Sống Lời Chúa Hôm Nay
20/12 Thiên Chúa yêu thích kẻ khiêm nhường, bé nhỏ, nghèo hèn
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 4 Mùa Vọng, Năm C
Bài đọc: Mic 5:1-4a; Heb 10:5-10; Lk 1:39-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa yêu thích kẻ khiêm nhường, bé nhỏ, nghèo hèn.
Con người ưa thích những gì hoành tráng, uy quyền, và lộng lẫy. Nếu phải chọn nơi để sinh ra, con người sẽ chọn được sinh ra trong hoàng cung, nơi có đầy đủ mọi phương tiện để con người được sung sướng và hạnh phúc. Trong Mầu Nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa hành động khác hẳn con người. Ngài chọn cho Con mình một cha mẹ nghèo hèn, khiêm nhường; và chọn cho con mình sinh ra nơi một thành bé nhỏ ít người biết đến. Đây không phải là lần đầu, nhưng trong lịch sử của Cựu Ước cũng như Tân Ước, nhiều lần Ngài chứng tỏ điều này, như Thiên Chúa chọn Jacob thay vì Esau, Giuse thay vì các anh của ông, David trẻ nhất trong số các con của Jesse...
Chỉ còn vài ngày nữa là tới biến cố độc nhất vô nhị xảy ra trong lịch sử; nhưng làm sao để chúng ta nhận ra và đón nhận Đấng Thiên Sai vào trong cuộc đời? Các Bài Đọc hôm nay nêu bật ý định của Thiên Chúa: Nếu con người muốn đón nhận Đấng Thiên Sai, họ phải trở nên khiêm nhường, tin tưởng, và vâng lời. Đừng tìm Ngài trong những huy hoàng tráng lệ; nhưng trong những nơi đơn sơ, bé nhỏ, nghèo hèn. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Micah báo trước gần 700 năm trước khi Đấng Thiên Sai ra đời: Ngài sẽ sinh ra trong một thành nhỏ bé nhất của Judah, trong một thị tộc nhỏ bé nhất Ephratha; nhưng nguồn gốc của Ngài có từ muôn đời và Ngài dùng uy quyền cai trị của Thiên Chúa để mang ơn cứu độ cho mọi người và cứu thoát tất cả các chi tộc của Israel. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái quả quyết Thiên Chúa hài lòng những người tuân phục và làm theo ý muốn của Ngài hơn trăm ngàn của lễ hy sinh chiên cừu. Trong Phúc Âm, Thiên Chúa chọn trinh nữ Maria, một thôn nữ quê mùa, mộc mạc, đơn sơ, để làm Mẹ Đấng Thiên Sai giữa bao phụ nữ khác đẹp đẽ, uy quyền, và sang trọng của cả nước Israel. Lý do: Mẹ khiêm nhường, đơn sơ, kín đáo, thương người và nhất là luôn tìm để làm theo ý Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hỡi Bethlehem Ephratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Judah, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel.
1.1/ Thiên Chúa chọn những gì bé nhỏ nghèo hèn: Nếu một người cha thế gian chọn cho con mình một nơi để sinh ra, chắc chắn ông sẽ chọn Jerusalem, một kinh thành có đầy đủ tiện nghi và nổi tiếng. Ngược lại với khuynh hướng con người, Thiên Chúa chọn cho con mình sinh ra ở Bethlehem, một thành nhỏ nhất của Judah; khoảng 30 dặm về phía Nam của Jerusalem. Bethlehem là nơi sinh trưởng của vua David. Thiên Chúa chọn David là đứa con nhỏ nhất trong gia đình của Jesse, để làm vua thay Saul. Khi David lên ngôi, ông đã dời kinh đô về Jerusalem.
Hơn nữa, Ngài còn chọn một thị tộc nhỏ bé nhất của Judah là Ephratha, để cho Con của Ngài sinh ra, như tiên-tri Micah loan báo gần 700 năm trước khi Đấng Cứu Thế ra đời: "Phần ngươi, hỡi Bethlehem Ephratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Judah, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel.'' Lời tiên tri này rất quan trọng, vì nó sẽ được các kinh-sư dùng để trả lời cho ba nhà đạo sĩ từ phương Đông đến hỏi: Vua người Do-thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Đông Phương và chúng tôi đến để triều bái Người.
1.2/ Căn tính của Đấng Thiên Sai: Giống như thị kiến của tiên-tri Daniel sau này (7:13-14), tiên tri Micah mặc khải hai căn tính quan trọng của Đấng Thiên Sai:
(1) Nguồn gốc: Tuy Ngài sinh ra trong thời gian, nhưng "nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa.'' Theo Daniel, Ngài tuy có hình ảnh của Con Người, nhưng lại "ngự giá mây trời mà đến."
(2) Uy quyền: Tuy Ngài là con người, nhưng Ngài có quyền lực của Thiên Chúa: "Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ." Theo Daniel, "Đấng Lão Thành [Thiên Chúa] trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người."
(3) Triều đại: Không giống như triều đại của vua chúa thế gian, triều đại của Người sẽ an bình, thịnh vượng, và tồn tại muôn đời: "Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất. Người sẽ chiến thắng Assyria. Chính Người sẽ đem lại hoà bình.'' Theo Daniel, "Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong."
2/ Bài đọc II: "Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài."
2.1/ Vâng lời quan trọng hơn của lễ: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa truyền cho con cái Israel phải dâng của lễ để đền những tội họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân; nhưng dần dần, người Do-thái quá chú trọng đến lễ vật bên ngoài, mà quên đi sự xám hối, tình thương, và công bằng bên trong. Nhiều ngôn-sứ trong Cựu Ước đã cảnh cáo dân về việc vụ hình thức bên ngoài, và kêu gọi họ chú trọng đến tâm hồn bên trong. Tác giả Thư Do-thái cũng theo chiều hướng này, khi nói về sự cao trọng hy lễ của Đức Kitô. Ông muốn nêu bật hai điểm chính:
(1) Mục đích của thân xác: "Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể." Đối với con người, việc làm cần thiết để biểu tỏ niềm tin vào Thiên Chúa. Đức Kitô được Chúa Cha ban cho một thân thể để Ngài thi hành thánh ý Thiên Chúa và dạy dỗ con người. Ngài dùng miệng để rao giảng Tin Mừng, dạy dỗ, và an ủi tha nhân, dùng tay để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, và dùng chân để đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng... Sau cùng, Ngài dùng chính thân thể của Ngài để chịu đựng đau khổ và chết thay cho con người.
(2) Đức vâng lời: ''Chúa chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.'' Đây là những lời trích từ thánh vịnh 40:6-9, và là một chân lý hiển nhiên, vì tất cả mọi sự trên đời này là của Thiên Chúa. Ngài cũng chẳng có mũi để ngửi hay miệng lưỡi mà thưởng thức các lễ vật của con người. Điều làm Thiên Chúa vui lòng là con người kính sợ và làm theo thánh ý của Ngài.
2.2/ Hy lễ của Đức Kitô vượt xa các lễ vật của Cựu Ước.
(1) Lễ vật của Cựu Ước: " Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền.'' Trước hết, máu chiên bò đổ ra thay cho con người không phải là máu của tự nguyện, nhưng bị con người bắt và giết đi. Thứ hai, máu này không đủ để tha tội, nhất là những tội cố tình, nên phải tái diễn nhiều lần. Sau cùng, máu này không có sức thánh hóa con người hay làm cho trở nên tốt hơn.
(2) Hy lễ của Đức Kitô: ''Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.'' Máu của Đức Kitô đổ ra chính là máu của Con Thiên Chúa, Ngài tự nguyện hy sinh chịu chết cho con người. Máu này chỉ cần đổ ra một lần là đủ vì có sức mạnh để tha tất cả các tội của con người. Từ đó đến nay, Đức Kitô đã chấm dứt lễ tế cũ và thay bằng Thánh Lễ. Điều này được chứng minh trong lịch sử là Đền Thờ bị phá hủy hoàn toàn từ năm 70 AD tới giờ; người Do-thái có muốn dâng lễ tế đền tội cũng chẳng còn Đền Thờ mà dâng. Sau cùng máu này không những tha mọi tội, mà còn có sức thánh hóa và làm cho con người trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ các ơn thánh của bí tích Thánh Thể.
3/ Phúc Âm: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
3.1/ Đức Mẹ lên đường thăm viếng bà Elisabeth: "Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Judah. Bà vào nhà ông Zachariah và chào bà Elisabeth."
Không những Thiên Chúa chọn cho con mình sinh ra ở một nơi bé nhỏ nghèo hèn; mà còn chọn cho con mình một người mẹ rất đơn sơ, nhỏ bé, khiêm nhường; nhưng vâng lời làm theo ý Thiên Chúa, và có lòng yêu thương tha nhân. Biến cố Mẹ Maria đi thăm viếng Elisabeth, người chị họ, cho chúng ta thấy những đức tính nổi bật nơi Đức Mẹ.
Theo truyền thống, Ein Karim là nơi gia đình của ông Zachariah và bà Elisabeth sinh sống nằm giữa đường từ Jerusalem đến Bethlehem. Thông thường, người kém địa vị hơn phải đi thăm người có địa vị cao hơn, hay người cần được ban ơn phải đi thăm người có quyền ban ơn. Mẹ đã chọn đi bước trước để chào thăm và giúp đỡ người chị họ chứ Mẹ không đợi người chị họ Elisabeth đến thăm mình; dù Mẹ biết mình đang cưu mang Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa Tối Cao. Khi một người ở địa vị cao hơn đi bước trước để thăm viếng, người đó biểu tỏ sự khiêm nhường và tình yêu chân thật để tỏ sự quan tâm đến người mình yêu. Mẹ cũng mang niềm vui và muôn ơn của Thiên Chúa đến cho bà Elisabeth qua cuộc thăm viếng này. Nếu Thiên Chúa Tối Cao đã biểu tỏ sự khiêm nhường và tình yêu khi Ngài viếng thăm con người, chúng ta là ai mà ngồi yên trông chờ người khác đến thăm viếng chúng ta!
3.2/ Bà Elisabeth chúc mừng Đức Mẹ.
(1) Thánh thần ở với Gioan ngay từ khi còn trong bụng mẹ: Trình thuật Lucas tường thuật một sự kiện lạ: Khi "Bà Elisabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần."
Người Mẹ có thể nhận ra sự khác thường của đứa con trong bụng mình. Khi Gioan, đại diện cho những con người trong Cựu Ước nhận ra Đấng Thiên Sai đến viếng thăm, đã nhảy mừng tuy vẫn còn trong bụng bà Elisabeth.
(2) Bà Elisabeth lớn tiếng ca tụng Mẹ Maria: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
Bà Elisabeth tuyên xưng những sự thật về Đức Mẹ: Thứ nhất, Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc hơn mọi người phụ nữ; không một phụ nữ nào được Thiên Chúa ban ơn và chúc phúc cho hơn Đức Mẹ. Bà cũng được linh hứng của Chúa Thánh Thần để tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa; điều mà phải đợi đến Công Đồng Êphesô vào năm 430, Giáo Hội mới chính thức công nhận danh hiệu này. Thứ hai, con trẻ Gioan đang trong dạ mẹ cũng được chúc phúc; vì Thiên Chúa đã đoái thương và viếng thăm dân Ngài. Khi Thiên Chúa đến viếng thăm, Ngài mang ơn cứu độ đến cho con người. Sau cùng, bà Elisabeth nói rõ lý do của mọi phúc lành: Vì Mẹ Maria đã tin vào những gì Thiên Chúa phán cùng Mẹ sẽ được thực hiện. Đức tin làm cho con người được chúc phúc và trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa, chứ không do bất cứ sự cao trọng nào hay sự xứng đáng của con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Để tìm kiếm và nhận ra Thiên Chúa, chúng ta đừng mong tìm Ngài trong những lộng lẫy xa hoa của thế gian; nhưng trong những nơi nghèo nàn, nhỏ bé như Bethlehem của Judah.
- Thiên Chúa không quan tâm đến những thành quả hay việc to lớn mà chúng ta đạt được; nhưng Ngài yêu thích sự khiêm nhường, tin tưởng, và vâng lời làm theo thánh ý của Ngài.
- Noi gương Đức Mẹ, chúng ta phải luôn thương yêu, quan tâm, và khiêm nhường đi bước trước để tỏ tình yêu cho tha nhân. Tất cả những điều này sẽ giúp chúng ta đón nhận Thiên Chúa, và Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi ơn cần thiết trong cuộc đời.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
19/12 Hy vọng trong thất vọng
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 19 tháng 12, MV
Bài đọc: Judg 13:2-7, 24-25; Lk 1:5-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy vọng trong thất vọng.
Mùa Vọng là mùa của hy vọng và của những lời hứa được ứng nghiệm và hòan thành. Những gì Thiên Chúa hứa qua những lời chúc lành của các tổ-phụ được hòan thành, và các lời tiên báo của các tiên-tri qua các thời đại được ứng nghiệm. Thời gian chờ đợi thường làm cho con người mệt mỏi và ngã lòng trông cậy; nhưng Thiên Chúa có kế họach và thời gian của Ngài. Một điều chắc chắn là những gì Thiên Chúa hứa sẽ xảy ra; còn chuyện khi nào xảy ra, không ai biết được.
Cả hai Bài đọc hôm nay đều tường thuật hòan cảnh sinh con của hai cha mẹ đã cao niên và không thể có con theo luật tự nhiên. Họ hòan tòan thất vọng và xấu hổ với mọi người; nhưng Thiên Chúa đã can thiệp và cho có con. Bài đọc I trong Sách Thủ Lãnh tường thuật về hòan cảnh sinh ra của Thủ-Lãnh Sampson. Tin Mừng Luca tường thuật về hòan cảnh sinh ra của Gioan Tẩy Giả. Mục đích của các tác giả là để chứng minh chân lý: "Không có điều gì là không thể đối với Thiên Chúa;" và để dẫn con người tới một niềm hy vọng lớn lao hơn, một phép lạ cả thể hơn, một niềm hy vọng duy nhất có thể giải thóat con người khỏi tội lỗi và sự chết: đó là sự giáng sinh của Đấng Cứu Thế.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hòan cảnh sinh ra của Thủ-Lãnh Sampson.
1.1/ Tin Mừng được loan báo:
(1) Cha mẹ của Sampson: Sách Thủ Lãnh nói vắn tắt về cha mẹ của Sampson như sau: "Có một người đàn ông ở Zorah, thuộc chi tộc Dan, tên là Manoah. Vợ ông son sẻ và không sinh con. Sứ giả của Đức Chúa hiện ra với người vợ và nói với bà: "Này, bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một con trai.""
(2) Con trẻ Sampson được thánh hiến ngay từ lòng mẹ: Sứ-thần nói với người mẹ: "Vậy bây giờ Bà phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch.Vì này bà sẽ có thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một Nazirite của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Israel khỏi tay người Philistines."
Nazarite là người được dành riêng và thánh hiến đặc biệt cho Thiên Chúa, được mô tả chi tiết trong Num 6:2-21. Mặc dù không thấy được đề cập đến bất cứ người nào trước Sampson; tuy nhiên, nó hiện hữu trước thời gian của Moses. Lời thề của người Nazarite bao gồm 3 điều: (1) không được uống rượu và thức uống mạnh; (2) không được cắt tóc trong suốt thời gian thề hứa; và (3) không được tiếp xúc với xác chết. Khi thời gian thánh hiến hết, người Nazarite phải đến cửa đền thờ để dâng lễ vật như được mô tả bởi các tư tế. Sau đó, ông phải cắt tóc và quăng vào lửa khi thầy tư tế dâng lễ vật giao hòa.
(3) Phản ứng của bà mẹ: Bà đi vào và nói với chồng rằng: "Một người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi; hình dáng của người như hình dáng một sứ giả của Thiên Chúa, rất đáng sợ. Tôi đã không dám hỏi người từ đâu tới; và danh tánh người, người cũng không tiết lộ cho tôi. Nhưng người nói với tôi: "Này bà sẽ có thai và sẽ sinh một con trai; bây giờ bà phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch, vì con trẻ ấy sẽ là một Nazirite của Thiên Chúa, từ lòng mẹ cho đến ngày nó chết.""
1.3/ Tin Mừng được ứng nghiệm: "Bà sinh được một con trai và đặt tên là Sampson. Đứa bé lớn lên, và Đức Chúa chúc lành cho nó. Thánh Thần Đức Chúa bắt đầu tác động trên Sampson tại Trại Dan giữa Zorah và Eshtaol." Sampson lớn lên với sức mạnh phi thường và giải phóng dân khỏi sự áp bức của người Philistines.
2/ Phúc Âm: Hòan cảnh sinh ra của Gioan Tẩy Giả
Tin Mừng Luca tường thuật vắn tắt về cha mẹ của Gioan Tẩy Giả, Ông Zechariah và Bà Elizabeth, như sau: "Thời vua Herode cai trị miền Judah, có một vị tư tế thuộc nhóm Abijah, tên là Zechariah; vợ ông là Elizabeth cũng thuộc dòng tộc tư tế Aaron. Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. Nhưng họ lại không có con, vì bà Elizabeth là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên."
2.1/ Tin Mừng được loan báo
(1) Cha của Gioan Tẩy Giả: "Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông: Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài. Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Zechariah bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. Nhưng sứ thần bảo ông: "Này ông Zechariah, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: Bà Elizabeth vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời."
(2) Con trẻ Gioan Tẩy Giả được chọn và thánh hiến ngay từ lòng mẹ: Sứ-thần Gabriel nói: "Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa; rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần." Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả được loan báo rõ bởi Sứ-thần: "Em sẽ đưa nhiều con cái Israel về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy Thánh Thần và quyền năng của ngôn sứ Elijah, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa."
(3) Phản ứng của ông Zechariah: Vì ông nghĩ mình không thể có con theo luật tự nhiên, nên ông thưa với sứ thần: "Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi." Sứ thần đáp: "Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi."
2.2/ Tin Mừng được ứng nghiệm: "Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. Ít lâu sau, bà Elizabeth vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. Bà tự nhủ: "Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.""
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa có kế họach và thời gian của Ngài. Chúng ta chỉ hiểu được phần nào Kế Họach của Thiên Chúa qua sự mặc khải của Đức Kitô và các sứ giả của Ngài.
- Thiên Chúa cho con người vào đời và chuẩn bị cho mỗi người một sứ vụ trong Kế Họach của Ngài. Chúng ta phải hòan tất sứ vụ Ngài giao phó.
- Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể xảy ra. Chúng ta phải đặt trọn vẹn niềm tin vào Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
18/12 Công chính và tội lỗi
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 18 tháng 12 MV
Bài đọc: Jer 23:5-8; Mt 1:18-24.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Công chính và tội lỗi
Mọi người đều phạm tội. Làm thế nào để con người trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa? Con người có thể trở nên công chính bằng việc giữ luật không? Thánh Phaolô quả quyết rằng "Không!" vì không ai có thể giữ trọn vẹn Lề Luật. Chỉ có niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô, mới có thể làm con người nên công chính. Trong Bài Đọc I, Tiên Tri Jeremiah tiên báo: Đức Chúa (Chúa Kitô) là sự công chính của chúng ta. Trong Phúc Âm, Thánh Giuse là "người công chính," muốn bỏ Mẹ Maria cách kín đáo; nhưng khi được Thiên Thần mộng báo, đã vâng theo ý Thiên Chúa và chấp nhận Bà Maria và Chúa Giêsu về nhà mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Chúa, sự công chính của chúng ta.
1.1/ Giòng dõi David từ chỗ hy vọng tan tành tới chỗ hòan tất của lời hứa: Khi người Do-Thái sống trong nơi lưu đày, chắc họ đã nhận thấy hy vọng của họ vào những gì Thiên Chúa đã chúc lành cho họ qua Tổ-phụ Jacob và những lời tiên tri của Isaiah, quyển I, Micah, và các tiên tri khác bị tan tành theo mây khói. Làm sao có thể khôi phục lại đất nước trong hòan cảnh lưu đày? Làm sao có thể khôi phục lại vương triều của giòng dõi Judah để Đấng Cứu Thế xuất hiện? Nhưng Tiên Tri Jeremiah vẫn hy vọng: "Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà David một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh."
1.2/ Vua công chính: "Thời bấy giờ, Judah sẽ được cứu thoát, Israel được sống yên hàn.
Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "Đức Chúa, sự công chính của chúng ta."
(1) Đấng đưa con cái Israel lên khỏi đất Ai-Cập: chỉ biến cố Xuất Hành, khi Thiên Chúa đưa dân ra khỏi đất nô lệ của Ai-Cập qua sự lãnh đạo của Moses và Aaron.
(2) Đấng đã đưa dòng dõi nhà Israel ra khỏi đất phương Bắc: chỉ sự hồi hương và tái thiết quốc gia cùng Đền Thờ, khi Thiên Chúa giải thóat dân khỏi cảnh lưu đày ở Babylon.
2/ Phúc Âm: Chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội.
Tin Mừng Matthêu tường thuật hòan cảnh đính hôn của cha mẹ Chúa Giêsu như sau: "Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: Bà Maria, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo."
2.1/ Nỗi khó khăn của Thánh Giuse: Để hiểu lời tường thuật của Matthêu, chúng ta phải hiểu phong tục của Do-Thái liên quan tới việc kết nghĩa vợ chồng. Giống như phong tục Việt-Nam, có 3 giai đọan:
(1) Hứa hôn: Khi hai trẻ còn nhỏ, cha mẹ hai bên muốn kết nghĩa sui gia; nên cha mẹ hai bên hứa hẹn với nhau, sẽ gả con cho nhau khi hai trẻ tới tuổi lập gia đình. Đây chỉ là một lời hứa và không bị ràng buộc về khía cạnh pháp lý. Nếu hai trẻ không đồng ý hay hai cha mẹ đổi ý, lời hứa không còn hiệu lực.
(2) Đính hôn: Đó là từ chính xác Matthêu dùng để chỉ hòan cảnh của Ông Giuse và Bà Maria hôm nay. Khi gia đình hai bên và hai trẻ đồng ý tiến tới, họ bước vào giai đọan đính hôn để tìm hiểu nhau kỹ càng hơn trong thời hạn một năm. Trong giai đọan này, theo luật Do-Thái, lời hứa bị ràng buộc, hai người được coi như vợ chồng; mặc dù chưa được "ăn ở" với nhau như vợ chồng. Nếu chồng không tiến tới, ông phải làm đơn xin ly dị và nêu rõ lý do. Nếu chồng chết trong giai đọan này, người vợ được gọi là "góa phụ đồng trinh."
(3) Thành hôn: Sau thời hạn đính hôn một năm, hai người tiến tới giai đọan chính thức thành vợ chồng.
Nỗi khó khăn của Ông Giuse, như trình thuật nói, vì ông là người công chính nên ông không thể dung thứ tội lỗi cho Bà Maria. Theo Lề Luật, Ông phải tố cáo Bà Maria để bị ném đá cho tới chết vì đứa con trong bào thai không phải là của Ông. Nhưng Ông chắc cũng linh tính một trường hợp đặc biệt liên quan đến Bà Maria và đứa con trong bụng, nên cuối cùng Ông quyết định lìa bỏ Bà cách âm thầm kín đáo.
2.2/ Ý muốn của Thiên Chúa: Trong khi Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giuse, con cháu David, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." Tên Giêsu là tiếng Hy-Lạp dịch từ tiếng Do-Thái Joshua, có nghĩa là "giải thóat hay cứu độ." Chúa Giêsu được gọi là Đấng Giải Thóat, Cứu Thế, hay Chuộc Tội, vì Ngài gánh tội và giải thóat cho nhân lọai khỏi tội.
Sứ Thần của Thiên Chúa biết những gì Ông Giuse đang suy nghĩ và cung cấp câu trả lời cho Ông: người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Để hiểu "quyền năng Chúa Thánh Thần," chúng ta cần hiểu vai trò của Chúa Thánh Thần trong chương trình của Thiên Chúa. Truyền thống Do-Thái hiểu 4 công việc chính của Thánh Thần:
(1) Ngài là Sự Thật, Ngài đem sự thật từ Thiên Chúa đến cho con người. Chúa Giêsu hứa với các môn đệ Ngài: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến" (Jn 16:13).
(2) Ngài làm cho con người hiểu và nhận ra sự thật. Thánh Gioan hiểu rõ: Nếu không có Thánh Thần giúp sức, con người không thể hiểu những gì Chúa Giêsu mặc khải: "Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Jn 14:26).
(3) Ngài hiện diện với Thiên Chúa ngay từ khi sáng tạo vũ trụ. Ngài là hơi thở của Thiên Chúa: để phát ra Lời (Ngôi Hai) và ban hơi thở và sự sống cho muôn lòai. Tác giả của Thánh Vịnh 33 hiểu rõ sứ vụ của Ba Ngôi Thiên Chúa trong việc sáng tạo: "Một Lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú" (Psa 33:6). Sự khôn ngoan của Thiên Chúa phải có Hơi (pneuma) và Lời (logos) để tạo thành vũ trụ.
(4) Ngài cũng là nguyên nhân chính của "đổi mới và tái tạo." Thị kiến của Tiên Tri Ezekiel về "Ruộng Xương Khô" là một ví dụ cho công việc này của Thánh Thần: "Người lại bảo tôi: "Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí; tuyên sấm đi, hỡi con người! Ngươi hãy nói với thần khí: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh." Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể" (Eze 37:9-10). Cùng với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu tới để đổi mới và ban sinh lực cho con người. Ngài tiêu diệt tội lỗi trong con người cũ và ban ơn thánh để làm cho con người trở nên con người mới tinh tuyền và thánh thiện.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Vì chúng ta đều phạm tội, chúng ta không thể trở nên công chính bằng sức mình.
- Chúng ta chỉ có thể trở nên công chính bằng tin vào Đức Kitô, Đấng gánh tội và giải thóat chúng ta khỏi mọi quyền lực của tội lỗi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
17/12 Đấng Cứu Thế được sinh ra trong lịch sử
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Ngày 17 tháng 12 MV
Bài đọc: Gen 49:2, 8-10; Mt 1:11-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đấng Cứu Thế được sinh ra trong lịch sử.
Niềm tin của con người vào Đấng Cứu Thế không phải là một niềm tin trừu tượng; ví dụ, tin vào một vị thần không có nguồn gốc; nhưng là một niềm tin vào Đấng có gia phả trong lịch sử con người. Đấng Cứu Thế đã được Thiên Chúa hứa ngay từ thuở ban đầu, và được nhắc đi nhắc lại cho con người nhớ theo giòng lịch sử. Kinh Thánh gọi đó là Kế Họach Cứu Độ.
Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa đã có sẵn từ thuở ban đầu, và đã được mặc khải cho con người ngay từ khi Ông Adong và Bà Evà sa ngã trong Vườn Địa Đàng, khi Thiên Chúa tuyên án con rắn: "Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa giòng dõi mi và giòng dõi người ấy; giòng dõi đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó." (Gen 3:15).
Trải qua giòng lịch sử của Do-Thái, Thiên Chúa không ngừng chuẩn bị cho Kế Họach Cứu Độ này. Trong Bài Đọc I từ Sách Sáng Thế Ký, Tổ-phụ Jacob đã chúc lành đạc biệt cho giòng dõi Judah; vì Tổ-phụ đã nhìn thấy trước ngày giòng dõi này sẽ làm vua và cai trị các anh em mình. Đồng thời, Tổ-phụ cũng tiên đóan Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra từ giòng dõi Judah. Trong Phúc Âm, Thánh-sử Matthêu tường thuật gia phả của Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Bắt đầu từ thời các Tổ-phụ Abraham, Isaac, và Jacob cho đến thời Vua David là 14 đời; từ thời Vua David cho đến Thời Lưu Đày Babylon là 14 đời; sau Thời Lưu Đày cho đến thời Đấng Cứu Thế sinh ra cũng 14 đời. Trình thuật Matthêu hôm nay chỉ tường thuật từ Thời Lưu Đày cho đến khi Đấng Cứu Thế sinh ra.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tổ phụ Jacob chúc lành cho giòng dõi Judah.
Chương 49 của Sách Sáng Thế Ký là những lời chúc lành và trăn trối của Tổ-phụ Jacob (Israel) cho 12 con mình, tượng trưng cho 12 chi tộc của Israel. Nhà Giuse được chia thành 2 chi tộc: Benjamin và Manasseh. Tổ phụ Jacob kêu các con đến trước khi chúc lành: "Hỡi các con của Jacob, hãy tụ tập lại mà nghe, hãy nghe Israel, cha các con." Trình thuật hôm nay chỉ chú ý đặc biệt đến chi tộc Judah; vì từ chi tộc này sẽ phát sinh Đấng Cứu Thế.
1.1/ Giòng dõi Judah sẽ cai trị các anh em: Judah là đứa con duy nhất được khen ngợi trước khi chúc lành. Tổ-phụ Jacob chúc lành và nói tiên tri về chi tộc Judah: "Con sẽ được anh em con ca tụng, tay con sẽ đặt trên ót các địch thù, anh em cùng cha với con sẽ sụp xuống lạy con. Judah là sư tử con. Con ơi, săn mồi xong con lại trở về. Nó quỳ xuống, nằm phục như sư tử và như sư tử cái: ai sẽ làm cho nó đứng dậy?"
1.2/ Giòng dõi Judah sẽ làm vua: Thời của Tổ-phụ Jacob là thời của Bộ-tộc, Israel chưa có vua. Hàng ngũ lãnh đạo gồm các thượng tế, bô lão, và thủ lãnh. Israel chỉ có vua sau thời Moses gần 200 năm, bắt đầu với Vua Saun, sau đó tới David, Solomon. Thế mà tổ phụ Jacob đã được Thiên Chúa cho nhìn thấy trước ngày giòng dõi Judah sẽ làm vua: "Vương trượng sẽ không rời khỏi Judah, gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho tới khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục."
1.3/ Từ giòng dõi Judah sẽ phát sinh Đấng Cứu Thế: Không những nhìn thấy ngày giòng dõi Judah sẽ nối nhau làm vua, tổ phụ Jacob còn được Thiên Chúa cho nhìn thấy Ngày Đấng Cứu Thế ra đời. Ngài tuy xuất thân từ giòng dõi Judah, nhưng lại là chủ của vương trượng. Ngài không chỉ cai trị dân Do-Thái, nhưng muôn dân phải vâng phục quyền bính của Ngài.
2/ Phúc Âm: Đấng Cứu Thế sinh ra từ giòng dõi Judah.
2.1/ Từ thời cực thịnh của vương triều David đến thời Lưu Đày Babylon: "Josiah sinh Jechoniah và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Babylon." Trong lịch sử Do-Thái, thời của Vua David được coi là thời cực thịnh; vì Vua David thống nhất tòan lãnh thổ, tất cả 12 chi tộc Jacob, và lên làm vua. Tuy nhiên, điểm yếu của Vua David là biến cố ngọai tình với Bà Bathsheba và sinh ra Vua Solomon. Vì biến cố này, mà vương quốc bị chia đôi, và giòng họ Nhà Vua bị suy thóai dần dần cho đến thời Lưu Đày. Trong thời Lưu Đày, nước Israel bị xóa sạch trên bản đồ, giòng họ Judah bị đày sang Babylon, và dân Do-Thái hầu như không còn hy vọng gì nơi lời chúc lành của Tổ-phụ Jacob. Họ kêu cầu Thiên Chúa:
"Đâu cả rồi, lạy Thiên Chúa, nghĩa cũ với tình xưa Ngài hứa cùng David nhân danh chữ tín thành? Lạy Chúa, xin nhớ rằng: các tôi tớ Ngài bị thoá mạ, những lời phỉ báng của chư dân, con đây vẫn chất chứa trong lòng. Vâng, lạy Chúa, kẻ thù Ngài thoá mạ, theo sát gót mà buông lời thoá mạ đấng Ngài đã xức dầu tấn phong" (Psa 89:50-52).
2.2/ Sau thời Lưu Đày Babylon: Trong hòan cảnh hầu như tuyệt vọng tại nơi lưu đày, Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm việc, và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa vẫn trên đường tiến tới. Theo trình thuật của Tin Mừng Matthêu: "Sau thời lưu đày ở Babylon, Jechoniah sinh Shealtiel; Shealtiel sinh Zerubbabel; Zerubbabel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Zadok; Zadok sinh Achim; Achim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Matthan; Matthan sinh Jacob; Jacob sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đức Kitô. Như thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Abraham đến vua David, là mười bốn đời; từ vua David đến thời lưu đày ở Babylon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô, cũng là mười bốn đời.
Nhìn lại gia phả của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, chúng ta học được nhiều bài học: (1) Tổ tiên của Chúa Giêsu gồm cả người thánh thiện (các Tổ-phụ Abraham, Isaac, và Jacob) và kẻ tội lỗi (Bà Tamar giả làm gái điếm để được có con với Judah, Vua David ngọai tình với Bà Bathsheba); cả những người thờ phượng Thiên Chúa và người thờ nhiều thần (Bà Ruth); cả những người Do-Thái và Dân Ngọai. (2) Tuy có những lúc cực thịnh (triều đại của David và Solomon) và những lúc cực suy (thời Lưu Đày), lời hứa của Thiên Chúa và lời chúc lành của Tổ-phụ Jacob vẫn tiếp tục ứng nghiệm. Ngài vẽ đường thẳng của Kế Họach Cứu Độ trên những đường cong của lịch sử Do-Thái. Thiên Chúa là Đấng Trung Thành: những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ thực hiện.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, không phải là niềm tin trừu tượng và mơ hồ, nhưng được bám rễ sâu trong lịch sử con người qua gia phả của Chúa Giêsu.
- Đấng Cứu Thế đã được Thiên Chúa hứa ban cho con người ngay từ khởi thủy, và Ngài đã không ngừng chuẩn bị và mặc khải cho con người qua các thời đại. Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục họat động trong thời đại chúng ta cho đến Ngày Phán Xét.
- Chúng ta hãy đặt hòan tòan niềm tin nơi Thiên Chúa trong mọi khúc quanh của cuộc đời. Cho dù trời đất có thay đổi, nhưng những gì Thiên Chúa đã hứa không bao giờ đổi thay.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
16/12 Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Tư Tuần III MV2
Bài đọc: Isa 45:6b-8, 18, 21b-25; Lk 7:18b-23.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi.
Con người có thể lỗi phạm đến Thiên Chúa cả khi sung sướng hạnh phúc lẫn khi đau khổ buồn sầu. Con người quên Thiên Chúa trong lúc được sung sướng hạnh phúc, vì họ cho đó là công sức của họ hay một thần nào khác. Con người từ chối Thiên Chúa khi phải đương đầu với nghịch cảnh và đau khổ, vì họ đặt câu hỏi nếu Thiên Chúa có uy quyền thay đổi và yêu thương rất mực, tại sao Ngài lại để những đau khổ xảy ra cho con người, nhất là những người "vô tội?" Vì thế, họ kết luận hoặc Thiên Chúa không uy quyền hoặc Thiên Chúa không yêu thương, nên họ từ chối tin vào Ngài!
Các Bài Đọc hôm nay xác tín chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và Ngài quan phòng mọi sự trong trời đất này. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah quả quyết chỉ có một Thiên Chúa, Ngài tạo dựng mọi sự trong vũ trụ, quan phòng mọi chuyện xảy ra: tốt cũng như xấu, và có quyền giải thoát và ban ơn cứu độ cho những ai vững tin vào Ngài. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: "Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?" Chúa Giêsu trả lời hai người ấy rằng: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ta là Đức Chúa, ngoài Ta ra, không có thần nào nữa.
1.1/ Thiên Chúa duy nhất: Khi nói đến uy quyền của Thiên Chúa, truyền thống Do-thái cũng như Giáo Hội thường đề cập đến ba hoạt động chính của Ngài: tạo dựng, quan phòng, và cứu độ. Trình thuật của Isaiah hôm nay dẫn chứng ba điều này như sau:
(1) Ngài tạo dựng nên mọi sự trong vũ trụ: Tiên-tri Isaiah loan báo: "Đây là lời của Đức Chúa, Đấng tạo dựng trời cao - chính Người là Thiên Chúa nặn quả đất thành hình, củng cố cho bền vững; Người dựng nên quả đất mà không để hoang vu, nặn ra nó cho muôn loài cư ngụ."
(2) Ngài quan phòng mọi sự xảy ra trong trời đất: "Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác. Ta tạo ra ánh sáng và dựng nên tối tăm, làm ra bình an và dựng nên tai hoạ. Ta là Đức Chúa, Ta làm nên tất cả." Theo giáo huấn của Giáo Hội, Thiên Chúa, trong sự quan phòng trời đất, dựng nên cả ánh sáng và tối tăm, những tai họa của trời đất như: núi lửa, động đất, mưa bão... nhưng tội lỗi luân lý là hoàn toàn do con người, vì Ngài đã cho con người được tự do chọn lựa.
(3) Ngài ban ơn cứu độ cho con người: Thiên Chúa có quyền dạy dỗ con người bằng cách để những tai nạn xảy ra cho họ, như bệnh tật, đau khổ, tù đày; nhưng nếu con người biết ăn năn xám hối, chỉ một mình Ngài có uy quyền giải thoát con người. Trong lịch sử, Ngài giải thoát họ bằng cách sai Moses và Aaron đưa dân ra khỏi đất nô lệ Ai-cập; hay dùng Cyrus, vua Ba-tư để phóng thích cho dân hồi hương để xây dựng lại Đền Thờ và quê hương; hay gởi Đấng Thiên Sai tới để chuộc tội cho dân, như lời tiên-tri Isaiah loan báo: "Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên. Ta là Đức Chúa, Ta đã làm điều ấy."
1.2/ Thái độ của con người trước Thiên Chúa: Trước tiên, con người cần xác tín: những gì Thiên Chúa đã hứa, Ngài không bao giờ rút lại. Tiên-tri Isaiah dẫn chứng điều này qua sấm ngôn của Đức Chúa: "Ta lấy chính danh Ta mà thề, lời chân thật này thốt ra khỏi miệng Ta, Ta quyết chẳng bao giờ rút lại: Trước mặt Ta, mọi người sẽ quỳ gối, và mở miệng thề rằng: Chỉ mình Đức Chúa mới cứu độ và làm cho mạnh sức."
Để được Thiên Chúa cứu độ, con người cần qui hướng và đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa: Nếu con người cậy dựa vào Thiên Chúa, họ sẽ chiến thắng vẻ vang; nhưng nếu con người cậy dựa vào sức mình hay nơi các thần khác, Ngài sẽ để mặc họ cho các sức mạnh của ma quỉ và của thế gian hành hạ họ, và họ sẽ phải nhục nhã và thẹn thùng xấu hổ.
2/ Phúc Âm: Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.
2.1/ Câu hỏi của Gioan Tẩy Giả: Có nhiều giả thuyết khác nhau chung quanh câu hỏi của hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả: "Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?"
(1) Ông nghi ngờ Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai: Truyền thống Do-thái tin một Đấng Thiên Sai uy quyền, khi Ngài tới, Ngài sẽ dùng uy quyền và sức mạnh để đanh đuổi ngoại bang và phục hồi địa vị ưu việt cho người Do-thái. Khi không thấy điều này xảy ra, niềm tin của ông vào Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai bị lung lay.
(2) Tuy Gioan tin Chúa Giêsu, nhưng ông muốn hai môn đệ của ông tự tìm ra và củng cố niềm tin của họ bằng cách gởi họ trực tiếp tìm câu trả lời từ miệng Chúa Giêsu. Một người có thể nghe người khác nói về Chúa Giêsu hay đọc những sách nói về Ngài; nhưng để có niềm tin vững mạnh vào Ngài, họ cần có kinh nghiệm trực tiếp với Chúa Giêsu.
(3) Gioan đang bị giam giữ khốn khổ trong ngục thất, và sự giam giữ này làm lung lay đức tin của Gioan. Tại sao Chúa Giêsu không dùng uy quyền ra tay giải thoát hay sai các thiên sứ của Ngài đến để cứu ông thoát khỏi cảnh tù tội?
Cả ba giả thuyết đều có lý do, vì dựa trên câu trả lời của Chúa Giêsu cho hai môn đệ.
2.2/ Câu trả lời của Chúa Giêsu: Thánh sử Lucas chú trọng đến ba điều quan trọng trong câu trả lời của Chúa Giêsu:
(1) Chúa Giêsu có uy quyền chữa bệnh: "Chính giờ ấy, Đức Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy." Hai môn đệ của Gioan đã chứng kiến tất cả những việc này, và niềm tin của hai ông phải được củng cố bởi những phép lạ của Chúa Giêsu.
(2) Chúa Giêsu củng cố niềm tin cho Gioan: Đau khổ khi bị tù đày cần thiết để thanh luyện và củng cố đức tin cho con người. Trong câu cuối, Ngài gián tiếp nhắn nhủ Gioan và hai môn đệ của ông: "Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."
(3) Chúa Giêsu nhắc nhở cho Gioan biết Ngài là Đấng mà tiên-tri Isaiah đã loan báo, và Ngài làm cho lời tiên-tri Isaiah được ứng nghiệm: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa phải được củng cố và làm cho lớn mạnh mỗi ngày, để có thể giúp chúng ta đứng vững trước phong ba của cuộc đời. Nếu không, chúng ta sẽ dễ dàng bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần khác.
- Khi phải đương đầu với nghịch cảnh, thay vì trách Thiên Chúa, chúng ta hãy tự kiểm điểm xem tại sao những điều ấy xảy ra: có thể là tiếng kêu gọi thức tỉnh để trở về với Thiên Chúa hay có thể là dịp để chúng ta luyện tập đức tin cho vững vàng hơn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
15/12 Phải sống theo sự thật
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Ba Tuần III MV2
Bài đọc: Zeph 3:1-2, 9-13; Mt 21:28-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải sống theo sự thật.
Khi con người phải đối diện với sự thật, có nhiều phản ứng khác nhau: Có những người dửng dưng với sự thật, vì không nhìn ra được sự quan trọng của nó. Có những người sợ sự thật, vì sự thật mất lòng. Nếu họ biết, họ phải thi hành sự thật. Ví dụ, nhiều người biết những gì Chúa nói là sự thật; nhưng họ không muốn tin, vì nếu tin họ phải giữ những gì Chúa dạy. Có những người muốn tiêu hủy sự thật, vì nó phơi bày những giả dối của họ ra ánh sáng cho mọi người nhìn thấy. Sau cùng, có những người yêu mến sự thật và nhiệt thành tìm kiếm; vì sự thật giúp họ nhận ra những lầm lỗi khuyết điểm để sửa chữa thành những người tốt đẹp hơn. Điều quan trọng con người cần biết là sự thật giải thóat. Dù con người không có tội vì không biết sự thật, họ vẫn phải lãnh nhận mọi hậu quả vì tội dửng dưng, quay lưng, hay tiêu diệt sự thật.
Các Bài đọc hôm nay xoay quanh vấn đề cần biết và sống theo sự thật. Trong Bài Đọc I, Tiên Tri Isaiah vạch ra cho dân thấy tai hại của việc quay lưng lại với Thiên Chúa, nguồn gốc của sự thật; và chạy theo những ảo tưởng như tin vào sức mình hay các thần ngọai bang. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vạch ra cho các Kinh-sư và Biệt-phái biết: Các người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước họ; vì mặc dù tội lỗi, nhưng họ biết ăn năn hối cải để lãnh nhận ơn tha thứ và làm lại cuộc đời. Nếu họ không chịu tin và thi hành những gì Gioan Tẩy Giả và chính Ngài nói với họ, họ sẽ không được hưởng Nước Trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giống nòi phản lọan không nghe tiếng kêu mời, cũng chẳng tiếp thu lời sửa dạy.
1.1/ Dân Israel không nghe lời Thiên Chúa: Tiên Tri Sophonia là tiên tri sống trong Thời Lưu Đày, ông cho dân biết lý do tại sao Jerusalem bị thất thủ và dân bị lưu đày: "Khốn cho thành phản loạn và ô uế, khốn cho thành tàn bạo, không nghe tiếng kêu mời, chẳng tiếp thu lời sửa dạy, không cậy trông vào Đức Chúa, chẳng đến gần Thiên Chúa của mình." Thành Jerusalem là Thành Thánh của Thiên Chúa ngự; thế mà nay trở nên Thành phản lọan, ô uế, và tàn bạo. Lý do là vì dân Thành đã làm ngơ trước những lời kêu mời và sửa dạy của các tiên tri Chúa gởi tới. Họ không còn trông cậy vào Thiên Chúa nữa, nhưng tin tưởng vào sức mạnh của mình, và chạy theo các thần ngọai bang.
1.2/ Chúa sửa sọan một dân mới: Mục đích Thiên Chúa sửa phạt không phải để tiêu diệt, nhưng để thanh luyện làm cho dân biết nhận ra và sống theo sự thật, theo ý muốn và đường lối của Ngài. Dân mới Thiên Chúa sửa sọan để mang trở về Jerusalem sẽ gồm 2 lọai người: những người không phải là dân Do-Thái, nhưng tin tưởng vào Thiên Chúa và phục vụ Ngài; những người Do-Thái còn sót lại, họ nhận ra tội lỗi của họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và ăn năn trở lại với Ngài. TT viết: "Bấy giờ, Ta sẽ làm cho môi miệng chư dân nên tinh sạch để tất cả đều kêu cầu danh Đức Chúa và kề vai sát cánh phụng sự Người. Từ bên kia sông ngòi xứ Kush, những kẻ tôn thờ Ta, những kẻ đã bị Ta phân tán, sẽ mang lễ vật đến kính dâng Ta. Ngày ấy, ngươi sẽ không còn phải hổ thẹn vì mọi hành vi ngang trái chống lại Ta. Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không còn nghênh ngang trên núi thánh của Ta nữa."
1.3/ Dân còn sót lại sẽ nghe lời và làm theo ý Thiên Chúa: Thời gian Lưu Đày làm cho người Do-Thái nhận ra những sai trái của họ vì đã không tin tưởng và cậy trông nơi Thiên Chúa; đồng thời cũng khích lệ họ biết khiêm nhường và sống theo những gì Thiên Chúa dạy. Khi dân đã nhìn ra điều này, Thiên Chúa sẽ tiếp tục chăm sóc họ: "Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa. Số dân Israel còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ."
2/ Phúc Âm: Nói nhưng không làm theo ý Thiên Chúa.
2.1/ Dụ ngôn hai người con: Để dạy cho các Kinh-sư và Biệt-phái một bài học về sự thật, Chúa Giêsu đưa ra cho họ một dụ ngôn: "Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho." Nó đáp: "Con không muốn đâu!" Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: "Thưa ngài, con đây!" nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?" Họ trả lời: "Người thứ nhất."
2.2/ Hai người con tượng trưng cho hai hạng người:
(1) Những người thu thuế và gái điếm: Chúa Giêsu ví những người này như người con thứ nhất. Nếu xét theo bề ngòai, họ là những người tội lỗi, và không để tâm đến những gì Chúa dạy bảo. Nhưng khi họ được cơ hội nghe những gì Gioan Tẩy Giả rao giảng hay được Chúa Giêsu kêu mời, họ lập tức thay đổi cuộc sống, và tin vào Tin Mừng. Như lời Đức Giêsu nói với họ: "Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy." Những người đã ăn năn và tin theo Chúa Giêsu cũng không thiếu. Tin Mừng kể ra những người như: Matthêu và Jachaeus là những người thu thuế; Mary Magdalene là gái điếm; người trộm lành tin vào Chúa Giêsu trong những giây phút cuối của cuộc đời anh ta.
(2) Những Biệt-phái và Kinh-sư: Chúa Giêsu ví những người này như người con thứ hai. Nếu chỉ xét bề ngòai: thẻ kinh và những tua áo họ đeo, thông biết Lề Luật, đọc kinh sách nhiều lần trong ngày; họ là những người tốt lành vì họ giữ cẩn thận những gì Chúa dạy. Nhưng Thiên Chúa không chỉ nhìn và xét theo dáng vẻ bên ngòai, Ngài thấu suốt và phán xét theo tâm tình bên trong. Ngài nhìn thấy họ chỉ thờ Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng lòng họ xa Thiên Chúa vạn dặm, đeo thẻ kinh lớn và mang nhiều tua áo để được tiếng khen, thông biết Lề Luật nhưng không thi hành, đọc kinh nhiều để nuốt trọn gia tài các bà góa. Gioan Tẩy Giả nghiêm khắc răn bảo họ hãy thật lòng ăn năn xám hối, vì cây rìu đã chờ sẵn dưới gốc cây; nhưng họ vẫn cứng lòng không chịu trở lại. Chúa Giêsu nhìn thấu tận đáy lòng và mắng họ như những mồ mả tô vôi, bên ngòai trông rất đẹp, nhưng bên trong tòan những giòi bọ rúc rỉa. Họ không những không ăn năn trở lại, mà còn tìm cách để giết luôn Chúa Giêsu.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không chỉ cần biết sự thật, nhưng còn phải thi hành sự thật.
- Phải biết nhìn nhận tội lỗi và sửa sai kịp thời. Chúng ta đừng bao giờ có thái độ tự nhận mình là người công chính và khinh thường người khác; nhưng phải luôn biết khiêm nhường xét mình và thú nhận tội lỗi với Thiên Chúa.
- Chúng ta phải lãnh nhận mọi tai hại và thiệt thòi của việc khinh thường và không sống theo sự thật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
14/12 Phải yêu mến sự thật
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Hai Tuần III MV2
Bài đọc: Num 24:2-7, 15-17; Mt 21:23-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải yêu mến sự thật.
Khao khát được biết và sống theo sự thật là một trong những khát vọng được Thiên Chúa phú bẩm vào trong con người; vì thế, con người luôn tìm kiếm để nhận biết sự thật. Nhưng trong hành trình đi tìm sự thật, có rất nhiều kẻ thù đe dọa và ngăn cản con người không cho tìm ra sự thật như: lười biếng, sợ hãi, và sai lạc. Tính lười biếng làm con người ngại khó khăn và không kiên trì trong hành trình đi tìm sự thật. Tính sợ hãi làm con người chùn chân, không có can đảm chấp nhận sự thật. Sự sai lạc ngăn cản và đánh lạc hướng, không cho con người đạt tới sự thật.
Các Bài đọc hôm nay tập trung vào việc biết và sống theo sự thật. Trong Bài đọc I, Vua Balak mặc dù đã hai lần được Tiên Tri Balaam cho biết sự thật, vẫn hy vọng sẽ nhận được những gì ngược lại với sự thật: Nhà Vua muốn Thiên Chúa chúc dữ cho dân tộc Israel. Trong Phúc Âm, các Thượng-tế và Kỳ-mục, mặc dù biết rõ Phép Rửa của Gioan và uy quyền của Chúa Giêsu bởi Trời; nhưng vẫn gian dối nói không biết; vì sợ phải tin và giữ những gì Chúa Giêsu truyền dạy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiên Tri Balaam biết kính sợ Thiên Chúa và dám nói sự thật.
Khi Vua Balak của Moab thấy quyền lực của Israel bành trướng khắp vùng sông Jordan, Nhà Vua sợ Israel sẽ thôn tính Moab nữa. Nhà Vua sai sứ giả đến cầu cứu với Tiên Tri Balaam trong vùng, để ông này chúc dữ cho dân Israel, với hy vọng khi Vua đem quân giao chiến thì sẽ thắng. Tiên Tri Balaam được Thiên Chúa báo trước cho biết: ông có thể đi tới với Vua, nhưng chỉ được nói những gì Thiên Chúa muốn ông nói mà thôi (Num 22:20, 35, 38). Sau hai lần thất bại để kiếm lời chúc dữ của Thiên Chúa từ miệng TT Balaam (Num 23:7-10, 18-24), Vua Balak vẫn kiên nhẫn với Tiên Tri Balaam để chờ Thiên Chúa thay đổi.
Trình thuật hôm nay tường thuật lần thứ ba những gì TT Balaam nói với Vua Balak: "Sấm ngôn của Balaam, con Beor, sấm ngôn của người mắt vẫn mở. Sấm ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa, người ngắm nhìn thị kiến Đấng Toàn Năng, của người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần." Phần đầu của thị kiến nói về sự chúc lành của Thiên Chúa cho Israel, phần sau nói về những gì sẽ xảy ra cho Vua và dân tộc Moab:
(1) Thiên Chúa chúc lành cho Nhà Israel: "Hỡi Jacob, lều bạt của ngươi đẹp biết mấy! Hỡi Israel, đẹp biết mấy doanh trại của ngươi! Như thung lũng trải dài, như vườn cạnh bờ sông, như trầm hương Đức Chúa đã trồng, như hương nam mọc bên dòng nước. Từ các bồn của nó, nước tràn ra, và hạt giống nó được tưới dồi dào. Vua của nó cao cả hơn Agag, và vương quốc nó được tôn vinh."
(2) Moab sẽ bị phá hủy bởi Nhà Israel: "Rồi ông cất tiếng đọc bài thơ của mình như sau: "Sấm ngôn của Balaam, con Beor, sấm ngôn của người mắt vẫn mở. Sấm ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa, và biết những tư tưởng của Đấng Tối Cao, được Đấng Toàn Năng cho nhìn thấy, của người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần. Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc, tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên; một vì sao xuất hiện từ Jacob, một vương trượng trỗi dậy từ Israel sẽ đập vào màng tang Moab, đánh vỡ sọ tất cả con cái Seth."
Nhiều thánh Giáo-Phụ đã cho "một vì sao xuất hiện từ Jacob" là lời tiên tri nói về Đấng Cứu Thế, nhưng lời tiên tri này không được dẫn chứng trong Tân-Ước. Tuy nhiên, nó được trích dẫn trong các Sách của Qumran (1QM 11:5-7, CD 7:19-20) để nói lên niềm hy vọng vào Đấng Cứu Thế.
2/ Phúc Âm: Các Thượng-tế và Kỳ-mục không dám trả lời Chúa Giêsu vì sợ hậu quả của sự thật.
2.1/ Đương đầu với sự thật: Trình thuật hôm nay kể: Đức Giêsu vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?"
(1) Họ thách thức quyền năng thanh tẩy Đền Thờ của Chúa Giêsu: Những điều mà họ đang thắc mắc là việc Chúa Giêsu vào Đền Thờ và xua đuổi tất cả các kẻ buôn bán ra khỏi đó (x/c Mt 21:12-13) và việc Chúa chữa lành các bệnh nhân (Mt 21:14-15). Lý do tại sao Chúa làm, vì: "Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp."
(2) Chúa Giêsu thách thức họ về Phép Rửa của Gioan: Chúa Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi của họ, nhưng Ngài đòi họ phải trả lời câu hỏi của Ngài trước khi Ngài trả lời câu hỏi của họ. Ngài thách thức: "Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?"
2.2/ Thái độ chạy trốn sự thật: Chúa Giêsu biết rõ những gì họ đang nghĩ: Nếu họ thật tâm muốn đi tìm sự thật, họ phải nhận ra những gì Gioan Tẩy Giả và Ngài làm là đến từ Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả dọn đường cho con người để đón nhận Đấng Cứu Thế, và tòan dân chạy đến với ông để được chuẩn bị. Việc thanh tẩy Đền Thờ và các phép lạ Chúa Giêsu làm không thể đến từ con người, vì không ai có can đảm và quyền năng để làm những chuyện đó.
(1) Giới lãnh đạo chạy trốn sự thật vì sợ phải lãnh nhận hậu quả: Họ chạy trốn sự thật không phải vì họ không đủ khôn ngoan để nhìn ra sự thật; nhưng vì họ không muốn phải lãnh nhận những hậu quả do sự thật gây ra. Hậu quả trước mắt là họ sợ phải tin vào Chúa Giêsu và làm những gì Ngài muốn. Họ có đủ khôn ngoan con người để lý luận như sau:
- Nếu mình nói: "Do Trời," thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các ông lại không tin ông ấy?"
- Còn nếu mình nói: "Do người ta," thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gioan là một ngôn sứ."
(2) Từ chối chấp nhận sự thật: Vì sợ phải lãnh nhận hậu quả, nên họ phải dối trá trả lời Chúa Giê-su: "Chúng tôi không biết." Người cũng nói với họ: "Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải yêu mến sự thật vì chỉ có sự thật mới giải thóat và làm cho con người đạt tới đích điểm của cuộc đời.
- Chúng ta phải ao ước và tìm tòi để biết sự thật. Khi đã tìm được sự thật, chúng ta phải sống những gì mà sự thật đòi hỏi.
- Chúng ta phải có can đảm làm chứng cho sự thật; vì sợ hãi làm con người quay đầu và từ chối sự thật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
13/12 Hãy vui mừng vì ơn cứu độ đã gần đến
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Chúa Nhật 3 Mùa Vọng, Năm C
Bài đọc: Sop 3:14-18a; Phi 4:4-7; Lk 3:10-18.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy vui mừng vì ơn cứu độ đã gần đến.
Con người bị đau khổ hay thất vọng vì bị chi phối bởi rất nhiều sợ hãi như: thất bại, tù đày, nô lệ, tội lỗi, chia ly, chết chóc, và nhất là sự phán xét và hình phạt của Thiên Chúa. Ngược lại, con người vui mừng khi những sợ hãi này được cất nhắc đi như: tù nhân hay nô lệ trong chốn lưu đày sắp được phóng thích, như như sinh viên sắp ra trường vì đã hoàn tất mọi thách đố của các cuộc khảo hạch, như một người sắp được chính thức sống hạnh phúc với người mình yêu mến. Chủ Nhật III Mùa Vọng được gọi là Chủ Nhật của niềm vui và của hy vọng, vì Đấng Thiên Sai đã gần đến. Ngài đến để xua tan đi tất cả những đau khổ, thất vọng, tội lỗi, và mang lại niềm vui và ơn cứu độ đến cho muôn người.
Các Bài Đọc hôm nay diễn tả niềm vui tuyệt đỉnh khi con người có được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời; vì có Ngài là có tất cả mọi sự. Trong Bài Đọc I, ngôn-sứ Sophonia kêu gọi con cái Israel hãy vui mừng lên vì Thời Lưu Đày sắp chấm dứt. Thiên Chúa sắp "rút lại án phạt và đẩy xa kẻ thù" khỏi họ. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Philipphê hãy vui mừng và phải vui luôn trong niềm vui của Thiên Chúa, vì khi một người đã có Chúa, họ không còn thiếu một sự gì nữa cả. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả kêu gọi dân chúng hãy vui mừng lên vì Đấng Thiên Sai gần tới. Ngài sẽ thanh tẩy mọi tội lỗi và mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy nức lòng phấn khởi vì Đức Chúa đã rút lại án lệnh phạt ngươi.
1.1/ Nhà Israel vui mừng: Để hiểu trình thuật hôm nay, chúng ta cần hiểu hoàn cảnh lịch sử của dân tộc Israel trong thời gian này. Toàn cõi Israel đã bị quân thù chinh phục, Đền thờ và thành thánh Jerusalem bị san phẳng, dân chúng đang sống trong hai nơi lưu đày: vương quốc Israel miền Bắc tại Assyria và vương quốc Judah miền Nam tại Babylon. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, và chịu đựng mọi đau khổ của người lưu đày như thế, con cái Israel mất hết niềm tin và hy vọng. Nỗi đau thấm thía nhất là họ đã bị Thiên Chúa bỏ rơi để họ làm mồi cho quân thù.
(1) Lời kêu gọi vui mừng: Nhưng tình thương Thiên Chúa đã thắng vượt mọi sự bất trung của con cái Israel, đó là lý do mà tiên tri Sophoniah được sai đến để loan tin vui mừng cho con cái Israel: "Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy nức lòng phấn khởi." Sion, Israel, và Jerusalem tượng trưng cho tất cả con cái Israel. Vì đây là một tin mừng vô cùng lớn lao mà họ đang mong đợi; nên họ không thể giữ trong lòng, mà phải biểu tỏ mãnh liệt ra bên ngoài.
(2) Lý do vui mừng: Tiên-tri Sophoniah nêu rõ lý do của sự vui mừng: "Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Israel đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ." Lý do của nô lệ và lưu đày là con cái Israel đã bất tuân chỉ thị của Thiên Chúa và chạy theo các thần ngoại bang; vì thế, Ngài đã để cho quân thù ngoại bang giày xéo đất nước để cảnh cáo và thanh luyện họ. Giờ đây, thời gian thanh luyện sắp chấm dứt, cảnh lưu đày sắp hết, nhất là họ được nối lại tình xưa nghĩa cũ với Thiên Chúa. Họ phải vui mừng mãnh liệt, vì khi có sự hiện diện của Thiên Chúa, Ngài sẽ bảo vệ họ, và quân thù sẽ không làm hại được họ.
1.2/ Thiên Chúa vui mừng: Đau khổ không chỉ hành hạ con người, nhưng còn ảnh hưởng đến Thiên Chúa, vì Ngài luôn yêu thương và lo lắng cho con người. Vì thế, khi con người được thoát khỏi cảnh nhục nhã u sầu, Thiên Chúa cũng vui mừng hoan hỷ với niềm vui của con người.
Tiên-tri diễn tả sự vui mừng của Thiên Chúa khi đón nhận con cái Israel trở về: "Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội."
2/ Bài đọc II: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa.
2.1/ Hãy luôn luôn vui mừng: Thánh Phaolô thực sự cảm nhận được niềm vui của người có Thiên Chúa là có tất cả. Chính vì thế mà ngài đã kêu gọi các tín hữu Philipphê: "Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến."
Vui tươi là dấu chỉ một người có Thiên Chúa; vì thế, người tín hữu phải vui mừng luôn vì họ có Thiên Chúa ở với họ. Con người chỉ lo sợ và buồn sầu khi con người sống xa cách với Thiên Chúa và chạy theo những hào nhoáng của thế gian; để rồi phải lãnh nhận mọi hậu quả đau thương từ thế gian mang tới. Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu phải sống "hiền từ rộng rãi," có nghĩa phải sống công bằng và thương xót. Giống như Thiên Chúa, Ngài không chỉ đối xử công bằng, nhưng còn thương xót con người đã bất trung với Ngài; chỉ như thế, con người mới có cơ hội làm lại cuộc đời.
2.2/ Hãy cầu nguyện luôn: Con người lo lắng sợ hãi khi bị đe dọa bởi những khó khăn và thách đố trong cuộc sống. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy giải tỏa những lo âu sợ hãi bằng việc cầu nguyện: "Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện." Mấy điều con người cần lưu ý khi cầu nguyện với Thiên Chúa:
- Cầu nguyện với Thiên Chúa trong mọi sự: không có sự gì to lớn vượt quá uy quyền của Thiên Chúa, và cũng không có sự gì quá nhỏ đối với sự săn sóc nhân hậu của Ngài. Hãy đặt trong tay Thiên Chúa tất cả tội lỗi của quá khứ, các vấn nạn đang xảy ra trong hiện tại, và những lo âu sẽ xảy đến trong tương lai.
- Cầu nguyện với lòng tin tưởng tuyệt đối: Khi con người cầu nguyện với Thiên Chúa, họ phải tin họ đang cầu nguyện với: một Thiên Chúa khôn ngoan vì Ngài thấu hiểu mọi sự; một Thiên Chúa uy quyền vì Ngài làm được mọi sự; một Thiên Chúa là Cha nhân hậu vì Ngài sẵn sàng ban mọi ơn lành cho con cái của mình.
- Cầu nguyện giúp con người tìm được bình an trong tâm hồn: Một tác giả đã nói "bình an là hiệu quả của lời cầu xin tin tưởng." Một khi đã tin tưởng hoàn toàn nơi tình yêu và uy quyền của Thiên Chúa, con người phó thác cho Ngài mọi sự, họ sẽ không còn ưu tư, lo lắng; và như thế, sẽ có được sự bình an thực sự trong tâm hồn. Thánh Phaolô cũng xác tín điều này với các tín hữu: "Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Giêsu Kitô.'' Chỗ khác ngài nói: Nếu Thiên Chúa đã rộng lượng ban cho con người Đức Kitô, thì còn gì Ngài lại không ban cho con người?
3/ Phúc Âm: Phải làm gì để chuẩn bị đón mừng Chúa đến?
3.1/ Phải chuẩn bị tâm hồn bằng cách thay đổi cuộc sống: Không phải ai cũng có thể nhận ra và đón nhận Đức Kitô, Đấng Thiên Sai Thiên Chúa ban tặng cho con người. Lịch sử chứng minh, nhiều người không những đã không nhận ra Ngài, lại còn luận tội và tìm cách giết đi chính Đấng ban sự sống. Khi các người Do-thái tìm đến với Gioan, hỏi ông cách chuẩn bị để đón nhận Đấng Thiên Sai, ông cho biết con người cần khiêm nhường và thay đổi cuộc sống cho phù hợp với sự thật. Gioan cho những lời khuyên rất thực tế và cụ thể cho từng lớp người: ông không đòi hối nhân phải thay đổi nghề nghiệp; nhưng thay đổi thái độ thi hành nghề nghiệp đó.
(1) Với đám đông: Đám đông hỏi ông rằng: "Chúng tôi phải làm gì đây?" Ông trả lời: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy." Gioan dạy dân: Hãy thực thi bác ái bằng cách chia sẻ cho tha nhân những gì mình có. Đức Kitô cũng dạy dân: người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
(2) Những người thu thuế: Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: "Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?" Ông bảo họ: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh." Cám dỗ của giới thu thuế là thu vào quá mức ấn định, để giữ lại cho mình số thu thặng dư đó. Gioan khuyên họ phải thực thi công bằng, bằng cách bằng lòng với số lương chính phủ trả, và trả lại cho tha nhân những gì mình đã thâu thặng dư.
(3) Những binh lính: Họ hỏi ông: "Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?" Ông bảo họ: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình." Cám dỗ của binh lính là cậy mình có vũ khí trên tay nên dễ đàn áp dân chúng. Ông Gioan khuyên họ hãy sống thật với lương tâm, đừng lấy của người dân vô tội, đừng hãm hiếp phụ nữ; nhưng hãy bằng lòng với số lương chính phủ trả cho họ.
3.2/ Sự khác biệt giữa Đấng Thiên Sai và Gioan Tẩy Giả: Cách thức sinh sống và rao giảng của Gioan làm nhiều người đặt câu hỏi: "biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Messiah!"
Ông Gioan rất thành thực và đánh tan mọi nỗi nghi ngờ của dân chúng, ông nói với dân hai sự khác biệt giữa Đấng Thiên Sai và ông:
(1) Sự khác biệt về uy quyền: Gioan nói về Đấng Thiên Sai: "Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Ông chỉ là người dọn đường cho Đấng Thiên Sai, người chuẩn bị tâm hồn cho dân để gặp gỡ Đấng Cứu Thế.
Đấng Thiên Sai còn có uy quyền xét xử và thưởng phạt con người tùy theo việc làm của họ: "Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi." Gioan Tẩy Giả không có quyền xét xử và thưởng phạt con người.
(2) Sự khác biệt giữa hai phép rửa: Ông Gioan trả lời mọi người rằng: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa."
Phép rửa của Gioan là phép rửa mà truyền thống Do-thái vẫn làm cho những người muốn theo đạo Do-thái; đó là phép rửa trong nước để tha tội. Phép Rửa của Đức Kitô là Phép Rửa trong Thánh Thần và lửa để thánh hóa con người. Để xứng đáng được hưởng ơn cứu độ, con người không chỉ cần được thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi, mà còn cần được làm cho trở nên thánh thiện và tinh tuyền. Điều này chỉ có thể hiện thực với Phép Rửa của Đức Kitô.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi con người sống xa Thiên Chúa, con người sống trong lo âu và sợ hãi. Để có niềm vui đích thực, chúng ta phải quay trở về với Thiên Chúa và sống trong sự hiện diện của Ngài.
- Con người nghĩ để có hạnh phúc, con người phải có tự do để làm bất cứ điều gì mình muốn. Thực tế chứng minh ngược lại: để có niềm vui và hạnh phúc đích thực, con người cần sống theo những lời chỉ dạy của Thiên Chúa.
- Niềm vui trọn vẹn chỉ có được khi con người hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa. Ngài sẽ dạy dỗ, săn sóc, bảo vệ, và ban cho con người sự bình an đích thực trong tâm hồn.
- Để có thể đón nhận Thiên Chúa, con người cần phải thanh tẩy tâm hồn bằng cách khử trừ mọi tội lỗi và sống công bằng bác ái với tha nhân.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
12/12 Thiên Chúa tôn vinh những ai khiêm nhường
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Lễ Đức Mẹ Guadalupe, Năm ABC
Bài đọc: Zec 2:14-17; Lk 1:26-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa tôn vinh những ai khiêm nhường.
Lễ Đức Mẹ Guadalupe rất gần với Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm vì lý do lịch sử của nó. Anh Gioan Diego, một nông dân người Mễ-tây-cơ, đang trên đường đi ngang qua ngọn đồi Tepeyac để tham dự thánh lễ buộc này thì được Đức Mẹ hiện ra vào sáng sớm thứ bảy, ngày 8 tháng 12 năm 1531. Đức Mẹ truyền cho anh phải đi gặp Đức Giám-mục giáo phận, Juan de Zumárraga, để xin ngài xây một nhà thờ trên đồi Tepeyac dâng kính Đức Mẹ. ĐGM nói ngài cần thời giờ để suy nghĩ. Lần thứ hai Đức Mẹ hiện ra và thúc giục anh đi gặp ĐGM và nhắc lại lời yêu cầu, anh đi gặp và ngài nói cần một dấu chỉ để ngài biết đó là ý của Đức Mẹ thật. Anh trở về và chuyển lời yêu cầu của ĐGM, Đức Mẹ hứa sẽ thoả mãn lời yêu cầu trong lần gặp kế tiếp ngày 11 tháng 12. Vì bận săn sóc cậu bị bệnh nặng, anh không thể đến gặp Đức Mẹ ngày đã hẹn. Hôm sau, ngày 12 tháng 12, anh cố tình đi con đường khác vì đã lỡ hẹn với Đức Mẹ, để mời cha ban bí tích Xức Dầu cho cậu; Đức Mẹ vẫn hiện ra với anh. Đức Mẹ yêu cầu anh đi lên đồi nhặt hoa hồng, là thứ hoa chưa bao giờ nở trên đồi khô cằn Tepeyac vào tháng 12. Sau khi đã nhặt hoa, Đức Mẹ xếp những đoá hồng này trên chiếc áo khoác của anh, và yêu cầu anh mặc vào và đi gặp ĐGM. Khi gặp ngài, anh mở tung chiếc áo choàng đang mặc làm các hoa hồng rớt xuống, và trên áo có in hình "Đức Mẹ Guadalupe." ĐGM nhận ra đó là ý của Đức Mẹ thật và ngài truyền thi hành công trình xây dựng ngôi thánh đường trên đồi Tepeyac. Chiếc áo choàng này, sau gần năm trăm năm, nay vẫn còn nguyên vẹn và được giữ cẩn thận tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe bên Mễ-tây-cơ.
ĐGH Leo XIII ban tặng "chuẩn y của Toà Thánh" trên áo choàng anh Gioan Diego ngày 12 tháng 10 năm 1895. Đức Mẹ Guadalupe được tôn xưng là "Nữ Hoàng của Mễ-tây-cơ"; "Người Bảo Vệ Mỹ Châu" (1945); "Nữ Hoàng Mỹ Châu La-tinh" và "Người bảo vệ của những trẻ em chưa sinh" bởi ĐGH J.P. II năm 1999. Anh Gioan Diego được tôn phong Chân-phước năm 1990 và hiển thánh năm 2002 bởi ĐGH J.P. II. Mẹ Giáo Hội truyền phải kính lễ Đức Mẹ Guadalupe trên khắp lục địa Mỹ Châu ngày 12 tháng 12 hàng năm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sẽ qui tụ mọi dân cùng hướng về Jerusalem.
Thiên Chúa quan phòng mọi sự xảy ra trong cuộc đời này; tất cả là cho mục đích cứu độ dân chúng của Ngài. Ban đầu Ngài chọn dân Do-thái như là dân riêng để chuẩn bị cho biến cố Nhập Thể của Đức Ki-tô. Trong hai cuộc thất thủ và lưu đày của miền Bắc (721 B.C.) và miền Nam (587 B.C.), chúng ta có thể quan sát thấy hai mục đích chính của Thiên Chúa:
1.1/ Hai cuộc lưu đày cần thiết để thanh tẩy dân của Thiên Chúa:
Ngôn sứ Zechariah và ngôn sứ Haggai là hai ngôn sứ sau thời lưu đày và có công trong việc đốc thúc dân chúng xây dựng lại Đền Thờ Jerusalem đã bị phá huỷ vào năm 587 B.C. bởi quân đội Babylon. Đền Thờ mới được khánh thành bởi thống đốc Nehemiah và kinh sư Ezra vào năm 515 B.C. Trong ngày khánh thành, kinh sư Ezra đã cho đọc và giảng kinh thánh từ sáng sớm tới trưa gồm Lề Luật và các Tiên Tri để nhắc lại cho dân biết sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, tội bất trung của dân là lý do chính của toàn thể quốc gia bị huỷ diệt và lưu vong. Ông và các tư tế nhấn mạnh đến tình thương Thiên Chúa dành cho họ trong việc quan phòng để Các vua Ba-tư ra chiếu chỉ phóng thích cho họ về lại quê hương và giúp tài chánh để xây dựng lại Đền Thờ, sau 50 năm miền Nam bị thất thủ, đúng như lời các ngôn sứ đã loan báo (x/c Ezra 8-9).
Vì thế, điều lợi ích đầu tiên trong việc miền Nam bị thất thủ và lưu đày là thanh tẩy dân chúng, giúp họ nhận ra mọi lỗi lầm họ đã vi phạm. Đối với Thiên Chúa, việc phá huỷ và xây dựng lại đều có thể xảy ra cách dễ dàng cho mục đích thanh tẩy dân của Ngài để Ngài có thể ở với họ. Trong đoạn văn của ngôn sứ Zechariah, ông kêu gọi dân chúng, "Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA."
1.2/ Hai cuộc lưu đày cần thiết để Dân Ngoại biết đến và tin vào Thiên Chúa: Muốn cho Dân Ngoại biết đến đạo Thiên Chúa, cần có những người đi rao giảng và làm chứng. Dân Do-thái trở thành những người rao giảng dẫu bị bắt buộc; vì Thiên Chúa vẫn có thể dùng những khí cụ bất toàn để hoàn tất ý định của Ngài. Ngôn sứ Isaiah đã tiên báo rằng khi Thiên Chúa phục hồi dân Do-thái từ nơi lưu đày, thì không phải chỉ có dân Do-thái trở về Jerusalem mà thôi, nhưng còn rất nhiều con cái của các dân tộc khác nữa (Isa 49:6, 52:10, 60:3-11). Trong đoạn văn hôm nay, ngôn sứ Zechariah cũng đề cập đến sự kiện này: "Ngày ấy, nhiều dân tộc sẽ gắn bó cùng ĐỨC CHÚA: Chúng sẽ thành dân thánh của Ta, và Ta sẽ cư ngụ ở giữa ngươi."
Trong cuộc hiện ra lần đầu tiên, Đức Mẹ truyền cho anh Gioan Diego đi gặp ĐGM để xây một Đền Thờ biệt kính Mẹ trên Đồi Tepeyac. Mục đích của việc xây Đền Thờ là để Mẹ có thể ở giữa dân để chia sẻ những nỗi khốn khổ và chỉ đường cho các dân tộc Châu Mỹ đến với Thiên Chúa. Biến cố này đã giúp cho việc truyền giáo lục địa trẻ nhất của thế giới gần năm trăm năm qua. Chúng ta phải nhận ra sự quan phòng khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa và Mẹ Maria trong biến cố này.
2/ Phúc Âm: Đức Kitô nhập thể nhờ lời thưa "Xin Vâng" của Đức Trinh Nữ Maria.
2.1/ Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế: Trước tiên, chúng ta cần xác định câu 26 trong trình thuật hôm nay là Lời Giới Thiệu tổng quát của Luca trước khi đi vào chi tiết của biến cố Truyền Tin. Điều này giúp chúng ta tránh được việc thắc mắc: Tại sao Mẹ trả lời "không biết đến chuyện vợ chồng" trong câu 34, lại còn "đã thành hôn với một người tên là Giuse" trong câu 26.
Có thể nói hầu hết các danh hiệu của Đức Mẹ mà Giáo Hội tuyên xưng qua các thời đại, có nguồn gốc trong các chi tiết của biến cố Truyền Tin:
(1) Mẹ Maria là Đấng đầy tràn ân sủng và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ, như lời sứ thần Gabriel chào Đức Mẹ: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà."
(2) Mẹ Maria luôn đẹp lòng Thiên Chúa: Sứ thần nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa." Điều này chứng tỏ Mẹ luôn sạch tội.
(3) Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa: "Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao." Hiển nhiên Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu là Con Đấng Tối Cao.
(4) Mẹ là người đem lời Thiên Chúa hứa với các tổ phụ tới chỗ thành tựu: "Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
2.2/ Xung đột giữa ý của Thiên Chúa và của Maria: Khi được biết ý của Thiên Chúa qua sứ thần Gabriel, Mẹ Maria cũng trình bày cho sứ thần ý muốn của Mẹ là muốn sống cuộc đời thánh hiến: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" Sứ thần mặc khải cho Mẹ Maria biết cuộc thụ thai kỳ diệu, không giống như bất cứ cuộc thụ thai nào trong lịch sử nhân loại: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.''
Điều này có nghĩa Mẹ mang thai mà vẫn còn đồng trinh, như đã được tiên báo trước bởi tiên tri Isaiah 7:14, và được nhắc lại bởi Matthew 1:23. Thánh Luca xác định điều này bằng chứng từ của sứ thần Gabriel: "Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được." Nếu Thiên Chúa có thể cho một người sinh con trong lúc tuổi gìa như Abraham và Sarah, như mẹ của Thủ-lãnh Sampson, như mẹ của Tiên-tri Samuel, hay như Zachariah và Elisabeth trong trình thuật hôm nay, Ngài cũng có thể làm cho Mẹ Maria mang thai con của Ngài và vẫn đồng trinh.
2.3/ Lời thưa "Xin Vâng" của Đức Maria: Câu trả lời của Mẹ dạy chúng ta hai điều: Thứ nhất là thái độ khiêm nhường của Mẹ Maria khi nói với sứ thần: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa!'' Thứ hai là thái độ vâng lời làm theo ý Chúa của Mẹ Maria: "Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Với hai thái độ thích đáng này, Mẹ đã cưu mang Đức Kitô và khai mào kỷ nguyên cứu độ cho nhân loại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa và Đức Mẹ yêu thích người khiêm nhường. Anh Gioan Diego chỉ là một nông dân nghèo hèn nhưng thành thật; anh được Đức Mẹ chọn để thi hành ý định của Đức Mẹ. Đức Mẹ cũng được Thiên Chúa chọn để cưu mang Đức Ki-tô vì sự khiêm nhường và vâng lời của Đức Mẹ.
- Hậu quả của tội lỗi là do lòng kiêu ngạo và sự bất tuân lệnh Thiên Chúa của ông Adong và bà Evà. Chúng ta phải cố gắng hết sức khử trừ hai tội nguy hiểm này.
- Chúng ta vẫn còn đang phải chiến đấu với Satan và đồng bọn của hắn, vì đó là mối thù truyền kiếp; nhưng chúng ta được hứa sẽ chiến thắng, nếu chúng ta khiêm nhường và làm theo thánh ý Thiên Chúa như Đức Kitô và Mẹ Maria.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
11/12 Đừng bắt người khác phải làm mọi sự theo ý mình
- Viết bởi Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Thứ Sáu Tuần II MV2
Bài đọc: Isa 48:17-19; Mt 11:16-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đừng bắt người khác phải làm mọi sự theo ý mình.
Thiên Chúa dựng nên mỗi người khác nhau: về nhân vị, về sở thích, về cách thức suy nghĩ. Những khác biệt này làm cho mỗi người có ơn gọi, cách sống, và cách làm việc khác nhau. Lý do Thiên Chúa dựng nên con người khác nhau là vì Ngài muốn mọi người bổ xung cho nhau, đòan kết với nhau, để cùng nhau sinh sống.
Vấn đề tranh chấp xảy ra là khi có những con người độc tài, họ bắt những người khác phải theo sự suy nghĩ, cách sống, và cách làm việc của họ. Thiên Chúa, Đấng có thể bắt buộc, nhưng Ngài vẫn để tự do cho con người hành động; nhưng ngược lại, con người nhiều khi bắt ngay cả Thiên Chúa phải làm theo ý muốn của mình.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh vấn đề này. Trong Bài Đọc I, Tiên Tri Isaiah khuyên con người phải nghe theo sự dạy dỗ của Thiên Chúa để được hưởng muôn ơn phúc lộc Ngài ban cho. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nêu lên lối phê bình không có nền tảng của con người: "Gioan đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: "Ông ta bị quỷ ám." Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.""
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hạnh phúc thay những ai đi trong đường lối của Thiên Chúa!
1.1/ Phải vâng nghe những lời dạy dỗ của Thiên Chúa: Tiên Tri Isaiah nói thay Chúa: "Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi, Đức Thánh của Israel, phán thế này: Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Đấng dạy ngươi những điều bổ ích, Đấng hướng dẫn ngươi trên đường ngươi đi." Nghe lời Thiên Chúa là dấu hiệu của con người khôn ngoan; vì có ai trong trần gian này khôn ngoan hơn Thiên Chúa: Ngài biết những gì có lợi và những gì gây thiệt hại cho con người.
1.2/ Ân huệ dành cho những ai làm theo ý Chúa: Có rất nhiều ích lợi cho những ai đi sống theo đường lối của Thiên Chúa; Tiên Tri liệt kê 3 điều chính:
(1) Tâm hồn được bình an: Người làm theo ý Chúa có bình an trong tâm hồn vì biết mình đã làm đúng, và biết chắc sẽ có kết quả tốt như lời bảo đảm của TT Isaiah: "Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi sẽ chan chứa như giòng sông, sự công chính của ngươi sẽ dạt dào như sóng biển."
(2) Con đàn, cháu đống: "Giòng dõi ngươi sẽ đông như cát, con cái ngươi sinh ra sẽ hằng hà sa số." Người xưa quan niệm: con cái là hồng ân Thiên Chúa ban, nhưng tâm trạng của con người thời nay khác hẳn với những gì Chúa dạy: họ sợ con đàn cháu đống. Tâm trạng này cần được xét lại vì Thiên Chúa chẳng nói hay làm điều gì sai.
(3) Được Thiên Chúa nhớ tới muôn đời: "Tên tuổi ngươi sẽ chẳng bao giờ bị huỷ diệt, chẳng bao giờ bị xoá bỏ khỏi mắt Ta." Người không nghe lời Thiên Chúa là tự mình khai trừ tên tuổi mình ra khỏi số những người con của Thiên Chúa. Ngài luôn để ý đến những ai kêu cầu và bước đi trong đường lối của Ngài.
2/ Phúc Âm: Những bất tòan của đường lối con người.
Thiên Chúa trình bày sự thật và để con người có tự do chọn lựa sống theo đường lối Ngài; ai theo, sẽ được hưởng muôn vàn ân huệ. Khác với tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa, nhiều người chẳng có sự thật hay ân huệ; nhưng lại bắt người khác làm theo ý muốn và cách thức của mình. Chúa Giêsu lên án 2 tật xấu của con người đương thời:
2.1/ Muốn mọi sự theo ý mình: Chúa Giêsu nói: "Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác, và nói: "Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than.""
(1) Muốn mọi sự phải theo ý mình: Người ích kỷ không quan tâm đến ý của người khác nghĩ gì; đối với họ, chỉ có ý của họ là nhất. Họ quên đi họ phải theo ý của Thiên Chúa; và tùy trường hợp, họ phải theo ý của người có trách nhiệm.
(2) Muốn mọi người phải theo ý mình: Làm việc gì cũng phải có nơi chốn, hợp thời gian; chứ không phải khi mình muốn là mọi người phải làm theo ý mình. Chúa tạo dựng con người có đầy đủ trí khôn và ý muốn, chứ không phải là người máy hay những con múa rối để mình muốn điều khiển cách nào thì điều khiển. Trong ví dụ hôm nay, Chúa Giêsu muốn vạch ra những cái phi lý của người đương thời: Ngòai chợ chứ có phải đám đình đâu mà nhảy múa! Ngòai chợ tòan người sống chứ có người chết đâu mà đấm ngực than khóc!
2.2/ Thói luôn phê bình người khác: Người đương thời phê bình cả lối sống khắc khổ của Gioan Tẩy Giả và lối sống phóng khóang của Chúa Giêsu. Sự phê bình của họ được Chúa Giêsu tóm tắt như sau: "Thật vậy, ông Gioan đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: "Ông ta bị quỷ ám." Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi." Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hậu quả của nó."" Con người thích phê bình vì nhiều lý do:
(1) Muốn chứng tỏ mình hay hơn: Nhiều người thích phê bình để chứng tỏ mình biết nhiều, và không muốn chấp nhận cái hay của người khác. Họ quên đi một điều là trong thế gian luôn có người hay hơn và họ cần phải học hỏi.
(2) Vì ghen tị và không muốn ai hơn mình: Nhiều người phê bình vì sợ bị mất ảnh hưởng nơi dân chúng. Điều này rất đúng với các Kinh-sư và Biệt-phái. Họ không muốn chấp nhận những dạy dỗ của Chúa Giêsu không phải vì họ không biết đó là sự thật, nhưng vì họ sợ mất ảnh hưởng và quyền lợi trên dân chúng. Họ muốn triệt hạ Chúa Giêsu vì họ sợ dân chúng sẽ chạy theo Ngài.
(3) Không muốn chấp nhận sự thật để khỏi phải thi hành điều sự thật đòi hỏi: Đây là điều thường xảy ra cho những người vô thần. Họ không tin không phải vì họ không nhận ra Thiên Chúa, nhưng vì sợ nếu tin, họ phải giữ những điều Chúa dạy.
2.3/ Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hậu quả của nó: Để biết ý nào là ý khôn ngoan, cần phải xem vào hậu quả thì mới biết được. Nếu hậu quả tốt thì là ý khôn ngoan, hậu quả xấu là ý điên rồ. Mọi người tuôn đến với Gioan Tẩy Giả vì biết ông là người thánh thiện và ông chuẩn bị tâm hồn con người để đón nhận Thiên Chúa. Mọi người tuôn đến với Chúa Giêsu vì biết Ngài có quyền năng chữa bệnh, khôn ngoan, và yêu thương họ thực sự; chứ không như các Biệt-phái và Kinh-sư.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải học hỏi để tìm ra tiêu chuẩn và đường lối của Thiên Chúa; sau đó, chúng ta phải có can đảm để sống theo tiêu chuẩn và đường lối của Ngài.
- Hậu quả của việc sống theo đường lối Thiên Chúa là chúng ta sẽ có bình an thực sự trong tâm hồn, đạt được kết quả tốt và vững bền, nhất là luôn được Thiên Chúa ghé mắt trông coi.
- Chúng ta cần suy xét cẩn thận về tiêu chuẩn và đường lối của con người. Chúng ta cần nhận ra tất cả những nguyên nhân đen tối ẩn núp đàng sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
- 10/12 Đường lối và tiêu chuẩn của Thiên Chúa
- 09/12 Thiên Chúa yêu thương và săn sóc mọi người
- 08/12 Khiêm nhường và vâng phục Thiên Chúa
- 07/12 Tội lỗi
- 06/12 Sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời con người
- 05/12 Thiên Chúa lo lắng mọi sự cho Dân Ngài
- 04/12 Phải kiên nhẫn trước khi đạt được điều hy vọng
- 03/12 Cuộc đời chúng ta phải được xây trên tảng đá vững chắc là Thiên Chúa
- 02/12 Chính Chúa sẽ chăm sóc dân Người
- 01/12 Thiên Chúa làm những chuyện không thể đối với con người