Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
LÀM CHỨNG CHO ĐẤNG PHỤC SINH
CHÚA NHẬT PHỤC SINH NĂM B (05/04/2015)
[Cv 10,34ª.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Đức Cố Giáo Hoàng Phao-lô VI đã nói một câu đáng mọi người chúng ta phải ghi nhớ và suy đi niệm lại trong lòng: “Người thời nay tin vào chứng nhân hơn thầy dậy và nếu họ có tin vào thấy dậy thì bởi vì thầy dậy đó là chứng nhân.” Lời nói trên đưa chúng ta trở về thuở ban đầu của Ki-tô giáo, với bài giảng của Thánh Phê-rô, Tông Đồ Trưởng, tại nhà ông Cô-nê-li-ô: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem này….” (Cv 10, 39).
Hội Thánh Công Giáo đã phát triển qua hơn 20 thế kỷ và sẽ tiếp tục phát triển là nhờ -một phần quan trọng- vào việc các Ki-tô hữu sống sứ mạng làm chứng. Làm chứng cho Đấng xuất thân từ Na-da-rét, đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế. Nhưng Đấng ấy đã bị người ta giết chết nhưng sau ba ngày Người đã được Thiên Chúa Cha phục sinh: Đó là Đức Ki-tô Giê-su!
Nhân đọc lại các bài Thánh Kinh của Chúa Nhật Phục Sinh, thiết nghĩ các Ki-tô hữu Việt Nam cần kiểm điểm xem có phải vì chứng tá của chúng ta còn quá non yếu nên việc truyền giáo của Giáo hội Công giáo Việt Nam chưa có được nhiều kết quả như mong muốn?
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 10, 34a.37-43): Chúng tôi đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại.
(34a) Bấy giờ tại nhà ông Cô-nê-li-ô, ông Phê-rô lên tiếng nói: (37) “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Ga-li-lê, sau phép rửa mà ông Gio-an rao giảng. (38) Quý vị biết rõ: Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người. (39) Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. (40) Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, (41) không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. (42) Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. (43) Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội."
2.2 Trong bài đọc 2 (Cl 3,1-4): Anh em hãy tìm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự.
(1) Thưa anh em, anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. (2) Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. (3) Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. (4) Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 20,1-9): Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
(1) Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu."
(3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (6) Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
(1°) Trong bài đọc 1 (Cv 10, 34a.37-43), Thánh Phê-rô, Tông đồ Trưởng, làm chứng về Chúa Ki-tô Phục Sinh. Cách nói của Thánh Phê-rô thật đơn sơ, dễ hiểu giống như ngài kể chuyện, vừa sống động vừa đậm nét chứng từ cá nhân của ngài. Vắn gọn trong mấy lời, Thánh Phê-rô đã tóm tắt một cách đầy đủ, cả cuộc đời của Đức Ki-tô Giê-su: từ xuất xứ đến cách sống, cách chết cũng như sự kiện phục sinh và cả việc Người giao sứ mạng rao giảng và làm chứng cho các môn đệ. Đó là cốt lõi của Niềm Tin Ki-tô giáo chúng ta.
(2°) Trong bài đọc 2 (Cl 3,1-4), Thánh Phao-lô Tông đồ Dân Ngoại, lưu ý các tín hữu Cô-lô-xê phải sống thế nào cho phù hợp với hiện trạng và tư cách Ki-tô hữu của mìmh. Các tín hữu đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy là họ đã “cùng chết” và “được cùng trỗi dậy” với Đức Ki-tô. Vì thế họ phải tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, tức những gì thuộc về Chúa Ki-tô. Trước và sau khi được dội nước trên đầu (hay được dìm trong nước) là hai cách sống hoàn toàn khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Trước khi được thánh tẩy là sống theo tinh thần, tiêu chuẩn và các giá trị của trần gian. Sau khi được thánh tẩy là sống theo tinh thần, tiêu chuẩn và các giá trị của Chúa Ki-tô.
(3°) Trong bài Tin Mừng (Ga 20,1-9), Thánh Gio-an Tông Đồ kể lại SỰ KIỆN xẩy ra vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày thứ ba sau khi Đức Giê-su chết trên thập giá và được chôn cất trong ngôi mộ thuộc sở hữu của ông Giô-xép người thành A-ri-ma-thê. Hai người phụ nữ cùng có tên là Ma-ri-a ra thăm mộ vào sáng sớm, thì thấy ngôi mộ trống và xác Đức Giê-su không còn ở đó nữa. Các bà báo tin ngay cho các Tông Đồ. Ông Phê-rô và ông Gio-an cùng chạy đến mồ và cũng thấy như vậy.
Ngôi mộ trống chưa đủ chứng minh rằng Đức Giê-su đã “phục sinh từ cõi chết” mà mới xác định là thân xác Người không còn ở đó nữa. Nhưng với Tông đồ Gio-an thì chỉ bấy nhiêu cũng đủ rồi! Còn đối với những người khác thì sẽ có những bằng chứng hiển nhiên và đủ sức thuyết phục về sự kiện Đức Giê-su Na-da-rét đã trỗi dậy từ cõi chết. Đó là sự kiện Đức Giê-su Ki-tô phục sinh hiện ra với rất nhiều người thời bấy giờ.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh Chúa Nhật Phục Sinh là:
Đức Giê-su Na-da-rét đã được Thiên Chúa Cha toàn năng cho trỗi dậy từ cõi chết và cho xuất hiện tỏ tường trước mắt nhiều người.
Các Tông Đồ đã làm chứng về sự kiện đặc biệt ấy và các ngài đã lấy mạng sống mình làm bảo chứng cho lời tuyên xưng và rao giảng của mình.
Còn chúng ta là các Ki-tô hữu thì được mời gọi tin vào sự kiện Phục Sinh và làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh như Thánh Phê-rô đã dõng dạc tuyên bố: “CÒN CHÚNG TÔI ĐÂY XIN LÀM CHỨNG (Cv 10,39)!”
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng đã chết trên thập giá và đã phục sinh vinh hiển và dấn thân vào công cuộc làm chứng cho Người, để đáp lại Tình Yêu và Công Ơn của Người.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Thực thi sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là mỗi người/mỗi cộng đoàn Ki-tô tăng cường lòng tin vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh và nhiệt thành làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh của Người,
qua các việc làm cụ thể như sau:
a. tăng cường mối liên hệ mật thiết và riêng tư với Chúa Ki-tô Phục Sinh,
b. sống theo giáo huấn, mệnh lệnh và lời khuyên của Chúa Ki-tô Phục Sinh,
c. làm chứng về Mầu Nhiệm Nhập Thể (Người là Thiên Chúa thật và là người thật) và Vượt Qua của Người (Người đã chết trên thập giá và ba ngày sau đã trỗi dậy từ cõi chết) bằng cách xem thường những gì thuộc về trần gian và tìm kiếm những gì thuộc về Thiên Chúa tức những giá trị trường cửu.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm... và việc Người đã bị người ta treo lên cây gỗ mà giết đi, nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường.” Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban cho các dân tộc trên thế giới được ơn nhận biết và tin theo Đấng đã chết trên thập giá để cứu chuộc muôn người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 "Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa, biết noi theo cách sống hữu ích và vị tha của Chúa Giê-su Ki-tô, là Chúa và là Thầy cùa mọi Ki-tô hữu.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 "Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm và hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa." Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, biết ưu tiên tìm kiếm những gía trị cao cả trong cuộc sống.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết." Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu hy sinh thời gian cho việc học hỏi, giảng dậy và truyền bá Lời Chúa để mỗi ngày họ nhận ra dung mạo và sứ điệp của Chúa Giê-su Ki-tô một cách sâu sắc hơn!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần Thánh
Bài đọc: Exo 12:1-8, 11-14; I Cor 11:23-26; Jn 13:1-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình yêu Thiên Chúa: khiêm nhường phục vụ và yêu thương đến cùng.
Con người thường quan niệm: người có tài năng hay địa vị quan trọng không thể hạ mình làm các việc hèn kém; vì nếu làm như thế, người khác nhìn thấy sẽ khinh thường, và địa vị của họ sẽ bị giảm đi. Vì thế, nếu không được người khác nhận ra và trọng dụng tài năng, người có tài sẽ bất mãn và từ chối không tham gia; ví dụ, thành viên của HĐMV không được ăn nói trước công chúng, thành viên của ca đòan khi không được hát solo.
Các Bài Đọc hôm nay mở mắt cho chúng ta thấy thế nào là tình yêu và phục vụ của Thiên Chúa. Ngài là Đấng uy quyền dựng nên và điều khiển muôn lòai, thế mà luôn hạ mình để phục vụ và yêu thương mọi người, cho dẫu con người vô ơn và không xứng đáng với tình yêu của Ngài. Trong Bài Đọc I, vì quá yêu thương và muốn giải thóat người Do-thái khỏi cảnh nhục nhằn và tủi hổ của kiếp nô lệ, Thiên Chúa đã “cõng dân Do-thái như đại bàng cõng con trên cánh” ra khỏi đất Ai-cập và đưa dân vào Đất Hứa. Ngài truyền cho dân phải cử hành Lễ Vượt Qua để tưởng nhớ đến tình yêu và những việc Ngài làm. Trong Bài Đọc II, Chúa Giêsu sẵn sàng chịu bẻ nhỏ tấm bánh là thân thể của Ngài, và hy sinh đến giọt máu cuối cùng cho các môn đệ để tỏ tình yêu và nuôi sống các ông. Ngài cũng truyền cho các ông năng cử hành Thánh Lễ để dừng quên tình yêu của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy cho các tông đồ bài học khiêm nhường và yêu thương đến cùng bằng cách rửa chân cho các ông và Ngài cũng dạy: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lễ Vượt Qua của người Do-thái.
Lễ Vượt Qua là lễ trọng nhất trong ba lễ trọng của người Do-thái; vì là lễ kỷ niệm ngày Thiên Chúa đã dùng uy quyền của Ngài để đánh phạt vua Pharao, đưa dân Do-thái thóat khỏi làm nô lệ cho Ai-cập, và dẫn đưa dân vào Đất Hứa: “Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này: đó là luật quy định cho đến muôn đời.” Có nhiều điều tương xứng với Lễ Vượt Qua mơi của Đức Kitô; nên cần một sự hiểu biết chi tiết về Lễ Vượt Qua của người Do-thái.
1.1/ Con Chiên Vượt Qua: Ngày mừng Lễ Vượt Qua là 14 tháng Nissan (tháng tư): “Đức Chúa phán với ông Moses và ông Aaron trên đất Ai-cập: Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm.”
- Mỗi gia đình phải có một con chiên để ăn mừng Lễ Vượt Qua, và phải có sẵn vào ngày 10 tháng này: “Ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên.”
- Phẩm chất của con chiên đó: “phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Israel đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên.” Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng.
1.2/ Cách ăn Lễ Vượt Qua: Vì dân Do-thái phải ra đi vội vã và trong đêm tối, nên họ phải chuẩn bị sẵn sàng mọi sự: “lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy.” Vì vua Pharao từ chối không để cho dân Do-thái ra đi, nên Thiên Chúa sẽ sát hại tất cả các con đầu lòng trên đất Ai-cập: “Đêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì Ta là Đức Chúa.” Nhà dân Do-thái nào có máu chiên bôi trên cửa, thiên thần sẽ đi qua, và không vào tàn sát các con đầu lòng của họ.
Cuộc đời con người là một hành trình vượt qua, từ đời này đến đời sau. Giống như người Do-thái, chúng ta dễ bị cám dỗ làm nô lệ cho vật chất để bằng lòng với cuộc sống đời này, mà quên đi cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Để tránh nguy hiểm này, chúng ta hãy noi gương họ làm hai việc quan trọng:
(1) Luôn chuẩn bị sẵn sàng để lên đường về Nhà Cha bằng cách: “lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy.” Đừng sở hữu quá nhiều của cải, chúng ta sẽ ngại ngùng không dám lên đường.
(2) Có máu chiên bôi sẵn trên cửa: Máu Chiên chúng ta cần là Máu cực thánh của Đức Kitô đã đổ ra. Tham dự Thánh Lễ và rước lễ thường xuyên bảo đảm chúng ta khỏi bị tiêu diệt muôn đời.
2/ Bài đọc II: Mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, anh em loan truyền Chúa đã chịu chết.
Trong Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, Lễ Vượt Qua của Cựu Ước là hình ảnh Lễ Vượt Qua mới của Đức Kitô: Khi biết giờ Ngài sắp sửa vượt qua cuộc đời này để về cùng Thiên Chúa, Ngài đã yêu thương con người và yêu thương họ đến cùng; Chúa Giêsu làm cho con người hai việc chính:
2.1/ Hiến mình làm Chiên Vượt Qua để cứu độ con người: Máu chiên bôi trên cửa của nhà người Do-thái có sức mạnh để cứu các con đầu lòng và súc vật của họ; thịt chiên có sức mạnh để giúp họ vượt qua Biển Đỏ để vào Đất Hứa. Cũng vậy, Máu Thánh của Chúa Giêsu đổ ra có sức mạnh để cứu nhân lọai khỏi mọi tội; Mình Thánh giúp con người vượt qua mọi trở ngại của biển đời để vào đất Thiên Chúa hứa là thiên đàng.
2.2/ Lập Bí-tích Thánh Thể để tiếp tục ở lại với con người: Bữa Tiệc Ly chính là bữa tiệc Vượt Qua. Chúa Giêsu đã lập Bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly.
(2) Bánh không men chính là Mình Chúa: Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.”
(3) Máu của Chiên Vượt Qua chính là Máu Chúa: Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy."
Giống như Thiên Chúa truyền cho người Do-thái phải tái diễn Lễ Vượt Qua mỗi năm, Chúa Giêsu cũng truyền các tín hữu phải cử hành Bữa Tiệc Ly thường xuyên để loan truyền và hưởng lợi ích từ cuộc tử nạn của Ngài: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” vì yêu thương con người.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu khiêm nhường và yêu thương rửa chân cho các môn đệ.
3.1/ Chúa biết tất cả mọi sự sẽ xảy ra và Ngài sửa sọan tất cả: Thánh sử Gioan tường thuật ba điều quan trọng Chúa Giêsu biết rõ trước Cuộc Thương Khó của Ngài:
(1) Biết giờ của Ngài sắp về với Thiên Chúa: “Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha.”
(2) Biết giờ phải từ biệt các môn đệ: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng.”
(3) Biết giờ cứu độ cho con người sắp xảy ra: “Đức Giêsu biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người.”
3.2/ Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ: Ba điều biết quan trọng trên thúc đẩy Chúa Giêsu sẵn sàng tỏ tình yêu cho các môn đệ qua những việc mà các tông đồ không bao giờ dám nghĩ tới: Trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
- Cuộc đối thọai giữa Chúa Giêsu và Phêrô: Ông thưa với Người: "Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?" Đức Giêsu trả lời: "Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu." Ông Phêrô lại thưa: "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!"
Phêrô, cũng giống như bao nhiêu con người, ông nghĩ Chúa Giêsu, là Thầy và là Chúa, không thể hạ mình làm công việc hèn hạ như vậy. Khi Chúa Giêsu làm như thế, Ngài tự hạ mình xuống như một người đầy tớ.
- Chúa Giêsu cắt nghĩa cho Phêrô: "Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy." Ông Simon Phêrô liền thưa: "Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa." Đức Giêsu bảo ông: "Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!" Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: "Không phải tất cả anh em đều sạch."
Các nhà chú giải đều nhìn hành động rửa chân như là biểu tượng của Bí-tích Rửa Tội: phải được rửa sạch trước khi tội được tha để chung hưởng hạnh phúc với Chúa.
3.3/ Chúa Giêsu cắt nghĩa bài học rửa chân: Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là "Thầy," là "Chúa," điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.”
Rửa chân là công việc của đầy tớ. Chúa Giêsu làm công việc của đầy tớ để phục vụ các môn đệ. Ngài dạy các ông không có công việc hèn, nếu các ông muốn chứng tỏ tình yêu cho Thiên Chúa và cho tha nhân, hãy làm những công việc đó. Có một sự tương phản giữa cách thức suy nghĩ của Thiên Chúa và của con người: khi con người muốn làm lớn, họ tránh làm việc nhỏ. Chúa Giêsu dạy làm những việc nhỏ để trở thành lớn. Đây phải là bí quyết thành công Thiên Chúa muốn dạy con người: làm gương sáng trong những việc nhỏ là cách dạy tốt nhất, vì lời nói lung lay, gương bày lôi kéo. Nếu các nhà lãnh đạo và cha mẹ muốn thành công trong việc dạy dỗ, hãy làm gương sáng cho những người dưới quyền mình. Cha mẹ sẽ hiếm có cơ hội để chết cho con, nhưng những việc nhỏ như: nhịn ăn cho con, săn sóc con khi bệnh tật, đau khổ khi con buồn tủi, có hiệu quả tương tự như những việc lớn vậy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi yêu ai, chúng ta hãy bắt chước Thiên Chúa yêu người đó đến cùng; đừng yêu nửa chừng rồi bỏ, vì nếu làm như thế, chúng ta đã không trung thành, và hoang phí những gì mình đã cố gắng từ đầu. Làm như thế chúng ta sẽ mất thời giờ và có thể sẽ phải làm lại từ đầu lần nữa.
- Lãnh đạo bằng yêu thương và phục vụ, không bằng truyền lệnh và đòi được phục vụ, là cách lãnh đạo hiệu quả nhất. Khi con người cảm thấy mình được yêu thương và chăm sóc, họ sẽ theo nhà lãnh đạo đến cùng.
- Không có công việc hèn, chỉ có người hèn. Nếu muốn người khác làm việc đó, mình hãy làm gương thi hành trước. Chúng ta hãy cử hành Lễ Vượt Qua và “rửa chân cho anh chị em” thường xuyên để đừng bao giờ quên thế nào là yêu thương và phục vụ chân thành.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần Thánh
Bài đọc: Isa 50:4-9; Mt 26:14-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đương đầu với phản bội!
Con người phải đương đầu với phản bội và rất đau khổ khi bị phản bội, nhất là từ các người thân tín nghĩa thiết như: cha mẹ, vợ chồng, con cái, thầy trò, anh chị em, bạn hữu. Chúng ta phải làm gì khi phải đương đầu với phản bội? Một điều lợi ích: phản bội giúp chúng ta tìm ra đâu là tình yêu đích thực để trông cậy vào. Tiên tri Isaiah giúp chúng ta nhìn thấy ánh sáng: cho dù cha mẹ có bỏ chúng ta đi nữa, Thiên Chúa không bao giờ bỏ con cái của Ngài. Vì vậy, chúng ta cần chạy đến với Thiên Chúa để lấy sức mạnh và tình yêu mỗi khi đương đầu với phản bội.
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta biết khôn ngoan đương đầu với phản bội. Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaiah cho chúng ta thấy đâu là nguồn sức mạnh của Người Tôi Trung của Thiên Chúa: một khi có Thiên Chúa nâng đỡ và bảo vệ, Người Tôi Trung có thể đương đầu với bất cứ nghịch cảnh nào, và tin chắc sẽ thắng vượt tất cả. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu phải đương đầu với sự phản bội vì sự ham tiền của Judah; nhưng Ngài bình tĩnh loan báo tin buồn cho tất cả các tông đồ, ngay cả Judah; và can đảm tiến tới để lãnh nhận các đau khổ từ sự phản bội này. Ngài biết Thiên Chúa sẽ cho Ngài toàn thắng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!
1.1/ Sống làm chứng cho Thiên Chúa: Trước khi có thể chu tòan sứ vụ làm chứng cho Thiên Chúa, Người Tôi Trung phải biết dành thời giờ để cầu nguyện và lắng tai nghe như một người môn đệ: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.” Một khi đã hiểu biết kế họach khôn ngoan của Thiên Chúa, Người Tôi Trung sẽ không lùi bước trước những khó khăn trước mặt: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.”
Người Tôi Trung sẵn sàng chịu mọi cực hình để làm chứng cho Thiên Chúa: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.” Khi phải chịu cực hình, Người Tôi Trung chịu đựng với một niềm tin: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” Tất cả những điều này trở nên rõ ràng khi chúng ta chứng kiến Chúa Giêsu chịu mọi cực hình trong Cuộc Thương Khó của Ngài.
1.2/ Ai có thể thắng nổi Thiên Chúa? Nguồn sức mạnh của Người Tôi Trung là ở nơi Thiên Chúa, Đấng tạo dựng, quan phòng, xét xử, và yêu thương con cái Ngài. Ông hãnh diện tuyên xưng Thiên Chúa và thách thức mọi kẻ thù: “Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên. Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!
Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội? Này, tất cả chúng sẽ mục đi như chiếc áo, và sẽ bị mối ăn.” Sức mạnh và uy quyền của thế gian, nếu so sánh với quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa, chỉ như lấy trứng chọi vào đá.
2/ Phúc Âm: Judah Iscariot phản bội và bán Chúa.
2.1/ Lòng tham tiền thúc đẩy Judah Iscariot bán Chúa: “Bấy giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Judah Iscariot, đi gặp các thượng tế mà nói: "Nếu tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu." Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giêsu.” Judah biết rõ các thượng tế muốn giết Chúa Giêsu, và muốn lợi dụng cơ hội để làm tiền. Qua trình thuật này, chúng ta phải học được bài học về sức mạnh của đồng tiền: Nó có thể làm cho Judah bán Chúa, bán Thầy, và bán chính mình (Judah tự kết liễu đời mình). Tiền bạc chỉ là phương tiện giúp con người sinh sống, con người phải điều khiển nó, chứ không để nó điều khiển con người. Nếu con người để tiền bạc điều khiển mình, con người đã trở thành nô lệ cho tiền bạc, và sẽ phải lãnh mọi hậu quả như Judah. Con người cần sống đơn giản.
2.2/ Chúa Giêsu tuyên báo sự phản bội của Judah Iscariot.
(1) Ăn Lễ Vượt Qua: Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu: "Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?" Người bảo: "Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy: "Thầy nhắn: thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy." Các môn đệ làm y như Đức Giêsu đã truyền, và dọn tiệc Vượt Qua. Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. Lễ Vượt Qua là một trong 3 Lễ vô cùng quan trọng của người Do-thái, vì họ kỷ niệm biến cố Thiên Chúa dẫn đưa họ ra khỏi đất nô lệ của Ai-cập, và tiến vào Đất Hứa. Chúa Giêsu đã sắp đặt mọi sự sẵn sàng. Ngài chuẩn bị sẵn phòng ăn và tất cả những gì cần trối trăn cho các môn đệ trong Lễ Vượt Qua cuối cùng của Ngài với các ông.
(2) Tuyên báo sự phản bội: Đang bữa ăn, Chúa Giêsu nói: "Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy." Đây là một hung tin, thường thì người ta sẽ tránh loan tin buồn trong khi ăn, vì “trời đánh còn tránh miếng ăn;” nhưng đây là cơ hội cuối cùng của Chúa Giêsu với các đầy đủ các môn đệ, Chúa phải cho các ông biết trước khi sự việc xảy ra.
- Phản ứng của các tông đồ: Các môn đệ buồn rầu quá sức, lần lượt hỏi Người: "Thưa Ngài, chẳng lẽ con sao?" Tuy các ông không nộp Chúa như Judah; nhưng đã bỏ Chúa chạy hết, để Ngài phải đương đầu với Cuộc Thương Khó một mình.
- Phản bội bởi thân hữu gây đau khổ hơn của người dưng nước lã: Chúa Giêsu đáp: "Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!" Câu tuyên bố của Chúa đầu tiên không chỉ đích danh ai phản bội, vì cả Nhóm Mười Hai đều chấm chung một đĩa với Chúa. Dĩ nhiên, phải có Judah thì Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa mới thành tựu; tuy nhiên, không phải Thiên Chúa tiền định cho Judah Iscariot phải phản bội Chúa, vì không khó để kiếm một Judah khác trong thế giới này.
- Phản ứng của Judah, kẻ nộp Người: Hắn cũng hỏi: "Rabbi, chẳng lẽ con sao?" Người trả lời: "Chính anh nói đó!" Đã phản bội còn có can đảm để đóng kịch, Chúa Giêsu không muốn tố cáo Judah, nhưng Ngài phải nói cho Judah biết sự thật. Điều ngạc nhiên ở đây là không thấy các tông đồ khác phản ứng. Có lẽ Chúa nói nhỏ đủ để cho mình Judah nghe mà thôi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Phản bội xảy ra thường xuyên trong cuộc đời con người. Chúng ta cần bình tĩnh cầu nguyện để đối phó. Sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua những cơn khủng hoảng này.
- Chúng ta có thể đương đầu với mọi phản bội bao lâu chúng ta còn Chúa. Judah Iscariot không thể đương đầu vì ông không còn sức mạnh và niềm tin nơi Thiên Chúa.
- Cần tập luyện để có một niềm tin sắt đá vào Thiên Chúa. Khi phải đối diện với phản bội, chúng ta đã có sẵn khí cụ để dùng. Không thể chờ đến lúc đó mới đi tìm niềm tin và sức mạnh.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần Thánh
Bài đọc: Isa 49:1-6; Jn 13:21-33, 36-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người Tôi Trung hoàn toàn tin cậy nơi Thiên Chúa.
Con người thường có khuynh hướng muốn nhìn thấy kết quả ngay; và dễ nản chí bỏ cuộc khi đã cố gắng hết sức mà vẫn không có kết quả gì. Trong những lúc như thế, con người dễ than thân trách phận, trách Trời, và trách người. Hậu quả là con người dễ bỏ đường lối của Thiên Chúa để chạy theo các cách thức của mình, của thế gian, hay của ma quỉ.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những tấm gương để dạy con người phải biết hoàn toàn trông cậy nơi Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Người Tôi Trung nhiều khi cảm thấy những cố gắng của mình hoài công vô ích; nhưng sau khi định thần nhìn lại, ông quyết định tiến tới vì ông biết Thiên Chúa sẽ cho ông phần thưởng sau cùng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chắc cũng phải nhụt chí khi phải đương đầu với sự phản bội của Judah, và nhất là của Phêrô, người Chúa đặt kỳ vọng rất nhiều vào ông; nhưng Chúa vẫn can đảm tiến tới. Ngài tin tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho Ngài chiến thắng sau cùng; qua đau khổ của Thập Giá là sự sống lại hiển vinh.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ hai về Người Tôi Trung của Thiên Chúa
1.1/ Phải ghi nhớ muôn đời những gì Thiên Chúa đã làm, và loan báo cho mọi người được biết: Người Tôi Trung tường thuật những gì Thiên Chúa đã làm cho ông: “Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây, hỡi các dân tộc miền xa xăm, hãy chú ý: Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người.” Tất cả những gì tôi sở hữu đến giờ này là do Người ban: tài năng, sức mạnh, sự hiểu biết. Người bảo vệ tôi như người dũng sĩ cất giấu các mũi tên bên mình, chứ không hoang phí một mũi tên nào.
Sẽ có những lúc Người Tôi Trung cảm thấy mệt mỏi, vì thấy những cố gắng của mình bị khoang phí và không mang lại kết quả như lòng mong ước, và phải thốt lên: "Tôi vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì." Nhiều khi Người Tôi Trung còn phải lãnh nhận những hậu quả ngược lại điều mong ước: phản bội thay vì thương yêu, oán thù thay vì ân nghĩa.
1.2/ Phải tin tưởng hoàn toàn vào sức mạnh của Thiên Chúa:
(1) Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi: Những lúc chao đảo như thế, Người Tôi Trung cần định thần để nhớ lại đâu là nguồn sức mạnh đích thực của mình, và đâu là sứ vụ đã được trao phó: “Nhưng sự thật, đã có Đức Chúa minh xét cho tôi, Người dành sẵn cho tôi phần thưởng. Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng. Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Jacob về cho Người và quy tụ dân Israel chung quanh Người. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.”
(2) Không chỉ giải thóat Israel, mà còn trở nên ánh sáng cứu độ cho tòan thế giới: Sứ vụ của Người Tôi Trung không chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Do-thái, nhưng được mở rộng cho tòan thế giới, vì như Thiên Chúa phán: "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Jacob, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất."
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu tuyên bố sự phản bội của Judah và của Phêrô.
2.1/ Sự phản bội của Judah Iscariot: Đức Giêsu cảm thấy tâm thần xao xuyến khi phải đương đầu với sự phản bội của Judah, và nhất là phải báo tin cho các tông đồ biết thời giờ đã điểm. Chúa có thể làm ngơ để chuyện gì phải đến sẽ đến, nhưng Chúa muốn chuẩn bị tâm hồn cho các ông để họ đừng ngỡ ngàng khi nó xảy ra; và nhất là biết những chuyện xảy ra đã được xếp đặt trước. Người tuyên bố: "Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy." Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. Trong số các môn đệ, có một người được Đức Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giêsu. Ông Simon Phêrô làm hiệu cho ông ấy và bảo: "Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?" Ông này liền nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu và hỏi: "Thưa Thầy, ai vậy?"
Chúa Giêsu cho Judah biết sự phản bội của ông: Để khỏi gây hoang mang và ngộ nhận giữa các tông đồ, và cũng để cho Judah biết không có gì ông tính tóan qua được mắt Chúa, Ngài nói: "Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy." Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Judah, con ông Simon Iscariot. Có lẽ chỉ có 3 hay 4 người biết kẻ phản bội: Chúa Giêsu, đương sự, Phêrô và Gioan. Khi biết kế họach bị bại lộ; ngay khi Judah vừa ăn xong miếng bánh, Satan liền nhập vào y. Đức Giêsu bảo y: "Anh làm gì thì làm mau đi!" Judah liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối. Thánh sử Gioan muốn nhấn mạnh cho độc giả hiểu thế nào là “trời đã tối:” trời tối vì khi ăn Lễ Vượt Qua, trời bên ngòai đã vào đêm; nhưng tâm hồn của Judah từ lúc đấy cũng trở nên tăm tối, vì đã quay lưng lại với nguồn ánh sáng chân thật là Thầy mình.
2.2/ Chúa Giêsu nhận ra vinh quang Ngài nhận được giữa hai sự phản bội: Khi Judah đi rồi, cái chết trên Thập Giá chắc chắn sẽ xảy ra. Khi điều đó xảy ra là lúc Chúa Giêsu được tôn vinh. Vinh quang Chúa Giêsu có được là qua con đường Thập Giá: không qua gian khổ sẽ không đạt tới vinh quang. Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người: Chúa Giêsu đã cho Thiên Chúa danh dự và vinh quang tối cao vì Ngài vâng lời Thiên Chúa cho đến nỗi bằng lòng chết trên Thập Giá. Nhờ sự vâng lời của Ngài, kế hoạch của Thiên Chúa cho con người thành sự thật: con người nhận ra tất cả những gì Chúa Con nói là sự thật, và sẵn sàng hy sinh đáp trả tình yêu Thiên Chúa dành cho họ. Khi Thiên Chúa được tôn vinh, Ngài cũng sẽ tôn vinh Chúa Con. Ngài không những tôn vinh Chúa Con, mà còn siêu tôn Ngài bằng cách: cho sống lại, lên trời, trao vương quốc, và ban một danh hiệu trổi vượt hơn muôn ngàn danh hiệu (x/c Phi 2:10-11).
2.3/ Sự phản bội của Phêrô: Chúa Giêsu biết rõ tính tình của Phêrô: nhanh nhẩu đoảng, hứa đấy rồi quên đấy. Ông rất nhiệt thành, nghĩ sao nói vậy; sống về trái tim hơn là về trí óc. Vì thế, Chúa nhắc nhở ông: “Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.” Chúa Giêsu biết cả quá khứ, hiện tại, và tương lai của Phêrô. Đó là lý do tại sao Chúa nói với ông: "Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo." Ông chưa sẵn sàng theo Chúa hẳn lúc này, nhưng sẽ đến ngày ông sẽ cùng đi con đường thập giá với Chúa; lúc đó, lời ông nói “Con sẽ thí mạng con vì Thầy!” thành hiện thực.
Có một sự khác biệt lớn giữa hai sự phản bội của Judah và của Phêrô: Sự phản bội của Judah là sự phản bội có tính toán; sự phản bội của Phêrô là sự phản bội vì yếu đuối, xảy ra cách đột xuất vì không chuẩn bị. Sự phản bội của Judah không dành chỗ cho hối hận và trở lại; sự phản bội của Phêrô tức khắc quay về khi nhận ra mình đã làm điều đó: “Ông òa lên khóc!” (Mk 14:72).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Có những lúc chúng ta cảm thấy chán chường, mệt mỏi, và muốn bỏ cuộc; vì những cố gắng của chúng ta dành cho Chúa đã không mang lại kết quả tốt đẹp, lại còn đưa đến chia ly, phản bội. Khi phải đối diện với những giờ phút như thế, chúng ta phải nhớ lại hình ảnh Người Tôi Trung và Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly. Cứ can đảm tiến tới, vì Thiên Chúa luôn đồng hành, và Ngài là Người sẽ ban cho chúng ta phần thưởng sau cùng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần Thánh
Bài đọc: Isa 42:1-7; Jn 12:1-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người Tôi Trung thực thi sứ vụ tới cùng.
Chúng ta bước vào Tuần Thánh, Tuần cực trọng nhất của Năm Phụng Vụ. Các Bài Đọc tuần này tập trung hòan toàn vào Chúa Giêsu, Người Tôi Trung của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ nghe tất cả Bốn Bài Ca về Người Tôi Trung của Thiên Chúa từ tiên tri Isaiah: Bài ca thứ nhất hôm nay, Bài ca thứ hai ngày mai, Bài ca thứ ba ngày thứ tư, và Bài ca thứ bốn trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Mỗi Bài ca cho chúng ta nhìn thấy những khía cạnh khác nhau của Người Tôi Trung; tổng kết tất cả bốn Bài ca cho chúng ta cái nhìn rõ ràng về con người và sứ vụ của Đức Kitô, Người Tôi Trung của Thiên Chúa. Chúng ta có thể đối chiếu những điều này với những gì xảy ra cho Ngài trong tuần cuối cùng trên trần thế để biết rằng: Tất cả đã được sắp xếp bởi Thiên Chúa, mặc khải bởi tiên-tri Isaiah 700 năm trước công nguyên, và hòan thành bởi Đức Kitô.
Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaiah nói về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và Người Tôi Trung, sứ vụ của Ngài là làm sáng tỏ đức công chính của Thiên Chúa, và cách Ngài đạt mục đích là qua thái độ khiêm nhường phục vụ, thương yêu mọi người, và trung thành đến cùng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thẳng thắn phê bình Judah để bảo vệ hành động yêu thương Chúa của Maria. Ngài không sợ âm mưu của bạo lực khi cho Lazarô sống lại từ cõi chết và dùng bữa với chị em ông tại Bethany.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ nhất về Người Tôi Trung của Thiên Chúa:
1.1/ Liên hệ giữa Thiên Chúa và Người Tôi Trung: Đây không phải là một người thường, nhưng là Người được Thiên Chúa tuyển chọn: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho Thần Khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân.”
Thiên Chúa, Đấng sáng tạo mọi sự trong vũ trụ, Đấng trải rộng mặt đất với hoa màu tràn lan, Đấng ban hơi thở cho dân trên mặt đất, ban sinh khí cho toàn thể cư dân. Người phán thế này: "Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta."
1.2/ Sứ vụ và cách đạt mục đích của Người Tôi Trung:
(1) Sứ vụ của Người Tôi Trung: làm sáng tỏ công lý của Thiên Chúa trước mặt muôn dân: “Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.”
(2) Cách thi hành sứ vụ: Rất khác với cách của con người thường. Những đức độ của Người Tôi Trung được tiên tri Isaiah mô tả như sau:
- Khiêm nhường: “Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường.”
- Thương yêu: “Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi.”
- Trung thành đến cùng: “Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu khiển trách Judah Iscariot và bảo vệ hành động của Maria.
Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu đến làng Bethany, nơi anh Lazarô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giêsu; cô Martha lo hầu bàn, còn anh Lazarô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người.
2.1/ Hai con người với hai thái độ ngược nhau:
(1) Maria yêu Chúa không tính tóan: “Cô Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm.” Đây là lần thứ hai Maria được tường thuật ngồi dưới chân Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Luca, cô được Chúa Giêsu khen, vì đã ngồi dưới dân Chúa để nghe lời Người trong khi chị Martha bận rộn để nấu ăn đãi khách. Cách cô tỏ tình yêu cho Chúa Giêsu cũng khác mọi người; điều này chứng tỏ khi con người sống trong tình yêu, họ có nhiều sáng tạo trong cách bày tỏ tình yêu của họ.
- Cô dám dùng tới một cân dầu thơm để xức chân Chúa Giêsu mà Judah uớc tính trị giá tới 300 quan tiền; thông thường người ta chỉ xức vài giọt nếu dầu thơm quí giá như vậy. Cô không tính toán với Chúa vì cô chắc chắn được Chúa cho biết sẽ không còn nhìn thấy Chúa trên cõi dương gian này nữa. Cô có lẽ là người yêu thương và hiểu biết Chúa hơn cả trong tuần lễ cuối cùng của Ngài trên dương gian.
- Tóc rất quí với phụ nữ và họ chăm sóc chải chuốt nó mỗi ngày; thế mà cô lại dùng tóc để lau chân Chúa thay vì dùng khăn như thói thường. Hành động này chứng tỏ tình yêu của cô dành cho Chúa. Thông thường người phụ nữ rất kín đáo khi tỏ tình yêu, cô Maria can đảm làm những điều này trước mặt mọi người.
(2) Judah Iscariot luôn tính tóan và phê bình: Thấy hành động của cô, một trong các môn đệ của Đức Giêsu là Judah Iscariot, liền nói: "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?" Judah được Chúa và các tông đồ trao cho sứ vụ quản lý. Nếu cô Maria muốn giúp người nghèo, 300 quan tiền đó chắc chắn sẽ được trao cho hắn. Thánh sử Gioan có lẽ đã biết tính tình của Judah nên chú thích: “Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung.” Vì Judah không ở trong tình yêu nên không biết tình yêu là gì! Khi một người so sánh tình yêu với tiền bạc, người đó không hiểu giá trị của tình yêu.
2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu và các thượng tế:
(1) Phản ứng của Chúa Giêsu: Ngài nói: "Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy. Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu." Chúa biết ngày Ngài sắp chết đã gần kề và Ngài biết ý định của Maria khi cô làm những hành động này. Chỉ có ai ở trong tình yêu mới hiểu nổi ý tưởng của nhau mà người ngọai cuộc không bao giờ hiểu được. Chúa Giêsu trưng dẫn lý do xác đáng để bênh vực hành động của Maria: con người không có Chúa Giêsu mãi mãi.
(2) Phản ứng của các thượng tế: Biến cố hôm nay xảy ra sau khi Chúa Giêsu đã làm một phép lạ cả thể: cho Lazarô đã chết 3 ngày sống lại. Đó là lý do trình thuật kể: “Một đám đông người Do-thái biết Chúa Giêsu đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Chúa Giêsu, nhưng còn để nhìn thấy anh Lazarô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết.” Khi nhìn thấy đám đông, các thượng tế quyết định giết cả Chúa Giêsu lẫn Lazarô, vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin vào Chúa Giêsu.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Giống như Chúa Giêsu được Thiên Chúa trao cho một sứ vụ khi vào cuộc trần này, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa trao cho một sứ vụ. Chúng ta hãy tìm ra sứ vụ đó để thi hành tới cùng.
- Cách thức của Thiên Chúa rất khác với cách thức của con người. Để thực thi sứ vụ, Ngài đòi chúng ta phải khiêm nhường phục vụ, trung thành yêu thương, và chấp nhận gian khổ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
CHIÊM NGẮM & YÊU MẾN
ĐỨC GIÊ-SU TRONG CUỘC THƯƠNG KHÓ
CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM B (29/03/2015)
[Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mc 15,1-39]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Tuần Thánh bắt đầu bằng Lễ Lá. Trong phụng vụ Lời Chúa, Mẹ Giáo Hội cho đọc Bài Thương Khó theo Tin Mừng Mác-cô.
Vì không có nhiều thời gian, nên xin đề nghị quý bạn hãy đọc chậm rãi ba Bài Thánh Kinh và hướng mắt hướng lòng về Chúa Giê-su Ki-tô mà chiêm ngắm và yêu mến Người.
Sau mỗi đoạn Thánh Kinh, bạn có thể thầm thĩ với Chúa:
“Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ con, con yêu mến Chúa!”
II.- BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Bài đọc I của ngôn sứ I-sai-a (50,4-7): Bài ca người tôi trung (là Chúa Giê-su Ki-tô)
4 Đức Chúa là Chúa Thượng
đã cho tôi nói năng như một người môn đệ,
để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.
Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi
để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.
5 Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.
6 Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
7 Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
2.2 Bài đọc 2 của Thánh Phao-lô (Pl 2,6-11): Thánh thi ca tụng Chúa Giê-su Ki-tô tự hạ tự hủy
6 Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
7 nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
8 Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.
9 Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
10 Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su,
cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ,
muôn vật phải bái quỳ ;
11 và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng :
"Đức Giê-su Ki-tô là Chúa".
2.3 Bài Thuơng Khó theo Tin Mừng Mác-cô (Mc 15,1-39):
1 Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giê-su lại và giải đi nộp cho ông Phi-la-tô.
2 Ông Phi-la-tô hỏi Người: "Ông là vua dân Do-thái sao?" Người trả lời: "Đúng như ngài nói đó." 3 Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, 4 nên ông Phi-la-tô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì sao ? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" 5 Nhưng Đức Giê-su không trả lời gì nữa, khiến ông Phi-la-tô phải ngạc nhiên.
6 Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. 7 Khi ấy có một người tên là Ba-ra-ba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. 8 Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. 9 Đáp lời họ yêu cầu, ông Phi-la-tô hỏi : "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái không?" 10 Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. 11 Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba thì hơn. 12 Ông Phi-la-tô lại hỏi: "Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?" 13 Họ la lên: "Đóng đinh nó vào thập giá!" 14 Ông Phi-la-tô lại hỏi: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập giá!" 15 Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Phi-la-tô phóng thích tên Ba-ra-ba, truyền đánh đòn Đức Giê-su, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.
16 Lính điệu Đức Giê-su vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. 17 Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. 18 Rồi chúng bái chào Người : "Vạn tuế đức vua dân Do-thái!" 19 Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. 20 Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá.
21 Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê. Ông là thân phụ hai ông A-lê-xan-đê và Ru-phô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giê-su. 22 Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ.
23 Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống. 24 Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. 25 Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. 26 Bản án xử tội Người viết rằng: "Vua người Do-thái". 27 Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. (28 Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp.)
29 Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, 30 có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!" 31 Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. 32 Ông Ki-tô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin." Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.
33 Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. 34 Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: "Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" 35 Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói : "Kìa hắn kêu cứu ông Ê-li-a." 36 Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói : "Để xem ông Ê-li-a có đến đem hắn xuống không." 37 Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. 38 Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. 39 Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa."
III.- CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
3.1 «Người lại còn hạ mình cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết treo trên cây thập tự» Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho các dân tộc các quốc gia trên thế giới sớm nhìn nhận Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa, Đấng đã chết trên thập giá để cứu chuộc mọi người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
3.2 «Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa, để ai nấy biết noi theo gương vâng phục thánh Ý Cha của Chúa Giê-su Ki-tô, là Chúa và là Thầy cùa mọi Ki-tô hữu.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
3.3 «Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy càng ngày càng xác tín và sống mật thiết hơn với Đấng bị đóng đinh thập giá.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
3.4 «Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, Người này là Con Thiên Chúa.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em tân tòng của các giáo xứ để họ vững lòng tin vào Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật Lễ Lá, Năm B
Bài đọc: Isa 50:4-7; Phi 2:5-11; Mk 14-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô
Con người không thích kỷ luật, kiêng khem, luyện tập; nhưng các lực sĩ không thể thắng huy chương nếu không qua tiến trình này. Trên bước đường thiêng liêng cũng thế, con người cũng phải trải qua một tiến trình tương tự, nhất là phải được thử thách bằng gian nan đau khổ, để minh chứng đức tin vững mạnh của họ vào Thiên Chúa, như thánh Phaolô và tục ngữ Việt-nam đã từng nói: “lửa thử vàng, gian nan khốn khó thử nhân đức.” Người có nhân đức là người đã trải qua một tiến trình luyện tập, và đã thắng vượt mọi gian nan đau khổ, mới có thể trở nên hòan thiện như vậy.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những lý do khác nhau của việc chịu đau khổ của Đấng Thiên Sai. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah tường thuật sự đau khổ của Người Tôi Trung của Thiên Chúa trong Bài Ca Thứ Ba. Mục đích là để Ngài có thể an ủi những ai cũng phải ngang qua con đường đau khổ đó. Trong Bài Đọc II, Chúa Giêsu phải ngang qua con đường đau khổ để đạt tới tuyệt đỉnh của vinh quang mà Thiên Chúa đã siêu tôn và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Trong Phúc Âm, Marcô tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Mục đích là để Ngài gánh tội cho nhân loại, và trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhiều người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ ba về Người Tôi Trung của Thiên Chúa chịu đau khổ.
1.1/ Người Tôi Trung chịu đau khổ vì tin vào Thiên Chúa: Là con người ai, cũng sợ đau khổ; nhưng sở dĩ họ có can đảm để chịu đau khổ, vì họ có một niềm tin vững chắc vào hậu quả sẽ đạt tới; chẳng hạn, huy chương cho các lực sĩ, sự giải thóat của Thiên Chúa cho các con của Ngài.
Người Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, Ngài tuyên xưng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.”
1.2/ Người Tôi Trung biết nâng đỡ những ai chịu đau khổ: Không những chỉ lãnh nhận huy chương sau cuộc đua, người lực sĩ còn có những phần thưởng khác kèm theo: sức khỏe dẻo dai, ý chí kiên cường … Người Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, ngoài việc được tuyên dương bởi Chúa Cha, Ngài còn có thể nâng đỡ những ai đang phải chịu đau khổ. Ngài nói: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.”
2/ Bài đọc II: Đức Giêsu Kitô trải qua đau khổ để đạt tới vinh quang.
2.1/ Đức Kitô khiêm nhường chịu đau khổ: Thánh Phaolô dùng gương của Chúa Giêsu chịu đau khổ để khuyên bảo các tín hữu Philipphê: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây Thập Tự.”
Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình chấp nhận một thân thể như con người. Điều này làm người Hy-lạp không thể hiểu nổi, vì trong khi họ đang tìm cách thóat ra khỏi thân xác mà họ coi là ngục tù của linh hồn; thì Chúa Giêsu lại muốn bị giam hãm trong một thân xác để nên giống con người. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn có uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa để dẹp tan các đau khổ; nhưng Ngài tự nguyện theo con đường của Chúa Cha, chấp nhận chết trên Thập Giá để chuộc tội cho con người.
2.2/ Thiên Chúa đã siêu tôn Đức Kitô: Vì không ai khiêm nhường, vâng lời, hy sinh chịu đau khổ như Chúa Giêsu; nên như một hậu quả, không ai được hưởng vinh quang như Ngài. Thánh Phaolô xác tín: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Kitô là Chúa."”
Chúa Giêsu và Thánh Phaolô cũng dùng gương sáng này để dạy các môn đệ và các tín hữu: “Ai trong các con muốn làm lớn nhất, hãy trở nên rốt hết và phục vụ mọi người” (Lk 22:26). “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rom 8:17b).
3/ Phúc Âm: Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu theo Thánh Marcô
3.1/ Chuẩn bị Cuộc Thương Khó: Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi; vì họ nói: "Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động."
Lễ Vượt Qua rơi vào ngày 14 tháng tư. Lễ Bánh Không Men kéo dài 7 ngày sau Lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua là một trong 3 lễ chính của người Do-thái. Các người Do-thái nam, đã đến tuổi trưởng thành, và sống trong khỏang 15 dặm của Jerusalem, phải lên Đền Thờ để mừng Lễ Vượt Qua. Luật ngày Sabbath áp dụng cho các lễ này. Các thượng tế và kinh sư có lý do để lo sợ, vì dân chúng tụ họp rất đông ở Jerusalem trong ngày Lễ Vượt Qua. Các thượng tế và kinh sư thường phải cầu viện với quân đội Roma để tăng cường an ninh trong những ngày này; nhất là tại cứ điểm Antonia Fortress, cạnh Đền Thờ. Theo sử gia Josephus, dân chúng có thể lên tới 2, 3 triệu người, cứ 10 người sát tế một con chiên. Lễ Vượt Qua có lịch sử trong biến cố Xuất Hành của dân Do-thái ra khỏi Ai-cập. Trong đêm này, sứ thần của Thiên Chúa sẽ vào nhà tàn sát tất cả các con đầu lòng của người Ai-cập; nhưng nhà nào có máu chiên bôi trên cửa, các sứ thần sẽ băng ngang qua và không vào tàn sát.
Trong Kế Họach Cứu Độ, Thiên Chúa cũng muốn dùng chính ngày Lễ này, để bắt đầu một Lễ Vượt Qua mới: ngày mà Chúa Giêsu sẽ từ giã cuộc đời này mà về lại với Chúa Cha; ngày mà toàn dân Thiên Chúa được cứu thoát khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết, nhờ máu Con Chiên là Chúa Giêsu Kitô đổ ra để chuộc tội cho nhân lọai, và đưa họ về cho Thiên Chúa.
(1) Xức dầu thơm táng xác Chúa và sự phản bội của Judah Iscarioth:
- “Lúc đó, Chúa Giêsu đang ở làng Bethany, tại nhà ông Simon Cùi. Giữa lúc Người dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người.” Bethany là một làng nhỏ, nơi mà Chúa thường xuyên lui tới và cho Lazarus sống lại. Làng này nằm trên một ngọn đồi, đối diện với Jerusalem, và được kể như vùng ngọai ô. Khách tới Jerusalem dự lễ có thể hợp pháp trú ngụ tại đây để mừng lễ. Ai là người phụ nữ đã tỏ hành động yêu thương này với Chúa Giêsu? Có người cho là Mary, em của Martha, người ngồi dưới chân Chúa Giêsu và nghe lời Người, khi Chúa Giêsu đến dùng bữa với hai chị em lần trước. Theo lệ thường, họ chỉ rửa chân và xức vài giọt nước hoa trên đó; nhưng người phụ nữ này dường như đã biết trước những gì sẽ xảy ra cho Chúa Giêsu, cô đập tan nát bình để lấy dầu thơm đổ trên đầu Người.
- Phản ứng của khách dự tiệc: Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau: "Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo." Rồi họ gắt gỏng với cô. Bethany còn được mệnh danh theo tiếng Do-thái là “nhà của người nghèo, beth aôni.” Có lẽ đó là lý do mà người ta gắt gỏng với cô. Ba trăm quan là một số tiền lớn, tương xứng với 300 ngày làm việc.
- Phản ứng của Chúa Giêsu: "Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô." Chúa Giêsu biết rõ ý định của người phụ nữ: ướp xác khi Ngài còn đang sống. Có những lúc cần phải tiêu những món tiền lớn để tỏ tình yêu và sự quan tâm đến người mình yêu; chứ không phải lúc nào cũng so đo tính tóan hơn thiệt. Những gì Chúa Giêsu nói tiên tri trở thành hiện thực. Người phụ nữ tỏ tình yêu cho Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử; mỗi năm, cô đều được mọi người công khai nhớ tới.
- Ngược lại với tình yêu chân thành và không tính tóan hơn thiệt của người phụ nữ là hành động tính tóan và phản bội của Judah Iscarioth: “một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Judah liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.” Trình thuật của Matthew nói rõ số tiền bán Chúa là 30 đồng tiền bạc (Mt 16:15). Gioan nói rõ Judah là quản lý của Nhóm Mười Hai, và thường ăn bớt tiền để tiêu riêng (Jn 12:6). Chúng ta phải rất cẩn trọng, vì lòng ham mê tiền bạc làm con người coi thường tín nghĩa; nó có thể làm con người quay lưng lại với sự thật, tình yêu, và sự trung tín.
- Có người cho sở dĩ Judah hành động như thế là để bắt Chúa Giêsu phải ra tay hành động như một Đấng Thiên Sai uy quyền mà dân chúng mong mỏi; nhưng khi Judah tìm ra sự thật – Chúa chết đau khổ thực sự - thì đã quá muộn, hắn quăng tiền trở lại cho người trả hắn; và xấu hổ ra đi thắt cổ tự vẫn! (Mt 27:3-5).
(2) Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Chúa Giêsu: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?"
- Chúa Giêsu luôn sẵn sàng mọi sự, Ngài không để sự gì “nước tới chân mới nhảy.” Giống như khi Ngài chuẩn bị để có một con lừa để cỡi khi long trọng vào Thành, Chúa Giêsu cũng chuẩn bị sẵn một căn phòng để cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ. Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: "Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: "Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?” Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta." Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
- Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua và lời tiên đóan phản bội: “Chiều đến, Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai cùng tới. Đang khi dùng bữa, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy." Người đáp: "Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. "
- Phản ứng của Chúa Giêsu: Rất can đảm và tự tin nơi kế họach của Thiên Chúa. Ngài có thể chỉ rõ Judah là người toan tính phản bội, hắn sẽ không thóat khỏi bàn tay của các tông-đồ khác, và Ngài sẽ thóat khỏi kế họach của hắn. Nhưng Chúa Giêsu không tố cáo Judah, Ngài cho hắn cơ hội để trở lại; nhưng Judah có tự do và đã chọn để làm ngơ trước lời cảnh cáo của Ngài: “Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”
- Phản ứng của các môn đệ: Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi Người: "Chẳng lẽ con sao?" Các môn đệ không biết người sẽ phản bội là ai trong trình thuật của Marcô, và cũng không ngờ người phản bội là Judah. Các ông có lẽ cũng biết sự yếu đuối của mình nên lần lượt hỏi Chúa như vậy.
(3) Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể, Lễ Vượt Qua mới: Đang bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa." Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ôliu.
- Trong bối cảnh của Lễ Vượt Qua cũ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài hiểu những gì sắp xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới. Giống như các ngôn sứ của Cựu Ước phải dùng biểu tượng và hành động, khi dân chúng đã quá quen và không còn hiểu được những gì Thiên Chúa muốn dạy dỗ qua các ngôn sứ nữa; chẳng hạn, Ahijah đã xé chiếc áo ra 12 mảnh và cho Vua Jeroboam 10 mảnh tượng trưng cho 10 chi tộc muốn Vua là người lãnh đạo của họ (1 Kgs 11:29-32), hay tiên-tri Jeremiah làm xiềng xích và gông cùm đeo vào người để cho dân biết những điều như vậy sẽ xảy đến cho dân trong tương lai (Jer 27:2). Chúa Giêsu cũng dùng hai biểu tượng của Lễ Vượt Qua cũ để các tông đồ hiểu những gì xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới:
* Giống như tấm bánh không men bị bẻ ra cho mọi người ăn, Mình Ta cũng bị bẻ ra như vậy cho các con. Giống như ly rượu tạ ơn (ly thứ ba), Máu Ta cũng sẽ bị đổ ra như vậy để nhiều người nhận được ơn tha tội.
* Giao ước cũ Thiên Chúa thiết lập với dân là Giao-ước Sinai (Exo 24:3-8). Theo Giao-ước này, Thiên Chúa sẽ săn sóc và bảo vệ dân như dân của Ngài, phía người Do-thái, họ phải giữ cẩn thận Thập Giới. Vì người Do-thái đã vi phạm Giao-ước cũ bằng việc không giữ các Lề Luật, nên Chúa Giêsu phải thiết lập với dân một Giao-ước mới. Theo Giao-ước mới này, Máu của Chúa Giêsu phải đổ ra để chuộc tội cho con người. Họ không còn tùy thuộc vào Lề Luật để được sự săn sóc của Thiên Chúa; nhưng hòan tòan tùy thuộc vào tình yêu của Ngài, đặt căn bản trên Máu của Chúa Giêsu sắp đổ ra.
- Khi nói những lời này, Chúa Giêsu xác tín hai điều: (1) Ngài biết Ngài sắp chết, nhưng Ngài cũng biết Nước Thiên Chúa sắp tới. Ngài biết sẽ phải vác Thập Giá, nhưng vinh quang sẽ theo Ngài sau đó. (2) Tình yêu của Thiên Chúa và của Ngài cho con người sẽ thắng vượt tất cả các tội lỗi của họ.
(4) Chúa Giêsu tiên đoán sự phản bội của các môn đệ: Chúa Giêsu nói với các ông: "Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilee trước anh em."
- Chúa Giêsu biết trước và đã chuẩn bị hết những gì có thể cho các tông đồ: dạy dỗ, biến hình, báo trước ... nhưng những gì xảy ra sẽ phải xảy ra, đó là sự bỏ chạy của các ông. Ngài tin các ông sẽ nhận ra sự thật và tin vào Ngài chắc chắn hơn sau Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài.
- Phêrô không biết sức yếu đuối của mình, nên ông thưa Ngài: "Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không." Chúa Giêsu nói với ông: "Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần." Nhưng ông Phêrô lại nói quả quyết hơn: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy." Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Chỉ có Thiên Chúa biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho con người, con người không biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho mình. Vì thế, phải tin những gì Thiên Chúa nói hơn những gì loài người hay chính mình nói.
(5) Chúa Giêsu cầu nguyện trong Vườn Ghetsemane: Sau đó, Chúa Giêsu và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghetsemane. Người nói với các ông: "Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện." Rồi Người đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức." Trong giờ hấp hối trước Cuộc Thương Khó sắp tới, Chúa Giêsu muốn có sự liên hệ mật thiết với Cha Ngài và với các môn đệ; nhưng Ngài không nhận được sự đáp trả của bên nào: Cha dường như ẩn mặt; các tông đồ có mặt cũng như không! Loay hoay, chạy đi chạy lại trong vườn, Chúa Giêsu cảm thấy hầu như tất cả đều bỏ mình:
- Cầu nguyện lần thứ nhất: Người đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. Người nói: "Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn." Chúa Giêsu, trong thân xác con người, sợ hãi những gì sắp xảy ra cho Ngài; nên Ngài cầu xin Cha cất chén đắng, vì Ngài tin Thiên Chúa có thể làm mọi sự. Dẫu vậy, Ngài vẫn một lòng tuân phục thánh ý của Thiên Chúa hơn ý riêng mình. Trong những lúc tăm tối của cuộc đời, con người cũng sẽ cảm thấy như Chúa Giêsu: Thiên Chúa dường như cũng vắng mặt. Trong những lúc như thế, con người càng cần sống niềm tin vào Thiên Chúa hơn lúc nào hết.
Rồi Người trở lại tìm sự an ủi nơi con người, Ngài thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: "Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối." Con người hứa hẹn rất nhiều, nhưng khi cần sự an ủi, chẳng có một ai. Trước giờ kinh hoàng sắp xảy đến, các ông vẫn ngủ; dù chỉ một giờ Chúa cần để cùng thức với Ngài, các ông cũng không thức nổi. Chúa nhắc nhở các ông một điều vô cùng cần thiết trong cuộc đời, dù các ông không nghe thấy: Phải canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ; vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối. Con người dễ sa ngã nhất khi con người không chuẩn bị; vì vậy, con người phải luôn biết chuẩn bị sẵn sàng.
- Cầu nguyện lần thứ hai: Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời làm sao với Người.
- Cầu nguyện lần thứ ba: Sau khi cầu nguyện, Người trở lại và bảo các ông: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!"
3.2/ Cuộc Thương Khó bắt đầu:
(1) Sự phản bội của Judah: Hắn biết rõ nơi Chúa Giêsu thường đến để cầu nguyện; và để phân biệt Chúa Giêsu với các môn đệ khác, hắn cho họ một dấu hiệu và dặn: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận." Judah tiến lại gần Người và nói: "Thưa Thầy!" rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt Người. Cái hôn thường được con người dùng để tỏ tình yêu với nhau; người Do-thái có thói quen hôn thầy của họ. Đàng này, Judah lại dùng cái hôn để phản bội Thầy mình. Có lẽ Judah nghĩ ông có thể qua mặt Chúa Giêsu. Trong trình thuật của Luca, Chúa Giêsu vạch cho Judah thấy rõ ràng sự phản bội, khi Ngài nói: “Judah! Anh lấy chiếc hôn để nộp con người sao?” (Lk 22:48).
- Người rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế là chính Phêrô, như được nói rõ ràng trong trình thuật của Gioan (Jn 18:10). Phản ứng này rất hợp với tính khí của Phêrô. Ông là người duy nhất có can đảm để bảo vệ Thầy mình.
- Chúa Giêsu nói với họ: "Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt? Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Đền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm."
- Đúng như lời Chúa Giêsu tiên đóan: “Ta sẽ đánh chủ chăn và chiên sẽ tan tác.” Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. Họ sợ nếu ở lại, họ sẽ bị liên lụy và phải chịu thiệt thân.
(2) Cậu thanh niên theo Chúa bỏ chạy: “Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.”
Ai là người thanh niên này? Trước hết, hai câu này chỉ có trong Marcô mà thôi. Phải có lý do tại sao câu này chỉ có trong trình thuật của Marcô. Nhiều người suy đoán cậu thanh niên này chính là John Marcô, tác giả Tin Mừng Marcô. Khi những điều này xảy ra, cậu vẫn còn nhỏ; và nhà cậu ở không xa chỗ Chúa Giêsu dùng Lễ Vượt Qua bao nhiêu (Acts 12:12). Có người cho cậu thấy Judah dẫn người Do-thái đến bắt Chúa Giêsu tại nơi dùng Lễ Vượt Qua. Khi nghe Judah nói sẽ dẫn họ tới Vườn Ghetsemane, cậu vội cuốn tấm vải gai vào người và chạy vội đi loan báo cho các môn đệ trong đêm tối; nhưng khi đến nơi, họ đã tới trước cậu. Có người cho cậu đã có mặt trong Vườn Ghetsemane với Chúa ngay từ đầu. Đó là lý do cậu chứng kiến toàn thể cuộc hấp hối của Chúa Giêsu và tường thuật lại chi tiết, vì các môn đệ đều ngủ cả; và Chúa Giêsu không có cơ hội để nói lại cho các môn đệ, nhất là Phêrô, Thầy của Marcô.
Hai câu này có lẽ thuộc về Marcô. Cậu muốn cho mọi người biết cậu là nhân chứng khi những điều này xảy ra. Có lẽ vì khiêm nhường, cậu không muốn mọi người biết tên cậu.
(3) Cuộc thẩm vấn sơ khởi trước Thượng Hội Đồng: Họ điệu Chúa Giêsu đến vị Thượng Tế Tối Cao. Thượng Hội Đồng được coi như tòa án tối cao của người Do-thái, gồm có tất cả 71 người: các thượng tế, kỳ mục, và các kinh sư. Họ chỉ có quyền trên các vấn đề liên quan đến tôn giáo của người Do-thái mà thôi; và họ không có quyền giết người. Thượng Hội Đồng phải họp tại “Tòa Hewn Stone trong khu vực của Đền Thờ.” Họ đã phá rất nhiều luật không được làm khi xử Chúa Giêsu trong đêm đó. Luật không cho phép: xử người ban đêm, xử trong ngày Lễ Lớn, xét xử không đúng chỗ, các nhân chứng không được điều tra tại các nơi khác nhau và bằng chứng phải được đúng từng chi tiết, mỗi thành phần của Thượng Hội Đồng không cho sự cáo buộc riêng rẽ, bắt đầu từ người trẻ nhất. Nếu là bản án xử tử, thời gian một đêm cần thiết trước khi bản án được thi hành. Mục đích là để mọi thành phần của THĐ có cơ hội suy nghĩ cẩn thận, nếu cần được khoan hồng. Nói tóm, vì họ muốn lọai trừ Chúa Giêsu ngay, nên họ đã xử Chúa Giêsu một cách bất hợp pháp.
Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Chúa Giêsu để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau.
- Tội phá Đền Thờ: Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: "Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!" Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau. Đây là một chứng gian, vì Chúa Giêsu bảo “Các ông cứ phá;” chứ Ngài không bảo “Tôi sẽ phá” (x/c Jn 2:19). Hơn nữa, Chúa Giêsu không có ý ám chỉ Đền Thờ Jerusalem, nhưng ám chỉ thân thể của Ngài.
- Tội phạm thượng: Vị Thượng Tế lại hỏi Người: "Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?" Đức Giêsu trả lời: "Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến." Vị Thượng Tế liền xé áo mình ra và nói: "Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?"
Vị Thượng Tế vi phạm Luật trầm trọng khi hỏi Chúa Giêsu câu hỏi này, vì Luật không cho phép THĐ hỏi người bị cáo những câu hỏi mà người bị cáo khi trả lời có thể liên quan chính mình trong đó. Vị Thượng Tế biết Chúa Giêsu sẽ trả lời khi hỏi đến sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, vì Ngài không thể nói dối. Chúa Giêsu không chút do dự trả lời Ngài chính là Đấng Thiên Sai, một đàng đó là sự thật, một đàng Ngài nghĩ cần chấm dứt trò bẩn thỉu của THĐ. Qua câu trả lời, Ngài muốn cho họ thấy Ngài có dư can đảm để nói sự thật, dẫu sự thật mang lại cho Ngài án tử hình. Nếu Ngài không trả lời điều đó, họ không có lý do để buộc tội Ngài. Điều khác Ngài muốn cho họ thấy, tất cả những gì họ sẽ làm cho Ngài chỉ tạm thời. Họ sẽ nhìn thấy chiến thắng vinh quang của Ngài sau Cuộc Thương Khó.
Nghe lời Vị Thượng Tế buộc tội Chúa Giêsu, tất cả đều kết án Người đáng chết. Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói: "Hãy nói tiên tri đi!" Và đám thuộc hạ tát Người túi bụi.
(4) Phêrô cũng trải qua cuộc thanh luyện đồng thời với Chúa Giêsu: Ông Phêrô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh Thượng Tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với đám thuộc hạ. Hai cuộc tra vấn xảy ra đồng thời: khi Chúa Giêsu bị thẩm vấn cách công khai trong dinh, ông Phêrô bị thẩm vấn cách âm thầm ngòai dinh.
- Chối lần thứ nhất: Ông Phêrô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của Thượng Tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: "Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Nazareth, ông Giêsu đó chứ gì!" Ông liền chối: "Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!" Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy lần thứ nhất. Đàn bà lắm chuyện, tuy vậy, cũng làm cho Phêrô phải sợ hãi bỏ đi.
- Chối lần thứ hai: Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó: "Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy." Nhưng ông Phêrô lại chối.
- Chối lần thứ ba: Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: "Đúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilee!" Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!" Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều Chúa Giêsu đã nói với mình: "Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần." Thế là ông oà lên khóc.
Dẫu Phêrô chối Chúa ba lần, ông vẫn can đảm hơn các tông đồ khác, vì các ông không dám theo Chúa Giêsu vào dinh. Khác với Judah, ông nhận ra sự phản bội của mình, và tiếng khóc trong lòng của ông giúp ông bắt đầu tiến trình giao hòa và làm chứng cho Chúa Giêsu.
(5) Chúa Giêsu trước tòa Philatô: Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Như đã nói, THĐ chỉ có quyền trên những vấn đề thuộc tôn giáo và không có quyền ra án tử hình cho bị cáo. Vì thế, sau khi đã tìm được lý do để buộc tội Chúa Giêsu phạm thượng, họ phải tìm một lý do chính trị khác để kiếm án tử hình cho Chúa Giêsu; vì họ biết rằng Philatô sẽ không quan tâm đến những bất đồng ý kiến về tôn giáo, như trình thuật của Luca ghi lại. Họ tìm được một lý do chính trị để Philatô có thể kết án Chúa: Chúa Giêsu xưng mình là Vua dân Do-thái. Khi xưng mình là Vua dân Do-thái là chống lại quyền lực của đế quốc Roma và hòang đế Caesar.
- Chúa Giêsu là Vua dân Do-thái: Ông Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân Do-thái sao?" Người trả lời: "Đúng như ngài nói đó." Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên.
Câu trả lời của Chúa Giêsu không hoàn toàn tích cực “Đúng vậy;” nhưng "Đúng như ngài nói đó." Chúa Giêsu muốn nói với Philatô: không phải là vua theo nghĩa chính trị như người Do-thái tố cáo; nhưng là vua theo nghĩa tôn giáo mà thôi. Trong trình thuật của Gioan, Chúa Giêsu nói rõ hơn: “Nước tôi không thuộc về thế gian này ... ” (Jn 18:36).
- Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên cướp, Barabba: “Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có một người tên là Barabba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Đáp lời họ yêu cầu, ông Philatô hỏi: "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái không?" Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích tên Barabba thì hơn.”
- Họ kêu xin đóng đinh Chúa Giêsu, Vua dân Do-thái: Ông Philatô lại hỏi: "Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?" Họ la lên: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô lại hỏi: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập giá!"
- Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Barabba, truyền đánh đòn Chúa Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.
- Chúa Giêsu chịu đội mão gai: “Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng bái chào Người: "Vạn tuế đức vua dân Do-thái!" Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá.”
- Chúng bắt ông Simon Cyrene vác đỡ Thánh Giá Chúa: “Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Cyrênê. Ông là thân phụ hai ông Alexandre và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giêsu. Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Đồi Sọ. Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống.”
(6) Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá:
- Quân dữ nhục mạ và thách thức Chúa Giêsu: “Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: "Vua người Do-thái." Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. (Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp).”
- Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, 30 có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!"
- Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin." Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.”
- Chúa Giêsu hấp hối trên Thập Giá: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: "Eloi, Eloi, lama sabacthani!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: "Kìa hắn kêu cứu ông Elijah." Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: "Để xem ông Elijah có đến đem hắn xuống không."”
- Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng: “Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở.Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới.”
- Viên đại đội trưởng tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa: Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa."
- Các phụ nữ dưới chân Thập Giá: 3 phụ nữ? Đức Mẹ Maria? Nhiều bà khác?“ Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Magdala, bà Maria mẹ các ông Giacôbê Thứ và Joseph, cùng bà Salômê. 41 Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilee. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Jerusalem, cũng có mặt tại đó.”
(7) Tháo đanh và táng xác Chúa Giêsu:
- Ông Joseph Arimathea xin thi hài Chúa Giêsu: “Chiều đến, vì hôm ấy là ngày áp lễ, tức là hôm trước ngày Sabbath, nên ông Joseph tới. Ông là người thành Arimathea, thành viên có thế giá của Hội Đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Đại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Đức Giêsu.”
- Quan Philatô ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu đã chết: “Nghe nói Người đã chết, ông Philatô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa.Sau khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã cho ông Joseph lãnh lấy thi hài.”
- Táng xác Chúa Giêsu trong mồ: “Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức Giêsu xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. Còn bà Maria Magdala và bà Maria mẹ ông Joseph, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu chịu đau khổ để con người được sống.
- Đau khổ giúp con người nên hoàn thiện và giúp con người thông cảm với những người đồng cảnh ngộ.
- Qua Cuộc Thương Khó, chúng ta nhận ra rõ ràng tình thương Thiên Chúa và sự gian dối ác độc của con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần V MC
Bài đọc: Eze 37:21-28; Jn 11:45-57.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa sẽ ban cho Dân Người một Đấng Cứu Độ.
Nhìn lại lịch sử nhân lọai và lịch sử Cứu Độ, chúng ta thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa con người và Thiên Chúa: Con người gây thiệt hại tàn phá, Thiên Chúa xây dựng và tái tạo. Con người gây hận thù chia rẽ, Thiên Chúa tạo đoàn kết yêu thương. Con người gây chiến tranh chết chóc, Thiên Chúa ban hòa bình an lạc.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ tương phản giữa Thiên Chúa và con người. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Ezekiel tuy còn đang sống trong nơi lưu đày, nhưng đã nhìn thấy trước ngày mà Thiên Chúa sẽ làm hai việc cho dân Israel: (1) “Ta sẽ cứu chúng thoát khỏi mọi nơi chúng đã ở, đã phạm tội, và sẽ thanh tẩy chúng;” và (2) “Ta sẽ quy tụ chúng lại từ bốn phương và đưa chúng về đất của chúng.” Trong Phúc Âm, những người Pharisees triệu tập Thượng Hội Đồng để bàn tính kế họach giết Chúa Giêsu. Thượng Tế Caiaphas đã “vô tình” nói lên hai mục đích về cái chết của Chúa Giêsu: (1) Ngài phải chết thay cho tòan dân; và (2) cái chết của Ngài sẽ quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sẽ quy tụ dân thành một đoàn chiên, được chăn dắt bởi một Chúa Chiên.
1.1/ Thiên Chúa sẽ quy tụ dân Người về một mối: Ba điều tiên-tri Ezekiel tuyên sấm:
(1) Dân Do-thái sẽ được hồi hương: Vì không vâng lời Thiên Chúa dạy, dân tộc Do-thái bị mất quê hương và bị lưu đày: miền Bắc bị thất thủ và lưu đày sang Assyria năm 721 BC; miền Nam bị thất thủ và lưu đày sang Babylon năm 587 BC. Sống cực khổ nơi lưu đày, tiên-tri Ezekiel được Thiên Chúa cho thấy và tuyên phán: “Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Này chính Ta sẽ lấy con cái Israel từ giữa các dân tộc chúng đã đi tới. Ta sẽ quy tụ chúng lại từ bốn phương và đưa chúng về đất của chúng.”
(2) Dân Do-thái sẽ thống nhất: Dân tộc Do-thái bị chia đôi thành hai vương quốc Bắc và Nam trước Thời Lưu Đày. Tiên-tri Ezekiel cũng nhìn thấy cảnh đòan tụ hai miền Nam Bắc: “Ta sẽ làm cho chúng thành một dân tộc duy nhất trong xứ, trên các núi Israel; tất cả chúng chỉ có một vua duy nhất; chúng sẽ không còn là hai dân tộc, không còn chia thành hai vương quốc.”
(3) Dân Do-thái sẽ được thanh tẩy: Dân chúng bị lưu đày là vì họ đã quay lưng lại với Thiên Chúa và thờ phượng các thần ngọai, và các tội bất công xã hội. Thời gian lưu đày là để thanh luyện các tội của dân, và để Thiên Chúa tha thứ cho dân khi họ thật lòng quay trở về với Ngài: “Chúng sẽ không còn ra ô uế vì những ngẫu tượng, những đồ gớm ghiếc và mọi tội ác của chúng nữa. Ta sẽ cứu chúng thoát khỏi mọi nơi chúng đã ở và đã phạm tội; Ta sẽ thanh tẩy chúng. Chúng sẽ là dân của Ta; còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.”
1.2/ Thiên Chúa sẽ cho David, lãnh đạo dân chúng đến muôn đời.
(1) Vua David lãnh đạo dân: Vua David được coi như một vị vua nổi tiếng nhất trong các vua của Do-thái. Thời của Vua, tất cả 12 chi tộc sống bình an và lãnh thổ được thái bình thịnh trị. Vị Vua sẽ lãnh đạo dân cũng thuộc giòng dõi và nổi tiếng như Vua David. Vị Vua này “sẽ làm vua cai trị chúng; sẽ chỉ có một mục tử duy nhất cho chúng hết thảy. Chúng sẽ sống theo các phán quyết của Ta, sẽ tuân giữ các thánh chỉ của Ta và đem ra thực hành. Chúng sẽ định cư trên đất Ta đã ban cho tôi tớ Ta là Jacob, phần đất mà tổ tiên các ngươi đã cư ngụ. Chính chúng và con cháu chúng sẽ định cư mãi mãi trên đó. David, tôi tớ Ta, sẽ là ông hoàng lãnh đạo chúng cho đến muôn đời.”
(2) Thiên Chúa sẽ thiết lập giao ước mới với nhà Israel: “Ta sẽ lập với chúng một giao ước bình an; đó sẽ là giao ước vĩnh cửu đối với chúng, Ta sẽ định cư chúng, cho chúng sinh sôi nảy nở ra nhiều và đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà của Ta sẽ ở giữa chúng; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta.”
(3) Dân Chúa sẽ mở rộng đến các dân tộc: “Bấy giờ, các dân tộc sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Đấng thánh hoá Israel, khi Ta đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng cho đến muôn đời.”
2/ Phúc Âm: Thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.
2.1/ Thiên Chúa dùng Chúa Giêsu để quy tụ dân Người về một mối: Việc Chúa Giêsu truyền cho Lazarus đã chết ba ngày sống lại làm cho nhiều người tin vào Ngài. Đây là lý do chính để những người Pharisees lập kế giết Ngài. Họ nói: "Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta." Những gì họ lo nghĩ đã thành hiện thực vào năm 70 AD, nhưng Chúa Giêsu không phải là lý do người Roma phá hủy nước Do-thái. Thượng Hội Đồng (Sandherin) bao gồm những người Pharisees, giữ cẩn thận Lề Luật, và những người Sadducees, quan tâm đến chính trị và xã hội.
(1) Chúa Giêsu chết thay cho tòan dân: Một người trong Thượng Hội Đồng tên là Caiaphas, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: "Các ông không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt." Có một sự trùng hợp giữa những gì Caiaphas nói và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa: Chúa Giêsu phải chết để tòan dân được hưởng ơn cứu độ.
(2) Chúa Giêsu chết để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối: Có một sự trùng hợp khác nữa giữa thánh ý của Thiên Chúa và những gì Caiaphas nói. Thiên Chúa dùng ông để mặc khải ý định của Ngài: “Điều đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.” Như lời tiên-tri Ezekiel báo trước trong Bài Đọc I, Chúa Giêsu đến để quy tụ dân thành một đòan chiên, và Ngài chính là Mục Tử Tốt Lành duy nhất chăn giữ đòan chiên này.
2.2/ Chúa Giêsu chuẩn bị chết thay cho toàn dân: Chúa Giêsu biết ý định của họ và biết ngày của mình trên dương gian sắp hòan tất, nên Ngài không đi lại công khai giữa người Do-thái nữa; nhưng từ nơi ấy, Người đến một vùng gần hoang địa, tới một thành gọi là Ephraim (gần Bethel). Người ở lại đó với các môn đệ.
Khi ấy sắp đến lễ Vượt Qua của người Do-thái. Từ miền quê, nhiều người lên Jerusalem để cử hành các nghi thức thanh tẩy dọn mình mừng lễ. Họ tìm Đức Giêsu và đứng trong Đền Thờ bàn tán với nhau: "Có thể ông ấy sẽ không lên dự lễ, các ông có nghĩ thế không?" Họ nghĩ Chúa Giêsu không có can đảm để đối đầu với các thế lực chính trị và tôn giáo. Họ đã lầm, vì Chúa Giêsu không những dám vào, mà còn long trọng vào Thành Jerusalem với dân từ Bethany, trong Chủ Nhật Lễ Lá mà chúng ta sẽ cử hành để nhớ lại biến cố này ngày mai.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy học để làm như Thiên Chúa: xây dựng thay vì phá hoại, tạo đòan kết thay vì gây chia rẽ, yêu thương thay cho hận thù.
- Chúa Giêsu đã chết thay cho tất cả chúng ta. Ngài chết để đưa tất cả nhân lọai về cho Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng mà chúng ta cần tin tưởng và loan báo cho mọi người.
- Thiên Chúa điều khiển mọi người và mọi sự. Tất cả những gì Ngài muốn sẽ hiện thực. Con người không thể làm bất cứ gì để vô hiệu hóa dù chỉ một kế họach của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
CÁI GIÁ CỦA YÊU THƯƠNG & VÂNG PHỤC
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY NĂM B (22/03/2015)
[Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Kinh nghiệm của mọi người, nhất là của những người từng trải là “cái gì cũng có cái giá của nó.” Nếu không có đầu tư (công sức, tài năng, tiền của và thời gian) thì chúng ta chẳng có thể có công trình gì đáng giá cả. Nếu muốn tạo được lòng yêu mến, ngưỡng mộ nơi người xung quanh, chúng ta phải chứng tỏ mình thật sự là người có giá trị bằng sự cống hiến cho tha nhân và cộng đồng xã hội! Đó là kinh nghiệm của đời thường.
Trong lãnh vực tâm linh chúng ta cũng nghiệm thấy như vậy. Chúa Giê-su, Con Một Thiên Chúa, xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết trên thập giá là “cái giá phải trả” cho Tình Yêu “vô biên” và “nhưng không” của Thiên Chúa, đối với con người.
Để đáp lại Tình Yêu “vô biên” và “nhưng không” ấy của Thiên Chúa thì chúng ta cũng phải trả giá bằng một đời sống hy sinh, hãm mình, từ bỏ và nhiệt thành với công cuộc xây dựng Vương Quốc của Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của Phụng Vụ Lời Chúa ngày hôm nay.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Gr 31,31-34): Ta sẽ lập một giao ước mới và không còn nhớ đến lỗi lầm của dân Ta nữa.
(31) Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, (32) không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã hủy bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng – sấm ngôn của Đức Chúa. (33) Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. (34) Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: "Hãy học cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.
2.2 Trong bài đọc 2 (Dt 5,7-9): Đức Ki-tô đã học biết thế nào là vâng phục và trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu.
(7) Thưa anh em, khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. (8) Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; (9) và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 12,20-33): Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất chết đi, nó sẽ sinh được nhiều hạt khác.
(20) Vào dịp lễ Vượt Qua năm ấy, trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. (21) Họ đến gặp ông Phi-lip-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng: "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su." (22) Ông Phi-lip-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su. (23) Đức Giê-su trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! (24) Thật, Thày bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. (26) Ai phục vụ Thày, thì hãy theo Thày; và Thày ở đâu, kẻ phục vụ Thày cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thày, Cha của Thày sẽ quý trọng người ấy."
(27) "Bây giờ, tâm hồn Thày xao xuyến! Thày biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (28) Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha." Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!" (29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: "Đó là tiếng sấm!" Người khác lại bảo: "Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!" (30) Đức Giê-su đáp: "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các ngươi. (31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! (32) Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi." (33) Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
III. TÌM HIỂU CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
(1°) Trong bài đọc 1 (Gr 31,31-34), ngôn sứ Giê-rê-mi-a chia sẻ với chúng ta cảm nghiệm về một Đấng Thiên Chúa
* chỉ biết yêu thương và tha thứ hết mọi lỗi lầm, thậm chí cả mọi tội ác, của dân Ít-ra-en,
* chỉ có một thao thức và kế hoạch là tái lập lại mối tương quan của Giao ước ban đầu bằng một Giao ước mới: “Chúa là Chúa của dân (Ít-ra-en) và dân (Ít-ra-en) là dân của Chúa”,
* chỉ có một bận tâm khi hành động là làm sao cho mọi người (lớn/nhỏ) ghi nhớ và tuân giữ Lề Luật của Người.
(2°) Trong bài đọc 2 (Dt 5,7-9) Thánh Phao-lô Tông đồ nhắc đến cái giá cực đắt (mắc) mà Chúa Giê-su đã phải trả trong cuộc Thương Khó Khổ nạn Thập giá, để thiết lập Giao Ước mới với Ít-ra-en mới là toàn thể nhân loại. Trong cuộc Khổ nạn Thập giá, Chúa Giê-su vừa thể hiện sự vâng phục tuyệt đối đối với Thánh Ý và Chương trình Cứu độ của Cha, vừa thể hiện lòng yêu thương tột cùng của Người đối với loài người là anh em của Người.
(3°) Trong bài Tin Mừng của Thánh Gio-an (Ga 12,20-33), Chúa Giê-su như trải cõi lòng mình ra với các môn đệ, để họ thấy:
(a) những tâm tư thầm kín riêng tư nhất của Người và
(b) mối tương quan mật thiết đặc biệt của Người với Chúa Cha,
với ước mong là các môn đệ thấu hiểu và chia sẻ tâm tình với Người mà bước theo chân Người, để:
* Thày ở đâu, môn đệ ở đó,
* và được Cha Thày quí trọng.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh hôm nay là:
Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô
đã nhận lấy phần thiệt về mình để yêu thương và cứu vớt nhân loại.
Vậy các môn đệ Chúa Giê-su, là các Ki-tô hữu chúng ta, hãy học lấy bài học của hạt lúa được gieo vào lòng đất “chịu chết đi” để sinh ra nhiều hạt lúa khác, cũng là bài học “dám coi thường mạng sống mình” vì Chúa và vì anh em mà chính Chúa Giê-su đã thực hiện và mời chúng ta làm theo!
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là mở rộng tâm hồn và cuộc sống để Thiên Chúa và Chúa Giê-su, chia sẻ tình yêu dành cho nhân loại và cách các Ngài thể hiện tình yêu ấy bằng sự hy sinh vĩ đại với cái giá ngất trời là Thập giá.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Muốn sống sứ điệp của Lời Chúa hôm nay thì mỗi người/cộng đoàn Ki-tô hãy chọn con đường
tự hạ
tự hiến
tự hủy
coi thường mạng sống mình vì Nước Trời mà chính Chúa Giêsu đã chọn.
Trong cụ thể,
mỗi người hãy suy nghĩ,
mỗi cộng đoàn hãy trao đổi
xem trong tuần này mình nên làm những việc gì để thể hiện việc tự hạ/tự hiến/tự hủy/coi thường mạng sống mình vì Nước Trời?
rồi hãy cố gắng thực hiện những việc ấy trong tinh thần khiêm tốn và vâng phục!
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới.» Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban các dân tộc các quốc gia trên thế giới ý thức rằng Giao Ước mà Thiên Chúa đã ký kết với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa cũng chính là Giao Ước mà Thiên Chúa đã ký kết với mọi dân mọi nước.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa, biết noi theo gương sống và vâng phục của Chúa Giê-su Ki-tô, là Chúa và là Thầy cùa mọi Ki-tô hữu.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 «Thày bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, càng ngày càng biết sống hy sinh từ bỏ để đem lại hoa trái cho mình và cho gia đình, giáo xứ và xã hội.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Ai phục vụ Thày, Cha của Thày sẽ quý trọng người ấy.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tông đồ giáo dân trên khắp thế giới, để họ xác tín và cảm nghiệm sâu sắc tấm lòng ưu ái của Chúa Cha đối với họ, trong mọi hoạt động tông đồ của họ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần V MC
Bài đọc: Jer 20:10-13; Jn 10:31-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn sứ của Thiên Chúa bị truy tố và bị ném đá.
Quyền hành đến từ Thiên Chúa. Khi con người nắm quyền hành, họ phải biết dùng quyền được trao để phân xử công minh: trừng trị kẻ gian ác và bảo vệ quyền lợi cho kẻ vô tội. Thế nhưng nhiều người khi có quyền, đã không làm như thế. Họ nghĩ họ có thể bắt mọi người làm theo lệnh truyền của họ, bất chấp sự thật và công bình.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc lạm dụng uy quyền để đấu tố người công chính. Trong Bài Đọc I, tư tế Pathhur lạm dụng uy quyền của mình để bắt bớ, đánh đập, và bỏ tù tiên-tri Jeremiah, vì ông đã tuyên sấm tội lỗi và hình phạt của dân thành Jerusalem. Trong Phúc Âm, những người Do-thái lượm đá ném Chúa Giêsu vì cho Ngài phạm thượng, là người mà dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa. Chúa Giêsu dùng Kinh Thánh để cắt nghĩa và dùng các việc làm để chứng minh Ngài được Thiên Chúa thánh hiến và sai đến thế gian; nhưng họ vẫn ngoan cố không tin vào Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ngôn sứ Jeremiah bị truy tố.
1.1/ Jeremiah bị tư tế Pathhur chống đối: Là ngôn sứ của Đức Chúa, tiên-tri Jeremiah phải tuyên sấm những gì Thiên Chúa muốn nói cho vua Judah, các tư tế, và dân thành Jerusalem. Tư tế Pathhur, con ông Immer, tổng quản đốc Nhà Đức Chúa, chẳng những đã không nghe lời Jeremiah tuyên sấm, lại còn cho đánh đòn ngôn sứ Jeremiah và cho cùm ông tại cửa Bengiamin, tức là Cửa Trên trong Nhà Đức Chúa. Lão “Tứ phía kinh hoàng” là tên của Jeremiah đặt cho tư tế Pashhur, sau khi ông này bắt bớ, đánh đập, và giam cầm tiên tri (Jer 20:3).
Jeremiah nói tiên tri về vận mạng của Pathhur và của tòan dân: “Quả thật, Đức Chúa phán như sau: Này Ta sẽ biến ngươi thành nỗi kinh hoàng cho chính ngươi và tất cả bạn bè của ngươi. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm quân thù, chính mắt ngươi sẽ chứng kiến điều đó. Ta sẽ trao nộp toàn thể Judah vào tay vua Babylon; nó sẽ bắt chúng đi lưu đày ở Babylon; sẽ dùng gươm tàn sát chúng. Tất cả của cải thành này cùng với mọi công lao vất vả và mọi đồ quý giá, cũng như tất cả kho tàng của các vua Judah, Ta sẽ nộp vào tay quân thù chúng; bọn này sẽ cướp phá, tịch thu đem về Babylon. Còn ông, hỡi Pathhur, chính ông và tất cả những người ở trong nhà ông sẽ phải đi lưu đày. Ông sẽ đi Babylon, sẽ chết tại đó và sẽ phải chôn tại đó; ông cũng như tất cả bạn bè, tức là những người đã nghe ông tuyên sấm láo!"
1.2/ Ngôn sứ Jeremiah tìm sức mạnh nơi Thiên Chúa: Một mình phải đương đầu với bao nhiêu chống đối từ gia đình, bạn bè, các tư tế, và triều đình nhà vua, tiên-ri Jeremiah biết mình sẽ không thể địch nổi với bè lũ hung tàn, nếu không có sức mạnh của Thiên Chúa. Tiên tri tin tưởng và cầu nguyện: “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, chúng sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên.”
Tiên-tri biết Thiên Chúa có uy quyền để trừng phạt và sức mạnh để giải thóat người công chính: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt tâm can, con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng, vì con đã giãi bày cơ sự cùng Ngài. Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu bị người Do-thái ném đá.
2.1/ Lý do Chúa Giêsu bị ném đá: Chúa Giêsu chất vấn người Do-thái tại sao ném đá Ngài, người Do-thái cho Chúa Giêsu biết lý do: "Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa." Lời mà họ vịn vào để ném đá Chúa Giêsu là “Tôi và Chúa Cha là một” (Jn 10:30). Chúa Giêsu biết rất khó để cắt nghĩa cho họ hiểu câu này, nên Ngài dùng cách cắt nghĩa bằng việc làm. Chúa Giêsu dùng lời Thánh Vịnh 82:6: “Ta đã phán: Hết thảy các ngươi đây đều là bậc thần thánh (elohim), là con Đấng Tối Cao (benê Elyôn).” Trong Cựu Ước, Thiên Chúa thường chọn các Quan Án và gởi họ đến cho dân để họ xét xử dân theo lẽ công bình. Các Quan Án này thường được coi như các vị thần của dân chúng. Ý tưởng này rõ ràng hơn trong Sách Xuất Hành khi Đức Chúa phán với ông Moses: "Coi này, Ta làm cho ngươi nên một vị thần (elohim) đối với Pharao, còn Aaron, anh ngươi, sẽ là ngôn sứ của ngươi” (Exo 7:1). Chúa Giêsu kết luận: “Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ, thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo tôi: "Ông nói phạm thượng! vì tôi đã nói: "Tôi là Con Thiên Chúa?"”
2.2/ Chúa Giêsu chứng minh bằng việc làm: Chúa Giêsu không chỉ chứng minh cho họ bằng lời Kinh Thánh, mà còn bằng các việc Người đã làm: nuôi dân chúng ăn, chữa lành mọi bệnh tật, trục xuất quỷ, cho người chết sống lại … Những việc này chứng minh Ngài có uy quyền của Thiên Chúa. Chúa Giêsu hỏi họ: “Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha." Không thể tranh luận với Ngài lời, cũng không thể bắt lỗi Ngài bằng việc làm; lẽ ra họ phải phục thiện và tin vào Ngài, nhưng họ lại chọn dùng vũ lực để uy hiếp Người vô tội như trình thuật kể: “Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ.”
Chúa Giêsu trở về chỗ Ngài đã chịu Phép Rửa bởi Gioan và Ngài ở lại đó: Tại sao Chúa Giêsu tìm đến nơi này? Ngài biết giờ của Ngài trên dương gian sắp hết và Ngài muốn tìm lại nguồn sức mạnh nơi Ngài bắt đầu sứ vụ rao giảng để có đủ sức đương đầu với những người chống đối. Đây là chỗ mà Thiên Chúa Cha đã làm chứng cho Ngài bằng tiếng vọng từ Trời: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.” Nhiều người đến gặp Đức Giêsu. Họ bảo nhau: "Ông Gioan đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng." Họ nhận ra sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và Gioan: Ông Gioan là ngôn sứ nói cho họ biết về Chúa Giêsu, nhưng không làm một phép lạ nào cả. Chúa Giêsu chứng minh những gì Gioan nói về Ngài là sự thật bằng các việc Ngài làm. Tổng hợp cả hai lời chứng và việc làm, “Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức Giêsu.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải sáng suốt để nhận ra sự thật, cho dù sự thật có phũ phàng và thiệt hại đến đâu đi nữa; vì chỉ có sự thật mới thực sự giải thóat con người.
- Làm ngôn sứ cho Thiên Chúa là phải đương đầu với quyền lực của thế gian và ma quỉ; chúng ta không được khiếp sợ những quyền lực này đến độ không dám nói và làm chứng cho sự thật.
- Chúng ta phải tôn trọng những người dám nói và làm chứng cho sự thật. Đừng bao giờ lạm dụng uy quyền để bịt miệng, đàn áp, bỏ tù, và thủ tiêu họ. Thiên Chúa là Đấng Chí Công, Ngài sẽ bảo vệ, giải thóat, và trả thù cho những người công chính.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- 25/3 Sự vâng phục mang lại ơn cứu độ cho con người
- 24/3 Phải biết nắm lấy cơ hội để được sống
- 23/3 Không được kết án tha nhân
- 22/3 Sự vâng phục và đau khổ mang lại ơn Cứu Độ cho con người
- 21/3 Thiên Chúa sẽ ban cho Dân Người một Đấng Cứu Độ
- 20/3 Tin thế nào sẽ sống như vậy
- 19/3 Thánh Giuse trở nên công chính nhờ niềm tin vào Thiên Chúa
- 18/3 Thiên Chúa yêu thương chăm sóc dân Người
- 17/3 Sự hiện diện của Thiên Chúa mang lại sự sống cho con người
- 16/3 Niềm tin vào Thiên Chúa có thể làm được mọi sự