Gương Thánh Nhân
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Phaolô Ẩn Tu (233 - 345) Ngày 15.1
Trong thời kỳ bách hại của vua Decius ở Ai Cập năm 250, ngài buộc phải trốn tránh trong nhà của một người bạn, nhưng cái êm đềm của sự cô quạnh và cái sung sướng của sự chiêm niệm đã khiến ngài thay đổi ý định ban đầu, tiếp tục sống ở đó trong 90 năm.
Những gì chúng ta thực sự biết về cuộc đời Thánh Phaolô Ẩn Tu thì không rõ đó có phải là dữ kiện hay truyền thuyết.
Ðược biết ngài sinh ở Ai Cập, là nơi ngài mồ côi cha mẹ khi 15 tuổi. Ngài còn là một thanh niên có học thức và đạo đức. Trong thời kỳ bách hại của vua Decius ở Ai Cập năm 250, ngài buộc phải trốn tránh trong nhà của một người bạn. Sau đó sợ rằng người anh rể của mình sẽ đi tố cáo, ngài trốn vào sa mạc và ở trong một cái hang. Dự định của ngài là sẽ trở về nhà sau khi việc bách hại chấm dứt, nhưng cái êm đềm của sự cô quạnh và cái sung sướng của sự chiêm niệm đã khiến ngài thay đổi ý định ban đầu.
Ngài tiếp tục sống ở đó trong 90 năm. Nước uống thì ngài lấy từ con suối gần đó, thức ăn và vải che thân ngài lấy từ cây chà là. Sau 21 năm sống trong cô độc có một con chim hằng ngày đem cho ngài nửa ổ bánh. Trong cuộc sống tĩnh mịch đó ngài cầu xin cho thế giới được tốt đẹp hơn.
Thánh Antôn làm chứng cho cuộc đời và cái chết thánh thiện của Thánh Phaolô Ẩn Tu. Bị cám dỗ cho rằng mình là người đầu tiên phụng sự Thiên Chúa nơi hoang dã, Thánh Antôn xin Thiên Chúa soi sáng để được biết điều ấy và ngài đã tìm thấy Thánh Phaolô, và thú nhận rằng Thánh Phaolô còn tuyệt hảo hơn ngài. Và chính Thánh Antôn là người đã chôn cất Thánh Phaolô Ẩn Tu, lúc ấy ngài được 112 tuổi và được coi là vị Ẩn Tu Ðầu Tiên.
Ngày lễ kính nhớ ngài được cử hành trong Giáo Hội Ðông Phương và ngài còn được nhắc đến trong nghi thức phụng vụ của Giáo Hội Coptic và Armenia.
Lời Bàn
Thánh ý và đường hướng của Thiên Chúa được thấy trong mọi hoàn cảnh của đời sống. Ðược hướng dẫn bởi ơn sủng của Thiên Chúa, chúng ta có tự do để đáp lại lời mời gọi của Ngài qua những chọn lựa nhằm đưa chúng ta đến gần Chúa hơn, và giúp chúng ta lệ thuộc nhiều hơn vào Thiên Chúa, là Ðấng đã dựng nên chúng ta. Có khi những lựa chọn ấy dường như tách biệt chúng ta khỏi người thân quen. Nhưng thực sự, chúng lại đưa chúng ta gần với nhau trong lời cầu nguyện và trong tình bằng hữu.
Suy niệm hạnh Thánh Phaolô Ẩn Tu
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Macrina là bà nội của Thánh Basil Cả, bà và chồng đã phải trả một giá rất đắt khi theo Đức Kitô.
Thánh Macrina là bà nội của Thánh Basil Cả mà chúng ta mừng kính vào ngày 2-1. Dường như Thánh Macrina đã nuôi dưỡng Thánh Basil Cả và khi lớn lên thánh nhân đã không ngớt lời ca tụng công việc lành phúc đức của bà nội. Ðặc biệt, thánh nhân đã nhắc đến việc giáo dục đức tin của bà khi thánh nhân còn nhỏ.
Thánh Macrina và chồng đã phải trả một giá rất đắt khi theo Ðức Kitô. Trong thời kỳ bách hại của các hoàng đế La Mã Galerius và Maximinus, hai ông bà đã phải đi trốn. Họ tìm thấy một nơi ẩn náu trong rừng gần nhà. Bằng cách nào đó, họ đã thoát khỏi sự bách hại.Họ luôn luôn bị đói khát và lo sợ nhưng không mất đức tin. Họ đã kiên nhẫn chờ đợi và cầu nguyện để chấm dứt sự bách hại. Và cuộc bách hại này đã chấm dứt sau bảy năm dài. Thánh Gregory Nazianzen có ghi lại các chi tiết này.
Trong một cuộc bách hại khác, Thánh Macrina và chồng bị mất tất cả tài sản. Họ không còn gì ngoại trừ đức tin và lòng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Người ta không biết chính xác Thánh Macrina từ trần năm nào, họ phỏng đoán năm 340, và cháu nội của thánh nữ là Thánh Basil Cả từ trần năm 379.
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Tôi Tớ Thiên Chúa, Gioan Người Làm Vườn (14-01)
Lược sử
Gioan sinh trong một gia đình nghèo ở Portugal. Vì mồi côi cha mẹ từ nhỏ, nên trong nhiều năm ngài phải gõ cửa từng nhà để xin ăn. Sau khi tìm được công việc chăn cừu ở Tây Ban Nha, ngài chia sẻ đồng lương ít ỏi cho những người nghèo đói hơn ngài.
Một ngày kia, hai vị tu sĩ Phanxicô gặp ngài trên đường. Sau khi trao đổi một vài câu chuyện, họ thấy cảm mến con người đơn sơ này nên đã mời ngài đến và làm việc tại tu viện của họ ở Salamanca. Ngài hăng hái nhận lời và được giao cho công việc giúp đỡ các thầy trông coi vườn tược. Sau đó không lâu, chính ngài trở thành một tu sĩ Phanxicô, sống đời cầu nguyện, chiêm niệm, liên tục ăn chay, và giúp đỡ người nghèo. Vì ngài làm việc trong vườn và những bông hoa ngài trồng để trưng bầy bàn thờ nên người ta thường gọi ngài là "thầy làm vườn."
Thiên Chúa ban cho ngài ơn tiên tri và khả năng biết được tâm hồn người khác. Các nhân vật quan trọng, kể cả các hoàng thái tử đều đến với con người khiêm tốn, luôn luôn vâng phục này để xin khuyên bảo. Một trong những lời khuyên bảo nổi tiếng của ngài là hãy tha thứ những xúc phạm, vì đó là việc đền tội đẹp lòng Thiên Chúa nhất.
Ngài từ trần ngày 11-1-1501, là ngày ngài đã tiên đoán.
Suy niệm 1: Xin ăn
Gioan sinh trong một gia đình nghèo ở Portugal. Vì mồi côi cha mẹ từ nhỏ, nên trong nhiều năm ngài phải gõ cửa từng nhà để xin ăn. Sau khi tìm được công việc chăn cừu ở Tây Ban Nha, ngài chia sẻ đồng lương ít ỏi cho những người nghèo đói hơn ngài.
Không phải chỉ mồ côi như Gioan, mà khi sa cơ thất thế như Đavít cũng phải xin ăn. Một sự thật phủ phàng người xin ăn thường gặp phải, đó là bị hất hủi và bị từ chối. Trước tình thế đó, một người xin ăn có căn bản đạo đức phải xử trí làm sao?
Thoạt đầu Đavít có phản ứng tự nhiên là muốn giết chết Navan, nhưng vị nể bà Avigagin và nhất là kính sợ Chúa nên Đavít ngừng tay (1Sm 25,34). Còn người hành khất Ladarô thì thà chấp nhận chết đói, chứ không làm bất cứ điều gì phi pháp (Lc 16,22).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn rộng lòng bố thí, vì “việc bố thí nào cũng được Chúa ân thưởng” (Hc 16,14) là “sẽ chẳng hề túng thiếu bao giờ” (Tb 28,27). Thà bị mắc lừa khi bố thí, chứ đừng sợ bị lầm để không bố thí.
Suy niệm 2: Gặp gỡ
Một ngày kia, hai vị tu sĩ Phanxicô gặp Gioan trên đường. Sau khi trao đổi một vài câu chuyện, họ thấy cảm mến con người đơn sơ này nên đã mời ngài đến và làm việc tại tu viện của họ ở Salamanca.
Quả là một cuộc gặp gỡ tuyệt vời. Cuộc hạnh ngộ này đã giúp Gioan từ một người giáo dân trở thành một tu sĩ dòng Phanxicô. Cũng thế Philípphê gặp được Đức Giêsu và được trở nên tông đồ của Ngài, để rồi sau đó gặp thấy Nathanaen và giúp vị này trở thành huynh đệ đồng môn (Ga 1,43.45).
Còn chẳng may Giuđa Ítcariốt gặp phải người xấu nên đã biến thành một tên phản bội (Mt 26,14). Cũng như có số người Dothái xấu đã đến gặp các thượng tế và kỳ mục đồng hội đồng thuyền để âm mưu hãm hại Phaolô (Cv 23,14).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tỉnh táo, để biết chọn lấy các cuộc gặp gỡ lành thánh, và cương quyết tránh các cuộc gặp gỡ tai hại.
Suy niệm 3: Làm vườn
Vì Gioan làm việc trong vườn và những bông hoa ngài trồng để trưng bầy bàn thờ nên người ta thường gọi ngài là "thầy làm vườn."
Thầy làm vườn, một danh xưng thật khiêm tốn nhưng cũng thật xứng hợp với một con người rất khiêm tốn là thầy Gioan. Lòng khiêm tốn của thầy đã được thể hiện qua việc thầy hết mình chu toàn bổn phận của mình, giữa bao anh em trong cộng đoàn dòng tu với những trọng trách cao cả hơn.
Một nữ tu trẻ tuổi thuộc dòng Camêlô thường được gọi là "Bông Hoa Nhỏ" cũng đã từng phụ trách việc làm vườn trong tu viện ở Lisieux, nước Pháp. Ngài đã biết dùng vị trí khiêm tốn ấy để tiến bước trên đường hoàn thiện, và được tuyên phong thánh tiến sĩ cũng như bổn mạng các xứ truyền giáo, đó là thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận thức được rằng: xuất xứ thấp kém không đáng kể cho bằng đích điểm phải đạt tới.
Suy niệm 4: Tiên tri
Thiên Chúa ban cho Gioan ơn tiên tri và khả năng biết được tâm hồn người khác. Ngài từ trần ngày 11-1-1501, là ngày ngài đã tiên đoán.
Một đặc điểm của ơn tiên tri là lời tiên báo về tương lai phải xác thực, như lời tiên đoán của tôi tớ Chúa Gioan về ngày ngài từ trần, cũng như lời tiên tri của Simêôn về trường hợp của Đức Giêsu và của Đức Maria (Lc 2,34-35).
Đồng thời ơn tiên tri phải được sử dụng để giúp ích cho tha nhân. Cha thánh Gioan Maria Vianê là một điển hình. Vào năm 1853, thiếu nữ Rosine Bossan đến xin ngài ban phép lành vì sắp kết hôn. Ngài cho hay nếu vậy thì vô phúc, muốn được phúc thì phải vào dòng tu, vì sẽ chết khi chưa được 50 tuổi. Quả thật, Rosine đã qua đời cách lành thánh, khi được 49 tuổi 1 tháng 5 ngày, trong khi làm giáo tập dòng Thăm Viếng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ làm tiên tri giả kẻo hại mình hại người, như bao ngôn sứ giả thời vua Akháp (1V 22,6).
Suy niệm 5: Khuyên bảo
Các nhân vật quan trọng, kể cả các hoàng thái tử đều đến với con người khiêm tốn, luôn luôn vâng phục này để xin khuyên bảo.
Lời khuyên bảo có tốt, có hay và có đúng bao nhiêu đi nữa, thì dầu sao cũng chỉ là vật ngoại thân. Điều quan trọng là người nghe có thực hiện hay không mà thôi. Thật vậy chàng thanh niên giàu có vốn đầy thiện chí muốn được sự sống đời đời, nhưng không làm theo lời khuyên dạy của Đức Giêsu thì cũng vô ích (Mt 19,22).
Tướng quân Naaman suýt chút nữa là không được chữa khỏi bệnh phong hủi, do ông tự ái không chịu xuống sông Giođan tắm bảy lần như lời khuyên bảo của tiên tri Êlisa. May thay cuối cùng ông hạ mình nghe lời khuyên của các tôi tớ và làm theo lời chỉ dạy của tiên tri Êlisa nên được lành bệnh (2V 5,9-14).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi lòng tạc dạ lời cổ nhân: “Người trẻ nghèo mà khôn thì hơn ông vua già mà dại vì không còn biết đón nhận lời khuyên” (Gv 4,13), vì thế “chớ coi thường bất cứ lời chỉ giáo nào hữu ích” (Tb 4,18).
Suy niệm 6: Đền tội
Một trong những lời khuyên bảo nổi tiếng của Gioan là hãy tha thứ những xúc phạm, vì đó là việc đền tội đẹp lòng Thiên Chúa nhất.
Có tội thì phải đền, đó là lẽ thường tình. Việc hối nhân đọc một số kinh theo lời chỉ dạy của Cha giải tội chẳng qua là để hoàn thành thủ tục theo luật Giáo Hội. Tốt nhất, hối nhân không chỉ dừng lại ở việc đọc kinh, mà nên tự nguyện làm thêm một số việc lành phúc đức, như để bù đắp lỗi lầm đã phạm.
Do đó Cựu Ước có quy định việc dâng lễ vật đền tội xứng hợp với từng loại tội (Lv 5,6-7). Việc bố thí cũng có hiệu năng đền bù tội lỗi (Hc 3,30). Riêng tội lỗi đức công bình chỉ được xóa sạch, khi việc đọc kinh được kết hợp với việc hoàn trả cân xứng (Tb 2,13).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu và thực hiện điều này: Việc đền tội thật lòng còn đòi hỏi phải chừa bỏ tội lỗi và không tái phạm (Hc 34,26).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Viết bởi Hạnh các Thánh
HẠNH CÁC THÁNH THÁNG GIÊNG
MỤC LỤC
Ngày 1 tháng 1 THÁNH MARIA, ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI
Ngày 2 tháng 1 THÁNH BA- XI - LI- Ô CẢ VÀ THÁNH GHÊ-GÔ-RI-Ô NA-DI-AN Giám mục tiến sĩ
Ngày 7 tháng 1 THÁNH RAY- MÔN - DÔ PÊ - NHA - PHO Linh mục
Ngày 13 tháng 1 THÁNH HILARIÔ Giám mục tiến sĩ
NGÀY 13 THÁNG 1 Thánh Đa minh Khảm,Giuse Tả và Luca Thìn.
Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ
Ngày 20 tháng 1 Thánh PHABIANÔ, Giáo hoàng tử đạo. Thánh SÊBÁTTINÔ, quân nhân tử đạo.
Ngày 21 tháng 1 THÁNH A - NÊ Trinh nữ tử đạo.
Ngày 22 tháng 1 THÁNH VINH SƠN Phó tế tử đạo
* NGÀY 22 THÁNG 1 Thánh Mát-thêu Đậu và Phan-xi-cô Tế
Ngày 24 tháng 1 THÁNH PHANXICÔ ĐƠXAN Giám mục tiến sĩ
Ngày 25 tháng 1 THÁNH PHAO-LÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI
Ngày 26 tháng 1 THÁNH TI-MÔ-TÊ VÀ TI-TÔ Giám mục
Ngày 27 tháng 1 THÁNH AN-GIÊ-LA MÊ-RI-SI Trinh nữ
Ngày 28 tháng 1 THÁNH TÔ MA A QUI NÔ Linh mục tiến sĩ
NGÀY 28 THÁNG 1 THÁNH TÔMA KHUÔNG Linh mục tử đạo.
Ngày 31 tháng 1 THÁNH GIOAN BỐT-CÔ Linh mục
Ngày 1 tháng 1
THÁNH MARIA, ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI
Hội Thánh chọn ngày đầu năm dương lịch hôm nay để mừng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và cầu cho hoà bình thế giới.
Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn cưu mang và sinh Con của Người: “ Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse thuộc nhà Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria ” Sứ thần nói:
- “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây, bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai,và đặt tên là Giêsu, Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. ( Lc 1, 28-32 ).
Mẹ Maria đã sinh ra Chúa Giêsu là “ Con Đấng Tối Cao ” và cũng là Thiên Chúa, nên Mẹ cũng là Mẹ Thiên Chúa. Bà Ê-li-sa-bết là người trước tiên tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa khi Mẹ đến viếng thăm gia đình bà.:
- “ Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy ? vì này đây,tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng ” (Lc 1,43-44).
Năm 431, Cộng đồng chung Êphêxô xác quyết Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, khi Nết-tô-ri-ô bác bỏ tước hiệu quan trọng này của Đức Mẹ.
Tiếp lời bà Êlisabeth, thánh giám mục Anataxiô cũng khẳng định: “ Ngôi Lời đã nhận lấy dòng giống Apraham, nên phải nên giống anh em mình trong mọi sự, như thánh Tông Đồ nói , và cũng phải nhận lấy thân xác của chúng ta. Vì lẽ đ, phải có Đức Maria, để từ nơi Đức Mẹ, Người nhận lấy thân xác ấy và dâng nó như là của riêng Người, để cho chúng ta đươc nhờ. Kinh Thánh nhắc đến việc Đức Maria sinh nở và nói : Đức Mẹ lấy khăn bọc Người. Vú đã cho Người bú được gọi là diễm phúc. Và có việc dâng lễ vật như thể Người là con đầu lòng”
Và gần đây nhất, thánh Công đồng Va-ca-ti-nô II một lần nữa xác nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa Cứu thế và cũng là Mẹ Thiên Chúa: “ Khi sứ thần truyền tin, Đức Trinh Nữ Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và trong thân xác và đem sự sống đến cho thế gian, Ngài được công nhận là MẸ THẬT CỦA THIÊN CHÚA VÀ CỦA ĐẤNG CỨU THẾ. Được cứu chuộc cách kỳ diệu hơn nhờ công nghiệp Con của Ngài và hiệp nhất mật thiết bền chặt với Con, Đức Maria đã lãnh nhận nhiệm vụ và vinh dự cao cả là được làm MẸ CON THIÊN CHÚA, do đó làm ÁI NỮ của Chúa Cha và Cung Thánh của Chúa Thánh Thần”. (LG.53)
Để mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cách long trọng trong toàn thể Hội Thánh, Đức Thánh Cha Piô XI đã lập lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Ngài nói: ”Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mạch nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra muôn vàn đặc ân cho Đức Mẹ, và nâng Ngài lên địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa ” . Và năm 1962, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã chọn lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa làm ngày khai mạc cho Cộng đồng chung Va-ti-ca-nô II.
Như thế, việc tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã xuất hiện từ lâu đời trong Hội thánh và được các Đức Giáo Hoàng tôn trọng đặc biệt.
Chúng ta mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa để suy tôn chức vị cao cả của Mẹ, đồng thời cũng để nhớ chúng ta có một người Mẹ tuyệt hảo bên cạnh Thiên Chúa. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ của chúng ta, vì Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ làm Mẹ chúng ta qua Thánh Gioan, và vì chúng ta là chi thể của Con Mẹ . Đức Mẹ đã thương yêu chăm sóc Chúa Giêsu thế nào,thì cũng thương yêu cứu giúp chúng ta như vậy. Chúng ta cần chạy đến kêu xin Đức Mẹ hằng ngày, nhất là trong những cơn gian nan khốn khó.
Hôm nay, Hội thánh cũng kêu gọi toàn thể tín hữu cầu nguyện cho hoà bình thế giới, vì là ngày đầu năm, nhất là vì Đức Mẹ sinh ra CHÚA GIÊSU LÀ VUA HOÀ BÌNH,với tiếng hát cầu chúc bính an của các thiên sứ: Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương.
* Quyết tâm: Hết lòng tôn kính Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ chúng ta. Và hằng ngày chạy đến cậy nhờ Mẹ cầu bàu cùng Chúa cho chúng ta. Đặc biệt xin Mẹ phù hộ cho chúng ta được sống bình an hạnh phúc đời này và đời sau.
* Lời nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, ngày Đức Trinh nữ Maria sinh hạ Đấng Cứu Thế. Chúa đã tặng ban cho nhân loại kho tàng ơn cứu độ muôn đời.Xin cho chúng con được nhờ lời Đức Mẹ nguyện giúp cầu thay, vì chính nhờ Đức Mẹ, chúng con mới xứng đáng nhận lãnh nguồn sức sống vĩnh cửu, là Đức Giêsu-Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Ngày 2 tháng 1
THÁNH BA- XI - LI- Ô CẢ
VÀ THÁNH GHÊ-GÔ-RI-Ô NA-DI-AN
Giám mục tiến sĩ
* Gương thánh nhân.
Thánh Baxiliô được mọi người tặng cho danh hiệu là Baxiliô Cả vì đời sống thánh thiện đặc biệt và sự nghiệp lớn lao của ngài, như lời thánh Giêgôriô Nadian là bạn thân của ngài khen ngợi: Baxiliô trổi vượt trên tuổi tác về nhân đức, học vấn. Ngài đã là nhà hùng biện trước khi học khoa hùng biện, là triết gia trước khi học môn triết, là linh mục trước khi lãnh chức linh mục.
Thánh nhân sinh năm 330 tại Cê-sa-rê, nước Thổ Nhĩ Kỳ, trong một gia đình đạo đức thánh thiện nổi tiếng: cha ngài là thánh Ba-xi li-ô, mẹ ngài là thánh Ê-mi-li-a.
Lúc nhỏ, ngài được người bà là thánh Mác-Ri-Na dạy dỗ huấn luyện đàng nhân đức, nên khi lớn lên, ngài sống đạo đức trỗi vượt hơn mọi người.
Năm lên 23 tuổi, thánh nhân đến học triết và khoa hùng biện tại A-tê-na. nơi đây ngài hân hạnh gặp và kết bạn với thánh Ghê-gô-ri-ô Na-di-an. Chính thánh Ghê-gô ri-ô thuật lại cuộc gặp gỡ và tình bạn sâu đậm này: “ Lúc ấy,chúng tôi gặp nhau tại A-tê-na, như một dòng sông từ một nguồ chia ra nhiều ngã. Ba-xi-li-ô và tôi vì ham học đã xa lìa đến những miền khác nhau, nhưng thực sự chính Thiên Chúa đã thúc giục như vậy ”.
Cả hai chúng tôi chỉ có một thao thức; đó là tiến đức và hướng về hy vọng đời sau, để tuy chưa ra khỏi đời này, chúng tôi cũng đã xa lìa nó rồi. Chúng tôi định hướng cuộc đời và mọi hoạt động theo viễn tượng đó. Chúng tôi sống theo luật Chúa và thúc đẩy nhau tiến đức; và nếu không sợ bị coi là quá kiêu căng, thì tôi có thể nói được rằng, cả hai chúng tôi trơ nên mẫu mực cho nhau để phân biệt điều phải điều trái.
Sau khi học xong các môn phần đời, thánh nhân tiếp tục nghiên cứu Thánh Kinh và tác phẩm các giáo phụ. Ngái rất say mê việc học hỏi này, vì nó đem lại cho ngài nhiều lợi ích thiêng liêng, thích hợp với lý tưởng đời ngài.
Năm lên 27 tuổi, thánh nhân trở lại quê nhà. Trong thời gian ở đây, ngài gần như bị lôi cuốn theo danh vọng giàu sang ở đời, do những thành công trong nghề biện hộ sư của ngài. Nhưng nhờ người chị là thánh nữ Mác - Ri-Na khuyên bảo nhắc nhở, ngài quyết định dâng hiến đời mình cho Chúa.
Thánh nhân đi thăm viếng và tìm hiểu các tu viện rồi thành lập nhiều đan viện tại Pon-tô. Từ đó thánh nhân chôn mình trong đan viện. Hằng ngày, lo cầu nguyện, ăn chay, viết sách tu đức và soạn luật dòng. Hai bộ luật dòng của ngài rất nổi tiếng và phần lớn còn được áp dụng đến ngày nay.
Năm 346, thánh nhân được chịu chức linh mục, và năm 370, khi Đức Giám mục Eu-sê-bi-ô ở Cê-sa-rê qua đời, ngài được chọn lên thay thế. Ngài phải đương đầu với lạc giáo A-ri-ô, là những người chối bỏ thiên tính của Chúa Giêsu, lúc đó đang lan tràn khắp nơi. Để ngăn chặn, ngài viết nhiều tác phẩm bảo vệ thiên tính của Chúa Giêsu.
Vì đời sống khổ hạnh và vì quá nhiệt tâm lo bảo vệ đức tin cho đoàn chiên, thánh nhân ngày càng kiệt sức và qua đời ngày 1 tháng giêng năm 379.
Thánh Ghê-gô-ri-ô Na-di-an là một nhà thần học nổi tiếng và là bạn thân của thánh Ba-xi-li-ô Cả.
Thánh nhân sinh năm 329, tại Cấp-pa-đốt, nước Thổ Nhĩ Kỳ trong một gia đình danh giá, nhưng người cha ngoại đạo. Nhờ lời cầu nguyện và gương mẫu thánh thiện của mẹ ngài mà cha ngài trở lại đạo, và sau được làm Giám mục Giáo phận Na-di-an.
Lúc còn nhỏ, thánh nhân được mẹ chăm sóc dạy dỗ đàng đức hạnh, nên khi lớn lên, ngài rất đạo đức sốt sắng, lòng luôn mong ước sống với Chúa, vì Chúa.
Năm 21 tuổi Thánh nhân đáp tàu sang A-tê-na để hoàn tất chương trình học vấn. Chính nơi đây, ngài gặp thánh Ba-xi-li-ô Cả, và hai người kết bạn thân với nhau, không những để giúp nhau học hành, mà còn tương trợ nhau tiến tới trên đàng nhân đức trọn lành: “ Cả hai chúng tôi chỉ có một thao thức : đó là tiến đức và hướng về hy vọng đời sau”. Đây thật là tình bạn chân thành tốt đẹp, đến nay vẫn còn được mọi người ca tụng và nêu gương sáng cho tất cả những ai muốn tìm bạn hữu cho đời mình.
Sau khi học xong, thánh nhân từ giã bạn, trở về với cha mẹ. Ngài phụ giúp cha ngài lúc đó đang làm Giám mục giáo phận Na-di-an. Mặc dầu tận tụy giúp cha già trong việc cai quản giáo phận, nhưng lòng ngài vẫn mơ ước sống đời ẩn dật, xa lánh thế gian. Vì thế, ngài đã xin phép cha đến gặp thánh Ba-xi-li-ô đang ở tại dan viện Pon-tô. Nhưng ngài chỉ sống ở đây được một thời gian ngắn thì cha ngài gọi ngài về dạy dỗ, hướng dẫn và phong chức linh mục cho ngài năm 362. Lúc đó, ngài đã hơn 35 tuổi và cha ngài tuổi đã chín mươi.
Năm 380, giữa lúc lạc giáo A-ri-ô tàn phá, hàng giáo sĩ và giáo dân ở Công-tăn-ti-nốp yêu cầu thánh nhân làm Giám mục, vì họ nghe danh thánh thiện và tài học vấn của ngài. Ngài nhận lời và lãnh giào phận này, và đem hết tài năng sức lực phục vụ. Ngài dùng lời giảng dạy và viết sách thuyết phục những người theo lạc giáo. Ngài nhiệt thành bảo vệ thiên tính của Chúa Giêsu cho đến chết, vào năm 390.
* Quyết tâm: Noi gương thánh Ba-xi-li-ô và thánh Ghê-gô-ri-ô Na-di-an, luôn tìm bạn tốt để giúp nhau tiến tới trên đàng nhân đức trọn lành, hầu phụng sự Chúa và Hội thánh cho đắc lực.i
* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã làm cho Giáo hội nên rạng rỡ nhờ gương sáng và lời giảng dạy của hai thánh Ba-xi-li-ô và Ghê-gô-ri-ô. Xin cho chúng con biết khiêm nhường tìm hiểu chân lý của Chúa, và hết lòng yêu mến đem ra thực hành. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Ngày 7 tháng 1
THÁNH RAY- MÔN - DÔ PÊ - NHA - PHO
Linh mục
* Gương Thánh Nhân.
Thánh Rây-môn đô sinh năm 1175, tại Pê-nha-pho, trong một gia đình thời danh.
Ngay lúc còn trẻ, ngài đã chuyên cần học tập và rèn luyện nhân đức. Mới 20 tuổi, thánh nhân đã làm giáo sư đại học, và ít năm sau đã sáng lập một nhà dòng chuyên lo giải phóng các người nô lệ, vì ngài rất thương kẻ nghèo khó và ngưòi bị áp bức bóc lột. Ngài luôn nhắn nhủ các nữ tu hy sinh chịu khó theo gương Chúa Giêsu, để thánh hoá bản thân và phục vụ người khốn khổ. Ngài nói: “ Ai muốn sống đạo đức theo Chúa Kitô thì phải chịu bách hại: đó là điều thánh Phaolô, vị rao giảng chân lý đã nói, ngài nói thực không nói dối, nên tôi dám nghĩ rằng: không ai được chước khỏi luật chung ấy, trừ ra kẻ lười biếng hay không biết sống tiết độ, công chính và đạo đức ở đời này. Còn chị em, chị em chớ kể mình vào số những kẻ mà nhà cửa chúng yên hàn, không biết đến kinh hãi; và ngọn roi của Thiên Chúa không động đến mình chúng, chúng kết thúc chuỗi ngày của chúng trong hạnh phúc và xuống âm phủ bình yên… (G. 21,9-13). Lòng trong sạch đạo đức của chị em vừa đòi cho được tẩy sạch thêm và cọ xát liên tục tới khi được trong suốt hoàn toàn, bởi vì chị em được đẹp lòng Chúa. Vì thế, nếu gươm Chúa cứ dồn dập chém hai hoặc ba nhát trên chị em, thì chị em phải coi đó là điều vui mừng và dấu chỉ của lòng Chúa thương yêu … Đó chính là cây thánh giá đáng ước ao và có phúc của Đức Kitô mà thánh An-rê tông đồ- con người với tên gọi đầy vẻ nam nhi đã vui sướng nhận lấy; và thánh Phaolô kẻ được chọn quả quyết rằng: Phải lấy làm vinh dự nơi thánh giá ấy mà thôi. Vậy, chị em hãy nhìn vào Đức Giêsu, Đấng ban phát và bảo tồn đức tin. Người hoàn toàn vô tội mà đã phải chịu đau khổ bởi cả những kẻ thuộc về Người, và bị liệt vào hạng có trọng tội. Vậy khi uống chén huy hoàng của Chúa Giêsu, chị em hãy tạ ơn Chúa, Đấng ban phát mọi ơn lành ”.
Ngoài ra, thánh nhân rất say mê công cuộc truyền giáo, nên đã gia nhập dòng Đaminh, để hợp tác với các linh mục dòng rao truyền Phúc Âm cho người ngoại giáo và người tội lỗi.
Nghe danh đạo đức thánh thiện cùa ngài, năm 1230, Đức Giáo Hoàng Ghêgôriô II mời ngài làm cha giải tội, nhưng vì lòng khiêm tốn, ngài xin từ chối. Dù vậy, ngài cũng vâng lời thu thập sắc lệnh của các Đức Giáo Hoàng và công đồng thành 5 tập. Quyển sưu tập này đã được Đức Ghê-gô-ri-ô công bố vào năm 1234, và coi như bộ giáo luật của Hội thánh.
Năm 1238, thánh nhân được bầu làm bề trên tổng quyền dòng Đa-minh. Trong thời gian làm bề trên, ngài luôn đi thăm viếng các tỉnh dòng và củng cố đời sống thiêng liêng các tu sĩ. Nhưng hai năm sau, vì tuổi già sức yếu, thánh nhân đã xin từ chức, sống đời tu niệm thầm lặng. Và ngày 6 tháng giêng năm 1275, ngài đã từ trần. Năm 1601, ngài được Đức Giáo Hoàng Clê-men- tê phong lên hiển thánh.
* Quyết tâm: Tìm nhiều người cộng tác để nâng đỡ, bênh vực những kẻ cô thế cô thân, những người bị áp bức, và chuyên cầu nguyện rao giảng đạo Chúa, theo gương thánh Ray-môn-đô Pê-nha-pho.
* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh linh mục Ray-môn-đô được giàu lòng nhân ái đối với người tội lỗi và kẻ tù đày. Xin Chúa nhận lời người cầu thay nguyện giúp, mà ban cho chúng con thoát khỏi tội lỗi, hầu được tự do làm những điều đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Ngày 13 tháng 1
THÁNH HILARIÔ
Giám mục tiến sĩ
* Gương thánh nhân.
Là con một gia đình quý tộc, thánh Hi-la-ri-ô sinh năm 320 tại Pô-chê, nước Pháp. Lớn lên, ngài theo học văn chương và triết lý, đặc biệt ham mê tìm hiểu đạo và Thiên Chúa. Ngài hiểu rằng hạnh phúc thật của con người không phải ở đời này; và ngài muốn tìm hạnh phúc thật, hạnh phúc vĩnh cửu .
Dịp may thánh nhân gặp được cuốn Kinh Thánh. Ngài say mê học hỏi, nghiên cứu Lời Chúa. Nhờ đó, ngài nhận biết Chúa là Thiên Chúa chân thật tốt lành, và đã xin gia nhập đạo cùng với gia đình.
Từ đó, ngài sống đạo đức gương mẫu. Và mặc dù có gia đình, ngài được phong chức linh mục. Rồi năm 250, thánh nhân được chọn làm Giám mục tại chính quê hương là Pô-chê.
Lúc đó, bè rối Ariô nổi lên. Họ không tin nhận Thiên tính của Chúa Giêsu. Thánh nhân chống đối mãnh liệt, nên bị Hoàng đế Công-tăn-ti II bắt đi đày ở Phigi. Tại đây, ngài viết khảo luận về “ Thiên Chúa Ba Ngôi ” để bảo vệ Thiên tính của Chúa Giêsu. Ngài nói: ” Tôi không bảo vệ được đức tin bằng lời giảng dạy, thì tôi rao truyền Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật bằng sách vở”.
Thánh nhân hết lòng tôn kính và bảo vệ tín điều Một Chúa Ba Ngôi. Trong cuốn khảo luận về Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài viết: ” Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng, co ý thức rằng: con phải hiến dâng công việc chính trong đời con cho Cha, để tâm tư và và ngôn ngữ của con phải nghĩ và nói về Cha. Bởi vì ơn ngôn ngữ mà Cha đã ban cho con chẳng làm gì ích lợi cho con hơn là được dùng để phục vụ Cha bằng cách rao giảng và trình bày Cha là Đấng nào. Cha là Chúa Cha, Cha của Con Một Thien Chúa. Con phải trình bày điều đó cho thế gian chưa nhận biết và cho kẻ lạc giáo đã chối bỏ , thế nên, chúng con trông cạy Cha kích thích bước đầu của công việc khó khăn này; không ngớt ban thành công để cổ võ, và cho tham dự vào tinh thần của các ngôn sứ và các tông đồ; để chúng con hiểu lời các ngài đúng ý của các ngài, và dùng đúng các từ ngữ để diễn tả các thực tại mà các ngài đã ám chỉ. Vì chúng con sẽ phải nói về những điều các ngài đã tuyên xưng trong mầu nhiệm: tức là về Cha là Thiên Chúa vĩnh cữu; một mình Cha không bao giờ sinh ra; một mình Chúa Giêsu đã sinh ra bởi Cha từ đời đời; không được tưởng có nhiều Thiên Chúa, mặc dầu có sự khác biệt thật sự; cũng không được bảo Người đã chẳng được sinh ra bởi Cha là Thiên Chúa duy nhất, và cũng không được nói Ngài chẳng phải là Thiên Chúa thậ vì Người sinh ra bởi Cha là Thiên Chúa thật”.
Ngài cũng dùng thư từ liên lạc với giáo sĩ và giáo dân trong giáo phận. Với những lời lẽ thân tình và đầy lòng sốt mến, ngài khuyến khích họ can đảm vững đức tin, trung thành với chân lý của Chúa.
Sau bốn năm bị lưu đày, ngài được trở về quê hương năm 360. Ngày trở về của ngài cũng thật huy hoàng. Toàn dân chứ không riêng gì giáo dân ra nghênh đón ngài như một vị anh hùng đã chiến thắng vẻ vang.
Về đến giáo phận, công việc trước nhất của thánh nhân là chỉnh đốn lại những hậu quả thảm hại do lạc thuyết gây ra. Ngài củng cố lại hàng giáo sĩ, kêu gọi giáo dân học hỏi Lời Chúa, sống theo Tin Mừng của Chúa.
Thánh nhân rất thông giỏi Kinh Thánh. Ngài viết nhiều sách giải thích Thánh vịnh và Phúc âm thánh Mát thêu, và phổ biến rộng rãi trong toàn giáo phận.
Những năm cuối đời, thánh nhân dành để cho việc cầu nguyện và sám hối. Ngài cầu nguyện liên lỉ và không bao giờ bước lên bàn thờ dâng thánh lễ mà chẳng xét mình xưng tội trước. Ngài nói: ” Ngày nào không xưng tội được, tôi thấy mình bất xứng, không đáng dâng của lễ cho Chúa. Những ngày đó đối với tôi là những ngày tang chê sầu buồn”.
Thánh nhân qua đời ngày 13 tháng giêng năm 386. Và năm 1852, ngài được Đức Giáo Hoàng tôn phong tiến sĩ Hội thánh.
* Quyết tâm: Noi gương thánh Hi-la-ri-ô, hằng ngày lo củng cố niềm tin vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa, bằng cách siêng năng học hỏi Giáo Lý và Lời Chúa dạy trong Thánh Kinh. Đồng thời can đảm tuyên xưng đức tin ra trước mặt mọi người, dù có gian nan, lao khổ cũng sẵn lòng chấp nhận.
* Lời nguyện: Lạy Chúa Cha toàn năng, thánh Hi-la-ri-ô đã kiên trì bảo vệ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa là Thiên Chúa. Xin cho chúng con hiểu biết cho rõ và tuyên xưng cho đúng chân lý cao cả này. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
NGÀY 13 THÁNG 1
Thánh Đa minh Khảm,Giuse Tả và Luca Thìn.
Giáo dân tử đạo.
* Gương Thánh Nhân:
Thánh Đa minh Phạm Trọng Khảm sinh khoảng năm 1780, tại làng Quần Cống, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Ngay lúc nhỏ, Đa minh đã được cha mẹ chuyên cần dạy dỗ, nên cậu rất đạo đức hiếu thảo. Năm lên 18 tuổi, cậu đã kết hôn với cô A nê Phượng, một thiếu nữ nhân đức trong họ đạo. Vợ chồng luôn sống hoà thuận hy sinh cho nhau, sốt sắng thờ phượng Chúa, nhiệt thành giúp việc trong xứ đạo, và hết lòng thương yêu giúp đỡ mọi người, nhất là những người nghèo khổ bệnh tật.
Lúc đó vua quan đang bắt đạo dữ dội, ông bà tận tâm che giấu các Giám mục, linh mục và khích lệ những người đồng đạo can đảm chịu chết vì Chúa. Mỗi lần binh lính đến bao vây bắt bớ người có đạo, ông bà báo tin cho mọi người, và khuyến khích họ sống chết trung thành theo Chúa. Đối với những người nhút nhác, ông thường hâm dọa cho họ sợ mà can đảm bền chí: “Kẻ nào trong anh em đạp lên Thánh giá, khi quan về, tôi sẽ đuổi cổ ra khỏi làng, sẽ không có chỗ mà chôn xác đâu ” . Nhờ đo nhiều người nhát đảm vẫn cương quyết chịu chết vì Chúa.
***
Thánh Giuse Phạm Trọng Tả sinh năm 1800, đồng minh với thánh Đa minh Khảm. Thánh nhân là người đạo đức và có thế giá, là hội viên hội dòng ba Đa minh và là cai tổng trong làng. Đặc biệt thánh nhân rất có lòng thương người. “ Tiền thóc gia nhân vay mượn ông thường cho một nửa, nếu túng quá thì cho luôn. Công nợ của dân trong làng cũng hay được châm chước như thế. Khi bà cai lên tiếng cằn nhằn, ông thản nhiên trả lời: Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình”
***
Là con trai của thánh Đa minh Khảm, thánh Lu ca Phạm Trọng Thìn sinh năm 1820.
Lúc nhỏ cậu học hành giỏi giắn. Và nhờ hấp thụ nền đạo đức của gia đình, cậu càng thêm tuổi càng têm khôn ngoan đạo đức, là hội viên hội dòng ba Đa Minh, và được chọn làm cai tổng trong làng.
Năm 1858, cơn bắt đạo trở nên gay gắt trong lịch sử Giáo hội Việt Nam . Nhà vua treo giải thưởng cho những ai tố cáo nơi trú ẩn của các giáo sĩ, đồng thời ra lệnh trừng phạt nặng những ai chứa chấp các ngài. Thực tế, việc thi hành lệnh vua còn tuỳ các quan địa phương; có nơi họ thi hành triệt để, nơi khác cũng làm chiếu lệ. Vì thế, Đức Cha Xuyên nhờ hai ông Cai Tả và Cai Thìn tiếp xúc với quan Tổng đốc Nam Định, xin ông nương tay cho các giáo sĩ và tín hữu được bính an. Nhưng công việc chưa thành thì quan án sát Nam Định đã được mật báo làng Quần Cống chứa chấp Tây dương đạo trưởng ( linh mục nước ngoài). Quan liền sai binh lính đến vây bắt. Cụ Đa minh Khảm nghe tin đó thì vội vàng đưa Đức cha Vinh, Đức cha Xuyên và các cha trốn sang làng khác.
Quan quân ùa vào làng Quần Cống, gọi cụ Khảm đến và bảo:
- Hãy mau nộp các đạo trưởng cho ta, nếu không lão sẽ bị bắt, bị tịch thu tài sản, nhà cửa lão sẽ bị thiêu huỷ.
Cụ bình thản đáp:
- Không có đạo trưởng nào ở đây, Nếu không tin, quan cứ cho binh lính lục soát.
Binh lính liền chia nhau lục soát mọi nhà. Nhưng không tìm được đạo trưởng nên quan ra lệnh bắt cụ Khảm với Cai Tả và Cai Thìn dẫn về Nam Định và tống vào ngục.
Sau nhiều lần dụ dỗ, đe doạ, hành hạ, các ngài vẫn cương quyết trung thành theo Chúa, bất khả quá khoá, nghĩa là không chịu bước qua Thánh giá.
Ngày 13 tháng giêng năm 1859, các ngài bị đưa ra pháp trường Bẩy Mầu , Nam Định, với án tử hình.
Đến nơi, binh lính xô các ngài ngã xuống đất, trói tay chân vào cột. Và mỗi vị đều bị hai tên lính cầm hai đầu dây tròng nơi cổ, và kéo thật mạnh cho đến khi tắt thở!...
Cả ba vị đều được Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII tôn lên chân phước ngày 29 tháng 4 năm 1951. Và ngày 19 tháng 6 năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phao-lô II đã tấn phong các ngài lên bậc hiển thánh.
* Quyết tâm: Noi gương các thánh Đa minh Khảm, Giuse Tả và Lu ca Thìn tử đạo, hết lòng kính mến Chúa và yêu thương người, bằng các giúp đỡ mọi người phần hồn, phần xác, suốt đời chịu cực chịu khó tin thờ Chúa, sẵn sàng hy sinh giúp đỡ những người làm việc tông đồ, và nâng đỡ anh em đồng đạo trung thành với Chúa.
* Cầu nguyện: Lạy Cha Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Ngày 17 tháng 1
THÁNH AN-TÔN
Viện phụ
* Gương Thánh Nhân:
Sinh năm 251 tại Cai Rô, miền thượng Ai Cập, thánh An tôn là con một gia đình giàu có, đạo đức, Ngay từ nhỏ, thánh nhân đã được cha mẹ dạy dỗ sống đời đức hạnh. Khi lên 18 tuổi thì cha mẹ ngài qua đời, để lại một gia tài to lớn.
Một hôm, ở thánh đường, thánh nhân nghe đọc lời kinh thánh: “ Nếu con muốn nên trọn lành hãy về bán hết của cải mà phân phát cho người nghèo khó rồi theo Ta”. ( Mt .19,21). Ngài nghĩ là lời đó Chúa muốn nói với mình, nên về bán hết gia tài cha mẹ để lại, phân phát cho người nghèo, chỉ để lại chút ít cho người em gái, rồi vào sa mạc ăn chay, hãm mình, cầu nguyện và làm việc cực nhọc hằng ngày để sinh sống. Thánh A-ta-na-xi-ô đã viết về ngài: “ Anh tự làm lấy mà ăn vì anh đã nghe nói rằng: Ai không làm thì đừng có ăn. Tiền làm ra, anh đem mua bánh ăn một phần; phần còn dư lại, anh phát cho kẻ nghèo.
Anh cầu nguyện liên lỉ, vì anh nghe nói phải cầu nguyện riêng không ngừng. Anh chăm chỉ đọc sách đến nỗi không để rơi lời Kinh Thánh nào, nhưng nhớ hết, đến nỗi sau này anh có thể dùng trí nhớ thay cho sách vở. Mọi người trong làng, mọi kẻ hẳn hoi đến thăm anh. Thấy anh sống như vậy, họ gọi anh là bạn của Chúa. Người thì yêu anh như con cái, kẻ lại thương anh như anh em”
Mặc dầu sống giữa sa mạc hoang vu hiu quạnh, thánh nhân luôn bị ma quỷ cám dỗ. Chúng cám dỗ ngài về những ham mê xác thịt, tiền của, danh vọng, nhất là bỏ đời tu luyện khắc khổ mà trở về thế gian. Nhưng chúng càng cám dỗ dữ dội chừng nào, ngài càng tăng gia ăn chay cầu nguyện nhiều chừng nấy. Và nhờ ơn Chúa ngài luôn luôn chiến thắng . Dầu vậy, thánh nhân cũng phải rời sa mạc hai lần. Lần thứ nhất vào năm 311, do cuộc bắt đạo của A-la-xi-mô-nô. Ngài đi khích lệ các tù nhân và khuyến khích mọi người trung thành làm chứng cho Chúa. Lần thứ hai ngài rời sa mạc trở lại thành A-lê- xăn-tri, để phụ giúp Đức Giám mục A- na-ta-xi-ô chống lại lạc giáo. Ngài rảo khắp thành thị làng mạc, rao giảng kêu gọi mọi người trung thành sống theo giáo huấn của Hội thánh. Đi tới đâu, dân chúng cũng tuôn đến nghe ngài, vì ngài giảng rất hùng hồn thông suốt, khiến nhiều người lầm lạc ăn năn hoán cải. Còn những kẻ đạo đức trí thức thì hết sức ngạc nhiên về tài trí thông minh của ngài. Họ không ngờ ngài sống trong sa mạc, thiếu liên lạc tiếp xúc với các nền văn hoá cũng như không có sách vở học hỏi mà thấu suốt hết mọi vấn đề, nhất là về phương diện thiêng liêng nhân đức. Họ không biết rằng ngài đã học biết Chúa nhiều hơn qua các cảnh vật thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng. Đối với người có đức tin và lòng sốt mến, thiên nhiên là cuốn sách vĩ đại giúp họ nhìn biết Thiên Chúa và các tài năng, đức tính của Người.
Sau khi giúp Đức Giám mục giải quyết lạc giáo xong, thánh nhân trở lại đời sống ẩn dật, khắc khổ nơi sa mạc. Từ đó, nhân đức thánh thiện của ngài vang dội khắp nơi. Nhiều người đạo đức đến xin làm môn đệ ngài. Thế là nhờ Thánh An tôn mà phong trào ẩn tu đã phát triển mạnh mẽ. Và nhiều người đã nên thánh nhờ lời giáo huấn và gương sáng đời sống của ngài. Lúc đó, ngài đã gần 100 tuổi. Ngài biết sắp từ giã cõi trần, nên hằng ngày lo dọn mình trở về cùng Chúa. Ngài qua đời năm 356, hưởng thọ 105 tuổi.
* Quyết tâm: Noi gương thánh An-tôn, sẵn lòng từ bỏ mọi sự giàu sang, vui sướng ở đời, sống âm thầm thân mật với Chúa trong việc ăn chay cầu nguyện hằng ngày, hầu đủ sức chống trả mọi chước cám dỗ của ma quỷ, xác thịt, thế gian.
* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh An-tôn viện phụ sống một đời phi thường trong sa mạc để phụng sự Chúa. Xin Chúa nhậm lời người nguyện giúp cầu thay, mà cho chúng con biết quên mình, để một niềm yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Ngày 20 tháng 1
Thánh PHABIANÔ, Giáo hoàng tử đạo.
Thánh SÊBÁTTINÔ, quân nhân tử đạo.
* Gương thánh Nhân.
Thánh Phabianô được chọn làm Giáo Hoàng một cách rất lạ. Tương truyền, lúc đó hàng giáo sĩ Rôma đang họp nhau chọn Giáo Hoàng thì thình lình có chim bồ câu từ trời xuống đậu trên ngài. Do đó, mọi người đều lớn tiếng gọi ngài là người được Chúa chọn. Và ngài đã lên ngôi kế vị thánh Phêrô vào năm 236. Một cuộc bầu chọn đặc biệt của Chúa như thế, chắc chắn sẽ giúp thánh nhân làm được nhiều việc giúp ích cho Hội thánh.
Sự thật đúng như thế, trong hơn 10 năm làm Giáo hoàng, thánh nhân đã nêu gương thánh thiện nhân đức cho hàng giáo sĩ và giáo dân. Ngài có công củng cố lại Giáo Hội Rôma sau một thời gian suy đồi. Ngài đã chia thành Rô ma ra 7 khu vực mục vụ, và mỗi khu đều có giáo sĩ chăm sóc giáo huấn. Với lòng nhiệt thành vì Chúa ,ngài đã gởi nhiều nhà truyền giáo đến xứ Gôn (Nước Pháp) để mở mang nước Chúa ở xứ này.
Thánh Síprianô đã tặng ngài danh hiệu “ một con người tuyệt vời ” . Thánh nhân đã được phúc tử đạo thời hoàng đế Đê xi ô, năm 250. Khi nghe tin ngài đã anh dũng chết vì đạo, thánh Siprianô đã viết thư gửi cho các linh mục và phó tế ở Rô-ma, và ca tụng ngài như sau : “ Tôi đã nhận được thư anh em gửi qua thầy phụ phó tế Kê-men-xi-ô, và tôi được biết rõ cái chết vinh quang của ngài .Tôi vui mừng vô cùng vì cuộc đời cai trị tuyệt vời của ngài đã được kết thúc xứng đáng như vậy.Tôi cũng hết lòng ca ngợi anh em đã tưởng nhớ ngài với những lời chứng thật vẻ vang và cao cả .Nhờ vậy, chúng tôi được biết những gì làm cho anh em được vinh dự khi nhớ tới vị thũ lãnh của anh em, cũng như những gì đem lại cho chúng tôi gương sáng về niềm tin và lòng can đảm. Người thủ lãnh mà sa ngã sẽ có hại bao nhiêu vì sẽ lôi kéo nhiều người dưới cũng ngã theo, thì ngược lại sẽ có ích và may mắn bấy nhiêu khi một giám mục nêu gương đức tin vững vàng cho anh em mình bắt chước”.
.Quyết tâm: Hằng ngày, làm mọi việc theo như ý Chúa muốn. Chúa muốn tôi làm việc gì, tôi hết lòng chu toàn, cần mẫn, nhiệt thành, dù có gian lao đau khổ cũng vui lòng chấp nhận, theo gương thánh Pha bi a nô Giáo hoàng.
Lời nguyện: Lạy Chúa, là vinh quang của hàng tư tế, xin nhận lời thánh Pha-bi-a-nô tử đạo chuyển cầu, mà cho chúng con ngày càng thêm hiệp nhất trong đức tin và nhiệt thành phụng sự Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa Chúng con.Amen.
* * *
Thánh SêBátTianô sinh tại Milan , thời Hoàng đế Đôlêxianô bắt đạo. Ngài thấy các tín hữu bị giam cầm trong ngục không ai nâng đỡ khuyên bảo, nên nhiều người nhát đảm chối đạo . Ngài tình nguyện gia nhập quân đội hoàng gia, để dễ dàng tới lui giúp đỡ những kẻ bị giam cầm vì Chúa .
Ở trong quân ngũ, thánh nhân sống hết sức hiền lành, ngay thẳng, nhiệt thành trong công việc. Thấy ngài tài giỏi hiền lương như thế, nhà vua đặt ngài làm đại uý phòng vệ, cai quản đội quân canh giữ triều đình. Nhờ đó, ngài được thường xuyên ra vào tù ngục, an ủi khích lệ các Kitô hữu bị giam giữ. Nhiều tín hữu lung lay ngã lòng, nhờ ngài an ủi nâng đỡ mà vững tâm can đảm làm chứng cho Chúa.
Nhưng một người chối đạo đã tố cáo ngài, khiến nhà vua nổi cơn thịnh nộ, bắt ngài tra tấn dã man và nói:
-Ta đã ban cho ngươi muôn vàn bổng lộc, cho ngươi ở bên cạnh ta; ngươi lại là kẻ thù của ta và của các thần sao?
Thánh nhân đáp:
-Tôi rất biết ơn nhà vua; hằng ngày, tôi cầu xin Chúa cho nhà vua được trở lại với Chúa, nhìn biết thờ phượng Chúa, để được phần rỗi đời đời . Phần tôi, tôi đã đã được phước tin kính Chúa. Tôi quyết tin thờ Người cho đến chết.
Nhà vua giận điên lên, ra lệnh cho lính bắn nhiều mũi tên vào mình ngài cho chết. Song Chúa thương cứu sống ngài. Và ngài trở vào hoàng cung, khuyên bảo hoàng đế hãy ăn năn, đừng bắt bớ giết hại người có đạo vì họ là những công dân tốt.
Nhưng nhà vua thấy thánh nhân trở lại thì hết sức ngạc nhiên, không ngờ ngài bị bắn nhiều mũi tên như thế mà vẫn còn sống. Ông ta kinh ngạc hỏi: - Ngươi là Sê-bas-ti- a- nô nào, kẻ mà ta đã ra lệnh cho bắn nhiều mũi tên đó sao?
Ngài đáp: - Dạ chính tôi đây. Tôi là kẻ ngài đã ra lệnh bắn cho chết đây. Nhưng Chúa đã cứu tôi sống. Người quyền phép vô cùng; Người nắm vận mạng muôn loài, muôn vật; sống chết đều do Người. Người cho tôi sống để đến nói cho ngài biết: ngài bắt bớ giết hại người Công giáo là điều hết sức bất công, vì họ là những công dân lương thiện, không làm gì nên tội. Nhưng nhà vua chẳng những không nghe lời ngài mà còn truyền lệnh đem ngài ra pháp trường, đánh cho đến chết.
Thế là thánh nhân đã được tử đạo ngày 20 tháng giêng năm 288.
* Quyết tâm: Noi gương thánh Sê-bas-ti-a-nô, can đảm làm chứng Chúa là Thiên Chúa mà mọi người phải tin kính, thờ phượng và hằng ngày nâng đỡ đức tin cho người yếu đuối.
Lời nguyện: Lạy Thiên Chúa Cha toàn năng, xin ban cho chúng con thần khí dũng cảm, để chúng con noi gương thánh tử đạo Sêbastianô, mà biết vâng phục Chúa hơn vâng phục người phàm.
Ngày 21 tháng 1
THÁNH A - NÊ
Trinh nữ tử đạo.
* Gương Thánh Nhân:
Trinh nữ Anê là con một gia đình quý phái ở Rôma. Ngay từ lúc 10 tuổi, ngài đã chọn Chúa làm lẽ sống, làm gia nghiệp, đem hết tình yêu thương mến Chúa .
Chưa đầy 13 tuổi, một thanh niên ngoại giáo, con của tổng trấn Rô ma, vì mê sắc đẹp lộng lẫy của thánh nữ, đã đến xin cầu hôn. Ngài trả lời: “ Từ lâu, tôi đã kết hôn với vị hôn phu trên trời, tôi đã hiến trọn trái tim để yêu mến Ngài; sống chết tôi hứa trung thành với Ngài. Yêu mến Ngài, tôi trở nên trinh khiết. Sống gần Ngài, tôi trở nên thanh sạch. Đó chính là Chúa Giêsu mà cả trời đất đều khâm phục thờ lạy”.
Chàng thanh niên đeo đuổi thánh nữ mãi không được, nên đem lòng ghen tức, tố cáo ngài là người công giáo với người cha đang làm tổng trấn, giữa lúc có cơn bắt đạo dữ dội. Thế là thánh nữ bị bắt, tra tấn hành hạ, và buộc phải lấy người thanh niên đó. Nhưng ngài vẫn luôn từ khước. Dù ngăm đe dụ dỗ cách nào, thánh nữ cũng một lòng cương quyết chọn Chúa làm gia nghiệp. Ngài nói: “ Tôi không thể chọn vị hôn phu nào khác hơn là Chúa Giêsu Kitô ” .
Thấy không thể lay chuyển được lòng can đảm mạnh mẽ của thánh nữ, vị tổng trấn ra lệnh chém đầu ngài. Nhưng khi đứng trước vị thánh anh hùng trẻ tuổi này, tên đao phủ run lên vì sợ hãi: ” Y sợ hãi khổ hình người khác phải chịu, đang khi cô thiếu nữ kia chẳng sợ gì cho mình cả. Thế là chỉ một hy tế mà có hai cuộc tử đạo: tử đạo để giữ mình đồng trinh, và tử đạo để bảo vệ đức tin”.
Thánh Giám mục Amrôxiô đã quả quyết như thế. Thánh nhân còn hết lòng cảm phục và khen ngợi vị thánh nữ tử đạo nhỏ tuổi này: “ Hôm nay là lễ một thánh trinh nữ, ta hãy bắt chước sự trong sạch của ngài. Hôm nay cũng là lễ một thánh tử đạo, ta hãy dâng lên một hy lễ. Hôm nay là lễ thánh Anê. Theo truyền thống, thánh nữ đã chịu tử đạo hồi 12 tuổi. Thật là đáng ghê tởm, sự độc ác đã không tha ngay cả một thiếu nữ nhỏ bé như vậy! Ngược lại, thật là cao cả, đức tin đã biết làm chứng ở một tuổi mềm mại như thế. Thân xác ấy, quá nhỏ bé, liệu có đủ chỗ cho gươm đâm không? Nhưng tấm thân không đủ chỗ cho gươm chém lại đủ sức thắng được gươm đâm. Đang khi ở tuổi đó, các thiếu nữ còn chưa chịu nỗi bộ mặt nghiêm khắc của cha mẹ, và nếu có bị kim đâm, cũng đã khóc như là bị thương nặng! Thế mà thiếu nữ này chẳng sợ gì, khi ở trong tay máu me của bọn lý hình. Cô không hề nhúc nhích khi nghe tiếng rít của xích sắt nặng nề người ta đang kéo. Và này đây, cô đưa thân thể ra cho tên lính hung bạo đâm chém. Cô chưa biết chết là gì, nhưng cô đã sẵn sàng. Khi người ta lôi cô đến bàn thờ, thì cô đã giang tay về phía Chúa Kitô và đi qua lửa.Ngay trong lò lửa phạm thánh ấy, cô cũng còn làm dấu ca ngợi Đức Kitô hiển thắng. Này người ta lại đưa cổ và tay cô vào xích sắt, nhưng xích siết sao được những thân thể mềm mại như vậy! Đó là một cuộc tử đạo mới sao? Thiếu nữ đó chưa đủ sức chịu đau khổ, nhưng cô đã trưởng thành để chiến thắng. Cô chưa biết chiến đấu, nhưng cô đã chiến thắng dễ dàng. Cô bị tuổi thơ ngăn trở, nhưng cô lại đã thi thố được một kiệt tác anh dũng ”
* Quyết tâm: Noi gương thánh trinh nữ A nê tử đạo, tôi dốc quyết giữ hồn xác trong sạch vì lòng yêu mến Chúa; và dù có phải gian nan bắt bớ, cũng trung thành bền đỗ tin yêu Chúa suốt đời.
* Lời nguyện: Lạy Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã chọn những gì thế gian cho là yếu kém để hạ nhụ những gì hùng mạnh. Hôm nay, chúng con mừng kỹ niệm ngày thánh nữ A nê tử đạo về trời. Xin cho chúng con hằng noi gương thánh nữ mà giữ vững đức tin. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Ngày 22 tháng 1
THÁNH VINH SƠN
Phó tế tử đạo
* Gương Thánh Nhân:
Thánh Vinh sơn sinh tại Sa ra gốt, nước Tây Ban Nha. Lớn lên, ngài được Đức Giám mục Valêriô giúp dạy văn hoá, đạo lý và Kinh Thánh, Thánh nhân rất say mê học hỏi Lời Chúa, nhờ đó, ngài được tấn tới trên đàng trọn lành, và được phong lên chức phó tế.
Dưới thời hoàng đế Đaxianô bắt đạo, ngài và Đức Giám mục bị bắt trước hết. Các ngài bị tống ngục và bắt nhịn đói cho chết. Nhưng khi mở cửa ngục ra, thấy các ngài vẫn tươi tỉnh khoẻ mạnh, nên nhà vua bảo căng ngài trên giường sắt, rồi ra lệnh cho quân lính thay phiên nhau đánh đòn tan da nát thịt, máu chảy đầm đìa. Hết sức đau đớn, nhưng các ngài vẫn tươi cười, sẵn sàng chịu mọi cực hình để làm chứng cho Chúa. Đaxianô thấy vậy càng tức giận, truyền lệnh lấy móc sắt nung đỏ, móc rách da thịt ngài, rồi bỏ vào ngục cho chết lần mòn trong đau đớn
Làm sao thánh nhân cũng là con người yếu đuối mỏng dòn như chúng ta, mà đã chịu nỗi những khổ hình ghê gớm như thế? Thánh Giám mục Âu tinh đã giải thích: “ Thánh Phaolô viết: Vì Đức Kitô, không những anh em đã được phúc tin vào Người mà còn được chịu đau khổ vì Người nữa. Thánh phó tế Vinh sơn đã nhận được cả hai ơn ấy. Nhờ đó, ngài đã giữ được tin tưởng khi nói và giữ được kiên nhẫn khi chịu đau khổ. Thế nên đừng ai tự phụ trong lòng khi nói, và đừng ai tin vào sức mạnh khi chịu đau khổ. Quả vậy, khi ta ăn nói khôn ngoan, thì sự khôn ngoan đó là bởi Chúa; và khi ta can đảm chịu đau khổ, thì sự kiên nhẫn đó cũng đến bởi Người ”
Trong cuộc tử đạo này, nếu chỉ nhìn vào sức chịu đựng của con người, ta thấy không thể tin được; nhưng nếu nhìn thấy đó là sức mạnh của Thiên Chúa, thì nó không còn khó hiểu nữa.
Một sức dữ tợn như vậy đã đập xuống trên thân xác vị tử đạo, nhưng một sự bình tĩnh quá đỗi đã lộ ra trong tiếng nói của ngài: cực hình làm khổ chi thể ngài tinh vi quá sức, nhưng tiếng nói của ngài lại vang lên thư thái lạ thường; khiến ta phải nghĩ một cách lạ lùng rằng: Có một người khác âm thầm không nói đang bị tra tấn, còn thầy Vinh-sơn chỉ là nạn nhân bề ngoài.
Thánh nhân qua đời năm 304, lúc mới lên 22 tuổi.
* Quyết tâm: Mỗi khi gặp gian nan khốn khó, hết lòng tin tưởng cậy trông Chúa. Người sẽ ban cho sức mạnh lướt thắng tất cả, như đã ban cho thánh Vinh sơn can đảm chịu cực hình ghê tởm.
* Lời nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin tuôn đổ ơn Thánh Thần Chúa trên chúng con, để tâm hồn chúng con được thấm nhuần tình yêu can trường, cũng như thánh Vinh sơn tử đạo đã nhờ tính yêu đó mà thắng mọi cực hình. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
* NGÀY 22 THÁNG 1
Thánh Mát-thêu Đậu và Phan-xi-cô Tế
Linh mục tử đạo
* Gương Thánh Nhân:
Hai thánh Mátthêu Đậu và Phanxicô Tế cùng sinh năm 1702 tại Bồ Đào Nha, và cùng tu dòng Đa-minh.
Sau khi chịu chức linh mục, cha Mátthêu tình nguyện đi giảng đạo ở Việt Nam . Và ngày 18 tháng giêng năm 1732,cha đã đi tàu đến Trung Linh thuộc giáo phận Đông Đàng Ngoài.
Vì địa phận rộng lớn, cánh đồng truyền giáo bao la mà thiếu người giảng đạo, cha phải đi nhiều nơi rao truyền đạo Chúa, và ban các bí tích cho giáo dân. Cha đã hoạt động tại các huyện Kim Động, Tiên Lữ, Thầu Khê (tỉnh Hưng Yên), rồi các huyện Thanh Quan, Vũ Tiên (tỉnh Thái Bình), cả đến những huyện Giao Thuỷ, Xuân Trường (tỉnh Nam Định). Mặc dầu sức khoẻ kém, thường ốm yếu luôn, nhưng cha cố gắng hy sinh chịu khó, vượt qua mọi gian khổ vì phần rỗi các linh hồn.
Thấy cuộc bắt đạo ngày càng gay gắt, tháng 11 năm 1743, cha đến ngụ tại làng Lục Thuỷ Hạ, trú ẩn trong nhà ông trùm Độ. Chẳng may lúc đó tên Đạt là một giáo hữu đã bỏ đạo, biết tin cha ẩn náu trong nhà ông trùm thì đi tố cáo với quan.
Sáng sớm ngày 29 tháng 11, quân lính đến bao vây làng, kéo đến nhà ông trùm, đang lúc cha dâng Thánh lễ. Cha vội vàng rước Mình Máu Chúa rồi bỏ chạy. Nhưng quân lính đuổi theo kịp, bắt trói lại và đánh đập tàn nhẫn. Một tên lính lấy giáo đâm bên hông cha, máu chảy loang đỏ áo dòng trắng của cha . Họ dẫn cha đến quan Lê Văn Phượng tại Sơn Nam .
Quan nhiều lần tra tấn cũng như dụ dỗ cha chối đạo, nhưng cha vẫn kiên trì chịu hình khổ và trung thành theo Chúa, nên quan kết án phải tù chung thân. Và ngày 30 tháng 5 năm 1744, quân lính giải cha về Thăng Long. Ở đây cha gặp linh mục Phanxicô Tế, đã bị bắt từ năm 1737, đã bị án trảm quyết nhưng còn giam trong ngục, chờ ngày ra pháp trường.
***
Linh mục Phan-xi-cô Tế đến Việt Nam năm 1735, Cha đã đi giảng đạo nhiều nơi, thuộc các huyện ở tỉnh Nam Định, Thái Bình. Nhưng chỉ mới hoạt động truyền giáo được 2 năm thì bị bắt, lúc cha vừa mới dâng Thánh Lễ xong tại họ đạo Lục Thủy.
Lúc đó có nhà sư tên Tình rất ghét đạo Công giáo lại tham tiền. Ông nghe tin cha Phanxicô đang ở họ Lục Thủy, thì đến xin quan cho lính đi bắt về giam tại làng Thủy Nhai. Giáo dân biết thế thì cùng nhau gom góp tiền bạc đến gặp nhà sư, xin chuộc cha lại. Nhưng ông ta chê ít, và đem cha về ở nhà riêng của ông. Thấy thế, giáo dân lên tỉnh trình quan và nhờ quan giải thoát cho cha. Quan trấn thủ Sơn Nam liền sai lính đi bắt nhà sư lẫn cha Tế. Nhưng nhà sư đã trốn thoát, và lên tận kinh đô tố cáo với vua: quan trấn thủ Sơn Nam ăn hối lộ và làng Lục Thủy chứa chấp Tây dương đạo trưởng, Quan trấn thủ hay tin đó thì không dám thả cha Tế, đành giải cha về Thăng Long. Sau nhiều lần tra tấn mà cha không chịu bước qua Thập giá, nên đã bị kết án trảm quyết. Nh ư ng vì tình hình lúc đó bất ổn, nên bản án của cha chưa được thi hành, và người ta vẫn giam cha trong ngục. Do đó, khi cha Mátthêu Đậu bị bắt giải đến Thăng Long thì cùng ở chung ngục với cha.
Ngày 22 tháng giêng năm 1745, hai cha cùng được chết đổ máu ra, làm chứng cho Chúa. Ngày 20 tháng 5 năm 1906, các ngài đựoc Đức Giáo Hoáng Pi-ô X tôn phong chân phước, và Đức Thánh Cha Phao-lô II suy tôn lên bậc Hiển thánh ngày 19 tháng 6 nă 1988.
* Quyết tâm: Xung quanh tôi còn rất nhiều người chưa biết Chúa, tôi quyết dùng lời cầu nguyện, sự hy sinh hãm mình hằng ngày để đem Chúa đến cho họ, theo gương các thánh Pha-xi-cô Tế và Mát-thêu Đậu tử đạo.
*Cầu nguyện: Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo Hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Ngày 24 tháng 1
THÁNH PHANXICÔ ĐƠXAN
Giám mục tiến sĩ
*Gương Thánh Nhân
Thánh Phanxicô sinh năm 1567, tại lâu đài Xan, trong một gia đình quý phái đạo đức.
Lúc còn đi học, ngài đã nêu gương tốt cho đồng bạn. Ngài theo học khoa hùng biện và triết lý tại Balê. Và từ năm 1586 đến năm 1591, thánh nhân học luật tại Pađua . Và sau khi thi đậu tiến sĩ, ngài trở về quê nhà trong sự hân hoan phấn khởi của thân tộc.
Cha mẹ bảo ngài lập gia đình, nhưng ngài từ khước và xin làm linh mục, vì hạnh phúc danh vọng thế gian đối với ngài chỉ là phù vân tạm bợ, chỉ có Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc bền vững.
Thế là năm 1593, ngài được thụ phong linh mục. Ngài nhiệt thành lo cho đoàn chiên và rao giảng kêu gọi người thệ phản ăn năn trở lại, vì lúc đó nhóm thệ phản Canvinô hoạt động ráo riết, lôi kéo nhiều người theo lạc thuyết của họ. Họ gây hiềm khích chia rẽ giữa các Kitô hữu với nhau. Thánh nhân phải cực lực giải hoà, giảng dạy đức tin chân chính cho mọi người, kêu gọi họ nhìn nhận chân lý của Chúa Giêsu. Ngoài lời giảng dạy, ngài còn dùng thư từ và sách vở hướng dẫn niềm tin của mỗi người. Nhờ đó mà ngài giúp được nhiều người thệ phản hoán cải ăn năn.
Vì tài đức và lòng nhiệt thành phụng sự Chúa, năm 1602, ngài được bầu làm Giám mục. Ngài chuyên cần rao giảng lời Chúa, thăm viếng bệnh nhân, giúp đỡ người nghèo. Ngoài ra, ngài còn lập nhiều tu viện và viết sách dạy đàng nhơn đức. Các sách ngài viết rất tời danh, nhất là những cuốn: Đường trọn lành, dẫn vào đời sống đạo đức.
Dưới đây là đoạn trích trong cuốn : Dẫn vào đời sống đạo đức của thánh nhân. Đọc lên, chúng ta cảm thấy phấn khởi và ước muốc dấn thân ngay vào đường đạo đức hánh thiện: “ Lúc tạo dựng, Thiên Chúa truyền cho thảo mộc theo giống loài của mình mà sinh hoa nảy quả. Cũng vậy, Người truyền cho tín hữu, như những thảo mộc sống trong Hội thánh, phải trổ sinh hoa quả thánh đức, mỗi người theo phẩm chức và ơn kêu gọi của mình. Mỗi hạng người phải sống đời đạo đức một cách khác nhau: người quyền quý khác thợ thủ công, kẻ tôi tớ khác vị hoàng tử, người quả phụ, cô thanh nữ khác người có chồng. Không những thế, còn phải thích nghi đời sống đạo đức theo sức lực, công ăn việc làm và bổn phận từng người. Thử hỏi Philôtêô, vị Giám mục có được sống ẩn dật như các vị khổ tu Sáctơrơ không? Nếu người có vợ chồng lại muốn bỏ hết của cải như các vị khổ tu; nếu các thợ thủ công suốt ngày ở nhà thờ như các tu sĩ, còn người tu hành lại luôn gặp gỡ, giao tế, giúp đỡ người ta như vị Giám mục, thì đời thánh đức chẳng hóa ra trò cười, gây lộn xộn, chẳng chịu nổi nữa sao? Thế mà các tệ ấy thường vẫn xảy ra . Không, hỡi Philôtêô, đời đạo đức chân chính không làm hư hỏng cái gì bao giờ; trái lại, nó làm hoàn bị mọi sự. Và nếu đời đạo đức đi ngược với bậc sống chính đáng, thì chắc là nó phải giả hiệu, Aríttốt nói: “ Con ong hút mật hoa mà không làm hại hoa, hoa vẫn toàn vẹn tươi tốt ” . Lòng đạo đức còn đi xa hơn thế, nó không làm hư hỏng bậc sống hay công việc gì cả, trái lại, nó tô điểm cho thêm tốt đẹp. Các hạt ngọc nhúng vào mật ong sẽ nên sáng bóng hơn tuỳ theo màu sắc từng hạt. Đây cũng thế, mỗi người trở nên đáng yêu đáng mến hơn trong bậc mình, khi sống bậc mình cách đạo đức hoàn toàn: lúc đó, việc lo gia đình sẽ nên êm đẹp, tình phu thê sẽ đầm thắm hơn, và tất cả mọi công việc khác đều trở thành ngọt ngào đáng mến hơn. Muốn gạt bỏ đời sống đạo đức ra ngoài hàng ngũ quân đội, ngoài xưởng thợ thủ công, ngoài triều vua, ngoài phòng the của đôi bạn, đó là một sai lầm, và hơn nữa, một lạc thuyết. Đã đành, Philôtêô thân mến, lối sống đạo đức thuần tuý chiêm niệm, đan tu và tu trì không thể thực hiện ở trong các chức bậc trên. Nhưng ngoài những kiểu sống thánh đức ấy, còn có rất nhiều cách sống rất thích hợp cho người sống ngoài đời nên thánh thiện. Bất cứ ở đâu, ta cũng đều có thể và phải ước ao sống hoàn thiện. ”
Nhân đức đặc biệt của ngài là hiền hoà nhân hậu đối với mọi người. Thánh nhân luôn nhịn nhục tha thứ, dịu dàng. Ngài luôn bảo: Hãy ăn ở hiền lành, vì người ta có thể bắt được nhiều ruồi với một muỗng mật hơn là với cả trăm thùng dấm. Và đối với kẻ nhục mạ ngài, ngài thường nói với họ: Nếu ông móc một con mắt, tôi sẽ nhìn ông bằng con mắt kia với lòng trìu mến!...
Thánh nhân qua đời ngày 26 tháng 12 năm 1622, và được Đức Giáo Hoàng A- lét-xăn thứ 7 tôn phong hiển thánh năm 1665.
* Quyết tâm: Tôi quyết bắt chước thánh Phaxicô Đơ Xan, sống hiền hoà với mọi người. Hằng ngày tập luyện nên thánh theo hoàn cảnh của mình, hầu giúp đỡ người lầm lạc trở về với Chúa.
* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Phanxicô Đơ Xan Giám mục biết trở nên tất cả để hoà mình với mọi người hầu muôn dân được ơn cứu độ. Xin cho chúng con hằng noi Gương thánh nhân để lại, mà hết lòng phục vụ anh em, để làm chứng lòng yêu thương nhân hậu của Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Chùa Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Ngày 25 tháng 1
THÁNH PHAO-LÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI
Gương Thánh Nhân
Thánh Phao-lô sinh tại Tác sô, ở Cilici, tên thật là Saun, cha mẹ gốc Do thái, thuộc chi họ Bengiamin. Ngay từ thuở nhỏ, đã được cha mẹ dạy dỗ chu đáo; và khi lớn lên, ngài đã lên Giêrusalem theo đuổi việc học hành, và trở thành một trong những người thuộc nhóm biệt phái nổi tiếng.Do đó, ngài trung thành tuân giữ luật lệ tiền nhân và rất ghét những người tin theo Chúa. Chính ngài có mặt trong cuộc đổ máu thánh Stêphanô, và luôn tìm bắt cầm tù, tra tấn, giết hại môn đệ Chúa.
Một hôm, trên đường đi Đamát lùng bắt người theo đạo, ngài đã được Chúa thương kêu gọi trở lại. Chúng ta hãy nghe chính thánh nhân thuật lại cuộc trở lại của ngài. “Tôi là người Do thái, sinh ở Tác sô, miền Ki li ki a, nhưng tôi đã được nuôi dưỡng tại thành này; dưới chân ông Gamaliên, tôi đã được giáo dục để giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt. Tôi cũng đã nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa như tất cả các ông hiện nay, không ngần ngại giết kẻ theo đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông lẫn đàn bà, như cả vị thượng tế lẫn toàn thể hội đồng kỳ mục có thể làm chứng cho tôi. Tôi còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở Đamát, và tôi đi để bắt trói những người ở đó, giải về Giêrusalem trừng trị. Đang khi tôi đi đường và đến gần Đa-mát, thì vào khoảng trưa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy tôi. Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: “Saun, Saun, sao ngươi bắt bớ Ta”? Tôi đáp: “ Thưa Ngài, Ngài là ai? ” Người nói với tôi: “ Ta là Giêsu Na-da-rét mà ngươi đang bắt bớ ” . Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh sáng, nhưng không nghe thấy Đấng đang nói với tôi. Tôi nói: “ Lạy Chúa, con phải làm gì?” Chúa bảo tôi: “ Hãy đứng dậy, đi vào Đa-mát, ở đó, người ta sẽ nói cho con biết tất cả những gì đã chỉ định cho con phải làm”. Vì ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không còn trông thấy nữa, nên tôi đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Đa-mát.
Ở đó, có ông Khanania, một người sùng đạo, sống theo Lề Luật và được mọi người Do thái ở Đa mát chứng nhận là tốt. Ông đến, đứng bên tôi và nói: “ Anh Sa-un, anh thấy lại đi! ” Ngay lúc đó, tôi thấy lại được và nhìn ông. Ông nói: “ Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Người, được thấy Đấng Công Chính và nghe tiếng từ miệng Đấng ấy phán ra. Quả vậy, anh sẽ làm chứng nhân cho Đấng ấy trước mặt mọi người về những điều anh đã thấy và đã nghe, Vậy bây giờ anh còn chần chờ gì nữa? Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu cầu danh Người”. Khi trở về Giê-ru-sa-lem, đang lúc tôi cầu nguyện trong đền thờ, thì tôi xuất thần và thấy Chúa bảo tôi : “ Mau lên,hãy rời khỏi Giêrusalem gấp, vì chúng sẽ không nhận lời con làm chứng về thầy đâu”. Tôi thưa: “ Lạy Chúa, chính họ biết rõ con đây đã từng đến hội đường bắt giam và đánh đòn những kẻ tin Chúa. Khi người ta đổ máu ông Stêphanô, chứng nhân của Chúa, thì chính con cũng có mặt, con tán thành và giữ áo cho những kẻ giết ông ấy”. Chúa bảo tôi: “ Hãy đi vì Thầy sẽ sai con đến với các dân ngoại phương xa”. (Cv 22,3 -21)
Từ đó, Sa un được gọi là Phaolô, là tông đồ nhiệt thành rao giảng đạo Chúa. Thánh nhân đặc biệt lo đem Chúa đến cho dân ngoại, được nổi tiếng nhất về lòng can đảm, hy sinh chịu khổ vì Chúa. “ Bất cứ điều gì người ta dám lám, tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do thái đánh đòn bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi
gặp bao nguy hiểm trên sóng, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm trong thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn, nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng!..”( 2Cor.11,21-27)
Tất cả những lao nhọc khổ sở mà thánh nhân vừa kể đó, ngài sẵn sàng chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa và vì phần rỗi các linh hồn. Thánh Gioan Kim Khẩu đã nói về ngài; “ Ngài tìm kiếm nhuốc nha xấu hổ do việc rao giảng tin mừng mang tới hơn là ta tìm kiếm vinh quang. Ngài tìm kiếm sự chết hơn là ta tìm kiếm sự sống. Ngài tìm kiếm sự khó nghèo hơn ta tìm của cải. Ngài muốn lao nhọc hơn ta muốn nghỉ ngơi. Dường như ngài chỉ sợ và chỉ tránh một điều là làm mất lòng Chúa. Và không có gì khác nữa. Cũng vậy, dường như chẳng có gì khiến ngài ao ước cho bằng làm đẹp lòng Chúa”.
Thánh nhân viết nhiều thơ kêu gọi các giáo đoàn sống chết trung thành theo Chúa. Và chính ngài đã chịu chết, đổ máu ra làm chứng cho Chúa.
* Quyết tâm: Hằng ngày, dùng lời cầu nguyện, việc hy sinh, cầu cho kẻ tội lỗi ăn năn trở lại với Chúa như thánh Phao-lô; và một khi đã trở về với Chúa, xin cho họ biết noi gương ngài, nhiệt thành phịng sự Chúa và phục vụ các kinh hồn.
* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ mà dạy dỗ muôn dân. Hôm nay, mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Đức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân của Tin Mừng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Ngày 26 tháng 1
THÁNH TI-MÔ-TÊ VÀ TI-TÔ
Giám mục
* Gương thánh nhân:
Thánh Timôthê và Ti tô là hai môn đệ thân thiết và nổi tiếng của thánh Phaolô, nên Hội thánh mừng lễ các ngài ngay sau ngày kính thánh Phaolô trở lại.
Thánh Timôthê sinh tại Lít tra, đã được thánh Phaolô dạy cho biết Chúa và rửa tội. Từ đó, thánh nhân luôn theo bên cạnh thánh Phaolô, và cộng tác trong việc truyền giáo. Mặc dầu còn trẻ, ngài sẵn sàng hy sinh từ bỏ tất cả danh vọng ở đời, hiến thân phục vụ Chúa, đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người.
Nhờ lòng nhiệt thành truyền giáo và đời sống thánh thiện, thánh nhân được bầu làm Giám mục tiên khởi giáo đoàn Êphêsô. Ngài tận tâm tận lực lo cho đoàn chiên và luôn luôn được thánh Phaolô nâng đỡ khuyên bảo. Trong suốt thời gian làm Giám mục, ngài đã nhận được hai bức thư của thánh Phaolô: bức thư thứ I (Thư I gởi ông Ti-mô-tê), hướng dẫn ngài tổ chức và điều khiển các cộng đoàn, khuyên bảo ngài trung thành với giáo lý lành mạnh và bảo toàn giáo lý đã được giao phó, vì lúc đó, có những người mê thích những điều mới mẽ khiến đức tin bị lung lay. Trong bức thư thứ II (Thư II gởi Timôthê), thánh Phaolô để lại cho ngài một thứ di chúc tinh thần, vì thánh nhân thấy mình không còn sống được bao lâu nữa, lại cô độc vì những người thân tín xa lìa, nên muốn gửi gấm cho ngài là môn đệ yêu quý những lời tâm huyết cuối cùng, đề phòng những kẻ gieo rắc lầm lạc, và khuyên ngài trung thành rao giảng đạo lý: “ Trước mặt Thiân Chúa và Đức Giêsu Kitô, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tay muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường. Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh ” (2Tm.4,1-5)
Sau khi Phaolô qua đời, ngài được phước sống với thánh Gioan tông đồ, là môn đệ yêu dấu của Chúa Giêsu.
Một hôm, thánh nhân thấy dân thành Êphêsô cúng tế nữ thần Điana. Ngài giận giữ cảnh cáo họ, và kêu gọi họ trở lại với Chúa. Chẳng những họ không nghe lời ngài kêu gọi mà còn nhục mạ, lấy đá ném ngài chết!...Thánh nhân chết vì Chúa năm 97.
***
Thánh Ti-tô là con một gia đình ngoại giáo, được thánh Phao-lô dạy đạo, rửa tội, gọi là “ người con chân thành ” , và trao cho nhiều trách vụ quan trọng. Theo truyền thuyết, thánh tông đồ đã đặt ngài làm Giám mục giáo đoàn Kêta, và luôn khuyên bảo ngài sống xứng đáng làm người đứng đầu trong cộng đoàn, đồng thời đối xử thế nào cho thích hợp với mỗi hạng người. Thánh Phao-lô nói với ngài: “Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Thiên Chúa và tông đồ của Đức Giêsu Kitô . Tôi gửi lời thăm anh Titô, người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta, ban cho anh ân sủng và bình an. Tôi đã để anh ở lại Kê-ta, chính là để anh hoàn thành công cuộc tổ chức và đặt kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh. Hãy dạy những gì hợp với giáo lý lành mạnh. Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng đáng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành . Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chưởi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người. Đó là lời đáng tin cậy, và tôi muốn anh đặt biệt nhấn mạnh các điểm ấy, để những kẻ đã đặt niềm tin vào Thiên Chúa ra sức trổi vượt về những việc tốt đẹp ” ( Thơ gởi ông Ti-tô 1,1- 5; 3,1-8).
Thánh nhân cũng được Phao-lô sai đến giáo đoàn Cô-rin-tô để tổ chức giáo đoàn, quyên tiền ủng hộ Hội thánh ở Giêrusalem. Ngài qua đời khoảng năm 105.
* Quyết tâm: Tôi luôn sẵn sàng cộng tác và ủng hộ các nhà truyền giáo bằng việc làm, lời cầu nguyện và mọi phương tiện vật chất cũng như tinh thần, để đem Chúa đến cho đồng bào đồng loại, theo gương thánh Ti-mô-tê và Ti-tô.
* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã ban cho hai thánh Ti-mô-tê và Ti-tô những nhân đức xứng bật tông đồ. Xin nhận lời các thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng con khi còn ở đời này, biết sống ngay lành thánh thiện, hầu xứng đáng đạt tới quê trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta. Amen.
Ngày 27 tháng 1
THÁNH AN-GIÊ-LA MÊ-RI-SI
Trinh nữ
* Gương Thánh Nhân
Angiêla sinh năm 1477 tại Đêxenđanô. Lúc lên 10 tuổi, thánh nữ đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ, nên được người cậu nuôi dưỡng giáo dục. Lớn lên, ngài gia nhập dòng ba thánh Phan-xi-cô, và sống đạo đức gương mẫu.
Lúc đó, nước Ý đang gặp cơn khủng hoảng về luân lý. Người ta chạy theo xa hoa, khoái lạc vật chất mà bỏ qua thuần phong mỹ tục, làm cớ cho nhiều thanh niên thiếu nữ sa đoạ lầm lạc. Thánh nữ thấy cần phải phục hưng xã hội, gia đình theo tinh thầnh Phúc Âm. Ngài thường nói: “Xáo trộn xã hội là hậu quả của xáo trộn gia đình”. Muốn cải hoá gia đình, cần phải giáo dục các bà mẹ. Vì thế, thánh nữ lập một tu hội chuyên lo đào tạo các thiếu nữ, lấy tên là “ tu hội Usala ” . Usala là thánh nữ đã chịu chết để bảo vệ lòng thanh sạch. Đây là tu hội đời đầu tiên trong Hội thánh. Nhiều người nữ đã gia nhập tu hội. Họ không có y phục riêng, sống ngay tại gia đình, tuân giữ các lời khuyên Phúc Am, giữ đức khó nghèo, trong sạch, vâng lời.
Hằng ngày, thánh nữ ân cần huấn luyện các nữ tu nầy, để rồi sai đi đào tạo các thiếu nữ khác về luân lý, đạo đức. Đặc biệt, ngài bảo họ tập rèn đức bác ái, vì có được lòng mến Chúa yêu người là có đủ tất cả các nhân đức, và làm được mọi việc ích lợi cho Chúa và tha nhân. Ngài nói với các nữ tu: “ Các mẹ và các chị em rất thân ái trong Chúa Kitô, trên hết mọi sự và bất cứ lúc nào, chị em cũng hãy cố gắng, để nhờ ơn Chúa giúp, có được những quyết định khôn ngoan mà lãnh nhận công việc chăm sóc và điều hành nguyên vì lòng mến Chúa và lòng nhiệt thành đối với các linh hồn. Chỉ khi nào bắt rể và căn cứ nơi đức mến Chúa yêu người, công việc săn sóc và điều hành của chị em mới đem lại kết quả cứu độ, Vì Chúa đã phán: cây tốt không thể sinh trái xấu. Người bảo cây tốt chính là lòng tốt, cháy lửa bác ái, chỉ có thể sinh ra các việc lành thánh. Thế nên, thánh Âu tinh cũng nói: bạn cứ yêu mến đi, rồi muốn làm gì thì làm; nghĩa là bạn hãy có lòng mến Chúa yêu người rồi muốn làm gì cũng được. Dường như ngài muốn nói rõ: đã yêu thương thì không thể phạm tội được. Tôi cũng xin chị em hãy để ý đến từng người mà chị em phải săn sóc và phải mang họ như đã được ghi trong lòng chị em. Không phải chỉ ghi tên mà thôi, mà còn ghi cả hoàn cảnh và tình trạng của họ nữa. Điều đó không khó khăn đâu, nếu chị em có lòng bác ái sống động săn sóc họ thật sự. Quả vậy, tự nhiên các bà mẹ, dù có tới nghìn đứa con, cũng vẫn mang tất cả và từng đứa trong lòng mình, không quên sót một đứa nào, vì tự nhiên tình yêu chân thật làm như vậy. Hơn nữa, dường như càng có nhiều con, tình yêu và sự săn sóc cho từng đứa con lại càng tăng. Các bà mẹ thiêng liêng lại càng có thể và càng phải làm như thế hơn nữa, bởi vì tình yêu thiêng liêng có nhiều khả năng hơn tình yêu máu mủ xác thịt ”.
Nghe theo lời khuyên nhủ của thánh nữ các nữ tu tận tình săn sóc huấn luyện các thiếu nữ với lòng mến Chúa yêu người thật sự. Họ đến từng gia đình, liên hệ gặp gỡ với trẻ gái và hướng dẫn chúng trên đàng đức hạnh.
Nhờ công cuộc giáo dục của tu hội và gương lành của thánh Angiêla, nhiều thiếu nữ sống tốt lành đạo hạnh, gia đình được thánh hoá, xã hội hưng thịnh. Thánh nữ qua đời ngày 27 tháng 1 năm 1540, và được phong thánh năm 1807.
* Quyết tâm: Noi gương thánh nữ Angiêla, tôi chăm lo huấn luyện đào tạo tuổi trẻ về luân lý đạo đức, để giúp chúng sống xứng đáng làm người và làm con Thiên Chúa, hầu xây dựng gia đình và xã hội tốt đẹp lành mạnh.
* Lời nguyện: Lạy Thiên Chúa nhân từ, Chúa đã cho thánh Angiêla trinh nữ nên gương bác ái và khôn ngoan; vì lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con cũng noi theo người, mà trung thành tuân giữ lời Chúa dạy và tuyên xưng đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Ngày 28 tháng 1
THÁNH TÔ MA A QUI NÔ
Linh mục tiến sĩ
*Gương Thánh Nhân:
Thánh Tôma Aquinô sinh năm 1226, tại lâu đài Rốt ca sét ca, gần thành Aquinô. Ngài là con một gia đình giàu sang quý phái, nhưng cũng rất đạo đức.
Mới lên 6 tuổi, thân sinh đã đem Tôma gửi vào tu viện Caxinô. Và năm lên 10, ngài được gởi tới đại học ở Náplơ. Nơi đây, các giáo sư đã khám phá trí thông minh tuyệt vời, lòng đạo đức sáng chói và những đức tính hiền hoà, thanh sạch và bác ái của ngài.
Thánh nhân xin cha mẹ cho vào tu dòng Đaminh, nhưng bị từ chối, buộc lòng ngài phải trốn đi theo tiếng Chúa gọi. Nhưng gia đình đã theo bắt ngài về và nhốt trong hầm dưới chân lâu đài, vì sợ ngài trốn đi nữa. Ngài phải sống 2 năm trời trong hầm vắng lạnh, nhưng lòng vẫn cương quyết theo Chúa, phụng sự Chúa. Các chị ngài thấy ngài khổ cực mà vẫn cương trực như thế, thì cảm động nên giúp ngài trốn ra. Thế là ngài tiếp tục vào dòng anh em thuyết giáo của thánh Đa minh.
Từ năm 1248 đến năm 1252, ngài du học ở Côlônia. Ngài là học trò xuất sắc nhất của thánh Anbêtô Cả, rất thông giỏi triết học cũng như thần học. Ngài chuyên tâm tìm hiểu chân lý; thích đời chiêm niệm, thầm lặng, đến nổi các bạn đặt tên riêng cho ngài là con bò câm. Nhưng thánh Anbêtô nhận ngài là một thiên tài lổi lạc và tuyên bố: Con bò này sẽ rống lên, tiếng rống của nó vang dội khắp thế giới. Đúng như lời thánh Anbêtô, Tôma Aquinô là một nhà giảng thuyết lừng danh, là nhà thần học nổi tiếng trong Giáo hội và ngoài xã hội. Ngài đã được tặng danh hiệu “ Tiến sĩ thiên thần ” , vì ngài thông minh tài giỏi, lại sống đời thanh bạch trinh khiết như thiên thần. Ngài để lại 2 tác phẩm lổi lạc là cuốn “ Tổng luận thần học ” và “ Chống lạc giáo ” .
Đặc biệt, thánh nhân có lòng mộ mến Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Ngài luôn suy gẫm những khổ nạn của Chúa và múc lấy nơi đó nhiều nhân đức, như lời ngài nói: - Những việc Chúa chịu nạn cũng có ích không ít để làm gương cho chúng ta, hầu ta được gương mẫu giá trị cho tất cả cuộc đời. Quả vậy, ai muốn sống cho hoàn toàn chẳng cần làm gì khác, ngoài việc khinh chê những gì Đức Kitô đã khinh chê trên thập giá, và ước ao những gì Người đã ước ao, bởi vì thánh giá Chúa không thiếu một gương nhân đức nào.
Nếu bạn muốn tìm một gương bác ái, thì nầy chẳng ai có lòng bác ái lớn hơn người thí mạng sống mình cho bạn hữu. Đó là việc Đức Giêsu đã làm trên thập giá.
Nếu bạn muốn tìm gương kiên nhẫn, thì trên thập giá có sự kiên nhẫn trên hết. Đức Kitô trên thập giá đã chịu những đau khổ lớn lao mà vẫn kiên nhẫn, bởi vì “ khi bị sỉ vả, Người không đe loi, như con chiên bị dẫn vào lò sát sinh. Người không hề mở miệng ”
Nếu bạn muốn tìm gương khiêm nhường, hãy nhìn Chúa chịu đóng đinh: Người là Thiên Chúa, thế mà Người đã muốn chịu xử dưới thời Philatô và chịu chết. Nếu bạn muốn tìm gương vâng phục, thì chỉ có việc theo Đấng đã trở thành người vâng phục Chúa Cha cho đến chết; cũng như bởi tội của một người là Ađam, mọi người trở nên tội nhân thế nào, thì nhờ sự vâng phục của một Người, mọi người cũng đã được trở nên công chính như thế. Nếu bạn muốn tìm gương khinh chê của cải trần gian, thì chỉ cần chạy theo Đấng là Vua các vua và là Chúa các chúa, nơi Người tiềm ẩn mọi kho tàng khôn ngoan và thông thái; thế mà trên thập giá, Người đã nên trần truồng, bị chế giễu, nhổ mặt, đập đánh, đội vòng gai và uống mật đắng với dấm chua …
Thánh nhân qua đời trên đường đi dự Công đồng Lyon , ngày 7 tháng 3 năm 1274; được phong thánh năm 1323, do Đức Giáo Hoàng Gioan 22.
* Quyết tâm: Noi gương thánh Tôma Aquinô, tôi quyết sống thanh sạch, thầm lặng, siêng năng học hành và kính mến Chúa Giêsu chịu đóng đinh.
* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa làm cho thánh Tô-ma trở nên một bậc hầy lỗi lạc, vì đã ban cho người lòng tha thiết sống đời thánh thiện, và hăng say giảng dạy đạo lý cao siêu. Xin Chúa mở lòng soi trí, để chúng con ngày càng hiểu biết điều người dạy, và ra công bắt chước việc ngài làm. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
NGÀY 28 THÁNG 1
THÁNH TÔMA KHUÔNG
Linh mục tử đạo.
* Gương Thánh Nhân:
Khi đọc hạnh các thánh, chúng ta thấy nhiều vị đã noi gương Chúa Giêsu, từ bỏ địa vị quyền quý, sang trọng, giàu có, sống đời hy sinh, khổ hạnh, nghèo khó. Trong số các vị đó chúng ta phải kể thánh Tôma Khuông, linh mục Việt nam tử đạo.
Tôma Khuông sinh khoảng năm 1780, tại làng Nam Hoà, xứ Tiên Chu, tỉnh Hưng Yên, trong gia đình quyền chức vì cha cậu làm Tuần Phủ tỉnh nầy. Với tài trí thông minh xuất sắc, cậu có thể nối nghiệp cha làm lớn trong tỉnh, ăn trên ngồi trước thiên hạ, sống đời vinh thân phú quý. Nhưng cậu đã coi thường giàu sang, chức tước, theo đuổi một lý tưởng cao đẹp hơn: cậu sẵn sàng nghe theo tiếng gọi thiêng liêng, dâng mình giúp việc giảng đạo Chúa. Cậu xin vào chủng viện, học hỏi tu luyện tài đức, và đã được thụ phong linh mục.
Sau khi chịu chức linh mục, cha Tôma Khuông đem hết tài lực rao giảng Tin Mừng, đem Chúa đến cho đồng bào, đồng đạo. Ngài nổi tiếng là một linh mục nhân đức, thánh thiện. Ngoài ra các việc thiêng liêng theo chức vụ, ngài còn gia nhập dòng ba thánh Đaminh, để làm thêm nhiều việc lành, thánh hoá đời sống.
Ngoài lòng đạo đức thánh thiện ra, cha còn có biệt tài tiếp xúc giao thiệp với mọi hạng người, từ người dân thường đến các quan chức cao cấp. Mọi người đều có thiện cảm với cha. Nhờ đó, cha được dễ dàng thi hành việc mục vụ cho giáo dân, và giảng đạo cho lương dân. Có những lần cha bị bắt giữ, nhưng nhờ giao thiệp khéo mà cha đã được trả tự do, để tiếp tục thi hành sứ mạng Chúa giao phó.
Nhưng từ năm 1858, quân đội viễn chinh Pháp gây áp lực mãnh liệt hơn, bắn phá và chiếm đóng nhiều nơi, nên vua Tự Đức tức giận, thẳng tay đàn áp và bắt bớ ngưới Công giáo, vì nghi ngờ họ tiếp tay với thực dân xâm lược.
Thấy tình hình khó khăn. Cha Tôma Khuông định lánh sang làng Trần Xá. Nhưng vừa đi đến cầu ở đầu làng, cha thấy quân lính đã đặt sẵn cây Thánh giá ở đó, bắt buộc mọi người đi qua phải đạp lên. Cha thấy không thể nào đi qua cầu mà không đạp lên Thánh giá, nên định quay lại tìm đi đường khác. Quan quân thấy cha quay trở lại thì đuổi theo bắt cha, và họ phát giác cha là linh mục, nên giam vào ngục. Lúc đó cha đã 80 tuổi. Sau 15 ngày giam giữ, quan Tổng đốc cho dẫn cha ra xét xử. Quan tìm đủ cách buộc cha khai người Công giáo ở Cao Xá thông đồng với quân lính Pháp, chống lại nhà vua. Cha nói rõ cho quan biết lập trường của Hội thánh đối với chính quyền: Đạo chúng tôi dạy mọi người phải tôn trọng chính quyền, chẳng những không được phép chống đối, mà còn phải cầu nguyện và góp phần xây dựng quê hương xứ sở an bình thịnh vượng.
Thấy không thể ép buộc cha về vấn đề này, quan bắt cha bước qua Thập giá, và khuyên bảo các tín hữu bỏ đạo. Cha mạnh mẽ trả lời: Tôi là linh mục của Chúa Kitô.Hằng ngày tôi khuyên bảo các tín hữu trung thành tin Chúa, thờ Chúa. Chẵng lẽ giờ đây tôi lại nghe lời quan mà bảo họ bỏ Chúa, bỏ đạo sao? Nay tôi đã 80 tuổi rồi, tôi không mong gì hơn là được chết vì Chúa tôi. Quan hết lời dụ dỗ, ngăm đe, và dùng cả bạo lực bắt ép, cha cũng cương quyết không chịu bước qua Thập giá, thế là cha bị kết án tử hình. Và ngày 30 tháng giêng năm 1860, cha đã được phúc tử đạo.
Ngày 29 tháng 4 năm 1951, cha được Đức Thánh Cha Pi-ô XII phong lên chân phước. Và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nâng cha lên bậc Hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.
* Quyết tâm: Sẵn lòng hy sinh mọi danh vọng phú quý ở đời, sống đơn sơ khó nghèo, và nhiệt thành giúp việc Chúa suốt đời, theo gương thánh Tôma Khuông tử đạo.
* Cầu nguyện: Lạy Cha, Cha đã ban cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng, biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Cha và trung kiên mãi đến cùng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Ngày 31 tháng 1
THÁNH GIOAN BỐT-CÔ
Linh mục
* Gương Thánh nhân:
Gioan Bốt cô chào đời năm 1815, trong một gia đình nông dân nghèo khó ở Béc si, cách thành phố Tôrinô khoảng 20 cây số. Cha ngài mất sớm, để lại 3 người con. Mẹ ngài là bà Magarita phải tần tảo nuôi ngài.
Ở Béc-si không có trường học, Bốtcô phải vất vả sang cha xứ làng bên học đạo đức và giáo lý. Năm 1826, ngài rước lễ lần đầu và sau đó xin vào chủng viện. Sau những năm học tập tu luyện, Ngài được thụ phong linh mục năm 1841.
Ngài thấy ngoài đường phố đầy dẫy những đứa trẻ lang thang vất vưởng, không ai chăm sóc dạy bảo. Từ đó, ngài quyết định dâng trọn đời mình để lo lắng giúp đỡ tuổi trẻ, nhất là những trẻ cô thân lạc lõng, bụi đời. Ngài qui tụ chúng lại, nuôi dưỡng chúng, dạy dỗ cho chúng biết Chúa, mến Chúa, giúp chúng sửa đổi tánh nết, tập chúng làm việc.
Số trẻ ngài càng đông. Ngài phải tìm mướn nhà cho chúng ở. Nhưng mẹ ngài lo lắng bảo: - Con không có tiền làm sao mướn nhà được?
Nhưng ngài trả lời: Chúa quan phòng giàu có vô cùng. Ngài hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Và Chúa luôn giúp đỡ ngài. Giải quyết được chỗ ở, ngài còn cần người cộng tác để giáo dục, hướng dẫn các trẻ. Ngài cầu nguyện, và Chúa soi sáng cho ngài lập một tu hội chuyên lo huấn luyện giới trẻ, theo tinh thần thánh Phanxicô ĐơXan. Năm 1859, ngài chính thức cho một số tu sĩ tuyên khấn, giữ ba lời khuyên Phúc Âm: khó nghèo, thanh tịnh và tuân phục. Đó là các tu sĩ Salêdiêng, hiện đang có mặt trên 102 quốc gia, chuyên lo giáo dục, đào tạo thanh thiếu niên.
Đường lối giáo dục của thánh Gioan Bốtcô căn cứ trên tình yêu, cậy dựa vào hồng ân của Thiên Chúa. Ngài luôn khuyên bảo các tu sĩ cộng tác với ngài: - Cha khuyên các con hãy bắt chước lòng bác ái của thánh Phaolô trong cách ngài đối xử với các người mới theo đạo, khiến nhiều khi ngài phải khóc lóc, nài van khi thấy họ ít nghe lời và phụ bạc tình thương của ngài. Hãy tránh những gì khiến người ta tưởng mình hành động theo dục vọng. Khi sửa phạt, thật khó mà giữ được sự bính tĩnh cần thiết, để người ta khỏi tưởng mình đang hành động vì thị uy hay nhằm trút hết cơn giận của mình.Hãy coi những trẻ em dưới quyền ta như con cái. Hãy đặt mình xuống phục vụ chúng, như Đức Giêsu đã đến không phải để chỉ huy, nhưng để phục vụ; hãy sợ cái gì có vẻ muốn điều khiển, và hãy điều khiển chỉ vì muốn phục vụ đắc lực hơn mà thôi. Đức Giêsu đã xử như thế với các tông đồ. Người chịu đựng sự dốt nát, tính cứng cỏi và cả đến lòng kém tin của họ. Người tiếp đón tội nhân cách tử tế và thân mật đến nỗi lắm kẻ ngạc nhiên, lắm kẻ khó chịu, nhưng lại khiến nhiều người hy vọng được ơn tha thứ. Chính vì vậy, Người đã bảo ta học cùng Người mà ở hiền lành và khiêm nhượng trong lòng . Lòng ta đừng rối lên, đừng khinh bỉ nhìn ai và đừng nói lời nguyền rủa bao giờ. Hãy có lòng nhân từ đối với hiện tại, hy vọng đối với tương lai: như vậy, các con sẽ thực sự là những người cha của tuổi trẻ và thực sự chu toàn được phận sự giáo dục”.
Thánh nhân qua đời năm 1888 tại Turinô, và được phong thánh năm 1937.
* Quyết tâm: Noi gương thánh Gioan Bốt cô, tôi tin cậy Chúa quan phòng, và hy sinh lo cho tuổi trẻ sống nên người và xứng đáng làm con Chúa.
* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho xuất hiện trong Hội thánh một người cha và một bậc thầy của giới thanh thiếu niên là thánh Gioan Bốt cô linh mục. Xin Chúa cũng đốt lửa yêu mến trong lòng chúng con, để chúng con biết phụng sự một mình Chúa, và lo cho anh em được cứu độ. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen
- Viết bởi Lm.Alexandre de Rhodes. S.J. (Lm. Nguyễn Ðức Việt Châu, SSS)
Thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm, Chánh Án (1780-1859)
- Lễ ngày 13 tháng 01
Thánh Đa Minh Phạm Trọng Khảm sinh năm 1780 tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, nay thuộc giáo phận Bùi Chu. Ngài là con trưởng của ông bà Phạm Tri Khiêm, một gia đình giầu có và danh tiếng trong làng. Ngài hấp thụ được nhiều đức tính tốt của cha và là một người con ngoan, hiếu thảo của gia đình họ Phạm. Gia đình ông Phạm Tri Khiêm là một gia đình Công giáo và ông đã giáo dục bảy người con của ông rất nghiêm túc theo tinh thần Công giáo, đạo đức và đức tin vững chắc.
Năm 18 tuổi, cậu Đa Minh Phạm Trọng Khảm đã lập gia đình với cô Agnès Phượng, một thiếu nữ đạo hạnh cũng là người làng Quần Cống. Hai người sống rất gương mẫu về lòng đạo đức, tốt lành. Gia đình đầm ấm, hoà thuận, yêu thương nhau, sinh con cái và đồng tâm nhất trí giáo dục con cái trở thành những người Công giáo đạo hạnh. Người con trai lớn của Ngài sau làm Chánh Tổng, được mọi người kính nể, đó là Chánh Tổng Phạm Trọng Thìn, sau cũng anh dũng làm chứng cho Chúa và được phúc tử đạo cùng với cha là thánh Đa Minh Phạm Trọng Khảm. Ngoài ông Tổng Thìn, Ngài còn ba người con gái tên là bà Nhiêu Côn, Nhiêu Trữ và Hậu Địch, cũng được học hành và nổi tiếng là hiền lành, khôn ngoan đạo đức.
Nhờ sự săn sóc hướng dẫn của cha là ông Phạm Trọng Khiêm nên cậu Khảm học hành thành đạt, sau làm tới quan Chánh Án. Mọi người trong làng xứ đều nhìn nhận cụ Án Khảm là người đạo đức, giầu lòng bác ái, và nhiệt tình trong mọi công việc cụ đã đảm nhận. Đối với mọi người trong xóm làng cụ hết tình bênh đỡ khi có việc phải cậy nhờ đến cụ. Riêng đối với Giáo Hội và những vị Thừa Sai lo việc truyền giáo thì cụ rất chú tâm giúp đỡ về mọi phương diện. Vì thế, lúc gặp khó khăn vì đạo bị cấm cách, cụ thường đón nhận các Giám mục, Linh mục Thừa Sai đến trú ngụ tại nhà cụ và cụ tìm mọi cách giúp các vị Thừa Sai này thi hành mục vụ trong những trường hợp kín đáo và khôn khéo.
Trước khi quân lính từ tỉnh Nam Định về vây làng Quần Cống, cụ Án Khảm đã khích lệ dân chúng hãy vững lòng bền chí trung thành với đạo Chúa. Cụ còn nói thêm với dân chúng rằng:
- Nếu có ai bước qua Thập Giá để chối đạo, thì khi quan rút rồi, làng sẽ không nhìn nhận người này khi còn sống cũng như khi chết sẽ không được chôn trong nghĩa địa của làng. Khi quan quân tới vây làng và bắt tập trung mọi người trong đình làng, quan phủ nói với cụ án Khảm:
- Các Thừa Sai có người là ngoại quốc, có người là người bản xứ và Thầy Giảng nữa, Ông có chứa chấp không? Nếu không xưng mà ta bắt được thì mọi tài sản sẽ bị tịch thu và bị xử tử.
Cụ Án Khảm thưa:
- Đạo chúng tôi luôn có linh mục. Nhưng các Ngài ở đâu tôi không được biết. Nếu quan bắt được thì tùy ý, quan muốn xử thế nào thì xử.
Quan ra lệnh bắt mọi người phải bước qua Thập Giá, cụ Án Khảm thấy một cụ già run rẩy khi bước tới gần Thập Giá do dự chưa dám bước qua, cụ Án Khảm liền chặn lại. Quan phủ nổi giận quát lớn tiếng:
- Ta sẽ mất chức, nếu Phạm Trọng Khảm không bị giết và tịch thu tài sản.
Nói rồi quan ra lệnh bắt trói cụ Án Khảm và cho lính tới nhà tịch thu các đồ đạo và những đồ vật qúi báu trong nhà. Cụ Án Khảm nói với quan phủ”.
- Các ông lấy đồ gì của tôi thì lấy nhưng các đồ đạo của nhà thờ và của nhân dân thì đừng xâm phạm tới.
Sau đó, quan ra lệnh bắt trót tất cả những người không buớc qua Thập Giá và cả cụ Án Khảm giải về tỉnh Nam Định. Năm ấy cụ Án Khảm đã 80 tuổi.
Lên tới tỉnh thì cụ Án Khảm cùng đông đủ các anh hùng đức tin làng Quần Cống vui mừng gặp Đức Cha Sampedro Xuyên đã bị bắt ở Kiên Lao và đang bị giam giữ tại đó, cụ và mọi người hân hoan kính chào Đức Cha mà không ai sợ hãi các quan. Đức Cha khuyên mọi người hãy can đảm lên và kiên trì tới cùng để được hạnh phúc tử vì đạo. Thế rồi họ tống mọi người vào nhà giam, chỉ còn một mình cụ Án Khám được ở lại đối chất với các quan.
Quan tổng đốc tỉnh Nam Định hỏi:
- Ngươi nói là không chứa chấp đạo trưởng, sao khi vừa gặp Giám mục Sampedro các ngươi đã tỏ ra vui mừng, quen biết và cung kính?
Cụ Án Khảm trả lời:
- Chúng tôi vui mừng vì được gặp người Cha Chung. Trong đạo chúng tôi, chúng tôi rất kính trọng các đạo trưởng.
Quan còn hỏi cụ nhiều điều nữa nhưng nhất định cụ không khai báo tông tích bất cứ một người nào. Quan tổng đốc lại ngọt ngào khuyên cụ bước qua Thập Giá rồi quan sẽ cho cụ về và hoàn trả tất cả đồ đạc đã tịch thu. Nhưng cụ Án Khảm khiêm tốn cảm ơn mỹ ý của quan tổng đốc, còn việc chối đạo thì chắc chắn sẽ không bao giờ chấp nhận . Quan tổng đốc ra lệnh nhốt riêng cụ để không ảnh hưởng được những tù nhân khác. Nhưng bằng mọi cách, cụ vẫn liên hệ và khuyên bảo mọi người hãy can đảm, bền chí để Chúa thưởng công, Chúa sẽ tiếp sức, đừng sợ hãi.
Vì cụ đã 80 tuổi nên các quan không đánh đập cụ như những người khác, cũng không hành hạ cụ nhịn đói, nhịn khát và đeo xiềng xích khổ cực. Sau bốn tháng trời thuyết phục bị thất bại không làm cho cụ Án Khảm bước qua Thập Giá, các quan quyết định làm án tử hình.
Ngày 13 tháng 1 năm 1859, cụ bị giải ra pháp trường. Vì tuổi cụ đã cao và bị đày đọa trong nhà giam khá lâu nên sức khoẻ cụ bị kiệt quệ. Trước khi tiến ra pháp trường cụ đã được cha Lương và cha Duyệt cùng bị tù giải tội và chúc lành cho cụ.
Tới pháp trường cụ quì gối đọc kinh tạ ơn Chúa rồi nằm trên chiếc chiếu, lý hình tròng giây qua cổ rồi kéo hai đầu giây, cụ bị thắt cổ mà chết. Đứng vòng ngoài nhìn thấy cụ già 80 tuổi bị cuốn giây vào cổ rồi kéo hai đầu giây đến tắt thở thì nhiều người kêu rú lên:
- Trời ơi! Cụ già chết rồi! Ngộp thở mà chết!
- Án tử hình gì mà độc ác đến thế! Thắt cổ người ta!
Mấy người con đứng xa xa kêu lên:
- Con phó dâng linh hồn bố chúng con cho Chúa.
Có nhiều tiếng khóc nức nở vọng lên giữa bầu trời âm u, thiếu ánh sáng mặt trời. Sau khi chết quân lính còn đốt cháy tay chân và mặt cụ nữa. Mọi việc đã hoàn tất, thân nhân và các tín hữu xin xác cụ về an táng. Hai anh Đa Minh Nhượng và Đa Minh Diên là những người đã nhận xác và đưa về an táng tại nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi ở giáo xứ Quần Cống, thuộc giáo phận Bùi Chu.
Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong Ngài lên bậc Chân Phước ngày 29 tháng 4 năm 1851 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn vinh Ngài lên hàng Hiển Thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988. Chúng ta cảm tạ Chúa thay cho Ngài và xin Ngài bầu cử cùng Chúa cho chúng ta nữa.
Lm.Alexandre de Rhodes. S.J. (Lm. Nguyễn Ðức Việt Châu, SSS)
- Viết bởi Lm.Alexandre de Rhodes. S.J. (Lm. Nguyễn Ðức Việt Châu, SSS)
Thánh Luca Phạm Trọng Thìn, Chánh Tổng (1820-1859)
- Lễ ngày 13 tháng 01
Thánh Luca Phạm Trọng Thìn, theo bản án của triều đình thì viết là Phạm Viết Thìn, sinh năm 1820 tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, nay thuộc giáo phận Bùi Chu, Ngài là con cụ Án Phạm Trọng Khảm và bà Agnès Phượng. Nhờ gia đình khá giả nên Ngài được học hành đỗ đạt tốt, mới 30 tuổi đã làm tới chức Chánh Tổng. Ngài kết bạn với cô Maria Tâm là một thiếu nữ đạo hạnh hiền lành, người cùng làng. Hai người sống với nhau rất hạnh phúc. Nhưng vì chức vụ luôn phải đi xa nhà và còn trẻ tuổi nên dễ bị bạn bè lôi cuốn đi vào con đường tội lỗi. Dần dần Ngài đã làm quen thân với một thiếu nữ tên là Trung người làng Trà Lũ, cô này rất duyên dáng, rồi sau đó cưới làm vợ nhỏ.
Từ đó việc đạo đức trở nên nguội lạnh, bỏ cả việc xưng tội rước lễ. Người vợ cả là cô Tâm rất đau khổ, âm thầm cầu nguyện xin Chúa thương, sớm giúp ông trở về với Chúa và gia đình. Sau một thời gian thì Ngài bị bệnh rất trầm trọng, tưởng là chết, cha Ngài là cụ Án Khảm hết lời khuyên bảo, nhất là nhờ lời khuyên dậy của cha giải tội, Ngài đã xưng tội và chân thành sám hối rồi làm giấy dứt khoát từ bỏ người vợ nhỏ này. Ngài lại hứa với Chúa và gia đình nếu Chúa cho sống thì Ngài sẽ cố gắng lập công đức để đền tội lỗi và sẽ sống cuộc đời đạo hạnh hơn. Khi khỏi bệnh, Ngài đã thật sự làm lại cuộc đời và sống rất tốt lành thánh thiện, xây dựng một gia đình gương mẫu, một thành viên dòng ba Đa Minh rất sốt sắng.
Triều đại vua Tự Đức năm thứ XI cũng chính là thời kỳ vua Tự Đức ra những sắc chỉ cấm đạo ác nghiệt nhất, vì khi ấy liên quân Pháp và Tây Ban Nha, lăm le tiến vào Đà Nẵng nên vua lại càng lo sợ và càng ra tay tiêu diệt đạo Gia-Tô của tây phương đem tới, vì vua được các quan triều đình đệ trình rằng đạo Gia Tô là chiêu bài của quân đội liên quân Pháp và Tây Ban Nha. Vua Tự Đức tin chắc như thế nên tìm mọi cách để tiêu diệt đạo và các Thừa Sai ngoại quốc.
Trước tình thế dầu sôi lửa bỏng như thế Đức Cha Sampedro Xuyên liền cậy nhờ hai ông Chánh Tổng Phạm Trọng Thìn và ông Chánh Tổng Phạm Trọng Tả là hai người tín hữu rất đạo đức và có uy tín làm sứ giả hoà bình, tới gặp Tổng Đốc Nam Định lúc ấy là ông Nguyễn Đình Tân, xin ông nhẹ tay cho các tín hữu được an bình giữ đạo. Hai ông hứa với quan Tổng Đốc Nam Định là sẽ kêu gọi toàn dân Công giáo sẽ trung thành với Đức Vua. Cuộc dàn xếp đang trên đường tiến triển tốt đẹp thì không may tại làng Cao Xá có một người tín hữu bất mãn với chính sách nhà nước, đã xúi giục dân chúng nổi loạn chống lại các quan. Được tin cấp báo này, quan Tổng Đốc nổi giận, ra lệnh bắt ông Thìn và ông Tả kết tội hai ông này lừa dối, là nội gián và truyền lệnh tiếp tục truy nã bắt hết các đạo trưởng, các linh mục, các Thừa Sai và tất cả các tín hữu. Quan lại cho lính về vây làng Quần Cống vì có mật báo cho biết là trong làng này chứa chấp nhiều đạo trưởng. Quân lính xông xáo lục bới từng nhà, kết quả là bắt được Đức Cha Sampedro Xuyên và cha Estevey đang trú ngụ tại đó.
Quan Tổng Đốc cho dẫn ông Phạm Trọng Thìn ra toà đã ba bốn lần để khuyên dụ bước qua Thập Giá rồi sẽ tha cho về. Nhưng vẫn một mực từ chối, dứt khoát không bao giờ ông bước qua Thập Giá. Dù bị dọa nạt, tra tấn, kìm kẹp thì Ngài vẫn giữ một lòng cương quyết không quá khoá, không bỏ đạo. Khuyên dụ không được, quan bắt Ngài viết những suy nghĩ của mình trên giấy. Ngài đã can đảm viết rành mạch bản tuyên xưng Đức Tin của Ngài như sau:
- Tôi là một Kitô hữu, tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ. Tôi tin kính và thờ phượng Chúa tôi hết lòng. Dù phải chết tôi cũng không bỏ Chúa tôi. Chính tay tôi viết những điều này. Luca Thìn”.
Nhìn thấy thái độ cương quyết của Ngài, quan ra lệnh xích tay chân và tống giam vào ngục. Ban ngày phải mang xiếng xích nặng nề, ban đêm hai chân bị cùm vào xà lim rất đau đớn nhưng Ngài vẫn một niềm hân hoan, vui vẻ, không sợ đánh đòn hay bất cứ hình khổ nào. Những người ngoại đạo thấy Ngài bị xiềng xích, hành hạ khổ sở quá thì khuyên Ngài bước qua Thập Giá để trở về với gia đình, giữ được của cải lại còn quyền chức nữa:
Ngài trả lời:
- Xin các bạn để tôi yên, đừng nói với tôi những điều này. Tôi thà mất hết chức quyền, của cải còn hơn là tôi chối bỏ Chúa tôi.
Ông Đương tuy là người khác đạo nhưng rất quen biết Ngài vì đã có thời kỳ làm việc trong tổng với Ngài nên an ủi Ngài:
- Này ông tổng, ông nghe tôi, cứ bước qua Thập Giá để được tha. Ông được tha lại được phục hồi chức quyền rồi xin ông giúp tôi được giảm án trở về thì tôi biết ơn ông vô cùng. Tôi biết nếu ông xin thì thế nào các quan cũng tha cho tôi. Tôi không phải là người theo đạo Gia Tô nhưng tôi nghe nói nếu ông chối đạo để được về rồi sau đi xưng tội thì cũng được tha, có phải như thế không?”
Ngài vui vẻ nói lại:
- Này ông, tôi không muốn lừa Thiên Chúa là Chúa tôi thờ. Cố ý chối Chúa rồi đi xưng tội để được tha là một hành động lừa dối Chúa đó ông ạ. Chúa biết hết mọi sự ta nghĩ, ta làm. Tôi không bao giờ làm như thế. Tôi sẽ cầu nguyện cho ông mà thôi. Riêng tôi, tôi thà chịu chết vì Chúa tôi thờ chứ bỏ Ngài, chối Ngài thì nhất quyết không bao giờ có chuyện đó xẩy ra với tôi.
Tới đầu tháng 7 năm ấy, giữa lúc Ngài còn đang bị giam tù, bị đánh đập quá sức thì may mắn Ngài lại được gặp cha mình là cụ Án Khảm cũng đã bị bắt và giải về nhà giam Nam Định. Hai cha con vui mừng vì được gặp nhau và cùng bị đem ra xử. Ngài hân hoan và thêm can đảm vì biết rằng cả hai cha con sẽ được phúc chết vì Chúa. Thế rồi vài ngày sau, Đức Cha Sampedro Xuyên cũng bị bắt và giải về Nam Định. Quan thử lòng cho ông Luca Thìn ra gặp Đức Cha. Vừa thấy Đức Cha bị trói, ông Luca Thìn liền quì gối kính cẩn chào Đức Cha. Thấy thái độ cung kính ấy, quan nổi giận cho đánh đòn rồi lôi vào ngục.Bị giam tù, chịu nhiều hình khổ, đánh đập, nhịn ăn nhịn khát, tra tấn trong suốt hơn bốn tháng trời. Các quan thấy không thể thuyết phục được nên làm án tử hình.
Khi biết tin bị tử hình, ông Luca Phạm Trọng Thìn không biết bị kết án về tội gì nên tới hỏi quan đốc:
- Thưa quan tôi bị kết án vì tội gỉ?
Quan tổng đốc trả lời:
- Về tội phản nghịch, đưa Thừa Sai ngoại quốc vào nước.
Ngài nói lại:
- Chúng tôi tiếp đón đạo trưởng tây phương và theo đạo Gia Tô. Nhưng không bao giờ chúng tôi chống lại vua.
Quan tổng đốc nói tiếp:
- Nguyên việc đón tiếp đạo trưởng tây phương và theo đạo Gia Tô đã đáng chết rồi vì vua đã ra lệnh cấm theo đạo này và ngươi đã không bước qua Thập Giá.
Biết được lý do chính đáng chết vì đạo, Ngài vui mừng cảm tạ Chúa và dọn mình sốt sắng để được lãnh nhận ơn phúc trọng đại này.
Theo án lệnh thì ngày 13 tháng 1 năm 1859 thánh Luca Phạm Trọng Thìn phải tử hình, Ngài đã hân hoan cầm trên tay và giơ cao Thánh Giá tiến ra pháp trường Bảy Mẫu Nam Định lãnh triều thiên Tử Đạo, cùng với thánh Đa Minh Phạm Trọng Khảm, thánh Giuse Phạm Trọng Tả, Đa Minh Sơn, Gioan Tăng, Lê Lý và bốn người giáo dân khác nữa. Tất cả cùng nhau miệng đọc kinh lớn tiếng, chân bước đều, lòng hân hoan, nét mặt tươi cười, không ai tỏ vẻ lo sợ trước giờ chết. Tới nơi xử, các Ngài còn đọc kinh Tin Cậy Mến, kinh Ăn Năn Tội rồi lớn tiếng kêu ba lần:
- Giêsu, Maria chúng con phó linh hồn chúng con trong tay Chúa!
Sau đó, đội lý hình đẩy các vị nằm ngửa trên chiếu rồi trói chân tay từng người vào cọc đã chôn sẵn. Mỗi vị bốn lý hình cầm hai đầu giây thừng tròng qua cổ và kéo thật mạnh cho đến khi tắt thở.
Vợ con đứng từ xa xa chứng kiến cái chết anh hùng của chồng, của cha thì kêu rú lên:
- Lạy Chúa, xin đón nhận linh hồn Luca về với Chúa.
Những tiếng khóc nức nở xen lẫn những tiếng kêu la ồn ào trước cảnh xử giảo một anh hùng chứng nhân của Đức Tin.
Sau các Ngài đã tắt thở lý hình còn đốt chân tay và mặt các Ngài. Mọi sự hoàn tất, giáo dân Quần Cống tới xin rước xác các Ngài về chôn tại nhà thờ xứ đạo.
Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong Ngài lên bậc Chân Phước ngày 29 tháng 4 năm 1851 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn vinh Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988. Chúng ta cảm tạ Chúa thay cho Ngài và xin Ngài bầu cử cùng Chúa cho chúng ta nữa.
Lm.Alexandre de Rhodes. S.J. (Lm. Nguyễn Ðức Việt Châu, SSS)
- Viết bởi Lm.Alexandre de Rhodes. S.J. (Lm. Nguyễn Ðức Việt Châu, SSS)
Thánh Giuse Phạm Trọng Tả, Chánh Tổng (1800-1859)
- Lễ ngày 13 tháng 01
Thánh Giuse Phạm Trọng Tả sinh năm 1800 tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, nay thuộc giáo phận Bùi Chu. Ngài là con ông Đa Minh Phạm Thăng, anh em thúc bá với thánh Đa Minh Phạm Trọng Khảm. Ngài làm Chánh Tổng trước thánh Luca Phạm Trọng Thìn, Ngài cũng lập gia đình nhưng người vợ đã chết sớm. Lý do Ngài bị bắt đã kể trong chuyện thánh Luca Phạm Trọng Thìn. Hai Ngài được Đức Cha Sampedro ủy thác việc dàn xếp với quan Tổng đốc Nguyễn Đình Tân xin nhẹ tay đối với người Công giáo và hứa sẽ trung thành với vua.
Câu chuyện điều đình gần đi tới kết quả tốt đẹp thì chuyện không may xẩy đến tại làng Cao Xá làm quan Tổng đốc bực mình và sinh lòng nghi ngờ thiện chí của các Ngài, kết án các Ngài là nội gián, lừa bịp quan Tổng đốc, âm mưu làm loạn. Quan Tổng đốc ra lệnh bắt các Ngài luôn. Khi bị bắt thánh Giuse Phạm Trọng Tả đã 60 tuổi. Ngài là cựu Chánh Tổng, sống đời sống rất an bình chừng mực, đạo đức. Ngài đã vào Hội dòng Ba Đa Minh và làm chủ Hội. Ngài sốt sắng làm các việc đạo đức, yêu thương và hay giúp đỡ mọi người và tìm mọi cách giúp những người đồng đạo thực hành đức tin trong hoàn cảnh khó khăn của thời cấm cách.
Đặc điểm nổi bật trong đời Ngài là lòng thương người. Ngài hay bố thí và phân phát thóc lúa cho những người nghèo khó. Cho những người nghèo khó vay mượn Ngài chỉ lấy lại một phần, những người nghèo túng quá thì Ngài cho luôn. Ngài rất để ý tới những người làm công thuê mướn cho Ngài. Chính vì lòng yêu thương này mà ai ai trong làng xóm đều qúi mến và kính trọng Ngài như người cha của mình.
Thế rồi khi bị bắt, quan quân cố tình ép buộc Ngài bước qua Thập Giá, đạp lên ảnh tượng, Ngài đã mạnh bạo xưng đạo, cương quyết một lòng tin theo Chúa, yêu mến Chúa, dầu có phải chết hay chịu trăm ngàn sự khó thì Ngài cũng can đảm chịu hết chứ nhất định không chối Chúa, không phạm tội bước qua ảnh tượng Chúa. Lúc Ngài bị bắt, nhiều người, kể cả những người lương dân đều khóc thương Ngài. Ông Đoàn Vĩnh người làng bên cạnh không Công giáo than phiền rằng:
- Thời thế khó khăn quá! Cụ Chánh Phạm Trọng Tả là người tốt lành, yêu thương dân làng, không phân biệt lương giáo, làm gì nên tội mà bắt cụ như thế.
- Thật tội nghiệp cụ tổng! Tôi thương cụ quá! Tôi chẳng biết làm gì để giúp cụ trong lúc này. Anh Cai Bình nói thế. Nhiều người trong làng biết cụ bị bắt đem lên tỉnh giam thì tìm cách lên thăm và an ủi cụ, bày tỏ lòng kính phục cụ.
Trong những ngày tháng bị giam cầm trong tù ngục tại Nam Định, đã nhiều lần Ngài phải đối chất với các quan. Bị các quan dụ dỗ bị đe dọa đủ cách nhưng Ngài vẫn một mực cương quyết không chối Chúa. Trong nhà giam, nhiều lần Ngài bị đánh đập cực kỳ tàn nhẫn, bị kìm kẹp đau đớn nhưng không sao thuyết phục được Ngài bước qua Thập Giá, một dấu chỉ chối Chúa.
Có lần người ta khuyên Ngài giả vờ bước lên tượng Chúa để được tha thì Ngài nói:
- Đó là tội đáng ghê tởm! Giả vờ bước lên Thánh Giá cũng là một tội ghê gớm. Dầu có phải chết thì tôi cũng không thể làm như thế đuợc. Làm như thế là xúc phạm đến Chúa vô cùng.
Một hôm quan Tổng đốc và quan Chánh Án lệnh đưa Ngài ra công đường để khuyên dụ. Quan Chánh Án nói:
- Ông đã làm đến chức Chánh Tổng trong dân. Ông đã được hưởng bao ơn lộc của vua. Tại sao bây giờ ông lại chống lại vua như thế?Ông hãy vâng lệnh vua bước qua Thập Giá này.
Ngài mạnh bạo trả lời:
- Tôi luôn trung thành với vua, không bao giờ chống lại vua. Sao quan lớn lại nói như thế?.
- Trung thành với vua, sao không vâng lệnh vua bỏ đạo.
- Không bỏ đạo, không có nghĩa là chống lại vua, là không trung thành với vua.
- Tại sao không bỏ đạo là không chống lại vua?
- Tôi luôn trung thành với vua. Nhưng theo đạo Gia Tô là tôn thờ Thiên Chúa. Thiên Chúa trọng hơn vua. Phải tôn thờ Thiên Chúa hơn vâng lệnh vua mà bỏ Chúa.
Quan Tổng đốc nói tiếp:
- Ông làm việc đã lâu, tôi biết ông là người tốt, ngay thẳng, liêm khiết, nhất là có lòng thương người. Tôi biết rất rõ về ông. Tôi không muốn làm án hại ông. Bây giờ ông dẹp bỏ tự ái, dẹp bỏ lòng tin nhẹ dạ của ông, vâng lệnh vua, bước qua Thập Giá, chúng tôi sẽ tha cho ông về và còn trọng thưởng cho ông nữa để dân chúng trong tổng của ông vui mừng. Tôi biết họ rất quí mến ông.
Ngài từ tốn đáp lại:
- Bẩm các quan, tôi hết lòng cảm tạ về những lời lẽ quan lớn vừa nói với tôi. Tôi biết và hiểu như thế. Nhưng tôi không tự ái, không nhẹ dạ như quan nói. Tôi xác tín theo đạo. Bây giờ dù phải mất hết mọi sự ở trần gian này thì tôi cũng xin vui lòng chấp nhận kể cả sự chết; còn việc bước qua Thập Giá theo lệnh của vua, thì nhất định tôi không thể chiều theo ý vua và các quan lớn được. Nếu phải chết, tôi cũng vui lòng chịu chết vì đạo.
- Chúng tôi thương giúp ông mà ông không nghe thì chúng tôi phải theo lệnh vua, ông không thể trách chúng tôi.
- Bẩm các quan lớn, tôi không dám trách các quan lớn. Tôi sẽ cầu nguyện cho các quan lớn mà thôi.
Các quan thấy Ngài cương quyết không bước qua Thập Giá và sẵn lòng chấp nhận chết vì đạo, thì thất vọng, buồn rầu đứng lên, không nói gì thêm, cho lệnh đưa Ngài về ngục.
Sau những tháng ngày dài, các quan không thuyết phục được Ngài nên đã làm án tử hình cùng với thánh Khảm, thánh Thìn và 7 anh hùng đức tin của Chúa gửi về kinh và được vua chấp thuận một cách mau lẹ.
Nhận được án lệnh từ kinh đô gửi về, các quan cấp tốc thi hành. Sáng hôm ấy, trên đường tiến ra pháp trường Bảy Mẫu Nam Định, Ngài bình tĩnh, nét mặt tươi vui, miệng đọc kinh lớn tiếng. Tới nơi Ngài cùng với các vị khác quì gối đọc kinh Tin Cậy Mến, kinh Ăn Năn Tội rồi để cho các lý hình trói chân tay đặt nằm trên chiếu trải trên mặt đất. Lý hình tròng giây qua cổ rồi bốn lý hình cầm hai đầu giây kéo thật mạnh cho tới khi Ngài tắt thở thì đốt tay chân của Ngài. Thân nhân và tín hữu xô tới xin xác Ngài. Ông Đa Minh Nhượng là người đã giúp đỡ Ngài trong suốt thời gian bị tù đã vinh dự được chứng kiến cuộc xưng đạo anh dũng của Ngài, ông xin nhận xác và đưa về an táng tại giáo xứ Quần Cống, quê hương của Ngài. Ngày 3 tháng 1 năm 1866 cha Trường đã cải táng và rước Ngài về đặt tại nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi của xứ Quần Cống.
Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong Ngài lên bậc Chân Phước ngày 29 tháng 4 năm 1851 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn vinh Ngài lên hàng Hiển Thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Chúng ta cảm tạ Chúa thay cho Ngài và xin Ngài bầu cử cùng Chúa cho chúng ta nữa.
Lm.Alexandre de Rhodes. S.J. (Lm. Nguyễn Ðức Việt Châu, SSS)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Hilariô, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh (St. Hilary)
- Lễ ngày 13.01
- Phong Tiến sĩ Hội Thánh ngày 10.01.1852
Thánh Hilariô sinh tại Aquitaine nước Pháp vào năm 315 trong một gia đình thế giá và danh tiếng. Ngài là con một nhà quý tộc làm nghị viên và được giáo dục đầy đủ.
Các môn học mà thánh nhân ưa thích là văn chương, thi ca, nhất là triết lý. Việc học tập của ngài luôn được đào sâu cho tới cùng là Thiên Chúa, ngài nhận định:
Hạnh phúc thật của con người không phải bị những thú vui đời này, dù chúng thanh cao đến mấy đi nữa.
Trái lại, hạnh phúc là được sống cho chân lý ở một cuộc sống khác với cuộc sống tạm trên trần gian này.
Ngài nói:
Tôi khóc lên vì vui sướng mỗi khi nghĩ đến thân xác này chỉ được tiền định để phải chết đi”.
Nhưng làm thế nào mà thánh nhân đã gặp được chân lý, gặp được Thiên Chúa mà các triết gia và các tôn giáo thường nói tới một cách mù mờ? Chính thánh nhân kể lại cuộc khám phá của mình: “Từ môi trường ngoại giáo, Chúa đã dẫn đưa tôi tới nguồn sáng chân thực.
Giữa bao nhiêu hệ thống triết lý và tư tưởng khác nhau, tôi vẫn ưu tư tìm đến Chúa bằng con đường ngay thật, chắc chắn hữu thể thần linh vĩnh cửu phải là đơn thuần và độc nhất, không có gì là không bắt nguồn tự ngài, vạn vật đều phải thờ phượng ngài”.
Xác tín rằng phải có Chúa, ngài còn suy nghĩ về các phẩm tính thần linh của Chúa.
- Nếu một công trình vượt quá trí khôn chúng ta, thì nhà nghệ sĩ thần linh còn trổi vượt công trình đó thế nào? Vậy phải nhận biết rằng, Thiên Chúa tuyệt mỹ và chúng ta chỉ cảm nhận mà chúng ta không thể thấu hiểu nổi.
Trong khi còn miên man suy nghĩ như vậy. Thánh nhân bỗng gặp được một cuốn Kinh Thánh. Ngài đọc được đoạn văn trên Chúa hiện ra với Môsê và tự bày tỏ: Ta là Đấng hiện hữu.
Ngài sung sướng với khám phá này: “Tôi vui thoả với danh hiệu mà Thiên Chúa đã tỏ ra cho Môsê. Thánh danh ấy vừa biểu lộ một quan niệm sâu xa về Thiên Chúa, lại vừa tầm với trí óc con người.
Từ đó thánh nhân say mê nghiên cứu Thánh Kinh, nhất là các sách tiên tri với những đoạn loan báo về Đấng Thiên Sai. Trong các sách Tin Mừng, ngài thích nhất tự ngôn của Tin Mừng theo Thánh Gioan.
– “Trí tôi học biết và Thiên Chúa vượt quá điều nó dám ước mong... lòng tôi run rẩy bồn chồn vì vui sướng trước giáo thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và trước lời mời gọi tái sinh nhờ đức tin”.
Thế là thánh nhân đã lãnh nhận phép rửa tội và cảm thấy hạnh phúc lạ lùng. Ngài đã lập gia đình và có được một người con gái. Rồi đây ngài sẽ đưa cả vợ con về với đức tin. Khi ngài muốn trở thành linh mục, vợ ngài chỉ còn gặp lại ngài tại bàn thánh và coi ngài như một người anh. Nhân đức và trí khôn ngoại hạng còn đưa ngài tới chức giám mục cai quản địa phận Pcachie (Poutiers) năm 350.
Lúc ấy lạc giáo Ariô nổi lên như vũ bão trong Giáo Hội. Vua Constantiô ủng hộ lạc giáo và tiếp tay cho cuộc bách hại. Thánh Athanasiô bị bắt đi lưu đày. Thánh Hilariô đứng lên lãnh đạo công cuộc bảo vệ đức tin chân chính. Ngài triệu tập một công đồng để lên án hai giám mục theo lạc giáo.
Cộng đồng còn cử ngài đi thương thuyết với nhà vua. Nhưng lòng can đảm của ngài đã bị trừng phạt bằng cuộc lưu đày năm 356, chấp nhận gian khổ, ngài tuyên bố:
- “Người ta có thể bắt các giám mục lưu đày, nhưng có thể trục xuất chân lý được không?”
Cuộc hành trình tới Phrygia nằm ở cuối miền Tiểu Á thật dài và đầy gian khổ. Nhưng thánh nhân đã không hề phàn nàn mà vẫn bình thản sống mật thiết kết hợp với Chúa. Đầy dũng cảm, ngài vẫn tiếp tục làm rung chuyển thế giới bằng công việc viết lách của mình.
Ngài nói: “Dầu bị lưu đày, chúng tôi vẫn tiếp tục nói bằng sách vở, bởi vì người ta không thể giam hãm lời Chúa”.
Ngài đã viết 12 khảo luận bàn về Chúa Ba Ngôi, và đưa giáo thuyết chân chính của Công giáo với những tư tưởng kinh tế của Hylạp vào thổ ngữ. Ngài tiếp tục điều khiển giáo phận bằng thư tín. Cũng vào thời này, thánh nhân dịu dàng hướng dẫn Ebra, người con gái của mình tới đời sống thánh thện. Một bức thư ngài viết trong buổi lưu đày còn sót lại có khuyên nhủ nàng tận hiến cho Chúa như sau:
- “Con thân yêu, con là đứa con duy nhất của cha, cha muốn thấy con đẹp nhất và đẹp nhất trong các phụ nữ. Người ta nói với cha về một thanh niên có một viên ngọc quý và một bộ áo quí giá đến nỗi ai mà có được những thứ đó thì sẽ là người giàu có hơn hết mọi người”.
Và thánh nhân kể lại rằng: phải khó khăn lâu ngày, ngài mới gặp được người thanh niên này để xin Người ban viên ngọc và chiếc áo ấy cho Ebra. Bên chiếc áo này, tuyết hết trắng, không có một vết nhơ nào có thể bôi bẩn, không một tai nạn nào có thể xé rách. Còn viên ngọc, không vật nào chịu nổi vẻ rực rỡ huy hoàng, chẳng bao giờ tàn sắc, ai mang được sẽ hết khổ và không phải chết.
Và Ngài tiếp: Đấy là những món trang sức mà cha ước ao, những thứ ban ơn cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu.
Ngài còn gửi cho cô những khúc thánh thi để cô ca nguyện sớm chiều. Ebra sớm theo ước nguyện của người cha nhưng cũng sớm lìa trần.
Bốn năm trôi qua, Hoàng đế cho triệu tập công đồng Sêlêucia. May mắn ngài cũng được mời dự. Tại đây ngài đã dùng hết tài hùng biện và trí thông minh để chống lạc giáo, bảo vệ đức tin chân chính. Không chịu nổi ảnh hưởng của ngài. Bọn theo lạc giáo đã can thiệp để ngài về quê hương cho rảnh rợ. Thế là năm 360, Đức Giám mục Hilariô được trở về Poachiê.
Cuộc hồi hương của thánh nhân là niềm vui cho toàn dân chứ không riêng gì cho giáo phận Poachiê. Thánh Hiêrônumô đã nói: “Toàn dân Gôn (Gaules) ôm hôn vị anh hùng tay mang ngành vạn tuế trở về”.
Trong đoàn người đông đảo đón mừng người cha già, phải kể đến một người lính trẻ tên là Martinô. Lúc ấy Martinô đang sống ẩn dật ở Ganlinaria và sau này sẽ làm thánh giám mục. Ngày về của vị giám mục già cả còn được ghi dấu bằng một phép lạ nhãn tiền.
Một bà mẹ khóc lóc ôm một đứa con mới chết gặp ngài. Bà tha thiết xin thánh nhân cứu sống con mình, ít ra để nó được rửa tội. Cảm tưởng nỗi niềm đau đớn của người thiếu phụ, ngài quỳ gối cầu nguyện và da thịt đứa trẻ dần dần đỏ hồng rồi sống lại.
Tuổi già sức yếu nhưng thánh nhân vẫn nhiệt thành chỉnh đốn lại những tàn phá do bè rối gây nên. Lòng nhiệt thành đã đưa Ngài tới tận Milan khiến bọn lạc giáo kinh hoàng và làm áp lực bắt Ngài phải trở lại Poachiê. Ngày 13.01.386 tại Bordeaux, ngài đã qua đời. Người ta kể lại rằng lúc thánh nhân tử trần, một luồng chói chang khắp phòng.
Ngày 10.01.1852, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị giám mục. Đức Giáo hoàng phong ngài lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh. Ngài là vị thánh tiến sĩ đầu tiên ở Gôn.
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 11.1: Chân phước William Carter (1548-1584)
Lược sử:
Sinh ở Luân Đôn, William Carter bước vào nghề in ngay từ khi còn nhỏ. Trong nhiều năm, ông phụ việc cho một người thợ in Công Giáo nổi tiếng, người này bị cầm tù vì kiên trì với đức tin Công Giáo. Chính ông William cũng bị tù vì "in những tài liệu bị cấm [Công Giáo]" cũng như cất giữ các sách vở có liên can đến đạo Công Giáo.
Hơn thế nữa, ông còn chống đối nhà cầm quyền bằng cách phát hành các truyền đơn nhằm duy trì đức tin của người Công Giáo. Nhà chức trách lục soát nhà ông còn tìm thấy các áo lễ và sách lễ, ngay cả họ còn tra tấn vợ ông để tra khảo. Trong 18 tháng tiếp đó ông bị cầm tù, bị tra tấn và thật đau khổ khi được biết vợ ông từ trần.
Hiển nhiên ông bị buộc tội in ấn và phát hành tập Luận Án về Ly Giáo mà chính quyền cho là do một người "phản quốc" viết để thúc giục người Công Giáo nổi loạn. Trong khi ông bình thản phó thác vào Thiên Chúa, bồi thẩm đoàn chỉ họp có 15 phút trước khi kết luận là ông "có tội." Sau khi xưng tội với vị linh mục cùng bị bắt, ông William đã bị treo cổ và phân thây vào ngày 11-1-1584.
Ông được phong chân phước năm 1987.
Suy niệm 1: Trẻ nhỏ
Sinh ở Luân Đôn, Guyliam Cáctơ (William Carter) bước vào nghề in ngay từ khi còn nhỏ.
Thật đáng thương thay cho hoàn cảnh của nhiều trẻ nhỏ thuộc gia đình hạ lưu nghèo khó. Họ không có đủ điều kiện dồi dào kinh tế, để giúp con cái đầu tư hoàn toàn thì giờ cho việc học hành, mà đòi buộc chúng phải đi làm thêm kiếm tiền.
Ngược lại thật phúc cho Saolô được lớn lên trong một gia đình thượng lưu giàu có. Ngài đã được gởi đến Giêrusalem để được thụ giáo dưới chân thầy Gamalien Cả, là cháu của vị thầy vĩ đại Hilen, và được làm công dân Rôma (Cv 22,25-28).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho giới trẻ biết chú tâm học hành, để không phụ lòng cha mẹ đã lao tâm lao lực lo cho chúng.
Suy niệm 2: Cầm tù vì đức tin
Trong nhiều năm, Guyliam Cáctơ phụ việc cho một người thợ in Công Giáo nổi tiếng, người này bị cầm tù vì kiên trì với đức tin Công Giáo. Chính ông Guyliam cũng bị tù vì "in những tài liệu bị cấm [Công Giáo]" cũng như cất giữ các sách vở có liên can đến đạo Công Giáo.
Trên đời này, không thiếu những người bị cầm tù vì những lý do khác nhau, trong đó phải kể đến một nguyên do nổi bật, đó là bị cầm tù vì kiên trì với đức tin Công Giáo. Các tông đồ Phêrô và Phaolô là những nhân chứng đầu tiên bị xiềng xích lao tù vì đức tin (Cv 12,6;16,23).
Không chỉ nhiều nơi trên thế giới, mà ngay cả trên mãnh đất Việt Nam dấu yêu này, cũng xuất hiện vô số các vị anh hùng tử đạo đã bị giam cầm, bị nhục hình rồi đổ máu đào, trong đó có 117 vị được tuyên dương hiển thánh, được mừng kính trọng thể vào ngày 24 tháng 11 hằng năm, trong niên lịch phụng vụ.
* Lạy Chúa Giêsu, bị giam cầm và bị chết vì đức tin thật là những tấm gương anh dũng, nhưng kiên trì sống đức tin giữa một xã hội chủ trương vô tín ngưỡng cũng thật là phi thường. Xin Chúa giúp chúng con.
Suy niệm 3: Tra tấn
Guyliam Cáctơ bị cầm tù, bị tra tấn và thật đau khổ khi được biết vợ ông từ trần.
Thông thường cuộc tra tấn nhắm vào thân xác, như cuộc tử đạo của bảy anh em được kể ở Quyển 2 sách Macabê: cắt lưỡi, lột da đầu, chặt cụt tay chân, nướng trong lò lửa. Thánh Phaolô thì bị vị chỉ huy cơ đội tra tấn bằng việc đánh đòn (Cv 22,24).
Đức Giêsu thì bị tra tấn cả về mặt tinh thần với các hành vi chế giễu của binh lính hành hình (Mc 15,20), với các lời nhục mạ và sỉ vả nhạo cười của đám người trên đồi Canvê (Mt 27,39-44), với bản án bị hàm oan và tử hình thập giá (Ga 19,16).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm chấp nhận bị tra tấn cả về mặt tinh thần cũng như thể xác, miễn là được hưởng một sự sống lại tốt đẹp hơn (Dt 11,35).
Suy niệm 4: Buộc tội
Hiển nhiên ông bị buộc tội in ấn và phát hành tập Luận Án về Ly Giáo mà chính quyền cho là do một người "phản quốc" viết để thúc giục người Công Giáo nổi loạn.
Để bảo vệ công lý, Sách Đệ Nhị Luật quy định: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” (Đnl 19,15).
Trong thực tế, lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng, bất chấp sự thật, công lý hay lẽ phải là thế nào. Đó là trường hợp mà các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng Dothái đã sử dụng, để không ngần ngại tìm chứng gian buộc tội Đức Giêsu, để rồi xúi đám đông đòi tha tên Baraba mà giết Giêsu (Mt 26,59;27,20).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con, dầu ở trong bất cứ tình huống nào, chúng con luôn xác tín rằng: sự thật sẽ giải thoát chúng con (Ga 8,32).
Suy niệm 5: Họp
Trong khi ông Guyliam bình thản phó thác vào Thiên Chúa, bồi thẩm đoàn chỉ họp có 15 phút trước khi kết luận là ông "có tội".
Đúng là một cuộc họp mang tính hình thức, vì quyết định vốn đã có sẵn từ trước. Đó cũng là trường hợp mà Đức Giêsu đã gặp phải. Thượng Hội Đồng Dothái có họp bàn với nhau là để thực hiện ý đồ vốn có là giết cho bằng được Đức Giêsu (Mt 26,3;Mc 15,11), thậm chí bàn bạc cho lính canh một số tiền là nhằm giải thích sự kiện mồ trống: thi hài Chúa bị môn đồ Ngài lấy trộm chứ không phải sống lại (Mt 28,12-15).
Đáng lý ra một cuộc họp bàn phải hoàn toàn bình đẳng và tôn vinh công lý. Kết luận chỉ đến từ bầu khí trong lành đó. Chẳng hạn cuộc thương nghị tốt đẹp giữa tướng Nicanô và thủ lãnh Giuđa (2Mcb 14,20-24), cũng như cuộc họp giữa vị chỉ huy Rôma và Thượng Hội Đồng Dothái về trường hợp của Phaolô (Cv 22,30).
* Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng đã được Thiên Chúa ấn định để xét xử thiên hạ theo công lý (Cv 17,31;Kh 19,11). Chúng con bày tỏ ước mong Chúa mau đến và cho công lý mau ngự trị (2Pr 3,13).
Suy niệm 6: Xưng tội
Sau khi xưng tội với vị linh mục cùng bị bắt, ông Guyliam đã bị treo cổ và phân thây vào ngày 11-1-1584.
Thông thường hối nhân xưng tội ở tòa giải tội. Nhưng trong thực tế địa điểm và phương thức tòa cũng không quan trọng cho bằng lòng thống hối chân thành. Guyliam đã xưng tội và được ơn tha tội ở chốn lao tù. Trên đồi Canvê, người trộm lành chẳng những được Đức Giêsu tha tội, mà còn được hứa ban nước thiên đàng ngay sau khi chết (Lc 23,43).
Sau khi nhận phần gia tài, người con thứ trẩy đi phương xa, ăn tiêu hết sạch, phải đi chăn heo kiếm cơm độ nhật. Cậu hối hận ăn năn tự nhủ tại trại heo, và trở về nhà xưng thú với cha: Con đã thật đắc tội với Trời và với cha (Lc 15,18-20). Quần chúng thú tội và được Gioan làm phép rửa tại sông Giođan (Mt 3,6).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu rằng: việc xưng tội cần thiết nhưng không quan trọng bằng lòng sám hối, nhất là khi không có điều kiện. Chính người phụ nữ tội lỗi đã được Đức Giêsu tha tội trong một bữa tiệc tại nhà ông Simôn, dầu không một lời xưng thú, nhưng lại có lòng sám hối được bày tỏ qua các hành vi cụ thể (Lc 7,47-48).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 10/1: Thánh Grêgôriô ở Nyssa (330 - 395)
Các học thuyết của thánh Grêgôriô chống với Arian và các sai lầm khác lừng danh đến nỗi ngài được xưng tụng là người bảo vệ chính giáo. Ngài không chỉ được coi là một trụ cột của chính giáo, nhưng còn là người đóng góp quan trọng cho các truyền thống bí nhiệm trong linh đạo Kitô Giáo và cho hệ thống đan viện.
Thánh Grêgôgiô là con út của một gia đình đã góp phần rất lớn cho Giáo Hội và gia đình ấy có ít nhất năm vị thánh.
Sinh trưởng trong thành phố bây giờ là Thổ Nhĩ Kỳ, Grêgôriô là con của hai vị thánh Basil và Emmilia, và lớn lên trong sự dẫn dắt của người anh là Thánh Basil Cả, và người chị Macrina. Sự thành công trong việc học của Grêgôriô tiên đoán một tương lai rạng rỡ. Sau khi là giáo sư hùng biện, ngài được khuyến khích dâng hiến tài năng và hoạt động cho Giáo Hội, và ngài đã gia nhập đan viện của người anh là Basil Cả. Sau khi lập gia đình, Grêgôriô tiếp tục học làm linh mục và được phong chức (vấn đề độc thân thời bấy giờ không phải là điều kiện để làm linh mục).
Ngài được chọn làm Giám Mục của Nyssa năm 372, là giai đoạn nhiều căng thẳng về bè rối Arian, họ từ chối thiên tính của Ðức Kitô. Sau một thời gian giam cầm vì bị bè rối Arian vu oan là biển thủ ngân quỹ Giáo Hội, Ðức Grêgôgiô được phục hồi quyền bính năm 378.
Chính sau cái chết của người anh yêu quý là Thánh Basil mà Ðức Grêgôgiô mới thực sự chứng tỏ khả năng của ngài. Các học thuyết của ngài chống với Arian và các sai lầm khác lừng danh đến nỗi ngài được xưng tụng là người bảo vệ chính giáo. Ngài được sai đi trong các sứ vụ chống trả các bè rối, và giữ một vị thế quan trọng trong Công Ðồng Constantinople.
Danh tiếng của ngài kéo dài cho đến khi từ trần, nhưng qua nhiều thế kỷ, danh tiếng ấy lu mờ dần khi người ta không rõ ngài có phải là tác giả của các học thuyết ấy hay không. Tuy nhiên, chúng ta phải cám ơn công trình của các học giả trong thế kỷ 20, vì nhờ đó mà tầm vóc của Thánh Grêgôriô lại được phục hồi. Thật vậy, Thánh Grêgôriô ở Nyssa không chỉ được coi là một trụ cột của chính giáo, nhưng còn là người đóng góp quan trọng cho các truyền thống bí nhiệm trong linh đạo Kitô Giáo và cho hệ thống đan viện.
Suy niệm hạnh Thánh Grêgôriô ở Nyssa
(Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)
- Thánh Julian và Basilissa
- Chân Phước Angela ở Pholinho (1248-1309)
- Thánh Giuse Trần Văn Tuấn (1824-1862)
- Thánh Raymundo Penyafort
- Thánh Andrê Bessette, Tu Sĩ Canada (1845-1937)
- Thánh Gioan Neumann
- Thánh Elizabeth Ann Seton
- Thánh danh Chúa Giêsu
- Thánh Gregôriô Naianênô
- Đức trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa