Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần VII PS
Bài đọc: Acts 20:28-38: Jn 17:11-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nỗi quan tâm của mục tử khi phải rời bỏ đoàn chiên của mình.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã từng phân biệt người mục tử tốt lành khác với người chăn chiên. Các Bài Đọc hôm nay đi xa hơn, khi nói lên mối quan tâm của những người mục tử tốt lành lo lắng cho đoàn chiên khi ông phải xa cách đoàn chiên mình. Người mục tử tốt lành không những lo chăm sóc, dạy dỗ, và bảo vệ đoàn chiên khi còn sống; mà còn kiếm người bảo vệ và săn sóc chiên khi biết mình sắp qua đời. Người chăn chiên có tốt lắm cũng chỉ săn sóc và bảo vệ chiên khi còn sống, ông không quan tâm đến đoàn chiên khi phải từ giã cuộc đời.
Trong Bài Đọc I, Thánh Phaolô giao đoàn chiên mình cho những kỳ mục tại Ephesô. Ngài muốn họ hãy chăm sóc đòan chiên một cách vui vẻ và vô vị lợi, bảo vệ họ khỏi những nanh vuốt của quỉ dữ và của thế gian. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cầu nguyện và đặt đoàn chiên dưới sự che chở của Chúa Cha. Ngài cầu xin Chúa cha thánh hiến các môn đệ của Ngài trong sự thật, và gìn giữ họ khỏi thế gian và ác thần.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lời căn dặn của Phaolô cho các kỳ mục tại Ephesus trước khi về Jerusalem.
1.1/ Họ phải ý thức bổn phận cao quí và quan trọng của họ: Đó là họ phải bảo vệ món quà vô giá là đức tin của họ và của đoàn chiên. Phaolô khuyên nhủ họ: "Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình." Để bảo vệ đức tin, Phaolô nêu bật hai điều quan trọng hơn cả:
(1) Họ phải bảo vệ sự thật giữa bao điều giả trá: Phaolô biết rõ tầm quan trọng của việc biết sự thật, và sự nguy hiểm của bao điều giả trá, từ kinh nghiệm mục vụ của mình. Ông cảnh giác giới lãnh đạo: "Phần tôi, tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đoàn chiên. Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng." Đoàn chiên còn ngây thơ, non dại; chúng chưa biết tất cả sự thật. Vì thế, bổn phận của các mục tử là không ngừng dạy dỗ đòan chiên để chúng biết nhận ra sự thật giữa bao sự gian xảo.
(2) Họ phải canh thức và khuyên nhủ: Các con chiên không luôn nghe tiếng chủ: có con ham chơi rồi đi lạc, có con cứng đầu chống lại cần phải sửa phạt; nhưng người mục tử tốt lành không bao giờ bỏ rơi bất cứ con nào. Vì thế, việc chăm sóc đòan chiên đòi người mục tử phải để ý tới từng cá nhân khi có thể, như Phaolô trưng dẫn kinh nghiệm của mình: "Vì vậy anh em phải canh thức, và nhớ rằng, suốt ba năm, ngày đêm tôi đã không ngừng khuyên bảo mỗi người trong anh em, lắm khi phải rơi lệ."
1.2/ Những điều quan trọng khác:
(1) Sức mạnh của Lời Chúa: Nhận ra sự khẩn thiết của việc biết sự thật như đã nêu trên, Phaolô chỉ cho họ biết kho tàng khôn ngoan của Lời Chúa: "Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến." Lãnh đạo khôn ngoan cần đặt căn bản trên Lời Chúa, và xây dựng trên niềm tin vào Thiên Chúa.
(2) Phần thưởng của người mục tử không dựa trên những lợi lộc vật chất: Khác với những nhà lãnh đạo thế gian, họ quan tâm đến địa vị, uy quyền, và những lợi lộc vật chất; người lãnh đạo dân Chúa phải biết hy sinh cách vô vị lợi, và cố gắng sinh sống bằng bàn tay của mình, như Phaolô đã làm: "Vàng bạc hay quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp." Dĩ nhiên, đó là điều lý tưởng; nhưng như Chúa Giêsu dạy và Phaolô nói sau này: "thợ làm vườn đáng được trả công." Hơn nữa, việc khai mở và nuôi dưỡng đức tin phải được ưu tiên hơn việc kiếm kế sinh sống.
(3) Hãy lo lắng cho những người yếu kém: "Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận." Trong đoàn chiên, sức mạnh và khả năng của mỗi con chiên khác nhau; người mục tử cần chú ý hơn đến những con chiên yếu ớt, bệnh tật.
Khi đã khuyên bảo xong, ông Phaolô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống cầu nguyện. Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ ông mà hôn. Họ đau đớn nhất vì lời ông vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu.
2/ Phúc Âm: Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.
2.1/ Chúa Giêsu biết sự nguy hiểm cho các môn đệ khi sống trong thế gian.
Chúa Giêsu biết đã đến giờ Ngài phải bỏ thế gian, nên Ngài tâm sự với Chúa Cha: "Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha." Giờ Chúa Giêsu phải rời bỏ các môn đệ, cũng là giờ mà các ông phải đương đầu với quyền lực của thế gian một mình. Ngài biết hậu quả sẽ nghiêm trọng chừng nào, như Ngài đã từng nói với các môn đệ: "Họ sẽ tiêu diệt chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác." Nhìn lại kết quả việc chăn chiên của mình, Chúa Giêsu hãnh diện nói với Chúa Cha: "Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh."
Thế gian sẽ ghét bỏ và truy tố các môn đệ như họ sắp ghét bỏ và truy tố Chúa Giêsu. Lý do là vì cả Chúa Giêsu và các môn đệ không thuộc về thế gian. Ngài muốn cho các ông biết rõ điều này; để các ông không ngạc nhiên khi điều đó xảy đến.
2.2/ Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ: Biết những nguy hiểm sẽ xảy đến cho các môn đệ như thế, Ngài cầu xin Chúa Cha ban cho các ông những điều quan trọng sau:
(1) Xin Chúa Cha bảo vệ các môn đệ khỏi ác thần: "Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian." Chúa Giêsu không xin "cất các môn đệ khỏi thế gian;" nhưng Ngài xin "gìn giữ họ khỏi ác thần." Các ông phải ở lại thế gian để tiếp tục sứ vụ rao giảng của Ngài.
(2) Xin Chúa Cha thánh hiến các môn đệ trong sự thật: Giống như Phaolô, Chúa Giêsu biết nguy hiểm của sự sai lạc: "Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật." Sự thật đây là Lời Kinh Thánh và những lời tâm huyết Chúa Giêsu vừa dạy dỗ họ. Ngài biết mọi hành động sai bắt đầu từ sự hiểu biết sai; vì thế, hiểu biết sự thật là điều không thể thiếu cho các môn đệ của Chúa.
Cả hai điều cầu xin này đều được Chúa Cha ban cho các môn đệ qua việc ban Thánh Thần. Ngài là thần sự thật, Ngài sẽ giúp các ông nhận ra sự thật và sẽ hướng dẫn các ông tới tất cả sự thật. Ngài cũng là người bảo vệ và giúp các ông có sức mạnh làm chứng nhân cho Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mỗi người chúng ta đều được kêu gọi để trở thành mục tử nhân lành: hoặc một số người con như bậc làm cha mẹ, hoặc một số đông như bậc linh mục, giám mục. Chúng ta phải lo cho đoàn chiên không chỉ lúc còn sống, mà còn cả khi chúng ta phải rời bỏ họ.
- Người mục tử nhân lành phải xây dựng đời mình trên đức tin và Lời Chúa. Họ phải làm hết cách sao cho đoàn chiên có một đức tin vững mạnh và hiểu biết Lời Chúa cách sâu xa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần VII PS
Bài đọc: Acts 20:17-27: Jn 17:1-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhìn lại công cuộc rao giảng Tin Mừng
Thiên Chúa không ngừng gởi những mục tử tốt lành đến để dạy dỗ, yêu thương, và hy sinh cả cuộc đời cho con người. Mục đích của Thiên Chúa khi gởi các sứ giả tới là làm cho con người nhận ra và tin vào tình yêu của Ngài và của Đức Kitô. Điều quan trọng là con người có biết nhận ra và đáp trả tình yêu Thiên Chúa qua những sứ giả đó không? Nếu biết nhận ra, con người sẽ biết bảo vệ món quà đức tin vô giá mà những mục tử này đã trao cho họ; nếu không biết nhận ra, họ sẽ tiếp tục đi trong tối tăm và không đường biết hướng về đâu.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta hai mẫu gương tuyệt vời của hai người chủ chăn đã hy sinh cuộc đời để làm trọn thánh ý Chúa và mưu cầu lợi ích cho tha nhân. Cả hai đều bình an và hài lòng vì mình đã làm tất cả những gì Thiên Chúa trao, và sẵn sàng can đảm đối phó với tương lai nguy hiểm đang tới. Trong Bài Đọc I, Phaolô triệu tập giới lãnh đạo trong cộng đòan Ephesô để nói những lời từ giã tâm huyết với họ trước khi lên đường về Jerusalem để chịu xiềng xích. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng tập họp các Tông-đồ để nói những lời sau cùng và cầu nguyện cho các ông trước khi vào Vườn Cây Dầu để bắt đầu Cuộc Thương Khó của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nếu có ai trong anh em phải hư mất, thì tôi vô can.
1.1/ Phaolô nhìn lại các hoạt động đã làm và từ giã Hội Thánh Ephesus: Ông đã trung thành trong bổn phận rao giảng Tin Mừng Thiên Chúa trao: "Anh em biết tôi đã không bỏ qua một điều gì có ích cho anh em; trái lại tôi đã giảng cho anh em và dạy anh em ở nơi công cộng cũng như tại chốn tư gia. Tôi đã khuyến cáo cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp phải trở về với Thiên Chúa, và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta." Ông đã vui lòng chịu gian khổ cho việc rao giảng Tin Mừng: "Khi phục vụ Chúa, tôi đã hết lòng khiêm tốn, đã nhiều lần phải rơi lệ, đã gặp bao thử thách do những âm mưu của người Do-thái."
1.2/ Phaolô nhìn thấy con đường gian khổ sắp tới nhưng vẫn can đảm tiến tới: Ông luôn sẵn sàng sống theo những hướng dẫn của Thánh Thần: "Giờ đây, bị Thần Khí thúc đẩy, tôi về Jerusalem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi." Tuy biết như thế, nhưng ông sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng: "Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa."
1.3/ Phaolô trao Hội Thánh Ephesô lại cho các kỳ mục với lời răn dạy: Nói những lời trên, Phaolô không có ý kể công, nhưng muốn cho Hội Thánh Ephesô nhìn thấy đức tin họ có được là do công lao khó nhọc của những nhà rao giảng. Vì thế, ông nhấn mạnh họ có bổn phận phải gìn giữ và làm cho đức tin ngày càng tăng trưởng: "Giờ đây tôi biết rằng: tất cả anh em, những người tôi đã đến thăm để rao giảng Nước Thiên Chúa, anh em sẽ không còn thấy mặt tôi nữa. Vì vậy, hôm nay tôi xin tuyên bố với anh em rằng: nếu có ai trong anh em phải hư mất, thì tôi vô can. Thật tôi đã không bỏ qua điều gì, trái lại đã rao giảng cho anh em tất cả ý định của Thiên Chúa."
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ trước Cuộc Thương Khó.
2.1/ Chúa Giêsu kiểm điểm Kế Hoạch Cứu Độ mà Chúa Cha đã trao cho Ngài để hoàn thành: Như một nhà lãnh đạo khôn ngoan luôn làm chủ tình thế, Chúa Giêsu ngồi kiểm điểm những gì đã, đang và sẽ xảy ra.
(1) Nhìn về tương lai sắp tới: Cuộc Thương Khó gần kề, nhưng Chúa Giêsu biết lúc Ngài bị treo trên Thập Giá là lúc Kế Họach Cứu Độ được hoàn thành, nên Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha."
(2) Mục đích của Kế-hoạch là để mang lại ơn cứu độ cho con người: "Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô." Biết Cha và biết Con là điều kiện để đạt được cuộc sống đời đời. Động từ "biết" theo Do-thái không chỉ lý thuyết, nhưng phải thực thi những gì Thiên Chúa đòi hỏi.
(3) Nhìn về quá khứ: Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ biết Thiên Chúa và tin vào Ngài được Chúa Cha sai đến: "Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha. Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con."
Chúa Giêsu biết Ngài đã hoàn tất bổn phận mặc khải và dạy dỗ các môn đệ. Giờ đây, Ngài phải vượt qua gian khổ cuối cùng để hoàn tất Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, là chấp nhận con đường Tử Nạn và chịu treo trên Thập Giá.
2.2/ Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ: "Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha." Các môn đệ là quà tặng của Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu là quà tặng của Chúa Cha ban cho con người. Con người là sở hữu chung của cả Chúa Cha và Chúa Giêsu.
Giống như học trò thành công làm thầy dạy được nở mặt nở mày, hay bệnh nhân được chữa khỏi làm vinh danh bác sĩ, con người là lý do Chúa Giêsu được tôn vinh: Vì con người, Chúa Giêsu có cơ hội vâng lời Chúa Cha và chinh phục con người về cho Chúa Cha.
Khi còn sống trong thế gian, Chúa Giêsu đã bảo vệ những kẻ Chúa Cha ban cho Ngài. Giờ đây, Ngài phải từ giã họ, nên cầu xin với Chúa Cha để Ngài bảo vệ họ khỏi mọi nguy hiểm của thế gian: "Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô bảo đảm cho chúng ta phần rỗi đời đời. Đức tin này có được là do sự dạy dỗ và giá máu của Đức Kitô, của các Tông-đồ, của các thánh, và của tổ tiên chúng ta qua các thời đại; chứ không phải tự nhiên mà chúng ta có.
- Mỗi người chúng ta, sau khi đã lãnh nhận đức tin, đều có hai bổn phận: (1) làm cho đức tin ngày một vững mạnh, và (2) loan truyền Tin Mừng cho người khác.
- Chúng ta cần phải năng nhìn lại hai bổn phận này để xét xem: đức tin của chúng ta đã tăng trưởng tới đâu, và chúng ta đã hoàn thành sứ vụ Thiên Chúa trao trong việc rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người trong gia đình và cộng đòan của chúng ta chưa?
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần VII PS
Bài đọc: Acts 19:1-8: Jn 16:29-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn ngữ xử dụng trong việc rao giảng Tin Mừng.
Người rao giảng phải xử dụng ngôn ngữ nào để việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả? Trước tiên, xét về phía người rao giảng, vì họ là người đem lời chân lý của Chúa đến cho con người; nên lời của họ phải chứa đựng sự thật. Thứ đến, xét về phía người nghe, đại đa số là thường dân và không có vốn liếng văn chương nhiều để hiểu biết những lời nói bóng bảy, chải chuốt. Vì thế, ngôn ngữ các nhà giảng thuyết dùng phải làm sao cho đơn giản, trong sáng, và dễ hiểu. Hơn nữa, mục đích của việc rao giảng Tin Mừng là đưa khán giả tới niềm tin vào Thiên Chúa và thúc đẩy việc ăn năn xám hối; chứ không phải là để thưởng thức những áng văn hay phân tích văn chương. Vì thế, nhà giảng thuyết phải dùng những lời chân tình, do Thánh Thần hướng dẫn, để đánh động tâm hồn khán giả, giúp họ nhận ra tình thương Thiên Chúa, và nhận ra những yếu đuối và tội lỗi của họ, sẵn sàng cho sự hoán cải tâm hồn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những ví dụ cụ thể trong việc loan truyền Tin Mừng. Trong Bài Đọc I, khi Phaolô đến Ephesô và hỏi các tín hữu ở đây họ đã lãnh nhận Thánh Thần chưa, họ trả lời: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói." Phaolô giải thích cho họ về sự khác nhau giữa hai Phép Rửa, và khi họ đã hiểu, ông làm Phép Rửa nhân danh Đức Kitô cho họ, và họ được lãnh nhận Thánh Thần. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu biết Cuộc Thương Khó đã gần kề, Ngài xử dụng ngôn ngữ chân thành của tình yêu để giúp các Tông-đồ hiểu rõ những gì sắp xảy ra; để các ông biết cách đối phó khi phải đương đầu với tình thế.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phaolô kiên nhẫn giáo dục các tín hữu tại Ephêsô.
1.1/ Phaolô phân biệt hai Phép Rửa: Trong thời kỳ đầu tiên của Giáo Hội, nhiều tín hữu nghĩ chỉ có một Phép Rửa duy nhất là Phép Rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả. Họ chưa bao giờ nghe tới Phép Rửa bằng Thánh Thần nhân danh Đức Kitô, và tại sao phải chịu Phép Rửa này, như lời các tín hữu tại Ephesô trả lời Phaolô hôm nay: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói." Hiểu biết sự thiếu thốn của dân, Phaolô kiên nhẫn mở trí cho họ:
(1) Phép Rửa bằng nước của Gioan Tẩy Giả: là Phép Rửa tỏ lòng sám hối. Ông Gioan làm Phép Rửa này để tha thứ và chuẩn bị tâm hồn cho dân để họ tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu. Phép Rửa này cần thiết, nhưng không phải là Phép Rửa duy nhất.
(2) Phép Rửa bằng Thánh Thần của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan, nhưng không để được tha tội, vì Ngài chẳng có tội gì để được tha. Các Giáo Phụ cắt nghĩa, Chúa Giêsu chịu Phép Rửa bởi Gioan để thánh hiến Nước của sông Jordan và tất cả nước mà Giáo Hội dùng để rửa tội cho các tín hữu. Nhưng điều khác biệt chính giữa hai Phép Rửa là sự hiện diện của Thánh Thần đậu xuống trên Ngài.
Khi các tín hữu chịu Phép Rửa, họ không chỉ được tha tội, nhưng còn được thánh hóa bởi Thánh Thần. Thánh Thần thánh hóa con người bằng cách làm cho họ hiểu biết Lời Chúa, và ban những ơn thánh cần thiết để giúp họ sống xứng đáng ơn gọi của những người làm con Chúa. Chúng ta có thể nhận thấy điều này khi chứng kiến anh chị em tân tòng gia nhập đạo: họ không chỉ chịu Phép Rửa bằng nước, nhưng còn lãnh nhận Thánh Thần qua việc xức dầu, và sau cùng được lãnh nhận Bí-tích Thánh Thể trong cùng một nghi lễ. Đối với các em bé, Giáo Hội chia ra làm ba Bí-tích riêng biệt trong quá trình thành người trưởng thành của em: Rửa Tội khi ra đời, lãnh nhận Mình Chúa khi đến tuổi biết phân biệt, và Thêm Sức khi đến tuổi biết làm chứng.
1.2/ Phaolô làm Phép Rửa ban Thánh Thần cho các tín hữu: "Khi ông Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri. Cả nhóm có chừng mười hai người." Nói tiếng lạ không chỉ giới hạn vào việc nói các ngôn ngữ khác nhau như các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần; nhưng trải rộng trong việc nói ngôn ngữ làm cho người khác hiểu những gì mình nói: ngôn ngữ của sự thật và của tình yêu. Nói tiên tri cũng không giới hạn vào việc tiên báo những sự kiện sẽ xảy đến trong tương lai; nhưng là nói thay Chúa, loan truyền những Tin Mừng cho những người chưa được nghe Thiên Chúa nói trong cuộc đời của họ. Khi các tín hữu được nói tiếng lạ và nói tiên tri, họ không nói những lời vô nghĩa và lộn xộn như những người mất trí; nhưng là những lời sự thật và xây dựng mà các tín hữu khác có thể hiểu. Sau khi làm Phép Rửa, ông Phao-lô vào hội đường, và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo luận về Nước Thiên Chúa và cố gắng thuyết phục họ.
2/ Phúc Âm: Chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.
2.1/ Đức tin và sự thử luyện:
(1) Chúa Giêsu nói từ tâm lòng với các môn đệ: Như chúng tôi đã đề cập trong những lần chia sẻ trước, trình thuật hôm nay nằm trong phần giáo dục dành riêng cho các môn đệ của Chúa Giêsu. Khán giả khác thì ngôn ngữ và lối suy luận dùng cũng phải khác, nhất là Chúa Giêsu không cón nhiều thời gian để dạy dỗ các ông, nên Ngài dùng ngôn ngữ của trái tim để chuẩn bị cho các ông những gì sắp xảy đến. Không lạ gì mà các ông hiểu và thưa Ngài: "Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào nữa. Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến."
(2) Giờ các môn đệ có đức tin là giờ mà cả Thầy trò phải chịu thử thách. Đức Giêsu đáp: "Bây giờ anh em tin à? Này đến giờ - và giờ ấy đã đến rồi - anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy." Chúa Giêsu không có ý mỉa mai các môn đệ khi nói những lời này, nhưng Ngài muốn các ông hiểu hai sự thực quan trọng: Thứ nhất, đức tin cần phải được thử luyện để biết đâu là đức tin vững chắc. Thứ hai, người nào có đức tin vững chắc không bao giờ cô độc; người ấy luôn có Thiên Chúa đồng hành và vượt qua mọi thử thách của cuộc đời.
2.2/ Chúa Giêsu để lại hai nguồn bình an của Ngài cho các môn đệ.
(1) Các môn đệ được bình an khi phản bội Thầy: Làm sao chúng ta hiểu câu tuyên bố của Chúa: "Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an." Chúa biết các ông sẽ phản bội Ngài vì sợ hãi và yếu đuối trong Cuộc Thương Khó; nhưng Chúa vẫn yêu thương và trung thành với các ông. Chúa muốn nói những lời này trước khi sự phản bội xảy ra, để các ông đừng thất vọng đến chỗ tìm quyên sinh như Judah, nhưng biết tin vào sự tha thứ của Ngài.
(2) Lời hứa chiến thắng trước khi đụng trận: "Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian." Không có gì kích thích lòng nhiệt thành của các môn đệ hơn là lời hứa sẽ chiến thắng. Một khi đã nắm chắc phần thắng lợi trong tay, người môn đệ sẽ lao vào chiến trường mà không gian nguy nào có thể làm chùn chân ông.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không cần dùng những lời lẽ văn chương bóng bảy hay chải chuốt trong việc loan báo Tin Mừng; nhưng cần những lời sự thật, đơn sơ mà mọi người đều có thể hiểu.
- Quan trọng hơn nữa là chúng ta nên dùng những lời chân tình phát xuất từ trái tim, và được sưởi ấm bởi Thánh Thần. Khán giả dễ nhận ra và đồng cảm với những người quan tâm đến cuộc sống của họ, vì Thánh Thần cũng là Người đang hoạt động trong khán giả.
- Chúng ta đừng sợ bất cứ điều gì trong hành trình rao giảng Tin Mừng, vì chúng ta tin tưởng Ba Ngôi Thiên Chúa luôn đồng hành để soi sáng, nâng đỡ và bảo vệ chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên
(Chúa Nhật VII Phục Sinh), Năm B
Bài đọc: Acts 1:1-11; Eph 1:17-23; Mk 16:15-20.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu lên trời.
Hai điều chính chúng ta cần tìm hiểu trong ngày lễ Chúa lên trời:
(1) Hiểu làm sao về biến cố Chúa thăng thiên: Phải chăng khi Chúa Giêsu lên trời là Ngài sẽ sống cách biệt chúng ta? Phải chăng Chúa Giêsu mang thân xác con người về Trời? Đâu là Thiên Đàng? Chúng ta sẽ hưởng những quyền lợi gì trên Thiên Đàng?
(2) Sự quan trọng của việc rao giảng Tin Mừng: Tại sao Chúa trao cho các Tông-đồ và Hội Thánh sứ vụ mang ơn cứu độ cho muôn người qua việc rao giảng Tin Mừng?
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh biến cố Chúa lên trời và sứ vụ Ngài trao cho các môn đệ. Trong Bài Đọc I, Thánh Lucas tường thuật hai biến cố: Chúa lên trời và sứ vụ Ngài trao cho các môn đệ phải ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô cầu nguyện để các tín hữu có thần trí khôn ngoan để hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa, được thực hiện qua Đức Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải rao giảng Tin Mừng, và Ngài ban quyền cần thiết để người khác tin vào lời các ông rao giảng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:
1.1/ Chúa Giêsu củng cố niềm tin cho các môn đệ trong suốt 40 ngày sau khi sống lại.
Dựa theo Luca 1:1-4 và trình thuật hôm nay: "Thưa ngài Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giêsu làm và những điều Người dạy, kể từ đầu cho tới ngày Người được rước lên trời," chúng ta có bằng chứng để kết luận Thánh Luca là tác giả của Tin Mừng thứ ba và Sách CVTĐ.
Trước ngày lên trời, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Sau khi sống lại, Người đã hiện ra nhiều lần trong bốn mươi ngày, để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình, và nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa.
1.2/ Chúa Giêsu nhắc lại lời hứa ban Thánh Thần: Trong những lời từ biệt của Chúa Giêsu trước Cuộc Thương Khó, Ngài đã hứa sẽ xin Chúa Cha để gởi đến cho các Tông-đồ Thánh Thần để ở với và hoạt động trong các ông (Jn 15 và 16). Trình thuật hôm nay nhắc lại lời hứa đó và nhắc nhở các Tông-đồ phải ở lại Jerusalem để lãnh nhận Thánh Thần: "Điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần."
Phép Rửa của Gioan Tẩy Giả là Phép Rửa bằng nước để tha tội khi con người tỏ lòng ăn năn xám hối và quay về với Thiên Chúa. Các Tông-đồ là những người Do-thái, nên các ông có lẽ đã lãnh nhận Phép Rửa bằng nước, như Gioan Tẩy Giả đã từng làm (Jn 1:26); nhưng có một Phép Rửa để thánh hóa con người bằng Thánh Thần mà Gioan Tẩy Giả đã đề cập đến mà chính Chúa Giêsu đã lãnh nhận (Jn 1:32-33). Các Tông-đồ lãnh nhận Phép Rửa này trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1-4).
Các môn đệ hiểu lầm những lời Chúa nói nên hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?" Họ vẫn nghĩ đến một Đấng Thiên Sai uy quyền, cho dẫu Chúa Giêsu đã phải trải qua Cuộc Thương Khó, cái chết, và sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài. Họ nghĩ, Chúa đã phục sinh, thì giờ là lúc Ngài khôi phục vương quốc Israel bằng cách gởi Thánh Thần xuống làm cho họ trở thành những người thống trị cùng với Đức Kitô! Nhưng Chúa Giêsu giải thích cho họ biết mục đích của việc lãnh nhận Thánh Thần là để họ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Ngài tại Jerusalem, trong khắp các miền Judah, Samaria và cho đến tận cùng trái đất, để con người tin và được cứu độ. Còn khi nào Ngài sẽ khôi phục vương quốc Nước Trời là nằm trong quyền lực và kỳ hạn mà Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt. Điều này cũng tùy thuộc vào việc cộng tác của con người làm cho Nước Chúa mau trị đến, bằng việc làm cho mọi người nhận biết Chúa.
1.3/ Chúa Giêsu lên trời: "Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa." Trong Phúc Âm, Luca cũng đề cập tới việc Chúa lên trời trong những câu sau cùng (Lk 24:50-51) và phản ứng vui mừng của các Tông-đồ (Lk 24:52-53). Làm sao chúng ta hiểu được ý nghĩa của việc Chúa Giêsu lên trời?
(1) Trong ngày lên trời, Chúa Giêsu chính thức từ bỏ thân xác con người (nhân tính), để chỉ còn lại thiên tính và ngự bên hữu Thiên Chúa để cầu bầu cho con người. Nói cách khác, Chúa Giêsu giũ bỏ nhân tính để chỉ còn lại thiên tính; không còn là người mang hai bản tính, nhưng hoàn toàn là Thiên Chúa. Nhưng Chúa Giêsu phải cho các môn đệ một dấu chỉ để biết Ngài trở về với Chúa Cha, và không có dấu chỉ nào giúp các ông dễ nhận hơn theo truyền thống là lên trời.
(2) Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là từ nay, Ngài sẽ cách biệt các môn đệ, nhưng có nghĩa Ngài không lệ thuộc vào giới hạn của thân xác về thời gian và không gian. Ngài luôn luôn hiện hữu ở mọi nơi và mọi thời với con người: tại Mỹ cũng như tại Việt-nam; trong BT Thánh Thể cũng như khi cầu nguyện. Hơn nữa Ba Ngôi Thiên Chúa không bao giờ tách biệt nhau, cho dù giai đọan hiện tại là giai đoạn hoạt động của Thánh Thần; nhưng ai có Thánh Thần, người ấy cũng có cả Ba Ngôi Thiên Chúa.
(3) Theo ĐGH Gioan Phaolô II, Thiên Đàng không phải là một nơi ẩn giấu đàng sau bầu trời, nhưng là một trạng thái vinh quang và vĩnh cửu, do sự kết hiệp hoàn toàn giữa con người với Thiên Chúa. Nếu hiểu như thế, Thiên Đàng đã bắt đầu ngay từ đời này, nhưng chưa đạt tới mức hoàn hảo như ở đời sau, khi con người được chiêm ngưỡng Thiên Chúa như Chúa là.
(4) Chúa Giêsu từ trời sẽ trở lại lần thứ hai để phán xét kẻ sống cũng như người chết: Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: "Hỡi những người Galilee, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời."
2/ Bài đọc II: Phaolô xin Thánh Thần cho các tín hữu để hiểu biết:
2.1/ Mặc khải quan trọng nhất của Thiên Chúa: là Kế Họach Cứu Độ con người, được thực hiện qua Đức Kitô. Con người phạm tội và hậu quả của tội là sự chết. Để cứu con người khỏi chết và phục hồi sự sống, Chúa ban cho con người Đức Kitô. Nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, con người tìm được niềm hy vọng được sống muôn đời với Thiên Chúa. Tác giả Thư Ephesô diễn tả những điều này như sau: "Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em để thấy rõ:
(1) "đâu là niềm hy vọng nhờ Người kêu gọi anh em": Niềm hy vọng đây chính là hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu đã đạt được qua Đức Kitô. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ được sống muôn đời với Thiên Chúa. Ngài không ngừng kêu gọi và tạo cơ hội cho con người biết Đức Kitô.
(2) "đâu là sự sung mãn của gia nghiệp vinh quang của Người giữa các thánh": Gia nghiệp vinh quang của Thiên Chúa chính là ơn cứu độ mà Đức Kitô đã chiến thắng cho con người. Các thánh là những người đã được hưởng ơn cứu độ. Họ là những chứng nhân của niềm hy vọng của chúng ta.
(3) "đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã làm cho chúng ta là những tín hữu, theo như uy quyền vô biên của quyền năng Người,mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời." Nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa đã chiến thắng mọi quyền lực của ma quỉ, tiêu diệt sự chết, và mang lại sự sống vĩnh cửu cho con người.
2.2/ Sức mạnh của Thiên Chúa được biểu dương nơi Đức Kitô:
(1) Đức Kitô là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa: "Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai." Thư Philipphê cũng diễn tả các tương tự về uy quyền và danh xưng Giêsu (Phi 2:10-11).
(2) Đức Kitô thiết lập Hội Thánh để tiếp tục thi hành sứ vụ cứu độ của Ngài trong trần gian: "Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn."
Đức Kitô cần Hội Thánh để loan truyền ơn cứu độ của Ngài cho mọi người: Câu truyện đối thoại giữa Chúa Giêsu và sứ thần Gabriel: Sứ thần hỏi Chúa Giêsu khi Ngài về trời: "Loài người có biết Ngài yêu họ và những gì Ngài đã làm cho họ không?" Chúa Giêsu trả lời: "Họ chưa biết, nhưng họ sẽ biết qua các môn đệ của tôi." "Điều gì sẽ xảy ra nếu các môn đệ mệt mỏi, hay thế hệ sau sẽ quên, hay hết người rao giảng!" Sứ thần Gabriel hỏi. Chúa Giêsu trả lời: "Tôi tin tưởng họ sẽ không làm như thế."
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ.
3.1/ Trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng: Người nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án." Khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, Ngài đã hoàn tất sứ vụ mang lại ơn cứu độ cho con người. Giờ đây Ngài trao sứ vụ loan báo Tin Mừng cho các môn đệ, để các ông mang ơn cứu độ này cho mọi người sống trên trần thế. Để được hưởng ơn cứu độ, con người cần tin vào Đức Kitô và chịu Phép Rửa.
3.2/ Ban uy quyền cho các môn đệ để khán giả tin vào lời các ông rao giảng: Chúa hứa với các nhà rao giảng: "Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ:
(1) Khai trừ quỷ: Phaolô truyền cho quỉ xuất khỏi người đầy tớ tại Philippi (Acts 16:18)
(2) Nói được những tiếng mới lạ: Các Tông-đồ nói tiếng của thổ dân trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1-11)
(3) Tránh được nguy hiểm: "Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao."
(4) Chữa lành: "Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ." Điều này đã được làm bởi Phêrô, Phaolô, và rất nhiều môn đệ.
"Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu là Đầu đã lên trời, chúng ta là những chi thể của một thân thể của Ngài là Hội Thánh, cũng sẽ được lên theo. Đó là niềm hy vọng chắc chắn của chúng ta.
- Chúa Giêsu tin tưởng chúng ta sẽ không quên sứ vụ Ngài trao phó là sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Chúng ta phải làm hết cách để cho mọi người biết và tin vào Ngài; đồng thời chúng ta cũng phải đào tạo các thợ nhiệt thành để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho thế hệ tương lai.
- Chúa Giêsu về trời không có nghĩa là Ngài vắng mặt trong cuộc đời; nhưng một khi Ngài không còn lệ thuộc vào giới hạn của thân xác, Ngài sẽ hiện diện với mọi người ở mọi nơi và mọi lúc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
LOAN BÁO TIN MỪNG CHO NGƯỜI THỜI NAY!
CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN NĂM B (17/05/2015)
[Cv 1,1-11; Ep 3,17-23; Mc 16,15-20]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trong Hội nghị kỳ I.2009 tại Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu (Vũng Tầu), Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã quyết định lấy Ngày Lễ Chúa Thăng Thiên làm Ngày Truyền Thông của Giáo Hội Việt Nam.
Cơ sở của quyết định của Hội đồng Giám mục là những lời của Chúa Giê-su nói với các Tông đồ trước khi về trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15) và “Anh em sẽ là chứng nhân của Thày tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Cơ sở của quyết định của Hội đồng Giám mục còn là vai trò vô cùng quan trọng của các phương tiện truyền thông xã hội mà chính Công đồng Vatican II đã phải đề cao trong một sắc lệnh. Đó là sắc lệnh về các phương tiện truyền thông xã hội (INTER MIRIFICA).
Theo tinh thần ấy, chúng ta nên suy nghĩ một lần nữa về sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội và của mỗi người/cộng đoàn và về cách thực hiện sứ mạng ấy bằng những phương tiện truyền thông xã hội, khi mừng Lễ Chúa Thăng Thiên năm nay.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 1,1-11): Đức Giê-su được cất lên ngay trước mắt các ông.
(1) Thưa ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc Đức Giê-su làm và những điều Người dạy, kể từ đầu (2) cho tới ngày Người được rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. (3) Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông vể Nước Thiên Chúa. (4) Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giê-su truyền cho các ông không được rời khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thày nói tới, (5) đó là: ông Gio-an thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.”
(6) Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (7) Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, (8) nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thày tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”
(9) Nói xong, Người lên trời ngay trước mắt các ông, và có đám mây rước Người lên, khuất mắt các ông. (10) Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì kìa hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh (11) và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.”
2.2 Trong bài đọc 2 (Ep 1,17-23): Thiên Chúa đã đặt Đức Ki-tô ngự bên hữu Người trên trời.
(17) Thưa anh em, tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. (18) Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, (19) đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, (20) mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. (21) Như vậy, Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. (22) Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh ; (23) mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mc 16,15-20): Đức Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.
(15) Khi ấy Đức Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một và nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. (17) Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ."
(19) Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
1°) Bài đọc 1 (Cv 1,1-11) là Bài Tựa của Sách Công vụ Tông Đồ trong đó Thánh Lu-ca ôn lại cuộc đời của Chúa Giê-su, từ đầu cho đến ngày Người lên trời. Đức Giê-su đã huấn luyện các Tông đồ, đã chứng minh là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình, đã nói với các ông về Nước Trời. Rồi một ngày kia Người đã biến đi - hay về trời - trước mắt các Tông đồ, sau khi Người báo cho các ông biết là các ông sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần để thực thi sứ mạng làm chứng cho Người trong trần gian này.
2°) Bài đọc 2 (Ep 1,17-23) là một đoạn của thư của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-sô. Tuy ngắn nhưng đoạn Thánh Thư này chứa đựng hai điều rất quan trọng trong mạc khải Ki-tô giáo.
(a) Trước hết Thánh Phao-lô nói -cách gián tiếp- về vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần: Chúa Thánh Thần là thần khí khôn ngoan, là quyền lực vô cùng lớn lao, là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực. Chức năng của Thánh Thần là mặc khải, là soi lòng mở trí…. cho chúng sinh đón nhận và hiểu biết về Thiên Chúa và kế họach của Người.
(b) Kế đến Thánh Phao-lô cho biết “Thiên Chúa đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn.”
3°) Bài Tin Mừng (Mc 16,15-20) tuy ngắn nhưng có ba nội dung quan trọng sau đây:
(a) Trước hết Thánh Mác-cô nhắc lại những lời dặn dò sau cùng và quan trọng của Đức Giê-su về sứ mạng rao giảng Tin Mừng của các môn đệ và lời báo trước về sự hiện diện và hành động của Người nơi các môn đệ.
(b) Kế đến Thánh Mác-cô nhắc đến biến cố Chúa Giê-su Ki-tô lên trời, có các môn đệ chứng kiến.
(c) Sau cùng Thánh Mác-cô ghi nhận hoạt động rao giảng Tin Mừng của các Tông đồ rất có hiệu quả vì có Chúa cùng hoạt động với các ngài.
3.2 Sứ điệp Lời Chúa hôm nay gồm hai phần:
* Thứ nhất là Chúa Giê-su đã thực hiện thánh ý của Thiên Chúa và đã hoàn tất chương trình, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa nên Người đã được Thiên Chúa cho lên trời (tức được tưởng thưởng và tôn vinh).
* Thứ hai là các Tông Đồ được Chúa Giê-su Phục Sinh giao sứ mạng loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Người. Các ngài đã ra đi rao giảng khắp nơi, thu được nhiều kết quả, vì có Chúa cùng hoạt động với các ngài.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Cha Đức Giê-su, Đấng đã được sai đến trần gian để thực thi Kế Hoạch Cứu Độ qua/trong Con Đường Thập Giá nên nđã được Chúa Cha tưởng thưởng và tôn vinh trên Trời Cao.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay
1°) là tôn vinh Chúa Giê-su Ki-tô vì Người đã chu toàn thánh ý, chương trình, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa bằng cuộc sống và bằng cái chết hy sinh thập giá của Người.
2°) và là thi hành sứ mạng rao giảng về Chúa Giê-su Ki-tô bằng lời nói, việc làm, cách sống của chúng ta và bằng các phương tiện truyền thông xã hội hiện đại: sách báo, phim ảnh, internet v.v...
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ NHÂN LOẠI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân tộc trên thế giới để mọi người mở lòng mở trí đón nhận Tin Mừng mà các môn đệ Đức Ki-tô đem đến cho họ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “…Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thày tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”
Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa được tràn đầy Thánh Thần và trở thành chứng nhân sống động của Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy biết tìm kiếm những thực tại cao siêu và vĩnh hằng mà Chúa Ki-tô về Trời mời gọi.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu khát khao và tìm kiếm chân lý để họ được toại nguyện như lòng mong ước.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần VI PS
Bài đọc: Acts 18:23-28: Jn 16:23-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cùng nhau hoạt động để mang Ơn Cứu Độ cho mọi người.
Con người thường cảm thấy bất an và ghen tị khi thấy người khác nổi tiếng, uy quyền, giàu sang, và được mọi người kính trọng hơn mình. Vì thế, họ tìm cách làm sao để giảm danh giá, uy quyền, và thế lực của người khác bằng nhiều những thủ đoạn khác nhau như: nói xấu, bôi nhọ, và ngay cả hãm hại người khác. Nhưng đối với các tín hữu là những môn đệ của Chúa, họ không được phép làm như thế. Trái lại, Thiên Chúa đòi họ phải cộng tác với nhau, mỗi người một tài năng của Thánh Thần ban, cho việc xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô và cho việc loan báo Tin Mừng.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những mẫu gương về tinh thần đoàn kết và cộng tác trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, khi cộng đoàn Ephesus nhận ra ông Apollo có những tài năng xuất chúng cho việc rao giảng Tin Mừng, họ không ghen tị với ông. Trái lại, họ tìm cách bổ khuyết những gì ông còn thiếu, và tạo mọi cơ hội dễ dàng để ông đem Tin Mừng cho mọi người trong tỉnh Akaia. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không giữ các môn đệ lại cho mình; nhưng khuyến khích các ông đến với Chúa Cha. Ngài xác tín với các môn đệ là Chúa Cha yêu con người, và sẵn sàng ban mọi điều các ông xin nhân danh Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các tín hữu cùng cộng tác với nhau trong việc rao giảng và bảo vệ Tin Mừng.
1.1/ Sự xuất hiện của một nhà rao giảng mới, ông Apollo: Trải qua lịch sử của Do-thái cũng như của Giáo Hội, Thiên Chúa không ngừng gởi tới những nhân tài: khôn ngoan, thánh thiện, can đảm, và nhiệt thành, để loan truyền những sứ điệp của Ngài; chẳng hạn, Moses, David, Solomon, Isaiah, Gioan Tẩy Giả, Phêrô và Phaolô. Trong cộng đoàn Ephesus, Thiên Chúa cũng cho xuất hiện một tài năng mới người Do-thái tên là Apollo, quê ở Alexandria, ông là người có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh.
Alexandria bên Ai-cập và Antioch bên Syria là hai trung tâm nổi tiếng vế triết học và thần học của Giáo Hội trong những thế kỷ đầu tiên. Hai nơi này đã cống hiến cho Giáo Hội rất nhiều các thánh Giáo Phụ xuất chúng và nhiệt tâm bảo vệ Đạo Thánh Chúa. Apollo có những đặc tính của người rao giảng: đã được học Đạo Chúa, có tài hùng biện, và thông thạo Kinh Thánh. Với tâm hồn nồng nhiệt, ông thường lên tiếng giảng dạy chính xác những điều liên quan đến Đức Giêsu. Một điều ông còn thiếu: ông chỉ biết có Phép Rửa của ông Gioan.
1.2/ Rao giảng Tin Mừng là bổn phận của mọi người: Nhận ra tài năng và lòng nhiệt thành của Apollo, những người trong cộng đoàn giúp ông bổ khuyết những gì còn thiếu và tạo cơ hội cho ông đi rao giảng Tin Mừng trong tỉnh Akaia.
(1) Bà Priscilla và ông Aquila giúp cho ông Apollo hiểu Đạo của Thiên Chúa: Sau khi nghe ông mạnh dạn rao giảng trong hội đường, "bà Priscilla và ông Aquila mời ông về nhà để trình bày Đạo của Thiên Chúa cho ông chính xác hơn." Có nhiều điều cho chúng ta học hỏi từ biến cố này:
- Hai ông bà không ghen tị với Apollo, nhưng giúp ông hiểu biết tường tận hơn.
- Apollo không kiêu ngạo cho mình biết hết, nhưng sẵn sàng học hỏi từ người đi trước.
- Những người trong bậc gia đình có thể đóng góp trong việc giáo dục và đào tạo những người rao giảng Tin Mừng tương lai.
- Nữ giới cũng có vai trò trong việc rao giảng Tin Mừng mà không cần phải đòi cho được hưởng quyền lợi như nam giới.
(2) Các anh em trong cộng đòan giúp Apollo có cơ hội rao giảng Tin Mừng tại Akaia: "Khi biết ông Apollo muốn sang miền Akaia, các anh em khuyến khích ông và viết thư xin các môn đệ tiếp đón ông." Người khuyến khích ơn gọi và người tạo cơ hội đều góp phần trong việc rao giảng Tin Mừng. Để có người rao giảng, Thiên Chúa cần sự cộng tác của tất cả mọi người.
Kết quả là cả cộng đoàn cùng được hưởng: "Khi đến nơi, nhờ ơn Chúa, ông Apollo đã giúp ích nhiều cho các tín hữu, vì ông mạnh mẽ và công khai bẻ lại người Do-thái, dẫn Kinh Thánh mà minh chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô."
2/ Phúc Âm: Chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy.
2.1/ Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ đến cùng Chúa Cha: Chúa Giêsu không hoạt động riêng lẻ, nhưng cùng hoạt động với Chúa Cha để sinh lợi ích cho con người. Ví dụ, Chúa Cha tạo cơ hội thuận tiện cho con người đến với Chúa Giêsu để nghe người rao giảng và chữa lành; đối lại, Chúa Giêsu nói cho con người biết về tình yêu Thiên Chúa. Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu chỉ đường cho các môn đệ đến với Chúa Cha: "Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy. Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn."
Khi không ích kỷ giữ lại cho mình, nhưng luôn rộng lượng cho đi, hậu quả là cả ba đều được hưởng: Chúa Cha yêu Chúa Giêsu, Chúa Giêsu yêu con người, và con người yêu cả Chúa Cha và Chúa Giêsu.
2.2/ Yêu thương Chúa Cha là yêu thương Chúa Giêsu: Từ chương 1 cho đến hết chương 12 của Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn giảng dạy cho các môn đệ và dân chúng; nhưng từ chương 13 trở đi, Ngài dành riêng để mặc khải và dạy dỗ các môn đệ. Đó là lý do Chúa Giêsu nói: "Sẽ đến giờ Thầy không còn dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha, không còn úp mở."
Các môn đệ của Chúa có thể đến trực tiếp với Chúa Cha: "Ngày ấy, anh em sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không nói với anh em là Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha cho anh em. Thật vậy, chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy, và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến. Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha." Nếu Cha yêu Con, Cha cũng yêu tất cả những ai thuộc về Con (Jn 10:29). Nếu Con yêu Cha, Con sẽ gìn giữ và bảo vệ tất cả những ai Cha đã ban cho Con (Jn 6:37, 39-40).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Rao giảng Tin Mừng cho mọi người để họ tin yêu Thiên Chúa là bổn phận của mọi người. Vì thế, người góp công, người góp của, chúng ta phải cộng tác với nhau, và làm hết sức cho Nước Chúa ngày càng mở rộng.
- Chức vụ, danh giá, uy quyền, luôn len lỏi khắp nơi trong Giáo Hội, dòng tu, và giáo xứ. Những điều này không những đã làm trì trệ trong việc loan báo Tin Mừng, mà còn làm gương xấu và làm mất đức tin cho người khác, ngay cả cho chính đương sự.
- Chúng ta đã lãnh nhận Tin Mừng cách nhưng không, thì cũng phải cho đi cách nhưng không. Thiên Chúa không cho phép chúng ta lạm dụng Tin Mừng để mưu cầu danh giá, uy quyền, và lợi lộc cho cá nhân mình.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần VI PS
Bài đọc: Acts 18:9-18: Jn 16:20-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần phải trung thành trong mọi hoàn cảnh.
Con người thường hay bị nản lòng trước những gian nan, khổ cực, và thất bại; đồng thời dễ nhiệt thành trước những vinh quang, vui sướng, và thành công. Nhưng cả hai thái độ là hai khía cạnh của cuộc đời như một đồng tiền hai mặt: chấp nhận cuộc đời là phải chấp nhận cả hai.
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta nhìn ra hai khía cạnh này qua những ví dụ và trường hợp cụ thể trong đời sống. Trong Bài Đọc I, Phaolô có lẻ cảm thấy mệt mỏi và chán nản khi thấy sự cố gắng của mình không mang lại kết quả như lòng mong ước, lại còn phải chịu bao nhiêu những trái ý thử thách như hiểu lầm, đòn vọt, tù đày, nhất là những quấy nhiểu của những đồng hương Do-thái. Nhưng Thiên Chúa vẫn ở với và bảo vệ ông; nên ông tiếp tục ở lại và xây dựng giáo đoàn Corintô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu ví Cuộc Thương Khó sắp tới của Ngài như một sản phụ sắp sinh con. Các môn đệ sẽ lo sợ và buồn phiền vì những đau khổ xảy ra cho Ngài và cho các ông; nhưng Ngài muốn các ông nhìn tới niềm vui trọn vẹn mà không ai có thể tước đoạt khỏi các ông, khi các ông chứng kiến Ngài sống lại vinh quang.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải kiên trì rao giảng Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh.
1.1/ Gian khổ làm con người sợ làm chứng cho Thiên Chúa: Trong hành trình rao giảng lần thứ hai của Phaolô, ông phải đương đầu với nhiều gian nan đau khổ: bị hiểu lầm và quấy nhiễu bởi những người đồng hương, bị đánh đòn, bị giam cầm, và không nhìn thấy Thiên Chúa cho kết quả như lòng mong ước. Những gian khổ này có lẽ đã làm nhụt chí Phaolô, khiến ông không còn nhiệt thành rao giảng Tin Mừng như thuở ban đầu. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn đồng hành với ông, nên một đêm, Chúa bảo ông Phaolô trong một thị kiến: "Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với anh; không ai tra tay hại anh được, vì Thầy có một dân đông đảo trong thành này." Khi nhận ra ý Thiên Chúa, ông Phaolô ở lại đó một năm rưỡi, dạy cho họ lời Thiên Chúa.
1.2/ Thiên Chúa luôn quan tâm và bảo vệ tôi tớ của Ngài: Rồi gian khổ lại tới, "thời ông Gallion làm thống đốc tỉnh Akaia, người Do-thái nhất tề nổi dậy chống ông Phaolô; họ đưa ông ra toà và nói: "Tên này xúi giục người ta tôn thờ Thiên Chúa trái với Lề Luật.""
(1) Thiên Chúa dùng Thống Đốc tỉnh Akaia để bảo vệ Phaolô: Trình thuật kể: Khi ông Phaolô toan mở miệng, thì ông Gallion đã nói với người Do-thái: "Hỡi người Do-thái, giả như có gì là trái Luật hay phạm pháp, thì lẽ đương nhiên là tôi sẽ chịu khó nghe các ông. Nhưng đây lại là những chuyện tranh luận về giáo thuyết, danh từ, luật lệ riêng của các ông, thì các ông hãy tự xét lấy. Phần tôi, tôi không muốn xét xử những điều ấy." Rồi ông đuổi họ ra khỏi toà án.
(2) Người cáo tội trở thành nạn nhân: Thấy kết quả xử án, "mọi người liền túm lấy ông Sosthenes, trưởng hội đường, mà đánh túi bụi ngay trước toà án. Nhưng ông Gallion chẳng bận tâm gì về việc này." Sosthenes là người chủ mưu trong việc kích động để đưa Phaolô ra tòa án.
Phaolô tiếp tục hành trình rao giảng: "Ông Phaolô còn ở lại Corintô khá lâu, rồi từ giã các anh em và vượt biển sang miền Syria, cùng với bà Priscilla và ông Aquila. Trước đó, tại Cenchreneae, ông xuống tóc, vì có lời khấn." Để có thể trung thành hoàn tất sứ vụ cách hiệu quả, người rao giảng Tin Mừng cần cầu nguyện, kết hợp với Thiên Chúa, và sống cuộc đời đơn sơ và kỷ luật.
2/ Phúc Âm: Nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.
2.1/ Phải qua gian khổ mới có hạnh phúc: "Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui."
Quan niệm của người Do-thái về 2 kỷ nguyên: kỷ nguyên hiện tại hoàn toàn xấu và bị luận phạt, kỷ nguyên tương lai hoàn toàn tốt đẹp và đáng mong ước. Giữa hai kỷ nguyên là thời của Đấng Thiên Sai tới mà các ngôn sứ gọi là "ngày kinh hoàng" (Isa 13:9, Joel 2:1-2, 2 Pet 3:10). Chúa Giêsu dùng quan niệm truyền thống này trong hai ví dụ để cắt nghĩa cho các môn đệ hiểu về những gì sắp xảy tới cho Ngài và cho các ông.
(1) Người đàn bà mang thai: "Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian." Thời gian mang thai của người đàn bà có thể ví như thời quá khứ, thời gian sau khi sinh con có thể ví như thời tương lai. Giữa hai thời gian này là lúc lâm bồn: tuy đau đớn tột cùng, nhưng người đàn bà chịu được vì hy vọng vào tương lai là người con sẽ được ra đời. Bà sẽ được nhìn thấy, yêu thương, và chăm sóc cho con mình.
(2) Niềm vui của các môn đệ khi được gặp lại Chúa: "Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được." Thời gian còn được sống với Chúa trên cõi dương gian được ví như thời quá khứ, thời gian sẽ được gặp lại Chúa được ví như thời tương lai. Giữa hai thời gian này là Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu: Các môn đệ đau khổ khi nhìn Thầy Chí Thánh bị luận tội, đánh đòn, đóng đinh, và mai táng trong huyệt mộ; các ông lo lắng và sợ hãi cho số phận của mình; nhưng rồi những đau khổ này sẽ qua đi, và các ông vui mừng vì thấy Chúa chiến thắng tử thần và mọi sứ mạnh của thế gian, nhất là Ngài cũng sẽ làm cho các ông sống lại vẻ vang như vậy.
2.2/ Niềm vui trọn vẹn: "Ngày ấy, anh em không còn phải hỏi Thầy gì nữa. Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy." Niềm vui trọn vẹn vì là:
+ Niềm vui hoàn toàn: không còn thiếu điều gì nữa. So sánh với niềm vui của thế gian luôn thiếu vắng ít nhiều yếu tố.
+ Niềm vui vĩnh cửu: không ai lấy mất được. Niềm vui thế gian dâng tặng chỉ tạm thời, và luôn bị đe dọa bởi những khó khăn của cuộc sống. Khi người Kitô hữu được sống bên Chúa của mình, họ luôn vui mừng và sầu thương không còn nữa.
(1) Anh em không còn phải hỏi Thầy gì nữa: Còn sống ở đời này, con người còn phải vật lộn đi tìm sự thật giữa bao nhiêu gian dối, giả trá. Khi được chiêm ngưỡng Chúa trong ngày ấy, con người thấu hiểu mọi sự thật, và sẽ không cần hỏi han gì nữa.
(2) Anh em nhân danh Thầy mà xin Chúa Cha điều gì, Ngài sẽ ban cho anh em: Dĩ nhiên con người phải xin điều gì tốt lành và đẹp ý Chúa, chứ không xin điều gì hại cho mình và cho tha nhân. Như một trẻ thơ chạy đến với cha mình để xin, cha sẽ không bao giờ cho con mình cái gì có hại cho con, như cho con: vũ khí giết người, internet để trong phòng, chơi với những bạn bè xấu ... Một kiến thức đầy đủ sự thật sẽ loại trừ những lời xin không đẹp ý Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải hiểu rõ đau khổ và vinh quang là hai mặt của cuộc đời trong Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, để luôn trung thành với ơn gọi của mình, và sống bình an khi gian nan khốn khó xảy đến.
- Chúng ta đừng bao giờ chạy trốn đau khổ và chạy theo những thú vui nhất thời của thế gian; vì nếu chúng ta không trung thành với Thiên Chúa, chúng ta sẽ không được hưởng niềm vui của các chứng nhân trung thành.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Thánh Matthias Tông Đồ
Bài đọc: Acts 1:15-17, 20-26; Jn 15:9-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa là Đấng chọn, yêu thương, dạy dỗ, và sai các Tông-đồ đi.
Lễ Thánh Matthias nằm giữa hai biến cố quan trọng trong Sách CVTĐ: Thăng Thiên và Hiện Xuống. Cần phải có trọn vẹn 12 Tông-đồ trong Tân Ước, như 12 chi tộc Israel của Cựu Ước, trước khi lãnh nhận Thánh Thần.
Lịch sử không cho chúng ta nhiều dữ kiện liên quan đến cuộc đời Thánh Matthias, ngoài trình thuật hôm nay trong Bài Đọc I. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến đức tính quan trọng nhất của người môn đệ là phải giữ các giới răn của Chúa, nhất là giới luật yêu thương.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chọn một Tông-đồ thay thế cho Judah Iscarioth, kẻ phản bội.
1.1/ Sự phản bội của Judah nằm trong Kế Hoạch của Thiên Chúa: Trong những ngày ấy, ông Phêrô đứng lên giữa các anh em - có khoảng một trăm hai mươi người đang họp mặt - Ông nói: "Thưa anh em, lời Kinh Thánh phải ứng nghiệm, lời mà Thánh Thần đã dùng miệng vua Đavít để nói trước về Judah, kẻ đã trở thành tên dẫn đường cho những người bắt Đức Giêsu. Y đã là một người trong số chúng tôi và được tham dự vào công việc phục vụ của chúng tôi. Thật thế, trong sách Thánh vịnh có chép rằng: "Ước gì lều trại nó phải tan hoang, không còn ai trú ngụ (Psa 69:25, RSV); và ước gì người khác nhận lấy chức vụ của nó (Psa 109:8)."
(1) Tại sao Judah phản bội Chúa Giêsu?
+ Vì ham tiền: Đa số con người chấp nhận ý kiến này, vì theo Tin Mừng Gioan, Judah được trao nhiệm vụ giữ tiền; và ông thường tiêu vào của công. Ông bán Thầy mình với giá 30 đồng, khoảng 30 ngày làm công thời đó, một món tiền không lớn lắm. Gioan cũng làm nổi bật sự tham tiền của Judah bằng cách làm nổi bật sự đập vỡ một bình dầu thơm thượng hạng của một phụ nữ muốn liệm xác Chúa trước Cuộc Thương Khó (Jn 12:1-8).
+ Vì ham danh: Khi Judah thấy mình không được trọng dụng như ba môn đệ thân tín của Chúa: Phêrô, Giacôbê, và Gioan; ông tức giận và tìm cách làm hại Ngài.
+ Vì bị kỳ thị: Judah, người thuộc làng Kerioth, thuộc lãnh thổ Judea. Như vậy, chỉ có ông là người thuộc miền Nam, trong khi 11 môn đệ khác là người miền Bắc. Kinh nghiệm giữa những người thuộc miền Bắc và thuộc miền Nam của Việt-nam cho chúng ta hiểu được mối liên hệ này.
+ Vì Judah muốn lợi dụng Chúa: Ông biết Chúa là người có uy quyền rất mạnh, nên ông muốn đặt Chúa vào tình trạng Chúa phải ra tay uy quyền để cứu Israel như một Đấng Thiên Sai mà người Do-thái mong mỏi. Khi không thấy Chúa phản ứng như ông nghĩ, ông hối hận và quyên sinh như Matthew tường thuật (Mt 27:3-10).
+ Vì muốn thử Chúa: Judah là người ma lanh, ông có thể qua mặt bất cứ ai; nhưng không qua mặt được Chúa. Ông muốn bí mật nộp Chúa để xem Chúa có biết cách đối phó không.
(2) Số phận của Judah: được tường thuật cách khác nhau bởi các thánh ký.
+ Theo Lucas: Trình thuật hôm nay bỏ hai câu nói về số phận của Judah: "Ông này đã mua một thửa ruộng với phần thưởng của việc làm độc ác của ông; và bị té xấp mặt xuống, ông xé roạc bụng và ruột của ông lòi hết ra ngoài. Và việc này được tất cả dân thành Jerusalem biết tới; vì thế, thửa ruộng đó trong tiếng của họ được gọi là Akeldama, nghĩa là ruộng máu" (Acts 1:18-19).
+ Theo Matthew: Khi Judah thấy mình đã làm đổ máu người vô tội, ông mang 30 đồng bạc trả lại cho Thượng Hội Đồng. Họ không chịu nhận. Judah quăng túi tiền vào Đền Thờ và ra đi tự vẫn. Họ lấy tiền đó để mua một thửa ruộng gọi là "ruộng máu;" và dùng để chôn cất những người nghèo.
+ Theo tác giả hiện đại: Một số quả quyết: dựa theo bằng chứng Kinh Thánh, Judah chắc chắn bị sa hỏa ngục. Một số khác cho: vì Kinh Thánh cho biết sự phản bội của Judah đã được phác họa sẵn trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và ông có hối hận về việc ông đã làm, nên Judah có thể được Thiên Chúa cứu. Kinh Thánh không cho chúng ta biết chắc chắn về số phận của Judah, chỉ cho những bằng chứng về hành động ông đã làm. Tốt hơn, chúng ta nên để Thiên Chúa phán xét và phó dâng ông cho lòng từ bi của Ngài.
+ Theo những người tin vào chủ thuyết Tiền Định: Trường hợp của Judah là một điển hình cho việc tiền định: Nếu Thiên Chúa đã định cho ai phải hư mất, kẻ ấy hư mất như Judah; ngược lại, nếu Chúa đã định cho ai được cứu độ, kẻ ấy được cứu độ như Phêrô. Những người này quên mất hành động của cả hai đã làm sau khi phản bội; hay họ cho rằng ơn thánh thúc đẩy cho Phêrô trở lại mạnh hơn là cho Judah! Hơn nữa, những người tin vào thuyết Tiền Định đã giả sử Judah phải hư mất.
1.2/ Thủ tục chọn lựa: Chúng ta có thể học được nhiều bài học từ việc chọn người thay thế Judah từ trình thuật hôm nay:
1.2.1/ Phêrô đưa ra 2 điều kiện để được chọn:
(1) Chọn Tông-đồ từ giữa các môn đệ: "Phải chọn những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời."
(2) Phải có kinh nghiệm "Chúa sống lại": Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh."
Hai tiêu chuẩn để chọn này hợp lý, vì người Tông-đồ được chọn phải biết Chúa Giêsu và đạo lý của Ngài; đồng thời người đó phải có kinh nghiệm Chúa Phục Sinh, trước khi có thể làm chứng cho Ngài. Kết quả: Họ đề cử hai người: ông Joseph, biệt danh là Barsabbas, cũng gọi là Justo, và ông Matthias.
1.2.2/ Rút thăm từ 2 môn đệ được đề cử: Các Tông-đồ tin sự hiện diện của Thiên Chúa giữa các ông, chính Ngài sẽ hướng dẫn sự lựa chọn, qua lời cầu nguyện của các ông: "Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ, chỗ Judah đã bỏ để đi về nơi dành cho y." Kết quả khi họ rút thăm: thăm trúng ông Matthias: ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ. Cách rút thăm của người Do-thái: họ viết tên các ứng viên vào viên đá nhỏ, bỏ vào ly rồi lắc cho đến khi viên đá văng ra ngoài. Viên đá mang tên ai, người đó thắng.
2/ Phúc Âm: Điều quan trọng nhất cho các môn đệ là giữ giới luật yêu thương.
Con người có thể suy diễn rất nhiều lý do đưa đến sự phản bội của Judah; nhưng lý do chính yếu của sự phản bội là không có tình yêu. Tất cả những tật xấu trong con người của Judah đều có thể sửa chữa, nếu ông để cho tình yêu của Chúa Giêsu thấm nhập vào.
2.1/ Tình yêu Thiên Chúa: Có ít nhất 3 loại tình yêu tương xứng với 3 danh từ trong tiếng Hy-lạp: (1) tình dục (eros), như tình yêu giữa nam nữ, khi họ tìm thấy nét quyến dũ của người khác; (2) tình cảm tự nhiên như những người trong gia đình (philê) hay tình anh em (philadelphia); và (3) tình bác ái ('agapê), tình yêu này chỉ có trong khuôn khổ của Kitô Giáo.
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến tình bác ái, khi Ngài nói: "Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy." Các môn đệ của Chúa phải ở lại hay phải được nuôi dưỡng trong tình yêu này trước khi có thể làm những điều Thiên Chúa truyền.
Cách để ở lại trong tình yêu Thiên Chúa là thi hành các điều răn của Ngài: "Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người." Tình yêu không được tách khỏi sự vâng lời: Như Chúa Giêsu yêu Chúa Cha và vâng lời tất cả những gì Chúa Cha muốn; con người cũng phải tỏ tình yêu của mình cho Chúa Giêsu bằng cách vâng lời tất cả các giới răn Chúa đã dạy.
Một điều con người thường quan niệm sai: giữ các giới răn của người khác làm cho họ ra yếu nhược và giới hạn tự do của họ; nhưng họ quên đi một điều là họ không biết hết tất cả như Thiên Chúa. Ngài biết những gì tốt hay xấu cho con người mà chính con người không biết. Khi Ngài truyền cho con người giữ các giới răn như khi Ngài ban hành Thập Giới cho con người qua Moses, người Do-thái rất hãnh diện vì Thập Giới, vì không một dân tộc nào được thần minh của họ thân hành dạy dỗ như Thiên Chúa. Họ biết những điều mà các dân tộc khác không biết; và do đó tránh được các tội lỗi và hậu quả xấu xa mà các dân tộc khác mắc phải. Vì thế, giữ các giới răn Chúa truyền phải là một niềm vui và hãnh diện, như Chúa Giêsu quả quyết: "Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn."
Điều răn quan trọng nhất mà Chúa Giêsu mặc khải cho các Tông-đồ (và tất cả các môn đệ của Ngài) phải giữ là: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình." Chỉ khi nào người môn đệ thấm nhuần tình yêu Thiên Chúa, họ mới có thể đáp ứng lại nguyện vọng của Chúa Giêsu: "sẵn sàng hy sinh mạng sống vì anh em," như Ngài đã hy sinh mạng sống cho con người.
2.2/ Chúa Giêsu chọn các Tông-đồ làm bạn hữu: Đây là điều mà trong giấc mơ, các môn đệ cũng không dám mơ tới. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà lại muốn trở nên bạn hữu ngang hàng với con người. Chúa Giêsu là Thầy mà lại coi học trò như bạn hữu của mình. Chúa Giêsu chỉ đòi các ông một điều kiện: "Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy." Như vậy, khi con người giữ các giới răn Chúa dạy, con người yêu mến Chúa và trở nên bạn hữu của Ngài. Chúa chứng tỏ Ngài coi các ông là bạn hữu trước khi các ông giữ các giới răn: "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết." Các ông đã biết tất cả những gì Ngài làm, vì Ngài đã mặc khải và dạy dỗ các ông mọi điều.
2.3/ Chúa Giêsu chọn các Tông-đồ, không phải các ông chọn Ngài trước: Con người cần nhớ rõ điều này: Thiên Chúa luôn là người khởi sự trong tình yêu, trong sự tạo dựng, trong sự dạy dỗ và ban ơn Cứu Độ, trong sự chọn lựa và sai đi như Chúa Giêsu xác nhận: "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ qua rất nhiều biến cố trong cuộc đời: tạo dựng, quan phòng, cứu chuộc, thánh hóa, chọn và sai đi.
- Chúng ta phải đáp lại tình yêu Thiên Chúa qua việc vâng lời giữ tất cả các điều răn Ngài truyền. Vâng lời các điều Chúa truyền dạy sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả các tật xấu và hậu quả của nó, để không bao giờ phải lâm vào tình trạng như của Judah.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần VI PS
Bài đọc: Acts 17:15, 22-34, 18:1; Jn 16:12-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa và các hoạt động của Ngài.
Thiên Chúa là sự thật, và Ngài đã tỏ mình ra cho con người qua việc tạo dựng, quan phòng, và các mặc khải trong Kinh Thánh. Các Bài Đọc hôm nay nhấn mạnh đến khả năng của con người có thể hiểu những sự thật của Thiên Chúa. Bài Đọc I tường thuật Bài Giảng của Phaolô cho dân thành Athens. Phaolô bắt đầu từ niềm tin và lòng kính sợ Thiên Chúa của họ; để dẫn dắt họ đến nhu cầu cần phải tin vào Đức Kitô và ăn năn xám hối, để được sống lại đời đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho các môn đệ về sự cần thiết của Thánh Thần, mà Ngài sẽ xin Chúa Cha gởi tới cho các ông. Ngài sẽ soi sáng cho các ông hiểu tất cả những gì Chúa Giêsu nói, và giúp các ông hiểu biết mọi sự thật.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài giảng của Phaolô cho người Hy-lạp tại Areopagus, Athens
1.1/ Phaolô bắt đầu từ văn hóa Hy-lạp: Để việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả, nhà rao giảng cần hiểu biết phong tục và văn hóa của những nơi mà Lời Chúa được gieo vào. Truyền thống Hy-lạp thờ rất nhiều thần và văn hóa Hy-lạp đặc biệt chú trọng đến sự khôn ngoan. Các thần của Hy-lạp đều được điêu khắc rất đẹp và đều có đền thờ riêng tùy địa phương tôn sùng. Sự khôn ngoan của văn hóa Hy-lạp được bày tỏ qua các triết gia và triết học của họ. Areopagus là nơi những người Hy-lạp khôn ngoan thường tụ tập để tìm hiểu những triết thuyết của thế giới. Phaolô biết rõ những điều này, và ông đã can đảm và chuẩn bị chu đáo để gieo Tin Mừng vào những người đang tìm kiếm sự khôn ngoan. Đứng giữa Hội đồng Areopagus, ông Phaolô khen đức tính tôn kính các thần của họ và dùng đức tính này để bắt đầu rao giảng Tin Mừng: "Thưa quý vị người Athens, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: "Kính thần vô danh." Vậy, Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị."
1.2/ Nội dung chính của bài giảng của Phaolô: Phaolô khôn ngoan bắt đầu với những điểm tương đồng mà khán giả của ông dễ chấp nhận, trước khi tiết tới những điểm đặc thù của Kitô Giáo: "Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ và muôn loài trong đó, Đấng là Chúa Tể trời đất, không ngự trong những đền do tay con người làm nên. Người cũng không cần được bàn tay con người phục vụ, như thể Người thiếu thốn cái gì, vì Người ban cho mọi loài sự sống, hơi thở và mọi sự."
(1) Con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa: Phaolô nhấn mạnh đến việc thiên nhiên mặc khải sự hiện hữu và quan phòng của Thiên Chúa: Nếu con người chịu quan sát và học hỏi nơi thiên nhiên, họ sẽ nhận ra sự hiện hữu của Ngài: "Từ một người duy nhất, Thiên Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất; Người đã vạch ra những thời kỳ nhất định và những ranh giới cho nơi ở của họ. Như vậy là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng thực sự Người không ở xa mỗi người chúng ta."
- Nhu cầu phải hiểu biết đúng về Thiên Chúa: "Thật vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu, như một số thi sĩ của quý vị đã nói: "Chúng ta cũng thuộc dòng giống của Người."
- Đả kích tội thờ bụt thần: "Vậy, vì là dòng giống Thiên Chúa, chúng ta không được nghĩ rằng thần linh giống như hình tượng do nghệ thuật và tài trí con người chạm trổ trên vàng, bạc hay đá.
(2) Nhu cầu phải xám hối, sự xét xử, và sự sống lại: Đây là đích điểm mà Phaolô muốn nhắm tới, vì ông biết truyền thống Hy-lạp không tin nhu cầu phải xám hối và sự sống lại. Trước tiên Phaolô muốn họ ý thức về thực tại của tội, con người phạm tội vì không nhận biết Thiên Chúa dù Ngài đã tỏ mình cho con người trong thiên nhiên: "Vậy mà Thiên Chúa nhắm mắt bỏ qua những thời đại người ta không nhận biết Người. Bây giờ Người truyền cho người ta rằng mọi người ở mọi nơi phải sám hối."
+ Đa số người Hy-lạp thời đó không tin nhu cầu cần xám hối, vì họ tin Thiên Chúa không thay đổi: nếu Ngài thay đổi để tha thứ tội cho con người, Ngài không còn là Thiên Chúa nữa.
+ Họ cũng chẳng tin việc Thiên Chúa xét xử, vì họ không tin có đời sau và vì Thiên Chúa không bao giờ thay đổi.
+ Sự sống lại: Truyền thống Hy-lạp, đặc biệt những người Epicureans, không tin có sự sống lại. Đối với họ, chết là hết; sự chết lấy đi tất cả những gì con người sở hữu. Nên khi vừa nghe nói đến người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói: "Để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói về vấn đề ấy." Thế là ông Phaolô bỏ họ mà đi.
Kết quả của sự rao giảng của Phaolô tại Athens: Sách CVTĐ tường thuật: "Nhưng có mấy người đã theo ông và tin Chúa, trong số đó có ông Dionysius, thành viên Hội-đồng Areopagus và một phụ nữ tên là Damaris cùng những người khác nữa."
2/ Phúc Âm: Con người có khả năng để hiểu biết những mặc khải của Thiên Chúa.
2.1/ Mặc khải của Thiên Chúa phải tiệm tiến theo thời gian vì sự hiểu biết của con người giới hạn: Chúa Giêsu biết rõ điều này, nên Ngài tâm sự với các ông: "Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi." Không như Thiên Chúa, Đấng có khôn ngoan và quyền năng biết tất cả mọi sự một lúc, con người cần có thời gian để học biết những điều căn bản, trước khi có thể hiểu những chân lý cao siêu hơn. Ví dụ, một học sinh phải qua các cấp bậc tiểu học, trung học, đại học, và cao học. Trong việc mặc khải các mầu nhiệm của Thiên Chúa cho con người cũng thế: bắt đầu từ mầu nhiệm một Thiên Chúa, Đấng tạo thành và điều khiển muôn lòai trong Cựu Ước; để chuẩn bị cho Đức Kitô đến qua mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc trong Tân Ước; trước khi tiến đến mầu nhiệm Chúa Thánh Thần và các công việc của Ngài, như Chúa Giêsu đề cập tới hôm nay.
2.2/ Mặc khải toàn vẹn của Thánh Thần: Chúa Giêsu hứa với các môn đệ: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới Tất cả sự thật (toàn vẹn). Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến."
(1) Mặc khải đến từ Thiên Chúa: Trước tiên con người cần biết: Tất cả sự thật đến từ Thiên Chúa. Con người không sở hữu sự thật, nhưng chỉ khám phá ra sự thật, nó là quà tặng của Thiên Chúa cho con người. Con người cũng không phát minh ra sự thật, nhưng sự thật đã có sẵn trong trời đất và chờ đợi để con người khám phá và hiểu biết nó. Nói tóm, chỉ một mình Thiên Chúa sở hữu sự thật.
(2) Thánh Thần sẽ làm cho con người hiểu những gì Chúa Giêsu mặc khải: Đây cũng là nền tảng của việc mặc khải về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: "Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em." Cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều cộng tác trong việc làm cho con người hiểu thấu các mầu nhiệm của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta được Thiên Chúa ban cho có khả năng để tìm ra và nhận biết sự thật; nhất là nhận ra Thiên Chúa, Đấng là sự thật trên hết các sự thật.
- Sự thật của Kitô Giáo không đến với con người qua những suy niệm trừu tượng; nhưng qua một con người sống động là Đức Kitô, và sự hướng dẫn từ trong tâm hồn của Chúa Thánh Thần. Vì thế, khi con người càng sống gần gũi với Chúa Giêsu và để Thánh Thần soi sáng, con người càng khám phá ra sự thật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần VI PS
Bài đọc: Acts 16:22-34; Jn 16:5-11.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hiệu quả của đức tin
Đứng trước đau khổ, con người có những phản ứng khác nhau, tùy theo những gì họ tin hay không tin vào Thiên Chúa. Người có đức tin sẽ nhìn đau khổ như một cơ hội luyện tập để đức tin của họ càng ngày càng trở nên vững mạnh hơn. Vì thế, họ coi thường đau khổ, vẫn sống an bình vì họ luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa. Ngược lại, người không có đức tin sẽ tìm mọi cách để trốn tránh đau khổ; và nếu không tránh được, họ sẽ kêu trách, ta thán, và ngay cả tìm cách kết liễu cuộc đời để khỏi phải chịu đau khổ.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy những thái độ khác nhau này. Trong Bài Đọc I, Phaolô và Silas, tuy bị cáo gian, đánh đòn, và bị xiềng xích trong ngục, các ông vẫn vui tươi, tin tưởng, và hát thánh ca chúc tụng Thiên Chúa. Ngược lại, viên cai ngục lại lo lắng đến độ súyt kết liễu đời mình, vì thấy cửa ngục bị mở tung và tưởng rằng hai ông đã trốn thoát. Hai ông phải lên tiếng báo cho ông ấy biết mình vẫn còn trong ngục, ông ấy mới thôi không kết liễu đời mình. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu thấy các môn đệ quá đỗi ưu phiền về những gì sắp xảy ra, Ngài hứa sẽ gởi cho các ông một Đấng Bảo Trợ khác là Thánh Thần. Đấng này sẽ làm việc trong các ông, giúp các ông nhận ra sự thật toàn vẹn, và an ủi các ông khi gặp các gian nan khốn khó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức tin là sự khác biệt trong lúc nguy nan đau khổ.
1.1/ Thái độ của hai ông trước cực hình: Sở dĩ hai ông bị chống đối là vì Phaolô đã nhân danh Đức Kitô truyền lệnh cho quỉ phải xuất khỏi người tớ gái, vì cô này luôn đi theo hai ông để nói cho mọi người biết hai ông là đầy tớ của Thiên Chúa Tối Cao, và sẽ chỉ cho mọi người biết con đường cứu độ. Khi chủ của cô biết quỉ đã xuất khỏi cô, và cô không còn sinh lợi cho hắn bằng cách nói tiên tri nữa; ông kích thích đám đông để có cớ buộc tội hai ông.
Sách CVTĐ tường thuật: "Đám đông nổi lên chống hai ông. Các quan toà, sau khi đã cho lột áo hai ông, thì ra lệnh đánh đòn. Khi đã đánh nhừ tử, họ tống hai ông vào ngục, và truyền cho viên cai ngục phải canh giữ cẩn thận. Được lệnh đó, người này tống hai ông vào phòng giam sâu nhất và cùm chân lại." Sau một trận đòn dã man như thế, hai ông vẫn không một lời kêu la hay than trách. Trái lại, vào quãng nửa đêm, ông Phaolô và ông Silas hát thánh ca cầu nguyện với Thiên Chúa. Các người tù nghe hai ông hát và có lẽ họ rất ngạc nhiên khi thấy những điều này.
Bỗng nhiên có động đất mạnh, khiến nền móng nhà tù phải rung chuyển. Ngay lúc đó, tất cả các cửa mở toang và xiềng xích của mọi người vuột tung ra.
1.2/ Thái độ của viên cai ngục: Viên cai ngục choàng dậy và thấy các cửa ngục mở toang, liền rút gươm định tự tử, vì tưởng rằng các người tù đã trốn đi. Thấy hành động của viên cai ngục, ông Phaolô vội lớn tiếng bảo: "Ông chớ hại mình làm chi: chúng tôi còn cả đây mà!"
Viên cai ngục bảo lấy đèn, nhảy bổ vào, run rẩy sấp mình dưới chân ông Phaolô và ông Silas, rồi đưa hai ông ra ngoài và nói: "Thưa các ngài, tôi phải làm gì để được cứu độ?" Hai ông đáp: "Hãy tin vào Chúa Giêsu, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ." Hai ông liền giảng Lời Chúa cho viên cai ngục cùng mọi người trong nhà ông ấy.
Sự kiện động đất nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài muốn cho viên cai ngục có cơ hội để nghe hai ông rao giảng Tin Mừng ngay trong ngục thất, và hai ông đã không bỏ lỡ cơ hội này. Ai có thể ngờ viên cai ngục có thể nghe Tin Mừng trong khi canh giữ tù nhân; nhưng chẳng có gì là không thể đối với Thiên Chúa!
Ngay lúc đó, giữa ban đêm, viên cai ngục đem hai ông đi, rửa các vết thương, và lập tức ông ấy được chịu Phép Rửa cùng với tất cả người nhà. Rồi ông ấy đưa hai ông lên nhà, dọn bàn ăn. Ông và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Thánh Thần sẽ chứng minh ba tội của thế gian.
2.1/ Chúa Giêsu sẽ gởi Đấng Bảo Trợ đến với các môn đệ: Chúa Giêsu mặc khải Kế họach của Thiên Chúa cho các môn đệ: "Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em."
2.2/ Thánh Thần sẽ minh chứng thế gian 3 điều sai lầm: "Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử:"
(1) Về tội lỗi: vì chúng không tin vào Thầy. Tội duy nhất theo Gioan là tội không tin vào Đức Kitô, Người được Thiên Chúa sai đến. Thánh Thần sẽ chứng thực Đức Kitô là Con Thiên Chúa.
(2) Về sự công chính: vì Thầy đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa. Thế gian tưởng Chúa Giêsu là tội nhân khi nhìn thấy Ngài chịu chết treo trên Thập Giá. Bằng sự Phục Sinh của Đức Kitô, Thánh Thần chứng minh cho thế gian biết Ngài tự nguyện chịu khổ hình, Người công chính chết thay cho các tội nhân là tất cả con người.
(3) Về việc xét xử: vì Thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử rồi. Các Thủ Lãnh Do-thái nghĩ họ làm đẹp lòng Thiên Chúa bằng việc đóng đinh Chúa Giêsu vào Thập Giá. Thủ Lãnh Rôma nghĩ ông đã giết Chúa Giêsu để đẹp lòng người Do-thái. Thánh Thần sẽ minh chứng cho họ biết họ đã sai lầm to khi luận tội và giết Đức Kitô, người Tôi Trung của Thiên Chúa.
Cả ba điều này đều liên quan đến nhau: thế gian phạm tội giết con Thiên Chúa vì không tin vào Ngài là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa. Ngài là Đấng Công Chính không bao giờ phạm tội; nhưng muốn gánh tội cho con người. Thế gian đã sai lầm khi luận tội và giết Con Thiên Chúa. Vì thế, họ đã phạm ba tội cùng một lúc khi giết Con Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Người Công-giáo chúng ta có một món quà vô giá là đức tin vào Thiên Chúa. Chính đức tin này sẽ giúp chúng ta bình an trong đau khổ, vui tươi khi hoạn nạn, và lạc quan vui sống.
- Chúng ta luôn sống trong sự quan phòng và bảo vệ của Thiên Chúa. Tuy Ngài để chúng ta phải chịu thử thách để tôi luyện đức tin, nhưng luôn ban mọi sức mạnh cần thiết đủ để giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách của cuộc đời.
- Chúng ta phải luôn ý thức sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn, để luôn biết lắng nghe và làm theo những gì Ngài hướng dẫn. Ngài sẽ thêm sức cho chúng ta để chống lại mọi đe dọa nguy hiểm của thế gian và ma quỉ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 11/5 Vinh quang và đau khổ cần thiết cho cuộc đời
- 10/5 Thiên Chúa là tình yêu
- 10/5 Đạo yêu thương
- 09/5 Thánh Thần giúp con người biết khôn ngoan giải quyết vấn đề
- 08/5 Yêu thương là chìa khóa để tồn tại
- 07/5 Những gì là cốt tủy của Kitô Giáo
- 06/5 Điều gì là điều khẩn thiết của Kitô Giáo?
- 05/5 Phải qua gian khổ mới đạt tới vinh quang
- 04/5 Hoạt động dưới ảnh hưởng của Ba Ngôi Thiên Chúa
- 03/5 Hiệp nhất trong Thiên Chúa và trong Giáo Hội