Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
ÂN SỦNG & LÒNG TIN
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY NĂM B (15/03/2015)
[2 Sb 36,14-16.19-23; Ep 2,4-10; Ga 3,14-21]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Thánh Au-gus-ti-nô đã có một câu nói trứ danh đại khái như thế này: “Thiên Chúa dựng nên con thì chẳng cần con, nhưng Thiên Chúa lại cần con khi muốn cứu con.” Câu nói ấy chứa đựng một chân lý ngàn đời của Ki-tô giáo: “Ân sủng và lòng tin” là hai yếu tố vô cùng quan trọng trong đời sống Đức Tin và Ơn Cứu Rồi. Đó cũng chính là ý nghĩa của ba bài Thánh Kinh mà Mẹ Hội Thánh cho chúng ta đọc trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm B này.
Ân sủng và lòng tin là hai yếu tố thiết yếu tạo nên Ơn Cứu Độ. Không có Ân sủng, không có Ơn Cứu Độ. Nhưng không có lòng tin cũng không có Ơn Cứu Độ. Ân sủng là của Thiên Chúa, Người ban cho con người “một cách nhưng không”. Lòng tin là sự đáp trả hay phần đóng góp của con người, nhưng cũng do tác động của ân sủng. Thật là sự hợp tác kỳ diệu và tuyệt vời giữa Đấng Tạo Hóa và con người tạo vật trong việc đem hạnh phúc thật đến cho loài người là chúng ta!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc (2 Sb 36,14-16.19-23): Cơn thịnh nộ và lòng thương xót của Chúa.
(14) Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế. (15) Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. (16) Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.
(19) Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giê-ru-sa-lem, phóng hỏa đốt các lâu đài trong thành và phá hủy mọi đồ đạc quý giá. (20) Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Ba-by-lon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. (21) Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn.
(22) Năm thứ nhất thời vua Ky-rô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Ky-rô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: (23) "Ky-rô, vua Ba Tư, phán thế này: 'Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên ...!"
2.2 Trong bài đọc 2 (Ep 2,4-10): được cứu độ nhờ ân sủng.
(4) Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, (5) nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! (6) Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.
(7) Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. (8) Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; (9) cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. (10) Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 3,14-21): Ai tin vào Con Một thì được cứu độ.
(14) Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta ưa chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
(1°) Trong bài đọc 1 (2 Sb 36,14-16.19-23), chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa là Đấng yêu thương và quảng đại như thế nào đối với dân Ít-ra-en: dù dân và những người lãnh đạo của dân có phản bội, bất trung, bất nghĩa thế nào đi nữa thì Chúa vẫn một mực yêu thương và thứ tha cho họ. Để lôi kéo dân trở về, Thiên Chúa sai các sứ giả đến dạy dỗ hướng dẫn dân. Thiên Chúa còn dùng cả nhà vua Ba Tư để thực hiện chương trình cứu độ của Người.
(2°) Trong bài đọc 2 (Ep 2,4-10) Thánh Phao-lô Tông đồ xác định một điều hết sức quan trọng và cốt yếu trong giáo lý và thần học Ki-tô giáo: con người được cứu là nhờ lòng thương vô bờ bến của Thiên Chúa tức nhờ ơn sủng mà Thiên Chúa rộng lượng ban “không” cho con người, chứ không phải do công lao của con người. Nhưng nói thế không có nghĩa là con người không “có phần” trong đó. Phần của con người và là phần không thể thiếu là lòng tin, là sự đáp trả trước tấm lòng yêu thương và ân ban của Thiên Chúa.
(3°)Trong bài Tin Mừng (Ga 3,14-21) Thánh Gio-an kể lại những lời khẳng định của Chúa Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một bậc thày trong dân Ít-ra-en thời Chúa Giê-su, về điểm cốt lõi của Ki-tô giáo: Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa đã ban Con Một Người cho thế gian để những ai tin vào Người thì được cứu!
Cũng là ân ban và lòng tin. Ở nơi nào hai yếu tố này gặp nhau thì ở nơi ấy phát sinh ơn cứu độ.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người / mỗi cộng đoàn chúng ta hãy:
đón nhận Ơn Sủng của Thiên Chúa
& đáp lại Tình Thương của Người
bằng việc TIN vào Con Một của Người là Chúa Giê-su Ki-tô!
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là mở rộng tâm hồn và cuộc sống để Thiên Chúa đổ tràn Ơn Sủng của Người vào đó. Tâm hồn và cuộc sống của chúng ta càng rộng mở với Thiên Chúa thì chúng ta càng hứng được nhiều ơn sủng của Người.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa là đáp lại Tình Yêu của Thiên Chúa bằng một lòng tin sắt son vào Con Một Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô.
Vì thế mà mỗi người và mỗi cộng đoàn hãy tự hỏi:
* Tôi/Chúng ta có thật sự tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa không?
* Tôi/Chúng ta phải thay đổi gì trong cách suy nghĩ và hành động để tăng thêm lòng tin vào Con Một Thiên Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô?
* Tôi/Chúng ta có mở rộng tâm hồn và cuộc sống của mình để đón nhận Ơn Chúa không?
* Trong tâm hồn và cuộc sống của tôi/chúng ta hiện có gì đang ngăn cản không cho Ơn Chúa đổ vào?
* Tôi/Chúng ta phải làm gì để khai thông cho Ơn Chúa đổ vào tâm hồn và cuộc sống của mình?
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời..» Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban cho mọi người mọi dân nước ơn sớm nhận ra tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ!» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa, ý thức sâu sắc về việc mình được cứu độ là nhờ ân sủng “nhưng không” do Thiên Chúa ban.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, càng ngày càng yêu mến sự thật và sống trong ánh sáng của chân lý.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Ánh sáng đã đến thế gian» Chúng ta hãy cầu nguyện cho những nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới này, để họ tìm đến với ánh sáng của Thiên Chúa trong khi thi hành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước của họ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Bản gợi ý xét mình xưng tội của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Mùa Chay
WHĐ (28.02.2015) – Trong Mùa Chay, người Công giáo luôn được khuyến khích đến với bí tích Giải tội. Để giúp các tín hữu xét mình chuẩn bị xưng tội, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra một số gợi ý.
Sau khi giải thích ngắn gọn về lý do tại sao cần phải xưng tội –“bởi vì chúng ta đều là những người tội lỗi”– Đức Thánh Cha đặt 30 câu hỏi cho việc xét mình để có thể xưng tội “cách tốt nhất”.
Bản hướng dẫn xét mình này là một phần của tập sách 28 trang bằng tiếng Ý do nhà xuất bản Vatican phát hành. Đức Thánh Cha Phanxicô đã tặng 50.000 tập sách cho các tín hữu tham dự buổi đọc kinh Truyền tin trưa Chúa nhật 22 tháng Hai vừa qua, Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay.
Tập sách có nhan đề “Hãy bảo vệ tâm hồn”, nhằm giúp các tín hữu có thêm sức mạnh bước vào cuộc chiến đấu chống lại sự dữ và chọn sự lành.
Tập sách gồm những điều căn bản trong đạo: Kinh Tin Kính, các ơn Chúa Thánh Thần, Mười Điều Răn và Tám Mối Phúc Thật. Sách cũng giải thích về bảy bí tích và lectio divina –một cách cầu nguyện bằng Kinh Thánh– để nghe được rõ hơn “Chúa muốn nói gì với chúng ta” và “để chúng ta được Chúa Thánh Thần biến đổi”.
Nhan đề của cuốn sách lấy ý từ một bài giảng trong Thánh lễ ban sáng của Đức Thánh Cha, trong đó ngài nói rằngngười Kitô hữu phải gìn giữ và bảo vệ tâm hồn mình, “cũng giống như bảo vệ ngôi nhà - bằng một ổ khóa”.
Đức Thánh Cha đặt câu hỏi: “Những tư tưởng xấu, những ý định xấu, những ganh tị và thèm muốn có hay vào nhà chúng ta không? Ai mở cửa cho chúng? Làm cách nào chúng vào được?”
Bài giảng trong Thánh lễ hôm 10-10-2014, cũng được trích in trong tập sách này, nói rằng cách tốt nhất để bảo vệ tâm hồn là xét mình mỗi ngày, để xem mình đã làm điều gì xấu, đã thiếu sót điều gì tốt đối với Chúa, với tha nhân và vớichính mình.
Một số câu hỏi gợi ý trong bản hướng dẫn xét mình như sau:
– Tôi có trở về với Chúa khi tôi gặp khốn khó không?
– Tôi có tham dự Thánh lễ ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc không?
– Tôi có cầu nguyện sáng tối không?
– Tôi có hổ thẹn khi tỏ mình là người Kitô hữu không?
– Tôi có đi ngược lại chương trình của Thiên Chúa không?
– Tôi có ganh tị, nóng nảy, thiên kiến không?
– Tôi có trung thực và công bằng với mọi người hay tôi cổ võ cho “nền văn hóa vứt bỏ” ?
– Trong các mối tương quan hôn nhân và gia đình, tôi có sống đạo đức như Phúc Âm đã dạy không?
– Tôi có kính trọng cha mẹ không?
– Tôi có chối bỏ cuộc sống mới được tượng thai không? Tôi có tiêu huỷ hồng ân sự sống không? Tôi có cộng tác vào việc ấy không?
– Tôi có tôn trọng môi trường không?
– Tôi có vừa theo Chúa vừa theo thế gian không?
– Tôi có quá độ trong việc ăn uống, hút thuốc và giải trí không?
– Tôi có lo lắng quá mức về đời sống vật chất và của cải không?
– Tôi sử dụng thời giờ như thế nào? Tôi có lười biếng không?
– Tôi có đòi người khác phải phục vụ mình không?
– Tôi có mong muốn báo thù, nuôi dưỡng thù hận không?
– Tôi có hiền lành, khiêm tốn và xây dựng hòa bình không?
Đức Thánh Cha nói, người Công giáo cần phải xưng tội, bởi vì ai cũng cần được tha thứ tội lỗi, tha thứ những cách“chúng ta suy nghĩ và hành động trái với Phúc Âm”.
“Ai bảo mình vô tội thì người ấy là kẻ nói dối hoặc bị mù”.
Xưng tội chính là lúc hoán cải chân thành, là lúc bày tỏ niềm tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng sẵn sàng tha thứ cho con cái mình và giúp chúng quay về con đường theo bước Chúa Giêsu.
(CNS)
Minh Đức
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật IV Mùa Chay, Năm B
Bài đọc: II Chro 36:14-17, 19-23; Eph 2:4-10; Jn 3:14-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
Con người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc như thế?” Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng thương xót.
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.
1.1/ Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:
- Con người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng quát các tội: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế.”
- Sai nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật, họ đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người.”
1.2/ Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:
- Sau khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố chấp không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt dân: “Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự trị.”
- Mục đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó, chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một số sẽ nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được Ngài xót thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để ngăn ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.
1.3/ Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:
- Thiên Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực lòng ăn năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu. Ngài xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải hư mất. Ngài hòan lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ, và Lời Hứa với các Tổ-phụ.
- Thiên Chúa có tòan quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ qua các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua Ba-tư. Chính Vua này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo trước qua lời ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu.
2.1/ Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:
- Đức Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi làm con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người quay về với tình yêu Thiên Chúa.
- Ngài nâng cao địa vị và phẩm giá con người: “Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu thương họ.” Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một người con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.
- Ngài hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat con người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa.
- Ngài cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa cho con người.
2.2/ Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
- Hòan tòan là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết. Nhưng tại sao con người không phải chết là hòan tòan do lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này, con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.”
- Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên người và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ vọng này, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người ra đời là muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.
3/ Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.
3.1/ Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan báo trước về Cuộc Khổ Nạn của Người:
- Như nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.
- Điều kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
3.2/ Thiên Chúa không kết án thế gian, con người lên án chính mình:
- Tình thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai Người Con tới là để gánh tội và chết cho con người: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
- Con người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào Đức Kitô: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.”
3.3/ Bản án của con người: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.”
- Ánh sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không tin vào Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
- Con người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong bóng tối, chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người phải chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình bằng ngoan cố ở trong bóng tối.
- Theo Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình. Con người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology, “phán xét ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại hòan tòan tùy thuộc vào phán xét hiện tại.
- Kẻ làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các tội lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội ác xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.”
- Ngược lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi nguy hiểm do bóng tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tiến trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình giáo dục.
- Ngay cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu không có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.
- Cần nhìn tòan thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể phê bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất niềm tin nơi Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần III MC
Bài đọc: Hos 5:15c-6:6; Lk 18:9-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết Thiên Chúa và biết mình
Để dễ sống hòa hợp với người khác, chúng ta cần biết họ là ai và mình là ai, tương quan của chúng ta với họ, những điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng ta với họ, những gì họ thích, không thích… Tương tự như vậy khi chúng ta đến với Thiên Chúa, chúng ta cần phải biết Thiên Chúa là ai và mình là ai, điều khác biệt giữa Thiên Chúa và mình; những gì Ngài thích hay không thích. Có như vậy, mối liên hệ hai bên mới tốt đẹp, tránh những gì làm phiền lòng nhau, và gặt hái được những kết quả mong muốn.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con người sống mối liên hệ với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, con người tưởng có thể qua mặt Thiên Chúa bằng lối sống hời hợt bên ngòai như dâng các lễ vật hy sinh để đền bù tội lỗi, rồi sau đó cứ tha hồ phạm tội. Con người có biết đâu Thiên Chúa thấu suốt tâm can, Ngài đâu cần những lễ vật vì mọi sự trong trời đất thuộc quyền của Ngài. Điều Thiên Chúa muốn, Ngài tỏ cho con người biết rõ ràng: “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.” Trong Phúc Âm, hai người lên Đền Thờ cầu nguyện, một người Biệt-phái và một người thu thuế. Người Biệt-phái tưởng Thiên Chúa không có trí nhớ, nên ông nhắc lại cho Ngài nhớ những việc ông đã làm; tưởng Thiên Chúa không đủ khôn ngoan nên ông giúp Chúa bằng cách so sánh giữa cuộc sống của ông với của người thu thuế. Còn người thu thuế biết Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự nên chỉ biết đấm ngực ăn năn: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Hậu quả được Chúa Giêsu tuyên bố: “người thu thuế, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người Biệt-phái thì không.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa muốn tình yêu và được con người nhận biết.
1.1/ Lợi ích của hình phạt: Hình phạt không cần thiết cho những người con luôn biết nghe lời cha mẹ; nhưng kinh nghiệm thực tế cho thấy, con cái không luôn biết vâng lời cha mẹ vì ham chơi, nên phải có hình phạt để sửa dạy. Hình phạt được ví như thuốc thang cho người bệnh, tuy đắng khi vào miệng, nhưng sẽ mang lại sức khỏe cho họ. Trường hợp của dân tộc Israel cũng thế, Thiên Chúa dạy dỗ họ nhiều điều; nhưng họ không chịu nghe và tuân giữ; nên như một người Cha, Thiên Chúa phải sửa phạt bằng cách cho họ chịu đau khổ, để giúp họ trở nên tốt hơn.
(1) Sửa phạt rồi lại xót thương: Sửa phạt con cái là vì thương, chứ không phải vì ghét bỏ, như lời tục ngữ Việt-nam: “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.” Làm cha mẹ mà không chịu giáo dục con cái là đẩy chúng tới cõi chết. Con cái buồn sầu và tức giận khi bị sửa phạt, nhưng sau khi hồi tâm suy nghĩ, chúng sẽ nhận ra lỗi lầm của chúng và nhận ra tình thương của cha mẹ. Israel cũng thế, họ nhận ra tội của họ và tình thương Thiên Chúa trong Thời Lưu Đày và khuyến khích nhau: “Nào chúng ta hãy trở về cùng Đức Chúa. Người đã xé nát thân chúng ta, nhưng rồi lại chữa lành. Người đã đánh đập chúng ta, nhưng rồi lại băng bó vết thương.”
(2) Làm cho chết rồi lại làm cho sống: “Sau hai ngày, Người sẽ hoàn lại cho chúng ta sự sống; ngày thứ ba, sẽ cho chúng ta trỗi dậy, và chúng ta sẽ được sống trước nhan Người.” Chủ đề được lãnh nhận ơn cứu độ trong ngày thứ ba xảy ra thường xuyên trong Cựu Ước (x/c Gen 42:18, Exo 19:10-11, Jos 3:2, Hos 6:2, Jon 2:1, Ezr 8:15, Est 5:1, Luk 13:32). Chúa Jesus xác tín niềm tin này bằng cách sống lại vinh hiển từ cõi chết trong ngày thứ ba.
1.2/ Hai điều căn bản Thiên Chúa muốn nơi con người:
(1) Phải ra sức học biết Thiên Chúa: Con người thường biếu quà cáp quí giá cho cha mẹ, vì họ nghĩ cha mẹ sẽ hài lòng vì những quà tặng này. Nhưng điều cha mẹ hài lòng hơn là con cái phải biết giữ đạo, yêu thương cha mẹ, và ăn ở hòa thuận với mọi người. Tiên tri Hosea dạy: “Chúng ta phải biết Đức Chúa, phải ra sức nhận biết Người; như hừng đông mỗi ngày xuất hiện,
chắc chắn thế nào Người cũng đến. Người sẽ đến với chúng ta như mưa rào, như mưa xuân tưới gội đất đai." Phải học biết Thiên Chúa thì con người mới biết Thiên Chúa muốn gì, trước khi con người có thể làm đẹp lòng Ngài. Không học biết về Thiên Chúa, con người không thể làm đẹp lòng Ngài. Chính Thiên Chúa xác nhận: “Ta thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.”
(2) Phải hết sức yêu mến Người: Thiên Chúa yêu mến con người, đó là lý do duy nhất Ngài dựng nên, dạy dỗ, và chuẩn bị mọi sự cho con người. Một điều duy nhất con người có thể trả ơn Thiên Chúa là yêu mến và vâng nghe những gì Ngài dạy. Không một thứ quà cáp nào thay thế được tình yêu mà Thiên Chúa mong muốn nơi con người: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ.”
2/ Phúc Âm: Hai thái độ khi cầu nguyện
Cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa. Con người cần biết Thiên Chúa là ai và những gì Thiên Chúa thích; đồng thời con người cũng cần biết mình là ai và những gì mình ao ước. Vì thế, cần chuẩn bị tâm hồn và có thái độ xứng đáng trước khi cầu nguyện. Để dẫn chứng thái độ thích đáng khi cầu nguyện, Đức Giêsu kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác:
(1) Thái độ của người Pharisee: Người Pharisee đứng thẳng, nguyện thầm rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.” Có nhiều điều sai trong cách cầu nguyện này: Hành vi bên ngòai biểu lộ tâm hồn bên trong. Cách đứng thẳng biểu lộ ông cho mình là công chính; và nếu ông đã công chính, ông đâu cần đến Thiên Chúa. Lời nói của ông cũng xác tín điều này, ông so sánh mình với những lọai người tội lỗi, và nhận thấy ông quá tốt lành.
(2) Thái độ của người thu thuế: Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Ông nhận ra Thiên Chúa là ai và ông là ai. Hành động và lời nói của ông chứng tỏ ông là người tội lỗi và đang cần tới lòng thương xót của Thiên Chúa. Ông biết ông không cần phải nói nhiều vì Thiên Chúa đã thông suốt cả.
(3) Hậu quả của cuộc cầu nguyện là mục đích mà cả hai người cùng nhắm tới: Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." Người thu thuế đạt được mục đích, người Biệt-phái đã không đạt được đích, lại còn lãnh thêm tội vào mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần cố gắng học biết về Thiên Chúa để có thể sống đúng đắn mối liên hệ với Ngài; đồng thời sự hiểu biết sẽ giúp chúng ta nhận ra những gì Ngài đã làm cho chúng ta, và sẽ giúp chúng ta yêu Ngài hơn.
- Thiên Chúa sửa phạt vì yêu thương. Chúng ta cần vượt qua tính tự ái và kiêu ngạo để nhận ra tội lỗi đã xúc phạm, và ăn năn trở lại cùng Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần III MC
Bài đọc: Hos 14:2-10; Mk 12:28b-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mến Chúa và yêu người là hai cột trụ của cuộc đời.
Phạm tội là xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Khi phạm tội, con người mất tình nghĩa với Thiên Chúa, và làm tổn thương mối liên hệ với tha nhân. Để nói lại nhưng mối liên hệ này, con người phải ăn năn trở lại và yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn; và yêu tha nhân như chính mình.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh hai điều căn bản này. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Hosea kêu gọi Israel hãy nhận ra tội của họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân mà ăn năn trở lại. Thiên Chúa là Đấng xót thương, Ngài sẽ tha thứ mọi tội, cho dân trở về, và giúp dân sinh hoa kết trái trong cuộc sống. Trong Phúc Âm, khi một người muốn tìm hiểu đâu là giới răn quan trọng nhất trong cuộc đời, Chúa Giêsu đã tuyên bố long trọng và rõ ràng hai giới răn: Mến Chúa và yêu người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy trở về với Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.
1.1/ Khi sống xa Chúa, con người phải chịu mọi hình phạt: Tiên-tri Hosea họat động trước thời kỳ vương quốc miền Bắc bị rơi vào tay đế quốc Assyria (721 BC). Đọan văn chúng ta đọc hôm nay là chương cuối cùng của Sách, có lẽ được viết trong hay sau thời gian lưu đày tại Assyria. Tội lớn nhất của Israel là tội phản bội Thiên Chúa, quay lưng lại với Ngài để sụp lạy các tà thần, nhất là Thần Baal. Tiên tri đã nhiều lần cảnh cáo Vua cũng như dân, nhưng họ không chịu nghe lời, và Tiên-tri quả quyết: “Chính vì tội ác của ngươi mà ngươi đã vấp ngã.”
Tuy nhiên, Israel vẫn còn hy vọng, vì Thiên Chúa là Chúa của tình thương. Tiên-tri kêu gọi họ: “Hỡi Israel, hãy trở về với Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi. Hãy trở về với Đức Chúa, mang theo lời cầu nguyện.” Lòng xám hối thực sự phải kèm theo lời thú tội và cầu nguyện, không phải chỉ dâng các lễ vật hy sinh hời hợt bên ngòai. Hãy thưa với Người: "Xin thứ tha mọi gian ác, xin vui nhận lời ngợi khen chúng con dâng lên Ngài làm lễ vật thay thế bò tơ.”
Israel sa ngã là vì đã không tin tưởng nơi sức mạnh của Thiên Chúa, mà trông cậy nơi sức mạnh lòai người. Việc trở lại đòi họ nhận ra sự điên rồ của niềm cậy dựa này: “Chúng con sẽ không cầu cứu với Assyria, sẽ không cậy nhờ vào chiến mã, cũng chẳng gọi là thần những sản phẩm tay chúng con làm ra, vì chỉ ở nơi Ngài kẻ mồ côi mới tìm được lòng thương cảm."
1.3/ Khi sống trong Chúa, con người sinh hoa kết trái: Thiên Chúa xác tín lời khuyên bảo của Tiên-tri. Ngài bảo đảm niềm hy vọng, nếu họ thực tình ăn năn trở lại: “Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng. Với Israel Ta sẽ như làn sương mai làm nó vươn lên như bông huệ, cho bén rễ sâu như cây ngàn Liban. Họ sẽ đâm chồi nẩy lộc, sum sê tựa ô-liu tươi tốt, toả hương thơm ngát như rừng Liban. Chúng sẽ trở về cư ngụ dưới bóng Ta, sẽ làm cho lúa miến hồi sinh nơi đồng ruộng, tựa vườn nho, chúng sẽ sinh sôi nẩy nở, danh tiếng lẫy lừng như rượu Liban.”
Liên hệ giữa Thiên Chúa và Israel được ví như cây và trái. Israel chỉ có thể sinh hoa kết trái nếu gắn liền với cây: “Ta như một cây trắc bá xanh tươi, chính nhờ Ta mà ngươi trổ sinh hoa trái.” Hình ảnh này cũng được Chúa Giêsu dùng trong Tin Mừng Gioan: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Jn 15:4-5).
Câu 10 được thêm vào, theo văn chương khôn ngoan, có lẽ bởi các kinh-sư, những người viết Sách TT Hosea: “Ai đủ khôn ngoan để hiểu được điều này, đủ thông minh để biết được điều ấy? Quả thật đường lối Đức Chúa rất mực thẳng ngay. Trên con đường này, người công chính sẽ hiên ngang tiến bước, còn kẻ gian ác sẽ phải té nhào.”
2/ Phúc Âm: Điều răn nào đứng đầu?
2.1/ Điều răn đứng đầu là: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.”
- Thiên Chúa là Chúa duy nhất; ngòai Ngài ra, chẳng còn ai khác. Điều đơn giản như thế, nhưng không phải ai cũng nhận ra. Có những người vì lợi nhuận nên đã tạo ra bao thứ thần để chính mình và người khác tôn thờ: Thần Tài, Thần Vệ-Nữ, Thần Mặt Trời, Thần Sông, Thần Núi.
- Vì Thiên Chúa yêu thương con người, nên Ngài đã dựng nên mọi sự, quan phòng, và sắp xếp để con người được hưởng hạnh phúc cả đời này và đời sau; nên con người phải đáp trả bằng cách yêu thương Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực của con người. Có những người thay vì yêu thương Thiên Chúa, và biết khôn ngoan dành thời giờ và nỗ lực cho Ngài, lại khờ dại yêu thương những tạo vật Thiên Chúa dựng nên: tài tử, minh tinh, thần tượng thể thao, nhà cửa, xe cộ … và dành hầu như tất cả thời gian cho các lòai thọ tạo này.
2.2/ Điều răn thứ hai là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó."
- Sau Thiên Chúa là đến con người. Con người phải yêu tha nhân như chính mình vì nhiều lý do: (1) Mọi người đều là con của Cha chung trên trời: điều gì làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa; (2) Tất cả là chi thể của một thân thể là Đức Kitô: một chi thể đau là tòan thân đau; và (3)Tất cả đều góp phần vào việc làm cho đời sống tốt đẹp hơn: mỗi người phụ trách một công việc, thiếu việc nào cũng gây xáo trộn trong cuộc sống.
- Những tội xúc phạm đến tha nhân: (1) Đặt của cải và lợi lộc vật chất lên trên con người, điều này gây ra những bất công xã hội; (2) Khinh thường dùng tha nhân như đồ vật thay vì coi trọng tha nhân như một con người; (3) sống ích kỷ chỉ biết quan tâm tới chính mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hai mối liên hệ nền tảng trong cuộc sống là mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân. Để gìn giữ hai mối liên hệ này luôn tốt đẹp, chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và yêu thương tha nhân như chính mình vậy.
- Phạm tội là làm tổn thương cả hai mối liên hệ này. Để hàn gắn, con người phải xám hối quay về để làm hòa với Thiên Chúa qua Bí-tích Giải Tội, và làm hòa với nhau trong cuộc sống.
- Một khi đã sống hòan hảo hai mối liên hệ căn bản này, chúng ta đã đạt được đích điểm của cuộc đời, và không gì có thể ngăn cản chúng ta vào Nước Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần III MC
Bài đọc: Jer 7:23-28; Lk 11:14-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết nghe lời Thiên Chúa là điều kiện để đạt hạnh phúc.
Khi phải đối diện với Lời Chúa hay những công việc Chúa làm, con người thường có ba thái độ chính: tích cực vâng lời và làm theo những gì Thiên Chúa răn bảo; hay dửng dưng coi thường “khó quá, ai làm nổi;” hoặc tiêu cực tìm lý do phê bình để khỏi phải làm như “ở Nazareth nào có cái chi hay!”
Các Bài Đọc hôm nay chú trọng nhiều đến phản ứng sau cùng, con người không những không nghe lời Thiên Chúa, lại còn phê phán buộc tội để khỏi phải nghe và làm theo. Trong Bài Đọc I, dân chúng không chịu nghe tiếng Thiên Chúa và cũng chẳng chịu nghe Jeremiah, ngôn sứ của Ngài. Đã vậy, họ còn mạ lỵ Jeremiah và còn tìm đủ cách để có cớ lọai trừ ông. Trong Phúc Âm, chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu khai trừ quỉ câm, một số người đã không tin uy quyền của Chúa Giêsu, lại còn mạ lỵ Ngài: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ.” Nói cách khác, họ có ý muốn nói: Chúa Giêsu là đồng bọn của ma quỉ để dân chúng đừng tin vào Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đây là dân tộc không biết nghe tiếng Đức Chúa.
1.1/ Dân Chúa phải nghe tiếng Thiên Chúa: Nghe tiếng Thiên Chúa là điều kiện trước tiên để con người nhận ra sự thật hay ý định của Thiên Chúa cho con người. Con người phải biết nghe thì mới biết cách làm; nếu con người không chịu nghe thì sẽ không biết cách làm hoặc làm sai. Nếu làm sai, con người sẽ phải lãnh nhận mọi hậu quả xấu. Nếu một người không nghe theo tiếng Thiên Chúa, người đó không còn là con Thiên Chúa nữa. Vì thế, Chúa truyền cho con người: “Hãy nghe tiếng Ta thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta. Hãy bước theo mọi đường lối Ta truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc.”
Không nghe tiếng Thiên Chúa là lý do con người đã không tiến tới mà còn lùi bước. Con người không muốn nghe tiếng Thiên Chúa vì họ kiêu ngạo nghĩ mình đã biết cách giải quyết vấn đề, hay nghe theo tiếng của thần khác Thiên Chúa. Đây là tình trạng của dân tộc Israel trước Thời Lưu Đày, như Jeremiah trình thuật: “Nhưng chúng chẳng nghe, chẳng để tai, cứ theo những suy tính của mình, theo tâm địa ngoan cố xấu xa; chúng đã lùi chứ không tiến.”
1.2/ Dân Chúa phải nghe tiếng các ngôn-sứ của Thiên Chúa: Vì tình thương, Thiên Chúa không sửa phạt dân ngay; nhưng Ngài luôn sai các ngôn sứ của Ngài tới để kêu gọi dân chúng ăn năn trở lại: “Từ ngày cha ông chúng ra khỏi đất Ai-cập tới nay, ngày này qua ngày khác, Ta không ngừng sai tất cả các tôi tớ của Ta là các ngôn sứ đến với chúng; nhưng chúng đã không nghe, cũng chẳng để tai, lại ra cứng đầu cứng cổ. Chúng hành động còn xấu hơn cả cha ông chúng nữa.”
Chúa nói trước với Jeremiah về sự cứng lòng của dân, để ông biết Ngài đã kiên nhẫn sửa dạy dân; và cũng để ông khỏi ngạc nhiên khi chứng kiến sự cứng lòng của họ: “Vậy, ngươi sẽ nói với chúng tất cả những điều ấy, nhưng chúng chẳng nghe đâu; ngươi sẽ gọi chúng, chúng chẳng trả lời đâu.” Sau cùng, tiên tri Jeremiah phải đồng ý với Thiên Chúa: dân chúng xứng đáng chịu hình phạt và thời chiến tranh và lưu đày phải xảy ra, vì “Đây là dân tộc không biết nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của mình, không chấp nhận lời sửa dạy: sự chân thật đã tiêu tan và biến khỏi miệng nó.”
2/ Phúc Âm: Thái độ tiêu cực của con người:
2.1/ Thái độ của con người trước phép lạ Chúa Giêsu làm: Có 3 phản ứng của con người khi họ chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu chữa một người khỏi quyền lực của quỉ câm:
(1) Đám đông lấy làm ngạc nhiên.
(2) Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ."
(3) Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. Vừa chứng kiến dấu lạ, lại đòi một phép lạ khác trước khi có thể tin!
2.2/ Thái độ tích cực của Chúa Giêsu: Ngài kiên nhẫn cắt nghĩa và muốn họ nhận ra hai điều:
(1) Một người không thể dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ: Một người có thể dựa thế người khác để làm tất cả mọi điều, nhưng không thể để khai trừ những người thuộc quyền họ; vì đòan kết là điều kiện chính để sinh tồn: "Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nào tự chia rẽ thì sẽ đổ xuống. Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được? Bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ.” Hơn nữa, có nhiều người trừ quỉ trong Israel trước thời Chúa Giêsu; ngay cả Vua Solomon cũng trừ quỉ bằng các cây cỏ. Vì thế, nếu họ tố cáo Chúa Giêsu thuộc về ma quỉ, họ cũng tố cáo tất cả những người này: “Nếu tôi dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông.”
(2) Chúa Giêsu đến để vô hiệu hóa các quyền lực của ma quỉ: “Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.” Ngài cắt nghĩa thêm: “Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.” Ma quỉ chỉ có quyền lực trên con người, trong lâu đài của chúng là thế gian này. Vương quốc của chúng được an tòan khi Chúa Giêsu chưa đến. Nhưng khi Triều Đại của Ngài đến, mọi sự thay đổi. Vì Ngài có quyền lực mạnh hơn ma quỉ, nên Ngài có thể khai trừ chúng khỏi con người như trình thuật hôm nay. Ngài vô hiệu hóa các vũ khí chúng dùng để cai trị con người như: kiêu ngạo, tham muốn, hưởng thụ vật chất ... Một khi con người quyết tâm theo Chúa, ma quỉ sẽ không dám đụng chạm tới họ. Ma quỉ chỉ có quyền trên những ai muốn ở lại với chúng.
2.3/ Không thể giữ thái độ trung lập trên bước đường theo Chúa: Truyền thống Do-thái tin cuộc đời này là bãi chiến trường tranh chấp giữa quyền lực của Thiên Chúa và của ma quỉ, giữa con cái của ánh sáng và của bóng tối. Trong cuộc giao chiến này, con người không thể đứng trung lập: Họ phải chọn giữa Thiên Chúa hoặc ma quỉ, giữa ánh sáng và bóng tối, như Chúa Giêsu tuyên bố: "Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.” Một người chọn đứng bên lề, chọn không tham gia những công việc hữu ích, là chọn để giúp cho các công việc gây thiệt hại có cơ hội phát triển. Họ cũng không thể chọn cả hai bên: vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi ma quỉ, vì hai bên không đội trời chung.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nghe theo tiếng Chúa là điều kiện tiên quyết để con người có hạnh phúc.
- Chúng ta cần có thái độ tích cực để nhận ra và thi hành điều hữu ích trong cuộc sống. Cần tránh thái độ tiêu cực chỉ biết “vạch lá tìm sâu” và luôn nghi ngờ thiện chí của tha nhân.
- Không cộng tác với Thiên Chúa là cộng tác với ma quỉ. Không có thái độ trung lập và cũng chẳng có thái độ làm tôi hai chủ trong cuộc đời này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần III MC
Bài đọc: Deut 4:1, 5-9; Mt 5:17-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lề Luật của Thiên Chúa bảo vệ đời sống con người
Con người khó chịu khi phải tuân giữ luật lệ, vì nó ngăn cản không cho con người làm những gì họ muốn làm. Họ coi luật lệ như là một chướng ngại, giới hạn tự do của con người. Nhưng luật lệ tốt lành được làm ra là để bảo vệ con người: chính đương sự, môi trường sống, và những người chung quanh. Lề Luật được ví như hàng rào giữ con người khỏi bước ra ngòai phạm vi giới hạn; vì nếu bất tuân bước ra ngòai, con người sẽ phải lãnh nhận thiệt hại và ngay cả cái chết. Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh những lợi ích của Lề Luật trong cuộc sống con người. Trong Bài Đọc I, Sách Đệ Nhị Luật xác tín Lề Luật là kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa, vì nó giúp con người đạt mọi điều tốt lành và tránh được mọi điều nguy hiểm. Trong Phúc Âm, nhiều người nghĩ Chúa Giêsu đến để bãi bỏ Lề Luật Thiên Chúa ban qua Moses và các ngôn sứ; nhưng Chúa Giêsu tuyên bố: “Ngài đến để kiện tòan Lề Luật.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải học biết và thực hành Lề Luật của Thiên Chúa.
1.1/ Lề Luật là kho tàng vô giá vì phát xuất từ Thiên Chúa: Người Do-thái hết sức hãnh diện về Lề Luật, và họ có lý do để làm như thế: vì nó phát xuất từ Thiên Chúa. Có ai hiểu biết sản phẩm hơn người làm ra nó? Thiên Chúa không những tạo dựng nên con người, mà còn tất cả môi trường sống chung quanh con người. Ngài biết con người tưởng nghĩ gì, thích muốn gì, và thích làm gì. Ngài biết điều gì tốt cũng như điều xấu cho con người, con người không biết như vậy nếu không chịu học hỏi. Vì thế, Ngài ban cho con người Lề Luật để con người thi hành để đạt được điều tốt và tránh điều xấu. Còn ai là người khôn ngoan hơn, xứng đáng hơn, để ban hành những Lề Luật này cho con người hơn Thiên Chúa? Đó là lý do Ông Moses hỏi dân: “Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?”
1.2/ Thi hành Lề Luật bảo đảm mọi kết quả tốt đẹp cho cuộc sống: Lề Luật Thiên Chúa ban ra là để thi hành, chứ không phải chỉ để đóng khung tôn kính. Ông Moses truyền cho dân: “Hỡi Israel, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em.”
Vi phạm Lề Luật hay không chịu thi hành là sẽ phải chấp nhận mọi thiệt hại và ngay cả cái chết. Ông Moses cũng cảnh cáo dân: “Nhưng anh em hãy ý tứ và cẩn thận giữ mình đừng quên những điều mắt anh em đã thấy, và suốt đời, đừng để cho những điều ấy ra khỏi lòng anh em; trái lại, anh em hãy dạy cho con cháu anh em biết.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu đến để kiện tòan Lề Luật.
2.1/ Người Do-thái tưởng Chúa Giêsu đến bãi bỏ Lề Luật: Các cuộc tranh luận của Chúa Giêsu và người Do-thái thường xoay quanh các vấn đề của Lề Luật: thanh tẩy, giữ ngày Sabbath, ăn chay, cầu nguyện, và làm các việc lành phúc đức. Nhiều người trong họ nghĩ Chúa Giêsu đến để bãi bỏ Lề Luật và dạy dân chúng khinh thường Lề Luật. Tuy nhiên, trong tất cả trường hợp, Chúa Giêsu muốn giúp họ sửa sai những quan niệm và áp dụng của họ về Lề Luật:
- Người phân biệt giữa Lề Luật của Thiên Chúa và của con người: “Các ông khéo lấy Lề Luật của các ông để vô hiệu hóa các giới răn của Thiên Chúa.” Ví dụ: Giới luật thứ bốn trong Thập Giới truyền phải thảo hiếu cha mẹ bằng cách phải phụng dưỡng các ngài. Các kinh-sư và biệt-phái dạy: "Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là "coban" nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa" rồi, và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa” (Mk 7:11-12). Con người có bổn phận phải giữ các Luật của Thiên Chúa; họ có thể từ chối không giữ luật của con người nếu những luật này ngược lại với những gì Thiên Chúa dạy.
- Người phân biệt giữa tinh thần của Lề Luật và cách áp dụng Lề Luật: “Lề Luật làm ra vì con người chứ không phải con người cho Lề Luật” (Mk 2:27). Ví dụ: Ngày Sabbath làm ra vì con người; vì thế, chữa bệnh trong ngày Sabbath là điều được phép làm. Chính các kinh-sư và biệt-phái cũng làm như thế, khi họ kéo các con vật của họ rơi vào hố trong ngày đó; thế mà họ lại khó chịu khi thấy Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbath (Mt 12:1-12).
- Để chứng minh sự hiểu biết sai của họ về Luật thanh tẩy, Người phân biệt cái nhơ bẩn bên ngòai và sự ô uế trong tâm hồn: "Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta, rồi bị thải ra ngoài?" Như vậy là Người tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch. "Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế" (Mk 7:18-23).
2.2/ Chúa Giêsu đến để kiện tòan Lề Luật: Để sửa sai quan niệm của họ về Ngài, Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng: "Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Moses hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” Chúa Giêsu làm gì để kiện tòan Lề Luật? Chương 5 của Matthew chứa đầy những giáo lý tòan hảo của Chúa Giêsu trên Lề Luật; ví dụ:
- Khi Ngài dạy phải thanh sạch ngay từ trong tâm hồn: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5:27-28).
- Khi Ngài dạy các môn đệ phải yêu thương kẻ thù: “Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:46-48).
- Khi Ngài dạy bán hết gia tài và phân phát cho người nghèo khó: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi" (Mt 19:21).
- Khi Ngài cầu xin cho các môn đệ được hiệp nhất nên một như Cha Ngài và Ngài là một:
“Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (Jn 17:23).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Lề Luật của Thiên Chúa ban là cho sự thiện hảo của con người. Chúng ta phải biết quí trọng và mang ra thực hành trong cuộc sống để đạt lợi ích cho cá nhân, gia đình, và xã hội.
- Làm theo những gì Chúa Giêsu dạy là tiến trình nên trọn lành và tránh các tội. Không một thần minh hay con người nào trong vũ trụ này dạy chúng ta cách tốt đẹp hơn Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần III MC
Bài đọc: Dan 3:25, 34-43; Mt 18:21-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tha thứ như đã được thứ tha
Có hai thái độ thường xảy ra khi con người lâm vào cảnh gian nan khốn khó: Họ có thể chọn thái độ tiêu cực: trách Trời và trách tha nhân đã xô đẩy họ vào hòan cảnh đau khổ như chiến tranh, thiên tai, nghèo đói, thất nghiệp … Hay họ có thể chọn thái độ tích cực: đấm ngực xét mình xem tại sao những điều này xảy ra; sau đó biết thống hối ăn năn, thú tội, và sửa sai để những điều đó đừng xảy ra nữa.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong chủ đề con người phải biết ăn năn và trông cậy vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Daniel công khai thú tội của Israel từ đám lửa, và nài xin Thiên Chúa nhớ đến tình thương và giao ước Ngài đã hứa với các Tổ phụ, mà tha thứ cùng cứu thóat ba trẻ từ lò lửa và Israel khỏi cảnh lưu đày. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn để dạy các môn đệ phải tha thứ không điều kiện, và Ngài cảnh cáo các ông: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Daniel cầu xin Thiên Chúa tha thứ từ trong lò lửa.
1.1/ Daniel tích cực cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa: Trong lò lửa, Daniel biết chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải thóat ông, hai bạn, và Israel khỏi chết. Ông dựa vào hai điều để van xin lòng thương xót của Thiên Chúa:
(1) Danh Thánh của Thiên Chúa: Israel là dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn, và chính Thiên Chúa đã ký kết giao ước với các Tổ-phụ để bảo vệ dân. Các dân tộc chung quanh Israel đều biết điều này. Vì thế, Daniel xin Thiên Chúa đừng để cho các dân tộc khinh thường Danh Chúa vì Ngài đã không bảo vệ được Dân Ngài: “Ôi! Vì danh thánh Chúa, xin đừng mãi mãi bỏ rơi chúng con, đừng huỷ bỏ giao ước của Ngài!”
Theo Giao-ước của Thiên Chúa với Tổ-phụ Abraham, “Ngài đã hứa làm cho dòng dõi họ đông đảo như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Thế mà hôm nay, lạy Chúa, vì tội lỗi chúng con, chúng con đã thành dân nhỏ nhất, đã nếm mùi ô nhục trên khắp hoàn cầu.” Israel đã mất tất cả: quê hương, Đền Thờ, và nhất là tình thương của Thiên Chúa: “Ngày nay chẳng còn vị thủ lãnh, chẳng còn bậc ngôn sứ, chẳng còn người chỉ huy. Lễ toàn thiêu, lễ hy sinh đã hết, lễ tiến, lễ hương cũng chẳng còn, chẳng còn nơi dâng của đầu mùa lên Chúa để chúng con được Chúa xót thương.”
(2) Tình nghĩa của Thiên Chúa với các Tổ-phụ: Daniel biết sở dĩ Thiên Chúa đã ký kết giao ước với Israel, là vì niềm tin tuyệt đối của các Tổ-phụ. Vì thế, Daniel dựa vào lòng trung tín của các Tổ-phụ để xin Thiên Chúa tỏ tình thương tha thứ với dân tộc Israel: “Vì tình nghĩa với bạn thân Ngài là Abraham, với tôi tớ Ngài là Isaac, và kẻ Ngài thánh hoá là Israel, xin Ngài đừng rút lại lòng thương xót đã dành cho chúng con.”
1.2/ Khiêm nhường ăn năn và xin thay đổi đời sống.
(1) Khiêm nhường thống hối: Daniel biết mình và con dân Israel không có công trạng gì để được Thiên Chúa xót thương, vì tất cả đều xúc phạm đến Ngài; nhưng ông biết Thiên Chúa sẽ tỏ tình thương những cho những ai biết ăn năn xám hối như lời Thánh Vịnh “một tấm lòng tan nát dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê,” nên ông cầu xin Thiên Chúa: “Xin nhận tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhượng của chúng con, thay của lễ toàn thiêu chiên bò, và ngàn vạn cừu non béo tốt.” Tuy không còn Đền Thờ để dâng của lễ; nhưng Thiên Chúa “muốn tình yêu chứ đâu muốn hy lễ!” Vì thế, bất cứ ở đâu, con người đều có thể dâng tình yêu để đền tội.
(2) Tuyên hứa thay đổi đời sống: Tội lỗi gây rất nhiều thiệt hại cho con người. Vì thế, khi đã nhận ra hậu quả của tội, con người phải dốc lòng chừa và cố gắng đừng tái phạm nữa. Một trong những điều chính yếu con người phải nhận ra khi xét mình: Những lời chỉ dạy của Thiên Chúa luôn đúng, hành động con người sai trái vì làm ngược lại những gì Ngài dạy. Vì thế, để có thể sống tốt đẹp hơn, con người phải vâng lời làm theo những gì Thiên Chúa dạy: “Ước gì chúng con theo Ngài mãi đến cùng, vì những ai tin cậy vào Ngài, đâu có phải ê chề thất vọng. Và giờ đây, chúng con hết lòng đi theo Chúa, kính sợ Ngài và tìm kiếm Thánh Nhan. Xin đừng để chúng con phải thẹn thùng xấu hổ.”
2/ Phúc Âm: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.”
2.1/ Điều kiện để được tha thứ: Con người phải tha thứ vì đã được thứ tha. Phêrô thắc mắc: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Phêrô tự nghĩ “quá tang 3 bận;” nhưng để cho chắc ăn, ông tăng lên gấp đôi và cộng thêm một lần nữa. Nhưng ông ngạc nhiên khi Chúa Giêsu trả lời ông: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." Lý do đơn giản Chúa muốn nói với Phêrô: Hãy tha thứ nhiều lần như Thầy đã tha thứ nhiều lần cho con.
2.2/ Hậu quả nếu không chịu tha thứ: Để dẫn chứng tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa và sự ích kỷ nhỏ mọn của con người, Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn:
(1) Đã được tha thứ 10,000 yến vàng: Đây là một số nợ khổng lồ. Một lạng vàng trị giá thị trường hôm nay khỏang 1000 dollars; 10,000 lạng tương xứng với 10 triệu đồng. Nhà Vua chạnh lòng thương và sẵn sàng tha thứ hết cho tên đầy tớ khi ông ta van xin.
(2) Không chịu thứ tha 100 quan tiền: Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Món nợ 100 quan tiền tương đương với khỏang 10 dollars, một món nợ quá nhỏ so với 10 triệu dollars; thế mà y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: "Trả nợ cho tao!" Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: "Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh." Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ.
Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?" Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Chúa Giêsu kết luận: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi phải vương vào cảnh gian nan khốn khổ, chúng ta đừng vội đổ lỗi cho Thiên Chúa và cho tha nhân; nhưng hãy biết khiêm nhường xét mình để tìm hiểu lý do tại sao chúng ta lâm vào tình trạng khốn khổ đó.
- Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Ngài không chấp tội chúng ta và sẵn sàng tha thứ hết mọi tội lỗi; nhưng Ngài đòi chúng ta phải biết xám hối và cũng sẵn lòng tha thứ cho tha nhân như vậy.
- Tội vừa làm thiệt hại cá nhân vừa làm thiệt hại cộng đòan. Sau khi đã được tha thứ, chúng ta hãy tránh xa tội và canh tân đời sống bằng cách thực thi những gì Chúa dạy bảo.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần III MC
Bài đọc: II Kgs 5:1-15a; Lk 4:24-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
Con người thường dễ nản chí tức giận, sau khi đã cố gắng hết sức để yêu thương lo lắng cho người thân yêu, mà họ vẫn vô tâm và làm cho mình phải đau khổ hơn nữa. Các Bài Đọc hôm nay nói lên những đối xử vô ơn tệ bạc của con người với Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, Sách Các Vua II tường thuật sự kiện tiên tri Elisha chữa khỏi bệnh cùi cho Naaman, tướng Syria. Mặc dù là một người Dân-ngọai và kẻ thù của Israel, nhưng ông đã thú nhận “không có một Thiên Chúa nào khác trừ Thiên Chúa của Israel.” Trong Phúc Âm, mặc dù Chúa Giêsu đã dùng lịch sử để vạch ra sự vô ơn và hậu quả của sự cứng lòng, người Do-Thái vẫn ngoan cố không chịu sửa đổi, còn mang Chúa lên đỉnh núi và xô Ngài xuống vực thẳm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiên tri Elisha chữa Naaman khỏi bệnh cùi.
1.1/ Hai con người Israel, hai niềm tin:
(1) Người nữ tỳ của vợ ông Naaman: Cô không ghét chủ vì đã bắt mình làm nô lệ; trái lại, cô còn muốn sự tốt lành cho chủ, kẻ thù của Israel. Cô tuyệt đối tin tưởng và hy vọng nơi Thiên Chúa sẽ chữa lành qua tiên-tri Elisha. Đây là một hành động nguy hiểm; vì nếu Naaman không khỏi, cô sẽ mất mạng vì đã đánh lừa ông.
(2) Vua Israel: luôn ở trong tình trạng nghi ngờ và sợ sệt người khác muốn làm hại mình. Khi vua Israel đọc xong thư của vua Aram thì xé áo mình ra và nói: "Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại sai người này đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi? Các ngươi phải biết, phải thấy rằng ông ấy muốn sinh sự với ta." Là vua trong nước, mà vua chẳng biết, và chắc cũng chẳng quan tâm có tiên-tri Elisha, người của Thiên Chúa có quyền năng chữa bệnh, đang ở trong nước mình. Chính tiên-tri Elisah, khi nghe biết là vua Israel đã xé áo mình ra, thì sai người đến nói với vua: "Sao vua lại xé áo mình ra? Người ấy cứ đến với tôi, thì sẽ biết là có một ngôn sứ ở Israel."
1.2/ Niềm tin của Naaman được củng cố bởi các đầy tớ của ông.
(1) Phải khiêm nhường: Kiêu ngạo vì muốn giữ thể diện hay vì tự ái dân tộc là những lý do làm con người không nhận ra và không lãnh nhận được hồng ân Thiên Chúa. Ông Naaman tức giận vì tiên-tri Elisha không thân hành ra tiếp ông, nhưng qua sứ giả. Ông cần người tiên tri làm ơn, chứ tiên tri đâu có cầu ơn ông đâu mà phải thân hành ra tiếp. Điều vô lý nữa là ông Naaman đã có sẵn trong đầu những gì tiên tri phải làm để chữa ông, và tức giận khi tiên-tri không làm như thế. Đã bao nhiêu lần chúng ta cũng có sẵn những ý tưởng trong đầu và muốn Thiên Chúa cũng như tha nhân phải thi hành như vậy để giúp ta! Sau cùng, ông cũng hãnh diện hão về các con sông trong xứ sở của mình: “Nước các sông Avana và Pharpar ở Damascus chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Israel sao? Ta lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch hay sao?"
(2) Phải bình tĩnh để nhận ra điều đơn giản (common sense) của cuộc sống: Có những điều quá thông thường mà khi con người nóng giận, họ sẽ không nhìn ra. Khi thấy chủ mình tức tối bỏ về, các tôi tớ của ông đến gần và nói: "Cha ơi, giả như ngôn sứ bảo cha làm một điều gì khó, cha có thể có lý do không làm! Đàng này ngôn sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ được sạch!" Nhận ra sự nóng giận vô lý của mình, ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Jordan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.
(3) Naaman tuyên bố niềm tin vào Thiên Chúa: Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Lần này Ông vào, đứng trước mặt tiên-tri và nói: "Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Israel.”
Điều trớ trêu là một tướng ngọai bang, kẻ thù của Do-thái lại có đức tin hơn một ông vua của Do-thái. Ông tin vào một nữ tỳ và lặn lội lên đường đi tìm đến người của Thiên Chúa là tiên-tri Elisha. Ông được chữa lành và tuyên xưng niềm tin của ông vào Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
2.1/ Chúa dạy dân bài học lịch sử: Trình thuật hôm nay tiếp tục tường thuật cuộc trở về Nazareth, quê hương của của Chúa Giêsu. Sau khi đọc Sách tiên-tri Isaiah, khán giả đồng hương ngồi xuống, và Chúa bắt đầu rao giảng. Thay vì là một cuộc vinh quy bái tổ, họ bắt đầu khinh thường Chúa. Ngài mời họ nhìn lại lịch sử để đừng tái diễn những điều không nên làm. Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.” Chúa Giêsu dẫn chứng lời Ngài nói bằng hai ví dụ:
(1) Tiên-tri Elijah cho hũ bột của bà góa tại Zarepta, Sidon, không cạn: "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Elijah, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Zarepta miền Sidon.”
(2) Tiên-tri Elisha chữa Naaman, tướng Syria, khỏi bệnh cùi: “Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisah, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi."
2.2/ Lịch sử tái diễn: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.”
- Không giống Naaman, họ không kiềm chế được tính kiêu ngạo, nóng giận. Họ nghĩ là Chúa Giêsu xúc phạm tới danh dự dân tộc của họ. Thực sự, Chúa Giêsu chỉ muốn giúp họ nhìn ra sự thật; nhưng họ từ chối không làm.
- Không giống Naaman, họ không nhìn ra những đơn giản của cuộc sống. Lịch sử dạy con người những bài học quí giá: Hãy nhìn gương của những người đi trước; nếu họ làm những quyết định khôn ngoan sinh lợi ích, hãy bắt chước; nếu họ làm những quyết định điên rồ, đừng bắt chước họ làm như vậy.
Điều trớ trêu là cũng một Bà gốc Phoenician, có con gái bị quỉ ám ở Sidon, kiên nhẫn tin tưởng vào Chúa Giêsu đến độ câu trả lời của Bà làm Chúa Giêsu phải ngạc nhiên và chữa lành con gái Bà: “Vâng, nhưng chó con cũng được ăn những thứ từ trên bàn của chủ rơi xuống!” Trong khi những người đồng hương với Chúa, đã không tin tưởng, còn tức giận xô Chúa xuống vực thẳm! Sự thật phũ phàng, khó tin, nhưng vẫn đang xảy ra!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi nào chúng ta cảm thấy nản chí, muốn bỏ cuộc trong việc yêu thương và giúp dỡ người khác; hãy nhớ Lời Chúa nói: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.”
- Nếu Chúa đã làm ơn và bị đối xử như thế, chúng ta là môn đệ Ngài cũng phải đồng chịu số phận. Nhớ rằng chúng ta chưa chịu vô ơn đến độ treo thân trên Thập Giá.
- Điều này giúp mở mắt chúng ta để nhận ra những hồng ân Thiên Chúa và những sự giúp đỡ của tha nhân không ngừng đổ trên ta; để đừng bao giờ đối xử vô ơn tệ bạc với người thi ơn như vậy.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
NHIỆT TÂM LO VIỆC NHÀ CHÚA
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY NĂM B (08/03/2015)
[Xh 20,1-17; 1 Cr 1,22-25; Ga 2,13-25]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Người Mỹ có một câu châm ngôn rất đáng chúng ta suy nghĩ. Câu châm ngôn đó là: “sự thất bại nặng nề nhất của con người là đánh mất lòng nhiệt thành.” Với Thánh Phao-lô, Tông đồ dân ngoại, thì lòng nhiệt thành là điểm nổi bật nhất trong đời sống tâm linh và rao giảng Tin Mừng của ngài. Với Đức Giê-su Na-da-rét thì còn hơn thế nữa: vì nhiệt thành bảo vệ sự tinh tuyền của Đền Thánh Giê-ru-sa-lem là nhà của Thiên Chúa mà Đức Giê-su không ngại đương đầu với những người lãnh đạo Đền thờ và hưởng lợi từ những hoạt động lễ tế trong Đền thờ ấy, khiến họ thù ghét Người và tìm cách ám hại Người (bài Tin Mừng).
Mùa Chay là mùa hoán cải nên chúng ta cũng cần nhìn lại xem tình yêu và lòng nhiệt thành của chúng ta đối với Đạo Chúa và đối với những gì có liên quan tới con người (vì những gì thực sự liên quan tới con người thì cũng liên quan tới Thiên Chúa) có còn sống động nữa không?
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Xh 20,1-17): Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê.
(1) Ngày ấy trên núi Xi-nai, Thiên Chúa phán tất cả những lời sau đây: (2) "Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. (3) Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. (4) Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. (5) Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. (6) Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. (7) Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng. (8) Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. (9) Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. (10) Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. (11) Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh. (12) Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. (13) Ngươi không được giết người. (14) Ngươi không được ngoại tình. (15) Ngươi không được trộm cắp. (16) Ngươi không được làm chứng gian hại người. (17) Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta."
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 1,22-25): Chúng tôi rao giảng Đấng bị đóng đinh, điều mà người ta coi là ô nhục, nhưng đối với những ai được kêu gọi, thì đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
(22) Thưa anh em, trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, (23) thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. (24) Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. (25) Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.
(3) Trong bài Tin Mừng (Ga 2,13-25): Cứ phá hủy đền thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.
(13) Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. (14) Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. (15) Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật ngược bàn ghế của họ. (16) Người nói với những kẻ bán bồ câu: "đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." (17) Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.
(18) Người Do-thái hỏi Đức Giê-su: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" (19) Đức Giê-su đáp: "Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại." (20) Người Do-thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" (21) Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. (22) Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin và Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.
(23) Trong lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. (24) Nhưng chính Đức Giê-su không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, (25) và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa:
(1°) Nếu chúng ta chỉ đọc cách hời hợt bài đọc 1 (Xh 20,1-17), chúng ta sẽ chỉ thấy mười giới răn khô khẳng khó nuốt; Còn nếu chúng ta đọc nó với cả tấm lòng, chúng ta sẽ khám phá ra tấm lòng đầy tình thương của Thiên Chúa. Thật vậy nền tảng và động lực của mười điều răn là Giao Ước. Nguyên do của Giao Ước là Tình Thương của Thiên Chúa. Vì yêu thương dân Ít-ra-en và nhân loại, nên Thiên Chúa muốn cho họ được hạnh phúc. Để giúp dân Ít-ra-en và mọi người tìm được hạnh phúc, Thiên Chúa ban mười điều răn như những nẻo đường, những phương thế thích hợp. Chúng ta thấy Thiên Chúa hết lòng với Ít-ra-en và mong Ít-ra-en toàn tâm toàn ý với Thiên Chúa. Tình Yêu chỉ được đáp lại bằng Tình Yêu! Tấm lòng cần được đón nhận và hồi đáp bằng tấm lòng!
(2°) Thánh Phao-lô Tông đồ, trong bài đọc 2 (1 Cr 1,22-25), cho thấy ngài sốt sáng nhiệt thành như thế nào trong việc rao giảng Chúa Ki-tô bị đóng đinh thập giá. Đó là điều mà con người - dù văn minh và khôn ngoan như người Hy-lạp hay đạo đức thánh thiện (được chọn là dân riêng, được các ngôn sứ dạy dỗ qua các thời đại) như người Do-thái - chẳng sao hiểu nổi, bởi vì câu chuyện thập giá là câu chuyện tình của Thiên Chúa toàn trí, toàn năng và chí ái. Deus Caritas est! Thiên Chúa là Tình Yêu! Người phàm làm sao hiểu được Thiên Chúa, hiểu được Tình Yêu của Người!
3°) Thánh Gio-an, trong bài Tin Mừng (Ga 2, 13-25), tường thuật lại một sự kiện nổi bật trong những ngày cuối cùng của Chúa Giê-su ở trần thế: tẩy uế Đền Thờ. Sự việc này chẳng khác gì “đổ dầu vào lửa” trong bối cảnh có nhiều người Do-thái đang tìm cách loại trừ Chúa Giê-su. Phải nhìn nhận rằng đây là lần đầu tiên trong Phúc âm chúng ta thấy Chúa Giê-su nổi giận, trước cảnh “trái tai gai mắt” đang diễn ra trong khu vực xung quanh Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Thánh Gio-an miêu tả Chúa Giê-su như một ngôn sứ đang bốc lửa xông vào cuộc chiến để bảo vệ quyền lợi của Thiên Chúa và sự tinh tuyền của nơi thờ thờ Người. Lửa bốc trong lòng, lửa tràn ra lời nói và hành động của Chúa Giê-su! Vì nhiệt tâm với Nhà Chúa (Cha) mà Chúa Giê-su sẽ bị bắt, bị đánh đập tàn bạo, bị kết án dã man và bị giết chết tàn bạo trên thập giá. Nhưng ngọn lửa Tình Yêu ấy đã biến Người thành Của Lễ Toàn Thiêu đẹp lòng Thiên Chúa Cha và đem lại Ơn Cứu Rỗi cho muôn người.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là tấm lòng, là tình yêu cháy bỏng của Thiên Chúa, nhất là của Thiên Chúa Ngôi Lời nhập thể đối với Thiên Chúa Cha và đối với loài người.
Vậy chúng ta hãy tin và đón nhận tình yêu ấy cũng như hãy để cho tình yêu ấy đốt cháy chúng ta.
Nói cách khác hãy đáp lại tình yêu ấy bằng một tình yêu cháy bỏng!
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã chọn ký kết giao ước Xi-nai và ban mười giới răn cho dân Ít-ra-en để họ sống theo đường lối của Người. Người cũng là Đấng Thiên Chúa đã sai Con Một là Đức Giê-su Ki-tô xuống trần gian để tỏ lòng yêu thương con người và cứu chuộc con người bằng cái chết trên cây gỗ.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta là nuôi dưỡng một tâm hồn sốt mến, một lòng nhiệt thành, một tình yêu cháy bỏng đối với Thiên Chúa là Tình Yêu và với công cuộc cứu độ của Người.
Kiểm chứng:
* Tâm hồn tôi có “rạo rực” mỗi khi nghĩ/nghe/nói về Chúa không?
* Tâm tư tôi có “thao thức” trước nỗi thống khổ của con người, nhất là của những người thấp cổ bé miệng, bị khinh khi miệt thị và loại trừ không?
* Lương tâm tôi có “day dứt” trước cảnh đói nghèo, bất công, tham nhũng, quan liêu và trước các tệ nạn xã hội không?
* Chọn lựa của tôi có là “dũng cảm” bênh vực công lý và lẽ phải, - bằng lời nói và việc làm - dù bị thiệt thòi cách này cách khác, hay là “im lặng đồng lõa và thỏa hiệp” để được yên thân? yên chỗ?
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.» Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa hãy vì giao ước Người đã ký kết với loài người mà thương yêu tha thứ cho loài người, nhất là cho những người thành tâm thiện chí, sống theo giới răn của Chúa hay lương tâm của mình.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi sẽ phải thiệt thân.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa, sống hết lòng hết sức với Đạo Chúa và đồng loại là anh chị em của mình.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Thưa anh em, trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, càng ngày càng thấu hiểu cung cách hành động của Thiên Chúa mà yêu mến và ngưỡng mộ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Người nói với những kẻ bán bồ câu: «đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người phục vụ các cơ sở tôn giáo và các lễ nghi phụng tự, để họ gìn giữ sự tinh tuyền thánh thiện của các nơi thánh và của các việc thờ phượng ấy.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật III Mùa Chay, Năm B
Bài đọc: Exo 20:1-17; I Cor 1:22-25; Jn 2:13-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm thế nào để thanh tẩy và làm đẹp đền thờ tâm hồn?
Ít có người trong chúng ta thích ở dơ dáy bẩn thỉu, và khó chịu khi phải ở chung với người như thế; vì sợ bệnh tật và thiệt hại cho sức khỏe. Để tránh ở dơ, chúng ta phải dành thời giờ để tắm rửa, dọn dẹp, và lau chùi. Trong đàng thiêng liêng cũng thế, chúng ta không thể chất chứa tội trong tâm hồn; vì chúng sẽ tàn phá và đưa chúng ta dần dần đến chỗ chết. Hơn nữa, Thiên Chúa không thể ở trong những tâm hồn tội lỗi. Để có thể rước Thiên Chúa vào lòng và ở lại trong tâm hồn, chúng ta cần thường xuyên xét mình để nhận ra những tội lỗi, và mau chạy đến với BT Giải Tội để làm hòa và lãnh nhận ơn tha thứ. Mùa Chay là dịp thuận tiện để chúng ta thanh tẩy những tính hư tật xấu trong tâm hồn, nhiều người gọi Mùa Chay là mùa xuân của tâm hồn. Nhưng làm sao chúng ta có thể nhận ra những tội lỗi để thanh tẩy?
Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những cách thức để nhận ra tội lỗi. Trong Bài Đọc I, Sách Xuất Hành trình bày cách thức xét mình bằng Thập Giới: 3 giới răn đầu tiên đặc biệt chú trọng tới mối liên hệ với Thiên Chúa, 7 giới răn sau chú trọng tới mối liên hệ với tha nhân. Trong Bài-đọc II, Thánh Phaolô chọn Chúa Kitô chịu đóng đinh trên cả hai thần: thần khôn ngoan của người Hy-lạp, và thần thích biểu dương uy quyền của người Do-thái. Trong Phúc Âm, vì lòng nhiệt thành, khi thấy Nhà Cha của Ngài ra ô uế, Chúa Giêsu đã đánh đuổi những con buôn ra khỏi Đền Thờ. Ngài trách mắng họ: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thập Giới giúp con người sống mối liên hệ tốt đẹp với Thiên Chúa và tha nhân.
1.1/ Ba điều giúp con người sống mối liên hệ với Thiên Chúa:
(1) Phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng và trên hết mọi sự: Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi; tất cả các thần khác là do con người tạo nên: Thần Tài, Thần Mặt Trời, Vệ Nữ, Thần Mammon. Lời của Thiên Chúa cảnh cáo những ai muốn thờ hai thần hay làm tôi hai chủ: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.”
(2) Chớ kêu tên Thiên Chúa cách vô cớ: Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.
(3) Giữ ngày Chủ Nhật: Người Do-thái giữ ngày thứ bảy, và gọi đó là ngày Sabbath; vì Thiên Chúa đã hòan tất việc tạo dựng và nghỉ ngơi trong ngày đó. Họ tuyệt đối không làm việc xác trong ngày đó. Chúng ta giữ ngày Chủ Nhật, vì là ngày Chúa Giêsu sống lại. Vì kế sinh nhai, Giáo Hội cho phép người nghèo và những người không thể nghỉ được làm việc; nhưng không có nghĩa là tất cả được phép. Con người cần được nghỉ ngơi và cần dành thời giờ cho Thiên Chúa. Khi đã có đủ ăn, con người cần lo lắng cho những giá trị tinh thần nhiều hơn, và cho anh chị em có cơ hội làm việc để sinh sống. Thần Mammon rất dễ lợi dụng ngày này.
1.2/ Bảy điều giúp sống mối liên hệ với tha nhân: Các điều này cần thiết; tuy nhiên, khi có xung đột, phải giữ ba điều trên trước.
(4) Thảo kính cha mẹ.
(5) Ngươi không được giết người.
(6) Ngươi không được ngoại tình.
(7) Ngươi không được trộm cắp.
(8) Ngươi không được làm chứng gian hại người.
(9) Ngươi không được ham muốn vợ người ta.
(10) Ngươi không được ham muốn bất cứ vật gì của người ta.
2/ Bài đọc II: Đức Kitô chịu đóng đinh là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
2.1/ Khôn ngoan của người đời: Mỗi dân tộc đều có những đặc điểm mà họ rất hãnh diện; chẳng hạn, người Trung-hoa tự hào vì tài bắt chước, không một sản phẩm nào mà họ không làm giả được. Thánh Phaolô cũng đưa ra hai dân tộc rất tự hào về truyền thống của họ, là Do-thái và Hy-lạp:
- Người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ: Họ đã từng thách thức Chúa Giêsu tỏ uy quyền bằng cách làm phép lạ để họ có thể tin vào Ngài. Trong Phúc Âm Gioan hôm nay, họ cũng thách thức Chúa Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?"
- Người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan: Triết học của Plato và Aristotle, hùng biện như Demosthenes. Họ khao khát biết sự thật và nguồn gốc của mọi sự để thuyết phục con người tin họ.
Thánh Phaolô hãnh diện tuyên xưng: Nhưng chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh: điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và Dân-ngoại cho là điên rồ. Ô nhục vì chỉ có kẻ cướp của giết người mới phải chịu án tử Thập Giá; điên rồ vì Thiên Chúa không thể chịu đau khổ, một Thiên Chúa chịu đau khổ không còn là Thiên Chúa uy quyền nữa.
2.2/ Khôn ngoan của Thiên Chúa: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.”
- Khôn ngoan không chỉ là học cho biết những lý thuyết cao xa, những điều bí ẩn, kỳ diệu; nhưng không sinh lợi ích gì cho con người. Khôn ngoan đích thực là học biết thánh ý của Thiên Chúa để đạt được mục đích của cuộc đời. Qua Đức Kitô, con người biết được những kế họach của Thiên Chúa, và cách thức làm sao để đạt được mục đích của cuộc đời. Thánh Thomas Aquinas, một nhà thần học lỗi lạc của Dòng Đa-minh tuyên bố: “Tôi học dưới chân Thánh Giá được nhiều điều hơn bất cứ nơi nào khác.”
- Sức mạnh không chỉ đo lường bằng vũ lực hay quyền năng, nhưng làm sao có thể lay chuyển được lòng người; ví dụ, sức mạnh của anh hùng phải nhường bước trước giọt nước mắt của phụ nữ. Thập Giá Đức Kitô có sức làm mềm những con tim chai đá nhất, và cải hóa họ về cho Thiên Chúa. Qua Thập Giá, Đức Kitô đánh bại quyền lực của quỉ thần và sự chết, và đưa con người về cho Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.
3.1/ Lòng nhiệt thành của Chúa Giêsu cho Nhà Cha của Ngài: Tại sao Chúa Giêsu đuổi họ? Hai lý do chính:
(1) Đền Thờ là nơi cầu nguyện: là chỗ con người tiếp xúc với Thiên Chúa. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán."
(2) Họ dùng Lề Luật tôn giáo để kiếm lợi nhuận kinh tế: Đây là cả một hệ thống kinh tài dựa trên các luật con người dâng lễ vật để đền tội. Khi lên Đền Thờ dâng lễ vật đền tội, con người phải dâng những lễ vật thanh sạch và không tì tích. Để bảo đảm điều này, các con vật phải được khám xét bởi các chuyên gia của Đền Thờ. Thử tưởng tượng trường hợp của những người phải mang lễ vật và đi mấy ngày đàng mới tới Jerusalem, đến khi thanh tra những con vật mình mang lên lại không đủ tiêu chuẩn, mà không có lễ vật thì tội không được tha. Họ đành phải bỏ tiền mua các con vật của các chuyên gia hay người nhà của họ, nhiều khi đắt gấp cả chục lần. Để có quầy hàng trong khu vực Đền Thờ, họ lại phải là người nhà hay quen biết với các thượng-tế, kinh sư, và các tư tế.
3.2/ Làm thế nào để thanh tẩy và trang hòang đền thờ tâm hồn? Trong cuộc đối thọai giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo Do-thái, Ngài nhấn mạnh đến Đền Thờ là chính thân thể của Ngài. Nếu Đền Thờ Jerusalem không thể vừa là chỗ thờ phượng, vừa là chỗ để làm thương mại; đền thờ tâm hồn của mỗi người cũng không thể vừa là chỗ cho Thiên Chúa vừa là chỗ cho ma quỉ. Vì Thánh Phaolô nhấn mạnh: “thân thể anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần” và “thân thể anh em là chi thể của Đức Kitô.”
Để có thể thanh tẩy tâm hồn, điều trước tiên con người phải làm là quyết tâm chỉ thờ một Thiên Chúa mà thôi: Không thờ phượng hai thần, không làm tôi hai chủ. Bài Đọc I nói rõ: “Thiên Chúa là Thiên Chúa ghen tương.” Ngài không chấp nhận ở chung với bất cứ thần nào.
- Thánh Teresa Hài Đồng nói: “Thiên Chúa nhận tất cả những gì chúng ta cho Ngài, nhưng sẽ không cho tất cả những gì của Ngài cho chúng ta, cho tới khi Ngài nhìn thấy chúng ta đang cho Ngài tất cả những gì chúng ta có.”
- Thánh Gioan Thánh Giá nói: “Đừng để ý tới bất cứ tạo vật nào nếu anh muốn giữ hình ảnh của Thiên Chúa rõ ràng và đơn nhất trong linh hồn anh, nhưng hãy trút đi tất cả những gì liên quan tới chúng và chạy xa khỏi chúng, và anh sẽ đi trong ánh sáng của Thiên Chúa.” Còn biết bao các thần tạo vật mà chúng ta đang làm nô lệ cho nó trong cuộc đời. Hãy mạnh dạn để quăng đi tất cả để có thời gian và dành cho Thiên Chúa chỗ ưu việt nhất trong cuộc đời.
- Nếu chúng ta chọn thanh tẩy tâm hồn, chúng ta biết rằng chúng ta càng thanh tẩy tâm hồn bao nhiêu, tiến trình thanh tẩy càng dễ dàng bấy nhiêu. Trong đời sống nội tâm có một ảnh hưởng dây chuyền, chúng ta càng đi sâu vào, chúng ta càng ao ước được trở nên trong sạch hơn để chúng ta càng sống thân tình với Thiên Chúa hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
- Chúng ta phải học nơi Thập Giá của Đức Kitô hơn là bất cứ nơi nào trong thế giới này, vì Ngài là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
- Chúng ta phải thường xuyên thanh tẩy tâm hồn, để nhiệt thành và dứt khóat quét sạch các nhơ bẩn, bụi bặm của tội lỗi, để xứng đáng trở nên Đền Thờ cho Thiên Chúa ngự. Chỉ có những tâm hồn trong sạch mới được nhìn thấy Thiên Chúa (Phúc thứ 6). Thánh Thomas Aquinas quả quyết một tâm hồn trong sạch có thể chiêm ngưỡng Thiên Chúa từ đời này.
- Chúng ta phải dứt khóat không làm tôi hai chủ, chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- 07/3 Tình thương tha thứ của Thiên Chúa
- Sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa
- Phải tin Thiên Chúa hơn tin người đời
- Lãnh đạo bằng phục vụ và chịu đau khổ
- Thực hành đức tin
- Hãy tha thứ như Thiên Chúa đã tha thứ
- Thiên Chúa hy sinh Người Con Một cho con người
- Trở nên hòan thiện bằng yêu thương kẻ thù
- Sống trung thành yêu thương suốt cả đời
- Cứ xin sẽ được