Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 6 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Gen 4:1-5:25; Mk 8:11-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần khiêm nhường biết mình trong mối liên hệ với Thiên Chúa.
Thiên Chúa không mắc nợ gì với con người; trái lại, con người mắc nợ mọi sự với Thiên Chúa. Khi con người tin tưởng nơi Thiên Chúa, con người không thêm điều gì cho Ngài; nhưng niềm tin nơi Thiên Chúa sẽ giúp con người đạt tới cuộc sống đời đời. Cũng thế, khi con người làm việc thờ phượng như tham dự Thánh Lễ, đọc kinh, dâng lễ vật, con người chẳng thêm gì cho Thiên Chúa; nhưng con người sẽ nhận được những lợi ích từ các việc làm này.
Các Bài Đọc hôm nay cho thấy những quan niệm sai của con người trong mối liên hệ với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, khi Cain dâng lễ vật cho Thiên Chúa và không được Ngài đóai nhìn tới; ông tức giận với Thiên Chúa và ghen tị với em mình là Abel, vì Ngài đóai nhìn lễ vật của em ông. Hậu quả là ông đã giết đứa em ruột của mình. Trong Phúc Âm, các kinh-sư thách thức Chúa Giêsu hãy làm phép lạ để họ có thể tin Ngài là Thiên Chúa; Chúa Giêsu thở dài vì thái độ thách thức của họ. Ngài từ chối không làm bất cứ phép lạ nào cho họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cain giết Abel, em mình.
1.1/ Nguyên nhân của việc Cain giết Abel: Cain ghen tị với Abel vì Đức Chúa đóai nhìn đến lễ vật của Abel, và không đoái nhìn đến lễ vật của ông. Trình thuật không nêu lý do tại sao Đức Chúa không đóai nhìn lễ vật của Cain, chúng ta chỉ có thể suy đóan qua truyền thống. Của lễ dâng cho Thiên Chúa phải kèm theo một tấm lòng yêu mến, chứ không chỉ dâng cho qua lần chiếu lệ như Lề Luật buộc. Trong thực tế, Abel không phải là nguyên nhân chính sự tức giận của Abel; nhưng vì sự tức giận của Cain với Thiên Chúa, đã đưa đến sự tức giận của Cain với em ông. “Giận cá chém thớt” là vậy; vì không làm gì được Thiên Chúa, nên giết người em yếu đuối để bù lại. Tội giết người này cũng xác nhận bản tính tội lỗi của con người sau lần sa ngã đầu tiên, tội tổ tông.
Thiên Chúa cắt nghĩa cho Cain lý do tại sao con người phạm tội: "Tại sao ngươi giận dữ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt? Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không? Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chế ngự nó." Tội lỗi luôn rình chờ con người, nhưng con người phải sẵn sàng khắc phục nó bằng sự tự chủ và ý hướng luôn làm điều tốt. Giận dữ và ghen tị sẽ đưa con người đến những tội lỗi lớn hơn.
1.2/ Cain giết Abel và bản án của Thiên Chúa: Khi con người muốn phạm tội, họ tìm nơi hoang vắng để không ai biết việc làm của họ. Cain cũng thế, ông nói với em là Abel: "Chúng mình ra ngoài đồng đi!" Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Cain xông đến giết Abel. Nhưng Cain đã quên đi một Đấng, Người luôn thấu suốt mọi tư tưởng và hành động của ông. Đức Chúa phán với Cain: "Abel em ngươi đâu rồi?" Cain thưa: "Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?" Giống như sự sa ngã ban đầu, phản ứng đầu tiên của con người không bao giờ dám nhận trách nhiệm, họ phủ nhận hành động đã làm như Cain, hay tìm cách tổ tội cho người khác như ông Adam và Bà Evà.
Đức Chúa phán: "Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra. Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất." Đối với người Do-Thái, sự sống có được là từ máu, và bắt nguồn từ Thiên Chúa (Lev 17:11-14). Vì Thiên Chúa làm chủ sự sống (Gen 2:7), máu của người vô tội đổ ra sẽ kêu thấu tới Thiên Chúa. Đất có mối liên hệ mật thiết với con người: con người sinh ra từ bụi đất và sẽ trở về bụi đất; đất sẽ sinh thực phẩm cho con người; và tội của con người là lý do làm đất đai sinh gai góc (J).
1.3/ Lòng thương xót của Đức Chúa cho Cain: Con người phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Cain suy nghĩ về các hậu quả của việc giết em và thưa với Đức Chúa: "Hình phạt dành cho con quá nặng không thể mang nổi. Đây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con."
Hình phạt đầu tiên Cain phải chịu là trốn tránh Thiên Chúa và con người. Xua đuổi khỏi mặt đất là xua đuổi khỏi nơi hoang vắng, chỗ ở của ma quỉ và tội nhân. Kẻ giết người sẽ luôn ở trong tình trạng lẩn trốn: trốn Thiên Chúa, con người, và chính mình. Truyền thống tin Đức Chúa hiện diện cách đặc biệt với dân của Ngài. Không có sự hiện diện của Đức Chúa, mạng sống con người sẽ luôn bị đe dọa.
(1) Đức Chúa vẫn thương xót Cain: Người đời đòi “mắt đền mắt, răng đền răng;” và Cain cũng biết luật vay trả này “bất cứ ai gặp con sẽ giết con.” Nhưng Đức Chúa vẫn tỏ lòng thương xót cho Cain, Ngài phán: “Bất cứ ai giết Cain sẽ bị trả thù gấp bảy." Đức Chúa ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp ông khỏi giết ông. Dấu đặc biệt trên trán này chỉ sự bảo vệ của Thiên Chúa.
(2) Đức Chúa đóai thương đến gia đình Adam: Ông Adam lại ăn ở với vợ. Bà sinh một con trai và đặt tên là Seth. Bà nói: "Thiên Chúa đã sắp đặt cho tôi một dòng dõi khác thay cho Abel, vì Cain đã giết nó."
2/ Phúc Âm: Niềm tin dựa trên phép lạ.
(1) Đấng Thiên Sai phải làm được các phép lạ: Mỗi quốc gia trên địa cầu đều có những sắc thái riêng của mỗi dân tộc; Thánh Phaolô nói rất đúng về người Do-Thái: “Người Do-Thái tìm kiếm dấu lạ; trong khi người Hy-Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan.” Truyền thống Do-Thái đã thêu dệt sẵn kiểu mẫu một Đấng Thiên Sai: Ngài là Đấng uy quyền, có khả năng làm những dấu lạ lùng trong trời đất. Ngài là Chúa của người Do-Thái, nên Ngài sẽ giúp họ đánh đuổi ngọai bang, và cai trị tòan thế giới. Với kiểu mẫu có sẵn của Đấng Thiên Sai, những người Pharisees kéo đến với Chúa Giêsu, để thách thức Người làm một dấu lạ từ trời.
(2) Tại sao Chúa Giêsu không chịu làm phép lạ? Thứ nhất, Ngài đã làm không biết bao nhiêu phép lạ rồi. Những người Pharisees này hoặc đã từng chứng kiến, hoặc đã nghe biết về những phép lạ Ngài đã làm. Thứ đến, phép lạ chỉ giúp khai mở niềm tin. Khi Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, Ngài nhắc nhở cho họ những gì Tiên-tri Isaiah nói về Đấng Thiên Sai, giờ đây được hiện thực nơi Ngài; mục đích là để giúp họ tin vào Ngài. Hơn nữa, niềm tin chỉ dựa trên dấu lạ sẽ không vững chắc. Họ cần một sự hiểu biết chắc chắn về Thiên Chúa và sự quan phòng của Ngài; chứ không phải theo một Thiên Chúa và các kế họach do họ dựng nên. Nếu niềm tin chỉ dựa trên phép lạ, niềm tin sẽ lung lay và biến mất khi không nhìn thấy phép lạ nữa. Sau cùng, Chúa Giêsu không muốn con người điều khiển Thiên Chúa: khi con người cần gì, Thiên Chúa có bổn phận làm phép lạ ban cho họ điều đó; mà không cần biết điều họ xin có tốt hay không!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần khiêm nhường biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa. Tất cả những việc thờ phượng chúng ta làm là cho lợi ích của cá nhân chúng ta, chứ không thêm gì cho Thiên Chúa.
- Khi cầu xin điều gì không được, chúng ta hãy xét xem điều đó có đúng ý Thiên Chúa không. Đừng bao giờ có thái độ giận dữ trả thù bằng cách bỏ đạo hay làm hại những người được Thiên Chúa phù hộ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 6 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Lev 13:1-2, 45-46; I Cor 10:31-11:1; Mk 1:40-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nguy hiểm của bệnh phong cùi và tội lỗi
Bệnh phong cùi là chứng bệnh ghê tởm và nguy hiểm nhất trong các chứng bệnh của con người. Sức tàn phá của nó không những lấy đi tất cả các vẻ đẹp của thân thể, mà còn làm thiệt hại đến tòan bộ phẩm giá con người. Người cùi không những chịu bệnh thể lý, các chi thể từ từ rụng dần cho đến ngày chết; mà còn phải đương đầu với các chứng bệnh tâm lý. Họ sống cô đơn vì phải sống cách biệt với thế giới con người. Họ cảm thấy tủi nhục vì bị khinh thường và coi như là nguyên nhân làm mọi người ra ô uế. Họ sống trong tuyệt vọng, vì sống như không có ngày mai.
Một chứng bịnh nan y như thế, nhưng vẫn không thể so sánh với một chứng bệnh kinh khủng hơn, không những chỉ tàn phá thân xác, mà còn giết chết linh hồn con người: đó là tội lỗi. Có những tội lỗi xem bề ngòai rất tầm thường, không đáng để ý; nhưng sức phá của nó còn kinh khủng và nguy hiểm hơn bệnh phong cùi. Trong Sách Các Vua, quyển II, có thuật lại bệnh tham tiền của Gehazi, đầy tớ của Tiên-tri Elisha: Khi thấy thầy mình từ chối không chịu nhận bất cứ lễ vật gì do Tướng Naaman, người Syria dâng tặng, ông vội bí mật lấy ngựa chạy theo và mạo danh nghĩa thầy mình để xin một số của cải. Hành động của ông không thóat khỏi mắt của thầy, và kết quả là ông không những mắc bệnh phong cùi của Naaman, mà còn truyền lại cho con cháu (2 Kgs 5:20-27).
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy những đau khổ của các chứng bệnh nguy hiểm này, và sự đặc biệt quan tâm của Thiên Chúa cho các bệnh nhân. Trong Bài Đọc I, tác-giả Sách Levi liệt kê những gì người phong cùi phải chịu. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô khuyên các tín hữu Corintô bắt chước thánh nhân như ngài đã bắt chước Đức Kitô: đó là phải cố gắng làm mọi sự cho mọi người, sao cho tất cả đạt tới ơn Cứu Độ. Trong Phúc Âm, người phong cùi đến quì trước Chúa Giêsu và xin: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Chúa Giêsu động lòng thương và đưa tay chạm đến anh, lập tức chứng phong cùi biến mất và anh được lành bệnh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Những bổn phận của bệnh nhân phong cùi
Sách Levi dành 2 chương dài để nói tới bệnh phong cùi. Trình thuật hôm nay chỉ nhắc tới 2 câu đầu và 2 câu cuối trong Chương 13. Người mắc bệnh phong cùi có bổn phận:
(1) Phải trình diện các tư tế: Đức Chúa phán với ông Moses và ông Aaron: "Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aaron hoặc với một trong các tư tế, con của Aaron.” Ngày xưa, không có bác sĩ chuyên môn như chúng ta hiện giờ, và bệnh phong cùi được xếp lọai những con người không thanh sạch để dâng của lễ cho Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao bệnh nhân phải đến với các tư tế để được khám bệnh, theo dõi, và chứng nhận nếu được sạch.
(2) Phải loan tin cho mọi người biết mình có bệnh: Cho đến thế kỷ 20, bệnh phong cùi vẫn được xem là bệnh hay lây; vì thế, phải ngăn ngừa mọi tiếp xúc giữa bệnh nhân và những người lành mạnh. Hơn nữa, Luật Do-Thái coi người phong cùi không những bệnh về phần xác, mà còn không thanh sạch phần linh hồn. Bất cứ ai vô tình chạm vào họ, cũng trở nên không sạch, và bị coi không xứng đáng dâng của lễ. Đó là lý do tại sao họ phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu, và kêu lên Ô-uế! Ô-uế! để mọi người tránh qua đường mà đi. Chúng ta thử tưởng tượng nỗi đau đớn của một con người phải thi hành những lề luật này!
(3) Phải sống cách biệt với những người khác: “Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.” Ngày xưa, họ không có tổ chức y-tế như chúng ta ngày nay; vì thế Luật đòi những bệnh nhân phong cùi phải sống ngòai trại, cách biệt với tất cả những người khác. Họ không được vào trại bao lâu còn mắc bệnh.
2/ Bài đọc II: Anh em hãy làm tất cả mọi sự để tôn vinh Thiên Chúa.
Bài đọc ngắn ngủi của Thánh Phaolô có thể qui về 3 điểm chính:
(1) Làm vinh danh Thiên Chúa: Thánh Phaolô khuyên: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa.” Vinh danh Thiên Chúa là làm cho mọi người nhận ra sự tốt lành của Thiên Chúa và tin vào Ngài.
Tại sao chúng ta phải làm vinh danh Thiên Chúa? Trước hết, qua BT Rửa Tội, chúng ta chính thức trở thành con cái của Thiên Chúa. Đã là con phải có bổn phận làm vinh danh Cha. Chúng ta phải ăn ở làm sao cho mọi người nhận biết Cha chúng ta trên trời là Đấng Tốt Lành và yêu thương, để họ cũng tin vào Ngài. Thứ đến, chúng ta cũng là con cái trong Giáo Hội. Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân của Công-đồng Vativan II định nghĩa: Giáo Hội là Bí Tích của ơn Cứu Độ; và bổn phận của những người trong Giáo Hội là làm tất cả những gì cho mọi người đạt tới ơn Cứu Độ.
(2) Bổn phận phải làm gương tốt và tránh gương xấu: Thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do-Thái hay Dân Ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa; cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.” Một cách làm gương sáng cho mọi người là sống cuộc đời hòan thiện như Chúa Giêsu khuyên các môn-đệ: “Anh em hãy trở nên hòan thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hòan thiện; để mọi người nhìn thấy việc anh em làm và ngợi khen Thiên Chúa.”
(3) Noi gương người đi trước: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô.” Người tín hữu có một gương mẫu tòan hảo là Đức Kitô. Chúng ta không cần tìm một mẫu người lý tưởng khác; chỉ cần làm những gì Chúa Giêsu đã làm và dạy chúng ta làm theo. Ví dụ, về bài học yêu thương, Chúa dạy: “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu anh em ... Như Thầy yêu anh em thể nào, anh em cũng phải yêu nhau như vậy.” Lời khuyên của Thánh Phaolô không vô ích, chúng ta thường được đánh động bởi gương sáng của những người sống chung quanh chúng ta.
3/ Phúc Âm: "Tôi muốn, anh được sạch!"
3.1/ Người phong hủi tôn kính thánh ý Thiên Chúa: Chịu đựng hòan cảnh cay nghiệt của cuộc đời như thế, anh vẫn xin vâng theo thánh ý Thiên Chúa, khi cầu xin với Chúa Giêsu “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Anh biết Thiên Chúa tạo dựng mọi sự chỉ vì ý Ngài muốn như thế (Sách STK). Người phong cùi không hồ nghi quyền năng Thiên Chúa. Anh biết nếu Thiên Chúa muốn, Ngài sẽ làm anh được sạch. Thiên Chúa biết những gì tốt cho con người; con người không biết những gì tốt cho mình. Vì thế, con người cần xin được theo ý Thiên Chúa, chứ không xin theo ý của mình.
3.2/ Lòng thương xót của Chúa Giêsu: Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. Đụng đến người cùi là trở thành ô uế giống như họ. Chúa Giêsu đã để mình trở thành ô uế giống như anh phong cùi. Theo Sách Levi, Chúa không được vào Đền Thờ hay các hội-đường để làm các việc phụng vụ.
Sách Tiên Tri Isaiah nói cho chúng ta biết trước về tình thương của Đức Kitô, Người Tôi Trung của Thiên Chúa: “Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới. 4 Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề. 5 Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.” (Isa 53:3-5).
3.3/ Phong cùi phần xác và tội lỗi phần linh hồn: Một sự so sánh giữa 2 cơn bệnh này cho chúng ta thấy sự nguy hiểm của chúng:
- Điểm giống nhau: Cả hai đều lan truyền mau lẹ và gây thiệt hại nhanh chóng. Cả hai đều là những chứng bệnh nan y và nguy hiểm đến tính mạng con người. Cả hai đều phải sống cách biệt với những người lành mạnh: người phong cùi phải sống ngòai thành phố, tội phạm được giam giữ trong tù.
- Điểm khác nhau: Phong cùi phần xác không nguy hiểm bằng phong cùi phần linh hồn: đó là các tội lỗi của con người.
(1) Con người dễ nhận ra bệnh phong cùi, nhưng không dễ nhận ra tội lỗi của mình.
(2) Phong cùi chỉ làm thiệt hại thân xác; nhưng tội lỗi giết chết linh hồn và có thể gây thiệt hại cho thân xác của mình và người khác (giết người, ngọai tình).
(3) Bệnh kiêu ngạo: coi trọng mình và khinh thường người khác, xem ra rất tầm thường, nhưng chúng ta hãy xem hậu quả của chứng bệnh này:
- Xa cách Thiên Chúa: Thiên Chúa yêu mến kẻ khiêm nhường và đóai thương người phận nhỏ. Người kiêu ngạo tự tách mình ra khỏi tình thương Thiên Chúa. Nếu họ nghĩ họ đã hòan thiện, họ đâu cần đến sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Câu truyện của tướng Naaman, người Syria, khiêm nhường xuống sông Jordan tắm 7 lần và được Thiên Chúa chữa khỏi bệnh cùi là bài học khiêm nhường cho những người kiêu ngạo. Nếu ông không nghe lời khuyên của một nữ tỳ Do-Thái đến gặp TT Elisha và làm những gì TT đòi, làm sao có thể được khỏi bệnh? (2 Kgs 5:1-27).
- Xa cách con người: những người trong gia đình và trong cộng đòan. Vẫn biết có những người yếu kém hơn mình, họ cần được nâng đỡ, chứ không phải để chịu xỉ nhục, khinh thường. Hơn nữa, còn biết bao nhiêu người hơn mình, biết bao điều mới lạ cần được học hỏi. Người kiêu ngạo sẽ không mở lòng để tiếp thu, và sẽ bị mọi người dần dần xa lánh.
- Xa cách chính mình: cô đơn vì bị mọi người xa lánh. Có thể đưa đến buồn sầu đến mất ăn mất ngủ, và trở nên bực tức khó chịu.
3.4/ Những điều cần làm sau khi được lành bệnh: Giống như Luật đòi người phong cùi phải trình diện tư tế để được tuyên bố sạch bệnh, Chúa Giêsu cũng đòi các tội nhân đến với linh mục để được tuyên bố sạch tội qua Bí-tích Hòa Giải. Ngòai ra, người phong cùi được sạch phải dâng của lễ theo Luật truyền, các tội nhân được tha tội cũng phải làm những việc đền tội, nhất là những tội liên quan đến nhân đức công bằng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Qua hình ảnh bệnh phong cùi, chúng ta hiểu được những nguy hiểm của tội lỗi. Nếu chúng ta sợ mắc bệnh phong cùi thế nào, chúng ta cũng phải sợ tội lỗi như thế.
- Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến độ trao ban cho chúng ta Chúa Giêsu, Người Con Một của Ngài. Chính Người Con này đã mặc lấy tất cả bệnh họan tội lỗi của chúng ta để cứu chữa chúng ta.
- Noi gương Đức Kitô, Đấng đã chết cho chúng ta, chúng ta cũng phải hy sinh chết cho nhau, để tất cả đều đạt tới ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Gen 3:9-24; Mk 8:1-10
Thứ Bảy Tuần 5 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 3:9-24; Mk 8:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lợi ích và tai hại của thức ăn
Có những thức ăn nuôi dưỡng và làm cho con người được sống khỏe; có những thức ăn gây bệnh (cao đường, cao máu, cao mỡ) và làm con người phải chết. Một con người bình dân sẽ không biết những hậu quả của thức ăn, nếu không được những nhà chuyên môn cho biết hậu quả của nó. Để sống khỏe, con người cần tuân theo sự chỉ dẫn của các nhà chuyên môn. Nếu ngoan cố ăn bậy theo ý mình, con người sẽ phải lãnh hậu quả tai hại của nó.
Các Bài Đọc hôm nay liên quan đến những lợi ích và tai hại của thức ăn. Trong Bài Đọc I, cả ma quỉ và tổ tiên con người phải lãnh nhận các hậu quả trầm trọng, vì đã bất tuân sự chỉ dẫn của Thiên Chúa để ăn trái của Cây Biết Thiện Ác. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu làm phép lạ cho 4,000 người ăn no nê. Vì của ăn này, tất cả dân chúng trở nên mạnh khỏe và không bị ngất xỉu dọc đường.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hình phạt của tội lỗi
1.1/ Sự thật được tiết lộ: Mọi hành động của con người đều cho hậu quả tốt hoặc xấu. Hậu quả của việc bất tuân Thiên Chúa qua việc ăn trái cấm làm con người sợ hãi, xấu hổ, và trốn tránh sự thật. Sớm hay muộn, con người cũng phải đối diện với sự phán xét của Thiên Chúa.
Khi được hỏi vì lý do tại sao phạm tội, con người không dám nhận trách nhiệm, nhưng đổ lỗi vòng quanh cho người khác: Ông Adong đổ lỗi cho Bà Evà, và còn ám chỉ phần lỗi của Thiên Chúa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con.” Bà Evà đổ lỗi cho con rắn "Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn." Nếu Bà vâng lời Thiên Chúa, con rắn đâu cám dỗ được. Con người có tự do hành động; và vì thế, con người phải chịu trách nhiệm về hành động của mình.
1.2/ Thiên Chúa ra hình phạt cho tất cả:
(1) Hình phạt của Con Rắn: Đức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn: "Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó."” Mối thù giữa ma quỉ và con người, giữa dòng giống ma quỉ và dòng giống con người. Mối thù này được chiến thắng bởi Đức Mẹ và Chúa Giêsu.
(2) Hình phạt của Bà Evà: Với người đàn bà, Chúa phán: "Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi." Điều truyền này nói lên vai trò gia trưởng trong gia đình của người đàn ông.
(3) Hình phạt của Ông Adong: Đất đai bị nguyền rủa vì ngươi và sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi. Con người phải làm việc vất vả mọi ngày trong đời mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra; vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ đuổi con người ra khỏi vườn Eden. Hình phạt nặng nhất là sự chết: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.”
1.3/ Con người bị ngăn cản không cho đụng đến Cây Trường Sinh: Trình thuật hôm nay củng cố sự kiện có 2 cây Thiên Chúa đặt chính giữa vườn: Cây Trường Sinh và Cây Biết Thiện Ác. Vì con người đã ăn trái cây của Cây Biết Thiện Ác, nên họ biết điều thiện và điều ác. Nhiều người giả sử nếu Ông Bà ăn quả của Cây Trường Sinh, con người sẽ được sống mãi. Để ngăn cản không cho con người ăn trái cây này, Thiên Chúa phán: "Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái Cây Trường Sinh mà ăn và được sống mãi. Người trục xuất con người, và ở phía Đông vườn Eden, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến Cây Trường Sinh.”
2/ Phúc Âm: Chúa làm phép lạ cho 4,000 người ăn no nê.
2.1/ Phản ứng của Chúa Giêsu và của các môn đệ:
(1) Chúa Giêsu biết mọi nhu cầu của con người: phần hồn cũng như phần xác. Những chi tiết của trình thuật nói lên sự quan tâm và lòng thương xót của Ngài: "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn! Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người ở xa đến."
(2) Phản ứng của các tông-đồ rất thực tế: Trong nơi hoang vắng này, làm sao tìm được bánh cho bằng ấy người? Lấy tiền đâu mà mua nhiều bánh như vậy? Đó là trách nhiệm của họ, đâu phải là của chúng ta! Rất nhiều người lãnh đạo phần hồn dựa vào những lý do như thế để từ chối giúp đỡ giáo dân về phần xác; nhưng bổn phận bác ái là cho hết mọi người, đâu trừ những nhà rao giảng. Hơn nữa, nhiều người tin vào Chúa không do những lời giảng cao siêu, nhưng do tấm lòng thương xót của người rao giảng.
2.2/ Phép lạ hóa bánh ra nhiều: Cần lưu ý có hai phép lạ hóa bánh ra nhiều trong Tin Mừng của Marcô:
(1) Phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá để nuôi 5,000 người (Mk 6): Tất cả 4 Thánh-ký đều tường thuật phép lạ này (Mt 14:15-21, Mk 6:34-44, Lk 9:12-17, Jn 6:1-14).
(2) Phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 7 chiếc bánh và vài con cá để nuôi 4,000 người: Chỉ có trong Marcô trong trình thuật hôm nay, và được nhắc lại trong Mt 16:10.
- Những điều giống nhau trong 2 phép lạ: Công thức chúc lành như khi lập BT Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly: “Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông.” Lời thắc mắc của các tông-đồ "Ở đây, trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?"
- Những điều khác nhau trong 2 phép lạ: Số người hiện diện, số bánh, và số cá. Số bánh còn dư lại: 7 giỏ cho 4,000 và 12 giỏ cho 5,000. Địa điểm phép lạ xảy ra: gần Capernaum, vùng của Do-Thái, cho 5,000; và vùng Decapolis, lãnh thổ của Dân Ngoại, cho 4,000.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần tuân theo sự chỉ dẫn của Thiên Chúa và các nhà chuyên môn, vì có rất nhiều điều chúng ta không biết, hay vượt quá sự hiểu biết của con người chúng ta.
- Vâng lời những lệnh truyền của Thiên Chúa không hạn chế sự tự do của chúng ta, nhưng giúp chúng ta đạt những hậu quả tốt, và vượt qua những cám dỗ của ma quỉ và thế gian.
- Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành và thấu suốt mọi sự. Chúng ta cần tin tưởng tuyệt đối và tuân giữ những gì Ngài truyền. Vì không một ai trên đời này khôn ngoan hơn Thiên Chúa, chúng ta phải tuân theo những Lời Ngài dạy hơn là những lời của người đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Gen 3:1-8; Mk 7:31-37
Thứ Sáu Tuần 5 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 3:1-8; Mk 7:31-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sa ngã và tội lỗi
Tại sao con người phạm tội? Người Do-Thái, qua những tài liệu của Qumran, quan niệm cuộc đời là bãi chiến trường giữa Thiên Chúa và ma quỉ, giữa sự thiện và sự ác, giữa con cái của ánh sáng và con cái của bóng tối. Thiên Chúa muốn con người làm những sự tốt lành vì họ là con cái của ánh sáng. Ngược lại ma quỉ muốn con người làm những điều gian ác, để thuộc về con cái của bóng tối giống như chúng. Con người bị giằng co giữa hai bên, và phải xử dụng tự do để quyết định những gì nên làm và nên tránh.
Để giúp con người trở nên tốt lành và gìn giữ con người khỏi tội lỗi và sự chết, Thiên Chúa dạy dỗ để con người biết phân biệt tốt khỏi xấu, và báo trước những hậu quả của các hành động vâng phục hay bất tuân lệnh của Ngài. Ngược lại, để cám dỗ con người phạm tội, ma quỉ phô trương ra những điều hấp dẫn bên ngòai và ẩn giấu đi những điều thiệt hại bên trong; vì nếu phô trương ra sự thật, làm sao chúng có thể lôi kéo con người! Chúng làm con người hy vọng những gì Thiên Chúa nói là sai, và hậu quả mà Thiên Chúa báo trước sẽ không như vậy.
Các Bài Đọc hôm nay cho thấy tội lỗi xảy ra khi con người lạm dụng tự do để bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sáng Thế Ký trình bày sự sa ngã đầu tiên của Adong và Evà. Ông bà sa ngã vì đã tin vào những gì ma quỉ cám dỗ qua con rắn, qua việc ăn trái cây biết thiện và ác mà Chúa đã ngăn cấm. Trong Phúc Âm, mặc dù Chúa Giêsu đã ngăn cấm con dân chúng đừng loan truyền phép lạ Chúa làm, họ vẫn bất tuân và loan truyền khắp nơi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sa ngã đầu tiên của con người
1.1/ Ma quỉ và con người: Ma quỉ được tác giả so sánh như lòai rắn, vì sự ma lanh và quỉ quyệt của nó: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo: "Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” Cám dỗ của ma quỉ đầu tiên là phóng đại lệnh truyền của Thiên Chúa, với mục đích làm cho con người thấy sự vô lý của lệnh truyền và sự khắc nghiệt của Thiên Chúa. Lần cám dỗ đầu tiên, người đàn bà nhận ra sự thật, và đã sửa sai con rắn về tính phóng đại của nó: "Trái các cây trong vườn, chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết."”
1.2/ Ma quỉ biết rõ những gì con người muốn: Kế tiếp, rắn cám dỗ con người về hậu quả của việc làm. Rắn nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." Chúng ta thấy sự ma lanh của rắn ở đây: Nó phủ nhận sự chết, nhưng nhấn mạnh đến việc trở thành “những vị thần biết điều thiện điều ác,” như tên Thiên Chúa gọi “cây cho biết thiện và ác.” Chúng biết con người thích tự do, độc lập; và không muốn tùy thuộc vào ai trong việc làm quyết định. Nếu biết thiện và ác, con người sẽ không cần lắng nghe những gì Thiên Chúa dạy dỗ, và sẽ không lệ thuộc vào Thiên Chúa nữa. Con người sa ngã vì cả những hấp dẫn bên ngòai của trái cây và ước muốn được trở nên thần thánh bên trong: “Người đàn bà thấy trái cây đó hấp dẫn để ăn, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn.”
1.3/ Hậu quả của việc bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân. Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa là Thiên Chúa.” Đúng như tên gọi của cây: ông bà biết điều thiện và điều ác; thay vì chỉ biết điều thiện như trước đây. Ông bà không những biết điều xấu, mà còn biết xấu hổ vì đã làm điều xấu.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa một người ngọng và điếc.
2.1/ Cách Chúa chữa bệnh: Trình thuật kể: “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: "Ephphatha!" nghĩa là: Hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.” Một người có thể nhìn thấy sự khác lạ của phép lạ này nếu đem so sánh với các phép lạ khác; vì trong hầu hết các phép lạ khác, người bệnh cứ ở vị trí của mình, Chúa Giêsu chỉ cần phán là người bệnh được khỏi. Sở dĩ Chúa phải kéo riêng anh ra một nơi, vì anh điếc không nghe được những gì Ngài truyền; và cũng để tránh việc anh có thể làm trò cười cho thiên hạ khi anh không hiểu ý Ngài. Lý do tại sao Chúa phải dùng những cử động có lẽ cho lợi ích của bệnh nhân, để anh biết nguyên nhân của bệnh.
2.2/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu và phản ứng của dân chúng:
(1) Tại sao Chúa Giêsu ngăn cấm họ không được rao truyền? Trong Tin Mừng Marcô, chúng ta thường thấy Chúa Giêsu ngăn cấm dân chúng không cho loan truyền những phép lạ Ngài làm, vì lý do “bí mật của Đấng Thiên Sai.” Người Do-Thái, cũng như đa số con người, dễ chấp nhận một Đấng Thiên Sai uy quyền, làm các phép lạ vĩ đại để cứu thóat con người, và giải phóng quốc gia họ khỏi quyền lực ngọai bang. Họ không thể chấp nhận một Đấng Thiên Sai hiền lành, chịu đánh đòn và đóng đinh trên Thập Giá, và giải thóat con người bằng yêu thương và chịu đau khổ. Chúa Giêsu làm phép lạ vì thương dân, không muốn dân chịu đau khổ vì bệnh tật; đồng thời Ngài cũng muốn cho dân tin vào Ngài qua uy quyền làm phép lạ. Điều Ngài không muốn là dân chúng chỉ quen với hình ảnh một Đấng Thiên Sai uy quyền, không để ý đến những điều Ngài giảng dạy, và mất niềm tin khi thấy Ngài chịu treo trên Thập Giá.
(2) Phản ứng của dân chúng: “Nhưng Người càng truyền bảo, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: "Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được."” Dân chúng nghĩ việc loan truyền những điều Chúa làm là phải, để mọi người có cơ hội biết đến và tin vào Ngài. Chúa Giêsu lại không muốn những niềm tin đặt căn bản trên phép lạ, vì nó sẽ phai lạt nhanh chóng khi không còn phép lạ nữa. Ngài cần những niềm tin đặt trên hiểu biết và yêu thương, mới có thể giúp con người vượt qua những sóng gió đau khổ của cuộc đời. Chỉ cần quan sát cảnh tượng xảy ra tượng xảy ra dưới chân cây Thập Giá, một người có thể cảm thấy sự mong manh của những niềm tin đặt căn bản trên phép lạ; cũng như những niềm tin đặt trên cơm bánh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa dựng nên mọi sự tốt lành, và những gì Ngài truyền cho con người phải giữ là cho sự tốt lành của con người. Chúng ta cần tuân giữ để có được và bảo vệ những tốt lành đó.
- Mọi sự xấu xa và tội lỗi là do ma quỉ và con người gây nên, vì đã không biết xử dụng tự do Thiên Chúa ban để tuân giữ những gì Thiên Chúa truyền dạy.
- Chúng ta không thắng được ma quỉ bằng sức riêng của mình; chúng ta cần được hướng dẫn bởi Lời Chúa để nhận ra tình yêu và đường lối của Thiên Chúa cho con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Gen 2:18-25; Mk 7:24-30.
Thứ Năm Tuần 5 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 2:18-25; Mk 7:24-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phẩm giá người phụ nữ
Người tị nạn Việt_Nam bị giằng co giữa 2 kiểu mẫu: nên theo kiểu Âu Tây, mà 5 thứ tự liên hệ được sắp xếp ưu tiên như sau: “đàn bà trước tiên, con nít, chó, cỏ, đàn ông;” hay theo kiểu Việt-Nam: “chồng chúa vợ tôi?” Điều quan trọng không phải việc phải đòi cho được sự ngang hàng, nhưng làm sao cho cuộc đời cả hai và gia đình được hạnh phúc. Cả hai kiểu mẫu trên đều dẫn tới những xáo trộn trong cuộc sống gia đình: Theo kiểu Âu Tây, đàn ông được xếp hạng sau cả con nít, chó, và cỏ, hỏi còn tư cách gì để hướng dẫn gia đình; và điều này hòan tòan trái ngược với ý định ban đầu của Thiên Chúa. Theo kiểu Việt-Nam, người vợ chỉ được coi như người tớ nữ của chồng, và hậu quả là người vợ bị quên lãng và đối xử rất tàn tệ; điều này cũng đi ngược lại với ý định ban đầu của Thiên Chúa. Thánh Phaolô trong Thư gởi các tín hữu Êphêsô đã đưa ra một kiểu mẫu Thánh Kinh: “Người vợ hãy vâng lời chồng như Giáo-Hội vâng lời Đức Kitô; và người chồng hãy yêu thương vợ như chính bản thân mình, và như Đức Kitô đã yêu thương và hy sinh mạng sống mình cho Giáo-Hội.”
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong vai trò người phụ nữ. Trong Bài Đọc I, tác-giả Sách Sáng Thế Ký trình bày việc tạo dựng người nữ và ý định của Thiên Chúa từ ban đầu là cho Bà trở nên người trợ giúp của người nam. Trong Phúc Âm, người phụ nữ xứ Phoenician kiên nhẫn vượt qua bức tường Dân Ngọai và tự ái, để xin Chúa Giêsu chữa lành con gái mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa tạo dựng người nữ.
1.1/ Ý định ban đầu của Thiên Chúa: Đức Chúa là Thiên Chúa phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng.” Theo trình thuật này: (1) Chúa không muốn cho người nam ở một mình; (2) không có tạo vật nào dưới quyền con người có thể trở nên “trợ tá tương xứng cho người nam.” Điều này nói lên phẩm giá của người nữ: Bà, tuy là trợ tá, nhưng tương xứng với người nam; và không dưới quyền của người nam như những thú vật.
1.2/ Thiên Chúa tạo dựng người nữ từ người nam: “Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra."
Khác với các ngôn ngữ khác, trong tiếng Do-Thái, đàn ông (ish) và đàn bà (ishah), chỉ sự liên hệ đơn nhất về bản tính giữa hai giống. Đó là lý do tại sao người nam thốt lên “đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!”
Hôn nhân nam nữ nằm trong kế họach ban đầu của Thiên Chúa: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” Hôn nhân ban đầu cũng đòi hỏi một chồng một vợ, vì cả hai trở nên một xương một thịt.
Trước khi sa ngã, con người không có mặc cảm tội lỗi: “Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.” Đây không phải là sự bất bình thường về tình dục, nhưng vì cả hai hòan tòan tin tưởng nhau và không có gì phải dấu diếm, che đậy.
2/ Phúc Âm: Người phụ nữ Phoenician vượt qua xấu hổ để cầu xin cho con gái.
Trong 3 năm rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài rất ít khi đi ra ngòai lãnh thổ của Do-Thái. Lý do không phải vì Ngài không muốn Tin Mừng của Ngài được lan rộng đến Dân Ngọai; nhưng vì Ngài đã có kế họach rõ ràng. Bổn phận của Ngài là loan báo Tin Mừng cho các chiên lạc của Nhà Israel. Các Tông-đồ, nhất là Phaolô và Barbara, sẽ loan truyền Tin Mừng đến cho Dân Ngọai. Đó là lý do tại sao trình thuật kể: “Đức Giêsu đứng dậy, rời nơi đó, đến địa hạt Tyre. Người vào một nhà nọ mà không muốn cho ai biết, nhưng không thể giấu được. Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người.” Tuy không có ý định loan báo Tin Mừng và chữa bệnh cho Dân Ngọai, nhưng đứng trước cách biểu lộ niềm tin và sự kiên trì của Bà, Chúa Giêsu đã chữa lành cho con gái của Bà.
2.1/ Bà vượt qua bức tường ngăn cách Dân Ngọai: Thánh Marcô nói rõ về lai lịch của người phụ nữ: “Bà là người Hy-Lạp, gốc Phoenician thuộc xứ Syria. Bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà.” Bà biết rõ Chúa Giêsu là người Do-Thái, và theo truyền thống, Bà không có lý do gì để cầu xin Chúa Giêsu, vì người Do-Thái không muốn làm một điều gì với Dân Ngọai. Nhưng vì lòng thương con, Bà đã đạp đổ bức tường kỳ thị giữa hai dân tộc, để đến và cầu xin với Chúa.
2.2/ Bà vượt qua bức tường tự ái: Vượt qua được bức tường kỳ thị chủng tộc, Bà phải đương đầu với một bức tường khác khó khăn để vượt qua hơn: tính tự ái. Chúa Giêsu nói với Bà:
"Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con." Chúa Giêsu so sánh con của Bà với chó con, và như thế, Bà cũng bị so sánh như lòai chó. Khi một người bị so sánh như thế, thử hỏi bao nhiêu người có can đảm ở lại để tiếp tục nài xin như Bà: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con." Đứng trước một người Dân Ngọai, thấy cách biểu lộ niềm tin và tình thương của Bà cho con như thế, Chúa Giêsu nói với bà: "Vì bà nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi." Về đến nhà, bà thấy đứa trẻ nằm trên giường và quỷ đã xuất.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hai Bài Đọc hôm nay đòi hỏi chúng ta phải suy xét lại mối liên hệ giữa nam nữ, và liên hệ vợ chồng; và biết cách đối xử sao cho phù hợp với ý định của Thiên Chúa ban đầu.
- Chúng ta đừng dễ dàng chạy theo những trào lưu hiện hành của xã hội: “trọng nữ khinh nam” của Âu Tây, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của Trung-Hoa, hay “chồng chúa vợ tôi” của Việt-Nam; vì cả hai giới đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Tất cả các trào lưu này đều dẫn tới tình trạng mất quân bình trong đời sống gia đình.
- Cả hai giới đều cần nhau và có những quà tặng bổ xung cho nhau. Thánh Phaolô khuyên vợ phải vâng lời chồng, không phải như người nô lệ phải vâng lời chủ, nhưng ai cũng biết một gia đình không thể có 2 người lãnh đạo. Đồng thời, Ngài cũng khuyên chồng phải yêu thương vợ như yêu chính thân mình. Điều này lọai trừ tất cả những ích kỷ, hành hung, và bất trung với vợ mình. Chỉ có thế, gia đình chúng ta mới có thể tiến mạnh, hòa hợp yêu thương, và sống theo đường lối Thiên Chúa đã vạch định từ ban đầu.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
“ĐỪNG XÉ ÁO, NHƯNG HÃY XÉ LÒNG!”
THỨ TƯ LỄ TRO NĂM B (18/02/2015)
[Ge 2,12-18; 2 Cr 5,20-6,2; Mt 6,1-6.16-18)
I. VÀO ĐỀ
Cho dù Lễ Tro năm nay rơi vào ngày 30 Tết, thì ý nghĩa của ngày ấy và của Mùa Chay 2015 cũng không vì thế mà mất đi ý nghĩa tôn giáo và tâm linh, nhất là trong bối cảnh của thế giới loài người nói chung và của xã hội Việt Nam ta nói riêng tràn đầy tội ác đủ loại, đủ kích cỡ và rất cần được thanh tẩy. Mùa Chay là Mùa ăn năn sám hối, là thời gian lý tưởng cho việc quay trở về với Thiên Chúa.Cách nay mấy ngàn năm, ngôn sứ Giô-en đã dùng một thứ ngôn ngữ “biểu tượng” đề kêu gọi dân Ít-ra-en thay lòng đổi dạ và cách sống: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng!” Xé áo hay thay áo thì dễ và không quan trọng vì chỉ là thay đổi cái bên ngoài. Xé lòng hay thay đổi lòng dạ, thay đổi tâm hồn mới khó và quan trọng vì là thay đổi tận chốn thâm sâu của tâm hồn là nơi xuất phát mọi tư tưởng và hành động của con người.
Thứ Tư Lễ Tro bắt đầu Mùa Chay Thánh, nên là thời điểm thuận lợi đề chúng ta thay lòng đổi dạ, canh tân đời sống cầu nguyện, ăn chay và bác ái đúng cách mà Thiên Chúa mong muốn. Hãy tiến lên, hỡi các Ki-tô hữu!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Ge 2,12-18): Đừng xé áo nhưng hãy xé lòng.
(12) Đây là sấm ngôn của Đức Chúa "Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van." (13) Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng họa. (14) Biết đâu Người chẳng nghĩ lại và hối tiếc mà để lại phúc lành, hầu anh em có lễ phẩm và lễ tưới rượu dâng lên Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em. (15) Hãy rúc tù và tại Xi-on, ra lệnh giữ chay thánh, công bố mở cuộc họp long trọng; (16) hãy tụ tập chúng dân, mời dự đại hội thánh, triệu tập các cụ già, tụ họp đám thiếu nhi cũng như trẻ thơ còn đang bú. Tân lang hãy ra khỏi loan phòng, tân nương hãy rời bỏ phòng khuê! (17) Giữa tiền đình và tế đàn, các tư tế phụng sự Đức Chúa hãy than khóc và nói rằng: "Lạy Đức Chúa, xin dủ lòng thương xót dân Ngài! Xin đừng để gia nghiệp của Ngài phải nhục nhã và nên trò cười cho dân ngoại! Chẳng lẽ các dân lại được cớ mà nói: Thiên Chúa của chúng ở đâu rồi?"
2.2 Trong bài đọc 2 (2 Cr 5,20-6,2): Anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa: Đây là thời Thiên Chúa thi ân.
(5,20) Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. (21) Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.
(6,1) Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu. (2) Quả thế, Chúa phán rằng: Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ. Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.
3. Trong bài Tin Mừng (Mt 6,1-6.16-18): Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả lại cho anh.
(1) "Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. (2) Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (3) Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, (4) để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
(5) "Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. (6) Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
(16) "Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (17) Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, (18) để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa trong ba bài Sách Thánh
1o) Trong bài đọc 1 [Ge 2,12-18) chúng ta thấy Thiên Chúa đã dùng/nhờ ngôn sứ Gio-en mà tha thiết kêu gọi dân Ít-ra-en sám hối và trở về với Người. Qua đó chúng ta thấy được tấm lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa dành cho toàn dân và cho từng cá nhân, vì họ quý giá trước nhan Người.
2o) Trong bài đọc 2 (2 Cr 5,20-6,2), chúng ta thấy Thiên Chúa đã dùng/nhờ Thánh Phao-lô Tông Đồ kêu gọi các Ki-tô hữu hãy làm hòa với Thiên Chúa sau khi họ đã làm mất lòng Người và tự đẩy mình vào nguy cơ bị loại khỏi Nước Thiên Chúa. Cũng qua lời mời gọi ấy, chúng thấy tấm lòng yêu thương của Thiên Chúa dành cho các Ki-tô hữu là những người được Thiên Chúa sẵn lòng ban ơn cứu độ cho.
3o) Trong bài Tin Mừng (Mt 6,1-6.16-18), chúng ta thấy Chúa Giê-su đã cặn kẽ dậy dỗ các môn đệ và quần chúng về cách làm việc lành phúc đức, bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Họ phải làm tất cả những việc tốt lành thánh thiện ấy với lòng chân thành và trung thực với Thiên Chúa và với chính mình, không biến những việc đạo đức ấy thành công cụ đề cao cá nhân hay tìm vinh hoa giả tạo thế gian.
3.2 Sứ điệp Lời Chúa trong ba bài Sách Thánh là hãy sám hối mà quay lại với Thiên Chúa và làm hòa với Người. Cụ thể là thực hành các việc lành phúc đức, bố thí (bác ái), cầu nguyện và ăn chay một cách đẹp lòng Thiên Chúa và hữu ích cho đời sống tâm linh của chúng ta.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng yêu thương, giầu lòng xót thương và thứ tha mọi lỗi lầm của Dân Chúa là chúng ta. Hơn thế nữa, Thiên Chúa còn chỉ dậy cho chúng ta biết cách làm việc bác ái (bố thí), cầu nguyện và ăn chay một cách tốt lành thánh thiện đẹp lòng Người và mưu ích cho bản thân chúng ta
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để kiêm tra xem chúng ta có thực thi đúng sứ điệp Lời Chúa hay không, chúng ta hãy tự hỏi và trả lời:
1o) Tôi có đang sống xa Chúa không? Nếu tôi sống xa Chúa thì tôi phải mau mau trở về với Người, làm hòa với Người để được Người thứ tha.
2o) Tôi có thường xuyên thực hành việc bác ái giúp người không? Tôi làm việc ấy để làm đẹp lòng Chúa hay để được người đời khen ngợi?
3o) Tôi cầu nguyện để được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa hay để được tiếng khen của người xung quanh?
4o) Tôi ăn chay hãm mình để đền tội và thanh luyện tâm hồn hay để được tiếng khen của người đời?
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van.» Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho hết mọi người sống trên thế gian này để ai nấy đều biết sám hối tội lỗi và xin ơn thứ tha từ Đấng Tối Cao và Cực Thánh là Thiên Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi người biết sám hối và quay về với Thiên Chúa là Đấng từ bi, nhân hậu, chậm giận và giầu tình thương.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trêntrời, ban thưởng.»Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, có được lòng khiêm nhường và tinh thần từ bỏ khi làm bất cứ một việc lành phúc đức nào.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người lương thiện mà phải sống trong hoàn cảnh nghèo khó, bất công, áp bức và tủi nhục, để họ luôn vững lòng tin vào Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự và xét xử công minh.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Gen 1:20 - 2:4; Mk 7:1-13
Thứ Ba Tuần 5 TN1, Năm B
Bài đọc: Gen 1:20 - 2:4; Mk 7:1-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa tạo dựng mọi sự tốt đẹp.
Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành, Ngài tạo dựng mọi sự tốt lành, và không có sự gì Ngài tạo dựng xấu xa cả; nhưng tại sao có những sự dữ trong thế giới? Một trong những nguyên nhân chính là sự lạm dụng tự do, điều tốt lành do Thiên Chúa trao ban cho các thiên thần và con người. Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự tạo dựng tốt lành của Thiên Chúa, và sự lạm dụng tự do làm cho ra xấu xa của con người. Trong Bài Đọc I, tác-giả Sách Sáng Thế Ký tường thuật sự tạo dựng chim trời, cá biển, thú vật, và nhất là con người của Thiên Chúa. Tác giả nhấn mạnh đến sự kiện Thiên Chúa thấy tất cả mọi sự đều rất tốt lành và Ngài chúc lành cho tất cả các tạo vật. Trong Phúc Âm, các Biệt-phái và Kinh-sư tố cáo các môn đệ của Chúa vi phạm Lề Luật của tiền nhân, vì các ông không chịu rửa tay trước khi ăn. Chúa Giêsu vạch ra các tội lỗi của họ: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp.
1.1/ Ngày thứ năm, Thiên Chúa tạo dựng chim trời và cá biển: Khi theo dõi các chương trình của đài Discovery hàng tuần, chúng ta không khỏi ngạc nhiên đến độ sửng sốt về các lòai thảo mộc, chim trời, cá biển, và các lòai thú vật trong trời đất. Chúng quá đẹp, quá nhiều giống lọai khác nhau, và quá hữu ích cho con người. Một điều làm chúng ta phải sửng sốt là mặc dù chúng trở thành của ăn cho nhau và cho biết bao con người, nhưng chúng là nguồn lương thực không bao giờ cạn, vì lời chúc lành của Thiên Chúa trong trình thuật hôm nay: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất."
1.2/ Ngày thứ sáu, Thiên Chúa tạo dựng con người: Việc tạo dựng con người được coi là tuyệt đỉnh của sự tạo dựng vì những lý do sau:
(1) Khi tạo dựng các lòai khác, Thiên Chúa chỉ cần phán là chúng có; khi tạo dựng con người, Thiên Chúa lấy ý kiến của những vị cùng ở với Thiên Chúa trên trời khi Ngài phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta.” Hai chữ tác-giả dùng khác nhau ở đây: (1) hình ảnh (selem), là một bản in chính xác của những gì nguyên thủy; và (2), giống như (demut), chỉ sự tương tự hay gần giống nhau. Con người mang hình ảnh của Thiên Chúa, và có những đức tính gần giống như Ngài.
(2) Con người có quyền trên các lòai thọ tạo khác: Trình thuật hôm nay nói rõ mục đích của Thiên Chúa khi tạo dựng con người: “để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất." Trong trình thuật sau này, các thú vật được dẫn tới Adam để ông đặt tên cho chúng: “Ông gọi chúng là gì, tên của chúng như vậy.” Khi một người đặt tên cho ai, người đó có quyền trên người được đặt tên.
(3) Thiên Chúa sáng tạo gia đình đầu tiên và chúc lành cho họ: Khi tạo dựng các sinh vật khác, tuy không thấy tác-giả nói tới giống lọai (đực hay cái) của chúng, nhưng được giả định phải có cho việc sinh sản. Khi đề cập tới việc tạo dựng con người, tác giả nhấn mạnh tới phái tính và lời truyền cũng như lời chúc lành cho gia đình. “Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất."”
(4) Mọi sự được tạo dựng cho sự xử dụng của con người: Con người không chỉ có quyền trên muôn vật, mà muôn vật còn được đặt dưới quyền xử dụng của con người. Thiên Chúa phán: "Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy." Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!
1.3/ Ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi: Ngày này cũng được Thiên Chúa dựng nên cho con người với mục đích để con người cùng nghỉ ngơi với Thiên Chúa. Chúng ta cần chú ý đặc biệt đến lý do khi Thiên Chúa tạo dựng ngày này, vì nó sẽ trở thành đề tài cho những xung đột giữa Chúa Giêsu và các biệt-phái cùng các kinh-sư. Tác giả viết: “Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi. Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người.”
2/ Phúc Âm: Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.
2.1/ Luật Kosher thanh tẩy của người Do-Thái: Khi nói tới Luật, người Do-Thái nghĩ ngay đến Thập Giới của Thiên Chúa ban cho họ qua Moses; nhưng bên cạnh đó, còn nhiều những luật mà họ gọi là “Luật truyền miệng,” hay “luật bất thành văn.” Những luật này, sau một thời gian được các tiền nhân giữ, đương nhiên trở thành luật và được ghi chép lại trong ít thế kỷ trước khi Chúa Giêsu ra đời.
(1) Những gì được họ coi là không thanh sạch: Có rất nhiều điều được coi là không sạch bởi người Do-Thái: người đàn bà mới sinh con, người phong cùi, xác chết, người Dân Ngọai, và rất nhiều những rau cỏ cũng như các thú vật không được ăn vì không sạch. Tất cả những đồ vật mà những lọai người này đụng vào, đều trở nên không sạch. Vì thế, họ có những khỏan luật mô tả những gì không sạch, và những điều luật làm sao để giải quyết những gì không sạch.
(2) Vệ sinh và tội lỗi: Đối với họ, thanh sạch không phải chỉ là chuyện vệ sinh, nhưng là chuyện liên quan đến tội lỗi và Lề Luật. Kẻ nào vi phạm có thể bị trừng trị theo Luật và ngay cả có thể bị tử hình
2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu: Ngài chắc chắn không đả phá việc giữ vệ sinh trước khi ăn; nhưng Ngài muốn vạch ra cho họ thấy những phi lý quá trớn về sự quan sát luật thanh sạch của họ:
(1) Giữ đạo thành thật bên trong hay giữ luật cách giả hình bên ngòai? Tôn giáo hệ tại việc giúp con người sống mối liên hệ chân tình với Thiên Chúa, chứ không phải ở việc giữ một số lễ-nghi cách hời hợt bên ngòai. Chúa Giêsu dùng lời của Tiên-tri Isaiah tố cáo họ: "Ngôn sứ Isaiah thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”
(2) Luật của Thiên Chúa phải được coi quan trọng hơn luật của con người: Chúa tiếp tục chỉ trích họ: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông… Các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa tạo dựng mọi sự tốt đẹp và trao cho con người quyền điều khiển. Chúng ta có bổn phận bảo vệ mọi sự tốt đẹp theo như ý định của Thiên Chúa.
- Thiên Chúa không tạo dựng điều xấu xa. Những điều này xảy ra là do quỉ thần và lạm dụng tự do của con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tống Giáo Phận Huế
- Viết bởi Gen 1:1-19; Mk 6:53-56
Thứ Hai Tuần 5 TN, Năm B
Bài đọc: Gen 1:1-19; Mk 6:53-56.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải biết ơn tác giả của sự sống.
Trong thế giới con người, chúng ta thường thấy có 2 hạng người tiêu biểu: một hạng người chịu để tâm nghiên cứu để tìm ra sự thật, nguồn gốc, và căn nguyên mọi lòai như: “Tôi đã tìm thấy Thiên Chúa trong vũ trụ.” Hay “Tôi đã tìm thấy Thiên Chúa nơi phòng thí nghiệm.” Ngược lại, có những người lười biếng, không chịu học hỏi lịch sử, và truy tầm nguồn gốc và căn nguyên của mọi lòai; lại còn có thái độ tự tôn, kiêu ngạo, và nghĩ mình có thể làm mọi sự; chẳng hạn lời tuyên bố của triết gia hiện sinh F. Nietzsche “Tôi đã giết chết Thiên Chúa!” hay lời phê phán của K. Marx, ông tổ cộng sản, về niềm tin vào Thiên Chúa: “Tôn giáo là thuốc phiện mê ngủ con người.”
Nếu con người chịu khó học hỏi lịch sử và tìm về nguồn cội, con người sẽ khám phá ra trái đất con người đang sống chỉ là một hành tinh nhỏ và mỏng giòn của vũ trụ, chứ không phải là trung tâm điểm hay cái rốn của vũ trụ như nhiều người lầm tưởng. Trái đất tự nó không thể sống một mình, nhưng tùy thuộc vào các hành tinh chung quanh; nhất là 2 hành tinh lớn mặt trời và mặt trăng. Nhận ra thân phận yếu đuối của mình sẽ giúp con người khiêm nhường hơn, biết ơn, và trông cậy vào sự khôn ngoan, uy quyền, và sức mạnh của Đấng Sáng Tạo.
Hai Bài Đọc hôm nay nói lên sự tương phản giữa Đấng Sáng Tạo uy quyền và con người yếu đuối bệnh tật. Trong Bài Đọc I, tác-giả Sách Sáng Thế Ký, dù không có một dụng cụ nghiên cứu thiên văn nào, cả hàng mấy ngàn năm trước đây, đã biết dùng trí óc lý luận của mình, nhận ra uy quyền sáng tạo của Thiên Chúa trong vũ trụ. Trong Phúc Âm, Thiên Chúa, tác giả của sự sống, cũng là người chữa lành mọi tật bệnh cho con người. Điều kiện để được chữa bệnh: con người phải nhận ra tình trạng bệnh tật của mình và đến với Thiên Chúa để được chữa lành.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa tạo dựng trời đất.
Điều đầu tiên chúng ta cần chú ý khi đọc trình thuật tạo dựng: Đây không phải là thứ tự những gì Thiên Chúa làm; nhưng là một tường thuật về công cuộc tạo dựng theo con mắt đức tin, dưới sự linh hứng của Thánh Thần. Tác-giả quan tâm tới ai là người sáng tạo, chứ không quan tâm đến cách thức chi tiết phải làm sao. Tác giả quan tâm đến sự thật đặt căn bản trên những sự kiện lịch sử, chứ không tới thứ tự lịch sử của những biến cố. Tác giả quan tâm đến sự cứu độ hơn là thần học về việc tạo dựng. Tác giả tường thuật công trình sáng tạo theo sự hiểu biết và suy tư của con người thời đó, khi chưa có những kiến thức khoa học về sự vận chuyển trong trời đất.
1.1/ Ngày thứ nhất, Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng và phân rẽ ánh sáng khỏi bóng tối:
Ngay từ khởi thủy, chỉ có một Thiên Chúa; khác hẳn với những tôn giáo đa thần. Ánh sáng và bóng tối là do Thiên Chúa tạo dựng, cả hai đều ở dưới uy quyền của Thiên Chúa, chứ không là 2 thần khác nhau. Uy quyền của Thiên Chúa trên ánh sáng và bóng tối được diễn tả bằng việc Chúa muốn và phán và sự vật liền có, và Chúa gọi là sự vật liền được gọi. Theo tâm thức của người Do-Thái xưa, người được đặt tên là người có tòan quyền trên sự việc. Theo sự suy luận của tác giả, ánh sáng phải có trước khi làm các việc khác, nên Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng trước khi tạo dựng các sự vật khác.
1.2/ Ngày thứ hai, Thiên Chúa tạo dựng bầu trời: Theo sự mô tả của tác-giả ở trên, tòan thể địa cầu bao bọc bởi nước; do đó, địa cầu cần được phân chia ranh giới hẳn hoi. Để làm điều này, Thiên Chúa chế tạo một cái vòm, và bầu trời giống như hình một cái phễu lớn giổng ngược để phân rẽ nước phía trên và nước phía dưới. Chỗ nước chảy xuống được khóa lại và mở ra khi muốn làm mưa.
1.3/ Ngày thứ ba, Thiên Chúa phân tách đất liền ra khỏi biển và tạo dựng cây cỏ: Sau khi đã phân cách nước phía trên, Thiên Chúa phân cách nước phía dưới khi Thiên Chúa phán: "Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra." Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là "đất," khối nước tụ lại là "biển." Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
Chỗ nào có đất là có cây cỏ mọc. Theo sự suy nghĩ của tác gỉa, đến lúc Thiên Chúa tạo dựng chúng nên Ngài phán: "Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống." Liền có như vậy. Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Điều cần chú ý là tiềm năng sự sống và sự tái tạo đã có trong các hạt giống khi Thiên Chúa tạo dựng; và không bao giờ cạn. Bao lâu còn đất, các hạt giống sẽ sinh hoa trái cho con người hưởng dùng.
1.4/ Ngày thứ tư, Thiên Chúa tạo dựng các hành tinh: mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao.
Có lẽ tác giả phân biệt 2 thứ ánh sáng: ánh sáng của ngày thứ nhất là để nhìn, và ánh sáng đến từ mặt trời. Có lẽ tác giả chưa đủ kiến thức để biết ánh sáng ban ngày đến từ mặt trời. Thiên Chúa nghĩ: Để phân biệt ngày với đêm, cần có 2 nguồn sáng khác nhau, nên Thiên Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa lành con người.
2.1/ Bệnh tật đe dọa sự sống con người: Tuy Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành; nhưng những điều dữ luôn đe dọa con người, một trong những điều dữ này là các bệnh tật. Bệnh tật có nhiều nguyên do, một trong những nguyên do chính là sự ô nhiễm môi trường và tính vô trách nhiệm của con người.
2.2/ Con người nhận ra tác giả của sự sống: Trình thuật kể: “Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra Đức Giêsu. Họ rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó. Người đi tới đâu, vào làng mạc, thành thị hay thôn xóm nào, người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Người cho họ ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi.” Hai điều kiện để được chữa lành bệnh: (1) Nhận ra mình mắc bệnh, và (2) Chạy đến với Chúa Giêsu, tác giả của sự sống, để được chữa lành.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mọi vật có là do Thiên Chúa tạo dựng. Tuy trình thuật của Sách Sáng Thế Ký không mô tả chi tiết và lý do, nhưng đó là sự thật về nguồn gốc và căn nguyên của sự vật.
- Thiên Chúa là tác giả của sự sống. Ngài tạo dựng mọi sự: nước, đất, ánh sáng, hạt giống … để bảo vệ sự sống của muôn lòai. Không phải ngẫu nhiên có sự sống như nhiều người lầm tưởng.
- Quan sát thiên nhiên và đọc trình thuật tạo dựng giúp con người đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo muôn lòai muôn vật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Job 7:1-4, 6-7; I Cor 9:16-19, 22-23; Mk 1:29-39
Chúa Nhật V Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Job 7:1-4, 6-7; I Cor 9:16-19, 22-23; Mk 1:29-39.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đâu là ý nghĩa của cuộc đời?
Câu hỏi quan trọng nhất và đã làm trăn trở bao nhiêu con người: “Đâu là mục đích hay ý nghĩa của cuộc đời?” Tùy vào câu trả lời cho câu hỏi này, con người có hai cái nhìn về cuộc đời: lạc quan hy vọng hay bi quan yếm thế. Tùy theo cách nhìn về cuộc đời, con người sẽ có thái độ sống thích ứng trong cuộc sống: hoặc làm việc không ngơi nghỉ để đạt đích, hoặc nằm dài than thân trách phận chờ thần chết đến giải thóat cuộc sống vô nghĩa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời: Trong Bài Đọc I, ông Job thấy cuộc đời vô nghĩa vì ông không biết mình sống để làm gì. Ông than thân trách phận vì không nhìn thấy ý nghĩa của cuộc đời. Trong Bài Đọc II, khi đã nhìn thấy sự quan trọng của việc rao giảng Tin Mừng là để cho mọi người đạt tới Ơn Cứu Độ, Thánh Phaolô sẵn sàng hy sinh cả cuộc đời, nhiệt thành rao giảng, và sẵn sàng trở nên mọi sự cho mọi người để chinh phục các linh hồn về cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, thánh Marcô trình bày một ngày sống tiêu biểu của Đức Kitô bận rộn đến độ không có thời giờ ăn uống: rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật, trục xuất quỉ thần, và cầu nguyện hiệp thông với Thiên Chúa trong nơi thanh vắng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự vô nghĩa của cuộc đời
1.1/ Những đau khổ của cuộc đời: là một thực tại con người phải đương đầu với. Những đau khổ chính của cuộc đời: phải làm lụng vất cả mới có ăn, sự nhàm chán của ngày lên đêm xuống, sự đe dọa của vô vàn bệnh tật chực chờ xâm nhập cơ thể, nguy hiểm của tội lỗi và chết chóc do chiến tranh, tai ương, mất mùa đem lại. Sách Job đưa ra một số những đau khổ này:
(1) Làm lụng vất vả, khổ cực: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lụng vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công, cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề.”
(2) Tính độc điệu của thời gian: Cũng như tác giả của Sách Giáo Sĩ quan niệm: “chẳng có gì lạ dưới ánh mặt trời.” Sách Job cũng cảm thấy sự nhàm chán của cuộc sống dương gian: “Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: "Khi nào trời sáng?" Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: "Bao giờ chiều buông?" Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng.”
(3) Đó là chưa kể đến ảnh hưởng của tội lỗi và bệnh tật mà Job phải đương đầu sau này, khi Satan bắt ông phải chịu chứng bệnh ngòai da nghiêm trọng.
1.2/ Sống không có hy vọng: Con người có thể chịu đựng đau khổ, nhưng không thể sống mà không có hy vọng: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ.” Không giống như chúng ta, người xưa không có hy vọng về cuộc sống mai sau; mặc dù hy vọng vào cuộc sống mai sau đã tiềm ẩn trong các Sách Cựu-Ước, nhưng chưa được trình bày rõ như các Sách Tân Ước. Nhiều người xưa quan niệm: phần thưởng của việc ăn ngay ở lành, hay vâng theo Lề Luật của Thiên Chúa, là những chuỗi ngày sống lâu và hạnh phúc ở đời này thôi; khi đã từ giã cõi đời, cuộc sống con người chấm dứt. Đó là lý do Job không thể nhìn ra ý nghĩa của cuộc đời.
2/ Bài đọc II: Tôi đã trở nên mọi sự cho mọi người.
2.1/ Rao giảng Tin Mừng là một bổn phận: Biến cố trở lại trên đường Damascus luôn chiếu sáng mọi suy nghĩ của Phaolô. Ngài đang trên đường bắt đạo, chứ không phải rao giảng Tin Mừng; nhưng Thiên Chúa đã có kế họach riêng của Ngài là biến Phaolô thành kẻ rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngọai. Vì thế, Phaolô xác quyết: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! Nếu tôi tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó.”
Vì là bổn phận phải làm, Phaolô tìm một cách khác để được lãnh nhận phần thưởng nhờ việc rao giảng Tin Mừng: “Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi.” Giống như Chúa Giêsu, Thánh Phaolô nhiều lần nhấn mạnh tới việc người làm việc xứng đáng được thưởng công. Thánh Phaolô từ chối không hưởng những ân huệ này, không phải vì Ngài không xứng đáng, nhưng là một cách để lãnh phần thưởng bởi Thiên Chúa do việc rao giảng Tin Mừng.
2.2/ Hy sinh tất cả cho việc rao giảng Tin Mừng: Một khi đã được Thiên Chúa soi sáng và trao ban sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngọai, thánh Phaolô sẵn sàng hy sinh mọi sự cho việc rao giảng Tin Mừng. Vì việc chinh phục linh hồn con người về cho Thiên Chúa là việc khẩn thiết trên hết mọi việc, nên mọi phương pháp được dùng để đạt mục đích này. Một cách hiệu quả nhất theo Phaolô là trở nên mọi sự cho mọi người; ngài cắt nghĩa: “Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.” Người tông đồ không ngại đi tới các vùng chưa ai đặt chân tới, nếu ở đó có những người chưa được nghe Tin Mừng; người tông đồ cũng không ngại bước chân vào nhà tù, nhà thổ, chốn ăn chơi, nếu ở đó có những linh hồn cần được chinh phục về cho Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Một ngày sống của Đức Kitô
3.1/ Rao giảng Tin Mừng: Trình thuật hôm nay đề cập đến việc Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng tại hội đường Capernaum trong ngày Sabbath; nhưng Ngài không chỉ giới hạn việc rao giảng trong các hội đường, mà ở khắp mọi nơi: trên núi, dọc đường, dưới thuyền, bên bờ hồ … bất cứ chỗ nào có khán giả. Chúa Giêsu rao giảng những gì? Thứ nhất, triều đại Nước Thiên Chúa đã đến; nói cách khác, Nước Thiên Chúa bắt đầu mở cửa để mọi người có quyền vào để chung hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Thứ hai, Ngài chính là niềm hy vọng của con người; vì qua Ngài, con người được tẩy sạch mọi tội lỗi và giao hòa với Thiên Chúa. Sau cùng, Ngài mời gọi con người hãy ăn năn xám hối và tin vào những gì Ngài rao giảng; vì Ngài là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài mặc khải tất cả những gì của Thiên Chúa cho con người. Những điều nền tảng này con người cần biết trước khi họ có thể đặt niềm tin nơi Ngài, và hy vọng vào những gì Ngài hứa; đồng thời giúp họ sửa đổi cuộc sống cho phù hợp với lối sống theo Tin Mừng.
3.2/ Chữa bệnh phần xác cũng như phần hồn: Một trong những đau khổ của cuộc đời là bệnh tật. Xưa cũng như nay, không biết bao nhiêu các chứng bệnh đe dọa cuộc sống của con người: từ những chứng bệnh thời tiết thông thường như lên cơn sốt cho đến những chứng bệnh ung thư hiểm nghèo. Chúa Giêsu cảm thông với đau khổ do bệnh tật gây nên và chữa lành tất cả.
(1) Chữa mẹ vợ của Phêrô: Bệnh tật ngăn cản các dự tính của con người. Sau khi giảng dạy trong hội đường tại Capernaum, chắc Phêrô mời Thầy và các tông-đồ khác về nhà mẹ vợ để dùng bữa trưa. Ông yên trí cơm nước đã sẵn sàng khi Thầy trò về đến nhà. Nhưng khi về tới nơi, cơm nước đâu chẳng thấy, mà chỉ thấy bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. Điều này dạy chúng ta bài học phải kiên nhẫn. Nhiều khi chúng ta cảm thấy đau khổ vì bệnh tật ngăn cản công việc và các dự án chúng ta đã vạch ra; nhưng chúng ta phải tìm ra thánh ý Thiên Chúa trong những lúc chịu bệnh. Khi nào khỏi bệnh, chúng ta lại tiếp tục vui vẻ phục vụ như Bà mẹ vợ của Phêrô.
(2) Chữa mọi kẻ ốm đau và bị quỉ ám trong thành Capernaum: “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.” Họ phải đợi đến lúc mặt trời lặn vì Lề Luật không cho chữa bệnh trong ngày Sabbath. Cảm thông với bệnh tật của dân chúng, Chúa Giêsu chữa lành tất cả. Bệnh phần xác đã vậy, bệnh phần hồn còn đau khổ hơn. Bệnh phần hồn là những người sống dưới ảnh hưởng của quỉ thần và làm nô lệ cho chúng. Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần trục xuất quỉ thần và ban quyền cho các tông-đồ để các ông giải phóng con người.
3.3/ Cầu nguyện với Thiên Chúa trước khi bắt đầu một ngày khác: Bận rộn suốt ngày để rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh tật hồn xác như thế, Chúa Giêsu vẫn tìm ra thời giờ để cầu nguyện với Thiên Chúa. Theo trình thuật, “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.” Một ngày mới với những công việc mới, Chúa Giêsu bắt đầu bằng việc kết hợp với Thiên Chúa để nhận ra những việc phải làm.
Khi Ngài còn đang cầu nguyện, Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!" Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." Mục đích của Ngài là rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh cho dân, và Chúa Giêsu chỉ có 3 năm làm việc, nên Ngài muốn Tin Mừng được lan rộng khắp nơi có thể. Điều luôn cám dỗ người tông-đồ là lo tìm lợi ích cho mình sau khi đã làm việc một thời gian tại một nơi cố định. Họ quên đi sự cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng, và bằng lòng với những tiện nghi của địa phương dâng tặng. Người tông-đồ phải luôn sẵn sàng lên đường để đi tới những nơi đang cần được lắng nghe Tin Mừng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Cuộc đời có ý nghĩa hay không tùy thuộc chúng ta có nhìn ra đích điểm của cuộc đời hay không?
- Đích điểm của cuộc đời không do con người tự vạch ra, nhưng đã được vạch sẵn bởi Thiên Chúa cho con người.
- Chúng ta có bổn phận phải rao giảng Tin Mừng để giúp con người biết nhận biết đích điểm này, và giúp họ sống làm sao để đạt đích.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Heb 13:15-17, 20-21; Mk 6:30-34
Thứ Bảy Tuần 4 TN, Năm B
Bài đọc: Heb 13:15-17, 20-21; Mk 6:30-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Liên hệ giữa mục-tử và đoàn chiên
Trong cuộc đời không ai là một hòn đảo để tự mình sinh sống. Con người cần sự giúp đỡ của tha nhân, và chính họ cũng phải giúp đỡ người khác. Một em bé chào đời không thể tự mình sinh sống. Về phương diện vật chất, em cần sự thương yêu và chăm sóc của cha mẹ cho đến khi em đủ khả năng để tự sinh sống một mình. Về phương diện tri thức, em cần sự giáo dục trong gia đình cũng như nhà trường, để giúp em thâu thập những kiến thức cần thiết để biết đối xử, suy luận, và làm việc với mọi người. Về phương diện tâm linh, em cần được hướng dẫn để nhận ra Đấng Tạo Thành, và sống mối tương quan với Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay nhấn mạnh đến những mối liên hệ này, đặc biệt mối liên hệ giữa mục-tử và đoàn chiên. Trong Bài Đọc I, tác-giả Thư Do-Thái nhấn mạnh đến việc cả hai bên phải giúp đỡ lẫn nhau, và đoàn chiên phải vâng lời vị mục tử. Trong Phúc Âm, tuy Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải biết quí trọng sự yên tĩnh để nghỉ ngơi và sống mối liên hệ với Thiên Chúa, chính Ngài đã không thể cầm được lòng thương xót khi thấy dân Ngài vất vả “như chiên không người chăn dắt.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cùng giúp đỡ nhau để thi hành thánh ý Chúa.
1.1/ Bổn phận tương thân, tương trợ: Mục đích của tôn giáo là đưa con người tới Thiên Chúa. Để thể hiện điều này, con người phải thực hiện 2 điều:
(1) Thờ phượng và ngợi khen Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Vậy nhờ Người, chúng ta hãy luôn luôn dùng lời ngợi khen làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa, tức là dùng miệng lưỡi mà ca tụng Danh Thánh.” Việc thờ phượng biểu lộ qua cầu nguyện cá nhân và thờ phượng cộng đồng.
(2) Giúp cho mọi người có cơ hội đến với Thiên Chúa: “Anh em chớ quên làm việc từ thiện, giúp đỡ lẫn nhau, vì Thiên Chúa ưa thích những hy lễ như thế.” Trong cấu trúc của Giáo Hội, những người lãnh đạo tinh thần tại địa phương như các giám-mục, linh-mục, là những người có trách nhiệm trực tiếp lo cho phần linh hồn của các tín hữu. Tác giả khuyên các tín hữu hãy vâng lời những người lãnh đạo tinh thần này: “Anh em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em và hãy phục tùng họ, vì họ chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa. Như thế, họ sẽ vui vẻ thi hành phận sự của mình mà không than thở, bởi vì điều đó chẳng ích gì cho anh em.” Ngòai việc vâng lời, các tín hữu còn phải tích cực hơn bằng cách biểu lộ sự biết ơn bằng cách cầu nguyện và săn sóc đến nhu cầu vật chất, để họ có sức khỏe và thời gian để phục vụ đoàn chiên. Giúp đỡ họ là giúp đỡ chính mình vậy.
1.2/ Phải thi hành thánh ý Thiên Chúa: Đây là mục đích chính của con người trong cuộc đời, vì tất cả mọi lòai Thiên Chúa dựng nên là cho một mục đích. Đâu là mục đích hay thánh ý của Thiên Chúa cho con người? Tác-giả Thư Do-Thái đã vạch ra rất rõ ràng: đó là được chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Như vậy, tuy là ý của Thiên Chúa, nhưng là vì lợi ích cho con người; vì thế, ý của Thiên Chúa cũng phải là ý của con người.
(1) Đức Kitô thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha: Để đạt mục đích của Thiên Chúa, Đức Kitô đã vâng lời Thiên Chúa trong mọi sự ngay cả chấp nhận cái chết để thực hiện thánh ý Thiên Chúa: “Thiên Chúa là nguồn mạch bình an đã đưa Đức Giêsu, Chúa chúng ta ra khỏi cái chết. Đức Giêsu là vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước vĩnh cửu.”
(2) Chúng ta cũng phải trung thành thi hành thánh ý của Ngài: Nếu Đức Kitô đã sẵn sàng hy sinh đổ máu cho chúng ta được sống, lẽ nào chúng ta lại để cho máu cực thánh của Ngài trở nên vô hiệu nơi bản thân chúng ta. Tác giả cầu xin cho các tín hữu: “Xin Thiên Chúa ban cho anh em mọi ơn lành để có sức thi hành thánh ý Người. Xin Người thực hiện nơi anh em điều đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Kính dâng Đức Kitô vinh quang đến muôn thuở muôn đời. Amen.”
2/ Phúc Âm: Hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.
2.1/ Người tông-đồ cần quí trọng sự thanh vắng để được nghỉ ngơi bồi dưỡng: Các Tông-đồ cũng giống như chúng ta dễ cảm thấy mừng vui khi nhìn thấy kết quả những gì mình đã hy sinh và được dân chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Những lúc như thế, đa số sẽ sẵn sàng hy sinh, ngay cả việc ăn uống, ngủ nghỉ, để có thời giờ làm việc hơn nữa để đáp ứng mọi nhu cầu của dân chúng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã khôn ngoan nhắc nhở các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Có nhiều lý do cho lời khuyên khôn ngoan này:
- Thân xác con người có giới hạn của nó: Khi con người làm việc mệt mỏi, họ cần được nghỉ ngơi dưỡng sức; nếu không họ sẽ dễ dàng bị quá tải, và làm việc sẽ không có hiệu năng.
- Họat động tông đồ cần được thăng bằng qua đời sống cầu nguyện: Nếu không dành thời giờ cho việc cầu nguyện, người tông-đồ sẽ không có sức mạnh tinh thần cho những đòi hỏi của việc tông-đồ. Thánh phụ Đa-minh đã thăng bằng 2 cuộc sống bằng cách rao giảng ban ngày và cầu nguyện ban đêm.
2.2/ Con người khao khát được dạy dỗ và lắng nghe Tin Mừng: Tuy đã cùng với các Tông-đồ xuống thuyền để xa cách dân chúng để Thầy trò có thể nghỉ ngơi dưỡng sức, nhưng khi ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông đã chờ đợi sẵn, Ngài chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Người lại bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
Xưa cũng như nay, nhu cầu săn sóc phần hồn cho dân chúng luôn khẩn trương cần thiết, vì:
(1) Chiên không người chăn sẽ không biết đường đi: Người mục-tử tinh thần cần chỉ cho đoàn chiên của mình đường đi tới Thiên Chúa, đích điểm của cuộc đời. Không có đích điểm này, con người sẽ dễ lạc hướng, và sẽ bị cuốn hút vào những mời gọi bất chính của quỉ thần và thế gian.
(2) Chiên không người chăn sẽ không kiếm được thức ăn bổ dưỡng: Người mục-tử tinh thần cần chính mình nuôi dân hay chỉ cho dân tới những thức ăn tinh thần như Lời Chúa, các Bí-tích, và đời sống cầu nguyện kết hợp với Thiên Chúa.
(3) Chiên không người chăn sẽ làm mồi cho thú dữ: Người mục-tử tinh thần cần sớm nhận ra và chỉ cho đoàn chiên biết những cám dỗ nguy hiểm và cạm bẫy của cuộc đời: lối sống ích kỷ, hưởng thụ, tôn thờ vật chất, giết hại thai nhi, thay vợ đổi chồng, tự do quá trớn …
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mối liên hệ giữa mục-tử và đoàn chiên đòi hai chiều: Mục-tử cần yêu thương và lo lắng cho đoàn chiên; trong khi đoàn chiên cần vâng lời và giúp đỡ mục tử chu tòan nhiệm vụ.
- Cả hai cần phải thi hành thánh ý của Thiên Chúa sao cho mọi người dều đạt được ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đã chuẩn bị.
- Các họat động tông đồ cần được thăng bằng với đời sống cầu nguyện. Một đời họat động tông đồ không có cầu nguyện sẽ lạc hướng và dễ rơi vào chán chường, thất vọng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Tấm Lòng của Thiên Chúa
- Con người cần trung thành sống theo sự thật
- Hy sinh cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng
- Phải coi trọng những người trong gia tộc
- Sức mạnh của đức tin
- Chúa Giêsu vào Đền Thờ để gặp gỡ dân Người
- Vai trò của ngôn sứ
- Chúng ta phải tin những gì Thiên Chúa nói
- Người công chính sống bởi đức tin
- Chúa Giêsu là trung gian giữa Thiên Chúa và con người