Bài Đọc Hàng Ngày
13/4 Thứ Sáu Tuần II Mùa Phục Sinh Năm lẻ
- Viết bởi Dân Chúa
BÀI ĐỌC I: Cv 5, 34-42
"Các ngài hân hoan ra về, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Đức Giêsu".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Bấy giờ, có người biệt phái tên là Gamaliel, cũng là luật sĩ, có thế giá trong dân, đứng lên giữa công nghị, truyền dẫn các tông đồ ra ngoài trong giây lát, rồi nói với các người trong công nghị rằng: "Hỡi chư vị Israel, xin hãy thận trọng về việc chư vị định làm đối với những người này. Vì trước đây ít ngày, có tên Thêôđa nổi lên, tự xưng là một nhân vật, có độ bốn trăm người theo mình, y đã bị giết, và nhóm người theo y đều tan rã và không còn gì nữa. Sau y, lại có tên Giuđa người Galilêa, cũng nổi lên trong những ngày kiểm tra dân số, lôi kéo dân chúng theo mình, rồi chính hắn cũng chết, mọi kẻ theo hắn đều tan rã. Và bây giờ, tôi xin chư vị đừng can dự gì đến những người này, cứ để mặc họ: vì nếu một mưu toan hay việc này là do loài người, thì sẽ tự tan rã; nhược bằng bởi Thiên Chúa, thì chư vị không thể phá tan được, kẻo lỡ ra mang tội chống đối Thiên Chúa". Họ đồng ý. Họ cho gọi các tông đồ vào, ra lệnh đánh đòn các ngài, và cấm tuyệt đối không được nhân danh Đức Giêsu mà giảng dạy nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Đức Giêsu. Và hằng ngày, tại đền thờ hay tại tư gia, các ngài cứ tiếp tục giảng dạy, và loan truyền Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 26, 1. 4. 13-14
Đáp: Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi (c. 4ab).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Chúa là sự sáng, là Đấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Đáp.
2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài. - Đáp.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa. - Đáp.
ALLELUIA: Cl 3, 1
Alleluia, alleluia! - Nếu anh em sống lại làm một với Đức Kitô, thì anh em hãy kiếm những sự cao siêu trên trời, nơi Đức Kitô, đang ngự bên hữu Thiên Chúa. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 6, 1-15
"Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút".
Một trong những môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống". Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.
Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Đấng Tiên tri phải đến trong thế gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
13/04/2018 - THỨ SÁU TUẦN 2 PS
Th. Mác-ti-nô I, giáo hoàng, tử đạo
Ga 6,1-15
CHÚA TÍNH CHO
Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy. (Ga 6,11)
Suy niệm: Tính toán theo kiểu con người rất thực tế và so đo hơn thiệt. Trước một số đông đến 5.000 người đàn ông, không kể đàn bà trẻ con, các môn đệ tính toán: “Có mua đến 200 quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.” Vả lại ở nơi núi đồi hoang vắng này, ai bán bánh mà mua? Chịu thua! Trong đám đông hôm đó có “một em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Bó tay! Thế nhưng “điều gì không thể đối với con người, lại là có thể đối với Thiên Chúa.” Đức Giê-su đã thực hiện những cử chỉ sẽ trở thành dấu hiệu riêng của Đức Ki-tô: Ngài cầm lấy bánh, và cá cũng thế, dâng lời tạ ơn và phân phát cho mọi người. Với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Ngài đã cho đám đông, tính riêng đàn ông đã là 5.000 người, ăn no nê mà vẫn còn dư 12 thúng đầy!
Mời Bạn: Phép lạ ấy, ngày nay vẫn còn tiếp diễn nơi thánh lễ. Đức Giê-su vẫn hiện diện cách sống động trong các thánh lễ. Phép lạ nhân thừa bánh ngày xưa là dấu hiệu Chúa ban lương thực thiêng liêng là chính Mình Máu Người cho mọi Ki-tô hữu từ xưa cho đến nay và cho đến ngày tận thế. Thật kỳ diệu! Ai lãnh nhận Mình Máu Người lẽ nào không dâng lời tạ ơn?
Sống Lời Chúa: Siêng năng tham dự thánh lễ không chỉ Chúa Nhật và lễ trọng mà cả trong các ngày thường.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, vì yêu mà Chúa đã trao ban Mình Máu Chúa cho chúng con. Chúng con nguyện dâng Chúa cả thân mình và cuộc sống chúng con để đáp đền tình yêu Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG TƯ
Sự Sống Của Thiên Chúa Được Đổ Tràn Vào Thế Giới
Mùa Phục Sinh, chúng ta đi vào trong một cảm nghiệm tâm linh sâu sắc có sức làm cho chúng ta nếm cảm đức tin của mình vào Đức Kitô Phục Sinh, “Chiên Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5,7). Người đã chịu hiến tế vì chúng ta, song sự chết đã không chế ngự được Người. Sứ mạng của Người đã không chấm dứt khi Người bị treo trên Thập Giá, sứ mạng ấy đã không chấm dứt khi Người kêu lên: “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19,30). Thật vậy, đó chính là lúc mà sự hoàn thành chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người.
Chính Đức Kitô đã thánh hiến kỷ nguyên này qua cuộc Phục Sinh của Người từ cõi chết. Người đã hoàn thành trọn vẹn chương trình cứu độ của Thiên Chúa đối với chúng ta. Đức Kitô đã được phục sinh – như lời Người đã hứa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa, bởi vì Người là sự sống vĩnh cửu mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta.
Đức Giêsu nói về chính mình: “Ta là … sự sống” (Ga 14,6). Và, vào một dịp khác, Người tuyên bố: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25). Như vậy, nơi Người, nguồn cội của chính sự sống đã đi vào thế giới chúng ta.
Xuyên qua hiến tế của Đức Giêsu, sự sống thần linh đã được đổ chan hòa trên mọi dân tộc, và – một cách nào đó – trên toàn khắp vũ trụ. Một sức sống hoạt và tươi trẻ nào đó đã nạp vào toàn thể tạo vật kể từ khoảnh khắc chiến thắng của Người trên Thập Giá. Chính chúng ta bây giờ không còn là nô lệ của “nỗi sợ chết nữa” (Dt 2,15). Đức Kitô đã giải phóng chúng ta vĩnh viễn!
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 13/4
Thánh Martinô I giáo hoàng tử đạo
Cv 5, 34-42; Ga 6, 1-15
LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình, Người hỏi ông Philípphê: ‘Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây’ Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi.”
Trước khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân ăn no nê và còn dư. Chúa Giêsu đã gợi ý cho các môn đệ của Người, đức tính quan tâm đến đời sống của con người, của cộng đoàn, và đón nhận sự đóng góp bé nhỏ của người anh em, cũng như phần của mình, dâng vào bàn tay Chúa, dù nhỏ đến đâu, cũng trở thành cần thiết cho cộng đồng.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn có đức tính quan tâm đến đời sống của những người nghèo khó, biết san sẽ cho nhau những gì cần thiết để cùng vui hưởng hạnh phúc trong hiện tại và mãi mai sau..
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 13-04
Thánh MARTINO I
Giáo Hoàng Tử Đạo (+656)
Thánh Martinô I sinh tại Tôđi, miền Umbria.
Đức Giáo hoàng đặt Ngài làm đại diện ở Constantinophe. Tại đây, Ngài đã nhiệt thành chống lại Nhất ý thuyết. Lạc giáo này dạy rằng: nơi Chúa Giêsu chỉ có một ý chí, ý chí thần linh. Như vậy là họ chối bỏ ý chí riêng của nhân tính Ngài.
Năm 649, khi Đức Thêdôre qua đời, thánh Martinô được cử lên ngôi kế vị thánh Phêrô. Ngay tháng 10 năm này, Ngài đã triệu tập công đồng Lêtêranô để kết án lạc thuyết. Làm như vậy Ngài đã liều chuốc lấy phản ứng độc hại của Contance II, một hoàng đế trẻ theo lạc giáo, và muốn bắt Giáo hội phải chấp nhận sắc lệnh "Type" về giáo lý của ông. Ngày 17 tháng 6 năm 653, quan thái thú đại diện hoàng đế là Calliopas ở Ravennna Italia đã bắt Đức giáo hoàng trong nhà thờ chính tòa. Ngài bị tố cáo đồng lõa trong cuộc phản loạn của quan thái thú tiền nhiệm là Olymius.
Sau đó Ngài bi đưa về Constantinople bằng tàu. Sẵn đau khổ vì bệnh đau khớp xương, cuộc hành trìnnh còn khổ cực thêm vì bị mất thực phẩm tối thiểu, bị cấm không được tắm rửa. Ngày 17 tháng 9, Ngài tới Constantinople và bị gian trong một nhà tù cho tới ngày 20 tháng 12. Tại một tòa án giả tạo với sư hiện diện của hoàng đế, Ngài bị truất ngôi và bị kết án tử hình.
Bi bỏ rơi trong ngục thất, thánh Martinô vô cùng cực khổ vì lạnh. Một phụ nữ lén cho Ngài một chiếc giường và một chiếc nệm. Khi ấy, Thượng phụ giáo chủ Constantinople hấp hối, ông ta sợ bị đoán phạt trước tòa Chúa nên xin Hoàng đế đừng xử tử tù nhân. Nhưng thánh Martinô lại bị lưu đày tới Cherson ở Crimea.
Tại đây, Ngài qua đời vì thiếu thốn, có lẽ vào ngày 03 tháng 4 năm 656.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
13 Tháng Tư
Emmaus
Nói đến những người không nhà không cửa, người ta thường nhắc đến cha Henri Groués quen được gọi tắt là cha Pierre, người đã sáng lập cộng đồng Emmaus nhằm giúp những người bần cùng tự tay xây dựng cuộc sống của họ.
Phong trào cộng đồng Emmaus khởi sự bằng một căn nhà đổ nát ở vòng đai của thành phố Paris vào hồi đệ nhị thế chiến. Những người khách đầu tiên của tổ ấm này là các thanh thiếu niên bụi đời, những người không nhà không cửa, hoặc các tù nhân vừa được phóng thích.
Câu nói đầu tiên của cha Pierre với những người mới đặt chân đến cộng đồng là : "Bạn không được may mắn, nhưng tôi cần bạn để giúp đỡ những người khác...". Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người khác nhìn nhận giá trị của mình, ai cũng muốn trở thành hữu ích cho người khác. Ðó là niềm tin mà cha Pierre luôn khơi dậy nơi những người đã mất tất cả hy vọng.
Cha Pierre đặt tên Emmaus cho cộng đồng của Ngài là để nhớ lại câu chuyện của hai người môn đệ Chúa Giêsu trong buổi chiều Phục Sinh. Cũng như hai người môn đệ này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả, Chúa Giêsu đã hiện đến mang lại niềm tin cho họ. Cũng thế, cha Pierre và những người bạn đầu tiên của Ngài đã tìm gặp được hứng khởi, niềm tin yêu giữa những mất mát ê chề của cuộc sống.
Tạo lại niềm hy vọng vào cuộc sống đó là khẩu lệnh của cha Pierre, và xây dựng lại niềm hy vọng đó từ những đổ nát, mất mát. Chính vì thế mà cộng đồng Emmaus chủ trương đi thu nhặt lại các đồ phế thải, các vật dụng cũ kỹ để chế biến và bán lại, như một sản phẩm cho chính tay mình làm nên.
Hiện nay phong trào đã có mặt tại 50 quốc gia trên thế giới với khoảng 290 cộng đồng. Tất cả mọi người trong cộng đồng đều sống với niềm hy vọng từ những đổ nát và mất mát trong cuộc sống.
Tin Mừng của Thánh Luca thuật lại rằng, buổi chiều hôm đó, có hai người môn đệ của Chúa Giêsu lên đường đi Emmaus, trở về làng cũ của họ.
Cái chết của Chúa Giêsu là một chấm hết đối với họ: hết mộng công hầu khanh tướng, hết giấc mơ của một nước Israel thịnh vượng, hết mọi hy vọng. Trở về làng cũ tức là trở về với thất vọng ê chề. Nhưng cũng chính lúc đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với họ, cái chết mang một ý nghĩa mới, mất mát đã trở thành khởi đầu của lợi lộc, thất bại trở thành khởi điểm của thành công, buồn phiền đã biến thành vui mừng hân hoan... Ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu đã mặc cho mọi biến cố của cuộc sống một ý nghĩa mới. Tin tưởng lạc quan đã trở thành nhân đức cơ bản của đời Kitô.
Ở bất cứ nơi đâu và ở bất cứ thời đại nào, sau một lần đổ nát, người ta thường hát lên điệp khúc: Hãy xây dựng lại từ đổ nát!
Ðó là niềm tin mà hơn bất cứ lúc nào chúng ta cần phải bám lấy... Bạn đang sầu khổ vì những mất mát ê chề trong cuộc sống ư? Bạn đang quằn quại trong đau khổ của thể xác và tinh thần ư? Bạn đang cảm thấy mình ở dưới vực thẳm của tội lỗi ư?
Chúa Giêsu của thành Emmaus đang nói với bạn: đừng thất vọng, Ngài đang đồng hành với bạn, và với Ngài, bạn có thể xây dựng được một cuộc sống tốt đẹp hơn.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần II PS
Bài đọc: Acts 5:34-42; Jn 6:1-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nếu quả thật là việc do Thiên Chúa, quý vị không thể nào phá huỷ được.
Thời gian là một trong những yếu tố quan trọng để xác định điều gì là thật. Một vài ví dụ sẽ chứng tỏ điều này: cần thời gian để biết chiếc đồng hồ đeo tay làm ở Thụy-sĩ hay ở Trung-hoa;
cần thời gian để biết đâu là tình yêu chân thật và tình yêu qua đường; cần thời gian để biết đạo nào là đạo thật. Thông thường, khi muốn dẹp loạn, người ta chỉ cần giết người cầm đầu, như Chúa Giêsu cũng đã nhận định: “Họ sẽ đánh chủ chăn và đàn chiên sẽ tan tác.” Nhưng đã hơn 2,000 năm qua, mặc dù người ta đã giết Đức Kitô; nhưng đàn chiên của Kitô giáo đã không tan tác, mà còn phát triển thêm dân số mỗi ngày. Sự hiện hữu của Kitô Giáo cho đến ngày nay là một bằng chứng hùng hồn nữa cho sự phục sinh của Đức Kitô: Ngài vẫn đang hoạt động trong Giáo Hội.
Các Bài Đọc hôm nay muốn chứng minh uy quyền của Thiên Chúa: khi Ngài muốn, Ngài sẽ hoàn thành; không một khó khăn hay quyền lực nào có thể ngăn cản ý định của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, kinh-sư Gamaliel đề nghị Thượng Hội Đồng hãy cẩn thận trong việc bắt bớ các môn đệ của Thiên Chúa. Theo kinh nghiệm của ông, hãy cứ để cho thời gian gạn lọc: nếu đó không phải là việc của Thiên Chúa, sớm muộn gì rồi điều đó cũng tan; nhưng nếu việc đó do ý định của Thiên Chúa, quý vị không thể nào phá huỷ được. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu muốn nuôi dân, Ngài tìm cách cho dân có của ăn, mặc dù các tông đồ đưa ra những khó khăn. Khi Ngài không muốn dân chúng tôn làm vua, Ngài đi lên núi một mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy để cho thời gian gạn lọc sự sai trái.
1.1/ Thái độ khôn ngoan của ông Gamaliel: Ông là một người Pharisee được toàn dân kính trọng và là Thầy của thánh Phaolô trước khi trở lại (Acts 22:3). Ông truyền đưa các Tông-đồ ra ngoài một lát, và ông trình bày ý kiến với Thượng Hội Đồng: "Thưa quý vị là người Israel, xin quý vị coi chừng điều quý vị sắp làm cho những người này: Thời gian trước đây, có Theudas nổi lên, xưng mình là một nhân vật quan trọng và kết nạp được khoảng bốn trăm người; ông ta đã bị giết, và mọi kẻ theo ông cũng tan rã, không còn gì hết. Sau ông, có Judah người Galilee nổi lên vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt, và tất cả những người theo ông ta đều bị tan tác. Vậy giờ đây, tôi xin nói với quý vị: hãy để mặc những người này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa." Họ tán thành ý kiến của ông vì đây là một ý kiến khôn ngoan dựa trên kinh nghiệm và lịch sử.
1.2/ Các Tông-đồ tiếp tục làm chứng cho Chúa Giêsu: Tuy đã tán thành ý kiến của ông Gamaliel, Thượng Hội Đồng vẫn dùng sức mạnh để dọa nạt các Tông-đồ. Họ cho gọi các ông lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giêsu, rồi thả các ông ra.
Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu. Mỗi ngày, trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô.
2/ Phúc Âm: “Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi.”
2.1/ Chúa Giêsu muốn nuôi ăn dân chúng: Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái. Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philíp: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
(1) Các môn đệ muốn Chúa thay đổi ý định: Có lẽ các ông quan niệm Chúa Giêsu cũng giống như một Rabbi, chỉ có bổn phận lo dạy dỗ và cắt nghĩa Lề Luật cho dân chúng, chứ không có bổn phận phải cho dân chúng ăn.
- Ông Philíp nại lý do không có tiền: "Thưa Thầy, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút."
- Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, nại lý do không đủ thực phẩm: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!"
(2) Chúa Giêsu biết những gì Ngài sắp làm: Tuy gặp sự can ngăn của các Tông-đồ và nỗi khó khăn phải tìm lương thực trong nơi hoang dã, Chúa Giêsu vẫn bảo các ông: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi." Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Ngài dùng uy quyền làm bánh hóa ra nhiều: “Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý.”
Khi họ đã ăn no nê rồi, Người bảo các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi." Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng.
Đây là hình ảnh của Bí-tích Thánh Thể trong Tin Mừng Gioan, tuy Gioan không tường thuật sự kiện Chúa Giêsu lập BT Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly, nhưng Gioan dùng công thức truyền phép và diễn từ về sự quan trọng của Bí-tích này trong Chương 6. Chúa Giêsu muốn lập Bí-tích Thánh Thể để ở lại và cho dân chúng ăn Ngài mỗi ngày. Giống như thái độ của các Tông-đồ, con người ở mọi thời tiếp tục cho đây là điều không thể, hay chỉ là biểu tượng …, và nghi ngờ sự hiện diện đích thực của Chúa trong Bí-tích. Họ quên đi rằng: chẳng có gì là không thể đối với Thiên Chúa; một khi Ngài muốn, Ngài sẽ có cách để thực hiện.
2.1/ Dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu làm vua: Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm, họ nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!" Lý do họ muốn tôn Ngài làm vua là để Ngài lo cho họ có bánh ăn; nhưng Chúa Giêsu muốn họ phải làm mới có bánh ăn. Khi Ngài cho họ ăn, Ngài không chỉ nuôi dưỡng phần xác; nhưng còn tăng nghị lực cho phần hồn của họ, để họ có sức mạnh vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Khi Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, Người lánh mặt và đi lên núi một mình. Ngài không muốn làm vua họ như một ông vua thế gian vì họ đã có rồi; Ngài chỉ muốn làm vua trong tâm hồn của họ và trên Nước Trời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi làm việc tông đồ mà gặp khó khăn, chúng ta cần tin tưởng: “Nếu quả thật là việc do Thiên Chúa, không ai có thể phá huỷ được.” Nói cách khác: nếu là việc Thiên Chúa muốn, Ngài sẽ làm cho thành; nếu không phải là việc Thiên Chúa muốn, hãy để chúng tiêu tan, đừng quá bận tâm lo lắng. Không ai có thể chống lại ý Thiên Chúa muốn.
- Chúng ta cần để cho thời gian gạn lọc sự giả tạo và sai trá trong cuộc đời. Đừng vội chạy theo những giáo lý mới hay những trào lưu mới, mà gạt bỏ những giá trị nền tảng của đạo và những truyền thống tốt đẹp của Giáo Hội, của quê hương, hay của gia đình.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
12/4 Thứ Năm Tuần II Mùa Phục Sinh Năm chẵn
- Viết bởi Dân Chúa
BÀI ĐỌC I: Cv 5, 27-33
"Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hôm ấy, khi các thủ hạ dẫn các tông đồ đi, họ đem các ngài ra trước công nghị. Vị thượng tế hỏi các ngài rằng: "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?" Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã cho Đức Giêsu sống lại, Đấng mà các ông đã giết khi treo Ngài trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Đấng Cứu Độ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người?" Khi nghe những lời đó, họ liền phẫn nộ và tìm mưu giết các ngài. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 33, 2 và 9. 17-18. 19-20
Đáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Đáp.
2) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Đáp.
3) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 16, 7 và 13
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ sai Thần Chân Lý đến, người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 3, 31-36
"Đức Chúa Cha thương mến Con Ngài, nên ban toàn quyền trong tay Con Ngài".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng về Chúa Giêsu rằng: "Đấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Đấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Điều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Đấng chân thật. Đấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy". Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
12/04/2018 - THỨ NĂM TUẦN 2 PS
Ga 3,31-36
NÓI CHUYỆN TRÊN TRỜI
“Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ bởi đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất.” (Ga 3,31)
Suy niệm: “Kẻ bởi đất mà ra thì nói những chuyện dưới đất”, và giả như có nói “những chuyện trên trời” thì cũng nói theo kiểu “những chuyện dưới đất”. Con người dù có ai thông thái khôn ngoan đến mấy đi nữa, khi nói về Thiên Chúa, cũng phải dùng ngôn ngữ loài người và những quan niệm của con người để phóng chiếu lên tới vô cùng, và giả định như thế là Thiên Chúa. Do đó, con người vẫn thường vô tình tạo ra những thần linh theo hình ảnh, sở thích của mình để rồi tôn thờ chính “những thần linh do tay mình làm ra”. Chỉ có Đấng từ trời xuống mới đủ khả năng, đủ thế giá để nói về những sự trên trời. Vì thế, nếu chúng ta muốn biết điều chi về Thiên Chúa, chúng ta chỉ có thể tìm biết từ chính Con Một của Người, Đấng từ trời mà xuống. Và nếu chúng ta muốn đến với Thiên Chúa, chúng ta cũng chỉ có thể đến qua Đức Giê-su Ki-tô, Đấng duy nhất đã chết, sống lại và lên trời. Quả thật, Đức Giê-su Ki-tô là “Đấng Cứu Độ Duy Nhất” của nhân loại.
Mời Bạn: Khi mọi lời nói của chúng ta đều bất cập trước mầu nhiệm vô biên của Thiên Chúa thì bạn vẫn còn một phương thế để đạt tới Thiên Chúa đó là dựa vào chính Lời Chúa và nhờ Thánh Thần hướng dẫn, để hiểu biết và đón nhận thánh ý Ngài.
Sống Lời Chúa: Trung thành đọc và suy gẫm Lời Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban Thần Khí Đức Ki-tô trên chúng con, cho chúng con luôn say mê những sự trên trời để dùng những biết dùng của cải đời này mà đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
12 THÁNG TƯ
Đức Tin Và Việc Làm
Vậy thì, thế nào là trở nên một Kitôhữu? Câu trả lời: đó là tiếp tục đón nhận và chấp nhận lời chứng của các Tông Đồ, các thị chứng nhân, về ơn cứu độ của chúng ta. Đó là tin vào Đức Kitô với cùng một đức tin đã được khai sinh nơi các Tông Đồ do những hành động và lời nói của Đấng Phục Sinh.
Tông Đồ Gio-an viết: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1Ga 2,3-5).
Vị Tông Đồ đang nói về một đức tin sống động. Một đức tin sống động là một đức tin đem lại hoa trái là những việc làm thiện hảo. Đó chính là những việc làm của tình yêu. Đức tin sống động nhờ tình yêu của Thiên Chúa ở nơi chúng ta. Tình yêu được diễn tả qua việc tuân giữ các điều răn. Cũng có thể không có mâu thuẫn nào giữa sự hiểu biết (= tôi biết Người) và những hành động của một người tuyên xưng Đức Kitô. Chỉ những ai hoàn thành đức tin của mình bằng những việc làm thiện hảo mới là người ở lại trong sự thật.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 12/4
Cv 5, 27-33; Ga 3, 31-36.
LỜI SUY NIỆM: “Ai tin vào người Con thì được sống muôn đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.”
Tin vào người Con là tin vào tình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa, một tình yêu vĩnh cửu, một tình yêu thương xót và tha thứ; một tình yêu đi tìm con chiên đi lạc, một tình yêu đợi trông đứa con đi hoang trở về; nếu không chịu tin vào người Con là phủ nhận tình yêu của Ngài, tự đứng riêng ra bên ngoài tình yêu ấy, không muốn lệ thuộc vào Ngài.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con tạ ơn Chúa đã ban ơn đức tin cho chúng con và chúng con đang tin Chúa là Đấng cứu độ chúng con, xin cho chúng con luôn trung thành với niềm tin của mình qua cuộc sống hằng ngày hôm nay.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
12 Tháng Tư
Ra Ði Là Chết Trong Lòng Một Ít
Phật giáo Trung Hoa rất nhớ ơn và hãnh diện vì có thiền sư là Ðường Tam Tạng. Ông là người đã có công vượt núi trèo non để đi Tây Trúc thỉnh Kinh đem về phổ biến cho dân gian.
Truyện Tây Du Ký đã ghi lại cuộc ra đi đầy gian nan của thầy Tam Tạng. Nhưng những gian nan thử thách xảy đến cho thiền sư họ Ðường không phải chỉ là gai góc hiểm trở của đoạn đường dài, mà chính là những tật xấu mà ba người môn đệ thân tín nhất của thầy là hiện thân. Tôn ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng, ba cái tên này chính là ba nết xấu mà thiền sư họ Ðường cũng như bao người khác phải vượt qua để đạt chính quả. Ba nết xấu đó là: lòng kiêu căng, lòng ham vật dục và tính lười biếng.
Ra đi là chết trong lòng một ít... Thiền sư họ Ðường có lẽ đã phải chiến đấu và hao mòn vì những tham sân si trong lòng thầy.
Tin Mừng cũng nhắc đến một cuộc ra đi: đó là cuộc ra đi của Chúa Giêsu. Ngài rời bỏ quê hương để đi Galilêa. Galilêa chỉ cách Nagiarét vài chục cây số... Nhưng với Chúa Giêsu cuộc trẩy đi này bao hàm một cuộc lột xác và từ bỏ trọn vẹn. Ngài từ bỏ tất cả để vào sa mạc.
Ra đi có nghĩa là ra khỏi chính mình và không quay nhìn lại phía sau. Ra đi tức là chấp nhận chết đi trong lòng một ít.
Thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu, mặc dù chưa một lần ra khỏi bốn bức tường của tu viện, đã được Giáo Hội chọn làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Một lúc nào đó, có lẽ chúng ta cũng khao khát được mang Tin Mừng của Chúa đến một nơi xa lạ... Ước mơ ấy có thể làm cho chúng ta quên đi thựck tại của không biết bao nhiêu người thiếu thốn lương thực cho thể xác cũng như tinh thần.
Ra đi loan báo Tin Mừng, trước tiên chính là ra lhỏi con người của chúng ta. Ra khỏi con người của thiển cận, ích kỷ của chúng ta để mặc lấy một cái nhìn nhậy cảm hơn trước sự hiện diện của tha nhân.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần II PS
Bài đọc: Acts 5:27-33; Jn 3:31-36.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người cần khiêm nhường nhận ra và chấp nhận uy quyền của Thiên Chúa.
Vũ trụ quá bao la trong khi khả năng hiểu biết của con người quá hạn hẹp. Nếu con người chưa biết hết được những gì xảy ra dưới đất, làm sao có thể thông suốt những sự trên trời? Vì thế, con người cần tránh thái độ “cóc ngồi đáy giếng.” Vì cóc chỉ thấy được một bầu trời hạn hẹp bằng miệng giếng, cóc cho mình là nhất. Cóc có biết đâu bên ngoài miệng giếng là cả một vũ trụ mênh mông!
Vũ trụ tiềm tàng bao sức mạnh kinh hồn trong khi con người lại quá yếu đuối. Nếu con người chưa có sức mạnh đủ để đương đầu với những sức mạnh của thiên nhiên (gió bão, núi lửa, động đất), làm sao con người có thể chống lại uy quyền của Thiên Chúa? Nếu con người vẫn ngoan cố chống chọi uy quyền của Thiên Chúa, khác nào như con người lấy trứng chọi vào đá!
Các Bài Đọc hôm nay nhắc nhở cho con người biết khả năng hạn hẹp của mình. Trong Bài Đọc I, khi Thượng Hội Đồng cấm các tông đồ không được rao giảng đạo lý Đức Kitô; các tông đồ cương quyết bảo vệ lập trường của mình: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhắc nhở cho mọi người về nguồn gốc của Ngài: “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.
Trong Cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Kitô, tất cả các Tông-đồ và Thượng Hội Đồng đều chối từ và chống lại Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không kết tội con người, nhưng Ngài muốn con người phải chịu trách nhiệm về những việc mình làm: Nếu họ đã làm sai, hãy có can đảm chấp nhận và tìm cách sửa sai; chứ không thể cứ nhắm mắt và đổ lỗi cho người khác.
1.1/ Các Tông-đồ trình bày niềm tin của mình: Mặc dù các ông đã chối từ và bỏ chạy trong Cuộc Thương Khó, nhưng khi được Chúa Giêsu hiện ra, các ông đã nhận ra tội của mình; và sau khi được củng cố bởi quyền lực của Thánh Thần, các ông mạnh dạn ra đi và làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người: Trước tiên, các Tông-đồ tố cáo Thượng Hội Đồng tội giết Đấng Thiên Sai: “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi.” Sau đó, các ông vạch ra cho mọi người nhìn thấy uy quyền Thiên Chúa: “Nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội.”
Khi bị Thượng Hội Đồng đe dọa và ngăn cấm không cho rao giảng Danh Chúa Giêsu, ông Phêrô và các Tông-đồ khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”
1.2/ Phản ứng ngoan cố của Thượng Hội Đồng: Đã sai lầm khi luận tội và xin đóng đinh Chúa Giêsu, họ vẫn không chịu nhận tội khi các Tông-đồ làm chứng cho Ngài. Vị Thượng Tế hỏi các Tông-đồ: "Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Jerusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!" Khi các Tông-đồ trả lời phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm, họ giận điên lên và muốn giết các ông.
Một câu trả lời hết sứ hợp lý, nhất là cho những con người mang tiếng bảo vệ Lề Luật của Thiên Chúa; thế mà họ không nhận ra sự thật, lại còn để cho sự kiêu ngạo và ghen tị thống trị con người họ, và dùng sức mạnh để áp đảo các Tông-đồ. Họ nhân danh bảo vệ Lề Luật; nhưng thực ra họ coi thường Lề Luật; chẳng hạn: (1) Họ kết án Chúa Giêsu mà không điều tra về Ngài như Lề Luật đòi hỏi; (2) Họ đòi đóng đinh Chúa vào thập giá ngay cả khi một người ngoại, Philatô, đã tuyên bố Ngài vô tội; và (3) Họ đe dọa, đánh đòn, và muốn giết cả hai nhân chứng, Phêrô và Gioan, khi các ông muốn làm chứng cho Chúa Giêsu. Nói tóm, họ không còn biết gì đến Lề Luật như chức vụ họ đòi phải thi hành; nhưng họ để cho tính nóng giận và sự ghen tức làm chủ, để rồi chỉ biết dùng bạo lực để đàn áp người vô tội.
2/ Phúc Âm: Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời.
2.1/ Chúa Giêsu mặc khải cho con người những gì từ Thiên Chúa: Chân lý căn bản con người cần khiêm nhường nhìn nhận: “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người.” Tiên tri Isaiah cũng từng tuyên sấm những gì Thiên Chúa nói: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các ngươi bấy nhiêu (Isa 55:9).
Vì có sự khác biệt lớn lao như thế, nên con người không thể hiểu những gì từ Thiên Chúa, nếu những điều đó không được mặc khải và soi sáng cho con người. Chúa Giêsu đến để mặc khải cho con người những mầu nhiệm của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần soi sáng cho con người để họ có thể hiểu những chân lý này. Chúa Giêsu nói: “Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật.”
Sở dĩ con người không tin vào Đức Kitô là vì từ trước tới giờ họ chỉ tin có Một Thiên Chúa. Tuy họ biết, theo lời các ngôn sứ, Thiên Chúa sẽ gởi Đấng Thiên Sai đến để cứu chuộc dân; nhưng họ tin Ngài là Đấng sẽ dùng uy quyền mà cứu chuộc và thống trị dân, chứ không phải bằng khiêm nhường chịu đau khổ như Đức Kitô. Chúa Giêsu đến cắt nghĩa cho họ biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và Ngài, Người được Thiên Chúa sai đến, nhưng họ từ chối không tin vào lời chứng của Người. Chúa muốn nhắc nhở cho họ biết nếu họ chưa thông suốt việc dưới đất, làm sao có thể thông suốt việc trên trời.
2.2/ Hậu quả của việc nhìn nhận hay chối từ Con Thiên Chúa: Nếu một người nhìn nhận Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đi, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời, được nhận lãnh Thánh Thần, và được hưởng muôn hồng ân mà Thiên Chúa Cha đã trao vào tay Người Con. Nếu họ từ chối không tin Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đến, họ sẽ không được hưởng sự sống đời đời, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để nhận biết sự khôn ngoan và uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta cũng phải nhìn nhận khả năng giới hạn và sự yếu đuối của mình. Có như vậy, chúng ta mới biết cách sống làm sao cho đúng và đạt được kết quả tốt đẹp cho cuộc đời.
- Ai tuyên bố phải hiểu mới tin là người kiêu ngạo và rồ dại. Kiêu ngạo vì cho mình có thể thông suốt mọi sự trên trời cũng như dưới đất. Rồ dại vì không biết giới hạn của mình và bỏ lỡ cơ hội để học hỏi những điều mới lạ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
11/4 Thứ Tư Tuần II Mùa Phục Sinh Năm lẻ
- Viết bởi Dân Chúa
BÀI ĐỌC I: Cv 5, 17-26
"Kìa, những người mà các ông tống ngục, hiện đang đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vị thượng tế và mọi người thuộc phe ông, tức là phái Sađốc, đầy lòng phẫn nộ; họ ra tay bắt các tông đồ tống ngục. Nhưng đến đêm, Thiên Thần Chúa mở cửa ngục, dẫn các ngài đi và nói: "Hãy đi vào đền thờ giảng dạy cho dân chúng biết mọi lời hằng sống này". Nghe lệnh ấy, sáng sớm các ngài vào đền thờ và giảng dạy.
Lúc bấy giờ vị thượng tế và các người thuộc phe ông đến, triệu tập công nghị và tất cả các vị kỳ lão trong dân Israel, rồi sai người vào tù dẫn các tông đồ ra. Khi thủ hạ đến nơi, mở cửa ngục, không thấy các tông đồ, họ liền trở về báo cáo rằng: "Thật chúng tôi thấy cửa ngục đóng rất kỹ lưỡng, lính canh vẫn đứng gác ngoài cửa, nhưng khi chúng tôi mở cửa ra, thì không thấy ai ở bên trong cả".
Khi nghe các lời đó, viên lãnh binh cai đền thờ và các thượng tế rất lúng túng, không biết rõ công việc đã xảy đến cho các tông đồ. Lúc đó có người đến báo tin cho họ rằng: "Kìa, những người mà các ông đã tống ngục, hiện đang đứng giảng dạy dân chúng trong đền thờ". Bấy giờ viên lãnh binh cùng các thủ hạ tới dẫn các tông đồ đi mà không dùng bạo lực, vì sợ bị dân chúng ném đá. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9
Đáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Đáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. - Đáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Đáp.
4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai nương tựa ở nơi Người. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 14, 26
Alleluia, alleluia! - Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 3, 16-21
"Thiên Chúa đã sai Chúa Con đến để thế gian nhờ Người mà được cứu độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
11/04/2018 - THỨ TƯ TUẦN 2 PS
Th. Sta-nít-la-ô, giám mục, tử đạo
Ga 3,16-21
ĐỨC GIÊ-SU, ĐẤNG CỨU ĐỘ
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16)
Suy niệm: Một khi không tin Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất, người ta sẽ tin rằng mọi thứ người ta sở hữu sẽ cứu độ họ. Nhiều người nghĩ rằng tiền bạc của cải đầy đủ sẽ cứu độ họ. Có người cho rằng thế lực, sức khỏe sẽ đem lại sự an toàn vững bền và một thế giá sáng ngời. Nhưng, những thứ sở hữu đó thật mong manh như Chúa Giê-su cảnh báo: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” Kết quả sẽ ra sao nếu ta cứ bám vào bọt biển để bơi? Vì thế, Lời Chúa hôm nay quả thật là Tin Mừng cho chúng ta, vì Thiên Chúa Cha đã ban Con Một của Ngài là Chúa Giê-su để cứu độ chúng ta. Đức thánh cha Phanxicô giải thích rằng, Thiên Chúa không cứu độ chúng ta bằng tờ giấy hay bằng một sắc lệnh nào đó, nhưng bằng chính Con Một của Ngài. Trong Đấng Phục Sinh, Thiên Chúa phục hồi phẩm giá con người bị đánh mất vì tội lỗi và ban sự sống cho những ai đón nhận Đấng Phục Sinh. Thiên Chúa ban Đấng Cứu Độ duy nhất, đồng thời quả quyết, tin vào Chúa Giê-su là cách duy nhất lãnh nhận ơn cứu độ.
Mời Bạn: Bạn đang trông mong vào điều gì để cuộc đời bạn được bảo đảm? Gia đình bạn đang dựa vào điều gì để gia đình bạn được vững bền? Bạn đón nhận Con Một của Thiên Chúa thế nào?
Sống Lời Chúa: Qui tụ gia đình trước bàn thờ Chúa để cầu nguyện mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất của gia đình con, ngoài Chúa ra chúng con không tìm đâu được hạnh phúc. Xin cho gia đình con yêu Chúa hằng ngày.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG TƯ
Đức Tin Của Chúng Ta Bật Ra Từ Chứng Từ Của Các Thị Chứng Nhân
Luca, tác giả Sách Tin Mừng, kể tiếp: “Rồi Người mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh” (Lc 24,45). Từ bài diễn từ của Phê-rô trong Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận ra việc Đức Kitô mở trí cho các Tông Đồ nắm hiểu sự thật về Tin Mừng đã có hiệu quả như thế nào.
Thật vậy, sau khi trình bày những biến cố nối kết với cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô, Phê-rô tuyên bố với cư dân Giê-ru-sa-lem: “Như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,18-20).
Trong những lời ấy của vị Tông Đồ, chúng ta nhận ra một âm vọng rõ ràng những lời của chính Đức Kitô. Chúng ta nhận ra Chúa Phục Sinh đã biến đổi tâm trí và cuộc sống của các Tông Đồ như thế nào qua việc truyền đạt sự thật của Người.
Đây là câu chuyện của đức tin chúng ta. Chúng ta nhận ra cách mà thế hệ chứng nhân đầu tiên của Đức Kitô – tức các Tông Đồ và các môn đệ – truyền đạt sứ điệp Tin Mừng căn bản. Nó bật ra trực tiếp từ chứng từ của những chứng nhân mắt thấy tai nghe cái chết và sự sống lại của Đức Kitô.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 11/4
Thánh Stanisiô, giám mục, tử đạo
Cv 5, 17-26; Ga 3, 16-21
LỜI SUY NIỆM: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
Lời Kinh Thánh này cho chúng ta biết được khởi đầu của sự cứu chuộc nhân loại có nguồn gốc từ Thiên Chúa, đối với nhân loại, tình yêu này là tình yêu duy nhất và vĩnh cửu. Ngài trao ban Con Một của Ngài vì tình yêu, Ngài trông mong và dịu dàng kêu gọi mọi người trở lại với tình yêu của Ngài, để được sống muôn đời.
Lạy Chúa Giêsu, Thánh Augustinô đã nói: “Chúa yêu mỗi người chúng ta dường như chỉ có một mình ta để Ngài yêu mà thôi.”. Xin cho mỗi người chúng con đáp lại tình yêu của Chúa Cha với đức tin, tin Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng con, để chúng con được sống.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-04
Thánh STANISLAÔ
Giám Mục Tử Đạo (1030 - 1079)
Thánh Stanislaô được kính nhớ như vị Thánh bảo trợ thành Krakow ở Balan, nơi Ngài làm giám mục và hài cốt Ngài được lưu giữ ở nhà thờ chính tòa. Không có tường thuật đương thời nào về Ngài được coi là đầy đủ và các chi tiết về đời Ngài cũng không rõ rệt lắm. Người ta kể rằng: cha mẹ Ngài thuộc dòng dõi quí phái, nhưng lại hiếm muộn về đàng con cái. Sau nhiều lời cầu nguyện khẩn thiết, ngày 26 tháng 07 năm 1030, họ sinh được một người con trai và đặt tên là Stanislaô. Họ chú tâm đào luyện con mình theo những tập quán đạo hạnh khiến Stanislaô, từ nhỏ đã tỏ ra có tinh thần bác ái và nhiệt hành phụng sự Chúa.
Trong bầu khí đạo đức ấy, từ thuở nhỏ Stanislaô đã nghe rõ tiếng Chúa kêu gọi đi làm tông đồ Chúa. Trước hết Ngài đã theo học đại học tại triết học tại Đại học Gniezno. Sau đó Ngài sang Paris theo học Luật và thần học ở tu viện Lorranin trong bảy năm trời. Khi cha mẹ qua đời, Ngài phải trở về Balan.
Được thừa hưởng gia tài lớn cha mẹ để lại, nhưng thánh nhân đã quyết chí hiến thân phụng sự Chúa vì vậy Ngài đã đem của cải phân phát cho người nghèo khó rồi tiếp tục theo đưổi lý tưởng tu trì. Đức Giám mục Lampert đã phong chức Linh mục cho Stanislaô, năm 1062 và đặt làm Kinh sĩ tại nhà thờ chánh tòa địa phận.
Giữ chức vụ kinh sĩ, Stanislaô đã trở nên lừng danh về tài thuyết giảng và về chính đời sống gương mẫu thánh thiện của Ngài. Đức cha Lambert, toàn thể giáo sĩ và giáo dân đã bầu Stanislaô lên kế vị. Vì khiêm tốn, thánh nhân quyết không chịu nhận. Nhưng năm 1072, vâng lời đức thánh cha Alexandre II, Stanislaô đã nhận làm giám mục Krakow.
Đức cha Stanislaô là một giám mục thánh thiện và nhân hậu nhất là đối với những ai đau khổ và nghèo đói. Tuy nhiên, Ngài cũng tỏ ra là người can đảm đặc biệt. Vua Balan lúc ấy là Bôleslas II. Ong ta đã dùng sức mạnh khí giới để đạt tới vinh quang nhưng lại chịu bị khuất phục trước những tật xấu khủng khiếp. Hành vi độc ác của ông đã khiến cho người ta gọi ông là "kẻ độc ác". Cả nước đều phải run sợ nhưng không ai dám mở lời can ngăn. Chỉ có một người, một vị thánh là Stanislaô đã dám đương đâu với sự giận dữ của nhà vua.
Sau khi cầu nguyện với tất cả tâm hồn, thánh nhân đến gặp nhà vua. Khiêm tốn nhưng đầy cương quyết, thánh nhân quyết định nói với ông ta tất cả những gì phải nói, Ngài trình bày cho nhà vua thấy trước những tội ác tày trời, gương mù trong vương quốc mà nhà vua gây nên, Ngài cũng nói cho nhà vua rõ những phán xét Thiên Chúa đang chờ đón. Vừa nghe, Bôleslas đã tỏ ra hối hận. Nhưng thật đang tiếc vì đây chỉ là một tình cảm chóng qua, Bôleslas lại trở nên man rợ như trước và còn thêm một tội ghen ghét vào những ác độc của ông.
Sau này, vua đã cướp vợ của một nhà quí phái để nhốt trong hoàng cung. Cơn giận lan ra khắp tỉnh nhưng dân chúng run sợ không ai dám mở miệng, thánh Stanislaô một lần nữa can đảm đến gặp Boleslas, cố gắng đưa ông trở về với những tình cảm chân chính. Ngài đe dọa, nếu còn cố chấp, nhà vua sẽ bị tuyệt thông. Run lên vì tức giận, nhà vua tìm kế sát hại thánh nhân.
Bôleslas biết Đức cha có mua một thuở đất để xây cất nhà thờ mà chỉ trao tiền trứơc mặt nhiều chứng nhân mà không làm chứng từ. Khi chủ nhân cũ qua đời, ông đe dọa các chứng nhân để họ phản chứng rồi tố giác Đức giám mục ra tòa. Mưu độc của ông bị thất bại. Vì sau ba ngày cầu nguyện thánh Stanislaô đã truyền đào mồ người chết và kêu ông dậy làm chứng sự thật.
Dầu vậy, Bôleslas vẫn không thay lòng đổi dạ đối với vị giám mục gan dạ Stanislaô. Ngày 08 tháng 5 năm 1079, khi thánh Stanislaô đang dâng thánh lễ tại thánh đường thánh Micae. Ông sai người đến sát hại thánh nhân. Cả ba nhóm binh sĩ lần lượt đến mà không hoàn thành được lệnh truyền, khiến chính nhà vua phải ra tay. Ông xông vào nhà thờ chém giết vị giám mục tại bàn thờ. Chưa đã thoả lòng giận dữ , ông còn chặt xác Ngài thánh ra làm nhiều khúc rồi vứt ra ngoài đồng cho chim trời rúc rỉa. Nhưng bốn ngày sau, trên trời chỉ có bốn cánh phương hoàng bay lượn ngăn cản tất cả không cho bất cứ con vật nào xâm phạm tới xác thánh.
Bấy giờ Boleslas mới tỉnh ngộ và hối lỗi. Ông cho tổ chức lễ an táng thánh Stanislaô rất trọng thể. Xác thánh liền lại như mới qua đời vì bệnh tật và được chôn cát tại nhà thờ chánh tòa Krakow.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
11 Tháng Tư
Ðám Cưới Vĩ Ðại Nhất
Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.
Khi quyết định một người Á châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh phục từ Ðông sang Tây. Ông cũng hy vọng có một người con nối dõi với hai dòng máu Ðông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
Ðám cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Ðại đế là người đích thân trao giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng vàng. Nhưng, người được coi là đoạt được nhiều giải thưởng nhất trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được có mỗi một cành lá. Alexandre Ðại đế giải thích như sau: chỉ có vinh hiển mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.
Có một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane: đó là hôn lễ của Trời với Ðất, của Thiên Chúa với Nhân Loại. Ðây là cuộc hôn lễ mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy diễn ra qua việc Con Thiên Chúa xuống thế mặc lấy xác phàm. Ngài đến không kèn không trống, không quân đội, không thế vận hội. Ngài không mang lại các cúp vàng, Ngài không chỉ trao cành lá vinh thắng cho một người, nhưng cho tất cả mọi người. Ai cũng có thể chiến thắng cho cuộc sống của mình và ai cũng có thể nhận lãnh cành lá vinh hiển ấy.
Ai trong chúng ta cũng có một phần thưởng vô giá, ai trong chúng ta cũng là người đoạt giải nhất và ai trong chúng ta cũng nhận được cành lá vinh hiển của sự sống đời đời.
Với Chúa Giêsu là Ðấng đã thắng thế gian và đang tiếp tục chiến đấu bên cạnh chúng ta, chúng ta tin chắc rằng chúng ta cũng sẽ chiến thắng.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần II PS
Bài đọc: Acts 5:17-26; Jn 3:16-21.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người ghét ánh sáng vì các việc làm của họ mờ ám.
Thiên Chúa dựng nên con người có khả năng tìm ra sự thật. Sở dĩ con người không chịu nhìn nhận sự thật là vì họ muốn ở trong sự tăm tối để người ta đừng nhận ra những việc làm mờ ám của họ.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật sự tối tăm này nơi con người. Trong Bài Đọc I, vì ghen tức, vị Thượng Tế và những người thuộc Nhóm Sadducees cho bỏ tù các tông đồ. Họ ghen tức vì dân chúng trước đây nghe theo họ, giờ chạy theo để nghe lời giảng dạy của các tông đồ. Họ nhân danh bảo vệ Lề Luật để bỏ tù các tông đồ, nhưng thực ra chỉ là để che đậy ý đồ đen tối của họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu, sau khi tuyên bố tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, đã cắt nghĩa lý do tại sao con người ngoan cố không chịu ra ánh sáng: họ muốn che dấu những việc làm mờ ám của họ. Nếu họ phải ra ánh sáng, người khác sẽ nhìn thấy những việc mờ ám này; và vì vậy, tông tích họ bị lộ tẩy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vì ghen tức, họ bắt các Tông Đồ và nhốt vào nhà tù công cộng.
1.1/ Xung đột giữa uy quyền của Thiên Chúa và sức mạnh của con người: Thiên Chúa, Đấng dựng nên và đang điều khiển muôn vật, trao trái đất cho con người quản lý; nhưng nhiều người đã sai lầm khi nghĩ: chính con người làm chủ trái đất này. Vì thế, luôn hiện diện một sự xung đột giữa Thiên Chúa và con người trong thế giới: Con người muốn thay Thiên Chúa quyết định mọi sự. Một ví dụ xảy ra trong Bài Đọc hôm nay:
(1) Con người đàn áp và bưng bít sự thật: “Bấy giờ, vị Thượng Tế cùng tất cả những người theo ông - tức là phái Sadducees - ra tay hành động. Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ và nhốt vào nhà tù công cộng.”
(2) Thiên Chúa giải thóat và truyền cho các tông đồ phải rao giảng sự thật: “Nhưng ban đêm thiên sứ của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói: "Các ông hãy đi, vào đứng trong Đền Thờ mà nói cho dân những lời ban sự sống."
1.2/ Lựa chọn của con người: theo Thiên Chúa hay theo thế gian?
(1) Các tông đồ chọn để làm theo những gì Thiên Chúa truyền: Các ông khinh thường roi đòn và ngục tù của quyền lực thế gian để rao giảng Tin Mừng như thiên sứ truyền dạy. Tại sao các ông có thể làm được những điều này trong khi bao con người sợ hãi và trốn tránh? Thưa vì các ông đã nhìn thấy rõ uy quyền của Thiên Chúa hơn hẳn mọi quyền lực của con người: Thiên sứ của Đức Chúa đã đưa các ông ra khỏi ngục khi lính vẫn canh và cửa tù vẫn đóng. Hơn nữa, các ông đã nhìn thấy rõ sự thật của Đức Kitô và sự sai trái của Thượng Hội Đồng. Các ông chắc cũng đã tự hỏi: Tại sao lại cứ phải tiếp tục làm nô lệ cho sự sai trái, mà không để cho sự thật giải phóng các ông. Vì thế, khi có cơ hội là các ông loan báo sự thật và vạch trần sự sai trái.
Dân chúng cũng chọn theo sự thật của các tông đồ giảng dạy. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, “chẳng có gì giấu kín mà không được tiết lộ.” Sự thật sẽ có lúc được tiết lộ, con người không thể bưng bít mãi sự thật. Tuy là “dân đen ít học,” nhưng họ vẫn còn có khôn ngoan Thiên Chúa ban để nhận ra sự thật. Họ không ngu dốt đến độ cứ bị đánh lừa để xỏ mũi kéo đi mãi. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai đích thực Thiên Chúa gởi đến để cứu chuộc con người; họ cũng nhận ra sự mờ ám của những người trong Thượng Hội Đồng, họ thủ tiêu Chúa Giêsu chỉ vì ghen tức mà thôi. Một khi dân chúng đã nhận ra sự thực, những kẻ làm điều sai sẽ mất uy quyền cai trị và phải coi chừng kẻo bị dân chúng ném đá.
(2) Các người thuộc Thượng Hội Đồng tiếp tục ở trong bóng tối: Sách CVTĐ viết: “Nhưng khi thuộc hạ đến, họ không thấy các ông trong ngục. Họ trở về báo cáo rằng: "Chúng tôi thấy ngục đóng kỹ lưỡng và những người lính canh đứng ở cửa; nhưng khi mở cửa ra, chúng tôi không thấy ai ở bên trong." Nghe những lời ấy, viên lãnh binh Đền Thờ và các thượng tế phân vân về các ông, không biết chuyện gì xảy ra.” Họ phân vân về những chuyện xảy ra, “ngục vẫn đóng, làm sao các ông có thể thoát ra?” Nếu họ chịu khó để sự thật hướng dẫn, họ sẽ hiểu chính uy quyền của Thiên Chúa đã giải thoát các tông đồ, và họ sẽ không tiếp tục chống lại Ngài nữa.
Nhưng họ vẫn cứng lòng và không thay đổi thái độ đối với các tông đồ: “Viên lãnh binh bèn đi với bọn thuộc hạ và điệu các ông về, nhưng không dùng bạo lực vì sợ bị dân ném đá.” Có một sự khôi hài xảy ra ở đây: Lẽ ra các tông đồ là những người phải sợ họ; nhưng giờ đây họ trở thành những người sợ dân chúng ném đá. Có lẽ họ biết có gì khác thường xảy ra, nhưng vẫn không quan tâm để ý tới, vì đã quá quen thói dùng sức mạnh để đàn áp người vô tội.
2/ Phúc Âm: Ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng.
2.1/ Thiên Chúa yêu thương con người: Chúa Giêsu xác tín tình yêu Thiên Chúa dành cho con người khi Ngài nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
Mục đích của Thiên Chúa khi sai Người Con đến thế gian, không phải là để lên án thế gian; nhưng là để cứu độ thế gian. Một Thiên Chúa đã yêu thương nhân lọai đến độ hy sinh Người Con Một của mình, điều này chứng tỏ Ngài không nghĩ đến việc lên án, mà chỉ nghĩ đến việc cứu chuộc. Nếu Thiên Chúa không lên án, tại sao vẫn có người phải hư mất? Thực tế, con người lên án chính mình khi quay lưng lại với tình yêu Thiên Chúa và không tin vào Đức Kitô.
2.2/ Xung đột giữa ánh sáng và bóng tối: là sự xung đột thể lý, những gì mà con người thấy được. Chúa Giêsu được ví như ánh sáng đến để xua tan bóng tối đang bao trùm thế gian. Con người có quyền tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận ra ngòai ánh sáng: tin vào Chúa Kitô, hoặc chấp nhận ở trong bóng tối: không tin vào Chúa Kitô. Chính sự lựa chọn này mà con người được cứu độ hay bị lên án.
Đàng sau sự xung đột thể lý là sự xung đột luân lý: giữa sự thiện và sự ác, như Chúa Giêsu nói: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách.” Chúa Giêsu muốn nói lý do tại sao con người không chấp nhận ánh sáng không phải vì họ không biết ánh sáng tốt lành và lợi ích, nhưng vì có những điều ác (tội lỗi) họ đã quá quen thuộc và không muốn từ bỏ. Nếu chọn ra ngòai ánh sáng hay tin vào Chúa Kitô, họ phải chấp nhận bỏ những điều này. Sau cùng, đây là sự xung đột tâm linh: giữa Thiên Chúa và thế gian. Thiên Chúa muốn cứu độ con người trong khi ma quỉ và các quyền lực thế gian muốn lôi kéo con người về phía chúng. Để thuộc về Thiên Chúa, con người phải “đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta luôn bị đặt trong tình trạng xung đột giữa ánh sáng và bóng tối, giữa uy quyền Thiên Chúa và sức mạnh của ma quỉ và thế gian, cho đến ngày chúng ta từ giã cuộc đời này.
- Chúng ta luôn bị đặt phải lựa chọn để sống theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa hay tiêu chuẩn của thế gian. Chúa Giêsu báo trước đau khổ nếu chúng ta chọn sống theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa: Họ sẽ ghét anh em vì anh em không thuộc về họ.
- Ngài cũng báo trước cho chúng ta sự toàn thắng của lối sống theo Thiên Chúa: “Trong thế gian, anh em sẽ bị người đời ghét bỏ; nhưng đừng sợ vì Thầy đã thắng thế gian.”
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
10/4 Thứ Ba Tuần II Mùa Phục Sinh Năm lẻ
- Viết bởi Dân Chúa
BÀI ĐỌC I: Cv 4, 32-37
"Họ một lòng một ý với nhau".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ. Ông Giuse, người mà các tông đồ đặt tên là Barnabê (nghĩa là con sự an ủi), một thầy tư tế, quê ở Cyprô, có một thửa ruộng, ông bán đi và đem tiền đặt dưới chân các tông đồ. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5
Đáp: Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).
1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai. Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Đáp.
2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn có Chúa. - Đáp.
3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 14, 18
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 3, 7-15
"Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thật, Tôi bảo cho ông biết: Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy".
Nicôđêmô hỏi lại rằng: "Việc ấy xảy ra thế nào được?" Chúa Giêsu đáp: "Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Điều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời". Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
10/04/2018 - THỨ BA TUẦN 2 PS
Ga 3,7b-12
ƠN TÁI SINH
“Các ông cần phải được sinh lại bởi ơn trên.” (Ga 3,7b)
Suy niệm: Trước khi trở thành con bướm, con sâu phải chui vào cái kén, hoá thành con nhộng; nhìn bề ngoài, nó dường như đã chết. Và nó còn phải tự mình nỗ lực đến mức kiệt sức, từ bỏ cái kén là tổ ấm an toàn của nó rồi mới hoá bướm được. Đó là qui luật của Tạo Hoá dành cho muôn loài. Còn con người có trí khôn, lại càng phải ý thức được định luật tất yếu đó: Cần phải có sức mạnh của Chúa để tái sinh mình trong ân sủng. Qui luật ấy, hôm nay Chúa Giê-su nhắc lại cho Ni-cô-đê-mô, nhưng thay vì đón nhận nó để sống vững vàng trong niềm tin, thì ông ngạc nhiên như điều không thể có và không thể chấp nhận. Chúa Giê-su khơi lại đức tin cho ông từ chính những kiến thức uyên bác của ông về Thánh Kinh: hình tượng con rắn đồng được treo lên trong sa mạc giải thích cho ông hiểu mầu nhiệm của việc tái sinh: phải tin vào Đấng đã vượt qua cái chết để tới được cõi sống: “Ai TIN vào Ngài thì được sống muôn đời”.
Mời Bạn: Hành động tin chính là biết nỗ lực lột bỏ được con người cũ của mình trong cái kén định kiến, cố hữu, và những thói quen không tốt, để mở lòng đón nhận ơn sủng Chúa. Với ơn tái sinh trong bí tích Thanh Tẩy, bạn hãy để cho Chúa tiếp tục tái sinh bạn mỗi ngày qua việc lắng nghe lời Chúa, tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận các bí tích.
Chia sẻ: Đức tin không hành động là đức tin chết. Bạn hiểu và sống thế nào ?
Sống Lời Chúa: Tham dự Thánh lễ và lãnh nhận các bí tích với tất cả tấm lòng yêu mến để bạn được ơn biến đổi, chứ đừng làm theo thói quen.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin thực hiện trong con mỗi ngày ơn biến đổi thiêng liêng.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG TƯ
Được Thánh Thần Làm Cho Can Đảm
Khi các Tông Đồ và các môn đệ của Chúa nhận lãnh Thánh Thần, họ bắt đầu lên tiếng nói công khai về Đức Kitô. Họ loan báo Tin Mừng cho người ta, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem. Trong lời loan báo của họ, họ qui chiếu đến một bố cục các dữ kiện mà ai cũng biết – đó chính là Kerygma, hay sứ điệp Tin Mừng căn bản.
“Anh em đã nộp Người và đã chối bỏ Người trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân” (Cv 3,13-14). Đó là những lời của Phê-rô nói với cư dân Giê-ru-sa-lem.
Sau khi đề cập đến cuộc thương khó của Đức Kitô, Phê-rô bắt đầu mô tả cuộc Phục Sinh: “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết – về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (c.15).
Phê-rô là người duy nhất lên tiếng nói. Nhưng ông nói không chỉ nhân danh chính mình mà là nhân danh toàn thể nhóm Tông Đồ. Ông nói với đám đông: “Chúng tôi là những chứng nhân”. Và ông thêm: “Giờ đây, thưa anh em, tôi biết rằng anh em đã hành động vì không hiểu biết – và những người lãnh đạo của anh em cũng vậy” (Cv 3,17).
Sau khi mô tả các biến cố và đưa lời chứng về cuộc Phục Sinh, Phê-rô bắt đầu giải thích một số điều trong Cựu Ước. Ông giải thích Đức Kitô trong tư cách là Đấng Mê-si-a đã hoàn thành những điều nói trong các Sách Luật và các Sách Ngôn Sứ như thế nào. Chính Đức Kitô đã chuẩn bị cho các môn đệ của Người đưa ra một sự giải thích như thế về cái chết và cuộc Phục Sinh của Người. Chúng ta có chứng cứ về điều này trong Tin Mừng Luca. Chúa Phục Sinh đã nói với các môn đệ: “Thầy đã nói những lời này với các anh em khi hầy còn ở với anh em: mọi sự đã được viết về Thầy trong luật Mô-sê, trong các ngôn sứ, và trong thánh vịnh đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24,44).
“Có lời Kinh Thánh chép rằng Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,46-48).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 10/4
Cv 4, 32-37; Ga 3, 7-15.
LỜI SUY NIỆM: “Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. Gió muốn thổi dâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thân Khí mà sinh ra thì cũng vậy.”
Điều Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô, một người lãnh đạo trong dân về sự tái sinh trong Thần Khí, làm cho Nicôđêmô ngạc nhiên. Nhưng đối với chúng ta ngày hôm nay khi được tái sinh qua phép Rửa Tội, chúng ta không chỉ ngạc nhiên, mà cần khám phá những gì đang xãy ra trong cuộc sống, cũng như những gì đang xãy ra chung quanh mình, tất cả là sự hiện hữu và sự quan phòng của Chúa, để dâng lời tạ ơn trong vui mừng.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con nhớ lại ngày Rửa Tội của mình như lời đề nghị của Đức Thánh Cha Phaxicô, nhờ đó chúng con ý thức lại việc tiếp nhận Bí Tích Rửa Tội của mình, với tất cả nghị lực để sống đẹp lòng Chúa hơn.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
10 Tháng Tư
Tấm Gương
Tại một ngôi làng nhỏ ở ven biển Ái Nhĩ Lan, có một cặp vợ chồng ngư phủ nghèo, nghèo đến độ trong nhà không có được một cái gương soi mặt.
Trong làng chỉ vỏn vẹn có một cái quán nhỏ cung cấp lương thức và những gì cần thiết cho việc đánh cá. Một ngày nọ, người chủquán ngạc nhiên vô cùng khi bắt gặp người ngư phủ già cầm lấy một vật gì đó trong tay, vừa xoay xung quanh, vừa thổn thức. Rồi từ đó, người chủ quán nhận thấy người đánh cá trở lại quán của mình thường xuyên hơn và cũng lập lại ngần ấy động tác. Ráng theo rình rập để lắng nghe những gì người ngư phủ già than thở, người chủ quán mới thấy ông già đưa cái gương soi mặt và thều thào: "Ba ơi, ba ơi".
Thì ra, cả đời người ngư phủ già chưa bao giờ nhìn thấy mặt mình trong gương. nhìn thấy mặt mình trong gương lần đầu tiên, ông ta tưởng đó là cha của mình.
Người chủ quán quá cảm động, đã tặng cho ông già tấm gương. lão hăm hở mang đi, và từ đó, cứ mỗi lần rảnh rỗi, lão đưa tấm gương ra, nhìn vào và nói chuyện với cha mình.
Tất cả chúng ta đều sống cho một gương mặt. Và gương mặt duy nhất mà chúng ta không bao giờ thấy đó là gương mặt của chính chúng ta. Chúng ta có thể hiểu biết tất cả, nhìn thấy tất cả trừ gương mặt của chúng ta. Và ngay cả trong một tấm gương, chúng ta chỉ nhìn thấy mình theo một hình ảnh đảo lộn. Chúng ta chỉ có thể biết mình, chúng ta chỉ có thể khám phá được chính mình nhờ những người khác vànhờ chính hình ảnh mà họ có thể cho chúng ta thấy.
Vậy đâu là tấm gương đích thực để chúng ta có thể biết mình hoặc biết mình phải như thế nào?
Chúng ta đừng vội vã cười hai vợ chồng ngư phủ trong câu chuyện trên đây... Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể làm người, có lẽ họ là người có lý, bởi vì họ biết nhìn thấy trong gương một cái gì khác hơn chính mình. Nói như Thánh Phaolô: "Phần chúng ta, chúng ta không che mặt, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa, như một tấm gương, vì chúng ta được thấy mình biến đổi nên giống hình ảnh ấy, mỗi lúc một rực rỡ hơn, bởi vì quyền phép Thánh Linh của Chúa".
Mỗi người Kitô phải là tấm gương phản chiếu chính hình ảnh của Ðức Kitô. Cuộc sống của họ phải là một phản ảnh của cuộc sống Ðức Kitô.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần II PS
Bài đọc: Acts 4:32-37; Jn 3:7-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thánh Thần hoạt động trong mỗi cá nhân và trong cộng đoàn.
Khi con người cùng theo một lý tưởng, một đường hướng, họ dễ hiệp nhất và tương trợ lẫn nhau như: Hội ái hữu các binh chủng không quân, hải quân; các trường trung học Trưng Vương, Gia Long; các làng xã Thức Hóa, Bùi Chu, Phát Diệm… Các Kitô hữu chẳng những có chung một lý tưởng, một đường hướng, mà còn có chung một Thánh Thần. Ngài vừa họat động trong mỗi cá nhân vừa họat động trong cộng đoàn; để hòa hợp tất cả mọi người và thúc đẩy tất cả hoạt động cho lý tưởng mà mọi người đang theo đuổi.
Các Bài Đọc hôm nay nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của Thánh Thần, Đấng mà Chúa Giêsu đã hứa xin Chúa Cha gởi đến cho các môn đệ của Ngài, sau khi Ngài sống lại. Trong Bài Đọc I, nhờ sự hoạt động và hướng dẫn của Thánh Thần, các tông đồ đã can đảm làm chứng cho Đức Kitô, cộng đoàn các tín hữu sơ khởi đã biết dẹp bỏ toan tính cá nhân để bỏ mọi sự làm của chung theo sự hướng dẫn và sự phân phát của các tông đồ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố với ông Nicodemus: Chúa Thánh Thần hoạt động giống như gió, không ai có thể biết trước sức mạnh, đường hướng, và các hoạt động của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự hiệp nhất trong cộng đòan: mọi người đều đồng một lòng một ý.
1.1/ Sự hiệp nhất biểu lộ qua tất cả đều một lòng một ý: Tục ngữ Việt-nam nhấn mạnh đến sức mạnh của tình đoàn kết: “Hợp quần gây sức mạnh; đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết.” Các phần tử của cộng đòan phải đồng một lòng một ý, thì cộng đoàn mới phát triển mạnh được; nếu không các phần tử trong cộng đòan sẽ phân tán mỗi người một ngả, không thể làm những chuyện lớn, và khó đạt đích mà tất cả đang nhắm tới.
Các cộng đòan sơ khai phải có đặc tính này mới có thể vượt qua được những sợ hãi, kỳ thị, và bạo lực; và có sức mạnh để rao giảng Tin Mừng đến các dân tộc. Sách CVTĐ mô tả sự đoàn kết của các cộng đoàn sơ khai như sau: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.”
Làm được những điều này không do sức con người, vì tác giả Sách CVTĐ nói rõ: “Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.”
1.2/ Sự hiệp nhất biểu lộ qua việc đặt “mọi sự làm của chung:” Đây là một mô hình lý tưởng mà biết bao những chủ thuyết: Hồi-giáo, Cộng sản, nền thần học Giải Phóng đang nhắm tới. Tác giả Sách CVTĐ mô tả cách tổng quát và cho một ví dụ cá nhân như sau: “Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu. Ông Joseph, người được các Tông Đồ đặt tên là Barnaba, nghĩa là người có tài yên ủi, có một thửa đất. Ông là một thầy Lêvi quê quán ở đảo Cyprius. Ông bán đất đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ.”
Để có thể đạt được kiểu mẫu lý tưởng này, mọi người trong cộng đoàn cần phải:
(1) Theo sự hướng dẫn và hoạt động của Thánh Thần: Mỗi người một cá tính khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần Đấng hoạt động trong mọi sự và trong mọi người.
(2) Theo sự chỉ dẫn của các nhà lãnh đạo khôn ngoan và tốt lành: Các chủ thuyết khác thất bại vì đã quá tin nơi các nhà lãnh đạo. Không phải nhà lãnh đạo nào cũng khôn ngoan và “chí công vô tư.” Nếu mọi tài sản của cộng đòan rơi vào tay những nhà lãnh đạo chỉ biết lo cho mình, cộng đoàn sẽ chết đói!
(3) Cần tránh những thái độ quá khích và thái độ “mạnh ai người ấy làm:” Thái độ quá khích và quá lý tưởng sẽ gây bất mãn và chia rẽ trong cộng đoàn, vì không phải ai cũng có khả năng làm như thế. Thái độ “mạnh ai người ấy làm” sẽ đưa cộng đoàn đến chỗ mỗi người đi một ngả.
2/ Phúc Âm: Phải được tái sinh bởi Thánh Thần để hiểu các mầu nhiệm Nước Trời.
2.1/ Phải được tái sinh bởi Thánh Thần:
(1) Không ai có thể tiên đoán các công việc của Thánh Thần: Chúa Giêsu nói: “Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy."
Gió có thể đem sự thoải mái cho con người, tạo năng lực thay điện; nhưng gió có thể tàn phá nặng nề nhà cửa và gây thiệt hại tính mạng cho con người. Không ai có thể đoán chắc gió từ đâu tới và sẽ đi đâu, vì gió có thể chuyển hướng và tăng tốc độ bất cứ lúc nào. Tương tự như thế trong cách hoạt động của Thánh Thần nơi con người: Ngài có thể thay đổi và dẫn một cá nhân hay một cộng đoàn tới một nơi hay một công việc mà họ không bao giờ dám nghĩ tới.
(2) Ông Nicodemus hỏi Người: "Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được?" Đức Giêsu đáp: "Ông là bậc thầy trong dân Israel, mà lại không biết những chuyện ấy! Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được?"
2.2/ Cần Thánh Thần hướng dẫn để hiểu những Mầu Nhiệm Nước Trời: Con người chỉ có thể hiểu và tin những gì nằm trong giới hạn con người. Để có thể tin vào Thiên Chúa và những mầu nhiệm thuộc về Ngài, con người cần được sự trợ giúp của Thiên Chúa qua việc ban Thánh Thần cho con người. Chúa Giêsu liệt kê hai mầu nhiệm điển hình cho Nicodemus:
(1) Mầu nhiệm Nhập Thể: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.” Để tin Chúa Giêsu vừa là Chúa vừa là người cần có sự soi sáng của Thánh Thần.
(2) Mầu nhiệm Cứu Chuộc qua Cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Chúa Giêsu: “Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” Con người không thể hiểu nổi tại sao một Thiên Chúa uy quyền lại muốn con mình đi qua con đường Thập Giá để cứu chuộc con người! Thánh Thần có thể làm cho con người hiểu mầu nhiệm này.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi chịu Bí tích Rửa Tội là chúng ta đã được đóng ấn Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Ngài. Ngài sẽ làm cho chúng ta hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời và hướng dẫn chúng ta tới sự thật toàn vẹn.
- Những quà tặng Chúa Thánh Thần ban cho mỗi cá nhân là cho sự phát triển của cộng đoàn; mỗi cá nhân cần sự soi sáng của Chúa Thánh Thần để đóng góp vào việc xây dựng và phát triển cộng đoàn và mở mang Nước Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
09/4 Thứ Hai Mùa Phục Sinh
- Viết bởi Dân Chúa
LỄ TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MẸ
BÀI ĐỌC I: Is 7, 10-14
"Này trinh nữ sẽ thụ thai".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!" Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử Chúa". Và Isaia nói: "Vậy nghe đây, hỡi nhà Đavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 11
Đáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).
1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Đáp.
2) Như trong cuốn sách đã chép về con, lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và luật pháp của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Đáp.
3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Đáp.
4) Con chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng con; con đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ Chúa; con đã không giấu giếm gì với đại hội về ân sủng và lòng trung thành của Chúa. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: Dt 10, 4-10
"Ở đoạn đầu cuốn sách đã viết về tôi là, lạy Chúa, tôi thi hành thánh ý Chúa".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, máu bò và dê đực không thể xoá được tội lỗi. Vì thế, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho con một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên con nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách. Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật". Đoạn Người nói tiếp: "Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa". Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA HOẶC CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM
(Mùa Chay: bỏ Alleluia)
Ga 1, 14ab Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người. -Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 1, 26-38
"Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ".
Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Đấng Bà sinh ra, sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt Bà. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
09/04/2018 - THỨ HAI TUẦN 2 PS
LỄ TRUYỀN TIN
Lc 1,26-38
XIN VÂNG NHƯ MẸ
Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1,35.37)
Suy niệm: Đức Mẹ đã đáp lại lời mời gọi của Chúa cách quảng đại khi thưa lời “xin vâng”: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.” Lời thưa “vâng” ấy tưởng chừng dễ dàng như một hơi thở thoát ra từ môi miệng của Mẹ. Nhưng thực tế không phải thế. Không hề dễ dàng cho một thiếu nữ để hiểu “việc ấy sẽ xảy ra cách nào”; càng không dễ dàng cho Mẹ để giải thích cho người khác về việc mang thai một cách mầu nhiệm, nhất là giải thích cho thánh cả Giu-se, người mà Mẹ đã đính hôn mà chưa về chung sống (Mt 1,18). Và trong suốt cuộc đời còn lại của Mẹ, Mẹ vẫn trung thành với lời thưa vâng ấy, đến độ Mẹ sẵn lòng đi trọn con đường thập giá cùng với Đức Ki-tô.
Mời Bạn: “Xin vâng ý Chúa,” việc ấy không dễ dàng, ngay cả đối với Mẹ. Nhưng vì tin, vì yêu, Mẹ đã xin vâng trong suốt cuộc đời của Mẹ cho đến cả dưới chân thập giá Chúa Ki-tô. Mời bạn chiêm ngắm thái độ của Đức Mẹ luôn vâng phục trong đức tin, và mời bạn noi theo gương Đức Mẹ để thưa vâng với Chúa trong mọi biến cố của đời mình.
Chia sẻ: Biến cố nào bạn thấy khó đón nhận để thưa lời xin vâng nhất?
Sống Lời Chúa: Cầu nguyện với Lời Chúa để nội tâm hóa chính mình, hầu đủ sức thưa vâng trong mọi hoàn cảnh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin phó thác đời sống con cho Chúa, xin Chúa cho con noi gương Đức Mẹ thưa lời xin vâng trong những trái ý khổ đau, vì biết rằng qua những khổ đau đó, con mới đạt tới vinh quang phục sinh như Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
9 THÁNG TƯ
Kitôhữu Là Một Tin Mừng Sống
Mọi Kitôhữu – khi khám phá trình thuật lịch sử của Thánh Kinh và truyền thống và đạt tới một đức tin sâu xa vững chắc – đều kinh nghiệm rằng Đức Kitô là Đấng Phục Sinh và, do đó, Người là Đấng hằng sống. Đó là một kinh nghiệm thâm sâu và có sức thay đổi cuộc sống con người. Không một Kitôhữu đích thực nào có thể giữ kín kinh nghiệm ấy làm của riêng. Vì một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống như thế luôn đòi phải được chia sẻ – như ánh sáng thì phải chiếu sáng, như men trong bột thì phải làm cho bột dậy men.
Một Kitôhữu đích thực là một Tin Mừng sống. Điều này không có nghĩa rằng người ấy là một môn đệ của một giáo thuyết xa lắc xa lơ trong thời gian và không can hệ gì đến thực tiễn của cuộc sống hiện tại. Người ấy không lặp lại những công thức vô hồn. Trái lại, người ấy xác tín và kiên trung bám sát Đức Kitô và không ngừng phản ảnh tính mới mẻ mãi của Tin Mừng. Với bất cứ ai và vào bất cứ lúc nào, người ấy cũng luôn luôn hăng hái trình bày lý do cho niềm hy vọng mà mình ôm ấp trong lòng (cf. 1Pr 3,15).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 09/4
LỄ TRUYỀN TIN
Is 7, 10-14;8,10; Dt 10, 4-10; Lc 1,26-38.
LỜI SUY NIỆM: “Vâng , tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ àm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Lời Chúa trong ngày Lễ Truyền Tin, cho chúng ta thấy được sứ thần Thiên Chúa đã đến chào mừng một Trinh Nữ, được Thiên Chúa tuyển chọn và ban ơn một cách dư đầy, và Trinh nữ đã sống trọn vẹn với những ơn ban, làm đẹp lòng Thiên Chúa, để đón nhận lời mời gọi cọng tác với Thiên Chúa trong chương trình cứu độ nhân loại của Ngài, với đời sống đẹp lòng Thiên Chúa với niềm tin của Trinh Nữ Maria. Mẹ đã cúi đầu “xin vâng” trong tư thế là “Nữ tỳ của Chúa.”
Lạy Chúa Giêsu, mỗi người trong chúng con luôn luôn có những lời mời gọi cọng tác với Chúa trong việc cứu độ cho chính bản thân mình, cũng như những người chưa nhận biết Chúa. Xin cho chúng con luôn biết chuẩn bị tâm hồn, tĩnh thức trong cầu nguyện và cuộc sống, để sẵn sàng đáp lại “xin vâng” như Đức Mẹ đã “xin Vâng.”
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
09 Tháng Tư
Lạc Hướng
Mỗi năm có đến hàng trăm con cá voi bơi vào bờ biển và bị mắc cạn. Nếu được kéo ra biển, chúng lại tự ý bơi trở vào bờ nữa mà không ai hay biết lý do tại sao... Hiện tượng này đã xảy ra từ nhiều thế kỷ và bao nhiêu giả thuyết đã được đưa ra.
Mới đây, trong tạp chí New Scientist, một nữ bác sĩ thuộc trường đại học Cambridge bên Anh Quốc đã nghiên cứu trên 3,000 hồ sơ ở bảo tàng viện Anh Quốc và đưa ra kết luận rằng: tất cả các giống vật sống ở đại dương như cá heo, cá voi đều tự ý làm cho mình mắc cạn trên khắp thế giới. Có thể nói đây là một loại tự sát của thú vật.
Nữ bác sĩ nói trên cho rằng cá voi bơi vào bờ vì chúng đã sử dụng địa từ trường của trái đất như một thứ bản đồ. Bà giải thích rằng cá voi không sử dụng sự chỉ hướng rộng rãi trên mặt đất như ta sử dụng đại bàn, nhưng chúng chỉ dùng những sự khác biệt tương đối nhỏ trong từng vùng hoàn toàn địa phương. Chúng bơi vào bờ vì không phải chúng đi tìm bờ biển hay muốn tự sát, nhưng cũng giống như người đọc sai hải đồ, nhắm hướng này nhưng lại ra hướng khác.
Những chú cá voi mắc cạn hằng năm trong bờ chắc chắn không phải là những con thú đã quyết chí đi tìm cái chết. Bản năng sinh tồn, ước muốn sinh tồn có nơi con người cũng như súc vật. Chúng đi tìm sự sống nhưng đã lạc hướng.
Cũng thế, không có người nào tự tử vì chính cái chết cả. Quả cái chết ấy, người ta vẫn còn ước muốn được giải thoát. Do đó, tìm giải thoát cũng là ước muốn được sống.
Tất cả chúng ta ai cũng khao khát sự sống. Thế nhưng, lắm khi chúng ta lầm đường lạc lối. Cũng như người thủy thủ đọc sai hải bàn, cũng như người phi công đọc sai bản đồ, chúng ta đọc sai những bản chỉ dẫn đi tìm sự sống của chúng ta. Những ảo ảnh và phù phiếm của cuộc sống lôi kéo chúng ta đến những bóng mờ của chết chóc mà chúng ta không hay biết. Khi chợt tỉnh, thấy mình mắc cạn như những chú cá voi thì đã quá muộn. Chúa Giêsu chính là Ðường Ði của chúng ta. Chỉ có Ngài mới dẫn đưa chúng ta đến Sự Sống đích thực.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Truyền Tin, Năm ABC
Bài đọc: Isa 7:10-14; Heb 10:4-10; Lk 1:26-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự vâng phục mang lại ơn cứu độ cho con người.
Con người được Thiên Chúa ban cho có tự do để làm quyết định; nhưng khi con người quyết định chọn điều gì, là con người phải lãnh nhận hậu quả do quyết định ấy mang lại. Thói quen của con người là không muốn phải vâng lời ai, muốn tự mình có thể quyết định mọi sự. Trong cuộc cám dỗ đầu tiên tại Vườn Địa Đàng, con rắn gian manh biết Bà Evà không muốn vâng phục Thiên Chúa, nên cám dỗ Bà ăn trái cây “biết lành biết ác” mà Thiên Chúa đã cấm không được ăn. Hậu quả của cuộc bất tuân là ông bà mất nghĩa cùng Thiên Chúa, và truyền nọc độc của tội Tổ Tông cho con cháu.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc tuân phục hay bất tuân lời Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, mặc dù đã được tiên-tri Isaiah truyền chỉ tuân phục một mình Thiên Chúa, vua Ahaz của Judah vẫn bất tuân sang cầu viện Ai-cập. Hậu quả là nước mất nhà tan, từ vua đến dân bị lưu đày qua Babylon. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái so sánh các hy lễ đền tội của Cựu Ước với sự vâng phục của Đức Kitô, và đưa đến kết luận: Thiên Chúa trân quí sự vâng phục của Đức Kitô hơn ngàn vạn chiên cừu, và cái chết của Ngài trên Thập Giá có sức mạnh xóa sạch tội và mang lại ơn cứu độ cho con người. Trong Phúc Âm, lời thưa “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ Maria trong biến cố Truyền Tin đã bắt đầu kỷ nguyên cứu độ: Chúa Thánh Thần đã rợp bóng trên Mẹ, và hài nhi Giêsu, Con Một của Thiên Chúa, đã hình thành trong lòng Mẹ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vua Ahaz bất tuân lời Thiên Chúa.
1.1/ Vua Ahaz nghi ngờ Thiên Chúa: Rezin là vua sau cùng của Damascus. Năm 732 BC, vua Assyrian, Tiglath-pileser III phá hủy Damascus và giết vua Rezin. Sự liên hiệp giữa Assyria và Israel làm vua Judah khủng hỏang, vua sợ liên hiệp này sẽ đem quân thôn tính Judah. Liên hiệp hai nước phác họa kế họach truất phế vua Ahaz, và thay thế ông với hòang tử của Bet Tabel, một lãnh thổ của Aram, miến Bắc của khu vực Transjordan. Hoàng tử này có lẽ là người Judah, con trai của Jotham hoặc Uzziah với công chúa của Tabel.
(1) Sự bất trung của vua Ahaz: Tiên-tri Isaiah được Thiên Chúa sai đến với vua Ahaz để khuyên nhà vua tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa, vì chỉ có Ngài mới có thể bảo tòan lãnh thổ của nhà Judah. Vua Ahaz không tin tưởng vào sự can thiệp của Thiên Chúa, và vào lời khuyên của tiên tri Isaiah; ông cầu viện với vua Ai-cập để xin sự bảo vệ. Hậu quả là Chúa để cho vương quốc của ông rơi vào tay vua Babylon.
1.2/ Tiên tri Isaiah được Thiên Chúa sai đến với vua Ahaz lần thứ hai.
(1) Hãy xin một dấu lạ để Thiên Chúa làm cho: “Một lần nữa Đức Chúa phán với vua Ahaz rằng: "Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh." Vua Ahaz trả lời: "Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa." Vua không xin một dấu từ Thiên Chúa vì vua ngoan cố, không muốn nghe những lời khuyên của tiên-tri Isaiah.
(2) Dấu lạ Đấng Cứu Thế: Tiên-tri Isaiah bèn nói: "Nghe đây, hỡi nhà David! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.”
- Isaiah không dùng chữ đặc biệt để chỉ trinh nữ (betula), nhưng dùng chữ (alma) để chỉ một phụ nữ trẻ tới tuổi thành hôn, có thể là trinh nữ kay không. Lời tuyên sấm này được loan báo trước hòang gia, có thể mang ý nghĩa giòng dõi của David sẽ bị tận diệt. Nếu điều ấy xảy ra, lời hứa của Thiên Chúa đã làm với giòng dõi David sẽ bị chấm dứt (2 Sam 7:12-16).
- Con trẻ sắp sinh ra có thể là trẻ Hezekiah, mà Judah đang hy vọng sẽ tiếp tục sự hiện diện của Chúa giữa dân Ngài, và là một canh tân của lời hứa đã được ký kết với vua David.
- Dẫu vậy, sự nghiêm trọng của lời tuyên sấm và tên con trẻ tương lai “Emmanuel” cho chúng ta thấy lời của tiên-tri Isaiah không chỉ dừng lại với sự sinh ra của Hezekiah; nhưng chỉ thẳng tới vị vua lý tưởng của giòng tộc David, mà qua vị vua này, Thiên Chúa mới thực sự ở với con người.
- Thánh sử Mathhew và Giáo Hội đã nhìn sự sinh ra của Đấng Cứu Thế bởi Trinh-Nữ Maria là sự hòan tất của lời tiên tri này.
2/ Bài đọc II: Thi hành ý muốn của Thiên Chúa cao trọng hơn các hy lễ tòan thiêu và hiến tế chiên bò.
2.1/ Máu thú vật không thể xóa bỏ tội lỗi con người: Trong Cựu Ước, mỗi khi con người muốn được Thiên Chúa tha tội, họ lên Đền Thờ, sát tế thú vật, và dâng cho Thiên Chúa như trong ngày lễ Day-at-onement. Nhưng những hy lễ này chỉ có thể tha những tội vô tình họ xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân; còn những tội cố tình, không một hy lễ nào có thể xóa được; đó là lý do tại sao tác giả Thư Do-thái nói: “Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi.” Vì thế, con người cần một cách khác để được tha tội; và Thiên Chúa đã chuẩn bị một cách thức hiệu quả để tha tội cho con người: “Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể.” Tạo cho Chúa Giêsu một thân thể để Ngài có tai để lắng nghe và vâng lời; có trí óc để hiểu và có ý chí để làm theo những gì Thiên Chúa muốn; và có một thân xác để có thể hy sinh, chịu đựng đau khổ, để đền tội thay cho con người.
2.2/ Đức Kitô thi hành thánh ý Thiên Chúa để mang lại ơn cứu độ cho con người: Tác giả trưng dẫn Thánh Vịnh 40:6-9: “Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.”
- Trước hết, Đức Kitô nói: “Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền.” Điều này hiển nhiên vì tất cả những điều này thuộc về Thiên Chúa. Con người có dâng tiến những lễ vật này cũng là lấy những của Thiên Chúa ban để dâng lại cho Ngài. Đó là chưa kể đến tội mà các tiên tri đã tố cáo con người nhiều lần: dâng của dư thừa, dâng cho qua lần chiếu lệ, dâng lễ vật mà vẫn đang toan tính phạm tội, dâng lễ vật mà lòng xa Thiên Chúa vạn dặm …
- Rồi Người nói: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.” Sự vâng phục của Chúa Giêsu là lễ hiến tế duy nhất đẹp lòng Thiên Chúa, và máu của Người đổ ra chỉ một lần là đủ để Thiên Chúa tha thứ tất cả cho con người.
- Nếu chúng ta muốn thiết lập mối giao hòa với Thiên Chúa, vâng lời làm theo thánh ý Ngài là cách thức duy nhất. Thiên Chúa muốn con người tin và tuân phục những gì Đức Kitô đã mặc khải và dạy dỗ con người.
3/ Phúc Âm: Lời thưa “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ Maria bắt đầu Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa.
3.1/ Biến cố Truyền Tin: Khi Bà Elisabeth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilee, gọi là Nazareth, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua David. Trinh nữ ấy tên là Maria.
- Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Thông thường, con người dễ hãnh diện khi được người khác khen mình; nhưng Mẹ là người rất khiêm nhường, Mẹ biết mình không xứng đáng với lời chào này; nên bối rối, băn khoăn về lời chào ấy.
- Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận." Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!" Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh để lo việc của Thiên Chúa. Điều khó hiểu ở đây là thánh Luca đã đề cập tới việc Mẹ đã đính hôn với Giuse ở đầu trình thuật. Tại sao đã khấn giữ mình đồng trinh, lại còn đính hôn với Giuse? Điều này chỉ có thể giải nghĩa hoặc Luca lầm lẫn hoặc bản văn bị sắp xếp lẫn lộn thứ tự giữa 2 biến cố: truyền tin và đính hôn.
- Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.”
3.2/ Không điều gì là không thể đối với Thiên Chúa: Chúng ta không chắc Mẹ Maria có thể hiểu thế nào là sinh ra bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần; nhưng Mẹ tin những gì thiên thần Gabriel nói vì hai lý do:
(1) Không điều gì là không thể đối với Thiên Chúa: Nếu Ngài có thể làm cho bà Elisabeth, người họ hàng với Mẹ, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai; còn việc gì Thiên Chúa không làm được?
(2) Niềm tin của Mẹ vào Thiên Chúa: Mẹ biết Thiên Chúa là ai, và Mẹ biết mình là ai. Mẹ tuy không hiểu những gì Thiên Chúa nói, nhưng sự khôn ngoan dạy Mẹ cứ mau mắn vâng lời; vì tất cả những gì Thiên Chúa muốn đều tốt đẹp. Vì thế, Mẹ thưa với thiên thần: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tuân phục Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa biết chắc các điều tốt đẹp cho con người. Bất tuân Thiên Chúa là cách dễ dàng nhất gây ra đau khổ cho con người.
- Vâng lời Thiên Chúa không lấy đi sự tự do của con người, nhưng chứng tỏ sự khôn ngoan. Giống như một con trẻ chưa đủ khôn ngoan để làm quyết định cho mình, em phải vâng lời cha mẹ là những người khôn ngoan hơn. Chúng ta cũng thế, khi chưa hiểu kế họach của Thiên Chúa cho cuộc đời, chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu và Đức Mẹ: xin vâng làm theo ý Thiên Chúa.
- Mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa. Chúng ta hãy kiên nhẫn chờ những gì Thiên Chúa hứa ban cho tới khi thành sự thật.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
08/ Chúa Nhật Tuần II Mùa Phục Sinh Năm B
- Viết bởi Dân Chúa
LỄ KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
BÀI ĐỌC I: Cv 4, 32-35
"Họ đồng tâm nhất trí".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Lúc bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 117, 2-4. 16ab -18. 22-24
Đáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Đức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: "Đức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Đức từ bi của Người muôn thuở". - Đáp.
2) Tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên, tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. Chúa sửa trị, Chúa sửa trị tôi, nhưng Người đã không nạp tôi cho tử thần. - Đáp.
3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Ga 5, 1-6
"Mọi cái sinh ra bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, ai tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, thì kẻ ấy sinh bởi Thiên Chúa, và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu mến kẻ sinh ra bởi Đấng đó. Cứ dấu này chúng ta nhận biết rằng chúng ta yêu mến con cái Thiên Chúa, là khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thực hành các giới răn Người. Vì chưng, lòng yêu mến Thiên Chúa là chúng ta tuân giữ giới răn Người, và giới răn của Người không nặng nề.
Vì những gì sinh bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng trận thế gian, là chính đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian, nếu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa? Đấng đã đến nhờ nước và máu, chính là Đức Giêsu Kitô, không phải trong nước mà thôi, nhưng trong nước và máu nữa, có Thánh Thần làm chứng rằng Chúa Kitô là chân lý. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 20, 19-31
"Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. Đó là lời Chúa.
LỜI NGUYỆN GIÁO DÂN
Chúa Giêsu sống lại củng cố niềm tin, và sai chúng ta đi làm chứng cho Người. Chúng ta hân hoan cảm tạ Chúa và phấn khởi cầu xin.
- 1. Trên đường làm chứng Chúa Giêsu phục sinh, Hội Thánh luôn gặp gian nan thử thách. Xin cho Hội Thánh vượt qua mọi khó khăn trở ngại, để đem tin vui Phục Sinh đến cho mọi người.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
- 2. Nhân loại ngày càng tin theo của cải vật chất hơn là tin Chúa. Xin cho mọi người tin theo Chúa là nguồn sống, và là nguồn hạnh phúc muôn đời.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
- 3. Ðời sống bác ái và đạo đức của các tín hữu sơ khai là chứng tá tuyệt vời Chúa Giêsu Phục Sinh. Xin cho các Kitô hữu biết hy sinh giúp đồng loại, và siêng năng cầu nguyện dự lễ để làm chứng cho Chúa.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
- 4. Chúa đã nhờ các tông đồ làm chứng Chúa sống lại. Xin cho các tín hữu họ đạo chúng ta biết làm chứng cho Chúa, bằng đời sống bác ái và gương mẫu hằng ngày.
Xướng: Chúng con cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa biết chúng con hèn kém tội lỗi. Xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con trung thành tin theo Chúa và làm chứng Chúa sống lại.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
08/04/2018 - CHÚA NHẬT TUẦN 2 PS – B
KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Ga 20,19-31
DẤU VẾT RIÊNG CỦA MÔN ĐỆ
“Bình an cho anh em… Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em... Hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga 20,19.21.22)
Suy niệm: Chúa Phục Sinh hiện đến, trao ba điều: bình an, sứ mạng, và Thánh Thần. Chúa Phục Sinh hiện diện bằng xương bằng thịt nhưng chỉ tạm thời thôi. Rồi Người sẽ về cùng Cha. Người vẫn tiếp tục hiện diện với các môn đệ ‘mọi ngày cho đến tận thế’, nhưng là trong Thánh Thần, bảo chứng của bình an và nguồn lực của sứ mạng. Từ đây, ‘dấu vết riêng’ ghi trong căn cước của người môn đệ Chúa Giê-su sẽ là sự hiện diện của Thánh Thần. Không thể trực tiếp thấy Thánh Thần nơi tôi, nhưng thế giới có thể thấy dấu vết của Ngài nơi sứ mạng của tôi và nơi sự bình an sâu thẳm (phát tiết thành niềm vui sâu thẳm) trong tâm hồn tôi, cho dẫu bao thăng trầm, bao nghịch cảnh.
Mời Bạn: ‘Dấu vết riêng’ của người môn đệ Chúa có nơi bạn không? Tôi có đang thi hành sứ mạng (bằng hình thức nào đó) không? Tôi có đang thật sự cảm nếm niềm bình an sâu xa không? Nói cách khác: tôi có đang sống trong Thánh Thần của Chúa Phục Sinh không?
Chia sẻ: Bạn đã từng cảm nghiệm được niềm bình an sâu xa mà ngay giữa hoàn cảnh đầy bất an và tăm tối chưa? Sự bình an đó có gắn liền với sứ mạng và với kinh nghiệm của bạn về Chúa Thánh Thần không?
Sống Lời Chúa: Chu toàn bổn phận hằng ngày của bạn theo sự hướng dẫn của Thánh Thần và với tâm hồn bình an để những Tô-ma của ngày nay thấy được và sờ được sự hiện diện sống động của Chúa Phục Sinh qua cuộc sống của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Thánh Thần, xin chiếm lĩnh trọn vẹn con người con, để con không bao giờ đánh mất bình an, và không bao giờ xa rời sứ mạng. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG TƯ
Chia Sẻ Kinh Nghiệm Riêng Của Mình Cho Người Khác
“Thiên Chúa đã nâng Đức Giêsu dậy, và tất cả chúng tôi làm chứng về điều đó” (Cv 2,32).
Chứng từ của đức tin về Chúa Phục Sinh là một mối dây gắn kết tất cả các thành viên của Dân Thiên Chúa lại bằng một cách thế đặc biệt. Công Đồng đã đúc kết tiếng gọi này thành một lời hiệu triệu rõ ràng cho tất cả mọi giáo dân. Công Đồng tuyên bố rằng sứ mạng này đúng thực thuộc về mọi người giáo dân, do họ đã tháp nhập vào Đức Kitô qua Phép Rửa: “Mỗi người giáo dân phải là một chứng nhân cho thế giới về sự sống lại và về sự sống của Chúa Kitô” (GH 38).
Một cách thiết yếu, làm chứng nghĩa là chứng thực về sự chắc chắn của một sự thật – và sự chắc chắn này, một cách nào đó, là kết quả của kinh nghiệm bản thân. Một số phụ nữ đã là những người chứng đầu tiên về cuộc Phục Sinh của Chúa (Mt 28,5-8). Khi họ đến cửa mộ, họ không thấy Đức Giêsu, nhưng họ bắt đầu chắc chắn về sự Phục Sinh của Người vì ngôi mộ trống rỗng và vì thiên thần nói với họ rằng Người đã sống lại. Đó là cuộc hạnh ngộ nguyên sơ nhất của họ với mầu nhiệm Phục Sinh. Kinh nghiệm của họ về Chúa càng đạt thêm giá trị khi Đức Giêsu hiện ra với các Tông Đồ và các môn đệ trên đường về Emmau.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 08/4
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
(Chúa Nhật lòng thương xót của Thiên Chúa)
Cv 4, 32-35; 1Ga 5, 1-6; Ga 20, 19-31.
LỜI SUY NIỆM: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các ông vui mừng, vì được thấy Chúa.”
Chúa Giêsu Phục Sinh đến với các Tông Đồ không phải mang một thân xác vinh quang sáng chói như thân xác Người đã tỏ ra cho ba môn đệ trên núi cao, nhưng Người đến với thân xác có ghi dấu đinh, lưỡi đòng đâm thủng trên thân thể Người. Thân thể của tình yêu tự hiến và vâng phuc Chúa Cha, để ban bình an cho các Tông Đồ và cho tất cả nhân loại đang nằm trong lo sợ.
Lạy Chúa Giêsu. Mão gai, dấu đinh nơi chân và tay và vết đâm ở cạnh sườn của Chúa chỉ có trên thân xác của Chúa. Chính những nơi này, tên của chúng con đã được Chúa ghi vào, và chính Chúa đã đưa ra cho chúng con thấy. Xin cho chúng con ghi sâu vào tâm hồn chúng con mà đền đáp tình yêu của Chúa đã yêu thương và tha thứ tất cả tội lỗi của chúng con, để được làm hòa lại với Chúa Cha, nhờ đó chúng con làm hòa lại với anh em mình.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
08 Tháng Tư
Cái Này Của Tôi
Hai hiền nhân đã chung sống với nhau dưới một mái nhà trải qua nhiều năm tháng, nhưng không bao giờ họ lớn tiếng cãi vã nhau. Một hôm kia, một người có ý nghĩ ngộ nghĩnh. Ông bảo bạn:
"Ít ra là một lần, tôi muốn chúng ta phải cãi vã nhau, như chúng ta thấy thiên hạ thường làm".
Ông kia không khỏi ngạc nhiên về ý nghĩ kỳ lạ này, nhưng chiều bạn, ông ta hỡm hờ hỏi: "Cãi vã thế nào được, ít ra chúng ta phải tìm ra một việc gì chính đáng để cãi nhau chứ". Người có ý kiến phải cãi nhau đề nghị: "Này nhé, dễ lắm! Tôi để một viên đá ra giữa sân và quả quyết viên đá này là của tôi. Ông phải phùng mang trợn mắt, đỏ mặt tía tai và lớn tiếng cãi lại: làm gì có chuyện đó, viên gạch là của tôi. Rồi sau đó chúng ta cãi nhau".
Nói xong ông ta bèn ra đường và tìm một viên đá to, khệ nệ khiêng ra đặt ở giữa sân. Ông bạn kia bắt đầu ngay, ông ta lớn tiếng:
"Viên đá đó của tôi mà mắc mớ gì ông lại mang ra giữa sân". Ông kia cãi lại: "Viên đá này là của tôi. Tôi vừa tìm được ở ven đường. Bộ ông mù rồi sao mà không thấy?". Nghe nói thế, ông kia đáp:
"À phải rồi, viên đá đó ông tìm được thì đúng là của ông rồi. Vả lại tôi cũng không cần có đá để làm gì".
Nói xong, ông ta bỏ đi làm việc khác. Thế là ý định cãi nhau của hai người không được thành tựu như ý muốn.
Ngay từ thuở bập bẹ nói được, con người đã học câu "Cái này là của tôi" để thể hiện quyền làm chủ của mình. Quan sát các cuộc cãi nhau của trẻ con, chúng ta nghe thấy câu nói đó được lặp đi lặp lại nhiều nhất.
Rồi trong xã hội của những người lớn, dù có những cách nói hoa mỹ hay những lý luận có vẻ hợp lý hơn, nhưng chung quy phần lớn những mối bất hòa vẫn xoay xung quanh câu xác quyết "Cái này là của tôi".
Trẻ con tranh nhau hòn bi, trái banh. Người lớn giành nhau địa vị, lợi lộc. Quốc gia tranh nhau đất đai, hòn đảo, vùng ảnh hưởng, môi trường tiêu thụ.
Trẻ con dùng lời vã cãi nhau, dùng thoi đánh đấm nhau. Người lớn dùng bạo lực, thủ đoạn thanh toán nhau. Quốc gia dùng khí giới, bom đạn giết hại, tàn phá nhau.
Ngược lại bẩm tính thích tranh nhau chiếm hữu này, sứ điệp của Giáo Hội luôn vang lên hai tiếng: Chia sẻ.
Ở Hoa Kỳ, mỗi gia đình công giáo được phân phát một hộp giấy, để trong suốt Mùa Chay, mỗi phần tử trong gia đình bỏ vào đấy những đồng tiền tiết kiệm do bớt ăn, bớt uống, bớt chi tiền vào những việc giải trí. Cuối Mùa Chay, những số tiền dành dụm đó được đóng góp vào quỹ dành cho việc tài trợ những chương trình cứu tế xã hội trong và ngoài nước.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật II Phục Sinh, Năm B
Bài đọc: Acts 4:32-35; I Jn 5:1-6; Jn 20:19-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hậu quả của niềm tin vào Chúa sống lại.
Tin thế nào sống thế ấy: Nếu không tin vào sự sống lại, con người sẽ chỉ biết sống theo những giá trị đời này; nhưng nếu tin vào sự sống lại của Đức Kitô, con người sẽ sống theo những giá trị mà Ngài răn dạy. Niềm tin vào sự sống lại không những giúp con người vượt qua những đau khổ của cuộc sống, mà còn biết giúp con người biết tuân giữ những gì Chúa dạy.
Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự quan trọng của niềm tin vào sự sống lại của Đức Kitô. Trong Bài Đọc I, niềm tin vào Chúa phục sinh giúp các tín hữu đầu tiên biết yêu thương nhau; họ bỏ mọi sự làm của chung, để không ai phải thiếu thốn gì cả. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Gioan I, xác nhận: Ai yêu mến Thiên Chúa, cũng yêu mến Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và nếu ai yêu mến Thiên Chúa, cũng thắng thế gian, vì thế gian từ chối không nhận biết Ngài. Trong Phúc Âm, tác giả tường thuật hai lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ: Lần đầu không có sự hiện diện của Thomas, Chúa ban bình an và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Lần thứ hai, Chúa hiện đến với các tông đồ và có sự hiện diện của Thomas. Ngài thách thức ông hãy xỏ ngón tay ông vào các lỗ đinh đóng của Ngài, để ông tin Chúa vẫn sống.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sức mạnh của niềm tin vào Chúa sống lại
1.1/ Các tín hữu bỏ mọi sự làm của chung: Chủ nghĩa cộng sản mơ ước có được một mô hình lý tưởng này; nhưng họ đã thất vọng ê chề, vì con người có thói quen vơ vét. Họ dám lấy ngay cả của chung để làm của riêng. Mấy chục năm qua, người cộng sản chẳng những đã không thực hiện được mơ ước “thiên đàng trần gian;” mà còn làm cho những bất công xã hội ra nặng nề hơn.
Trình thuật của Sách TĐCV đề cập tới mô hình lý tưởng của cộng đòan các tín hữu đầu tiên: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.” Để làm được điều này, các tín hữu phải có niềm tin vững mạnh nơi sự quan phòng của Thiên Chúa và nhất là niềm tin vào Đức Kitô sống lại. Nếu Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự, tại sao phải lo lắng đến ngày mai? Nếu Đức Kitô đã chinh phục sự chết, còn uy quyền nào lớn hơn uy quyền của Thiên Chúa? Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.
1.2/ Mọi người đều có đủ dùng: “Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.” Lý do chính giúp các tín hữu đầu tiên có thể làm được chuyện này là niềm tin vào sự sống lại. Truyền thống Do-thái tin hạnh phúc có được là chỉ ở đời này. Gần thời của Chúa, niềm tin vào đời sau bắt đầu được đề cập đến, nhưng chưa rõ ràng lắm (Sách Daniel và Macabbees). Khi Chúa Giêsu đến, Ngài làm sáng tỏ quan niệm này bằng dạy dỗ (Jn 6:39-40) và chứng minh bằng cái chết và sự phục sinh của Ngài. Nếu các tín hữu tin có sự sống lại, họ sẽ không quyến luyến quá nhiều vào của cải vật chất nữa, nhưng biết sống làm sao để đạt hạnh phúc đời sau.
Trong xã hội con người, bất công xã hội thường xảy ra: Người giầu có, có quá nhiều, đến chỗ dư thừa; người nghèo khó, thiếu quá nhiều, đến nỗi hóa bần cùng. Cả hai hạng người đều có lý do để biện minh cho mình. Người giầu đưa lý do: tôi làm ăn lương thiện, không ăn cắp của ai, và xứng đáng được hưởng những gì do tay tôi làm ra. Người nghèo trả lời: “Ở đời muôn sự của chung.” Tất cả là của Thiên Chúa ban cho con người, và mọi người đều là con cái Thiên Chúa. Con người không phải là chủ nhân, nhưng chỉ là quản lý của những của cải. Chúng tôi nghèo, không phải vì chúng tôi lười biếng, nhưng vì không có cơ hội để làm ăn. Hãy cho chúng tôi cơ hội, chưa chắc chúng tôi đã túng nghèo như vậy. Thực ra, để giải quyết bất công xã hội và cho mọi người có cơ hội đồng đều, Thiên Chúa đã thiết lập năm Jubilee, xảy ra mỗi 50 năm (x/c Lev 25). Trong năm này, mọi ruộng đất tài sản phải được trả về cho chủ nhân cũ, vì quá túng nghèo mà phải bán đi. Mục đích của năm này là để mọi người đều có cơ hội làm lại cuộc đời.
2/ Bài đọc II: Yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người.
2.1/ Ai yêu mến Thiên Chúa, cũng yêu mến Đức Kitô: Có một sự hợp lý tòan vẹn trong đạo lý của Đức Kitô: Ai yêu Thiên Chúa, người đó cũng phải yêu những kẻ được Đấng ấy sinh ra, các con Thiên Chúa; cách riêng: Đức Giêsu Kitô. Vì thế, khi người nào nói mình yêu Thiên Chúa, người ấy cũng phải yêu Đức Kitô và tha nhân. Chúa Giêsu đã từng tranh luận với người Do-thái về điểm này khi Ngài nói: “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi” (Jn 8:42).
Yêu Thiên Chúa không chỉ bằng lời nói, nhưng phải biểu tỏ bằng việc làm. Thánh Gioan khuyên nhủ các tín hữu: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu.”
2.2/ Ai tin vào Đức Kitô là thắng thế gian: Để hiểu điều này, chúng ta cần phải phân biệt các ý nghĩa khác nhau khi Gioan nói về thế gian (ko,smoj): (1) thế gian là trái đất, nơi con người sinh sống; (2) tất cả con người, nhất là những người chống lại Thiên Chúa; (3) cách sống hay tiêu chuẩn giá trị của thế gian, nhất là những tiêu chuẩn đối nghịch với Thiên Chúa; và (4) đồ trang sức (1 Pe 3.3). Theo văn mạch, tác giả có lẽ ám chỉ theo nghĩa (3) của thế gian ở đây: “Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa? Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.” Những người chống Thiên Chúa là những người không tin Đức Kitô được Thiên Chúa sai đến, hay những người chỉ tin vào thiên tính, hay vào nhân tính của Người. Hơn nữa, Gioan còn nhấn mạnh: “Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta.”
3/ Phúc Âm: Phúc thay những người không thấy mà tin.
3.1/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, lúc không có Thomas.
(1) Bình an của Chúa Giêsu: Sự lo lắng và sợ sệt làm con người bất an, như trình thuật kể tâm trạng của các tông đồ vào những ngày sau khi Chúa chết: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái.” Đang khi các ông hoảng hốt lo sợ như thế, Đức Giêsu biết rõ các ông cần điều gì nhất. Ngài đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”
Bình an các ông có được là nhờ tin Đức Kitô sống lại. Các ông tưởng sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy Ngài nữa, và còn đang bị khủng hoảng bởi những việc mới xảy ra; nhưng giờ đây các ông vui mừng vì được thấy Ngài bằng xương bằng thịt. Hơn nữa, Ngài còn chứng minh cho các ông biết tất cả những gì Ngài đã nói với các ông là sự thật, tất cả những gì Ngài tiên báo về Cuộc Khổ Nạn của Ngài đều hiện thực. Sự hiện diện của Đức Kitô mang lại cho các ông sự bình an đích thực trong tâm hồn, vì Ngài bảo đảm cho các ông uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa, được biểu lộ qua Đức Kitô.
(2) Lệnh được sai đi: Khi Đức Kitô chọn các tông đồ, Ngài muốn các ông tiếp tục thi hành sứ vụ Ngài đã khởi sự; nên Người lại nói với các ông: “"Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."” Sự bình an các tông đồ có được, không phải chỉ do sự hiện diện của Đức Kitô, nhưng còn do sự hiện diện và quyền năng của Thánh Thần, mà Đức Kitô đã thổi hơi vào các tông đồ. Với sự bình an và quyền năng của Thánh Thần, Ngài sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Trước đây, sự lo lắng và sợ hãi làm cho các ông không dám sống và làm chứng cho sự thật; nhưng giờ đây, sau khi đã cảm nhận được sự bình an qua niềm tin vào Chúa sống lại và sức mạnh của Thánh Thần; các tông đồ mở tung cửa đi vào thế giới và làm chứng cho Đức Kitô. Các ông biết nếu Đức Kitô đã chinh phục kẻ thù ghê gớm nhất là sự chết, còn gì phải sợ nữa.
3.2/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ, có cả Thomas.
(1) Sự cứng lòng của Thomas: “Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Thomas, cũng gọi là Didymus, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Thomas đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." Chúng ta đừng vội trách Thomas, vì các tông đồ khác cũng từng cứng lòng như ông khi họ chưa nhìn thấy Chúa. Tuy nhiên, cách thức “khi nhìn thấy mới tin” chỉ là một trong nhiều cách thức con người dùng để tin một điều là sự thật.
(2) Phản ứng của Thomas khi nhìn thấy Chúa: "Tám ngày sau, các môn đệ của Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Thomas: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."
Ông Thomas thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" Đức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. " Lời thưa của Thomas không đơn thuần chỉ là niềm tin vào Chúa sống lại; nhưng là lời tuyên xưng Đức Kitô là Thầy và là Thiên Chúa của ông. Tin khi đã thấy là cách thức thấp nhất con người dùng khi muốn tin điều gì là thật; nhưng Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến những cách thức cao hơn, khi Ngài nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” Con người có thể tin Thiên Chúa qua các việc Ngài làm trong vũ trụ, hay qua Kinh Thánh, hay qua lời chứng của các chứng nhân. Lề Luật Do-thái chỉ đòi lời của 2 chứng nhân có thế giá. Chúng ta đã có hàng triệu chứng nhân đã làm chứng cho sự phục sinh của Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tin thế nào, sống như vậy. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô, hãy sống những gì Ngài dạy; đừng sống như những người chỉ tin vào cuộc sống đời này.
- Niềm tin vào sự phục sinh của Đức Kitô phải giúp chúng ta vượt qua những lo lắng, buồn phiền, và sợ sệt của cuộc sống. Nếu một Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến độ ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài, còn gì quí giá hơn có thể ban mà Ngài từ chối không ban cho chúng ta. Nếu một Thiên Chúa uy quyền đến độ chinh phục được kẻ thù ghê gớm nhất của con người là sự chết, chúng ta còn phải sợ hãi gì nữa?
- Hãy đặt niềm tin hoàn toàn nơi Thiên Chúa, chúng ta mới có được sự bình an đích thực của Ngài. Sự bình an này sẽ giúp chúng ta biết sống và làm chứng cho Đức Kitô phục sinh.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
07/4 Thứ Bảy Tuần I Mùa Phục Sinh Năm lẻ
- Viết bởi Dân Chúa
BÀI ĐỌC I: Cv 4, 13-21
"Chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ nhận thấy Phêrô và Gioan kiên quyết, và biết hai ngài là những kẻ thất học và dốt nát, nên lấy làm lạ; và còn biết rằng hai ngài đã ở cùng Đức Giêsu; họ thấy kẻ được chữa lành đứng ở đó với hai ngài, nên họ không thể nói gì nghịch lại được. Họ mới truyền lệnh cho hai ngài ra khỏi hội nghị, rồi thảo luận với nhau rằng: "Chúng ta phải làm gì đối với những người này? Vì toàn dân cư ngụ ở Giêrusalem đều hay biết, phép lạ hai ông đã làm rõ ràng quá chúng ta không thể chối được. Nhưng để sự việc không còn loan truyền trong dân nữa, chúng ta hãy đe doạ, cấm hai ông không được lấy danh ấy mà giảng cho ai nữa". Họ liền gọi hai ngài vào và cấm nhặt không được nhân danh Đức Giêsu mà nói và giảng dạy nữa. Nhưng Phêrô và Gioan trả lời họ rằng: "Trước mặt Chúa, các ngài hãy xét coi: nghe các ngài hơn nghe Chúa, có phải lẽ không? Vì chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe". Nhưng họ lại đe doạ hai ngài, rồi thả về, vì không tìm được cách nào trừng phạt hai ngài, họ lại còn sợ dân chúng, vì mọi người đều ca tụng Thiên Chúa về việc đã xảy ra. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 117, 1 và 14-15. 16ab-18. 19-21
Đáp: Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã nhậm lời tôi (c. 21a).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Chúa là sức mạnh, là dũng lực của tôi, và Người trở nên Đấng cứu độ tôi. Tiếng reo mừng và chiến thắng vang lên trong cư xá những kẻ hiền nhân:Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt. - Đáp.
2) Tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên, tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. Chúa sửa trị, Chúa sửa trị tôi, nhưng Người đã không nạp tôi cho tử thần. - Đáp.
3) Xin mở cho tôi các cửa công minh, để tôi vào và cảm tạ ơn Chúa. Đây là ngọ môn của Chúa, những người hiền đức qua đó tiến vào. Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã nhậm lời tôi, và đã trở nên Đấng cứu độ tôi. - Đáp.
ALLELUIA: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia! - Đây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 16, 9-15
"Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi Chúa Giêsu sống lại, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng ở với Người và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin. Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy. Sau hết, Chúa hiện ra với mười một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại. Rồi Người phán: "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài". Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
07/04/2018 - THỨ BẢY TUẦN BÁT NHẬT PS
Mc 16,9-15
NHƯNG HỌ KHÔNG TIN
Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin. (Mc 16,11)
Suy niệm: Dù Thánh Kinh đã tiên báo, dù Chúa Giê-su cũng nhiều lần báo trước cho các môn đệ rằng Ngài sẽ chịu chết rồi sau ba ngày sẽ trỗi dậy, cái chết bi thảm của Chúa Ki-tô vẫn gây ra nơi các môn đệ Ngài một cú sốc nặng nề đến nỗi họ có say mê Ngài đến mấy cũng không thể bịa ra câu chuyện Thầy mình phá tung cửa mộ sống dậy. Ngay cả khi bà bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra mộ từ sáng sớm chạy về báo tin đã thấy Chúa sống lại, họ cũng không tin. Chỉ khi chính họ, những người trong số môn đệ đã tận mắt gặp Ngài, đó là Phê-rô, là Gia-cô-bê, là hai môn đệ làng Em-mau, là Tô-ma, là nhóm Mười Hai, là các tông đồ, là hơn 500 anh em, lúc đó họ mới xác tín Ngài đã sống lại như lời đã báo trước (1Cr 15,4). Một khi đã xác tín, họ sẵn sàng đem cả mạng sống để bảo đảm lời chứng của mình là chứng thật: “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32; 3,15).
Mời Bạn: Hiện tượng “mộ trống” đã là một bằng chứng khó nuốt đối với những ai muốn phủ nhận sự thật Đức Ki-tô đã chết và ngày thứ ba đã sống lại. Thế nhưng khi có những chứng nhân bất khuất như thế làm chứng, thì đó quả là một sự thật chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa: Chúa đã sống lại thật như lời Thánh Kinh.
Sống Lời Chúa: Noi gương các tông đồ làm chứng nhân của Chúa Phục Sinh bằng đời sống hằng ngày của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, vô số người đã dám hy sinh cả cuộc sống để làm chứng Chúa đã Phục sinh. Xin cho con biết noi gương các ngài để vững bước trong niềm tin của mình. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7 THÁNG TƯ
Được In Dấu Aán Sự Sống
Chúng ta hãy cảm tạ vì cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su Kitô. Chúng ta hãy cảm tạ vì Chúa Cha đã tôn vinh Người. Người là Đấng đã hủy mình ra không, “trở thành vâng phục cho đến chết, chết trên Thập Giá” (Pl 2,8).
Vâng, công cuộc cứu chuộc thế giới được hoàn tất trong cuộc Phục Sinh của Người. Dấu ấn của sự chết đã được tháo gỡ khỏi ngôi mộ đá lạnh lùng. Và dấu ấn sự sống đã được đóng vào trái tim của những người tin. “Đức Kitô đã chịu hiến tế để làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5,7).
Chúng ta hãy cảm tạ vì hy tế của Đức Giêsu – hy tế đã đạt tới chính ngai tòa của Chúa Cha. Chúng ta hãy cảm tạ vì tình yêu của Chúa Cha – tình yêu đã được mạc khải nơi cuộc Phục Sinh của Chúa Con.
Chúng ta hãy cảm tạ vì hơi thở của Chúa Thánh Thần Đấng trao ban sự sống. Hơi thở này được đón nhận bởi các Tông Đồ, qui tụ tại căn gác thượng theo chỉ thị của Đức Giêsu. Đức Kitô sẽ đến giữa họ, ngay cả xuyên qua những cánh cửa đóng kín. Người sẽ nói với họ: “Anh em hãy nhận lãnh Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì tội người ấy được tha… “ (Ga 20,22-23).
Chính từ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu mà chúng ta nhận được ơn tha thứ tội lỗi của chúng ta. Cuộc hoán cải của chúng ta xảy ra nơi chính Thập Giá của Người. Và nơi cuộc Phục Sinh của Người, chúng ta chiến thắng trên tội lỗi của mình. Người đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Người đã trao cho chúng ta chính sự sống của Người, Người mở lối cho chúng ta bước vào sự sống vĩnh cửu bất diệt.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 07/4
THỨ BẢY TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Cv 4, 13-21; Mc 16, 9-15.
LỜI SUY NIỆM: “Sau cùng Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bỡi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy,”
. Sau Khi Chúa Giêsu Phục Sinh, Người vẫn tiếp tục nâng dậy những đức tin đang còn yếu kém hay ngờ vực của những người đã từng sống với Người, đã từng nghe Người giảng dạy và tiên báo. qua nhiều phương cách.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã dùng bà Maria Mácđala, đã dùng hai môn đệ trên đường Emmau, nhưng các Tông Đồ của Chúa vẫn cứng lòng không tin, Chúa không uốn mất thêm mội ai nữa, nên Chúa đã đích thân hiện ra cho chính Nhóm Mười Một, để giúp các ông tin Chúa đã Phục Sinh. Xin cho chúng con ơn đức tin , tin có Chúa hiện diện trong cuộc sống của chúng con với tình yêu của Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 07-04
Thánh GIOAN LASAN
Linh Mục (1651 - 1719)
Thánh Gioan Lasan là bổn mạng của các nhà giáo dục, Ngài được thành công trong việc cung ứng một hệ thống giáo dục cho quảng đại quân chúng vào thời mà dân nghèo như bị bỏ rơi hoàn toàn. Nỗ lực của Ngài không phải chỉ trong việc mở trường mà là việc tạo lập nên một đoàn thể những nhà giáo dục được đào tạo chu đáo. Chính nỗ lực này đặt nền tảng bảo đảm cho sự thành công trong việc giáo dục.
Không phải khuynh hướng tự nhiên được đưa Ngài tới việc thực hiện công trình này. Thật vậy, hoàn cảnh gia đình với sự đào luyện từ thuở nhỏ khó có thể coi được là một chuẩn bị cho Ngài làm giáo dục. Sinh tại Reims ngày 30 tháng 4 năm 1651, Gioan Baotixita, là con trưởng trong một gia đình quý phái và được thừa hưởng địa vị lẫn gia tài của cha mẹ để lại. Những thứ này là vực ngăn cách Ngài với đám đông dân chúng nghèo khổ.
Vào tuổi 16, khi đang theo học ở Học viện dành cho trẻ em ưu tú (College des Bons enfants), thánh nhân được đặt làm kinh sĩ ở Reims. Sau đó Ngài tiếp tục theo học tại chủng viện Xuân Bích và đại học Sorbonne để làm linh mục. Ngài thụ phong linh mục năm 27 tuổi.
Cho đến lúc này, chưa có một yếu tố nào cho thấy rõ sứ mệnh tương lai của Ngài. Nhưng ít lâu sau, Ngài được chỉ định giúp vào việc lập trường ngay tại quê hương xứ sở mình. Việc này đặt Ngài và trách nhiệm săn sóc các giáo viên, dẫn Ngài tới chỗ đưa họ về nhà mình và đào luyện họ. Dần dần, Ngài hiểu rằng: Chúa quan phòng định cho Ngài làm dụng cụ kiến tạo một hệ thống giáo dục dành cho dân nghèo, lớp dân bị xỉ nhục trong "thế kỷ huy hoàng" vì sự hư dốn và ngu dốt của họ.
Chọn thánh ý Thiên Chúa làm nguyên tắc hứơng dẫn đời sống, Ngài quyết định hiến mình trọn vẹn cho công tác này. Ngài từ chức kinh sĩ, phân phát gia tài để mang lấy cũng một địa vị như các giáo viên Ngài chung sống. Làm như vậy Ngài làm cho những người đồng hương nặng đầu óc giai cấp tức giận. Nhưng điều ấy không thay đổi được quyết định của Ngài.
Năm 1684, Ngài biến đổi nhóm giáo viên của mình để thành một cộng đoàn an sĩ với danh hiệu Sư huynh. Các trường công giáo. Đây là nguồn gốc của hội dòng ngày nay, phổ biến rộng rãi khắp thế giới. Để giới hạn hội dòng riêng cho nỗ lực giáo dục, Ngài nhận định rằng: sư huynh nào làm linh mục, cũng như không nhận một linh mục nào vào dòng. Luật này ngày nay vẫn còn được áp dụng.
Những năm đầu, hội dòng rất nghèo khổ và cực nhọc. Tuy nhiên thánh nhân vẫn kiên quyết chịu đựng và vững tin ở Chúa quan phòng. Người nói với những người lo âu : - Tại sao mà không tin tưởng ? Chúa thà làm phép lạ còn hơn để cho chúng ta phải thiếu thốn.
Mối quan tâm chính của Ngài là đào luyện đạo đức và nghiệp vụ cho anh em. Nhưng, thấy không thể thỏa mãn được mọi đòi hỏi của giáo viên nếu không huấn luyện giáo viên, năm 1678 Ngài lập ở Reims một học viện cho khoảng 40 trẻ. Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục có một cơ sở giáo dục như vậy.
Sau khi lập trường ở những thành phố lân cận, năm 1683, Ngài coi sóc một trường ở xứ Thánh Xuân Bích (Sulpice), là nơi Ngài đặt bản doanh của mình. Tại thủ đô công trình lan rộng mau lẹ. Ngài lập thêm một trường đào tạo nữa với một trường miễn phí cho các bạn trẻ đã đi làm việc. Khi vua Giacôbê III trao phó cho Ngài săn sóc các thiếu niên Ai Nhĩ Lan, Ngài đã dành cho họ các giảng khoá đặc biệt theo nhu cầu của họ.
Mục đích tốt đẹp của Ngài bị chống đối bởi những giáo viên trường nhỏ, vì mất học sinh và học phí. Họ kiện cáo Ngài. Trường của Ngài bị cướp phá. Ngài bị kết án và bị cấm không được mở trường đào luyện miễn phí ở phạm vi Paris. Dĩ nhiên Ngài cũng bị trục xuất khỏi thủ đô một thời. Nhưng công trình của Ngài đã lan rộng sang nhiều nơi khác và những cấm đoán kia không thể phá hủy nổi.
Ở Rouen, Ngài đã lập hai cơ sở quan trọng: một trường nội trú phải trả học phí, cho học sinh miền quê muốn hiến thân, và một trường phục hồi cho những trẻ em bụi đời. Cả hai đều rất thành công. Cha Gioan Baotixita trải qua những năm cuối đời ở Rouen để kiện toàn thành tổ chức, viết luật dòng chờ các sư huynh và hai tác phẩm Meditations (nguyện ngắm), Methode de la prière mentale (Phương pháp thực hành tâm nguyện)
Ngài từ trần ngày thứ sáu tuần thánh 09 tháng 04 năm 1719.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
07 Tháng Tư
Bình An Trong Tâm Hồn
Purna, một môn đệ của Ðức Thích Ca, xin thầy được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng còn bán khai để tiếp tục tu luyện và truyền đạo. Nhân lời xin này, người ta ghi lại cuộc đối thoại giữa hai thầy trò như sau: Ðức Thích Ca cho biết ý kiến: "Nhân dân vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn ác. Bẩm tính của họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm hại kẻ khác. Lúc đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu, mắng chửi và vu khống con, con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Nếu thật sự xảy ra như vậy, thì con nghĩ là: dân chúng tại đây thật tốt lành và thân thiện, vì họ chỉ lăng mạ con chứ không dùng vũ lực, không đánh đập hay ném đá con". Ðức Thích Ca tiếp lời: "Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném con, thì con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Trong trường hợp đó, con vẫn nghĩ dân chúng vùng Sronapa-Ranta thật tốt lành và thân thiện, vì họ không cột con vào cột để đánh đòn và không dùng khí giới sắc bén để sát hại con".
Nghe môn đệ xác quyết như thế, Ðức Phật không khỏi ngạc nhiên; Ngài hỏi tiếp: "Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt lìa đời?". Không cần suy nghĩ lâu, Purna đáp: "Nếu họ hại đến tính mạng con, con vẫn nghĩ họ là những người tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải thoát con khỏi thân xác hay hư nát này". Nghe đến đây, Ðức Thích Ca bảo: "Purna, con đã tu tâm dưỡng tính đến nơi đến chốn để có được sự ôn hòa, kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con có thể sinh sống và truyền đạo cho dân Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần dần giải thoát khỏi bẩm tính hiếu chiến và bất nhân như chính con đã tự giải thoát mình khỏi những thiên kiến và những ý nghĩ hận thù, ghen ghét".
Thiết nghĩ tự tạo cho mình sự bình an trong tâm hồn là bổn phận của Kitô hữu chúng ta. Và theo kinh nghiệm của tu sĩ Purna trong câu chuyện trên, để tạo cho mình nền hòa bình này, chúng ta phải cố gắng tự giải thoát mình khỏi mọi thiên kiến, nghi kỵ cũng như hằng ngày phải thanh luyện tâm hồn khỏi những ý nghĩ hận thù, ghen ghét.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần BNPS
Bài đọc: Acts 4:13-21; Mk 16:9-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người không thể trốn tránh sự thật mãi.
Có một người hay có tính “thêu dệt” và “thêm mắm thêm muối” mỗi khi nói chuyện với người khác về quá khứ huy hoàng của mình. Các bạn anh muốn dạy anh một bài học, nên mỗi lần anh nói, họ ghi chép cẩn thận những gì anh nói. Sau khi kể một hồi, các bạn anh bắt đầu thắc mắc về thời gian và nơi chốn của những việc xảy ra, và chỉ cho anh thấy sự không hợp lý của những gì anh kể. Từ đó, anh bắt đầu nói năng cẩn thận hơn; vì chỉ có nói thật, anh mới có thể tránh được những mâu thuẫn của các sự việc.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc con người không thể trốn tránh mãi sự thật. Trong Bài Đọc I, những người trong Thượng Hội Đồng Do-thái nghĩ khi họ đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập Giá là từ nay dân chúng sẽ nghe theo họ; nhưng họ lại phải đương đầu với các môn đệ của Ngài và hàng ngàn dân chúng đã tin vào Chúa Giêsu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ sau khi chết. Ngài khiển trách họ đã quá cứng lòng không chịu tin vào lời các nhân chứng thuật lại trong trình thuật hôm nay.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nghe lời các ông hay là nghe lời Thiên Chúa?
1.1/ Phản ứng của những người trong Thượng Hội Đồng: Trước tiên, họ ngạc nhiên khi thấy ông Phêrô và ông Gioan mạnh dạn. Họ nghĩ không có một hay hai cá nhân nào dám đứng ra đương đầu với quyền lực của Thượng Hội Đồng; vì nếu làm như vậy, chắc chắn sẽ lãnh thiệt hại vào thân. Thứ đến, họ khám phá ra hai ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận xét đúng, cả hai, Phêrô và Gioan, đều làm nghề đánh cá; làm sao có cơ hội để học hỏi và biết chữ nghĩa và Lề Luật như họ được. Cả hai nhận xét của họ đều đúng, và câu hỏi họ đặt ra cho hai ông hôm qua rất chí lý: “Nhờ quyền lực nào và nhân danh ai mà các ông làm chuyện đó.”
Câu trả lời của Phêrô giúp họ tìm ra những gì họ muốn biết: chúng tôi chỉ lấy sức mạnh và quyền lực của Đức Kitô, Đấng mà các ông đã đóng đinh vào Thập Giá. Họ cũng nhận ra hai ông là những người đã từng theo Đức Giêsu; đồng thời họ lại thấy người đã được chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào. Họ mới truyền cho hai ông ra khỏi Thượng Hội Đồng, để bàn tính với nhau. Họ chỉ có hai con đường phải chọn:
(1) Phục thiện và tin vào Chúa Giêsu: Đứng trước một phép lạ quá rõ ràng, đứng trước 3 nhân chứng, và đứng trước đông đảo dân chúng; họ phải tin vào Chúa Giêsu là Người đến từ Thiên Chúa, đã chết và sống lại. Chính họ đã nói với nhau về hai ông: “Họ đã làm một dấu lạ rành rành: điều đó hiển nhiên đối với mọi người cư ngụ tại Jerusalem, và ta không thể chối được.”
(2) Dùng bạo lực để bưng bít sự thật: Có nhiều lý do để họ từ chối không tin: sợ mất thế giá, sợ mất lợi lộc vật chất, sợ phải thay đổi niềm tin …
Sau khi bàn luận, họ quyết định bưng bít sự thật bằng bạo lực. Họ quyết định: “Nhưng để cho việc đó khỏi lan rộng thêm trong dân, ta hãy ngăm đe, nghiêm cấm họ từ nay không được nói đến danh ấy với ai nữa. Họ cho gọi hai ông vào và tuyệt đối cấm hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Đức Giêsu nữa."
1.2/ Phản ứng của Phêrô và Gioan: Hai ông Phêrô và Gioan đáp lại: "Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy có phải lẽ không? Các ông thử xét xem! Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra."
Thượng Hội Đồng là những người có kiến thức và biết Lề Luật của Thiên Chúa. Họ phải công nhận điều Phêrô nói là phải tuân hành những gì Thiên Chúa nói hơn con người; nhưng vì quá ngoan cố trong việc tìm hiểu sự thật nên họ tiếp tục ở trong bóng tối tội lỗi. Trình thuật kể thái độ cứng lòng của họ như sau: “Sau khi ngăm đe lần nữa, họ thả hai ông về, vì không tìm được cách trừng trị hai ông. Lý do là vì họ sợ dân: ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra.”
2/ Phúc Âm: Các lần hiện ra của Chúa Giêsu theo thánh-sử Marcô
Không phải chỉ có những người trong Thượng Hội Đồng cứng lòng, các môn đệ của Chúa Giêsu cũng mắc phải lỗi lầm đó. Hơn những người trong Thượng Hội Đồng, các tông đồ đã từng được nghe Chúa Giêsu giảng dạy, biến hình, và báo trước cuộc tử nạn và sống lại sẽ xảy ra. Chúa Giêsu không chỉ hiện ra một lần để có cớ cho các tông đồ nói đó chỉ là ảo ảnh hay bóng ma; nhưng Ngài hiện ra nhiều lần với các nhân chứng khác nhau. Chúa Giêsu phải trách thái độ cứng lòng của các ông vì đã chối từ sự thật đến không phải từ hai như Lề Luật đòi, nhưng nhiều nhân chứng khác nhau. Thánh Marcô liệt kê ba lần Chúa hiện ra:
(1) Với một mình Mary Magdala: “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Mary Magdala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin.”
(2) Với hai môn đệ trên đường về quê, Emmaus: “Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.”
(3) Với Nhóm Mười Một: “Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. Người nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.””
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải luôn học để biết sự thật, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi mọi gian trá.
- Không chỉ học biết sự thật, chúng ta còn phải có can đảm để nói sự thật, sống theo sự thật, và làm chứng cho sự thật.
- Khi có sự xung đột giữa điều Thiên Chúa nói và điều người phàm nói; chúng ta phải luôn luôn vâng lời Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
06/4 Thứ Sáu Tuần I Mùa Phục Sinh Năm lẻ
- Viết bởi Dân Chúa
BÀI ĐỌC I: Cv 4, 1-12
"Ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, đang lúc Phêrô và Gioan giảng cho dân chúng (sau khi chữa lành người què), thì các tư tế, vị lãnh binh cai đền thờ và các người thuộc nhóm Sađốc áp tới, bực tức vì các ngài giảng dạy dân chúng và công bố việc Đức Giêsu từ cõi chết sống lại. Họ ra tay bắt các ngài và đem tống giam vào ngục cho đến hôm sau, vì lúc đó đã chiều tối rồi. Nhưng trong số những kẻ nghe giảng, có nhiều người tin, và nguyên số đàn ông cũng đã tới năm ngàn người. Đến hôm sau, các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ ở Giêrusalem, có cả Anna thượng tế, Caipha, Gioan, Alexanđê, và tất cả những người thuộc dòng tư tế, nhóm họp. Họ cho điệu hai ngài ra giữa mà chất vấn rằng: "Các ông lấy quyền hành và danh nghĩa nào mà làm điều đó?"
Lúc bấy giờ Phêrô được đầy Thánh Thần đã nói: "Thưa chư vị thủ lãnh toàn dân và kỳ lão, xin hãy nghe, nhân vì hôm nay chúng tôi bị đem ra xét hỏi về việc thiện đã làm cho một người tàn tật, về cách thức mà con người đó đã được chữa khỏi, xin chư vị tất cả, và toàn dân Israel biết cho rằng: Chính nhờ Danh Đức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng tôi, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây. Chính Người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên Đá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác. Bởi chưng không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được ban tặng cho loài người, để nhờ vào Danh đó mà chúng ta được cứu độ". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 117, 1-2 và 4. 22-24. 25-27a
Đáp: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường (c. 22).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Đức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Đức từ bi của Người muôn thuở". - Đáp.
2) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Đáp.
3) Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Phúc đức cho Đấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi. - Đáp.
ALLELUIA: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia! - Đây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 21, 1-14
"Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Điđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách.
Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: "Ông là ai?" Vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
06/04/2018 - THỨ SÁU TUẦN BÁT NHẬT PS
Ga 21,1-14
THÚ VỊ THAY ĐƯỢC Ở BÊN CHÚA!
Đức Giê-su nói: “Anh em đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai?” vì các ông đã biết rằng đó là Chúa. Đức Giê-su đến cầm lấy bánh, trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy.” (Ga 21,12-13)
Suy niệm: Đức Giê-su đã chết; các tông đồ hoang mang như rắn mất đầu. Giờ đây tuy vẫn ở với nhau nhưng họ có nguy cơ “tụt hậu” để chỉ là một nhóm đồng nghiệp đánh cá với nhau. Thế thôi. Nay Đức Giê-su phục sinh đến với các môn đệ để khôi phục đời sống cộng đoàn đích thực nơi họ.
Mời Bạn: Thật giống hệt một kỳ trại hè trên bờ biển: - mật thư “Hãy thả lưới bên phải thuyền” được dịch ra là một mẻ cá lạ lùng; - kho tàng tìm được hoá ra không phải là dưới biển sâu mà là chính Thầy đang chờ đợi trên bờ; - ngon lành biết mấy, những con cá tươi rói nướng thơm lừng trên ngọn lửa hồng; mà cảm kích nhất là do chính Thầy nướng cho; - sau một đêm vất vả, còn gì thân tình hơn cảnh Thầy trò hàn huyên giữa tiếng sóng biển rì rào vào buổi sáng tinh mơ. Thật thú vị thay phút thư giãn bên Thầy!
Chia sẻ một kinh nghiệm của bạn sống kết hiệp thân tình với Chúa Giê-su Thánh Thể.
Sống Lời Chúa: Chiêm ngắm một vài nét của cộng đoàn môn đệ đang ở bên Chúa để cảm nghiệm và để sống: - cộng đoàn hiệp nhất: Các môn đệ nói với Phê-rô: “Chúng tôi cùng đi với ông”; - cộng đoàn lắng nghe lời ngôn sứ: Người môn đệ được Chúa thương mến nói: “Chúa đó!”; - cộng đoàn hiệp thông trong tiệc thánh: Đức Giê-su nói: “Anh em hãy đến mà ăn”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, thật thú vị thay được sống bên Chúa. Thật hạnh phúc thay được sống thuộc về Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6 THÁNG TƯ
Lớn Lên Trong Sự Mật Thiết Với Đức Kitô
Chúng ta cũng được mời gọi tin vào Đức Kitô qua lời rao giảng của Giáo Hội. Trong tư cách là thân thể của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi loan truyền cái chết cứu độ, cuộc Phục Sinh của Người và sự hiện diện thường xuyên của Người ở giữa chúng ta. Chính Đức Giêsu đã bảo đảm với chúng ta: “Này, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Đức tin không qui chiếu nhiều đến một sự kiện quá khứ cho bằng tuyên bố rằng Chúa hằng sống và đang hiện diện giữa chúng ta. Tiên vàn, nó có nghĩa một mối thân tình gắn bó với Đức Kitô. Chúng ta phải có một sự kết hiệp mật thiết với Người. Đức Kitô phải trở thành ngày càng cắm rễ sâu hơn nơi chúng ta.
Càng lớn lên hơn, chúng ta càng cần tin hơn. Vì thế, mục đích của chúng ta phải là trở nên mật thiết hơn với Đức Kitô và gìn giữ mối thân tình với Người. Rồi, Người sẽ định dạng cuộc sống chúng ta – qua đó, chúng ta sẽ càng kết hiệp với Người nhiều hơn, sẽ hiểu biết Người nhiều hơn, và với tình yêu và lòng trung thành đối với Người, chúng ta sẽ tiến lên trong hành trình của chúng ta.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 06/4
THỨ SÁU TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Cv 4, 1-12; Ga 21, 1-14.
LỜI SUY NIỆM: “Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó là Đức Giêsu. Người nói với các ông: Này các chú, không có gì ăn ư?’ Các ông trả lời: ‘thưa không!’
Bảy Tông Đồ của Chúa Giêsu đang sống chung với nhau, mặc dầu có sự tuần phục: “Chúng tôi cùng đi với anh.” nhưng không có phương hướng, lại quay về nghề đánh cá như cũ trong đêm tối và không bắt được gì cả, kể cả không có gì để ăn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã đến đứng trên bãi biễn khi trời vừa sáng, Người gọi một cách thân tình: “Này các chú” để các ông thấy được sự quan tâm của Thầy mình, nhưng các ông cũng không nhận ra, cho đến khi nghe cách Người chỉ dạy thả lưới các ông mới nhận ra Người, Các ông đã lên bờ, và ngồi cùng ăn với Đấng Phục Sinh.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa có cách dẫn đưa con người đến với Chúa và tin vào Chúa. Trong mọi gia đình chúng con đang có những người con dâu, con rễ chưa thật tình tin vào Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa tất cả những người con, những người thân này cho Chúa, và đặt trọn niềm tin vào tình yêu, lòng thương xót của Chúa trên con cái và người thân của chúng con.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
06 Tháng Tư
Món Quà Cưới Ðẹp Nhất
Mẹ Têrêxa thuật lại một câu chuyện như sau: "Một hôm kia, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho những người nghèo".
Ở Calcutta, mọi người đều biết là: mỗi ngày, tất cả các cơ sở của dòng Nữ Tử Bác Ái truyền giáo chúng tôi phải cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Bởi lẽ đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ trao tặng vào mục tiêu trên.
Sau khi giải thích, Mẹ Têrêxa kể tiếp: thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: "Hai con có thể cho Mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?". Họ trả lời: "Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều và quyết định không may quần áo cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình. Thay vào đó, chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí đám cưới đó để trao tặng cho những người không được may mắn như chúng con".
Mẹ Têrêxa cắt nghĩa: "Ở Ấn Ðộ, đối với một người Hindu thuộc giai cấp thượng lưu khá giả, đám cưới mà không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Vì thế chắc chắn mọi người, nhất là những kẻ có họ hàng với cặp vợ chồng trẻ đó đã rất lấy làm lạ và cho quyết định của họ là một việc tủi hổ cho cả hai gia đình đàng trai cũng như đàng gái".
Ðể biết rõ thêm, Mẹ Têrêxa hỏi: "Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ, họ hàng?". Hai bạn trẻ đó trả lời: "Chúng con yêu nhau tha thiết, vì thế chúng con muốn tặng nhau một quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của chúng con bằng một hy sinh mà cả hai đều đóng góp vào".
Trong sứ điệp Mùa Chay gửi toàn thể giáo hội, công bố vào ngày 09/02/1988, Ðức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy đặc biệt quan tâm đến tình trạng mỗi ngày có hàng chục ngàn trẻ em trên thế giới bị chết yểu.
Ðức Thánh Cha nói: "Có những trẻ em chét trước khi chào đời. Nhiều em khác chỉ sống một thời gian ngắn vì bệnh tật, vì thiếu dinh dưỡng và nhiều khi thiếu cả tình thương nữa... Các em là nạn nhân của nghèo đói, của những bất công xã hội làm cho gia đình các em không đủ phương tiện cần thiết để nuôi dưỡng con cái".
Ngoài ra, sứ điệp Mùa Chay của Ðức Thánh Cha còn nhắc lại tình thương đặc biệt của Chúa Giêsu đối với các trẻ em và Ngài mời gọi mọi tín hữu trong Mùa Chay hãy bẻ gãy xiềng xích của tính ích kỷ và tội lỗi, đồng thời thực thi tình liên đới, bằng cách chia sẻ với những người túng thiếu. Hãy cho người nghèo không phải những thứ mình dư thừa, nhưng cả những gì mình cần thiết nữa.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần BNPS
Bài đọc: Acts 4:1-12; Jn 21:1-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu vẫn đang hoạt động với các tông đồ.
Chúa chết chưa hết truyện, mà là bắt đầu một kỷ nguyên mới; một kỷ nguyên mà từ nay, Ngài họat động từ trong và với các tông đồ.
Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng việc Chúa Giêsu vẫn sống và làm việc với các tông đồ. Trong Bài Đọc I, những người trong Thượng Hội Đồng rất ngạc nhiên khi thấy hai ông Phêrô và Gioan có thể chữa lành một người què từ lúc mới sinh. Họ chất vấn hai ông nhờ quyền năng nào và nhân danh ai làm chuyện đó. Ông Phêrô được đầy quyền năng Thánh Thần đã mạnh dạn tuyên xưng: chúng tôi nhân danh Chúa Giêsu Nazareth, Người đã bị các ông đóng đinh vào Thập Giá. Ngài vẫn đang sống và họat động trong chúng tôi; và không ai có thể được cứu độ nếu không tin vào Danh Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu vẫn hằng theo dõi cuộc sống của các tông đồ. Khi thấy các ông vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào, Người hướng dẫn các ông cách bắt nhiều cá. Khi thấy các ông mệt mỏi và đói khát, Ngài chuẩn bị đồ ăn thức uống để các ông được tăng sinh lực.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bổn cũ tái diễn, Thượng Hội Đồng cho bắt Phêrô và Gioan.
1.1/ Phêrô và Gioan đụng độ với Thượng Hội Đồng: Như Chúa Giêsu, hai ông biết sẽ phải ra trước Thượng Hội Đồng, nếu tiếp tục những gì Chúa đã từng làm; nhưng hai ông không sợ và bỏ chạy như trong Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh đã làm cho hai ông can đảm làm chứng cho Chúa mà không sợ bị bắt bớ, roi vọt, tù đày.
Khi hai ông còn đang nói với dân, thì có các tư tế, viên lãnh binh Đền Thờ, và các người thuộc nhóm Sadducees kéo đến. Lý do họ bắt các ông: “Họ bực tức vì các ông giảng dạy cho dân và dựa vào trường hợp Đức Giêsu mà loan báo kẻ chết sẽ sống lại.” Nhóm Sadducees không tin có sự sống lại, và càng bực tức với các tông đồ, vì đã đụng chạm đến niềm tin của họ. Họ dùng bạo lực, bắt hai ông và tống ngục cho đến ngày hôm sau, vì trời đã về chiều.
Nhưng làm sao họ có thể đàn áp mãi sự thật? Vì ngày hôm đó, trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo hai ông. Điều họ sợ toàn dân sẽ bỏ họ và theo Chúa Giêsu đã thành sự thật, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng năm ngàn. Họ lo sợ nhưng không làm gì được. Họ chỉ có thể dùng sức mạnh để đàn áp cá nhân; nhưng không thể áp đảo dân chúng.
1.2/ Phêrô và Gioan làm chứng cho Chúa Giêsu: Hôm sau, các thủ lãnh Do-thái, các kỳ mục và kinh sư họp nhau tại Jerusalem. Có cả thượng tế Hannah, các ông Caiaphas, Gioan, Alexandre và mọi người trong dòng họ thượng tế. Họ cho điệu hai Tông Đồ ra giữa hội đồng và tra hỏi:
(1) Câu hỏi quan trọng họ đặt ra cho Phêrô và Gioan: "Nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà các ông làm điều ấy?" Điều mà họ ám chỉ đây là việc chữa lành người què từ lúc mới sinh.
(2) Câu trả lời của Phêrô: Bấy giờ, ông Phêrô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ và toàn dân Israel: “Chúng tôi nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nazareth, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào Thập Giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị. Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường.” Lời tuyên xưng của Phêrô cũng là lời tố cáo tội lỗi họ đã xúc phạm đến Con Thiên Chúa.
Ông Phêrô còn đi xa hơn khi tuyên xưng: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ."
2/ Phúc Âm: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá."
“Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tiberia. Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanael người Cana miền Galilee, các người con ông Zebedee và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon Phêrô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.”
Có nhiều giả thuyết về ý nghĩa của trình thuật này: Có người cho rằng vì các tông đồ chán nản không biết làm gì sau khi Chúa chết, nên quay về nghề đánh cá cũ để sinh sống. Người khác cho đây chỉ là biểu tượng nói về việc các tông đồ phải biết trông cậy vào Chúa thì mới có kết quả trong việc “đánh cá người.” Dù theo giả thuyết nào đi nữa, chúng ta cũng phải tìm ra ý nghĩa của trình thuật.
2.1/ Chúa Giêsu chỉ dẫn cho các tông đồ bắt cá: Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư?" Các ông trả lời: "Thưa không."
- Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.
- Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó!" Vừa nghe nói "Chúa đó!" ông Simon Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.
Các ông vất vả suốt đêm và không bắt được con cá nào. Nhưng với sự chỉ dẫn, dù chỉ một lời của Chúa, các ông đã bắt được một mẻ cá lớn. Con người có thể chọn làm theo ý mình, nhưng sẽ không có kết quả bằng chịu vâng lời và làm theo sự chỉ dẫn của Chúa.
2.2/ Chúa Giêsu dọn bữa ăn cho các tông đồ: Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây!" Ông Simôn Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.
Chúa Giêsu bẻ bánh với các ông: Đức Giêsu nói: "Anh em đến mà ăn!" Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai?" vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu vẫn sống và đang hoạt động trong thế giới, trong Giáo Hội, trong gia đình, và trong mỗi người chúng ta. Chúng ta có cảm nhận được sự hiện diện của Ngài không?
- Hãy năng tham dự Thánh Lễ, vì qua đó, chúng ta vẫn đang được chỉ dạy khi thất bại, và được tăng sinh lực qua chính Mình và Máu Chúa, sau những giây phút mệt mỏi, chán chường.
- Chúng ta có nhiệm vụ làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng cách luôn lắng nghe và làm theo những gì Ngài dạy bảo, cho dẫu phải đương đầu với quyền lực của thế gian và ma quỉ.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
05/4 Thứ Năm Tuần I Mùa Phục Sinh Năm lẻ
- Viết bởi Dân Chúa
BÀI ĐỌC I: Cv 3, 11-26
"Đấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, khi người què được chữa lành cứ theo sát Phêrô và Gioan, toàn dân bỡ ngỡ chạy đến hai ngài đang ở hành lang gọi là hành lang Salômôn. Thấy vậy Phêrô liền nói với dân chúng rằng: "Hỡi các người Israel, tại sao anh em ngạc nhiên về việc đó và nhìn chúng tôi như là chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà làm cho người này đi được? Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta, đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Đấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Đấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng. Và bởi đã tin vào danh Người, nên danh Người đã làm cho kẻ mà anh em thấy và biết đây, được vững mạnh, và lòng tin vào Người chữa anh này hoàn toàn lành mạnh trước mặt hết thảy anh em.
"Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Ngài dùng miệng các tiên tri mà báo trước rằng Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ, như thế để Thiên Chúa ban cho anh em thời kỳ thư thái, và sai Đức Giêsu Kitô, Đấng mà Chúa đã phán hứa cùng anh em trước, Đấng phải về trời cho đến thời kỳ phục hồi vạn vật, như Chúa đã dùng miệng các thánh tiên tri Ngài mà phán từ ngàn xưa. Môsê đã nói rằng:
"'Vì Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ cho xuất hiện giữa anh em các ngươi một tiên tri như ta, các ngươi hãy nghe tất cả những điều Ngài sẽ nói với các ngươi'. Vậy, tất cả những ai không chịu nghe theo vị tiên tri đó, thì sẽ bị khai trừ khỏi dân chúng.
"Và tất cả các tiên tri, từ Samuel và các vị kế tiếp, đều đã nói và tiên báo về ngày này. Anh em là con cháu các tiên tri và con cháu của giao ước mà Chúa đã thiết lập với các tổ phụ chúng ta, khi Người phán cùng Abraham rằng: "Chính nơi dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc". Chính vì anh em trước tiên mà Thiên Chúa đã cho Con của Ngài xuất hiện và sai đi chúc phúc cho anh em, để mỗi người từ bỏ tội ác". Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 8, 2a và 5. 6-7. 8-9
Đáp: Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu (c. 2a).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu! Nhân loại là chi mà Chúa để ý chăm nom? - Đáp.
2) Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang, Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. - Đáp.
3) Nào chiên, nào bò, thôi thì tất cả, cho tới những muông thú ở đồng hoang, chim trời với cá đại dương, những gì lội khắp nẻo đường biển khơi. - Đáp.
ALLELUIA: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia! - Đây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 24, 35-48
"Đấng Kitô phải chịu thương khó như vậy, rồi mới được tôn vinh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ". Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây". Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Đoạn Người phán: "Đúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: "Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy". Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
05/04/2018 - THỨ NĂM TUẦN BÁT NHẬT PS
Lc 24,35-48
“NHỮNG BÓNG MA TRONG ĐỜI”!
Nhưng Người nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24,38-39)
Suy niệm: Con người là một tạo vật bé nhỏ và yếu đuối trong một vũ trụ bao la, với biết bao sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, của thú dữ, của súng đạn, của lòng người, của thần chết…. Những nỗi sợ hãi đó trở thành những “bóng ma” ám ảnh tâm trí hoặc đe dọa sự an toàn của cuộc sống. Người tông đồ, người tín hữu của Chúa cũng không thoát khỏi căn bệnh “sợ ma” đó. Tệ hại nhất là “những bóng ma” đó đã làm lung lạc đức tin của họ, để rồi họ “lạc mất” Chúa, không còn nhớ Lời Chúa đã dạy, và không còn nhận ra sự hiện diện của Ngài trong cuộc đời. Đức Ki-tô quả quyết chính Ngài đã chết nhưng đã sống lại và luôn hiện diện và “ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Mời Bạn: Đức Ki-tô đã chết, nhưng Ngài đã sống lại như lời Ngài đã phán. Ngài đã chiến thắng tử thần – “bóng ma vĩ đại nhất”, để đem lại niềm tin, sự sống lại và sống dồi dào cho ta. Từ nay, nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, ta sẽ không còn nỗi sợ hãi nào hết, nếu ta biết đặt đời ta trong sự quan phòng yêu thương của Ngài.
Chia sẻ: ĐGH Bê-nê-đi-tô XVI nói: “Thiên Chúa im lặng, không có nghĩa là Ngài vắng mặt.” Sự hiện diện và can thiệp của Chúa thể hiện theo một cung cách khác. Chỉ với đức tin trong sáng, ta mới có thể “sáng mắt” để nhận ra Ngài.
Sống Lời Chúa: Sốt sắng tham dự Thánh lễ trong tuần Bát Nhật này, để xin ơn đức tin.
Cầu nguyện: Hát: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi còn thiếu gì? Chúa bảo vệ tôi, lẽ nào tôi còn sợ chi, còn sợ ai”.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5 THÁNG TƯ
Nhìn Bằng Con Mắt Đức Tin
Các Tông Đồ xác nhận với chúng ta rằng Thiên Chúa đã nâng Đức Giêsu dậy, và Người đã được nhìn thấy – “không phải bởi toàn dân, mà bởi chúng tôi là những chứng nhân đã được Thiên Chúa tuyển chọn từ trước” (Cv 10,41).
Khi Đức Giêsu hiện ra, Người trao cho các Tông Đồ nhiệm vụ loan báo Tin Mừng và làm chứng cho mọi người về Đức Kitô chịu đóng đanh và sống lại từ cõi chết. Đức Kitô sẽ hiện diện bất cứ nơi đâu mà tin mừng của những thị chứng nhân này được đón nhận và được tin.
Chỉ một vài người đã nhìn thấy Đấng Phục Sinh, nhưng tất cả mọi người đều được mời gọi tin vào Người bởi vì – theo lời chứng của Thánh Kinh – hết thảy mọi người đều được mời gọi nhận ơn cứu độ, và do đó được mời gọi đón nhận đức tin. Đó là lý do tại sao Đức Kitô quở trách thái độ cứng lòng của Tô-ma và Người chúc phúc cho tất cả những ai sẽ khám phá ra Đức Kitô duy chỉ nhờ lời chứng của sứ điệp đức tin: “Vì anh đã trông thấy Thầy nên anh đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,29).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 05/4
THỨ NĂM TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Cv 3, 11-26; Lc 24, 35-48.
LỜI SUY NIỆM: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này.”
Lời Chúa Giêsu đang nói với mỗi người trong chúng ta: trước hết phải biết về Người, muốn biết về Người chúng ta phải chuyên cần học biết với đức tin, cùng sự hướng dẫn của Hội Thánh Tông Truyền, để khi giới thiệu Chúa cho người khác không bị sai lạc và cuối cùng sẵn sàng làm chứng về những gì mình đã tin với sự hiểu biết mà mình đã được học.
Lạy Chúa Giêsu, sứ vụ chứng nhân cho Chúa giữa muôn dân, là bổn phận của mỗi người trong chúng con, xin Chúa ban ơn đức tin với sự khôn ngoan, hiểu biết và sự can đảm để chúng con luôn sẵn sàng làm chứng có Chúa và sự quan phòng của Chúa cho toàn thể vũ trụ này.
Mạnh Phương
04/4 Thứ Tư Tuần I Mùa Phục Sinh Năm lẻ
- Viết bởi Dân Chúa
BÀI ĐỌC I: Cv 3, 1-10
"Có cái này tôi cho anh, là nhân danh Đức Giêsu, anh hãy đứng dậy mà đi".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vào giờ thứ chín, là giờ cầu nguyện, Phêrô và Gioan lên đền thờ. Lúc bấy giờ có một anh què từ lúc mới sinh, hằng ngày được người ta khiêng đến cửa đền thờ, gọi là Cửa Đẹp, để xin những người vào đền thờ bố thí cho. Khi thấy Phêrô và Gioan tiến vào đền thờ, anh liền xin bố thí. Phêrô và Gioan nhìn anh và nói: "Anh hãy nhìn chúng tôi". Anh ngước mắt chăm chú nhìn hai ngài, mong sẽ được hai ngài cho cái gì. Nhưng Phêrô nói: "Vàng bạc thì tôi không có, nhưng có cái này tôi cho anh, là: nhân danh Đức Giêsu Kitô Nadarét, anh hãy đứng dậy mà đi!" Rồi Phêrô nắm tay mặt anh mà kéo dậy, tức thì mắt cá và bàn chân anh trở nên cứng cát; anh nhảy ngay lên mà đứng và đi được; anh cùng hai ngài tiến vào đền thờ, anh vừa đi vừa nhảy nhót và ngợi khen Thiên Chúa, và dân chúng đều thấy anh đi và ngợi khen Chúa. Họ nhận ra anh chính là kẻ ngồi ăn xin ở Cửa Đẹp đền thờ, nên họ bỡ ngỡ sửng sốt về việc xảy đến cho anh. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 104, 1-2. 3-4. 6-7. 8-9
Đáp: Tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui (c. 3b).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Ngài, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Ngài, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. - Đáp.
2) Hãy tự hào vì danh thánh của Ngài, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. - Đáp.
3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những người được Ngài kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Đáp.
4) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. - Đáp.
ALLELUIA: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia! - Đây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 24, 13-35
"Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".
Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Các vị đó bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Đó là lời Chúa.
(thanhlinh.net)
++++++++++++++++++
04/04/2018 - THỨ TƯ TUẦN BÁT NHẬT PS
Lc 24,13-35
BƯỚC CHÂN ĐỒNG HÀNH
Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. (Lc 24,15)
Suy niệm: “Có bạn đồng hành tốt trên đường khiến đường đi dường như ngắn hơn” (Izaak Walton). Người đó chia sẻ với ta niềm vui, nhọc mệt cũng như rủi ro, lo sợ trên đường. Hai môn đệ trên đường về làng Em-mau, trĩu nặng một tâm trạng buồn nản thất vọng, lo sợ, hoang mang. Họ không hiểu được tại sao Thầy mình lại phải chết trên thập giá, họ càng không thể tin lời những người phụ nữ là đã thấy Thầy sống lại. Chính lúc đó Chúa Giê-su đến gần và cùng đi với họ. Người hỏi các ông về điều đang làm các ông quan tâm rồi giải thích Lời Chúa cho các ông. Họ cảm thấy lòng mình được sưởi ấm lên. Khi mời Người ở lại và cùng ăn với họ, họ đã nhận ra Người chính là Đức Ki-tô khi Người bẻ bánh. Ngay lập tức họ quay trở lại Giê-ru-sa-lem gặp các môn đệ để chia sẻ tin mừng đã gặp được Chúa phục sinh. Đức Ki-tô phục sinh, bạn đồng hành của họ đã giúp họ vượt qua cơn thử thách.
Mời Bạn: Cùng sống ơn gọi ki-tô hữu, chúng ta để cùng đi với nhau trong cuộc hành trình đức tin. Gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ Lời Chúa, thăm viếng nhau, v.v… là những bước chân đồng hành, là những sự trợ giúp thiêng liêng rất cần thiết, giúp ta trút bỏ cái tôi dửng dưng vô cảm để trở thành người biết thông cảm và gần gũi với anh chị em mình, nhất là với những người đang đau khổ và đang gặp khó khăn trong cuộc sống.
Sống Lời Chúa: Thăm viếng, lắng nghe và dùng “lời lẽ đức tin” an ủi một người bạn gặp hoàn cảnh khó khăn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho con nhận ra Chúa vẫn hiện diện trong đời sống con và cho con biết cùng đi với anh chị em con trên đường về với Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
4 THÁNG TƯ
Được Mai Táng Với Đức Kitô - Được Phục Sinh Với Người
Giáo Hội tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Người đã chịu nạn, chịu chết, và chịu táng xác. Nhưng ngày thứ ba Người đã sống lại.”
Trước khi sống lại từ cõi chết, Đức Kitô – với cái chết cứu độ của Người – đã chạm đến tội lỗi của con người qua mọi thế hệ. Người đã ghé thăm các linh hồn trong cõi âm ty với quyền năng cứu chuộc do cái chết của Người, với quyền năng trao ban sự sống do cái chết của Người. Hỡi sự chết, Ta sẽ là chính sự chết của ngươi!
Cũng vậy, chúng ta – những người còn đang sống – đã được dìm trong cái chết của Người (cf. Rm 6,3). Cái chết của Đức Kitô, cái chết cứu chuộc, cái chết trao ban sự sống, đã tiêu diệt di lụy của tội lỗi vốn có mặt nơi mỗi người chúng ta. Thật vậy, “chúng ta … được thanh tẩy để tháp nhập vào với Đức Giê-su Kitô” (Rm 6,3). Và Thánh Phao-lô nói tiếp: “Qua phép Rửa, chúng ta thật sự được mai táng với Người, để – cũng như Đức Kitô được phục sinh từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha – chúng ta cũng sẽ sống trong sự sống mới” (Rm 6,4).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04/4
THỨ TƯ TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Cv 3, 1-10; Lc 24, 13-35
LỜI SUY NIỆM: “Người hỏi họ: Các anh vừa đi, vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?”
Hai môn đệ trên đường Emmau, trước đây họ từng đặt hy vọng vào Chúa Giêsu, sẽ là Đấng đã được xức dầu, đến từ Chúa Cha, nhưng qua cuộc Thương Khó của Người, hai ông sống trong thất vọng về Người, họ muốn quay về đời sống cũ của họ, nhưng họ vẫn còn ray rức về Người. chính trong lúc họ trao đổi với nhau về Người, mong tìm ra một ý niệm sống mới cho họ. đúng thời điểm đó, Chúa Giêsu đã xuất hiện đi bên cạnh hai ông, Người muốn gỡ rối cho hai ông, bằng cách dẫn các ông về những gì Kinh Thánh đã nói về Người và cuối cùng để cho lòng các ông thật sự khao khát về Người, Người mới dùng đến dấu hiệu Bẻ Bánh, để các ông nhận ra Người.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con được bừng cháy lên, khi được nghe và đọc mọi lời trong Kinh Thánh, đặc biệt khi chúng con cùng lãnh nhận Mình Thánh Chúa từ Một Bánh được Bẻ Ra, để chúng con cũng biết bẻ mình ra cho những ngýời nghèo khó.
Mạnh Phương
- 03/4 Thứ Ba Tuần I Mùa Phục Sinh Năm lẻ
- 05/4 Chúng tôi đã ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại
- 04/4 Đức Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, đã sống lại
- 03/4 Người đã bị thương tích vì tội lỗi chúng ta
- 27/03 Một người trong các con sẽ nộp Thầy
- 26/03 Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta
- 25/03 Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến
- 24/03 Để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối
- 23/03 Họ tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ
- 22/03 Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết