Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 9 TN1, Năm B
Bài đọc: Tob 1:3, 2:1-9; Mk 12:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Có cần phải ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày trong cuộc đời?
Nhiều người cho là không, vì những lý do "cụ thể" sau đây:
(1) Óc "thực tiễn:" Đòi hỏi của Thiên Chúa quá khó khăn, họ phải làm những gì vượt sức con người. Họ đang sống trong "thế gian," chứ có gọi là "thế ngay" đâu? Nếu họ làm như thế, họ trở thành "thánh" mất rồi, mà họ còn đang muốn làm người. Họ quên đi đòi hỏi của Chúa: Hãy sống thánh thiện như Cha của các con trên trời là Đấng Thánh. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa truyền những gì vượt sức con người, Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa, vì Ngài bắt con người làm điều không thể.
(2) Óc "khiêm nhường giả tạo:" Họ đang sống trong một xã hội mà chẳng ai làm như thế; không muốn sống khác người. Họ muốn sống như một người tầm thường, ẩn dật để không ai biết tới. Nhưng Thiên Chúa đòi hỏi họ: Giữa một thế hệ gian tà và sa đọa, họ phải chiếu sáng như những vì sao sáng cho thế gian. Nếu họ không dám sống chứng nhân như đòi hỏi của người Kitô hữu, họ cũng không có quyền đòi được hưởng những ân huệ Chúa dành cho các chứng nhân.
(3) Óc "kinh doanh, nhỏ mọn:" Làm gì cũng phải có lợi nhuận trước mắt. Khi làm việc phúc đức, không biết Chúa có biết hay không? Nếu biết, Chúa có thưởng cho điều gì ngay không? Người kinh doanh khôn ngoan không nhắm lợi nhuận tạm thời trước mắt; nhưng những giá trị vĩnh cửu. Đúng ra, họ chẳng bao giờ có thể sống công bằng với Chúa, vì Người đã làm cho họ vượt quá những gì họ có thể thấy. Hơn nữa, họ không nhìn thấy phần thưởng của những người làm theo ý Chúa trong tương lai.
(4) Óc "hài hòa, thông cảm:" Chúa biết con người yếu đuối nên Ngài sẵn lòng tha thứ mọi khuyết điểm. Vì thế, cứ việc sống không vâng phục; khi nào tiện, vào tòa giải tội một lần là xong. Nếu Thiên Chúa khó quá, ai có thể vào Nước Trời được. Nếu sự thực Chúa khó như vậy, chết cả đám như phần đông nhân loại cũng được!
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sống trong nơi lưu đày, gia đình Tobit vẫn kính sợ và giữ Luật Thiên Chúa.
1.1/ Tobit dạy con: cho kẻ đói ăn. Ông Tobit là người Do-thái bị lưu đày qua Nineveh, Babylon. Sống trong hoàn cảnh nghiệt ngã của nơi lưu đày, đa số đã óan trách Thiên Chúa và không giữ Lề Luật của Ngài; nhưng Tobit vẫn cố gắng ăn ở theo sự thật và lẽ ngay. Ông đã từng rộng tay bố thí cho anh em và đồng bào, những người cùng đi đày với ông. Dưới triều vua Esarhaddon, ông được trở về nhà. Người ta đã trả lại cho ông Anna, vợ ông, và Tôbia, con trai ông. Trong ngày lễ Các Tuần, người ta dọn cho ông một bữa ăn ngon.
(1) Phản ứng của ông Tobit: Khi thấy người ta bày bàn, dọn cho mình nhiều món, Tobit nói với Tôbia, con ông: "Con ơi, con hãy đi tìm trong số các anh em chúng ta bị đày ở Nineveh, một người nghèo hết lòng tưởng nhớ Thiên Chúa, rồi dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha. Này, con ơi, cha đợi con cho đến khi con về."
+ Có đau mắt mới biết thương người mù: Ông Tobit đã có kinh nghiệm đói khát nơi lưu đày Nineveh nên ông nghĩ đến những người đói khổ, và muốn họ cùng chia sẻ hạnh phúc có của ăn ngon với ông.
+ Ông là người biết kính sợ Thiên Chúa và muốn thực thi những gì Ngài dạy: Con người phải biết chia cơm sẻ áo cho những người nghèo khó. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đã từng nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại." Làm cho những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù là làm cho chính Chúa; và như thế, mới xứng đáng được hưởng phúc lành trong Ngày Tận Thế.
(2) Phản ứng của hầu hết con người sẽ như sau:
+ Không nên làm như thế vì phải chờ đợi! và không được thưởng thức ngay những món ăn ngon còn nóng sốt, làm phí của Thiên Chúa ban cho!
+ Không nên làm như thế vì phải vất vả đi tìm người nghèo. Cứ việc ăn trước, sau này khi gặp người nghèo cho họ vài đồng là xong!
+ Không nên làm như thế vì đồ ăn ngon còn phải tùy thuộc vào bạn hiền và chỗ ăn nữa. Người nghèo là khách lạ mình có biết tính khí họ làm sao? Trên hết mọi sự, mình phải chịu đựng những "mùi" của người nghèo; không biết khi chịu rồi, có còn muốn ăn nữa hay không!
1.2/ Tobit dạy con: chôn xác kẻ chết. Tôbia vâng lời cha ra đi, tìm một người nghèo trong số các anh em chúng tôi. Khi trở về, nó nói: "Cha ơi!" Tôi bảo nó: "Cha đây, con." Nó trả lời: "Thưa cha, có một người trong đồng bào chúng ta đã bị giết và quăng ngoài chợ, là nơi bây giờ người ấy còn đang bị thắt cổ."
(1) Phản ứng của ông Tobit: Tobit liền chồm dậy, bỏ cả ăn, chẳng kịp nếm chút gì. Ông đem người ấy ra khỏi quảng trường và đặt trong một căn nhà nhỏ, chờ lúc mặt trời lặn sẽ đem chôn. Khi trở về nhà, ông tắm rửa, rồi ăn uống mà lòng cảm thấy ưu sầu tang tóc. Ông nhớ lại lời ngôn sứ Amos đã nói về Bethel rằng: "Những ngày lễ của các ngươi sẽ biến thành tang tóc, mọi bài hát của các ngươi sẽ nên khúc ai ca." Khi mặt trời lặn, ông đào huyệt chôn người ấy.
(2) Phản ứng của con người: Láng giềng nhạo cười tôi rằng: "Hắn vẫn còn chưa sợ! Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã trốn đi, thế mà hắn lại vẫn chôn cất người chết!"
2/ Phúc Âm: Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác.
Để dẫn chứng sự bất công và chống lại Thiên Chúa của những người trong THĐ, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: "Có người kia trồng được một vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp.
2.1/ Hành động của các tá điền: Đã không nộp hoa lợi thì chớ, họ còn bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai một đầy tớ khác đến với họ. Họ đánh vào đầu anh ta và hạ nhục. Ông sai một người khác nữa, họ cũng giết luôn. Rồi ông lại sai nhiều người khác: kẻ thì họ đánh, người thì họ giết. Ông chỉ còn một người nữa là người con yêu dấu: người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ; ông nói: "Chúng sẽ nể con ta." Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau: "Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta." Thế là họ bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho. Tại sao các tá điền hành động như thế?
+ Trước tiên, họ khinh thường Lề Luật của Thiên Chúa và của loài người, hay họ nghĩ lấy của nhà giàu không có tội. Họ là những người dân nghèo và nghĩ Thiên Chúa sẽ đứng về phía họ.
+ Họ không biết ông chủ phải vắng mặt đi xa; không biết ông có còn sống không hay chết rồi! Những tên đầy tớ dụng danh ông chủ để bắt chẹt họ và thu hoa lợi.
2.2/ Hành động của ông chủ: Ác giả ác báo! Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác. Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta! Họ tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng; quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là họ để Người lại đó mà đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cố gắng ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày trong cuộc đời. Trường hợp không thể vì yếu đuối con người, Thiên Chúa thấu hiểu những cố gắng của chúng ta. Hơn nữa, chúng ta phải nhắm tới điều thiện hảo và niềm vui khi sống theo những gì Chúa muốn.
- Cố gắng sống theo sự thật là cách chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa và biến đổi thế giới chung quanh. Sống theo trào lưu của thế gian là chúng ta đã bị thế gian đồng hóa bởi họ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
“VINH DỰ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA KẺ LÀM CON THIÊN CHÚA’’
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM B (31/05/2015)
[Đnl 4,32-34.39-40; Rm 8,14-17; Mt 28, 16-20]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Có hai tình trạng đáng mọi Ki-tô hữu phải suy nghĩ: Tình trạng thứ nhất là dường
như trên thế giới này càng ngày càng có nhiều người chối bỏ hay làm ngơ không
quan tâm gì tới Thiên Chúa. Tình trạng thứ hai là trong Giáo Hội có khá nhiều giáo
dân không cảm nghiệm được niềm hạnh phúc và vinh dự được làm con Thiên Chúa!
Vậy xin trân trọng kính mời các bạn hãy đọc thật kỹ ba bài Sách Thánh của Lễ Chúa
Ba Ngôi hôm nay và suy đi nghĩ lại trong lòng để cảm nghiệm được ơn phúc mà
Thiên Chúa Ba Ngôi đã khứng ban cho các bạn và tôi, để từ đó chúng ta đem hết
thiện chí và khả năng ra làm chứng cho Thiên Chúa là Cha của chúng ta và của mọi
người cũng như của mọi dân tộc.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Đnl 4,32-34.39-40): Trên trời cao cũng như dưới đất thấp,
chính Đức Chúa là Thiên Chúa, và ngoài Người ra không có thần nào khác.
32 Khi ấy ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en rằng: Anh (em) cứ hỏi những thời xa xưa,
thời có trước anh (em), từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi
từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay
có ai đã nghe điều giống như vậy chăng? 33 Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên
Chúa phán từ trong đám lửa như anh (em) đã nghe, mà vẫn còn sống không? 34 Hoặc
có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác,
đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh
mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đởm, như Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã
làm cho anh em tại Ai Cập, trước mắt anh (em) không?
39 Vậy hôm nay, anh (em) phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao cũng
như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa.
40 Anh (em) phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền
cho anh (em); như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này sẽ được hạnh phúc,
và anh (em) sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), vĩnh
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 8,14-17): Anh em đã lãnh nhận Thần Khí làm cho anh
em nên nghĩa tử nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!”
14 Thưa anh em, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái
Thiên Chúa. 15 Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở
thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử,
nhờ đó chúng ta được kêu lên: "Áp-ba! Cha ơi! " 16 Chính Thần Khí chứng thực cho
thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. 17 Vậy đã là con, thì cũng là
thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô; vì
một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 28,16-20): Anh em hãy làm phép rửa cho muôn
dân nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
16 Khi ấy mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền
cho các ông đến. 17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài
nghi. 18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: "Thầy đã được trao toàn quyền trên
trời dưới đất. 19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép
rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, 20 dạy bảo họ tuân
giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa:
1o) Bài đọc 1 (Đnl 4,32-34.39-40) là những lời của ông Mô-sê thuyết phục những
người dân Ít-ra-en nổi tiếng là “cứng đầu cứng cố” để họ nhận ra những kỳ công mà
Thiên Chúa đã làm cho họ mà trung tín tôn thờ một mình Người. Quả thật Thiên
Chúa đã chọn họ làm dân riêng, đã cho họ thấy quyền năng và vinh quang cao cả
của Người trong cuộc giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai-cập cũng như đã cho họ thấy
Người trong bụi gai bốc cháy. Đáp lại dân Ít-ra-en luôn sẵn sàng lãng quên những
công ơn và tình yêu thương của Thiên Chúa và nghi ngờ Người mà đi tìm các ‘thần
2o) Bài đọc 2 (Rm 8,14-17) là một đoạn của thư của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-
ma, trong đó Thánh Tông đồ khẳng định những ai được Thần Khí Thiên Chúa
hướng dẫn thì là con Thiên Chúa. Mà một khi đã là con Thiên Chúa thì có quyền gọi
Thiên Chúa là Cha: “Cha ơi = Áp-ba” và được sống trong tự do, không còn sợ sệt
chi nữa. Một khi đã là con Thiên Chúa thì cũng là người thừa kế của Thiên Chúa, là
đồng thừa kế với Chúa Giê-su Ki-tô nên sẽ được hưởng công nghiệp và vinh quang
3o) Bài Tin Mừng (Mt 28,16-20) là tường thuật của Thánh Mát-thêu Tông đồ về
lần hiện ra của Chúa Giê-su Phục Sinh ở Ga-li-lê. Trong lần hiện ra này, Chúa Giê-
su sai các môn đệ đi đến với muôn dân để làm cho họ trở thành môn đệ của Người,
để làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Một
Chúa Ba Ngôi) và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Chúa Giê-su đã dạy. Chúa Giê-su
khẳng định với các môn đệ quyền năng (trên trời dưới đất) của Người và hứa sẽ ở
cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là các Ki-tô hữu phải biết nhận ra hồng ân cao cả
Thiên Chúa Ba Ngôi đã ban cho mình mà cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng và lấy làm
* Chúa Cha đã chọn chúng ta làm dân riêng, đã giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ,
đã tỏ mình ra với chúng ta trong sa mạc.
* Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn chúng ta và cho chúng ta được làm con cái của
Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha và quyền sống tư cách của một con
người tự do. Là con Thiên Chúa cũng là kẻ thừa kế của Thiên Chúa và là đồng thừa
kế công nghiệp cứu độ của Chúa Giê-su Ki-tô.
* Chúa Giê-su Ki-tô đã chọn chúng ta làm môn đệ và đã sai chúng ta đến với muôn
dân để giúp họ trở thành môn đệ của Người, sống căn tính hay ơn gọi môn đệ
(discipleship) Chúa Giê-su Ki-tô như chúng ta. Người cũng chọn và sai chúng ta
làm phép rửa cho những ai nhận biết và tin theo Người. Chúa Giê-su Ki-tô hứa luôn
ở bên chúng ta và đồng hành với chúng ta trong cuộc sống và trong sứ mạng được
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần (Chúa Ba Ngôi) Đấng muốn
và làm cho chúng ta thành con của Người và sống tình thảo kính với Người.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta sống VINH DỰ & TƯ CÁCH của
những kẻ làm CON Thiên Chúa Ba Ngôi (Cha, Con và Thánh Thần):
* Làm con Thiên Chúa thì sống thảo hiếu phụng thờ Thiên Chúa, và chỉ tôn thờ một
mình Thiên Chúa mà thôi và xem nhẹ coi khinh mọi thứ khác (chức quyền, danh
vọng, của cải, lạc thú) trên đời này.
* Làm con Thiên Chúa thì có lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao và tình thương
mà Thiên Chúa thực hiện và dành cho chúng ta.
* Làm con Thiên Chúa thì biết tuân theo mệnh lệnh của Chúa Giê-su Ki-tô mà đến
với lương dân để giúp họ trở thành môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô và rửa tội cho họ
nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
Cách thứ nhất: (Lời nguyện cộng đồng):
5.1 «Vậy hôm nay, anh (em) phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao
cũng như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào
khác nữa.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho ngày càng có nhiều người nhận ra
Chúa là Thiên Chúa duy nhất.
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.2 «Anh (em) phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi
truyền cho anh (em); như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này sẽ được hạnh
phúc, và anh (em) sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), vĩnh viễn ban cho anh (em).» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả các Ki-
tô hữu biết tuân giữ thánh chỉ và mệnh lệnh của Chúa để được hạnh phúc thật mà
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.3 «Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô
lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó
chúng ta được kêu lên: "Áp-ba! Cha ơi!» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả
các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta để mọi người cảm nhận được Tình
Cha của Thiên Chúa mà sống và chuyện trò với Chúa như một người con nhỏ của
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.4 «Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.»
Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho càng ngày càng có nhiều Ki-tô hữu dấn thân vào
cánh đồng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giúp các tân tòng trở thành môn đệ
của Chúa Ki-tô Giê-su!
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.5 «Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện
cho chính chúng ta được ơn tin tưởng phó thác vào sự hiện diện thần linh và quyền
năng của Chúa Ki-tô trong đời sống và hoạt động tông đồ của chúng ta.
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
Cách thứ hai: (Lời nguyện cá nhân):
1. Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã
chọn chúng con làm DÂN RIÊNG của Cha! Xin Cha giúp chúng con sống trọn vẹn
tư cách là DÂN RIÊNG của Cha giữa lòng thế giới “vừa vô thần mà lại vừa đa thần”
2. Lạy Thánh Thần Thiên Chúa, chúng con chúc tụng, ngợi khen Chúa và cảm tạ, vì
Chúa đã làm cho chúng con trở nên CON CÁI của Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên
Chúa là Cha và quyền đồng thừa kế công trình cứu độ của Chúa Giê-su Ki-tô. Xin
Thần Khí Chúa giúp chúng con sống trọn tư cách là CON CÁI Thiên Chúa, là đồng
thừa kế của Chúa Giê-su Ki-tô giữa lòng thế giới “ngỗ nghịch và bất hiếu” của ngày
3. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa
đã chọn chúng con làm MÔN ĐỆ của Chúa, đã sai chúng con đến với lương dân để
giúp họ trở thành môn đệ của Chúa. Chúa cũng đã hứa ở cùng chúng con mọi ngày
cho đến tận thế! Xin Chúa ban cho chúng con LÒNG TIN, SỨC MẠNH & SỰ
KHÔN NGOAN để chúng con chu toàn mệnh lệnh của Chúa giữa lòng thế giới “vô
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 8 TN1, Năm B
Bài đọc: Sir 51:12c-20; Mk 11:27-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khôn ngoan là luôn biết và sống theo sự thật.
Khôn ngoan là một nhân đức trong bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần ban cho con người khi họ chịu bí-tích Rửa Tội và Thêm Sức. Giống như tất cả các nhân đức, khôn ngoan được ví như hạt giống có đầy đủ tiềm năng, con người phải luyện tập thì nhân đức mới phát triển được; nếu không chịu luyện tập, con người có thể mất nó. Nhân đức khôn ngoan giúp con người nhận ra các sự thật của Thiên Chúa và mau mắn thi hành.
Các bài đọc hôm nay tập trung trong nhân đức khôn ngoan: làm sao để tìm được và thi hành khôn ngoan. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca cho độc giả những cái nhìn rất thâm sâu về Đức Khôn Ngoan: nó là một tiến trình của cả đời người, con người phải cầu nguyện mới có, con người phải thực hành những gì học được, giữ luật Thiên Chúa, và nhất là phải biết giữ tâm hồn trong sạch mới sở hữu được Đức Khôn Ngoan. Trong Phúc Âm, các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến chất vấn Chúa Giêsu lý do tại sao Người đánh đuổi các con buôn ra khỏi Đền Thờ. Chúa đặt cho họ một câu hỏi để thử xem họ có thành thật muốn đi tìm sự thật không; nhưng khi thấu hiểu thâm tâm gian dối của họ, Ngài không trả lời cho họ biết sự thật.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Khi giữ mình trong sạch, tôi tìm được đức khôn ngoan.
1.1/ Kiên trung tìm kiếm Đức Khôn Ngoan: Vì khôn ngoan đến từ Thiên Chúa, chứ không đến từ con người; vì vậy, để có được khôn ngoan, con người phải thành tâm cầu nguyện, thì Thiên Chúa mới ban cho con người. Tác giả nói về kinh nghiệm của mình như sau: "Thời còn trẻ, trước khi bôn ba đây đó, tôi đã công nhiên tìm kiếm đức khôn ngoan khi dâng lời cầu nguyện."
Đức Khôn Ngoan không được ban cho con người một lúc, nhưng là tiến trình của cả đời người; vì thế, con người phải học hỏi hàng ngày. Tác giả nói: "Tôi dõi theo đức khôn ngoan từ thuở còn thanh xuân... và cho đến mãn đời, tôi vẫn tìm kiếm đức khôn ngoan."
1.2/ Cách thức học khôn ngoan: Để hấp thụ được Đức Khôn Ngoan, tác giả cho độc giả những lời khuyên quan trọng.
(1) Lắng nghe nhiều hơn nói: "Chỉ lắng tai một chút mà tôi đã hấp thụ được, và tìm thấy cho bản thân một giáo huấn dồi dào." Điều này dễ hiểu, vì khi nghe là con người hấp thụ vào; còn khi nói là lúc con người cho đi. Nếu một người hay nói, làm sao họ có thể hấp thụ được khôn ngoan của người khác?
(2) Quyết tâm sống theo những gì Đức Khôn Ngoan dạy: "Vì tôi đã cương quyết sống theo đức khôn ngoan, tôi hăng say tìm điều thiện và sẽ không xấu hổ thẹn thùng." Để sinh ích cho bản thân, một người không chỉ cần biết Đức Khôn Ngoan, nhưng còn phải thực hành nó nữa. Khi thực hành, con người có thể phải vượt qua xấu hổ, dèm pha, và truy tố của người không biết Đức Khôn Ngoan.
(3) Thực hành Lề Luật: "Trong đức khôn ngoan, hồn tôi đã phấn đấu, và chuyên cần tuân giữ Lề Luật." Điều này hiển nhiên vì Lề Luật đến từ Thiên Chúa, nguồn gốc của mọi khôn ngoan. Vì con người không biết tất cả, nên Thiên Chúa thân hành ban cho con người Thập Giới qua Moses, để giúp con người biết sống thế nào mang lại hạnh phúc.
(4) Giữ mình trong sạch: "Tôi đã hướng lòng về đức khôn ngoan, và khi giữ mình trong sạch, tôi tìm được đức khôn ngoan." Trong Tân Ước, Chúa Giêsu dạy: "Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa" (Phúc thứ 6). Thánh Augustino và Thomas Aquinas cũng dạy điều này, và cho nhân đức trong sạch rất cần thiết trong hành trình đi tìm khôn ngoan và nhìn thấy Thiên Chúa. Người không trong sạch sẽ không được chiêm ngắm Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan và rất mực thánh thiện.
2/ Phúc Âm: Con người có bổn phận phải thi hành sự thật.
2.1/ Chúa Giêsu không sợ đương đầu với quyền lực của Thượng Hội Đồng: Trình thuật này tiếp tục trình thuật Chúa Giêsu vào Đền Thờ Jerusalem để đánh đuổi những kẻ đang mua bán và đổi tiền trong Đền Thờ, vì họ biến nhà cầu nguyện của Cha Ngài thành hang trộm cướp. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục trong Đền Thờ rất tức giận với Ngài, vì Ngài đã động tới nồi cơm và quyền lợi của họ. Nhiều người trong bọn họ hay gia đình họ có những quầy hàng trong Đền Thờ, và những người buôn bán phải trả tiền thuê cho họ.
Lẽ ra họ phải vui mừng khi thấy Đền Thờ được Chúa Giêsu trả lại sự thánh thiện cho việc thờ phượng; nhưng họ đâu để ý đến điều đó, mà chỉ để ý đến những mối lợi vật chất, nên họ đến cùng Người và hỏi: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?" Một lý do nữa là tự ái họ bị tổn thương, vì Chúa Giêsu là người duy nhất dám đương đầu với thế lực của họ. Dân chúng không ai dám chống lại họ, vì biết sẽ bị khoác trên đầu tội phạm thượng và bị ném đá chết.
2.2/ Chúa Giêsu không dạy sự thật cho những người khinh thường sự thật. Trước khi trả lời câu hỏi của họ, Chúa thách thức họ dám nói sự thật bằng việc đặt với họ một câu hỏi: Phép rửa của Gioan bởi đâu? do Trời hay do người ta?
Họ có đủ khôn ngoan để nhận ra sự thật; nhưng không dám nói thật. Họ bàn với nhau: "Nếu mình nói: "Do Trời," thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các ông lại không tin ông ấy?" Nhưng chẳng lẽ mình nói: "Do người ta?" Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gioan thật là một ngôn sứ. Họ mới trả lời Đức Giêsu: "Chúng tôi không biết."
Đức Giêsu liền bảo họ: "Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy." Ngài biết chẳng ích lợi gì để giảng giải sự thật cho những con người gian dối, không dám nói thật, chứ chưa nói tới việc thi hành sự thật. Họ chỉ thờ phượng Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, họ nhân danh Thiên Chúa và lợi dụng niềm tin của những con người ngây thơ chất phác để kiếm lợi nhuận vật chất.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Khôn Ngoan đến từ Thiên Chúa. Ngài chỉ ban nó cho những ai thành tâm cầu nguyện và kiên trì học hỏi. Vì thế, chúng ta phải cầu nguyện trước khi bắt đầu học hỏi Đức Khôn Ngoan.
- Học khôn ngoan là tiến trình dài cả cuộc đời, chứ không phải chỉ trong ít phút cuối tuần hay tham dự vài lớp căn bản. Vì thế, chúng ta cần phải học Đức Khôn Ngoan suốt đời và trong mọi biến cố của cuộc đời.
- Để sở hữu Đức Khôn Ngoan, chúng ta không phải chỉ học để biết, nhưng còn phải tìm dịp thi hành trong cuộc đời thì mới sinh ích lợi. Một người chỉ biết mà không thi hành, họ sẽ dần dần mất luôn những điều họ đã học được.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 8 TN1, Năm Lẻ
Bài đọc: Sir 44:1, 9-13; Mk 11:11-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy biết sống làm sao để sinh hoa kết quả cho Thiên Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng mọi sự trong vũ trụ là cho một mục đích, chẳng có gì gọi là ngẫu nhiên mà có hay không mang một mục đích nào cả. Ví dụ, tạo dựng cây cỏ cho bò ăn; khi bò lớn, bò trở thành thịt cho con người ăn hay để cày bừa; khi con người tăng trưởng, con người trở thành hữu ích cho tha nhân phần xác, hay rao giảng Tin Mừng để đưa con người về cho Thiên Chúa. Vật nào hay người nào không sinh hoa kết quả hay không đạt được mục đích sẽ bị Thiên Chúa loại ra ngoài để lấy chỗ cho vật khác hay người khác biết sinh lợi cho Ngài.
Các bài đọc hôm nay nhằm giúp con người hiểu thấu ơn gọi và mục đích của họ trong cuộc đời. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca so sánh giữa hai dòng dõi: Một bên là dòng dõi vô danh, chẳng để lại gì cho hậu thế, họ qua đi như chẳng bao giờ có mặt trong cuộc đời, và con cháu họ cũng sống cuộc đời vô nghĩa như họ vậy. Một bên là dòng dõi của những người công chính, họ biết sống theo mục đích mà Thiên Chúa đã tiền định cho họ, con cháu họ cũng biết noi gương sống cuộc đời công chính và ngay lành như họ; và cứ thế dòng dõi họ sẽ tồn tại đến muôn đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ.
1.1/ Dòng tộc của những người vô danh: Mỗi người chúng ta đều được hưởng rất nhiều công ơn từ Thiên Chúa, quê hương, tổ tiên, cha mẹ, và những người đi trước. Bổn phận của chúng ta, sau khi đã được hưởng thụ công ơn, là phải tiếp tục cố gắng làm sao để trả những công ơn này. Vì chúng ta không có cơ hội để trả ơn trực tiếp cho Thiên Chúa, chúng ta phải trả cách gián tiếp bằng cách làm ơn cho những người đi sau, trong đó có anh em, con cái, và cháu chắt của chúng ta.
Nếu chúng ta sống vô trách nhiệm, chỉ biết nhận lãnh mà không biết trả ơn, Thiên Chúa, những người đi trước, và những người theo sau sẽ kết tội chúng ta. Con cái, cháu chắt chúng ta cũng sẽ chẳng ra gì, vì họ không được lãnh nhận điều gì tốt từ chúng ta. Tác giả Sách Huấn Ca mô tả người sống vô trách nhiệm và dòng dõi họ như sau: "Có những người không còn ai nhớ nữa, họ qua đi như chẳng bao giờ có, họ sinh ra mà như chẳng chào đời con cháu của họ cũng thế thôi!"
1.2/ Dòng tộc của các danh nhân: Nhưng nếu chúng ta biết sống đạo hạnh và trách nhiệm, công đức của các chúng ta sẽ không chìm vào quên lãng. Những gì chúng ta làm không những sinh ích lợi cho chúng ta, mà còn để lại một gia sản quí báu cho lũ cháu đàn con. Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đó. Nếu chúng ta biết giữ vững các điều giao ước và Lề Luật của Thiên Chúa và dạy dỗ con cháu biết làm như thế, dòng dõi của chúng ta sẽ giữ vững các điều giao ước và sống trung thành với Thiên Chúa. Vì thế, dòng dõi của chúng ta sẽ muôn đời tồn tại, và vinh quang của chúng ta sẽ chẳng phai mờ.
2/ Phúc Âm: "Muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa!"
2.1/ Ý nghĩa của hai trình thuật: Trình thuật "Cây vả bị chúc dữ" chỉ được tường thuật trong Marcô và Matthew, và là một trong những trình thuật khó cắt nghĩa nhất. Lý do vì hầu hết học giả đều chú trọng đến chi tiết mà Marcô tường thuật: "vì không phải là mùa vả." Họ đặt câu hỏi: Tại sao Chúa lại tìm quả và chúc dữ cho cây vả khi chưa tới mùa?
Trong Tin Mừng, Marcô thỉnh thoảng dùng nghệ thuật viết văn được gọi là "đặt giữa hai" (Intercalation hay sandwiching): Mục đích của tác giả khi dùng nghệ thuật này là để làm nổi bật một ý nghĩa mà cả hai trình thuật đều nhắm tới. Ví dụ: trình thuật Chúa rao giảng với uy quyền chứ không giống như các kinh sư được tiếp nối bằng phép lạ Chúa chữa người bị quỉ ám (1:21-28), để nói lên Chúa Giêsu uy quyền trong lời nói cũng như trong hành động. Trình thuật Chúa chữa con gái người trưởng hội đường được đặt trước và sau phép lạ Chúa chữa người đàn bà bị loạn huyết lâu năm (5:21-43), để nêu bật niềm tin của ông trưởng hội đường và người đàn bà bị loạn huyết. Và trình thuật sai Nhóm Mười Hai đi rao giảng được đặt trước và sau cái chết của Gioan Tẩy Giả (6:7-30) để nói lên việc các ông sẽ bị truy tố khi thi hành sứ vụ của mình.
Và hôm nay, trình thuật "Chúa thanh tẩy Đền Thờ" được đặt giữa trình thuật "Cây vả bị chúc dữ." Điều quan trọng là phải tìm ra đâu là chủ đề chung của cả hai trình thuật. Trong trình thuật "Cây vả bị chúc dữ," điều Chúa nói với cây vả: "Muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa!" được thực hiện ngay hôm sau khi Chúa Giêsu và các môn đệ đi ngang qua cây vả. Điều gì Chúa nói sẽ thành sự, Chúa không quan tâm đến việc có đúng mùa hay không. Trong trình thuật "thanh tẩy Đền Thờ," điều Chúa muốn nhấn mạnh: "Nào đã chẳng có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc sao? Thế mà các người đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!"
Cây vả hay Đền Thờ có lẽ được Chúa Giêsu ví với dân thành Jerusalem. Thiên Chúa chờ đợi họ thay đổi đã biết bao năm rồi, nhưng họ đã không sinh hoa kết quả gì cả. Một sự kiện lịch sử đáng chú ý là Đền Thờ Jerusalem bị phá hủy bình địa xảy ra chỉ ít lâu sau đó (vào năm 70 AC); và từ đó đến nay mọi dân tộc trên khắp địa cầu thờ phượng Chúa, không phải ở Jerusalem; nhưng trong thần khí và sự thật.
2.2/ Đạo không phải chỉ là những lễ nghi trong Đền Thờ. Điều quan trọng nhất của đạo là niềm tin vững mạnh của người tín hữu vào Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhấn mạnh điều này với các môn đệ: "Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi này: "Dời chỗ đi, nhào xuống biển!" mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì sẽ được như ý. Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý."
Ngoài ra, tình yêu đối với Thiên Chúa được biểu lộ qua tình yêu dành cho tha nhân. Người dạy họ: "Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng sẽ không tha lỗi cho anh em."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã tiền định cho mỗi người một mục đích và trao cho mỗi người một sứ vụ. Chúng ta hãy cố gắng hết sức để chu toàn sứ vụ Chúa trao phó và đạt được đích điểm Ngài đã tiền định.
- Nếu chúng ta không sinh lợi ích cho Thiên Chúa và cho tha nhân, Ngài sẽ chặt bỏ chúng ta mà vứt ra ngoài để lấy chỗ cho những người biết sinh lợi ích cho Ngài.
- Mỗi người chúng ta sống trong bậc gia đình đều được Thiên Chúa trao ban cho một số người con hay tín hữu để được huấn luyện. Chúng ta hãy chu toàn nhiệm vụ bằng cách giáo dục họ theo đường lối Thiên Chúa và chỉ đường cho họ tới với Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 8 TN1, Năm B
Bài đọc: Sir 42:15-25; Mk 10:46-52.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quí trọng của con mắt.
Trong năm giác quan của con người, con mắt là quan năng cao trọng hơn cả; vì chúng cung cấp cho trí khôn những ảnh niệm để suy luận. Con mắt được dùng để nhìn và để đọc. Con người có thể dùng con mắt để nhìn thấy những kỳ công của Thiên Chúa tạo dựng, hay để đọc những gì hay mà người khác viết về Ngài. Con mắt luôn đi đôi với trí khôn suy luận. Con người có thể suy luận để biết có Thiên Chúa qua tất cả những gì con người nhìn thấy hay đọc được.
Các bài đọc hôm nay tập trung trong sự quan trọng của con mắt. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca dùng con mắt để chiêm ngưỡng những kỳ công Thiên Chúa tạo dựng, và dùng trí khôn để suy niệm sự quan phòng của Thiên Chúa, trước khi ông có thể tường thuật lại những gì Ngài làm để cho thế hệ tương lai được biết. Trong Phúc Âm, anh mù Bartimê đã cảm nghiệm được sự đau khổ của việc mù lòa, nên khi biết Đức Kitô đi ngang qua, anh nhất định la to lên xin chữa lành, và Ngài đã cho anh nhìn thấy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Những điều mắt thấy, tôi sẽ kể lại.
1.1/ Sự tạo dựng tuyệt vời của Thiên Chúa: Rất nhiều tác giả của Kinh Thánh đã buộc tội con người khi họ có mắt nhìn mà vẫn không tin Thiên Chúa như tác giả của Thánh Vịnh, Isaiah, Job... Thánh Phaolô cáo buộc những người không tin như sau: "Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được, vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ" (Rom 1:18-22). Tác giả Sách Huấn Ca bày tỏ niềm tin tương tự: "Tôi sẽ nhắc lại những công trình của Đức Chúa, những điều mắt thấy, tôi sẽ kể lại. Do lời Đức Chúa mà có những công trình của Người."
1.2/ Sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ cách tuyệt vời như thế, Ngài còn quan phòng mọi sự cách kỳ diệu hơn nữa. Tác giả liệt kê một số những điều quan sát thấy:
(1) Thiên Chúa biết tất cả mọi sự xảy ra trong trời đất, ngay cả những ý nghĩ sâu thẳm trong tâm hồn con người: "Người dò thấu vực thẳm và cõi lòng nhân thế, hiểu rõ toan tính của con người... Không một ý nghĩ nào Người không thấu suốt, chẳng một lời nào là bí ẩn đối với Người."
(2) Thiên Chúa không những biết hiện tại, mà còn thấu suốt mọi dĩ vãng, tương lai: "Người công bố dĩ vãng và tương lai, và mặc khải dấu vết của những điều bí ẩn." Vì đối với Thiên Chúa, mọi sự đều xảy ra trong hiện tại.
(3) Thiên Chúa quan phòng mọi sự cách khôn ngoan: Trong sự quan phòng, Ngài chẳng cần phải thay đổi điều chi cả, và cũng chẳng cần ai làm cố vấn cho Ngài. Thiên Chúa điều khiển mọi sự xảy ra trong vũ trụ, những gì con người có thể thấy hay hiểu và những gì con người không thể thấu hiểu. Tất cả mọi sự đều vâng phục Ngài. Tác giả cho chúng ta hai ví dụ về sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa: Thứ nhất, Thiên Chúa dựng nên các sinh vật đều có đôi để truyền sinh, để bổ túc cho nhau, và để giúp nhau tìm được niềm vui. Thứ hai, là sự hòa điệu nhịp nhàng của muôn vật trong vũ trụ: "Vật này làm tôn vẻ đẹp của vật kia, nhìn ngắm vinh quang của Người, ai mà chán được?"
2/ Phúc Âm: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được."
2.1/ Niềm tin vững chắc của anh mù Bartimê: Trình thuật Marcô cho ta biết những đức tính của anh.
(1) Anh biết nhu cầu của mình: Mù lòa là sống trong tăm tối, nhìn đâu cũng toàn thấy một màu đen, đi đâu cũng phải có người dắt. Còn gì khổ hơn người suốt đời không nhìn thấy ánh sáng. Vì mù lòa nên anh không thể tự kiếm ăn, anh phải ăn xin vệ đường và chịu mọi người khinh bỉ. Mù lòa thể xác dẫn tới mù lòa trí tuệ và tinh thần, những mù lòa này còn khổ hơn vì phải sống trong sự giả trá sai lạc. Mù lòa thiêng liêng chỉ có thể được soi sáng bằng những sự thật đến từ Thiên Chúa. Chỉ có Ngài mới có thể cất đi mù lòa và soi sáng tâm hồn. Chúa Giêsu từng xác nhận: "Ta là ánh sáng thế gian... Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống." Còn gì khổ hơn người suốt đời không biết sự thật, nhất là sự thật về đích điểm của cuộc đời. Anh biết mình cần được sáng mắt; vì thế khi được Chúa Giêsu hỏi: "Anh muốn Ta làm gì cho anh?" Anh không chút ngần ngại trả lời: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được."
(2) Anh biết người nào có thể chữa mình: Bartimê mù chứ không điếc, anh để ý nghe ngóng những gì người ta đồn thổi. Qua sự nghe ngóng, anh tin chỉ có Chúa Giêsu mới có thể chữa anh khỏi mù. Khi cơ hội gặp Chúa Giêsu đến, anh nhất định không chịu bỏ qua.
(3) Anh không để bất cứ một trở ngại nào ngăn cản mình đến với thầy thuốc: Khi Chúa Giêsu đi ngang qua, anh mù gọi Chúa hai lần, lần thứ hai to hơn lần thứ nhất dù đã bị đám đông ngăn cấm. Khi biết Chúa gọi mình, anh tung áo choàng, bỏ tất cả mọi của cải anh có, đứng phắt dậy và chạy đến với Ngài. Người đang sống trong mù lòa đường thiêng liêng cũng cần có thái độ tương tự như anh. Đừng bỏ lỡ cơ hội học hỏi về Chúa, vì biết đâu khi cơ hội đã qua, nó sẽ không bao giờ trở lại nữa.
(4) Anh là người biết ơn và trả ơn Thiên Chúa: Sau khi được chữa lành, anh không bỏ đi như 9 người phong hủi; anh tung tăng đi theo Chúa Giêsu, có lẽ để ca tụng tình thương của Ngài đã dành cho anh cho mọi người được biết.
2.2/ Lòng thương xót của Chúa Giêsu: Thiên Chúa không bao giờ từ chối con cái vững lòng trông cậy nơi Ngài. Chúa Giêsu ban ánh sáng cho người mù vì Ngài nhìn thấy khát vọng được có ánh sáng và niềm tin của anh. Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
Thiên Chúa chắc chắn không để những người muốn tìm hiểu về Ngài phải thất vọng. Ngài ban cho mọi người có rất nhiều cơ hội để học hỏi về Ngài và về Đức Kitô, qua việc gởi các sứ giả đến rao giảng Tin Mừng bên ngoài và gởi Thánh Thần làm việc bên trong tâm hồn con người. Ai thành tâm đi tìm Ngài, chắc chắn sẽ được Ngài cho gặp.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn, chúng ta hãy biết dùng đôi mắt để nhận ra những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm và tin vào Ngài.
- Người mù phần xác đã khổ, người mù về tâm linh còn khổ hơn. Chúng ta đừng nhìn những gì Thiên Chúa tạo dựng cách thờ ơ, lãnh đạm; nhưng phải biết suy nghĩ để nhận ra Người đã tạo dựng nên chúng và tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 8 TN1, Năm B
Bài đọc: Sir 36:1, 4-5a, 10-17; Mk 10:32-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình thương vô bờ của Thiên Chúa và tình yêu toan tính của con người.
Chúng ta không thể nào so sánh tình yêu vô biên của Thiên Chúa với tình yêu ích kỷ và hạn hẹp của con người. Thiên Chúa yêu thương và làm mọi sự cho con người hoàn toàn vô vị lợi, vì con người chẳng thêm thắt được cho Thiên Chúa điều gì dù nhỏ mọn. Trái lại, con người nhận được bao nhiêu hồng ân đến từ Thiên Chúa qua các biến cố tạo dựng, quan phòng, và cứu chuộc. Con người cần học hỏi để cảm nghiệm và xác tín vào tình yêu Thiên Chúa, để rồi đừng đòi hỏi bất cứ điều kiện gì nữa từ Thiên Chúa.
Các bài đọc hôm nay giúp chúng ta cảm nhận tình thương Thiên Chúa bằng cách so sánh tình yêu bao la của Thiên Chúa và tình yêu ích kỷ của con người. Trong bài đọc I, tuy Thiên Chúa đã chứng tỏ không biết bao lần tình yêu trung thành và tha thứ cho nhà Israel, họ vẫn có khuynh hướng xin Ngài tiếp tục tái diễn những tình yêu đó, để họ và các dân tộc nhận ra và tin tưởng vào Ngài. Trong Phúc Âm, trong khi Chúa Giêsu tiếp tục cuộc hành trình cuối cùng lên Jerusalem để chịu nộp, chịu đánh đập, và chịu chết trên Thập Giá cho con người; hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin cho được ngồi hai bên với Chúa Giêsu trong vương quốc của Ngài. Điều này gây chia rẽ trong hàng ngũ các tông đồ, vì ai cũng muốn được như thế.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mọi người trên mặt đất sẽ nhìn nhận Ngài là Đức Chúa muôn thuở muôn đời.
1.1/ Phải nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa: Trong lịch sử Cựu Ước, Thiên Chúa đã từng dủ lòng thương đến dân Ngài và đã từng làm cho các dân chung quanh phải kinh hồn sợ hãi uy danh của Ngài. Biến cố Xuất Hành và đưa dân vào Đất Hứa là một ví dụ chứng tỏ tình thương và uy quyền của Thiên Chúa. Qua biến cố này, người Do-thái phải không còn nghi ngờ gì về tình thương và uy quyền của Thiên Chúa. Biến cố Lưu Đày Babylon và cho dân trở về xây dựng lại Đền Thờ và xứ sở là một chứng tích khác cho tình thương tha thứ và uy quyền của Thiên Chúa.
Nhìn lại quá khứ, người Do-thái phải nhận ra tình yêu trung thành của Thiên Chúa. Ngài yêu thương họ với một tình yêu vô bờ bến dù họ chẳng có gì đáng yêu cả. Họ vẫn "xin cho tái diễn những điềm thiêng và lại làm những dấu lạ khác" để các thế hệ được nhận ra tình yêu của Ngài.
1.2/ Xin tình thương Thiên Chúa chảy tràn lan trên muôn người: Dân tộc Do-thái nhớ lại tình thương Thiên Chúa đã dành cho cha ông họ. Họ luyến tiếc thời huy hoàng của triều đại David, khi 12 chi tộc đoàn kết và bờ cõi quốc gia mở mang. Họ nhớ lại cảnh huy hoàng của Đền Thờ Jerusalem và sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa họ. Họ xin cho những điều này trở lại để họ lại được chứng kiến tình yêu Thiên Chúa.
Tuy thế, họ không thể cứ đòi buộc Thiên Chúa phải tỏ tình mãi mãi. Họ phải biết khi Thiên Chúa làm giao ước, Thiên Chúa hoàn toàn tự nguyện và làm vì lòng thương yêu họ; dân tộc Do-thái chẳng làm thêm được gì cho Ngài. Ngược lại, họ ngang nhiên xé bỏ giao ước, để rồi Thiên Chúa lại phải ký kết với họ một giao ước mới hoàn hảo hơn, giao ước này được thực hiện qua Đức Kitô và máu của Ngài. Dân tộc Do-thái và chúng ta chẳng có quyền đòi hỏi gì hơn nữa nơi Thiên Chúa. Ngược lại, chúng ta phải mở mắt để nhận ra những gì Thiên Chúa đã, đang, và sẽ làm, để cảm nghiệm được tình yêu sâu xa Thiên Chúa dành cho chúng ta. Sau đó, chúng ta phải biết đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng cách trung thành giữ các Luật truyền, và rao giảng tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, để họ cũng nhận ra tình yêu Thiên Chúa và tin tưởng nơi Ngài.
2/ Phúc Âm: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người."
2.1/ Tình yêu tính toán của các tông đồ: Không giống như Matthew, người đặt lời yêu cầu nơi miệng của người mẹ; Marcô đặt lời thỉnh nguyện vào hai người con ông Zebedee là Giacôbê và Gioan. Họ đến gần Đức Giêsu và nói: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang." Chúng ta có thể nhận ra 3 điều từ cuộc đàm thoại của các ông với Chúa Giêsu và với nhau.
(1) Theo Chúa để được làm lớn: Hai ông muốn ngồi chỗ cao nhất, chỉ thua có Đức Kitô. Con người khi yêu thương ai luôn có những tính toán hơn thiệt, chứ ít có những ai muốn "mong ước điều tốt cho người khác" như định nghĩa đúng của tình yêu. Các tông đồ cũng chưa vượt qua tính ích kỷ nhỏ nhen này. Marcô không ngại phơi bày tính xấu của các tông đồ.
(2) Các ông sẵn sàng hy sinh dẫu chưa biết nguy hiểm sẽ xảy đến: Đức Giêsu bảo: "Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" Các ông đáp: "Thưa được." Đức Giêsu bảo: "Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được." Đây là điểm đáng khen của hai ông, vì có những người chỉ muốn vinh quang chứ không muốn hy sinh gian khổ.
(3) Tham vọng sinh ghen tức: Trình thuật kể: "Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan." Các ông có thể nghĩ: Chỉ có hai chỗ nhất, mà hai anh em dành hết, bọn này sẽ ngồi đâu? Các ông hầu như không để ý một chút gì đến việc chia sẻ với Chúa Giêsu và biến cố trước mặt, mà chỉ để ý đến việc chia chỗ sau khi Chúa Giêsu đã chiến thắng vinh quang.
2.2/ Tình yêu hy hiến của Chúa Giêsu: Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu báo trước Cuộc Thương Khó của Ngài, và càng ngày càng chi tiết hơn (x/c Mk 8:31; 9:31; 10:33). Chúng ta có thể nhận ra 3 đặc điểm chính của tình yêu của Chúa Giêsu.
(1) Người lãnh đạo luôn dẫn đầu, chứ được sợ như những môn đệ. Người lãnh đạo phải biết chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ và căn dặn những điều cần thiết để các môn đệ biết cách ứng xử.
(2) Chúa dạy các ông bài học quan trọng của tình yêu: phục vụ. Chúa Giêsu chắc chắn cảm thấy buồn khi điều này xảy ra cho Ngài, và Ngài cũng biết nếu cứ để các ông hành xử theo tính con người, những dự tính tương lai của Ngài cho các ông sẽ tan tành mây khói. Vì thế, Ngài phải dạy cho các ông một bài học quan trọng: "Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người."
(3) Chúa Giêsu không chỉ dạy, Ngài làm gương cho các môn đệ. Chúa Giêsu áp dụng lời dạy vào chính Ngài: "Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." Ngài đang cất bước đi trước, sẵn sàng chấp nhận khổ giá để làm gương cho các tông đồ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa.
- Bổn phận của chúng ta là nhận ra và đáp trả, chứ không thể tiếp tục đòi Thiên Chúa phải bày tỏ tình yêu; cũng đừng bao giờ đòi điều kiện với Ngài trước khi đáp trả.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 8 TN1, Năm B
Bài đọc: Sir 35:1-12; Mk 10:28-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa thưởng công xứng đáng những người rộng lượng cho đi.
Con người thường rất tính toán trong việc đối xử với nhau, họ nghĩ: “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại;” có nghĩa mọi người phải công bằng trong cách xử thế: Nếu tôi mừng cho con anh 100 đồng trong lễ cưới thì anh cũng phải mừng cho con tôi 100 đồng khi nó thành hôn. Nếu con tôi không nhận được đồng nào hay chỉ nhận 50 đồng, mối liên hệ hai bên sẽ có vấn đề.
Các bài đọc hôm nay tập trung trong cách cư xử của con người với Thiên Chúa. Con người cần nhận ra những hồng ân Thiên Chúa đã đổ xuống trên cuộc đời mình, để biết cách đáp trả làm sao cho xứng đáng. Trong bài đọc I, tác giả sách Huấn Ca mô tả những cách thức khác nhau con người có thể làm để trả ơn Thiên Chúa, và thái độ rộng lượng và chân thành con người cần có khi dâng lễ vật. Trong Phúc Âm, thánh Phêrô hỏi thẳng Chúa Giêsu những gì ông sẽ nhận được, sau khi ông đã bỏ tất cả để đi theo làm môn đệ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Chúa là Đấng thưởng công, sẽ trả lại cho con gấp bảy lần.
1.1/ Có nhiều cách để dâng lễ vật làm đẹp lòng Thiên Chúa: Tác giả sách Huấn Ca chỉ ra bốn việc con người có thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, chứ không phải chỉ việc dâng lễ phẩm:
(1) Nghe và giữ lệnh truyền của Thiên Chúa: “Tuân giữ Lề Luật là làm cho lễ phẩm thêm phong phú. Gắn bó với lệnh truyền là dâng lễ kỳ an.” Thiên Chúa chắc chắn sẽ không nhận lễ vật của những người xúc phạm đến Lề Luật, và Ngài hài lòng vì người biết bước đi trong đường lối Thiên Chúa hơn người dâng nhiều lễ vật mà sống ngoài vòng pháp luật.
(2) Biết cám ơn những gì Thiên Chúa đã làm cho trong cuộc đời: Nhiều người tuy nghèo, nhưng biết nhận ra và cám ơn những hồng ân Thiên Chúa làm, được kể như “dâng bột tinh hảo.”
(3) Giúp đỡ người nghèo: Làm ơn cho tha nhân là làm cho chính Thiên Chúa. Ngài kể “làm việc bố thí là dâng lễ ngợi khen.”
(4) Từ bỏ gian tà, bất công: Khi dâng lễ vật, Thiên Chúa đòi người dâng phải “tay sạch, lòng thanh.” Không có điều kiện này, lễ vật của người dâng sẽ không bao giờ được Thiên Chúa nhận lời. Thiên Chúa kể những người “từ bỏ gian tà thì đẹp lòng Đức Chúa,” và những người “chấm dứt bất công là dâng lễ đền tội.”
1.2/ Thái độ phải có khi dâng lễ vật: Tuy nhiên, cách thông thường nhất người Do-thái hay làm là dâng lễ vật để cám ơn và đền tội. Tác giả sách Huấn Ca mô tả bổn phận và thái độ cần có của người dâng lễ vật.
(1) Bổn phận: “Đừng đến trước nhan Đức Chúa tay không, vì tất cả những gì phải dâng đều do lệnh truyền. Lễ phẩm của người công chính như mỡ đổ trên bàn thờ xông mùi thơm ngào ngạt trước Đấng Tối Cao. Hy lễ của người công chính được chấp nhận, và phần kỷ vật sẽ không bị lãng quên.” Lề Luật mô tả rõ bổn phận của mỗi người phải làm đối với Thiên Chúa: Họ phải dâng toàn bộ của đầu mùa để được Thiên Chúa chúc lành. Tác giả khuyên: “đừng bớt xén của đầu mùa tay con làm ra.” Luật cũng buộc dân phải dâng thuế thập phân, tức là 1/10 các hoa lợi thâu nhập được.
(2) Thái độ: Khi con người dâng lễ vật cho Thiên Chúa, họ phải có thái độ vui vẻ và quảng đại: “Dâng cúng chi, cũng phải giữ nét mặt tươi cười... Với tấm lòng quảng đại, hãy dâng hiến Đấng Tối Cao tuỳ theo những gì Người ban tặng và tuỳ theo khả năng con có.” Trong lịch sử, Thiên Chúa đoái nhận của lễ của Abel hơn của lễ của Cain, vì Abel dâng cho Thiên Chúa với lòng quảng đại và vui vẻ, vì ông biết Thiên Chúa thấu suốt tâm hồn con người.
1.3/ Phần thưởng cho người dâng lễ vật: Thiên Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người, Ngài “sẽ trả cho con gấp bảy lần.” Nếu mỗi lần dâng lễ vật, người dâng nhận lại nơi Thiên Chúa gấp bảy lần, tại sao không dâng cho Thiên Chúa mà lại keo kiệt giữ lại cho mình? Điều quan trọng khi dâng lễ vật cho Thiên Chúa là phải có tấm lòng chân thành. Dâng lễ vật là để cám ơn những gì Thiên Chúa đã làm cho mình, chứ không phải dâng như dâng quà hối lộ để được Thiên Chúa nhận lời. Cũng không phải dâng lễ vật để cầu xin Thiên Chúa cho trúng số hay cho thành công trong những thương vụ bất chính.
2/ Phúc Âm: Những ai rộng lượng dâng hiến cho Thiên Chúa sẽ nhận lại gấp trăm.
2.1/ Phần thưởng cho những người từ bỏ mọi sự để theo Chúa: Phêrô là con người rất chân thật, có lẽ Chúa thương chọn ông vì đức tính rất thành thật của ông. Phêrô không e dè khi hỏi Chúa Giêsu, dù mới bị Thầy mắng là Satan: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!" Đức Giêsu đáp: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.”
Câu trả lời của Chúa Giêsu cần được phân tích cẩn thận:
(1) Nhận được gấp trăm ở đời này: Chúng ta chỉ cần lấy cuộc đời của Phaolô làm ví dụ. Sự trở lại của Phaolô làm gia đình và bạn bè công khai khước từ ông; nhưng ông đã được Thiên Chúa cho nhận lại cả hàng ngàn anh/chị/em tín hữu từ các cộng đoàn ở khắp nơi, trong đó có những môn đệ thân tín mà ông coi như con của mình, có những cộng sự viên đắc lực sẵn sàng đóng góp mọi sự cho việc rao giảng Tin Mừng.
(2) Cùng với sự ngược đãi: Chúa Giêsu không giấu Phêrô những ngược đãi mà ông sẽ phải trả giá cho việc làm môn đệ của Ngài. Ông và Phaolô cũng phải chịu biết bao gian khổ, tù đày, roi đòn, và sau cùng chịu chết để làm chứng cho Đức Kitô. Những sự ngược đãi được coi như phần thưởng, vì nó cung cấp cho các ông cơ hội nhận phúc lành của Thiên Chúa.
(3) Sự sống vĩnh cửu đời sau: Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho Phêrô biết phần thưởng ở đời này cho dù lớn đến đâu chăng nữa, cũng không thể so sánh với sự sống vĩnh cửu mà Ngài sẽ ban cho các môn đệ trung thành ở đời sau.
2.2/ Trong Nước Thiên Chúa, mọi giá trị của thế gian bị đảo ngược. Chúa Giêsu tiếp tục nói với Phêrô: “Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu." Ngài có ý muốn nói với ông: đừng phán xét mình theo tiêu chuẩn của thế gian, cũng đừng phán xét theo những gì mình nghĩ. Phêrô có thể hãnh diện vì sự từ bỏ của ông, và ông có thể nghĩ ông xứng đáng được hưởng những ân thưởng của Chúa. Cách hay nhất của người môn đệ là hãy cố gắng hết sức chu toàn bổn phận Thiên Chúa trao, việc ân thưởng sẽ tới và hoàn toàn tùy thuộc nơi Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải khôn ngoan nhận ra mọi sự Thiên Chúa đã làm cho chúng ta để biết cách đền đáp cho xứng đáng.
- Chúng ta đừng bao giờ so đo và tính toán với Thiên Chúa, vì Ngài là Cha rất nhân lành. Ngài sẽ ban cho chúng ta gấp trăm lần những gì chúng ta dâng cho Ngài hay giúp đỡ tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 8 TN1, Năm Lẻ
Bài đọc: Sir 17:20-24; Mk 10:17-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy làm việc lành phúc đức để giúp đỡ mọi người.
Hầu như niềm tin của tất cả các tôn giáo lớn đều dạy “ở hiền gặp lành và ở ác gặp ác.” Giáo thuyết của Phật Giáo dạy: “Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc giúp cho một người,” có nghĩa việc giúp cho một người quan trọng hơn là việc xây tháp chín tầng để kính nhớ Phật. Trong Kitô Giáo, Đức Giêsu đã cho chúng ta biết trước tiêu chuẩn Ngài sẽ dùng để phán xét trong Ngày Tận Thế: “việc gì anh em làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất là làm cho Ta.”
Các bài đọc hôm nay tập trung trong sự quan trọng của việc làm phúc. Trong bài đọc I, tác giả sách Huấn Ca dẫn chứng cho chúng ta lý do phải làm lành lánh dữ là vì Thiên Chúa nhìn thấy tất cả. Ngài ghi nhớ tất cả những việc lành chúng ta làm và thưởng công xứng đáng. Trong Phúc Âm, khi một người chạy đến hỏi Chúa Giêsu về con đường nên trọn lành, Ngài bảo anh hãy về bán tài sản để giúp đỡ người nghèo, rồi trở lại theo Ngài. Khi làm như thế là anh sắm cho mình một kho tàng trên trời; nhưng anh buồn rầu bỏ đi vì quá tiếc của.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Việc từ thiện ai làm thì tựa như dấu ấn đối với Người.
1.1/ Thiên Chúa nhìn thấy tất cả những gì con người làm: Người Việt-nam chúng ta tin “trời cao có mắt.” Tác giả sách Huấn Ca tin không một điều gì con người làm mà Thiên Chúa không biết: “Những điều bất chính chúng làm không giấu Người được, mọi tội lỗi chúng phạm đều lộ ra trước mặt Đức Chúa. Việc từ thiện ai làm thì tựa như dấu ấn đối với Người, ân đức của người ta, Người giữ mãi như con ngươi trong mắt.” Nếu một người tin Thiên Chúa hay Ông Trời nhìn thấy mọi sự, họ phải cố gắng làm điều lành, tránh điều dữ; nếu không họ sẽ phải trả giá cho những điều bất chính họ làm, vì “ác giả, ác báo.”
1.2/ Thiên Chúa sẽ ân thưởng xứng đáng những ai làm phúc: Truyền thống các tôn giáo lớn đều tin “ở hiền gặp lành.” Cho dù những tôn giáo không tin có cuộc sống đời sau, họ vẫn tin ông Trời sẽ phù hộ cho những ai mạnh tay làm phúc cho người nghèo khổ. Họ sẽ được chúc lành, làm ăn nên, con đàn cháu đống, và sống lâu trăm tuổi. Tác giả sách Huấn Ca cũng dạy sự ban thưởng của Thiên Chúa cho những người giúp kẻ hoạn nạn: “Cuối cùng, Người sẽ đứng lên và ban thưởng, và phần thưởng ấy, Người sẽ đặt trên đầu chúng.” Không những thế, truyền thống Do-thái còn tin ai làm việc lành, sẽ đền bù tội lỗi của mình: “ai sám hối thì Người ban cho ơn trở về, và những kẻ sờn lòng nản chí, Người cũng sẽ ủi an.”
2/ Phúc Âm: Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.
2.1/ Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Bối cảnh quan trọng của cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu với chàng thanh niên và các môn đệ là “phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời.” Anh thanh niên đã tin có cuộc sống đời đời và anh muốn biết cách làm sao để đạt được cuộc sống này. Sau khi đã hỏi anh về những giới răn quan trọng, nhưng không đòi nhiều cố gắng lắm để vượt qua, Chúa Giêsu đi vào điểm then chốt. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Chúa Giêsu đòi anh phải lựa chọn một trong hai: cuộc sống đời đời hay cuộc sống đời này. Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Anh muốn bắt cá hai tay: được cả đời này và đời sau.
2.2/ Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa. Sau khi người giàu có bỏ đi, Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!" Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: "Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa."
Trước tiên, chúng ta cần làm sáng tỏ vấn đề: Chúa Giêsu không kết tội người giàu. Ngài không bảo người giàu có không thể vào Nước Thiên Chúa; nhưng Ngài bảo "những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!" Tại sao giàu có làm cho con người khó vào Nước Thiên Chúa? Chúng ta có thể liệt kê 3 lý do chính sau đây:
(1) Giàu có làm con người quên đi mục đích cuộc đời, để rồi chỉ biết tập trung mọi thời gian và cố gắng để thu quét của cải và hưởng thụ.
(2) Giàu có làm con người chỉ biết đánh giá trị mọi sự trên đồng tiền, và bỏ quên tập luyện những giá trị tinh thần hay vĩnh cửu. Ví dụ, họ chỉ dành thời giờ cho những việc mang lại lợi nhuận vật chất, mà không chịu bỏ thời giờ học Kinh Thánh để biết về Thiên Chúa và những lời dạy dỗ khôn ngoan của Ngài.
(3) Giàu có làm con người kiêu căng, phách lối, và khinh thường người khác. Họ quên đi rằng “Ở đời muôn sự của chung.” Mọi người đều có quyền hưởng của cải Thiên Chúa ban như một phương tiện để sinh sống khi còn ở đời này. Họ không có quyền tích trữ của cải trong khi tha nhân đói khát, chứ chưa nói việc đánh cắp công ơn Thiên Chúa và khinh thường tha nhân.
2.3/ Tại sao các môn đệ sững sờ và sửng sốt? Hai lần trong trình thuật đề cập tới thái độ ngạc nhiên của các môn đệ về những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, và các ông hỏi nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?”
Lý do các ông ngạc nhiên vì truyền thống Do-thái tin giàu có là dấu hiệu Thiên Chúa chúc phúc cho những người biết kính sợ Thiên Chúa và ăn ở ngay lành, cùng với các ơn lành khác như con đàn cháu đống và sống lâu trăm tuổi. Nếu sự thịnh vượng là dấu hiệu của mối liên hệ tốt đẹp giữa con người với Thiên Chúa, tại sao Chúa Giêsu lại đảo ngược niềm tin truyền thống? Chúa Giêsu chắc chắn không nói tới việc giàu có do Thiên Chúa chúc lành, Ngài muốn nói tới việc con người tự vơ vét làm giàu, mà không cần biết có công bằng hay không. Ngài cũng muốn đề cập đến việc con người không biết quản lý các tài sản mà Thiên Chúa đã trao phó cho họ.
Vì thế, con người sẽ bị Thiên Chúa phán xét về cách thâu nhận tài sản, công bằng hay bất công, và cách tiêu xài của cải, đúng hay không đúng. Vì con người chỉ là quản lý chứ không phải chủ nhân của tài sản, Thiên Chúa là chủ nhân của tài sản. Người càng giàu sẽ bị Thiên Chúa phán xét càng nhiều. Nếu họ không biết cách tiêu xài, sự giàu có sẽ sinh thiệt hại cho họ nhiều hơn làm lợi ích.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy cố gắng làm việc lành nhiều để đền bù tội lỗi của mình, vì đó là cơ hội Thiên Chúa ban và Ngài kể là làm cho chính Ngài.
- Chúng ta cần xác tín vào sự quan phòng của Thiên Chúa, để rồi đừng mặc sức vơ vét của cải cho mình và cho gia đình. Hãy bằng lòng với những gì Thiên Chúa trao ban và học biết cách xử dụng để sinh lời cho Thiên Chúa.
- Hãy biết dành thời giờ để chú trọng vào những giá trị cao hơn vật chất: sự hiểu biết và lòng yêu mến Thiên Chúa, sự sống vĩnh cửu, và việc rao giảng Tin Mừng.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Năm ABC
Bài đọc: Acts 2:1-11; I Cor 12:3-7, 12-13; Jn 20:19-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Các hoạt động của Thánh Thần.
Thánh Thần là Thiên Chúa bị bỏ quên. Để trắc nghiệm, chúng ta thử coi mình có nói về Thánh Thần được hơn 5 phút không! Thời đại của chúng ta, thời đại từ khi Chúa Giêsu về trời cho đến Ngày Tận Thế là thời đại của Thánh Thần; thế mà chúng ta lại biết rất ít về Ngài. May mắn cho chúng ta, Giáo Hội dùng ngày hôm nay để giúp chúng ta ôn lại giáo lý về Chúa Thánh Thần.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta nhìn thấy các khía cạnh khác nhau của Ngôi Ba Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật Thánh Thần hiện xuống và đậu lại trên mỗi Tông-đồ qua hình ảnh của cơn gió mạnh, hình lưỡi lửa, và sự kiện nói tiếng lạ. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô đề cập đến những công việc của Thánh Thần làm nơi mỗi cá nhân và toàn thể Giáo Hội. Ngài nhấn mạnh đến sự hiệp nhất trong cùng một đức tin, một Phép Rửa, và một tình yêu; vì tất cả đều hoạt động trong cùng một Thánh Thần. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến vai trò của Thánh Thần trong việc sở hữu bình an và quyền tha thứ cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần.
1.1/ Lễ (Ngũ) Tuần: Việt-nam dịch không đúng, lẽ ra phải dịch Lễ Các Tuần hay Lễ Năm Mươi Ngày (Pentecost, 50 ngày, hay 7 tuần). Lễ Các Tuần là một trong 3 lễ trọng thể của người Do-thái, mà tất cả các người nam của họ, sống trong vòng 20 dặm của Jerusalem, phải về Jerusalem để dự lễ. Hai lễ trọng kia là Lễ Vượt Qua và Lễ Lều. Lễ Các Tuần xảy ra đúng 50 ngày sau Lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua thường xảy ra vào trung tuần tháng Nissan (tháng tư); vì thế, Lễ Các Tuần rơi vào đầu tháng 6. Tháng 6 là tháng du hành vì thời tiết đã tốt đẹp hơn và thuận tiện cho việc đi lại. Đó là lý do tại sao trong trình thuật hôm nay có bao nhiêu sắc dân, những người theo Đạo Do-thái lên Jerusalem để mừng lễ. Lễ Các Tuần kỷ niệm hai biến cố quan trọng:
(1) Lịch sử: Mừng kỷ niệm Thiên Chúa ban Thập Giới cho Moses trên núi Sinai;
(2): Nông nghiệp: Hai ổ bánh làm bằng bột lúa miến được dâng lên Thiên Chúa để cám ơn Ngài đã cho gặt hái được mùa màng. Trong 3 ngày Lễ Trọng, mọi người phải tuân giữ luật ngày Sabbath.
1.2/ Những gì đã xảy ra trong ngày Lễ Các Tuần:
(1) Tiếng gió mạnh: “Khi đến ngày lễ Các Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp.”
+ Từ ngữ: Trong tiếng Do-thái cũng như Hy-lạp, họ chỉ có một danh từ dùng cho cả Thánh Thần lẫn gió: ruah trong tiếng Do-thái, và pneuma trong tiếng Hy-lạp. Vì thế, Thánh Thần được đồng nhất với gió.
+ Thánh Thần là gió, Ngài ban cho con người hơi thở và sự sống: Trong Sách Sáng Thế, khi vũ trụ còn hỗn mang, Thánh Thần của Thiên Chúa bay là là trên mặt nước (Gen 1:2). Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa thổi hơi vào trong lỗ mũi của con người và họ được sống (Gen 2:7), khi Chúa rút hơi thở ra, con người trở về cát bụi (Psa 104:29). Trong cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và Nicodemus, Chúa Giêsu ví hoạt động của Thánh Thần trong con người như gió: “Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thánh Thần sinh ra thì cũng vậy” (Jn 3:7-8).
+ Công dụng của gió: Gió có thể cuốn đi tất cả các rác rưởi và làm cho nơi đó được sạch. Chúng ta cứ nhìn những trận gió bão, sẽ biết sức mạnh của gió: Nó cuốn hết những gì trước mặt và hoàn toàn làm đổi mới nơi nào gió đi qua. Tương tự như thế cho hoạt động của Thánh Thần trong con người: Ngài có thể quét sạch những tật xấu trong con người, nếu chúng ta để cho Ngài hoạt động. Gió cũng có thể làm cho con người cảm thấy mát mẻ, dễ chịu, như cơn gió mùa hè, mùa Xuân. Thánh Thần cũng đem lại sự tươi trẻ cho tâm hồn con người.
(2) Hình lưỡi lửa: “Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một.” Sách Khải Huyền đồng hóa Thánh Thần với lửa (Rev 4:5). Matthew nói tới việc chịu Phép Rửa bởi Thánh Thần và lửa (Mt 3:11, Lk 3:16). Các công dụng của lửa:
+ Lửa dùng cho sự thanh luyện, như lửa dùng để luyện kim như thử vàng (I Pet 1:7). Thánh Thần cũng thanh luyện mọi bất toàn trong con người, và thánh hóa bằng cách làm cho con người trở nên hoàn thiện hơn (I Cor 3:12-15).
+ Lửa cũng dùng để nấu nướng, sưởi ấm, hay kích thích lòng người (Lk 12:49). Ca Tiếp Liên cho chúng ta thấy Thánh Thần có thể sưởi ấm chỗ lạnh lùng trong tâm hồn con người bằng cách ban tình yêu. Thánh Thần giúp tín hữu có lòng nhiệt thành để hăng say rao giảng và làm chứng cho Chúa.
+ Cột Lửa cũng dùng để soi sáng cho dân Israel biết đường đi (Exo 13:21). Thánh Thần soi sáng cho con người nhận ra sự thật, đường đi, và xua tan bóng đêm tội lỗi.
+ Lửa cũng dùng để thiêu rụi và tiêu diệt (Gen 19:24, Rev 8:7). Thị kiến của Moses về lửa cháy mà bụi gai không bị thiêu rụi (Exo 3:2) là hình ảnh của Thánh Thần tạo Ngôi Lời trong lòng Mẹ Maria mà Mẹ vẫn trinh khiết vẹn tuyền (Lk 1:35).
(3) Nói tiếng lạ: “Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Lúc đó, tại Jerusalem, có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về. Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt, thán phục và nói: “Những người đang nói đó không phải là người Galilee cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?”
+ Trong tiếng Hy-lạp, danh từ dùng để chỉ cái lưỡi (gnôssa) cũng được dùng để chỉ các ngôn ngữ khác nhau, nhưng chỉ dùng ở số nhiều (gnôssai). Khi dùng danh từ ở số nhiều, nó cũng có ý nghĩa là nói tiếng lạ.
+ Phaolô dành cả một chương 14 để bàn về việc nói tiếng lạ trong Thư I Corintô: Nói tiếng lạ là tiếng con người nói với Chúa khi con người trong trạng thái xuất thần. Để người khác có thể hiểu, cần có người thông dịch; ví dụ, để hiểu một người ngoại quốc nói, chúng ta cần có người thông dịch. Nếu không có người thông dịch, nói tiếng lạ cũng như không. Phaolô cho ơn gọi ngôn sứ cao hơn ơn gọi nói tiếng lạ, vì nó xây dựng Giáo Hội; trong khi người nói tiếng lạ chỉ xây dựng cho chính mình.
+ Biến cố Tháp Babel: là hậu trường để hiểu biến cố hôm nay. Trong biến cố Tháp Babel, Thiên Chúa phân tán con người đi khắp nơi bằng cách cho họ không hiểu ngôn ngữ của nhau. Trong biến cố hôm nay, Thánh Thần qui tụ con người lại bằng cách cho họ hiểu ngôn ngữ của các Tông-đồ đang nói.
+ Nói ngoại ngữ hay nói ngôn ngữ của trái tim? Nhiều tác giả cho các Tông-đồ không thực sự nói tiếng lạ, nhưng nói ngôn ngữ của trái tim. Điều này chỉ là suy đoán theo kiểu của mình rồi áp dụng cho Thiên Chúa. Họ quên đi quyền năng của Thiên Chúa: Nếu Ngài có thể bắt họ nói các thứ tiếng khác nhau để phân tán họ đi, Ngài cũng có thể cho họ nói cùng một ngôn ngữ để hiệp nhất trở lại. Hơn nữa, nói bằng ngôn ngữ của trái tim, làm sao những người ngoại cuộc có thể hiểu được? Biến cố nói tiếng lạ hôm nay là do quyền lực của Thánh Thần. Ngài “phiên dịch” lời các ông nói trong trí óc khán giả, để chỉ một ngôn ngữ các ông nói ra bằng tiếng Aramaic, mọi người đều hiểu theo ngôn ngữ của họ. Họ nói: “chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa.”
2/ Bài đọc II: Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần.
2.1/ Công việc của Thánh Thần:
- Hướng dẫn nhận ra sự thật và tất cả mọi sự thật, vì Ngài là Thần Chân Lý. Sự thật trên hết mọi sự thật là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Thánh Phaolô quả quyết: “Chẳng có ai ở trong Thánh Thần của Thiên Chúa mà lại nói: “Giêsu là đồ khốn kiếp!” cũng không ai có thể nói rằng: “Đức Giêsu là Chúa,” nếu người ấy không ở trong Thánh Thần.”
- Thánh Thần ban cho mỗi tín hữu các đặc sủng khác nhau; nhưng tất cả các đặc sủng Thánh Thần ban là cho việc xây dựng Nhiệm Thể Đức Kitô là Giáo Hội: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa.” Đặc sủng cao trọng hơn cả mà mọi người cần có là tình yêu Thiên Chúa (I Cor 13).
- Thánh thần hiệp nhất và liên kết tất cả trong cùng một Phép Rửa, một đức tin, và một tình yêu: “Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thánh Thần để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất.”
2.2/ Làm sao để nhận ra Thánh Thần từ những thần khí sai lạc của thế gian? Thánh Gioan khuyên các tín hữu: “Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (I Jn 4:1).
- Thánh Thần và công việc của Ngài được Chúa Giêsu hứa trước, chứ không đột xuất và liên quan tới bất cứ điều gì như nhiều người lầm tưởng. Chúa Giêsu nói rõ ràng với các môn đệ: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Jn 16:13-14). Vì thế, Lời Chúa là thước đo những gì Thánh Thần hướng dẫn.
- Một cách nhận ra công việc của Thánh Thần là xét xem kết quả có đem lại sự thật, yêu thương, và hiệp nhất; hay đưa đến sai lạc, ghen tị, và chia rẽ. Quà tặng khác nhau không tự nhiên mang lại hiệp nhất, nhưng có thể mang lại giận hờn, ghen tị, và chia rẽ trong cộng đoàn.
3/ Phúc Âm: Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”
3.1/ Thánh Thần và bình an: Thánh Thần làm cho các môn đệ nhận ra tất cả sự thật liên quan tới Đức Kitô và Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa. Các Tông-đồ phải nhận ra tất cả sự thật này trước khi các ông có bình an. Đây mới là sự bình an thật sự, và không một quyền lực nào có thể lấy đi được, vì nó đến từ sự xác tín của niềm tin trong tâm hồn con người.
Trình thuật kể các Tông-đồ sợ sệt phải đóng kín cửa vì sợ người Do-thái; nhưng một khi các ông đã nhìn thấy Chúa toàn thắng tử thần và phục sinh vinh hiển, và được Thánh Thần giúp nhớ lại và hiểu biết những gì Chúa Giêsu đã nói trước, các ông mở tung cửa ra đi loan báo Tin Mừng, và can đảm đối chất với những người Do-thái trong Thượng Hội Đồng để làm chứng cho Chúa. Chúng ta chỉ cần nhìn đời sống các Tông-đồ trước và sau biến cố Phục Sinh, chúng ta nhận ra sức mạnh của Thánh Thần hoạt động nới các Tông-đồ.
3.2/ Thánh Thần và tha thứ: Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” Một sự nhìn lại 4 phần chính của Bí-tích Giải Tội cho chúng ta thấy vai trò của Thánh Thần trong việc tha thứ các tội của con người:
(1) Xét mình: Thánh Thần giúp cho con người nhận ra sự thật: những gì họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Nếu không ngang qua bước đầu quan trọng này, con người không thể ăn năn, xám hối: không nhận ra tội của mình, sẽ không cần thú tội. Thánh Phêrô trong Bài Giảng đầu tiên của Ngài cho người Do-thái tại Jerusalem là một ví dụ cho điều này (Acts 2:36-38).
(2) Ăn năn và dốc lòng chừa: Thánh Thần giúp hối nhân tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa: tội của họ có thể được tha thứ nếu họ thành tâm thống hối và thú tội với các Tông-đồ và linh mục, những người đại diện của Thiên Chúa.
(3) Xưng tội: Thánh Thần giúp hối nhân can đảm đến thú tội nơi tòa cáo giải. Trong Lời Xá Giải của linh mục đọc để tha tội, chúng ta nhận thấy rõ vai trò của Thánh Thần trong Bí-tích Xá Giải: “Thiên Chúa là Cha Toàn Năng đã hòa giải với thế gian qua cái chết và sự sống lại của Con Một Ngài, lại ban Thánh Thần để tha tội. Nhờ tác vụ của Giáo Hội, xin Chúa ban cho con ơn tha thứ và bình an. Giờ đây Cha tha tội cho con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.”
(4) Đền tội và sửa chữa các khuyết điểm: Sau khi hối nhân nhận được ơn tha thứ, Thánh Thần giúp họ làm lại cuộc đời bằng việc ban các ân sủng cần thiết để họ làm lại cuộc đời và sống thánh thiện, xứng đáng như những người con cái Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn, như thánh Phaolô nói: “Thân thể anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần;” và chúng ta phải cầu nguyện thường xuyên với Ngài, nhất là những giờ phút nghi ngờ, do dự, và không biết quyết định làm sao.
- Chúng ta không thể hiểu biết và nhận ra sự thật của Thiên Chúa nếu không nhận được sự hướng dẫn của Thánh Thần. Vì thế, chúng ta phải cầu nguyện với Ngài trên đường đi tìm sự thật.
- Thánh Thần thánh hóa con người bằng cách quét sạch những xấu xa, tội lỗi; và làm đầy tâm hồn bằng sự thật và ân sủng. Ngài cũng giúp chúng ta có sức mạnh và can đảm làm chứng cho Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
“ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN’’
CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG NĂM B (24/05/2015)
[Cv 2,1-11; 1 Cr 12,3a-7.12-13); Ga 20,19-23]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Đối với các Ki-tô hữu thì việc đón nhận Thánh Thấn của Thiên Chúa là vô cùng quan trọng, vì không ai có thể sống đời sống đức tin cậy mến mà không có Thánh Thần. Vì thế mà lời mời “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” của Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh dành cho các Tông Đồ và tất cả các Ki-tô hữu là lời mời chan chứa ân tình. Có Thánh Thần các Ki-tô hữu mới có thể sống tư cách môn đệ Chúa Ki-tô trong các môi trường gia đình, nghề nghiệp và cộng đồng xã hội của mình. Đã đành mỗi Ki-tô hữu đã đón nhận Thánh Thần ngày người ấy chịu phép Rửa. Nhưng phải nói là mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng…, các Ki-tô hữu cần phải nhận lấy Thánh Thần của Chúa Ki-tô Phục Sinh, để được đổi mới liên tục và làm chứng cho Niềm Tin của mình.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 2,1-11): Ai nấy đều được tràn ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng.
1 Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, 2 bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. 3 Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. 4 Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.
5 Lúc đó, tại Giê-ru-sa-lem, có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về. 6 Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. 7 Họ sửng sốt, thán phục và nói: "Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? 8 Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? 9 Chúng ta đây, có người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, và A-xi-a, 10 có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma đến đây; 11 nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa! "
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 12,3a-7.12-13): Chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể.
3 Thưa anh em, không ai có thể nói rằng: "Đức Giê-su là Chúa", nếu người ấy không ở trong Thần Khí. 4 Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. 5 Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. 6 Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. 7 Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.
12 Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. 13 Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 20,19-23): Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa:
1°) Bài đọc 1 (Cv 2,1-11) là bài tường thuật của Sách Công vụ Tông Đồ về biến cố xảy ra trong ngày Lễ Ngũ Tuần là một lễ lớn của người Do Thái, một thời gian sau Lễ Vượt Qua. Biến cố được kể lại là sự “hiện xuống” của Thánh Thần Thiên Chúa trên các môn đệ Chúa Giê-su. Chúa Thánh Thần được nhìn thấy giống như những lưỡi lửa. Chúa Thánh Thần đổ xuống trên từng người và tràn ngập tâm hồn họ khiến những người này nói các thứ tiếng không phải ngôn ngữ của mình mà người nghe (bất kể thuộc ngôn ngữ nào) đều hiểu được điều các tông đồ nói.
2°) Bài đọc 2 (1 Cr 12,3a-7.12-13) là một đoạn của thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô trong đó trước hết Thánh Phao-lô Tông đồ khẳng định tầm quan trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống của người Ki-tô hữu; kế đến ngài giảng giải về các đặc sủng phong phú và khác nhau mà Chúa Thánh Thần ban cho bất kỳ tín hữu nào cũng nhằm ích lợi chung của Hội Thánh là Thân Mình mầu nhiệm Chúa Ki-tô; và sau cùng ngài kết luận về tính hiệp nhất của cộng đoàn kẻ tin: “Tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.”
3°) Bài Tin Mừng (Ga 20,19-23 ) là tường thuật của Thánh Gio-an Tông đồ về lần hiện ra đầu tiên của Chúa Giê-su Phục Sinh với các môn đệ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần. Trước hết Chúa Giê-su cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn là dấu tích của cuộc Khổ Nạn ba ngày trước đó. Kế tiếp Chúa Giê-su chúc bình an cho các môn đệ và giao cho các ông sứ mạng rao giảng Tin Mừng Cứu Độ mà Người đã nhận từ Thiên Chúa Cha. Và sau cùng Chúa Giê-su ban Thánh Thần và quyền tha tội cho các môn đệ của Ngài.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Thánh Thần của Chúa Giê-su (cũng là Thần Khí của Thiên Chúa) đã được ban cho các tín hữu là môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã chết và phục sinh. Vậy việc quan trọng nhất là chúng ta hãy nhận lấy Thánh Thần như chính Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh mời gọi: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”
Thánh Thần Thiên Chúa sẽ củng cố và đổi mới niềm tin Ki-tô của mỗi người và sẽ gắn kết mọi người thành một cộng đoàn hiệp nhất. Thánh Thần sẽ ban sức mạnh cần thiết để mọi người thực hiện sứ mạng rao giảng, làm chứng cho Tin Mừng và phục vụ con người như chính Chúa Giê-su Ki-tô đã thực hiện và mời gọi các môn đệ làm theo.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, Đấng thực hiện mọi công trình tạo dựng, cứu độ và thánh hóa các tín hữu và ban cho họ tràn đầy ân sủng mà làm vinh danh Thiên Chúa và xây dựng Hội Thánh là Cộng đoàn của Chúa Ki-tô Phục Sinh.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta mở lòng, mở trí, mở linh hồn và cuộc sống của chúng ta để Chúa Thánh Thần ngự vào và tự do hoạt động, bằng hai cách:
(a) Nỗ lực canh tân đời sống, xây dựng sự hiệp thông trong cộng đoàn, dùng những ơn huệ Chúa Thánh Thần đã ban, nhất là những đặc sủng, mà phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa và Hội Thánh.
(b) Thực hiện những gợi ý, soi sáng, thúc đẩy của Chúa Thánh Thần mà chúng ta nhận được, khi chúng ta cầu nguyện, dâng thánh lễ, nghe giảng, đọc Thánh Kinh, tĩnh tâm và tiếp xúc với người nghèo.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI & HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người trong thế giới hôm nay để họ nhận ra dấu chỉ của Thiên Chúa trong đời sống cá nhân và xã hội mà tin vào Thiên Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa được tràn đầy Thánh Thần mà nói Lời Chúa cho những người xung quanh.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy biết mở lòng mở trí nhận lấy Thánh Thần của Chúa Ki-tô Phục Sinh.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị lãnh đạo trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội, để các vị ấy biết thục thi quyền bính của mình, cách bao dung và nhân ái, mà đem lại sự bình an và hạnh phúc cho mọi người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- 23/5 Phải rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh
- 22/5 Người môn đệ phải lãnh trách nhiệm coi sóc và hy sinh cho đoàn chiên
- 21/5 Chia rẽ và hiệp nhất
- 20/5 Nỗi quan tâm của mục tử khi phải rời bỏ đoàn chiên của mình
- 19/5 Nhìn lại công cuộc rao giảng Tin Mừng
- 18/5 Ngôn ngữ xử dụng trong việc rao giảng Tin Mừng
- 17/5 Chúa Giêsu lên trời.
- 17/5 Loan báo tin mừng cho người thời nay
- 16/5 Cùng nhau hoạt động để mang Ơn Cứu Độ cho mọi người
- 15/5 Cần phải trung thành trong mọi hoàn cảnh