Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần II MC
Bài đọc: Mic 7:14-15, 18-20; Lk 15:1-3, 11-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình thương tha thứ của Thiên Chúa
Khi chúng ta nghe Chúa Giêsu đòi hỏi phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người đã xúc phạm đến chúng ta; nhiều người đã lắc đầu và chép miệng than: Khó quá! Làm sao thực hiện nổi? Chắc chắn Thiên Chúa không đòi con người làm những gì quá sức mình. Để giúp con người làm được điều này, Thiên Chúa ban ơn thánh và mời gọi con người nhìn lại mối liên hệ của họ với Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay giúp con người nhận ra tình thương tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của con người đã xúc phạm đến Ngài. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Micah xin Thiên Chúa nối lại mối liên hệ của Ngài với Israel sau Thời Lưu Đày. Điều này chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được, vì mọi con dân Israel đã xúc phạm đến Ngài. Để thực hiện điều đó, Thiên Chúa phải chà đạp tội lỗi dưới chân hay quăng chúng xuống đáy biển. Trong Phúc Âm, Thánh-sử Luca viết lại cho chúng ta một câu truyện tuyệt vời về tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện và phục hồi quyền làm con, khi một người ăn năn trở lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa nhân từ.
1.1/ Xin Thiên Chúa tiếp tục chăn dắt dân: Những gì Tiên-tri Micah viết trong chương cuối hôm nay giả sử Thời Lưu Đày đã qua, và Thiên Chúa đã có kế họach cho dân Do-Thái trở về để tái thiết Đền Thờ và xây dựng lại quê hương. Tiên-tri ước mơ Thiên Chúa sẽ nối lại tình cha con, như khi họ mới từ Ai-cập vào Đất Hứa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài dùng gậy để chăn dắt dân là đàn chiên, là cơ nghiệp của Ngài, đang biệt cư trong rừng giữa vườn cây ăn trái. Xin đưa họ tới đồng cỏ miền Bashan và Galaat như những ngày thuở xa xưa. Như thời Ngài ra khỏi đất Ai-cập, xin Ngài cho chúng con thấy những kỳ công.”
1.2/ Thiên Chúa không chấp tội của con người: Tiên-tri ý thức sâu xa các tội của dân đã xúc phạm đến Thiên Chúa, và tình thương như trời biển của Ngài dành cho dân. Họ xứng đáng lãnh nhận mọi hình phạt và ngay cả cái chết; nhưng họ còn sống và còn được trở về quê hương là hòan tòan do lòng nhân từ của Thiên Chúa. Tiên-tri Micah tự hỏi: “Thần minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu đựng lỗi lầm, Đấng bỏ qua tội ác cho phần còn sót lại của cơ nghiệp Ngài? Người không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa, Người sẽ lại thương xót chúng ta, tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân. Mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển.”
2/ Phúc Âm: Người Cha nhân hậu
2.1/ Người tội lỗi cần tình thương của Thiên Chúa: Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisees và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." Chúa Giêsu đưa ra 3 dụ ngôn để giúp họ nhận ra tình thương Thiên Chúa, và dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” tuyệt vời hơn cả, vì nó bao hàm tất cả các tiến trình phạm tội, xám hối, trở về, và tình thương tha thứ.
(1) Tội lỗi và tự do: Tội lỗi xảy ra khi con người lạm dụng quyền tự do của mình. Thiên Chúa ban cho con người quyền tự do chọn lựa, và Ngài tôn trọng quyền tự do của con người. Dĩ nhiên Ngài có thể bắt con người làm theo ý Ngài, nhưng làm như thế là mâu thuẫn với chính Ngài, và con người cũng không thỏai mái khi bị bắt làm như thế. Người con thứ cho chúng ta nhìn thấy cách xử dụng tự do không đúng của con người. Người cha để cho con hòan tòan tự do, mặc dù ông rất đau khổ trong lòng, vì ông biết có thể đây là lần cuối được nhìn thấy con.
(2) Tội lỗi và hình phạt: Tự do chọn lựa là phải lãnh nhận hậu quả mang lại. Người biết dùng tự do là người biết cân nhắc kỹ các hậu quả sẽ mang lại của từng lựa chọn. Người con thứ đã không nhìn thấy trước hậu quả của lối sống anh ta đã chọn; và khi hậu quả xảy ra, anh mới biết mình đã lựa chọn không đúng. Vì không có nghề, nên anh phải chăn heo, là một nghề mà người Do-Thái khinh thường. Chưa hết, vì quá đói nên anh ước ao được ăn những đồ heo ăn, mà cũng chẳng ai cho. Danh dự của một con người giờ còn thua cả một con vật nhơ bẩn.
(3) Tội lỗi và xám hối: Đau khổ cần thiết vì nó giúp con người biết phân biệt phải trái; trong đau khổ, con người nhận ra nhu cầu phải ăn năn xám hối. Người con thứ nhận ra mình đã không sống xứng đáng với địa vị làm con, nên muốn xin trở nên như một người làm công để có cơm ăn cho khỏi chết đói. Và anh ta mạnh dạn đứng lên ra về.
(4) Tội lỗi và tha thứ: Có một chi tiết nhỏ, nhưng nhiều người đã nhận ra và viết về nó: Làm sao người cha biết khi nào con trở về mà chạy ra đón con? Có người suy đóan: chắc ngày nào ông cũng ra đón vì thương con. Điều hợp lý hơn có lẽ Chúa Giêsu muốn ám chỉ Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa mới biết những gì xảy ra trong tâm hồn con người. Ngài tha thứ mà chẳng đòi điều kiện nào cả; cũng chẳng cần con kịp nói hết lời. Không những sẵn sàng tha thứ mọi tội mà còn phục hồi quyền làm con qua việc mặc áo đẹp nhất, xỏ nhẫn, mang giầy, và ăn mừng.
2.2/ Con người không thể hiểu được tình thương Thiên Chúa: Tình thương quá tuyệt vời của người cha làm nhiều người bất mãn, trong đó có người anh của người con thứ.
(1) Phản ứng của người anh cả: Khi biết lý do của buổi tiệc, Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ, và cậu được dịp để bày tỏ nỗi tức giận của mình:
- Kể công phục vụ: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè.”
- Từ chối không nhận em mình: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”
(2) Phản ứng của người cha: Ông vẫn bênh vực người con thứ và kiên nhẫn cắt nghĩa cho người con cả: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta khó tha thứ cho kẻ thù và cầu nguyện cho người xúc phạm; vì chúng ta không chịu xét mình để nhìn ra tình thương tha thứ và cách cư xử của Thiên Chúa với chúng ta.
- Một khi chúng ta nhìn ra tình thương tha thứ của Thiên Chúa và cách cư xử của Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng tha thứ cho anh chị em hơn; và nhận ra những gì họ xúc phạm đến chúng ta không thể so sánh với những gì chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa.
- Sau cùng, tất cả chỉ là tình thương. Nếu chúng ta đã nhận được tình thương từ Thiên Chúa, chúng ta cũng phải chia sẻ tình thương cho nhau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP.
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần II MC
Bài đọc: Gen 37:3-4, 12-13ª, 17b-28; Mt 21:33-43, 45-46.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhìn thấy sự quan phòng của Thiên Chúa: nhiều sự tốt lành được thực hiện ngay cả từ những ghen tương, giận ghét của con người. Trong Bài Đọc I, ông Giuse đầu tiên bị các anh bán sang Ai-cập với giá 20 đồng bạc, vì ghen tị em mình được cha thương hơn tất cả mọi anh em. Nhưng trong sự quan phòng của Thiên Chúa, ông đã trở thành Tể-tướng của Ai-cập để chuẩn bị cứu đói và đưa cả gia đình: cha và các anh em qua đòan tụ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra câu truyện vườn nho của Thiên Chúa để ám chỉ sự bạc bẽo của dân và cái chết tương lai của Ngài. Nhưng trong sự quan phòng của Thiên Chúa, “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.” Ngài chính là Tảng Đá đem lại Ơn Cứu Độ, không những cho dân tộc Do-thái, mà còn cho tất cả các dân tộc.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Giuse bị các anh bán sang Ai-cập.
1.1/ Sự ghen tị và ác độc của các anh: Ông Israel có lý do để yêu Giuse hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu; nhưng khi các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn tất cả các anh, thì sinh lòng ghét cậu và không thể nói năng tử tế với cậu. Cơ hội báo thù đến khi cha gởi cậu mang cơm nước cho các anh đang chăn chiên ngòai đồng, và cậu gặp các anh ở Dothan. Họ thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần họ thì họ lập mưu giết chết cậu. Họ bảo nhau: "Thằng tướng chiêm bao đang đến kia! Bây giờ, nào ta giết và ném nó xuống một cái giếng. Ta sẽ nói là một thú dữ đã ăn thịt nó. Rồi ta sẽ thấy các chiêm bao của nó đi tới đâu!"
Giuse có biệt tài về việc giải thích các điềm chiêm bao. Cậu đã từng chiêm bao và giải thích nó cho cha và các anh, vì cậu nói cha và các anh đều quỳ xuống lạy cậu. Chính điều này làm cho các anh càng ghét và gọi cậu là “Thằng tướng chiêm bao.” Khi qua Ai-cập, nhờ giải thích các điềm chiêm bao cho hai ông quan mà cậu được ra khỏi tù; và cho Vua Pharao mà cậu được thăng chức Tể-tướng. Trong Cựu-ước, chiêm bao là cách con người hiểu biết các kế họach kỳ diệu, nhưng ẩn giấu mà Thiên Chúa sắp làm trên con người. Qua những điềm chiêm bao này, Giuse thấu hiểu tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa đã hướng dẫn ông, gia đình, và nhân lọai.
1.2/ Kế họach của con người và sự quan phòng của Thiên Chúa: Các anh muốn giết cậu để thủ tiêu ngay từ đầu, nhưng một người anh là Reuben tìm cách cứu em khỏi tay họ, bằng cách đề nghị ném cậu xuống giếng; và họ đã ném cậu xuống một cái giếng cạn không có nước. Sau đó, khi họ đang ngồi ăn, một người anh khác là Judah đề nghị với các anh em: "Ta giết em và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi gì? Thôi, ta hãy bán nó cho người Ismael, nhưng đừng động tay tới nó, vì nó là em ta, là ruột thịt của ta." Các anh em nghe cậu. Khi thấy những lái buôn người Madian đi qua đó, họ kéo Giuse lên khỏi giếng, rồi bán cậu cho người Ismael hai mươi đồng bạc. Những người này đưa Giuse sang Ai-cập. Anh Judah này là hình ảnh của Tông-đồ Judah sẽ bán Chúa Giêsu 30 đồng bạc. Qua biến cố này, chúng ta nhận ra Thiên Chúa dùng cả tình thương của anh Reuven và lòng tham tiền của anh Judah để cứu Giuse khỏi chết.
2/ Phúc Âm: Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường.
2.1/ Câu truyện Vườn Nho của Tân-ước: Sở dĩ chúng ta gọi như vậy là để phân biệt với câu truyện Vườn Nho của Cựu-ước mà Tiên-tri Isaiah tường thuật (Isa 5:1-7). Chúa Giêsu dùng thể văn lọai suy mà người nghe hiểu ngay Ngài đang muốn ám chỉ ai và về điều gì:
Vườn nho là nhà Israel và gia chủ là chính Thiên Chúa. Các tá điền là những người lãnh đạo trong Israel: tư tế, kinh sư, và biệt phái. Đầy tớ của chủ là các tiên tri qua các thời đại. Điểm khác biệt giữa hai câu truyện Vườn Nho là sự sai đi của Người Con. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: "Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!" Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. Chúa Giêsu muốn đối thọai với khán giả để chính họ ra bản án cho các tá điền:
- “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?"
- Họ đáp: "Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông."
2.2/ Sự quan phòng của Thiên Chúa: Đức Giêsu bảo họ: "Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi.” Câu Kinh Thánh Chúa Giêsu trích dẫn ở đây là Thánh Vịnh 118:22-23. Chúa Giêsu muốn cắt nghĩa cho họ biết Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa đang được thực hiện ngay trong sự ghen ghét và ác độc của các tá điền. Ngài chính là Tảng Đá mà các nhà lãnh đạo Do-Thái sắp giết chết; nhưng chính cái chết của Ngài sẽ đem lại lợi ích cho mọi người: Do-thái cũng như Dân-ngọai. Từ nay, Nước Thiên Chúa không chỉ giới hạn trong dân tộc Do-thái nữa; mà sẽ mở rộng đến mọi dân tộc. Sẽ có những dân tộc biết sinh hoa lợi cho Thiên Chúa nhiều hơn dân tộc Do-thái.
Các Thượng-tế và Biệt-phái hiểu ngay là Người đang nói về họ qua dụ ngôn Người kể. Như là một sự sắp đặt, “Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ.” Họ chưa thi hành kế họach được, vì giờ của Ngài chưa đến. Khi giờ đến, họ sẽ làm theo Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa đã vạch sẵn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đang điều khiển và quan phòng mọi sự xảy ra trong thế giới này. Con người có thể nghĩ họ là người điều khiển, nhưng thực ra họ đang làm những gì đã được xếp đặt trong sự quan phòng của Ngài.
- Dĩ nhiên con người vẫn có tự do để cộng tác hay làm nghịch lại ý của Thiên Chúa; nhưng họ không thể làm cho những gì Thiên Chúa họach định đừng xảy ra. Ngài có thể dùng tất cả những cái tốt cũng như cái xấu của con người để đạt những gì Ngài họach định.
- Sự quan phòng của Thiên Chúa nhiều khi không dễ hiểu; nhưng chúng ta phải tin, vì nếu chúng ta hiểu được mọi sự quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta không còn là người nữa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần II MC
Bài đọc: Jer 17:5-10; Lk 16:19-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tin Thiên Chúa hơn tin người đời.
Nếu một người tin ai hay tin điều gì thì họ sẽ cậy dựa vào điều đó. Ví dụ, nếu một người tin có tiền mua tiên cũng được, họ sẽ ra sức làm sao cho có nhiều tiền; hay nếu một người tin có uy quyền sẽ có tất cả, họ sẽ lo làm sao cho được một địa vị cao trong xã hội. Nhưng nếu một người tin hạnh phúc không lệ thuộc vào những lợi lộc vật chất, họ sẽ đi tìm những giá trị tinh thần qua những lời khôn ngoan của bậc thánh hiền.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc phải tin và cậy dựa vào Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tiên tri Jeremiah đưa ra hai mẫu người với hai niềm tin khác nhau. Tiên tri nói: Phúc thay cho những ai cậy dựa vào Thiên Chúa. Họ như cây trồng bên suối nước, sẽ luôn sinh hoa kết quả và không bao giờ bị khô héo. Nhưng khốn thay cho kẻ tin vào sức phàm nhân, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, và lúc nào cũng như đang sống trong đồng khô cỏ cháy. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đưa ra hai mẫu gương để dạy cho dân một bài học: một người giàu có và Lazarus, người nghèo khó. Người giàu có dùng tiền bạc của mình để sống phung phí trên sự nghèo khó của Lazarus. Khi cả hai chết đi, cuộc sống hai người bị đảo ngược: Lazarus được ngồi trong lòng tổ-phụ Abraham trên trời; trong khi người giàu có phải chịu cực hình trong lửa đời đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải đặt niềm tin nơi nào cho đúng.
1.1/ Hai niềm tin: Tục ngữ Việt Nam có câu: “chọn mặt gởi vàng, chọn người để tin.” Để lập gia đình cũng thế, nếu một người biết lựa chọn kỹ lưỡng người để kết hôn theo những giá trị tinh thần, cuộc sống gia đình tương lai sẽ bền vững; nhưng nếu chỉ “vơ bèo vạt tép,” làm sao có thể ở với nhau suốt đời được? Tương tự như thế trong khi chọn người để ký thác cả phần hồn lẫn phần xác, con người phải lựa chọn giữa Thiên Chúa, phàm nhân, hay của cải vật chất. Khi con người chọn tin vào ai, họ sẽ làm quyết định theo niềm tin của họ. Tiên tri Jeremiah đưa ra hai lựa chọn căn bản và những hậu quả của chúng.
(1) Tin ở người đời: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa! Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người.”
Tiên tri Jeremiah sống trong thời gian lịch sử mà đa số dân tộc Israel, vua cũng như dân, quay lưng lại với Thiên Chúa. Hezekiah, Vua Judah đã chọn tin tưởng nơi Vua Ai-cập hơn là tin tưởng nơi Thiên Chúa. Hậu quả là vương quốc bị rơi vào tay Vua Babylon và tòan dân bị lưu đày. Điều khờ dại nhất của con người là chọn những tạo vật của Thiên Chúa làm ra thay vì chọn chính Đấng đã tạo dựng nên mọi sự. Điều ma quỉ dùng để cám dỗ con người là làm cho con người chỉ chú trọng đến hậu quả hiện tại tạm thời, mà quên đi quá khứ và không cần nhìn đến tương lai.
(2) Tin ở Thiên Chúa: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái.”
Khi một người khôn ngoan sống theo niềm tin của mình, chọn Thiên Chúa là điều quá hiển nhiên, vì Ngài là nguồn gốc mọi sự. Làm sao một người có uy quyền để bảo vệ một người như Thiên Chúa? Thánh Polycarp, khi được quyến dũ để bỏ Thiên Chúa, đã khẳng khái trả lời: “Trong 86 năm tôi đã phục vụ Ngài, Ngài đã không bao giờ gây ra bất kỳ thiệt hại gì cho tôi: Làm sao tôi có thể xúc phạm đến Vua và Đấng Cứu Chuộc của tôi?”
1.2/ Thiên Chúa thấu suốt lòng con người: Tin thế nào sẽ sống như vậy; cuộc sống con người biểu tỏ những gì con người tin. Họ sẽ phải ra trước tòa phán xét để trả lời với Thiên Chúa về cuộc sống của họ. Khi đó, họ không thể nói họ đã tin Thiên Chúa trong lòng hay tuyên xưng Ngài bằng miệng lưỡi được, vì đời sống của họ sẽ là bằng chứng tố cáo họ. Lời tiên tri Jeremiah cũng cảnh cáo những con người hai lòng: “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được? Ta là Đức Chúa, Ta dò xét lòng người, thử thách mọi tâm can. Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tuỳ theo cách nó sống và việc nó làm.”
2/ Phúc Âm: Lazarus tin nơi Thiên Chúa.
2.1/ Ông nhà giàu tin nơi sự giàu có của mình: Chỉ trong ít lời ngắn ngủi, Thánh sử Lucas đã lột tả được sự bất công giữa lòai người: một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người, vừa nghèo khó lại vừa bệnh tật, tên là Lazarus, nằm trước cổng ông nhà giàu. Lazarus thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Cuộc đời sau đảo lộn thứ tự của cuộc đời này. Người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Lazarus trong lòng tổ phụ. Ông kêu cứu: "Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh Lazarus nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”
2.2/ Lazarus tin nơi tình yêu Thiên Chúa: Thiên Chúa dựng nên mọi sự trong trời đất cho mọi người hưởng dùng. Con người không phải là chủ nhân, mà chỉ là những người quản lý của cải của Thiên Chúa. Vì thế, con người không được quyền phung phí của cải trong khi những người nghèo không có của ăn. Nếu họ không san sẻ của cải cho người nghèo, họ sẽ phải nghe những lời như Abraham nói với người giàu có: "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Lazarus suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Lazarus được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.”
2.3/ Bài học cho người còn sống: Sống thế nào sẽ phải lãnh nhận hậu quả như vậy. Nếu chưa biết cách sống, con người phải tìm tòi học hỏi để biết sống, nhất là qua Kinh Thánh. Việc hóan cải đòi nhiều nỗ lực và thời gian, chứ không phải khi muốn là được. Người giàu có xin Abraham sai Lazarus đến nhà để cảnh cáo cho năm người anh em của ông cũng đang sống bất công như vậy, nhưng Abraham đáp: "Nếu Moses và các ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta chỉ có thể lựa chọn một trong hai điều: tin nơi Thiên Chúa hay nơi phàm nhân. Chúng ta không thể làm tôi hai chủ: “cả Thiên Chúa lẫn tiền tài.”
- Tin thế nào sẽ sống thế ấy; cuộc sống là biểu tỏ những gì con người tin. Chúng ta không thể chỉ tin trong lòng hay nơi “chót lưỡi đầu môi.”
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần II MC
Bài đọc: Jer 18:18-20; Mt 20:17-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lãnh đạo bằng phục vụ và chịu đau khổ.
Con người ham quyền hành, chức tước, và địa vị quan trọng trong xã hội; vì khi họ nắm quyền hành, họ sẽ được ra lệnh; khi có chức tước, họ sẽ được mọi người biết tới; và khi làm lớn, họ sẽ được dân chúng hầu hạ. Để đạt được những điều này, nhiều người đã dùng mọi cách để có ưu thế trước, ngay cả việc dùng những thủ đọan để hạ bệ người khác. Điều này được coi là thông thường với các nhà lãnh đạo thế gian, nhưng bị Thiên Chúa ngăn cấm với các nhà lãnh đạo tôn giáo.
Các Bải đọc hôm nay xoay quanh hai cách lãnh đạo khác nhau này. Trong Bài Đọc I, tiên tri Jeremiah khó chịu khi làm việc lành cho dân, đã không được họ biết ơn thì chớ, lại còn bị các nhà lãnh đạo trong dân hội họp nhau, để lập mưu hãm hại ngài. Trong những trường hợp như thế, nhà lãnh đạo tôn giáo dễ nản chí, bỏ cuộc, và ngay cả xin Thiên Chúa báo thù. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu loan báo Cuộc Khổ Nạn sắp tới của Ngài lần thứ ba, người mẹ của hai môn đệ Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho hai con được “một đứa ngồi bên tả và một đứa ngồi bên hữu trong Nước Chúa.” Điều này gây chia rẽ giữa các môn đệ. Chúa Giêsu phải dạy dỗ để các ông hiểu cách lãnh đạo của người môn đệ Chúa: phải phục vụ mọi người và hy sinh chịu gian khổ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lấy óan đền ơn.
1.1/ Người ngôn sứ phải chịu bắt bớ đau khổ: Điều này hiển nhiên, vì họ phải nói những gì Thiên Chúa nói; và những điều Thiên Chúa nói, nhiều khi là những điều con người không thích nghe. Các ngôn sứ giả nói những điều thiên hạ muốn nghe, nên được mọi người yêu thích. Còn Jeremiah, ông phải nói những gì thiên hạ không muốn nghe như loan báo: chiến tranh, phá hủy và lưu đày. Vì thế, không lạ gì mà ông phải chịu đau khổ. Họ nói với nhau: "Hãy đến đây ta cùng nhau bàn mưu tính kế hại Jeremiah. Vì thiếu tư tế, lề luật không chết; thiếu hiền nhân, không thiếu ý kiến; thiếu ngôn sứ, không thiếu lời dạy bảo. Đến đây, ta hãy dùng lời nó mà hại nó, và phải hết sức để ý đến mọi lời nó nói." Họ quên rằng Thiên Chúa là Đấng quan phòng mọi sự xảy ra trong trời đất: họ có thể làm cho Jeremiah chịu đựng đau khổ, nhưng không ngăn cản được những gì Thiên Chúa sắp đổ xuống trên họ.
1.2/ Người ngôn sứ dễ mất kiên nhẫn khi phải đương đầu với bạc bẽo, vong ân: Qua đời sống của các tiên tri, chúng ta học được bài học đau khổ của các ngài: một đàng vì thương dân, không muốn dân phải chịu đau khổ, nên cầu nguyện để xin Thiên Chúa thương xót, và đừng đổ đại họa xuống trên dân; một đàng tức giận vì sự ngoan cố của họ, đã không chịu ăn năn trở lại, mà còn tính kế lập mưu để làm hại những người thương yêu lo lắng cho họ. Tiên tri Jeremiah bày tỏ sự bất mãn của ông với dân lên Thiên Chúa: “Lạy Đức Chúa, xin để ý đến con và nghe những kẻ tố cáo con nói đó. Nào có ai lấy oán đền ơn? Thế mà chúng lại đào hố nhằm làm con mất mạng.
Xin Ngài nhớ cho: con đã từng đứng ra trước nhan Ngài để nói tốt nói hay cho chúng, để ngăn cơn thịnh nộ của Ngài khỏi giáng lên đầu chúng.”
2/ Phúc Âm: Tham quyền và củng cố địa vị.
2.1/ Đấng Thiên Sai phải ngang qua con đường đau khổ: Người Do-Thái, trong đó có các Tông-đồ, và ngay cả chúng ta, không thể nào hiểu nổi thánh ý của Thiên Chúa. Họ và chúng ta không thể nào hiểu nổi tại sao một Thiên Chúa quyền uy không dùng sức mạnh để cứu độ, mà lại chọn con đường gian khổ để cứu độ con người! Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu mặc khải cho các môn đệ ý định của Thiên Chúa, các môn đệ không hiểu và cũng không muốn chấp nhận con đường này. Tại sao Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ?
(1) Ngài muốn gánh hình phạt của cả nhân lọai trên vai: Tiên tri Isaiah đã loan báo trước: “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta … Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Isa 53:4-5).
(2) Con người dễ bị cảm hóa bởi tình yêu hơn lệnh truyền: Trong Cựu Ước, nhiều lần Thiên Chúa truyền qua Lề Luật; nhưng con người vẫn vi phạm. Trong Tân Ước, Thiên Chúa muốn con người nhìn thấy Chúa Giêsu chịu gian khổ, để con người hiểu tình yêu của Ngài dành cho họ; để họ yêu mến Ngài. Khi con người cảm nghiệm được tình yêu, họ sẽ biết sống tốt đẹp.
2.2/ Người mẹ của môn đệ muốn quyền hành cho hai con mình: Điều bà mẹ của Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu cũng dễ hiểu, nếu xét theo tiêu chuẩn con người; vì có bà mẹ nào không muốn con cái mình có một tương lai yên ấm! Hơn nữa, nếu con được yên ấm, mẹ cũng được hưởng nhờ. Chúa Giêsu rất kiên nhẫn cắt nghĩa cho Bà: "Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?" Họ đáp: "Thưa uống nổi." Vì ham muốn chức quyền, nên họ trả lời “Có!” Nhưng nếu hiểu rõ “chén đắng” mà Chúa Giêsu sắp uống là Con Đường Khổ Nạn của Ngài, chưa chắc họ dám trả lời với Ngài như vậy. Các nhà lãnh đạo tinh thần cũng phải noi gương Chúa Giêsu, phải kiên nhẫn cắt nghĩa và làm cho dân chúng hiểu những gì quá sức họ.
2.3/ Mười môn đệ khác tức tối với hai anh em đó: Khó chịu khi thấy người khác hơn mình là điều thường xảy ra cho tất cả mọi người, vì ai cũng muốn làm lớn. Đây cũng là nguyên nhân chính gây nhiều thiệt hại và đổ vỡ trong cộng đòan. Nếu không biết cách sửa chữa kịp thời, cộng đòan sẽ có nguy cơ tan rã. Nhận ra sự nguy hại của điều này, Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: "Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.”
Chúa Giêsu muốn các môn đệ sự khác biệt giữa hai lý tưởng và hai cách lãnh đạo. Lý tưởng khác thì các lãnh đạo cũng phải khác. Lý tưởng của các môn đệ Chúa là đưa mọi người về cho Thiên Chúa, chứ không phải để đạt được uy quyền danh vọng ở đời này; nên cách lãnh đạo của họ cũng phải khác, họ phải phục vụ và hy sinh chịu gian khổ để người khác được cứu độ. Chúa Giêsu dùng chính gương của Ngài để làm ví dụ cho các ông: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lòng ham muốn quyền hành, chức tước, và địa vị, xâm nhập khác nơi; ngay cả trong hàng ngũ lãnh đạo tôn giáo và trong gia đình. Người môn đệ Chúa phải đề phòng những ham muốn này; nếu không, họ sẽ cảm thấy bực tức, khó chịu, và ngay cả bỏ lý tưởng đang theo đuổi.
- Chúa Giêsu truyền: Nhà lãnh đạo tôn giáo phải khác với những nhà lãnh đạo khác, vì mục đích của hai bên khác nhau. Họ phải hy sinh phục vụ và chịu đựng gian khổ để đưa con người về với Chúa, chứ không phải để đạt những lợi lộc vật chất ở đời này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
Thứ Ba Tuần II MC
Bài đọc: Isa 1:10, 16-20; Mt 23:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thực hành đức tin.
Chúng ta thường phán xét con người theo những gì chúng ta thấy bên ngòai, vì chúng ta không thấy được những gì trong tâm hồn họ. Vì thế, chúng ta rất dễ sai lầm trong việc phán đóan và chọn lựa. Đến khi chúng ta phát giác ra đó không phải là con người thật của họ, nhiều lần chúng ta đã phải đau đớn thốt lên: “Thật! không thể nào ngờ được!” Hay, “bề ngòai thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm một bồ dao găm.”
Thiên Chúa phán xét rất khác chúng ta, vì Ngài thấu suốt những gì đang xảy ra trong tâm hồn. Điều nguy hiểm cho chúng ta là vì quá quen với sự phán đóan bên ngòai, nên chúng ta cũng “quen thói đóng kịch” khi đến với Thiên Chúa; và vì thế, chúng ta bị lên án nặng nề.
Các Bài Đọc hôm nay đề phòng chúng ta khỏi những thói quen nguy hiểm này. Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaiah kêu gọi các nhà lãnh đạo của Israel hãy vứt bỏ các tội ác khi đến cầu xin với Thiên Chúa. Nếu muốn Ngài nhận lời cầu xin và chúc phúc, họ phải ăn năn xám hối và thực thi công bình. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khiển trách thái độ giả hình và kiêu ngạo của các kinh-sư và Biệt-phái. Ngài đề phòng các tông đồ đừng bắt chước những hành động của họ và dạy dỗ các ông chú ý đến thái độ khiêm nhường và tinh thần phục vụ bên trong.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy sống thành thật và thực thi công bình.
1.1/ Phải thay đổi cuộc sống: Như đã nói nhiều lần, giao ước của Thiên Chúa với Israel là giao ước có điều kiện. Ngài sẽ bảo vệ dân nếu họ tuân giữ Lề Luật; nếu họ bất tuân không giữ, Ngài sẽ để họ làm mồi cho quân dữ. Các tiên-tri được Thiên Chúa gởi đến để nhắc nhở dân biết xét mình và ăn năn trở lại. Tiên-tri Isaiah đưa ra 3 điểm chính:
(1) Trút bỏ tội ác: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa.” Hai tội chính được nhắc đi nhắc lại nhiều lần bởi các tiên-tri: giả hình khi đến với Thiên Chúa và bất công xã hội.
(2) Xưng thú tội lỗi: Đức Chúa phán: "Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông.” Thiên Chúa không chấp tội con người, nhưng sẵn sàng tha thứ khi con người nhận ra tội lỗi của mình và xám hối; không có tội gì là không thể tha thứ đối với Ngài.
(3) Tập làm điều thiện: “Hãy tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ.” Thiên Chúa bênh vực người cô thân cô thế vì những người này ít khi được bảo vệ bởi xã hội. Những người có quyền thế là những người dễ bị mua chuộc và đối xử bất công với những hạng người này.
1.2/ Hậu quả của hành động: Sống thế nào, phải chịu kết quả như vậy. Tiên-tri Isaiah chỉ nhắc lại những gì Thiên Chúa hứa khi làm giao ước với Moses, bằng cụm từ khác: “Nếu các ngươi chịu nghe lời Ta, các ngươi sẽ được hưởng dùng hoa mầu trong xứ. Còn nếu các ngươi từ chối mà phản nghịch, các ngươi sẽ phải ăn gươm ăn giáo." Nói cách khác, nếu họ vâng lời Thiên Chúa và thực thi công bằng, họ sẽ có hòa bình, đất đai sẽ sinh hoa quả để nuôi dưỡng họ; nếu họ bất tuân, chiến tranh sẽ xảy ra: ngọai xâm hay nội chiến, lúc đó họ sẽ chết vì gươm giáo hay phải lưu đày xa quê hương.
2/ Phúc Âm: Tri hành đồng nhất
2.1/ Người đóng kịch: Tài tử nổi tiếng là người nói hay và diễn xuất giỏi, làm sao để sống như nhân vật trong vở kịch; mặc dù biết đó không phải là con người thật của mình. Ví dụ: người nghệ sĩ có gia đình phải đóng vai linh mục hay thầy tu. Người diễn xuất:
(1) Phải giả vờ, không được sống thật: Họ không được nói những gì họ muốn nói; nhưng phải nói những gì đạo diễn muốn họ nói: nhiều khi muốn nói có nhưng phải nói không, hay ngược lại. Ngòai ra, còn phải diễn xuất sao cho đúng tâm tình của vai họ thủ: đang buồn cũng phải giả vui, hay đang vui cũng phải giả khóc. Họ chỉ có thể sống thật với con người của mình sau khi cánh màn nhung khép lại.
Đức Giêsu nhận ra tính kịch sĩ nơi những người Biệt-phái và Kinh-sư khi họ ăn chay, cầu nguyện, và làm phúc bố thí; nên Ngài đã dạy các môn đệ cách làm những việc lành này cho đúng, mà chúng ta đã nghe trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Hôm nay, Chúa Giêsu đề phòng các môn đệ về tài giảng dạy của họ: "Các Kinh-sư và các người Pharisees ngồi trên toà ông Moses mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.”
(2) Phải hóa trang, không được mang những gì mình thích: Những người đóng kịch sợ người ta biết bộ mặt thật của mình, nên phải đeo mặt nạ; hay phải hóa trang kỹ lưỡng để người xem khỏi nhận ra. Điều nguy hiểm cho những người này là nguy cơ bị tha hóa: đeo mặt nạ riết rồi tưởng là mặt thật của mình, hóa trang đóng kịch mãi rồi thành thói quen. Khi phải trở về sống ở đời thực, họ cũng vẫn đóng kịch như đang trên sân khấu vậy. Chúng ta có thể nhận ra tính thay vợ đổi chồng như thay áo của một số các nghệ sĩ.
Các Biệt-phái và Kinh-sư cũng hành động như các nghệ sĩ. Lề Luật khuyến khích họ phải ăn mặc theo lễ nghi mỗi khi lên Đền Thờ cầu nguyện. Mặc lễ phục mãi rồi trở thành thói quen. Họ nghĩ rằng cứ phải đeo những hộp kinh thật lớn trước trán và mang những tua áo thật dài mới có thể cầu nguyện, hay là thành người đạo đức thánh thiện. Họ quên rằng “chiếc áo không làm nên thầy tu;” và Thiên Chúa muốn họ có tâm hồn ngay thẳng khi cầu nguyện.
2.2/ Sống thật với con người của mình:
(1) Sống khiêm nhường: Con người thích quyền bính, danh vọng, và được phục vụ như các Kinh-sư và Biệt-phái: “Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "Rabbi".” Người môn đệ Chúa Giêsu được kêu gọi để làm ngược lại: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”
(2) Biết Thiên Chúa, biết mình, và biết người: Nói một cách tuyệt đối, chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng được gọi là Thầy, Cha, hay Vị Lãnh Đạo. Tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau. Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng chọn và trao trách nhiệm cho mỗi người: cha mẹ, thầy dạy, người lãnh đạo, tiên tri, tư tế … như chúng ta thấy trong Kinh Thánh. Chính Chúa Giêsu, tuy là Thiên Chúa, cũng chọn để gọi Thánh Giuse và Đức Mẹ là cha mẹ mình. Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây là thái độ khiêm nhường và tinh thần phục vụ khi thi hành bổn phận, chứ không được kiêu ngạo, chú trọng đến danh xưng, và lợi dụng quyền hành.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải sống thành thật với Thiên Chúa, vì chúng ta không thể giấu Ngài bất cứ điều gì. Chúng ta cũng phải sống công bằng và thành thật với nhau, vì không ai muốn bị người khác đánh lừa, và đó cũng là tiêu chuẩn để Thiên Chúa ban ơn và chúc phúc.
- Giáo dục rất cần thiết để trẻ em biết sống thật. Đừng bao giờ dạy dỗ con cái đóng kịch để đánh lừa người khác, vì rất dễ thành thói quen.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần II MC
Bài đọc: Dan 9:4-10; Lk 6:36-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy tha thứ như Thiên Chúa đã tha thứ.
Nhiều người hôm nay đã đánh mất ý thức tội lỗi; và như một hậu quả, họ phải chịu nhiều hình phạt do tội lỗi mang lại cho cá nhân, cho gia đình, cũng như cho xã hội. Hậu quả xảy ra cho cá nhân có thể thấy qua sự nóng nảy, ghen tương, và nghiền ngập đủ lọai. Hậu quả xảy ra cho gia đình có thể nhận ra qua những cãi vã, giận hờn, và chia ly cách biệt. Hậu quả xảy ra cho xã hội có thể nhìn thấy qua những tội ác, nghèo đói, và khủng hỏang kinh tế trầm trọng. Những điều này cho con người thấy tội lỗi không phải chỉ gây thiệt hại cho cá nhân, nhưng gia đình và xã hội cũng phải chịu thiệt hại. Vì thế, mọi người trong xã hội đều có bổn phận khuyên bảo, dạy dỗ, và tạo một môi trường lành mạnh cho các cá nhân được lớn lên trong đó.
Người tín hữu Công Giáo có một bảo vật quí giá để giải quyết những vấn đề này là Bí-tích Giải Tội mà nhiều tín hữu đã không biết lợi dụng. Việc xét mình thường xuyên sẽ giúp cho các cá nhân nhận ra những thói quen xấu và sửa trị kịp thời. Tất cả các mặc cảm tội lỗi được tha thứ khi họ thú nhận tội với vị linh mục nơi tòa Giải-Tội. Xét mình còn giúp cho các cá nhân nhìn ra những yếu đuối và tội lỗi của tha nhân, họ cũng là người yếu đuối và tội lỗi như mình. Nếu mình đã được Thiên Chúa tha thứ tất cả các tội, mình cũng phải tha thứ tất cả cho anh chị em như vậy. Điều này sẽ dẫn tới việc hàn gắn các mối liên hệ trong gia đình cũng như ngòai xã hội.
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra sự quan trọng của việc ăn năn xám hối. Trong Bài Đọc I, tiên tri Daniel nhìn rõ tất cả mọi con dân Israel đã xúc phạm đến Thiên Chúa, và xứng đáng lãnh nhận mọi hình phạt trong nơi lưu đày. Họ đã vi phạm Lề Luật của Thiên Chúa nhiều lần, và quay lưng lại với các tiên tri mà Ngài đã liên tục gởi đến cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa là Đấng nhân từ. Để thực hiện điều này, các môn đệ phải nhận ra lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với chính họ qua việc tha thứ các tội lỗi; trước khi họ có thể tỏ lòng nhân từ với anh em.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời thú tội của tiên tri Daniel
Trong nơi lưu đày, người Do-Thái có nhiều thời gian và cơ hội nhìn lại quá khứ, để tìm hiểu ra lý do họ phải sống cực khổ xa quê hương. Họ là dân riêng của Thiên Chúa, và Ngài hứa sẽ yêu thương và bảo vệ họ nếu họ tuân giữ các Lề Luật Ngài ban qua Moses. Tiên tri Daniel là người sống nơi lưu đày, khi xét mình đã nhận ra hai lỗi lầm lớn của tòan dân như sau:
(1) Tòan dân đã không tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa: TT Daniel thú nhận với Thiên Chúa: “Chúng con đã phạm tội, đã lỗi lầm, đã làm điều gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa các mệnh lệnh, phán quyết của Ngài.” Những tội chính các tiên tri đã tố cáo Israel trước khi bị lưu đày là bất trung, cúi đầu thờ lạy các thần ngọai và quay lưng lại Thiên Chúa; giả hình, dâng lễ vật và cầu nguyện cho qua lần chiếu lệ; bất công, dùng luật lệ để cướp của dân nghèo.
Nhận ra tội lỗi của mình cũng là lúc nhận ra sự công chính của Thiên Chúa: Ngài không vi phạm giao ước Ngài đã ký kết, chính Israel đã xé giao ước này khi phạm tội: “Lạy Chúa Thượng, Chúa là Đấng Công Chính; còn chúng con thì đáng phải hổ mặt hổ mày như ngày hôm nay - chúng con là những người Judah, cư dân thành Jerusalem và toàn thể Israel, những người ở gần cũng như ở xa, trong mọi xứ Ngài đã đuổi đến vì tội bất trung đã phạm chống lại Ngài.”
(2) Tòan dân đã không vâng lời các tiên tri Thiên Chúa gởi đến: Thiên Chúa không sửa phạt các cá nhân hay tòan dân Israel ngay lần đầu sau khi họ phạm tội; nhưng Ngài kiên nhẫn gởi nhiều ngôn sứ tới, miền Nam cũng như miền Bắc, để kêu gọi họ ăn năn xám hối. Không những họ đã không nghe lời, lại còn đối xử tàn tệ với các tiên tri. TT Daniel thú tội: “Chúng con đã không nghe lời các tôi tớ Chúa là các ngôn sứ. Các ngài đã nhân danh Chúa mà nói với vua chúa quan quyền, với cha ông chúng con và toàn dân trong xứ.”
Mặc dù tòan dân đã xúc phạm đến Thiên Chúa, và xứng đáng đón nhận mọi hình phạt Ngài dùng để sửa trị; TT Daniel vẫn tin lòng thương xót của Thiên Chúa lớn hơn các tội phản nghịch của Israel: “Chúa Thượng là Thiên Chúa chúng con có lòng xót thương và hay tha thứ, vì chúng con đã phản nghịch cùng Ngài.” Tiên tri tin tưởng, nếu tòan dân biết ăn năn xám hối, Thiên Chúa sẽ xót thương và tha thứ.
2/ Phúc Âm: Hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.
2.1/ Xét mình và xưng tội thường xuyên giúp con người trở nên nhân từ: Nhân đức là thói quen tốt được dùng để sửa trị tội lỗi, là những thói quen xấu. Để có lòng nhân từ, con người phải qua một tiến trình như sau:
(1) Nhận ra yếu đuối và tội lỗi của mình: Xét mình là việc đầu tiên phải làm để nhận ra tội mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Người không thường xuyên xét mình sẽ không nhận ra tội cần sửa chữa; và vì vậy, họ coi mình tốt lành, và dễ kiêu ngạo để phán xét và lên án tha nhân. Người thường xuyên xét mình dễ nhận ra tội lỗi để thú tội và lãnh nhận ơn tha thứ; đồng thời việc xét mình cũng giúp họ sửa trị kịp thời những thói quen xấu: “năng xét mình, năng chừa” là vậy. Ai cũng biết thói quen xấu để lâu ngày rất khó chừa.
(2) Nhận ra yếu đuối và tội lỗi của tha nhân: Xét mình không chỉ giúp cho sự thăng tiến cá nhân, nhưng còn giúp cho sự thăng tiến gia đình và xã hội. Xét mình giúp con người nhận ra sự yếu đuối của con người: “thánh nhân ngày còn ngã 7 lần;” không ai không có tội. Nếu mình cũng có đầy khuyết điểm tội lỗi, tại sao lại bắt người khác phải tốt lành, thánh thiện, điều không ai có thể làm nổi! Vì thế, con người dễ dàng nhân từ và tha thứ cho tha nhân hơn. Nếu Thiên Chúa đã nhân từ tha thứ cả núi tội của mình, không có lý do gì mình lại giữ những tội nhiều khi quá nhỏ của tha nhân, như Chúa Giêsu cảnh cáo: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.”
2.2/ Ăn ở rộng lượng với mọi người: Nguồn gốc của tình yêu nhân từ và tha thứ đến từ Thiên Chúa. Ngài thương yêu và tha thứ khi con người vẫn còn là tội nhân, và chẳng ra điều kiện gì trước khi tha thứ. Vì thế, khi con người đã được hưởng lòng nhân từ của Thiên Chúa, con người cũng phải đối xử nhân từ với tha nhân như vậy: đừng tha thứ nửa chừng, cũng đừng đòi điều kiện nào cả, như Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhận ra mình là tội nhân giúp chúng ta hai điều: Chúng ta cần được Thiên Chúa tha thứ và chúng ta sẽ dễ dàng thông cảm và tha thứ cho anh chị em hơn. Ngược lại, nếu không nhận ra mình là tội nhân, chúng ta sẽ dễ dàng kiêu ngạo coi mình là hòan thiện; và rất dễ phê bình, xét đóan, kết án, và không tha thứ cho người khác.
- Nếu chúng ta nói chúng ta không có tội, chúng ta biến Thiên Chúa thành kẻ nói dối, và Máu Cực Thánh của Chúa Giêsu đổ ra sẽ không sinh ích lợi cho chúng ta.
- Bí-tích Gỉai-Tội không thể thiếu cho việc thăng tiến cá nhân và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Gia đình nào năng cùng nhau lãnh nhận Bí-tích này sẽ dễ dàng giải quyết các xung đột.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chủ Nhật II Mùa Chay, Năm B
Bài đọc: Gen 22:1-2, 9, 10-13, 15-18; Rom 8:31-34; Mk 9:2-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa hy sinh Người Con Một cho con người.
Tình yêu là quan niệm trừu tượng: con người không thể định nghĩa tình yêu, nhưng có thể cảm nghiệm thế nào là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa còn khó hiểu hơn nữa, vì chúng ta chưa từng thấy Ngài; nhưng chúng ta có thể cảm nghiệm sâu xa tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người mỗi khi ngước nhìn Cây Thập Giá.
Các Bài Đọc hôm nay được sắp xếp rất tài tình để giúp chúng ta cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa qua hai biến cố xảy ra trên Núi Moriah và trên Đồi Golgotha. Trong Bài Đọc I, Sách Sáng Thế Ký tường thuật sự kiện Thiên Chúa muốn thử thách đức tin của ông bằng cách ra lệnh cho ông phải giết Isaac, người con một duy nhất chính Thiên Chúa đã ban cho ông trong lúc tuổi già. Với một niềm tin sắt đá vào Thiên Chúa, ông đã giơ dao sẵn sàng giết con theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô đã so sánh biến cố này với biến cố Tử Nạn của Chúa Giêsu trên Đồi Golgotha, trước khi rút ra kết luận: Nếu Thiên Chúa đã yêu con người đến độ đã hy sinh Người Con Một cho con người, còn gì có thể mà Thiên Chúa không làm cho con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mang 3 môn đệ thân tín lên núi Thabor, cho các ông xem thấy vinh quang của Ngài, để chuẩn bị cho các ông đối diện với Cuộc Thương Khó sắp tới.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tổ-phụ Abraham sẵn sàng hy sinh người con một cho Thiên Chúa.
1.1/ Đức tin của Tổ-phụ Abraham: Đức tin phải chịu thử thách. Trình thuật Sáng Thế Ký hôm nay nói rõ: “Thiên Chúa muốn thử lòng ông Abraham.” Nhưng là một thử thách quá to lớn, vượt quá sức chịu đựng của con người khi Thiên Chúa đòi hỏi: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Moriah mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho.”
(1) Nếu chúng ta là Abraham, chúng ta sẽ phản ứng làm sao trước đòi hỏi của Thiên Chúa:
* Đủ rồi Chúa ơi! Hết cách để thử rồi sao Chúa? Đây là người con một, người con Chúa ban cho trong lúc tuổi già. Nếu Thiên Chúa muốn Isaac như thế, chẳng thà đừng ban!
* Làm sao một người cha có can đảm cầm dao giết đứa con vô cùng yêu quí của mình? Lại là đứa con nối dõi tông đường!
(2) Phản ứng của Abraham: Nếu cứ quanh quẩn với lý luận con người, Abraham sẽ không thể hiểu nổi và chấp nhận đòi hỏi của Thiên Chúa, vì nó quá vô lý; nhưng ông chọn, như bao nhiêu lần đã chọn, để sống theo niềm tin. Thiên Chúa ban cho rồi Thiên Chúa cất đi, xin cho ý Ngài thể hiện. Thiên Chúa cất đi rồi Thiên Chúa lại ban, chẳng có gì không thể đối với Ngài. Vì thế, khi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Isaac con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
1.2/ Vở bi kịch chấm dứt các đột ngột: Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: "Abraham! Abraham!" Ông thưa: "Dạ, con đây!" Người nói: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!"
- Thiên Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn Abraham: Ông thực sự đặt niềm tin trọn vẹn nơi Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa muốn thử ông, nên khi thấy ông đã chứng tỏ niềm tin, Thiên Chúa không cần phải nhìn thêm điều gì nữa.
- Tổ-phụ Abraham dâng của lễ thay cho con mình là Isaac: “Ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Abraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.”
1.3/ Phần thưởng Đức Chúa hứa ban cho Tổ-phụ Abraham: Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và nói: "Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi:
(1) Giòng dõi đông đúc: Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển.
(2) Đất Hứa: Giòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch.
(3) Và một dân tộc được tuyển chọn: Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa đã hy sinh Người Con Một cho con người.
2.1/ So sánh tình yêu của Thiên Chúa với tình yêu của Tổ-phụ Abraham: Biến cố xảy ra trên Núi Moriah chỉ là hình bóng và sự chuẩn bị để con người hiểu được biến cố xảy ra trên Đồi Golgotha. Có nhiều điểm giống nhau và khác nhau giữa hai biến cố này:
(1) Cả hai người cha đều sẵn sàng hy sinh Người Con Một, người con yêu quí nhất. Nếu chúng ta hiểu được tình cha con giữa Abraham và Isaac, chúng ta cảm nghiệm được phần nào tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, biến cố Abraham-Isaac là để chuẩn bị tâm hồn chúng ta cho biến cố Chúa Giêsu, để chúng ta cảm nhận được phần nào tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
(2) Một sự khác biệt vô cùng lớn lao giữa hai biến cố: Trong biến cố Cựu Ước, Isaac không chết, con cừu đực được giết làm của lễ tòan thiêu chết thay cho con trẻ. Trong biến cố Tân Ước, Chúa Giêsu đã chết thực sự thay cho con người bằng cái chết tủi nhục và đau đớn hơn nhiều. Nếu chúng ta đã từng bất bình khi Thiên Chúa đòi Abraham sát tế con mình, chúng ta có thể hiểu nổi tình thương Thiên Chúa dành cho con người không? Thiên Chúa, chúng ta chưa từng xem thấy; nhưng khi nhìn thấy Chúa Giêsu chết treo trên Thập Giá, chúng ta cảm nhận được tình yêu quá lớn lao Ngài dành cho con người.
2.2/ Thiên Chúa không kết án con người: Thánh Phaolô giúp chúng ta rút ra một số kết luận từ biến cố này: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?”
Thiên Chúa không muốn kết án con người, con người kết án chính mình bằng cách dửng dưng hay quay lưng lại với tình yêu Thiên Chúa: “Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?”
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu biến hình để chuẩn bị tâm hồn cho các Tông-đồ.
3.1/ Mục đích của việc Biến Hình: Chúa Giêsu cho các Tông-đồ nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa là để dạy cho các ông bài học: phải qua đau khổ mới đạt tới vinh quang. Ngài chuẩn bị cho các Tông-đồ trước Cuộc Thương Khó sắp tới; để khi các ông phải đương đầu với Cuộc Thương Khó, các ông có sức mạnh để chịu đựng và vượt qua.
3.2/ Chúa Giêsu mặc khải cho các Tông-đồ nhiều điều: Có nhiều điều Chúa Giêsu muốn mặc khải cho các Tông-đồ qua việc Biến Hình này, nhưng không được trình bày cách rõ ràng:
(1) Ngài chính là Con Thiên Chúa: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
Đây là lần thứ hai Thiên Chúa Cha nói những lời này; lần thứ nhất trong biến cố Chúa chịu Phép Rửa tại sông Jordan trước khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng. Lần này trước khi Chúa Giêsu bắt đầu Cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Mục đích là để các Tông-đồ xác tín mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con.
(2) Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà Luật và các tiên-tri loan báo: Sự có mặt của hai chứng nhân: ông Elijah đại diện cho các tiên tri, cùng ông Moses đại diện cho Luật, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu, chứng tỏ điều này.
(3) Đấng Thiên Sai tự nguyện chọn con đường Thập Giá: Câu hỏi của các môn đệ ở cuối trình thuật: "từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?” chứng tỏ các ông biết họ đàm đạo về Cuộc Thương Khó sắp xảy ra cho Chúa Giêsu tại Jerusalem. Trình thuật Biến Hình của Luca nói rõ điều này.
(4) Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người: Đây là điểm cao của việc Biến Hình, mặc dù trình thuật không đề cập tới. Khi cho Con của Ngài đi qua Cuộc Thương Khó để cứu chuộc con người, Thiên Chúa muốn các ông hiểu tình yêu của Ngài dành cho con người.
(5) Chúa Giêsu tự nguyện đi qua Cuộc Thương Khó: Các ông đã nghe chính Ngài bàn với các chứng nhân Cựu Ước về những gì sắp xảy ra; để khi nó thực sự xảy ra, các ông biết đó không phải là chuyện tình cờ. Ngài tình nguyện chấp nhận chịu đau khổ, chứ không phải Ngài thua cuộc trước bạo lực của con người.
3.3/ Tại sao Chúa Giêsu ngăn cấm các ông kể lại việc Biến Hình:
- Bí mật của Đấng Thiên Sai: Có những việc chỉ cần cho một số người biết, nếu không sẽ gây hoang mang. Có những việc chỉ được tiết lộ khi thời gian đã chín mùi. Chúa chỉ tỏ việc Biến Hình cho ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê, và Gioan. Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa cho Người Con Một là cho chính Ngài. Ngài cũng mong chúng ta phải cho chính người con một của chúng ta, tức là cho chính chúng ta, như Abraham vậy. Tình yêu trọn vẹn là như thế. Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Ngài qua hai biến cố: chuẩn bị tâm hồn con người qua biến cố Abraham-Isaac, và cảm nghiệm rõ ràng qua Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.
- Chúng ta không thể hiểu sự thử thách của Thiên Chúa dành cho Abraham, và càng không thể hiểu nổi tại sao Thiên Chúa lại hy sinh Người Con Một của Ngài. Điều này giúp chúng ta những lúc không thể hiểu tại sao Thiên Chúa để đau khổ xảy ra, chúng ta biết tin tưởng vào Ngài như Abraham.
- Đức tin phải được tôi luyện trong thử thách và đau khổ. Đàng sau Cuộc Thương Khó và Thập Giá là vinh quang Phục Sinh. Nếu chúng ta từ chối đau khổ và Thập Giá, chúng ta cũng từ chối con đường dẫn tới vinh quang Phục Sinh.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần I MC
Bài đọc: Deut 26:16-19; Mt 5:43-48.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trở nên hòan thiện bằng yêu thương kẻ thù.
Tự do chọn lựa là hành động căn bản nhất của con người và được làm hằng ngày. Khi phải chọn lựa, con người thường dựa trên một số tiêu chuẩn căn bản như: mục đích, tiện lợi, dễ dàng, bền, rẻ, đẹp … Ví dụ, khi con người chọn những nhà lãnh đạo để điều khiển quốc gia, thành phố, đòan thể, họ thường lựa chọn những cá nhân có khả năng hơn người thường, để có thể chu tòan sứ vụ được trao phó.
Thiên Chúa, Đấng dựng nên tất cả, cũng chọn lựa dân tộc và các cá nhân để thi hành thánh ý của Ngài. Lịch sử của Cựu Ước cũng như Tân Ước thể hiện đầy đủ những sự lựa chọn của Thiên Chúa: chọn Israel, Abraham, Moses, Aaron, Joshua, Vua Saul, các tiên-tri, Chúa Giêsu … Các Bài Đọc hôm nay nhấn mạnh đến lý do tại sao Thiên Chúa chọn dân tộc hay nhóm người. Trong Bài Đọc I, tác giả đưa ra lý do tại sao Thiên Chúa chọn dân tộc Israel là dân tộc riêng của Ngài: để tuân giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho họ, vì các môn đệ được kêu gọi để trở nên hòan thiện như Cha trên trời là Đấng hòan thiện.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải hết lòng tuân giữ và đem ra thực hành các thánh chỉ, mệnh lệnh của Chúa.
1.1/ Israel là dân tộc được Thiên Chúa chọn: Một trong những điều chính yếu Sách Đệ Nhị Luật muốn nhấn mạnh tới là Thiên Chúa chọn Israel. Đức Chúa tuyên bố rằng Người sẽ là Thiên Chúa của anh em, và anh em sẽ là dân thuộc quyền sở hữu của Người. Anh em sẽ là một dân tộc thánh hiến cho Đức Chúa. Tại sao Thiên Chúa chọn Israel trong bao nhiêu những dân tộc khác? Thiên Chúa chọn dân tộc Do-Thái vì họ là con cái của tổ-phụ Abraham. Thiên Chúa chọn và chúc lành cho giòng dõi Abraham, vì Tổ phụ hết lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa và bước đi trong đường lối của Ngài.
1.2/ Dân tộc được chọn phải khác với các dân tộc khác: Vì Israel là dân tộc được chọn, nên họ phải phản ánh sự thánh thiện của Thiên Chúa. Tác giả Sách Đệ Nhị Luật liệt kê bổn phận và quyền lợi của dân tộc Israel:
(1) Bổn phận: “Anh em phải đem ra thực hành các thánh chỉ và quyết định này. Anh em phải hết lòng hết dạ tuân giữ và đem ra thực hành các điều ấy.”
(2) Quyền lợi: “Thiên Chúa sẽ cho anh em vượt mọi dân tộc Người đã tạo dựng, xét về vinh dự, danh tiếng, và vinh quang.”
Sự lựa chọn của Thiên Chúa là lựa chọn có điều kiện: Ngài lựa chọn dân tộc Israel để thi hành ý muốn của Ngài. Một cách cụ thể qua Giao Ước Sinai với Moses: Nếu họ giữ các giới luật của Thiên Chúa, họ sẽ là dân riêng của Ngài, và được Ngài che chở và gìn giữ. Nếu không, Thiên Chúa sẽ không nhận và không bảo vệ họ nữa. Các tiên tri của Cựu Ước đã nhiều lần nhắc nhở dân về sự bất trung của họ và cơn giận của Thiên Chúa.
- Amos: Tôi thấy Chúa Thượng đứng bên cạnh bàn thờ. Người phán: "Đập vào đầu trụ cho khung cửa lung lay! Phá khung cửa cho vỡ tan trên đầu cả bọn! Những đứa còn sót lại, Ta sẽ giết bằng gươm. Trong bọn chúng, không một tên trốn nổi, trong bọn chúng, không một đứa thoát thân” (9:1).
- Hosea: “Khốn cho chúng vì chúng đã lìa bỏ Ta. Chúng sẽ bị tiêu diệt, vì đã dám xúc phạm đến Ta. Ta, Ta muốn giải cứu chúng, còn chúng lại nói lời gian dối phạm đến Ta” (7:13).
2/ Phúc Âm: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.
2.1/ Hãy yêu thương kẻ thù: Chúa Giêsu biết rõ những gì Luật dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù.” Nhưng Ngài dạy các môn đệ: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” Ngài biết con người không dễ để yêu kẻ thù; nhưng con người có thể làm được chuyện đó nếu họ được thấm nhuần tình yêu Thiên Chúa.
- Điểm đầu tiên chúng ta cần chú ý là động từ “yêu,” đặc biệt dùng ở đây là avgapa,w. Động từ này chỉ được dùng trong khuôn khổ của Kitô Giáo. Hai động từ yêu khác trong tiếng Hy-Lạp là ejréevw và file,w. Con người phải thấm nhuần tình yêu Thiên Chúa trước: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy” (Jn 15:4). Sau khi thấm nhuần tình yêu Thiên Chúa, họ có thể yêu kẻ thù bằng tình yêu này: “Như Thầy yêu anh em thế nào, anh em cũng hãy yêu thương nhau như vậy” (Jn 13:34).
- Cầu nguyện cho kẻ thù là cách tốt nhất để tha thứ và bắt đầu yêu thương họ. Nếu không cầu nguyện cho họ, cũng không thể tha thứ. Chúa Giêsu không chỉ dạy, nhưng Người đã làm gương cho môn đệ, khi cầu xin cho những người đã bách hại Ngài trên Thập Giá: “Lạy Cha! Xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lk 23:34). Thánh Stephanô, tử đạo tiên khởi, cũng bắt chước gương Chúa Giêsu: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này" (Acts 7:60).
2.2/ Lý do tại sao phải yêu kẻ thù: Chúa Giêsu đưa ra 2 lý do:
(1) Anh em là con Thiên Chúa: “Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh.” Chúa yêu thương mọi người, vì mọi người đều là con cái của Ngài: “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.” Chúng ta yêu thương mọi người, vì mọi người đều là anh chị em chúng ta. Hơn nữa,
- Anh em phải khác người thu thuế: “Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?”
- Anh em phải khác người ngọai đạo: “Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?”
(2) Được kêu gọi để trở nên hòan thiện: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” Trở nên hòan thiện đòi một luật sống khác với người thường; nếu không chúng ta cũng chỉ là người tầm thường như họ. Nhưng nếu họ nhìn thấy nơi chúng ta một lối sống không tầm thường, họ có thể nhận ra chúng ta là con cái Thiên Chúa: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta là những người được chọn để sống cho Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta phải sống theo lối sống của Thiên Chúa đề ra.
- Một trong những đòi hỏi của lối sống môn đệ Chúa là phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người bách hại chúng ta. Từ chối không thi hành điều Chúa Giêsu dạy cũng đồng nghĩa với việc từ chối làm môn đệ Chúa.
- Để có thể thực hiện điều khó khăn này, chúng ta phải được thấm nhuần tình yêu của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần I MC
Bài đọc: Eze 18:21-28; Mt 5:20-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống trung thành yêu thương suốt cả đời.
Chúng ta thường chú trọng đến những cuộc trở lại, từ xấu thành tốt; và dường như không để ý đến những cuộc đời từ tốt thành xấu như cuộc đời của Judah Iscarioth. Trong thực tế, cả hai đều có thể xảy ra; và trường hợp thứ hai có thể xảy ra thường xuyên hơn trường hợp thứ nhất, đặc biệt trong đời sống gia đình. Ví dụ, khi chưa thành vợ chồng, cả hai người dường như ít khuyết điểm và đối xử với nhau yêu thương tử tế hơn.
Các Bài Đọc hôm nay nhắc nhở cho chúng ta biết cả hai cuộc trở lại đều có thể xảy ra, nếu chúng ta không cẩn thận xét mình. Trong Bài Đọc I, tiên tri Ezekiel nhấn mạnh đến cả lòng nhân từ lẫn sự công bằng của Thiên Chúa. Vì lòng nhân từ, Ngài không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống. Vì sự công bằng, Ngài phải luận phạt nếu người công chính bỏ đàng ngay thẳng để làm điều bất chính. Mỗi người có cả một cuộc đời để luyện tập trước khi Thiên Chúa xét xử con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đòi các môn đệ phải sống công chính hơn các kinh sư: không phải chỉ tránh giết người phần xác, nhưng phải tránh cả giận hờn, la mắng, chửi rủa; vì những hành động này làm tổn thương danh dự của họ và đưa đến những thiệt hại phần hồn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa nhân từ và công bằng.
1.1/ Đường lối xét xử của Thiên Chúa: Thiên Chúa không xét xử con người mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm; nhưng cho con người có cơ hội cả một đời, trước khi phán xét con người. Tiêu chuẩn phán xét dưới đây có lẽ áp dụng cho Ngày Phán Xét.
(1) Kẻ gian ác ăn năn trở lại sẽ được sống: Điều nổi bật trong Sách Tiên Tri Ezekiel là lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa, được tóm gọn trong câu: “Chẳng lẽ Ta lại vui thích vì kẻ gian ác phải chết - sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng - Ta lại không muốn cho nó từ bỏ đường lối của nó mà được sống sao?” Vì thế, Ngài sẽ không ngừng gởi tới cơ hội và kêu gọi kẻ gian ác trở lại để được sống. Ngài hứa: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ mọi tội lỗi mình đã phạm mà tuân giữ mọi quy tắc của Ta, cùng thi hành điều chính trực công minh, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết. Mọi tội phản nghịch nó phạm, người ta sẽ không còn nhớ đến; nó sẽ được sống vì đã thi hành lẽ công minh.”
(2) Người công chính từ bỏ đường ngay sẽ bị luận phạt: Thiên Chúa nhân từ nhưng cũng công bằng. Ngài kêu gọi kẻ tội lỗi ăn năn, và ban ơn gìn giữ người ngay lành đừng phạm tội. Tuy nhiên, Ngài cũng báo trước: “Nếu người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình mà theo đòi kẻ gian ác làm mọi điều ghê tởm: nó làm thế mà được sống sao? Tất cả những việc công chính nó đã làm sẽ không còn được nhắc đến; vì tội bất trung và tội lỗi nó đã phạm, nó sẽ phải chết.”
1.2/ Lý luận của con người: Đứng trước cách phán xét của Thiên Chúa, nhiều người sẽ nói: "Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng." Thiên Chúa trả lời: “Vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng?”
- Lý luận của con người: Chẳng lẽ chỉ vì phạm một tội cuối đời mà người công chính phải hư mất? Nếu Thiên Chúa công bằng, Ngài phải bỏ tội và phúc lên cân xem bên nào nặng hơn. Nếu bên tội nặng hơn, phải chịu hình phạt; nếu bên phúc nặng hơn, cần được thưởng.
- Trả lời: Tội và phúc không phải như đồ vật có thể cân được; nhiều khi một tội xem ra nhẹ, nhưng gây hậu quả nặng nề; và ngược lại. Hơn nữa, tội rất hay lây. Nếu một con vi trùng ung thư có thể làm thiệt hại mạng sống, tội còn gây hậu quả nặng nề hơn thế nữa. Ví dụ, trường hợp ngọai tình của Vua David: không những gây thiệt hại mạng sống cho Uriah, cho đứa con đầu lòng, cho Amnon và Absalom; mà còn để lại những vết thương lòng cho chính Vua David, Bà Bathsebah, và con gái Tamar. Đấy là chưa kể làm gương mù cho nhiều người và xáo trộn tình hình chính trị cả nước. Thiên Chúa là Đấng xét xử công minh, Ngài sẽ thưởng phạt chúng ta công bằng. Chúng ta không biết được hậu quả của tội; điều hay nhất là tránh mọi tội.
2/ Phúc Âm: Môn đệ Chúa phải sống công chính hơn các Kinh-sư và Biệt-phái.
2.1/ Giết người không chỉ giết về phần xác: Nhiều người khi xét tới điều răn thứ năm, thứ chín, và thứ mười, họ thấy mình không có tội, vì chưa bao giờ giết người, ngọai tình, và lấy của người khác. Nhưng Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta phải xét mình cẩn thận hơn. Có những người muốn giết người, ngọai tình trong tư tưởng, và ham muốn của người; những tư tưởng như thế đã đủ làm con người phạm tội. Về việc giết người, Chúa nhấn mạnh đến 3 điểm sau:
- Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Có hai động từ “giận” trong Hy-lạp: (1)qumomace,wcó nghĩa “tức giận,” nhưng xong rồi thôi. Cơn giận nổi lên như lửa gần rơm, nhưng rồi cũng mau chóng nguội. (2) ovrgi,zomaichỉ sự giận âm ỉ, hờn giận. Cái giận thứ nhất có thể tha thứ vì thuộc bản năng con người; cái giận thứ hai đáng bị luận tội hay bị đưa ra tòa xét xử, vì là cái giận giai dẳng và từ chối không tha thứ, dù trí khôn đã cho biết phải bỏ qua. Cái giận mà có người nói “sống để trong lòng, chết mang theo.” Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu thơ lột tả được cái giận này: “Giết nhau chẳng cái lư cầu. Giết nhau bằng cái âu sầu độc chưa.”
- Ai mắng anh em mình là đồ ngu ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. ~Raka, có nghĩa người không có trí khôn, không biết suy xét; nó là tiếng khinh thường tha nhân. Con người thường rất tức giận khi nghe ai mắng mình là “đồ ngu ngốc.”
- Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Mwre, có nghĩa là người hành động như người điên rồ về phương diện luân lý. Thánh Vịnh 14, câu 1 nói “Kẻ ngu si tự nhủ: "Làm chi có Chúa Trời!" Chúng đã ra hư đốn, làm những điều ghê tởm, chẳng có một ai làm điều thiện.” Gọi ai Mwre, có nghĩa khinh thường họ có một cuộc đời vô luân, làm đĩ làm điếm, không xứng đáng với người có đạo. Tội làm mất danh giá người khác qua việc nói xấu, nói hành là tội nặng, và xứng đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.
2.2/ Phải hòa thuận trước khi rước Mình Thánh Chúa: Luật Cựu Ước đòi phải dâng lễ vật để đền tội đã phạm đến Thiên Chúa và con người. Vì thế, Chúa Giêsu nói: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” Nếu không giao hòa và tha thứ cho anh em, làm sao con người có thể dâng lễ vật để xin Thiên Chúa tha thứ tội của mình. Tương tự khi con người lên rước lễ, nếu còn đang có chuyện bất bình với tha nhân, làm sao họ có thể kết hợp và xin sự tha thứ của Thiên Chúa?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mỗi người chúng ta đều có thể từ xấu trở nên tốt, và từ tốt trở nên xấu. Nếu Thiên Chúa nhân từ không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn xám hối để được sống; Ngài cũng công bằng xét xử, nếu người công chính bỏ đàng tốt lành để theo đàng tội lỗi.
- Để trung thành theo đàng công chính, con người cần hiểu biết và sống theo những điều Chúa dạy; nhất là phải tuyệt đối sợ và tránh xa tội.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần I MC
Bài đọc: Est 4:17 (C: 12:14-16, 23-25); Mt 7:7-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cứ xin sẽ được.
Con người có nhiều nhu cầu: tinh thần cũng như vật chất. Một trong những điều chúng ta làm khi cầu nguyện là xin ơn cho bản thân, gia đình, và xã hội cũng như Giáo Hội. Điều Thiên Chúa muốn khi chúng ta xin ơn là phải vững tin Ngài sẽ làm chuyện tốt lành đó; nhất là khi đối diện với hòan cảnh tuyệt vọng, con người không còn biết trông cậy vào ai ngọai trừ Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc xin ơn. Trong Bài Đọc I, khi phải đương đầu với thảm họa tòan dân bị tru diệt, hòang hậu Esther đã chạy đến và cầu nguyện với Thiên Chúa: “Thần dân Ngài, xin Ngài giải thoát. Con cô đơn, xin đến cứu giúp con. Lạy Chúa, ngoài Ngài ra, con đâu còn ai nữa!” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu bảo đảm cho các môn đệ: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hoàng hậu Esther xin Đức Chúa cứu dân khỏi đại họa.
1.1/ Nỗi lo âu kinh hòang của hòang hậu Esther: Bà là một người Do-Thái, nhưng được tuyển chọn làm hòang hậu Ba Tư thay cho Bà Vatti, khi Bà này bị thất sủng vì bất tuân lệnh ra trình diện Vua Ahasuerus. Chú của Bà, ông Mordecai cũng làm quan trong triều, ra lệnh cho Bà phải giấu kín tông tích của mình. Tể Tướng Hannah tức giận với Mordecai, vì ông không chịu sấp mình bái lạy khi ông đi qua - lý do là vì Mordecai chỉ bái lạy một mình Thiên Chúa - nên Tể Tướng âm mưu xin cho được dấu ấn của Nhà Vua để sát hại tòan bộ dân Do-Thái trong vùng.
Bà được chú Mordecai cho biết âm mưu của quan Tể Tướng Hannah, đã xin được dấu Phủ Việt của Vua Ahasuerus để tru diệt tòan bộ người Do-Thái. Mordecai muốn Bà can thiệp để xin tha cho dân, nhưng Bà không biết phải hành động làm sao; vì nếu Bà tự ý vào gặp Vua, Bà sẽ bị tử hình. Nhưng nếu không làm gì, chú Bà và tòan dân sẽ bị tru diệt; và như lời chú Bà cảnh cáo: chưa chắc Bà sẽ được sống an tòan với con sư tử Ahasuerus và Tể Tướng Hannah.
Hoàng hậu Esther khắc khoải âu lo đến chết được, liền tìm đến nương ẩn bên Chúa. Tâm hồn sầu khổ, bà cởi bỏ y phục lộng lẫy, mặc áo tang vào. Thay cho dầu thơm quý giá, bà lấy bụi tro dơ bẩn rắc lên đầu; bà hãm mình phạt xác nhiệm nhặt; thay vì trang điểm trau chuốt, bà để cho tóc xoã rối bời. Bà cầu xin cùng Chúa, Thiên Chúa của Israel: "Lạy Chúa của con, lạy Vua chúng con, Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Này con đang liều mạng, xin đến cứu giúp con. Con cô đơn, chẳng còn ai cứu giúp, ngoại trừ Ngài.”
1.2/ Nhớ lại lịch sử để củng cố niềm tin:
(1) Israel là dân riêng của Thiên Chúa: Tuy hòang hậu sinh ra nơi đất khách quê người, và vì hòan cảnh nước mất nhà tan phải ở với chú; nhưng chú Modercai là người biết kính sợ Thiên Chúa, nên đã dạy Bà về lịch sử của Do-Thái và sự liên hệ giữa Thiên Chúa và dân tộc Israel. Bà thưa với Chúa: “Lạy Chúa, trong chi tộc của cha ông, từ khi lọt lòng mẹ, con từng được nghe biết là chính Ngài đã chọn Israel giữa muôn ngàn dân tộc, đã tuyển chọn cha ông chúng con giữa mọi bậc tiền bối của các ngài để làm thành gia nghiệp mãi mãi thuộc về Ngài. Ngài thực hiện cho cha ông chúng con mọi điều Ngài đã hứa.”
(2) Cầu xin Thiên Chúa soi sáng: Cầu nguyện là xin ơn khôn ngoan để biết cách giải quyết vấn đề. Tuy Thiên Chúa có thể làm mọi sự mà không cần sự cộng tác của con người; nhưng Ngài muốn con người cộng tác trong kế họach giải thóat của Ngài. Như chúng ta thấy trong trình thuật khi Bà gặp Vua Ahasuerus, Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể làm việc và đổi tâm tính của con người từ bên trong; nhưng hòang hậu Esther phải có can đảm thực thi kế họach từ bên ngòai. Ý thức sự yếu đuối của nữ nhi, Bà xin ơn khôn ngoan và can đảm để thực hiện kế họach: “Lạy Chúa, ngày chúng con gặp gian truân cùng khốn, xin nhớ đến chúng con mà chứng tỏ quyền năng của Ngài. Lạy Vua các thần minh, Đấng thống trị mọi kẻ cầm quyền, xin ban cho con lòng dũng cảm, và dạy con biết nói lời êm tai khi phải ra trước mặt loài sư tử. Xin đổi lòng con sư tử ấy để nó căm thù kẻ chống lại chúng con, khiến cho hắn và quân đồng loã phải tiêu diệt hoàn toàn.”
2/ Phúc Âm: Thiên Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người.
2.1/ Lời hứa vững vàng của Thiên Chúa với con người: Chúa Giêsu dạy các môn đệ: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho.” Lý do đơn giản Chúa Giêsu đưa ra: vì Thiên Chúa là cha của mọi người. Đã là Cha, phải quan tâm đến nhu cầu của con cái.
(1) Cha dưới đất: Để làm sáng tỏ vấn đề, Chúa Giêsu đưa ra ví dụ của người cha dưới đất: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” Chẳng có người cha lành mạnh nào dưới đất dám làm chuyện đó.
(2) Cha trên trời: Ngài kết luận: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” Thiên Chúa không những là Cha Tốt Lành, Ngài còn có uy quyền làm mọi sự; việc Ngài ban điều con cái xin là chuyện hiển nhiên.
Nhưng có phải con người xin bất cứ điều gì Thiên Chúa cũng ban? Điều Thiên Chúa hứa ở đây là phải xin điều tốt lành, chứ không phải xin bất cứ điều gì. Thiên Chúa luôn biết điều gì tốt cho con người vì Ngài biết quá khứ, hiện tại, và tương lai; con người không luôn biết điều gì tốt cho mình, vì con người dễ quên quá khứ, không luôn biết hiện tại, và mù tịt về tương lai. Đó là lý do tại sao chúng ta luôn khôn ngoan thêm câu “nếu điều đó đẹp ý Chúa” sau khi cầu xin.
2.3/ Làm điều tốt cho mọi người: Làm con phải giống cha vì “con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh.” Nếu Cha luôn ban mọi ơn lành cho con, con cũng phải rộng tay ban ơn lành cho mọi người. Chúa Giêsu cũng dạy các môn đệ: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Moses và lời các ngôn sứ là thế đó.”
Lý do tại sao chúng ta không rộng tay làm phúc vì chúng ta sợ nếu cứ rộng tay ban ơn, có ngày sẽ hết của để cho; nhưng nếu chúng ta vững tin những gì Thiên Chúa hứa, chúng ta sẽ không bao giờ sợ hết của: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho.” Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên trời đất và mọi sự trong đó, Ngài không bao giờ hết của để cho. Bàn tay chúng ta quá bé nhỏ để phân phát tình thương của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Cha của chúng ta không phải là con người tầm thường; Ngài là Thiên Chúa, Đấng dựng nên và điều khiển muôn vật.
- Ngài là Cha giàu lòng thương xót và hứa gì có nấy. Chúng ta hãy tin tưởng những gì Ngài hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho.”
- Chúng ta nên cầu nguyện với Thiên Chúa hằng ngày, hằng giờ; nhất là những lúc phải đương đầu với cô đơn và tuyệt vọng, như trường hợp của hòang hậu Esther và trường hợp của Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Ai cũng có thể ăn năn trở lại
- Thực hành ý Thiên Chúa
- Yêu người là tiêu chuẩn Thiên Chúa
- Thiên Chúa thực hiện mọi sự tốt đẹp qua Đức Kitô
- Lòng thương xót quan trọng hơn việc giữ Luật
- Lý do của việc ăn chay
- Thế nào gọi là sống?
- Đừng xé áo nhưng hãy xé lòng
- Lòng thương xót của Thiên Chúa và tội lỗi của con người
- Cần sống đức tin trong cuộc đời