Sống Lời Chúa Hôm Nay
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật Lễ Mình Máu Chúa, Năm B
Bài đọc: Exo 24:3-8; Heb 9:11-15; Mk 14:12-16, 22-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu hy sinh Mình và Máu Người cho chúng ta được sống.
Mỗi năm, tại các quốc gia trên thế giới, người ta thường có một ngày đặc biệt (Memorial Day) để tưởng nhớ các chiến sĩ đã bỏ mình vì chính nghĩa. Đây là những con người đã hy sinh bản thân bằng cách đổ máu, để bảo vệ tổ quốc và dân lành khỏi kẻ thù. Ngày Lễ Mình và Máu Thánh Chúa hôm nay, chúng ta cũng dành để tưởng niệm Đức Kitô, không những đã hy sinh thân mình và đổ máu cứu con người khỏi chết, cho con người được sống đời đời, mà còn muốn ở với con người mọi ngày cho đến tận thế, qua việc thiết lập Bí-tích Thánh Thể. Ngài có thể làm những chuyện này vì Ngài có uy quyền và Ngài yêu thương con người.
Các Bài Đọc hôm nay tường thuật tình yêu Thiên Chúa qua các việc Ngài làm để cứu chuộc con người. Trong Bài Đọc I, vì con người không ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, nên để được tha tội, con người cần dâng các súc vật. Máu của các súc vật đổ ra để cho con người khỏi chết và được sống. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái so sánh lễ vượt qua và giao ước Sinai được thực hiện qua ông Moses, với lễ vượt qua và giao ước mới, được thực hiện qua Đức Kitô. Ngài là Bánh Không Men và Chiên Vượt Qua của giao ước mới, sẵn sàng hy sinh để chết thay cho con người, và làm cho họ được sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sai các môn đệ vào thành Jerusalem để chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Đang khi dùng bữa, Ngài đã thiết lập Bí-tích Thánh Thể, để hiến Mình và Máu cho con người được sống cả đời này và đời sau. Ngài cũng truyền cho các môn đệ phải làm những điều đó thường xuyên để tưởng nhớ đến Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giao ước Sinai được chứng thực bằng máu của chiên bò.
1.1/ Thiên Chúa thiết lập giao ước trên núi Sinai với dân người: Trước khi tiến vào Đất Hứa, Thiên Chúa muốn thiết lập với dân người một giao ước. Vì con người không thể chịu nổi khi Thiên Chúa muốn nói với họ; nên họ đã xin Thiên Chúa nói với họ qua ông Moses. Sau khi đã nhận chỉ thị của Thiên Chúa, ông Moses xuống thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: "Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành." Giao ước là một thỏa thuận của hai bên chính thức ký kết một số điều để bảo vệ nhau. Theo giao ước Sinai, Thiên Chúa hứa sẽ bảo vệ dân, và dân hứa sẽ thi hành mọi điều luật của Ngài.
"Ông Moses chép lại mọi lời của Đức Chúa. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Israel. Rồi ông sai các thanh niên trong dân Israel dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa. Ông Moses lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: "Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo.""
1.2/ Giao ước được ký kết bằng máu chiên bò: "Bấy giờ, ông Moses lấy máu rảy lên dân và nói: "Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này."" Người Do-thái quan niệm: "máu là sự sống." Khi giao ước được ký kết bằng máu, họ lấy sự sống mà thề với Thiên Chúa là họ sẽ giữ Lề Luật của Ngài; nhưng họ đã vi phạm giao ước nhiều lần sau khi đã ký kết với Thiên Chúa. Để được tha thứ, Thiên Chúa truyền cho họ phải sát tế các súc vật để lấy máu làm của lễ hy sinh đền tội cho họ, như Sách Levi viết: "vì mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta đã ban máu cho các ngươi, trên bàn thờ, để cử hành lễ xá tội cho mạng sống các ngươi. Thật vậy, máu xá tội được vì nó là mạng sống. Vì thế, Ta đã bảo con cái Israel: Không một ai trong các ngươi được ăn huyết, ngoại kiều sống giữa các ngươi cũng không được ăn huyết." (Lev 17:11-12).
2/ Bài đọc II: Người đã vào cung thánh không phải với máu súc vật, nhưng với Máu của Mình.
2.1/ Máu của giao ước cũ và máu của giao ước mới: Máu của giao ước cũ chỉ là hình ảnh và phải được kiện toàn bằng Máu của giao ước mới. Tác giả Thư Do-thái đã so sánh một cách chi tiết hai giao ước cũ và mới, rồi đưa đến kết luận như sau: Giao ước mới hoàn hảo hơn giao ước cũ: "Nhưng Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta." Đức Kitô là Thượng Tế cao trọng hơn tất cả các thượng tế, vì các lý do sau:
(1) Ngài không phải dâng lễ đền tội cho mình vì Ngài không có tội; trong khi các thượng tế khác phải dâng lễ đền tội cho mình trước khi dâng lễ đền tội cho người khác.
(2) Ngài tự nguyện hy sinh chính Mình để làm của lễ đền tội cho con người, và chỉ cần một lần là đủ. Từ nay, con người không cần phải dâng lễ vật chiên bò mỗi khi phạm tội nữa.
(3) Các Thượng Tế mỗi năm chỉ được vào trong Nơi Cực Thánh của Đền Thờ (nơi Thiên Chúa hiện diện) một lần trong Ngày Xá Tội, Đức Kitô vào một cung thánh hoàn hảo hơn trên trời, và Ngài luôn luôn ngự bên hữu Thiên Chúa để chuyển cầu cho con người. Khi chịu chết, Đức Kitô đã xé tan bức màn ngăn cách giữa hai nơi thánh và cực thánh trong Đền Thờ; vì thế, tất cả mọi người đều có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa qua Đức Kitô bất cứ lúc nào.
(4) Máu của Đức Kitô không thể so sánh với máu của chiên bò: "Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống." Thứ nhất, Máu của Đức Kitô đổ ra là máu tình nguyện, "làm theo ý Thiên Chúa;" chứ không phải máu của các súc vật bị bắt phải đền tội. Thứ hai, Máu của Đức Kitô là Máu của Con Thiên Chúa. Sau cùng, Máu của Đức Kitô đổ ra không những có sức thanh tẩy tội lỗi, còn có sức thánh hóa và thông ban cho con người sức sống thần linh.
2.2/ Công dụng của máu:
(1) Thanh tẩy: Máu của thân thể luân chuyển để lọc bỏ các chất dơ trong các phần của thân thể. Máu của giao ước cũ là máu của súc vật đổ ra để thanh tẩy tội lỗi cho con người. Máu của giao ước mới thanh tẩy tội lỗi cho con người một lần là đủ: "Bởi vậy, Người là trung gian của một giao ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ. "
(2) Nuôi sống: Máu là biểu tượng của sự sống vì máu luân chuyển và nuôi dưỡng mọi phần của thân thể. Máu các súc vật đổ ra để chết thay cho con người. Máu Đức Kitô đổ ra để chết thay cho con người và khôi phục lại sự sống đời đời cho con người: "Máu Đức Kitô đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa."
(3) Liên kết: Máu liên kết các phần của thân thể với nhau. Trong Cựu Ước, ngày lễ Xá Tội (Yon Kippur) được mệnh danh là "at-one-ment = trở thành một," để liên kết con người với Thiên Chúa và với nhau. Trong Tân Ước, máu của Đức Kitô liên kết chúng ta, những chi thể của một thân thể là Giáo Hội, với Đức Kitô là Đầu.
3/ Phúc Âm: "Đây là máu Thầy, máu giao ước mới, đổ ra vì muôn người."
3.1/ Lễ Vượt Qua của Đức Kitô: có bối cảnh lịch sử từ Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Trong biến cố Vượt Qua này, Thiên Chúa giải thoát dân tộc Do-thái khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập, và đem họ vào vùng Đất Hứa tràn trề sữa và mật. Chúa Giêsu cũng ví Cuộc Thương Khó của Người như một vượt qua: "khi biết đã đến giờ Người sắp sửa từ giã cuộc đời này để về với Thiên Chúa" (Jn 13:1). Trong Lễ Vượt Qua cũ, bánh không men và chiên vượt qua là hai thứ không thể thiếu để mừng lễ: máu chiên dùng để bôi trên cửa nhà, để thiên thần vượt qua mà không vào sát hại như sát hại các con đầu lòng của người Ai-cập.
3.2/ Chúa Giêsu thiết lập Bí-tích Thánh Thể: Trong Lễ Vượt Qua mới, bánh không men chính là Mình Chúa Giêsu, như trình thuật kể: "Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." Chiên Vượt qua mới là máu của Đức Kitô: "Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu giao ước, đổ ra vì muôn người."
Trong Cuộc Vượt Qua mới, Đức Kitô cũng giải thoát con người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết bằng chính Mình và Máu của Ngài. Sau khi ăn Lễ Vượt Qua, người Do-thái phải lên đường bắt đầu cuộc hành trình qua Biển Đỏ. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng thế, sau khi đã thiết lập Bí-tích Thánh Thể, Chúa Giêsu và các môn đệ hát thánh vịnh, Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ ra núi Olive để cầu nguyện và chịu thử thách.
Cuộc sống của mỗi người cũng thế, sau khi đã lãnh nhận thần lương của Bí-tích Thánh Thể, chúng ta cũng phải vào cuộc đời để đương đầu với những khó khăn và thử thách hằng ngày của cuộc sống như: bệnh tật; học hành và công ăn việc làm; bất đồng, hiểu lầm, chia rẽ, và hận thù đến từ các mối liên hệ với tha nhân, cộng thêm vào những lo lắng tương lai... Chính sự sống thần linh nhận được từ Bí-tích Thánh Thể sẽ giúp chúng ta có đủ sức mạnh và nghị lực, để vượt qua tất cả các khó khăn này. Nếu không năng lãnh nhận thần lương, làm sao chúng ta tìm được sức mạnh để vượt qua các khó khăn của cuộc sống?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Bí-tích Thánh Thể là Bí-tích tình yêu. Vì yêu nên Đức Kitô đã lập ra để ở lại với con người mỗi ngày cho đến tận thế. Chúng ta cần năng lãnh nhận Bí-tích này để xin Ngài gia tăng tình yêu cho chúng ta.
- Bí-tích Thánh Thể là Bí-tích đem lại sự sống. Chúng ta không chỉ sống cách thể lý; nhưng phải sống đời sống thiêng liêng. Bí-tích Thánh Thể cung cấp sức mạnh tinh thần, để chúng ta có nghị lực vui sống và vượt qua các khó khăn mỗi ngày.
- Bí-tích Thánh Thể là Bí-tích hiệp nhất. Bí-tích này liên kết con người với Thiên Chúa và với nhau. Để có thể chung sống hài hòa, chúng ta cần năng lãnh nhận Bí-tích này.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
GIAO ƯỚC TÌNH YÊU!'' CHÚA NHẬT X THƯỜNG NIÊN NĂM B
LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ (07/06/2015)
[Xh 24,38; Dt 9,1115; Mc 14, 1216.2226]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Bao lâu các công ty, xí nghiệp chưa ký kết được các hợp đồng làm ăn buôn bán thì
các công ty, xí nghiệp ấy còn bị đe dọa bởi tình trạng thiếu việc làm sẽ dẫn tới việc
đóng cửa. Bao lâu các nước trong một vùng chưa ký kết được với nhau những hiệp
ước an ninh, hòa bình thì bấy lâu các nước ấy còn bị đe dọa bởi xung đột và chiến
tranh. Bao lâu loài người chưa có được một giao ước với Thiên Chúa thì loài người
còn sống trong vô vọng. Nhưng Thiên Chúa đã đi bước trước trong việc thiết lập
giao ước tình yêu với loài người khi Người cứu Ítraen khỏi cảnh nô lệ Aicập và
ký kết với họ giao ước Xinai. Đó là giao ước cũ và là hình bóng của một giao ước
mới mà Thiên Chúa đã ký kết mấy ngàn năm sau với toàn nhân loại nơi Con Một
Yêu Dấu của Người. Giao ước cũ được ký kết bằng/nhờ máu chiên bò. Còn giao
ước mới được ký kết bằng/nhờ Máu Châu Báu của Chúa Giêsu Kitô, Con Một
Thiên Chúa đã đổ ra trên thập giá. Chúng ta mừng Lễ Mình Máu Thánh Chúa trong
tâm tình cảm tạ tri ân khi hiện tại hóa Giao Ước Tình Yêu ở núi Xinai và đồi Golgotha!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Xh 24,38): Đây là máu Giao Ước Thiên Chúa đã lập với
anh em.
3 Ngày từ núi Xinai xuống, ông Môsê thuật lại cho dân mọi lời của Đức Chúa và
mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: "Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ
thi hành." 4 Ông Môsê chép lại mọi lời của Đức Chúa. Sáng hôm sau, ông dậy sớm,
lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ítraen.
5 Rồi ông sai các thanh niên trong dân Ítraen dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò
làm hy lễ kỳ an tế Đức Chúa. 6 Ông Môsê lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái
chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. 7 Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân
nghe. Họ thưa: "Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân
theo." 8 Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy lên dân và nói: "Đây là máu giao ước Đức
Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này."
2.2 Trong bài đọc 2 (Dt 9,1115): Máu của Đức Kitô thanh tẩy lương tâm
chúng ta.
11 Thưa anh em, Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương
lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không
do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. 12 Người
đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của
mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho
chúng ta. 13 Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy
lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở
nên trong sạch, 14 thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh
Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên
Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự
chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. 15 Bởi vậy, Người là
trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta
đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi
quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa.
2.3 Trong bài Tin Mừng(Mc 14,1216.2226): Đây là Mình Thầy. Đây là Máu
Thầy,
12 Hôm ấy nhằm ngày thứ nhất trong tuần Bánh không men, là ngày sát tế chiên
Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho
Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?"
13 Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: "Các anh đi vào
thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó.
14 Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: "Cái phòng dành
cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? 15 Và ông ấy sẽ chỉ cho các
anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy
dọn tiệc cho chúng ta." 16 Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y
như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
22 Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao
cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." 23 Và Người cầm chén
rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. 24 Người bảo
các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. 25 Thầy bảo thật
anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày
Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa." 26 Hát thánh vịnh xong, Đức Giê
su và các môn đệ ra núi Ôliu.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG
BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa
1o) Bài đọc 1 (Xh 24,38): là một đoạn văn hết sức quan trọng của Cựu Ước vì cho
chúng ta biết Thiên Chúa của Ítraen (và của hết mọi dân, mọi nước) là Đấng Thiên
Chúa nào. Đó là Thiên Chúa của Tình Yêu và của Giao Ước. Vì yêu thương, Người
đã chọn Ítraen làm dân riêng và đã ban cho họ các điều luật để họ cứ đó mà sống
và sẽ được hạnh phúc. Vì đã ký kết Giao ước với Ítraen, Người sẽ trung tín thực
hiện mọi lời hứa với dân riêng của Người và với cả nhân loại. 2o) Bài đọc 2 (Dt 9,1115): Thánh Phaolô trình bày Chúa Giêsu vừa là Vị Thượng
Tế của Thiên Chúa, vừa là Của Lễ của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Người đã dùng chính Máu mình mà đền tội nhân loại và thanh tẩy các tâm hồn, làm
cho con người nên trong trắng tinh tuyền đẹp lòng Thiên Chúa. Máu xúc vật và nghi
lễ của Cựu Ước chỉ là hình bóng của Hy Lễ Thập Giá của Con Một Thiên Chúa là
Chúa Giêsu Kitô!
3o) Bài Tin Mừng (Mc 14,12.2226): là tường thuật của Phúc Âm Máccô về Bữa
Ăn Tối cuối cùng của Chúa Giêsu với các Tông đồ. Trong bữa ăn lịch sử ấy. Chúa
Giêsu đã công bố một điều tuyệt diệu và hết sức bất ngờ: "Anh em hãy cầm lấy
bánh này mà ăn vì đây là Mình Thầy sẽ bị giao nộp vì anh em; anh em hãy cầm lấy
chén rượu này mà uống vì đây là Máu Thầy, Máu Giao ước đổ ra vì muôn người." Đức Giêsu đã trở thành lương thực cho các môn đệ được sống. Người đã chuộc tội
chúng sinh bằng chính Máu và Mạng Sống của mình để Giao ước giữa Thiên Chúa
và nhân loại được lặp lại và được nâng lên một tầm cao mới.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Thiên Chúa đã yêu thương và tuyển chọn chúng
ta làm dân riêng của Người và đã ký kết với chúng ta một Giao Ước Tình Yêu
bằng/nhờ hy tế thập giá của Con Một Người là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đổ hết
Máu mình ra để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta là dân của Giao Ước Tình Yêu nên
có nghĩa vụ thi hành mọi lời Đức Chúa đã phán.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần (Chúa Ba Ngôi) Đấng đã ký
kết Giao Ước Tình Yêu với loài người để loài người được sống trong tình nghĩa với
Người. 4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là đáp lại sự Chọn Lựa và Tình Yêu của
Thiên Chúa, là tuân giữ các điều khoản của Giao Ước Tình Yêu, bằng những cách
cụ thể như:
(1o) Luôn có tâm tình và lời kinh cảm tạ về
(a) Sự chọn lựa yêu thương và vô vị lợi của Thiên Chúa,
(b) Hy Lễ Thập Giá mà Chúa Giêsu đã dâng lên Chúa Cha để đền tội và cứu vớt
chúng ta.
(2o) Chỉ phụng thờ một mình Thiên Chúa mà thôi và tuân giữ các giới răn yêu
thương và công bình trong đời sống cá nhân và xã hội. V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Xin đề nghị một trong hai cách cầu nguyện dưới đây:]
* Lời nguyện giáo dân:
5.1 «Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em.» Chúng ta hiệp lời cầu
nguyện cho ngày càng có nhiều người đón nhận giao ước của Thiên Chúa với loài
người nơi Con Một Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô. Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.2 «Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai.»
Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả mọi người được hưởng phúc lộc mà Chúa
Kitô đã đem lại cho những kẻ tin, bằng cuộc sống và cái chết thập giá của Người.
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.3 «Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ
ra vì muôn người.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả các Kitô hữu biết
siêng năng và trận trọng lãnh nhận Mình Máu Chúa để được kết hợp với Chúa Giê
su Kitô trong Lễ Tế Tạ Ơn và Chuộc Tội.
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.4 «Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn
toàn dâng lên Thiên Chúa.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho chính chúng ta biết
dâng hiến đời mình như của lễ Tạ Ơn theo gương Chúa Giêsu Kitô! Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
* Hoặc lời cầu nguyện tự phát sau đây:
1. Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha
đã ký kết giao ước tình yêu với Ítraen và nhân loại, để chúng con trở thành Dân
Giao Ước và được làm hòa cùng Cha là Đấng mà chúng con hằng xúc phạm. Chúng
con nguyện thi hành và tuân theo mọi lời Cha đã phán dậy!
2. Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa
vì Chúa đã hiến mình làm Của Lễ Đền Tội cho chúng con được giao hòa với Thiên
Chúa. Chúa còn biến mình thành bánh và rượu nuôi dưỡng chúng con trong Bí Tích
Thánh Thể. Chúng con nguyện sẽ siêng năng và sốt sáng đến với Thánh Thể Chúa!
3. Lạy Chúa Thánh Thần, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì
Chúa luôn hiện diện và cùng hoạt động với Chúa Cha và Chúa Con trong lễ ký kết
giao ước Xinai và Golgotha. Chúng con nguyện sống dưới sự hướng dẫn và thúc
đẩy của Chúa để trở thành hiến tế đẹp lòng Thiên Chúa, theo gương Chúa Giêsu
Kitô!
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 9 TN1, Năm B
Bài đọc: Tob 12:1, 5-15, 20; Mk 12:38-44.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm thế nào để sống mối liên hệ với Thiên Chúa?
Trong tương quan giữa người với người, mối liên hệ nào cũng đòi phải có hai chiều: chiều cho đi và chiều nhận lại; thì mới thăng bằng và tiến triển được. Trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người cũng thế, Thiên Chúa sẽ yêu thương, chúc lành, bảo vệ ... nếu con người yêu thương Thiên Chúa, và tuân giữ những gì Ngài dạy. Ngược lại, nếu con người không yêu thương và ăn ở theo đường lối của Thiên Chúa, Ngài sẽ để mặc họ cho kẻ thù tha hồ tấn công tứ phía.
Các Bài Đọc hôm nay mở mắt cho chúng ta phải luôn biết sống đúng đắn mối liên hệ với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, thiên sứ Gabriel sau cùng đã mặc khải cho cha con ông Tobit về căn tính và sứ vụ của ngài được Thiên Chúa trao phó. Đồng thời, thiên sứ cũng mặc khải hai bổn phận quan trọng con người phải chu toàn: (1) phải luôn khen ngợi và chúc tụng danh Chúa, (2) phải luôn ăn ngay ở lành hết mọi ngày trong cuộc sống. Nếu con người chu toàn bổn phận của mình, Thiên Chúa sẽ sai sứ thần bảo vệ và ban muôn ơn lành cho con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cảnh cáo con người khi làm các việc thờ phượng và khi đóng góp vào nhà thờ. Mục đích của việc thờ phượng là làm thăng hoa mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa, chứ không phải vì bất kỳ lý do nào khác. Mục đích của việc đóng góp là trả lại cho Thiên Chúa những ơn lành Ngài đã đổ xuống trên con người, chứ không phải chỉ là cho đi của dư thừa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy chúc tụng Thiên Chúa về những điều tốt lành Người đã làm cho cha con ông.
1.1/ Bổn phận của con người đối với Thiên Chúa:
(1) Phải luôn ngợi khen Thiên Chúa: Thiên sứ Raphael kín đáo gọi hai cha con lại và nói: "Hãy chúc tụng Thiên Chúa và tuyên xưng Người trước toàn thể sinh linh, về những điều tốt lành Người đã làm cho cha con ông. Hãy chúc tụng và ca ngợi danh Người! Những việc Thiên Chúa đã làm, hãy long trọng tỏ cho mọi người biết. Đừng ngần ngại xưng tụng Người! Giữ kín bí mật của vua là điều tốt đẹp; nhưng công trình của Thiên Chúa, thì phải tỏ bày và long trọng xưng tụng." Việc làm của Thiên Chúa khác với việc làm của vua chúa, Ngài chẳng cần chi phải giữ bí mật cả, nhưng muốn cho càng nhiều người biết tới càng tốt.
(2) Phải luôn cố gắng ăn ngay ở lành: Hãy làm điều lành thì cha con ông sẽ không gặp điều dữ. "Cầu nguyện kèm theo đời sống chân thật, bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công; làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc. Việc bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người làm phúc bố thí sẽ được sống lâu. Những ai phạm tội ăn ở bất công là kẻ thù của chính mình."
1.2/ Thiên sứ Raphael là khí cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cho cha con ông Tobit và cô Sarah: Thiên sứ nói: "Tôi sẽ tỏ cho ông và con ông biết tất cả sự thật, không giấu diếm chi."
(1) Thiên Chúa có mắt, có tai: Mắt và tai của Thiên Chúa là các thiên-sứ của Ngài; không một điều gì con người nói hay làm mà Thiên Chúa không biết. Chính thiên-sứ Raphael mặc khải cho cha con ông Tobit: "Hãy biết rằng khi ông và cô Sarah cầu nguyện, chính tôi đã tiến dâng những lời cầu nguyện đó lên trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, để xin Chúa nhớ đến hai người; tôi cũng làm như vậy khi ông chôn cất người chết. Và khi ông không ngại trỗi dậy, bỏ dở bữa ăn để đi chôn cất người chết, bấy giờ tôi được sai đến bên ông để thử thách ông."
(2) Thiên Chúa có tay để chữa lành: "Thiên Chúa cũng sai tôi chữa lành cho ông và cô Sarah, con dâu ông. Tôi đây là Raphael, một trong bảy thiên sứ luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Đức Chúa."
2/ Phúc Âm: Bà góa này rút từ cái túng thiếu của mình để bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.
2.1/ Những điều con người cần đề phòng khi làm việc thờ phượng: Mục đích của việc thờ phượng là đưa con người tới Thiên Chúa. Vì thế, phải tránh tất cả những gì chia trí, làm ngăn cản con người không hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa. Một số các chia trí được Chúa Giêsu liệt kê:
(1) Thói thích phô trương quần áo: "Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng." Điều này có thể được áp dụng cho cả các linh mục và giáo dân thời nay: có nhiều người chú trọng đến quần áo bên ngoài hơn những chuẩn bị trong tâm hồn để gặp gỡ Chúa.
(2) Thói thích được chào hỏi, khen ngợi: Có những người "thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng." Nhiệm vụ của tư tế là đưa con người đến với Thiên Chúa. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ông vẫn chỉ là người đầy tớ vô dụng của Thiên Chúa: ông hoàn thành bổn phận đã được Thiên Chúa trao cho ông để làm (Lk 17:10). Thói quen này có thể ngăn cản các ngôn sứ nói lời của Thiên Chúa, mà chú trọng đến nói những gì để người khác khen và vỗ tay tán thưởng.
(3) Thói thích được danh dự: "Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc." Con người háo danh thường thích được điều này. Người sứ giả của Thiên Chúa được khuyến khích làm ngược lại, vì: "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống."
(4) Lợi dụng việc đạo đức để kiếm tiền: "Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn." Việc lạm dụng các Bí-tích để kiếm lợi nhuận cho cá nhân đã từng xảy ra, và bị kết án nặng nề trong thời Phục Hưng.
2.2/ Khi cho đi, không phải chỉ cho của dư thừa: Đa số người Việt-nam chúng ta quan niệm không đúng về việc bỏ tiền vào nhà thờ, ví dụ hôm nay cho chúng ta một cái nhìn đúng đắn về bổn phận đóng góp vào Nhà Chúa. Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao:
(1) Phải đóng góp bằng của cần dùng:
+ Người giầu: Chúa nhìn thấy có lắm người giàu có bỏ thật nhiều tiền, nhưng Chúa không khen họ khi Ngài nói: "Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó."
+ Có một bà goá nghèo: Bà đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma. Đức Giêsu liền nói với các môn đệ: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết; vì bà này rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình."
(2) Phải tin nơi sự quan phòng của Thiên Chúa: Luật Do-thái nói rõ, dân chúng phải đóng góp 10% những gì họ thu thập được; ví dụ, nếu một tuần thu thập được 400 đồng, tiền bỏ vào nhà thờ sẽ phải là 40 đồng, nhưng rất ít người thời nay có được thói quen này. Một điều con người cần tập là tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa: Nếu con người bác ái cho đi, Thiên Chúa nhân từ sẽ rộng lượng cho lại; nhưng nếu con người cứ bo bo giữ của, làm sao họ có kinh nghiệm sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa?
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không chỉ thờ phượng Thiên Chúa bằng những lời ca ngợi; nhưng còn phải tỏ tình yêu chân thành bằng việc giữ các điều răn của Ngài.
- Khi làm việc thờ phượng, chúng ta phải chú trọng đến chiều kích tâm linh. Đừng để bị chia trí và lôi cuốn vì người khác hay vì những lợi nhuận vật chất.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần 9 TN, Năm B
Bài đọc: Tob 11:5-15; Mk 12:35-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự cần thiết của thời gian.
Con người bị lệ thuộc vào thời gian; Thiên Chúa làm chủ thời gian. Con người khi làm bất cứ việc gì đều muốn có kết quả ngay; nhưng Thiên Chúa đòi con người phải chờ đợi. Trong thực tế, làm việc gì cũng cần phải có thời gian, trước khi nhìn thấy kết quả: trồng cấy, học hành, đầu tư ... Trong việc tập luyện nhân đức cũng thế: thời gian cần để thử luyện đức tin để phân biệt đức tin vững vàng với đức tin yếu kém; thời gian cần để chứng minh đâu là tình yêu chung thủy với tình yêu qua đường; thời gian cần để đào tạo sự kiên trì và trung thành, thay vì những nông nổi và cảm xúc nhất thời.
Bắt đầu Sách Tobit, chúng ta đã đặt hai câu hỏi: "Thiên Chúa có thấy những việc lành con người làm hay không?" và "Tại sao người lành phải đau khổ?" Lý do của hai câu hỏi là vì ông Tobit luôn cố gắng ăn ở theo sự thật: cho con đi mời người nghèo về để cùng ăn uống chung, chôn xác kẻ chết; nhưng ông vẫn bị mù và bị châm biếm bởi vợ! Trình thuật trong Bài Đọc I hôm nay cho thấy kết quả của những cố gắng của ông Tobit: ông được khỏi mù, ông lấy được tiền đã gởi người khác, ông đã lấy được vợ cho con ông và đã chữa cô ta khỏi ách nô lệ của quỉ Asmodeus. Điều này chứng minh: Tất cả mọi chuyện tốt đẹp xảy ra cho những ai cố gắng ăn ở theo sự thật và vững lòng trông cậy nơi Thiên Chúa. Điều quan trọng là phải kiên trì và trung thành, chứ không được đòi hỏi phải có kết quả ngay.
Trong Phúc Âm, vì con người lệ thuộc thời gian, nên đa số không hiểu: làm sao Đức Kitô có thể trở thành Chúa Thượng của vua David được, vì Ngài có sau David cả 1,500 năm? Nhưng Chúa Giêsu muốn con người phải suy nghĩ khi Ngài trích dẫn lời Thánh Vịnh 110:1 này để tìm hiểu đâu là sự thật, vì lời Kinh Thánh không thay đổi, và chính vua David đã nói như vậy. Họ chỉ còn một cách hiểu là chấp nhận mặc khải của Đức Kitô: "Trước khi Abraham có, Ta đã có, vì Ta Hằng Hữu." Chỉ khi Chúa Giêsu nhập thể, Ngài mới có sau David, khi xét theo gia phả con người mà thôi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Được con chữa khỏi mù, lấy được vợ cho con, và đòi được nợ.
1.1/ Thiên-sứ Raphael hướng dẫn Tobia chữa ông Tobit khỏi mù:
(1) Tình cha con: Đức tin của ông Tobit và những việc lành của ông đã ảnh hưởng rất lớn trên đức tin và cách hành xử của Tobia con ông. Chúng ta có thể đan cử ít ví dụ: Tobia tuyệt đối vâng lời cha và thiên sứ; cậu lấy Sarah không phải vì tình dục nhưng vì tình yêu chân thành; cậu luôn lo lắng đến bệnh tình của cha. Đây phải là gương sáng cho những người cha trong gia đình: Nếu các ông muốn con cái kính sợ Thiên Chúa, các ông hãy kính sợ Thiên Chúa trước. Nếu các ông muốn con cái ăn ngay ở lành, hãy làm trước và tạo cơ hội cho các con ăn ngay ở lành.
Kế hoạch chữa mắt cho ông Tobit đã nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa, khi Ngài gởi thiên sứ Raphael đến cho gia đình. Trước khi về đến nhà, thiên sứ Raphael nói lời chỉ dẫn cho Tôbia trước khi cậu đến gần cha: "Tôi biết là mắt cha em sẽ mở ra. Hãy tra mật cá vào mắt ông. Thuốc sẽ làm cho các sẹo trắng teo lại và bay ra khỏi mắt ông. Cha em sẽ thấy lại được, sẽ nhìn thấy ánh sáng."
Khi được vợ cho biết Tobia đang tiến về nhà, ông Tobit đứng lên, chân đi loạng quạng bước qua cửa sân mà ra. Tobia đi về phía ông, tay cầm mật cá; cậu thổi vào mắt ông. Cậu giữ chặt lấy ông và nói: "Thưa cha, xin cha cứ tin tưởng!" Cậu bôi thuốc cho ông và để thuốc ngấm. Rồi cậu lấy hai tay bóc vẩy ra khỏi khoé mắt ông. Ông ôm choàng lấy cổ cậu, vừa khóc vừa nói: "Con ơi, cha đã thấy con! Con là ánh sáng cho đôi mắt cha!"
(2) Tình mẹ con: Bà Anna chắc chắn thương con, vì bà Anna luôn ngồi, ngó trước ngó sau con đường mà con bà đã ra đi. Bà cũng lo cho gia đình khi phải bươn chải ra ngoài kiếm đồng tiền về lo cho gia đình khi chồng bị mù. Bà chỉ có một khuyết điểm là đã không kiên nhẫn và không cầm được tính nóng giận, khi nghi ngờ sự quan phòng của Thiên Chúa và chất vấn về thái độ "quá đạo đức" của chồng mình. Nếu chồng con của Bà nghe lời Bà, và quay lưng lại với Thiên Chúa, làm sao Bà hưởng được những kết quả tốt đẹp như hôm nay. Vì thế, các bà mẹ trong gia đình đừng đay nghiến chồng khi thấy các ông "quá đạo đức;" nhưng hãy lo lắng nhiều khi các ông không đạo đức và không sống theo sự thật Thiên Chúa dạy.
Thấy cậu đang đến, bà bảo cha cậu: "Này con ông đang đến với người bạn đồng hành của nó!" Rồi Bà Anna chạy đến ôm choàng lấy cổ con và nói: "Con ơi, mẹ lại thấy con! Từ nay, mẹ có chết cũng được!" Rồi bà khóc oà lên.
1.2/ Tobia báo cho cha biết mọi điều ông muốn được thành công: Tobia hoan hỷ bước vào nhà, miệng vang lời chúc tụng Thiên Chúa. Tobia kể cho cha cậu biết là cuộc hành trình của cậu đã thành công, cậu đã mang bạc về, đã cưới vợ là cô Sarah, con gái ông Raguel như thế nào, và hiện giờ cô sắp tới, đang tiến gần đến cửa thành Nineveh. Khi nghe con tường thuật kết quả chuyến đi, ông Tobit lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa: "Chúc tụng Thiên Chúa! Chúc tụng Danh cao trọng của Người. Chúc tụng mọi thiên sứ thánh thiện của Người! Ước gì Danh cao trọng của Người che chở chúng ta! Chúc tụng mọi thiên sứ đến muôn đời! Vì tôi đã bị Người đánh phạt, nhưng nay lại được thấy Tobia, con tôi!"
2/ Phúc Âm: Sao các kinh sư lại nói Đấng Kitô là con vua David?
Thiên Chúa hằng hữu, Ngài không lệ thuộc vào thời gian; nhưng trong Kế Hoạch Cứu Độ, Ngài muốn cho Con của Ngài nhập thể. Khi Chúa Giêsu nhập thể, Ngài chịu lệ thuộc vào thời gian. Một cách giúp chúng ta có thể hiểu câu hỏi này, là cách cắt nghĩa theo hai bản tính:
(1) Theo nhân tính: Đức Kitô là con vua David vì Ngài xuất thân từ giòng dõi của David, như Matthew đã cẩn thận chép lại (Mt 1:1-18).
(2) Theo thiên tính: Ngài luôn hiện hữu và cao trọng hơn vua David, vì "chính vua David được Thánh Thần soi sáng đã nói: Đức Chúa (Chúa Cha) phán cùng Chúa Thượng tôi (Đức Kitô): bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con." Chúa Giêsu muốn chứng minh thiên tính của Người bằng cách trưng dẫn lời Thánh Vịnh 110:1 này. Ngài mời gọi đám đông suy nghĩ: "Chính vua David gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì Đấng Kitô lại là con vua ấy thế nào được?" Đám đông phải đi tới kết luận như Gioan Tẩy Giả: Người đến sau tôi nhưng Người có trước tôi và cao trọng hơn tôi; phần tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Người (Jn 1:15, 27).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Con người chúng ta không đủ khôn ngoan để thắc mắc sự quan phòng của Thiên Chúa. Khi nào không hiểu được những biến cố xảy ra trong cuộc đời, hãy biết khiêm nhường xin Thiên Chúa soi sáng để có thể hiểu được.
- Chúng ta không bao giờ được xin Thiên Chúa đối xử công bằng theo như những gì chúng ta làm cho Ngài; vì nếu Ngài đối xử công bằng, chúng ta đã không còn có mặt trong thế gian này, vì tội lỗi chúng ta luôn nhiều hơn công phúc.
- Chúng ta hãy kiên nhẫn chờ đợi cho tới khi nhìn thấy kết quả. Đừng kêu trách, than khóc, và nhất là, từ bỏ lối sống "ăn ngay ở lành" mà Thiên Chúa đã dạy bảo.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Năm Tuần 9 TN1, Năm B
Bài đọc: Tob 6:11, 7:1, 9-14, 8:4-7; Mk 12:28-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải chân thành yêu thương Thiên Chúa và tha nhân.
Để có thể sống hạnh phúc trong cuộc đời và đạt được đích điểm mà Thiên Chúa đã dự phóng, con người cần phải làm theo những gì Ngài dạy: đó là phải yêu thương Thiên Chúa trên hết mọi sự, và chân thành yêu thương nhau.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự quan trọng tối hậu của tình yêu chân thành với Thiên Chúa và với tha nhân trong cuộc đời. Trong Bài Đọc I, Tobia nói lên mục đích của mình khi cưới Sarah: "Không phải vì tình dục, mà con lấy em con đây, nhưng vì tình yêu chân thành. Xin Chúa đoái thương con và em con cho chúng con được chung sống bên nhau đến tuổi già." Thiên Chúa đã chúc lành cho cuộc hôn nhân của đôi trẻ. Trong Phúc Âm, khi được hỏi đâu là giới răn quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã trả lời rõ ràng: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Không phải vì tình dục mà con lấy em con đây, nhưng vì tình yêu chân thành.
1.1/ Thiên Chúa quan phòng cho cuộc hôn nhân giữa Tobia và Sarah: Hôm qua, chúng ta đã nghe những lời cầu nguyện của ông Tobit và cô Sarah. Hôm nay, chúng ta chứng kiến những gì họ than khóc biến thành vui mừng theo sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài gởi thiên-sứ Raphael đến như một người bạn đồng hành của Tobia, để hướng dẫn cậu làm theo tất cả kế họach của Thiên Chúa cho gia đình cậu và gia đình cô Sarah. Một biến cố quan trọng, nhưng bị các Bài Đọc bỏ qua là biến cố giết con cá để lấy tim, gan, và mật cá: Tim và gan cá để trừ quỉ Asmodeus đã giết 7 đời chồng của Sarah, và mật cá để chữa mắt cho ông Tobit khỏi mù.
Thiên sứ Raphael nói với cậu Tôbia: "Đêm nay, chúng ta phải trọ nhà ông Raguel. Ông này là bà con của em và có cô con gái tên là Sarah." Khi vào tới Ecbatana, thiên sứ dẫn cậu tới nhà ông Raguel. Thấy ông đang ngồi ở cửa sân, họ chào ông trước. Ông đáp: "Chào các anh! Chúc các anh mạnh khỏe!" Rồi ông dẫn họ vào nhà. Tắm rửa xong, họ vào bàn để dùng bữa. Cậu Tôbia nói với thiên sứ Raphael: "Anh Azarias, xin anh nói với ông Raguel gả cô em gái Sarah cho em!" Nghe lời ấy, ông Raguel bảo cậu thanh niên: "Này cháu, cháu cứ ăn uống qua đêm nay cho thoải mái, vì ngoài cháu ra, không ai có quyền cưới Sarah, con gái của chú, cũng như chú đây không có quyền gả cho người đàn ông nào khác ngoài cháu, vì cháu là người bà con gần nhất của chú. Nhưng này cháu, nhất định chú phải cho cháu biết sự thật: Chú đã gả nó cho bảy người trong số anh em của chúng ta, nhưng họ đều chết cả, ngay trong đêm họ đến gần nó. Vậy bây giờ, này cháu, cháu cứ ăn uống đi, rồi Đức Chúa sẽ xếp đặt cho chúng con.
1.2/ Lời cầu nguyện của đôi tân hôn trong đêm đầu tiên: Khi thân nhân đã ra khỏi phòng và đóng cửa lại, Tôbia ngồi dậy, ra khỏi giường và nói với Sarah: "Đứng lên, em! Chúng ta hãy cầu nguyện, nài xin Đức Chúa để Người xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng ta!" Cô đứng lên, rồi cả hai bắt đầu cầu nguyện và nài xin cho mình được cứu độ. Tôbia bắt đầu như sau: "Lạy Thiên Chúa của tổ tiên chúng con. Xin chúc tụng Chúa, xin chúc tụng Thánh Danh đến muôn thuở muôn đời! Các tầng trời và toàn thể công trình của Chúa phải chúc tụng Chúa đến muôn thuở muôn đời! Chính Chúa đã dựng nên ông Adam, dựng nên cho ông một người trợ thủ và nâng đỡ là bà Eve, vợ ông. Và dòng dõi loài người đã sinh ra từ hai ông bà. Chính Chúa đã nói: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một người trợ thủ giống như nó. Giờ đây, không phải vì lòng dục, mà con lấy em con đây, nhưng vì lòng chân thành. Xin Chúa đoái thương con và em con cho chúng con được chung sống bên nhau đến tuổi già."
Sở dĩ Tobia thắng được quỉ Asmodeus là vì thiên sứ Raphael đã bày mưu cho cậu lấy tim và gan cá đốt trước cửa phòng Sarah, khiến quỉ phải chạy trốn sang Ai-cập và bị Raphael bắt trói lại (Tob 8:2-3).
2/ Phúc Âm: Yêu mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân là hai giới răn quan trọng nhất.
2.1/ Đâu là giới răn quan trọng nhất? Con người khôn ngoan không chỉ bằng lòng với nhiều kiến thức, nhưng mong đạt tới trọng tâm của vấn đề. Ông Kinh-sư, sau khi đã nghe Đức Giêsu đối đáp rất hay với những người thuộc nhóm Sadducees, ông đến gần Người và hỏi: "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?"
Đức Giêsu trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó." Hay nói một cách ngắn gọn và dễ nhớ hơn: "Mến Chúa và yêu người." Tất cả Lề Luật đều đặt căn bản trên hai giới răn này.
2.2/ Ông Kinh-sư đồng ý với Chúa Giêsu: Ông Kinh-sư nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ." Lời khen ngợi của ông Kinh-sư không thêm gì cho Chúa Giêsu; nhưng chứng tỏ ông đã nhận ra chân lý của cuộc đời. Ông nhấn mạnh đến con người chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và con người phải thờ phượng Ngài hết lòng, hết trí khôn, và hết sứ lực; vì Ngài dựng nên con người, quan phòng mọi sự trong trời đất, và quyết định vận mạng đời sau của con người. Ông cũng nhấn mạnh đến sự cao quí của tình yêu hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ. Điều này, các ngôn sứ và Sách Thánh Vịnh cũng đã từng nhắc đi nhắc lại; chẳng hạn: "Máu chiên bò Chúa không ưng, của lễ toàn thiêu Chúa không nhận, thì này con đến để làm theo ý Cha" (Psa 40:6). Hay như lời tiên tri Hosea: "Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu" (Hos 6:6).
Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!" Khi một người tìm ra chìa khóa của cuộc đời và sống như thế, thì người đó đã bắt đầu sống cuộc sống trong Nước Trời, dẫu rằng vẫn còn ở đời này; vì cuộc sống đời sau chỉ là cuộc nối dài và làm hoàn hảo tình yêu mà người đó đã có với Thiên Chúa và với tha nhân.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải năng xét lại giới răn thứ nhất và đối chiếu cuộc đời của chúng ta với đòi hỏi của giới răn này; để xem chúng ta có thực sự yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự chưa?
- Một đòi hỏi của giao ước hôn nhân là tình yêu chân thành và vững bền mà hai vợ chồng dành cho nhau; chứ không phải thứ đòi hỏi chóng qua của tình dục. Trước khi tiến tới đời sống gia đình, con người cần phân biệt rõ ràng hai thứ tình yêu này để khỏi bị gẫy cánh giữa đường.
- Mọi sự trong cuộc đời này rồi cũng qua đi hết; chỉ còn tình yêu là tồn tại. Chúng ta hãy dành mọi thời gian và nỗ lực để phát triển tình yêu của chúng ta với Thiên Chúa và với tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần 9 TN1, Năm lẻ
Bài đọc: Tob 3:1-11, 16; Mk 12:18-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Có sự sống lại và cuộc sống đời sau.
Niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau là một mặc khải tiệm tiến. Mặc dù đã có tiềm ẩn trong Cựu Ước; nhưng chỉ với mặc khải của Chúa Giêsu và sự sống lại của Ngài, niềm tin này mới rõ ràng và chắc chắn hơn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự nhầm lẫn và đau khổ của con người khi không có niềm tin này. Trong Bài Đọc I, cả ông Tobit và cô Sarah đều cầu nguyện xin Thiên Chúa cho họ chết đi, vì không chịu nổi những đau khổ và nhạo báng xảy đến cho họ trong cuộc đời. Trong Phúc Âm, khi những người Sadducees muốn dùng Lề Luật để chứng minh không có sự sống lại, Chúa Giêsu đã mặc khải rõ ràng về có sự sống lại qua lời Thiên Chúa nói với Moses trong Xuất Hành 3:6, và thân xác phục sinh của con người sẽ không còn phải chịu ảnh hưởng của các định luật vật lý nữa, và họ sẽ sống như các thiên thần trên trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự quan phòng của Thiên Chúa
1.1/ Trường hợp của ông Tobit: Có hai lý do làm ông u sầu: thứ nhất, vì ông phải chứng kiến và chịu quá nhiều những đau khổ: bị cướp phá tàn nhẫn bởi Dân Ngoại, bị lưu đày, bị mù; thứ hai, bị châm biếm bởi kẻ thù, và nhất là chịu mỉa mai từ người vợ của mình. Ông không dám trách Thiên Chúa, vì ông biết đó là hậu quả của việc xúc phạm đến Ngài từ cha ông, và ngay cả từ chính cá nhân ông: "Vâng, các phán quyết của Ngài thì nhiều và chân thật; Ngài đối xử như thế với con vì tội lỗi con, bởi chúng con đã không thi hành mệnh lệnh Ngài và đã chẳng sống theo chân lý trước nhan Ngài."
Vì không có niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau, nên ông Tobit không tìm được một lý do nào để tiếp tục sống giữa bao đau khổ và nhạo cười; nên ông nghĩ chỉ còn một cách: xin Thiên Chúa chấm dứt cuộc đời trên cõi dương gian: "Xin truyền rút sinh khí ra khỏi con, để con biến khỏi mặt đất và trở thành bụi đất. Quả thật, đối với con, chết còn hơn sống, vì con đã nghe những lời nhục mạ dối gian khiến con phải buồn phiền quá đỗi. Lạy Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát khỏi số kiếp gian khổ này. Xin để con ra đi vào cõi đời đời. Lạy Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con. Quả thật, đối với con, thà chết còn hơn là suốt đời phải nhìn thấy bao nhiêu gian khổ, và phải nghe những lời nhục mạ."
1.2/ Trường hợp của cô Sarah: Có hai lý do làm cô u sầu: thứ nhất, cô đã 7 lần lấy chồng, nhưng người chồng nào cũng chết yểu bởi quỉ Asmodeus; thứ hai, cô bị đầy tớ châm biếm là "đồ sát phu!" và nguyền rủa cho cô cũng bị chết theo những người chồng đó. Vì không có niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau, nên cô định lên lầu thắt cổ tự tử; nhưng cô nghĩ đến người cha sẽ phải chịu đau khổ: Người ta sẽ nhục mạ cha cô và châm biếm: "Ông chỉ có một cô con gái yêu quý, thế mà vì bạc phận, cô đã thắt cổ tự tử! Như vậy, tôi sẽ làm cho tuổi già của cha tôi phải buồn phiền đi xuống âm phủ. Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi, để đời tôi không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa." Nghĩ như thế, cô dang hai tay về phía cửa sổ, cầu nguyện rằng: "Chúc tụng Chúa, lạy Thiên Chúa từ nhân! Chúc tụng danh Chúa đến muôn đời, và mọi công trình của Chúa phải chúc tụng Ngài muôn muôn thuở."
Sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: "Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tobit và Sarah đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa."
2/ Phúc Âm: Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.
2.1/ Bẫy giăng của những người Sadducees: Đây là những người thuộc nhóm thống trị và giàu có của Do-thái. Chức Thượng-tế thường đến từ nhóm người này. Khác với Pharisees là những người tin cả vào luật bất thành văn và truyền thống, họ chỉ tin vào luật thành văn, và chú trọng ưu tiên cho Bộ Ngũ Thư. Họ không tin có sự sống lại, thiên thần, và các thần khí. Trong trình thuật hôm nay, họ muốn dùng Lề Luật của Moses để chứng minh không có sự sống lại. Theo Sách Đệ Nhị Luật 25:5-6, "Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng. Đứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ không bị xoá khỏi Israel."
Dựa trên khoản luật này, họ nghĩ ra một trường hợp không thực tế cho lắm để thử Chúa. Họ hỏi Người: "Thưa Thầy, ông Moses có viết cho chúng ta rằng: "Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình." Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. Cả bảy người đều không để lại một đứa con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ."
2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: gồm 2 phần chính:
(1) Thân xác phục sinh khác với thân xác trần thế: Thân xác phục sinh sẽ không bị chi phối bởi các định luật vật lý mà con người đang chịu bây giờ; vì thế, "khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời." Sách Enoch cũng đã từng nói: "Các anh sẽ có nguồn vui vĩ đại như các thiên thần trên trời." Sách Khải Huyền của Baruch cũng nói: "người công chính sẽ được tạo thành như thiên thần trên trời."
(2) Chúa Giêsu dùng chính những gì người Sadducees tin để chứng minh có sự sống lại: Trong Sách Xuất Hành 3:6, nói về thị kiến từ bụi gai của Moses, mà Chúa Giêsu trưng dẫn hôm nay, Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Moses: "Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Jacob." Chúa Giêsu thêm: "Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống." Điều này chứng tỏ các Tổ-phụ, Abraham, Isaac, và Jacob, đang sống; vì thế, những người Pharisees đã lầm to khi không tin có sự sống lại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần cố gắng tìm hiểu cho biết thấu đáo mọi sự để niềm tin của chúng ta được vững chắc. Một sự hiểu biết lờ mờ sẽ dẫn chúng ta đến chỗ khủng hoảng đức tin, và sống phất phơ như liễu trước gió.
- Chúng ta biết chắc Thiên Chúa sẽ công bằng phán xét và trả cho mỗi người tùy theo công phúc và tội họ đã làm khi còn sống ở đời này. Bổn phận của chúng ta là cố gắng chu toàn thánh ý Chúa và sống ngay thật mọi ngày trong cuộc đời.
- Niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau là chân lý căn bản của đức tin Kitô Giáo. Niềm tin này đã từng được mặc khải cách tiềm ẩn trong Cựu Ước, nhưng đã được mặc khải cách minh bạch và rõ ràng bởi Chúa Giêsu và sự phục sinh vinh hiển của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần 9 TN1, Năm B
Bài đọc: Tob 2:9-14; Mk 12:13-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Của ai trả về cho người ấy.
Để bảo vệ trật tự chung và sống an hòa với mọi người, mỗi người chúng ta đều phải biết khả năng và giới hạn của mình; chẳng hạn, trong hệ thống điều khiển quốc gia, đã có 3 ngành: luật pháp, hành pháp, và tư pháp. Mỗi ngành phải biết quyền năng và giới hạn của mình để đừng dẫm chân lên nhau và gây xáo trộn trật tự. Trong mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa cũng thế, con người phải biết khả năng và giới hạn của mình, để đừng thử thách và can thiệp vào những chuyện của Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta vài ví dụ để nhận ra sự bất hòa, khi một người vượt quá khả năng và giới hạn của mình. Trong Bài Đọc I, ông Tobit vượt quá giới hạn của mình khi phán đoán vợ mua dê con của phường trộm cắp. Bà Anna, vợ ông, cũng vượt quá giới hạn của mình khi thắc mắc về sự quan phòng của Thiên Chúa, và sự "quá đạo đức" của chồng mình. Trong Phúc Âm, những người thuộc phái Pharisees và phái Herode đã vượt quá khả năng của mình khi đặt câu hỏi và gài bẫy Chúa: "Có nên nộp thuế cho Caesar hay không?"
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tại sao làm việc thiện mà vẫn gặp điều xấu?
1.1/ Ông Tobit bị mù khi ông mới hoàn tất 2 việc thiện: sai con đi mời người nghèo về dùng bữa, và vừa mới chôn xác kẻ chết.
(1) Truyền thống Do-thái và ngay cả Á-Đông đều tin: "Trời cao có mắt!" Ai làm lành sẽ được Thiên Chúa thưởng; ai làm ác sẽ bị Thiên Chúa phạt. Trong thực tế, việc đó không luôn luôn xảy ra vì nhiều khi kẻ dữ vẫn thịnh vượng; trong khi người lành phải chịu đau khổ, như trường hợp của ông Tobit hôm nay; hay như trong trường hợp của ông Job.
(2) Những người không có niềm tin vững chắc sẽ nghi ngờ không biết có Thiên Chúa hay không? Và nếu có, Thiên Chúa có quan tâm đến việc làm của họ không? Chính Bà Anna đặt vấn đề với ông Tobit: "Các việc bố thí của ông ở đâu? Các việc nghĩa của ông đâu cả rồi? Đó, ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào rồi!" Hậu quả nếu không tìm được câu trả lời thích đáng: Con người dễ bị nản chí để không tin và làm theo những gì Thiên Chúa đòi hỏi. Ngược lại, họ sẽ làm những gì mà họ cho rằng đúng. Chúng ta phải chờ đến kết cuộc của Sách Tobit, mới có thể hiểu lý do tại sao người lành phải chịu đau khổ.
1.2/ Hiểu lầm giữa hai vợ chồng: Bà Anna phải làm việc để có tiền chi tiêu trong gia đình. Bà nhận làm những công việc dành cho phụ nữ. Chủ của Bà là người rộng lượng nên "ngày mồng bảy tháng Dytro, nàng xén tấm vải đã dệt xong, rồi giao cho chủ. Tiền công bao nhiêu, họ trả hết cho nàng, lại còn thưởng cho một con dê con để ăn một bữa."
- Ông Tobit đặt câu hỏi về sự hiện diện của con dê: "Con dê nhỏ đó ở đâu ra vậy? Có phải của trộm cắp không? Đem trả lại cho chủ nó đi! Vì chúng ta không có quyền ăn của trộm cắp."
- Bà Anna bảo chồng: "Đó là quà người ta thưởng cho tôi, thêm vào số tiền công!"
- Ông Tobit không tin nàng và cứ bảo nàng phải trả lại cho chủ. Tại sao ông không tin nàng?
+ Dê con là con vật đắt tiền bên Do-thái; nên ông nghĩ Bà có thể là mua lại của trộm cắp.
+ Khi người khác cho quà, người nhận cẩn thận luôn tìm hiểu lý do tại sao; nhiều khi "há miệng ăn rồi mắc nợ." Ông Tobit không muốn vợ mình nhận quà của người lạ.
- Bà Anna tức giận vì chồng ngoan cố không tin, nên nguyền rủa chồng: "Các việc bố thí của ông ở đâu? Các việc nghĩa của ông đâu cả rồi? Đó, ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào rồi!"
Cả hai vợ chồng đều mắc lỗi trong biến cố này: Tobit mắc lỗi vì đã không tin và phán đoán không tốt vợ mình. Bà Anna cảm thấy sự đạo đức của ông đi quá xa nên đã nặng lời với ông và nghi ngờ sự quan phòng của Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.
2.1/ Câu hỏi gài bẫy Chúa: Lỗi lầm lớn nhất của con người là nghi ngờ và thử thách Chúa. Họ dùng những suy nghĩ và cách hành xử của mình để so sánh và áp đặt trên Thiên Chúa. Nếu họ thấy là tốt đẹp là điều hay, Thiên Chúa cũng phải cho như vậy; nếu họ nghĩ là chuyện không thể làm được, Thiên Chúa cũng phải bó tay. Họ quên đi một điều mà tiên tri Isaiah đã nhắc nhở: Tư tưởng và đường lối của các ngươi không phải là tư tưởng và đường lối của Ta. Như trời cao hơn đất chừng nào, tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các ngươi như vậy.
Trình thuật hôm nay cũng thế, họ cử mấy người Pharisees và mấy người thuộc phe Herode đến thử Người để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ hỏi người: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Caesar hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?" Hai loại người họ gởi tới là hai cái bẫy để Ngài phải rơi vào:
(1) Người Pharisees là cái bẫy tôn giáo: Họ quan niệm không phải nộp thuế cho Caesar, vì con người chỉ mắc nợ Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu trả lời phải nộp thuế, họ sẽ kết tội Ngài vào hùa với ngoại bang để bóc lột dân chúng.
(2) Người thuộc phe Herode là cái bẫy chính trị: Nếu Chúa Giêsu trả lời không nộp thuế, họ sẽ kết tội Ngài phản động chống lại Caesar
Họ nghĩ là họ nắm chắc phần thắng, vì Chúa chỉ có thể trả lời hoặc có hoặc không. Chúa trả lời có hay không, họ đều có lý do để buộc tội Ngài.
2.2/ Câu trả lời khôn ngoan của Chúa Giêsu: Nhưng Đức Giêsu biết họ giả hình, nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem!" Họ liền đưa cho Người. Người hỏi: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?" Họ đáp: "Của Caesar." Đức Giêsu bảo họ: "Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa."
(1) Phản ứng của những kẻ gài bẫy: "Họ hết sức ngạc nhiên về Người." Trước tiên, họ không ngờ Ngài có thể thoát bẫy họ giăng một cách dễ dàng như thế.
(2) Ý nghĩa câu trả lời của Chúa Giêsu: Chúa nhắc khéo cho những người Pharisees đừng giả hình, vì họ cũng từng lấy mọi thứ thuế của dân đóng vào Đền Thờ. Các tín hữu có hai bổn phận: Họ có bổn phận phải trả lại cho Thiên Chúa những gì Ngài đã ban cho họ. Họ cũng có bổn phận nộp thuế cho chính phủ để bảo vệ an ninh, tu bổ đường xá, và cung cấp các dịch vụ công cộng. Chúa cũng nhắc nhở cho những người thuộc phe Herode biết giới hạn của mình. Họ chỉ có quyền trên những gì thuộc quyền con người; những gì thuộc quyền Thiên Chúa, họ không được đụng tới.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần biết khả năng và giới hạn của mình trong cách cư xử giữa con người với con người để bảo đảm trật tự chung và sống hòa thuận với mọi người.
- Chúng ta càng cần biết khả năng và giới hạn của mình trong cách cư xử với Thiên Chúa, để có thể giữ vững đức tin và gặt hái được các kết quả tốt đẹp do việc làm theo thánh ý Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần 9 TN1, Năm B
Bài đọc: Tob 1:3, 2:1-9; Mk 12:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Có cần phải ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày trong cuộc đời?
Nhiều người cho là không, vì những lý do "cụ thể" sau đây:
(1) Óc "thực tiễn:" Đòi hỏi của Thiên Chúa quá khó khăn, họ phải làm những gì vượt sức con người. Họ đang sống trong "thế gian," chứ có gọi là "thế ngay" đâu? Nếu họ làm như thế, họ trở thành "thánh" mất rồi, mà họ còn đang muốn làm người. Họ quên đi đòi hỏi của Chúa: Hãy sống thánh thiện như Cha của các con trên trời là Đấng Thánh. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa truyền những gì vượt sức con người, Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa, vì Ngài bắt con người làm điều không thể.
(2) Óc "khiêm nhường giả tạo:" Họ đang sống trong một xã hội mà chẳng ai làm như thế; không muốn sống khác người. Họ muốn sống như một người tầm thường, ẩn dật để không ai biết tới. Nhưng Thiên Chúa đòi hỏi họ: Giữa một thế hệ gian tà và sa đọa, họ phải chiếu sáng như những vì sao sáng cho thế gian. Nếu họ không dám sống chứng nhân như đòi hỏi của người Kitô hữu, họ cũng không có quyền đòi được hưởng những ân huệ Chúa dành cho các chứng nhân.
(3) Óc "kinh doanh, nhỏ mọn:" Làm gì cũng phải có lợi nhuận trước mắt. Khi làm việc phúc đức, không biết Chúa có biết hay không? Nếu biết, Chúa có thưởng cho điều gì ngay không? Người kinh doanh khôn ngoan không nhắm lợi nhuận tạm thời trước mắt; nhưng những giá trị vĩnh cửu. Đúng ra, họ chẳng bao giờ có thể sống công bằng với Chúa, vì Người đã làm cho họ vượt quá những gì họ có thể thấy. Hơn nữa, họ không nhìn thấy phần thưởng của những người làm theo ý Chúa trong tương lai.
(4) Óc "hài hòa, thông cảm:" Chúa biết con người yếu đuối nên Ngài sẵn lòng tha thứ mọi khuyết điểm. Vì thế, cứ việc sống không vâng phục; khi nào tiện, vào tòa giải tội một lần là xong. Nếu Thiên Chúa khó quá, ai có thể vào Nước Trời được. Nếu sự thực Chúa khó như vậy, chết cả đám như phần đông nhân loại cũng được!
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sống trong nơi lưu đày, gia đình Tobit vẫn kính sợ và giữ Luật Thiên Chúa.
1.1/ Tobit dạy con: cho kẻ đói ăn. Ông Tobit là người Do-thái bị lưu đày qua Nineveh, Babylon. Sống trong hoàn cảnh nghiệt ngã của nơi lưu đày, đa số đã óan trách Thiên Chúa và không giữ Lề Luật của Ngài; nhưng Tobit vẫn cố gắng ăn ở theo sự thật và lẽ ngay. Ông đã từng rộng tay bố thí cho anh em và đồng bào, những người cùng đi đày với ông. Dưới triều vua Esarhaddon, ông được trở về nhà. Người ta đã trả lại cho ông Anna, vợ ông, và Tôbia, con trai ông. Trong ngày lễ Các Tuần, người ta dọn cho ông một bữa ăn ngon.
(1) Phản ứng của ông Tobit: Khi thấy người ta bày bàn, dọn cho mình nhiều món, Tobit nói với Tôbia, con ông: "Con ơi, con hãy đi tìm trong số các anh em chúng ta bị đày ở Nineveh, một người nghèo hết lòng tưởng nhớ Thiên Chúa, rồi dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha. Này, con ơi, cha đợi con cho đến khi con về."
+ Có đau mắt mới biết thương người mù: Ông Tobit đã có kinh nghiệm đói khát nơi lưu đày Nineveh nên ông nghĩ đến những người đói khổ, và muốn họ cùng chia sẻ hạnh phúc có của ăn ngon với ông.
+ Ông là người biết kính sợ Thiên Chúa và muốn thực thi những gì Ngài dạy: Con người phải biết chia cơm sẻ áo cho những người nghèo khó. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đã từng nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại." Làm cho những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù là làm cho chính Chúa; và như thế, mới xứng đáng được hưởng phúc lành trong Ngày Tận Thế.
(2) Phản ứng của hầu hết con người sẽ như sau:
+ Không nên làm như thế vì phải chờ đợi! và không được thưởng thức ngay những món ăn ngon còn nóng sốt, làm phí của Thiên Chúa ban cho!
+ Không nên làm như thế vì phải vất vả đi tìm người nghèo. Cứ việc ăn trước, sau này khi gặp người nghèo cho họ vài đồng là xong!
+ Không nên làm như thế vì đồ ăn ngon còn phải tùy thuộc vào bạn hiền và chỗ ăn nữa. Người nghèo là khách lạ mình có biết tính khí họ làm sao? Trên hết mọi sự, mình phải chịu đựng những "mùi" của người nghèo; không biết khi chịu rồi, có còn muốn ăn nữa hay không!
1.2/ Tobit dạy con: chôn xác kẻ chết. Tôbia vâng lời cha ra đi, tìm một người nghèo trong số các anh em chúng tôi. Khi trở về, nó nói: "Cha ơi!" Tôi bảo nó: "Cha đây, con." Nó trả lời: "Thưa cha, có một người trong đồng bào chúng ta đã bị giết và quăng ngoài chợ, là nơi bây giờ người ấy còn đang bị thắt cổ."
(1) Phản ứng của ông Tobit: Tobit liền chồm dậy, bỏ cả ăn, chẳng kịp nếm chút gì. Ông đem người ấy ra khỏi quảng trường và đặt trong một căn nhà nhỏ, chờ lúc mặt trời lặn sẽ đem chôn. Khi trở về nhà, ông tắm rửa, rồi ăn uống mà lòng cảm thấy ưu sầu tang tóc. Ông nhớ lại lời ngôn sứ Amos đã nói về Bethel rằng: "Những ngày lễ của các ngươi sẽ biến thành tang tóc, mọi bài hát của các ngươi sẽ nên khúc ai ca." Khi mặt trời lặn, ông đào huyệt chôn người ấy.
(2) Phản ứng của con người: Láng giềng nhạo cười tôi rằng: "Hắn vẫn còn chưa sợ! Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã trốn đi, thế mà hắn lại vẫn chôn cất người chết!"
2/ Phúc Âm: Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác.
Để dẫn chứng sự bất công và chống lại Thiên Chúa của những người trong THĐ, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: "Có người kia trồng được một vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp.
2.1/ Hành động của các tá điền: Đã không nộp hoa lợi thì chớ, họ còn bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không. Ông lại sai một đầy tớ khác đến với họ. Họ đánh vào đầu anh ta và hạ nhục. Ông sai một người khác nữa, họ cũng giết luôn. Rồi ông lại sai nhiều người khác: kẻ thì họ đánh, người thì họ giết. Ông chỉ còn một người nữa là người con yêu dấu: người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ; ông nói: "Chúng sẽ nể con ta." Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau: "Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta." Thế là họ bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho. Tại sao các tá điền hành động như thế?
+ Trước tiên, họ khinh thường Lề Luật của Thiên Chúa và của loài người, hay họ nghĩ lấy của nhà giàu không có tội. Họ là những người dân nghèo và nghĩ Thiên Chúa sẽ đứng về phía họ.
+ Họ không biết ông chủ phải vắng mặt đi xa; không biết ông có còn sống không hay chết rồi! Những tên đầy tớ dụng danh ông chủ để bắt chẹt họ và thu hoa lợi.
2.2/ Hành động của ông chủ: Ác giả ác báo! Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho người khác. Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta! Họ tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng; quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là họ để Người lại đó mà đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cố gắng ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày trong cuộc đời. Trường hợp không thể vì yếu đuối con người, Thiên Chúa thấu hiểu những cố gắng của chúng ta. Hơn nữa, chúng ta phải nhắm tới điều thiện hảo và niềm vui khi sống theo những gì Chúa muốn.
- Cố gắng sống theo sự thật là cách chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa và biến đổi thế giới chung quanh. Sống theo trào lưu của thế gian là chúng ta đã bị thế gian đồng hóa bởi họ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- Viết bởi Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
“VINH DỰ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA KẺ LÀM CON THIÊN CHÚA’’
CHÚA NHẬT LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM B (31/05/2015)
[Đnl 4,32-34.39-40; Rm 8,14-17; Mt 28, 16-20]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Có hai tình trạng đáng mọi Ki-tô hữu phải suy nghĩ: Tình trạng thứ nhất là dường
như trên thế giới này càng ngày càng có nhiều người chối bỏ hay làm ngơ không
quan tâm gì tới Thiên Chúa. Tình trạng thứ hai là trong Giáo Hội có khá nhiều giáo
dân không cảm nghiệm được niềm hạnh phúc và vinh dự được làm con Thiên Chúa!
Vậy xin trân trọng kính mời các bạn hãy đọc thật kỹ ba bài Sách Thánh của Lễ Chúa
Ba Ngôi hôm nay và suy đi nghĩ lại trong lòng để cảm nghiệm được ơn phúc mà
Thiên Chúa Ba Ngôi đã khứng ban cho các bạn và tôi, để từ đó chúng ta đem hết
thiện chí và khả năng ra làm chứng cho Thiên Chúa là Cha của chúng ta và của mọi
người cũng như của mọi dân tộc.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Đnl 4,32-34.39-40): Trên trời cao cũng như dưới đất thấp,
chính Đức Chúa là Thiên Chúa, và ngoài Người ra không có thần nào khác.
32 Khi ấy ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en rằng: Anh (em) cứ hỏi những thời xa xưa,
thời có trước anh (em), từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi
từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay
có ai đã nghe điều giống như vậy chăng? 33 Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên
Chúa phán từ trong đám lửa như anh (em) đã nghe, mà vẫn còn sống không? 34 Hoặc
có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác,
đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh
mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đởm, như Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã
làm cho anh em tại Ai Cập, trước mắt anh (em) không?
39 Vậy hôm nay, anh (em) phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao cũng
như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa.
40 Anh (em) phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền
cho anh (em); như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này sẽ được hạnh phúc,
và anh (em) sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), vĩnh
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 8,14-17): Anh em đã lãnh nhận Thần Khí làm cho anh
em nên nghĩa tử nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!”
14 Thưa anh em, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái
Thiên Chúa. 15 Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở
thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử,
nhờ đó chúng ta được kêu lên: "Áp-ba! Cha ơi! " 16 Chính Thần Khí chứng thực cho
thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. 17 Vậy đã là con, thì cũng là
thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô; vì
một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 28,16-20): Anh em hãy làm phép rửa cho muôn
dân nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
16 Khi ấy mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền
cho các ông đến. 17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài
nghi. 18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: "Thầy đã được trao toàn quyền trên
trời dưới đất. 19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép
rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, 20 dạy bảo họ tuân
giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa:
1o) Bài đọc 1 (Đnl 4,32-34.39-40) là những lời của ông Mô-sê thuyết phục những
người dân Ít-ra-en nổi tiếng là “cứng đầu cứng cố” để họ nhận ra những kỳ công mà
Thiên Chúa đã làm cho họ mà trung tín tôn thờ một mình Người. Quả thật Thiên
Chúa đã chọn họ làm dân riêng, đã cho họ thấy quyền năng và vinh quang cao cả
của Người trong cuộc giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai-cập cũng như đã cho họ thấy
Người trong bụi gai bốc cháy. Đáp lại dân Ít-ra-en luôn sẵn sàng lãng quên những
công ơn và tình yêu thương của Thiên Chúa và nghi ngờ Người mà đi tìm các ‘thần
2o) Bài đọc 2 (Rm 8,14-17) là một đoạn của thư của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-
ma, trong đó Thánh Tông đồ khẳng định những ai được Thần Khí Thiên Chúa
hướng dẫn thì là con Thiên Chúa. Mà một khi đã là con Thiên Chúa thì có quyền gọi
Thiên Chúa là Cha: “Cha ơi = Áp-ba” và được sống trong tự do, không còn sợ sệt
chi nữa. Một khi đã là con Thiên Chúa thì cũng là người thừa kế của Thiên Chúa, là
đồng thừa kế với Chúa Giê-su Ki-tô nên sẽ được hưởng công nghiệp và vinh quang
3o) Bài Tin Mừng (Mt 28,16-20) là tường thuật của Thánh Mát-thêu Tông đồ về
lần hiện ra của Chúa Giê-su Phục Sinh ở Ga-li-lê. Trong lần hiện ra này, Chúa Giê-
su sai các môn đệ đi đến với muôn dân để làm cho họ trở thành môn đệ của Người,
để làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Một
Chúa Ba Ngôi) và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Chúa Giê-su đã dạy. Chúa Giê-su
khẳng định với các môn đệ quyền năng (trên trời dưới đất) của Người và hứa sẽ ở
cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là các Ki-tô hữu phải biết nhận ra hồng ân cao cả
Thiên Chúa Ba Ngôi đã ban cho mình mà cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng và lấy làm
* Chúa Cha đã chọn chúng ta làm dân riêng, đã giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ,
đã tỏ mình ra với chúng ta trong sa mạc.
* Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn chúng ta và cho chúng ta được làm con cái của
Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha và quyền sống tư cách của một con
người tự do. Là con Thiên Chúa cũng là kẻ thừa kế của Thiên Chúa và là đồng thừa
kế công nghiệp cứu độ của Chúa Giê-su Ki-tô.
* Chúa Giê-su Ki-tô đã chọn chúng ta làm môn đệ và đã sai chúng ta đến với muôn
dân để giúp họ trở thành môn đệ của Người, sống căn tính hay ơn gọi môn đệ
(discipleship) Chúa Giê-su Ki-tô như chúng ta. Người cũng chọn và sai chúng ta
làm phép rửa cho những ai nhận biết và tin theo Người. Chúa Giê-su Ki-tô hứa luôn
ở bên chúng ta và đồng hành với chúng ta trong cuộc sống và trong sứ mạng được
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần (Chúa Ba Ngôi) Đấng muốn
và làm cho chúng ta thành con của Người và sống tình thảo kính với Người.
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là chúng ta sống VINH DỰ & TƯ CÁCH của
những kẻ làm CON Thiên Chúa Ba Ngôi (Cha, Con và Thánh Thần):
* Làm con Thiên Chúa thì sống thảo hiếu phụng thờ Thiên Chúa, và chỉ tôn thờ một
mình Thiên Chúa mà thôi và xem nhẹ coi khinh mọi thứ khác (chức quyền, danh
vọng, của cải, lạc thú) trên đời này.
* Làm con Thiên Chúa thì có lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao và tình thương
mà Thiên Chúa thực hiện và dành cho chúng ta.
* Làm con Thiên Chúa thì biết tuân theo mệnh lệnh của Chúa Giê-su Ki-tô mà đến
với lương dân để giúp họ trở thành môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô và rửa tội cho họ
nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
Cách thứ nhất: (Lời nguyện cộng đồng):
5.1 «Vậy hôm nay, anh (em) phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao
cũng như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào
khác nữa.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho ngày càng có nhiều người nhận ra
Chúa là Thiên Chúa duy nhất.
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.2 «Anh (em) phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi
truyền cho anh (em); như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này sẽ được hạnh
phúc, và anh (em) sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), vĩnh viễn ban cho anh (em).» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả các Ki-
tô hữu biết tuân giữ thánh chỉ và mệnh lệnh của Chúa để được hạnh phúc thật mà
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.3 «Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô
lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó
chúng ta được kêu lên: "Áp-ba! Cha ơi!» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho tất cả
các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta để mọi người cảm nhận được Tình
Cha của Thiên Chúa mà sống và chuyện trò với Chúa như một người con nhỏ của
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.4 «Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.»
Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho càng ngày càng có nhiều Ki-tô hữu dấn thân vào
cánh đồng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giúp các tân tòng trở thành môn đệ
của Chúa Ki-tô Giê-su!
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
5.5 «Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.» Chúng ta hiệp lời cầu nguyện
cho chính chúng ta được ơn tin tưởng phó thác vào sự hiện diện thần linh và quyền
năng của Chúa Ki-tô trong đời sống và hoạt động tông đồ của chúng ta.
Hát: Chúa ơi, xin nghe lời chúng con nguyện cầu!
Cách thứ hai: (Lời nguyện cá nhân):
1. Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã
chọn chúng con làm DÂN RIÊNG của Cha! Xin Cha giúp chúng con sống trọn vẹn
tư cách là DÂN RIÊNG của Cha giữa lòng thế giới “vừa vô thần mà lại vừa đa thần”
2. Lạy Thánh Thần Thiên Chúa, chúng con chúc tụng, ngợi khen Chúa và cảm tạ, vì
Chúa đã làm cho chúng con trở nên CON CÁI của Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên
Chúa là Cha và quyền đồng thừa kế công trình cứu độ của Chúa Giê-su Ki-tô. Xin
Thần Khí Chúa giúp chúng con sống trọn tư cách là CON CÁI Thiên Chúa, là đồng
thừa kế của Chúa Giê-su Ki-tô giữa lòng thế giới “ngỗ nghịch và bất hiếu” của ngày
3. Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa
đã chọn chúng con làm MÔN ĐỆ của Chúa, đã sai chúng con đến với lương dân để
giúp họ trở thành môn đệ của Chúa. Chúa cũng đã hứa ở cùng chúng con mọi ngày
cho đến tận thế! Xin Chúa ban cho chúng con LÒNG TIN, SỨC MẠNH & SỰ
KHÔN NGOAN để chúng con chu toàn mệnh lệnh của Chúa giữa lòng thế giới “vô
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Bảy Tuần 8 TN1, Năm B
Bài đọc: Sir 51:12c-20; Mk 11:27-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khôn ngoan là luôn biết và sống theo sự thật.
Khôn ngoan là một nhân đức trong bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần ban cho con người khi họ chịu bí-tích Rửa Tội và Thêm Sức. Giống như tất cả các nhân đức, khôn ngoan được ví như hạt giống có đầy đủ tiềm năng, con người phải luyện tập thì nhân đức mới phát triển được; nếu không chịu luyện tập, con người có thể mất nó. Nhân đức khôn ngoan giúp con người nhận ra các sự thật của Thiên Chúa và mau mắn thi hành.
Các bài đọc hôm nay tập trung trong nhân đức khôn ngoan: làm sao để tìm được và thi hành khôn ngoan. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca cho độc giả những cái nhìn rất thâm sâu về Đức Khôn Ngoan: nó là một tiến trình của cả đời người, con người phải cầu nguyện mới có, con người phải thực hành những gì học được, giữ luật Thiên Chúa, và nhất là phải biết giữ tâm hồn trong sạch mới sở hữu được Đức Khôn Ngoan. Trong Phúc Âm, các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến chất vấn Chúa Giêsu lý do tại sao Người đánh đuổi các con buôn ra khỏi Đền Thờ. Chúa đặt cho họ một câu hỏi để thử xem họ có thành thật muốn đi tìm sự thật không; nhưng khi thấu hiểu thâm tâm gian dối của họ, Ngài không trả lời cho họ biết sự thật.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Khi giữ mình trong sạch, tôi tìm được đức khôn ngoan.
1.1/ Kiên trung tìm kiếm Đức Khôn Ngoan: Vì khôn ngoan đến từ Thiên Chúa, chứ không đến từ con người; vì vậy, để có được khôn ngoan, con người phải thành tâm cầu nguyện, thì Thiên Chúa mới ban cho con người. Tác giả nói về kinh nghiệm của mình như sau: "Thời còn trẻ, trước khi bôn ba đây đó, tôi đã công nhiên tìm kiếm đức khôn ngoan khi dâng lời cầu nguyện."
Đức Khôn Ngoan không được ban cho con người một lúc, nhưng là tiến trình của cả đời người; vì thế, con người phải học hỏi hàng ngày. Tác giả nói: "Tôi dõi theo đức khôn ngoan từ thuở còn thanh xuân... và cho đến mãn đời, tôi vẫn tìm kiếm đức khôn ngoan."
1.2/ Cách thức học khôn ngoan: Để hấp thụ được Đức Khôn Ngoan, tác giả cho độc giả những lời khuyên quan trọng.
(1) Lắng nghe nhiều hơn nói: "Chỉ lắng tai một chút mà tôi đã hấp thụ được, và tìm thấy cho bản thân một giáo huấn dồi dào." Điều này dễ hiểu, vì khi nghe là con người hấp thụ vào; còn khi nói là lúc con người cho đi. Nếu một người hay nói, làm sao họ có thể hấp thụ được khôn ngoan của người khác?
(2) Quyết tâm sống theo những gì Đức Khôn Ngoan dạy: "Vì tôi đã cương quyết sống theo đức khôn ngoan, tôi hăng say tìm điều thiện và sẽ không xấu hổ thẹn thùng." Để sinh ích cho bản thân, một người không chỉ cần biết Đức Khôn Ngoan, nhưng còn phải thực hành nó nữa. Khi thực hành, con người có thể phải vượt qua xấu hổ, dèm pha, và truy tố của người không biết Đức Khôn Ngoan.
(3) Thực hành Lề Luật: "Trong đức khôn ngoan, hồn tôi đã phấn đấu, và chuyên cần tuân giữ Lề Luật." Điều này hiển nhiên vì Lề Luật đến từ Thiên Chúa, nguồn gốc của mọi khôn ngoan. Vì con người không biết tất cả, nên Thiên Chúa thân hành ban cho con người Thập Giới qua Moses, để giúp con người biết sống thế nào mang lại hạnh phúc.
(4) Giữ mình trong sạch: "Tôi đã hướng lòng về đức khôn ngoan, và khi giữ mình trong sạch, tôi tìm được đức khôn ngoan." Trong Tân Ước, Chúa Giêsu dạy: "Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa" (Phúc thứ 6). Thánh Augustino và Thomas Aquinas cũng dạy điều này, và cho nhân đức trong sạch rất cần thiết trong hành trình đi tìm khôn ngoan và nhìn thấy Thiên Chúa. Người không trong sạch sẽ không được chiêm ngắm Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan và rất mực thánh thiện.
2/ Phúc Âm: Con người có bổn phận phải thi hành sự thật.
2.1/ Chúa Giêsu không sợ đương đầu với quyền lực của Thượng Hội Đồng: Trình thuật này tiếp tục trình thuật Chúa Giêsu vào Đền Thờ Jerusalem để đánh đuổi những kẻ đang mua bán và đổi tiền trong Đền Thờ, vì họ biến nhà cầu nguyện của Cha Ngài thành hang trộm cướp. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục trong Đền Thờ rất tức giận với Ngài, vì Ngài đã động tới nồi cơm và quyền lợi của họ. Nhiều người trong bọn họ hay gia đình họ có những quầy hàng trong Đền Thờ, và những người buôn bán phải trả tiền thuê cho họ.
Lẽ ra họ phải vui mừng khi thấy Đền Thờ được Chúa Giêsu trả lại sự thánh thiện cho việc thờ phượng; nhưng họ đâu để ý đến điều đó, mà chỉ để ý đến những mối lợi vật chất, nên họ đến cùng Người và hỏi: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?" Một lý do nữa là tự ái họ bị tổn thương, vì Chúa Giêsu là người duy nhất dám đương đầu với thế lực của họ. Dân chúng không ai dám chống lại họ, vì biết sẽ bị khoác trên đầu tội phạm thượng và bị ném đá chết.
2.2/ Chúa Giêsu không dạy sự thật cho những người khinh thường sự thật. Trước khi trả lời câu hỏi của họ, Chúa thách thức họ dám nói sự thật bằng việc đặt với họ một câu hỏi: Phép rửa của Gioan bởi đâu? do Trời hay do người ta?
Họ có đủ khôn ngoan để nhận ra sự thật; nhưng không dám nói thật. Họ bàn với nhau: "Nếu mình nói: "Do Trời," thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các ông lại không tin ông ấy?" Nhưng chẳng lẽ mình nói: "Do người ta?" Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gioan thật là một ngôn sứ. Họ mới trả lời Đức Giêsu: "Chúng tôi không biết."
Đức Giêsu liền bảo họ: "Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy." Ngài biết chẳng ích lợi gì để giảng giải sự thật cho những con người gian dối, không dám nói thật, chứ chưa nói tới việc thi hành sự thật. Họ chỉ thờ phượng Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, họ nhân danh Thiên Chúa và lợi dụng niềm tin của những con người ngây thơ chất phác để kiếm lợi nhuận vật chất.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Khôn Ngoan đến từ Thiên Chúa. Ngài chỉ ban nó cho những ai thành tâm cầu nguyện và kiên trì học hỏi. Vì thế, chúng ta phải cầu nguyện trước khi bắt đầu học hỏi Đức Khôn Ngoan.
- Học khôn ngoan là tiến trình dài cả cuộc đời, chứ không phải chỉ trong ít phút cuối tuần hay tham dự vài lớp căn bản. Vì thế, chúng ta cần phải học Đức Khôn Ngoan suốt đời và trong mọi biến cố của cuộc đời.
- Để sở hữu Đức Khôn Ngoan, chúng ta không phải chỉ học để biết, nhưng còn phải tìm dịp thi hành trong cuộc đời thì mới sinh ích lợi. Một người chỉ biết mà không thi hành, họ sẽ dần dần mất luôn những điều họ đã học được.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 29/5 Hãy biết sống làm sao để sinh hoa kết quả cho Thiên Chúa
- 28/5 Sự quí trọng của con mắt
- 27/5 Tình thương vô bờ của Thiên Chúa và tình yêu toan tính của con người
- 26/5 Thiên Chúa thưởng công xứng đáng những người rộng lượng cho đi
- 25/5 Hãy làm việc lành phúc đức để giúp đỡ mọi người
- 24/5 Các hoạt động của Thánh Thần
- 24/5 Anh em hãy nhận lấy Chúa Thành Thần
- 23/5 Phải rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh
- 22/5 Người môn đệ phải lãnh trách nhiệm coi sóc và hy sinh cho đoàn chiên
- 21/5 Chia rẽ và hiệp nhất