Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật V Phục Sinh, Năm B
Bài đọc: Acts 9:26-31; I Jn 3:18-24; Jn 15:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hiệp nhất trong Thiên Chúa và trong Giáo Hội.
Con người tuy có rất nhiều điểm khác biệt với nhau: niềm tin, văn hóa, hoàn cảnh, địa vị, tính tình, học thức ... nhưng được kêu gọi sống chung và hiệp nhất với nhau. Làm sao con người có thể hiệp nhất với nhau giữa bao nhiêu những dị biệt này. Các Bài Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những điều chính yếu để đạt tới sự hiệp nhất.
Trong Bài Đọc I, Phaolô bị mọi người nghi ngờ vì quá khứ bắt bớ đạo Chúa của ông. Barnabas đã mạnh dạn đứng ra để bênh vực và giới thiệu ông với các Tông-đồ. Sau đó, để tránh xung đột với người Hy-lạp, các Tông-đồ quyết định để Phaolô rời Jerusalem. Trong Bài Đọc II, thánh Gioan nhấn mạnh đến giới răn yêu thương như một nền tảng cho sự hiệp nhất. Ngài khuyên các tín hữu đừng chỉ yêu thương bằng chót lưỡi đầu môi; nhưng phải biểu tỏ bằng hành động và bằng giữ các giới răn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc để nói lên sự liên hệ mật thiết giữa Ngài và các môn đệ: "Thầy là cây nho, anh em là cành." Để có thể sinh hoa trái, các tín hữu cần liên kết với cành; nếu không sẽ bị khô héo và chặt đi. Vì thế, Chúa Giêsu là trọng tâm của hiệp nhất. Ngài liên kết mọi người với Ngài và với nhau.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy cho nhau một cơ hội. Đừng giam hãm tha nhân trong quá khứ của họ.
1.1/ Barnabas bênh vực Phaolô:"Khi tới Jerusalem, ông Saul tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ. Ông Barnabas liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Saul đến gặp các Tông Đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giêsu tại Damascus thế nào.''
Nghi ngờ là chuyện thường tình của con người; hơn nữa, Hội Thánh tại Jerusalem có lý do để nghi ngờ Saul, vì chỉ trước đây một thời gian ngắn, ông là người bắt đạo khét tiếng. Khi Thượng Hội Đồng ném đá Phó-tế Stephen, họ đã để quần áo của ông dưới chân Saul. Như Hananiah cũng nghi ngờ Saul và được Chúa cho biết Ngài muốn dùng Saul để loan báo Tin Mừng, ông Barnabas cũng đứng ra bảo lãnh cho Saul trước mặt các môn đệ.
Khi đã có bằng chứng của sự trở lại, chúng ta cần phải rộng lượng tha thứ để cho nhau cơ hội làm lại cuộc đời. Nếu Chúa Giêsu và các môn đệ không cho Saul một cơ hội làm lại cuộc đời, Giáo Hội sẽ không có một Tông đồ nhiệt thành rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng như thánh Phaolô. Nếu Chúa Giêsu đã cho Saul, và cho tất cả mọi người, có cơ hội ăn năn trở lại; chúng ta là ai mà dám giam cầm tha nhân trong quá khứ không hay của họ!
1.2/ Hội Thánh biết cách giải quyết các xung đột: "Từ đó ông Saul cùng với các Tông Đồ đi lại hoạt động tại Jerusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. Ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do-thái theo văn hoá Hy-lạp. Nhưng họ tìm cách giết ông."
Giáo Hội sơ khai cũng như qua các thời đại, và cho đến bây giờ, vẫn còn là Giáo Hội của con người, nên không thể tránh những va chạm vì khác biệt về cách thức suy luận, tính tình, văn hóa, sở thích ... Làm thế nào để giải quyết những va chạm để bảo vệ sự hiệp nhất? Trước tiên, mọi người cần cầu nguyện để xin sự soi sáng và quyết định theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau đó, mọi người cần góp ý và cùng nhau giải quyết trong sự yêu thương. Trong cuộc tranh chấp giữa các bà góa, Hội Thánh giải quyết bằng việc chọn và tấn phong 7 Phó-tế. Trong trường hợp hôm nay, "các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Caesarea và tiễn ông lên đường về Tarsus." Nhờ biết cách giải quyết, nên "hồi ấy, trong khắp miền Judah, Galilee và Samaria, Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ."
2/ Bài đọc II: Phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.
2.1/ Sự quan trọng của giới luật yêu thương:
(1) Phải yêu thương bằng việc làm. Ngài viết: "Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa." Chỗ khác Ngài viết: "Ai nói mình yêu thương Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, là kẻ nói dối, và sự thật không có nơi người ấy." Theo Gioan, yêu thương và sự thật không thể tách rời nhau.
(2) Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta: "Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự. Anh em thân mến, nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa." Đây là 2 câu khó hiểu, và có ít nhất 2 cách hiểu: Thứ nhất, nếu lòng chúng ta cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta vì Ngài biết mọi sự; có nghĩa tội của chúng ta không thể tránh khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Thứ hai, nếu lòng chúng ta cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta; có nghĩa Thiên Chúa không chỉ biết tội của chúng ta, nhưng Ngài còn biết tình yêu, ước muốn, yếu đuối, bệnh tật của chúng ta; vì thế, Ngài hiểu biết và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta. Thomas à Kempis phân tích sự khác nhau giữa Thiên Chúa và con người: "Con người nhìn kết quả, Thiên Chúa biết ý định." Ví dụ, tuy vua David không được phép xây nhà cho Thiên Chúa, nhưng ông đã xây nhà cho Ngài bằng ước muốn (1 Kgs 8:17-18). Châm ngôn Pháp có câu: "Biết tất cả là tha thứ tất cả." Nếu trong trái tim của chúng ta có yêu thương, chúng ta có thể tự tin khi đến với Ngài. Chỗ khác, Gioan cũng nói: "Yêu thương là đền bù mọi tội lỗi."
2.2/ Phải giữ các giới răn của Người: Gioan viết: "Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta." Nếu chúng ta để ý các Sách của Gioan, tin Đức Kitô và yêu thương là hai chủ đề chính của Ngài. Con người phải tin Đức Kitô mới có sự sống đời đời, và phải yêu thương nhau nếu muốn làm môn đệ của Ngài. Giữ giới răn của Thiên Chúa không gì khác hơn là giữ giới luật yêu thương, hay "Mến Chúa yêu người." Khi chúng ta giữ giới răn Thiên Chúa, hai điều này được bảo đảm cho chúng ta:
- Bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho, bởi vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người và làm những gì đẹp ý Người.
- Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.
3/ Phúc Âm: Con người phải hiệp nhất với Chúa và với Giáo Hội như cây nho và cành.
3.1/ Chúa Giêsu là cây nho, con người là cành: Khó lòng có thể kiếm được hình ảnh nào nói lên sự cần thiết của hiệp nhất hơn hình ảnh cây nho và cành. Chúa Giêsu mô tả như sau: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em."
Thiên Chúa là người trồng nho: Trồng nho là nghề đòi nhiều sự chăm sóc và sức lao động. Người trồng nho phải dọn đất, bón phân, tưới nước, tỉa cành... Cây nho mới không được cho sinh trái trong 3 năm; mục đích là để cho cây tập trung năng lực, để khi cho sinh trái sẽ sinh quả ngon ngọt. Trong lãnh vực thiêng liêng, Thiên Chúa cũng chuẩn bị tất cả: Ngài cho con người cây nho quí giá nhất là chính Người Con Một của Ngài. Bên cạnh đó, Ngài cũng chuẩn bị để con người có cơ hội nghe Lời Chúa, và ban Thánh Thần để con người có thể hiểu và tin vào Đức Kitô...
Thân nho là Giáo Hội: Một sự so sánh với thần học thân thể của Phaolô: con người là chi thể của một thân thể là Giáo Hội, với Đức Kitô là Đầu; cho chúng ta kết luận: con người là cành nho của một thân nho là Giáo Hội, với Đức Kitô là cây nho.
3.2/ Ba loại cành:
(1) Cành nào liền cây sẽ sinh hoa trái: "Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.''
(2) Cành nào liền cây và không sinh hoa trái: người làm vườn sẽ chặt đi để nó đừng lãng phí sức của thân cây, dành cho những cành sinh trái. Những cành liền cây mà không sinh trái có thể so sánh với 3 loại người: thứ nhất, những người từ chối không nghe lời Chúa; thứ hai, những người nghe nhưng không chịu thực hành (thờ Chúa bằng môi miệng); thứ ba, những người không dám sống đức tin; khi bị bách hại, họ không dám làm chứng cho Chúa.
(3) Cành nào lìa cây sẽ khô héo liền: "Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi." Cành nho khô không xử dụng vào việc nấu nướng được, vì nó rất mềm; chỉ có thể làm mồi vì nó cháy rất nhanh. Người nào không có Chúa Giêsu cũng hư biến nhanh như vậy.
3.3/ Hình ảnh hiệp nhất của Bí-tích Thánh Thể: Chúa Giêsu nói: "Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em ... vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được." Làm sao chúng ta có thể ở lại hay kết hợp với Chúa? Có thể bằng việc cầu nguyện, hay bằng việc lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa; nhưng cách kết hợp mật thiết nhất là qua Bí-tích Thánh Thể. Qua Bí-tích này, Chúa thông ban cho chúng ta đời sống thần linh và những ơn thánh cần thiết như nhựa sống của cây, để chúng ta có thể sinh hoa kết trái bằng các việc lành, và có sức để đương đầu với thử thách của cuộc đời. Một gia đình hay cộng đòan năng lãnh nhận BTTT sẽ hiệp nhất với nhau vì được hiệp nhất trong cùng một cây. Người nào không năng lãnh nhận BTTT, họ sẽ từ từ tách biệt ra khỏi gia đình và cộng đoàn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Để hiệp nhất, chúng ta cần có Chúa Giêsu như một trọng tâm qua Lời Chúa và BTTT. Ngoài ra, chúng ta cần có yêu thương và tha thứ; chứ không chỉ đối xử theo lý lẽ hay công bằng.
- Khi có xung đột trong cộng đòan, chúng ta cần cầu nguyện và cùng nhau giải quyết vấn đề. Tự mình tách biệt ra khỏi cộng đoàn không phải là cách khôn ngoan; vì cành nho chỉ sinh ích khi gắn liền với thân cây.
- Chúng ta cần bênh vực những người yếu đuối sa ngã như Chúa đã trợ giúp chúng ta; giam hãm họ trong quá khứ không phải là cách khôn ngoan để giúp họ trở lại.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 13:44-52; Jn 14:7-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy dùng cơ hội Thiên Chúa cho để mang ơn cứu độ đến mọi người.
Trong hành trình rao giảng Tin Mừng của Phaolô và Barnabas, các ông đã gặp rất nhiều trở ngại và chống đối từ phía người Do-thái. Lý do: họ không muốn bị mất ảnh hưởng trên đám đông và không muốn tất cả Dân Ngoại được làm con Thiên Chúa. Lẽ ra họ phải dùng đặc quyền Thiên Chúa ban để mang nhiều người về với Ngài; nhưng họ lại để tính ích kỷ và ghen tị ngăn cản người khác, và ngay cả họ, đến với Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc làm sao cho Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa được hoàn thành. Trong Bài Đọc I, Phaolô dùng lời tiên-tri Isaiah để chứng minh Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn cho người Do-thái, mà cho tất cả mọi người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố với các môn đệ: Họ sẽ làm các việc lớn hơn Ngài làm là mang Ơn Cứu Độ của Ngài cho đến tận cùng trái đất.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Kế Hoạch Cứu Độ là cho tất cả mọi người: Do-thái cũng như Dân Ngoại.
1.1/ Dân Ngoại cũng được hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: Sách Tiên Tri Isaiah, được viết khoảng 750 BC, đã viết về Kế Hoạch Cứu Độ như sau: Thiên Chúa phán: "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Jacob, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất" (Isa 49:6). Người Tôi Trung đây là chính Đức Kitô, Ngài đến để cứu dân tộc Israel trước hết; nhưng không phải chỉ có họ mà thôi, mà còn muôn dân tộc, cho đến khi Ơn Cứu Độ được lan tràn đến tận cùng cõi đất.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Thiên Chúa thúc đẩy "gần như cả thành Antioch, Pisidia tụ họp nghe lời Thiên Chúa." Bấy giờ ông Phaolô và ông Barnabas mạnh dạn lên tiếng: "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía Dân Ngoại." Phaolô cũng dùng lời tiên-tri Isaiah trên để áp dụng vào chính ông và vào các nhà rao giảng Tin Mừng, vì chính họ cũng làm cho lời tiên báo này được thành tựu.
Nghe Phaolô cắt nghĩa Kinh Thánh và Kế Hoạch Cứu Độ, Dân Ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.
1.2/ Người Do-thái ghen tức và ngược đãi Phaolô và Barnabas: Thấy những đám đông như vậy nghe Phaolô rao giảng, người Do-thái sinh lòng ghen tức. Họ phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục mạ ông. Điều này đã xảy ra cho Chúa Giêsu vì hai lý do:
(1) Họ không muốn đối phương của họ có ảnh hưởng trên đám đông; vì nếu đám đông theo đối phương, họ sẽ không còn ảnh hưởng trên đám đông.
(2) Họ không muốn ai được phép bằng họ, và họ ghen tị khi thấy người khác bằng mình. Truyền thống Do-thái quan niệm chỉ có họ mới là con Thiên Chúa. Nếu Dân Ngoại cũng là con Thiên Chúa, họ đâu còn chi đặc biệt nữa!
Vì thế, người Do-thái sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phaolô và ông Barnabas, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. Hai ông liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Iconium.
2/ Phúc Âm: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
2.1/ Chúa Cha và Chúa Giêsu là một: Con người chưa bao giờ thấy Thiên Chúa; nhưng khi con người thấy Chúa Giêsu, con người thấy Chúa Cha, vì như thánh Phaolô nói: "Ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình." Trong mẩu đối thoại giữa Chúa Giêsu và Philip, Chúa Giêsu xác tín điều này.
- Ông Philíp yêu cầu: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện."
- Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíp, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?""
Chúa Giêsu muốn chứng minh cho Philip 2 điều:
(1) Chúa Giêsu là Lời của Chúa Cha: "Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình."
(2) Những việc Chúa Giêsu làm là theo ý của Chúa Cha: "Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm." Không ai có thể làm những việc Chúa Giêsu đã làm, nếu Thiên Chúa không ở với người ấy.
2.2/ Các Tông-đồ có thể làm những việc Chúa Giêsu làm và những việc lớn hơn nữa: Chúa Giêsu tuyên bố: "Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha."
- Những việc Chúa Giêsu làm: rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật, khử trừ ma quỉ, cho kẻ chết sống lại, đào tạo môn đệ ... Các Tông đồ làm được tất cả những điều này nhân danh Đức Kitô, chứ không nhân danh sức riêng của mình; vì các ông biết rõ sức con người không thể làm những chuyện đó. Lời bảo trợ của Chúa Giêsu bảo đảm sức mạnh này: "Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó."
- Những việc lớn hơn đây là làm sao cho tất cả mọi người tin vào Đức Kitô để được cứu độ. Để thực hiện điều này, Chúa Giêsu cần sự cộng tác của con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải làm mọi cách để làm sao Tin Mừng Cứu Độ được lan truyền khắp nơi theo ý của Đức Kitô mong muốn.
- Chúng ta phải loại bỏ tính ích kỷ và ghen tị trong khi loan báo Tin Mừng, thì Lời Chúa mới có thể lan rộng và sinh hoa kết trái đến tận cùng trái đất được.
- Chúng ta đừng để bất cứ một trở ngại nào ngăn cản chúng ta trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, vì Đức Kitô đã hứa với chúng ta: "Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm."
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
SỐNG MẬT THIẾT VỚI CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH NĂM B (03/05/2015)
[Cv 9,26-31; 1 Ga 3,18-24; Ga 15,1-8]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Mỗi lần đọc lại đoạn Phúc âm về cây nho và cành nho, những kỷ niệm đẹp của một thời trai trẻ như sống lại trong tôi. Đó là thời gian tôi sống ở Farlete (Saragoza, Tây Ban Nha) và Spello (Perugia, Italia) vào những năm 1969-1971, giữa những cánh đồng nho và với những ngày lao động trong những cánh đồng nho ấy.
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cây nho, tôi không hề biết đó là cây nho mà cứ tưởng đó là một thứ cây gì đó bị héo khô mà chủ ruộng chưa kịp đốt đi. Nhưng chỉ cần một trận mưa xuân là những cành cây (nho) khô kia trổ lá xanh um và rồi chỉ vài tháng sau chúng trổ bông thơm ngát và kết trái đỏ mọng nhìn thật mát mắt. Sức sống tiềm tàng trong thân nho thật mãnh liệt. Kinh nghiệm này giúp tôi hiểu dễ dàng và sâu sắc hơn điều mà Chúa Giê-su dậy trong Phúc âm Gio-an: "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái….” (Ga 15,5).
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 9, 26-31): Ông Ba-na-ba tường thuật chuyện ông Sao-lô được thấy Chúa hiện ra trên đường.
(26) Hồi ấy khi tới Giê-ru-sa-lem, ông Sao-lô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ. (27) Ông Ba-na-ba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Sao-lô đến gặp các Tông Đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giê-su tại Đa-mát thế nào. (28) Từ đó ông Sao-lô cùng với các Tông Đồ đi lại hoạt động tại Giê-ru-sa-lem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. (29) Ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do Thái theo văn hóa Hy Lạp. Nhưng họ tìm cách giết ông. (30) Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô.
(31) Hồi ấy, trong khắp miền Giu-đê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri, Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Ga 3,18-24): Đây là điều răn của Chúa: Chúng ta phải tin và phải yêu thương nhau.
(18) Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. (19) Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. (20) Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự. (21) Anh em thân mến, nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa. (22) Và bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho, bởi vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người và làm những gì đẹp ý Người. (23) Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta. (24) Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 15,1-8): Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái.
(1) "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. (2) Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. (3) Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. (4) Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.
(5) Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. (6) Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. (7) Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. (8) Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
1°) Trong bài đọc 1 (Cv 9,26-31) chúng ta được nghe kể khi ông Phao-lô đến Giê-ru-sa-lem để tìm cách nhập đoàn với các môn đệ Chúa Giê-su thì ông gặp phải nỗi e ngại nơi các môn đệ, vì họ còn sợ ông và chưa tin ông là một môn đệ. Rõ ràng là các môn đệ Chúa Giê-su và ông Phao-lô đều rao giảng một Chúa, đều làm chứng về một Đấng, đều xây dựng một Hội Thánh. Nhưng hai bên chưa hiểu và chưa tin nhau. Bar-na-ba đã làm một việc cần thiết và tuyệt vời để chẳng những không còn nghi ngờ, e ngại mà lại có sự hiệp thông sâu sắc giữa các Tông Đồ và ông Phao-lô.
Qua sự kiện trên chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng hiệp nhất mọi con người trong một mục tiêu chung. Chúng ta cũng khám phá ra Thiên Chúa là Đấng dùng mỗi người một cách khác nhau, để tạo sự hiệp thông trong cộng đoàn và để loan báo Tin Mừng cho các dân, các nước.
2°) Trong bài đọc 2 (1 Ga 3,18-24) chúng ta được nghe Thánh Gio-an Tông đồ khuyên nhủ con cái mình hãy yêu thương cách chân thật và bằng việc làm chứ đừng yêu thương đầu môi chót lưỡi. Sống chân thật thì chúng ta không bị lương tâm chê trách tức cáo tội chúng ta. Mà lương tâm không chê trách thì Thiên Chúa cũng không chê trách. Khi đó chúng ta có quyền mạnh dạn xin Chúa bất cứ điều gì và chúng ta sẽ được Người ban cho.
Qua cách diễn tả tư tưởng và nội dung lời khuyên của Thánh Gio-an, chúng ta tiếp cận một Đấng Thiên Chúa chỉ mong muốn con người yêu thương nhau cách chân thực và cụ thể, để được hạnh phúc trường sinh.
3°) Trong bài Tin Mừng (Ga 15,1-8) chúng ta được nghe những lời hết sức ngọt ngào của chính Chúa Giê-su Ki-tô về mối tương quan mật thiết giữa Người và chúng ta, giữa Thiên Chúa là Cha của Người và chúng ta: một sự kết hiệp chặt chẽ, một sự sống siêu linh, một mối hiệp thông sâu sắc và một kết quả dồi dào.
Chúa Giê-su cũng mạc khải cho chúng ta biết điều thật sự tôn vinh Thiên Chúa Cha là “Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.”
3.2 Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có hai phần:
1°) Phần thứ nhất là Chúa Giê-su muốn thiết lập với mỗi Ki-tô hữu một mối tương quan cá vị, mật thiết, gắn bó, có tính sinh tử. Vì thế mỗi người chúng ta phải biết vun vén, xây đắp cho mối tương quan ấy mỗi ngày thêm sâu đậm hơn.
Có nhiều cách vun vén, xây đắp mối tương quan ấy:
(a) Trước hết là siêng năng “đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện”,
(b) Kế đến là tham dự các cử hành phụng vụ và bí tích một cách ý thức,
(c) Sau cùng là thực thi công bằng, bác ái Ki-tô giáo và thực hiện những điều Thánh Thần khơi dậy trong lòng khi chúng ta đọc/nghe lời Kinh Thánh hay tiếp xúc với tha nhân, nhất là với người nghèo và bị thiệt thòi trong xã hội.
2°) Phần thứ hai là mỗi Ki-tô hữu được Chúa Giê-su mời sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Người:
(a) Sinh nhiều hoa trái là có đời sống đạo đức, thánh thiện, khiêm nhu, trong sạch, công bình, bác ái và phục vụ.
(b) Trở thành môn đệ Chúa Giê-su là tuân giữ các giới răn của Người, là sống mật thiết với Người và để Người sai đi (x. Mc 3,14) tức nên giống Chúa Giê-su và tham dự vào sứ mạng cứu thế của Người.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng quyền năng và yêu thương nên muốn thiết lập với loài người và với mỗi người tín hữu mối quan hệ mật thiết gắn bó thân tình như cây nho và cành nho.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để việc thi hành sứ điệp Lời Chúa được dễ dàng và cụ thể, xin mỗi người/cộng đoàn hãy dùng mấy câu hỏi gợi ý sau đây để kiểm điểm đời sống:
(a) Tôi và cộng đoàn tôi vun vén, xây đắp mối tương quan mật thiết, gắn bó, có tính sinh tử với Chúa Giê-su Ki-tô, với Thiên Chúa như thế nào? và bằng cách nào?
(b) Tôi và cộng đoàn tôi có sinh nhiều hoa trái là đời sống đạo đức, thánh thiện, khiêm nhu, trong sạch, công bình, bác ái và phục vụ tha nhân không? Cách kiểm chứng: Nhìn vào tôi và cộng đoàn tôi, anh chị em lương dân và những người vô thần sống xung quanh, có nhận ra tôi là môn đệ, cộng đoàn tôi là cộng đoàn môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô không?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI & HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người…” (1 Ga 3,23). Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước chưa tin vào Danh Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, để họ nhận ra và tin vào Người là Nguồn Ơn Cứu Độ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Hồi ấy, trong khắp miền Giu-đê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri, Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ” (Cv 9,31). Chúng ta hãy cầu xin cho Hội Thánh Chúa ở khắp mọi nơi, nhất là tại Việt Nam, được bình an và phát triển vững chắc, nhờ Thánh Thần nâng đỡ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy sống kết hiệp mật thiết với Thầy Giê-su hầu sinh nhiều hoa trái.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi” (Ga 15,6). Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tín hữu sống khô khan, nguội lạnh, thờ ơ với đời sống tâm linh, để họ sớm tỉnh thức và hoán cải.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 13:26-33; Jn 14:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Mọi điều Thiên Chúa hứa được hoàn thành bởi Đức Kitô.
Con người ham sống và sợ chết. Nếu phải đổi tất cả những gì con người có để khỏi phải chết và được sống muôn đời, họ sẽ sẵn sàng đổi; nhưng cái chết là một thực tại mà mọi người phải đương đầu với. Con người tự hỏi: Tại sao khát vọng sống ở trong con người mà cái chết luôn đeo đuổi họ? May mắn cho con người, Chúa Giêsu đến để cung cấp câu trả lời cho con người bằng cách cho mặc khải cho con người ý định của Thiên Chúa: Ngài dựng nên con người cho cuộc sống bất tử và có sẵn Kế Hoạch Cứu Độ để thực hiện điều này.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong Chúa Giêsu; Ngài đến để hoàn thành Kế Hoạch của Thiên Chúa, và mang lại cuộc sống trường sinh cho con người. Trong Sách CVTĐ, Phaolô đưa khán giả ngược giòng lịch sử để nhìn thấy những gì Thiên Chúa hứa với dân Do-thái được hoàn thành nơi Đức Kitô, qua Cuộc Thương Khó – cái chết – và sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho các Tông-đồ biết về những gì sắp xảy ra cho các ông: Ngài về trời để dọn chỗ và sẽ trở lại đón các ông về ở với Ngài. Toàn bộ Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa có thể được tóm gọn trong câu tuyên bố của Chúa Giêsu: "Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Điều Thiên Chúa đã hứa với cha ông chúng ta được thực hiện nơi Đức Kitô.
1.1/ Mọi chuyện xảy ra trong Cuộc Thương Khó của Đức Kitô đã được loan báo trong Kinh Thánh.
Phaolô tiếp tục nói với khán giả trong hội đường tại Antioch, Pisidia: "Thưa anh em, là con cái thuộc dòng giống Abraham, và thưa anh em đang hiện diện nơi đây, là những người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta." Rồi ông nói về sự luận tội, cái chết, và sự mai táng của Đức Kitô:
(1) Sự luận tội: "Dân cư thành Jerusalem và các thủ lãnh của họ đã không nhận biết Đức Giêsu; khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi ngày Sabbath."
Bốn Bài ca về Người Tôi Trung của Thiên Chúa phải chịu đau khổ để hoàn thành sứ vụ Thiên Chúa trao trong Sách Ngôn Sứ Isaiah, và nhiều Sách ngôn sứ khác dẫn chứng điều này.
(2) Cái chết của Ngài: "Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Philatô xử tử." Chính Philatô đã mang Chúa Giêsu ra cho dân thấy và nói: "Ta không tìm thấy nơi người này có tội gì để kết án;" nhưng họ càng la to hơn: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào Thập Giá!"
(3) Sự mai táng: "Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ."
1.2/ Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: Mặc dù con người đã từ chối và đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập Giá, họ không vô hiệu hóa Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, vì Ngài đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Vì thế, Kế Hoạch Cứu Độ được hoàn thành, và từ nay, không những Israel và mọi người đều có thể nhận được ơn cứu độ. Phaolô trưng dẫn những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh:
(1) Đức Kitô đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ: "Trong nhiều ngày, Đức Giêsu đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Galilee lên Jerusalem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân."
(2) Phaolô và Barnabas làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh: "Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: Điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con."
2/ Phúc Âm: Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Chúa Giêsu.
2.1/ Tình yêu Chúa Giêsu dành cho các môn đệ: Đây là những lời tâm huyết của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước Cuộc Thương Khó, như những lời trối trăn của người chết trên giường bệnh trước lúc hấp hối: "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi."
2.2/ Đường dẫn đến Chúa Cha:
(1) Câu hỏi của ông Thomas: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?" Câu hỏi của Thomas hợp lý, một người phải biết đích mình muốn đi, trước khi tìm ra đường để đi tới. Khi hỏi những lời này, Thomas vẫn chưa tin Chúa Giêsu đến từ trời, nên khi Chúa Giêsu nói Ngài sẽ trở về cùng Cha, ông không nghĩ là Chúa Giêsu sẽ lên trời. Cho đến khi chính mắt ông nhìn thấy Chúa khi Ngài hiện ra (Jn 20:26-28), lúc đó ông mới xác tín niềm tin của ông vào Chúa Giêsu, khi kêu lên: "Lạy Thầy của con! Lạy Thiên Chúa của con" (Jn 20:28).
(2) Câu trả lời của Chúa Giêsu: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy." Làm sao một con người có thể tuyên bố những lời này? Các Tông-đồ có lẽ không hiểu ý nghĩa của câu tuyên bố này khi Chúa Giêsu nói; nhưng chỉ dưới ánh sáng Phục-sinh, các ông mới có thể nhận ra ý nghĩa của nó.
Trước tiên, Chúa Giêsu mặc khải cho con người một "Sự Thật" quan trọng. Ngài cho con người biết ý định của Thiên Chúa: Thiên Chúa muốn cho con người không phải chết, nhưng được "Sống" muôn đời. Đây là đích điểm của đời người, và cũng là đích điểm của Kế Hoạch Cứu Độ. Điều này không lạ, vì Thiên Chúa dựng nên con người, và Ngài phú bẩm trong linh hồn con người khát vọng được sống đời đời. Làm sao con người đạt được đích điểm này? Con người không thể tự mình đạt tới vì con người tội lỗi và không có sức mạnh; nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị một Kế Hoạch Cứu Độ.
Đây là "Đường" hay "Cách" mà Thiên Chúa cứu độ con người: Ngài cho Người Con Một xuống thế gian để gánh tội cho con người. Người Con này hoàn thành Kế Hoạch bằng cách chịu đau khổ, chịu chết, và sống lại để mang lại sự sống đời đời cho con người.
Để con người có thể đạt đích của cuộc đời, họ phải tin vào Đức Kitô và Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa; đồng thời, họ cũng phải ngang qua con đường mà Chúa Giêsu đã đi để chuộc tội cho con người, như thánh Phaolô nói: "Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống lại như Người." Quả thực, chỉ một mình Đức Kitô có đầy đủ thẩm quyền để nói: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Cuộc đời chúng ta chỉ có ý nghĩa qua niềm tin vào Đức Kitô. Ngài đến để mặc khải cho chúng ta ý định của Thiên Chúa, và Ngài sẵn sàng chịu đau khổ và chịu chết để chúng ta được sống muôn đời. Tất cả mọi biến cố trong Kinh Thánh và trong cuộc đời chúng ta chỉ tìm thấy ý nghĩa đích thực qua ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 13:13-25; Jn 13:16-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa hoàn tất mọi ý định và lời hứa của Ngài.
Có một sự khác biệt giữa ý định và lời Thiên Chúa hứa với ý định và lời hứa của con người. Những gì Thiên Chúa muốn, Ngài sẽ hòan thành; không một ai có thể cản trở ý định của Ngài. Những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ ban; vì Ngài có uy quyền làm mọi sự. Những gì con người muốn luôn thay đổi, và những gì con người hứa ít khi được hoàn thành vì con người giới hạn và không đủ uy quyền để hoàn thành lời hứa. Nhìn lại lịch sử được ghi chép trong Kinh Thánh, con người phải ngạc nhiên và phải tin vững vàng vào Thiên Chúa, vì tất cả những gì Thiên Chúa đã muốn và hứa đều được làm trọn đến từng chi tiết. Khi những biến cố xảy ra trong hiện tại, con người nghĩ họ đang thực hiện ý định của họ; nhưng thực ra, họ chỉ đang làm theo ý Thiên Chúa đã muốn.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nói lên sức mạnh và sự trung thành của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Phaolô dùng lịch sử để chứng minh cho khán giả biết Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Ngài hòan thành hai lời hứa với Abraham sẽ ban cho ông con cháu và Đất Hứa. Ngài hoàn thành lời hứa sẽ ban cho Israel một Đấng Cứu Độ xuất thân từ giòng dõi vua David. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tiên báo một người trong các Tông-đồ, là người cùng ăn uống với Chúa, sẽ "giơ gót đạp Chúa" như lời TV 41:9 tuyên bố; điều này được ứng nghiệm qua sự phản bội của Judah. Chúa Giêsu tiên đoán các Tông-đồ sẽ cùng chịu chung số phận bị bắt và giết chết như Chúa. Lời tiên đoán này cũng được làm trọn qua sự tử đạo của các Tông-đồ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa đã thực hiện những gì Ngài hứa với tổ-phụ Abraham và vua David.
Ngày Sabbath, hai ông Phaolô và Barnabas vào hội đường ngồi tham dự. Sau phần đọc sách Luật và sách Các Ngôn Sứ, các trưởng hội đường cho người đến nói với hai ông: "Thưa anh em, nếu anh em muốn khuyên nhủ dân điều gì, xin cứ nói. Ông Phaolô đứng dậy, giơ tay xin mọi người lưu ý, rồi nói:
1.1/ Thiên Chúa làm trọn lời hứa với Abraham: Vì Abraham luôn vâng lời Thiên Chúa trong mọi sự, nên Ngài hứa với ông hai điều:
(1) Ban cho ông con đàn cháu đống (Gen 17:7): Mục đích của Phaolô là muốn khán giả nhìn lại lịch sử để xem lời Thiên Chúa hứa được hoàn thành thế nào: "Thiên Chúa của dân Israel đã chọn cha ông chúng ta, đã làm cho dân này thành một dân lớn trong thời họ cư ngụ ở đất Ai-cập (Deut 4:37, 10:15), và đã giơ cánh tay mạnh mẽ của Người mà đem họ ra khỏi đó. Và trong thời gian chừng bốn mươi năm, Người đã nuôi dưỡng họ trong sa mạc (Deut 4:34, 5:15, 9:26, 29, Exo 6:1-6, 12:42). Tất cả những điều này đã được ghi chép cẩn thận trong Lề Luật của họ.
(2) Ban cho ông Đất Hứa (Gen 17:8): Sau 40 năm thanh luyện trong sa mạc, Thiên Chúa dùng Joshua để đưa dân vào Đất Hứa: " Rồi Người đã tiêu diệt bảy dân tộc ở đất Canaan và ban đất của chúng cho họ làm gia sản: tất cả đã xảy ra trong khoảng bốn trăm năm mươi năm (Exo 16:35, Num 14:33ff, Deut 1:31). Sau đó, Người ban cho họ các vị thủ lãnh cho đến thời ngôn sứ Samuel."
1.2/ Thiên Chúa làm trọn lời hứa với David: Sau thời của Joshua, Thiên Chúa ban cho Israel các vị Thủ Lãnh để lãnh đạo dân chúng; nhưng khi Israel thấy các dân tộc khác có vua, họ đòi tiên tri Samuel cho họ cũng có vua cai trị họ.
(1) Israel có vua cai trị: "Rồi họ đòi có vua, Thiên Chúa ban cho họ ông Saul, con ông Kish thuộc chi tộc Benjamin, trị vì bốn mươi năm. Sau khi truất phế vua Saul, Người đã cho ông David xuất hiện làm vua cai trị họ. Người đã làm chứng về ông rằng: Ta đã tìm được David, con của Jesse, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta. Từ dòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu (2 Sam 7:12, 22:51).
(2) Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Chúa Giêsu: Lời hứa ban Đấng Cứu Độ được thực hiện khi để dọn đường cho Đức Giêsu, ông Gioan đã rao giảng kêu gọi toàn dân Israel chịu phép rửa tỏ lòng sám hối (Mt 3:11). Khi ông sắp hoàn thành sứ mệnh và được tra vấn bởi các kinh sư và luật sĩ nếu ông là Đấng Thiên sai, ông Gioan đã tuyên bố: "Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người" (Jn 1:20, 27, Mc 1:7f). Khi ông nhìn thấy Chúa Giêsu đi ngang, ông chỉ vào Ngài và nói với các môn đệ: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian." (Jn 1:29).
2/ Phúc Âm: Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu.
2.1/ Nếu người ta đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em: Cuộc Thương Khó đã gần kề, Chúa Giêsu biết trước những gì sẽ xảy ra cho Ngài và những gì sẽ xảy ra cho các môn đệ; nên Ngài muốn chuẩn bị tâm hồn cho các ông. Ngài nói với các ông: "Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi." Chúa Giêsu muốn các tông-đồ biết trước điều đó và biết cách đối phó khi điều ấy xảy đến. Trong Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu, tất cả những gì Chúa đã tiên báo đều ứng nghiệm đến từng chi tiết. Trong Sách CVTĐ, chúng ta đã nghe tường thuật đầy đủ tất cả những bắt bớ, tù đày, roi đòn, và tử đạo của các môn đệ Chúa.
2.2/ Chúa Giêsu tuyên bố về sự phản bội của Judah: Chúa Giêsu dẫn chứng lời TV 41:9 "Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con." Ngài muốn nói với các ông ngay cả việc bị một người trong số các ông phản bội, Judah, không phải là chuyện tình cờ, nhưng đã được xếp đặt và báo trước bởi Thiên Chúa. Sở dĩ Ngài nói với các ông điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, các ông tin là "Ngài Hằng Hữu." Biệt hiệu này chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi vì Ngài luôn hiện hữu.
Chúa nói trước về sứ vụ tương lai của các Tông-đồ; các ông là sứ giả mang Tin Mừng của Ngài. Ai đón tiếp sứ giả loan Tin Mừng là đón tiếp Đức Kitô và Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sai Đức Kitô, và Đức Kitô sai các sứ giả. Điều cần là các sứ giả phải loan báo những gì Đức Kitô muốn nói cho dân chúng. Bổn phận của dân chúng là phải nhận ra ai là sứ giả thật từ những sứ giả mạo danh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất cả mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời là do ý định và sự quan phòng của Thiên Chúa. Điều gì Thiên Chúa muốn, Ngài sẽ làm cho thành tựu; điều gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ ban.
- Con người chúng ta chỉ thi hành những gì Thiên Chúa muốn; không một ai có thể chống lại ý định hay vô hiệu hóa lời hứa của Thiên Chúa.
- Hạnh phúc của chúng ta là cố gắng tìm ra và vui vẻ làm điều Thiên Chúa muốn. Dĩ nhiên, chúng ta có thể làm ngược lại; nhưng có ích lợi gì đâu!
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 12:24-13:5; Jn 12:44-50.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sẵn sàng vâng lời Thiên Chúa.
Có rất nhiều khác biệt giữa lời của Thiên Chúa và lời của con người: Lời của Thiên Chúa khôn ngoan tuyệt đỉnh, không thay đổi, và mang lại sự sống cả đời này và đời sau; trong khi lời của con người không thể khôn ngoan bằng Lời Chúa, thay đổi, chưa chắc đã mang lại sự sống đời này, và không thể mang sự sống đời sau.
Các Bài Đọc hôm nay dạy con người phải biết vâng lời Thiên Chúa qua sự thúc đẩy của Thánh Thần và thực thi những gì Chúa Giêsu nói. Trong Bài Đọc I, tuy Hội Thánh Antioch mới lập, nhưng họ sẵn sàng theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, hy sinh Barnabas, Phaolô, và Gioan Marcô, để các ông lên đường rao giảng Tin Mừng đến các nơi chưa được nghe. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: Ngài chỉ nói những gì Ngài nghe được nơi Thiên Chúa. Vì thế, tuân giữ Lời Ngài là tuân giữ Lời Thiên Chúa; nếu không, những Lời này sẽ trở nên quan tòa xét xử con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hội Thánh tại Antioch vâng lời Thiên Chúa.
1.1/ Lời Chúa tiếp tục lan tràn và phát triển đến mọi nơi: Đây là mục đích trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa nên Ngài tạo mọi cơ hội cho các sứ giả loan báo Tin Mừng. Vài ví dụ cho chúng ta thấy điều này: Phải có cuộc bách hại tại Jerusalem sau khi Stephanô chịu tử đạo, các môn đệ Chúa mới chịu tản mác đi các nơi và rao giảng Tin Mừng; trong khi các Tông-đồ ở lại Jerusalem để củng cố Hội Thánh Trung Ương. Phó-tế Philip xuống Samaria và rao giảng Tin Mừng cho dân ở đây. Ông cũng gieo hạt giống cho dân Ethiopia khi rao giảng Tin Mừng và làm Phép Rửa cho viên Thái Giám. Ngài làm cho Saul, kẻ nhiệt thành bắt bớ đạo thánh, được trở lại; và giờ đây sẵn sàng để nhiệt thành rao giảng Tin Mừng như tường thuật hôm nay. Nơi nào Tin Mừng được rao giảng, Thiên Chúa cũng ban cho có các ngôn sứ và thầy dạy, như trong Hội Thánh tại Antioch, có các ông Barnabas, Simeon biệt hiệu là Đen, Lucius người Cyrene, Manaen, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Herode, và Phaolô.
1.2/ Giáo đoàn tại Antioch sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần.
- Sứ vụ riêng cho Phaolô và Barnabas: Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: "Hãy dành riêng Barnaba và Phaolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm." Đây là lệnh truyền không dễ làm cho Hội Thánh tại Antioch, vì hai ông là hai cột trụ của cộng đoàn và Hội Thánh địa phương còn non nớt. Theo sự suy nghĩ loài người: nếu mất hai ông, cộng đoàn sẽ suy xụp và không phát triển được. Nhưng họ quyết định không sống theo sự suy nghĩ của con người; nhưng theo niềm tin vào Thiên Chúa và sự hướng dẫn của Thánh Thần: "Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi."
- Đây là bài học quí giá cho mọi tín hữu: Phải hy sinh cho việc rao giảng Tin Mừng sao cho mỗi ngày một lan rộng, chứ không ích kỷ giữ người cho mình. Hơn nữa, khi nhà lãnh đạo đương nhiệm ra đi, Thiên Chúa sẽ gởi người khác tới, và mọi người trong Hội Thánh địa phương sẽ ý thức được vai trò của mình và cộng tác đắc lực hơn.
- Phaolô, Barnabas, và Gioan Marcô bắt đầu thành các cộng đoàn mới: "Vậy, được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Seleucia, rồi từ đó đáp tàu đi đảo Cyprius. Đến Salamis, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường người Do-thái. Có ông Gioan giúp hai ông."
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha.
2.1/ Con người phải tin và vâng lời Chúa Giêsu: Đức Giê-su lớn tiếng nói rằng:
- "Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi." Người được sai đi có đầy đủ chức vị và thẩm quyền như Đấng sai đi. Vì thế, tin vào sứ giả là tin vào người sai sứ giả; từ chối sứ giả là từ chối người sai sứ giả.
- "Ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi." Đây là lời mặc khải mới lạ. Đối với con người, Người sai đi và sứ giả là hai chủ thể riêng biệt. Đối với Thiên Chúa, Người sai đi (Chúa Cha) và Người được sai đi (Chúa Con) là một; vì cả hai đều là Thiên Chúa, nhưng làm các việc khác nhau. Điều này cũng được Chúa Giêsu xác tín, khi Philip yêu cầu: "Xin Thầy chỉ cho chúng con thấy Cha, thế là chúng con mãn nguyện rồi." Chúa Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíp, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha!" Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình" (Jn 14:9-10).
- "Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối." Ánh sáng và bóng tối là hai điều trái nghịch nhau: khi có ánh sáng thì không có bóng tối; và ngược lại. Người tin vào Đức Kitô không thể ở trong bóng tối, vì Đức Kitô là ánh sáng. Điều này không có ý nói, người nào đã tin Đức Kitô là sẽ không còn bóng tối trong mình; nhưng nếu người tin Ngài chịu để cho ánh sáng của Ngài soi dẫn vào mọi ngóc ngách trong tâm hồn, họ sẽ chỉ còn là ánh sáng.
- "Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian." Câu này lặp lại những gì Chúa Giêsu đã nói trong Jn 3:16-21. Chương 12 của Gioan là chương cuối cùng của cuộc đời công khai rao giảng của Đức Kitô, vì từ chương 13 tới 21 dành cho các môn đệ và Cuộc Thương khó của Ngài. Vì thế, chương 12 tóm gọn những đạo lý chính của Chúa Giêsu.
- "Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy - chính lời tôi đã nói sẽ là quan tòa xét xử người ấy trong ngày sau hết." Theo Jn 3:18, con người xét xử chính mình khi không tin vào Đức Kitô. Với những người không có cơ hội gặp Chúa Giêsu và những người thuộc các thế hệ sau như chúng ta, Lời Chúa trở thành quan tòa xét xử cho những ai không chịu tin vào Lời Ngài.
2.2/ Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha: "Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì." Người được sai đi phải nói những gì người sai đi muốn nói; nếu không, họ sẽ không còn là sứ giả hay ngôn sứ của người đã sai họ đi.
Tuy nhiên, sự vâng lời của Chúa Giêsu không có tính cách nô lệ hay mù quáng, vì Ngài phán: "Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi." Nói cách khác, Ngài biết Lời của Chúa Cha là sự thật, và có khả năng giải thoát con người khỏi tội, và cho con người được sống muôn đời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn nhớ Thiên Chúa vẫn đang hoạt động và điều khiển mọi sự trong vũ trụ. Bổn phận của chúng ta là cầu nguyện để nhận ra và mau mắn thi hành thánh ý của Ngài.
- Chúng ta phải chịu trách nhiệm trong việc rao giảng Tin Mừng cho mọi người, chứ không ích kỷ chỉ biết lo lắng cho mình hay cho giáo xứ. Khi đã hiêu biết Lời Chúa rồi, chính chúng ta phải sống và làm chứng cho Tin Mừng.
- Đừng khinh thường Lời Chúa vì những Lời này sẽ trở thành quan tòa để phán xét chúng ta; hơn nữa, đó là những Lời mà vì yêu chúng ta, Thiên Chúa nói với chúng ta những Lời này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 11:19-26; Jn 10:22-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ai thuộc về đoàn chiên của Thiên Chúa nghe tiếng Chúa Giêsu.
Có những tiếng nói hay tiếng cười đã quá quen thuộc khiến con người chẳng cần nhìn cũng nhận ra người đang nói hay đang cười là ai. Chẳng hạn, khi Chúa Giêsu hiện ra với Mary Magdala, Chúa chỉ cần gọi một tiếng ngắn ngủi: “Mary.” Bà nhận ra ngay và kêu lên: “Lạy Thầy!” Trong mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người cũng thế. Vì Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh và các đức tính của Ngài, con người theo tính tự nhiên dễ hướng chiều về sự thật, về yêu thương và tha thứ, và nhất là về Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nói lên mối liên hệ mật thiết giữa Thiên Chúa và con người. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật sự thành công trong việc rao giảng Tin Mừng của các môn đệ Chúa: Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa; không chỉ những người Do-thái, mà còn rất nhiều Dân Ngoại. Chính tại Antioch mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố với các đối phương của Ngài: "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa.
1.1/ Tin Mừng bắt đầu được loan truyền ra ngoài lãnh thổ của Do-thái: Sau cuộc bách hại xảy ra nhân vụ ông Stephanô, các môn đệ phải tản mác đi đến tận miền Phoenicia, đảo Cyprius và thành Antioch. Họ không rao giảng Lời Chúa cho ai ngoài người Do-thái. Nhưng trong nhóm, có mấy người gốc Cyprius và Cyrene; những người này, khi đến Antioch, đã giảng cho cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giêsu cho họ.
Điều làm chúng ta ngạc nhiên là sự trở lại của rất nhiều người và trong nhiều trường hợp rất ly kỳ, như sự trở lại của Phaolô, của viên Thái Giám người Ethiopia, và của viên Đại Đội Trưởng người Roma. Trình thuật hôm nay cho chúng ta lý do chính xác của các cuộc trở lại: "Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa." Nói cách khác, những người này luôn khao khát sự thật, khao khát được biết về Thiên Chúa, và khao khát được sống muôn đời; nên khi họ nghe những lời các môn đệ của Chúa rao giảng Tin Mừng, họ nhận ra ngay những khao khát của họ được đáp ứng, nên họ tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa.
1.2/ Chính tại Antioch mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu: Khi Hội Thánh tại Jerusalem nghe tin nhiều người trở lại tại Antioch, họ cử ông Barnabas đi Antioch để thành lập cộng đoàn tại đó. "Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy, ông Barnabas mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa, vì ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám rất đông theo Chúa." Tên của ông Barnabas có nghĩa "con của khuyên nhủ," vì ông được Chúa ban cho có biệt về "khuyên nhủ." Điều này cho ta thấy người mục tử phải là người sống gần gũi với Thiên Chúa, trước khi có thể dẫn dắt con người đến với Thiên Chúa. Nếu người mục tử không nghe được tiếng Thiên Chúa, làm sao ông có thể giảng giải cho dân và khuyên nhủ họ đến với Ngài?
Sau đó, ông Barnabas trẩy đi Tarsus tìm ông Phaolô. Khi tìm được rồi, ông đưa ông Phaolô đến Antioch. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng dạy cho rất nhiều người. Sứ vụ của hai ông tại Antioch khởi sự cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng đặc biệt cho Dân Ngoại. Chính tại Antioch mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu. Danh xưng này có nghĩa là những người theo Đức Kitô. Để theo Ngài, họ cần biết nghe và thực hành những gì Ngài giảng dạy, chứ không phải chỉ là Kitô hữu trên danh nghĩa. Nói cách khác, họ là những môn đệ của Đức Kitô, và có bổn phận phải họa lại cuộc đời của Ngài cho người khác thấy và tin vào Ngài.
2/ Phúc Âm: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.
2.1/ Người Do-thái thắc mắc về căn tính của Chúa Giêsu: "Khi ấy, ở Jerusalem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa Đông. Đức Giêsu đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Solomon. Người Do-thái vây quanh Đức Giêsu và nói: "Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết." Ngày lễ Cung Hiến Đền Thờ cũng là ngày lễ hội ánh sáng (Hanukka) của người Do-thái. Họ cử hành lễ để tôn vinh ánh sáng vì ngày trở nên ngắn và đêm tối trở nên dài hơn (tháng 12). Ánh sáng và bóng tối có một ý nghĩa đặc biệt trong Gioan.
Tại sao cũng những lời rao giảng của Chúa Giêsu, mà có người tin vào Ngài, và có những người không tin vào Ngài? Thái độ cần phải khiêm nhường khi đi tìm sự thực là điều quan trọng, vì nếu đã hãnh diện biết rồi, còn cần gì phải đi tìm nữa! Khi người Do-thái hỏi Chúa Giêsu câu hỏi như trên, họ không có ý nhiệt thành muốn đi tìm sự thực; nhưng coi Chúa Giêsu như lý do làm họ phải nhức đầu, và họ không muốn thay đổi lề lối suy nghĩ của họ. Với một thái độ như thế, làm sao họ có thể học hỏi những gì Chúa Giêsu muốn mặc khải cho họ! Lý do khác làm họ cứng lòng vì họ muốn ở trong bóng tối (Jn 3:19-20).
2.2/ Mối liên hệ giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha, và với con người:
(1) Liên hệ giữa Chúa Giêsu và con người: Chúa Giêsu thẳng thắn cho họ biết lý do tại sao họ không nghe Ngài: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi." Họ không tin Chúa Giêsu không phải vì không có các lý do chắc chắn để tin; nhưng vì họ từ chối không chịu lắng nghe và suy nghĩ những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm. Họ muốn thấy dấu lạ, Chúa Giêsu đã làm nhiều dấu lạ. Họ muốn nghe lời chân lý, Chúa Giêsu đã mặc khải bao nhiêu sự thật của Thiên Chúa. Nếu những người thiện chí muốn đi tìm sự thật, họ đã nhận ra Ngài đến từ Thiên Chúa từ lâu rồi. Nhưng họ đã nhìn và đã nghe đến độ Chúa phải dùng lời tiên tri Isaiah mà nói: "Chúng ra đui mù và lòng chúng ra chai đá, kẻo mắt chúng thấy và lòng chúng hiểu được mà hoán cải, rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành" (Jn 12:40).
(2) Liên hệ giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha: Chúa nói: "Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một."
Trong Kế Hoạch Cứu Độ, con người được Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu bằng cách tạo cơ hội để họ nghe Chúa Giêsu rao giảng; đồng thời ban Thánh Thần để họ nhận ra sự thật và thúc đẩy họ tin vào Đức Kitô. Vì thế, cả hai: Chúa Cha và Chúa Con đều hoạt động cho cùng một mục đích là để con người có thể tin vào Đức Kitô và được hưởng cuộc sống muôn đời. Khi các tín hữu đã tin vào Đức Kitô, Ngài sẽ bảo vệ họ; nếu họ trung thành nghe tiếng Ngài hướng dẫn, không một quyền lực nào có thể động đến các tín hữu, và cuộc sống muôn đời là của họ (Jn 6:39-40).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có bổn phận loan truyền Lời Chúa cho mọi người và cho mọi dân tộc trên thế giới; vì tất cả được Thiên Chúa dựng nên và có khả năng để đón nhận sự thật.
- Chúng ta là đoàn chiên của Đức Kitô, chúng ta phải biết lắng nghe để nhận ra tiếng của Ngài, và theo sự hướng dẫn của Ngài, thì mới mong tránh được mọi nguy hiểm trong cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần IV PS
Bài đọc: Acts 11:1-18; Jn 10:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải vâng theo Kế Hoạch của Thiên Chúa.
Có hai giai đọan trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Trong giai đoạn thứ nhất, Ngài chọn dân Do-thái để chuẩn bị cho Đấng Thiên Sai tới; sau đó, đến giai đọan thứ hai, Tin Mừng Cứu Độ được loan báo cho tất cả mọi người. Nhiều người Do-thái chỉ dừng lại ở giai đọan thứ nhất. Họ tin chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng ơn Cứu Độ; Dân Ngoại không phải là con Thiên Chúa, họ xứng đáng để chịu hình phạt và bị hư mất.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh tình thương Thiên Chúa và Kế Hoạch Cứu Độ dành cho mọi người. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ mô tả sự xung đột giữa các môn đệ về việc giao tiếp và chấp nhận Dân Ngoại vào đạo thánh Chúa. Phêrô phải dùng thị kiến chiếc lưới từ trời và kinh nghiệm mục vụ để thuyết phục họ: Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Dân Ngoại cũng được lãnh nhận Thánh Thần và ơn sám hối để được sự sống đời đời. Loài người chúng ta không thể ngăn cản Kế Hoạch của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Mục Tử Tốt Lành đến để qui tụ tất cả các chiên và cho chúng được sống dồi dào.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người.
1.1/ Xung đột xảy ra giữa người Do-thái và ông Phêrô: Theo truyền thống Do-thái, họ sống cách biệt với các dân tộc khác, và không bao giờ vào nhà của Dân Ngoại. Các người Do-thái chỉ trích Phêrô đã giao tiếp với Dân Ngoại, vào nhà những kẻ không cắt bì, và ăn uống với họ. Bấy giờ ông Phêrô trình bày cho họ biết thị kiến mà ông đã chứng kiến, ông nói: Tôi đang cầu nguyện tại thành Joppa, trong lúc xuất thần, tôi thấy thị kiến này: Có một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, từ trời thả xuống đến tận chỗ tôi. Nhìn chăm chú và xem xét kỹ, tôi thấy các giống vật bốn chân sống trên đất, các thú rừng, rắn rết và chim trời. Và tôi nghe có tiếng phán bảo tôi: "Phêrô, đứng dậy, làm thịt mà ăn!” Tôi đáp: "Lạy Chúa, không thể được, vì những gì ô uế và không thanh sạch không bao giờ lọt vào miệng con!” Có tiếng từ trời phán lần thứ hai: "Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế! Việc ấy xảy ra đến ba lần, rồi tất cả lại được kéo lên trời.”
Thị kiến này đòi Phêrô phải xét lại truyền thống Do-thái của mình: Vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên đều tốt lành và thanh sạch, ông không thể giữ thái độ khinh thường Dân Ngoại, coi họ là dân không cắt bì, nô lệ, hay không thanh sạch.
1.2/ Thiên Chúa cũng ban cho các Dân Ngoại ơn sám hối để được sự sống!
(1) Tin Mừng được rao truyền cho Dân Ngoại: Phêrô tiếp tục kể: "Ngay lúc đó, có ba người đến nhà chúng tôi ở: họ được sai từ Caesarea đến gặp tôi. Thần Khí bảo tôi đi với họ, đừng ngần ngại gì. Có sáu anh em đây cùng đi với tôi. Chúng tôi đã vào nhà ông Cornelius. Ông này thuật lại cho chúng tôi nghe việc ông đã thấy thiên sứ đứng trong nhà ông và bảo: "Hãy sai người đi Joppa mời ông Simon, cũng gọi là Phêrô. Ông ấy sẽ nói với ông những lời nhờ đó ông và cả nhà ông sẽ được cứu độ.” Cornelius là viên Đại Đội Trưởng Roma, tuy là Dân Ngoại, nhưng ông đối xử rất tốt với người Do-thái. Nhân cơ hội đó, Phêrô đã rao giảng Tin Mừng về Đức Kitô cho tất cả những người trong gia đình Cornelius. Điều đáng chú ý là Thiên Chúa hoạt động trong biến cố này: Ngài gởi thiên sứ tới báo tin cho Cornelius, đồng thời dùng Thần Khí tác động trên Phêrô, để thúc đẩy ông cùng đi với 3 sứ giả của Cornelius.
(2) Không ai có thể ngăn cản Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Tôi vừa mới bắt đầu nói, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên họ, như đã ngự xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Tôi sực nhớ lại lời Chúa nói rằng: "Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được rửa trong Thánh Thần. Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?" Phêrô nhắc lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần; và nhờ biến cố này, Phêrô nhận ra Thiên Chúa ban Thánh Thần cho tất cả mọi người, chứ không riêng gì những người Do-thái. Sau đó, Phêrô làm Phép Rửa cho tất cả gia đình ông Cornelius.
Nghe Phêrô trình bày đầu đuôi, người Do-thái mới hiểu ra. Họ tôn vinh Thiên Chúa và nói: "Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho các Dân Ngoại ơn sám hối để được sự sống!"
2/ Phúc Âm: Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
2.1/ Chúa Giêsu là Cửa chuồng chiên: Trong các làng mạc của Do-thái, họ có chỗ chung để nhốt tất cả các chiên trong làng ban đêm. Chỗ nhốt này chỉ có một cửa duy nhất có khóa, và chìa khóa chỉ người giữ cửa mới có. Người giữ cửa biết tất cả các người chăn chiên, và chỉ mở cửa cho những người này. Tuy nhiên, cũng có những người chăn chiên không vào làng, nhưng giữ chiên ngoài cánh đồng như tại Bethlehem. Trong trường hợp này, người chăn chiên sẽ tìm những hang đá mà chỉ có một ngõ ra vào. Đêm đến, họ sẽ lùa chiên vào trong hang đá, và họ sẽ nằm ngủ ngay cửa ra vào. Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến cả hai trường hợp:
(1) "Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.”
(2) "Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là Cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”
2.2/ Liên hệ giữa mục tử và chiên: Có một sự liên hệ mật thiết giữa mục tử và đàn chiên. Người mục tử biết tất cả các chiên của mình và thói quen của từng con một; nhiều mục tử còn đặt tên riêng cho mỗi con như “vằn” nếu con nào có những vằn quanh như sóng trên người, “trắng,” “đen,” “khoang”... Đồng thời, các con chiên cũng biết đánh hơi, hay nhận ra chủ của chúng nhờ tiếng gọi đặc biệt, hay tiếng chuông, tiếng kèn, tiếng sáo mà người mục tử đeo trên mình. Đó là lý do tại sao Chúa nói: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ."
Chúa cũng đề cập đến sự khác biệt giữa Mục Tử và trộm cướp: “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Người chăn chiên thật phải chịu trách nhiệm về đàn chiên của mình với chủ; nếu chiên bị ăn thịt, anh phải có bằng chứng rõ ràng để trình cho chủ. Người chăn chiên đích thực phải chăm sóc bằng cách tìm những đồng cỏ xanh và nước trong lành cho chiên ăn uống. Anh phải bảo vệ chiên khỏi mọi nguy hiểm như: chó sói, sư tử, kẻ trộm, kẻ cướp... Qua hình ảnh thân thương này, Chúa Giêsu muốn ví Ngài như Mục Tử Tốt Lành và các tín hữu được ví như đàn chiên. Ngài đến để cho chúng ta được sống, và sống dồi dào.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tất cả mọi người đều có thể nhận được ơn Cứu Độ trong Kế Hoạch của Thiên Chúa, và Tin Mừng cần được loan báo cho mọi dân tộc.
- Để được hưởng ơn Cứu Độ, chúng ta cần biết lắng nghe và tin tưởng vào Đức Kitô, Người Mục Tử Tốt Lành mà Thiên Chúa gởi tới con người.
- Người mục tử tốt lành là người phải vào qua Cửa là Đức Kitô: họ phải nhân danh Đức Kitô giảng dạy, chữa lành; và bắt chước Đức Kitô để săn sóc và bảo vệ đòan chiên của mình.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
“TÔI CHÍNH LÀ MỤC TỬ NHÂN LÀNH”
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH NĂM B (26/04/2015)
[CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH:
Cầu cho Ơn Thiên Triệu Linh Mục và Tu Sĩ]
[Cv 4,8-12; 1 Ga 3,1-2; Ga 10,11-18]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Chúa Giê-su đã mượn hình ảnh “người chăn chiên và đoàn chiên” rất quen thuộc với người Do-thái để mạc khải về mình: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên!”
Chúa Ki-tô Giê-su không chỉ hy sinh mạng sống vì đoàn chiên và chăm lo cho đoàn chiên một cách trực tiếp mà ngài còn giao cho các Ki-tô hữu nhiệm vụ chăm lo cho đoàn chiên, thay cho ngài.
Ông William Barclay đã viết mấy dòng rất sâu sắc và cụ thể về sự việc ấy khi ông diễn giải ý nghĩa của giáo huấn “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô” trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô của Thánh Phao-lô:
“Chúa Giê-su không còn trong xác thịt trên trần gian này nữa, do đó, nếu Ngài muốn làm một việc gì trên đời này, Ngài phải tìm một người để làm công việc ấy.
Nếu Ngài muốn dậy dỗ một đứa trẻ, Ngài tìm một thầy giáo để dậy bảo nó.
Nếu muốn chữa lành một người bệnh, Ngài tìm một bác sĩ hay một nhà giải phẫu để làm công việc đó cho Ngài.
Nếu Ngài muốn kể lại một câu chuyện về mình, Ngài phải tìm một người để kể. Tóm lại chúng ta là thân thể của Chúa Ki-tô,
là những bàn tay để làm việc cho Ngài,
những bàn chân để chạy việc cho Ngài,
là tiếng nói để phát ngôn cho Ngài.
“Ngài không có tay, chỉ có đôi tay của chúng ta
để làm công việc ngày hôm nay của Ngài.
Ngài không có chân, chỉ có đôi chân của chúng ta
để dẫn người ta theo đường lối Ngài.
Ngài không có tiếng nói, chỉ có tiếng nói của chúng ta
để nói với loài người rằng Ngài đã chịu chết như thế nào.
Ngài không có cách giúp đỡ nào khác ngoài sự giúp đỡ của chúng ta
để đưa họ đến bên cạnh Ngài.”
(Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, NXB Tôn giáo 2008, trang 100)”
Cử hành LỄ CHÚA CHIÊN LÀNH cách tốt nhất là chúng ta tham gia và chia sẻ công việc chăm lo cho đoàn chiên của Thiên Chúa, cho cả những người đã ở trong ràn và cho cả những người chưa thuộc về ràn của Chúa Ki-tô.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 4, 8-12): Không có một danh nào khác để chúng ta phải nhờ vào dang đó mày được cứu độ.
(8) Bấy giờ, ông Phê-rô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ: "Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, (9) hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. (10) Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị. (11) Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. (12) Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ."
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Ga 3,1-2): Thiên Chúa thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.
(1) Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa -mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người. (2) Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 10,11-18): Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.
(11) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (12) Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, (13) vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. (14) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, (15) như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
(16) Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. (17) Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. (18) Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa
1°) Bài đọc 1 (Cv 4,8-12) là lời chứng hùng hồn của ông Phê-rô trước Thượng Hội đồng Do Thái gồm các thủ lãnh và kỳ mục trong dân. Tông đồ Phê-rô quả quyết chính nhờ Danh Đức Giê-su Na-da-rét mà ông đã chữa lành người què. Đấng mà Phê-rô nhân danh để làm phép lạ chính là người mà giới lãnh đạo Đền thờ đã giết hại bằng cách kết án trên cây thập tự. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho người trỗi dậy từ cõi chết để minh oan, siêu tôn người và trả lại cho người tất cả quyền năng mà người đã tự ý khước từ khi nhập thể làm người. Cái chết hy sinh trên thập giá chứng tỏ Đức Giê-su là Vị Mục tử nhân lành mà Chúa đã khẳng định trong Tin Mừng Gio-an.
2°) Bài đọc 2 (1 Ga 3,1-2) cho chúng ta biết Thánh Gio-an muốn các tín hữu tin vào Lòng Yêu Thương vô bờ vô bến của Chúa Cha. Bằng chứng của Tình Yêu ấy là Thiên Chúa Cha đã làm cho mọi người nên con cái của Người, trong và nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa.
3°) Bài Tin Mừng (Ga 10,11-18) là lời khẳng định của chính Đức Giê-su về CHÂN DUNG đích thực của mình: “Chính tôi là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” Mối liên hệ giữa mục tử và con hay đoàn chiên là gắn bó, mật thiết, sống động: con chiên hay đoàn chiên thuộc về mục tử, biết và nghe lời mục tử. Còn mục tử thì biết rõ từng con chiên một và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì con chiên và vì đoàn chiên của mình. Mục tử nhân lành tự ý, tự nguyện hy sinh mạng sống vì con chiên và đoàn chiên. Mục tử còn có rất nhiều chiên khác chưa tập trung cùng đàn mà còn tản mác khắp chốn khắp nơi, nên trong lòng Người còn nặng trĩu nỗi bức xúc phải tập hợp tất cả mọi con chiên vào một đàn duy nhất.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có hai phần:
* Phần thứ nhất là: Chúa Giê-su được Chúa Cha sai đền trần gian để yêu thương và chăm lo cho hết mọi người. Người đã hết lòng yêu thương, chăm sóc những kẻ thuộc về Người đến độ Người đã hy sinh mạng sống vì chúng ta. Vì thế chúng ta được mời gọi hãy đón nhận - với lòng biết ơn - sự yêu thương, chăm sóc và hy sinh của Chúa Giêsu và hãy có mối liên hệ mật thiết với Người.
* Phần thứ hai là: Mỗi Ki-tô hữu được mời gọi trở thành “mục tử nhân lành” đối với những người thuộc về mình hay được giao phó cho mình, tức có bổn phận yêu thương, chăm sóc và hy sinh cho những người ấy theo gương Chúa Giê-su đã yêu thương, chăm sóc và hy sinh mạng sống cho chúng ta và mọi người. Những người có chức thánh và những người có trách nhiệm hướng dẫn cộng đoàn thì có càng phải chăm lo cho người khác nhiều hơn.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng quyền năng và yêu thương nên đã sai Con Một xuống thế làm người và làm Chúa Chiên Lành (Mục Tử) hy sinh mạng sống cho loài người, cho mỗi người được sống và được sống dồi dào trong ân nghĩa của Thiên Chúa.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Để giúp mỗi người/cộng đoàn thực thi sứ điệp Lời Chúa một cách dễ dàng và cụ thể, xin hãy trả lời mấy câu hỏi sau đây:
- Tôi và cộng đoàn tôi nhận thức và trân trọng như thế nào vai trò và chức năng mục tử của Chúa Ki-tô Giê-su? của các người lãnh đạo khác trong cộng đoàn Giáo xứ, Giáo phận, Dòng Tu, Hội đoàn?
- Tôi và cộng đoàn tôi có cảm thấy hạnh phúc khi được là “những bàn tay để làm việc cho Chúa Ki-tô”, là “những bàn chân để chạy việc cho Ngài”, là “tiếng nói để phát ngôn cho Ngài” không?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI & HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Chính Tôi là Mục Tử nhân lành.” Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban các dân tộc trên thế giới mau chóng nhận ra Chúa Giê-su là Mục Tử Nhân Lành mà Cha đã sai đến trần gian để chăm sóc và chết thay cho hết mọi người và hết mọi dân tộc.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa noi guơng Chúa Giê-su Ki-tô là Mục Tử Nhân Lành mà yêu thương và chăm sóc những người Thiên Chúa Cha giao phó cho.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa - mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy đều ý thức địa vị cao quý là con Thiên Chúa mà họ đã được ban cho cách “nhưng không”.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục, tu sĩ và tông đồ giáo dân để họ tìm hết cách đem mọi người về với Chúa Ki-tô.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chủa Nhật IV Phục Sinh, Năm B
Bài đọc: Acts 4:8-12; I Jn 3:1-2; Jn 10:11-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những nguồn sức mạnh vô biên tiềm ẩn nơi các tín hữu.
Người Kitô hữu, tuy bề ngoài cũng giống như bao nhiêu con người khác, nhưng họ có những nguồn sức mạnh vô biên đang tiềm ẩn nơi con người của họ; mà chính họ nhiều khi không ý thức là mình có hay không biết cách xử dụng chúng. Khi các tín hữu biết xử dụng các nguồn sức mạnh này, họ có thể chữa lành bệnh tật, cho người chết sống lại, khai trừ ma quỉ, vượt qua các khó khăn của cuộc sống, và đạt được đích điểm là cuộc sống muôn đời mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho họ.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong các nguồn sức mạnh vô biên đang tiềm ẩn nơi các tín hữu. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách Công Vụ Tông Đồ nhấn mạnh đến Danh Đức Kitô mà các Kitô hữu tin tưởng, và mầm sống Phục Sinh mà họ đang mang trong mình. Thánh Phêrô dùng Danh Đức Giêsu Kitô để chữa lành người bại liệt, và Ngài quả quyết con người phải tin vào Danh này mới được ơn cứu độ. Trong Bài Đọc II, thánh Gioan đề cập đến đặc quyền làm con Thiên Chúa của các tín hữu, và gia tài họ sẽ được thừa hưởng sau này. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Mục Tử Tốt Lành, Ngài đến để qui tụ tất cả con chiên lạc để bảo vệ chúng, và làm cho chiên được sống dồi dào. Người Kitô hữu có một người bảo vệ uy quyền, yêu thương, và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các tín hữu mang Danh Đức Kitô và mầm sống Phục Sinh nơi mình.
Người Kitô hữu chúng ta có một danh thánh quyền năng, mà không một danh nào trên địa cầu này có uy quyền như danh thánh đó. Danh mà thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Philipphê xác tín: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Phi 2:10-11).
1.1/ Nhân Danh Đức Kitô, Phêrô chữa lành bệnh: Thượng Hội Đồng chất vấn hai ông Phêrô và Gioan: “Các ông lấy quyền năng nào và nhân danh ai để chữa bệnh?” Bấy giờ, ông Phêrô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ: "Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nazareth, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị.” Người Kitô hữu chúng ta không phải ai cũng có thể chữa bệnh như Phêrô, cha Piô, hay cha Bửu Diệp; nhưng niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô có thể giúp chúng ta tránh những nguy cơ của bệnh tật và giúp chúng ta vui sống bình an với mọi người.
1.2/ Chỉ nhờ danh Đức Kitô, con người mới được cứu độ: Trên đồi Calgary, những người trong Thượng Hội Đồng tưởng rằng họ đã loại trừ Chúa Giêsu và tránh được hậu quả mà họ lo sợ là dân chúng bỏ họ mà theo Ngài, nhưng Phêrô nhắc nhở cho họ biết sự sai lầm của họ: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ." Chính Chúa Giêsu đã từng mặc khải điều này cho các môn đệ: “Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Jn 6:40). Bằng niềm tin vào Danh Đức Kitô, người tín hữu bảo đảm được hưởng cuộc sống muôn đời.
2/ Bài đọc II: Các tín hữu được hưởng đặc quyền làm con Thiên Chúa.
2.1/ Người tín hữu là con Thiên Chúa: Bằng niềm tin nơi Đức Kitô và chịu Phép Rửa, người tín hữu trở thành con Thiên Chúa, như thánh Gioan xác nhận: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Jn 1:12). Người Kitô hữu được hưởng đặc quyền này không phải do liên hệ máu mủ hay họ hàng, cũng không phải vì họ tốt lành hay đã làm nên công trạng gì; nhưng đơn giản là vì Thiên Chúa yêu họ, ban cho họ Người Con Một của Ngài là Đức Kitô, để họ có thể trở thành những người con nuôi của Ngài nhờ niềm tin vào Đức Kitô, như Gioan cắt nghĩa: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa - mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người.”
Người tín hữu không phải là con của thế gian: Thế gian ở đây hiểu là những người không tin và chống lại Thiên Chúa. Khi người tín hữu tin Đức Kitô, họ đã thắng thế gian vì thế gian không tin Người; nhưng giá họ phải trả giá là thế gian sẽ ghét và truy tố họ, vì họ không chịu sống theo những tiêu chuẩn của thế gian. Đức Giêsu nhắn nhủ các môn đệ điều này trước Cuộc Thương Khó của Ngài: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Jn 15:18-19).
2.2/ Quyền lợi của những người con Thiên Chúa: Gioan tóm gọn trong một câu đơn giản: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.”
Trước tiên, người tín hữu được bảo đảm quyền sống lại và mang một thi thể Phục Sinh bất tử như Đức Kitô. Điều này gợi lại ý hướng của Thiên Chúa khi dựng nên con người giống hình ảnh và những đặc tính của Thiên Chúa (Gen 1:26), mà tội lỗi đã bôi bẩn và làm hoen ố con người. Đức Kitô đến không những để cất đi tội lỗi, mà còn thánh hóa các tín hữu bằng ơn thánh qua các Bí-tích, và khôi phục lại hình ảnh tốt lành và thánh thiện nguyên thủy của con người.
Thứ đến, các tín hữu được thừa hưởng những kho tàng vô cùng quí giá do Chúa Giêsu để lại. Chúng ta có thể tóm gọn trong 4 gia tài thánh:
(1) Toàn bộ Thánh Kinh về Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa. Đây là một kho tàng khôn ngoan mà không một Sách nào hay tất cả các khôn ngoan của thế gian có thể so sánh được. Nó cung cấp cho người tín hữu mọi giải đáp cho cuộc đời.
(2) Thánh Thần là nguồn mạch 7 ơn thiêng. Ngài họat động trong tâm hồn các tín hữu, và sẽ giúp các tín hữu hiểu sự thật, sống sự thật, và có can đảm làm chứng cho sự thật, giữa bao nhiêu sai trá và cám dỗ của thế gian.
(3) Thánh Giá là khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Thánh Giá giúp các tín hữu nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, và thúc đẩy họ chấp nhận và đi đường gian khổ như Chúa Giêsu, để mang sự sống cho bản thân và cho tha nhân.
(4) Thánh Thể là nguồn sức mạnh nuôi dưỡng các tín hữu, giúp họ luôn có cuộc sống thần linh trong tâm hồn, để có thể vượt qua mọi khó khăn và trở ngại trong cuộc sống.
3/ Phúc Âm: Các tín hữu được bảo vệ bởi Người Mục Tử Nhân Lành.
3.1/ Mục Tử Tốt Lành sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đòan chiên: Trong Tân Ước, Chúa Giêsu ví các tín hữu như chiên và Ngài như người chăn chiên hay Mục Tử. Trong Cựu Ước, tiên tri Ezekiel đã ví Israel như chiên và Thiên Chúa như người Mục Tử (Eze 34). Theo tiên tri, không phải các mục tử đều tốt lành, có những mục tử trong Israel không săn sóc và hướng dẫn chiên, mà chỉ để ý đến lông chiên và thịt chiên. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa quở trách họ và Ngài muốn chính Ngài là Mục Tử để chăn dắt chiên. Ba đặc tính về Mục Tử Tốt Lành Chúa muốn nêu bật trong trình thuật hôm nay:
(1) Sự khác biệt giữa Mục Tử Tốt Lành và người chăn chiên: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói rình đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.”
(2) Mục Tử Tốt Lành biết tất cả chiên của mình: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”
(3) Mục Tử Tốt Lành đến để tìm kiếm các chiên thất lạc và đưa về một đàn: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.”
Người tín hữu phải biết mình có một Mục Tử Tốt Lành luôn chú tâm săn sóc, hướng dẫn, và bảo vệ họ mọi giây phút trong cuộc đời. Điều cần là họ phải luôn lắng nghe, vâng lời, và làm theo những gì Ngài chỉ dạy, thì mới có thể được nuôi dưỡng, an vui, và tránh khỏi nguy hiểm.
3.2/ Mục Tử Tốt Lành có uy quyền hy sinh và cũng có uy quyền lấy lại sự sống: Các tín hữu không chỉ có một Mục Tử Tốt Lành, mà Ngài còn là một Mục Tử uy quyền. Chúa Giêsu cắt nghĩa: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được."
Nếu chúng ta chỉ có Mục Tử Tốt Lành biết yêu thương và hy sinh cho đoàn chiên thôi, điều đó chưa đủ, vì khi thế gian giết người Mục Tử Tốt Lành, đoàn chiên sẽ tan tác; nhưng chúng ta cần có một Mục Tử Tốt Lành và uy quyền, Ngài có thể tự mình sống lại và cứu đòan chiên khỏi chết. Chúa Giêsu là Mục Tử vừa tốt lành vừa uy quyền; Ngài yêu thương con người tới độ sẵn sàng hy sinh chết vì tội lỗi con người, và Ngài có uy quyền để sống lại từ cõi chết và phục hồi sự sống vĩnh cửu cho con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải nhận ra và biết cách xử dụng những nguồn năng lực vô biên mà Thiên Chúa ban tặng, để sinh ích cho cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội.
- Chúng ta đừng khinh thường những sức mạnh mà mình đang mang trong mình; chúng có thể giúp chúng ta làm những điều vượt quá sức con người, như Sách CVTĐ đã chứng minh.
- Chúng ta là con Thiên Chúa, không phải là con cái thế gian; nên đừng sống theo tiêu chuẩn của thế gian. Với những nguồn sức mạnh của Thiên Chúa ban, chúng ta có khả năng chiến thắng mọi cám dỗ của ma quỉ và thế gian. Đừng sợ bất cứ một quyền lực nào, vì chúng ta được bảo vệ bởi người Mục Tử Tốt Lành, sẵn sàng thí mạng để bảo vệ chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Nguồn: Tổng Giáo Phận Huế
- 25/4 Trung thành với sứ vụ rao giảng Tin Mừng
- 24/4 Thiên Chúa có thể làm chuyện không thể đối với con người
- 23/4 Lời Chúa và Bí-tích là hai nguồn sức mạnh chính của con người
- 22/4 Kế hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa
- 21/4 Người môn đệ họa lại cuộc đời của Thầy mình
- 20/4 Hãy tin vào Đấng mà Thiên Chúa sai đến
- Ý Định và Đường Lối của Thiên Chúa
- 19/4 Đức Kitô sống lại nằm trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa
- 18/4 Làm sao để giải quyết các khó khăn trong cuộc đời?
- 17/4 Nếu quả thật là việc do Thiên Chúa, quý vị không thể nào phá huỷ được