Gương Thánh Nhân
- Viết bởi Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Thánh Phêrô Trương Văn Thi, Linh Mục Và Anrê Trần An Dũng (Lạc), Linh Mục
Thánh Phêrô Trương Văn Thi (chú ruột của Chân Phước Phêrô Trương Văn Đường) sinh năm 1763 tại Kẻ Sở (Hà Nam) trong một gia đình Công Giáo nghèo nhưng đạo hạnh. Năm 11 tuổi, ngài dâng mình trong nhà Đức Chúa Trời. Đến năm 1796, ngài được nhận làm thầy giảng. Vì đời sống gương mẫu và có khả năng, nên ngài được gọi về học thần học để lãnh nhận các chức thánh, và thụ phong linh mục ngày 22/3/1806. Sau đó làm cha sở ở Sông Chẩy, năm 1832 coi xứ Kẻ Sông. Ngài cùng bị bắt với cha Anrê Dũng (Lạc) và được phúc tử đạo, hưởng thọ 76 tuổi.
III. Thánh Anrê Trần An Dũng (Lạc), nguyên quán thuộc tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình nghèo và ngoại giáo. Khi ngài còn nhỏ, gia đình đã bỏ quê ra Hà Nội kiếm kế sinh nhai. Tại đây, ngài được một thầy giảng đem về Vĩnh Trị dạy các lẽ đạo, rồi chịu phép Rửa Tội. Sau khi theo học chữ Hán và La Tinh, ngài nhận nhiệm vụ thầy giảng và sau ít năm truyền giáo, được lãnh chức linh mục ngày 15/3/1823. Sau đó, ngài làm cha sở Kẻ Đầm, và bị bắt tống ngục vào năm 1835. Nhưng rồi lại được thả về nhờ một người tân tòng bỏ tiền chuộc, và từ đó, ngài đổi tên là Anrê Lạc.
Ngày 10/11/1839, cha Anrê Lạc tới họ Kẻ Sông xưng tội với cha Phêrô Thi, không ngờ gặp lúc lính triều đình đi lục soát bắt các linh mục. Thế là hai cha và một số bổn đạo bị bắt. Lính đòi mười hai quan tiền để thả hai cha, nhưng vì giáo dân nghèo không lo đủ, nên chúng chỉ tha một mình cha Anrê Lạc vì chưa biết là linh mục. Tuy nhiên, trên đường lẩn trốn, vì bị hạch hỏi nên ngài đã tỏ mình là linh mục. Do đó, ngài bị bắt lại, và cùng với cha Phêrô Thi, bị điệu đi Hà Nội. Tại đây, tuy không bị đánh đập gì, nhưng vì dụ dỗ không được, quan liền sai lính khiêng hai cha quá khóa, và nhờ lanh lẹ, cha Anrê Lạc đã ôm hôn Thánh Giá. Trong tù, các ngài luôn hiên ngang bênh vực đạo thánh và giữ vững đức tin, và hân hoan đón nhận án tử hình được vua Minh Mạng châu phê.
Ngày 21/12/1839, sau khi rước Mình Thánh Chúa, hai ngài bị áp giải đi xử trảm tại pháp trường Cầu Giấy (Hà Nội).
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã tôn phong hai ngài lên hàng Chân Phước ngày 27/5/1900.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đã tôn phong Hiển Thánh ngày 19/6/1988.
- Viết bởi Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Thánh Augustinô Nguyển Văn Mới, Nông Dân (1806-1939)
- Lễ ngày 19 tháng 12
Thánh Augustinô Nguyễn Văn Mới sinh năm 1806 tại làng Bồ Trang cũng gọi là làng Kẻ Bái thuộc tỉnh Thái Bình trong một gia đình lương dân làm nghề nông nhưng rất nghèo.
Tới tuổi khôn lớn, anh theo bạn bè đốn làng Đức Trai, xứ Kẻ Mốt thuộc tinh Bắc Ninh làm thuê làm mưới cho các điền chủ. Tại đây, anh có dịp giao tiếp thân quen với một số gia đình Công giáo. Anh thấy những người Công giáo vui vẻ lại hay thương giúp những người ngèo khó thì anh quí mến và xin học đạo để được trở thành người Công giáo.
Anh được bà con làng Đức Trai giúp đỡ học giáo lý rồi dẫn tới xin cha xứ là cha Phêrô Nguyễn Văn Tự rửa tội và đặt tên thánh cho anh là Augustinô, lúc ấy anh đã 31 tuổi. Bà con lối xóm rất quí mến anh vì anh tuy là tân tòng nhưng lại rất sốt sắng sống đạo nghiêm chỉnh. Anh siêng năng lần hạt Mân Côi và có lòng yêu mến, tôn sùng Đức Mẹ. Dù phải làm ăn vất vả mệt nhọc tới khuya nhưng không bao giờ anh bỏ đọc kinh sáng tối.
Tính tình anh vui vẻ hiền lành, chất phác, chăm chỉ làm ăn. Những người ở gần anh đều thương mến vì anh chẳng làm mầt lòng ai bao giờ. Sau một thời gian, anh kết hôn với một thiếu nữ Công giáo hiền lành của làng Đức Trai. Mấy năm trước anh được cha Phêrô Tự làm phép Rửa Tội cho anh, nay lại được Ngài làm phép cưới cho anh, thật là hạnh phúc. Anh chăm lo xây dựng một gia đình đạo hạnh, vợ chồng chăm chỉ làm ăn, sống đời sống đạo sốt sắng, lo lắng cho vợ con, gia đình êm ấm, hạnh phúc. Đó là giấc mơ nhỏ bé và khiêm tốn của anh.
Nhưng ở đời nhiều chuyện xẩy đến không ai lường được. Khi có lệnh vua Minh Mạng cấm đạo và treo giải thưởng cho những người tố cáo các đạo trưởng thì nhiều người đi thăm dò nơi chốn trú ẩn của các Đấng rồi đi tố giác để lãnh phần thưởng.
Tại làng Đức Trai cũng có những theo dõi và đi tố cáo là trong làng Đức Trai có đạo trưởng trú ẩn. Được tin mật báo, quan liền đem quân lính về vây kín quanh làng rồi cho đi lục soát tìm kiếm các đạo trưởng. Trước hết, họ chỉ bắt được cha Phêrô Nguyễn Văn Tự đang ẩn trú tại Kẻ Mốt thuộc làng Đức Trai.
Sau khi bắt được cha Phêrô Tự, quan ra lệnh tất cả mọi người trong làng phải ra tập trung tại đình làng để kiểm danh. Quan truyền lệnh cho những người theo đạo Gia Tô đứng riêng ra một bên, rồi quan truyền lệnh từng ngườI phải bước qua Thập Giá. Một số người khiếp sợ quá, bỏ trốn. Một số người khác thì vì run sợ đã bước qua, cứng tỏ đã bỏ đạo. Riêng anh Augustinô Nguyễn Văn Mới cương quyết không chịu bước qua Thập Giá.
Quan lớn hỏi anh:
- Mày có biết cụ đạo nào không?
- Bẩm quan lớn, tôi biết.
- Ông cụ đạo nào?
- Bẩm quan lớn tôi biết cụ Tự mà quan đã bắt Ngài đây.
- Mày có theo đạo Gia Tô không?
- Bẩm quan lớn tôi theo đạo Gia Tô, tôn thờ Thiên Chúa.
- Ai đã dạy mày theo đạo Gia Tô?
Anh Mới liền chỉ cha Tự và nói:
- Cha là người đã dậy đạo và Rửa Tội cho tôi.
Sau đó quan ra lệnh anh phải bước qua Thập Giá và bỏ đạo. Nhưng anh cương quyết nhất định không bước qua Tháp Giá và cũng không bỏ đạo. Quan cho anh là người bướng bỉnh, ngoan cố nên truyền lệnh đóng gông, xiềng xích tay chân để giải về phủ. Ngày hôm đó cùng bị bắt và giải về phủ gồm có: Cha Phêrô Tự, thầy Phanxicô Xavier Mậu, thầy Đa Minh Úy, ông Tôma Đệ, ông Stêphanô Vinh và anh Augustinô Mới. Nhờ ơn Chúa thương tất cả các vị này đều được phúc tử vì đạo và đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo.
Tin cha Phêrô Nguyễn Văn Tự đã bị bắt cùng với 5 người Gia Tô khác về tới kinh đô, vua Minh Mạng liền hạ lệnh phải làm khổ tối đa để bắt tất cả những người này phải bỏ đạo.Nhận được lệnh vua như thế, các quan bày ra đủ mọi hình khổ, nào là bày ra gê sợ như kìm kẹp nung với than hồng, nào là đòn vọt, xẻ thịt nát da v.v. Các ngài không hề lay chuyển lòng tin sắt đá và lòng tin tưởng cậy trông vào lòng nhân hậu từ bi, yêu thương của Chúa. Anh Mới và các bạn bị giam tù và bị đày đọa từ ngày 30 tháng 6 năm 1838 cho tới ngày 27 tháng 7 mới có sớ tâu vua xin xử tử các Ngài.
Trong sớ tâu vua, các quan muốn ghép các Ngài vào tội tin theo phù thủy. Đứng đầu là cha Tự phải trảm quyết, còn những người khác chỉ phạt 100 trượng và bị khổ sai biệt xứ 3 ngàn dặm. Trong sớ các quan xin trảm quyết cha Phêrô Tự và ông Giuse Hoàng Lương Cảnh vì các quan tưởng ông Cảnh cũng là đạo trưởng. Đọc sớ, vua Minh Mạng thấy ghép tội như thế không được, vua truyền lệnh phải khuyên dụ các Ngài bỏ đạo nếu không thì phải xử giảo.
Có lần quan cho gọi tất cá 5 người ra tra khảo, lần lượt từng ngườI, quan tra vấn. Đến lượt quan hỏi anh Mới- Mày có muốn trở về với vợ con không? Nếu muốn thì mày hãy bước qua Thập Giá này thì Ta tha cho về,- Bẩm quan lớn, tôi muốn trở về với vợ con. Nhưng tôi đã quyết định thờ một Chúa, Ngài là Đấng dựng nên trời đất muôn vật, Ngài là Chúa của muôn vật. Tôi thà chết chứ không thể chối bỏ Ngài. Quan có thề giết tôi như bao người khác, tôi sẵn lòng chịu chết, chứ tôi không thể chối bỏ Chúa tôi.
Quan cho lính kéo anh Augustinô Mới qua Thập Giá bằng cách là dùng roi đánh vào ống chân. Nhưng anh kêu lớn:
- Lạy Chúa! Con xin phó linh hồn con trong tay Chúa.
Quan nói một cách bực tức:
- Không thể tha cho chúng nó được! Ta muốn tha mà chúng điền rồ ngoan cố không làm theo ý Ta. Thôi, tống giam chúng nó vào ngục.
Trong ngục, anh Mới đã cùng với các bạn xin gia nhập dòng Ba Đa Minh và đã khuyên được 14 tù nhân theo đạo, trong số đó 4 người đã chết trong tù.
Ngày 18 tháng 12 năm 1839 chiếu chỉ vua gửi về truyền xử giảo anh Mới và 4 đồng bạn, Bản án được ghi như sau: ”Những tên gian ác theo đạo Gia Tô, sau khi đã khuyên bảo nhiều lần, phạt hai ba lần. hưng chúng vẫn không bước lên Thập Giá. Do đó, chúng phải bị xử giảo”.
Tất cả các Ngài bị điệu tới pháp trường gần làng Cổ Mễ, lý hình tháo gông và xiềng xích rồi đội lý hình buộc giây thừng vào cổ các Ngài, trói chân tay vào cọc, đợi hiệu lệnh thì đội lý hình cầm hai đầu giây kéo thật mạnh cho tới khi tội nhận chảy phun máu ra mũi, ra miệng và tắt thở. Sau đó lý hình đốt các đầu ngón chân để biết chắc là tội nhận đã chếtSau đó, các tín hữu xô nhau chạy tới thấm máu, lấy giây thừng, quần áo, gông và xiềng xích của các Ngài, đồng thời xin nhận xác rước về an táng tại nhà thờ Kể Mốt. Thánh Augustinô Nguyễn Văn Mới thì an táng tại nhà thờ họ Phượng Mao, thuộc Bắc Ninh.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã suy tôn anh Augustinô Nguyễn Văn Mới lên bậc Chân Phước ngày 27 tháng 5 năm 1900 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Nguồn: Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
- Viết bởi Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Thánh Đa Minh Bùi Văn Úy, Thầy Giảng (1812-1839)
- Lễ ngày 19 tháng 12
Thánh Đa Minh Bùi Văn Úy sinh năm 1812 tại họ Tiền Môn thuộc láng Kẻ Rèm tỉnh Thái Bình ngày nay. Ngày từ nhỏ cậu được gia đình gửi vào nhà xứ làm cậu giúp lễ cho cha Phêrô Tự.Cha Phêrô Nguyễn Văn Tự rất quí mến cậu vì tính tình hiền lành ngoan ngoãn. Cha cho cậu học hành rồi sau đó mấy năm Cha gửi cậu về nhà trường học thành Thầy Giảng rồi Thầy lại trở về luôn sống bên Cha, giúp xứ Kẻ Danh rồi Kẻ Mốt thuộc tỉnh Bắc Ninh cho tới khi bị bắt, lúc ấy thầy mới 26 tuổi.
Khi giúp xứ, giáo dân đều quí mến Thầy, khen Thầy có tính nết hiền hoà, chịu khó, nhiệt thành với công việc được trao phó. Thầy luôn luôn tỏ lòng quí mến và trung thành với Cha Phêrô Nguyễn Văn Tự là người đã nuôi dưỡng Thầy từ nhỏ. Trong thời kỳ đạo Chúa bị cấm cách và các đạo trưởng luôn bị truy nã, bắt bớ, Thầy Úy luôn ở bên cạnh để săn sóc, giúp đỡ Cha. Khi làm hầm trú ẩn, Thầy xin người ta làm hần 2 tầng, để Thầy ở tầng gần cửa, phòng khi quan quân bất thần tới thì nếu bị bắt thì họ sẽ bắt Thầy trước, hy vọng Cha có thời giờ để trón thoát.
Có lần ông trùm xứ đạo hỏi Thầy:
- Thưa Thầy, nếu Cha và Thầy bị bắt thì Thầy sẽ tính sao?
Nghe câu hỏi đột ngột quá, Thầy suy nghĩ một lát rồi thản nhiên đáp:
- Nếu quan quân tới bắt tôi thay vì bắt Cha thì tôi rất bằng lòng chịu thay cho Cha. Tôi sẽ yên lặng để họ bắt tôi. Tôi chỉ sợ sau này anh em có phải phiền lụy gì về tôi chăng.
Thầy rất lo sợ nếu Cha bị bắt thì con chiên bổn đạo sẽ bị nao núng, Đức Tin bị lung lay, thử thách, nhất là đối với những người còn yếu kém Đức Tin.
Thế rồi cuộc bách hại của vua Minh Mạng bùng nổ mỗi ngày một ghê sợ hơn. Ngày 29 tháng 6 năm 1838, theo cơn lốc kinh hoàng, quan quân đã tung quân về vây làng Kẻ Mốt với chủ đích là tới bắt cáo đạo trưởng trong vùng này. Cha Phêrô Nguyễn Văn Tự và Thầy Đa Minh Bùi Văn Úy bị sa lưới. Lúc đầu Cha Tự định chỉ khai Thầy là người giúp bếp để đỡ nguy hiểm hơn và hy vọng Thầy sẽ đuợc tha. Vì Cha nghĩ rằng Thầy còn quá trẻ trung, không biết Thầy có đủ sức mà chịu các hình khổ đau đớn và những trận đòn nát da xé thịt không, rồi Thầy lại nản chí mà quá khoá thì thật là tội nghiệp cho Thầy nên Cha Phêrô Tự hỏi Thầy:
- Con có muốn sống thì Cha sẽ liệu nói cách nhẹ cho con để con được tha và trở về sống với gia đình.Nghe Cha nói thế, Thầy chưa hiểu ý Cha nói thế là có nghĩa gì? Thầy hỏi lại thì Cha trả lời:
- Cha sẽ nói với các quan con chỉ là người nấu cơm cha Cha mà thôi. Xin các quan tha chết cho con.Thầy hiểu ý Cha sợ mình không dám chết vì Chúa nên Thầy lại nài nỉ xin Cha:
- Xin Cha cứ nói con là Thầy Giảng, là người đi rao giảng đạo Chúa cho nhiều người biết Chúa và theo Chúa. Như vậy may ra con sẽ được phúc tử đạo cùng với Cha.
Nghe Thầy nói cách can đảm và hăng hái như cậy thì Cha Phêrô Nguyễn Văn Tự vui mừng tạ ơn Chúa và nói với Thầy:- Như vậy Cha sẽ nói con là Thầy Giảng, là người đi giảng đạo cho nhiều người biết Chúa và theo Chúa. Như vậy thì chắc chắn con sẽ được phúc tử vì Đạo.
Nghe Cha nói như thế thì Thầy Đa Minh Úy vui mừng tạ ơn Chúa, cám ơn Cha rồi Thầy qùi xuống đất xin xưng tộiđể chuẩn bị tâm hồn trong sách, xứng đáng Chúa nhận lời cầu xin của Thầy. Khi quan ra lệnh đánh Cha thì Thầy thưa với các quan:
- Cha tôi già yếu, xin đừng đánh Ngài nhưng tôi xin tình nguyện chịu đòn thay cho Ngài. Xin các quan hãy đánh tôi.
Thấy Thầy nói thế thì quan ra lệnh ngưng không đánh nữa nhưng ra lệnh bắt Cha Tự và Thầy Úy phải bước qua Thánh Giá. Cả hai cha con nhất định không bước qua. Bấy giờ họ cho lính áp giải cả hai cha con về nộp cho quan tổng đốc tỉnh Bắc Ninh. Về tới tỉnh Bắc Ninh, quan đốc tỉnh tra vấn Cha Phêrô Tự rồi Thầy Úy. Quan đốc hỏi cha Phêrô Tự:- Ông có biết rằng lệnh đức vua là cấm đạo Gia Tô và bắt tất cả các đạo trưởng phải bước qua Thập Tự để chứng tỏ là đã bỏ tà đạo ấy không?
Cha thản nhiên trả lời:
- Bẩm quan lớn, tôi biết.
- Ông biết, vậy bây giờ ông có bằng lòng bước qua Thập Tự bằng gỗ đặt ở trước mặt ông không?
Cha Tự trả lời với giọng nói cương quyết và dứt khoát:
- Bẩm quan lớn Không!
Quan trợn mắt nhìn Cha và quát lớn:
- Anh này láo! Ngoan cồ! cố chấp!
- không coi lệnh vua ra gì hả? Tống giam nó vào ngục. Còn thằng thanh niên kia, mày tên là gì, làm nghề nghiệp gì?
Thầy Đa Minh Bùi Văn Úy bình tĩnh ung dung bước tới trước mặt quan đốc và thưa:
- Bẩm lạy quan lớn! Con là Bùi Văn Úy, là Thầy Giảng, giúp việc cho Cha Tự và đi giảng đạo Chúa cho nhiều người.- Anh là Thầy Giảng à? Anh còn trẻ tuổi, tương lai còn rộng rãi thênh thang. Vậy bây giờ anh hãy bước qua Thập Tự này thì ta tha cho về, không phải tù tội gì nữa.
Thầy Úy lễ phép thưa lại:
- Bẩm lạy quan lớn! Con là Thầy Giảng, là người đi rao giảng về Thiên Chúa mà bây giờ quan lớn lại bảo con bước lên ảnh tượng Chúa thì con là kẻ phản bội, là người hèn nhát lắm sao? Dù có phải chết thì con cũng cương quyết. nhất định không bao giờ phản bội Chúa. Xin quan lớn thương xét xử thì con nhờ.
Sau cuộc tra vấn không thuyết phục được Cha Tự và Thầy Úy, quan cho lệnh tống giam vào ngục. Quan truyền lính bắt Cha và Thầy phải đeo gông nặng nề, chân tay bị xiềng xích, bắt nhịn đói. Nhưng Thầy Úy vẫn một lòng xin chịu mọi sự khốn khó vì đạo Chúa. Thầy luôn cầu nguyện và đọc kinh Mân Côi cùng với những anh em khác trong nhà tù. Sau ít ngày, quan lại truyền lệnh đem thầy Bùi Văn Úy ra hầu tòa. Lần này lúc đầu quan dùng những lời ngon ngọt dụ dỗ Thầy bỏ đạo.
Quan cho bày những dung cụ ghê gớm như kìm, búa, lò lửa than, xích sắt v.v. trước mặt, khủng bố tinh thần người chiến sĩ kiên trung của Chúa. Quan ngọt ngào thuyết phục thầy bước qua Thập Giá. Thầy Giảng trẻ tuổi chẳng những không bước qua Thập Giá mà còn dám đối đáp lại với quan lớn một cách mạnh bạo:
- Bẩm quan lớn! Quan lớn có dám bước qua mặt vua không mà quan lại bảo con bước qua mặt Chúa Trời Đất?
Quan đốc giận quá, truyền đem chém. Thầy lại vui mừng hô lớn tiếng:
- A! Tôi sắp được chém vì đạo Chúa tôi thờ!
Quan đốc lắc đầu, chán nản vì không thuyết phục được chàng thanh niên 26 tuổi! Quan không hiểu do sức mạnh nào mà chàng thanh niên trẻ trung này không sợ chết, mà lại còn vui mừng khi nghe nói phải chém đầu? Thật là khó hiểu!Lần khác, quan gọi Thầy tới, tỏ dấu yêu thương và thông cảm. Quan tươi cười nói:
- Cụ Tự, thầy của anh đã quá khóa rồi. Cụ bước qua Thập Tự và tuyên bố sẵn lòng bỏ đạo rồi. Bây giờ tới anh, anh còn trẻ trung, đẹp trai, mới 26 tuổi đời. Tương lai còn dài còn rộng thênh thang. Anh đừng ngoan cố nữa, hay theo gương Thầy của anh mà bước qua Thập Giá rồi ta sẽ ban thưởng và cho trở về với gia đình, làm nghề thuốcThầy Đa Minh Úy cảm động về những lời chân tình của quan. Nhưng lòng tin sắt đá trước sau như một. Thầy bình tĩnh thưa lại:
- Tôi không tin Cụ Tự là Thầy tôi đã quá khóa, đã bước qua Thập Giá và tuyên bố bỏ đạo. Nhưng giả như Thầy tôi bỏ đạo thì tôi cũng cương quyết không bao giờ bỏ đạo. Tôi rất sẵn sàng chịu chết vì đạo Chúa tôi. Tôi xin lấy sự sống tôi để làm chứng đạo tôi tin theo là đạo thật.Quan lớn vẫn ôn tồn khuyên dụ:
- Anh hãy nghĩ đến cuộc sống lâu dài của anh. Anh còn trẻ lắm. Công ơn cha mẹ nuôi dưỡng sinh thành vất vả. Anh phải sống mà đền đáp chứ. Cuộc đời đẹp lắm, anh lại đẹp trai nữa!
- Bẩm quan lớn! lạy các quan! Từ khi còn trong lòng mẹ, tôi đã được Thiên Chúa yêu thương phù hộ nhiều bề. Bây giờ tôi khôn lớn, tôi không dám bỏ Chúa. Nếu tôi bước qua Thập Giá, tôi phạm tội với Chúa, với cha mẹ đã sinh ra tôi, đã dạy bảo tôi biêt Thiên Chúa và khuyên răn tôi phải thờ phượng kính mến Chúa. Đó cũng chính là lý do chính đáng mà tôi không thể phản bội Chúa, phản bôi công lao dây dỗ của cha mẹ tôi, của các Đấng bậc là Thầy của tôi.Quan lớn cười rồi nói:
- Anh này nói khéo lắm! Nhưng anh phải nghĩ. Chúa của anh thì ở trên trời, mà ở đây chỉ có khuc gỗ thôi. Anh bước qua khúc gỗ thôi mà!
- Bẩm quan lớn! Đúng như thế. Chúa ở trên trời mà ở đây chỉ là khúc gỗ, nhưng khúc gỗ này làm hình tượng của Chúa, vì vậy tôi không dám bước qua.
Quan lớn thất vọng vì không thuyết phục được chàng thanh niên 26 tuổi đời! Quan đứng lên tuyên bố:
- Anh không nghe theo Ta thì anh sẽ phải chết. Đó là lệnh của đức vua ban xuống.
- Lạy quan lớn! Con xin sẵn lòng chịu chết vì đạo Chúa.
Thế rồi, lính lại dẫn Thầy về giam tiếp trong ngục. Ngày 27 tháng 7 năm 1838 quan đốc tỉnh đệ án về triều đình xin vua phê chuẩn. Căn cứ theo bản án phúc trình, vua Minh Mạng nói, nếu các chúng không bỏ đạo thì phải xử giảo hết.Được lệnh vua ban xuống, ngày 5 tháng 9 năm 1838, các quan ra án lệnh xử trảm quyết cha Phêrô Nguyển Văn Tự và ông trùm Họ Giuse Hoàng Lương Cảnh. Riêng thầy Đa Minh Bùi Văn Úy và các bạn của Thầy phải chờ đợi tới hơn một nam sau, trải qua nhiều thử thách, tra tấn, đòn vọt xé da nát thịt nữa mới được lãnh triều thiên tử đạo.
Ngày 19 tháng 12 năm 1839, thầy Đa Minh Bùi Văn Úy anh dũng tiến ra pháp trường cùng với bốn anh hùng tử đạo khác.Thầy Đa Minh Bùi Văn Úy bị án xử giảo. Pháp trường là một nơi ngoài làng Cổ Mễ. Tới nơi, người ta đã giải sẵn cho thầy một chiếc chiếu. Thầy bình tĩnh quì trên chiếu cầu nguyện ít phút rồi lý hình bắt Thầy nằm úp mặt trên chiếu, hai tay lý hình trói vào hai cọc, hai chân buộc chung lại rồi cột vào một chiếc cọc khác, cổ bị cuốn giây thừng, mỗi đầu giây có hai lý hình cầm giây sẵn sàng chờ đợi hiệu lệnh thì kéo xiết cổ cho tới khi tội nhân tắt thở.
Mọi sự chuẩn bị sẵn sàng, chiêng trống ba hồi vang dội, đợi tới tiếng chiêng trống cuối cùng thì quan giám sát giơ tay phát lệnh, đội lý hình ở hai đầu giây thừng kéo thật mạnh. Kéo tới khi máu đã chảy ra đầy miệng và mũi. Tội nhân tắt thở thì lý hình lấy bông tấm dầu đốt hai đầu ngón chân cái để biết là tội nhân đã chết thật rồi.
Mọi sự đã hoàn tất, quan quân kéo nhau về, thì giáo hữu Đồng Tiến tới xin nhận xác Ngài về làm lễ an táng trong nhà thờ họ Đồng Tiến.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã suy tôn Ngài lên bậc Chân Phước ngày 27 tháng 05 năm 1900 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Nguồn: Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
- Viết bởi Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Thánh Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu, Thầy Giảng (1790-1839)
- Lễ ngày 19 tháng 12
Thánh Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu sinh năm 1790 tại làng Kẻ Riền thuộc tỉnh Thái Bình. Ngày từ nhỏ, cha mẹ cho đi tu và được học hành trở thành Thầy Giảng rồi được Đức Giám mục cho bài sai đi giúp xứ Kẻ Mốt.Thầy là người hiền lành, nhân đức, làm việc rất tận tụy, hay săn sóc và gúp đỡ nhiều người, nhờ vậy mà mọi người đều mến thương Thầy. Khi nghe tin cha Phêrô Tự bị bắt, lúc ấy thầy Phanxicô Xavier Mậu đang ở Họ Nội thuộc xứ Kẻ Mốt, Thầy vội vã chạy tới lẩn vào đám dông quần chúng để theo dõi tình hình ra sao. Lúc ấy quan quân đã bắt được cha Phêrô Tự và thầy Đa Minh Bùi văn Úy đưa về Lương Tài.
Bà Tuân là người giáo dân rất tốt lành thấy tình thế nguy ngập như vậy thì lo sợ cho số phận tương lai của thầy Hà Trọng Mậu. Bà cấp tốc liên hệ với một gia đình rất thân quen tại làng Nhất Trai để gửi gắm Thầy, vì bà nghĩ rằng gia đình này là lương dân nên quan quân không tới khám xét. Thầy Mậu ưng thuận nên Bà gửi Thầy Mậu trú ẩn tại nhà này.
Nhưng ở đời luôn có những chuyện không ngờ đưa tới. Gia đình này mặc dầu là bạn rất thân với bà Tuân nhưng vì ham hố số tiền thưởng của vua quan hứa nên đã âm thầm đi tố cáo với quan Bố Chánh để lãnh nhận tiền thưởng. Quan cho lính tới vây kín làng Nhất Trai và bắt được thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu tại gia đình lương dân này.
Thầy Hà Trọng Mậu bị bắt trói và giải về dinh quan Lương Tài. Tới nơi thì thầy Mậu đã thấy cha Phêrô Tự và thầy Đa Minh Úy bị trói ở đó. Quan Bố Chánh hỏi thầy Mậu:
- Mày có phải là một trong những tên theo giúp cụ Tự không?
Thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu khẳng khái và hãnh diện trả lời:
- Phải, tôi là Thầy Giảng là người giúp việc thâm tín của Cha Phêrô Tự.
Cha Phêrô Tự ra hiệu nhắc Thầy đừng khai rõ như vậy để hy vọng Thầy có thể được tha chăng. Nhưng Thầy Mậu nói nhỏ với Cha: “Xin Cha thương nhận con là môn sinh của Cha, để con cũng được phúc tử đạo với Cha”.
Lúc ấy quan truyền lệnh đưa cây Thập Tự bắt Thầy phải bước lên thì được tha. Nhưng thầy Phanxicô Xavier Mậu nhìn thẳng vào mặt quan Bố Chánh và nói:
- Thiên Chúa tôi thờ là Chúa trời đất muôn vật, mọi người phải tôn kính Ngài, mà quan lớn bảo tôi phải bước lên Ngài sao? Làm sao tôi dám giơ chân bước lên mặt Ngài?
Quan quát lớn:
- Thằng này dốt nát lại cố chấp. Mày dám dậy tao hả?
Nói xong, quan Bố Chánh truyền lệnh đánh 60 roi, đau dớn quá. Thầy ngất đi, đôi lính phải khiêng tống giam vào ngục.
Lần khác, quan lại gọi Thầy Mậu ra hầu toà. Quan cũng cho lệnh điệu cả cha Phêrô Tự ra để đối chứng với thầy Mậu. Cha Tự không muốn cho thầy Mậu phải chết, nên có ý không muốn nhận thầy Mậu là người giúp mình. Vì thế, khi nghe thầy Mậu xác nhận mình là người giúp cha Tự, thì Cha quay mặt đi nơi khác có ý phủ nhận. Thầy Mậu biết ý cha không muốn mình phải chết nên chạy lại ôm lấy chân qùi trước mắt cha Tự và xin:
- Lạy Cha, xin thương mà nhận lấy con để con cũng được chết với Cha, làm chứng đạo thánh Chúa.
Cha Phêrô Tự thấy sự can đảm là long tin sắt đá của Thầy như thế thì xác nhận Thầy là một trong những người cộng tác đắc lực của Cha. Thấy Cha Phêrô Tự xác nhận và sự kiên trì vững chắc của thầy Hà Trọng Mậu như thế thì quan cho tống giam cả hai cha con trở về ngục, bắt nhịn đói nhịnh khát nhiều ngày. Tại nhà tù, thầy Mậu còn phải chịu rất nhiều khốn khổ, bi hành hạ, xiềng xích, đeo gông nặng nề. Thầy còn bị lôi ra toà nhiều lần để tra khảo về các đấng khác hiện đang bị giam tại đó.
Cùng bị giam với Thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu, còn có nhiều bạn khác nữa. Các Thầy luôn khiyến khích nhau giữ vững đức tin, làm chứng cho đạo thánh Chúa tới hơi thở cuối cùng. Các Thầy cũng thường đọc kinh chung và cầu nguyện với nhau sáng tối. Mỗi khi bị gọi ra toà và bị tra kháo, đánh đập rất tàn nhẫn, đau đớn thì các Thầy lại nâng đỡ nhau bằng cách, lau lọt và băng bó những vết thương cho nhau.
Khi quan cho thi hành bản án xử trảm cha Phêrô Tự và thầyGiuse Cảnh rồi, thì thầy Úy, ba giáo dân là Vinh, Đệ và Mới tôn thầy Hà Trọng Mậu lên làm anh trưởng để hướng dẫn và giúp đỡ mọi người cầu nguyện, kiên trì giữ vững Đức Tin, trở thành nhân chứng của Chúa. Thầy luôn nhắc nhủ anh em hãy sống huynh đệ, an ủi giúp đỡ lẫn nhau. Thầy Mậu luôn thay thế các anh em viết thư liên lạc ra ngoài và thay thế anh em trả lời những câu hỏi về đạo của các quan.
Nhiều khi vì vậy mà Thầy bị đòn tra tấn nặng nề hơn những người khác. Đắc biệt thầy còn khuyến khích anh em tích cực làm việc tông đồ, dạy giáo lý cho nhiều người cùng bị giam trong tù. Riêng phần thầy Hà Trọng Mậu, theo chứng từ của cha Huấn, căn cứ vào những lá thư Thầy đã viết và gửi được ra ngoài, thì Thầy đã dạy giáo lý và rửa tội được 44 tù nhân. Trong số những người này, có một anh rất thông minh và giỏi chữ nghĩa tên là Hùng, mới học đạo được một tháng thì đến ngày bị xử tử hình. Khi quan truyền đem đi xử, anh đã xin phép đi gặp Thầy Mậu để xin thầy Rửa Tội. Thầy Hà Trọng Mậu đã Rửa Tội cho anh. Anh rất vui mừng vì được biết đạo thánh Chúa và được Rửa Tội. Anh hỏi thầy Mậu:
- Bây giờ con phải làm gì nữa không?
Thầy Mậu trả lời:
- Bây giờ anh cứ ăn năn tội. Xin Chúa cho anh được về Thiên Đàng với Chúa.
Anh binh tĩnh, vui vẻ và vâng lời Thầy, đi theo đoàn quân lý hình tới nơi chịu xử án, không hề lộ vẻ sợ hãi. Những ngày tiếp theo, thầy Hà Trọng Mậu còn bị gọi ra toà nhiều lần. Có lần gọi ra toà, quan thấy Thầy Mậu còn trẻ, dáng người thông minh, tuấn tú. Các quan nghĩ anh này dễ thương như vậy mà giết đi thì thật đáng tiếc, nên quan hỏi:
- Mày có hình dáng đẹp trai, hãy còn trẻ tuổi. Mày có muốn làm quan thì chúng tao bầu cử, tâu vua giúp mày, hoặc muốn trở về quê tiếp tục nghề làm thuốc thì chúng tao sẽ xếp liệu cho, với điều kiện là mày phải bước qua tượng ảnh này.
Thầy Mậu bình tĩnh trả lời:
- Bẩm các quan lớn, tôi không dám bước lên mặt Chúa tôi.
Bọn lính canh gác đứng chung quanh cũng xúi:
- Anh cứ bước qua đi rồi các quan sẽ trọng thưởng. không sao đâu. Có nhiều người đã bước qua rồi, có việc gì đâu?Thầy quay lại nhìn bọn lính và nói:
- Thiên Chúa là Đấng đáng kính mến, hết lòng hết sức. dù phải chết thì tôi cũng không thể bước qua.
Bọn lính cười mỉa mai Thầy, tỏ vẻ thương tiếc Thầy.
Nghe thầy đối đáp, các quan lại nổi giận, cho Thầy bị mê hoặc nên không còn cách nào khuyên du được. Các quan giận dữ truyền lệnh tống giam vào ngục. Trở về ngục, thầy Phanxicô Mậu lại cùng với bốn anh em kia tiếp tục giảng dạy giáo lý cho các tù nhân ngoại giáo.
Ban đêm Thầy tổ chức đọc kinh chung cho các tù nhân ngoại giáo đọc theo. Nhờ sự sôt sắng và lòng can đảm của Thầy mà nhiều tù nhân ngoại giáo đã tin theo đạo. Thầy Mậu tuy phải đòn và tra tấn nhiều lần nhưng Thầy rất vui. Thầy lấy làm sung sướng được chịu khổ vì Chúa và làm nhân chứng cho Chúa. Trong một lá thư Thầy viết cho cha Huấn, Thầy kể rằng: “những người được rửa tội trong ngục lên tới 14 người rồi! Sáu người đã thuộc các kinh đọc hằng ngày còn 8 người kia thì thuộc ít.
Nhưng vẫn vui vẻ học đạo. Ngày 13 tháng Giêng năm 1839 vua truyền xử tử mấy tên tù, trong số đó có 3 người con đã Rửa Tội trước và 2 người nữa con mới Rửa Tội trước khi phải ra pháp trường. Khi bị đem đi xử những ngườI náy cứ đọc kinh to tiếng và phó linh hồn cho Chúa Giêsu”. Đọc lá thư Thầy viết, cha Huấn vô cùng xúc động và nói rằng người chiến sĩ Đức Tin của Chúa Kitô thực làm việc không biết mệt, mặc dầu biết mình sắp phải án tử hình vì không chịu bỏ đạo.
Sau một thời gian ngắn, các quan lại cho gọi thầy Mậu và các bạn ra hầu toà để thẩm xét một lần nữa. Lần này quan cho đặt một tượng Chúa vác Thánh Giá, một tượng Chúa bị đóng đanh, hai mẫu ảnh Đức Mẹ, và một Thánh Giá không có tượng Chúa. Quan gọi thầy Mậu và các bạn tới trước mặt rồi khuyên nhủ:
- Ta biết tụi bay bị giam trong tù lâu ngày khốn khổ trăm bề, bây giờ nếu chúng bay vui lòng bước thì Ta sẽ cho về ngay.
Thầy Mậu trả lời thay cho các anh em:
- Bẩm quan lớn! Chúng tôi thờ kính một Thiên Chúa là Đấng tạo dựng trời đất và muôn vật. Không bao giờ chúng tôi dám làm sự vô phép bước lên Chúa chúng tôi. Quan lớn truyền chém đầu chúng tôi thì chém, hay làm khổ đủ mọi cách rồi giết chúng tôi thì giết. Chúng tôi xin vui lòng chấp nhận hết.
Trước thái độ cứng rắn và những lời mạnh bạo dứt khoát như thế, các quan đều lắc đầu. Các quan biết dù có làm cách nào nữa thì cũng không thể thuyết phục được những người này. Dù có muốn tha thì cũng không còn cách nào để có thể tha được nữa. Sau cùng các quan lại cho giam tất cả những người này vào ngục, chờ đợi những chiến sĩ anh hùng ngày suy nghĩ lại để được sống.
Trở về nhà tù, thầy Mậu và các bạn lại gia tăng việc ăn chay cầu nguyện, xin Chúa ban thêm sức mạnh và ý chí can đảm để thắng vượt được mọi thử thách và đau khổ vì những cuộc tra tấn tàn bạo sắp tới. Trong thư thầy gửi cho cha Huấn, thầy viết: “Con và bốn anh em ăn chay, kiêng thịt như lề luật dạy là trong một tuần lễ thì giữ chay các ngày thứ, Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy. Nhưng đôi khi không giữ được thì cũng xin Cha tha cho chúng con. Chúng con xin khấn theo luật Dòng Ba Đa Minh, xin Cha thương nhận chúng con.
Ngày 24 tháng 11 năm 1839 thầy Mậu và bốn anh em bị điệu ra toà một lần nữa, lần các quan lại đặt dưới đất hai tượng Chúa, hai Thánh Giá, hai ảnh Đức Mẹ rồI truyền lệnh cho các Thầy phải bước lên. Thầy Mậu viết thư thuật lại chuyện này cho cha Huấn như sau: “ Quan gọi chúng con tới trước mặt để tra hỏi: khi đến nơi, chúng con thấy ở dưới đất có ảnh tượng như vậy.
Chúng con liền qùi xuốn mà thờ lậy các ảnh tượng ấy. Bây giờ quan truyền lính bắt con đem ra ngoài, rồi quan bắt anh Mới, anh Vinh, anh Úy, anh Đệ vào. Các anh ấy cũng qùi gối thờ lạy các tượng ảnh va đọc kinh Sáng Danh. Khi các anh ấy đọc gần xong kinh Sáng Danh thì quan truyền đưa con vào. Con lại thờ lây và đọc kinh Sáng Danh. Dọc chưa hết kinh thì quan lại truyền kéo con đi, nhưng con cứ ngồi lì đọc hết kinh. Thấy như vậy, quan tỏ vẻ bực tức bảo chúng con rằng:
- Chiếu chỉ vua truyền xử giảo chúng bay. Nhưng nếu chúng bay bước lên các đồ thờ này thò Ta sẽ tha cho chúng bay.Lúc bấy giờ ơn Chúa soi sáng cho chúng con nên chúng con thẳng thắn thưa lại rằng:
- Bẩm lạy quan lón! Chúng tôi thờ lạy một Thiên Chúa là Cha trên trời, là Chúa trên hết các Chúa, là Chúa rất tôn rất sáng, không có sự gì vinh hiển sánh cùng Thiên Chúa được. Chúng tôi thà chết, chẳng thà làm điều gì vô phép xúc phạm đến Chúa tôi.
Nghe con nói như thế thì quan giận dữ nói lại rằng:
- Những người này không biết chúng ăn uống thứ gì mà ngu dại như thế này? Chúng nó không thương cha mẹ vợ con mình và ngay cả sự sống của chúng nó!
Tới đây, quan lớn làm án xin vua xử chúng con cho xong, để khỏi phải phiền hà mang lụy vì chúng con nữa”.Đến ngày 17 tháng 12 năm 1839, có chiếu chỉ của vua Minh Mạng truyền xuống xử giảo Thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu và bốn bạn của Thầy. Mặc dầu đã có án lệnh xử nhưng quan vẫn mến tiếc Thầy Mậu vì thấy Thầy thông minh, lý sự lại đẹp trai nên lại muốn cứu Thầy khỏi chết. Quan cho gọi riêng thầy Mậu và khuyên.
- Bây giờ Ta không bất nhà người phải bước lên ảnh tượng này nữa. Nhà cần nhà người bước di chung quanh cũng được, Ta sẽ tha cho về.
Thầy Hà Trọng Mậu vẫn trung thành với Chúa, nhất định không đi chung quanh tượng để chứng tỏ từ bỏ Chúa.Sáng sớm ngày 19 tháng 12 năm 1839, quan quân điệu thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu và bốn người bạn nhân chứng của Đức Tin là thầy Đa Minh Bùi Văn Úy, anh Augustinô Nguyễn Văn Mới, anh Tôma Nguyễn Văn Đệ, anh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh tiến ra pháp trường. Thầy Mậu và các bạn anh dũng bước đi theo đoàn quân lý hình một cách hân hoan, quay lại chào biệt mọi người như hiên ngang bước về miến Đất Hứa.
Các Đấng được vui mừng đi tớI nơi xử gọi là Cổ Mễ, ngoại thành. Từng vị một bị trói chân vào cột và trói chéo hai tay ra sau lưng. Giây thừng tròng sẵn vào cổ. Mọi sự sdẵn sàng, khi chiếng trống vang lên, theo lệnh khi quan ra hiệu thì lý hình mỗI đầu giây thừng xiết thật căng, chờ tớI khi tất cả đều tắt thở, máu ứa ra đàng mũi và miệng. Sau đó lý hình lấy lửa đốt đầu ngón chân cái để xác nhận tử tội đã chết.
Giáo dân họ Đồng Tiến đã chờ chực đêm ngày để xin xác của thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu về an táng ở họ của mình. Sau ba năm, các Đấng bề trên và giáo dân xứ Kẻ Riền xin cải táng rước về đặt tại nhà thờ giáo xứ Kẻ Riền. Khi mở quan tài ra thì thấy xác Thầy vẫn còn nguyên vẹn, và xông lên mùi hương thơm ngào ngạt.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã suy tôn thầy Phanxicô Xavier Hà Trọng Mậu lên bậc Chân Phước ngày 27 tháng 5 năm 1900. Và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Thầy lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Nguồn: Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
- Viết bởi Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Thánh Tôma Nguyễn Văn Đệ, Thợ May (1811-1839)
- Lễ ngày 19 tháng 12
Thánh Tôma Nguyễn Văn Đệ sinh năm 1811 tại làng Bồ Trang thuộc tỉnh Thái Bình. Sau vì vấn đề sinh kế cha mẹ anh Đệ phải di chuyển tới làng Kẻ Mốt xã Đức Trai thuộc tỉnh Bắc Ninh để làm ăn sinh sống. Cha mẹ mua được miếng đất làm nhà ngay bên cạnh nhà thờ. Lớn lên anh Đệ học may và trở thành thợ may nổi tiếng trong vùng. Anh vui vẻ, ăn nói thật thà nên được mọi người thương mến. Khi làm nghề may đã khá thì Anh lập gia đình với một người thiếu nữ của Kẻ Mốt và sinh được ba người con. Anh sốt sắng giữ đạo và thường khuyên bảo vợ con phải siêng năng đọc kinh cầu nguyện sáng tối. Trong làng ai cũng khen gia đình anh Nguyễn Văn Đệ thật đầm ấm, hạnh phúc.
Ngày 28 tháng 6 năm 1838. vì có lời tố cáo là làng Kẻ Mốt có đạo trưởng tên là Nguyễn Văn Tự nên quan ra lệnh cho quân lính kéo về vây làng Kẻ Mốt để bắt Cha Tự. Sau khi vây làng cẩn mật, quan phủ lại ra lệnh bắt mọi người trong làng phải tập trung tại đình làng để kiểm tra. Những người Công giáo phải đứng riêng ra một bên. Quan tra khảo và đe dọa những ngưòi Công giáo, bắt mọi người phải bỏ đạo, nếu không sẽ bị giết hết. Rất nhiều người sợ hãi nên đã bỏ đạo. Riêng anh Tôma Nguyễn Văn Đệ lo sợ vì phải bỏ đạo nên anh không chịu ra đình làng. Anh nhất định trốn trong nhà. Tới khi lính tới lục soát nhà anh thì anh bị phát giác lúc anh đang ấn trốn trong nhà anh. Anh bị bắt và trói rồi giải ra đình làng. Trước khi đi, anh nói với vợ:
- Em nhận lấy các con và về nhà cha mẹ, chịu khó làm ăn mà coi sóc nuôi con, để chúng nó biết thờ phượng Chúa và giữ đạo cho nên. Lúc này anh vào trận thì trông ơn Đức Chúa Trời thương giúp. Anh nhất định theo chân cha Tự cho đến chết. Anh nhất định không bao giờ bỏ Chúa, bỏ đạo. Em thương anh thì hãy cầu nguyện cho anh được theo Chúa đến cùng.
Khuyên vợ xong, quân lính đẩy anh đi ra đình làng nộp cho quan phủ. Lúc bị bắt, anh Tôma Nguyễn Văn Đệ 28 tuổi. Tại đình làng, quan hỏi anh:
- Nếu nhà ngươi bỏ đạo, bước qua Thập Giá thì Ta cho về làm ăn nuôi vợ con. Ta biết ngươi còn trẻ, làm nghề thợ may giỏi, được nhiều người mộ mến, nên Ta muốn tha ngươi.
Anh Tôma Nguyễn Văn Đệ giõng gạc thưa lại:
- Nếu quan lớn tha cho tôi được về làm ăn nuôi vợ con thì tôi cám ơn quan lớn muôn phần. Nhưng quan lớn bắt tôi bỏ đạo thì dứt khoát là không bao giờ tôi bỏ. Dù có phải chết thì tôi xin vui lòng chịu chết. Xin quan lớn đừng khuyên tôi làm điều xúc phạm đến Chúa tôi thờ.
Những người khác vì sợ hãi nên đã bỏ đạo hết, chỉ còn Cha Tư, anh Đệ và bốn người khác không chịu bỏ đạo nên bị tra khảo, đánh đập, bị xiềng xích tay chân, đeo gông nặng rồi giải về giam tại phủ.
Sáng ngày 1 tháng 7, quan phủ cho gọi từng người ra trình diện. Quan phủ nói:
- Đây là giờ phút sau cùng ta khuyên các anh. Nếu các anh nghe Ta mà bước qua Thập Giá thì Ta tha, bằng không thì ta cho lệnh giải các anh về tỉnh nộp cho quan đốc tỉnh Bắc Ninh.
Cha Tự cũng như những anh em khác là anh Đệ, ông Mậu, Úy. Mới và anh Vinh đều cương quyết nhất định không bỏ đạo. Quan phủ bực bội cho lệnh giải tất cả về nộp cho quan đốc tỉnh Bắc Ninh.
Tại nhà tù tỉnh Bắc Ninh, nhiều lần anh bị tra tấn, đánh đập và bao cực hình đau đớn thân xác nhưng anh Tôma Nguyễn Văn Đệ luôn tỏ ra đầy nghị lực chịu đựng, đức tin trung kiên với Chúa không hề nao núng. Quan đốc lại bắt người vợ trẻ tuổi ôm con tới khóc lóc khuyên dụ chồng, thương vợ thương con… đôi lúc cũng làm cho anh phân vân khó xử. Nhưng ơn Chúa vẫn tăng sức mạnh cho anh để anh luôn cam đãm khuyên nhủ vợ con vâng theo ý Chúa và hãy mạnh dạn chấp nhận để anh chết vì Chúa, vì đạo thánh Đức Chúa Trời. Anh nhẹ nhàng nói với người vợ hiền:
- Em hãy can đảm và tin cậy sự quan phòng của Chúa. Anh dâng phó em và các con cho Chúa rồi. Chúa sẽ giúp đỡ em. Em hãy vui vẻ về làm ăn nuôi con cho anh. Anh chỉ ước mong được chết vì Chúa, vì đạo thôi.
Thật là cảm động và thật là những cử chỉ và lời nói anh hùng quả cảm! Chị vợ nghe những lời nhắn nhủ yêu thương này, không nói thêm được điều gì. Chị nắm chặt lấy tay anh và nói lời từ biệt:
- Em hiểu và vâng lời anh. Em sẽ làm như lời anh căn dặn. Anh hãy can cảm lên. Xin Chúa ở cùng anh và phù trợ anh. Khi về với Chúa, anh nhớ cầu nguyện cho mẹ con em.
Nói xong, hai giòng nước mắt tuôn trào trên gò má. Chị từ từ bước ra khỏi nhà giam Anh cũng xúc động nhìn người vợ hiền ôm con chậm chạp bước ra ngoài cổng nhà tù.
Có lần anh Nguyễn Văn Đệ bị gọi ra hầu toà. Quan đốc hỏi:
- Này anh Đệ, anh nói Chúa. Vậy Chúa là ai?
Anh Đệ tuyên xưng một cách mạnh mẽ:
- Chúa là cội rễ mọi sự, là Chúa thật dựng nên trời đất và muôn vật.
- Chúa mày là mảnh gỗ ư?
Vừa nói quan vừa đưa cậy Thập Giá cho anh xem. Anh nói lại:
- Nào quan lớn có biết đâu là Chúa thật. Xin quan lớn cho tôi được hỏi một lời. Quan lớn có biết nguồn gốc Đức Phật không? Nếu quan lớn chém đầu tôi thì tôi sẽ về cùng Chúa tôi trên trời, hưởng phúc vui vẻ muôn đời.
Nghe anh nói, quan đốc tỉnh nổi giận, truyền lấy roi và vồ nọc đánh đập hành hạ anh. Nhưng khi lính đã lấy roi và vồ sẵn sàng thì quan đốc nghĩ lại và nói:
- Thôi không đánh nữa, chỉ làm bẩn roi.
Quan truyền làm án để xin triều đình cho phép xử cho xong. Tuy làm án xin xử, nhưng quan đốc vẫn thương tiếc vì trong số những người cùng bị tù tội với anh thì anh là người đối đáp giỏi nhất. Khi đối đáp chữ Nho thì anh cũng đối lại bằng chữ Nho một cách văn vẻ, cho nên quan đốc có cảm tình, khen anh là giỏi chữ nghĩa.
Sau nhiều lần quan đã cố gắng khuyên dụ các ông mà các ông vẫn một mực cương quyết trung thành với đạo Chúa. Do đó, ngày 24 tháng 11 năm 1839 anh và các bạn bị nghị án xử giảo. Lần cuối cùng, quan đốc gọi anh Nguyễn Văn Đệ và các bạn ra toà, quan chỉ ra lệnh anh và các bạn chỉ đi chung quanh Thập Giá tỏ ý bỏ đạo thì quan sẽ tha. Nhưng tất cả các Ngài đều không chấp thuận điều kiện này.
Ngày 19 tháng 12 năm 1839, chiếu chỉ vua gửi về truyền xử giảo anh Tôma Nguyễn Văn Đệ và bốn người bạn cùng tù. Như án lệnh, các quan cùng binh lính điệu anh Tôma Nguyễn Văn Đệ và bốn người bạn tới pháp trường ở ngoại thành Cổ Mễ. Tới nơi xử, Anh Tôma Nguyễn Văn Đệ cùng bốn người bạn quì đọc kinh rồi phải nằm úp mặt xuống đất. Đội lý hình cột chân tay vào các cọc đoạn cuốn giây thừng vào cổ. Mỗi đầu giây hai lý hình cầm sẵn, đợi hiệu lệnh bằng những hồi chiêng trống nổi lên, quan giám sát giơ tay ra lệnh thì các lý hình cầm các đầu giây kéo hết sức mạnh. Máu từ miệng, từ mũi và tai chảy vọt ra, tử tội tắt thở. Lý hình đốt đầu ngón chân các Ngài để biết chắc là đã chết. Để làm vừa lòng các quan, lý hình còn đánh đập trên thân xác các Ngài. Sau đó quan quân kéo nhau về. Thân nhân và các tín hữu chạy ùa tới để nhận xác và các di tích của các Ngài. Một thanh niên làng Kẻ Mốt vội chạy tới vác xác thánh Tôma Nguyễn Văn Đệ đưa về Kẻ Mốt làm lễ an táng.
Sau này chính người thanh niên can đảm này đã kể lại khi anh vác xác thánh Đệ như sau: “Tôi vác xác thánh Tôma Nguyễn Văn Đệ vào lúc nửa đêm. Bất chợt xác Ngài toả ra ánh sáng, chỉ đường cho tôi phải đi về đâu. Khi tới bờ sông, tôi rất lo lắng vì tôi biết chắc chắn không có đò vào giờ này thì làm sao tôi qua được bờ bên kia? Nhưng trái với ý nghĩ của tôi, lúc đó nước rút xuống rất thấp đến nỗi tôi có thể lội qua bờ bên kia rất dễ dàng. Hơn nữa khi tôi đến làng Kẻ Mốt, tôi thấy cổng làng đã mở, dù cổng làng luôn đóng chặt vào lúc ban đêm. Tôi vác xác thánh Đệ vào nhà thờ và đặt Ngài trên bàn thờ. Tôi thấy có ánh sáng lạ lùng phát ra từ thân thể của Ngài”.
Thánh Tôma Nguyễn Văn Đệ được an táng tại họ Phong Cốc thuộc địa phận Bắc Ninh, tới ngày 11 tháng 3 năm 1877, giáo dân họ Phương Lê lại xin cải táng, rước về đặt tại nhà thờ họ Phương Lê.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã tôn phong Ngài lên bậc Chân Phước ngày 27 tháng 5 năm 1900 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Lm.Alexandre de Rhodes. S.J. (Lm. Nguyễn Ðức Việt Châu, SSS)
- Viết bởi Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Thánh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, Tá Điền (1813-1839)
- Lễ ngày 19 tháng 12
Thánh Stêphanô Nguyễn Văn Vinh sinh năm 1823 tại làng Bồ Trang, tỉnh Thái Bình, trong một gia đình ngoại giáo, rất nghèo. Anh Nguyễn Văn Vinh tính tình hiền lành, thật thà, siêng năng làm việc. Anh cùng quê với thánh Mới và thánh Đệ. Vì nhà quá nghèo nên anh phải bỏ làng đến họ Kẻ Mốt thuộc xã Đức Trai làm mướn cho các gia đình có nhiều ruộng đất ở đây. Vì nhà nghèo nên anh không được đi học.
Trường học duy nhất trong đời, anh được lui tới và anh rất thích thú theo học là trưòng dậy Giáo lý. Chính nơi đây anh đã tập đánh vần và học truyền khẩu. Tuy anh ít học, nhưng giáo lý và kinh hạt thì anh rất thuộc và nhất là anh đã đem ra thực hành sống hằng ngày một cách rất nghiêm chỉnh. Mọi người trong làng đều thương mến vì anh đơn sơ, chất phác lại rất thật thà, khiêm tốn với mọi người. Những ngưòi thuê mướn anh làm việc đều rất hài lòng với anh vì anh làm việc cách tận tụy, chu đáo như chính việc của nhà anh. Có lẽ vì nhà nghèo, lại phải đi làm thuê làm mướn vất vả nên anh chưa nghĩ tới việc lập gia đình. Bởi vậy khi bị bắt vì đạo lúc 25 tuổi thì anh vẫn còn sống độc thân.
Ngày 29 tháng 6 năm 1838, khi quan quân kéo nhau về vây làng Kẻ Mốt để bắt Cha thánh Phêrô Nguyễn Văn Tự, quan truyền lệnh mọi người phải ra tập trung tại đình làng để kiểm tra. Quan bắt những người theo đạo Gia Tô phải bước qua Thập Giá. Nhiều người vì sợ hãi đã liều lĩnh bước qua, đến lượt anh Nguyễn Văn Vinh thì anh mạnh bạo nói thẳng thắn rằng: “Tôi thà chết chứ không bao giờ chịu đạp lên Thập Giá, vì tôi biết đạo Chúa Giêsu là đạo thật”. Nói xong anh còn quì xuống hôn kính Thập Giá.
Vì những lời xưng đạo của anh và nhất là vì cử chỉ hôn kính Thập Giá, quan tưởng anh là người Kitô hữu, nên cho lệnh bắt anh đeo gông và xiềng xích chân tay rồi giải về phủ cùng với Cha thánh Tự và bốn chiến sĩ Đức Tin khác là thầy Mậu, thầy Úy anh Mới, anh Đệ, Khi bị bắt, anh Vinh tỏ ra rất hoan hỉ và hãnh diện vì được kể là người Kitô giáo, mặc dầu anh chưa phải là người Công giáo vì anh chưa lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Theo chứng thư của thầy Mậu và thầy Úy thì các thầy đã Rửa Tội cho cả trăm tù nhân ngoại giáo xin theo đạo Công giáo, trong đó anh Nguyễn Văn Vinh cũng đã được lãnh nhận bí tích Rửa Tội và nhận thánh Stêphanô làm thánh bổn mạng. Có lẽ vì tính hiền lành thật thà, lại yêu thích học hỏi giáo lý và kinh bổn nên Chúa đã thương ban cho anh được trở lại làm con cái của Chúa và nhất là được trở thành nhân chứng Đức Tin của đạo thánh Chúa.
Khi quan phủ cho lệnh giải về tỉnh nộp cho quan đốc tỉnh. Quan đốc tỉnh tra khảo hỏi anh:
- Anh có phải là người theo đạo Gia Tô không?
Anh mau mắn trả lời:
- Bẩm quan lớn, tôi thà chết chứ tôi không bao giờ bỏ đạo.
- Anh bỏ đạo thì Ta tha. Nếu ngoan cố thì sẽ bị tra tấn và phải chết.
Anh vẫn giữ vững lập trường, sẵn lòng chịu tra tấn, bị đeo gông và xiềng xích rất nặng rồi tống giam vào tù cùng với thầy Mậu, thầy Úy, anh Đệ và anh Mới. Trong nhà tù, các Ngài tổ chức đọc kinh chung, khuyến khích nhau can đảm chịu mọi khổ hình vì Chúa. Mỗi khi quan gọi ra trình toà thì cả 5 người đi chung. Có lần quan bắt lính kéo anh Vinh qua Thập Giá thì anh cúi gò người xuống sát đất để hôn Thập Giá. Thấy cử chỉ như vậy thì quan bực mình cho lệnh nọc anh ra cho lính đánh đòn, máu chảy ra thấm ướt cả quần cả áo. Thế nhưng anh Nguyễn Văn Vinh vẫn can trường chịu mọi sự đau đớn một cách rất anh dũng.
Thời gian kéo dài đã hơn một năm với nhiều lần khuyên dụ, với bao trận đòn bầm da, xé thịt, nhưng 5 chiến sĩ Đức Tin của Chúa không hề lay chuyển niềm tin Thất vọng với những người này, triều đình quyết định lại việc xử giảo cả 5 người.
Ngày 19 tháng 8 năm 1839, quan đốc tỉnh cho điệu cả 5 người ra toà. Quan cho để Thập Giá một bên, bên đối diện là những dụng cụ tra khảo như kìm, kẹp, lò than đốt cháy bừng bừng. Quan đốc trịnh trọng tuyên bố:
- Các anh bị giam cầm đã lâu ngày, chịu khổ cũng đã quá nhiều. Vậy giờ đây các anh hãy bỏ đạo, bước qua Thập Giá, Ta sẽ cho về với gia đình, với vợ con.
Thầy Mậu đại diện cho anh em bình tĩnh trả lời:
- Bẩm quan lớn, anh em chúng tôi đã quyết tâm trung thành với Thiên Chúa, nên quan lớn ra lệnh làm khổ chúng tôi, hay bất cứ hình khổ nào khác, ngay cả việc giết chết chúng tôi. Chúng tôi xin vui lòng chấp nhận hết. Còn việc bước qua Thập Giá và bỏ đạo thì xin quan lớn đừng bao giờ hy vọng chúng tôi bỏ. Chúng tôi vui mừng được chết để làm chứng cho đạo thánh Chúa là đạo thật.
Thầy Mậu vừa nói xong thì cả 5 người đều quì xuống bái lạy Thánh Giá và cầu nguyện rằng:
- Lạy Chúa! Xin cứu chúng con. Chúng con xin phó thác linh hồn trong tay Chúa.
Quan đốc nhìn các Ngài thất vọng, cho lệnh dẫn cả 5 người trở về ngục thất và nói lớn tiếng:
- Trời ơi! Bọn này cưồng tín quá, không thể tha thứ được. Ta muốn tha bọn chúng mà chúng có muốn được tha đâu! Lại một lần nữa, trước khi thi hành bản án lệnh, ngày 24 tháng 11 quan đốc lại cho gọi 5 người tới hầu toà. Quang cảnh cũng như lần trước, cũng dao búa, kìm kẹp trông lạnh cả người. Nhưng các tôi trung của Chúa vẫn bình tĩnh, không hề tỏ dấu sợ hãi. Các Ngài vẫn một lòng kiên quyết không bỏ đạo. Thầy Mậu thay anh em ôn tồn trình với quan:
- Bẩm quan lớn, đã nhiều lần chúng tôi đã thưa là chúng tôi chỉ tôn thờ một Thiên Chúa là Cha chung muôn loài muôn vật. Ngài là vua trên hết các vua, là Đấng chúng tôi mong ước được đổ máu ra để chứng tỏ lòng trung thành và yêu mến của chúng tôi đối với Ngài.
Nghe thầy Mậu nói, quan lớn thở dài không nói gì thêm nữa. Lần này không tra tấn, không đánh đập, không kìm kẹp, nhưng cho lệnh dẫn 5 người về ngục thất.
Sáng ngày 19 tháng 12 năm 1839, trước khi đem đi xử, quan đốc lại cho các Ngài một cơ hội cuối cùng. Quan đốc âu yếm nhìn 5 chiến sĩ Đức Tin anh hùng của Chúa, ôn tồn nói:
- Ta rất thương mến các anh. Ta không muôn giết các anh, vậy đây là ơn huệ cuối cùng Ta dành cho các anh. Bây giò các anh không phải bước qua Thập Giá nữa, mà chỉ cần các anh đi vòng quanh cây Thập Giá là dấu các anh bằng lòng bỏ đạo thì Ta cũng tha cho các anh.
Những nhân chứng Đức Tin này nghe quan đốc nói chỉ nhìn nhau mỉn cười rồi bảo nhau cùng quì gối đọc kinh Kính Danh Chúa Giêsu. Thầy Mậu thay anh em thưa với quan:
- Bẩm quan lớn, Chúng tôi mong ước được về với Chúa lắm rồi. Xin quan lớn cứ cho thi hành án lệnh của đức vua.
Biết không thể làm thay đổi lòng tin sắt đá của các Ngài nên quan đốc tỉnh truyền lệnh đem đi xử.
Đoàn quan quân hùng hậu dẫn giải các Ngài ra pháp trường, một anh lính mang tấm bảng án viết chữ lớn đi trước, nội dung viết như sau:
“Bọn gian ác này theo đạo Gia Tô. Mặc đầu đã khuyên răn sửa phạt rất nhiều lần. Nhưng bọn chúng vẫn ngoan cố không chịu bước qua Thập Giá. Nạy án lệnh vua truyền bọn chúng phải xử giảo”.
Trên đường tiến ra pháp trường, thầy Mậu nhanh chân bước đi trước, bốn anh em hân hoan kiên cường bước theo sau. Dân chúng đi xem rất đông. Trong đám đông nhiều người oán trách: “Những người này đều là dân làm ăn, hiền lành thật thà. Người ta có làm gì nên tội mà đem giêt người ta như thế này. Không phải là bất nhân lắm sao”. Người khác nói xen vào: “Đạo Gia Tô cũng khuyên người ta ăn ngay ở lành, thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên trời đất muôn vật, nghe có lý lắm chứ, sao lại cấm người ta”.
Có người còn nói thật lớn:
- Các ông ơi! Các ông chết thì nhớ cầu nguyện cho chúng tôi nhé. Thật là tội nghiệp! Thầy Mậu vui vẻ quay lại nói:
- Chúng tôi về Thiên Đàng đây. Chúng tôi sẽ cầu nguyện cho mọi người.
Đoàn quân đã tới pháp trường gần làng Cổ Mễ, mỗi vị đều bị trói chân tay vào cọc đã chôn sẵn, rồi lý hình lấy giây thừng cuốn vào cổ. Mỗi đầu giây có hai lý hình cầm giây sẵn sàng, đợi hiệu lệnh chiêng trống lên hồi, khi quan giơ tay ra lệnh thì các lý hình cầm hai đầu giây kéo xiết thật mạnh cho tới khi tắt thở. Sau đó để biết chắc là tội nhân đã chết thì lính đốt đầu ngón chân cái các Ngài. Thi hành xong mọi việc, quan quân kéo nhau về. Các tin hữu đem thi hài các Ngài về an táng nơi quê quán của mình. Thánh Mậu ở Kê La, thánh Úy ở Đồng Tiến, thánh Mới ở Phượng Vĩ, thánh Đệ ở Phong Cốc, thánh Vinh ở Hương La thuộc xứ Tứ Nê. Tất cả đều thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã suy tôn cả năm vị nhân chứng Đức Tin anh hùng tử đạo lên bậc Chân Phước ngày 27 tháng 5 năm 1900. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng các Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988
Lm.Alexandre de Rhodes. S.J. (Lm. Nguyễn Ðức Việt Châu, SSS).
- Viết bởi Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Thánh Phêrô Nguyễn Văn Ðường (1808 – 1838)
- Lễ ngày 18 tháng 12.
Phêrô Nguyễn Văn Ðường, Sinh năm 1808 tại Kẻ Sở, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18 tháng 12 năm 1838 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng.
Đức Lêô XIII suy tôn lên bậc chân phước ngày 27-05-1900.
Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Lễ kính vào ngày 18/12.
Ba thày giảng cùng bị bắt một ngày, cùng bị giam một nơi, cùng tử đạo một giờ, cùng được suy tôn Chân Phước và Hiển Thánh một lượt là các thầy:
- Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, 40 tuổi
- Phêrô Trương Văn Đường, 30 tuổi
- Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi.
Thánh Phaolô Nguyễn Văn Mỹ - Thầy giảng (1798 – 1838)
Là người lớn tuổi nhất, thày Phaolô Mỹ như người anh cả, và là chỗ dựa cho hai thày giảng cùng bị giam chung. Trong một lá thư gửi cho thừa sai Marette, thày Đường viết : "… Từ ngày được diễm phúc chịu khó vì đức tin, thày Mỹ thay chúng con vẫn viết thư cho cha. Vì chúng con coi thày như thay mặt cha ở giữa chúng con…"
Phaolô Nguyễn Văn Mỹ chào đời năm 1798 ở làng Kẻ Non, còn gọi là Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tên thật của cậu là Nguyễn Văn Hữu. Năm 13 tuổi, được phép cha mẹ, cậu Mỹ theo giúp việc Đức cha Giacôbê Longer Gia rồi sau giúp cha Luật xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến năm 19 tuổi, cậu theo học tại chủng viện Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị).
Khi làm thày giảng thực thụ, thày Mỹ được gửi đến giúp thừa sai Marette. Ít lâu sau, Đức cha Harvard Du giám quản giáo phận Tây Đàng Ngoài, đã chọn thày phụ giúp linh mục Cornay Tân, xứ Bầu Nọ, tỉnh Sơn Tây. Nhiều kinh nghiệm và khả năng, thày Mỹ đã hỗ trợ đắc lực cho vị thừa sai trẻ tuổi nhiệt thành, nhưng thường đau ốm nặng nề này.
thày Mỹ luôn hoàn thành công tác mục vụ một cách chu đáo: Từ giảng lý tân tòng và trẻ em, đến khuyên bảo tội nhân hối cải. Khi tình hình cấm đạo lên cao độ, thày là vị tông đồ nhiệt thành và hữu hiệu, đi thăm từng gia đình để khích lệ các tín hữu sống đức tin, và còn hơn thế, được nhiều người ngoại giáo về đón nhận niềm tin Kitô giáo.
Thánh Phêrô Trương Văn Đường - Thầy giảng (1808 – 1838)
"Nhất định chúng tôi không đạp lên ảnh chuộc tội, vì như vậy là chọn cái chết đời đời cả linh hồn lẫn xác".
Lời nói trên cho ta thấy tâm tình của thánh Phêrô Đường, vị thày giảng đã hơn 20 năm dâng mình cho Chúa, để tìm kiếm hạnh phúc đích thực cho chính mình và ta nhân.
Sinh năm 1808 ở làng Kẻ Sở, xã Ninh Phú, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Gia đình Phêrô Đường tuy nghèo nhưng nổi tiếng thánh thiện. Được cậu là linh mục Trương Văn Thi phụ trách xứ Sông Chảy đỡ đầu, nên ngay khi chú Đường mới 9 tuổi, cha Phương xứ Yên Tập đã nhận khai tâm cho chú vào đời sống tu trì. 15 tuổi, anh Phêrô Đường đã được gủi đến giúp xứ Bầu Nọ dưới quyền thừa sai Marette. Với sự khích lệ của cha, anh chuyên tâm học chữ Hán và Latinh để chuẩn bị cho tương lai.
Khả năng và nhân cách của anh Phêrô đường được xác nhận ngay năm sau. Anh được Đức cha Havard Du nhận vào bậc thày giảng dù mới 16 tuổi, thày giảng trẻ tuổi nhất. Thày tiếp tục giúp xứ Bầu Nọ thời cha Cornay Tân, cho đến ngày bị bắt. Tính tình vui tươi, hiền lành, thày được mọi người trong xứ mến chuộng.
Thánh Phêrô Vũ Truật - Thầy giảng (1817 – 1838)
Thày Phêrô Vũ Truật, 21 tuổi, đáng lưu danh muôn thuở cho câu nói bất hủ, trả lời lại những viên quan chê dại dột lãng phí tuổi thanh xuân : "Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời".
Phêrô Vũ Truật sinh năm 1817 ở làng Hà Thạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn Sơn Tây. Gia đình anh rất nghèo, cha chết sớm, vốn liếng lại chẳng có, mẹ anh phải đầu tắt mặt tối suốt ngày,để nuôi ba con dại, nên Phêrô Truật không được đi học và gầy yếu xanh xao.
Tuy nhiên, anh Truật có lòng đạo đức, thường lui tới nhà thờ kinh lễ, nên được cha Tân chánh xứ Bầu Nọ chọn vào phục vụ những việc nhẹ trong xứ và tạo điều kiện cho ăn học. Dầu thế mặc lòng, anh Truật cũng chẳng bằng ai, phần trí khôn hơi chậm, phần hay bị đau ốm luôn, anh chỉ có thể biết đọc biết viết sơ sơ. Bù lại, anh rất thuộc kinh, nên đặc trách việc dạy kinh truyền khẩu cho các thiếu nhi nhỏ tuổi.
Mãi đến khi bị bắt giam trong ngục tù rồi, Đức cha Havard Du mới chứng nhận anh là thày giảng, vừa để lòng tin làm chứng cho đức tin. Thày Truật tuy không còn cơ hội để giảng bằng lời nói, nhưng thái độ kiên tín của thày chính là lời giảng có sức thuyết phục hơn nhiều.
Ba tấm lòng vàng
Ở Bầu Nọ có người ngoại giáo tên Đức cầm đầu một băng cướp đã bị bắt. Để nhẹ tội, y nói với vợ là Yến vu oan cho cha Cornay Tân tội tổ chức phản loạn. Chị ta liền giả vờ đến xin học đạo để dò xét những nơi cha thường trú ẩn. Khi biết được, chị ta liền giấu vũ khí trong vườn nhà cha, rồi đi mật báo cho các quan tỉnh Sơn Tây.
Ngày 20-6-1837, quan Sơn Tây phái 1500 quân lính đến làng Bầu Nọ, bắt linh mục Tân. Hai thày Mỹ và Đường cũng như anh Truật ngồi lẫn vào đám đông dân chúng bị tập trung nơi đình làng. Lính lục soát từ sáng tới trưa vẫn không thấy cha Tân đâu cả. Bà Yến liền bày cho họ bắt anh Truật và hai thày Mỹ, Đường, là những người thân thiết với cha xứ để tra hỏi.
Chiều hôm đó, lính phát hiện được cha đang ẩn trong bụi rậm. Nhưng để có thêm nhân chứng ghép tội cha, ba vị phụ tá này cũng bị áp giải với ngài hơn sáu dặm đường, về nhà lao tỉnh Sơn Tây. Tại công đường, ba vị đã khéo léo minh chứng cha xứ không theo giặc nổi loạn, và giải thích những lời đồn đại sai về đạo.
Thí dụ quan hỏi : "Sao các ông móc mắt người chết để luyện bùa phép ?" Thày Mỹ trả lời : "Không lẽ quan tin những lời đồn đãi vô lý đó sao ? Bởi nếu chúng tôi làm như thế, cha mẹ vợ con họ đâu để cho chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp gỡ thân ái và vui vẻ"
Các cuộc thẩm vấn thường đi liền với những tra tấn dã man. Đây là chứng thư của thày Mỹ: "Lính lột áo chúng tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống lấy dây thừng cột tay chân, rồi kéo căng cột vào bốn góc, nguyên sự căng nọc cũng làm chúng tôi đau đớn vô cùng, thế rồi họ bắt đầu đánh đòn… Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nữa mà là cả bó. Mỗi lần đánh hằng trăm đầu roi mây in lằn trên da thịt chúng tôi, tạo nên nhiều vết thương đẫm máu…"
Riêng thày Truật vì ốm yếu nên được đeo gông nhẹ hơn và bị ít đòn hơn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn cả ba người đều bị kiệt sức, phải khiêng về ngục thất. Ngày 20-9, lính canh tù loan tin cha Tân đã bị trảm quyết, và khuyên các thầy bỏ đạo cả ba vị cùng nói : "Chúng tôi mừng vì thày chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương Ngài."
Giai đoạn này thày Mỹ ghi lại một lá thư : "Suốt bốn tháng liền chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu lính canh ngược đãi, phòng giam ẩm thấp hôi hám, ruồi muỗi tự do hoành hành, trên người thì đầy những vết thương bị tra tấn."
Tháng 10 bản án tỉnh Sơn Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phê và gởi về. Nhưng thay vì giết ngay bản án quyết định "giam hậu" nghĩa là khoan xử chờ quyết định mới, bề ngoài có vẻ nhân đạo, nhưng thật ra bên trong rất thâm độc.
Với thời gian nhiệt tình ban đầu có nguy cơ phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh đến chuyện phải ngồi tù không biết đến bao giờ. Đàng khác sự chịu đựng con người có hạn, quá khổ đau, quá mòn mỏi, quá thất vọng, con người dễ bị lung lạc và dễ bị thay đổi ý định.
Thực tế ba thày giảng phải chờ thêm 14 tháng, vị chi tất cả là một năm rưỡi bị giam cầm. Nhưng suốt thời gian bị giam cầm thử thách lâu dài đó, ba thày vẫn gắn bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi phúc tử đạo, mỗi sáng cũng như mỗi tối, các thầy lớn tiếng đọc kinh Mân Côi chung, cầu nguyện chung, các đồ ăn thức uống, thuốc men nhận được ba vị chia sẻ cho lính canh, ai đến thăm đều được khuyên nhủ :
"Anh em hãy sống hòa thuận với mọi người trong gia đình, làng nước, hãy là giáo hữu nhiệt thành, vì đời sống trần gian chẳng là bao. Chúng tôi đã vâng theo ý Chúa định đoạt, hy vọng mai này chúng ta sẽ đoàn tụ trên Nước trời"
Cha Triệu giả làm thường dân mang Mình Thánh Chúa cho các thầy, đó quả là hồng phúc lớn lao. Ta thử đọc tâm sự của thày Đường gởi cho cha Marette trong thư : "Hôm nay là ngày trọng đại chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm và làm vơi nhẹ những xiềng xích của chúng con… cửa Thiên Đàng đã gần kề, nghĩ đến hạnh phúc đang chờ đợi, chúng con chẳng còn ước ao sự gì khác nữa…"
Cùng Chiến Thắng Vinh Quang
Năm 1838, triều đình duyệt lại bản án và chỉ thị cho quan tỉnh Sơn Tây thi hành. Ngày 18-12 ba chứng nhân anh dũng bị điệu ra pháp trường ở Gò Vôi làng Mông Phụ, tỉnh Sơn Tây. Mỗi người mang trên ngực tấm thẻ ghi tên họ, nguyên quán, tội theo đạo Giatô, đã thú nhận, truyền xử trảm.
Trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước ba thày cùng làm dấu khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban phép lành tha tội. Một người lính cho các Ngài uống rượu, ba vị cám ơn, uống nước trà và nói : "Thày giảng chúng tôi kiêng rượu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội."
Đến nơi xử, ba thày nằm dài trên chiếu, quân lính quây thành một vòng tròn lớn, để ngăn cản dân chúng. Từng vị một bị trói chân vào cột và trói chéo tay ra sau lưng. Dây thừng tròng sẵn vào cổ. Giữa tiếng chiêng trống vang rền, theo lệnh quan mỗi tên lính nắm chặt đầu dây xiết thật căng, chờ tới khi tất cả tắt thở, máu ứa ra miệng.
Sau đó lấy lửa đốt gan bàn chân để xác nhận các tử tội đã chết thật rồi. Cha Marette và giáo dân đưa thi hài ba thày về họ Kẻ Măng gần đấy tẩm liệm. Ngài dâng lễ cầu hồn tạ ơn Chúa đã cho các bậc tôi trung thắng trận khải hoàn.
Đức Lêô XIII suy tôn ba thày Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Phêrô Trương Văn Đường và Phêrô Vũ Truật lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.
Nguồn: Thư viện Đa Minh
- Viết bởi Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Thánh Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Thầy Giảng (1798-1838)
- Lễ ngày 18 tháng 12
Thánh Phaolô Nguyễn Văn Mỹ sinh năm 1798 tại làng Kẻ Non cũng gọi là Sơn Nga, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Cha mẹ là ông bà Nguyễn Hữu Đắc, được tiếng là giầu có và có lòng đạo đức nhất trong làng.
Ông bà chú tâm dậy dỗ con cái học hỏi về đạo, siêng năng đọc kinh, cầu nguyện. Cậu Phaolô Nguyễn Văn Mỹ là em của 5 người anh. Anh cả tên là Nguyễn Văn Hữu, còn tên của cậu Mỹ lúc còn nhỏ gia đình quen gọi là Hào.
Được giáo dục từ nhỏ về đạo nên cậu Mỹ đã có lòng ao ước dâng mình cho Chúa. Cậu xin cha mẹ tới ở với Đức Cha Giacobê Longer Gia, rồi sau giúp cha Luật ở xứ Kẻ Đầm bốn năm. Đến năm chú Mỹ 19 tuổi thì được cha Luật gửi vào chủng viện Kẻ Vĩnh tại Vĩnh Trị để học la tinh và triết học.
Tới năm 1823, thầy Phaolô Nguyễn Văn Mỹ mãn trường về giúp cha Luật ở Kẻ Trình. Năm 1834, thầy lại vâng lời Bề trên lên miền núi ở Sơn Tây. Sau nhiều năm giúp xứ tại Sơn Tây thì Đức Giám mục gọi thầy về dọn mình lãnh chức linh mục. Nhưng chưa kịp lãnh chức linh mục thì Thầy đã bị bắt và được nhận phúc tử đạo.
Ngày 20 tháng 6 năm 1837, khi quan quân kéo nhau về vây làng Bầu Nọ, thầy Phaolô Mỹ nhờ người đem cha Cornay Tân đi trốn, còn Thầy thì đem các đồ thờ phượng đi giấu, rồi cùng với các Thầy khác theo lệnh ra đình làng để điểm mục. Từ sáng tới chiều các đội quân lính lục soát cả làng Bầu Nọ mà không bắt được ai. Quan ra lệnh thu quân về đình làng để kiểm mục.
Khi ấy bà Yến là người đã đi báo cáo là tại Bầu Nọ có Thừa Sai Tây Dương, bà quả quyết là có Cố Tây, rồi bà chỉ mặt đích danh thầy Mỹ, thầy Đường, thầy Truật là những Thầy cộng tác đắc lực với các Tây Dương Đạo Trưởng. Nghe báo cáo chắc chắn như thế nên quan ra lệnh bắt trói luôn cả ba Thầy. Ba Thầy bị đánh đòn, tra tấn, tra khảo về cố Cornay Tân. Nhưng cả ba Thầy rất anh dũng, cương quyết nhất định không khai báo gì. Đến lúc trời nhá nhem tối thì cha Cornay Tân bị bắt. Cha Cornay Tân bị trói và nhốt vào cũi, còn ba Thầy thì phải dầm sương giãi nắng suốt ba ngày theo đoàn quân về tỉnh Tây Sơn.
Về tới Tây Sơn Thầy Mỹ và Thầy Đường bị mang gông và xiềng xích rất nặng, đi lại rất khó khăn. Thầy Truật trẻ hơn chỉ mang gông nhẹ nên việc đi lại trong nhà tù dễ dàng hơn.
Trong một lá thư gửi cho Hội Truyền Giáo Đức Tin, cả ba Thầy đã tường thuật rất đầy đủ mọi sự việc từ khi bị bắt và giam trong tù như sau:
“Từ khi bị giam trong tù, chúng tôi phải điệu ra trước mặt quan hàng ngày, mặc dù chúng tôi đã nhất quyết phủ nhận không biêt gì về tướng giặc cũng không bao giờ giúp họ bất cứ một việc gì. Các quan vừa đe dọa vừa dụ dỗ, ép buộc chúng tôi phải khai báo danh sách các Thừa Sai và bỏ đạo.
Thầy Phaolô Mỹ bị coi là tội nhân chính đã phải ra trước toà quan án 40 lần. Trước hết họ lột quân áo chúng tôi. Chúng tôi phải nằm dưới đất, tay chân bị trói giang ra cột vào các cọc thật đau đớn. Sau đó họ đánh cávh tàn nhẫn. Lần sau cùng họ đánh bằng roi có nhiều sợi chì. Họ thay phiên nhau để đánh. Mỗi lần roi quất các móc chì lôi thịt ra làm thành những vết thương. Thầy Phaolô Mỹ chịu 130 roi.
Thầy Đường 90 roi và Thầy Truật 60 roi. Sau mỗi lần tra tấn đánh đập như vậy thì lính phải khênh chúng tôi trở về nhà tù, và sau nhiều ngày chúng tôi mới có thể nói vài lời. Họ đánh đập chúng tôi tàn nhẫn như vậy là để bắt ép chúng tôi phải nhận là phản nghịch Nhà Nước và là những người trộm cướp. Sau một thời gian ép buộc chúng tôi không được, họ quay sang hỏi về Giáo Lý và bắt chúng tôi đọc kinh. Thầy Phaolô Mỹ cắt nghĩa rất hay khiến các quan thích thú và hỏi:
- Ngươi thật vô lý, đã thấy hoả ngục của thế giói mai sau chưa mà hiện giờ đang ihảI khốn khổ trong hỏa ngục tù dầy này. Các người há không có thần chú bùa phép cho bớt đau sao? Các ngươi bị dánh đau hơn tất cả mọi người khác sao không thấy kêu la?”.
- Chúng tôi trả lời rằng chúng tôi chịu đựng mà không rên la để được phần thưởng Dù các quan có` đánh đập hơn nữa hay kết án tử hình, chúng tôi vẫn vui mừng chấp nhận vì đạo Chúa chúng tôi”.
Trong thư Thầy Phaolô Nguyễn Văn Mỹ không kể hết những điều quan tổng đốc Lê Văn Đức đã hạch hỏi về Đạo như đã có lệnh vua cấm sao còn theo đạo. Trong đạo có chuyện làm bùa mê, và các đạo trưởng có tông gian vớI phụ nữ v.v. Thầy Phaolô Mỹ trình bày rành rẽ như sau:
- Bẩm thưa các quan lớn, chúng tôi xả thân cầu đạo, nếu có khoét mắt người nào thì anh em, con cái họ để chúng tôi sống yêu ổn chăng? Trong đạo chúng tôi có chuyện đồi tệ như thế thì còn dạy bảo được ai. Mà nếu chúng tôi đi tu, nếu có ăn ở thể ấy thì vợ chồng người ta cìn để chúng tôi đến nhà mình nữa chăng?
Nghe Thầy Phaolô Nguyễn Văn Mỹ giải thích, các quan không hỏi gì thêm, ra lệnh cho trở về nhà tù.
Hồi đầu ba Thầy bị giam riêng biệt nhau, một thời gian sau các Thầy mới được giam chung trong một nhà tù. Có lần cha Triệu được vào thăm, cha mang Mình Thánh Chúa cho các Thầy. Cha thấy nhà tù hôi thối quá sức, chịu không nổi. Các Thầy thường lần hạt chung với nhau, có lần các Thầy đọc tới 150 kinh.Mân Côi Khi người trong gia đình tới thăm, thầy căn dặn:
1. Anh em hãy ở hoà thuận với nhau trong nhà cũng như ngoài làng. Phải giữ đạo cho sốt sắng như cha mẹ đã dậy dỗ.
2. Phần tôi, khi hành quyết thì anh em hãy lên để anh em mình được nhìn thấy nhau lần sau hết. Sau đó thì đem xác tôi về nhà quê để được ở gần với họ hàng.
3. Về của cải cha mẹ để lại cho tôi thì xin chia hai phần. Một phần anh em giữ lấy, còn một phần nữa thì anh em dâng cúng vào Nhà Chung, vì Nhà Chung đã nuôi dưỡng tôi.Tôi được như ngày nay là nhờ ơn Hội Thánh. Xin anh em cám ơn Chúa giúp tôi.
Trong một lá thư Thầy Phaolô Nguyễn Văn Mỹ viết cho cha Marette Phan tỏ lòng con hiếu thảo và nói lên ý chí quyết một lòng trung thành xưng đạo Chúa tới giờ phút cuối cùng. Thầy viết:
- “Thưa Cha, vì mọi người đều biết con là Thầy Giảng đứng đầu và coi sóc mọi việc trong Nhà Đức Chúa Trời nên họ đã tra vấn, đánh đập con nhiều. Con vui lòng chiụ những khổ nhục dưới thế gian này để tránh hỏa ngục đời đời. Thánh Kinh đã chẳng viết là Chúa sửa phạt đứa con ngài yêu thương? Con vẫn không ngừng xin cho con được ơn bền đỗ theo thánh ý Chúa”.
Mùa thu năm 1838, triều đình có thông lệ xét lạI các vụ án mà không tra hỏi gì thêm. Ngày 17 tháng 12 năm 1838, bản án của vua đến tỉnh. Khi biết tin, Thầy Phaolô Mỹ đang đan thúng liền bỏ đấy để lo dọn mình. Các Thầy vội báo tin cho cha Triệu và hẹn ngày hành quyết sẽ gặp nhau ở san đình quan để lãnh phép xá giải. Thế là 10 giờ ngày 18 tháng 12 năm 1838, 300 lính áp giải ba Thầy ra pháp trường Gò Sỏi cùng với 16 tội nhân khác.
Mỗi tội nhân có 4 lính hình đi theo, một người cầm bản án bằng gỗ đi trước, hai người cầm xích và gông đi hai bên, một người cầm gươm đi sau. Sau cùng là người đáng chiêng và hai sĩ quan cỡi voi. Ba Thầy Giảng, chiến sĩ anh dũng của Đức Tin vui tươi nhịp nhàng bước đi theo đoàn quân lý hình trông thực khiếp sợ. Lâu lâu các Thầy quay lại nhìn những thân nhân yêu qúi lần cuối bằng những nụ cười tin tưởng và hạnh phúc. Trong đám đông, ngưòi ta nghe thấy họ nói với nhau:
- Xem kia! Những dũng sĩ của Chúa Giêsu, các Ngài hiên ngang tiến bước mà chẳng thấy lộ vẻ sỡ chết.
Đoàn người đã tiến tới nơi xử. Đoàn quân hùng mạnh đứng thành vòng tròn chung quanh các tội nhân. Thầy Mỹ và Thầy Truật bị cột vào cọc gần nhau trên những tấm chiếu giáo dân đã trải sẵn. Các Thầy nằm sấp giang hai tay ra và chân thì bị trói vào một cọc khác, sợi giây vòng quanh cổ chờ đợi hiệu lệnh. Lúc ấy vào khoảng một giờ trưa, quan giám sát vừa ban lệnh thì lý hình kéo hai đầu giây thật mạnh, các vị anh hùng đức tin lắc lư cái đầu trong cơn hấp hối kinh hoàng.Các Ngài tắt thở trong sự bình an của Chúa.
Ngay sau đó, thân nhân và giáo dân đã xin các quan nhận xác các Ngài cùng với các đồ vật như xiềng xích, giây thừng, xích sắt, bản án v.v. Chính trong đêm hôm ấy, hai linh mục, hai Thầy Giảng, năm nữ tu và 30 giáo dân đã rước xác về giáo xứ Cao Mại để làm lễ an táng tại đây.
Thánh lễ an táng cử hành rất cảm động, suốt 8 tiếng đồng hồ, 14 cây nến đốt cháy, hương trầm tỏa bay nghi ngút cho tớI 4 giờ sáng thì các cha âm thầm rút lui, trở về nơi hầm trú lánh nạn. Xác các Thầy được an táng trong gian nhà cuối của bà Tín, một bà goá đạo đức trong xứ. Bảy tháng sau thì gia đình, họ hàng Thầy Phaolô Mỹ tới xin rước xác Thầy về an táng ở Kẻ Non, nơi quê hương của Thầy, làm theo lời trối trăng của Thầy.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã suy tôn ba Thầy: THầy Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Thầy Phêrô Trương Văn Đường và Thầy Phêrô Vũ Truật lên bậc Chân Phước ngày 27 tháng 5 năm 1900. Và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng các Ngài lên hàng Hiển Thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Nguồn: Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
- Viết bởi Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Thánh Phêrô Vũ Văn Truật, Thầy Giảng (1817-1838)
- Lễ ngày 18 tháng 12
Thánh Phêrô Vũ văn Truật sinh năm 1817 tại làng Hà Trạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn Sơn Tây. Cậu Phêrô Truật mồ côi cha từ lúc 9 tuổi. Gia đình rất nghèo nên mẹ cậu phải lam lũ rất vất vả để nuôi dưỡng ba con dại. Cậu Truật lại hay ốm yếu, thân xác gầy còm xanh xao trông thật đáng thương.
Tuy thân xác ốm yếu nhưng tinh thần cậu lại mạnh mẽ. Cậu thường xuyên tới nhà thờ đọc kinh cầu nguyện, chăm chú xem lễ sốt sắng. Năm 1831 lúc chú đã 15 tuổi thì Cha Tân là cha xứ Bầu Nọ để ý thấy chú ngoan ngoãn, có lòng đạo đức thì nhận chú vào Nhà Chung lo giúp các việc nhẹ trong Nhà Chung và tạo điều kiện để cậu đi học. Nhưng sau một năm, vì ốm yếu Cha Xứ lạ cho chú về với mẹ, lo làm ăn giúp mẹ.
Tới khi Cha Trạch về coi xứ Bầu Nọ, Cha để ý thấy chú Phêrô Truật lúc nào cũng buồn dầu thì Cha gọi hỏi chuyện rồI biết vì chú không được ở trong Nhà Chung nữa thì mến tiếc, không vui. Cha Trạch biết ý nên lại gọi chú vào cho ở trong Nhà Chung lo việc trong nhà rồi cho đi học tiếp.
Mặc dầu được Cha Xứ tận tình giúp đỡ cho ăn học nhưng trí khôn hơi chậm lại hay đau yếu nên việc học tiến triển không được như mong muốn. Chú chỉ biết đọc biết viết mà thôi. Nhưng bù lại, chú có trí nhớ, học thuộc lòng rất nhanh. Nhờ vậy, chú rất thuộc các kinh và giáo lý. Cha Xứ trao cho chú trách nhiệm dạy kinh và giáo lý cho thiếu nhi và những người tân tòng. Chú thi hành nhiệm vụ rất đáng khen.
Năm 1836 cha Trạch phải đổi đi xứ khác thì chú Phêrô Truật được giao lại cho Cố Marette Phan nuôi và làm việc giúp các việc trong nhà, và trau dồi thêm chữ nghĩa.
Mãi tới khi bị bắt giam trong ngục tù rồi, Đức Cha Havard Du mới ban sắc phong cho chú Phêrô Vũ Văn Truật làm Thầy Giảng. Bây giờ trong tù Thầy Giảng Phêrô Truật không còn cơ hội để rao giảng Tin Mừng bằng lời nói nữa, nhưng Thầy tiếp tục rao giảng bằng lòng tin, bằng đời sống Đức Tin vững mạnh, bằng thái độ trung kiên trước mọi bạo lực cố tình ép buộc Thầy phải bỏ Chúa, phải chối đạo.Những bạn tù sau này là những chứng nhân đều nói rằng Thầy Phaolô Mỹ 40 tuổi, thầy Phêrô Đường 30 tuổi, Thầy Phêrô Truật 21 tuổi đều chịu tra tấn dữ dội.
Đội lính lấy gai tre cột vào roi để đánh cho nát thịt nát da thật ghê sợ.Thầy Phêrô Truật chịu 60 roi. Lúc đầu các quan thấy thân xác ốm yếu của Thầy Truật thì nghĩ rằng chắc chắn Thầy sẽ chịu đòn không nổi và sẽ bỏ đạo, nên các quan không bắt Thầy đeo gông nặng và mang xiềng xích như hai Thầy kia. Nhưng tới khi thấy Thầy Truật hăng hái xưng đạo cách mạnh mẽ thì các quan ngạc nhiên rồi tức giận cũng ra lệnh xiềng xích tay chân và bắt đeo gông nặng nề như Thầy Mỹ và Thầy Đường.
Có lần quan gọi riêng Thầy Truật ra toà rồi khuyên du:
- Mày còn trẻ thế này, chết uổng lắm! Mày hãy bước qua Thập Tự và tuyên bố bỏ đạo thì sẽ được tự do, trở về với mẹ và các em.
Nghe các quan khuyên dụ như thế, Thầy Phêrô Truật hăng hái, lý sự hỏi ngược lại:- Các quan lớn có dám bước lên hình ảnh cha mẹ của các quan không? Sao các quan lớn lại xúi dại tôi làm những việc vô lễ, thất đức với Thiên Chúa là Chúa, là Cha của tôi như vậy? Dù có phải chết thì cũng không bao giờ tôi làm như vậy.
Các quan nổi giận quát mắng:
- A, thằng này bướng bỉnh lại còn dậy khôn chúng tao hả Tội bay đáng chết vì đã coi thường lệnh vua lại còn ngoan cố lý s ự v ới các quan. Tội này phải chết. Đem nhốt vào tù, Đánh chết nó đi!
Thế là Thầy Phêrô Truật lại bị một trận đòn dừ tử rồi lại bị khiêng nhốt về nhà tù. Tới khi tỉnh lại, Thầy vẫn vui vẻ vì được chịu đòn đánh đau đớn vì đạo Chúa, rồi lại hăng hái khuyên bảo những bạn cùng bị giam tù cũng như những người tới thăm phải bền chí, vững lòng giữ đạo. Hãy luôn tin cậy Chúa và cầu nguyện với Chúa. Chớ nghe những người đã bỏ đạo mà bỏ Chúa rồi thờ cúng dối trá. Cha Triệu cũng lén vào thăm các Thầy và cho các Thầy rước lễ được một vài lần. Thầy cũng viết thư từ biệt Cố Marette Phan. Lời lẽ đơn sơ và chân thành như sau:
”Tháng 9 năm 1838, Thưa Cố! Con mọn là Phêrô Vũ Văn Truật xin dâng Cố ngàn vạn lạy. Con thật sung sướng được Chúa tiền định cho ơn phúc tử đạo. Con rất thành thật nói như thế, không phải để khoe khoang trước mặt Cố là người xét xử phải trái.
Con không có ân hận vì phải từ bỏ cuộc sống này. Con chỉ buồn có một điều là cha con mình phải xa nhau. Trước đây con còn được ở bên Cố để giúp việc cho Cố, bây giờ con phải xa, mỗi người ở một nơi! Có ai ngờ rằng Cố và các Thầy và chúng con phải phân tán vì cơn bão táp như ong vỡ tổ, như bầy chim lạc đàn bay trong rừng núi! Có lẽ Thiên Chúa đã cho xẩy ra như thế để sửa phạt những lầm lỗi của chúng ta. Con biết chỉ trong ít ngày nữa con mọn của Cha sẽ chấm dứt cuộc đời ở dưới thế.
Xin xin muôn vàn cám đội ơn Cha đã thương ban cho con chức Thầy Giảng, mặc dầu con biết mình thật không xứng đáng, con không dám nhận nhưng con chỉ vâng theo lòng tốt lành của các đấng Bề trên thương ban mà thôi. Con chẳng dám làm Thầy ai vì biết mình hèn hạ dốt nát. Xin Cố thêm lời cầu nguyện cho con để con bền vững theo Chúa tới cùng. Con mọn xin từ biệt Cố trước.
Đọc lại những dòng chữ đơn sơ, mộc mạc này của Thầy Phêrô Truật, chúng ta thấy đời sống Thầy tuy ít học nhưng Thầy rất khiêm nhường, thánh thiện. Thầy có một lòng tin sắt đá nơi Chúa và một ý chí quyết tâm dâng hiến sự sống của mình cho Chúa. mặc dầu đòn vọt, tra tấn đau đớn đã chết ngất đi nhiều lần, nhưng người chiến sĩ Đức Tin trẻ tuổi này không hề nao núng, không hề sợ hãi, một luôn vui mừng mong chờ giây phút được dâng hiến trọn vẹn cuộc sống của mình cho Chúa bằng sự lãnh nhận án tử hình để trở nên nhân chứng sống động cho đạo thánh Chúa.
Cũng như chuyện của hai thánh Thầy Giảng Phalô Mỹ và Phêrô Đường đã nói ở trên, mùa Thu năm 1838, triều đình cho xét lại các bản án và truyền lệnh xuống phải xử giảo cả ba Thầy. Khi án lệnh về tới Tây Sơn, quan giám sát và Cại đội coi tù vào báo tin và khuyên dụ Thầy Truật:
- Mày còn trẻ mà liều mình bỏ mất các thú vui đời này để mê theo những lời hứa hẹn vu vơ đưa tới cái chết như thế này thì thật là dại dột và đáng thương. Mày nghe theo chúng tao thì được sống.
Thầy Phêrô Truật thẳng thắn thưa lại:
- Người nào chịu chết vì đạo, vì Chúa thì chắc chắn sẽ được phúc thật trên trời. Sao các quan lại bảo tôi là dại dột?
Quan giám sát nghe Thầy nói thì lắc đầu, không nói thêm điều gì nữa. Riêng Thầy Truật thì tỏ vẻ vui mừng, chờ đội.Những nhân chứng có mặt, theo đoàn quân quan áp giải các Thầy ra pháp trường đều kể lại rằng, trên đường tiến ra pháp trường Thấy Phêrô Vũ Văn Truật tươi vui, không tỏ ra sợ hãi mà nét mặt còn hớn hở nhìn đám đông như muốn tìm kiếm ai. Khi Thầy nhận ra Cha Triệu đang chen chúc giữa đám đông giơ tay lên thì Thầy cúi đầu lãnh nhận phép giải tội cuối cùng.
Sau đó Thầy tiếp tục đi những bước đi vững chắc, nét mặt hân hoan thanh thản. Những người trong đám đông theo sau nhìn thấy Thầy Truật, một thanh niên 21 tuổi đời, trắng trẻo, tươi vui, không tỏ ra dấu gì sợ chết, người ta đã sửng sốt la lên:
- Thật tiếc quá! Một thanh niên trẻ tuổi, dễ thương như vậy mà phải chết, thật anh hùng thật!
Đoàn quân hùng hậu giờ này đã đi tới pháp trường. Ba chiến sĩ Đức Tin hiên ngang đứng sát bên nhau chờ đợi giờ hành quyết. Hơn 300 lính đứng thành vòng tròn, vây quanh các Thầy. Giáo dân dân đã giải sẵn ba chiếc chiếu nơi các Nhân Chứng của Chúa sẽ bị xử. Các Nhân Chứng Đức Tin dũng cảm quì cậu nguyện và nhìn Cha Triệu để lãnh nhận bí tích giải tội. Sau đó, đội lý hình tháo gông, xiềng xích v.v.
các Ngài nằm úp mặt xuống trên mấy chiếc chiếu đã giải sẵn. Lý hình kéo hai tay Thầy Truật trói vào hai cọc, các ngón chân cái được cột chặt lại với nhau rồi lý hình lại kéo tới sát một chiếc cọc khác trói thật chắc vào cọc này.
Có hai cọc lớn ở hai bên để cột hai đầu giây thắt cổ, ở giữa có nút thòng lòng mắc vào cỗ tử tội. Người Cai Đội cầm bản án đi tới trước mặt tội nhân, đợi khi hành quyết thì cắm xuống đầu tội nhân. Mỗi hai đầu giây có hai lý hình theo lệnh chiêng trống vang lên, quan ra hiệu thì kéo thật mạnh, kéo đi kéo lại cho tới khi tử tội vọt máu nơi mũi, nơi miếng và tắt thở. Khi tử tội đã chết thì lý hình đốt hai đầu ngón chân xem đã chết thật chưa.
Mọi sự đã hoàn tất, quan quân lũ lượt kéo nhau trở về, Giáo dân xứ Bạch Lộc tới xin xác ba Đầy Tớ Trung Kiên của Chúa rước về Kẻ Máy, nơi có Cố Marette Phan và hai linh mục cùng đông đảo giáo dân đang âm thầm chờ đợi để làm lể an táng cho các Thầy. Trong đêm tối âm u, quạnh quẽ. Bầu trời không phẳng lặng, không trăng sao, gió đổ về hơi lành lạnh. Cuộc lễ an táng ba Thầy được âm thầm cử hành trong đêm tối, không trăng sao và gió lạnh… Mãi tới gần 5 giờ sáng, ba Thầy mới được chân cất trong mảnh đất nhà bà Tín, một tín hữu sốt sắng, nhiềt thành, đã từng có nhiều dịp giúp đỡ các Thầy.
Tới khi việc cấm đạo và bắt bớ yên ổn thì giáo dân đã xin cải táng các Ngài và rước về đặt tại nhà thờ Kẻ Máy. Khi chuẩn bị lập hồ sơ xin phong thánh thì cố Đông lại đem xác Thầy Phêrô Vũ Văn Truật về Kẻ Sở cho tớI ngày nay.Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã suy tôn Thầy Phêrô Vũ Văn Truật lên bậc Chân Phước ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Nguồn: Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Olympias
- Lễ ngày 17 tháng 12.
Thánh Olympias thuộc dòng dỏi quý tộc, giàu có, vợ của quan tổng trấn thành Constantinople. Sau khi chồng qua đời, bà còn trẻ nên tất cả tài sản được nhà vua Theodosius quản lý cho đến năm 30 tuổi. Trong thời gian đó có nhiều người quyền quý muốn kết hôn với bà, nhưng bà quyết liệt từ chối vì bà đã có ý nguyên dâng mình làm việc Chúa.
Ðến năm 391, nhà vua giao tài sản lại cho bà. Bà đã dùng tất cả tài sản giúp đỡ Giáo Hội Constantinophe dưới quyền lãnh đạo của thánh Gíáo Phụ Chrysostom. Dưới sự hướng dẫn của thánh Chrysostom, bà đã xây nhiều bệnh viện giúp những người đau ốm, lập những nhà nuôi trẻ mồ côi. Ðể tiến hành công việc từ thiện bà đã mời gọi những mệnh phụ và cùng với các bà đồng chí hướng thành lập những Hội Dòng Tu trì.
Vào năm 404, đồng bọn Arsacius tiếm chức Giáo Phụ Constantinople nhờ vào sự trợ giúp của Tổng trấn Optatus và chúng đã lưu đày thánh Chrysostom. Bà cương quyết phản đối và không thừa nhận Arsacius là Giáo Phụ. Ðồng bọn Arsacius nhờ Optatus giải tán các Hội Dòng mà bà đã lập ra và chấm dứt công việc từ thiện của bà. Chúng lưu đày bà đến Nicomedia.
Sau những năm cuối đời bà bị bệnh tật đau đớn, và bị ngược đãi nhưng bà vẫn tìm được niềm an uỉ và hy vọng nhờ vào những lời khuyên nhủ của Thánh Chrysostom qua thư từ. Hiện nay chúng ta có dược 17 bức thư mà thánh Chrysostom đã gởi cho bà với những lời khuyên nhủ và nâng đỡ tinh thần bà. Trong thư thánh nhân không hề than thân trách phận cũng như không than vãn hoàn cảnh khốn khổ của mình.
“Bà thực là anh hùng, một gương sáng cho những người chung quanh, bà thật là một người rất nhẫn nại và đầy ơn Chúa. Bà đã cầu nguyện và yêu thương những kẻ đã bách hại mình.”