực hành 2 nhân đức quan trọng này.
(3) Tâm tình biết ơn: “Ước gì sự bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng sự bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.” Trước tiên là biết ơn Thiên Chúa đã lo lắng mọi sự cho con người. Thứ đến là biết ơn cha mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục, và cầu nguyện cho mình. Sau cùng là biết ơn tất cả những ai đã góp phần làm cuộc đời mình được thăng hoa và ý nghĩa.
2.2/ Tầm quan trọng của Thiên Chúa trong đời sống gia đình:
(1) Lời Chúa: “Ước chi lời Đức Kitô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan.” Để làm được điều này trong gia đình, cha mẹ cần học hỏi để hiểu biết Lời Chúa và gây phong trào học và áp dụng Thánh Kinh trong gia đình; vì cha mẹ không thể cho con cái mình không có.
(2) Thánh Ca: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi, và thánh ca, do Thánh Thần linh hứng.” Điều này cũng nhắc nhở chúng ta tránh nghe và hát những bài hát vô nghĩa và lãng mạn, những chương trình hài hước và kịch nghệ vô bổ, có chủ tâm khinh thường Thiên Chúa và các giá trị đạo đức.
(3) Cầu nguyện: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.” Mẹ Têrêxa cũng quả quyết điều này: “Gia đình nào dành thời giờ cùng nhau cầu nguyện sẽ ở với nhau lâu dài.”
2.3/ Cách cư xử trong gia đình: Tất cả các mối liên hệ đều đòi hỏi hai chiều thì mới có kết quả tốt đẹp được. Thánh Phaolô liệt kê 2 mối liên hệ chính và cách cư xử cần có:
(1) Liên hệ vợ chồng: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ.”
(2) Liên hệ cha con: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.”
3/ Phúc Âm: Những tâm tình biết ơn
Năm A:
3.1/ Sự vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa của Giuse: "Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Herode sắp tìm giết Hài Nhi đấy!" Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. Ông ở đó cho đến khi vua Herode băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập."
Chúng ta học được rất nhiều nơi cách hành xử của Giuse: Ông không hiểu nổi kế hoạch của Thiên Chúa: Hài Nhi vừa mới được các nhà đạo sĩ tôn thờ và dâng lễ vật như một vì vua; giờ lại phải lẩn trốn như một tội nhân! Ông không than trách Thiên Chúa tạo hoàn cảnh khó khăn hay xin Thiên Chúa sai sứ thần bảo vệ gia đình. Ông không suy nghĩ đi Ai-cập rồi phải làm gì để sinh sống, nhưng ông hoàn toàn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ông không trì hoãn để sáng mai; nhưng trỗi dậy trong đêm rét mướt và đưa gia đình đi ngay.
3.2/ Giuse bảo vệ Hài Nhi khỏi mọi nguy hiểm: Định cư bên Ai-cập chưa được bao lâu, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi." Giuse liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel. Khi nghe biết Archelaus đã kế vị vua cha là Herode, cai trị miền Judah, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilee,
và đến ở tại một thành kia gọi là Nazareth, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Nazareth."
Di chuyển chỗ ở không phải là điều dễ dàng vì nó liên quan tới nghề nghiệp, nhà cửa, đồ đạc, trường học của con cái... nhưng Giuse vững tin nơi sự quan phòng của Thiên Chúa cho gia đình, ông vâng lời sứ thần bỏ đất Ai-cập trở về quê hương, ông can đảm tránh nơi nguy hiểm cho dù là quê cha đất tổ, gần Đền Thờ, để đi đến Nazareth, một nơi xa lạ, để tránh nguy hiểm cho con.
Những người cha hôm nay phải học nơi gương Giuse: Họ cần can đảm tránh những nơi gây nguy hiểm cho con cái và chọn những môi trường lành mạnh để con cái có thể lớn lên tốt đẹp. Họ không thể hy sinh tương lai của con cái bằng lý do việc làm hay nhà cửa.
Năm B:
3.1/ Gia Đình Thánh cảm tạ Thiên Chúa: Thánh Giuse và Mẹ Maria cám ơn Thiên Chúa về món quà gia đình, cho hai người thành vợ chồng; và món quà sự sống, Chúa Giêsu. Họ cùng nhau lên Đền Thờ để dâng Con cho Thiên Chúa như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa." Tuy nghèo, nhưng họ cũng cố gắng chuẩn bị một đôi chim gáy và một cặp bồ câu non để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền. Sau khi hòan tất, họ trở về Nazareth, còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
3.2/ Ông Simeon cảm tạ Thiên Chúa: Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh hứng cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài."
Cha mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simeon nói về Người. Ông Simeon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và vì thế, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà."
3.3/ Nữ Ngôn-sứ Anna cảm tạ Thiên Chúa: Bà là con ông Penuel, thuộc chi tộc Aser. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Jerusalem.
Năm C:
3.1/ Phải vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa: Có nhiều điều chúng ta cần học nơi gia đình thánh hôm nay:
(1) Mọi người trong gia đình phải tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Thánh Luca mô tả gia đình thánh tuân giữ Luật Thiên Chúa: "Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Jerusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ." Nếu muốn con cái giữ Luật Thiên Chúa, cha mẹ phải tuân giữ trước và tạo mọi cơ hội cho con giữ Luật. Cha mẹ không thể bắt con đi lễ, nếu cha mẹ không đi và không tạo cơ hội cho con.
(2) Phải kiên nhẫn và tôn trọng nhau cho dù phải đương đầu với thử thách của cuộc sống; nếu không, sự hiệp nhất trong gia đình sẽ có nguy cơ bị tan vỡ. Trong trình thuật hôm nay, mặc dù hai ông bà đau buồn và có thể tức giận vì phải vất vả lo lắng tìm con suốt ba ngày; nhưng thái độ kiên nhẫn của Mẹ Maria phải trở thành gương mẫu cho các cha mẹ học hỏi: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!"
(3) Cha mẹ phải tôn trọng con cái khi chúng muốn làm theo thánh ý Thiên Chúa: Chúa Giêsu đáp lời Mẹ Maria: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" Bổn phận của con người đối với Thiên Chúa là bổn phận hàng đầu phải chu toàn. Các cha mẹ đừng bắt buộc con cái phải chu toàn bổn phận với cha mẹ trước khi chu toàn bổn phận với Thiên Chúa; nhưng phải vui mừng khi thấy con cái làm điều đó. Cha mẹ không bao giờ được ngăn cản con cái khi chúng muốn tận hiến cuộc đời để làm việc cho Thiên Chúa.
(4) Khi chưa hiểu thánh ý Thiên Chúa, hãy giữ thái độ thinh lặng, cầu nguyện, và suy niệm trong lòng để tìm ra thánh ý. Trình thuật hôm nay kể "nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói;" tuy vậy họ không lớn tiếng tranh cãi hay đổ lỗi cho nhau.
3.2/ Chúa Giêsu vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria: Trình thuật Luca tiếp tục: "Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta."
(1) Chúa Giêsu tuy là Thiên Chúa, hạ mình và khiêm nhường vâng phục loài người: Thiên Chúa tôn trọng sự thật, cho dẫu sự thật đòi Ngài phải vâng phục con người. Để có bình an thực sự trong gia đình, mọi phần tử trong gia đình đều phải tôn trọng và sống theo sự thật; nếu không, sự bình an có được chỉ là giả tạo và sớm muộn gì cũng tan vỡ. Ví dụ, con cái có thể vâng lời cha mẹ làm điều sai trái vì sợ hãi; nhưng khi có dịp, chúng sẽ không ngần ngại phản ứng và thoát ly gia đình.
(2) Vâng phục Thiên Chúa và cha mẹ làm con người lớn lên trong khôn ngoan và gặt hái được mọi điều tốt đẹp cho cuộc đời: Nhiều người cho vâng phục là nhu nhược hay hèn kém; nhưng kinh nghiệm khôn ngoan cho thấy khi tuân phục luật của Thiên Chúa và những lời dạy dỗ khôn ngoan của cha mẹ, con cái tránh được tội lỗi và những cám dỗ nguy hiểm trong cuộc đời; nhất là được đẹp lòng Thiên Chúa, sống thuận hòa với tha nhân, và gặt hái nhiều thành công.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải diệt trừ tính ích kỷ trong con người, vì đó là mầm mống của mọi khủng hỏang trong gia đình. Đồng thời, chúng ta cần biết rộng lượng để yêu thương và lo lắng cho người khác như Thiên Chúa và người khác đã yêu thương và lo lắng cho chúng ta.
- Chúng ta cần biết xét mình và xưng tội thường xuyên để nhận ra những yếu đuối và tội lỗi của con người chúng ta. Nếu chúng ta có can đảm xin Thiên Chúa tha thứ tôi lỗi và kiên nhẫn với chúng ta, chúng ta cũng phải sẵn sàng kiên nhẫn và tha thứ những yếu đuối và tội lỗi của tha nhân; vì họ cũng là những con người yếu đuối và tội lỗi như chúng ta. Người không năng xét mình và xưng tội sẽ dễ rơi vào thái độ tự nhận mình tốt lành để dễ phê phán, kết tội, và khai trừ tha nhân.
- Chúng ta cần khiêm nhường nhìn nhận: chúng ta không khôn ngoan hơn Thiên Chúa. Nếu chúng ta muốn làm môn đệ của Đức Kitô, chúng ta phải “từ bỏ ý riêng mình, làm theo ý Thiên Chúa, và vác Thập Giá hằng ngày để theo Ngài.”
- Chúng ta có tự do để làm theo ý chúng ta; nhưng đồng thời chúng ta cũng phải lãnh nhận mọi hậu quả do sự cố chấp, thờ ơ, và khinh thường những lời giảng dạy của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Dân Chúa
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT NĂM B (28/12/2014)
(Hc 3,3-7.14-17a; Cl 3, 12-21; Lc 2, 22-40)
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Chưa bao giờ Giáo hội Công giáo lại quan tâm nhiều đến gia đình như hiện nay, từ cấp thấp nhất là gia đình (với năm tân phúc âm hóa đời sống gia đình của GHVN) cho đến cấp cao nhất là Giáo hội toàn cầu (với các Thượng Hội đồng Giám mục về Gia đình và Đại hội Thế giới về Gia đình tại Philadelphia tháng 9/2015).
Có nhiều lý do khiến gia đình được quan tâm nhiều như thế. Nhưng có hai lý chính: một là vai trò, ơn gọi, sứ mạng của gia đình nói chung, của gia đình Kitô hữu nói riêng, chưa được thấu hiểu và thể hiện đầy đủ ở khắp mọi nơi; hai là gia đình đang bị tấn công từ nhiều phía nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy trì và phát huy những giá trị cao đẹp của truyền thống văn hóa và tâm linh.
Trong bối cảnh ấy, việc mừng Lễ Thánh Gia Thất năm nay càng thêm ý nghĩa, nhất là khi chúng ta biết đón nhận ánh sáng và sức mạnh từ Lời Chúa là Lời Hằng Sống.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Hc 3,2-6.12-14): Ai kính sợ Đức Chúa thì hiếu thảo với cha mẹ
2 Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con.
3 Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm,
4 ai kính mẹ thì tích trữ kho báu.
5 Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái,
khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe.
6 Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ,
ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.
12Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già;
Bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi.
13 Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thong,
chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.
14 Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng,
và sẽ đền bù tội lỗi cho con..
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (Cl 3,12-21): Đời sống gia đình theo tinh thần của Chúa.
12 Thưa anh em, anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. 13 Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. 14 Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. 15 Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.
16Ước chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. 17 Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.
18 Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. 19 Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. 20 Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. 21 Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.
2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Lc 2,22-40): Tiến dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa
22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa", 24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
29 "Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân :
32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài."
33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. 34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; 35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà."
36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. 38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa là:
- Đấng đã soi sáng hướng dẫn tác giả sách Huấn Ca ghi chép lại những kinh nghiệm nhân sinh quý báu làm nên truyền thống Do-thái giáo là nền tảng cho đời sống luân lý Ki-tô giáo, vì qua những kinh nghiệm sống ấy, dân Ít-ra-en khám phá sự khôn ngoan và mối tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa.
- Đấng đã dùng lời nói và ngòi bút của Thánh Phao-lô mà giảng dậy cho các Ki-tô hữu nói chung và các Ki-tô hữu làm vợ làm chồng nói riêng, biết cách sống phù hợp với niềm tin Ki-tô giáo của mình.
- Là Chúa Giê-su Hài Nhi được cha mẹ Ngài tiến dâng cho Thiên Chúa trong đền thờ theo luật Mô-sê. Và được hai vị ngôn sứ (là Sa-mu-en và An-na) chào đón và nói lời sấm ngôn về tương lai của Ngài.
- Là Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa đã trở thành cư dân của làng Na-da-rét, sống ẩn dật vô danh tiểu tốt giữa dân làng và xã hội Do-thái. Ở trong gia đình, Người sống vâng phục Thiên Chúa Cha và cha mẹ trần gian là Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a như một người con hiếu thảo nhất của truyền thống Híp-ri.
3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là: “Hài Nhi (Giê-su) ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”Mẫu gương hay mô hình tốt lành ấy của Hài Nhi Giê-su được dành cho mọi người trong các gia đình.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là Chúa Cha quyền năng và yêu thương trong kế hoạch quan phòng khôn ngoan của Người; là Đấng mời gọi chúng ta có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau.
Sống với Thiên Chúa là Chúa Giê-su thiếu niên và thanh niên đã sống ẩn dật và vâng phục cha mẹ nơi làng Na-da-rét xứ Ga-li-lê, “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được nghĩa cùng Thiên Chúa”
Sống với Thiên Chúa Cha như một người con thảo;
Sống với Chúa Giê-su như một người em và một người môn đệ.
4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là ngày càng trường thành, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người đang sống trong thời đại này sớm nhìn nhận Đức Giê-su Na-da-rét là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người để cứu độ nhân loại.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Hài Nhi (Giê-su) ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và Giáo Dân để mọi thành phần Dân Chúa ngày càng trưởng thành, vững mạnh, khôn ngoan và được nghĩa cùng Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các gia đình thuộc cộng đoàn giáo xứ chúng ta, để mọi người biết tha thứ cho nhau hầu mọi gia đình được ấm êm hạnh phúc.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người làm con trong các gia đình, để họ biết sống thảo hiếu và trọng kính các bậc sinh thành để được Thiên Chúa chúc phúc.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi I Jn 1:1-4; Jn 20:2-8.
Ngày 27 tháng 12, Lễ Thánh Gioan Tông Đồ
Bài đọc: I Jn 1:1-4; Jn 20:2-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thánh Gioan làm chứng cho Thiên Chúa.
Con người hành động là hành động cho một mục đích. Thánh Gioan tuyên bố rất rõ ràng mục đích tại sao ngài viết Sách Tin Mừng là để cho mọi người tin vào Đức Kitô; và vì tin, họ đạt được cuộc sống đời đời” (Jn 20:31). Mục đích này cũng là mục đích tại sao ngài làm chứng cho Đức Kitô trong Bài đọc I, để hiệp thông với con người và để con người được hiệp thông với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, khi nhìn thấy Ngôi Mộ Trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến đã thú nhận: “Ông đã thấy và đã tin.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa.
1.1/ Đức Kitô hiện hữu “từ lúc khởi đầu:” Nếu chúng ta so sánh Sách Tin Mừng (Jn 1:1) với câu đầu tiên của Thư Gioan I, chúng ta sẽ nhận ra ngay ý của ngài khi nói về “lúc khởi đầu.”
Không phải chỉ bắt đầu với sự hiện diện của Đức Kitô trong thế gian, nhưng sự hiện hữu từ nguyên thủy của Ngài.
1.2/ Gioan làm chứng cho Đức Kitô: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.” Thánh-sử Gioan dùng các động từ: nghe, thấy, chiêm ngưỡng, chạm tới, ở thời quá khứ kép để làm chứng cho Đức Kitô. Để lời chứng được hiệu nghiệm, người rao giảng cần có tất cả những kinh nghiệm này:
(1) Điều chúng tôi đã nghe: Các tín hữu mong muốn nơi người rao giảng không phải là sự khôn ngoan hay ý kiến cá nhân của người rao giảng, nhưng là Lời Chúa. Giống như các tiên-tri, người rao giảng phải là người đã lắng nghe Thiên Chúa nói trước, rồi sau đó chuyển thông lại cho dân chúng.
(2) Điều chúng tôi đã nhìn thấy: Có một tín hữu sau khi nghe giảng, đã nói với vị linh mục: “Cha giảng hôm nay như cha vừa nhìn thấy Chúa.” Dĩ nhiên, người rao giảng không được nhìn Đức Kitô tận mắt như Thánh Gioan, nhưng ông có thể nhìn thấy Ngài bằng cặp mắt đức tin.
(3) Điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng: Cái gì khác biệt giữa 2 động từ: nhìn thấy và chiêm ngưỡng Đức Kitô? Động từ “nhìn thấy” trong tiếng Hy-Lạp (horan) chỉ cái nhìn thể lý, nhìn thấy đối vật. Nhưng động từ “chiêm ngưỡng” trong tiếng Hy-Lạp (theasthai) đòi thời gian lâu hơn để nhận ra những gì chính yếu nơi đối vật. Khi nói về vinh quang của Thiên Chúa, Gioan cũng dùng động từ này: “Chúng tôi chiêm ngưỡng vinh quang của Ngài” (Jn 1:14).
(4) Điều chúng tôi đã chạm tới: Nhiều người cho lý do tại sao Thánh-sử Gioan viết những lời này là để chống lại bè rối Docetism, những người cho Đức Kitô không thực sự mang thân xác của con người. Một lý do nữa, để lời rao giảng có hiệu quả, người rao giảng cần có kinh nghiệm sống thiết thực thì mới hiểu vấn đề, và dễ cảm thông với khán giả hơn.
1.3/ Mục đích của việc làm chứng: “Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người. Những điều này, chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn.”
(1) Để hiệp thông với nhau và với Thiên Chúa: Khi Thánh Gioan rao giảng Tin Mừng, bằng bài giảng hay bằng viết sách, ngài luôn có mục đích để hiệp thông với khán giả và đưa khán giả tới Thiên Chúa.
(2) Để niềm vui được trọn vẹn: Niềm vui là điều cốt tủy của Tin Mừng rao giảng. Nếu người rao giảng chỉ mang tin buồn và gây thất vọng trong khán giả, đó không phải là Tin Mừng của Đức Kitô. Dĩ nhiên, nhiều khi người rao giảng phải đánh thức lương tâm khán giả để thúc đẩy họ tới việc ăn năn hối cải; nhưng một khi họ đã thú nhận tội lỗi, họ phải cảm thấy niềm vui vì tội được tha và họ được giao hòa với Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Ông đã thấy và đã tin.
Trình thuật hôm nay bắt đầu Tin Mừng Phục Sinh theo Thánh Gioan: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Magdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu." Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.” Có 2 câu hỏi quan trọng liên quan đến trình thuật này:
2.1/ Ai là người môn đệ Chúa Giêsu thương mến? Đọc Tin Mừng Gioan, độc giả sẽ thấy 6 lần tác giả dùng thành ngữ “người môn đệ yêu quí của Đức Giêsu” (Jn 13:23-26, 19:25-27, 20:2-10, 21:7, 21:2-23, 21:24). Ai là người môn đệ này? Có hai giả thuyết nêu ra:
(1) Chính là Gioan: Vì không muốn nêu tên mình hay vì khiêm nhường, tác giả dùng thành ngữ này để ám chỉ mình. Gioan là một trong ba người môn đệ gần gũi nhất với Chúa Giêsu, hai người kia là Phêrô và Giacôbê, anh ruột của ông. Đây là giả thuyết có nền tảng hơn cả.
(2) Có thể là bất cứ môn đệ nào được Chúa yêu: Có người cho đây là hình ảnh của một Kitô hữu hòan tòan: gần gũi với Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly và giờ chết của Ngài, và là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu khi Ngài sống lại.
2.2/ Tại sao người môn đệ này lại để cho Phêrô vào trước?
(1) Vì Phêrô là người lãnh đạo các Tông-đồ: Hành động của người môn đệ, tuy tới trước nhưng không vào, nói lên sự tôn trọng quyền bính của ông. Giả thuyết này không có cơ sở vững chắc lắm, vì trong Tin Mừng Gioan, không thấy nói tới quyền bính của Phêrô. Ngược lại, Phêrô đã nhiều lần không nhận ra Chúa Giêsu ngay, và cần được nhắc khéo bởi “người môn đệ yêu quí của Chúa Giêsu.”
(2) Vì tuyệt đỉnh của trình thuật là người môn đệ tin Đức Kitô đã sống lại: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.” Có người cho đây là kiểu viết văn của Gioan: vì muốn chấm dứt trình thuật bằng lời tự thú của người môn đệ, nên để cho Simon Phêrô vào trước. Hơn nữa, tác giả cũng muốn gởi tới độc giả một lời khuyên nhủ: người nào yêu mến Đức Kitô nhiều bao nhiêu dễ chạy nhanh hơn và nhận ra Ngài dễ hơn (Jn 21:7).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có bổn phận làm chứng cho Đức Kitô qua việc rao giảng Tin Mừng và bằng cuộc sống chứng nhân.
- Mục đích của việc làm chứng là để cảm thông với con người và dẫn họ tới niềm tin vào Đức Kitô.
- Để lời rao giảng có hiệu quả, chúng ta cần có một niềm tin mạnh mẽ và vững vàng nơi Đức Kitô, qua việc lắng nghe, ngắm nhìn, chiêm ngưỡng, và cảm nghiệm Ngài trong cuộc sống.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Acts 6:8-10, 7:54-59; Mt 10:17-22.
Ngày 26 tháng 12, Lễ Thánh Stephanô TĐ
Bài đọc: Acts 6:8-10, 7:54-59; Mt 10:17-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thánh Stephanô là người đầu tiên đổ máu làm chứng cho Đức Kitô.
Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao Giáo Hội cử hành Lễ Thánh Stephanô, tử đạo, ngay sau Lễ Giáng Sinh? Câu trả lời có lẽ liên kết mục đích của việc Nhập Thể với bổn phận của Kitô hữu: “Niềm vui Giáng Sinh là con người được nhìn thấy Ơn Cứu Độ; nhưng để đạt được Ơn Cứu Độ, con người phải chứng minh niềm tin của mình nơi Người Con.” Sau những vui mừng nhộn nhịp của Ngày Giáng Sinh, con người dễ có khuynh hướng trở lại cuộc sống bình thường, Giáo Hội muốn nhắc nhở cho các tín hữu bổn phận làm chứng cho Đức Kitô trong cuộc sống hằng ngày.
Các Bài đọc hôm nay xoay quanh việc làm chứng cho Đức Kitô. Trong Bài đọc I, Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật cuộc tử đạo của Stephanô, chứng nhân đầu tiên cho Đức Kitô. Trong Vuơng Cung Thánh Đường Stephanô của các cha Đa-minh tại Đất Thánh, trong Học-viện Thánh Kinh École Biblique, có vẽ 3 tấm hình: một của Gioan Tẩy Giả đang chỉ tay vào Chúa Giêsu, Người đứng giữa và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian.” Một của Phó-tế Stephanô cũng chỉ tay vào Chúa Giêsu và nói: “Đây là Đấng mà tôi đã đổ máu làm chứng cho Ngài.” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ giá phải trả của sứ vụ làm chứng cho Ngài: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con."
1.1/ Tiểu sử của Stephanô: Phó-tế Stephanô là một trong 7 Phó-tế đầu tiên được chọn để giúp các Tông-đồ. Lý do có Phó-tế là để các Tông-đồ chuyên lo việc cầu nguyện và giảng dạy (Acts 6:1-6). Điều kiện để làm Phó-tế là phải có thanh danh tốt, đầy tràn Thánh Thần và khôn ngoan. Chúng ta không biết nhiều về lịch sử của ông. Tên của ông Stephanô, tiếng Hy-Lạp có nghĩa là “triều thiên.” Trên tấm bia tìm được nơi mộ ông, có khắc chữ Kelil, một từ Aramaic cho Stephanos của Hy-Lạp. Có lẽ đây là tên nguyên thủy của ngài.
Không ai biết rõ địa điểm nơi ngài bị ném đá. Có người cho là tại Cổng Stephanô của Thành Jerusalem ngày nay; điều này không chắc chắn vì không thấy tài liệu lịch sử nào ghi lại. Hơn nữa, các Cổng Thành hiện nay cũng mới được xây lại từ thế kỷ 16. Nguồn sử liệu chắc chắn hơn và dựa trên khám phá khảo cổ mới tại Đất Thánh, xương cốt của ngài được để tại Vương Cung Thánh Đường Stephanô của các cha Đa-minh trong khuôn viên của Học-viện Kinh Thánh. Vương Cung Thánh Đường mới được xây dựng lại trên nền nhà của Vương Cung Thánh-đường Byzantine cũ, xây dựng vào năm 431 bởi Juvenal, Giám-mục của Jerusalem, với sự trợ giúp của Bà Hòang Eudocia. Thánh Cyril, Giám-quản của Alexandria, khánh thành Thánh Đường vào ngày 15 tháng 5 năm 439. Trong khi khánh thành, Thánh Cyril đã cho di chuyển xương cốt của Stephanô, Thánh Tử Đạo Tiên Khởi, từ một nhà thờ trên Núi Sion đã giữ xương cốt này trong 24 năm vào Thánh Đường này. Bà Hòang Eudocia cũng được chôn cất tại đây.
Sách Công Vụ Tông Đồ mô tả vắn tắt cuộc đời của Stephanô: Ông Stephanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Địch thù tranh luận với ông là những người thuộc hội đường gọi là hội đường của “nhóm nô lệ được giải phóng,” gốc Cyrene và Alexandria, cùng với một số người gốc Cilicia và Asia. Hậu quả của cuộc tranh cãi: “Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thánh Thần đã ban cho ông. Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Stephanô.” Vì họ không thể cãi lại ông, nên họ dùng những con người gian dối để tố cáo ông tội phạm thượng tới Thiên Chúa và Moses, để có cớ ném đá ông (Acts 6:14).
1.2/ Biến cố tử đạo của Stephanô: Trình thuật kể: “Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa." Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông, rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saul. Họ ném đá ông Stephanô, đang lúc ông cầu xin rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con."”
2/ Phúc Âm: Ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được cứu thóat.
2.1/ Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em: Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ biết những gì sẽ xảy ra cho các ông: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” Con người dễ bị thuyết phục khi nhìn thấy những tấm gương anh hùng của những người coi thường cái chết. Có lẽ vì lý do này mà người ta nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sẽ trổ sinh niềm tin Công-giáo, và là men làm thăng tiến Nước Chúa Kitô.” Thực tế đã chứng minh: nơi nào bách hại càng nhiều, nơi đó càng có nhiều người tin theo Đức Kitô.
2.2/ Lời hứa ban Thánh Thần: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần của Cha anh em nói trong anh em.” Có rất nhiều vị tử đạo thân thể yếu ớt, nói năng nhút nhát; nhưng khi phải ra để bị tra khảo trước vua quan, đã anh hùng khí khái nói lên những lời khôn ngoan lưu truyền cho hậu thế.
Chúa Giêsu cũng báo trước cho các môn đệ biết: Kẻ thù không phải chỉ có những người ngòai, nhưng có thể cả những người trong gia đình: "Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.”
Kẻ thù có thể giết được thân xác, nhưng không động đến được linh hồn các môn đệ của Đức Kitô. Ngài động viên tinh thần các môn đệ: “Can đảm lên, Đừng sợ! vì Thầy đã chiến thắng thế gian.” Và Ngài hứa ban phần thưởng cứu độ cho những ai trung thành: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Ơn Cứu Độ thuộc về con người khi Đức Kitô nhập thể và hiến thân làm của lễ hy sinh trên Thập Giá. Tuy nhiên, để được hưởng Ơn Cứu Độ này, chúng ta phải chứng minh niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô trong khi còn ở thế gian này.
- Nhiệm vụ của chúng ta là rao giảng và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, để mọi người nhận ra chứng tá của chúng ta và tin vào Ngài. Trong khi làm chứng cho sự thật, chúng ta sẽ gặp những gian nan, thử thách, và chống đối; nhưng Đức Kitô đã hứa sẽ ở cùng, và ban Thánh Thần giúp chúng ta vượt qua tất cả.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Giáo Phận Giáo Phận Long Xuyên
- Viết bởi Isa 52:7-10; Heb 1:1-6; Jn 1:1-18.
Ngày 25 tháng 12, Lễ Giáng Sinh
Bài đọc: Isa 52:7-10; Heb 1:1-6; Jn 1:1-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa họat động trong lịch sử con người.
Nhiều người trong chúng ta dễ dàng bị thuyết phục bởi câu nói xem ra rất chí lý, “đạo nào cũng là đạo; đạo nào cũng dạy con người làm điều lành tránh điều ác!” Từ đó, nhiều người đưa đến kết luận, ai theo đạo nào cũng được. Nếu chúng ta chỉ dựa vào đạo lý để tin vào các thần, sẽ có rất nhiều thần trong thế giới này; nhưng những thần này có làm lợi gì cho chúng ta đâu? Có những vị thần do trí tưởng tượng của con người tạo nên, có những vị thần do con người tự nhận, có những vị thần do con người phong chức cho; đâu là Vị Thần đích thực và là Người điều khiển thế giới này? Một trong những tiêu chuẩn giúp chúng ta nhận ra là dựa vào giòng lịch sử của con người để tìm hiểu, kiểm chứng, và xác nhận ảnh hưởng và sự can thiệp của Vị Thần này vào đời sống nhân lọai.
Trong suốt Mùa Vọng qua, và trong các Bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của Vị Thần đích thực này chính là Thiên Chúa. Ngài không phải là một vị thần sống xa cách và không quan tâm gì đến cuộc sống của dân chúng; trái lại cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều sống mật thiết và quan tâm đến mọi khía cạnh của con người suốt giòng lịch sử: từ khi tạo dựng cho đến Ngày Cánh Chung. Trong Bài đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa vào cuộc sống của dân trước, đang, và sau thời gian Lưu Đày. Trong Bài đọc II, Tác giả của Thư Do-Thái cho thấy 2 cách can thiệp khác nhau của Thiên Chúa: thuở xưa Ngài phán dạy qua các Tiên-tri; thời nay Ngài dạy dỗ con người qua chính Người Con Nhập Thể. Điều này cũng đã được Tiên-tri Isaiah và Jeremiah loan báo trước: “Mọi người sẽ được dạy dỗ bởi chính Thiên Chúa” (Isa 54:13, Jer 31:33, Jn 6:45). Trong Phúc Âm, Thánh Gioan nhìn thấy vai trò của Ngôi Hai ngay từ ban đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng con người; và vai trò của Người trong Kế họach Cứu Độ của Thiên Chúa. Chính Người Con này đã nhập thể để ở với con người, để yêu thương dạy dỗ, và để hiến mình thành của lễ hy sinh đền tội cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người bốn bể sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
1.1/ Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị." Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo Tin Mừng phải loan báo 3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu độ:
(1) Công bố bình an: Bình an là một trong những chữ được Tiên-tri Isaiah dùng nhiều nhất; nó không phải là sự vắng mặt của chiến tranh, nhưng là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người. Con người được hòa giải với Thiên Chúa; vì thế, con người có bình an.
(2) Loan tin tốt lành: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa, Đấng Tốt Lành. Ngài ban phúc lành của Ngài cho con người: tha thứ tội lỗi và cho được hưởng ơn cứu độ.
(3) Công bố ơn cứu độ: Ơn Cứu Độ đến từ Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn trong việc giải phóng Dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon; nhưng bao gồm cả việc giải phóng dân khỏi tội lỗi, và đem lại cho dân sự tốt lành và bình an.
Thiên Chúa là Vua hiển trị, chính Ngài sẽ lãnh đạo dân. Những người canh gác của Thành Thánh Jerusalem sẽ nhìn thấy Đức Chúa, và cất tiếng reo hò. Ngài sẽ cai trị dân và cho họ hưởng bình an, những điều tốt lành, và ơn cứu độ.
1.2/ Mọi người sẽ nhìn thấy Thiên Chúa cứu độ Jerusalem: “Hỡi Jerusalem điêu tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Jerusalem. Trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Người: người bốn bể rồi ra nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.” Sự kiện Chúa giải phóng dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon và cho về lại Jerusalem, là một phép lạ mà các dân trong vùng đều hay biết: không bằng sức mạnh quân sự, không bằng sức cố gắng của dân Do-Thái; nhưng bằng niềm tin tưởng của Cyrus, Vua Ba-Tư vào Thiên Chúa. Tương tự khi Chúa Giêsu giải phóng dân khỏi tội bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá tại Jerusalem, nước Do-Thái còn đang dưới ách đô hộ của Đế-quốc Rôma.
2/ Bài đọc II: Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.
2.1/ Thánh Tử cao trọng hơn các tiên-tri: Trong Mầu Nhiệm Cứu Độ, những gì Thiên Chúa muốn được mặc khải qua hai giai đọan:
(1) “Thời xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ.” Các tiên-tri, vì khả năng giới hạn, không thể lĩnh hội một lần; nên Thiên Chúa phải mặc khải nhiều lần và qua nhiều người. Mỗi thời đại có những vấn đề khác nhau, nên mặc khải của các tiên tri cũng khác nhau, chẳng hạn: Tiên-tri Amos chú trọng đến công bằng xã hội; Tiên-tri Isaiah chú trọng đến việc sửa dạy để thanh luyện dân chúng; Tiên-tri Hosea chú trọng đến sự trung thành của Thiên Chúa và sự bất trung của dân. Các tiên-tri chỉ biết một khía cạnh về Thiên Chúa, không một tiên tri nào biết tất cả các khía cạnh của Thiên Chúa. Các tiên tri cũng dùng các cách khác nhau để mặc khải: tuyên sấm (Amos, Isaiah), hành động như đóng kịch (Jeremiah).
(2) Thời sau hết, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta trực tiếp qua Thánh Tử: Mặc khải do Thánh-Tử hòan hảo hơn tất cả mặc khải của các tiên-tri, vì Thánh-Tử biết rõ tất cả những gì xảy ra nơi Thiên Chúa ngay từ thuở ban đầu. Các tiên-tri là những bạn hữu của Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu là Người Con của Thiên Chúa. Ngài không chỉ biết một phần sự thật như các tiên tri; nhưng nơi Ngài ẩn chứa tất cả sự thật. Qua Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa. Tác giả Thư Do-Thái không chủ ý khinh thường các tiên tri; nhưng muốn làm nổi bật vai trò của Thánh Tử.
Người Do Thái quan niệm họ đang sống giữa hai thời đại: thời hiện tại và thời cánh chung; thời hiện tại hòan tòan xấu và thời tương lai là thời huy hòang của Đức Chúa. Giữa hai thời đại là Ngày của Đức Chúa đến và Đức Kitô là Người bắt đầu triều đại của Thiên Chúa.
2.2/ Thánh Tử cao trọng hơn các thiên-thần.
1/ Sự cao trọng của Thánh Tử: C.J. Vaughan chỉ ra 6 điều quan trọng liên quan đến Đức Kitô:
(1) Vinh quang nguyên thủy của Thiên Chúa thuộc về Đức Kitô: “Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa.” Vinh quang của Thiên Chúa gồm chứa không trong sự đánh phạt con người hay giảm họ xuống hàng tôi tớ, nhưng trong phục vụ, yêu mến, và chết cho con người.
(2) Vương quốc thuộc về Đức Kitô: “Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.” Các tác giả Tin Mừng không bao giờ nghi ngờ sự chiến thắng thuộc về Đức Kitô; đơn giản vì Ngài là Con Thiên Chúa. Khi mọi việc hòan tất, Ngài sẽ trao vương quốc lại cho Thiên Chúa.
(3) Công cuộc tạo dựng cũng thuộc về Đức Kitô: “Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ.” Thiên Chúa tạo dựng bằng Lời “Hãy có!” tức thì mọi vật liền có.
(4) Công việc quan phòng vũ trụ cũng thuộc về Đức Kitô: “Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật.” Thiên Chúa không những dựng nên vũ trụ, nhưng còn quan phòng điều khiển nó theo một trật tự hòa điệu. Ngài điều khiển nó theo sự khôn ngoan, mà Ngôi Lời là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
(5) Công cuộc cứu chuộc là do Đức Kitô: Bằng cái chết, Ngài gánh tội cho con người; bằng sự hiện diện liên tục với con người, Ngài giải phóng con người khỏi tội.
(6) Cuộc vinh thắng khải hòan cũng thuộc về Đức Kitô: “Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời.” Theo tác giả Sách Do-Thái, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa để làm Trạng-sư bênh vực cho con người.
2/ Thánh Tử cao trọng hơn các thiên-thần: Truyền thống Do-Thái tin thiên thần là các sứ giả (aggeloi, Hy-Lạp, và mal’akim, Do-Thái) của Thiên Chúa: các thiên-thần có nhiệm vụ trao mệnh lệnh của Thiên Chúa cho con người và tường thuật những gì con người làm hay cầu xin lên Thiên Chúa. Quan hệ trực tiếp giữa Thiên Chúa và con người không thể xảy ra; nếu con người nhìn thấy Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ phải chết (Acts 7:53, Gal 3:19). Vì thế, dễ dàng cho người Do-Thái chấp nhận các thiên thần hơn là chính Thiên Chúa. Tác giả Thư Do-Thái muốn nhấn mạnh Đức Kitô không phải là một trong số các thiên thần; nhưng cao trọng hơn các thiên thần bội phần. “Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu. Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con; hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta. Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.”
3/ Phúc Âm: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.”
3.1/ Sự hiện hữu và vai trò của Ngôi Lời:
(1) Ngôi Lời hiện hữu từ khởi thủy: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.” Từ ngữ “Ngôi Lời” có lịch sử trong cả Do-Thái và Hy-Lạp. Cả hai lịch sử đều cho “Lời” là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, là trí tuệ của Ngài. Thánh sử Gioan dùng từ Hy-Lạp để nói về Đấng Thiên Sai của Do-Thái, cho người Hy-Lạp hiểu. Nếu Ngôi Lời là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Ngôi Lời luôn hiện hữu với Thiên Chúa từ khởi thủy.
(2) Vai trò của Ngôi Lời trong việc tạo dựng vũ trụ: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” Nếu Ngôi Lời là trí tuệ của Thiên Chúa, cái gì có trong trí tuệ thì sẽ có; cái gì không có trong trí tuệ thì sẽ không có. Sự sống và Ánh sáng là hai chủ đề chính trong Tin Mừng Gioan, và có liên quan mật thiết với nhau. Sự sống không chỉ thuần túy thể lý, nhưng mở rộng tới sự sống đời đời. Chỉ có Ngôi Lời có khả năng đem sự sống đời đời này cho con người.
(3) Ngôi Lời là ánh sáng: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian; ai tin Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống” (Jn 8:12). Bóng tối đối ngược với ánh sáng, và con người cần ánh sáng xua tan bóng tối để con người có thể nhìn thấy; nhưng cũng có những con người muốn ở trong bóng tối nên muốn diệt trừ ánh sáng, vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những tội lỗi của họ cho người khác nhìn thấy.
3.2/ Phản ứng của con người: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” Ánh sáng của Ngôi Lời chính là sự thật Ngài mang từ Thiên Chúa đến cho con người. Đứng trước sự thật, Thánh-sử Gioan tường thuật 2 phản ứng chính:
(1) Không nhận biết và không tiếp nhận Người: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” Con người ít nhất hai lần từ chối Ngôi Lời: Lần thứ nhất, Thánh Phaolô đồng ý với Gioan khi tố cáo: “Con người phải nhận biết Thiên Chúa qua những gì Thiên Chúa tạo dựng, nhưng họ đã không nhận ra Thiên Chúa” (Rom 1:19-20). Thiên Chúa tạo dựng qua Ngôi Lời, con người chẳng nhận ra Ngôi Lời cũng chẳng nhận biết Thiên Chúa. Lần thứ hai là qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, rất nhiều người đã nhìn thấy Ngôi Lời, nhưng vẫn từ chối tiếp nhận Ngài.
(2) Phần thưởng dành cho những ai tiếp nhận Người: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.” Phần thưởng trọng đại dành cho những ai tin vào Ngôi Lời là họ trở thành con Thiên Chúa; và được hưởng tất cả mọi ơn lành dành cho người con.
3.3/ Những hồng ân Ngôi Lời ban cho con người: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật… Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có.”
(1) Ân sủng: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.” Đức Kitô, tuy trong thân xác con người, nhưng chứa đựng tất cả khôn ngoan, uy quyền, tình thương, và sự bình an của Thiên Chúa (như các tên gọi của Ngài trong Thánh Lễ Nửa Đêm). Bất cứ ai có được Ngài, là hưởng được tất cả những gì Ngài có. Ngài là sự tòan hảo của Thiên Chúa, và Ngài ban cho con người đời sống thần linh của Ngài.
(2) Sự thật: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Người Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.” Ngôi Lời mặc khải cho con người biết sự thật về Thiên Chúa và tất cả các ý định của Ngài. Khi Philip xin Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa, Đức Kitô bảo ông: “Ai đã xem thấy Thầy là đã thấy Cha” (Jn 14:9).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lịch sử rất quan trọng trong việc hiểu biết và củng cố niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Người không biết lịch sử sẽ dễ dàng chạy theo những niềm tin mơ hồ. Nguy hiểm của những niềm tin này là con người không đạt được mục đích của đời mình.
- Lịch sử của Do-Thái quan trọng cho niềm tin của các Kitô hữu, vì Thiên Chúa đã chọn họ làm Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Chúng ta cần học hỏi lịch sử của họ qua các Sách Cựu Ước để hiểu biết Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa cho con người.
- Theo Lịch sử Cứu Độ, Thiên Chúa đã dùng những cách thức khác nhau để dạy dỗ con người: thời Cựu Ước, Ngài dùng các tiên-tri để nói thay và dạy dỗ con người; thời Tân-Ước, Thiên Chúa cho Người Con nhập thể để dạy dỗ và mặc khải rõ ràng Kế Họach Cứu Độ cho con người.
- Mọi người chúng ta đều cần được dạy dỗ bởi chính Người Con này. Chúng ta phải có Đức Kitô trong cuộc đời để Ngài soi sáng, dạy dỗ, ban ơn, và chỉ đường cho chúng ta về hưởng hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Giáo Phận Giáo Phận Long Xuyên
- Viết bởi Dân Chúa
NGÔI LỜI ĐÃ ĐÊN
ĐỂ TRẦN GIAN ĐƯỢC CHAN HÒA ƠN PHÚC
ĐẠI LỄ CHÚA GIÁNG SINH NĂM B (25/12/2014)
(Is 52,7-10; Dt 1, 1-6; Ga 1, 1-5.9-14)
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Lễ Giáng Sinh đem đến một niềm vui lớn cho toàn thể nhân loại, nhất là cho những người thành tâm thiện chí và những người bé nhỏ khó nghèo trong xã hội. Thiên Chúa cao siêu, cực thánh, vô hình đã trở nên một trẻ thơ bé bỏng trên cánh tay yêu thương trìu mến của người mẹ hiền và trước mắt mọi phàm nhân. Điều kỳ diệu ấy chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng vô cùng quyền năng mới thực hiện được. Ngôi Lời Thiên Chúa, là Hài Nhi Giê-su, đã đến thế gian để đem phúc trời là bình an và tình thương của Thiên Chúa đến cho muôn dân, muôn người.
Chúng ta hãy đón mừng Chúa Hài Nhi là Thiên Chúa giáng trần để cứu nhân loại khỏi vòng nô lệ của tội lỗi! Chúng ta hãy để cho niềm vui thiên quốc ùa tràn vào tâm hồn, gia đình và cuộc sống của chúng ta!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Is 52,7-10): Người bốn bể sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
7 Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Xi-on rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị." 8 Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Xi-on. 9 Hỡi Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Giêrusalem. 10Trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Người: ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta, người bốn bể rồi ra nhìn thấy.
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (Dt 1,1-6):Thiên Chúa đã phán dậy chúng ta qua Thánh Tử.
1Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; 2 nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. 3 Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời. 4 Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu.
5 Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta. 6 Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.
2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Ga 1,15.9-14): Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.
1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
3 Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành 4 ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
5 Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
9 Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.
10 Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
11 Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
12 Còn những ai đón nhận,
tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
13 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc do ước muốn của người đàn ông,
nhưng do bởi Thiên Chúa.
14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa là:
* Vua hiển trị bằng Tình Yêu Thương, là Đấng đang trở về Xi-on để an ủi dân Ítraen và cứu chuộc Giê-ru-sa-lem và vung cánh tay thần thánh trước mặt muôn dân.
* Đấng, trong các thời đại trước, đã phán dạy qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Người phán dạy qua Thánh Tử là Chúa Giê-su. Chúa Giê-su vừa là Thiên Chúa (Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ) vừa là Con Thiên Chúa (Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con).
* Là Ngôi Lời đã thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta và ở giữa thế gian. Người đã đến nhà mình, nhưng thế gian đã không nhận biết Người và người nhà đã không đón nhận Người. Những ai đón nhận, tức là tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa."
* Đấng là Ánh Sáng thật, Ánh Sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.
* Đấng đem ân sủng và sự thật cho loài người.
3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Người đã đến nhà mình. Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.”
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
Thiên Chúa mời chúng ta đáp lại Tình Thương của Chúa Cha và việc Xuống Thế của Ngôi Lời bằng cách:
4.1 Sống với Chúa là Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Sống với Chúa là Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta nơi Chúa Giê-su Hài Nhi. Sống một cách mật thiết, biết ơn và vâng phục.
4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là nhận biết và đón nhận Chúa Giê-su và tin vào Danh Người để trở nên con Thiên Chúa.
Cụ thể là:
(a) Nhận biết Hài Nhi Giê-su chính là Ngôi Lời Nhập Thể làm người và hiện đang cư ngụ giữa loài người!
(b) Nhận biết Chúa Giê-su là Ánh Sáng, là Ân Sủng.
(c) Sống khiêm nhường, phục vụ, bỏ mình, tự hạ theo gương Chúa Giê-su Hài Nhi cho xứng danh là con cái Thiên Chúa.
(d) Thường xuyên dâng lời chúc tụng, ngợi khen Chúa Hài Nhi là biểu hiện cụ thể của Thiên Chúa Tình Thương và Quyền Năng.
Mỗi người nhìn lại xem mình đã và đang sống như thế nào với sứ điệp trên của Lời Chúa?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các dân, các nước trong thế giới hôm nay, biết nhận ra Vị Ngôn Sứ vĩ đại của Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô đã xuống thế làm người, để mạc khải Thiên Chúa cho con người và đem muôn vàn ơn phúc của Trời cho những người thành tâm thiện chí.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và Giáo Dân để mọi thành phần Dân Chúa biết mở rộng tâm hồn đón rước Ngôi Lời vào nhà mình và sống thân mật với Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, để mọi người lãnh nhận được muôn vàn ơn phúc trong Mùa Giáng Sinh năm nay.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người có trách nhiệm giúp đỡ và hướng dẫn người khác tìm kiếm Thiên Chúa, để họ biết cách biểu lộ Thiên Chúa trong lời nói, việc làm và cách sống của họ.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Tin Mừng Giáng Sinh là tình yêu Thiên Chúa
- Gioan là sứ giả dọn đường cho Thiên Chúa
- Nhận biết và cám ơn Thiên Chúa
- Thiên Chúa “xây nhà” cho con người
- Ơn Cứu Độ đến từ Thiên Chúa
- Hy vọng trong thất vọng
- Công chính và tội lỗi
- Đấng Cứu Thế được sinh ra trong lịch sử
- Phải sống theo sự thật
- Phải yêu mến sự thật