Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Thánh Matthias Tông Đồ
Bài đọc: Acts 1:15-17, 20-26; Jn 15:9-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa là Đấng chọn, yêu thương, dạy dỗ, và sai các Tông-đồ đi.
Lễ Thánh Matthias nằm giữa hai biến cố quan trọng trong Sách CVTĐ: Thăng Thiên và Hiện Xuống. Cần phải có trọn vẹn 12 Tông-đồ trong Tân Ước, như 12 chi tộc Israel của Cựu Ước, trước khi lãnh nhận Thánh Thần.
Lịch sử không cho chúng ta nhiều dữ kiện liên quan đến cuộc đời Thánh Matthias, ngoài trình thuật hôm nay trong Bài Đọc I. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến đức tính quan trọng nhất của người môn đệ là phải giữ các giới răn của Chúa, nhất là giới luật yêu thương.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chọn một Tông-đồ thay thế cho Judah Iscarioth, kẻ phản bội.
1.1/ Sự phản bội của Judah nằm trong Kế Hoạch của Thiên Chúa: Trong những ngày ấy, ông Phêrô đứng lên giữa các anh em - có khoảng một trăm hai mươi người đang họp mặt - Ông nói: "Thưa anh em, lời Kinh Thánh phải ứng nghiệm, lời mà Thánh Thần đã dùng miệng vua Đavít để nói trước về Judah, kẻ đã trở thành tên dẫn đường cho những người bắt Đức Giêsu. Y đã là một người trong số chúng tôi và được tham dự vào công việc phục vụ của chúng tôi. Thật thế, trong sách Thánh vịnh có chép rằng: "Ước gì lều trại nó phải tan hoang, không còn ai trú ngụ (Psa 69:25, RSV); và ước gì người khác nhận lấy chức vụ của nó (Psa 109:8)."
(1) Tại sao Judah phản bội Chúa Giêsu?
+ Vì ham tiền: Đa số con người chấp nhận ý kiến này, vì theo Tin Mừng Gioan, Judah được trao nhiệm vụ giữ tiền; và ông thường tiêu vào của công. Ông bán Thầy mình với giá 30 đồng, khoảng 30 ngày làm công thời đó, một món tiền không lớn lắm. Gioan cũng làm nổi bật sự tham tiền của Judah bằng cách làm nổi bật sự đập vỡ một bình dầu thơm thượng hạng của một phụ nữ muốn liệm xác Chúa trước Cuộc Thương Khó (Jn 12:1-8).
+ Vì ham danh: Khi Judah thấy mình không được trọng dụng như ba môn đệ thân tín của Chúa: Phêrô, Giacôbê, và Gioan; ông tức giận và tìm cách làm hại Ngài.
+ Vì bị kỳ thị: Judah, người thuộc làng Kerioth, thuộc lãnh thổ Judea. Như vậy, chỉ có ông là người thuộc miền Nam, trong khi 11 môn đệ khác là người miền Bắc. Kinh nghiệm giữa những người thuộc miền Bắc và thuộc miền Nam của Việt-nam cho chúng ta hiểu được mối liên hệ này.
+ Vì Judah muốn lợi dụng Chúa: Ông biết Chúa là người có uy quyền rất mạnh, nên ông muốn đặt Chúa vào tình trạng Chúa phải ra tay uy quyền để cứu Israel như một Đấng Thiên Sai mà người Do-thái mong mỏi. Khi không thấy Chúa phản ứng như ông nghĩ, ông hối hận và quyên sinh như Matthew tường thuật (Mt 27:3-10).
+ Vì muốn thử Chúa: Judah là người ma lanh, ông có thể qua mặt bất cứ ai; nhưng không qua mặt được Chúa. Ông muốn bí mật nộp Chúa để xem Chúa có biết cách đối phó không.
(2) Số phận của Judah: được tường thuật cách khác nhau bởi các thánh ký.
+ Theo Lucas: Trình thuật hôm nay bỏ hai câu nói về số phận của Judah: "Ông này đã mua một thửa ruộng với phần thưởng của việc làm độc ác của ông; và bị té xấp mặt xuống, ông xé roạc bụng và ruột của ông lòi hết ra ngoài. Và việc này được tất cả dân thành Jerusalem biết tới; vì thế, thửa ruộng đó trong tiếng của họ được gọi là Akeldama, nghĩa là ruộng máu" (Acts 1:18-19).
+ Theo Matthew: Khi Judah thấy mình đã làm đổ máu người vô tội, ông mang 30 đồng bạc trả lại cho Thượng Hội Đồng. Họ không chịu nhận. Judah quăng túi tiền vào Đền Thờ và ra đi tự vẫn. Họ lấy tiền đó để mua một thửa ruộng gọi là "ruộng máu;" và dùng để chôn cất những người nghèo.
+ Theo tác giả hiện đại: Một số quả quyết: dựa theo bằng chứng Kinh Thánh, Judah chắc chắn bị sa hỏa ngục. Một số khác cho: vì Kinh Thánh cho biết sự phản bội của Judah đã được phác họa sẵn trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và ông có hối hận về việc ông đã làm, nên Judah có thể được Thiên Chúa cứu. Kinh Thánh không cho chúng ta biết chắc chắn về số phận của Judah, chỉ cho những bằng chứng về hành động ông đã làm. Tốt hơn, chúng ta nên để Thiên Chúa phán xét và phó dâng ông cho lòng từ bi của Ngài.
+ Theo những người tin vào chủ thuyết Tiền Định: Trường hợp của Judah là một điển hình cho việc tiền định: Nếu Thiên Chúa đã định cho ai phải hư mất, kẻ ấy hư mất như Judah; ngược lại, nếu Chúa đã định cho ai được cứu độ, kẻ ấy được cứu độ như Phêrô. Những người này quên mất hành động của cả hai đã làm sau khi phản bội; hay họ cho rằng ơn thánh thúc đẩy cho Phêrô trở lại mạnh hơn là cho Judah! Hơn nữa, những người tin vào thuyết Tiền Định đã giả sử Judah phải hư mất.
1.2/ Thủ tục chọn lựa: Chúng ta có thể học được nhiều bài học từ việc chọn người thay thế Judah từ trình thuật hôm nay:
1.2.1/ Phêrô đưa ra 2 điều kiện để được chọn:
(1) Chọn Tông-đồ từ giữa các môn đệ: "Phải chọn những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời."
(2) Phải có kinh nghiệm "Chúa sống lại": Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh."
Hai tiêu chuẩn để chọn này hợp lý, vì người Tông-đồ được chọn phải biết Chúa Giêsu và đạo lý của Ngài; đồng thời người đó phải có kinh nghiệm Chúa Phục Sinh, trước khi có thể làm chứng cho Ngài. Kết quả: Họ đề cử hai người: ông Joseph, biệt danh là Barsabbas, cũng gọi là Justo, và ông Matthias.
1.2.2/ Rút thăm từ 2 môn đệ được đề cử: Các Tông-đồ tin sự hiện diện của Thiên Chúa giữa các ông, chính Ngài sẽ hướng dẫn sự lựa chọn, qua lời cầu nguyện của các ông: "Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ, chỗ Judah đã bỏ để đi về nơi dành cho y." Kết quả khi họ rút thăm: thăm trúng ông Matthias: ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ. Cách rút thăm của người Do-thái: họ viết tên các ứng viên vào viên đá nhỏ, bỏ vào ly rồi lắc cho đến khi viên đá văng ra ngoài. Viên đá mang tên ai, người đó thắng.
2/ Phúc Âm: Điều quan trọng nhất cho các môn đệ là giữ giới luật yêu thương.
Con người có thể suy diễn rất nhiều lý do đưa đến sự phản bội của Judah; nhưng lý do chính yếu của sự phản bội là không có tình yêu. Tất cả những tật xấu trong con người của Judah đều có thể sửa chữa, nếu ông để cho tình yêu của Chúa Giêsu thấm nhập vào.
2.1/ Tình yêu Thiên Chúa: Có ít nhất 3 loại tình yêu tương xứng với 3 danh từ trong tiếng Hy-lạp: (1) tình dục (eros), như tình yêu giữa nam nữ, khi họ tìm thấy nét quyến dũ của người khác; (2) tình cảm tự nhiên như những người trong gia đình (philê) hay tình anh em (philadelphia); và (3) tình bác ái ('agapê), tình yêu này chỉ có trong khuôn khổ của Kitô Giáo.
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến tình bác ái, khi Ngài nói: "Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy." Các môn đệ của Chúa phải ở lại hay phải được nuôi dưỡng trong tình yêu này trước khi có thể làm những điều Thiên Chúa truyền.
Cách để ở lại trong tình yêu Thiên Chúa là thi hành các điều răn của Ngài: "Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người." Tình yêu không được tách khỏi sự vâng lời: Như Chúa Giêsu yêu Chúa Cha và vâng lời tất cả những gì Chúa Cha muốn; con người cũng phải tỏ tình yêu của mình cho Chúa Giêsu bằng cách vâng lời tất cả các giới răn Chúa đã dạy.
Một điều con người thường quan niệm sai: giữ các giới răn của người khác làm cho họ ra yếu nhược và giới hạn tự do của họ; nhưng họ quên đi một điều là họ không biết hết tất cả như Thiên Chúa. Ngài biết những gì tốt hay xấu cho con người mà chính con người không biết. Khi Ngài truyền cho con người giữ các giới răn như khi Ngài ban hành Thập Giới cho con người qua Moses, người Do-thái rất hãnh diện vì Thập Giới, vì không một dân tộc nào được thần minh của họ thân hành dạy dỗ như Thiên Chúa. Họ biết những điều mà các dân tộc khác không biết; và do đó tránh được các tội lỗi và hậu quả xấu xa mà các dân tộc khác mắc phải. Vì thế, giữ các giới răn Chúa truyền phải là một niềm vui và hãnh diện, như Chúa Giêsu quả quyết: "Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn."
Điều răn quan trọng nhất mà Chúa Giêsu mặc khải cho các Tông-đồ (và tất cả các môn đệ của Ngài) phải giữ là: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình." Chỉ khi nào người môn đệ thấm nhuần tình yêu Thiên Chúa, họ mới có thể đáp ứng lại nguyện vọng của Chúa Giêsu: "sẵn sàng hy sinh mạng sống vì anh em," như Ngài đã hy sinh mạng sống cho con người.
2.2/ Chúa Giêsu chọn các Tông-đồ làm bạn hữu: Đây là điều mà trong giấc mơ, các môn đệ cũng không dám mơ tới. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà lại muốn trở nên bạn hữu ngang hàng với con người. Chúa Giêsu là Thầy mà lại coi học trò như bạn hữu của mình. Chúa Giêsu chỉ đòi các ông một điều kiện: "Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy." Như vậy, khi con người giữ các giới răn Chúa dạy, con người yêu mến Chúa và trở nên bạn hữu của Ngài. Chúa chứng tỏ Ngài coi các ông là bạn hữu trước khi các ông giữ các giới răn: "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết." Các ông đã biết tất cả những gì Ngài làm, vì Ngài đã mặc khải và dạy dỗ các ông mọi điều.
2.3/ Chúa Giêsu chọn các Tông-đồ, không phải các ông chọn Ngài trước: Con người cần nhớ rõ điều này: Thiên Chúa luôn là người khởi sự trong tình yêu, trong sự tạo dựng, trong sự dạy dỗ và ban ơn Cứu Độ, trong sự chọn lựa và sai đi như Chúa Giêsu xác nhận: "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ qua rất nhiều biến cố trong cuộc đời: tạo dựng, quan phòng, cứu chuộc, thánh hóa, chọn và sai đi.
- Chúng ta phải đáp lại tình yêu Thiên Chúa qua việc vâng lời giữ tất cả các điều răn Ngài truyền. Vâng lời các điều Chúa truyền dạy sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả các tật xấu và hậu quả của nó, để không bao giờ phải lâm vào tình trạng như của Judah.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần VI PS
Bài đọc: Acts 17:15, 22-34, 18:1; Jn 16:12-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa và các hoạt động của Ngài.
Thiên Chúa là sự thật, và Ngài đã tỏ mình ra cho con người qua việc tạo dựng, quan phòng, và các mặc khải trong Kinh Thánh. Các Bài Đọc hôm nay nhấn mạnh đến khả năng của con người có thể hiểu những sự thật của Thiên Chúa. Bài Đọc I tường thuật Bài Giảng của Phaolô cho dân thành Athens. Phaolô bắt đầu từ niềm tin và lòng kính sợ Thiên Chúa của họ; để dẫn dắt họ đến nhu cầu cần phải tin vào Đức Kitô và ăn năn xám hối, để được sống lại đời đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho các môn đệ về sự cần thiết của Thánh Thần, mà Ngài sẽ xin Chúa Cha gởi tới cho các ông. Ngài sẽ soi sáng cho các ông hiểu tất cả những gì Chúa Giêsu nói, và giúp các ông hiểu biết mọi sự thật.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài giảng của Phaolô cho người Hy-lạp tại Areopagus, Athens
1.1/ Phaolô bắt đầu từ văn hóa Hy-lạp: Để việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả, nhà rao giảng cần hiểu biết phong tục và văn hóa của những nơi mà Lời Chúa được gieo vào. Truyền thống Hy-lạp thờ rất nhiều thần và văn hóa Hy-lạp đặc biệt chú trọng đến sự khôn ngoan. Các thần của Hy-lạp đều được điêu khắc rất đẹp và đều có đền thờ riêng tùy địa phương tôn sùng. Sự khôn ngoan của văn hóa Hy-lạp được bày tỏ qua các triết gia và triết học của họ. Areopagus là nơi những người Hy-lạp khôn ngoan thường tụ tập để tìm hiểu những triết thuyết của thế giới. Phaolô biết rõ những điều này, và ông đã can đảm và chuẩn bị chu đáo để gieo Tin Mừng vào những người đang tìm kiếm sự khôn ngoan. Đứng giữa Hội đồng Areopagus, ông Phaolô khen đức tính tôn kính các thần của họ và dùng đức tính này để bắt đầu rao giảng Tin Mừng: "Thưa quý vị người Athens, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: "Kính thần vô danh." Vậy, Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị."
1.2/ Nội dung chính của bài giảng của Phaolô: Phaolô khôn ngoan bắt đầu với những điểm tương đồng mà khán giả của ông dễ chấp nhận, trước khi tiết tới những điểm đặc thù của Kitô Giáo: "Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ và muôn loài trong đó, Đấng là Chúa Tể trời đất, không ngự trong những đền do tay con người làm nên. Người cũng không cần được bàn tay con người phục vụ, như thể Người thiếu thốn cái gì, vì Người ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi sự."
(1) Con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa: Phaolô nhấn mạnh đến việc thiên nhiên mặc khải sự hiện hữu và quan phòng của Thiên Chúa: Nếu con người chịu quan sát và học hỏi nơi thiên nhiên, họ sẽ nhận ra sự hiện hữu của Ngài: "Từ một người duy nhất, Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất; Người đã vạch ra những thời kỳ nhất định và những ranh giới cho nơi ở của họ. Như vậy là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng thực sự Người không ở xa mỗi người chúng ta."
- Nhu cầu phải hiểu biết đúng về Thiên Chúa: "Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu, như một số thi sĩ của quý vị đã nói: "Chúng ta cũng thuộc dòng giống của Người."
- Đả kích tội thờ bụt thần: "Vậy, vì là dòng giống Thiên Chúa, chúng ta không được nghĩ rằng thần linh giống như hình tượng do nghệ thuật và tài trí con người chạm trổ trên vàng, bạc hay đá.
(2) Nhu cầu phải xám hối, sự xét xử, và sự sống lại: Đây là đích điểm mà Phaolô muốn nhắm tới, vì ông biết truyền thống Hy-lạp không tin nhu cầu phải xám hối và sự sống lại. Trước tiên Phaolô muốn họ ý thức về thực tại của tội, con người phạm tội vì không nhận biết Thiên Chúa dù Ngài đã tỏ mình cho con người trong thiên nhiên: "Vậy mà Thiên Chúa nhắm mắt bỏ qua những thời đại người ta không nhận biết Người. Bây giờ Người truyền cho người ta rằng mọi người ở mọi nơi phải sám hối."
+ Đa số người Hy-lạp thời đó không tin nhu cầu cần xám hối, vì họ tin Thiên Chúa không thay đổi: nếu Ngài thay đổi để tha thứ tội cho con người, Ngài không còn là Thiên Chúa nữa.
+ Họ cũng chẳng tin việc Thiên Chúa xét xử, vì họ không tin có đời sau và vì Thiên Chúa không bao giờ thay đổi.
+ Sự sống lại: Truyền thống Hy-lạp, đặc biệt những người Epicureans, không tin có sự sống lại. Đối với họ, chết là hết; sự chết lấy đi tất cả những gì con người sở hữu. Nên khi vừa nghe nói đến người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói: "Để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói về vấn đề ấy." Thế là ông Phaolô bỏ họ mà đi.
Kết quả của sự rao giảng của Phaolô tại Athens: Sách CVTĐ tường thuật: "Nhưng có mấy người đã theo ông và tin Chúa, trong số đó có ông Dionysius, thành viên Hội-đồng Areopagus và một phụ nữ tên là Damaris cùng những người khác nữa."
2/ Phúc Âm: Con người có khả năng để hiểu biết những mặc khải của Thiên Chúa.
2.1/ Mặc khải của Thiên Chúa phải tiệm tiến theo thời gian vì sự hiểu biết của con người giới hạn: Chúa Giêsu biết rõ điều này, nên Ngài tâm sự với các ông: "Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi." Không như Thiên Chúa, Đấng có khôn ngoan và quyền năng biết tất cả mọi sự một lúc, con người cần có thời gian để học biết những điều căn bản, trước khi có thể hiểu những chân lý cao siêu hơn. Ví dụ, một học sinh phải qua các cấp bậc tiểu học, trung học, đại học, và cao học. Trong việc mặc khải các mầu nhiệm của Thiên Chúa cho con người cũng thế: bắt đầu từ mầu nhiệm một Thiên Chúa, Đấng tạo thành và điều khiển muôn lòai trong Cựu Ước; để chuẩn bị cho Đức Kitô đến qua mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc trong Tân Ước; trước khi tiến đến mầu nhiệm Chúa Thánh Thần và các công việc của Ngài, như Chúa Giêsu đề cập tới hôm nay.
2.2/ Mặc khải toàn vẹn của Thánh Thần: Chúa Giêsu hứa với các môn đệ: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới Tất cả sự thật (toàn vẹn). Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến."
(1) Mặc khải đến từ Thiên Chúa: Trước tiên con người cần biết: Tất cả sự thật đến từ Thiên Chúa. Con người không sở hữu sự thật, nhưng chỉ khám phá ra sự thật, nó là quà tặng của Thiên Chúa cho con người. Con người cũng không phát minh ra sự thật, nhưng sự thật đã có sẵn trong trời đất và chờ đợi để con người khám phá và hiểu biết nó. Nói tóm, chỉ một mình Thiên Chúa sở hữu sự thật.
(2) Thánh Thần sẽ làm cho con người hiểu những gì Chúa Giêsu mặc khải: Đây cũng là nền tảng của việc mặc khải về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: "Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em." Cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều cộng tác trong việc làm cho con người hiểu thấu các mầu nhiệm của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta được Thiên Chúa ban cho có khả năng để tìm ra và nhận biết sự thật; nhất là nhận ra Thiên Chúa, Đấng là sự thật trên hết các sự thật.
- Sự thật của Kitô Giáo không đến với con người qua những suy niệm trừu tượng; nhưng qua một con người sống động là Đức Kitô, và sự hướng dẫn từ trong tâm hồn của Chúa Thánh Thần. Vì thế, khi con người càng sống gần gũi với Chúa Giêsu và để Thánh Thần soi sáng, con người càng khám phá ra sự thật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần VI PS
Bài đọc: Acts 16:22-34; Jn 16:5-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hiệu quả của đức tin
Đứng trước đau khổ, con người có những phản ứng khác nhau, tùy theo những gì họ tin hay không tin vào Thiên Chúa. Người có đức tin sẽ nhìn đau khổ như một cơ hội luyện tập để đức tin của họ càng ngày càng trở nên vững mạnh hơn. Vì thế, họ coi thường đau khổ, vẫn sống an bình vì họ luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa. Ngược lại, người không có đức tin sẽ tìm mọi cách để trốn tránh đau khổ; và nếu không tránh được, họ sẽ kêu trách, ta thán, và ngay cả tìm cách kết liễu cuộc đời để khỏi phải chịu đau khổ.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy những thái độ khác nhau này. Trong Bài Đọc I, Phaolô và Silas, tuy bị cáo gian, đánh đòn, và bị xiềng xích trong ngục, các ông vẫn vui tươi, tin tưởng, và hát thánh ca chúc tụng Thiên Chúa. Ngược lại, viên cai ngục lại lo lắng đến độ súyt kết liễu đời mình, vì thấy cửa ngục bị mở tung và tưởng rằng hai ông đã trốn thoát. Hai ông phải lên tiếng báo cho ông ấy biết mình vẫn còn trong ngục, ông ấy mới thôi không kết liễu đời mình. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu thấy các môn đệ quá đỗi ưu phiền về những gì sắp xảy ra, Ngài hứa sẽ gởi cho các ông một Đấng Bảo Trợ khác là Thánh Thần. Đấng này sẽ làm việc trong các ông, giúp các ông nhận ra sự thật toàn vẹn, và an ủi các ông khi gặp các gian nan khốn khó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức tin là sự khác biệt trong lúc nguy nan đau khổ.
1.1/ Thái độ của hai ông trước cực hình: Sở dĩ hai ông bị chống đối là vì Phaolô đã nhân danh Đức Kitô truyền lệnh cho quỉ phải xuất khỏi người tớ gái, vì cô này luôn đi theo hai ông để nói cho mọi người biết hai ông là đầy tớ của Thiên Chúa Tối Cao, và sẽ chỉ cho mọi người biết con đường cứu độ. Khi chủ của cô biết quỉ đã xuất khỏi cô, và cô không còn sinh lợi cho hắn bằng cách nói tiên tri nữa; ông kích thích đám đông để có cớ buộc tội hai ông.
Sách CVTĐ tường thuật: "Đám đông nổi lên chống hai ông. Các quan toà, sau khi đã cho lột áo hai ông, thì ra lệnh đánh đòn. Khi đã đánh nhừ tử, họ tống hai ông vào ngục, và truyền cho viên cai ngục phải canh giữ cẩn thận. Được lệnh đó, người này tống hai ông vào phòng giam sâu nhất và cùm chân lại." Sau một trận đòn dã man như thế, hai ông vẫn không một lời kêu la hay than trách. Trái lại, vào quãng nửa đêm, ông Phaolô và ông Silas hát thánh ca cầu nguyện với Thiên Chúa. Các người tù nghe hai ông hát và có lẽ họ rất ngạc nhiên khi thấy những điều này.
Bỗng nhiên có động đất mạnh, khiến nền móng nhà tù phải rung chuyển. Ngay lúc đó, tất cả các cửa mở toang và xiềng xích của mọi người vuột tung ra.
1.2/ Thái độ của viên cai ngục: Viên cai ngục choàng dậy và thấy các cửa ngục mở toang, liền rút gươm định tự tử, vì tưởng rằng các người tù đã trốn đi. Thấy hành động của viên cai ngục, ông Phaolô vội lớn tiếng bảo: "Ông chớ hại mình làm chi: chúng tôi còn cả đây mà!"
Viên cai ngục bảo lấy đèn, nhảy bổ vào, run rẩy sấp mình dưới chân ông Phaolô và ông Silas, rồi đưa hai ông ra ngoài và nói: "Thưa các ngài, tôi phải làm gì để được cứu độ?" Hai ông đáp: "Hãy tin vào Chúa Giêsu, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ." Hai ông liền giảng Lời Chúa cho viên cai ngục cùng mọi người trong nhà ông ấy.
Sự kiện động đất nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài muốn cho viên cai ngục có cơ hội để nghe hai ông rao giảng Tin Mừng ngay trong ngục thất, và hai ông đã không bỏ lỡ cơ hội này. Ai có thể ngờ viên cai ngục có thể nghe Tin Mừng trong khi canh giữ tù nhân; nhưng chẳng có gì là không thể đối với Thiên Chúa!
Ngay lúc đó, giữa ban đêm, viên cai ngục đem hai ông đi, rửa các vết thương, và lập tức ông ấy được chịu Phép Rửa cùng với tất cả người nhà. Rồi ông ấy đưa hai ông lên nhà, dọn bàn ăn. Ông và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Thánh Thần sẽ chứng minh ba tội của thế gian.
2.1/ Chúa Giêsu sẽ gởi Đấng Bảo Trợ đến với các môn đệ: Chúa Giêsu mặc khải Kế họach của Thiên Chúa cho các môn đệ: "Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em."
2.2/ Thánh Thần sẽ minh chứng thế gian 3 điều sai lầm: "Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử:"
(1) Về tội lỗi: vì chúng không tin vào Thầy. Tội duy nhất theo Gioan là tội không tin vào Đức Kitô, Người được Thiên Chúa sai đến. Thánh Thần sẽ chứng thực Đức Kitô là Con Thiên Chúa.
(2) Về sự công chính: vì Thầy đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa. Thế gian tưởng Chúa Giêsu là tội nhân khi nhìn thấy Ngài chịu chết treo trên Thập Giá. Bằng sự Phục Sinh của Đức Kitô, Thánh Thần chứng minh cho thế gian biết Ngài tự nguyện chịu khổ hình, Người công chính chết thay cho các tội nhân là tất cả con người.
(3) Về việc xét xử: vì Thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử rồi. Các Thủ Lãnh Do-thái nghĩ họ làm đẹp lòng Thiên Chúa bằng việc đóng đinh Chúa Giêsu vào Thập Giá. Thủ Lãnh Rôma nghĩ ông đã giết Chúa Giêsu để đẹp lòng người Do-thái. Thánh Thần sẽ minh chứng cho họ biết họ đã sai lầm to khi luận tội và giết Đức Kitô, người Tôi Trung của Thiên Chúa.
Cả ba điều này đều liên quan đến nhau: thế gian phạm tội giết con Thiên Chúa vì không tin vào Ngài là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa. Ngài là Đấng Công Chính không bao giờ phạm tội; nhưng muốn gánh tội cho con người. Thế gian đã sai lầm khi luận tội và giết Con Thiên Chúa. Vì thế, họ đã phạm ba tội cùng một lúc khi giết Con Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Người Công-giáo chúng ta có một món quà vô giá là đức tin vào Thiên Chúa. Chính đức tin này sẽ giúp chúng ta bình an trong đau khổ, vui tươi khi hoạn nạn, và lạc quan vui sống.
- Chúng ta luôn sống trong sự quan phòng và bảo vệ của Thiên Chúa. Tuy Ngài để chúng ta phải chịu thử thách để tôi luyện đức tin, nhưng luôn ban mọi sức mạnh cần thiết đủ để giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách của cuộc đời.
- Chúng ta phải luôn ý thức sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn, để luôn biết lắng nghe và làm theo những gì Ngài hướng dẫn. Ngài sẽ thêm sức cho chúng ta để chống lại mọi đe dọa nguy hiểm của thế gian và ma quỉ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần VI PS
Bài đọc: Acts 16:11-15; Jn 15:25-16:4.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Vinh quang và đau khổ cần thiết cho cuộc đời.
Cuộc đời của con người có khi bình an có khi sóng gió; khi thành công khi thất bại; khi vui cũng như lúc buồn, khi thịnh vượng cũng như lúc đói nghèo... Hai thái cực này cần thiết để giữ thăng bằng cho cuộc sống: khi vui không vui quá, tới độ quên Thiên Chúa và bổn phận phải chu toàn; khi buồn không buồn quá, tới độ mất niềm tin vào Thiên Chúa và tiêu hủy cuộc đời.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong hai mặt của cuộc đời. Trong Bài Đọc I, Phaolô hưởng được sự thành công khi rao giảng Tin Mừng tại Philippi: một phụ nữ tên Lydia và gia đình của Bà chịu Phép Rửa khi nghe Phaolô giảng. Bà mời Phaolô và các bạn đồng hành dùng nhà Bà làm nơi để sinh sống và rao giảng Tin Mừng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết họ sẽ bị bắt bớ, đánh đòn và trục xuất khỏi hội đường khi rao giảng Tin Mừng; nhưng Thánh Thần mà Chúa Giêsu sẽ gởi đến, sẽ giúp các ông nhận ra sự thật và làm chứng cho Chúa Giêsu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô chinh phục một phụ nữ Âu-châu đầu tiên về cho Thiên Chúa.
Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Phaolô và các bạn đồng hành cũng gặp nhiều thành công và nhiều thất bại: khi thì người nghe nhận ra sự thật và chịu Phép Rửa như người phụ nữ và gia đình của Bà hôm nay; khi thì bị người ta đổ vạ cáo gian để đánh đòn, giam cầm, và trục xuất khỏi thành phố như trình thuật ngày mai. Trong mọi hoàn cảnh, Phaolô vẫn kiên trì rao giảng Tin Mừng dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, và vui lòng chịu đựng mọi gian khổ vì Danh Chúa.
1.1/ Phaolô rao giảng Tin Mừng tại Philippi: Trong cuộc hành trình lần thứ hai, Phaolô được Thánh Thần hướng dẫn trong một thị kiến, để ra khỏi ranh giới của Asia Minor và tiến vào vùng đất của Âu-châu, bắt đầu với Macedonia, như ông tường thuật hôm nay: "Xuống tàu ở Troas, chúng tôi đi thẳng đến đảo Samothrace, rồi hôm sau đến Neapolis. Từ đó chúng tôi đi Philippi là thị trấn quan trọng nhất trong hạt ấy của tỉnh Macedonia, và là thuộc địa Rôma. Chúng tôi ở lại thành đó mấy ngày."
1.2/ Gia đình Bà Lydia chịu Phép Rửa: Theo truyền thống Do-thái, chỗ nào không có hội đường, họ thường tập họp ở bờ sông để cầu nguyện và đọc Sách Thánh. Có lẽ, vì không có hội đường ở Philippi, nên Phaolô kể: "Ngày Sabbath, chúng tôi ra khỏi cổng thành, men theo bờ sông, đến một chỗ chúng tôi đoán chừng có nơi cầu nguyện. Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện với những phụ nữ đang họp nhau tại đó." Chúng ta có thể học kinh nghiệm của Phaolô. Giống như Chúa Giêsu, ông lợi dụng mọi cơ hội để rao giảng Tin Mừng: trong hội đường cũng như ở các nơi hội họp; cho đàn ông cũng như cho đàn bà; cho giới thượng lưu cũng như cho người nghèo khổ.
Trong giới phụ nữ có một bà tên là Lydia, quê ở Thyatira, là người chuyên buôn bán vải điều. Đây là một loại vải đắt tiền và kiếm được nhiều lợi nhuận. Bà là người tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời ông Phaolô nói. Sau khi nghe Phaolô rao giảng Tin Mừng, bà và cả nhà đã xin chịu Phép Rửa. Có lẽ là người có nhà cửa rộng rãi, nên Bà ngỏ lời với các sứ giả: "Các ông đã coi tôi là một tín hữu Chúa, thì xin các ông đến ở nhà tôi." Và bà ép chúng tôi phải nhận lời.
Thiên Chúa luôn thúc đẩy và khuyến khích những tâm hồn thiện chí và có phương tiện, để họ mở rộng tâm hồn đón tiếp các sứ giả trong cuộc lữ hành loan báo Tin Mừng. Chúng ta phải noi gương Bà Lydia để đón tiếp các nhà truyền giáo, nhất là ở những nơi xa xôi hẻo lánh, để giúp họ có sức khỏe và phương tiện mang Lời Chúa đến cho mọi người. Khi mở lòng đón tiếp họ, chúng ta đón tiếp chính Chúa; và chúng ta cũng sẽ được phần thưởng của các tiên tri như Chúa đã hứa.
2/ Phúc Âm: Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường.
2.1/ Những chứng nhân của Đức Kitô:
(1) Thánh Thần: "Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy." Con người không thể hiểu mặc khải của Chúa Giêsu, nếu không có Thánh Thần tác động từ bên trong. Ngài soi lòng mở trí để các tín hữu nhận ra sự thật và tin vào Đức Kitô.
(2) Các môn đệ: "Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu." Để có thể làm chứng, các môn đệ cần có ba điều kiện: Thứ nhất, kinh nghiệm cá nhân sống với Chúa Giêsu; thứ hai, các ông cần xác tín Ngài là Đấng Thiên Sai, những gì Ngài đã nói và đã làm; sau cùng, các ông phải làm chứng cho Ngài khi cơ hội tới. Nếu thiếu một trong 3 điều kiện này, các ông không thể làm chứng cho Ngài.
2.2/ Người rao giảng Tin Mừng sẽ bị truy tố.
(1) Chúa Giêsu không dấu diếm điều gì với những người muốn theo Chúa, Ngài báo trước những gì các môn đệ sẽ phải chịu vì Danh Ngài và vì rao giảng Tin Mừng. Có hai lý do khiến Chúa chuẩn bị cho các ông: Thứ nhất, "Thầy đã nói với anh em các điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã."
Nhiều người Công-giáo nghĩ rằng, một khi họ theo đạo là cuộc đời sẽ bình an vì được Chúa và Mẹ chúc lành và bảo vệ; nhưng họ có biết đâu rằng: bắt đầu cuộc sống môn đệ là bắt đầu cuộc sống từ bỏ ý riêng mình và vác thập giá với Chúa. Hơn nữa, đức tin cần được thử thách trong gian khổ như lửa thử vàng, thì mới biết đức tin nào thật và vững chắc. Thứ hai, để các ông nhớ lại những gì Ngài nói khi các ông bị truy tố và tìm được bình an: "Nhưng Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em rồi." Con người có thể ngạc nhiên khi không ai báo trước cho mình biết đau khổ sẽ xảy ra; nhưng nếu Chúa Giêsu đã báo trước, và Ngài cũng đã đi qua con đường này, người môn đệ sẽ chuẩn bị và biết bình tĩnh đối phó khi điều ấy xảy đến.
(2) Lý do bị truy tố: Thứ nhất, những Thủ Lãnh Do-thái trong Thượng Hội Đồng kết án và đóng đinh Chúa Giêsu, vì họ tưởng rằng làm như thế là làm vinh quang Thiên Chúa. Một ví dụ khác là trường hợp của ông Saul bắt đạo trước khi trở lại. Ông là người nhiệt thành gìn giữ Lề Luật của tổ tiên, nên ông không muốn các Kitô hữu vi phạm truyền thống này. Thứ hai, "Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy." Điều này hiển nhiên, vì nếu các Thủ Lãnh biết chắc Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, họ đã không luận tội và kết án Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đau khổ và vinh quang là hai khía cạnh của cuộc sống. Giống như Đức Kitô, chúng ta cũng phải trải qua đau khổ trước khi đạt đến vinh quang.
- Chúng ta cần giữ thái độ bình tĩnh và bình an khi đạt được thành công cũng như khi phải đương đầu với đau khổ; vì tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
- Chúng ta đều có bổn phận trong việc rao truyền và làm chứng cho Tin Mừng. Nếu chúng ta không có hoàn cảnh làm những điều này, chúng ta phải giúp đỡ và tạo cơ hội cho các nhà truyền giáo để họ chu toàn bổn phận rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật VI Phục Sinh, Năm B
Bài đọc: Acts 10:25-26, 34-35, 44-48; I Jn 4:7-10; Jn 15:9-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa là tình yêu.
Thiên Chúa, chúng ta chưa thấy bao giờ, nói về tình yêu của Đấng chúng ta chưa thấy bao giờ còn khó khăn và trừu tượng hơn nữa; nhưng may mắn cho con người, Thiên Chúa chọn để bày tỏ tình yêu cho con người qua việc tạo dựng, quan phòng, cứu chuộc, và thánh hóa con người.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh các công việc Thiên Chúa dùng để bày tỏ tình yêu của Ngài. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Ngài cho Cornelius, viên sĩ quan Dân Ngoại, qua việc cho ông cơ hội để gia nhập đạo thánh Chúa. Trong Bài Đọc II, thánh Gioan sau khi định nghĩa "Thiên Chúa là tình yêu" đã dẫn chứng tình yêu này qua việc Thiên Chúa ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài. Trong Phúc Âm, tình yêu Thiên Chúa được lan tràn qua Chúa Giêsu và đổ xuống trên các môn đệ của Chúa. Trước khi các môn đệ có thể yêu thương tha nhân, họ phải ở lại và được thấm nhuần tình yêu này.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa thi ân giáng phúc trước khi con người biết đáp trả hồng ân của Ngài.
1.1/ Thiên Chúa không thiên vị, nhưng yêu thương mọi người: Cornelius là sĩ quan Roma, thuộc về Dân Ngoại, nhưng biết kính sợ Thiên Chúa, cầu nguyện thường xuyên, và cư xử tốt lành với mọi người (Acts 10:2). Vì những điều tốt lành này, ông được một thị kiến thấy sứ thần của Thiên Chúa truyền lệnh cho ông đi mời Simon Phêrô đến nhà mình.
Sự kiện Phêrô, một người Do-thái, vào nhà ông Cornelius, một người Dân Ngoại, là một điều không bình thường; nhưng vì Thánh Thần truyền lệnh, cho nên ông phải đi (Acts 10:20). Khi ông Phêrô nhận ra sự sắp đặt của Thiên Chúa cho viên sĩ quan Dân Ngoại, ông lên tiếng nói: "Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận." Lý do là vì Chúa dựng nên tất cả và ban ơn xuống mọi người. Ai nhận ra hồng ân Ngài ban và sống ngay lành, Ngài sẽ tiếp tục ban ơn, và nhất là cho hiểu biết đạo thánh của Ngài.
1.2/ Thiên Chúa gởi Thánh Thần xuống trên những người trong nhà Cornelius: Khi "ông Phêrô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. Những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phêrô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa." Họ kinh ngạc vì họ tưởng chỉ có những người đã chịu Phép Rửa mới nhận được Thánh Thần. Nhưng Thiên Chúa không lệ thuộc vào truyền thống hay vào những gì con người tin tưởng, Ngài ban Thánh Thần cho những ai biết kính sợ và sống theo đường lối của Ngài.
Ông Phêrô nhớ lại biến cố trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, khi các Tông-đồ được Chúa Thánh Thần hiện xuống như lưỡi lửa đậu xuống trên đầu các ông (Acts 2:3-10), bấy giờ ông Phêrô nói rằng: "Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?" Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giêsu Kitô.
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước khi chúng ta đáp trả tình yêu của Ngài.
2.1/ Thiên Chúa là tình yêu: Thánh Gioan định nghĩa tình yêu cách ngắn gọn và đơn giản: "Thiên Chúa là tình yêu." Vì yêu thương, Thiên Chúa làm mọi sự: tạo dựng, quan phòng, cứu chuộc, thánh hóa, và chuẩn bị tương lai cho con người.
Yêu thương làm con người nên giống Thiên Chúa, vì Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài (Gen 1:26). Thánh Gioan diễn tả như sau: "Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa." Biết Thiên Chúa là biết yêu thương tha nhân và được sinh ra bởi Thiên Chúa.
Ngược lại, "Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu." Nếu Thiên Chúa là tình yêu, con cái của Ngài phải biết yêu thương. Ai từ chối không yêu thương, kẻ ấy không thể là con cái Thiên Chúa. Chúng ta có thể hiểu lý do tại sao Thiên Chúa dùng giới răn yêu thương để phán xét con người trong Ngày Tận Thế (Mt 25).
2.2/ Thiên Chúa biểu lộ tình yêu: Cách định nghĩa tình yêu của Gioan tuyệt vời, nhưng vẫn chỉ thuần tri thức; nhưng cách biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa cho con người thật cụ thể và đánh động tâm lòng của mọi người, ngay cả những con tim chai đá nhất: "Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống." Mỗi khi nhìn lên Thập Giá, con người cảm nhận được tình Thiên Chúa yêu thương họ, dù chưa một lần được nhìn thấy Ngài.
Thiên Chúa yêu thương con người trước: "Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta." Thiên Chúa yêu thương con người khi họ vẫn còn là những tội nhân; Ngài không đợi cho con người trở nên tốt lành, đáng yêu rồi mới yêu thương họ. Nếu Ngài chờ đợi như thế, con người sẽ không có cơ hội, vì làm sao con người có thể gột rửa tội lỗi mình để trở nên đáng yêu? Con người chỉ có thể cảm nhận sau khi Thiên Chúa tỏ tình yêu của Ngài, và đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa bằng cách loan truyền tình yêu Thiên Chúa cho tha nhân, và yêu thương mọi người.
3/ Phúc Âm: Thiên Chúa chọn và sai chúng ta đi làm việc cho Ngài.
3.1/ Giới luật yêu thương
(1) Nguồn cội của tình yêu: Tình yêu phát xuất từ Chúa Cha, lan truyền qua Chúa Con, và được trao tặng cho các Tông đồ, như Chúa Giêsu mặc khải: "Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy." Điều quan trọng là các môn đệ phải ở lại trong tình thương này, trước khi có thể làm cho tình thương này lan rộng tới tha nhân. Sau khi đã ở lại trong tình yêu này, Chúa Giêsu mới tiếp tục truyền như trong câu 12: "Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." Điều này cũng có nghĩa: Nếu không ở lại trong tình thương Thiên Chúa, chúng ta không thể yêu nhau bằng tình yêu Thiên Chúa; và không thể đạt được mức độ trọn lành như Thiên Chúa đòi hỏi như yêu kẻ thù, yêu đến chết, và sẵn sàng tha thứ tất cả lỗi lầm của tha nhân.
(2) Giữ các điều răn là ở lại trong tình thương Thiên Chúa: "Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người." Chúa Giêsu không chỉ dạy dỗ, nhưng còn làm gương sáng. Ngài không đòi hỏi các ông điều gì Ngài không làm; ví dụ: yêu đến nỗi hy sinh tính mạng, tha thứ cho kẻ thù, vâng lời Thiên Chúa trong mọi sự đến nỗi phải chết. Ngài khuyến khích các ông để các ông có can đảm theo chân Ngài: Nếu Ngài đã làm được, các ông cũng sẽ làm được.
Giữ các giới răn và ở lại trong tình yêu Thiên Chúa không phải là một sự ép buộc như giữ những luật lệ của con người; nhưng là bí quyết để tìm được niềm vui trọn vẹn: "Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn."
3.2/ Chúa Giêsu gọi và chọn các môn đệ: Như trong hai bài đọc trên, Chúa Giêsu luôn luôn là người bắt đầu. Ngài gọi và chọn 12 Tông-đồ, chứ không có ai là người tình nguyện theo Ngài cả. Trong cuộc đời rao giảng của Chúa, nhiều người cũng tình nguyện theo Chúa, nhưng Ngài không cho theo. Cũng thế, trong ơn gọi làm linh mục và tu sĩ: con người không tự mình làm linh mục hay tu sĩ, nhưng qua lời mời gọi và sự lựa chọn của những người đại diện Thiên Chúa.
(1) Ngài gọi các môn đệ để trở thành bạn hữu: Tình yêu đòi hỏi sự tự do và ngang hàng giữa hai chủ thể (nói theo kiểu VN, phải môn đăng hộ đối). Con người có tự do nhưng không thể ngang hàng với Thiên Chúa, vì con người chỉ xứng đáng làm đầy tớ của Ngài; nhưng có một sự trao đổi kỳ lạ ở đây. Thiên Chúa, qua Con Ngài là Chúa Giêsu đã khiêm nhường hạ mình cho bằng con người, để mặc lấy thân phận con người, để yêu thương con người, và để nâng con người lên hàng bạn hữu: "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết." Thiên Chúa đã hoàn thành điều này qua Mầu Nhiệm Nhập Thể.
Không những chỉ chọn con người là bạn hữu, nhưng còn là bạn nghĩa thiết tâm giao. Thông thường, con người chỉ dám hy sinh tính mạng cho người bạn nghĩa thiết. Chúa Giêsu là bạn nghĩa thiết của con người vì Ngài dám hy sinh tính mạng để cho con người không phải chết, như chính Ngài đã tuyên bố: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình." Khác với con người chỉ có một hay vài bạn tâm giao, Chúa Giêsu muốn có rất nhiều bạn nghĩa thiết, nên Ngài mở rộng đến mọi người: "Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy." Hy sinh tất cả cho tha nhân là cách trở nên bạn hữu của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hoàn thành điều này qua Mầu Nhiệm Cứu Độ.
(2) Ngài chọn các ông để được sai đi: Tình yêu Thiên Chúa không giữ lại trong một số người hay một dân tộc, nhưng luôn mở rộng và cho đi đến mọi người. Chúa Giêsu chọn 12 Tông-đồ và một số môn đệ để yêu thương, dạy dỗ, và sai đi: "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em." Tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu, các Tông-đồ cũng chọn các môn đệ để yêu thương, dạy dỗ, và sai đi để yêu thương, dạy dỗ, và sai đi rao giảng Tin Mừng. Sứ vụ này vẫn tiếp tục cho đến thời đại chúng ta đang sống, và sẽ còn kéo dài cho tới Ngày Tận Thế.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa luôn là Người bắt đầu trong mọi sự việc, chúng ta chỉ là người nhận ra và đáp trả lại tình yêu của Ngài.
- Nguồn căn bản nhất trong các hoạt động của Thiên Chúa và của chúng ta là tình yêu. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa, lan rộng qua Đức Kitô, và đổ xuống trên con người. Chúng ta phải ở lại trong tình yêu này trước khi có thể yêu thương tha nhân bằng tình yêu Thiên Chúa.
- Để nhận ra tình yêu Thiên Chúa, chúng ta phải giữ các giới răn Chúa Giêsu truyền dạy và phải sẵn sàng hy sinh ngay cả tính mạng cho tha nhân, như Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
ĐẠO YÊU THƯƠNG
CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH NĂM B (10/05/2015)
[Cv 9,26-31; 1 Ga 3,18-24; Ga 15,9-17]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Người Ki-tô hữu nào cũng biết Ki-tô giáo là Đạo yêu thương bác ái. Nói hay giảng yêu thương bác ái thì dễ nhưng sống bác ái yêu thưong thì không dễ chút nào! Nhưng khó không có nghĩa là không thể và khó cũng không là cái cớ để chúng ta trốn tránh, không thực hành.
Các bài Sách Thánh của Chúa Nhật VI Phục Sinh Năm B hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ và sống yêu thương bác ái là điều quan trọng và cốt yếu nhất của Đao chúng ta!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 10,25-26.34-35.44-48): Thiên Chúa ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại.
(25) Khi ông Phê-rô bước vào nhà ông Co-nê-li-ô, thì ông liền ra đón và phủ phục dưới chân ông mà bái lạy. (26) Nhưng ông Phê-rô đỡ ông ấy lên và nói : "Xin ông đứng dậy, vì bản thân tôi đây cũng chỉ là người phàm."
(34) Bấy giờ ông Phê-rô lên tiếng nói: "Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. (35) Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận.
(44) Ông Phê-rô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. (45) Những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phê-rô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, (46) bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Bấy giờ ông Phê-rô nói rằng: (47) "Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?" (48) Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Sau đó họ xin ông ở lại ít ngày.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Ga 4,7-10): Thiên Chúa là tình yêu.
(7) Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. (8) Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. (9) Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. (10) Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 15,9-17): Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu.
(9) Khi ấy Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. (10) Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. (11) Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
(12) “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (13) Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (14) Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. (15) Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
(16) “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. (17) Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.”
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa:
1°) Bài đọc 1 (Cv 10,25-26.34-35.44-48) là tường thuật việc Thánh Thần Thiên Chúa được ban cho những người chưa chịu Phép Rửa mà Tông đồ Phê-rô gặp tại nhà ông Co-nê-li-ô. Trước cảnh tượng lạ lùng và bất ngờ ấy, Tông đồ Phê-rô phải tuyên bố: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?”
Qua sự kiện trên chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng không thiên vị ai: do lòng yêu thương, Người đã ban Thánh Thần và niềm tin cho mọi người thành tâm thiện chí tìm kiếm Người.
2°) Bài đọc 2 (1 Ga 4,7-10) là lời giảng dạy của Tông đồ Gio-an dành cho các môn đệ: hãy yêu nhau vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa: “Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa.” Thế có nghĩa là những ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa thể hiện Tình yêu của Người đối với nhân loại bằng việc sai Con Một Người đến thế gian để nhờ Con Một ấy mà con người được sống. Trong Tình Yêu Thiên Chúa là Đấng đi trước khi dựng nên chúng ta, cứu chuộc chúng ta, chọn chúng ta làm con, làm bạn hữu nghĩa tình.
3°) Bài Tin Mừng (Ga 15,9-17) là những lời tâm sự của Đức Giê-su tiếp nối những lời khẳng định về mối quan hệ khắng khít giữa Người và các môn đệ. Cả một kho tàng phong phú được chính Chúa Giê-su mạc khải và trao ban cho chúng ta:
(a) Chúa Cha yêu mến Chúa Giê-su thế nào thì Chúa Giê-su cũng yêu thương các môn đệ như vậy. Chúa Cha yêu Chúa Giê-su vì Chúa Giê-su đã thực thi trọn vẹn thánh ý và kế hoạch của Cha. Chúa Giê-su đã yêu thương các môn đệ đến hy sinh mạng sống mình vì họ: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”
(b) Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ đáp lại tình thương vô biên của Người là ở lại trong tình thương của Người. Bằng cách tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn yêu thương - như Người đã vì yêu thương mà giữ các điều răn của Cha.
(c) Chúa Giê-su đã coi các môn đệ là bạn hữu thân thiết nên đã bộc lộ cho biết những điều Người đã nghe/biết được ở nơi Cha. Và Người đã chọn các ông trước, chứ không phải ngược lại. Người chọn các ông để sai họ đi rao giảng, làm chứng cho Nước Trời và cho Tình Thương của Thiên Chúa. Người chọn các ông để họ sinh nhiều hoa trái không hư nát.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU CHO ĐI. Cụ thể là:
(a) Thiên Chúa Cha đã yêu thương loài người đến nỗi đã ban Con Một Người cho nhân loại;
(b) Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, đã hiến mạng sống mình vì các môn đệ và mọi người và đã kết bạn với các môn đệ;
(c) Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa cho dù họ chưa được thánh tẩy bằng nước. Vì thế Thiên Chúa muốn chúng ta đáp lại Tình Yêu của Người bằng sống yêu thương bác ái với đồng loại.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Tình Yêu nên Người mời gọi chúng ta sống kết hiệp với Người và sống bác ái yêu thương với đồng loại.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa là đáp lại Thiên Chúa là TÌNH YÊU CHO ĐI:
Trước hết chúng ta đáp lại Thiên Chúa là TÌNH YÊU CHO ĐI trong đời sống cá nhân bằng một đời sống gắn bó mật thiết với Chúa Giê-su, với Thiên Chúa và thể hiện lòng Mến Chúa trên hết mọi sự.
Kế đến chúng ta đáp lại Thiên Chúa là TÌNH YÊU CHO ĐI trong đời sống gia đình bằng một đời sống hy sinh, phục vụ những người ruột thịt với một tình yêu vô vị lợi, không tính toán và giúp mọi người trong gia đình biết yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như Chúa dạy.
Sau cùng chúng ta đáp lại Thiên Chúa là TÌNH YÊU CHO ĐI trong đời sống cộng đồng và xã hội bằng một đời sống mình vì mọi người nhằm mưu ích chung cho mọi người, nhất là cho những người yếu kém nhất trong xã hội.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân tộc trên thế giới để mọi người, mọi cộng đồng biết sống yêu thương bác ái với nhau.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa sống yêu thương và hy sinh phục vụ theo gương Chúa Giê-su Ki-tô.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy sống bác ái yêu thương với mọi người xung quanh theo gương Thầy Giê-su.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Anh em là bạn hữu của Thầy.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu khát khao đời sống trọn lành để họ cảm nghiệm được tình bạn hữu của Chúa Giê-su, Thiên Chúa làm người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần V PS
Bài đọc: Acts 16:1-10; Jn 15:18-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thánh Thần giúp con người biết khôn ngoan giải quyết vấn đề.
Trong cuộc sống của các Kitô hữu: Có những lúc cần phải bảo vệ sự thật cho đến chỗ phải hy sinh mạng sống; nhưng cũng có những lúc cần khôn ngoan thích ứng trong những trường hợp và hoàn cảnh khác nhau. Làm sao các tín hữu nhận ra khi nào phải sống chết cho sự thật, và khi nào có thể khôn ngoan thích ứng tùy hoàn cảnh? Xin thưa các tín hữu cần sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Chắc chắn Ngài không hiện ra để nói trực tiếp với chúng ta, nhưng Ngài sẽ nói với chúng ta tùy hoàn cảnh; ví dụ: nơi nào Ngài muốn chúng ta tới, Ngài sẽ tạo cơ hội và những hoàn cảnh thuận tiện; nơi nào Ngài không muốn chúng ta tới, Ngài sẽ không cho cơ hội và gây ra những trở ngại khó khăn.
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra sự hướng dẫn của Thánh Thần. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô trở lại các giáo đoàn cũ để thăm viếng, củng cố, và loan tin từ Giáo Hội Trung Ương, trước khi bắt đầu cuộc hành trình truyền giáo thứ hai. Chúng ta nhận ra sự hướng dẫn của Thánh Thần: khi Phaolô cắt bì cho Timothy, một người Hy-lạp, khi Thánh Thần ngăn cản không cho rao giảng tại Asia Minor và Bithynia, nhưng cho cơ hội vào Macedonia qua thị kiến mời gọi của một người địa phương. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tiên báo các môn đệ của Ngài sẽ bị thế gian bắt bớ như họ đã bắt bớ Ngài. Lý do đơn giản là Ngài không thuộc về thế gian cũng như các môn đệ không thuộc về thế gian.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô bắt đầu cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng lần thứ hai.
1.1/ Trở lại thăm các giáo đoàn cũ: Khi có cơ hội, Phaolô luôn trở lại để viếng thăm và cũng cố những giáo đòan ông đã thành lập. Ông đến Derbe, rồi đến Lystra.
(1) Tuyển thêm môn đệ: Để có thêm người rao giảng Tin Mừng và để nâng đỡ nhau trong sứ vụ, khi Phaolô đến Lystra, ở đó có một môn đệ tên là Timothy, mẹ là người Do-thái đã tin Chúa, còn cha là người Hy-lạp. Ông được các anh em ở Lystra và Iconium chứng nhận là tốt.
Tại sao Phaolô cắt bì cho Timothy đang khi ông đưa sứ điệp của Giáo Hội Jerusalem? Xin thưa: Một khi Phaolô đã nhận được chỉ thị của Giáo Hội Mẹ cho biết việc cắt bì không liên quan gì tới việc cứu độ, thì có cắt bì hay không cũng chẳng có gì quan trọng cả. Tuy nhiên, có những cái không quan trọng với mình, nhưng lại quan trọng với người khác. Lý do Phaolô muốn cắt bì cho Timothy là vì "Phaolô muốn ông ấy cùng lên đường với mình, nên đã đem ông đi làm phép cắt bì, vì nể các người Do-thái ở những nơi ấy."
(2) Trao sứ điệp của Giáo Hội Jerusalem: "Khi đi qua các thành, các ông truyền lại cho các anh em những chỉ thị đã được các Tông Đồ và kỳ mục ở Jerusalem ban bố, để họ tuân giữ.
Vậy các Hội Thánh được vững mạnh trong đức tin và mỗi ngày thêm đông số."
1.2/ Sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần:
(1) Không muốn cho rao giảng Tin Mừng: "Các ông đi qua miền Phrygia và Galatia, vì Thánh Thần ngăn cản không cho các ông rao giảng lời Chúa ở Asia. Khi tới sát ranh giới Mysia, các ông thử vào miền Bithynia, nhưng Thần Khí Đức Giêsu không cho phép. Các ông bèn đi qua miền Mysia mà xuống Troa." Trong trình thuật này, hai lần Sách CVTĐ nói tới việc "Thánh Thần ngăn cản" và "Thần Khí Đức Giêsu không cho phép" vào những thành phố của Asia Minor. Tác giả không nói rõ cách thức Thánh Thần cho Phaolô biết ý của Ngài: có thể trong thị kiến, có thể bằng cách để Phaolô gặp những trở ngại từ phía địa phương.
(2) Muốn cho rao giảng Tin Mừng ở Macedonia: "Ban đêm, ông Phaolô thấy một thị kiến: một người miền Macedonia đứng đó, mời ông rằng: "Xin ông sang Macedonia giúp chúng tôi!"
Sau khi ông thấy thị kiến đó, lập tức chúng tôi tìm cách đi Macedonia, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa kêu gọi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho họ." Thánh Thần muốn mở rộng biên giới trong hành trình rao giảng Tin Mừng thứ hai của Phaolô, không còn giới hạn trong vùng Asia Minor; nhưng bành trướng vào Âu Châu, bắt đầu với các thành phố Hy-lạp.
2/ Phúc Âm: Anh em sẽ bị thế gian bắt bớ.
2.1/ Xung đột giữa Thiên Chúa và thế gian: Có nhiều ý nghĩa khác nhau về chữ "thế gian" trong Tin Mừng Gioan; nhưng ở đây "thế gian" được hiểu là những quyền lực chống lại Thiên Chúa, như ma quỉ và các tay sai của nó. Giữa Thiên Chúa và thế gian có rất nhiều xung đột về giá trị: ánh sáng và bóng tối, sự thật và sự sai trá, điều thiện hảo và điều gian ác, yêu thương và giận ghét, đoàn kết và chia rẽ, công bằng và bất công. Người Kitô hữu được kêu gọi để sống và làm chứng cho những giá trị của Thiên Chúa, và những giá trị này luôn đối nghịch với những giá trị của thế gian; hậu quả là thế gian sẽ ghét các Kitô hữu như Chúa Giêsu nói: "Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em."
2.2/ Nếu thế gian đã bắt bớ Chúa Giêsu, họ cũng sẽ bắt bớ các môn đệ của Ngài: Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ: "Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em." Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời dạy dỗ những điều tốt lành, chữa khỏi mọi bệnh hoạn tật nguyền, và khai trừ ma quỉ; thế mà thế gian còn truy tố, luận phạt, đánh đòn, và đóng đinh vào Thập Giá; các môn đệ là ai mà có thể tránh khỏi các cực hình này? Chỉ cần đọc Sách CVTĐ và Lịch Sử Giáo Hội, chúng ta đã nghe bao cuộc bách hại của thế gian nhắm vào các môn đệ của Chúa.
Nói tóm, thế gian chống các Kitô hữu họ mang danh Chúa Kitô. Khi chọn mang danh Kitô hữu là chọn để thế gian bắt bớ. Thế gian ghét những kẻ mang danh Kitô, vì không thuộc về họ, và không theo những tiêu chuẩn và đường lối của họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần mở rộng tâm hồn để sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Một trong những dấu chỉ để nhận ra là dựa vào cơ hội và hoàn cảnh. Nếu Thánh Thần muốn, Ngài sẽ tạo cơ hội và hoàn cảnh thuận tiện; nếu không, Ngài sẽ gởi những khó khăn tới.
- Có lúc chúng ta cần bảo vệ và làm chứng cho sự thật, có lúc chúng ta cần khôn ngoan thích ứng để đạt được những lợi ích mong muốn, tùy theo sự hướng dẫn bên trong của Ngài.
- Trở thành môn đệ của Chúa là phải chịu bắt bớ trong việc rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng. Lý do đơn giản là thế gian không biết Chúa Giêsu; vì thế, không chấp nhận những tiêu chuẩn của Tin Mừng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần V PS
Bài đọc: Acts 15:22-31; Jn 15:12-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Yêu thương là chìa khóa để tồn tại.
Chúng ta học được nhiều điều quan trọng nơi Giáo Hội Jerusalem trong việc giải quyết các xung đột gây ra do việc chuyển tiếp từ Do-thái Giáo sang Kitô Giáo. Trước tiên, họ cùng nhau ngồi lại để tìm cách giải quyết vấn đề. Thứ đến, họ theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra đâu là sự thật nền tảng mọi người phải giữ, những gì có thể dung hòa, và những gì có thể chuẩn chước được. Sau đó, họ phải khiêm nhường bỏ thói quen của mình, hy sinh chấp nhận ý kiến chung, và giải quyết vấn đề trong tình yêu thương anh em; chứ không truyền lệnh như giữa chủ và tớ, giữa giai cấp lãnh đạo trung ương và cấp nhân viên dưới quyền mình. Biết cách giải quyết khôn ngoan như thế là tránh được chiến tranh và xây dựng hòa bình, là phát triển Tin Mừng vào thế giới theo đường lối Chúa Giêsu thay vì co cụm vào Jerusalem để bị đồng hóa vào Do-thái Giáo.
Các Bài Đọc hôm nay nêu bật cho chúng ta những chìa khóa quan trọng trong việc giải quyết các xung đột. Trong Bài Đọc I, Giáo Hội giải quyết vấn đề theo sự hướng dẫn của Thần Chân Lý và tình yêu thương của Đức Kitô. Các Tông-đồ quyết định không áp đặt trên các Dân Ngoại bất kỳ một gánh nặng nào khác, trừ ra những gì hết sức quan trọng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự quan trọng của giới luật yêu thương: Hãy làm mọi sự vì yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta. Đừng đối xử với nhau như chủ và tớ; nhưng hãy đối xử với nhau như anh em, như Chúa đã đối xử với chúng ta.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Cách giải quyết vấn đề của Giáo Hội Jerusalem
1.1/ Xóa tan nghi ngờ bằng cách:
(1) Chọn đại diện của Giáo Hội Trung Ương để làm sáng tỏ vấn đề với Giáo Hội địa phương: "Các Tông Đồ, các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi Antioch với ông Phaolô và ông Barnabas. Đó là ông Judah, biệt danh là Barsabbas, và ông Silas, những người có uy tín trong Hội Thánh."
(2) Gởi sứ điệp chính thức: Vì tin đồn thất thiệt và mạo danh gây ra nghi kỵ, chia rẽ, và tranh chấp trong cộng đoàn, Giáo Hội Jerusalem đã nhận ra điều này và làm sáng tỏ trong Thư luân lưu: "Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang."
(3) Chính thức nhìn nhận Barnabas và Phaolô là đại diện: Giáo Hội Jerusalem cũng nhận ra sự quan trọng của Barnabas và Phaolô với Giáo Hội địa phương: "Cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Barnabas và ông Phaolô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta."
1.2/ Nội dung của sứ điệp: dựa trên những lời của Phêrô và Giacôbê góp ý hôm qua. Giáo Hội Trung Ương quyết định: Vậy chúng tôi cử ông Judah và ông Silas đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây:
(1) Không phải mang gánh nặng nào khác: "Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác." Hai điểm quan trọng được các Tông-đồ nhấn mạnh là "Thánh Thần" và "chúng tôi." Giáo Hội không chỉ mang tính cách trần thế như bao tổ chức khác; nhưng có nguồn gốc từ Trời. Giáo Hội hoạt động dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Quyết định đạt được không do một cá nhân quyết định, nhưng là cố gắng của tập thể, sau khi đã cùng nhau cầu nguyện, đóng góp ý kiến, và đi tới quyết định.
(2) Ngoài những điều cần thiết này: "kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi." Những điều cần thiết tối thiểu này là những gì Giáo Hội Trung Ương nghĩ mọi người, Do-thái cũng như Dân Ngoại, cần phải giữ.
2/ Phúc Âm: Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.
2.1/ Giới luật yêu thương: "Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." Đây có thể nói là giới luật duy nhất Chúa Giêsu để lại cho con người; nhưng nó lại là giới luật nền tảng, vì nó bao trùm trên các giới luật khác. Yêu thương, không đơn thuần như con người hiểu, nhưng là yêu thương phát xuất từ Thiên Chúa. Con người phải có yêu thương này trước khi con người có thể đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình."
2.2/ Tình bằng hữu giữa Chúa Giêsu và các Tông-đồ: Dưới con mắt phàm nhân, mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và con người là mối liên hệ giữa chủ nhân và đầy tớ; vì Thiên Chúa dựng nên và có quyền trên con người. Ngài có quyền ra lệnh và con người có bổn phận phải thi hành. Hay có tốt hơn cũng chỉ là mối liên hệ giữa Thầy và trò. Tuy mối liên hệ này gần hơn, nhưng vẫn còn khỏang cách rất lớn giữa hai chủ thể: Thầy có quyền bắt học trò làm theo ý mình muốn. Các ông không thể nào ngờ lời Chúa nói các ông có thể trở thành bạn hữu của Ngài: "Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy."
(1) Khác biệt giữa tôi tớ và bạn hữu: "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết." Điểm đặc biệt giữa bạn hữu là họ chia sẻ cho nhau mọi tâm sự và mọi sướng, khổ, vui, buồn. Chúa Giêsu đã mặc khải cho các môn đệ mọi điều Ngài đã thấy nơi Chúa Cha, đã cùng chia sẻ mọi nỗi vui buồn trong 3 năm rao giảng; đã rửa chân cho các ông như một đầy tớ, và đã sẵn sàng hy sinh tính mạng vì các ông. Chúa thực sự đã đối xử với các ông như một người bạn thân thiết.
(2) Chúa chọn các Tông-đồ cho một sứ vụ: "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em." Chúa Giêsu nhấn mạnh đến vai trò của Thiên Chúa trong việc lựa chọn các Tông-đồ. Ngài chọn các ông chứ không phải các ông đã chọn Ngài. Ngài chọn các ông khi các ông vẫn còn rất nhiều khuyết điểm và giới hạn của con người; nhưng Ngài huấn luyện và thánh hiến các ông, để rồi sai các ông đi cho một sứ vụ: mang con người về cho Thiên Chúa.
Điều làm chúng ta ngạc nhiên sau biến cố Phục Sinh là sự thay đổi hoàn toàn nơi các Tông-đồ, từ những con người thất học, nhút nhát, trở thành can đảm, khôn ngoan, dám đương đầu với các người trong Thượng Hội Đồng, và họ không thể đối đáp được với các ông. Nói tóm, Chúa ban tất cả những gì cần thiết để các ông có thể chu toàn sứ vụ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi có xung đột trong gia đình hay cộng đòan, chúng ta hãy theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra sự thật và loại trừ tất cả những ích kỷ và ghen tị ẩn giấu đàng sau nó.
- Sau khi đã khiêm nhường tìm ra sự thật, chúng ta phải giải quyết vấn đề trên căn bản yêu thương, chứ không dùng quyền hành để ra lệnh như chủ và tớ.
- Chúng ta phải có can đảm để nhận ra lỡ lầm và sửa sai cho đúng. Hãy yêu thương, khuyến khích, và nâng đỡ nhau trong khi rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần V PS
Bài đọc: Acts 15:7-21; Jn 15:9-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những gì là cốt tủy của Kitô Giáo.
Tiếp tục những gì chúng ta đã bàn hôm qua về việc tìm ra đâu là cốt tủy của Kitô Giáo mà cả hai, Do-thái cũng như Dân Ngoại, phải giữ; những gì có thể thích ứng; và những gì có thể tùy mỗi dân tộc.
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta nhận ra vấn đề qua những đóng góp ý kiến của các nhân vật quan trọng. Trong Bài Đọc I, sau khi đã cùng nhau bàn luận, Phêrô đã đứng lên góp ý kiến như sau: Vì Thánh Thần cũng được ban cho Dân Ngoại cũng như cho dân Do-thái, vì con người được thanh tẩy nhờ đức tin chứ không nhờ Lề Luật, và vì con người nhờ ân sủng của Thiên Chúa mà được cứu độ chứ không do sức lực của con người; nên không thể bắt Dân Ngoại cắt bì và giữ các truyền thống của người Do-thái. Sau Phêrô, Giacôbê, một Tông-đồ có thế giá tại Giáo Hội Jerusalem cũng lên tiếng bênh vực cho Dân Ngoại: Theo lời các ngôn sứ, Dân Ngoại cũng được bao gồm trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Ông cũng đồng ý không nên bắt Dân Ngoại phải cắt bì và giữ truyền thống Do-thái; chỉ nên viết thư khuyên nhủ họ 3 điều: không được ăn thịt cúng, không được gian dâm, và không được ăn những súc vật không cắt tiết, cũng như không được ăn tiết. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến giới luật yêu thương là nền tảng của Kitô Giáo: Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ý kiến của các Tông đồ về những gì cần áp dụng cho Dân Ngoại.
1.1/ Ý kiến của Simon Phêrô: Sau khi các ông đã tranh luận nhiều, ông Phêrô đứng lên nói: "Thưa anh em, anh em biết: ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các Dân Ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi và tin theo." Phêrô đề cập đến 3 lý do chính yếu tại sao không nên bắt Dân Ngoại cắt bì và giữ các truyền thống Do-thái:
(1) Thánh Thần được ban cho các Tông-đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần cũng được ban cho Dân Ngoại: "Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi tâm can đã chứng tỏ Người chấp nhận họ, khi ban Thánh Thần cho họ cũng như đã ban cho chúng ta." Đó là lý do tại sao ông làm Phép Rửa cho viên Đại Đội Trưởng Roma, Cornelius và những người trong nhà của ông (Acts 10:44-48).
(2) Được cứu độ nhờ đức tin, chứ không do việc giữ Luật: Thiên Chúa dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ, chứ không bằng Lề Luật! Ở đây cũng như trong Thư Galat của Phaolô, ông ví Lề Luật như cái ách của người nô lệ (Gal 5:1): "Người không phân biệt chút nào giữa chúng ta với họ, vì đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ. Vậy bây giờ, sao anh em lại thử thách Thiên Chúa, mà quàng vào cổ các môn đệ một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi?"
(3) Được cứu độ nhờ ơn thánh, chứ không do sức con người: Con người được cứu độ là hoàn toàn do bởi ân sủng của Thiên Chúa: "Vả lại, chính nhờ ân sủng Chúa Giêsu mà chúng ta tin mình được cứu độ, cùng một cách như họ."
1.2/ Ý kiến của Giacôbê, Giám Quản Jerusalem: Tuy là người hết sức tuân giữ Lề Luật, nhưng ông cũng lên tiếng bảo vệ các tín hữu Dân Ngoại.
(1) Dân Ngoại được bao gồm trong Kế Hoạch Cứu Độ: Trước hết, ông nhìn nhận Dân Ngoại được bao gồm trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, như lời các ngôn sứ đã loan báo: "Sau đó, Ta sẽ trở lại, và sẽ xây dựng lại lều David đã sụp đổ; đống hoang tàn đó, Ta sẽ xây dựng lại, và Ta sẽ dựng lại lều ấy. Như vậy các người còn lại và tất cả các Dân Ngoại được mang danh Ta sẽ tìm kiếm Chúa. Chúa phán như vậy, Người là Đấng cho biết những điều ấy tự ngàn xưa" (x/c Amo 9:11-12 và Jer 12:15).
(2) Kết luận của ông Giacôbê: Vì vậy, phần tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc Dân Ngoại trở lại với Thiên Chúa, nhưng chỉ viết thư bảo họ:
- Kiêng những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng: Niềm tin ăn đồ cúng cho thần sẽ được trở nên giống thần, cũng như người Kitô hữu tin ăn Mình Chúa sẽ trở nên giống như Chúa (I Cor 10:20). Vì thế, một người không thể vừa tham dự bàn tiệc của Chúa, vừa tham dự bàn tiệc của thần ngoại (I Cor 10:21). Trước đó, Phaolô phân biệt giữa việc ăn thịt cúng vì biết chẳng có thần nào ngoài Chúa và việc gây ngộ nhận cho những người yếu đức tin (I Cor 8:1-13).
- Tránh gian dâm (Lev 18:6-18:26): Đây là giới răn thứ 6 và 9 của Thập Giới. Có những dân tộc không cho gian dâm là tội như một số người Hy-lạp. Trong một thế giới không trong sạch, những dạy dỗ của Đức Kitô về sự trong sạch là những gì mới lạ cho Dân Ngoại.
- Kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết (giết bằng cách thắt cổ) và kiêng ăn tiết: Máu là sự sống; ăn máu là ăn sự sống, và sự sống thuộc về Thiên Chúa. Con người không có quyền trên sự sống (Lev 17:10-14, Gen 9:4). Giacôbê muốn khuyên Dân Ngoại phải ăn thịt lòai vật theo kiểu của người Do-thái: phải cắt tiết con vật, phải để máu chảy ra hết, và không được ăn máu súc vật.
2/ Phúc Âm: Giới luật yêu thương là nền tảng quan trọng nhất.
(1) Liên kết tình thương giữa Thiên Chúa và con người qua Đức Kitô: "Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy." Nếu phải đơn giản hóa Kitô Giáo, chúng ta có thể nói Kitô giáo là Đạo của tình yêu: "mến Chúa và yêu thương tha nhân." Nhưng tình thương được thể hiện qua sự vâng lời: "Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người." Chúa Giêsu muốn con người giữ các giới răn vì Ngài biết những điều đó tốt cho con người, nhưng con người không luôn nhận ra.
(2) Hậu quả của yêu thương là có được niềm vui trọn vẹn: Mục đích của Kitô Giáo không phải là giam hãm con người trong Lề Luật; nhưng giúp con người hưởng trọn niềm vui của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta được cứu độ không bằng nỗ lực giữ trọn vẹn Lề Luật, nhưng bằng niềm tin vào Đức Kitô, dưới sự trợ giúp của ơn thánh.
- Đạo lý căn bản của Kitô Giáo là giới luật yêu thương. Thiên Chúa là tình yêu; Ngài thông ban tình yêu của Ngài cho con người qua Đức Kitô, và Ngài muốn con người yêu nhau bằng tình yêu này.
- Mục đích của Đạo là làm sao con người được hưởng trọn vẹn niềm vui của Thiên Chúa; chứ không phải giam hãm con người trong những luật lệ cứng nhắc để làm tội con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần V PS
Bài đọc: Acts 15:1-6; Jn 15:1-8.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Điều gì là điều khẩn thiết của Kitô Giáo?
Mỗi dân tộc trên địa cầu đều có một truyền thống, một văn hóa, và một giá trị khác nhau cần được tôn trọng. Khi Kitô Giáo được rao giảng vào dân tộc đó, các nhà truyền giáo cần phải nghiên cứu cẩn thận các truyền thống, văn hóa, và giá trị của họ. Mục đích là để làm sao cho dân tộc đó có thể đón nhận và thực hành đức tin, mà vẫn không xung đột với những truyền thống và văn hóa của họ.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy tầm quan trọng của vấn đề. Trong Bài Đọc I, Giáo Hội thời sơ khai phải đương đầu với nhiều vấn đề khi phải làm một sự chuyển tiếp từ Do-thái Giáo qua Kitô Giáo: Nên giữ những gì và nên bỏ những gì khi dân Do-thái và Dân Ngoại gia nhập Kitô Giáo? Cụ thể là 2 vấn đề chính: Dân Ngoại có phải cắt bì và giữ Lề Luật khi theo Kitô Giáo? Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra một điều khẩn thiết hơn cả: Các tín hữu phải sống kết hợp mật thiết với Ngài như cây nho và cành; nếu không sẽ không thể sinh hoa trái, sẽ bị khô héo, và sẽ bị cắt bỏ ra ngoài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Có cần phải cắt bì và giữ Lề Luật để được cứu độ?
1.1/ Theo các tín hữu Pharisees: Phải cắt bì và giữ Lề Luật.
(1) Về việc cắt bì: Những người Do-thái từ Judah tới nói với Dân Ngoại: "Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Moses, thì anh em không thể được cứu độ." Cắt bì là dấu chỉ của giao ước giữa Thiên Chúa và tổ-phụ Abraham (Gen 17). Chúa Giêsu chịu cắt bì tám ngày sau khi sinh ra (Lk 2:21); Phaolô cũng chịu cắt bì (Phi 3:5). Bằng việc cắt bì, một người Do-thái biết họ thuộc về dân của Thiên Chúa, và là con cháu của tổ phụ Abraham.
Tuy nhiên, điều quan trọng là niềm tin yêu nơi Thiên Chúa, cắt bì chỉ là dấu hiệu bề ngoài để chứng tỏ niềm tin yêu bên trong. Nếu cắt bì mà không tin yêu vào Thiên Chúa, cắt bì có ích chi đâu, Dân Ngoại nhiều nơi cũng có thói quen như vậy. Ngôn sứ Jeremiah (Jer 4:4, 9:24-26) đã từng nói lên sự cần thiết phải cắt bì trái tim và lòng trí. Thiên Chúa yêu mến sự công bằng và tình yêu hơn là cắt bì.
(2) Lề Luật: Có những người thuộc phái Pharisee đã trở thành tín hữu, bấy giờ đứng ra nói rằng: "Phải làm phép cắt bì cho người ngoại và truyền cho họ giữ luật Moses." Trước tiên, chúng ta cần phân biệt Lề Luật của Thiên Chúa và của con người (thói quen hay truyền thống): Luật của Thiên Chúa không thể thay đổi; luật do con người làm ra có thể thay đổi.
- Lề Luật chính yếu là là Thập Giới mà Thiên Chúa đã ban cho dân trên núi Sinai qua ông Moses đại diện cho toàn dân (Exo 20:1-17). Thập Giới này không thay đổi và mọi người, Do-thái cũng như Dân Ngoại, đều phải tuân hành.
- Những luật của con người do thói quen hay do truyền thống: luật thanh sạch, hay những chi tiết về giữ ngày Sabbath. Dân Ngoại không phải giữ các truyền thống này. Chính Chúa Giêsu cũng từng tranh luận với các kinh-sư và biệt-phái về những truyền thống này, và sửa sai họ: Các ông dùng truyền thống của các ông để bãi bỏ Lề Luật của Thiên Chúa (Mt 15:2-6, Mk 7:3-13).
1.2/ Theo Phaolô và Barnabas: Dân Ngoại không có truyền thống cắt bì và giữ luật thanh sạch như người Do-thái. Hơn nữa, Lịch sử Cứu Độ đã bước sang giai đọan mới và bao gồm các Dân Ngoại. Ông Phaolô và ông Barnabas chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phaolô, ông Barnabas và một vài người khác lên Jerrusalem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này.
Chúng ta không biết những lập luận của hai ông khi tranh luận với họ; nhưng theo Phaolô trong các Thư sau này: Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã mang Lề Luật tới chỗ kiện toàn. Vì biến cố sinh ra, chết đi, và sống lại; giờ đây, không còn nhất thiết phải trở thành người Do-thái trước khi trở thành Kitô hữu. Con người được cứu độ không do bởi việc cắt bì và giữ Lề Luật; nhưng do bởi niềm tin của họ vào Đức Kitô.
Tuy vấn đề cắt bì và Lề Luật đã được giải quyết trong Công Đồng Jerusalem; nhưng nó vẫn còn là bài học kinh nghiệm cho chúng ta trong đời sống hiện tại. Mỗi khi có những xung đột như thế, chúng ta cần ngồi xuống để phân tích xem điều gì quan trọng phải giữ và điều gì không quan trọng có thể bỏ hay thích ứng được. Bắt một người ngoại kiều hay một dân tộc phải theo văn hóa và truyền thống của mình trong việc thực hành đức tin dễ đưa đến bất đồng và gây nhiều trở ngại cho việc rao giảng Tin Mừng; một ví dụ cụ thể là việc thờ cúng tổ tiên tại Việt-nam.
2/ Phúc Âm: Sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu là điều khẩn thiết hơn cả.
Mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa là trung tâm điểm của Đạo. Vì thế, tất cả những gì giúp đưa con người tới Thiên Chúa, và giúp cho mối liên hệ này phát triển tối đa là những điều cần thiết hơn cả. Trong dụ ngôn hôm nay, Chúa Giêsu ví mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa như sau: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn."
(1) Lời Kinh Thánh: cần thiết để con người biết Thiên Chúa là ai, những gì Ngài mong muốn, và những gì Ngài đã, đang, và sẽ làm cho con người. Lời Kinh Thánh có sức tẩy sạch những gì là gian trá và mờ ám của thế gian như Chúa Giêsu nói hôm nay: "Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em."
(2) Các Bí-tích: giúp thông chuyển đời sống thần linh và ơn thánh từ Thiên Chúa đến cho con người. Hình ảnh những cành nho cần nhựa sống nuôi dưỡng của cây nho dẫn chứng sự cần thiết của các Bí-tích, nhất là Bí-tích Thánh Thể: "Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được."
(3) Sinh hoa kết trái bằng việc giữ các giới răn: Hoa trái đây là những gì con người làm cho Thiên Chúa và cho tha nhân, từ việc yêu mến, đến việc giữ Lề Luật của Thiên Chúa, và tất cả những gì con người có thể làm cho tha nhân. Khi con người sinh hoa kết trái, con người làm Thiên Chúa được tôn vinh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Trong lãnh vực đức tin, chúng ta cần chú trọng tới mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa, biểu lộ qua việc tin và yêu Ngài bằng những việc làm cụ thể.
- Mỗi khi có xung đột về truyền thống, văn hóa, và giá trị; chúng ta cần cùng nhau cầu nguyện và giải quyết, để xem coi những gì quan trọng về đạo lý cần giữ, những gì cần thích ứng với hoàn cảnh, và những gì có thể bỏ được.
- Việc bắt người khác phải theo truyền thống và văn hóa của mình sẽ đưa đến chia rẽ và làm trở ngại cho việc rao giảng Tin Mừng đến mọi nơi và mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 05/5 Phải qua gian khổ mới đạt tới vinh quang
- 04/5 Hoạt động dưới ảnh hưởng của Ba Ngôi Thiên Chúa
- 03/5 Hiệp nhất trong Thiên Chúa và trong Giáo Hội
- 02/5 Hãy dùng cơ hội Thiên Chúa cho để mang ơn cứu độ đến mọi người
- 03/5 Sống mật thiết với Chúa Giêsu Kitô
- 01/5 Mọi điều Thiên Chúa hứa được hoàn thành bởi Đức Kitô
- 30/4 Thiên Chúa hoàn tất mọi ý định và lời hứa của Ngài
- 29/4 Sẵn sàng vâng lời Thiên Chúa
- 28/4 Ai thuộc về đoàn chiên của Thiên Chúa nghe tiếng Chúa Giêsu
- 27/4 Con người phải vâng theo Kế Hoạch của Thiên Chúa