Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi I Jn 2:3-11; Lk 2:22-35.
Ngày 29 tháng 12 BNGS
Bài đọc: I Jn 2:3-11; Lk 2:22-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết Thiên Chúa là bước đi trong đường lối của Ngài.
Quan niệm về “biết” của người Việt-Nam gần gũi với người Do-Thái hơn Hy-Lạp. Người Hy-Lạp quan niệm biết là họat động của tri thức, trong khi người Do-Thái quan niệm biết phải ảnh hưởng đến đời sống. Người Việt-Nam chúng ta quan niệm “tri hành phải đồng nhất” thì mới mang lại kết quả tốt đẹp cho con người, và chúng ta đặt tầm quan trọng trên việc làm hơn là lời nói: “lời nói mới lung lay, nhưng gương bày lôi kéo.” Biết mà không làm, có lợi chi đâu?
Các Bài đọc hôm nay đặt trọng tâm vào việc biết Thiên Chúa là phải bước đi trong đường lối của Người. Trong Bài đọc I, Thánh Gioan làm sáng tỏ quan niệm “biết Thiên Chúa” cho người Hy-Lạp. Theo ngài, biết Thiên Chúa không phải chỉ thuần tri thức, nhưng liên quan đến đời sống luân lý của người tin. Ngài quả quyết: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy.” Trong Phúc Âm, Thánh Luca nêu lên những tấm gương của những người biết và sống theo đường lối của Thiên Chúa: Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria, và cụ già Simeon.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.
1.1/ Hai lối hiểu biết khác nhau: Khi Kitô Giáo vượt qua lãnh thổ Do-Thái tràn vào Hy-Lạp, Thánh-sử Gioan phải đương đầu với sự hiểu biết và lý luận của người Hy-Lạp; một trong những điều ngài phải làm sáng tỏ là quan niệm “biết Thiên Chúa.”
(1) Theo Hy-Lạp: Biết Thiên Chúa là lãnh vực của trí tuệ, chứ không phải là lãnh vực của luân lý; vì thế, một người có thể nói mình biết Thiên Chúa mà không cần giữ giới răn của Ngài. Đối với người Hy-Lạp, con người có thể tự mình giải thóat bằng kiến thức và suy luận (Gnosticism, chủ thuyết thuần tri thức).
(2) Theo Do-Thái: Biết Thiên Chúa là bước đi theo đường lối của Ngài, là giữ cẩn thận các giới răn của Ngài. Đó là lý do tại sao ngài cắt nghĩa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.”
1.2/ Giới răn yêu thương vừa cũ vừa mới: “Anh em thân mến, đây không phải là một điều răn mới tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ mà anh em đã có ngay từ lúc khởi đầu. Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe. Nhưng đó cũng là một điều răn mới tôi viết cho anh em, điều ấy thật là thế nơi Đức Giêsu và nơi anh em, bởi vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.”
(1) Là giới răn cũ: vì đã được nhắc tới ngay từ đầu. Sách Levi có giới răn này: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lev 18:19).
(2) Là giới răn mới: vì được thực hiện bởi Đức Kitô (Jn 13:34). Có những cái cũ, nhưng trở nên mới vì người thực hành nó; chẳng hạn, bài nhạc cũ nhưng được trình bày theo lối mới. Cũng vậy, khi Đức Kitô sống giới răn yêu thương, Ngài mở ra cho con người một chân trời hòan tòan mới. Ngài mở rộng giới răn yêu thương tới tội nhân và kẻ thù. Ngài dạy: “không có tình yêu nào cao quí cho bằng tình yêu của người dám thí mạng sống cho người mình yêu.” Ngài đã đi trước làm gương cho con người bằng cái chết trên Thập Giá.
1.3/ Ánh sáng và bóng tối: Thánh Gioan đồng nhất:
- Ánh sáng là yêu thương: “Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm.”
- Bóng tối là hận thù: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối... Ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng.”
2/ Phúc Âm: Các mẫu gương của những người sống theo đường lối của Thiên Chúa.
2.1/ Gia Đình Thánh tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Moses, Bà Maria và Ông Giuse đem con lên Jerusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa," và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
2.2/ Ông Simeon tin vào Lời Thiên Chúa hứa và sự thúc đẩy của Thánh Thần.
(1) Ông Simeon là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.
(2) Lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới, ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài."
2.3/ Ông Simeon nói tiên tri:
(1) Về con trẻ: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng dậy. Cháu còn là mục tiêu cho người đời chống đối; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra.” Nhiều người bị ngã xuống hay được đứng dậy là hòan tòan tùy thuộc vào phản ứng của họ đối với Đức Kitô. Trong cuộc đời của Chúa, người bị ngã xuống là phần đông là các Kinh-sư và Biệt-phái, vì họ từ chối không tin và luôn tìm cách bắt bẻ và tiêu diệt Ngài. Những người được đứng dậy là các người thu thuế, gái điếm, và dân ngọai; tuy bị coi là tội lỗi, nhưng khi được Chúa tỏ lòng thương xót, họ đã ăn năn và tin vào Ngài.
(2) Về Mẹ Maria: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà." Cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời của Mẹ; đau khổ của Con là của Mẹ. Mẹ Maria đã đồng hành với con từ lúc sinh ra trong máng cỏ cho tới lúc sinh thì tên Thập Giá.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải chứng minh việc biết Thiên Chúa bằng đời sống chứng nhân: tuân giữ những gì Thiên Chúa truyền dạy.
- Giới răn quan trọng nhất Thiên Chúa dạy chúng ta là “mến Chúa yêu người.” Chúng ta không chỉ biết giới răn này, nhưng phải mang ra áp dụng trong cuộc đời và với mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Sir 3:2-6, 12-14; Col 3:12-21; A: Mt 2:13-15, 19-23, (B: Lk 2:22-40, C: Lk 2:41-52).
Lễ Thánh Gia, Năm ABC
Bài đọc: Sir 3:2-6, 12-14; Col 3:12-21; A: Mt 2:13-15, 19-23, (B: Lk 2:22-40, C: Lk 2:41-52).
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bí quyết để có một gia đình Thánh
Mọi người trong chúng ta đều đã nhìn thấy và cảm nghiệm được sự khủng hỏang của gia đình hôm nay. Chúng ta phải đương đầu với bao nhiêu những vấn nạn liên quan đến gia đình như: săn sóc và báo hiếu cha mẹ già, cho vào viện dưỡng lão, giết người già bằng cái chết êm dịu; ly dị, ly thân, và độc thân; hạn chế sinh sản và phá thai; con cái bỏ học, bỏ nhà, và bỏ đạo.
Gia đình Thánh cũng có những vấn đề như gia đình chúng ta: Thánh Giuse cũng toan bỏ Đức Mẹ cách kín đáo để bảo tòan sự công chính; Đức Mẹ cũng có những quyết định riêng cho đời mình bằng cuộc sống độc thân để phục vụ Chúa trong Đền Thờ; Chúa Giêsu cũng để cho cha mẹ vất vả mệt nhọc đi tìm kiếm mình, khi cha mẹ tìm thấy trong Đền Thờ lại còn hỏi: “Tại sao cha mẹ đi tìm con? Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao?” Nhưng làm sao Gia Đình Thánh có thể vượt qua những trở ngại trong đời sống gia đình? Câu trả lời đơn giản là họ biết lắng nghe và làm theo ý Thiên Chúa.
Các vấn nạn xảy ra khi con người quá ích kỷ chỉ biết lo cho mình, và đánh mất tính tương giao với người khác. Họ không biết định giá, cám ơn, và trả ơn những gì Thiên Chúa và những người khác đã làm cho họ. Họ không biết kiên nhẫn và tha thứ cho người khác như Thiên Chúa và những người khác vẫn tha thứ cho họ. Họ quên đi rằng nếu Thiên Chúa và những người khác cũng ích kỷ như thế, họ sẽ không có cơ hội để có mặt trên trái đất này.
Hậu quả phải lãnh nhận: Vì gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo Hội, nên khủng hỏang gia đình đứa tới khủng hỏang trong xã hội và Giáo Hội. Một ví dụ cụ thể: Việc hạn chế sinh sản dẫn tới việc mất quân bằng dân số trong quốc gia, các thống kê cho biết mỗi gia đình cần có 2.2 người con thì mới giữ được sự thăng bằng về dân số, các nước Âu Châu, Bắc Mỹ, và một số nước kỹ nghệ đã không có đủ tỉ lệ này. Hạn chế sinh sản cũng là lý do chính của việc khan hiếm linh mục và tu sĩ; nếu chỉ có một hay hai con, rất khó cho cha mẹ dâng con để phục vụ Chúa!
Các Bài đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những chất liệu suy tư và nhìn lại hòan cảnh gia đình của mỗi người chúng ta. Trong Bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca khuyên con cái phải săn sóc và báo hiếu cha mẹ già, dẫu các ngài đã lú lẫn và không tự săn sóc mình được nữa. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô liệt kê những đức tính và các cách cư xử cần có để bảo đảm hạnh phúc gia đình. Trong Phúc Âm, Thánh Luca tường thuật Ngày Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ của Thánh Gia. Một gia đình hạnh phúc phải biết kính sợ Thiên Chúa, và giữ cẩn thận Lề Luật của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy săn sóc cha con khi người đến tuổi già.
1.1/ Giới răn thứ tư: Phải thảo kính cha mẹ.
(1) Lời Thiên Chúa dạy: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.”
(2) Lập luận của con người: Quá bận, không có thời giờ lo cho cha mẹ! Già yếu bệnh họan như thế đưa vào viện dưỡng lão tốt hơn. Có bác sĩ và y tá săn sóc thường trực. Thỉnh thỏang vào thăm tí được rồi. Thực tế: Có những viện dưỡng lão cả ngày không thay tã cho cha mẹ; có những y tá đã không săn sóc, chẳng để ý cha mẹ có ăn không, lại còn đánh luôn cha mẹ. Chúng ta cứ thử hỏi: Nếu cha mẹ đứt ruột đẻ ra và hy sinh chăm sóc cho mình, mình còn không chịu đựng săn sóc được, sao chờ đợi người khác chăm sóc cẩn thận? Điều chúng ta cần nhận ra là người già rất dễ cô đơn và tủi nhục. Họ không cần những chăm sóc bên ngòai, nhưng cần tình thương của con cháu. Chúng tôi đã từng đi xức dầu, và từng thấy các bậc cha mẹ từ giã cuộc đời trong cay đắng của nước mắt.
(3) Điều nên làm: Mọi người trong gia đình sẽ học được rất nhiều điều khi săn sóc cha mẹ già. Tất cả đều nhận ra sự mong manh của cuộc sống và biết nương tựa vào nhau hơn. Các anh chị em biết đòan kết với nhau để chia sẻ trách nhiệm. Các trẻ học biết cách chia sẻ bổn phận với cha mẹ: Khi thấy cha mẹ quá vất vả trong việc làm ăn và săn sóc ông bà, chúng sẽ tình nguyện chia sẻ gánh nặng với cha mẹ; điều này sẽ giúp chúng trưởng thành hơn so với những trẻ không có cơ hội thực tập. Các trẻ cũng sẽ học kinh nghiệm chăm sóc và đối xử với người già, và chúng sẽ áp dụng những gì chúng học được khi săn sóc cha mẹ.
1.2/ Ơn lành Thiên Chúa ban cho những ai hiếu thảo với cha mẹ: Sách Huấn Ca liệt kê những ơn lành như sau:
(1) Con cái cũng hiếu thảo với mình: “Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con.” Tục ngữ Việt Nam cũng khuyên: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đó.” Người biết hiếu thảo và chăm sóc cha mẹ cũng sẽ được hưởng sự hiếu thảo và chăm sóc từ con cái mình. Ngược lại, người đối xử tàn tệ với cha mẹ, sẽ bị con cái mình đối xử tàn tệ hơn nhiều.
(2) Tội lỗi được tha thứ, ân sủng được thương ban: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu… Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con.”
(3) Lời cầu xin được Thiên Chúa nhận lời: “Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe.”
(4) Được sống trường thọ: “Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.” Khi một người săn sóc cha, người ấy cũng làm vui lòng mẹ.
2/ Bài đọc II: Những đức tính và cách xử thế cần có để giữ gia đình hạnh phúc.
2.1/ Những đức tính cần học:
(1) Đức bác ái yêu thương: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo… Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh, và yêu thương.” Bí-tích Thánh Thể là nguồn mạch yêu thương; gia đình nào năng tham dự Thánh-lễ và lãnh nhận Mình Thánh, sẽ có tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu này mới mạnh đủ để xóa tan những bất hòa và khác biệt trong gia đình, và liên kết mọi người trong gia đình với nhau.
(2) Kiên nhẫn chịu đựng và tha thứ cho nhau: “Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau.” Mọi người trong gia đình cùng nhau năng lãnh nhận Bí-tích Hòa Giải là cách thức để học và thực hành 2 nhân đức quan trọng này.
(3) Tâm tình biết ơn: “Ước gì sự bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng sự bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.” Trước tiên là biết ơn Thiên Chúa đã lo lắng mọi sự cho con người. Thứ đến là biết ơn cha mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục, và cầu nguyện cho mình. Sau cùng là biết ơn tất cả những ai đã góp phần làm cuộc đời mình được thăng hoa và ý nghĩa.
2.2/ Tầm quan trọng của Thiên Chúa trong đời sống gia đình:
(1) Lời Chúa: “Ước chi lời Đức Kitô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan.” Để làm được điều này trong gia đình, cha mẹ cần học hỏi để hiểu biết Lời Chúa và gây phong trào học và áp dụng Thánh Kinh trong gia đình; vì cha mẹ không thể cho con cái mình không có.
(2) Thánh Ca: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi, và thánh ca, do Thánh Thần linh hứng.” Điều này cũng nhắc nhở chúng ta tránh nghe và hát những bài hát vô nghĩa và lãng mạn, những chương trình hài hước và kịch nghệ vô bổ, có chủ tâm khinh thường Thiên Chúa và các giá trị đạo đức.
(3) Cầu nguyện: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.” Mẹ Têrêxa cũng quả quyết điều này: “Gia đình nào dành thời giờ cùng nhau cầu nguyện sẽ ở với nhau lâu dài.”
2.3/ Cách cư xử trong gia đình: Tất cả các mối liên hệ đều đòi hỏi hai chiều thì mới có kết quả tốt đẹp được. Thánh Phaolô liệt kê 2 mối liên hệ chính và cách cư xử cần có:
(1) Liên hệ vợ chồng: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ.”
(2) Liên hệ cha con: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.”
3/ Phúc Âm: Những tâm tình biết ơn
Năm A:
3.1/ Sự vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa của Giuse: "Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Herode sắp tìm giết Hài Nhi đấy!" Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. Ông ở đó cho đến khi vua Herode băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập."
Chúng ta học được rất nhiều nơi cách hành xử của Giuse: Ông không hiểu nổi kế hoạch của Thiên Chúa: Hài Nhi vừa mới được các nhà đạo sĩ tôn thờ và dâng lễ vật như một vì vua; giờ lại phải lẩn trốn như một tội nhân! Ông không than trách Thiên Chúa tạo hoàn cảnh khó khăn hay xin Thiên Chúa sai sứ thần bảo vệ gia đình. Ông không suy nghĩ đi Ai-cập rồi phải làm gì để sinh sống, nhưng ông hoàn toàn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ông không trì hoãn để sáng mai; nhưng trỗi dậy trong đêm rét mướt và đưa gia đình đi ngay.
3.2/ Giuse bảo vệ Hài Nhi khỏi mọi nguy hiểm: Định cư bên Ai-cập chưa được bao lâu, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi." Giuse liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel. Khi nghe biết Archelaus đã kế vị vua cha là Herode, cai trị miền Judah, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilee,
và đến ở tại một thành kia gọi là Nazareth, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Nazareth."
Di chuyển chỗ ở không phải là điều dễ dàng vì nó liên quan tới nghề nghiệp, nhà cửa, đồ đạc, trường học của con cái... nhưng Giuse vững tin nơi sự quan phòng của Thiên Chúa cho gia đình, ông vâng lời sứ thần bỏ đất Ai-cập trở về quê hương, ông can đảm tránh nơi nguy hiểm cho dù là quê cha đất tổ, gần Đền Thờ, để đi đến Nazareth, một nơi xa lạ, để tránh nguy hiểm cho con.
Những người cha hôm nay phải học nơi gương Giuse: Họ cần can đảm tránh những nơi gây nguy hiểm cho con cái và chọn những môi trường lành mạnh để con cái có thể lớn lên tốt đẹp. Họ không thể hy sinh tương lai của con cái bằng lý do việc làm hay nhà cửa.
Năm B:
3.1/ Gia Đình Thánh cảm tạ Thiên Chúa: Thánh Giuse và Mẹ Maria cám ơn Thiên Chúa về món quà gia đình, cho hai người thành vợ chồng; và món quà sự sống, Chúa Giêsu. Họ cùng nhau lên Đền Thờ để dâng Con cho Thiên Chúa như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa." Tuy nghèo, nhưng họ cũng cố gắng chuẩn bị một đôi chim gáy và một cặp bồ câu non để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền. Sau khi hòan tất, họ trở về Nazareth, còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
3.2/ Ông Simeon cảm tạ Thiên Chúa: Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh hứng cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa. Được Thánh Thần thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài."
Cha mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simeon nói về Người. Ông Simeon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và vì thế, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà."
3.3/ Nữ Ngôn-sứ Anna cảm tạ Thiên Chúa: Bà là con ông Penuel, thuộc chi tộc Aser. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Jerusalem.
Năm C:
3.1/ Phải vâng lời làm theo thánh ý Thiên Chúa: Có nhiều điều chúng ta cần học nơi gia đình thánh hôm nay:
(1) Mọi người trong gia đình phải tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: Thánh Luca mô tả gia đình thánh tuân giữ Luật Thiên Chúa: "Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Jerusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ." Nếu muốn con cái giữ Luật Thiên Chúa, cha mẹ phải tuân giữ trước và tạo mọi cơ hội cho con giữ Luật. Cha mẹ không thể bắt con đi lễ, nếu cha mẹ không đi và không tạo cơ hội cho con.
(2) Phải kiên nhẫn và tôn trọng nhau cho dù phải đương đầu với thử thách của cuộc sống; nếu không, sự hiệp nhất trong gia đình sẽ có nguy cơ bị tan vỡ. Trong trình thuật hôm nay, mặc dù hai ông bà đau buồn và có thể tức giận vì phải vất vả lo lắng tìm con suốt ba ngày; nhưng thái độ kiên nhẫn của Mẹ Maria phải trở thành gương mẫu cho các cha mẹ học hỏi: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!"
(3) Cha mẹ phải tôn trọng con cái khi chúng muốn làm theo thánh ý Thiên Chúa: Chúa Giêsu đáp lời Mẹ Maria: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" Bổn phận của con người đối với Thiên Chúa là bổn phận hàng đầu phải chu toàn. Các cha mẹ đừng bắt buộc con cái phải chu toàn bổn phận với cha mẹ trước khi chu toàn bổn phận với Thiên Chúa; nhưng phải vui mừng khi thấy con cái làm điều đó. Cha mẹ không bao giờ được ngăn cản con cái khi chúng muốn tận hiến cuộc đời để làm việc cho Thiên Chúa.
(4) Khi chưa hiểu thánh ý Thiên Chúa, hãy giữ thái độ thinh lặng, cầu nguyện, và suy niệm trong lòng để tìm ra thánh ý. Trình thuật hôm nay kể "nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói;" tuy vậy họ không lớn tiếng tranh cãi hay đổ lỗi cho nhau.
3.2/ Chúa Giêsu vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria: Trình thuật Luca tiếp tục: "Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta."
(1) Chúa Giêsu tuy là Thiên Chúa, hạ mình và khiêm nhường vâng phục loài người: Thiên Chúa tôn trọng sự thật, cho dẫu sự thật đòi Ngài phải vâng phục con người. Để có bình an thực sự trong gia đình, mọi phần tử trong gia đình đều phải tôn trọng và sống theo sự thật; nếu không, sự bình an có được chỉ là giả tạo và sớm muộn gì cũng tan vỡ. Ví dụ, con cái có thể vâng lời cha mẹ làm điều sai trái vì sợ hãi; nhưng khi có dịp, chúng sẽ không ngần ngại phản ứng và thoát ly gia đình.
(2) Vâng phục Thiên Chúa và cha mẹ làm con người lớn lên trong khôn ngoan và gặt hái được mọi điều tốt đẹp cho cuộc đời: Nhiều người cho vâng phục là nhu nhược hay hèn kém; nhưng kinh nghiệm khôn ngoan cho thấy khi tuân phục luật của Thiên Chúa và những lời dạy dỗ khôn ngoan của cha mẹ, con cái tránh được tội lỗi và những cám dỗ nguy hiểm trong cuộc đời; nhất là được đẹp lòng Thiên Chúa, sống thuận hòa với tha nhân, và gặt hái nhiều thành công.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải diệt trừ tính ích kỷ trong con người, vì đó là mầm mống của mọi khủng hỏang trong gia đình. Đồng thời, chúng ta cần biết rộng lượng để yêu thương và lo lắng cho người khác như Thiên Chúa và người khác đã yêu thương và lo lắng cho chúng ta.
- Chúng ta cần biết xét mình và xưng tội thường xuyên để nhận ra những yếu đuối và tội lỗi của con người chúng ta. Nếu chúng ta có can đảm xin Thiên Chúa tha thứ tôi lỗi và kiên nhẫn với chúng ta, chúng ta cũng phải sẵn sàng kiên nhẫn và tha thứ những yếu đuối và tội lỗi của tha nhân; vì họ cũng là những con người yếu đuối và tội lỗi như chúng ta. Người không năng xét mình và xưng tội sẽ dễ rơi vào thái độ tự nhận mình tốt lành để dễ phê phán, kết tội, và khai trừ tha nhân.
- Chúng ta cần khiêm nhường nhìn nhận: chúng ta không khôn ngoan hơn Thiên Chúa. Nếu chúng ta muốn làm môn đệ của Đức Kitô, chúng ta phải “từ bỏ ý riêng mình, làm theo ý Thiên Chúa, và vác Thập Giá hằng ngày để theo Ngài.”
- Chúng ta có tự do để làm theo ý chúng ta; nhưng đồng thời chúng ta cũng phải lãnh nhận mọi hậu quả do sự cố chấp, thờ ơ, và khinh thường những lời giảng dạy của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Dân Chúa
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT NĂM B (28/12/2014)
(Hc 3,3-7.14-17a; Cl 3, 12-21; Lc 2, 22-40)
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Chưa bao giờ Giáo hội Công giáo lại quan tâm nhiều đến gia đình như hiện nay, từ cấp thấp nhất là gia đình (với năm tân phúc âm hóa đời sống gia đình của GHVN) cho đến cấp cao nhất là Giáo hội toàn cầu (với các Thượng Hội đồng Giám mục về Gia đình và Đại hội Thế giới về Gia đình tại Philadelphia tháng 9/2015).
Có nhiều lý do khiến gia đình được quan tâm nhiều như thế. Nhưng có hai lý chính: một là vai trò, ơn gọi, sứ mạng của gia đình nói chung, của gia đình Kitô hữu nói riêng, chưa được thấu hiểu và thể hiện đầy đủ ở khắp mọi nơi; hai là gia đình đang bị tấn công từ nhiều phía nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy trì và phát huy những giá trị cao đẹp của truyền thống văn hóa và tâm linh.
Trong bối cảnh ấy, việc mừng Lễ Thánh Gia Thất năm nay càng thêm ý nghĩa, nhất là khi chúng ta biết đón nhận ánh sáng và sức mạnh từ Lời Chúa là Lời Hằng Sống.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Hc 3,2-6.12-14): Ai kính sợ Đức Chúa thì hiếu thảo với cha mẹ
2 Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con.
3 Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm,
4 ai kính mẹ thì tích trữ kho báu.
5 Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái,
khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe.
6 Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ,
ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.
12Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già;
Bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi.
13 Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thong,
chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.
14 Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng,
và sẽ đền bù tội lỗi cho con..
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (Cl 3,12-21): Đời sống gia đình theo tinh thần của Chúa.
12 Thưa anh em, anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. 13 Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. 14 Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. 15 Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.
16Ước chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. 17 Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.
18 Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. 19 Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. 20 Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. 21 Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.
2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Lc 2,22-40): Tiến dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa
22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa", 24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
29 "Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân :
32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài."
33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. 34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; 35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà."
36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. 38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa là:
- Đấng đã soi sáng hướng dẫn tác giả sách Huấn Ca ghi chép lại những kinh nghiệm nhân sinh quý báu làm nên truyền thống Do-thái giáo là nền tảng cho đời sống luân lý Ki-tô giáo, vì qua những kinh nghiệm sống ấy, dân Ít-ra-en khám phá sự khôn ngoan và mối tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa.
- Đấng đã dùng lời nói và ngòi bút của Thánh Phao-lô mà giảng dậy cho các Ki-tô hữu nói chung và các Ki-tô hữu làm vợ làm chồng nói riêng, biết cách sống phù hợp với niềm tin Ki-tô giáo của mình.
- Là Chúa Giê-su Hài Nhi được cha mẹ Ngài tiến dâng cho Thiên Chúa trong đền thờ theo luật Mô-sê. Và được hai vị ngôn sứ (là Sa-mu-en và An-na) chào đón và nói lời sấm ngôn về tương lai của Ngài.
- Là Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa đã trở thành cư dân của làng Na-da-rét, sống ẩn dật vô danh tiểu tốt giữa dân làng và xã hội Do-thái. Ở trong gia đình, Người sống vâng phục Thiên Chúa Cha và cha mẹ trần gian là Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a như một người con hiếu thảo nhất của truyền thống Híp-ri.
3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là: “Hài Nhi (Giê-su) ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”Mẫu gương hay mô hình tốt lành ấy của Hài Nhi Giê-su được dành cho mọi người trong các gia đình.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa là Chúa Cha quyền năng và yêu thương trong kế hoạch quan phòng khôn ngoan của Người; là Đấng mời gọi chúng ta có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau.
Sống với Thiên Chúa là Chúa Giê-su thiếu niên và thanh niên đã sống ẩn dật và vâng phục cha mẹ nơi làng Na-da-rét xứ Ga-li-lê, “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được nghĩa cùng Thiên Chúa”
Sống với Thiên Chúa Cha như một người con thảo;
Sống với Chúa Giê-su như một người em và một người môn đệ.
4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là ngày càng trường thành, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người đang sống trong thời đại này sớm nhìn nhận Đức Giê-su Na-da-rét là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người để cứu độ nhân loại.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 “Hài Nhi (Giê-su) ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và Giáo Dân để mọi thành phần Dân Chúa ngày càng trưởng thành, vững mạnh, khôn ngoan và được nghĩa cùng Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các gia đình thuộc cộng đoàn giáo xứ chúng ta, để mọi người biết tha thứ cho nhau hầu mọi gia đình được ấm êm hạnh phúc.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người làm con trong các gia đình, để họ biết sống thảo hiếu và trọng kính các bậc sinh thành để được Thiên Chúa chúc phúc.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi I Jn 1:1-4; Jn 20:2-8.
Ngày 27 tháng 12, Lễ Thánh Gioan Tông Đồ
Bài đọc: I Jn 1:1-4; Jn 20:2-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thánh Gioan làm chứng cho Thiên Chúa.
Con người hành động là hành động cho một mục đích. Thánh Gioan tuyên bố rất rõ ràng mục đích tại sao ngài viết Sách Tin Mừng là để cho mọi người tin vào Đức Kitô; và vì tin, họ đạt được cuộc sống đời đời” (Jn 20:31). Mục đích này cũng là mục đích tại sao ngài làm chứng cho Đức Kitô trong Bài đọc I, để hiệp thông với con người và để con người được hiệp thông với Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, khi nhìn thấy Ngôi Mộ Trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến đã thú nhận: “Ông đã thấy và đã tin.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa.
1.1/ Đức Kitô hiện hữu “từ lúc khởi đầu:” Nếu chúng ta so sánh Sách Tin Mừng (Jn 1:1) với câu đầu tiên của Thư Gioan I, chúng ta sẽ nhận ra ngay ý của ngài khi nói về “lúc khởi đầu.”
Không phải chỉ bắt đầu với sự hiện diện của Đức Kitô trong thế gian, nhưng sự hiện hữu từ nguyên thủy của Ngài.
1.2/ Gioan làm chứng cho Đức Kitô: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.” Thánh-sử Gioan dùng các động từ: nghe, thấy, chiêm ngưỡng, chạm tới, ở thời quá khứ kép để làm chứng cho Đức Kitô. Để lời chứng được hiệu nghiệm, người rao giảng cần có tất cả những kinh nghiệm này:
(1) Điều chúng tôi đã nghe: Các tín hữu mong muốn nơi người rao giảng không phải là sự khôn ngoan hay ý kiến cá nhân của người rao giảng, nhưng là Lời Chúa. Giống như các tiên-tri, người rao giảng phải là người đã lắng nghe Thiên Chúa nói trước, rồi sau đó chuyển thông lại cho dân chúng.
(2) Điều chúng tôi đã nhìn thấy: Có một tín hữu sau khi nghe giảng, đã nói với vị linh mục: “Cha giảng hôm nay như cha vừa nhìn thấy Chúa.” Dĩ nhiên, người rao giảng không được nhìn Đức Kitô tận mắt như Thánh Gioan, nhưng ông có thể nhìn thấy Ngài bằng cặp mắt đức tin.
(3) Điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng: Cái gì khác biệt giữa 2 động từ: nhìn thấy và chiêm ngưỡng Đức Kitô? Động từ “nhìn thấy” trong tiếng Hy-Lạp (horan) chỉ cái nhìn thể lý, nhìn thấy đối vật. Nhưng động từ “chiêm ngưỡng” trong tiếng Hy-Lạp (theasthai) đòi thời gian lâu hơn để nhận ra những gì chính yếu nơi đối vật. Khi nói về vinh quang của Thiên Chúa, Gioan cũng dùng động từ này: “Chúng tôi chiêm ngưỡng vinh quang của Ngài” (Jn 1:14).
(4) Điều chúng tôi đã chạm tới: Nhiều người cho lý do tại sao Thánh-sử Gioan viết những lời này là để chống lại bè rối Docetism, những người cho Đức Kitô không thực sự mang thân xác của con người. Một lý do nữa, để lời rao giảng có hiệu quả, người rao giảng cần có kinh nghiệm sống thiết thực thì mới hiểu vấn đề, và dễ cảm thông với khán giả hơn.
1.3/ Mục đích của việc làm chứng: “Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giêsu Kitô, Con của Người. Những điều này, chúng tôi viết ra để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn.”
(1) Để hiệp thông với nhau và với Thiên Chúa: Khi Thánh Gioan rao giảng Tin Mừng, bằng bài giảng hay bằng viết sách, ngài luôn có mục đích để hiệp thông với khán giả và đưa khán giả tới Thiên Chúa.
(2) Để niềm vui được trọn vẹn: Niềm vui là điều cốt tủy của Tin Mừng rao giảng. Nếu người rao giảng chỉ mang tin buồn và gây thất vọng trong khán giả, đó không phải là Tin Mừng của Đức Kitô. Dĩ nhiên, nhiều khi người rao giảng phải đánh thức lương tâm khán giả để thúc đẩy họ tới việc ăn năn hối cải; nhưng một khi họ đã thú nhận tội lỗi, họ phải cảm thấy niềm vui vì tội được tha và họ được giao hòa với Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Ông đã thấy và đã tin.
Trình thuật hôm nay bắt đầu Tin Mừng Phục Sinh theo Thánh Gioan: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Magdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu." Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.” Có 2 câu hỏi quan trọng liên quan đến trình thuật này:
2.1/ Ai là người môn đệ Chúa Giêsu thương mến? Đọc Tin Mừng Gioan, độc giả sẽ thấy 6 lần tác giả dùng thành ngữ “người môn đệ yêu quí của Đức Giêsu” (Jn 13:23-26, 19:25-27, 20:2-10, 21:7, 21:2-23, 21:24). Ai là người môn đệ này? Có hai giả thuyết nêu ra:
(1) Chính là Gioan: Vì không muốn nêu tên mình hay vì khiêm nhường, tác giả dùng thành ngữ này để ám chỉ mình. Gioan là một trong ba người môn đệ gần gũi nhất với Chúa Giêsu, hai người kia là Phêrô và Giacôbê, anh ruột của ông. Đây là giả thuyết có nền tảng hơn cả.
(2) Có thể là bất cứ môn đệ nào được Chúa yêu: Có người cho đây là hình ảnh của một Kitô hữu hòan tòan: gần gũi với Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly và giờ chết của Ngài, và là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu khi Ngài sống lại.
2.2/ Tại sao người môn đệ này lại để cho Phêrô vào trước?
(1) Vì Phêrô là người lãnh đạo các Tông-đồ: Hành động của người môn đệ, tuy tới trước nhưng không vào, nói lên sự tôn trọng quyền bính của ông. Giả thuyết này không có cơ sở vững chắc lắm, vì trong Tin Mừng Gioan, không thấy nói tới quyền bính của Phêrô. Ngược lại, Phêrô đã nhiều lần không nhận ra Chúa Giêsu ngay, và cần được nhắc khéo bởi “người môn đệ yêu quí của Chúa Giêsu.”
(2) Vì tuyệt đỉnh của trình thuật là người môn đệ tin Đức Kitô đã sống lại: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.” Có người cho đây là kiểu viết văn của Gioan: vì muốn chấm dứt trình thuật bằng lời tự thú của người môn đệ, nên để cho Simon Phêrô vào trước. Hơn nữa, tác giả cũng muốn gởi tới độc giả một lời khuyên nhủ: người nào yêu mến Đức Kitô nhiều bao nhiêu dễ chạy nhanh hơn và nhận ra Ngài dễ hơn (Jn 21:7).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có bổn phận làm chứng cho Đức Kitô qua việc rao giảng Tin Mừng và bằng cuộc sống chứng nhân.
- Mục đích của việc làm chứng là để cảm thông với con người và dẫn họ tới niềm tin vào Đức Kitô.
- Để lời rao giảng có hiệu quả, chúng ta cần có một niềm tin mạnh mẽ và vững vàng nơi Đức Kitô, qua việc lắng nghe, ngắm nhìn, chiêm ngưỡng, và cảm nghiệm Ngài trong cuộc sống.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Acts 6:8-10, 7:54-59; Mt 10:17-22.
Ngày 26 tháng 12, Lễ Thánh Stephanô TĐ
Bài đọc: Acts 6:8-10, 7:54-59; Mt 10:17-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thánh Stephanô là người đầu tiên đổ máu làm chứng cho Đức Kitô.
Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao Giáo Hội cử hành Lễ Thánh Stephanô, tử đạo, ngay sau Lễ Giáng Sinh? Câu trả lời có lẽ liên kết mục đích của việc Nhập Thể với bổn phận của Kitô hữu: “Niềm vui Giáng Sinh là con người được nhìn thấy Ơn Cứu Độ; nhưng để đạt được Ơn Cứu Độ, con người phải chứng minh niềm tin của mình nơi Người Con.” Sau những vui mừng nhộn nhịp của Ngày Giáng Sinh, con người dễ có khuynh hướng trở lại cuộc sống bình thường, Giáo Hội muốn nhắc nhở cho các tín hữu bổn phận làm chứng cho Đức Kitô trong cuộc sống hằng ngày.
Các Bài đọc hôm nay xoay quanh việc làm chứng cho Đức Kitô. Trong Bài đọc I, Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật cuộc tử đạo của Stephanô, chứng nhân đầu tiên cho Đức Kitô. Trong Vuơng Cung Thánh Đường Stephanô của các cha Đa-minh tại Đất Thánh, trong Học-viện Thánh Kinh École Biblique, có vẽ 3 tấm hình: một của Gioan Tẩy Giả đang chỉ tay vào Chúa Giêsu, Người đứng giữa và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian.” Một của Phó-tế Stephanô cũng chỉ tay vào Chúa Giêsu và nói: “Đây là Đấng mà tôi đã đổ máu làm chứng cho Ngài.” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ giá phải trả của sứ vụ làm chứng cho Ngài: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con."
1.1/ Tiểu sử của Stephanô: Phó-tế Stephanô là một trong 7 Phó-tế đầu tiên được chọn để giúp các Tông-đồ. Lý do có Phó-tế là để các Tông-đồ chuyên lo việc cầu nguyện và giảng dạy (Acts 6:1-6). Điều kiện để làm Phó-tế là phải có thanh danh tốt, đầy tràn Thánh Thần và khôn ngoan. Chúng ta không biết nhiều về lịch sử của ông. Tên của ông Stephanô, tiếng Hy-Lạp có nghĩa là “triều thiên.” Trên tấm bia tìm được nơi mộ ông, có khắc chữ Kelil, một từ Aramaic cho Stephanos của Hy-Lạp. Có lẽ đây là tên nguyên thủy của ngài.
Không ai biết rõ địa điểm nơi ngài bị ném đá. Có người cho là tại Cổng Stephanô của Thành Jerusalem ngày nay; điều này không chắc chắn vì không thấy tài liệu lịch sử nào ghi lại. Hơn nữa, các Cổng Thành hiện nay cũng mới được xây lại từ thế kỷ 16. Nguồn sử liệu chắc chắn hơn và dựa trên khám phá khảo cổ mới tại Đất Thánh, xương cốt của ngài được để tại Vương Cung Thánh Đường Stephanô của các cha Đa-minh trong khuôn viên của Học-viện Kinh Thánh. Vương Cung Thánh Đường mới được xây dựng lại trên nền nhà của Vương Cung Thánh-đường Byzantine cũ, xây dựng vào năm 431 bởi Juvenal, Giám-mục của Jerusalem, với sự trợ giúp của Bà Hòang Eudocia. Thánh Cyril, Giám-quản của Alexandria, khánh thành Thánh Đường vào ngày 15 tháng 5 năm 439. Trong khi khánh thành, Thánh Cyril đã cho di chuyển xương cốt của Stephanô, Thánh Tử Đạo Tiên Khởi, từ một nhà thờ trên Núi Sion đã giữ xương cốt này trong 24 năm vào Thánh Đường này. Bà Hòang Eudocia cũng được chôn cất tại đây.
Sách Công Vụ Tông Đồ mô tả vắn tắt cuộc đời của Stephanô: Ông Stephanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Địch thù tranh luận với ông là những người thuộc hội đường gọi là hội đường của “nhóm nô lệ được giải phóng,” gốc Cyrene và Alexandria, cùng với một số người gốc Cilicia và Asia. Hậu quả của cuộc tranh cãi: “Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thánh Thần đã ban cho ông. Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Stephanô.” Vì họ không thể cãi lại ông, nên họ dùng những con người gian dối để tố cáo ông tội phạm thượng tới Thiên Chúa và Moses, để có cớ ném đá ông (Acts 6:14).
1.2/ Biến cố tử đạo của Stephanô: Trình thuật kể: “Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa." Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông, rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saul. Họ ném đá ông Stephanô, đang lúc ông cầu xin rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con."”
2/ Phúc Âm: Ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được cứu thóat.
2.1/ Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em: Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ biết những gì sẽ xảy ra cho các ông: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” Con người dễ bị thuyết phục khi nhìn thấy những tấm gương anh hùng của những người coi thường cái chết. Có lẽ vì lý do này mà người ta nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sẽ trổ sinh niềm tin Công-giáo, và là men làm thăng tiến Nước Chúa Kitô.” Thực tế đã chứng minh: nơi nào bách hại càng nhiều, nơi đó càng có nhiều người tin theo Đức Kitô.
2.2/ Lời hứa ban Thánh Thần: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần của Cha anh em nói trong anh em.” Có rất nhiều vị tử đạo thân thể yếu ớt, nói năng nhút nhát; nhưng khi phải ra để bị tra khảo trước vua quan, đã anh hùng khí khái nói lên những lời khôn ngoan lưu truyền cho hậu thế.
Chúa Giêsu cũng báo trước cho các môn đệ biết: Kẻ thù không phải chỉ có những người ngòai, nhưng có thể cả những người trong gia đình: "Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.”
Kẻ thù có thể giết được thân xác, nhưng không động đến được linh hồn các môn đệ của Đức Kitô. Ngài động viên tinh thần các môn đệ: “Can đảm lên, Đừng sợ! vì Thầy đã chiến thắng thế gian.” Và Ngài hứa ban phần thưởng cứu độ cho những ai trung thành: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Ơn Cứu Độ thuộc về con người khi Đức Kitô nhập thể và hiến thân làm của lễ hy sinh trên Thập Giá. Tuy nhiên, để được hưởng Ơn Cứu Độ này, chúng ta phải chứng minh niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô trong khi còn ở thế gian này.
- Nhiệm vụ của chúng ta là rao giảng và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, để mọi người nhận ra chứng tá của chúng ta và tin vào Ngài. Trong khi làm chứng cho sự thật, chúng ta sẽ gặp những gian nan, thử thách, và chống đối; nhưng Đức Kitô đã hứa sẽ ở cùng, và ban Thánh Thần giúp chúng ta vượt qua tất cả.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Giáo Phận Giáo Phận Long Xuyên
- Viết bởi Isa 52:7-10; Heb 1:1-6; Jn 1:1-18.
Ngày 25 tháng 12, Lễ Giáng Sinh
Bài đọc: Isa 52:7-10; Heb 1:1-6; Jn 1:1-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa họat động trong lịch sử con người.
Nhiều người trong chúng ta dễ dàng bị thuyết phục bởi câu nói xem ra rất chí lý, “đạo nào cũng là đạo; đạo nào cũng dạy con người làm điều lành tránh điều ác!” Từ đó, nhiều người đưa đến kết luận, ai theo đạo nào cũng được. Nếu chúng ta chỉ dựa vào đạo lý để tin vào các thần, sẽ có rất nhiều thần trong thế giới này; nhưng những thần này có làm lợi gì cho chúng ta đâu? Có những vị thần do trí tưởng tượng của con người tạo nên, có những vị thần do con người tự nhận, có những vị thần do con người phong chức cho; đâu là Vị Thần đích thực và là Người điều khiển thế giới này? Một trong những tiêu chuẩn giúp chúng ta nhận ra là dựa vào giòng lịch sử của con người để tìm hiểu, kiểm chứng, và xác nhận ảnh hưởng và sự can thiệp của Vị Thần này vào đời sống nhân lọai.
Trong suốt Mùa Vọng qua, và trong các Bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của Vị Thần đích thực này chính là Thiên Chúa. Ngài không phải là một vị thần sống xa cách và không quan tâm gì đến cuộc sống của dân chúng; trái lại cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều sống mật thiết và quan tâm đến mọi khía cạnh của con người suốt giòng lịch sử: từ khi tạo dựng cho đến Ngày Cánh Chung. Trong Bài đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa vào cuộc sống của dân trước, đang, và sau thời gian Lưu Đày. Trong Bài đọc II, Tác giả của Thư Do-Thái cho thấy 2 cách can thiệp khác nhau của Thiên Chúa: thuở xưa Ngài phán dạy qua các Tiên-tri; thời nay Ngài dạy dỗ con người qua chính Người Con Nhập Thể. Điều này cũng đã được Tiên-tri Isaiah và Jeremiah loan báo trước: “Mọi người sẽ được dạy dỗ bởi chính Thiên Chúa” (Isa 54:13, Jer 31:33, Jn 6:45). Trong Phúc Âm, Thánh Gioan nhìn thấy vai trò của Ngôi Hai ngay từ ban đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng con người; và vai trò của Người trong Kế họach Cứu Độ của Thiên Chúa. Chính Người Con này đã nhập thể để ở với con người, để yêu thương dạy dỗ, và để hiến mình thành của lễ hy sinh đền tội cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người bốn bể sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
1.1/ Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị." Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo Tin Mừng phải loan báo 3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu độ:
(1) Công bố bình an: Bình an là một trong những chữ được Tiên-tri Isaiah dùng nhiều nhất; nó không phải là sự vắng mặt của chiến tranh, nhưng là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người. Con người được hòa giải với Thiên Chúa; vì thế, con người có bình an.
(2) Loan tin tốt lành: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa, Đấng Tốt Lành. Ngài ban phúc lành của Ngài cho con người: tha thứ tội lỗi và cho được hưởng ơn cứu độ.
(3) Công bố ơn cứu độ: Ơn Cứu Độ đến từ Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn trong việc giải phóng Dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon; nhưng bao gồm cả việc giải phóng dân khỏi tội lỗi, và đem lại cho dân sự tốt lành và bình an.
Thiên Chúa là Vua hiển trị, chính Ngài sẽ lãnh đạo dân. Những người canh gác của Thành Thánh Jerusalem sẽ nhìn thấy Đức Chúa, và cất tiếng reo hò. Ngài sẽ cai trị dân và cho họ hưởng bình an, những điều tốt lành, và ơn cứu độ.
1.2/ Mọi người sẽ nhìn thấy Thiên Chúa cứu độ Jerusalem: “Hỡi Jerusalem điêu tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Jerusalem. Trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Người: người bốn bể rồi ra nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.” Sự kiện Chúa giải phóng dân Do-Thái khỏi lưu đày Babylon và cho về lại Jerusalem, là một phép lạ mà các dân trong vùng đều hay biết: không bằng sức mạnh quân sự, không bằng sức cố gắng của dân Do-Thái; nhưng bằng niềm tin tưởng của Cyrus, Vua Ba-Tư vào Thiên Chúa. Tương tự khi Chúa Giêsu giải phóng dân khỏi tội bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá tại Jerusalem, nước Do-Thái còn đang dưới ách đô hộ của Đế-quốc Rôma.
2/ Bài đọc II: Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.
2.1/ Thánh Tử cao trọng hơn các tiên-tri: Trong Mầu Nhiệm Cứu Độ, những gì Thiên Chúa muốn được mặc khải qua hai giai đọan:
(1) “Thời xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ.” Các tiên-tri, vì khả năng giới hạn, không thể lĩnh hội một lần; nên Thiên Chúa phải mặc khải nhiều lần và qua nhiều người. Mỗi thời đại có những vấn đề khác nhau, nên mặc khải của các tiên tri cũng khác nhau, chẳng hạn: Tiên-tri Amos chú trọng đến công bằng xã hội; Tiên-tri Isaiah chú trọng đến việc sửa dạy để thanh luyện dân chúng; Tiên-tri Hosea chú trọng đến sự trung thành của Thiên Chúa và sự bất trung của dân. Các tiên-tri chỉ biết một khía cạnh về Thiên Chúa, không một tiên tri nào biết tất cả các khía cạnh của Thiên Chúa. Các tiên tri cũng dùng các cách khác nhau để mặc khải: tuyên sấm (Amos, Isaiah), hành động như đóng kịch (Jeremiah).
(2) Thời sau hết, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta trực tiếp qua Thánh Tử: Mặc khải do Thánh-Tử hòan hảo hơn tất cả mặc khải của các tiên-tri, vì Thánh-Tử biết rõ tất cả những gì xảy ra nơi Thiên Chúa ngay từ thuở ban đầu. Các tiên-tri là những bạn hữu của Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu là Người Con của Thiên Chúa. Ngài không chỉ biết một phần sự thật như các tiên tri; nhưng nơi Ngài ẩn chứa tất cả sự thật. Qua Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa. Tác giả Thư Do-Thái không chủ ý khinh thường các tiên tri; nhưng muốn làm nổi bật vai trò của Thánh Tử.
Người Do Thái quan niệm họ đang sống giữa hai thời đại: thời hiện tại và thời cánh chung; thời hiện tại hòan tòan xấu và thời tương lai là thời huy hòang của Đức Chúa. Giữa hai thời đại là Ngày của Đức Chúa đến và Đức Kitô là Người bắt đầu triều đại của Thiên Chúa.
2.2/ Thánh Tử cao trọng hơn các thiên-thần.
1/ Sự cao trọng của Thánh Tử: C.J. Vaughan chỉ ra 6 điều quan trọng liên quan đến Đức Kitô:
(1) Vinh quang nguyên thủy của Thiên Chúa thuộc về Đức Kitô: “Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa.” Vinh quang của Thiên Chúa gồm chứa không trong sự đánh phạt con người hay giảm họ xuống hàng tôi tớ, nhưng trong phục vụ, yêu mến, và chết cho con người.
(2) Vương quốc thuộc về Đức Kitô: “Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.” Các tác giả Tin Mừng không bao giờ nghi ngờ sự chiến thắng thuộc về Đức Kitô; đơn giản vì Ngài là Con Thiên Chúa. Khi mọi việc hòan tất, Ngài sẽ trao vương quốc lại cho Thiên Chúa.
(3) Công cuộc tạo dựng cũng thuộc về Đức Kitô: “Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ.” Thiên Chúa tạo dựng bằng Lời “Hãy có!” tức thì mọi vật liền có.
(4) Công việc quan phòng vũ trụ cũng thuộc về Đức Kitô: “Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật.” Thiên Chúa không những dựng nên vũ trụ, nhưng còn quan phòng điều khiển nó theo một trật tự hòa điệu. Ngài điều khiển nó theo sự khôn ngoan, mà Ngôi Lời là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
(5) Công cuộc cứu chuộc là do Đức Kitô: Bằng cái chết, Ngài gánh tội cho con người; bằng sự hiện diện liên tục với con người, Ngài giải phóng con người khỏi tội.
(6) Cuộc vinh thắng khải hòan cũng thuộc về Đức Kitô: “Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời.” Theo tác giả Sách Do-Thái, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa để làm Trạng-sư bênh vực cho con người.
2/ Thánh Tử cao trọng hơn các thiên-thần: Truyền thống Do-Thái tin thiên thần là các sứ giả (aggeloi, Hy-Lạp, và mal’akim, Do-Thái) của Thiên Chúa: các thiên-thần có nhiệm vụ trao mệnh lệnh của Thiên Chúa cho con người và tường thuật những gì con người làm hay cầu xin lên Thiên Chúa. Quan hệ trực tiếp giữa Thiên Chúa và con người không thể xảy ra; nếu con người nhìn thấy Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ phải chết (Acts 7:53, Gal 3:19). Vì thế, dễ dàng cho người Do-Thái chấp nhận các thiên thần hơn là chính Thiên Chúa. Tác giả Thư Do-Thái muốn nhấn mạnh Đức Kitô không phải là một trong số các thiên thần; nhưng cao trọng hơn các thiên thần bội phần. “Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu. Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con; hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta. Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.”
3/ Phúc Âm: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.”
3.1/ Sự hiện hữu và vai trò của Ngôi Lời:
(1) Ngôi Lời hiện hữu từ khởi thủy: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.” Từ ngữ “Ngôi Lời” có lịch sử trong cả Do-Thái và Hy-Lạp. Cả hai lịch sử đều cho “Lời” là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, là trí tuệ của Ngài. Thánh sử Gioan dùng từ Hy-Lạp để nói về Đấng Thiên Sai của Do-Thái, cho người Hy-Lạp hiểu. Nếu Ngôi Lời là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Ngôi Lời luôn hiện hữu với Thiên Chúa từ khởi thủy.
(2) Vai trò của Ngôi Lời trong việc tạo dựng vũ trụ: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” Nếu Ngôi Lời là trí tuệ của Thiên Chúa, cái gì có trong trí tuệ thì sẽ có; cái gì không có trong trí tuệ thì sẽ không có. Sự sống và Ánh sáng là hai chủ đề chính trong Tin Mừng Gioan, và có liên quan mật thiết với nhau. Sự sống không chỉ thuần túy thể lý, nhưng mở rộng tới sự sống đời đời. Chỉ có Ngôi Lời có khả năng đem sự sống đời đời này cho con người.
(3) Ngôi Lời là ánh sáng: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ta là ánh sáng thế gian; ai tin Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống” (Jn 8:12). Bóng tối đối ngược với ánh sáng, và con người cần ánh sáng xua tan bóng tối để con người có thể nhìn thấy; nhưng cũng có những con người muốn ở trong bóng tối nên muốn diệt trừ ánh sáng, vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những tội lỗi của họ cho người khác nhìn thấy.
3.2/ Phản ứng của con người: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” Ánh sáng của Ngôi Lời chính là sự thật Ngài mang từ Thiên Chúa đến cho con người. Đứng trước sự thật, Thánh-sử Gioan tường thuật 2 phản ứng chính:
(1) Không nhận biết và không tiếp nhận Người: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” Con người ít nhất hai lần từ chối Ngôi Lời: Lần thứ nhất, Thánh Phaolô đồng ý với Gioan khi tố cáo: “Con người phải nhận biết Thiên Chúa qua những gì Thiên Chúa tạo dựng, nhưng họ đã không nhận ra Thiên Chúa” (Rom 1:19-20). Thiên Chúa tạo dựng qua Ngôi Lời, con người chẳng nhận ra Ngôi Lời cũng chẳng nhận biết Thiên Chúa. Lần thứ hai là qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, rất nhiều người đã nhìn thấy Ngôi Lời, nhưng vẫn từ chối tiếp nhận Ngài.
(2) Phần thưởng dành cho những ai tiếp nhận Người: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.” Phần thưởng trọng đại dành cho những ai tin vào Ngôi Lời là họ trở thành con Thiên Chúa; và được hưởng tất cả mọi ơn lành dành cho người con.
3.3/ Những hồng ân Ngôi Lời ban cho con người: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật… Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có.”
(1) Ân sủng: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.” Đức Kitô, tuy trong thân xác con người, nhưng chứa đựng tất cả khôn ngoan, uy quyền, tình thương, và sự bình an của Thiên Chúa (như các tên gọi của Ngài trong Thánh Lễ Nửa Đêm). Bất cứ ai có được Ngài, là hưởng được tất cả những gì Ngài có. Ngài là sự tòan hảo của Thiên Chúa, và Ngài ban cho con người đời sống thần linh của Ngài.
(2) Sự thật: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Người Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.” Ngôi Lời mặc khải cho con người biết sự thật về Thiên Chúa và tất cả các ý định của Ngài. Khi Philip xin Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa, Đức Kitô bảo ông: “Ai đã xem thấy Thầy là đã thấy Cha” (Jn 14:9).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lịch sử rất quan trọng trong việc hiểu biết và củng cố niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Người không biết lịch sử sẽ dễ dàng chạy theo những niềm tin mơ hồ. Nguy hiểm của những niềm tin này là con người không đạt được mục đích của đời mình.
- Lịch sử của Do-Thái quan trọng cho niềm tin của các Kitô hữu, vì Thiên Chúa đã chọn họ làm Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Chúng ta cần học hỏi lịch sử của họ qua các Sách Cựu Ước để hiểu biết Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa cho con người.
- Theo Lịch sử Cứu Độ, Thiên Chúa đã dùng những cách thức khác nhau để dạy dỗ con người: thời Cựu Ước, Ngài dùng các tiên-tri để nói thay và dạy dỗ con người; thời Tân-Ước, Thiên Chúa cho Người Con nhập thể để dạy dỗ và mặc khải rõ ràng Kế Họach Cứu Độ cho con người.
- Mọi người chúng ta đều cần được dạy dỗ bởi chính Người Con này. Chúng ta phải có Đức Kitô trong cuộc đời để Ngài soi sáng, dạy dỗ, ban ơn, và chỉ đường cho chúng ta về hưởng hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Giáo Phận Giáo Phận Long Xuyên
- Viết bởi Dân Chúa
NGÔI LỜI ĐÃ ĐÊN
ĐỂ TRẦN GIAN ĐƯỢC CHAN HÒA ƠN PHÚC
ĐẠI LỄ CHÚA GIÁNG SINH NĂM B (25/12/2014)
(Is 52,7-10; Dt 1, 1-6; Ga 1, 1-5.9-14)
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Lễ Giáng Sinh đem đến một niềm vui lớn cho toàn thể nhân loại, nhất là cho những người thành tâm thiện chí và những người bé nhỏ khó nghèo trong xã hội. Thiên Chúa cao siêu, cực thánh, vô hình đã trở nên một trẻ thơ bé bỏng trên cánh tay yêu thương trìu mến của người mẹ hiền và trước mắt mọi phàm nhân. Điều kỳ diệu ấy chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng vô cùng quyền năng mới thực hiện được. Ngôi Lời Thiên Chúa, là Hài Nhi Giê-su, đã đến thế gian để đem phúc trời là bình an và tình thương của Thiên Chúa đến cho muôn dân, muôn người.
Chúng ta hãy đón mừng Chúa Hài Nhi là Thiên Chúa giáng trần để cứu nhân loại khỏi vòng nô lệ của tội lỗi! Chúng ta hãy để cho niềm vui thiên quốc ùa tràn vào tâm hồn, gia đình và cuộc sống của chúng ta!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 1 (Is 52,7-10): Người bốn bể sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
7 Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Xi-on rằng: "Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị." 8 Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Xi-on. 9 Hỡi Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Giêrusalem. 10Trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Người: ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta, người bốn bể rồi ra nhìn thấy.
2.2 Lắng nghe Lời Chúa trong bài đọc 2 (Dt 1,1-6):Thiên Chúa đã phán dậy chúng ta qua Thánh Tử.
1Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; 2 nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. 3 Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời. 4 Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu.
5 Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta. 6 Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người.
2.3 Lắng nghe Lời Chúa trong bài Tin Mừng (Ga 1,15.9-14): Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.
1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
3 Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành 4 ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
5 Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
9 Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.
10 Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
11 Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
12 Còn những ai đón nhận,
tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
13 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc do ước muốn của người đàn ông,
nhưng do bởi Thiên Chúa.
14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Chúa là ai?)
Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa là:
* Vua hiển trị bằng Tình Yêu Thương, là Đấng đang trở về Xi-on để an ủi dân Ítraen và cứu chuộc Giê-ru-sa-lem và vung cánh tay thần thánh trước mặt muôn dân.
* Đấng, trong các thời đại trước, đã phán dạy qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Người phán dạy qua Thánh Tử là Chúa Giê-su. Chúa Giê-su vừa là Thiên Chúa (Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ) vừa là Con Thiên Chúa (Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con).
* Là Ngôi Lời đã thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta và ở giữa thế gian. Người đã đến nhà mình, nhưng thế gian đã không nhận biết Người và người nhà đã không đón nhận Người. Những ai đón nhận, tức là tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa."
* Đấng là Ánh Sáng thật, Ánh Sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.
* Đấng đem ân sủng và sự thật cho loài người.
3.2 Sứ điệp hay Giáo Huấn của Lời Chúa (Chúa dậy gì hay Chúa muốn chúng ta làm gì?)
Qua ba bài Sách Thánh hôm nay, giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa là:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Người đã đến nhà mình. Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.”
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
Thiên Chúa mời chúng ta đáp lại Tình Thương của Chúa Cha và việc Xuống Thế của Ngôi Lời bằng cách:
4.1 Sống với Chúa là Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Sống với Chúa là Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta nơi Chúa Giê-su Hài Nhi. Sống một cách mật thiết, biết ơn và vâng phục.
4.2 Thực thi Ý Chúa hay Giáo Huấn của Chúa là nhận biết và đón nhận Chúa Giê-su và tin vào Danh Người để trở nên con Thiên Chúa.
Cụ thể là:
(a) Nhận biết Hài Nhi Giê-su chính là Ngôi Lời Nhập Thể làm người và hiện đang cư ngụ giữa loài người!
(b) Nhận biết Chúa Giê-su là Ánh Sáng, là Ân Sủng.
(c) Sống khiêm nhường, phục vụ, bỏ mình, tự hạ theo gương Chúa Giê-su Hài Nhi cho xứng danh là con cái Thiên Chúa.
(d) Thường xuyên dâng lời chúc tụng, ngợi khen Chúa Hài Nhi là biểu hiện cụ thể của Thiên Chúa Tình Thương và Quyền Năng.
Mỗi người nhìn lại xem mình đã và đang sống như thế nào với sứ điệp trên của Lời Chúa?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các dân, các nước trong thế giới hôm nay, biết nhận ra Vị Ngôn Sứ vĩ đại của Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô đã xuống thế làm người, để mạc khải Thiên Chúa cho con người và đem muôn vàn ơn phúc của Trời cho những người thành tâm thiện chí.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2 «Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và Giáo Dân để mọi thành phần Dân Chúa biết mở rộng tâm hồn đón rước Ngôi Lời vào nhà mình và sống thân mật với Người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.3 «Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, để mọi người lãnh nhận được muôn vàn ơn phúc trong Mùa Giáng Sinh năm nay.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.4 «Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.»Cùng với Đức Mẹ và các Thánh Nam Nữ, chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những người có trách nhiệm giúp đỡ và hướng dẫn người khác tìm kiếm Thiên Chúa, để họ biết cách biểu lộ Thiên Chúa trong lời nói, việc làm và cách sống của họ.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Isa 9:1-3, 5-6; Tit 2:11-14; Lk 2:1-14.
Ngày 24 tháng 12 GS, Lễ Nửa Đêm
Bài đọc: Isa 9:1-3, 5-6; Tit 2:11-14; Lk 2:1-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng Giáng Sinh là tình yêu Thiên Chúa.
- Một cụ già 93 tuổi, được coi là khá thành công trong cuộc đời: có nhiều của cải, con đàn cháu đống gần 100 đứa. Về già, có nhiều thời gian nhìn lại và suy gẫm, cụ ngậm ngùi kết luận: Vất vả ngược xuôi cả cuộc đời cũng chẳng đến đâu, có tí của ăn nhưng nhìn lại đàn con đàn cháu thấy giật mình. Đứa thì gia đình tan nát, đứa thì bệnh họan, hầu hết con cháu đều xa Chúa, cố gắng khuyên lơn bảo ban nhưng chúng nó không chịu nghe. Nếu Chúa không thương đưa con cháu trở lại thì chết mất! Chẳng biết sau này Chúa cho gặp được bao nhiêu người? May mắn cho cụ già đã nhìn ra bóng tối đang vây bọc gia đình, nhưng làm sao để đưa các con cháu về lại với Thiên Chúa?
- Hòan cảnh của cụ già có lẽ cũng là hòan cảnh của hầu hết gia đình chúng ta. Khi được may mắn định cư nơi các cường quốc có nhiều cơ hội, chúng ta lăn xả vào đời để kiếm tiền sinh sống, mà không bao giờ chịu cân nhắc những thiệt hại của lối sống tư bản này. Nhiều cha mẹ đã không quản ngại hy sinh vất vả để cày 2,3 việc; với hy vọng cho con được tiến thân trong việc học hành, với hy vọng sau khi đã hy sinh cho con sẽ được chúng báo hiếu sau này, như mình đã từng thương yêu và báo hiếu cha mẹ. Sau hơn 30 năm vật lộn với cuộc sống nơi xứ lạ quê người, giờ có thời gian nhìn lại những cố gắng của mình như cụ già, chắc nhiều người chúng ta cũng không khỏi giật mình: gia đình có của nhưng con cái xa Chúa và xa mình vạn dặm. Con cái bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, làm rất nhiều tiền nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến việc phải báo hiếu cha mẹ; dạy dỗ khuyên răn chúng khó chịu và chỉ để ngòai tai. Chúng ta cũng chép miệng thở than như cụ già: Hy sinh vất vả cả đời để giờ phải chấp nhận một thực tại chúng ta không ao ước!
- Câu hỏi được đặt ra: Chúng ta đã làm điều gì sai? Làm thế nào để cứu chúng ta và con cháu ra khỏi vùng bóng tối sự chết này?
- Câu trả lời: Chúng ta đã không đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự. Chúng ta coi trọng tiền của nên đã dùng quá nhiều thời giờ vào việc kiếm tiền, mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Các con không thể làm tôi cả Thiên Chúa lẫn tiền tài.” Chúng ta đã xao lãng trong việc trau dồi đời sống tâm linh mà chỉ chú trọng đến thức ăn của uống, mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Chúng ta đã chạy theo và thờ lạy những hào nhóang thế gian như danh vọng, quyền bính, khóai lạc; mà quên đi Lời Chúa sửa dạy ma quỉ: “Ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa thờ phượng ngươi.” Nói tóm, chúng ta đã không sống theo những gì Thiên Chúa muốn, nhưng sống hệt theo lối sống của ma quỉ đã cám dỗ Thiên Chúa. Nếu chính chúng ta không sống những gì Chúa dạy, làm sao chúng ta mong các con chúng ta biết sống? Nếu chúng ta đã không dạy cho con biết kính sợ Thiên Chúa, và gia đình đã không sống theo đường lối của Thiên Chúa; chúng sẽ sống theo kiểu của xã hội hiện nay: ích kỷ chỉ biết tới mình, tôn thờ vật chất, sống buông thả như không có ngày mai.
- Tin Mừng Giáng Sinh: Những Bài đọc đêm nay cung cấp cho chúng ta những tia sáng hy vọng. Trong Bài đọc I: Tiên-tri Isaiah tường thuật những lợi ích khi con người có được Đấng Cứu Thế: Ngài như ánh sáng soi cho con người đang sống trong vùng bóng tối của sự chết. Ngài giúp giải thóat con người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi. Ngài ban cho con người khôn ngoan, sức mạnh, thương yêu, và bình an. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô dạy Titô, môn đệ của ngài: Ân sủng Cứu Độ dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Chúa Giêsu đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân Riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện. Trong Phúc Âm, Tin Mừng Giáng Sinh được loan báo cho con người: Con Thiên Chúa đã giáng sinh làm người trong hang đá khó nghèo. Chỉ có Mục đồng là những người đầu tiên được sứ Thần loan báo và nhận ra Tin Mừng Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được thực hiện qua Người Con.
1.1/ Sự khác biệt khi Đấng Cứu Thế đến: Ngay trong tuần thứ I Mùa Vọng, Giáo Hội đã mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra sự khác biệt giữa người có và không có Thiên Chúa. Tiên-tri Isaiah hôm nay cũng mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra tình trạng của mình và sự cần thiết của Đấng Cứu Thế trong cuộc đời mỗi người, qua 2 hình ảnh:
(1) Ánh sáng và bóng tối: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” Tình trạng của dân Do-Thái thời Tiên-tri và tình trạng của con người trước khi Đấng Cứu Thế đến là hòan tòan bi quan và tăm tối. Hai vương quốc của Do-Thái sắp sửa bị quân thù Assyria và Babylon xâm chiếm và đem đi lưu đày. Con người bị bao quanh bởi bóng tối của sự không biết Thiên Chúa, không biết suy xét, và bao nhiêu tội lỗi lan tràn. Hậu quả tai hại nhất của việc sống trong bóng tối là con người chắc chắn sẽ phải chết.
Nhưng may mắn cho dân tộc Do-Thái và cho con người, Thiên Chúa đã ban cho họ một ánh sáng, Người Con của Ngài. Ánh sáng này sẽ làm cho con người được thấy, được thấu hiểu những Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, và nhất là mang lại Ơn Cứu Độ cho con người, cho họ được sống đời đời.
(2) Vui mừng và đau khổ: Hình ảnh thứ hai Tiên-tri dùng là liên kết ánh sáng với vui mừng và bóng tối với đau khổ: “Vì Chúa đã gia tăng các quốc gia, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt hái, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Median.”
Chúng ta có thể hiểu nỗi đau khổ của dân Do-Thái trong nơi lưu đày: mất quê hương, gia đình tan nát, Đền Thờ và sự hiện diện của Thiên Chúa không còn, cuộc sống thiếu thốn và khổ cực, bị đối xử tàn bạo bởi kẻ thù. Tất cả những đau khổ này sẽ được Thiên Chúa cất hết khi Ngài cho họ được trở về quê hương để tái thiết quốc gia và Đền Thờ. Tất cả những điều này là do Thiên Chúa làm, chứ không do sức lực của con người. Tiên-tri nhắc nhở cho dân nhớ lại chiến thắng tại Median, Thiên Chúa muốn Thủ-lãnh Gideon đuổi quân lính về hết, kẻo họ nghĩ rằng sở dĩ có chiến thắng là do sức mạnh của họ.
Thiên Chúa gia tăng các quốc gia và nỗi vui mừng bằng cách loan Tin Mừng cho Dân Ngọai và cho họ cũng được hưởng Ơn Cứu Độ. Cả dân Do-Thái cũng như Dân Ngọai không làm gì xứng đáng để được hưởng Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội. Sở dĩ tất cả đều được hưởng Ơn Cứu Độ là hòan tòan do Thiên Chúa.
1.2/ Con người Đấng Cứu Thế: “Vì một trẻ thơ đã được sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho ta. Người đã lãnh nhận quyền cai trị (arché) trên vai, tên của Người sẽ được gọi là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa uy quyền, Người Cha muôn thuở, Hòang Tử hoà bình.” Tên là người; những danh hiệu này cần được hiểu thấu đáo để chúng ta ước mong có được Người Con này trong cuộc đời:
(1) Cố Vấn kỳ diệu: Người cố vấn phải là người khôn ngoan, có khả năng nhìn thấy những gì người khác không nhìn thấy. Người Con này là người Cố Vấn kỳ diệu cho con người, vì Ngài là Thiên Chúa khôn ngoan: cố vấn cho mọi người và chẳng cần ai làm cố vấn cho Người. Nếu có người cố vấn như vậy trong cuộc đời, chúng ta sẽ không khiếp sợ ai nữa.
(2) Thiên Chúa uy quyền: Tuy dáng vẻ là con người yếu đuối, nhưng ẩn chứa quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Người Con này làm được mọi sự, và không có gì là không thể đối với Ngài. Nếu chúng ta có Ngài trong đời, Ngài sẽ giúp chúng ta làm được mọi sự.
(3) Người Cha muôn thuở: Bản tính của người cha là yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc cho con cái. Người Con này là Thiên Chúa, Người Cha muôn thuở của con người. Bằng việc nhập thể, chính Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc từng người. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tiên tri để dạy dỗ; trong Tân Ước, chính Thiên Chúa dạy dỗ con người.
(4) Hòang Tử bình an: Để có bình an, người lãnh đạo phải yêu mến bình an, và phải có khả năng đem lại bình an. Người Con này có khả năng hòa giải giữa con người với con người, và giữa con người với Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người có được Hòang Tử bình an này, con người mới thực sự có bình an.
1.3/ Triều đại của Đấng Cứu Thế: “Quyền cai trị của Ngài sẽ gia tăng, và hoà bình sẽ vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua David. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng công bình và chính trực, từ nay cho đến mãi muôn đời. Lòng nhiệt thành của Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó.”
- Trong khi các vua chúa trần gian gia tăng quyền cai trị của họ bằng chiến tranh; Người Con gia tăng vương quốc của mình bằng hòa bình. Điều này, chúng ta có thể thấy được qua sự phát triển của Giáo-hội: con số những người tin vào Đức Kitô mỗi ngày một gia tăng, không bằng chiến tranh, nhưng bằng sự rao giảng Tin Mừng và sự làm việc bên trong của Chúa Thánh Thần. Vua chúa trần gian càng bách hại Đạo, số tín hữu càng gia tăng. Nước Thiên Chúa không còn giới hạn trong dân tộc Do-Thái, nhưng được lan rộng ra tới mọi dân tộc trên địa cầu.
- Tiên-tri Isaiah liên kết giữa triều đại của David và của Người Con. Như lời Thiên Chúa hứa qua các Tổ-phụ và các Tiên-tri, triều đại của Nhà David sẽ tồn tại muôn đời. Điều này chỉ thực hiện được qua Người Con thuộc giòng dõi David, Ngài sẽ làm cho triều đại David được tồn tại đến muôn đời.
- Trong khi các vua chúa trần gian củng cố vương quốc của mình bằng đàn áp và bạo lực, Người Con củng cố vương quốc bằng công bình và chính trực. Đàn áp và bạo lực chỉ có thể giữ dân chúng một thời gian; công bình và chính trực sẽ thu hút lòng dân đến muôn đời (Lk 1:32-33).
- Tác nhân chính của sự gia tăng là Thiên Chúa và lòng nhiệt thành yêu thương của Ngài, chứ không do đức độ, tài năng, hay sức mạnh của con người. Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã ban Người Con này cho con người (Jn 3:16); và trong Người Con này, mọi lời hứa được thực hiện.
2/ Bài đọc II: Ơn Cứu Độ thay đổi đời sống luân lý của các Kitô hữu
2.1/ Ơn Cứu Độ giúp con người biết sống: Con người làm bất cứ một việc gì đều có một mục đích. Khi các Kitô hữu biết rõ ràng mục đích của cuộc đời là “trông chờ ngày hồng phúc, ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang;” họ sẽ phải biết chuẩn bị xứng đáng cho ngày đó. Thánh Phaolô khuyên các Kitô hữu: (1) Cách tiêu cực: Họ phải từ bỏ lối sống thế gian và những đam mê trần tục; vì lối sống này ngăn cản không cho họ đạt tới mục đích của cuộc đời. (2) Cách tích cực: Họ phải biết sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này. Những nhân đức này sẽ giúp họ đạt được mục đích của cuộc đời.
2.2/ Ơn Cứu Độ giải thóat con người: Bằng Mầu Nhiệm Nhập Thể, Đức Kitô giải thóat con người: (1) cách tiêu cực: khỏi mọi điều bất chính (tội lỗi); cách tích cực: biến họ thành người hăng say làm việc thiện. Chính sự tích cực này làm con người xứng đáng thành Dân Riêng của Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta.
3.1/ Hòan cảnh sinh ra của Đấng Cứu Thế: Không giống như các biến cố khác của cuộc đời Chúa Cứu Thế, biến cố sinh ra chỉ được tường thuật bởi Thánh sử Luca cách vắn tắt như sau: “Thời ấy, Hoàng-đế Augusto ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quirinô làm tổng trấn xứ Syria. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nazareth, miền Galilee lên thành vua David tức là Bethlehem, miền Judah, vì ông thuộc giòng tộc vua David. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.”
Khỏang cách từ Nazareth đến Bethlehem là 80 dặm, và phương tiện di chuyển duy nhất thời đó là đi bộ hay dùng các thú vật như bò lừa. Bethlehem rất lạnh vào mùa Đông vì là một cánh đồng chỉ cách Jerusalem vài dặm và có rất nhiều các hang đá ẩn sâu trong lòng đất, vẫn còn tồn tại tới hôm nay. Các hang đá này là chỗ lý tưởng cho các người chăn chiên vì họ có thể giữ chiên trong đó an tòan và tránh lạnh mà không cần chuồng.
3.2/ Thiên Thần loan Tin Mừng trọng đại cho các mục-đồng.
Mục-đồng (Bedouins) vẫn còn tồn tại ở Do-Thái cho tới ngày nay. Họ không thích lối sống thành phố hay cố định ở một chỗ; nhưng thích lang thang khắp đó đây theo đòan vật, chỗ nào có cỏ và nước cho súc vật họ sẽ định cư tại đó. Họ bị các người Do-Thái khác khinh thường vì bẩn thỉu và không thể giữ các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn.
Tại sao các mục đồng được diễm phúc là những người đầu tiên biết Tin Mừng Giáng Sinh của Hài Nhi Cứu Độ? Để trả lời, chúng ta cần hỏi câu hỏi ngược lại: Ai là người sẽ dễ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh nhất trong hòan cảnh này?
Mối Phúc thứ nhất: “Phúc cho những ai nghèo khó vì Nước Trời là của họ” sẽ giúp chúng ta trả lời. Thiên Chúa chọn cho con mình giáng sinh trong hòan cảnh nghèo khó, chứ không trong dinh thự giàu sang. Người muốn con mình cảm nhận thân phận cùng cực của kiếp người. Vì sinh ra trong hòan cảnh nghèo hèn như thế, chỉ có những người nghèo như các mục-đồng mới có thể nhận ra và cảm thông, vì Con Trẻ cùng một hòan cảnh như họ. Hơn nữa, người nghèo khổ là người biết trông cậy vào Thiên Chúa, chứ không cậy vào sức của họ; vì thế, dễ cho họ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh hơn. Lời ca của muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" cũng củng cố cách cắt nghĩa này. Thiên Chúa đóai thương và nhìn đến kẻ khó nghèo.
Tin Mừng Giáng Sinh được Sứ thần loan báo cho các mục-đồng: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã quá yêu thương nhân lọai. Chúng ta phải cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Mục đích của Mầu Nhiệm Nhập Thể là để gánh tội lỗi và mang Ơn Cứu Độ cho con người. Không có Mầu Nhiệm Nhập Thể, con người sẽ chết trong tội.
- Món quà Giáng Sinh quí giá nhất Thiên Chúa ban cho chúng ta là chính Chúa Giêsu; qua Người Con này, chúng ta sẽ không thiếu bất cứ ân huệ cần thiết nào của cuộc sống. Chúng ta phải đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm sao cho có và giữ được Chúa Giêsu trong cuộc đời.
- Ơn Cứu Độ phải trở thành đích điểm cho cuộc sống. Chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này.
- Thiên Chúa là Chủ Tể của vũ trụ, mà lại chọn sinh ra trong cảnh khó nghèo để dạy chúng ta một bài học: Sống đơn giản và nghèo khó làm chúng ta dễ dàng trông cậy vào Thiên Chúa và nhận ra những nhu cầu của tha nhân hơn.
- Mong sao cho Tin Mừng Giáng Sinh hôm nay giải thóat các gia đình chúng ta ra khỏi vùng bóng tối sự chết, và đưa chúng ta vào miền ánh sáng, bình an, và hoan lạc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Mal 3:1-4, 23-24; Lk 1:57-66, Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 23 tháng 12 MV
Bài đọc: Mal 3:1-4, 23-24; Lk 1:57-66.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Gioan là sứ giả dọn đường cho Thiên Chúa.
Hôm nay là ngày cuối cùng chuẩn bị cho Mùa Vọng, trước khi chúng ta vui mừng đón Chúa sinh ra trong Thánh Lễ Nửa Đêm. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta chú trọng đến Gioan, vì ông là Sứ-giả dọn đường cho Con Thiên Chúa tới. Ông là nhân vật quan trọng vì nếu ông không chuẩn bị cho dân đón Chúa, dân sẽ không gặp được Ngài. Ông phải chỉ đường thì con người mới biết đường đi. Ông phải hướng dẫn thì con người mới không đi lạc.
Trong Bài đọc I, Tiên-tri Malachi nói trước về nhiệm vụ của sứ giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Truyền thống Do-Thái tin sứ giả này chính là Tiên-tri Elijah. Chính Chúa Giêsu cũng cho các Tông-đồ biết Gioan Tẩy Giả chính là Tiên-tri Elijah.
Trong Phúc Âm, Thánh-sử Luca tường thuật về biến cố sinh ra của Gioan Tẩy Giả và những điều ngạc nhiên chung quanh biến cố này: Cả hai cha mẹ đều muốn đặt tên con mình là Gioan, mặc dù không đàm thọai được với nhau trước; vì ông Zechariah bị Chúa phạt câm. Nhưng sau khi cho biết tên con, miệng lưỡi ông mở ra và nói được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiên-tri Elijah phải đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
1.1/ Sứ-giả và Đấng Cứu Thế: Sách Tiên-tri Malachi được viết sau Thời Lưu Đày, khỏang 515 BC. Cũng như nhiều các Tiên Tri khác, Tiên-Tri Malachi tin triều đại của Đấng Thiên Sai đã gần đến: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, Đức Chúa các đạo binh phán.” Theo lời tiên tri này, một Sứ-giả sẽ đến trước để dọn đường trước khi Đấng Thiên Sai tới; và khi đã dọn đường xong, Đấng Thiên Sai sẽ đến bất cứ lúc nào.
1.2/ Vai trò của Sứ-giả: Truyền thống Do-Thái tin: Ngày Đấng Thiên Sai tới sẽ là ngày kinh hòang của kẻ dữ, nhưng sẽ mang hy vọng cho những người Israel còn sót. TT Malachi nói về Ngày này như sau: “Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc.”
Hai nhiệm vụ chính của Sứ-giả dọn đường cho Đấng Thiên Sai là thanh tẩy và tinh luyện tâm hồn dân chúng để họ sẵn sàng cho Ngày của Thiên Chúa. Hai chất liệu được dùng là lửa của người luyện kim và thuốc tẩy của người thợ giặt. Lửa được dùng để thử cho biết vàng nào là vàng thực và tinh luyện nó khỏi mọi vết dơ bẩn. Thuốc tẩy được dùng để tẩy sạch những vết dơ bám vào trong quần áo. Điều Sứ-giả cần thanh tẩy và tinh luyện chính là tâm hồn con người, sao cho xứng đáng để có thể đứng vững trong Ngày của Đức Chúa.
Tiên-tri Malachi lên án những lỗi lầm của hàng tư tế vì họ lười biếng và khinh thường Thiên Chúa trong việc thờ phượng. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa không nhận lễ vật của họ, Ngài sẽ chọn lễ vật trong sạch hơn (Mal 1:1-2:17). Vì thế, đối tượng chính mà tác giả nhắm tới là hàng tư tế Levi và tâm hồn của họ: “Bấy giờ, đối với Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. Lễ vật của Judah và của Jerusalem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như những năm thuở trước.”
1.3/ Tiên-tri Elijah là Sứ-giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế: “Này Ta sai Ngôn-sứ Elijah đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, Ngày trọng đại và kinh hoàng. Nó sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ đánh phạt xứ sở đã bị án tru diệt.”
Song song bổn phận của con người đối với Thiên Chúa là bổn phận của con người đối với tha nhân; nhất là những người trong gia đình. Một khi mối liên hệ chiều dọc với Thiên Chúa bị lơ là thì mối liên hệ chiều ngang với tha nhân cũng bị thiệt hại. Sứ-giả dọn đường cho Thiên Chúa cũng phải chú trọng đến sứ vụ hòa giải giữa con người với con người, trong gia đình cũng như ngòai xã hội.
2/ Phúc Âm: Sinh Nhật của Gioan Tẩy Giả
2.1/ Niềm vui khi Gioan chào đời: Có nhiều lý do để vui mừng chung quanh biến cố chào đời của Gioan Tẩy Giả: (1) Cha mẹ của Gioan vui mừng vì họ được Thiên Chúa cho có con trong lúc cao niên. (2) Niềm vui của ông bà được gấp đôi vì không những có con, mà lại có con trai để nối dõi tông đường. (3) Bên cạnh niềm vui có con, còn một niềm vui khác là ông Zechariah khỏi bệnh câm. (4) Trên hết mọi niềm vui là Gioan được tuyển chọn là Sứ-giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Tất cả bà con và láng giềng biết Thiên Chúa đã quá thương ông bà, nên đến chia vui, và họ tự hỏi “tương lai của trẻ này sẽ ra sao,” vì quả thực “bàn tay của Thiên Chúa đặt trên con trẻ.”
2.2/ Sự lạ chung quanh việc đặt tên: Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và đặt tên cho em. Giống như truyền thống Việt-Nam quan niệm “tên là người,” vì thế, phải đặt tên làm sao để mỗi khi nhắc tới tên, người ta nhớ tới hòan cảnh em được sinh ra, hay ước mơ cha mẹ muốn em trở thành. Có 3 ý kiến khác nhau trong việc đặt tên cho con trẻ hôm nay:
(1) Họ hàng tính lấy tên cha là Zechariah mà đặt cho em, vì ông Zechariah không nói được. Đây là điều thông thường vì truyền thống Do-Thái có thói quen lấy tên người cha đặt cho con trẻ; nhất là những gia đình hiếm hoi.
(2) Ý của người mẹ: Bà Elizabeth phản đối: "Không, phải đặt tên cháu là Gioan (John)." Họ bảo bà: "Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả." Tên John là tên viết tắt của tiếng Do-Thái, Jeho-hannah, có nghĩa: quà tặng của Thiên Chúa. Nếu xét về hòan cảnh của bà Elizabeth, em đúng thực là quà tặng của Thiên Chúa cho gia đình Bà.
(3) Ý của người cha: Vì có xung đột ý kiến, nên họ làm hiệu hỏi ý kiến người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: "Tên cháu là Gioan." Đây là tên mà Sứ-thần Gabriel truyền cho ông phải đặt tên cho con trẻ (Lk 1:13).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mỗi người chúng ta đều là sứ giả dọn đường cho Chúa đến, nơi những người Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta trong gia đình cũng như ngòai xã hội.
- Bổn phận của chúng ta là làm gương, rao giảng, dạy dỗ, an ủi, và chỉ đường cho họ về với Chúa. Chúng ta chỉ có thể chu tòan những bổn phận này nếu chúng ta đã có Chúa. Làm sao chúng ta có thể hướng dẫn họ đến với Chúa nếu bản thân chúng ta chưa có Ngài?
- Chúng ta phải học hỏi nơi Gioan về cách sống đơn giản, tính thành thật, khiêm nhường, và cách ông chuẩn bị cho dân đến gặp Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi I Sam 1:24-28; Lk 1:46-56.
Ngày 22 tháng 12 MV
Bài đọc: I Sam 1:24-28; Lk 1:46-56.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhận biết và cám ơn quà tặng của Thiên Chúa.
Nhận ra hồng ân Thiên Chúa ban cho đã khó, biết cám ơn Thiên Chúa còn khó hơn. Trong Phúc Âm, Chúa chữa lành 10 người phong cùi; nhưng chỉ có một người ngọai biết quay trở lại để cám ơn Thiên Chúa. Cám ơn Thiên Chúa đã khó, biết dâng lại những gì Thiên Chúa ban còn khó hơn gấp bội. Thế mà có những người mẹ không con, sau khi được Thiên Chúa ban cho một người con, lại dám can đảm hy sinh dâng lại người con duy nhất để làm việc cho Thiên Chúa. Các Bà tuy rất thương và muốn con ở với mình, nhưng lòng biết ơn Thiên Chúa mạnh hơn tính ích kỷ cá nhân. Các bà biết rõ: nếu Thiên Chúa không can thiệp, chẳng bao giờ các bà có được người con đó.
Các Bài đọc hôm nay tường thuật tâm tình biết ơn của hai người mẹ anh hùng này. Trong Bài đọc I, Bà Anna hiểu thấu nỗi ô nhục của người không có con: đối phương của Bà chọc tức Bà. Quá đau khổ, Bà cầu xin Thiên Chúa thương ban cho mình một mụn con, và sẽ dâng nó lại cho Thiên Chúa để phục vụ trong Đền Thờ. Khi được Thiên Chúa ban cho một con trai, Samuel, Bà đã giữ lời hứa, dâng con mình lại cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Đức Trinh Nữ Maria biết rõ mình chỉ là một nữ tỳ tầm thường trước mặt Thiên Chúa; nhưng được Thiên Chúa cất nhắc lên thiên chức “Mẹ Đấng Cứu Thế” là do hòan tòan quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ Maria cũng sẵn sàng dâng Chúa Giêsu lại cho Thiên Chúa, để Ngài hòan tất sứ vụ đã được Chúa Cha trao phó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bà Anna dâng lại đứa trẻ Thiên Chúa ban để nó phục vụ Thiên Chúa.
1.1/ Nỗi ô nhục của người vợ không con: Ông Elkanah có hai vợ: một bà tên là Anna, một bà tên là Peninnah. Bà Peninnah có con, còn bà Anna không có con. Đến ngày ông Elkanah dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Peninnah, vợ ông, và cho các con trai con gái bà ấy. Còn bà Anna, ông chia cho một phần ngon vì ông yêu bà, mặc dù Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Bà kia, đối thủ của bà, cứ chọc tức để hạ nhục bà, vì Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Ông Elkanah vẫn làm như thế năm này qua năm khác, mỗi lần ông lên Nhà của Đức Chúa tại Shiloh; còn bà kia cứ chọc tức bà Anna như thế. Mỗi lần xảy ra, Bà chỉ biết khóc và không chịu ăn.
1.2/ Bà Anna cầu nguyện và xin Thiên Chúa ban cho một đứa con: Tâm hồn cay đắng, bà cầu nguyện với Đức Chúa và khóc nức nở. Bà khấn hứa rằng: "Lạy Đức Chúa các đạo binh, nếu Ngài đoái nhìn nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con sẽ dâng nó cho Đức Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu nó." Tư-tế Eli khuyên: "Bà hãy về bình an. Xin Thiên Chúa của Israel ban cho bà điều bà đã xin Người!" Bà thưa: "Ước chi nữ tỳ của ngài đây được đẹp lòng ngài!" Rồi bà Anna ra về; bà dùng bữa và nét mặt bà không còn sầu khổ như trước nữa.
1.3/ Lời cầu xin của Bà Anna được Thiên Chúa nhận lời: Sau đó, ông Elkanah ăn ở với bà Anna, vợ mình, và Đức Chúa đã nhớ đến bà. Ngày qua tháng lại, bà Anna thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Samuel, vì bà nói: "Tôi đã xin Đức Chúa được nó." Năm sau, Elcanah lên Shiloh với cả gia đình, để dâng hy lễ thường niên cho Đức Chúa, và để giữ trọn lời khấn hứa của mình. Bà Anna không lên, và bà nói với chồng: "Đợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ ra mắt Đức Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi." Ông Elkanah bảo bà: "Em nghĩ thế nào là phải thì cứ làm; cứ ở lại cho đến khi cai sữa cho nó. Chỉ xin Đức Chúa thực hiện lời Người."
1.4/ Bà Anna dâng lại cho Thiên Chúa người con Ngài ban tặng: Sau khi cai sữa cho con, bà đưa nó lên với mình, mang theo một con bò mộng ba tuổi, hai thùng bột và một bầu da đầy rượu. Bà đưa con vào Nhà Đức Chúa tại Shiloh; đứa trẻ còn nhỏ lắm. Họ sát tế con bò và đưa đứa trẻ đến với ông Eli. Bà nói: "Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với Đức Chúa. Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Đức Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã xin Người. Đến lượt tôi, tôi xin nhượng nó lại cho Đức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Đức Chúa." Và ở đó, họ thờ lạy Đức Chúa.
2/ Phúc Âm: Đức Mẹ Maria ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa.
2.1/ Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành: Mẹ Maria biết rõ mình chỉ là một nữ tỳ hèn hạ trước mặt Thiên Chúa; hơn nữa, Mẹ cũng chỉ là một tạo vật thấp hèn được Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã đóai thương nhìn đến, mà Mẹ được cất nhắc lên để làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Hồng ân này không những làm cho mẹ được ơn cứu độ, mà còn ban rộng ra đến tất cả mọi người. Với tâm tình biết ơn Thiên Chúa, Mẹ vui mừng ca tụng Ngài: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”
2.2/ Thiên Chúa xót thương những ai kính sợ Ngài: Biết kính sợ Thiên Chúa không những là nguồn gốc mọi khôn ngoan, mà còn là điều kiện để được hưởng muôn ơn lành. Chỉ trong 3 câu ngắn ngủi, tác giả của Bài Magnificat đã nêu lên 3 điều cách mạng chính của Thiên Chúa:
(1) Cách mạng luân lý: Thiên Chúa chống kẻ kiêu căng và đề cao người khiêm nhường; trong khi người thế gian thường thích kiêu căng, cậy sức mình, và khinh thường Thiên Chúa.
(2) Cách mạng xã hội: Thiên Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những kẻ thấp hèn; trong khi người thế gian thường cậy quyền thế và đàn áp kẻ khó nghèo.
(3) Cách mạng kinh tế: Thiên Chúa cho kẻ đói nghèo được dư dật và đuổi người giầu về tay trắng; trong khi ở thế gian: người giầu lại giầu thêm, còn kẻ nghèo càng nghèo hơn.
2.3/ Thiên Chúa trung thành thực thi Lời Hứa: Tất cả những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thực thi; không phải vì con người xứng đáng được hưởng, nhưng chỉ vì lòng thương xót của Ngài: “Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương: nếu chúng ta kiên trì biểu lộ niềm tin của chúng ta, Ngài sẽ ban cho chúng ta điều chúng ta xin.
- Chúng ta phải có lòng khiêm nhường và biết kính sợ Thiên Chúa. Chúng ta phải có lòng biết ơn về những quà tặng Thiên Chúa ban.
- Quà tặng Chúa ban là để phục vụ, chứ không ích kỷ giữ cho mình. Chúng ta phải biết dùng những quà tặng Thiên Chúa ban để phục vụ Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế