Văn Hoá Việt Nam
BY: HOÀNG THẠCH
1- Sơ lược cuộc hội ngộ bất ngờ, Kim Trọng gặp Thúy Kiều.
Sau khi thắp nhang bên nấm mộ, viết bài thơ và khóc thương cho số phận Đạm Tiên, chị em Kiều đang trên đường về nhà bất ngờ nghe tiếng nhạc ngựa vang vang. Một chàng nho sinh xuất hiện trong y phục mầu xanh, chân đi hài, túi đầy thơ phú, cưỡi ngựa trắng, có mấy đứa trẻ nho nhỏ theo sau. Từ xa, nhận ra người quen, Kim Trọng cho ngựa đi chậm lại và tiến tới chỗ chị em Kiều. Vương Quan, em Thúy Kiều, nhận ra bạn học thân thiết của mình là Kim Trọng bèn tiến đến chào hỏi. Thúy Kiều và Thúy Vân thì bẽn lẽn theo kiểu con nhà lành, nép mình bên những bông hoa. Kim Trọng, một thư sinh có đầy đủ các yếu tố của giai cấp phong lưu, con nhà giầu, dáng điệu hào hoa, tư chất thông minh bẩm sinh, văn chương tài giỏi.
Là bạn học nên Kim Trọng cũng từng nghe tiếng thơm về hai người chị của Vương Quan, một người đẹp trong sáng như bông lan mùa xuân, một người đẹp mặn mà như bông cúc mùa thu. Vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân không thua gì hai chị em phu nhân tuyệt sắc là Đại Kiều, vợ của Tôn Sách, chúa tể nước Đông Ngô và Tiểu Kiều vợ của Đô đốc Châu Du. Nay nhân đi dự hội trai gái du xuân bẻ cây đố lá để làm quen, tìm vợ, kiếm chồng, Kim Trọng bất ngờ được gặp Thúy Kiều nên không khỏi rung động con tim. Cuộc hội ngộ giữa chàng nho sinh thiên tài và người đẹp nổi tiếng đất nước tuy ngắn ngủi; nhưng tiếng sét ái tình đã làm cho họ mê nhau. Bề ngoài hai người tỏ61t ngờ ra e thẹn; nhưng bên trong tình yêu như đã thắm nồng ”Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.’’
Trời về chiều mà giai nhân và tài tử còn chần chờ, ở lại thì không ổn mà về thì luyến tiếc. Kim Trọng lên ngựa mà hai nàng Kiều còn ráng trông theo. Cảnh chiều đẹp buồn
chỉ còn lại bóng liễu thướt tha soi hình dưới giòng suối nước trong veo.
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Kim Trọng cưỡi ngựa đến
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
135-Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
140-Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
145-Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Gia thế của Kim Trọng
Nền phú hậu, bậc tài danh,
150-Văn chương nết đất, thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tuyệt (tót) vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.
155-Vẫn nghe thơm nức hương lân,
Một nền đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.
May thay giải cấu tương phùng,
160-Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa.
Kiều gặp Kim Trọng
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
165-Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.
Dưới cầu nước chảy trong veo,
170-Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
2- Chú giải và điển tích
136-Tay khấu: Tay cầm cương ngựa: ý nói, buông lỏng dây cương cho ngựa đi thong thả.
Dặm băng: quãng đường đi qua.
137-Lưng túi gió trăng: Nhà thơ thời xưa thường làm thơ ca tụng cảnh đẹp thiên nhiên, đêm trăng gió mát. Nên câu thơ này có nghĩa là lưng túi thơ.
139-Tuyết in sắc ngựa câu giòn: câu là con ngựa trắng trẻ, giòn là xinh đẹp. Ý nói con ngựa lông trắng như tuyết và đẹp.
140: Áo mầu xanh da trời.
142-Tự tình: Chuyện trò, bày tỏ nỗi lòng của mình.
143-Hài văn: Thứ giày vải nhung thêu có đường nét tươi đẹp mà nho sĩ thời xưa thường dùng. Dặm xanh: Dặm cỏ xanh.
144-Cây quỳnh, cành giao:
Cây ngọc quỳnh và cây ngọc giao: ý nói vẻ khôi ngô tuấn tú của Kim Trọng như làm cho cả một vùng cũng hoá thành đẹp. Câu này phát xuất từ câu: “Vương Diễn thần thái như quỳnh lâm dao thụ phong trần ngoại vật” có nghĩa: Phong cách tinh thần Vương Diễn đẹp như rừng quỳnh cây giao, thực là một bậc ngoài cõi phong trần vậy. (Thế thuyết).
Hoa Quỳnh: cây hoa quỳnh thuộc họ xương rồng, có nguồn gốc từ châu Mỹ. Nhìn cây hoa quỳnh người ta khó phân biệt đâu là lá, đâu là thân bởi có bộ phận thân giống như phiến lá, bản rộng, dẹp, màu xanh và có gân ở giữa. Hoa mọc ở kẽ những vết khía của thân (phần dẹp và rộng bản).
“Hài văn lần bước dặm xanh. Một vùng như thể cây quỳnh cành giao”, nói lên vẻ đẹp rất hài hoà của Kim Trọng cũng như với cảnh sắc chung quanh. Một sự hài hoà giữa cây quỳnh với cành giao. Cánh hoa quỳnh mỏng như lụa, màu trắng ngà, nhị màu vàng, đẹp lộng lẫy. Hoa quỳnh chỉ nở về đêm, toả hương thơm ngát, nhẹ nhàng, thanh tao, quyến rũ. Ngồi ngắm hoa quỳnh nở, người ta có thể quan sát bằng mắt thường các cánh hoa từ từ hé mở. Sau khi nở hết cỡ là hoa cụp trở lại, héo và tàn dần. Hoa nở vào khoảng 9 đến 10 giờ tối, vì thế hoa quỳnh càng trở nên hiếm hoi. Người chơi hoa quỳnh phải chờ đợi công phu, kiên nhẫn mới có dịp được tận mắt ngắm hoa nở.
Vào những đêm trăng sáng, vừa uống trà, vừa ngắm trăng, đọc thơ và nhìn hoa quỳnh nở là một thú chơi tao nhã của lớp người cao sang quyền quý ngày xưa như trong câu: ”khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”.
Quỳnh được trồng trong bồn hay chậu để dễ khiêng đi khiêng lại khi xem hoa nở. Trồng quỳnh bằng cách cắm cành. Hiện nay ở Đà Lạt còn có loại hoa quỳnh màu vàng, đỏ nở ban ngày rất đẹp. Hoa quỳnh phơi khô còn là một vị thuốc chữa bệnh tiểu đường.
Cây cành giao còn có một số tên gọi khác như cây càng cua, cây xương khô, san hô xanh, thập nhị... Cây có thể cao đến 3 mét, thân nhánh tròn, màu xanh lục, khi bẻ cành có nhiều mủ trắng chảy ra. Cây giao là một loại cây chỉ có cành mà lại không có lá. Khi cây giao trồng cạnh cây quỳnh thì cây quỳnh sớm có hoa và ra hoa ra nhiều hơn. Dân chúng thường dùng cây thuốc này trị một số bệnh như đau nhức, côn trùng đốt, chấn thương...
Cây thuốc này thường được trồng cùng với cây hoa quỳnh nên thường gọi là cây quỳnh cành giao.
146-Hai Kiều: hai chị em Thúy Kiều dựa theo điển tích 156 bên dưới.
148-Trâm anh:
Trâm là cái trâm để cài búi tóc. Anh là cái dải mũ, hai thứ dùng trang sức cho cái mũ của nho sinh và quan chức. Nhà trâm anh: Chỉ những nhà quyền quí thời phong kiến, có người đỗ đạt, làm quan.
149-Phú hậu: Giàu có.
150-Nết đất: Theo lối nhà, theo dòng dõi trong nhà, mạch đất đó có truyền thống văn chương.
151-Phong tư: Dáng điệu.
Tài mạo: Tài hoa và dung mạo.
152-Phong nhã: Phong lưu nho nhã.
Hào hoa: Sang trọng phong cách có vẻ quí phái. Vào trong: là ở trong nhà, Ra: khi đi ra ngoài xã hội.
154- Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.
155-Vẫn nghe thơm nức hương lân: làng xóm, ý nói: vẫn nghe tiếng khen đồn đại ở vùng lân cận.
Đồng thân: Nguyễn Du dùng từ đồng thân là bạn cùng học chứ không dùng từ đồng song. Có thể tác gỉa muốn cho câu trên, chữ thứ 8 (thân) hợp với chữ thứ 6 câu dưới (lân).
Theo Tự Điển Việt Nam của Lê Văn Đức thì đồng thân lại có nghĩa khác, là ruột thịt, một cha một mẹ với nhau; Thông gia, sui: kết tình đồng thân. Còn Đồng song: bạn đồng song, bạn đồng môn (bạn học một thầy, một lớp, một trường, lời gọi sau khi đã thôi học, đã nên danh phận.
55-Hương lân: Làng xóm, ý nói: Vẫn nghe tiếng khen đồn đại ở vùng lân cận.
156- Đồng Tước
Trong lúc lòng Kiều đang xót xa cho thân phận Đạm Tiên, thì Kim Trọng, trên lưng ngựa trắng, theo sau lẻo đẻo hai tiểu đồng, cũng tình cờ đi ngang qua. Lần đầu tiên được gặp hai người đẹp, tâm trạng vui mừng của chàng thư sinh được diễn tả bằng hai câu thơ:
Vẫn nghe thơm phức hương lân
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Đồng Tước, tên của một đền đài nguy nga tráng lệ thời Tam Quốc, nay không còn nữa. Khi qua sông Xích Bích, Đỗ Phủ đã có bài thơ hoài cổ, trong đó có câu:
Đông phong bất dữ Châu Lang tiện
Đồng Tước thâm xuân tỏa nhị Kiều
(Gió đông chẳng giúp thuận chiều
Trong đền Đồng Tước hai Kiều khóa xuân)
(Trần Trọng Kim dịch).
Trở lại truyện lịch sử Tầu thời Tam Quốc, Tào Tháo tự Mạnh Đức, là Ngụy Võ Đế cho xây đài Đồng Tước trên sông Chương Giang, tỉnh Hà Nam. Trong lễ tiệc khánh thành, Tào Thực, con của Tào Tháo, đã làm bài phú vịnh Đồng Tước đài, có câu:
Liên nhị kiều ư Đông Tây hề
Nhược trường không chi nhuế đống.
(Bắc liền hai cầu ở Đông Tây như các cầu vồng nổi lên giữa lưng trời).
Vào lúc này, thế của Lưu Bị đã suy yếu hẳn; quân sư Khổng Minh phải vận dụng mưu lược mong khôi phục nhà Hán, bằng cách tạo mối thù nghịch giữa Tôn Quyền và Tào Tháo.
Ở Giang Đông, tuy Tôn Quyền là chúa tể, nhưng mọi binh quyền đều thuộc về tay Châu Du. Châu Du và Tôn Sách, chúa của Đông Ngô là hai anh em cột chèo, rể của Kiều Công. Tôn Sách lấy người chị là Đại Kiều, Châu Du, lấy người em là Tiểu Kiều. Cả hai chị em đều là giai nhân tuyệt sắc.
Khổng Minh lặn lội vào Đông Ngô, tìm đến Châu Du:
-Trong lúc thế chiến đang căng thẳng, dân gian đang mong đợi thanh bình, vậy mà Tào Tháo vẫn lấy uy quyền của vua để ức hiếp mọi nơi. Lại còn lấy của kho, xây đài Đồng Tước tốn kém biết bao nhiêu mà kể, mục đích làm gì, t ướng quân có biết không?
Châu Du chưa trả lời, thì Khổng Minh đã tiếp:
-Tào Tháo xây Đồng Tước đài là muốn gây chiến vơi Đông Ngộ
-Muốn chiến tranh với Đông Ngô thì xây đài Đồng Tước làm gì?
-Thật tình tướng quân không biết sao?
Châu Du lắc đầu, Khổng Minh tiếp ngay:
-Chẳng lẽ việc Tào Tháo luyện tập thủy binh ngày đêm, tướng quân không biết sao?
Châu Du ngậm ngừng:
-Việc đó tôi có nghe
Khổng Minh bồi thêm:
-Cùng với việc luyện tập thủy binh, Tào Tháo còn cho xây cất Đồng Tước đài, để sau chiến tranh, chiếm cứ được Đông Ngô, Tào Tháo sẽ bắt Đại Kiều và Tiểu Kiều về Đồng Tước đài mà hoan lạc.
Châu Du mặt đỏ gay, thét to:
-Dựa vào đâu mà ông dám nói Tào Tháo xây Đồng Tước đài để bắt Nhị Kiều đem về hành lạc.
Khổng Minh thong thả đáp:
-Xin tướng quân hãy nguôi giận. Vậy thì tướng quân không biết bài phú của Tào Thực vịnh Đồng Tước đài à. Nguyên văn như thế này....
Nhưng đến hai câu:
Liên nhị kiều ư Đông Tây hề
Nhược trường không chi nhuế đống...
thì mưu sĩ Khổng Minh lại cố tình đọc sai là:
Lãm nhị Kiều ư Đông Nam hề
Lạc triêu tịch chi dữ cộng
(có nghĩa: Bắt hai nàng Kiều ở Đông Nam về để sớm tối chung vui).
(Nhị kiều trong thơ của Tào Thực là hai cây cầu; nhị Kiều của Gia Cát Lượng là vợ của Tôn Sách và vợ của Châu Du).
Châu Du, tướng hữu dõng vô mưu, đã trúng kế độc của Khổng Minh. Sau đó, tướng này đã dàn trận hỏa công trên sông Xích Bích, thiêu rụi mười vạn quân Tào. Ngụy Võ Đế đại bại. Lợi dụng thời cơ, Lưu Bị xua quân chiếm Kinh Châu, chiếm vào Lưỡng Xuyên, hình thành thế chân vạc thời Tam Quốc.
Khoá xuân ở đây là khoá kín tuổi xuân, tức cấm cung. Tác giả mượn điển cũ để nói lóng rằng: nhà họ Vương có hai cô gái đẹp chưa giao thiệp với ai.
157-Buồng thêu: Buồng người con gái.
158-Chốc mòng: Tiếng cổ, nghĩa là bấy lâu, bấy nay.
159-Giải cấu tương phùng: Cuộc gặp gỡ tình cờ. Ca dao cũng có câu:
Mới hay giải cấu tương phùng,
Biết người biết mặt biết lòng làm sao.”
160-Đố lá: Hội đố lá, còn gọi là diệp hý, một tục chơi xuân có từ đời nhà Đường. Vào khoảng tháng ba, trai gái đi du xuân, bẻ một cành cây rồi đố nhau xem số lá chẵn hay lẻ để đoán việc may rủi. Đây là dịp để họ làm quen và tìm hiểu nhau.
161-Bóng hồng: Bóng người con gái. Phụ nữ Trung Quốc thời xưa hay mặc quần đỏ nên gọi là bóng hồng.
162-Xuân lan, thu cúc: Hai chị em Kiều, mỗi người có một vẻ đẹp riêng, ngưòi đẹp như lan mùa xuân, người đẹp như cúc mùa thu.
163-Quốc sắc: Sắc đẹp nhất nước, chỉ Thúy Kiều.
166-Chỉn: Tiếng cổ. Chin khôn: chẳng xong, không nỡ.
3- Bình luận
Các tác giả Việt Nam không mấy người bàn luận về điển tích Đồng Tước. Như trong bài trước chúng tôi đã đề cập, Khổng Văn Thành, giáo sư văn học Trung Quốc tại trường đại học Liêu Ninh lại phê bình Nguyễn Du về việc mượn điển tích này của Tầu đưa vào truyện Kiều như sau:
“Để tỏ ra ngôn ngữ của Kim Trọng cao nhã, Nguyễn Du đã cho chàng ăn nói sặc mùi sách vở, để cho chàng ví hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân với “hai Kiều khóa xuân đài Đồng Tước”. Rõ ràng Nguyễn Du vay mượn câu tuyệt cú “Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều” trong bài “Xích Bích” của Đỗ Mục nhằm khoe khoang học vấn của mình. Nhưng sự khoe khoang chỉ làm lộ tẩy sự bất thông - câu này trong thơ Đỗ Mục là một câu giả định.
“Đông phong bất chữ Chu Lang tiện
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều”
có nghĩa là nếu như trong trận Xích Bích, Chu Du không gặp được điều kiện có lợi cho hỏa công là gió đông nam nổi lên thì Đông Ngô ắt bị mất về tay Tào Tháo. Dùng một ý thơ như thế để ví hai thiếu nữ chốn phòng the mà mình yêu mến, chẳng hóa ra râu ông nọ cắm cằm bà kia hay sao?’’ (Đổng Văn Thành)
Tác giả Đổng Văn Thành hơi vội vã và chỉ nhìn Thúy Kiều và Thúy Vân một phía, phía chiến thuật của Châu Du và sự may rủi trong cuộc chiến phá tan quân Tào Tháo trong trận Xích Bích.
Thực tế cho thấy Nguyễn Du thông suốt các điển tích văn học sử của người Tầu mà người ta có thể nhận ra trong toàn bộ truyện Kiều.
Trong trường hợp này Nguyễn Du chỉ muốn so sánh tài sắc của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân với hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều của Đông Ngô.
Nguyễn Du không chỉ so sánh sắc đẹp của hai cặp chị em nước Việt và nuớc Ngô mà còn muốn hấp dẫn người đọc bằng cách dựa vào lịch sử Đông Ngô và mưu lược phân hóa kẻ thù một cách tài tình của quân sư Khổng Minh.
Chính yếu tố lịch sử này làm cho câu truyện trở nên hứng thú hơn.
--------------------------
Tài liệu tham khảo
-Tài liệu cũ: đã ghi trong các bài trước
-Tài liệu mới:
BY: HOÀNG THẠCH
Theo phong tục cũ, khi người con trai nhà nghèo không đủ tiền bạc để hỏi cưới một cô gái nhà giầu và khi người con gái đã lỡ yêu chàng trai bần cùng rồi, thì cha mẹ nàng thường bắt chàng phải ở rể khoảng 3 năm, theo kiểu làm công như một hình thức lễ vật. Nhưng cuộc đời lắm lúc đảo điên, nhiều khi chưa hết hạn, cha mẹ nàng trở mặt gả nàng cho người khác!
Vì thế dân Việt mới có hai câu ca dao dưới đây nói lên sự chán chường của người con trai sinh ra phải làm kiếp con nhà nghèo:
Công anh đắp đập be bờ,
Để cho thằng khác đem lờ đến đơm!
(có chỗ ghi: "thằng phải gió")
Rơi vào trường hợp như trên, chắc người con trai nào mà chẳng muốn đổi kiếp người?
Nhưng, các bạn trai đừng lo, muốn thoát cảnh đời đen bạc và phong tục khó khăn trên, các bạn có thể lên xứ Thượng làm kiếp con người dân tộc thiểu số, nơi mà các chàng trai không cần phải là con nhà giầu mà vẫn có vợ; nơi mà người phụ nữ muốn có chồng phải có tiền bạc, của cải và lặn lội đi "bắt chồng".
Để con cháu trai của ông Adam thoát cảnh sinh ra làm kiếp con nhà nghèo mà vẫn lấy được con cháu gái nhà giầu của bà Eva, mời các bạn trai hãy đọc "những câu chuyện tình của dân miền sơn cước":
Theo truyền thống mẫu hệ, người con gái Chu Ru, Cil, Kơ Ho... muốn có chồng phải đi bắt chồng. Nàng cũng rơi vào tình trạng phải có số tiền hay vàng nộp theo yêu cầu thách cưới của nhà trai. Vàng thì tuỳ theo số lượng (người miền Nam gọi là cây) nhà trai đòi. Số tiền sẽ lên tới khoảng từ hai chục triệu, ba chục và thậm chí năm, bảy chục triệu đồng để có một tấm chồng. Giống như phong tục cũ của người Việt miền bắc, nhiều cặp vợ chồng trẻ và nhiều gia đình dân tộc thiểu số đã lâm vào cảnh bần cùng ngay sau ngày cưới chồng cho con gái.
P’Róh là một xã khó khăn bậc nhất của huyện Đơn Dương. Đa số người dân ở đây là bà con dân tộc Chu Ru, đời sống phụ thuộc hoàn toàn vào cây lúa, một số rất ít hộ dân bắt đầu nghề trồng rau để ăn và bán.
Xã có 871 hộ dân thì đã có tới 609 hộ thuộc diện nghèo theo tiêu chuẩn mới. Bà Ma Phương, vợ của già làng Ya Ngôn, là một trong những hộ có điều kiện kinh tế khá giả nhất ở P’Róh đã tâm sự:
"Khốn khổ cho những gia đình có đông con gái. Nghèo cỡ nào, cưới chồng cho con cũng phải mất hàng chục triệu!. Bản thân gia đình già làng Ya Ngôn cũng phải bỏ ra trên 30 triệu đồng mua sắm lễ vật thách cưới (vàng, vòng cườm, chăn và nhiều thứ vật phẩm khác) cho 3 cô con gái là Ma Xim, Ma Im và Ma Tim. Những cô gái nhà Ya Ngôn may mắn là đều bắt chồng ở các buôn làng cùng xã, nên lễ vật thách cưới có phần nhẹ hơn."
Trường hợp 1:
Mộng ước thành hôn có thể tan vỡ đối với bất cứ cô gái sinh ra phải làm kiếp con nhà nghèo nào lại yêu người bạn trai ở một xã hoặc huyện xa lạ và phải trao lễ vật theo yêu cầu của nhà trai. Chị Ma Nin ở buôn M’Lọn (thị trấn Thạnh Mỹ - Đơn Dương) đã phải nhờ bố mẹ bán trên 2.000 m2 đất trồng rau để mua sắm lễ vật thách cưới trên 30 triệu đồng mới lấy được anh K’Điếu ở xã Tà In ở huyện Đức Trọng. Phần đất được chia làm của hồi môn cho Ma Nin đã bán trước ngày cưới nên giờ đây, khi đã có 3 mặt con, vợ chồng K’Điếu vẫn phải còng lưng đi làm thuê cho người khác để kiếm miếng ăn qua ngày.
Trường hợp 2:
Ma H, con gái của Ma Ch là một cô gái thuộc hàng hoa khôi của vùng M’Lọn. Ngày còn học trường dân tộc nội trú Lâm Đồng, Ma H đã để ý và yêu chàng trai Ya Pia ở xã Tu Tra. Mới đây, khi Ya Pia trở thành thầy giáo của trường tiểu học phổ thông P’Róh thì họ đã tính chuyện sẽ kết hôn. Gia đình Ya Pia đánh tiếng và sau đã nói thẳng nếu gia đình Ma H không có 70 triệu đồng thì nhất định không được cưới con trai họ. Lý do là Ya Pia đã học hành tử tế nên có giá hơn nhiều chàng trai khác. Không thể xoay xở nổi một món tiền khổng lồ như thế, chị Ma Ch. đành cho con gái về thành phố Hồ đi học và cho đến bây giờ Ya Pia vẫn không thể yêu người khác, khi người mình thương đã đi xa buôn làng.
Ông K’Đăng, trưởng thôn Đa Huynh (nay là khu phố Đa Huynh, thị trấn Đinh Văn, Lâm Hà, Lâm Đồng) kể rằng, trong thôn của ông hiện còn có trên 20 cô gái K’Ho đã ngoài 20 tuổi, cái tuổi bị xem là đã quá muộn mằn đối với những người con gái dân tộc thiểu số, nhưng vẫn không có khả năng lập gia đình vì quá nghèo.
Cũng ở khu phố này, gia đình bà Ka Ros có 4 chị em gái đến tuổi lập gia đình, bố mẹ phải khuyên hai người chị nhường cho em đi "bắt chồng“ trước, vì không thể kiếm nổi những món thách cưới quá sức của gia đình các chàng trai!
Trường hợp 3: bắt chồng từ tuổi 15
Ở xã biên giới Rờ Kơi (huyện Sa Thầy, Kon Tum), theo tục lệ dân tộc H’Lăng, trẻ vị thành niên đua nhau bỏ học để lập gia đình. Các cặp "vợ chồng trẻ con“ ở riêng trong những ngôi nhà tranh vách đất, hoặc sống chung với cha mẹ, đã sinh ra những đàn con nheo nhóc.
Sinh năm 1991 nhưng Y Ă đã lấy chồng được mấy tháng. Cô cho biết: "Ở đây cứ đến tuổi 14 - 15 là phải bỏ học bắt chồng không thì "ế“. Mấy đứa trong làng cùng tuổi em nhưng bỏ học, bắt chồng trước em rồi. Học hành thì chỉ để biết con số, cái chữ giúp mình biết được đồng bạc mua bán, trao đổi khỏi lẫn lộn thôi, lấy chồng vui hơn...“.
Y Hàng (sinh năm 1982), chị của Y Ă cũng bắt chồng rất sớm, nay con lớn đã chín tuổi. Không riêng gì chị em Y Ă và Y Hàng. Cô hàng xóm Y Đương (sinh năm 1986), học xong lớp 4 thì bỏ học và đến cuối tuổi 15 thì bắt chồng. Hiện nay, con gái của Y Đương đã gần ba tuổi. Lập gia đình sớm vậy nên cô nào cũng nghèo. Con của Y Đương nhỏ tý, trông cứ như cây chuối rừng héo, vì bữa nào cũng chỉ ăn cháo, rau, trộn măng rừng.
Anh A Bier cho biết: "Năm nay thôn Rờ Kơi này có đến 5 cô bắt chồng ở tuổi trẻ con, gồm: Y Ă, Y Trà (sinh năm 1991), Y Đĩa, Y Thơk (1992) và Y Đuôi (1993). Y lớn nhất tròn 16 tuổi, Y nhỏ nhất (Y Đuôi) cưới chồng khi bước sang tuổi 14. Tất cả đều bỏ học khi mới đến lớp 5, cao hơn là lớp 6.
Toàn xã Rờ Kơi hiện có hơn 20 trường hợp bắt chồng ở độ tuổi dưới 15. Có trường hợp bắt chồng khi vừa bước sang tuổi 14 (Y Đuôi,1993). Nhiều cặp đã ở riêng trong các ngôi nhà tạm bợ vách đất, mái tranh; nhưng cũng còn nhiều cặp vợ chồng… trẻ con, sống chung với nhau trong nhà cha mẹ rất chật chội, sinh ra cả đàn con nheo nhóc. Biết vậy nhưng bọn trẻ ở đây vẫn đua nhau bỏ học để bắt chồng.
Các cặp vợ chồng tảo hôn này đều đơn giản cho rằng: "Bắt chồng là để chồng giúp làm nương, rẫy, bẫy thú, bắn chim, được cha mẹ chia đất, cha mẹ đang còn khoẻ mạnh cũng dễ giúp khi mình sinh con, đẻ cái.
Chị Y Pheng, cán bộ Phụ nữ xã Rờ Kơi cho biết: "chi hội phụ nữ xã chúng tôi thường xuyên bám cơ sở để tuyên truyền tác hại của việc lấy chồng sớm, vận động chị em bỏ hủ tục lạc hậu. Nhưng nghe hay không lại là quyền của các cháu. Nhìn các cháu nhỏ tuổi đói khổ, tay xách nách bồng mấy đứa con, thương cái bụng lắm, nhưng rồi nói mãi các cháu đâu có nghe. Nhiều cặp vợ chồng trẻ con cưới nhau 5 - 7 năm sau mới đăng ký kết hôn. Nhưng cũng trường hợp không biết kết hôn là gì và sinh con ra cũng không làm cả giấy khai sinh. Chúng tôi phải đến từng gia đình vận động, thì họ mới chịu đi đăng ký và làm khai sinh, khi trẻ đã 3, 4 tuổi“.
Theo chị Y Pheng, hiện tượng trẻ vị thành niên đua nhau bỏ học bắt chồng sớm theo tục lệ không chỉ có ở Rờ Kơi, mà xảy ra cả ở các xã lân cận khác trong huyện Sa Thầy như Ya Ly, Ya Tăng, Mo Rai và Ya Xia. Biết đây là một hủ tục lạc hậu, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của các cháu, nhưng các cấp hội phụ nữ chịu thua.
Toàn xã Rờ Kơi có 740 hộ với 3.381 nhân khẩu, do địa hình chủ yếu là đồi núi, có đến 426 hộ nghèo (chiếm 57,56%). Phần lớn các đối tượng nghèo đều do bắt chồng quá sớm, sinh đẻ không kế hoạch (kéo theo bệnh tật, ốm đau). Chưa ai có thể trả lời, bao giờ hủ tục này mới chấm dứt, để trẻ vị thành niên không sớm sa chân vào đói nghèo..
Trường hợp 4
Người Bơ-noong là một trong những nhóm địa phương của dân tộc Giẻ-Triêng, có tiếng nói thuộc ngôn ngữ Môn-Khơ-me (Ngữ hệ Nam Á). Địa bàn cư trú của người Bơ-noong hiện nay tập trung ở hai tỉnh: Kon Tum và Quảng Nam. Hoạt động kinh tế nương rẫy đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của họ.
Người Bơ-noong ở Quảng Nam hiện có 13.013 người cư ngụ trên địa bàn các huyện miền núi bắc và nam Trà My khoảng 1.951 người, huyện Hiệp Đức khoảng 593 người. Riêng tại huyện Phước Sơn, người Bơ-noong sống rải rác suốt từ nguồn nước Mỹ Sang đến huyện Dăm Glei (tỉnh Kon Tum) như: Phước thành, Phước Chánh, Phước Kim, Phước Đức... và một phần của thị trấn Khâm Đức, dân số khoảng 10.469 người, chiếm 65% dân số toàn huyện. Hiện nay, người Bơ-noong cư trú lâu đời và đông đúc nhất là địa bàn huyện Phước Sơn.
Người Giẻ-Triêng nói chung và người Bơ-noong nói riêng có nhiều lễ nghi liên quan đến phong tục, tập quán, tín ngưỡng…; nhưng đặc sắc và mang dấu ấn trong cộng đồng người Bơ-noong (huyện Phước Sơn) là lễ ăn mừng được mùa (La pôm) và lễ ăn mừng chiến thắng (Pơ truh). Thông qua hai lễ này, nhất là trong lễ Pơ truh, người Bơ-noong còn có tục bắt chồng.
Người Bơ-noong huyện Phước Sơn từ xưa đến nay theo chế độ mẫu hệ. Trong hôn nhân, người con gái Bơ-noong đóng vai trò chủ đạo tìm kiếm người chồng tương lai của mình mà không có sự ép duyên. Nếu con ngồi đâu là bố mẹ đồng ý ở đó và được hội đồng già làng chấp thuận là làm lễ cưới. Tục bắt chồng là do người con gái quyết định. Đây là nét đẹp văn hoá hiếm thấy so với các dân tộc vùng Trường Sơn, Tây Nguyên.
Khoảng từ 7 - 10 ngày trước khi diễn ra lễ ăn mừng chiến thắng, cha mẹ của người con gái bí mật gặp hội đồng già làng để thực hiện tục bắt chồng ngay trong lễ ăn mừng chiến thắng. Căn cứ vào việc chọn lựa của cô con gái mà tục bắt chồng có được thực hiện hay không (cũng do hội đồng già làng quyết định). Thường hội đồng ấn định cô gái rụt rè, nhút nhát, không biết dệt vải, lao động kém thì được sắp xếp lấy chàng trai khoẻ mạnh, siêng năng, lao động giỏi... còn cô gái đẹp nết, đẹp người, siêng năng… được hội đồng già làng ấn định với chàng trai lao động yếu, sức khoẻ kém. Trong lễ ăn mừng chiến thắng thường có từ 2 - 3 cô gái bắt chồng. Tục bắt chồng được thực hiện bí mật chỉ có cha mẹ, họ hàng nhà gái và hội đồng già làng biết, dân làng kể cả chàng trai và nhà trai không hề hay biết. Đúng là cảnh đổi đời: "thân anh như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai!"
Lễ ăn mừng chiến thắng được tổ chức từ 2 - 3 ngày, thì tục bắt chồng được thực hiện vào ngay đêm thứ 3 tiếp đó. Ngày hôm thứ 3, hội đồng già làng họp lại cử từ 3 - 5 thanh niên khoẻ mạnh, 2 - 3 cô gái tham gia vào cuộc bắt chồng (những nam, nữ này cũng được hội đồng già làng dặn dò kỹ, không được tiết lộ cho ai biết). Từng tốp nam, nữ bí mật đi tìm bắt chàng trai đó, cho dù chàng đang vào rừng săn bắn, đang tắm dưới suối, đang chơi ở nhà bạn bè, hoặc đang đi chơi ở đâu đó. Họ tìm và bắt chàng trai dẫn bộ (hoặc có thể khiêng nếu chàng trai đó chống cự) về nhà rông, nơi hội đồng già làng, cha mẹ, họ hàng nhà gái và bà con trong làng đang tụ tập để ăn uống vui chơi chuẩn bị chấm dứt lễ ăn mừng chiến thắng.
Tại nhà rông, hội đồng già làng làm lễ ăn thề, lễ vật gồm một con gà và ít rượu cần. Già làng dùng que tre chấm vào chén rượu cần vung lên đầu của chàng trai và cô gái, lấy huyết gà làm phép rồi bôi lên trán của chàng trai và cô gái đó. Tiếp đến, già làng nâng chén rượu cần đưa cô gái uống trước, chàng trai uống sau và chén rượu cần đó hai người phải uống hết. Gia đình, họ hàng, bạn bè thân thuộc, người thân trong làng cứ thế mời chàng trai và cô gái uống rượu với những lời cầu chúc tốt lành. Đến khi hai người thấm say, họ khiêng chàng trai và cô gái đó vào góc của nhà rông cho nằm kề nhau rồi lấy tấm choàng (dồ) đẹp nhất đắp lên cho hai người trong tiếng reo vui, mừng rỡ của gia đình, bạn bè, dân làng. Đến đây, tục bắt chồng được hoàn thành.
Từ đó, họ đến nhà nhau giúp hai bên cha mẹ việc nương rẫy hoặc kiếm củi chờ ngày tổ chức đám cưới sẽ diễn ra sau đó khoảng từ 2 - 3 tháng.
Theo luật tục của người Bơ-noong thì tục bắt chồng đã được quy định rõ và rất khắt khe. Nếu chàng trai vì lý do nào đó hoặc bỏ trốn mà không đồng ý cô gái đó (vợ mình) thì thường bị phạt rất nặng, có thể phạt từ 2 - 3 con trâu, kèm cả heo, gà làm thịt cáo lỗi với hội đồng già làng, với cha mẹ, họ hàng nhà gái và toàn thể dân làng, hoặc có khi đền bù cho nhà gái cả chiêng, ché, đồ trang sức quí giá.
Trường hợp 5: bó củi hứa hôn (Dân tộc Giẻ Triêng - Xơ Đăng - Rơn Gao)
Hầu hết các cô gái ở tuổi 14-15 đã ý thức được tục lệ bắt chồng. Khi làm rẫy các cô biết chặt những bó củi để dành làm lễ vật. Loại củi dài khoảng 0,80m đẹp và đều, gỗ dễ cháy. Họ đưa về để loại củi này ở một nơi riêng, không lẫn lộn với củi đun hàng ngày. Có những trường hợp củi phải chuẩn bị hàng hai ba năm.
Ngày xưa, người con gái bắt buộc phải có 100 bó củi mới bắt được chồng. Ngày nay con số này có giảm đi. Trong hôn nhân của người Gié Triêng thì củi là quan trọng nhất. Muốn bắt chồng phải có củi.
Người con gái yêu ai thì tìm cách đánh tiếng trước. Nếu người con trai đồng ý thì tối đến anh chàng tự nguyện đến tâm sự với người con gái tại nhà Rông. Sau vài tuần lễ, người nhà gái mang củi sang nhà trai xếp thành đống để làm lễ loong (lễ hứa hôn). Người ta vẩy rượu lên đống củi, khấn vái thần linh phù hộ cho đôi vợ chồng sinh được nhiều con cái khoẻ mạnh. Trong lễ này, nhà trai tặng nhà gái một số đồ đan, nhà gái tặng nhà trai những sản phẩm dệt. Sau đó, lễ cưới được tổ chức.
Thế mới biết làm trai sinh ra phải kiếp con nhà nghèo người Kinh luôn than phận đời là khổ! Nhưng làm thân trai nơi xứ Thượng chả bao giờ sợ "ế".
Như vậy, một cuộc cách mạng đổi đời hoặc thay chỗ ở có khi đem lại cho chàng hay cho nàng cuộc sống hạnh phúc hơn. n
.......................
Tài liệu tham khảo
-Truyền thống văn hóa các dân tộc Việt Nam, tập II
-http://www.vietnamnet.vn/xahoi/2007/11/752945h
-http://www.kontum.gov.vn/news/news.php?pageid=0000000579&topicid=htt
-http://www.thuviendongnai.gov.vn/c/portal/layout?
-http://members.cox.net/phamhungson/xmas03/kontum.htm
BY: HOÀNG THẠCH
Người xưa có câu dậy con gái sắp về nhà chồng: "Học ăn, học nói, học gói, học mở" và ăn đứng hàng đầu. Như vậy ăn không chỉ quan trọng khi đánh giá về tính tình của một người trong lúc ăn; mà còn có nghĩa phải biết phân biệt món nào ngon để thưởng thức. Ngoài những loài cá, tôm, cua ở biển, dã thú ở rừng và gia súc, người ta còn phải kể đến "sâu bọ" đã được dùng làm các món ăn ngon miệng. Ở miền Bắc có con nhộng và miền Nam có con đuông.
1- Đuông là gì?
Đuông là loại sâu bọ khi lớn lên có cánh cứng, thường sinh sống trong các ngọn cây, đặc biệt chà là, dừa, đủng đỉnh và cau. Đến mùa sinh sản, đuông đục lỗ trên ngọn cây và đẻ trứng vào đó. Trứng đuông lớn dần, tới khi gần bằng ngón tay cái thì hóa thành con đuông có hình dạng giống con sâu béo mập. Đuông lớn lên có kích thước to nhỏ khác nhau, tuỳ theo chúng sống ở loại cây nào. Thường đuông to bằng ngón tay cái hoặc ngón chân cái người lớn, dài chừng 3cm đến 5cm. Toàn thân đuông có màu trắng (đuông chà là) hoặc vàng nhạt (đuông dừa). Người ta biết có đuông khi thấy chòm lá trên ngọn cây chà là, dừa hay cau bị héo và gục xuống. Tuy nhiên, dù không thấy ngọn cây rũ xuống để xác định tuổi và độ lớn của đuông, người ta cũng có thể bắt đuông bằng cách leo lên chặt cả ngọn cây, hốt trọn ổ đuông mang về nhà (với đuông dừa), phần thân của ngọn cây vẫn tiếp tục sống để nuôi đuông (với đuông chà là). Đuông chà là chỉ có một con tại mỗi ngọn cây, trong khi đuông dừa có thể có hàng trăm con trong một ngọn cây dừa.
2- Các loại đuông
2.1-Đuông chà là
Món ngon "đệ nhất" miền Nam theo nhà văn Sơn Nam thì đến bậc vua chúa cũng phải thèm là con đuông chà là, tên chữ Hán là Hồ đa tử. "Hồ đa" là cây dừa rừng giống cây chà là hoang mọc ở miền nước mặn, hay cây cau trồng làm kiểng. Đuông chà là trắng muốt, không có ruột đen và không có lông như đuông dừa. Chúng sống trong các ngọn cây chà là mọc hoang dại thành từng bụi ở các vùng cù lao, như ở Trà Cú. Loại chà là này không phải là giống cây chà là lấy quả như thường gặp ở Căm Bốt. Vào đầu mùa mưa, kiến dương, một loại bọ cánh cứng màu hung to hơn con bọ rầy, khoét lỗ cổ hũ chà là đẻ trứng vào đó. Khoảng tháng 10 âm lịch con đuông phát triển mọc chân, cánh, phá tổ bay ra khi mùa xuân đến. Chính ngay giai đoạn con đuông chuyển thành kiến dương là lúc người ta săn tìm món thực phẩm quý hiếm này. Ngọn chà là có đuông được chặt đem về, bó thành từng bó, có thể để một thời gian nuôi đuông sống tiếp chờ ngày mang ra chợ bán hoặc đem tặng. Đuông chà là hiện nay rất hiếm và giá cả khá đắt vì mỗi cây chà là chỉ có một con đuông. Hơn thế nữa, hiện nay các rừng chà là hoang dại ven biển hầu như bị tiêu hủy gần hết. Đuông chà là ngon đặc biệt ở chỗ nó giàu chất dinh dưỡng, hương vị thơm và ngọt béo như mùi sữa.
2.2-Đuông dừa
Ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là tỉnh Bến Tre, có rất nhiều dừa. Cây dừa thường bị đuông ăn cho đến chết. Hàng năm, cứ sau mùa giao phối, kiến dương chọn cây dừa sung sức để khoét ngọn sâu vào trong và đẻ trứng. Trứng nở ra ấu trùng, lớn dần lên nhờ ngày đêm ăn cổ hũ dừa vừa mềm vừa bổ cho đến khi xuyên thủng ngọn dừa. Cây dừa kiệt sức rồi úa tàn dần đến chết. Lúc đọt thối ngã ngang cũng là lúc trong cây dừa có rất nhiều đuông. Áp tai vào thân dừa người ta nghe đuông kêu rầm rì ở bên trong. Bổ thân dừa ra, người ta thấy mỗi con nằm một lỗ. Mỗi cây dừa có hàng trăm con đuông, một số đuông có cánh và một số chưa có cánh. Có người nói đuông mọc cánh ăn cũng được và ngon nữa là khác. Ngay cả những bậc lão nông lăn lộn với ruộng đồng trong đời cũng chỉ thưởng thức món này được vài ba lần.
Tục truyền rằng món đặc sản đuông dừa nướng lửa than ở Nam Bộ đã được tiến cống cung đình triều Nguyễn dưới thời Hoàng thái hậu Từ Dũ và Hoàng hậu Nam Phương. Nhiều chuyên gia ẩm thực đã ví ấu trùng đuông dừa với "sơn dương trùng" mà Tây Thái hậu thết đãi các sứ thần phương Tây cũng không có gì quá đáng.
Trong "Đại Nam Nhất thống chí" (Quốc sử quán triều Nguyễn) và Tự điển của học giả Huỳnh Tịnh Của có nhắc đến con đuông dừa vào hậu bán thế kỷ 19. Nhà văn Vũ Bằng trong quyển Miếng lạ miền Nam đă ca ngợi món đuông là ngon tuyệt, không gì sánh bằng.
2.3- Đuông đất
Đây là loại đuông khá đặc biệt, không sống trên ngọn cây mà trong đất cát vàng. Tác giả Lê Tân, trong cuốn Ẩm thực Trà Vinh, cho biết loại đuông đất là do con bọ, một giống côn trùng có cánh màu hung sinh ra. Con đực và con cái sau khi giao phối trên những tán cây, chúng khoét lỗ vào cây đào (cây điều) sinh sống, đến khoảng tháng 6-7 âm lịch thì sà xuống đất, bới đất làm hang sinh ấu trùng. Sau khi ấu trùng nở thành đuông con tiếp tục moi hang và sống dưới mặt đất. Khoảng tháng 9 âm lịch thì đuông đầy đặn, đúng tuổi, có thể to bằng ngón tay cái người lớn, ăn béo ngậy. Người thu hoạch tìm bắt đuông rồi rửa sạch, ngắt đuôi, bỏ ruột đen, sau đó chế biến các món ăn.
2.4- Đuông nuôi trong mía
Vũ Bằng, trong cuốn Món lạ Miền Nam, còn giới thiệu món "đuông mía". Đây không phải là đuông tự sinh trong cây mía mà là giống đuông chà là, đuông dừa, đuông cau được người sành điệu đem về nuôi trong các đọt cây mía. Khi đuông ăn hết mía rồi, người ta mới đem đuông ra làm món ăn.
3- Các món ăn được làm từ đuông
Các món ăn được làm từ đuông thường không mấy đa dạng, chủ yếu là các món chiên, nướng, hấp xôi, thậm chí ăn sống. Đuông lấy ra khỏi đọt cây được ngâm trong nước mắm hay nước muối tương đối mặn để đuông nhả hết chất dơ, hoặc có thể rửa đuông với nước sôi cho sạch (với đuông dừa, đuông cau, và có thể không cần với đuông chà là).
-Ăn sống
Đuông chà là vừa béo vừa không có lông và trong ruột rất sạch nên người ta ngắt bỏ đầu đuông rồi ăn sống. Tuy ăn tươi như vậy, người ta vẫn không có cảm giác tanh hôi. Người quen ăn thì có cảm giác thơm ngon như khi ăn lòng đỏ trứng gà tươi.
-Đuông ngâm nước mắm
Đây cũng là món ăn tươi. Những con đuông mình tròn trịa dài khoảng 2-3 cm được bỏ vào trong đĩa nước mắm mặn khiến chúng ngo nguẩy bơi lội, được dân sành điệu đặt cho cái tên là đuông lội sông. Thực khách gắp một con đuông cho vào miệng nhai từ từ sẽ cảm thấy chất dinh dưỡng trong mình đuông tan trong miệng tạo nên hương vị ngọt bùi như mùi trứng.
-Đuông lăn bột chiên bơ
Đuông lăn bột chiên cũng tương đối phổ biến và tùy theo cách làm của từng địa phương. Sau khi làm sạch đuông trong nước mắm hay nước muối, người ta nhét một vài hạt đậu phộng vào trong thân đuông, lăn trong hỗn hợp bột mì và bột năng, trứng gà, hạt tiêu tán nhuyễn và muối; rồi đem chiên vừa độ vàng trong chảo mỡ. Sau đó cho đuông vào chảo bơ nóng sẵn để đuông được bọc thêm một lớp bơ béo ngậy.
-Đuông rang muối
Đuông rửa sạch xong cho vào chảo rang với muối, đường và nêm chút bột ngọt. Cách này tương tự như cách làm món nhộng, thường dùng như một món ăn mặn với cơm.
-Đuông nướng
Đuông nướng có thể thực hiện bằng cách phết bơ rồi đặt trên lò lửa than. Đuông dừa nướng lửa than bằng cách dùng hai thanh tre hoặc trúc, chẻ vừa miếng làm nẹp, kẹp đuông còn sống vào giữa để lên lửa than nướng riu riu, trở qua xoay lại cho đến khi da ngoài chín dòn lấy đuông ra mở nẹp xếp vào đĩa. Nước chấm làm bằng mắm me. Người ta lấy me lùi vào than cho chín rồi bỏ vào chén nước mắm ngon, thêm chút đường và bột ngọt cho vừa ăn. Đuông nướng có thể ăn cuốn với các loại rau xà lách, rau cải, rau càng cua, cải xanh, húng, tía tô và ớt.
-Đuông luộc nước dừa
Đuông luộc nước dừa tươi rồi vớt ra, lấy bánh tráng nhúng nước cuốn đuông chung với một số loại rau thơm, chấm với nước mắm cơm mẻ trộn sả, ớt bằm nhuyễn. Món này ăn giống như ăn gỏi cuốn.
-Đuông hấp xôi
Thổi nồi xôi trắng, cho vài ba con đuông chà là hoặc đuông dừa lên trên bề mặt gạo nếp. Khi xôi chín thì đuông cũng chín. Người ta ăn xôi kèm với đuông hoặc chọc cho sữa trong ruột đuông chảy ra, xới trộn đều với xôi. Xôi đuông có thể được trộn thêm với đường hoặc ăn với nước mắm ngon cho đỡ ngán. Theo truyền tụng, thời nhà Nguyễn có hai ông vua rất khoái đuông dừa hấp xôi là Gia Long và Minh Mạng. Trong thời kỳ còn chiến tranh với Tây Sơn, khi ở Bến Tre, cha con ông hoàng được dân làm món xôi hấp đuông tiếp đãi, nên ăn hoài đâm mê. Biết vua ưa thích, sau này người dân trong vùng hấp xôi đuông tiến dâng về Kinh Đô hàng năm. Đuông là một trong các món ăn quí lạ của nước Nam nên được vua Minh Mạng cho khắc trái bần và con đuông lên Cửu Đỉnh đặt ở Thế Miếu ngoài cung đình Huế.
-Cháo đuông
Đuông rửa sạch xong được đem nấu cháo với nước cốt dừa. Đây là loại cháo thường được nấu với đuông sống trong cây đủng đỉnh.
Theo tác giả Vũ Bằng, muốn ăn cách gì thì ăn, thưởng thức con đuông cần phải theo nề nếp chứ không thể coi thường qui tắc. Vì đuông là một miếng ngon được liệt vào hạng "siêu hạng", vượt hẳn các thức ăn khác. Không thể có thứ nào khác đi đôi với nó được. Ăn đuông phải ăn nguyên con, chứ không thể ăn kèm với rau hay giá, hoặc với đồ chua như cà rốt, cải hay cần tây ngâm dấm. Ăn kèm như vậy sẽ mất nùi vị tinh túy của đuông.
Mấy chục năm về trước ở các vùng quê, khi đốn bỏ cây dừa gặp đuông bà con ít ai để ý. Bây giờ đuông được coi là món ăn hảo hạng trong các nhà hàng. Đuông được mua bán theo con, đắt rẻ tùy theo thời điểm. Mỗi con đuông dừa ăn tại nhà hàng giá từ 5.000đ - 6.000đ, đuông chà là 8.000đ-10.000đ. Tại các nhà hàng sang trọng và nổi tiếng muốn ăn đuông chà là có khi thực khách phải trả tới 20.000đ-25.000đ một con.
4- Những giai thoại về ăn
-Ham ăn cá bị giết chết
Trong lịch sử Đông Tây, kim cổ, có rất nhiều chuyện vua chúa bị đầu độc bằng thức ăn. Thường trước khi vua ăn một món nào, người đầy tớ tin cẩn nhất nếm trước để xem món đó có bị tẩm thuốc độc không. Tuy vậy, một trong các Hoàng hậu của vùng vịnh Ba Tư (Persia) đã bị mẹ chồng giết bằng cách cho thoa một lớp thuốc độc trên dao. Theo sự kính trọng một món ăn bao giờ cũng phải dâng lên Nữ Hoàng trước. Do đó, kẻ phản bội cắt miếng gà bằng mặt trên lưỡi dao có tẩm thuốc độc dâng lên; còn phần dưới người đầy tớ ăn thử. Người đầy tớ ăn xong không có triệu chứng gì, đến lượt Hoàng hậu ăn thì bị ngộ độc.
Nhắc đến món ăn cổ xưa chúng ta cũng không quên chuyện một nhà vua mê ăn cá mà chết!
Thời chiến quốc, Công Tử Quang, tướng Ngũ Tử Tư mưu sát vua nước Ngô là Ngô Vương Liêu nhiều lần nhưng không thành công. Lý do vua Ngô không mê rượu và gái, quan tướng khó được phép đến gần. Tử Tư theo dõi một thời gian lâu mới biết vua chỉ mê món cá nướng, nên tìm cách chiêu dụ đầu bếp là Chuyên Chư. Món cá nướng do đầu bếp quái dị này làm khá đặc biệt. Anh ta dùng mật ong trăm năm lấy trên mỏm núi cheo leo để ướp! Chính món cá nướng có tên cầu kỳ "Tứ tai hi mật tiến" và cách rưới mật ong tạo cho da cá dòn ngọn và thơm tho khác thường. Vua Ngô mê ăn quên đề phòng, nên ngộ độc mà chết.
- 8 món siêu đẳng
Xưa người ta quen tìm các của ngon vật lạ để chế biến các món ăn dâng cho vua, chúa, quan quyền hay nhà giầu. Vì thế, đầu bếp nào giỏi sẽ được quí trọng và thưởng vàng bạc. Có 8 món ăn mà người xưa liệt vào loại quí hiếm "bát trân’’, gồm: nước dãi yến, nem công, chả phụng, môi đười ươi, da tê ngưu, bàn tay gấu, thịt chân voi, gân nai.
- Rắn độc mà quí
Quách Tĩnh trong truyện Anh Hùng Xạ Điểu có cơ may uống máu mãng xà, nên nội lực gia tăng không ngờ được. Ai cũng tưởng đây chuyện tưởng tượng, nhưng ngoài đời có thật. Vốn huyết mãng xà thân màu xám nhưng do chủ nuôi cho nó ăn thực phẩm cực quí như sâm nhung và đan sa, nên rắn mới có dị hình đỏ như máu. Bồi bổ cho rắn như vậy không ngoài mục đích mỗi ngày người ta uống máu nó hầu giữ cho mình trẻ trung hoài, biến già thành trẻ (cải lão hoàn đồng).
- Chim ăn sâm (Sâm cầm)
Loài chim này từng là món ăn tiến dâng vua. Đó là giống chim từ phương Bắc bay về phương Nam mà dân miền Bắc gọi là "sâm cầm’’. Nhân sâm giá đã khá đắt làm sao người thường dám mua để nuôi chim. Thực tế không phải vậy. Loại chim này sống trong rừng núi hoang dã. Chúng đào bới ăn nhân sâm trên đỉnh các núi cao ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Mấy năm trước đây người ta thấy chúng xuất hiện nhiều ở Hồ Tây, Hà Nội. Nay số lượng rất ít vì loại chim quí này bị săn bắt. Theo truyền khẩu, sâm cầm từng là món khoái khẩu của vua Tự Đức. Ăn thịt chim sẽ bồi bổ sinh lực, tinh thần minh mẫn.
- Chuột nhân sâm.
Đây là món ăn cầu kỳ tốn kém chỉ có vua quan nhà Thanh mới có. Người ta chọn những con chuột bạch và nuôi chúng bằng nhân sâm. Khi chuột đẻ người ta loại chuột bố mẹ ra và nuôi tiếp chuột con bằng nhân sâm. Cứ thế qua ba bốn thế hệ ăn nhân sâm, thân chuột coi như chứa toàn nhân sâm. Người ta bắt chuột con mới đẻ thoa ngoài da bằng bột, không chế biến xào nấu gì cả, cứ thế đưa lên miệng thưởng thức.
---------------------
Tài liệu tham khảo:
- vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90u%C3% B4ng
- vnexpress.net/Vietnam/Doi-song/Am-thuc/2004/03/3B9D1196/
- www.muivi.com/muivi/index.php? option=com_content&task=view&id=1954& Itemid=431
- nuconggiachanh.net/index.php= com_content&task=view&id=137&Itemid=68
- Lê Tân, Văn Hóa ẩm thực Trà Vinh.
BY: HOÀNG THẠCH
Ngành nghề tại Sài Gòn và miền Nam, nói chung, đã phát triển khá mạnh dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Ngoài các nghề thủ công đã có từ các thế kỷ trước; các trung tâm may dệt Phú Thọ Hòa hay khu kỹ nghệ Biên Hòa đã đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế miền Nam. Các chuyên viên về kinh tế cho rằng: trước 1975 Việt Nam Cộng Hoà có hy vọng phát triển và giầu mạnh không thua gì Nam Hàn và Đài Loan; nếu Cộng sản Bắc Việt không xâm lăng miền Nam.
Ngành nghề của Sài Gòn và miền Nam có nhiều loại khác nhau. Trong bài này chúng tôi chỉ ghi lại một số ngành sản xuất có tính cách thủ công vào Thế kỷ 19 và 20.
Vào thế kỷ 19 và dưới thời Nhà Nguyễn Sài Gòn đã là một trong những tỉnh thành trù phú nhất Việt Nam vì tính đa dạng của nó và sự chung sống hòa hợp giữa các dân tộc Việt, Tàu, Miên. Căn cứ vào bản đồ của Trần Văn Học (lập năm 1815) đã có rất đông cư dân phía Đông và Nam thành phố (các khu vực giới hạn bởi rạch Thị Nghè và rạch Bến Nghé). Trên địa bàn Bến Nghé (Sài Gòn bây giờ) đã có khoảng 40 đường phố, rộng từ 15 đến 20 mét và có đặc điểm là song song hay thẳng góc với bờ sông, bờ rạch. Đi vào trung tâm Bến Nghé có hai con kinh (trên vị trí của các đường Hàm Nghi và Nguyễn Huệ ngày nay). Phía Tây và Bắc thành Phụng có ít người ở, mặc dù trên đường dẫn vào Chợ Lớn đã có nhiều cửa hàng buôn bán. Dọc theo các đường thủy và bộ nối liền hai trung tâm Sài Gòn và Chợ Lớn là các xóm làng chợ. Dọc theo hai bên rạch Bến Nghé có đến 21 làng. Theo truyền thống các làng được tổ chức theo hoạt động chuyên ngành về thương mại cũng như về nghề thủ công. Đặc biệt hơn nữa, có rất nhiều chợ là trung tâm buôn bán như: chợ Bến Thành, chợ Điều Khiển, Chợ Sỏi, chợ Cây Da còm, Chợ Quán, chợ Nguyễn Thúc, chợ Lò rèn, chợ Bình An... Về ngành thủ công truyền thống tại miền Nam có các ngành tiêu biểu dưới đây:
1-Nghề gốm
Kể từ mùa xuân Mậu Dần 1698 khi Nguyễn Hữu Cảnh được Chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào Nam kinh lược, lấy đất Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gòn đến nay đã hơn 300 năm. Theo sử liệu thì xóm Lò Gốm là một trung tâm thủ công nghiệp nổi tiếng nhất.
Khoảng cuối Thế kỷ 18 tại đây đã có 62 ty thợ do nhà nước quản lý và hàng trăm phường thợ trong dân gian. Nhiều ngành nghề tập trung trong các khu vực nhất định để rồi xuất hiện những địa danh như Xóm Chiếu, xóm Cốm, xóm Lò Rèn, xóm Dầu, xóm Chỉ, xóm Vôi, xóm Bột. Riêng xóm Lò Gốm vẫn còn tồn tại một số địa danh như đường Lò Gốm, đường Lò Siêu, đường Xóm đất, bến Lò gốm, rạch Lò gốm, kênh Lò gốm, thuộc khu vực quận 6,8,11 ngày nay.
Sử liệu sớm nhất nói đến nghề làm gốm ở Sài Gòn xưa là sách "Gia Định thành thông chí" của Trịnh Hoài Đức viết khoảng năm 1820. Đoạn viết về Mã trường Giang, kênh
Ruột Ngựa như sau:
"Nguyên xưa từ cửa Rạch Cát ra phía Bắc đến Lò Gốm có một đường nước đọng móng trâu, ghe thuyền không đi lại được. Mùa thu năm Nhâm Thìn (1772) cho đào con kênh thẳng như ruột ngựa nên mới đặt ra tên ấy…". Kênh Ruột Ngựa đã giúp cho ghe thuyền đi lại giữa Sài Gòn với miền Tây thêm thuận lợi. Bản đồ Thành Gia Định do Trần Văn Học vẽ từ cuối năm 1815 đã có ghi địa danh Xóm Lò Gốm ở khoảng làng Phú Lâm- Phú Định (ngày nay là khu vực quận 6 tiếp giáp quận 8). Bài "Phú cổ Gia Định phong cảnh vịnh" sáng tác khoảng đầu TK 19 miêu tả "Lạ lùng xóm Lò Gốm, chân vò vò bàn cổ xây trời".
Trong 62 ty thợ tập trung tại Sài Gòn làm việc cho nhà nước vào cuối TK 18 đã có các ty thợ Lò chum, ngói mộc, gạch mộc, lò gạch. Một vài tài liệu của Pháp cũng phản ánh về việc sản xuất gốm ở Chợ Lớn vào cuối TK 19: Tại Chợ Lớn có khoảng 30 lò gốm tập trung ở Hòa Lục, Phú Định, Cây Mai vùng Chợ Lớn sản xuất lu và các đồ gốm thông dụng như chậu vịm, siêu ấm, nồi trách, hũ khạp, cà ràng. Vùng Cây Mai có một lò sản xuất đồ sành. Các lò này lấy nguyên liệu tại chỗ, tuỳ chất đất mà sản xuất thành các loại sản phẩm. Mỗi lò gốm hàng năm có thể sản xuất hàng trăm ngàn sản phẩm. Đến đầu TK 20 vẫn còn nhiều lò gốm nổi tiếng như lò Tín Di Hưng, Quảng Di Thành, Hiệp Hưng, Bửu Nguyên, Đồng Hòa, các lò chuyên sản xuất lu, khạp và đồ gia dụng. Theo Vương Hồng Sển: "Từ khi lấp rạch Chợ Lớn thì rạch Lò gốm, kinh Vòng Thành không thông thương và lò gốm chỉ còn sót lại cái tên trơn và không sản xuất đồ gốm nữa …".
Từ những tư liệu lịch sử trên và qua khảo sát thực tế có thể nhận biết địa bàn xóm Lò Gốm xưa khá rộng, gồm các làng Hòa Lục (quận 8), Phú Định-Phú Lâm (quận 6), Phú Giáo-Gò Cây Mai (quận 11) trải dài đôi bờ kênh Ruột Ngựa, kênh-rạch Lò Gốm. Những con kênh này là tuyến đường giao thông chính của khu vực Sài Gòn cũ, nay là Chợ Lớn: một vùng thấp trũng chằng chịt kênh rạch lớn nhỏ, mọi sự đi lại đều dùng ghe xuồng. Kênh Ruột Ngựa và rạch Lò Gốm còn nối liền rạch Chợ Lớn với rạch Cát (Sa Giang) và rạch Bến Nghé. Từ ngã ba "Nhà Bè nước chảy chia hai" xuồng ghe theo rạch Bến Nghé và kênh Tàu Hũ qua kênh Ruột Ngựa ra sông Cát về miền Tây.
Ngày nay rạch Chợ Lớn không còn nữa, nhiều đoạn rạch Lò Gốm biến mất, nhất là khu vực Gò Cây Mai hầu như không còn dấu tích con đường thuỷ quan trọng này. Kênh Ruột Ngựa không còn thẳng như tên gọi do bị bồi lấp lấn chiếm hai bên bờ. Kênh Lò Gốm ngày càng cạn hẹp dù đã nạo vét nhiều lần. Tuy nhiên ghe xuồng vẫn theo con nước mà xuôi ngược, dù nơi đây đã phát triển hệ thống đường bộ chằng chịt như mạng nhện, dù các làng nghề-phố nghề ven kênh rạch không còn nữa… đủ biết trước đây trước đây tuyến đường thủy này quan trọng như thế nào.
Dấu tích vật chất của xóm Lò Gốm ngày xưa nay chỉ còn lại di tích lò gốm Hưng Lợi thuộc làng Hòa Lục (phường 16 quận 8), nằm ven kênh Ruột Ngựa. Đối diện là làng Phú Định cách đây vài năm còn một số gia đình làm nghề "nặn ông lò", bếp gốm. Cuộc khai quật năm 1997-1998 đã tìm thấy tại đây phế tích 3 lò gốm kiểu lò ống (lò Tàu) là loại lò thông từ bầu lửa đến ống khói, dốc và hẹp, nền lò được gia cố nhiều lần, thành lò đắp dày bằng phế phẩm. Các đoạn vách lò còn lại được xây bằng loại gạch lớn tráng men dày, lòng lò chứa đầy mảnh sản phẩm mà qua đo có thể nhận biết một số loại sản phẩm đặc trưng của lò Hưng Lợi. Ba lò gốm này sản xuất nối tiếp nhau trong một thời gian khá dài nhưng có thể không liên tục vì lò gốm của giai đoạn sau được xây trên một phần lò cũ hoặc sửa chữa gia cố lại lò cũ.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, nguồn gốc của nghề làm gốm mang tính chất sản xuất hàng hóa ở Gia Định-Đồng Nai là sự kết hợp nghề gốm của lưu dân người Việt với truyền thống kỹ thuật sản xuất gốm mà người Hoa mang vào vùng đất này trong bước đường lưu lạc kiếm sống. Từ khi được các Chúa Nguyễn cho vào định cư tại Cù Lao Phố, vùng Sài Gòn (cũ) và rải rác một số nơi khác, người Hoa sinh sống chủ yếu bằng thương nghiệp và thủ công nghiệp. Tại Cù Lao Phố trên sông Đồng Nai (nay thuộc thành phố Biên Hoà) cũng có Rạch Lò Gốm, bến Miểng Sành mà qua khảo sát, các loại sản phẩm hầu như không khác biệt với sản phẩm ở khu lò gốm cổ Hưng Lợi. Các phường thợ làm gốm của người Hoa thường gồm những người đồng hương và chuyên sản xuất một vài loại sản phẩm. Người Hẹ chuyên làm lu, khạp, hũ men nâu và men vàng (men da lươn, da bò); người Tiều (Triều châu) chuyên làm đồ "bỏ bạch" (không men) như siêu, nồi có tay cầm; người Quảng (Đông) chuyên làm chén, đĩa có men trắng hay men nhiều màu. Hiện nay truyền thống kỹ thuật này vẫn phổ biến ở những lò lu, lò gốm ở khu vực Quận 9 (như lò Long Trường), ở Tân Vạn thành phố Biên Hòa và Lái Thiêu, Bình Dương…, dù các chủ lò có thể không phải là người Hoa.
Khoảng giữa thế kỷ 20, cùng với những biến cố chính trị-xã hội, quá trình đô thị hóa nhanh chóng và mạnh mẽ theo một quy hoạch nhất định là nguyên nhân quan trọng làm cho các làng nghề thủ công ở Sài Gòn - Chợ Lớn không còn điều kiện tồn tại, hoặc phải tìm địa bàn mới để phát triển ở vùng ven ngoại thành hay xa hơn, đến các tỉnh lân cận. Đô thị hóa làm biến mất cảnh quan tự nhiên, vùng nguyên liệu không còn, kênh rạch bị lấp dần, phố xá mọc lên. Vị trí ưu đãi của một làng gốm không còn nữa, việc sản xuất không còn đáp ứng được những nhu cầu mới của thị trường mới, các lò gốm, lò gạch ngói cuối cùng của Xóm Lò Gốm ngừng sản xuất. Xóm Lò Gốm của Sài Gòn xưa phải kết thúc vai trò của mình, nhường bước cho sự phát triển của vùng gốm Biên Hoà – Lái Thiêu.
Trong những nét đẹp tạo nên dung mạo cổ kính và có giá trị cao cho các di tích kiến trúc - nghệ thuật ở Sài Gòn là những sản phẩm gốm làm tại Sài Gòn hay quanh Sài Gòn, đặc biệt như một số khu vực gốm Cây Mai (Phú Lâm), gốm Lê Châu (Chợ Lớn), gốm Biên Hòa... Trong đó gốm Cây Mai có nét đặc trưng tiêu biểu nhất. Gò Cây Mai nổi tiếng cũng nằm trên khu vực xóm Lò Gốm. Xóm Lò Gốm nằm ở vùng đất kinh Ruột Ngựa, gồm cả Hòa Lục (Q. 8) và Phú Định (Q. 6) ngày nay. Đồng Hòa là tên lò gốm quen thuộc của người dân sống trong vùng Cây Gõ, Phú Lâm. Ngoài các sản phẩm gia dụng bằng đất nung có sơn men chống thấm, Cây Mai còn sản xuất đồ sành men cao cấp dùng để trang trí, thờ tụng.. Nghề thêu tay Nghệ thuật thêu rồng bay phượng múa trên những chiếc áo của vua chúa ngày xưa phản ánh phần nào khả năng sáng tạo của người Sài Gòn thời quá khứ. Đặc biệt, sản phẩm của nghề này là món quà lưu niệm quý giá đậm đà màu sắc quê hương đối với những người Việt xa quê hương trong những ngày Tết cổ truyền.
2-Nghề đúc đồng
Suốt trong lịch sử Việt Nam, từ thời Phùng Nguyên đến thời Đông Sơn, qua thời Bắc thuộc đến tận cuối thời tự chủ, không bao giờ thiếu vắng những trung tâm đúc đồng lớn trên đất Việt Nam. Các hiện vật còn lưu giữ lại đều hết sức phong phú về số lượng, độc đáo về kiểu dáng. Ở Sài Gòn đúc đồng là một nghề thủ công dân gian truyền thống. Nếu bỏ qua sự tồn tại về một nghề đúc đồng của các cư dân bản địa thì nghề đúc đồng của người Việt có lẽ đã xuất hiện ngay từ những thế hệ đầu tiên đi mở đất. Với những nhu cầu về vũ khí, đồ sinh hoạt... Và, ngày càng được bổ sung phát triển bởi những đợt di dân sau đó. Khoảng thế kỷ 18, tại Sài Gòn xưa đã dần dần hình thành một số khu vực chuyên môn hóa về nghề đúc đồng. Khu vực ra đời sớm nhất là địa bàn Chợ Quán (nay thuộc quận 5) với 3 làng cổ Tân Kiểng, Nhân Giang và Bình Yên. Các nghệ nhân đúc đồng bấy giờ là những di dân từ các phường thợ ở Quy Nhơn vào. Họ đã nhanh chóng tập trung lại thành những làng thợ đúc và sản xuất ra những mặt hàng như nồi đồng, chảo đồng, ô đồng, lư hương, chân đèn... được mọi người ưa chuộng.
Kế đó là khu vực Tân Hòa Đông (nay thuộc quận 6) chuyên chế tạo lư đồng, chân đèn và nấu đồng thành thỏi. Một trong những tác phẩm xuất sắc của khu vực này là chiếc lư đã được đúc hàng loạt ở đây từ thế kỷ trước. Điều đáng tiếc là các nghệ nhân ở Tân Hòa Đông không rõ tổ tiên của họ từ đâu đến.
Cạnh 2 khu vực kể trên còn có 2 khu vực khác nổi tiếng về nghề đúc đồng là: -Khu vực Thuận Kiều (Hóc Môn), từ TK 19 đã từng được biết với nghề đúc lư hương cha truyền con nối. Ở đây sản xuất cả 2 kiểu lư: Lư bắc (đỉnh trầm) và lư nam (lư hương), đặc biệt còn sản xuất cả siêu đao và thập bát ban binh khí. Thợ tại khu vực này chủ yếu là con cháu của các thợ đúc miền Trung đã vào đây lập nghiệp từ nhiều đời.
-Khu vực Thông Tây Hội (Gò Vấp) từ lâu cũng là nơi tập trung nhiều lò đúc đồng thủ công. Sản phẩm lư hương Thông tây hội khá phổ biến. Theo một số nghệ nhân có tuổi thì nghề đúc này là do cha ông truyền lại.
Đầu thế kỷ 20, Trường Mỹ nghệ Thủ Dầu Một và trường Mỹ nghệ Biên Hòa được thành lập, góp phần với các khu vực kể trên chế tạo đồ mỹ nghệ bằng đồng. Học sinh theo học hầu hết là người địa phương Sài Gòn. Sản phẩm của các nghệ nhân do trường đào tạo chủ yếu là những tượng đầu người như tượng phụ nữ Nam, Trung, Bắc và tượng thú khá nổi tiếng...
Giữa thế kỷ 20, một số gia đình ở làng Ngũ Xã (Hà Nội) vào định cư tại vùng Hòa Hưng (Sài Gòn) mang theo nghề đúc đồng cẩn tam khí, hình thành một xóm nhỏ chuyên đúc đồng tam khí ở đây. Công việc của họ là đúc ra đồ đồng rồi cẩn tam khí (vàng, bạc, đồng) lên các đồ đồng ấy. Sản phẩm của họ là các tượng thần thánh tiên phật và các đồ gia dụng khác, tuy sanh sau đẻ muộn, song họ giữ độc quyền sản xuất, lại có tay nghề cao, sản phẩm đẹp nên đồng tam khí Hòa Hưng được nhiều người biết tiếng đặt hàng.
Sản phẩm của nó rất đa dạng, từ đồ gia dụng cho tới đồ thờ cúng, có thể kể như sau: nồi, mâm, chảo, xanh, ô trầu, lư, chân đèn, bát nhang, bình bông, tượng Phật, tượng người, tượng thú, đồ tam khí, siêu đao... hầu như nghề đúc đồng ở Sài Gòn xưa đã đáp ứng khá đầy đủ mọi nhu cầu sử dụng của cư dân địa phương.
Theo quy định thì ngày 25 tháng 12 Âm lịch hàng năm là ngày cúng tổ nghề đúc đồng ở Tân Hòa Đông. Vào ngày này, cũng là ngày giáp tết, thợ cả, thợ bạn tập hợp lại, dọn dẹp đồ nghề, cúng kiếng, ăn uống với nhau rồi nghỉ Tết chờ ra giêng cúng tổ sản xuất lại.
Tuy không ai biết đích xác tổ nghề là ông nào nhưng việc cúng tổ hàng năm vẫn được tuân thủ một cách trang trọng. Ở Hòa Hưng thì nghệ nhân không nhớ được ngày cúng tổ, mà chỉ biết một cách sơ lược tổ nghề là ông Khổng Minh Không. Có thể nói rằng ở cả hai nơi Tân Hòa Đông và Hòa Hưng, nghề đồng cổ truyền đã mất dần những lễ nghi liên quan đến nghề nghiệp. Những điều cấm kỵ trong nghề đúc đồng ở Sài Gòn xưa tuy ít, song rất chặt chẽ, ngày nay cũng còn một phần nào được tuân theo. Đó là việc cấm những người lạ, đặc biệt là phụ nữ, bước vào khu vực làm khuôn và đúc đồng. Hai lý do chính của sự cấm đoán này là: sợ học trộm nghề và sợ làm ô uế.
Về mặt kỹ thuật, nói chung các khu vực đúc đồng ở Sài Gòn xưa đều thực hiện ba công đoạn tương tự nhau: Công đoạn làm khuôn; công đoạn đúc; công đoạn nguội. Riêng nghề đúc đồng cẩn tam khí còn phải thêm các công đoạn sau: Công đoạn chế tác tam khí; Công đoạn cẩn và tách tam khí; Công đoạn đánh bóng và nhuộm sản phẩm.
3-Nghề đúc gang
Mỗi lẫn nhắc tới cái tên xã Thạch Phú, huyện Vĩnh Cửu, người dân Đồng Nai không còn xa lạ bởi nơi đây có một ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống tồn tại rất lâu đời, đó là nghề đúc gang. Cứ đến ngày mồng 2 tháng 2 âm lịch hàng năm, các nghệ nhân nghề của làng này đều tập trung về nhà thờ tổ của ông Đào Văn Tham để cúng giỗ. Nghề đúc gang tại xã Thạch Phú (trước đây là làng Bình Thạch, tổng Phước Vĩnh Hạ) do ông tổ làng nghề họ Đào truyền lại. Ban đầu ông chỉ có một đôi bễ thổi lửa, một lò nấu gang, một số khuôn đất sét, nhiên liệu dùng để đốt lò nấu gang là than gỗ. Sản phẩm làm ra gồm lưỡi cày, lưỡi mai, nồi gang, chảo gang… Dần dần, công việc sản xuất kinh doanh ngày một tiến triển, có thời kỳ nghề đúc gang lên tới 30 lò ở các làng Bình Thạch, Tân Phong, Bình Thành, Bình Lợi, Bình Ý…
Hiện nay, xã Thạch Phú còn 9 cơ sở đúc gang trên 100 năm tuổi, phần lớn là cha truyền con nối và từ bao đời nay được xem là nguồn thu nhập chính của một bộ phận lớn dân cư ở đây. Vốn đầu tư của 9 cơ sở này khoảng 2 tỷ đồng, tạo việc làm thường xuyên cho khoảng 200 lao động với thu nhập bình quân từ 1,2 triệu – 1,8 triệu đồng/tháng. Doanh thu hàng năm của ngành nghề đúc gang đều tăng, năm 2005 con số doanh thu là 20 tỷ đồng tiêu thụ theo đơn đặt hàng. Sản phẩm đúc gang thường là puli xay lúa, phụ tùng máy ép gạch, máy nổ, máy bơm nước, nhông gang, trục cầu… chủ yếu theo đơn đặt hàng của các xí nghiệp cơ khí máy nông nghiệp như Công ty Vikyno, Công ty Vinappro, công ty Thành Nhân xuất khẩu, công ty công nghệ cao.... mà còn tiêu thụ mạnh ở Chợ lớn – Sài Gòn.
---------------
Tài liệu tham khảo:
-http://www.thoangsaigon.com/saigon/vhnambo/dancanambo.asp
-httP://vannghesongcuulong.org
-http://www.vanhoahoc.edu.vn/site/index.php? option=com_content&task=view&id=489& Itemid=n 71.
Khi nói tới nghệ thuật ca hát dân gian của đồng bào miền Nam, nếu người ta chỉ chú trọng tới sáu câu vọng cổ, những bản nhạc tài tử và hoạt cảnh của tuồng cải lương mà thôi thì chưa hẳn đã nói hết về nền văn hóa của miền Nam. Người ta còn phải kể đến dân ca, một kho tàng văn học, nguồn sống văn hóa bao la đã ăn sâu vào tâm hồn người dân trong nhiều thế kỷ; kể từ khi miền Nam được thành hình và cai trị bởi các vua nhà Nguyễn. Nếu dân ca miền Bắc đã đóng một vai trò quan trọng trong nền văn hóa của dân tộc Việt Nam, từ thời kỳ giữ nước, dựng nước và phát triển đất nước trong hàng trăm thế kỷ, thì dân ca miền Nam cũng phong phú và có một vị trí không thua kém.
Những câu hò tiếng hát phát xuất từ nông thôn hay thành thị được ai đặt ra, ai hát và truyền tụng trong dân gian đến ngày nay không ai biết. Cũng như ca dao và tục ngữ, người ta khó tìm ra lịch sử khai sinh của chúng.
Trong bài này chúng tôi không có tham vọng đi tìm hiểu nguồn gốc và sự phát triển dân ca miền Nam, mà chỉ ghi nhận một số nét đặc sắc của một số câu hò tiếng hát có ảnh hưởng sâu xa và tạo cho cuộc sống của người dân thêm thắm tình quê, đậm tình người và nồng nàn tình dân tộc.
Câu ca tiếng hò của dân miền Nam, quê hương của những cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay, những rừng dừa xanh bát ngát và những vườn trái cây um tùm đầy trái. Những nét đẹp của thiên nhiên và đồng ruộng tạo cho người dân có một tâm hồn ngây thơ, thanh thản. Sự mầu mỡ của đất đai, sự dư giả của hoa trái và thủy sản v.v… cũng ảnh hưởng không ít tới tính vị tha, cởi mở và yêu đời của người dân lục tỉnh.
Phải chăng phong cảnh thiên nhiên vốn tràn đầy nét đẹp thơ mộng, nên càng khơi nguồn cảm hứng trong ca hò với âm điệu dạt dào và trữ tình, chắp cánh cho những hoài bão ước mơ trở thành hiện thực, mà nếp sống sung túc của người dân là một biểu tượng chứng minh cái thị vị, sự ngọt ngào và lai láng của dân ca miền Nam.
Chúng ta thử nghe một vài câu hò nói lên sự thủy chung cao quý của tình yêu của vùng phía Đông miền Nam như:
Hò ơi...
Nho nhỏ như ai,
chớ còn nho nhỏ như em đây luôn chặt dạ bền lòng.
Dẫu cho nước Đồng Nai có chảy cạn, đá Đồng Nai có bị mòn,
thì thủy chung như nhứt, trước sau em vẫn giữ sắt son lời nguyền... ơ..Hay, chúng ta thử nghe những lời than trách của chàng trai đối với cô thôn nữ miệt vườn qua điệu hò
Trà Vinh:
Hò ơi...
Tay cắt tay bao nỡ...
ruột cắt ruột sao đành!
Một lời thề biển cạn non xanh.
Chim kêu dưới suối, vượn hú trên nhành,
Qua không bỏ bậu ơ ơ... mà sao Bậu đành bỏ Qua ơ ơ...Như vậy, ca hò miền Nam được gắn liền với khung cảnh thiên nhiên tươi mát, với biển cả, sông ngòi, một hình ảnh êm ả, phẳng lặng và dễ yêu. Âm điệu của các thể loại ca hò giống nhau về chi tiết láy ở địa phương. Nhưng các âm điệu giữa câu, hay kết cấu toàn bộ có đôi khi cũng khác nhau.
Ví dụ:
Ca hò Đồng Tháp thường kết ở một nốt thuộc "át âm", tuy cùng một điệu thức "sol", nhưng hò Miền Đông, hò Bạc Liêu, hò Gia Ninh, lại dùng nốt chủ âm để kết hoàn toàn.
Việc kết cấu các câu hò, dĩ nhiên, tuỳ vào phong tục cũng như nếp sống người dân của từng địa phương và đôi khi còn bị chi phối bởi ảnh hưởng của thời cuộc. Thông thường nội dung lời hò giữ vai trò quyết định. Giai điệu hò lúc cất lên cao hay hạ trầm xuống một cách đều đặn và nhẹ nhàng không ngoài mục đích diễn tả tâm tình thầm kín hay kêu gọi lòng nhiệt huyết đối với đất nước và dân tộc.
Thực tế cho thấy khi Mặt trận Bình dân bên Pháp chiếm được chính quyền thì ở Nam Kỳ Việt Nam, ngoài những loại hò mộc mạc, hò huê tình, hò đối, hò thơ, hò truyện... lại xuất hiện thêm một loại hò gọi là hò quốc sự. Nội dung hò quốc sự đề cập đến những vấn đề chính trị cổ vũ và động viên tinh thần yêu nước của quần chúng.
Sau đây là một đoạn của hò quốc sự.
Nữ (vấn):
Hò ơi! Trên đời mọi vật bẩn nhơ,
Đều nhờ rửa nước trở nên trong lành.
Đến khi nước phải nhơ tanh,
Lấy gì mà rửa xin anh phân cùng...
Nam (đáp):
Hò ơi! Em ơi trải bao thế hệ oai hùng,
Nước nhà lâm nạn anh hùng ra tay.
Hy sinh bao quản thân dài,
Máu đào từng rửa, "nước" rày thành trong...Phần lớn nội dung của câu hò dựa trên thể thơ lục bát. Khi diễn tả có thể người ta giữ nguyên thể này hoặc thêm bớt một số chữ để hợp với âm điệu của câu hò. Vì thế những câu hò được đông đảo quần chúng tham gia và nhanh chóng thu hút được sự hâm mộ của quần chúng. Tháng bảy âm lịch, thường là mùa cấy rộ và cũng là lúc mà các phường (hội) trồng cấy có dịp trổ tài. Nam nữ vừa cấy giỏi lại vừa hò hay. Kết quả là sau những lần gặp gỡ, biết mặt và biết tài nhau, sau ngày mùa gặt hái trai gái tiến đến giai đoạn trao nhau lời hẹn hò và đi tới hôn nhân.
Bên những điệu hò trữ tình và quyến luyến, dân ca miền Nam còn bao gồm những bài hát Lý (hay những điệu lý). Lý là những khúc hát ngắn gọn, vui tươi, dí dỏm, mang tính chất lạc quan, yêu đời. Các nhịp điệu phong phú và sinh động.
Một trong các bài dân ca nổi tiếng của miền Nam là bài Lý ngựa ô. Bài này không chỉ được hát trong các dịp lễ của dân chúng mà còn được nam nữ hát đối nhau trong các tiệc cưới nhằm tạo nên bầu khí vui nhộn trong bữa tiệc của cả một đời người.
Lý (*) con ngựa... ngựa ô,
Lý con ngựa... ngựa ô,
Ngựa ô ăn khớp, ngựa ô ăn khớp,
Ăn khớp cây kiệu vàng,
Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen
Búp sen lá đậm
Dây cương đầm thấm
Cán roi anh bịt đồng thà...
Là anh í a đưa nàng… anh đưa nàng về dinh,
Là anh í a đưa nàng... là anh đưa nàng về dinh.
(*) có chỗ ghi là "khớp’’Nhưng cũng có khi, Lý lại được thêu dệt chút ít màu sắc man mác trữ tình như bài Lý Lu Là:
Ai về giòng dứa mà qua truông
Nhắn thăm lu là với bậu ơ bậu ơi!
Bỏ buồn cho nàng ơi! Mà cho ai?
Bỏ buồn cho nàng ơi! Mà cho anh!Cách vận dụng các điệu thức dân gian 5 cung hoặc 7 cung, hoặc 5 cung có thêm bớt bất thường trong thể loại Lý, càng tạo thêm được nhiều sắc thái về giọng điệu, càng làm phong phú thêm khả năng kết hợp chặt chẽ giữa âm điệu và ngôn ngữ. Hiện nay, các cơ sở nghiên cứu đã sưu tầm và xếp loại hơn 40 điệu Lý. Một số điệu nổi tiếng như: Lý con sáo, Lý giao duyên, Lý cây bông, Lý chúc rượu, Lý chia tay, Lý cây gòn, Lý con chuột, Lý bình vôi v.v...
Mỗi điệu Lý nói trên đều có một nội dung rõ rệt, hoặc phổ biến những kinh nghiệm sản xuất (như Lý đất dòng chẳng hạn), hoặc ca ngợi những đức tính tốt trong cuộc sống (như Lý Ba Tri), cái đẹp trong thiên nhiên (Lý cây xanh) hoặc oán trách nhau (như Lý lu là) hoặc mỉa mai, châm biếm bọn lý trưởng, cường hào (như Lý con chuột, Lý bình vôi, Lý con sam). Các chủ đề nhạc của các điệu Lý gồm nhiều vẻ và hình thức độc đáo khác nhau. Chúng rất quen thuộc với phong thái cổ truyền của quần chúng qua nhiều thế hệ.
Trong tiến trình cải biến và bổ sung, dĩ nhiên có một số chủ đề trong các điệu Lý được sáng tạo, nâng cao giá trị. Trong số ấy, chúng ta có thể lấy bài Ru con làm ví dụ.
Từ bài Lý giao duyên của vùng Trị Thiên, bài Lý giao duyên của Nam Bộ đã cải tiến hoàn chỉnh hơn dưới một tựa đề mới là Ru con. Lời bài hát Ru Con, dân ca Nam Bộ:
1- Gió mùa thu mẹ ru mà con ngủ
Năm (ơ) canh chày, năm (ơ) canh chày, thức đủ vừa năm
Hỡi chàng chàng ơi, hỡi người người ơi
Em nhớ tới chàng, em nhớ tới chàng
Hãy nín nín đi con, hãy ngủ ngủ đi con
Con hời là con hỡi, con hỡi con hời
Con hỡi con hời, hỡi con! 2- Đến mùa xuân trong cơn mà gió ấm
Cha (ơ) con về, cha (ơ) con về, con nắm tay cha
Hỡi nàng nàng ơi, hỡi người người ơi
Tôi nhớ tới người, tôi nhớ tới người
Hãy nín nín đi con, hãy ngủ ngủ đi con
Con hời là con hỡi, con hỡi con hời
Con hỡi con hời, hỡi con! Toàn bộ nội dung của bài hát được diễn tả trong bẩy câu. Chỉ với 7 câu thôi, nhưng cũng đủ để vẽ nên một bức tranh âm thanh tuyệt diệu. Giữa một đêm thu tĩnh mịch, lắng nghe từng cơn gió lành lạnh nhẹ lướt ngoài khung cửa người mẹ trẻ ấy vừa ru con, vừa nghĩ đến người chồng. Câu hát không chỉ nói lên tình cảm và bổn phận của người mẹ dành cho con mà cả cho chồng. Nàng không kể gian nan, thức trắng đêm vì con và vì chồng. Mỗi lời ru là một lời trần tình. Một hình ảnh gia đình hạnh phúc. Dù xa nhau, nhưng nàng luôn nghĩ tới chồng đang làm nhiệm vụ ở một phương trời nào đó. Âm điệu đơn giản, lời lẽ ngắn gọn, cô đọng đến mức không cần thêm vào đấy một chữ nào nữa cả.
Toàn bộ bài hát được kết thúc như cánh cửa khép dần thong thả, giai điệu chậm rãi, nhỏ dần và chấm dứt. Nhưng hình ảnh người thiếu phụ đêm thu ru con ngủ, hình ảnh của một sự đợi chờ, của một lòng sắt son chung thủy như đang hiển hiện trước mặt!
Hoặc như một câu hát dễ thương ghi lại lời mẹ trách khéo đứa con vụng về:
Ầu ơ…
Má ơi đừng đánh con đau,
Để con bắt cá hái rau má dùng.
Bắt cá, cá lội trên đàng,
Hái rau, rau héo,
Hỏi sao má dùng hả con?
Kết luận
Dân ca như một mảnh đất trù phú, một kho tàng âm điệu vô tận, nơi tập trung của tất cả những nhân tố thể hiện trực tiếp nhất, sinh động nhất các hoạt động và tình tự dân tộc của một địa phương hay một sắc dân. Nền âm nhạc phong phú cũng bắt nguồn từ di sản câu ca, tiếng hò, ca dao, tục ngữ của dân tộc, nguồn vốn văn học của thế hệ trước để lại.
Vì thế, không phải chỉ tìm hiểu kho tàng ca hò quý báu là đủ, mà còn phải biết chọn lọc, lựa cái tinh tuý nhất và là biểu tượng cho từng vùng hay từng dân tộc để chứng minh trình độ và nét đặc thù văn hóa của từng vùng, từng dân tộc.
BY: HOÀNG THẠCH
Nói tới cảnh đẹp của Sài Gòn và miền Nam thì khá nhiều, không thể kể trong một bài viết. Trong bài này chúng tôi chỉ giới thiệu một vài vẻ đẹp kiến trúc của Thánh Đường, Chùa và chợ tại Sài Gòn; những công trình kiến trúc đã đi vào lịch sử văn hóa và tôn giáo của dân chúng miền Nam; những hình ảnh mà dù xa quê hàng nghìn dặm, người Việt vẫn không bao giờ quên được. Các công trình kiến trúc này là sự phối hợp nghệ thuật kiến trúc của hai nền văn minh Đông và Tây, chúng vừa biểu tượng cho vẻ đẹp tao nhã của Đông phương và nét hùng tráng của Tây phương.
Một số cảnh đẹp về kiến trúc của Sài Gòn, từng là thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa mà chúng tôi giới thiệu trong bài này là:
1- Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Sài Gòn
Có thể nói Vương Cung Thánh Đường hay nói nôm na Nhà thờ Chính Tòa Đức Bà Sài Gòn là nhà thờ lớn nhất và đặc sắc nhất tại thủ đô Sài Gòn, một biểu tượng cao quí của người Công giáo thuộc Tổng Giáo Phận Sài Gòn. Nhà Thờ Chính Tòa tọa lạc tại trung tâm, số 1 Công trường Công Xã Paris, Quận 1. Đây là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc và thu hút nhiều du khách ngoại quốc cũng như Việt Nam.
Đứng trước công viên Hòa Bình ngắm toàn cảnh Nhà Thờ Đức Bà, người ta thấy vẻ đẹp tươi mát của những hàng cây xanh, vẻ uy hùng của hai tháp chuông vươn cao vút lên bầu trời trong xanh và ngôi nhà gạch đỏ lộng lẫy, một thành quả của một trong các công trình kiến trúc nổi tiếng nhất thế giới, kiến trúc Gothic. Cái đẹp của Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn khác với cái đẹp của Nhà Thờ Đức Bà Paris ở chỗ hai ngọn tháp nhọn cao 60 mét, vươn tận trời mây; tường mái đỏ cam nổi bật giữa vùng cây cao lá xanh tỏa bóng râm và là chỗ nghỉ chân của du khách dưới nắng Hè gay gắt. Bên cạnh Thánh Đường là bưu điện trung ương và những đại lộ mang đầy tích sử. Nhà Thờ Đức Bà không chỉ đẹp về kiến trúc mà còn có những nét đặc sắc như sau:
Toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi-măng, sắt thép, những con ốc, then cài đều được mua và vận chuyển từ Pháp. Tường phía ngoài Thánh Đường được xây bằng loại gạch nhẵn tốt sản xuất tại Marseille. Mặc dù không tô trát và trải qua bao tháng năm dài đến nay tường vẫn còn màu sắc hồng tươi. Ngói lợp mái Thánh Đường được nhập cảng từ Pháp "Guichard Carvin, Marseille St André France". Một số ngói sản xuất tại Sài Gòn có hàng chữ "Wang-Tai Saigon" đã được dùng thay thế những miếng bị vỡ, vì trong Thế Chiến II, Sài Gòn bị quân Nhật Bản chiếm đóng và Không quân của Đồng Minh đã bắn phá thành phố gây đổ vỡ nhiều nơi trong đó có cả Nhà Thờ Đức Bà.
Thánh đường có 56 ô cửa kính nhiều màu, mỗi cửa có hình ảnh được vẽ theo sự tích trong Thánh Kinh, do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất. Bên trong thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ, hai dãy nhà nguyện và hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên có bệ sáu bức tượng các Thánh Tông Đồ. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang với khá nhiều khoang có những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có sáu Thiên thần khắc sâu vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích.
Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ bằng kính nhiều màu ghép lại thành hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều được thực hiện theo nghệ thuật Roma và Gothic khiến du khách chiêm ngưỡng có cảm giác vừa tôn nghiêm vừa trang nhã.
Ngay trên gác cao của cửa chính là gác đàn với hệ thống âm nhạc gồm một đàn dương cầm và những ống nhạc khi đánh đàn nổi lên các tiếng "Đồ, Rê, Mi, Fa, Sol, La, Si". Đây là một một trong hai cây đàn dương cầm cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đánh, đàn nổi lên âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3m, ngang 4m, dài khoảng 2m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3m, ngang khoảng 1m) để người điều khiển đạp lên khi dùng nốt trầm.
Nhà Thờ có chiều dài là 133m, tính từ cửa ngăn đến tận cùng phòng đọc kinh; chiều ngang 35m; chiều cao 21m và có thể chứa 1.200 người.
Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang. Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21m, theo thiết kế của kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57m. Có tất cả 6 chuông lớn đặt dưới hai lầu chuông nặng tổng cộng 28,85 tấn. Khi đánh, chuông nghe như âm thanh của các nốt nhạc (sol, la, si, đô, rê, mi). Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và mang qua Sài Gòn năm 1879. Trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, si, rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, đô). Trên mặt mỗi quả chuông đều có vẽ các chi tiết rất tinh xảo.
Ba quả chuông to nhất là chuông "si" nặng 3.150 kg, chuông "rê" nặng 2.194 kg và đặc biệt là chuông "sol" là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8.785 kg, đường kính miệng chuông 2,25m, cao 3,5m (tính đến núm treo). Chuông này chỉ ngân lên mỗi năm một lần vào đêm Giáng Sinh. Các chuông đều được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật công tắc điện. Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông mi hoặc rê vào lúc 5 giờ và 17g30. Vào ngày lễ và chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông. Vào đêm Giáng Sinh thì mới đổ cả 6 chuông.
Tiếng chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay.
Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5m, dài khoảng 3m và ngang độ hơn 1m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng chuyển động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, người ta dùng một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia đình ở phía sau. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống chuông riêng, tuy nhiên đã không còn hoạt động vì dây cót đã quá cũ.
Mặt trước Thánh Đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành hình Thánh Giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay Nữ vương Hòa bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được ghi ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6m, nặng 5,8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên có cây thánh giá. Mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (hiện nay, đầu con rắn đã bị bể mất cái hàm trên). Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ tiếng Latin: REGINA PACIS - OPRA PRO NOBIS - XVII. II. MCMLIX (Nữ vương Hoà bình - Cầu cho chúng tôi - 17/02/1959). Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện hoà bình cho Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da, và đồng được gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam.
2- Chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa Vĩnh Nghiêm là một ngôi chùa lớn tọa lạc trong một khuôn viên khá rộng (6.000 m²) tại số 339, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 7, Quận 3 Sài Gòn. Đây là ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam có kiến trúc cổ truyền nhưng được xây dựng bằng chất liệu hiện đại. Công trình cao nhất trong chùa là ngọn tháp 7 tầng, cao 40m.
Chùa có một cửa tam quan lớn dẫn vào sân, từ đây có thể thấy ngôi chùa có một tầng lầu và một tầng trệt. Tầng trệt có hai phần: phần ngoài, dưới sân thượng, cao 3,20m; phần trong, dưới Phật điện cao 4,20m. Tầng trệt được chia là nhà thờ tổ, giảng đường, văn phòng, thư viện, lớp học, phòng học, phòng tăng...
Từ dưới sân có ba cầu thang rộng, gồm 23 bậc, dẫn lên tầng trên. Ở đây có một sân thượng rộng khoảng 10mét. Bên phải phải có một gác chuông. Từ sân thượng lên tiếp mấy bậc thềm nữa là tới Bái điện, một tòa dài 35m, rộng 22m và cao 15m.
Chùa Vĩnh Nghiêm chỉ thờ ba bức tượng: Phật Thích Ca và hai vị Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và Đại Hạnh Phổ Hiền. Bàn thờ được thiết lập ở bửu điện: chính giữa là Phật Thích Ca, bên trái có Văn Thù Bồ Tát và bên phải là Phổ Hiền Bồ Tát. Những bức tượng này tương đối cao lớn, đường bệ, tương hợp thống nhất trong không gian chùa cao rộng. Ở hàng hiên lối vào chính điện, mỗi bên có một pho tượng Kim Cương Hộ Pháp khá lớn.
Hằng năm, vào ngày mùng 8 tháng 12 âm lịch, ngày đức Phật thành đạo, chùa Vĩnh Nghiêm tổ chức trọng thể lễ húy nhật Hòa Thượng Thích Thanh Hanh (1838-1936), cố Thiền gia pháp chủ Phật giáo Bắc Việt, được tôn xưng là tổ Vĩnh Nghiêm, có công rất lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo vào những năm đầu thế kỷ 20.
Tháp 7 tầng của chùa Vĩnh Nghiêm
Năm 1954, hai hoà thượng Thích Tâm Giác và Thích Thanh Kiểm từ Bắc vào Nam, tiếp tục truyền bá đạo Phật đã xây chùa Vĩnh Nghiêm. Hai nhà sư lấy nguyên mẫu thiết kế từ một ngôi chùa gỗ cùng tên ở xã Đức La, tổng Trí Yên, phủ Tạng Giang, tỉnh Bắc Giang, kiến lập từ đời vua Lý Thái Tổ, vốn là trung tâm truyền bá Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm.
Người vẽ kiểu cho công trình là kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng, người đầu tiên sử dụng vật liệu hiện đại, nhưng giữ nguyên những giá trị kiến trúc chùa Việt Nam truyền thống, có sự cộng tác của các ông Lê Tấn Chuyên và Cổ Văn Hậu. Kỹ sư Nguyễn Văn Tố thiết kế kỹ thuật và ban kiến thiết miền Vĩnh Nghiêm điều hành thực hiện xây dựng công trình.
Chùa được khởi công năm 1964 tại khu sình lầy bên cạnh rạch sông Thị Nghè cũ, nên phải đổ thêm 40.000 m³ đất lấp sình lầy. Công trình được hoàn thành vào năm 1971, gồm Phật điện, Bảo tháp và cơ sở văn hóa xã hội. Tiền xây dựng được lấy từ đóng góp công đức của Tăng Ni và Phật tử di cư từ Bắc vào Nam. Năm 1982, chùa xây thêm Bảo tháp Xá Lợi và hoàn thành năm 1984. Tháp cũng được xây theo một kiểu khá độc đáo. Có các cầu thang từ sân dẫn lên tháp. Đây là nơi để lọ đựng tro thi hài người chết mà thân nhân của họ giữ ở chùa.
Tháp Đá gồm 7 tầng cao 14m của chùa được hoàn thành vào ngày 27.12.2003, được coi là tháp đá cao nhất và công phu nhất Việt Nam.
3- Chợ Bến Thành
Ngược dòng thời gian, kể từ năm 1680 các thương khách Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản... đã tấp nập ngược sông Sài Gòn lên Cù Lao Phố (Biên Hoà) để buôn bán với người bản xứ. Nhưng từ năm 1777 cuộc chiến giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn khiến cho Cù Lao Phố dần dà suy tàn và Sài Gòn trở thành vị trí buôn bán quan trọng nhất vào thời điểm đó.
Sự phát triển của một đô thị trong quá khứ cũng như hiện nay đều tùy thuộc vào trung tâm buôn bán mà chợ là một yếu tố quan trọng nhất. Sài Gòn hiện có trên 200 chợ, trong đó phải kể đến chợ Bến Thành và chợ Bình Tây đã được thành lập và phát triển trong hơn 100 năm. Giữa hai chợ thì chợ Bến Thành đã trở thành biểu tượng của Sài Gòn và của người miền Nam, còn chợ Bình Tây được coi là biểu tượng của người Tầu tại Chợ Lớn.
Chợ Bến Thành hiện nay được xây trên một cái ao sình lầy có tên là Bồ rệt (Marais Bosesse). Quyết định xây chợ được đưa ra vào năm 1911 và đồ án của Brossard et Mopin được chấp thuận năm 1912. Lễ khánh thành được tổ chức vào tháng 4 năm 1914. Cái tên Bến Thành đã có từ trước khi chợ dời về vị trí như hiện nay. Vị trí đầu tiên của chợ là nằm sát ven sông, một bến nước của thành Gia Định cũ nên được mang tên là chợ Bến Thành. Sau đó để có mặt bằng làm bến tàu, Pháp cho dời chợ về vị trí kinh Lắp (nay là đường Nguyễn Huệ) lúc này chợ không nằm ở bến sông nữa, nhưng đồng bào vẫn dùng tên truyền thống là Bến Thành.
Lần di chuyển thứ hai đến vị trí hiện nay vẫn gọi là chợ Bến Thành hoặc chợ mới Sài Gòn như được nói ở trên. Như vậy, chợ Bến Thành hiện nay được khai trương năm 1914 nằm trên diện tích rộng 12.000m2, mặt chính hướng ra bùng binh Round point Cuniac (nay là Quách Thị Trang); mặt sau là đường Espagne (Lê Thánh Tôn); bên hông phải là đường Schroeder (Phan Chu Trinh) cũng là bến xe đò đi miền Tây; bên hông trái là đường Vienot (Phan Bội Châu) là bến xe đi miền Đông. Phía trước bên phải chợ là ga xe lửa (Công viên 23/9) có tuyến đường xuống Chợ Lớn và lên Lái Thiêu; phía trước bên trái là đường Bona (Lê Lợi).
Với vị trí như thế khu chợ Bến Thành trở nên một đầu mối giao thông và thương mại quan trọng bậc nhất của Sài Gòn lúc bấy giờ. Xe cộ các loại, kẻ mua người bán và khách đi đường đổ về đông đúc, nhộn nhịp, tấp nập thường xuyên từ sáng sớm đến tối mịt, có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với du khách trong và ngoài nước. Chợ trở thành biểu tượng của Sài Gòn.
Chợ Bến Thành cùng rơi vào tình trạng bị tàn phá trong chiến tranh. Năm 1944 chợ bị máy bay Đồng Minh ném bom làm hư hại nặng nề. Năm 1950 chợ được trùng tu. Ngày 9/11/1951, hàng vạn học sinh và sinh viên biểu tình đã đốt phá chợ để bày tỏ lòng căm phẫn đối với thực dân Pháp và tay sai. Đầu thập niên 70 chính quyền Sài Gòn có ý định phá chợ Bến Thành để xây mới hoàn toàn theo đồ án của kiến trúc sư Huỳnh Kim Mảng, nhưng chương trình bị bỏ dở, vì chiến tranh trở nên ác liệt và phần lớn dân Sài Gòn không muốn thay đổi biểu tượng quen thuộc đã có từ thế kỷ trước.
Từ ngày 1/7/1985 chợ Bến Thành được bắt đầu sửa chữa theo đồ án của Phó tiến sĩ Hoàng Như Tấn có tham khảo ý kiến của một số kiến trúc sư khác được hoàn thành ngày 25/8 (chỉ 55 ngày đêm) và được đưa vào sử dụng cho đến hôm nay. Năm 1996 Nhà Cầm quyền Cộng sản tính xây dựng lại chợ để xứng đáng với tầm vóc của một thành phố công nghiệp hiện đại. Công trình dự trù thực hiện từ năm 1997 tới năm 2000 sẽ hoàn tất. Chủ trương vẫn giữ lại cổng chợ với tháp đồng hồ hình hộp có mái nhọn. Nhưng một lần nữa đa số dân chúng không tán thành.
Hiện nay chợ Bến Thành có diện tích 13.056 m2, 16 cửa với bốn cửa chính lớn Đông, Tây, Nam, Bắc. Chợ được chia làm bốn khu vực với 11 ngành hàng bao gồm khu vực 1 và 2 chủ yếu vải sợi và quần áo chiếm khoảng 30% diện tích; khu vực 3 và 4 là tạp phẩm, tạp hoá, mỹ phẩm, thực phẩm, công nghệ chế biến, hàng tươi sống và ăn uống. Hiện nay bình quân mỗi ngày chợ Bến Thành có hàng chục ngàn lượt người đến giao dịch mua bán và thăm quan.
Đối với du khách thì chưa tới chợ Bến Thành thì chưa thể nói đã thăm Sài Gòn.
--------------------
Tài liệu tham khảo
www.vi.wikipedia.org/wiki/Nhà_thờ_Đức_Bà_ Sài_Gòn.
www.vietshowbiz.comindex.php =Forums &file=viewtopic&p=201189
www.irazoo.com/InterestingTopics/Linh-Quang-Vien_pd_jpg.aspx
BY: HOÀNG THẠCH
Đôi lời mở đầu
Khi nói tới nền văn học nước ta và các thi sĩ nổi tiếng nhất trong làn văn Việt Nam, người ta không quên nhắc tới tên tuổi Nguyễn Du, một nhà thơ lớn không chỉ được đề cao trong lịch sử của dân tộc mà còn được ghi vào danh sách danh nhân văn học Thế giới.
Thơ của Cụ Nguyễn Du hay ra sao, phong phú thế nào mà người Việt dành cho Cụ chỗ đứng cao nhất "Đại Văn Hào" trong làng văn Việt Nam và được văn nhân thế giới mến phục?
Trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi xin đưa ra hai dữ kiện trong số hàng chục bài ca tụng Truyện Kiều, một tuyệt tác thi ca, một trong các biểu tượng văn hóa hàng đầu của một quốc gia vẫn tự hào là có "Bốn Ngàn Năm Văn Hiến":
1-Lời phát biểu của học giả Phạm Quỳnh, một danh nhân trong làng văn học Việt Nam.
Tại Hội Khai Trí Tiến Đức năm 1924 tại Hà Nội Phạm Quỳnh, một học giả và Thượng Thư Bộ Lại dưới Triều Nguyễn, đã đọc một bài diễn văn lịch sử, trong đó có một câu được coi như "Kim Chỉ Nam" cho những người luôn đề cao và phát triển chữ Quốc Ngữ:
“Truyện Kiều không chỉ đối với văn hóa nước nhà mà đối với văn học thế giới cũng chiếm được một địa vị cao quý... Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn...”.
2-Tổ chức Giáo Dục, Khoa Học và Văn Hóa Liên Hiệp Quốc "UNESCO" (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization) nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Đại Thi Hào Nguyễn Du (1765-1965), đã công nhận ông là Danh nhân văn hóa thế giới, vì sự nghiệp vĩ đại mà ông đã để lại trong kho tàng văn học Việt Nam. Trên văn đàn thế giới thì truyện Kiều đã được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài như: tiếng Anh, Ba Lan, Đức, Hung Gia Lợi, Pháp, Tầu, Nhật, Tiệp Khắc, Tây Ban Nha, (Hungary) v.v…
Chủ đề văn hóa toàn năm 2009 của Dân Chúa Âu Châu dành cho Truyện Kiều, không phải để đánh dấu một mốc lịch sử văn hóa quan trọng nào, mà mang mục đích giới thiệu với tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại có cơ hội tìm hiểu thi phẩm độc đáo của tiền nhân, để tự hào về một dân tộc đã từng có những áng văn lưu danh cổ kim, sáng chói trên nền trời văn học thế giới.
Trong bài mở đầu cho chủ đề văn hóa năm 2009, chúng tôi hân hạnh giới thiệu Tiểu sử Đại Văn Hào Nguyễn Du.
Để có một cái nhìn toàn diện và khách quan, chúng tôi tổng hợp các tài liệu của các văn nhân, thi sĩ và học giả đã viết về Nguyễn Du thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau.
I- Đôi hàng tiểu sử
Nguyễn Du sinh năm nào vẫn còn có sự khác biệt trong các tài liệu. Hai năm 1765 và 1766 đã được đề cập tới; nhưng năm nào chính là năm sinh của Cụ?
-Theo giáo sư Nguyễn Lộc “Từ điển Văn học (tập II). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1984, trang 54, 55 cho rằng: “Nguyễn Du (3.I.1766? - 16.IX.1820). Nhà đại thi hào Việt Nam. Tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Sinh năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng.
-Giáo sư Lê Đình Kỵ trong tác phẩm Truyện Kiều và Chủ nghĩa hiện thực, lại viết: “Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng giêng năm 1766 tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
c-Trong Bách khoa Tự điển wikipedia ghi Nguyễn Du sinh ngày 03 tháng 01 năm 1766 tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (1765).
-Giáo sư Dương Quảng Hàm trong quyển “Văn học Việt Nam”, ghi Nguyễn Du (1765-1820)
-Tác giả Phạm Thế Ngũ trong quyển “Việt Nam Văn Học Sử Giản ước Tân biên” ghi “Nguyễn Du sinh ra năm Cảnh Hưng 26 (1765), hai năm trước khi chúa Trịnh Doanh từ trần để quyền lại cho Trịnh Sâm.
-Sử gia Trần Trọng Kim Trong quyển “Việt Nam Sử Lược” (VNSL) ghi Trịnh Doanh từ trần năm 1767; Trịnh Sâm (1767-1782). Như vậy, năm sinh 1765 của Cụ Nguyễn Du đúng với lịch sử.
-Tác giả Nguyễn Huyền Anh trong “Việt Nam Danh Nhân Từ Điển” ghi Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765; Lê Hiển Tôn Cảnh Hưng thứ 28).
Cảnh Hưng thứ 28 có lẽ không đúng vì Lê Hiển Tôn (Tông) kế vị năm 1740+28 = 1768, chênh lệch 3 năm không đúng với năm sinh của Nguyễn Du (1765). (Việt Nam Sử Lược và Việt Sử Toàn Thư đều ghi Lê Hiển Tông: 1740-1786),
-UNESCO vinh danh Nguyễn Du là “Danh nhân Văn hóa Thế giới" nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh (3.1.1765 - 3.1.1965). Như vậy, UNESCO dựa vào năm sinh 1765 Dương lịch, tài liệu của giáo sư Dương Quảng Hàm, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Huyền Anh đồng nhất về năm Dương lịch.
Trong bài này chúng tôi chọn ngày 3.1.1765
1.1- Gia đình và tuổi thơ
Cậu Nguyễn Du sinh ngày 3-1-1765 tại quê mẹ, làng Kim Thiều, xã Hương Mặc, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Quê mẹ: Làng Kim Thiều có tên chữ là Hoa Thiều, tên Nôm là làng Mấc, thuộc xã Ông Mặc, trấn Kinh Bắc. Quê ngoại nổi tiếng về hai phương diện:
-Làng Kim Điền có danh tiếng về nghề chạm khắc gỗ và nhiều tay nghề giỏi.
-Theo tác phẩm “Danh công Truyện ký" làng Kim Điền có nhiều danh sĩ khoa bảng nối đời phụng sự quốc gia; toàn xã có tới 22 tiến sĩ kể từ thời nhà Trần đến nhà Nguyễn.
-Làng Kim Điền, Bắc Ninh nổi danh có nhiều thiếu nữ đẹp. Nhiều bộ phả của các dòng họ làng Hoa Thiều và toàn xã Ông Mặc có nói về gái vùng này thường được kén chọn vào cung vua làm phi, thiếp.
Mẹ của Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740 - 1778), con gái quan Câu kê họ Trần ở làng Hoa Thiền huyện Đông Ngạn xứ Kinh Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh), vợ thứ ba của tể tướng Nguyễn Nghiễm, nhỏ hơn chồng 32 tuổi, thuộc hệ thứ 11 theo bản phả họ Trần ở Hoa Thiều và bản phả của họ Nguyễn ở Tiên Điền. Tể tướng Nguyễn Nghiễm có vợ cả, vợ hai là hai chị em ruột họ Đặng: Đặng Thị Dương và Đặng Thị Thuyết. Nguyễn Nghiễm có tất cả 8 vợ và 21 người con. Tể tướng Nguyễn Nghiễm kết duyên với Trần Thị Tần sinh được 4 trai, 1 gái, theo thứ tự: Nguyễn Trụ, Nguyễn Nễ, Nguyễn Thị Diên, Nguyễn Du và Nguyễn Ức.
Quê cha:
Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775), quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là tỉnh Hà Tĩnh).
Theo gia phả họ Nguyễn và sách Nghệ An ký của Hoàng Giáp Bùi Dương Lịch (1757-1828) thì thời gian trước thế kỷ XVI, Tiên Điền là một bãi đất cát bồi của sông Cả (còn gọi là sông Lam), hoang sơ, cư dân thưa thớt, quanh năm nước mặn dâng ngập bờ. Giữa thế kỷ XVI, ông tổ họ Nguyễn là Quận công Nguyễn Thuyên cùng người cháu là Nam Dương Quận công đến dựng nghiệp và tu bổ vùng này rồi đổi thành U Điền. Sang thế kỷ XVII, U Điền đổi tên là Tân Điền, Phú Điền, rồi Tiên Điền. Theo sử sách ghi chép, Tiên Điền được mệnh danh là nơi giang sơn tụ khí và không biết từ bao giờ người dân xứ Nghệ có câu “Ló (lúa) Xuân Viên, quan Tiên Điền, tiền Hội Thống”. Tiên Điền từng được Nhà Lê ban tên xã Trung Nghĩa vì đã có công bảo vệ kinh thành Thăng Long. Theo thời gian, nơi đây nổi danh với Đền thờ Hội Quận công, Đền thờ Uy Quận công, Đền thờ Trinh Dũng hầu, Đàn tế Lĩnh Nam công, Đền thờ Tiên Lĩnh hầu, Đền thờ Xuân Nhạc công, Đền thờ Lam Khê hầu, Đền thờ Điền Nhạc hầu, Đền thờ Hà Chân đài, Mộ tổ họ Nguyễn, Mộ Xuân Nhạc quận công, mộ Tán Quận công, Mộ Tiên Lĩnh hầu, Mộ Nguyễn Du... Cụm di tích và khu lưu niệm Nguyễn Du bao gồm khu lưu niệm Nguyễn Du, đền thờ Nguyễn Huệ (Anh cả của Nguyễn Nghiễm, bác ruột Nguyễn Du), mộ và đền thờ Nguyễn Nghiễm (thân phụ Nguyễn Du), nhà thờ Nguyễn Trọng (chú ruột Nguyễn Du) và khu mộ Nguyễn Du.
Từ Tiên Điền nhìn qua Xuân Mỹ, thấy núi Hồng Lĩnh đứng sừng sững mé Tây-Nam. Vì thế nên Nguyễn Du đã lấy biệt hiệu “Nam hải điếu đồ”, “Hồng Sơn lạp hộ”; và câu đối truyền tụng đời này qua đời khác ở Tiên Điền:
Hồng Sơn chi ngoại uất giai khí, Vị Thủy chi kim thành đại giang.
(Hồng sơn đất ngoại kết tụ được khí tốt - Vị Thủy đến nay đã thành sông rộng)
Cha của Nguyễn Du đậu Nhị Giáp Tiến Sĩ, làm quan tới chức Đại Tư Đồ, tể Tướng (thủ tướng) dưới triều đại Lê Hiển Tông (1740-1786).. Con trai trưởng của Nguyễn Nghiễm là Nguyễn Khản đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm tới chức Tham Tụng đời chúa Trịnh Khải. Con thứ hai là Nguyễn Điều đậu Hương Cống, trấn thủ tỉnh Sơn Tây, được phong tước Điền Nhạc hầu. Con thứ ba là Nguyễn Dao đậu tứ trường thi Hương, chức Hồng lô Tự thừa. Con thứ tư là Nguyễn Luyện đậu tam trường thi Hương. Con thứ năm là Nguyễn Trước và con thứ sáu là Nguyễn Nễ đều đậu tứ trường thi Hương và Nguyễn Du là con thứ bẩy, nên được gọi là cậu Chiêu Bảy.
Gia đình Nguyễn Du một gia đình khoa bảng, cha con cùng làm quan dưới triều Nhà Lê. Dòng họ Nguyễn Du không những nổi tiếng về khoa bảng mà còn nổi danh trong lĩnh vực văn chương. Nguyễn Nghiễm còn để lại những tập Quân Trung liên vịnh, Xuân đình tạp vịnh, và quyển Việt sử bị lâm cung cùng nhiều tác phẩm chữ Nôm, từng làm bài phú Khổng tử mộng Chu công, nay còn truyền tụng. Nguyễn Nễ còn để lại Quê hiên giáp ất tập và Hoà trình hậu tập cũng sở trường về văn Nôm. Cháu Nguyễn Du là Nguyễn Thiện có tập thơ Đông phú và Nguyễn Đạm có tập thơ Quan hải, tập thơ Minh quyên đều là những văn hào đương thời. Danh sĩ trong nước thời bấy giờ theo truyền tụng có năm người lỗi lạc, được người Việt cũng như người Tầu gọi là “An Nam ngũ tuyệt” thì họ Nguyễn Tiên Điền có đến hai người là Nguyễn Du và Nguyễn Đạm.
Dòng họ này còn được người đời kính trọng về lòng trung nghĩa. Tổ tiên thuở xưa theo Nhà Mạc thì nhiều người tuẫn tiết khi Nhà Mạc mất ngôi. Thời Lê, sau khi Nhà Lê sụp đổ, mấy anh em Nguyễn Khản, Nguyễn Điêu, Nguyễn Luyện, Nguyễn Du cho đến cháu là Nguyễn Đạm đều khởi nghĩa cần vương. Từ Triều đại Tây Sơn sang tới thời Nhà Nguyễn nhiều người trong họ không chịu ra làm quan, kiên trinh giữ tiết với chúa cũ theo đúng phương châm "Tôi trung không thờ hai chúa".
Câu ca dao:
“Bao giờ ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước họ này hết quan”
là chỉ cái danh giá, chức quyền của làng Tiên Điền, của dòng họ Nguyễn Du là vậy.
Năm 1771, lúc Nguyễn Du 5 tuổi thì gia đình chuyển về làng Tiên Điền và năm lên 10 thì cha mất. Không hiểu vì quá thương nhớ cha sinh bệnh rồi chết hay vì một căn bệnh nào đó, mẹ cậu cũng qua đời vào năm 1778, lúc mới 38 tuổi. Bị mồ côi cha mẹ, cậu phải ra Thăng Long ở chung với người anh cả cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Nguyễn Khản bị kiêu binh ghét nên khi ông được chúa Trịnh cử làm Tham tụng thì họ kéo đến phá tan nhà và toan giết ông. Nguyễn Khản bỏ chạy lên sống với Nguyễn Điều, tổng trấn Sơn Tây; sau đó lại chạy về Hà Tĩnh.
1.2- Thi cử
Khi Nguyễn Du 9 tuổi thì đất nước rơi vào cuộc nội chiến Nam-Bắc giữa họ Trịnh và Nhà Nguyễn tái phát. Cha của Nguyễn Du được lệnh của Trịnh Kiểm, phụ tá Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào chiếm Phú Xuân năm 1777. Trong thời gian này Nguyễn Du sống và học hành tại Kinh đô Thăng Long. Dù phải sống trong hoàn cảnh rối loạn do đám kiêu binh gây ra, nhưng Nguyễn Du đã thành công trong việc học hành.
Năm 1783, Nguyễn Du đi thi Hương tại trường thi Nghệ An và đậu Tam Trường.
Để quí độc giả hiểu rõ hơn, chúng tôi xin nói một chút về chế độ thi cử thời xưa:
-Đậu Nhất trường: không có học vị, giống như đậu Trung học Đệ I cấp, lớp Đệ Tứ thời Việt Nam Cộng Hòa; lớp 9 Trung học Phổ thông ngày nay.
-Đậu Nhị Trường: đậu Tú Tài I, lớp đệ nhị thời VNCH; lớp 11 ngày nay.
-Đậu Tam Trường: đậu Tú Tài II, lớp đệ nhất thời VNCH; lớp 12 ngày nay.
-Đậu Tứ Trường: đậu Cử Nhân.
Nguyễn Du lập gia đình, có 3 vợ và 18 con. Sau khi Nguyễn Du chết, gia đình ly tán.
1.3- Trên đường công danh
Nguyễn Du không tiếp tục học và thi cử nhân, mà theo chí hướng của người trai thời chinh chiến nhận chức quan Thủ Hiệu (Lãnh Binh) ở tỉnh Thái Nguyên, thay cho người cha nuôi mới qua đời. Từ đó, ông có tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên (có tài liệu nói Trai Hiên), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ
Ngược dòng thời gian, trước khi Nguyễn Du sinh ra thì Nhà Lê đã mất quyền hành. Họ Trịnh thao túng chính trường. Xã hội rối loạn là nguyên nhân đưa đến các cuộc khởi nghĩa tranh dành quyền lực. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu và Nguyễn Danh Phương chưa tan, thì Hoàng Công Chất nổi lên từ năm 1739 cướp phá ở miền Hưng Hoá và Thanh Hoá. Lê Duy Mật nổi lên từ năm 1738 đóng giữ miền Trấn Ninh, thường xuống đánh phá đất Nghệ Tĩnh. Các cuộc khởi nghĩa mới dẹp yên thì năm 1774, lại nổ ra cuộc đánh dẹp chúa Nguyễn ở miền Nam. Cha của Nguyễn Du phải ra chiến trường cùng đi với Việp Công, giữ chức Hiệp tán Quân cơ. Trong khi quân Bắc đương chiếm cứ Thuận Hoá để cầm cự với quân Tây Sơn thì Thăng Long lại xảy ra nạn Kiêu binh. Năm 1882, loạn quân giết Hoàng Đình Bảo, phá nhà quan Tham tụng Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du và nhà quan Quyền phủ sự Dương Phương, giết quan Thủ hiệu Nguyễn Triêm ngay trước phủ chúa.
Năm 1786 Họ Trịnh bị lật đổ. Năm 1789, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ 3 dẹp bỏ luôn Nhà Lê. Là một quan chức của Triều Lê, dĩ nhiên Nguyễn Du không thể phục tùng Nhà Tây Sơn; nên ông tiếp tục "đánh Tây Sơn, phục Nhà Lê". Vua cuối cùng của Nhà Lê là Lê Mẫn Đế tức Lê Chiêu Thống (1787-1788) bị thất bại, chạy sang Tầu cầu cứu. Theo tài liệu của Phạm Thế Ngũ thì Nguyễn Du không theo kịp theo vua Chiêu Thống, nên trở về ở Thái Bình, cùng người anh vợ là Đoàn Nguyên Tuấn tụ tập dân binh mưu cuộc khởi nghĩa, nhưng bị dẹp tan. Khi ấy vua Quang Trung đã lên ngôi nắm vững quyền hành ở miền Bắc; nhưng ở miền Nam lại bị thua to, đất Gia Định bị mất về tay Nguyễn Ánh.
Nguyễn Du bị thất bại ở Quỳnh Côi mới nẩy sinh ý nghĩ vào Thanh Nghệ Tĩnh, toan tìm đường vào Nam mượn sức chúa Nguyễn chống Tây Sơn. Ông đi tới Vinh thì bị chận bắt và ở tù một thời gian. May nhờ quan Trấn thủ Nghệ An của Tây Sơn là người quen biết với Nguyễn Nễ, người anh ruột cùng mẹ với ông. Nguyễn Nễ đã ra hợp tác với nhà Tây Sơn, được thăng Hàm Đông Các Đại học sĩ, gia tăng Thái sử Thự tả Nghị lang, tước Nghi Thành Hầu; nên Nguyễn Du được thả. Đây là thời điểm khiến cho một số tác giả cho rằng Nguyễn Du viết truyện Kiều vào lúc đó, khi ông tròn 30 tuổi. Nhận định này dựa vào truyện Kiều có câu: “Trải qua một cuộc bể dâu”.
Bể dâu xuất phát từ câu “thương hải tang điền” (bãi bể (biển), nương dâu), theo nghĩa đen thì truyện thần tiên có nói về sự tuần hoàn trong vũ trụ cứ 30 năm biển bồi đất thành ruộng dâu và 30 năm ruộng dâu bị lở thành bể. Nghĩa bóng thì cuộc đời của con người luôn thay đổi (theo chu kỳ 30 năm).
Sau khi được thả, Nguyễn Du trở về làng sống trong thiếu thốn và chán nản, tiêu khiển bằng ngắm núi nhìn sông, săn bắn khắp vùng Hồng Lĩnh, nên mới có biệt hiệu là "Hồng Sơn Lạp Hộ". Nhiều lần ông phải ăn ở nhờ nhà người khác, có lúc ốm không có thuốc uống. Tập thơ chữ Hán Thanh Hiên thi tập (Thanh Hiên là hiệu của Nguyễn Du) được Nguyễn Du viết chủ yếu trong những năm tháng nàỵ.
1.3- Làm quan dưới triều Nguyễn
Năm 1802, Nguyễn Ánh toàn thắng Nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước, lên ngôi lấy tước hiệu là Gia Long xuống chiếu chiêu dụng các cựu thần Nhà Lê. Nguyễn Du lúc đó 38 tuổi cũng nằm trong danh sách được mời gọi. Bất đắc dĩ ông phải ra làm Tri huyện Phù Dực (nay thuộc tỉnh Thái Bình) tước Du Đức Hầu; ít lâu sau được thăng lên chức Tri phủ Thường Tín (tỉnh Hà Đông). Năm 1806 ông cáo bệnh về nhà, được một tháng lại bị mời ra thăng chức Đông Các Đại Học Sĩ (ngang hàng với Tam Khôi, tiến sĩ trong khi ông chưa đậu cử nhân), năm 1809 làm cai bạ tỉnh Quảng Bình (phó tỉnh trưởng coi về thuế má) và năm 1813 được thăng Cần Chính Điện Đại Học Sĩ (Văn quan Nhất phẩm: chức cao nhất trong hàng quan văn), được cử làm chính sứ đi Trung Hoa. Sau khi đi sứ về ông được được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri vào năm 1815.
Đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn không trở ngại. Ông thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc chí. Nguyễn Du sinh trưởng ở thời loạn lạc, lại gặp cảnh nước mất nhà tan mà mình không thể nào vãn hồi được, đành phải ôm mối hận lòng. Mặc dù được trọng dụng, nhưng Nguyễn Du không mấy vui lòng nhận bổng lộc của triều đình mới.
Sách Đại Nam Chính biên Liệt truyện chép rằng ông làm quan hay bị người trên đè nén, không được thoả chí, cho nên thường buồn rầu. Sự kiện này xẩy ra có thể vì đám quần thần miền Trung ghen tị với Nguyễn Du, một cựu quan chức đời Lê, người miền Bắc mà lại được trọng vọng. Đối với vua mỗi khi yết kiến ông làm ra vẻ sợ sệt, không biết nói năng gì. Có lần vua đã trách rằng:
“Triều đình dùng người, cứ kẻ hiền tài là dùng, chứ không phân biệt Nam Bắc. Ngươi với Ngô Vị, đã được ơn tri ngộ làm quan đến bực Á Khanh, biết việc gì thì phải nói để hết chức trách của mình, sao lại cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện thôi!”.
Thực ra, nếu dựa vào sự trung thành của dòng họ Nguyễn thì người ta phải hiểu là Nguyễn Du không phải buồn phiền vì quan trên đè nén, không phải là người sợ hãi rụt rè. Ông là người dẫu làm quan cho Nhà Nguyễn; nhưng tâm hồn lúc nào cũng nhớ Triều Lê. Cái nỗi lòng sâu kín này ông không thể công khai bày tỏ cùng ai, nên thường buồn rầu, bực tức; thậm chí có khi ông e sợ rằng đời sau cũng chưa chắc có người hiểu thấu được lòng mình:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Xuân Diệu dịch ra lục bát
“Ba trăm năm nữa mơ màng
Biết ai thiên hạ khóc chàng Tố Như”.
Tháng hai năm Quý Dậu (1813), Nguyễn Du nhận lệnh vua làm Chánh sứ, dẫn đầu phái đoàn gồm Đàm Ân Hầu (tham sự bộ Lại) và Phong Đăng Hầu (tham sự bộ Lễ), đi triều cống Trung Hoa. Ngày 6/4 năm Quý Dậu, Chánh sứ Nguyễn Du chính thức bước qua ải Nam Quan, bắt đầu hành trình đến Bắc Kinh. Những ngày tháng đua tài với các sứ thần Hàn, Nhật... chắc họ Nguyễn đã tỏ rõ được cái sở học uyên bác của mình. Trong thời gian đi sứ, Nguyễn Du đã được tận mắt chứng kiến nhiều nỗi oan trái và cuộc sống khổ ải của dân nghèo, sau này đã được tập hợp lại trong tập thơ mang tên Bắc hành Tạp lục (131 bài). Cũng trong thời gian này Nguyễn Du đã có dịp tìm hiểu sâu nền văn hoá Trung Quốc. Với vốn sống đa dạng và tài năng kiệt xuất của mình, sau khi về nước, ông đã hoàn thành tác phẩm Truyện Kiều, lấy cảm hứng từ tập truyên của tác giả Trung Quốc Thanh Tâm Tài Nhân. Truyện Kiều sau đó đã vượt lên trên nguyên tác, trở thành một kiệt tác thơ trong lịch sử văn chương Việt Nam.
Tháng Tư năm Giáp Tuất (1814), Nguyễn Du cùng đoàn sứ thần về nước. Trong chuyến đi, ông đã cho chọn giống cây hồng quý đem về trồng ở nhà vườn An Hiên (Huế) hiện vẫn còn được người dân nâng niu chăm sóc. Sau khi hoàn thành trọng trách cùng với đoàn sứ bộ, Nguyễn Du được thăng chức Lễ Bộ Hữu Tham Tri.
Năm 1820, sau khi vua Gia Long chết, Minh Mạng lên ngôi, cử ông đi sứ lần nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì ông đột ngột qua đời ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch tức ngày 16-9-1820 trong một cơn đại dịch, khi mới 56 tuổi.
Theo Đại Nam liệt truyện: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì...", và "Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều gì."
II- Tác phẩm
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc. Có thể nói toàn bộ tác phẩm của ông, chữ Hán cũng như chữ Nôm có nội dung nói về tình cảm, thân phận con người trong xã hội Việt Nam xưa, đặc biệt những người phụ nữ. Không phải chỉ trong Truyện Kiều, mà trong Thơ chữ Hán và trong Văn chiêu hồn của ông, tình thương ấy cũng tràn ngập.
2.1- Thơ chữ Hán của ông, những bài được xếp vào loại hay nhất là những bài ông viết về con người bất hạnh như: Thái Bình Mại Ca Giả (Người hát rong ở thành Thái Bình) viết về một ông già mù đi hát rong để kiếm ăn; Hà Nam Đạo Trung Khốc Thử (Nắng dữ trên đường đi ở Hà Nam) viết về một ông già khác kéo xe giữa một buổi trưa trời nắng gay gắt; Sở Kiến Hành (Bài hành về những điều trông thấy) viết về bốn mẹ con một người đi ăn xin sắp chết đói; Trở Binh Hành (Bài hành về việc binh đao làm nghẽn đường) viết về những người nông dân chết đói ở Hà Nam... Long Thành Cầm Giả Ca (Bài ca người gảy đàn ở Long Thành); Điếu La Thành Ca Giả (Viếng người ca nữ đất La Thành); Độc Tiểu Thanh ký (Đọc tập Tiểu Thanh ký)...
Ngoài ra còn 3 bài khác có tựa đề: Thanh Hiên Tiền Hậu Thi Tập, Nam Trung Tạp Ngâm, Bắc Hành Thi Tập
2.2- Thơ chữ Nôm: Bài thác lời trai phường nón (ghi lại những câu hát hò giữa trai gái hai làng Trà Cựu và Tiên Điền; Bài văn tế sống Trường lưu nhị nữ; Bài văn cúng Thập loại Chúng sinh hay Chiêu Hồn ca; Truyện Kiều hay Đoạn Trường Tân Thanh.
------------------------------
Tài liệu tham khảo:
Văn học Việt Nam và Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển của Gs Dương Quảng Hàm
Việt Nam Văn Học Sử Giản ước Tân biên của Phạm Thế Ngũ
Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim
Việt Nam Danh Nhân Từ Điển của Nguyễn Huyền Anh
vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Du
evan.vnexpress.net/News/phe-binh/nghien-cuu/2005/09/3B9ACF1E/
BY: HOÀNG THẠCH
Đôi lời mở đầu
“Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều’’
Hai câu thơ trên đã trở thành ca dao của dân tộc Việt Nam nhằm khuyên bảo những ai còn tôn trọng luân thường đạo lý và phong tục tập quán của thời xa xưa hãy thận trọng, khi kể hai truyện này cho con cháu.
Suốt trong thời kỳ Quân chủ người Việt Nam chịu ảnh hưởng đạo Khổng nên phụ nữ không mấy được tự do và hạnh phúc theo ý mình. "Trai năm thê bẩy thiếp, gái chính chuyên một chồng’’ là một chứng minh cụ thể. Vì thế, người phụ nữ nào vượt ra ngoài "Tam Tòng, Tứ Đức’’ thì cuộc đời của họ coi như mất nhiều giá trị trước gia đình và xã hội.
Tam Tòng
- Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,
- Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
- Phu tử tòng tử: khi chồng chết phải theo con.
Tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
- Công: biết ngành nghề và khôn khéo trong mọi việc làm.
- Dung: sắc diện khoan thai, hòa nhã.
- Ngôn: lời nói nhẹ nhàng, lễ độ.
- Hạnh: tính nết nhu mì, ngoan hiền, đạo đức.
Trong cái xã hội đề cao luân lý như vậy mà Truyện Kiều lại nói về cuộc đời của một thiếu nữ lỗi thề với người tình, lấy cớ chuộc cha, bán cái trinh tiết của mình, sống đời trụy lạc ở phòng trà ca nhạc, tiếp đủ mọi hạng khách, hát cho đủ mọi hạng người say mê "tứ đổ tường’’ nghe chơi, giải trí v.v… thì dưới con mắt của các nhà luân lý đạo đức vào thời xa xưa đó là một truyện không tốt, có hại cho tuổi trẻ.
Nguyễn Công Trứ (1778-1858), nhà quân sự, kinh tế và nhà thơ nổi tiếng qua các triều đại Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức, đã kịch liệt phê phán nhân vật chính
Thúy Kiều:
"Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm
Bán mình trong bấy nhiêu năm
Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai
Nghĩ đời mà ngán cho đời".
Sau khi ra đời vào đầu thế kỷ XIX, Truyện Kiều đã là đầu đề cho nhiều công trình nghiên cứu, bình luận và gây nên những cuộc bút chiến cả về phương diện văn học đến luân lý đạo đức và chính trị. Đầu thế kỷ XX, dưới thời Pháp thuộc, cuộc tranh luận về Truyện Kiều càng sôi nổi hơn, quan trọng nhất là những bài phê bình của các nhà yêu nước Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng đã phản đối phong trào cổ xúy Truyện Kiều do học giả, Thượng Thư Phạm Quỳnh đề xướng (1924) qua câu nói nổi danh: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn’’.
Bản Kiều dịch sang chữ quốc ngữ đầu tiên vào năm 1875 của nhà bác học ngôn ngữ Công Giáo Trương Vĩnh Ký đã trở thành phổ thông mà nhiều người say mê đã nghiền ngẫm và học thuộc lòng.
Không chỉ Phạm Quỳnh cổ võ cho việc phát triển chữ quốc ngữ qua truyện Kiều mà học giả Đào Duy Anh trong lời mở đầu Từ điển Truyện Kiều (1974), đã viết:
"Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam, nếu Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói rằng ngôn ngữ Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc... Nguyễn Du sinh quán ở Thăng Long, tổ quán ở Nghệ-Tĩnh, mẫu quán ở Bắc Ninh, đã nhờ những điều kiện ấy mà dựng lên được một ngôn ngữ có thể nói là gồm được đặc sắc của cả ba khu vực quan trọng nhất của của văn hóa nước ta thời trước".
Trước khi đi sâu vào nội dung của thi phẩm độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam, chúng tôi mời quí độc giả cùng tìm hiểu Truyện Kiều được viết vào thời gian nào?
1- Nguồn gốc truyện Kiều
Theo quyển Việt Nam Văn Học Sử của Phạm Thế Ngũ thì học giả Đào Duy Anh đã tìm ra vết tích truyện Kiều trong văn học sử của người Tầu. Gốc gác đầu tiên của Truyện Kiều thực ra xuất phát từ truyện Vương Thúy Kiều trong tập Ngu Sơ Tản Chí do Dư Hoài, một văn gia đời Nhà Minh (1368-1566) viết ra. Theo Dư Hoài thì nhân vật Vương Thúy Kiều là người thật. Nàng có nhan sắc, hát hay, trước lấy một người lái buôn là La Long Vân, sau lấy tướng cướp Từ Hải. Vì muốn trở về quê, Kiều khuyên Từ Hải ra hàng Hồ Tôn Hiến; nhưng sau Từ Hải bị giết, nàng bèn nhẩy xuống sông Tiền đường tự vẫn. Dư Hoài cho rằng vì nàng có tiết nghĩa nên chép thành truyện để lưu lại cho người đời sau.
Đến thời Nhà Thanh (1644-1911) một nhà văn có bút hiệu là Thanh Tâm Tài Nhân dựa vào truyện Vương Thúy Kiều viết thành quyển tiểu thuyết Kim Văn Kiều và thêm vào đoạn cuối Kiều tự tử không chết, đoàn tụ với người tình là Kim Trọng.
Kết cấu của tác phẩm Kim Vân Kiều được miêu tả theo thời gian, trình tự diễn biến của sự kiện và quá trình hành động của nhân vật chính. Tác phẩm kèm nhiều lời bình giảng, giáo huấn đạo lý; bên cạnh đó là việc sử dụng rất nhiều điển tích cố xưa, nhân vật gặp cảnh ngộ vui buồn, éo le đều thường làm thơ, tứ, kệ, hoạ đàn… nhân đó mà bày tỏ tâm trạng và tình cảm của mình khiến cho văn chương trong Kim Vân Kiều càng đậm nét cổ. Nguyễn Du theo quyển tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân viết lại truyện Kiều bằng thơ lục bát, bỏ một số đoạn có vẻ nặng về tình dục làng chơi và sắp xếp tình tiết mạch lạc hơn.
Thanh Tâm Tài Nhân tên thật là Từ Văn Trường, tức Từ Vị, ông còn có một số bút danh khác là Thiện Tri, Thanh đằng, Điền Thủy Nguyệt. Ông học giỏi hiểu biết rộng nhưng lận đận chốn quan trường, bèn làm mặc khách của Hồ Tôn Hiến. Sinh thời đã có lần Thanh Tâm Tài Nhân thảo tờ biểu "Dâng hươu trắng" cho vua nên trở thành nổi tiếng. Ngoài Kim Vân Kiều, ông còn viết bộ kịch Tứ Thanh vi yên gồm bốn vở. Kim Vân Kiều là một bộ tiểu thuyết chương hồi có lối kết cấu truyền thống theo kiểu văn xuôi cổ điển của người Tầu. Sách gồm 20 hồi, trước mỗi hồi đều có phần giới thiệu tóm lược nội dung, lời bình phẩm mà người đời sau thường xem là lời của Kim Thánh Thán. Cuối mỗi hồi đều có câu: muốn biết sự việc thế nào, xin xem hồi sau phân giải…
Nhận định 1
Như vậy vai Kiều, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến trong truyện đầu tiên của Dư Hoài là người thật và các sự kiện xẩy ra cũng có thật. Đến tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân thì câu truyện thật này được phóng tác thêm các vai Thuý Vân, Kim Trọng, Sở Khanh, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Tú Bà và cuộc đời lang bạt của Thuý Kiều, với nhiều tình tiết lãng mạn hơn để hấp dẫn người đọc. Nguyễn Du dựa theo quyển tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân viết truyện Kiều bằng thơ lục bát bằng tiếng Nôm, chữ quốc ngữ thời đó. Từ đấy người ta mới nghĩ truyện Kiều là một truyện tưởng tượng, vì trong cái xã hội đạo đức khắt khe như vậy thì khó có chỗ đứng cho gái giang hồ?
2- Các giả thuyết về sự ra đời của Truyện Kiều
Hiện có hai giả thuyết:
Giả thuyết 1:
Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Hoa (1814-1820). Thuyết này dựa vào sách Đại Nam liệt truyện, quyển 20, tờ 9a có chép: "Nguyễn Du giỏi quốc âm. Đi sứ Tầu về thì có Bắc Hành Thi Tập và truyện Thuý Kiều hành thế’’. Dựa vào đó học giả Pham Quỳnh và sử gia Trần Trọng Kim cho rằng Nguyễn Du nhân đi sứ, đọc được truyện Tầu, về nhà phóng tác truyện Kiều. Thuyết này được nhiều người tin cho tới khi ông Nguyễn Văn Tố (1889-1947), nhà nghiên cứu của Trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội, tìm ra tài liệu khác chứng minh Truyện Kiều ra đời trước thời gian Nguyễn Du đi sứ Tầu.
Giả thuyết 2:
-Ông Nguyễn Văn Tố đã tìm ra sách Kim Văn Kiều Án, (là một bản luận đoán về các nhân vật trong truyện Kiều), của Nguyễn Văn Thắng, một người xấp xỉ đồng thời với Nguyễn Du. Nguyễn Văn Thắng đậu cử nhân năm 1825 lúc 23 tuổi, sau khi Nguyễn Du mất được 3 năm. Trong bài tựa sách Kim Văn Kiều Án, NguyễnVăn Thắng viết:
"Xưa nhà Ngũ Vân Lâu bên Tầu in bản thực lục đã lưu hành khắp chỗ từ trước đến nay. Kịp đến quan Đông Các nước ta phụ diễn ra quốc âm, truyền rộng ở đời, nhiều người được tai nghe, mắt thấy… Chẳng những văn nhân tài tử, mắt nhìn truyện ấy thì tâm thần vui tươi khoan khoái mà đến cả bố cu mẹ đĩ hễ miệng đọc thì cũng khoa chân múa tay. Bấy giờ tôi đương lênh đênh giang hồ dấu bèo trôi dạt, sau khi đọc xong rồi thì lại vô tâm không nghĩ đến. Mùa Đông năm Canh Dần (1830) tôi bị hạ ngục, suốt ngày ngồi ngây không biết làm gì cho khuây khỏa. Nhân thường đọc truyện Kiều Nôm, may cũng lĩnh hội được lời lẽ rồi ngẫm nghĩ về văn chương. Thiết tưởng trong 1575 câu thơ (?), thật là lời văn liền nối, tình tự tính công, dẫu Bằng Quận Công và Long Lĩnh Hầu cũng khó lòng giữ riêng được cái hay mà không san nhường. Như bọn tôi đây, đâu dám tầm chương tích cú mà so sánh được’’ (lời dịch của Hoa Bằng, Kim Văn Kiều án, báo Tri Tân số 85, Mars 1945).
Tựa đề trên cho biết hai sự kiện: -Truyện Kiều sau khi ra đời đã được mọi giới ham chuộng cả ở bên Tầu lẫn ở Việt Nam - Quan Đông Các là chức vụ của Nguyễn Du vào khoảng năm 1806-1809, trước khi ông làm Cai Bạ Quảng Bình và trước khi đi sứ Tầu năm 1813. Nếu sau khi đi sứ về thì Nguyễn Văn Thắng phải viết là Quan Tham Tri Bộ Lễ mới đúng chức vụ của Nguyễn Du vào thời điểm này.
-Hoàng Xuân Hãn có nhắc đến Phạm Quý Thích là người đầu tiên đề thơ về Kiều trên đường vào Kinh. Ông Vũ Thế Khôi cho biết bài “Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường …” thật ra có tên là Thính Đoạn Trường Tân Thanh Hữu Cảm có trong tập Lập Trai Tiên sinh Di Thi Tục Tập, ký hiệu A 2140. Học giả Hoàng Xuân Hãn đoán rằng có thể do Nguyễn Nễ (có tên là Đề và là anh ruột Nguyễn Du) hoặc Đoàn Nguyễn Tuấn (anh vợ Nguyễn Du) cùng đi sứ sang Tầu thời Tây Sơn, khoảng 1792-1793 đã mang sách truyện của người Tầu về Việt Nam.
-Hà Thị Tuệ Thành, tiếp tục công việc của ông Vũ Thế Khôi, tìm thấy bài này trong Lập trai Phạm Tiên sinh Thi tập, ký hiệu A-400 và qua đó xác định được Phạm Quý Thích viết bài thơ này vào năm 1811 (xin xem bài tham luận tại Hội thảo Quốc tế về chữ Nôm, Huế, 31/5 đến 2/6/2006). Truyện Kiều phải được viết trước đó. Học giả Hoàng Xuân Hãn đã cho biết: Nguyễn Lượng bị chết vào khoảng 1807. Vì có sự phê bình của ông ấy nên biết rằng Truyện Kiều được viết vào đầu đời Gia Long hoặc trước đời Gia Long (xin xem tạp chí Văn học, số 3-1997).
-Ngô Đức Thọ thấy Đại Nam Nhất Thống Chí viết Nguyễn Lượng bị chết năm 1807 đúng như Học giả Hoàng Xuân Hãn nói. Liên quan đến Nguyễn Lượng, gần đây Phan Thanh Sơn và Hà Thị Tuệ Thành nhận thấy trong lời bình bằng chữ Hán của ông có bốn chữ “bách chủng hoan ngu”. Chắc chắn ông không dám viết chữ CHỦNG vào thời Nguyễn, vì vào năm 1803 Gia long đã có lệnh cấm dùng chữ CHỦNG, khi viết phải thay bằng chữ THỰC (xin xem tạp chí Văn hóa Nghệ An số 71, 25/2/2006).
-Trương Chính nhận xét rằng trong Truyện Kiều có những câu “nghịch ngôn” như: “Bó thân về với triều đình / Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?” “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”
Những câu này chỉ có thể được sáng tác trước thời Nguyễn. (xin xem tạp chí Văn học số 6 (12/1963)
-Nguyễn Khắc Bảo nhận thấy bản Liễu Văn Đường 1871 còn sót các chữ đáng lẽ phải kiêng dưới thời Nguyễn. “Câu 853: Tuồng chi là giống hôi tanh. Câu 1310: Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa. Câu 2750: Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày. Trong đó chữ Lan là tên mẹ cả của vua Gia Long tức Huy Gia từ phi” (xin xem tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 6 (56) 2000).
Đến nay, hầu như ai cũng thừa nhận: Truyện Kiều được hoàn thành trước tiên; sau đó Nguyễn Thiện theo văn Kiều mà nhuận sắc Hoa tiên, và cuối cùng Nguyễn Huy Hổ theo văn Hoa tiên mà viết Mai đình mộng ký. Tác phẩm sau cùng hoàn thành vào năm 1809.
-Nguyễn Tài Cẩn đã chứng minh rằng Hoa tiên, tác phẩm thứ hai được nhuận sắc trong khoảng mười năm cuối thế kỷ 18. Trong Hoa tiên có bài thơ chữ Hán trong đó có chữ CHỦNG, tên của Gia Long (xin xem báo Văn nghệ, số 22). Đây chính là một lý do để ta tin rằng Truyện Kiều, tác phẩm thứ nhất phải được viết trước việc nhuận sắc Hoa tiên vài năm.
-Thạch Giang lại cho rằng, có thể trong chuyến đi sứ năm 1763, Thám hoa Nguyễn Huy Oánh đã mang Hoa tiên và Kim Vân Kiều truyện từ Trung Quốc về tàng trữ tại Phúc Giang thư viện. Nhờ đó Nguyễn Huy Hổ có điều kiện đọc Hoa tiên, Nguyễn Du do lui tới Phúc Giang thư viện học tập, nấu sử sôi kinh sớm được đọc Kim Vân Kiều truyện để sáng tác Truyện Kiều. Song, điều này thì chắc chắn: ở truyện “Liên Hồ quận quân” trong cuốn “Lan Trì kiến văn lục”, viết vào khoảng 1793-1794 của Vũ Trinh, có câu: “Thúy Kiều gieo mình sông lớn”.
-Nguyễn Huy Hổ theo văn Kiều và văn Hoa tiên mà viết Mai đình Mộng ký, hoàn thành vào năm 1809. Những chứng cứ trên cho phép ta hình dung: Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã vào nước ta vào những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ 18. Nhờ đó Nguyễn Du sớm được đọc và theo đó mà viết Truyện Kiều. Nguyễn Thiện theo văn Kiều mà nhuận sắc Hoa tiên vào mười năm cuối thế kỷ 18.
Như thế Truyện Kiều xong trước việc nhuận sắc Hoa tiên nên phải được viết vào những năm cuối đời Lê đầu đời Tây Sơn, trùng với kết luận của GS Nguyễn Tài Cẩn rút ra được từ việc phát hiện chữ húy thời Lê - Trịnh trong một số bản Kiều Nôm.
2-Bản chính Truyện Kiều nay ở đâu?
Theo Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm và Nhóm Nôm Na gồm: John Balaban, Ngô Thanh Nhàn, Ngô Trung Việt, Vũ Xuân Lương, Lê Văn Cường, Lương Thị Hạnh, Tô Trọng Đức, Ngô Thanh Giang thì Truyện Kiều nào là của Nguyễn Du, vì tác phẩm này chưa từng được in ra, trừ một vài bản in khắc gỗ. Chắc bản nguyên tác đã bị thất lạc và khó có khả năng tìm lại được. Các nhà khảo cứu từ trước đến nay đều cố gắng so sánh, đối chiếu các văn bản có được, cân nhắc từng chữ từng ý với mục đích cuối cùng là tái dựng lên một bản chuẩn, phục vụ cho việc giảng dạy thống nhất trong nhà trường, cũng như phục vụ cho đông đảo bạn đọc. Đó là một công việc hết sức nặng nhọc, nhưng cũng đầy ý nghĩa.
-Xuất xứ tác phẩm
Mặc dù Truyện Kiều được truyền miệng qua nhiều thế hệ của người Việt trên khắp mọi miền đất nước, nhưng ít người biết đến phiên bản chính thức bằng chữ Nôm do chính Nguyễn Du viết còn lưu truyền lại. Trên thực tế, tất cả các tác phẩm Truyện Kiều đã được xuất bản trước đây, trong nước cũng như ngoài nước, không bao gồm phần chữ Nôm, dù vẫn biết đó là phần bản gốc để dịch ra chữ Quốc Ngữ. Ngày nay người ta thấy một vài phiên bản xuất bản gần đây đã đính kèm theo phần tác phẩm bằng chữ Nôm chụp sao lại từ một bản in khắc gỗ từng lưu hành trong quá khứ. Hiện nay có rất nhiều phiên bản Truyện Kiều được lưu hành. 6 trong số những phiên bản chữ Nôm lâu đời nhất nhưng có những điểm khác nhau khiến người ta không khỏi phân vân đặt câu hỏi phiên bản nào chính xác.
Phiên bản năm 1866
Truyện Kiều năm 1866 là một phiên bản của Liễu Văn Đường, được Bảo tàng Khu lưu niệm Nguyễn Du ở Nghệ An tìm thấy. Từ bản phô-tô do Bảo tàng Khu lưu niệm Nguyễn Du gửi tặng, Nguyễn Quảng Tuân, một trong những học giả hàng đầu về chữ Nôm và Truyện Kiều, đã thực hiện một cuộc khảo cứu về phiên âm, khảo dị và chú giải. Tác phẩm do Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 2004. Bản Kiều năm 1866 này bị mất 18 tờ (36 trang), làm thiếu đi 864 câu (mỗi trang 24 câu) trong tổng số 3254 câu. Để bổ khuyết cho 36 trang bị mất, tác giả lấy 36 trang tương ứng từ bản khắc in năm 1871 để độc giả tiện tham khảo.
Phiên bản năm 1870
Truyện Kiều năm 1870 do Lâm Noạ Phu sao chép khi đang làm quan ở bộ Công thời vua Tự Đức. Bản Kiều 1870 này vốn lưu giữ ở Sài Gòn, sau bán ở chợ sách và may mắn một người con trai của ông Đàm Quang Hưng mua lại. Từ bản photo do ông Đàm Quang Hưng gửi tặng, ông Nguyễn Quảng Tuân thực hiện một cuộc khảo cứu về phiên âm, khảo dị và chú giải. Tác phẩm do Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 2003. Phiên bản 1870 có 3260 câu, nhiều hơn 6 câu so với các phiên bản khác.
Phiên bản năm 1871
Truyện Kiều năm 1871 là bản in khắc gỗ của Liễu Văn Đường, đời vua Tự Đức thứ 24, gồm 3254 câu.
Từ bản phô-tô của Thư viện Liên trường Đại học ngôn ngữ Phương Đông ở Paris (Bibiotthèque Interuniversitaire des Langues Orientales), ông Nguyễn Quảng Tuân đã thực hiện một cuộc khảo cứu về phiên âm, khảo dị và chú giải. Tác phẩm do Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 2002.
Phiên bản năm 1872
Truyện Kiều năm 1872 là bản in khắc gỗ của Duy Minh Thị dưới thời vua Tự Đức. Hiện bản Kiều 1872 được lưu giữ một bản tại Thư viện Leiden, Hà Lan (Leiden Library, Holland, index 5803-6) và một bản tại thư viện riêng của gia đình cụ Hoàng Xuân Hãn ở Paris. Từ bản photo lại bản lưu giữ tại thư viện của gia đình cụ Hoàng Xuân Hãn, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, một học giả hàng đầu về chữ Nôm, đã thực hiện một cuộc nghiên cứu về phiên âm, khảo dị và chú giải. Tác phẩm được Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2002. Phiên bản 1872 có 3259 câu, nhiều hơn 5 câu so với các phiên bản khác:1066a Quế trong trăng, Hạnh trên mây.
Phiên bản năm 1874
Truyện kiều năm 1874 là phiên bản do Tăng Hữu Ứng chép tay dưới thời vua Tự Đức. Phiên bản này do Quang Hưng sưu tầm tại Huế. Tiến sĩ Nguyễn Huy Hùng, MD, Texas phiên âm thành phiên bản điện tử năm 2002. Phiên bản 1874 có 3260 câu, nhiều hơn 6 câu so với các phiên bản khác, cụ thể sự khác biệt.
Phiên bản năm 1902
Truyện Kiều năm 1902 là bản in khắc gỗ do Kiều Oánh Mậu chú giải dưới thời vua Thành Thái. Phiên bản này do Nguyễn Thế & Phan Anh Dũng sưu tầm, khảo chú và chế bản Nôm trên cơ sở một phông chữ tự tạo ra. Bản in chữ Nôm được Nhà giáo Nguyễn Đình Thảng hiệu đính. Tác phẩm được Nhà xuất bản Thuận Hoá xuất bản năm 2004. Phiên bản 1902 có 3256 câu, nhiều hơn 2 câu so với các các phiên bản khác.
Nhận định 2
Theo thiển ý của chúng tôi và thực tế cho thấy người ta vẫn chưa tìm ra được bản gốc Truyện Kiều viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Du. Nếu có thì trên đó sẽ có chữ ký và năm viết của tác giả. Thuyết nào cũng chỉ dựa vào các tài liệu có liên quan tới Truyện Kiều để đưa ra giả thuyết Nguyễn Du viết trước hay sau khi đi sứ Tầu. Những câu hỏi được đặt ra là:
-Nếu Nguyễn Du từng giữ chức vụ Đông Các Đại Học Sĩ và truyện Kiều của ông được vua chúa say mê thì tại sao bản chính truyện đó lại không được tồn trữ trong kho tàng văn học dưới triều Nguyễn?
-Phải chăng vì hai câu thơ: "Đàn ông chớ kể Phan Trần; Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều’’ mà nguyên tác truyện Kiều của Nguyễn Du không có chỗ đứng trong kho tàng văn học dưới các triều Nguyễn?
-Phải chăng vì quan niệm sai lầm của giới sĩ phu các triều đại vẫn đề cao chữ Hán của Tầu mà coi rẻ chữ Nôm của dân tộc qua câu: "nôm na là cha mách qué" mà người ta không coi trọng tác phẩm viết bằng tiếng Nôm của Nguyễn Du?
-Phải chăng vì giai thoại đồn rằng, sau khi đọc Truyện Kiều, vua Tự Đức sai tìm Nguyễn Du "để đánh vài roi", vì tội khi quân khi viết về Từ Hải: "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!", nên bản chính truyện Kiều không được lưu giữ trong kho tàng văn học dưới các triều Nguyễn?
----------------------
Tài liệu tham khảo:
-Việt Nam Văn Học Sử Giản Lược Tân Biên của Phạm Thế Ngũ
-Văn Học Việt Nam và Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển của Dương Quảng Hàm
-Việt Nam Danh Nhân Từ Điển của Nguyễn Huyền Anh
-Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim
-http://vi.wikipedia.org/wiki/Truy %E1%BB%87n_Ki%E1%BB%81u
-http://www.vtc.vn/vanhoa/thi-hao-nguyen-du-viet-truyen-kieu-khi-nao/6475/index.htm
-http://www.nomfoundation.org/vnpf/nfkieu.php
-http://vietnamnet.vn/vanhoa/vandekhac/2004/12/358218/
-http://www.baodatviet.vn/Home/Mot-Viet-kieu-dich-thanh-cong-Truyen-Kieu-Ba-Lan/20089/15214.datviet
-www.nomfoundation.org/Conf2006/6_phien_ban_Kieu.pdf
-http://vietbao.vn/Tet/Hai-loai-nguoi-trong-Truyen-Kieu/75015682/365/
BY: HOÀNG THẠCH
I- Lược truyện
Nguyễn Du mở đầu câu truyện bằng những vần thơ đề cao thuyết “Tài Mệnh’’ như một định luật có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của mỗi người.
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau...
Kế đến, các vai chính trong truyện như Kim Trọng, Thúy Kiều và Thuý Vân lần lượt xuất hiện trong một một lễ hội theo phong tục tập quán có từ thời xưa. Sau những ngày vui nhộn đón xuân và mừng Tết là thời gian tỏ lòng hiếu thảo đối với những người thân yêu đã từ biệt cõi trần qua việc đi dạo trên cỏ non (đạp thanh) và sửa sang các ngôi mộ (tảo mộ) vào cuối mùa Xuân. Trong ngày lễ người ta thấy xuất hiện đủ mọi lứa tuổi. Ai cũng chưng diện quần áo mới. Nhân dịp này trai tài gái sắc mong tìm được người bạn đời qua những cái nhìn tình tứ, nụ cười tươi và trao cho nhau những lời nói ngọt ngào, làm thế nào để mong lọt vào cặp mắt của người đối diện. Từ lễ hội, nhiều tiếng sét ái tình đã đưa các cô thiếu nữ và các chàng trai trẻ tới chỗ làm quen, yêu nhau và thề hứa hẹn sẽ lấy nhau. Trong lễ hội tưng bừng náo nhiệt đó, Thuý Vân và Thuý Kiều, hai thiếu nữ vẻ đẹp tuyệt vời đã xuất hiện như hai tiên nữ giáng trần, làm cho Kim Trọng, một văn nhân đa cảm phảI say mê đắm đuối. Kim Trọng yêu cái đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Thuý Kiều, còn nàng thì yêu cái hào hoa phong nhã của một nho sinh thông minh tuấn tú. Họ yêu nhau từ cái nhìn ban đầu, vụng trộm hẹn hò, đàn hát cho nhau nghe, trao vật kỷ niệm và hứa sẽ thành duyên vợ chồng.
Nhưng cuộc đời không diễn ra như tài tử và giai nhân hy vọng. Kim Trọng bất ngờ được tin chú chết ở miền xa, phải từ giã ra đi. Cùng thời gian đó, Vương ông, cha của Thuý Kiều bị thằng bán tơ vu oan cáo vạ có thể bị bắt, đưa ra tòa và bị tù đày. Để báo hiếu và có tiền chuộc cha, Kiều đành phải bán mình cho Mã Giám Sinh và theo hắn về Lâm-Chi. Mã Giám Sinh không mua Kiều làm vợ mà bán Kiều cho một mụ chủ chứa gái làng chơi là Tú Bà. Kiều xuất thân từ một gia đình nho phong lễ giáo nay bị lừa vào nghề mãi dâm. Thật nhục nhã cho thân phận của một cô gái nhà lành! Nàng toan tự tử. Tú Bà sợ mất con mồi ngon và số tiền lớn đã bỏ ra mua nàng về bèn tìm mọi cách an ủi Kiều và cho ra nghỉ ngơi ở lầu Ngưng Bích. Mụ ta cũng giả vờ hứa sẽ tìm người xứng đáng để gả nàng. Nhưng bên trong thì mụ lập mưu gài Kiều vào bẫy qua Sở Khanh, một ngưởi giả dạng ra mặt nghĩa hiệp muốn cứu giúp Kiều và xúi nàng trốn khỏi lầu xanh. Kiều ngây thơ tưởng được ân nhân cứu mạng bèn tin theo. Nhưng hỡi ôi! Nàng bị rơi vào cạm bẫy và bị Tú Bà bắt lại, ép phải tiếp khách làng chơi.
Trong số những khách hào hoa có Thúc Sinh cảm thông số phận bất hạnh của Kiều, quyết định lấy nàng làm vợ thứ. Ăn vụng sợ có ngày bị bắt, Thúc Sinh nghe Kiều về thú tội với vợ cả. Hoạn Thư nổi cơn ghen, bắt Kiều về nhà hành hạ. Chịu không nổi thân phận hai gái chung một chồng và kiếp làm vợ lẽ, Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư đến ở chùa với sư bà Giác Duyên. Sư bà lại gửi nàng ở nhờ nhà một người đàn bà mộ đạo thường đến lễ chùa là Bạc Bà. Không ngờ Bạc Bà lại mánh mung, giả tổ chức lễ cưới Kiều với cháu mình là Bạc Hạnh, rồi người này lại bán Kiều cho Tú Bà chủ thanh-lâu ở Châu Thai. Thế là Kiều lại bị đọa đầu ở chốn lầu xanh lần hai. Nhưng may mắn thay, tại đây Kiều gặp tướng giặc Từ Hải lấy làm vợ. Dựa vào thế của Từ Hải, Kiều có điều kiện đền đáp ân nghĩa xưa và trả thù oán cũ. Nhưng không lâu, Từ Hải ra hàng do sự yêu cầu của Kiều với hy vọng sẽ được sống hạnh phúc với nàng. Từ Hải bị tổng đốc Hồ Tôn Hiến lừa và giết chết. Vừa bị mất người yêu, vừa bị Hồ Tôn Hiến ép hầu rượu trong tiệc mừng chiến thắng; nhưng rồi sợ mang tai tiếng ham rượu và gái trước triều đình và dân chúng, nên gả Kiều cho một thổ quan. Kiều chán cho thân phận ba chìm bẩy nổi và cuộc đời oan trái của mình, bèn nhẩy xuống sông Tiền đường tự tử. Nhưng số nàng vẫn chưa chết. Sư bà Giác Duyên đang trên đường du ngoạn nghe sự tình liền nhờ ngư ông thả lưới tìm xác Kiều và may mắn vớt được xác nàng đưa lên thuyền lúc nàng còn đang hôn mê. Sau đó Kiều tỉnh lại và được Giác Duyên đem về chùa.
Kim Trọng sau khi tham dự tang chú trở về tìm Kiều thì như tiếng sét đánh ngang tai, Kiều đã bán mình chuộc cha, gia đình Kiều lâm cảnh nghèo nàn khó khăn. Do lời khuyên của Kiều trước khi ra đi, Kim Trọng kết hôn với cô em Thuý Vân. Sau đó Kim Trọng và Vương Quan đều thi đỗ ra làm quan và quyết chí đi tìm Kiều. May mắn thay, hai người gặp được Giác Duyên và sư bà dẫn đến chỗ Kiều đang ở. Kim Trọng gặp lại Kiều trong hoàn cảnh tình duyên ngang trái, thân phận phũ phàng. Nàng cảm thấy không còn trinh tiết và xứng đáng là người vợ của Kim Trọng, nên chỉ muốn làm người bạn thôi. Do lời khuyên nhủ của gia đình hãy quên đi quãng đời quá khứ, Kim Trọng và Thuý Kiều vui vẻ nối lại tình xưa nghĩa cũ.
Để kết luận, tác giả nhắc lại thuyết tài mệnh đối nhau và khuyên người ta giữ lấy cái tâm.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
II- Nội dung truyện Kiều
Truyện Kiều có 3254 câu thơ. Vì giới hạn của bài viết, chúng tôi chỉ trích dẫn những đoạn quan trọng và có ý nghĩa nhất.
Toàn bộ thơ truyện Kiều quí độc giả có thể đọc tại các Websites:
www.vietshare.com/vanhoc/kieu.asp
Truyện Kiều là một tuyệt tác thi văn, nhưng hơi khó hiểu vì Nguyễn Du viết bằng chữ Nôm và dựa vào nhiều điển tích của người Tầu. Do đó, có thể nói chỉ có những người rành chữ Nôm mới hiểu một cách thâm thuý toàn bộ nội dung và mục đích của truyện Kiều. Những người không rành chữ Nôm có thể đọc và hiểu được câu truyện qua các bản dịch sang chữ quốc ngữ ngày nay. Dù vậy, mức độ thông hiểu câu truyện vẫn có thể còn bị giới hạn, nếu không có sự giải thích các chữ khó và các điển tích.
Như đã nói, bản chính của truyện Kiều bị thất lạc, các bản sao chép sau này có nhiều chữ và cách giải thích khác nhau do phiên dịch chữ Nôm ra chữ quốc ngữ. Ngoài ra, truyện Kiều được sao chép lại dưới thời Quân chủ, các tác giả lại phải dùng từ ngữ khác thay thế cho các chữ mang tên của vua chúa và hoàng tộc mà người ta gọi là “kỵ huý.’’.
Vì lý do nêu trên, khi chọn một văn bản Kiều cho chủ đề văn hóa, chúng tôi cũng chỉ có thể dựa vào một trong những bản sao chép lại bằng chữ quốc ngữ hiện nay và dĩ nhiên nó cũng có những chữ khác biệt với các bản khác, mặc dù cốt truyện không có gì thay đổi.
Để quảng bá cho quần chúng một kiệt tác thơ văn của dân Việt, đặc biệt tuổi trẻ Việt Nam ở ngoại quốc có cơ hội đọc và hiểu truyện Kiều, chúng tôi xin được phép trích dẫn một số câu thơ từ sách vở và các websites đã phổ biến trên mạng lưới toàn cầu (Internet).
Mở đầu:
1. Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
5. Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
Gia đình Kiều:
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
10. Bốn phương phẳng lặng, hai Kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bực trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.
Nhan sắc Thuý Vân và Thuý Kiều
15. Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Một người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
20. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
25. Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tư trời,
30. Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân.
35. Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Chú giải và điển tích
Câu 1: Trăm năm
Trăm năm: Thời gian một đời người ta ở trần thế được biết qua câu “Nhân sinh bách tuế vi kỳ’’ (Người ta sống lâu chừng trăm tuổi).
Chữ trăm năm ở câu này có thể thay bằng chữ “xưa nay’’, vì chỉ ngụ ý nói bao quát mà thôi chứ không phải là hạn định 100 năm như mấy chỗ khác trong chuyện.
Theo phong tục, người Việt thường coi đời người kéo dài khoảng 100 tuổi, vì số người sống trên 100 tuổi rất ít. Các câu chúc nhau mà người ta quen nghe trong dịp Tết hay lễ thành hôn là: chúc ông bà sống lâu trăm tuổi; chúc anh chị trăm năm hạnh phúc…
Câu 2: Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Tài là tài năng của một người và Mệnh là số phận của mỗi người theo quan niệm Tạo Hóa đã an bài.
Câu 3: Trải qua một cuộc bể dâu
Bể dâu có nghĩa là biển cả và bãi dâu, dịch nghĩa từ trong một câu của Thần Tiên Truyện. Ma Cô bảo Vương Phương Bình: ”Ta đã ba lần thấy bể khơi biến thành ruộng dâu” (tam thập niên vi nhất, thương hải biến vi tang điền) nghĩa là cứ ba mươi năm một lần vũ trụ lại chuyển hóa, biển cả biến đổi thành nương dâu, nương dâu biến thành biển cả. Biển cả còn biến thành ruộng đất huống chi thân phận của con người.
Ca dao cũng có câu: sông có khúc, người có lúc. Chu kỳ biến đổi của con người mỗi thời kỳ là 30 năm. Chính vì ý nghĩa này có một số tác giả cho rằng Nguyễn Du viết truyện Kiều vào năm 30 tuổi (1765+30=1795) có nghĩa trước khi đi sứ Tầu 1813.
Câu 5: Bỉ sắc tư phong
Bỉ: cái kia trái với tư: (thử) cái này - sắc: dáng điệu, phong: được lợi: có nghĩa bù qua đắp lại hoặc cái kia kém thì cái này hơn, không ai được hoàn toàn cả.
Câu 6: Má hồng hay má đào ám chỉ đôi má đỏ hồng hồng của phụ nữ. Trong ca dao cũng có câu:
Hỡi cô da đỏ má hồng,
Cô đi theo chồng cô bỏ xứ cha
Hai câu này ý nói người đẹp đến nỗi ông Trời (Trời xanh theo ý nghĩa Tạo Hóa ở trên bầu trời xanh) cũng phải ghen. Như vậy người phụ nữ mà bị ghen thì sẽ phải khốn khổ vì tài sắc của mình.
Câu 7: Cảo thơm: do chữ phương cảo, nghĩa là quyển sách hay. Toàn câu có nghĩa mở quyển sách hay đọc trước đèn.
Câu 8: Phong tình: những chuyện ái tình của trai gái được chép trong sách. Sử xanh: Thời xưa, khi chưa có giấy, người ta chép sử bằng cách khắc chữ vào những thanh trúc màu xanh, nên còn gọi là thanh sử.
Câu 9: Gia-tĩnh: Niên hiệu vua Thế Tông (1522-1566), Triều Minh (1366-1644) là một triều đại Quân chủ của Trung Hoa, thời kỳ yên bình.
Câu 10: Hai kinh: Bắc Kinh và Nam Kinh của Trung Hoa.
Câu 11: Viên ngoại: Một chức quan giữ việc sổ sách tại các bộ, đặt ra từ thời Lục-triều. Đây là chức quan ngoại ngạch mà người giàu có thể bỏ tiền ra mua để có thêm danh giá. Về sau, Viên ngoại dần dần trở thành một cách nói, không ám chỉ chức vụ công quyền gì cả (hư hàm). Chữ Viên ngoại ở đây được dùng theo nghĩa này nói về gia đình Thuý Kiều không nghèo mà cũng không sang, thuộc giới trọng Nho, trung bình.
Câu 14: Chữ: Theo lễ nghi Trung Quốc xưa, người nào cũng có “danh” là tên chính, và “tự” là tên chữ. “Danh” đặt từ khi sinh ra, còn “tự” thì đến khi hai mươi tuổi mới dựa theo “danh” mà đặt ra. Có thể hiểu như danh hiệu, tước hiệu hay bút hiệu.
Nho gia: những người học và thực hành các Kinh sách Nho giáo của Khổng Tử được gọi là nhà Nho và gia đình gọi là Nho gia.
Câu 15. Tố Nga: Tố là trắng, Nga là người con gái đẹp giống chị Hằng hay Hằng Nga trên cung trăng. Theo tích xưa, thời nhà Đường, ông Vũ Tám Tư có nàng hầu Tố Nga nhan sắc đẹp lộng lẫy. Một hôm Định Lương Công đến thăm, Vũ Tám Tư gọi Tố Nga ra tiếp khách nhưng không thấy nàng đâu. Tám Tư đi tìm thì ngửi thấy mùi hương thơm xuất phát từ gốc cây. Ông tới đó gặp Tố Nga đang lẩn trốn. Hỏi tại sao thì nàng nói mình là con quí yêu của mặt trăng được Thượng Đế sai xuống chỉ để hầu hạ chàng. Ông Lương Công là bậc chính nhân đương thời nàng không dám giáp mặt.
Câu 17: Mai cốt cách: Mai là cây, cành hoa mai, Cốt cách là bộ xương, hình dáng con người. Nguyễn Du so sánh Thuý Kiều và Thuý Vân đẹp duyên dáng thanh tú như cành mai. Tuyết tinh thần: tinh thần trong trắng như tuyết
Mai là hình ảnh của sự trong trắng, tinh khiết, là ẩn dụ của một đức tính thanh cao. Mai với tuyết mà ở bên nhau thì không ai có thể bình phẩm xem cái đẹp nào tinh khiết và cao quý hơn cái nào. Cổ nhân phong tặng cho hoa mai danh hiệu Bách hoa khôi - ví như người đỗ đầu khoa thi, người con trai ưu tú nhất hoặc con gái xinh đẹp nhất.
Câu 20: Khuôn trăng đầy đặn: mặt trăng tròn hay còn gọi là vành trăng. Ở đây Nguyễn Du so sánh mặt Thuý Vân đầy dặn, tròn trĩnh, xinh xắn dịu dàng như mặt trăng, một biểu tượng của vẻ đẹp hiền dịu và phúc hậu dựa theo kinh nghiệm sống và qua nghệ thuật coi tướng.
Nét ngài, mày ngài:
Hiện nay có các giả thuyết nói về nét ngài, mày ngài như sau:
Giả thuyết 1: Nét ngài, mày ngài là lông mày ốm và uốn cong hình bán nguyệt như râu con ngài. Mày ngài dịch từ chữ Nga Mi của Tàu. Con Ngài (tức thứ bướm cắn kén tằm chui ra) ở đầu có 2 cái râu nhỏ, dài và cong; người ta ví cái lông mày dài, thanh, cong bán nguyệt của người con gái đẹp với râu con ngài nên gọi là Nga Mi hay mày ngài. Nét ngài nở nang, ý nói lông mày của Thúy Vân cong cong, dài, nhưng nở nang, tức là lông mày hơi thô, to bản. Mặt dày dặn phúc hậu thì phải có lông mày như thế mới cân xứng. (Chú giải của Vân Hạc).
Các tác giả của thuyết này có: Nguyễn Quảng Tuân, Phạm Kim Chi, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Đào Duy Anh, xuất phát từ câu văn trong sách Tướng thư: “Diện như mãn nguyệt mi nhược ngọa tàm’’: mặt như mặt trăng tròn mà lông mi như con tằm nằm ngang. Đây nói cái tướng phúc hậu của cô Vân.
Giả thuyết 2:
Trương Vĩnh Ký từ lâu cũng đã từng phiên dịch Khuôn lưng đầy đặn nét người nở nang (1875).
Theo tác giả Dương Quang Minh viết trên báo Tiền Phong năm 2006 thì nhiều tác giả trong nước và nước ngoài từng cho rằng: ”Không sành tiếng Nghệ thì chưa hiểu hết cái hay của Truyện Kiều’’.
Ví như đọc câu thơ ”Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang’’ rồi giải thích ”nét ngài nở nang” là tả lông mày nàng Thuý Vân, thì rõ là buồn cười. ”Nét ngài” ở đây, phương ngữ xứ Nghệ chỉ vóc người. Các cụ xứ Nghệ thường coi những cô gái có vóc người nở nang mới ích chồng lợi con (chứ không phải cô gái chân dài). Giải thích ”ngài” là lông mày chỉ đúng với câu thơ ”Râu hùm, hàm én, mày ngài” tả những nét oai trên khuôn mặt Từ Hải hoặc các cô gái có lông mày to và đậm.
Ở đây tác giả đã ví vẻ đẹp của Thúy vân như những gì đẹp đẽ nhất, đặc sắc nhất, thiêng liêng nhất của tinh hoa đất trời: hoa, trăng, ngọc, mây, tuyết.Tất cả đều lột tả vẻ đẹp của một người phụ nữ. ”Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”. Tác giả đã miêu tả khôn mặt của Thúy Vân như khuôn trăng đầy đặn, vừa tròn vừa sáng. Ý nói khuôn mặt của Thúy Vân rất đẹp. Nhưng tác giả lại thêm vào câu thơ một cụm từ ”nét ngài nở nang”, thì ”nét ngài” có nghĩa là mày của Vân rất đậm. Nhưng đối với một thiên tài về văn học như đại thi hào Nguyễn Du thì không thể lý tả như vậy được bởi ông đã từng miêu tả Từ Hải: râu hùm, hàm ém, mày ngài.
Vậy ”nét ngài” ở đây ý chỉ điều gì? Chúng ta được biết quê của Nguyễn Du là ở Hà Tĩnh mà người nơi đây thì lại có câu: ”Tốt con ngài hơn dài quần áo”, ”con ngài” ở đây nghĩa là con người. Vậy ”nét ngài” nghĩa là nét người. ”Nét ngài nở nang” ý nói nét người của Vân đang căng tràn sức sống. Nếu hiểu theo nghĩa này thì nghe có vẻ hợp lý hơn.
Ý kiến của chúng tôi
1-Ngoạ tằm: Tằm là một loại con sâu; tọa là nằm. Ngoạ tằm có nghĩa con tằm nằm (Nga My). Nhưng theo khoa tướng số thì ngọa tằm lại là bắp thịt nhỏ nằm dưới mi mắt. Người phụ nữ có ngọa tằm nổi cao có nghĩa sẽ có nhiều con; người miền Bắc thường gọi là “mắn con’’. Theo phong tục xưa, người phụ nữ mà không sinh được con nối dòng cũng bị liệt vào hạng bất hiếu.
Cổ nhân có nêu lên ba điều bất hiếu là:
-Gia bần thân lão, bất vị lộc sĩ. (Cha mẹ già, nhà nghèo mà không chịu ra làm quan để lấy lộc nuôi dưỡng).
-A ý khúc tùng, hãm thân bất nghĩa. (Dựa theo ý muốn của cha mẹ để làm điều bậy, tức là hãm cho mẹ vào điều bất nghĩa.)
-Bất thú, vô tử, tuyệt tiên tổ tự. (Không cưới vợ, không có con, làm dứt nòi giống tổ tiên.)
Điều thứ ba không con nối dòng, theo thầy Mạnh Kha thì là điều bất hiếu lớn nhất. (Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại). Như vậy, khi coi tướng phụ nữ không mang tội bất hiếu, các cụ phải chọn những người có thân hình “ích phu, lợi tử’’ và Thuý Vân là điển hình của mẫu người đẹp về đủ mọi phương diện.
Theo khoa tướng số thì người phụ nữ sinh và nuôi con con tốt là người có thân hình đầy đặn, ngoạ tằm nổi, ngực đầy có nghĩa cặp vú nở, có nhiều sữa nuôi con. Cái nhìn này còn thể hiện qua câu:“Gái một con trông mòn con mắt’’ có nghĩa khi người phụ nữ sinh đẻ lần đầu thì thân hình nẩy nở toàn diện trông mới đẹp là vậy.
Như thế, nét ngài nở nang có thể mang ý nghĩa này. Thời xưa sữa mẹ là nguồn mạch nuôi con tốt và cần thiết nhất, ít ai nuôi con bằng sữa súc vật. Người gầy ốm tong teo thì không có nhiều sữa và người ta phải mướn vú nuôi là vậy.
Ngoài ra, theo truyền tụng thì Dương Quí Phi vợ vua Đường Huyền Tông là một trong “tứ đại mỹ nhân’’ của Tầu lại là một thiếu nữ mập mạp. Thế mà nhà vua say đắm đến độ suýt mất ngai vàng. Do đó cái nhìn thẩm mỹ của người xưa có khác ngày nay. Nếu đánh giá cái đẹp của phụ nữ theo cách nhìn những người kiểu mẫu đẹp, cao, ốm, đi giống con mèo như ngày nay thì có thể không hợp với cái đẹp theo cách nhìn của các cụ thời xưa.
2-Về khác biệt tiếng địa phương:
Tác giả Dương Quang Minh nói ”Không sành tiếng Nghệ thì chưa hiểu hết cái hay của Truyện Kiều, nét ngài là nét người…’’.
Ý kiến này cũng có lý. Chúng tôi xin đưa ra bằng chứng để có thêm yếu tố về ngôn ngữ bất đồng.
Trong tác phẩm Những Trang Sử Đẫm Mồ Hôi của Họ Cholon Việt Nam của giáo sư Nguyễn Văn Hai có ghi lại lời kể của Linh mục Bùi Văn Nho, Cha sở Nhà Thờ Ngã Sáu Chợ Lớn như sau:
-Ngôn ngữ bất đồng (trang 103-106)
Đã nói về Trụ-sở Hà Nội nghĩa là sang đến câu chuyện di cư của các giáo hữu Bắc và Nam, tất nhiên là không thể quên được một câu chuyện xẩy ra liên hệ đến tôi khi cuộc di cư bắt đầu (các Linh mục và giáo hữu Bắc vào Nam và vào Cholon). Câu chuyện rất nhỏ mọn, nhưng không kém phần hào hứng và khó nhọc cho nhiều người.
Năm ấy (1954, sáng 31 tháng 7 DL.) bửng tưng 5 giờ sáng, Nhà thờ vừa đổ chông nhật-một, tôi cũng vừa mở cửa nhà Cha sở, tôi nhận thấy từ xa đến, các vị mặc áo Dòng hàng ngũ đàng hoàng. Tôi tự hỏi: “Các Thầy Chủng viện hôm nay đi dạo đâu mà sớm thế?’’ Nhưng khi đến, thì không phải là Đại Chủng sinh song là một Vị Linh mục Đại diện giới thiệu rằng:
-Chúng con đây là các Linh mục (50 vị) di cư vào Nam; khi đêm các tàu bay đưa chúng con từ Bắc vào và đến trọ tại một trường tiểu học gần đây (Trường Hùng Vương bây giờ). Chúng con có tất cả 50 Linh mục và 2.000 giáo hữu cùng đồng trọ tại trường tiểu học ấy (đây là chuyến bay đầu tiên đưa Di cư ở Bắc vào Nam đêm 30 tháng 7 DL. 1954). Chúng con đến xin phép dâng Thánh lễ.
Tôi đáp:
Hân hạnh tiếp đón các Cha và đồng bào, nhưng Nhà thờ chỉ có 3 miếng Đá-thánh thôi. Vậy xin các Cha cứ tự-nhiên và tự-tiện thong-thả.
Nói thế, tôi gọi chú từ lo dọn các Bàn thờ, phần tôi lo dâng Thánh lễ Họ là 5g30.
Sau khi tôi dâng Thánh-lễ xong cũng là hơn 6g. mà không thấy Cha nào dâng Thánh-lễ. Các Cha cứ đi bách bộ chung quanh Nhà-thờ đọc Kinh Nguyện hay lần chuỗi... Tôi đến tiếp chuyện một Cha (khi ấy là Cha Già Chất, xin phép nói tên Cha ra đây để nhớ kỷ-niệm chuyện gặp-gỡ nầy) và hỏi:
Sao các Cha không dâng Thánh-lễ? Ở đây chỉ có 3 miếng Đá-thánh nghĩa là có 3 Bàn-thở thôi mà các Cha có 50 Cha e trễ lắm!
Cha Chất đáp:
-Chúng con chưa dám vì Cha xứ bảo “thong thả’’.
Nghe vậy tôi liền nghĩ, nên nói:
-“Thong thả’’ ở Nam nghĩa là tự do, libertas (tôi nói thêm tiếng La-ngữ libertas cho rõ nghĩa)
Cha Già Chất đáp:
-“Thong thả’’ ở Bắc có nghĩa là chờ, không gấp, lente (Cha cũng lập lại thêm La-ngữ lente)
Đấy, vỡ lẽ: ngôn ngữ bất đồng.
Bấy giờ các Cha mới thay phiên nhau mà dâng Thánh-lễ.
Nơi nhà Cha sở tôi lo dọn bữa ăn sáng để sau khi dâng Thánh-lễ các Cha được lót lòng cho vững bụng. Trong lúc ăn sáng truyện-trò với nhau, mới phát giác ra câu chuyện rắc rối. Xin nói lại là hôm ấy không những có 50 Linh-mục mà còn có 2.000 Giáo-hữu Bắc di-cư, sáng hôm ấy cũng có một nhóm đến Nhà-thờ dự Thánh lễ. Họ thấy các Cha Bắc của họ cứ đi chung quanh Nhà thờ mà không dâng Thánh lễ. Họ hỏi các Cha về lý do thì họ được trả lời rằng: “Cha xứ bảo thong thả’’. Họ bắt đầu tỏ vẻ bất mãn.
Trong buổi ăn sáng hôm ấy bao nhiêu sự truyện-trò đều quay quẩn tiếng “thong thả’’, nói nói, cười cười, vui vẻ, rồi chia tay.
Nhưng cái chuyện “thong thả’’ ấy nào ngờ lại loan cùng khắp các Trại Di cư (từ hôm ấy và mấy hôm sau, ngày nào cũng có chuyến bay đưa đồng bào từ Bắc vào Nam nhân số có đến 30.000 người và được đưa vào trọ ở các trường tiểu học Cholon, Xóm Củi và Vĩnh Hội, Xóm Chiếu vì lúc ấy là bãi trường), họ không hiểu về ý lành mà lại hiểu về ý bất hợp tác, người ta đồn rằng:
“Cha xứ Cholon Ngã Sáu không thích di cư, Cha bài bác bằng cách lần-lựa, làm khó dễ cho các Cha Bắc di cư, không cho các Cha của mình dâng Thánh lễ. Đến xin phép thì Cha xứ cứ bảo “thong thả’’.
Khi ấy mới tá hỏa ra và Cha Phạm Ngọc Biểu là Cha mà Đức Cha Hà Nội gửi vào để lo xây cất trại cho các chủng sinh trọ tại đất Nhà thờ Jeanne D’ Arc, phải thất công mấy hôm đi đến tất cả các Trại di cư để đính chính rằng:
“Cha xứ Cholon Ngã Sáu không bài bác di cư đâu! Cha còn cho Chủng viện Hà Nội tá túc trong đất Nhà thờ. Chính tôi đây được Đức Cha Hà Nội đặc cử lo chuyện cất trại nầy’’.
Khi đọc câu chuyện kể trên, cá nhân tôi, người viết bài này cũng phân vân bỡ ngỡ và như một số người miền Nam khác đều hiểu theo ý nghĩa người Bắc thong thả là từ từ, chậm chậm, chờ v.v.... Nhưng khi tra Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức chúng tôi được biết thêm thong thả còn có nghĩa: thư thả, rảnh rang, ở không, tự nhiên, tự do, tự ý mình... ví dụ: chỗ đó vô ra thong thả...
Như vậy chữ ngài là con tằm hay thân người, chữ nào đúng thì chỉ có nước mời cố thi hào Nguyễn Du sống lại giải nghĩa mới chính xác được.
Hiện nay quan niệm con ngài ám chỉ con tằm hay con người vẫn còn trong giai đoạn giả thuyết, không ai có thể quả quyết thuyết nào đúng.
Câu 21: “Hoa cười ngọc thốt đoan trang”.
Thốt: Tiếng cổ có nghĩa là nói. Hoa cười, ngọc thốt là cười tươi như hoa, nói dịu dàng, quí hóa như ngọc.
Câu 22: “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Ý so sánh tóc của Thúy vân mềm đẹp và óng ả hơn cả mây. Da của Thúy Vân trắng trẻo mịn màng hơn cả tuyết.
Câu 25: Làn Thu thủy: Nước mùa thu, nét Xuân sơn: Núi mùa xuân. Câu nói này ví mắt Kiều đen sáng long lanh như làn nước ao mùa thu, lông mày đen đẹp như núi mùa xuân.
Câu 27: Nghiêng nước nghiêng thành
Câu này rút từ bài của Lý Diên Niên, đời Hán ca ngợi nhan sắc của phụ nữ đẹp, có câu:
Nhất cố khuynh nhân thành
Tái cố khuynh nhân quốc
Nghĩa là: Quay lại nhìn một lần thì làm nghiêng thành người. Quay lại nhìn lần nữa thì làm nghiêng nước người. Do đó, người sau thường dùng chữ nghiêng nước (khuynh quốc), nghiêng thành (khuynh thành) để chỉ sắc đẹp phi thường của người phụ nữ. Hai chữ một hai trong câu này giải thích nghĩa các chữ nhất cố, tái cố ở trên.
Sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành đã đi vào sử sách mà người Tầu quen gọi là “Tứ đại mỹ nhân’’ (4 người phụ nữ đẹp cao sang nhất) gồm: Tây Thi, Chiêu Quân, Điêu Thuyền và Dương Quý Phi. Bốn người đẹp này nhờ nhan sắc tuyệt vời đã can dự vào việc chính trị và khuynh đảo các vua chúa thời phong kiến. Vua Ngô Phù Sai vì say mê sắc đẹp “chim sa cá lặn’’ của Tây Thi, một nữ tình báo nằm vùng của Câu Tiễn, mà bị mất nước về tay Câu Tiễn nước Việt.
Câu 28: Câu này có nghĩa là về “sắc” thì chỉ có một mình Kiều là nhất, về “tài” thì họa may ra còn có người thứ hai.
Câu 31: Cung, thương: Hai âm đứng đầu ngũ âm trong cung bậc nhạc cổ của Trung Quốc: Cung, thương, giốc, truỷ, vũ. Lầu bậc: Làu thông cung bậc.
Câu 32: Hồ cầm: Một loại đàn tỳ bà. Hồ cầm một trương: Một cây đàn hồ cầm. Hồ cầm xuất phát tử điển tích người đẹp tuyệt thế Chiêu Quân bị vua nhà Hán thua trận phải cống nàng sang đất Hồ (Hung Nô). Khi qua Nhạn Môn Quan, cửa ải cuối cùng trước khi từ giã quê hương để sang xứ người, Chiêu Quân đã cảm tác nhiều bài thơ rất cảm động. Tiếng đàn của Chiêu Quân vang lên khi từ biệt quê hương ở Nhạn Môn Quan đã trở thành điển tích Hồ cầm.
Câu 34: Một thiên Bạc mệnh: Bạc là trắng, Mệnh là thân phận, có nghĩa số mệnh bạc bẽo, mỏng manh. Thiên bạc mệnh là bản đàn do Thuý Kiều sáng tác. “Bạc mệnh” nghĩa là. Não nhân: Làm cho người ta nghe mà não lòng.
Câu 35: Hồng quần: Cái quần màu hồng, hai chữ này được dùng để chỉ nữ giới.
Câu 36: Cập kê: Cập là đạt tới, kê là cài trâm. Đến tuổi cài trâm. Theo kinh Lễ của Khổng Tử khi đến tuổi 15 thì con gái cài trâm và búi tóc để chứng tỏ mình có thể lấy chồng.
Tuổi kết hôn là tuổi nào thì còn tùy vào các qui định của mỗi triều đại cai trị Việt Nam. Tục ngữ có câu: “Gái thập tam, nam thập lục’’ có nghĩa về phương diện tình dục, cưới hỏi thì người con gái có thể bắt đầu ở tuổi 13 và trai 16.
Quốc triều Hình luật thời nhà Lê và Hoàng Việt luật lệ thời Pháp không qui định tuổi kết hôn, tuy nhiên, theo “Hồng Đức hôn lễ giá nghi” của nhà Lê ghi nhận tuổi kết hôn: trai 18, gái 16.
Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật hay Dân luật Trung thì tuổi tối thiểu để kết hôn: trai 18, gái 15. Trường hợp đặc biệt có thể xin miễn tuổi, nhưng tối thiểu nam 15, nữ 12 tuổi tròn.
Đạo Luật 1/59 thời Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành ngày 2/1/1959 qui định tuổi đủ để kết hôn: nam 18, nữ 15. Tổng Thống có thể xét cho miễn tuổi, nếu có lý do đặc biệt.
Bộ Dân luật ngày 20/12/1972, thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu qui định tuổi kết hôn: nam 18, nữ 16, nếu có lý do trọng đại nguyên thủ quốc gia có thể xét cho miễn tuổi.
Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 của Việt Cộng quy định: Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện: điều 1: Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên.
Như vậy, tuổi cập kê vào thời Nguyễn Du được hiểu là tuổi 15 và Thuý Kiều sắp tới tuổi cập kê, 15 tuổi, thì còn quá trẻ so với tuổi kết hôn ngày nay.
Tường đông: Bức tường ở phía đông. Thời xưa người ta thường làm phòng cho con gái nằm ở phía đông, vì bắt đầu một ngày khí trời tốt, sức sống mới, ánh sáng đẹp là vào buổi sáng (bình minh). Chữ ”tường đông” để chỉ chỗ có con gái đẹp ở.
---------------------------
Tài liệu tham khảo
-Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức
-Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển và Văn Học của Việt Nam của Dương Quảng Hàm
-Việt Nam Văn học Sử yếu Tân biên của Phạm Thế Ngũ
-http://www.ptthlamson.net/forums/archive/index.php/t-1344.html
-http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12395&rb=06
-http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%BAy_V%C3%A2n
-http://www.vietshare.com/vanhoc/kieu.asp
-http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=11437&chapter=31
BY: HOÀNG THẠCH
Duyên Tiền Định
Thúy Kiều Gặp Mộ Đạm Tiên
Một Ca Nhi Xấu Số
1- Đại ý đoạn thơ Kiều gặp mộ Đạm Tiên
Sau khi giới thiệu ba chị em Thúy Kiều, Thúy Vân, Kim Trọng và gia đình, Nguyễn Du tả cảnh hai nàng đi dự lễ hội đạp thanh và tảo mộ cùng với dân chúng trong vùng. Lễ hội diễn ra dưới bầu trời trong thanh và cảnh vật tươi mát của mùa xuân còn vương lại. Lễ hội kết thúc chị em Kiều ra về, đi bên bờ suối có giòng nước uốn quanh dưới chiếc cầu nho nhỏ. Nhìn bên đường Kiều thấy có một nấm mộ thấp, cỏ nửa vàng nửa xanh, chứng tỏ nơi đây không có ai chăm sóc. Chiều cuối xuân cảnh đẹp hoàng hôn còn phơi phới trong tâm hồn hai em Thúy Vân và Vương Quan mà Thúy Kiều lại cảm thấy buồn man mác, nỗi buồn thương thay cho người xấu số nằm dưới mộ. Như đọc được ý chị, Vương Quan biết Kim Văn Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nên kể rằng:
“Đây là mộ Lưu Đạm Tiên, danh ca đệ nhất đất Bắc Kinh. Lúc sống nàng đã vang danh khắp nơi. Sau khi chết, mụ chủ chứa bất nhân định vứt bỏ xác nàng ra khe suối. May thay, có người khách ở xa từng nghe danh nàng nên tìm đến mong được gặp người đẹp một lần cho thỏa chí ước ao. Bất ngờ thấy nàng bị chết, người khách khóc thương cho số phận nàng và nguyện ước kiếp này không gặp thì hẹn kiếp sau... Thế rồi người khách mua quần áo, đồ tẩm niệm, hòm quách và thuê xe chở quan tài nàng đem chôn chỗ này. Vì là nấm mồ vô chủ nên không có người năng lui tới viếng thăm!"
Thúy Kiều cảm thương cho thân phận người xấu số và than trách sao trời đất quá ác nghiệt đối với phụ nữ "Sống làm vợ khắp người ta, Khéo thay thác xuống làm ma không chồng". Rồi Kiều thắp một nén hương và dùng cây trâm viết trên gốc cây một bài thơ chia sẻ nỗi buồn với người đã chết. Kiều quá cảm động, nước mắt nàng bỗng trào ra. Thấy chị đa sầu đa cảm, Vương Quan và Thúy Vân cũng phải trách nhẹ: "khéo dư nước mắt khóc người đời xưa".
Người Việt thường nói: "Tin ma thì ma bắt!". Nén hương, lời tâm sự, đôi ba câu thơ và những giọt nước mắt của Kiều như bức thông điệp gửi xuống âm phủ, như một sự liên kết giữa người sống và kẻ chết. Hồn Đạm Tiên bỗng hiện lên qua mùi hương thơm ngào ngạt, cuốn thành làn gió thoảng thổi qua làm rung cây rụng lá. Kiều đi theo làn gió bỗng thấy nốt giầy của Đạm Tiên in trên mặt rêu xanh. Ai nấy đều bàng hoàng sợ hãi. Phải chăng hồn Đạm Tiên xuất hiện để báo cho Kiều biết về số mệnh tương lai của mình, một tương lai trùng hợp giữa hai người con gái đa tài tuyệt sắc!
Trong toàn truyện Nguyễn Du đã dành tới 230 câu thơ để tả sự liên kết giữa Thúy Kiều và hồn Đạm Tiên: Kiều gặp mộ Đạm Tiên (câu 51-116), Đạm Tiên hiện về (117-134); Kiều thương cho số phận Đạm Tiên (171-184); Kiều mơ gặp Đạm Tiên và buồn cho số phận mình (185-242); Kiều tự tử, Đạm Tiên báo mộng (985-1004); Kiều tự tử được cứu, Đạm Tiên báo mộng (2695-2738).
Các tác giả người Việt không mấy ai phê bình về đoạn thơ Kiều gặp mộ Đạm Tiên và hồn Đạm Tiên xuất hiện là chuyện phù phiếm, ma quái, có tính cách mê tín dị đoan. Có thể vì lý do tôn giáo, người ta không muốn phê bình sợ bị va chạm; hoặc vì phong tục xưa vẫn coi vấn đề bói toán, đồng bóng, chiêu hồn ma là những chuyện bình thường?
Sau khi Nguyễn Du được Liên Hiệp Quốc công nhận là danh nhân văn hóa qua truyện Kiều; các tác giả người Tầu đã chú tâm nghiên cứu, rồi đưa ra những bài bình luận. Có tác giả ca tụng theo tình cảm đam mê văn chương nghệ thuật, nhưng cũng có người chê Nguyễn Du vì mặc cảm hoặc vì tình hữu nghị giữa hai nước Cộng sản Việt-Trung không còn thắm thiết như môi với răng của một thời đã qua?
Trong số các tác giả người Tầu có Đổng Văn Thành, giáo sư văn học Trung Quốc tại trường đại học Liêu Ninh đã phê bình hiện tượng trên như sau:
"…Ở tiểu thuyết nguyên tác, tư tưởng số mệnh vốn đã có, như “mệnh bạc như hoa đào", “giai nhân bạc mệnh, hồng lỡ phấn thì", nhất định những tình tiết hư ảo về “hội đoạn trường", “giáo chủ đoạn trường", “sổ đoạn trường" ngầm cho biết đời Thúy Kiều là cả một mệnh bạc duyên ôi. Khi lần đầu Thúy Kiều sa vào lầu xanh và toan tự tử không thành, hồn kỹ nữ Lưu Đạm Tiên hiện ra bảo: “Món nợ oan nghiệt chưa trang trải xong, vội thoát cõi trần sao được?". Hồi 19 lại thông qua ni cô Giác Duyên để chuyển lời dự đoán về thân phận Thúy Kiều của đạo cô Tam Hợp “thông tỏ dữ lành", “công đức lớn nên oan nghiệt tiêu trừ được, lại còn được kết mối tân duyên". Rồi hồn Lưu Đạm Tiên lại hiện ra trong mộng của Thúy Kiều và cũng nói: “Vả trước đây từng nếm trải hết mùi cay đắng, ngày nay món nợ kiếp trước đã trả xong. Từ nay thân hưởng phúc lộc, tình duyên như ý. Hôm qua hội đoạn trường đã xóa tên chị, vậy thơ đoạn trường cũng xin trả lại".
Từ đầu chí cuối, lực lượng u minh đều giám sát và quyết định số mệnh của Thúy Kiều. Mặc dù những đoạn miêu tả này chỉ như mây mù nhẹ mỏng lan tỏa trên những đỉnh cao hiện thực được miêu tả trong toàn bộ nguyên tác, nhưng dù sao vẫn có tác dụng tiêu cực là tuyên truyền cho tư tưởng định mệnh.
Dưới bút Nguyễn Du, những đoạn miêu tả đó được giữ nguyên. Chẳng những thế, ông còn cho thuyết định mệnh này thâm nhập vào ý thức tư tưởng của Vương Thúy Kiều ở những đoạn miêu tả có tính hiện thực cũng thấm đượm quan nhiệm mê tín về thuyết nhân quả định mệnh, làm mờ nhạt thêm ý nghĩa hiện thực xã hội của những xung đột bi kịch. Chẳng hạn, ông thường tả Thúy Kiều dùng thuyết định mệnh để giải thích số phận bi kịch của mình…"
(Trích từ bài "So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam" của Đổng Văn Thành - Phạm Tú Châu dịch)
Chúng tôi sẽ lần lượt trích đăng một phần hay toàn phần các bài phê bình và biện hộ cho tác giả truyện Kiều Nguyễn Du trong những số báo tới.
Kiều dự hội đạp thanh
Ngày xuân con én đưa thoi,
40-Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh.
45-Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
50-Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Kiều gặp mộ Đạm Tiên
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
55-Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rằng: Sao trong tiết thanh minh,
60-Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
Vương Quan mới dẫn gần xa:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.
Kiều thương khóc Đạm Tiên
65-Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.
Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
70-Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ.
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên ấy là mình với ta.
75-Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút ước gọi là duyên sau.
Sắm xanh nếp tử xe châu,
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn ác tà,
80-Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
85-Phũ phàng chi bấy hoá công,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
Nào người phượng chạ loan chung,
90-Nào người tích lục tham hồng là ai?
đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
Kiều đề thơ tang Đạm Tiên
95-Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,
Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
100-Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
Thúy Vân, Vương Quan khuyên Kiều
105-Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
110-Thấy người nằm đó biết sau thế nào?
Quan rằng: Chị nói hay sao,
Một lời là một vận vào khó nghe.
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngả dậm về còn xa.
115-Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh,
Đạm Tiên hiện về
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.
Một lời nói chửa kịp thưa,
120-Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
Ào ào đổ lộc rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
125- Mắt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa.
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển mới là chị em.
Đã lòng hiển hiện cho xem,.
Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.
130-Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Dùng dằng nửa ở nửa về,
II- Chú giải và điển tích
Câu 39-Ngày xuân con én đưa thoi:
Khi chim én xuất hiện trên nền trời là báo hiệu mùa Xuân trở lại. Tục ngữ Việt Nam, có lẽ dựa theo tục ngữ Latin[Erasmus Adages i. vii.]: una hirundo non facit ver (Horace), nên có câu: "Một con én không làm nên mùa Xuân (Spring)". Người Tây phương lại nói khác: "một con én không làm nên mùa Hè" (người Anh: One swallow does not make Summer - người Pháp: Une hirondelle ne fait pas de l’été- người Đức: Eine Schwalbe macht noch keinen Sommer- Đan Mạch: En enkelt svale gør ingen summer; ngườiÝ: Una rondine non fa una Summer).
Có thể vì mùa Xuân từ tháng giêng tới tháng ba tại Tây phương nhiều khí trời còn quá lạnh và tuyết phủ đầy đường; nên sau thời gian hàng ngàn năm câu tục ngữ mùa Xuân biến thành mùa Hè, mùa nắng ấm và tươi đẹp chăng?
Nghiên cứu sâu hơn, chúng tôi thấy truyện ngụ ngôn Aescop: “Người điên và con én” (Aesop’s Fable The Spendthrift and the Swallow) dựa theo danh ngôn của triết gia Aristotle (384-322 trước Công nguyên) cũng nói về mùa Hè chứ không phải mùa Xuân. Như vậy, có sự khác nhau giữa Đông phương và Tây phương về phong tục và tục ngữ
Nghĩa bóng thì một người dù tài giỏi đôi khi không đem lại thành công. Ví dụ: trong một đội bóng đá mà chỉ có một cầu thủ giỏi thì chưa chắc anh ta có thể đem thắng lợi về cho toàn đội.
Chim én bay tới bay lui như chiếc thoi của khung dệt vải chạy qua chạy lại, có nghĩa thời gian qua mau. Mới Tết đến, Xuân về hôm nào mà nay đã cuối xuân rồi.
40-Thiều quang:
Anh sáng tươi đẹp, chỉ tiết xuân. Mùa xuân có 90 ngày (ba tháng), mà đã ngoài 60, tức là đã bước sang tháng ba.
43-Thanh minh:
Theo âm lịch Trung-quốc: Một năm chia làm bốn mùa, mỗi mùa chia làm sáu “tiết". Thanh minh là một tiết của mùa xuân nhằm vào đầu tháng ba.
44-Tảo mộ:
Tảo là quét, mộ là mồ mả. Theo phong tục xưa, đến tiết Thanh minh con cháu đi viếng và sửa sang lại phần mộ của cha mẹ tổ tiên. Người ta đi qua cánh đồng cỏ xanh, nên
gọi hội Thanh minh là hội Đạp thanh.
45-Yến anh:
Chim yến (én), chim anh (có khi đọc là oanh), hai loài chim về mùa xuân, thường hay hót ríu rít từng đàn. Ở đây có ý so sánh đoàn người đi tảo mộ đông, cười nói rộn ràng như đàn chim hót líu lo.
48-Ngựa xe như nước, Áo quần như nêm
Ngựa xe qua lại như nước chảy liên tục.
“Nêm”: muốn xay lúa thành gạo, người xưa làm hai mặt cối xay hình khối tròn đặt chồng lên nhau, mặt trên lõm để đổ lúa vào. Cối được điều khiển xoay tròn bởi một khúc cây gắn vào tai cối do người đẩy tới, kéo lui. Hai mặt thớt cối này được làm bằng những thanh tre già và cứng để khi cọ sát không bị mòn nhiều. Những thanh tre này gọi là cây “nêm” ghép thật sát nhau.
Cả câu 48 có ý so sánh ngựa xe qua lại liên tiếp như nước chảy, khách du xuân áo quần đẹp đẽ, đi chen chúc sát vào nhau như những cây nêm của cối xay.
49-Ngổn ngang gò đống kéo lên:
Những đoàn người lũ lượt kéo nhau lên nơi gò đất cao.
50-Vàng vó:
Những thoi vàng làm bằng giấy hình khối chữ nhật dùng để rải trên đường trong lễ nghi đưa quan tài người chết ra nghĩa địa và khi đi tảo mộ. Tập quán này phát sinh từ niềm tin rằng người chết cũng cần phải có vàng bạc để tiêu xài hay chi phí cho việc di chuyển trong cõi chết.
53-Tiểu khê: Khe hay suối, nguồn nước nhỏ từ trong núi chảy ra. Ca dao có câu: Trải qua bao dặm sơn khê.
62-Ca nhi: người phụ nữ sống nghề ca hát, tiếp khách ở phòng trà, quán rượu thời xưa.
65-Hồng nhan: Má hồng, ý chỉ nhan sắc của người phụ nữ.
66-Cành thiên hương: Cành hoa thơm của trời, có ý so sánh với người con gái đẹp.
70-Trâm gãy bình rơi: Trâm cài tóc bị gẫy và chiếc bình rơi bể nát thì còn gì, ý nói người đẹp đã chết.
72-Dấu xe ngựa: Dấu vết xe ngựa của những khách đến Thanh lâu chơi bời trước đây.
74-Bấy: Biết bao nhiêu.
77-Nếp tử xe châu:
Sắm xanh nếp tử xe châu, Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Quan tài bằng gỗ thị (tử) và xe đưa đám tang có rèm hạt châu. Ý nói người khách mua quan tài và thuê xe tang màn phủ có gắn những ngọc trai rồi đào một lỗ cạn chôn xác Đạm Tiên gần bên đường. Nếp tử xe châu cũng là đề tài tranh cãi của nhiều nhà phê bình truyện Kiều.
Có tác gỉả cho rằng: "Buồng không lạnh ngắt như tờ, Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh"; có nghĩa khi người khách lạ tới thì buồng của Đạm Tiên vắng vẻ, dấu xe ngựa của khách làng chơi đã mọc rêu xanh; như vậy thì Đạm Tiên đã chết lâu rồi, trước khi khách lạ tới, thì làm sao người khách lại có thể mua đồ tang và chôn cất nàng được?
Có tác giả cho rằng: buồng lạnh ngắt vì Đạm Tiên bị bệnh lâu ngày không ai dám mò tới và chủ chứa cũng chán ngấy, vì không kiếm được tiền; nên khi nàng chết thì bà ta quẳng xác ra ngoài suối. May thay, ngay lúc đó có người khách lạ từ xa tới thấy vậy tỏ lòng thương, mua đồ mai táng, thuê xe chở xác Đạm Tiên đi chôn.
78-Bụi hồng/Vùi nông:
Bụi hồng do chữ hồng trần, nghĩa là đám bụi đỏ. Trong văn học cổ người ta thường dùng chữ “bụi hồng" để chỉ cuộc đời phồn hoa náo nhiệt.
Vùi nông có nghĩa là chôn cạn, nên mới có câu "sè sè nấm đất bên đường", chỉ nấm mộ thấp lè tè nằm cạnh đường đi.
79-Thỏ bạc: Người xưa cho rằng trong mặt trăng có con thỏ giã thuốc¸ nên hình ảnh thỏ bạc ám chỉ mặt trăng sáng trắng.
-Ác vàng hay Kim ô: ám chỉ mặt trời. Người xưa cho rằng trong mặt trời có con quạ vàng ba chân.
Trong bài thơ "Tư Dung vãn" của Đào Duy Từ cũng có câu: "Đêm treo thỏ bạc, ngày soi ác vàng.."
82-Châu: nghĩa thường là hạt ngọc châu, ở đây chỉ nước mắt.
85-Hóa công: Tạo hoá, ông Trời.
86-Phượng: Chim phượng trống. Loan: Chim phượng mái. Trong văn cổ, loan phượng dùng để chỉ đôi lứa vợ chồng. Ở đây chỉ những khách làng chơi đi lại, chung chạ ái ân với Đạm Tiên, ngày trước.
90-Tiếc lục tham hồng: ý nói luyến tiếc, ham sắc đẹp của giai nhân.
94-Suối vàng:
Do chữ Hoàng tuyền. Suối vàng hay chín suối. “Suối vàng" do chữ “Huỳnh tuyền" tức là suối nước màu vàng. Người Tàu ngày xưa tin rằng ở dưới âm phủ có chín cái suối nước vàng, nên có chữ “Cửu tuyền" tức là “Chín suối". Huỳnh tuyền hay Cửu tuyền, Suối vàng hay Chín suối đều chỉ chỗ ở của người chết.
Theo tích xưa: Đời Xuân Thu (722-479 trước D.L.), chúa nước Trịnh là Trịnh Trang Công tên Ngộ Sinh rất có hiếu với mẹ. Vì mẹ bất chính nên Trang công có lời thề rằng: "Chẳng phải chốn suối vàng thì chẳng nhìn nhau" (Bất cập huỳnh tuyền vô tương kiến dã).
Nguyên vợ của Trịnh Vũ Công là Khương Thị sinh được hai con. Con trưởng là Ngộ Sinh, con thứ tên là Đoạn. Cái tên Ngộ Sinh là do sự đẻ thình lình làm cho Khương Thị chịu nhiều đau đớn. Vì thế, Khương Thị đâm ra ghét Ngộ Sinh, thương thằng em tên Đoạn. Đoạn là người khôi ngô, thông minh, mặt trắng như phấn, môi đỏ như son, sức khỏe lạ thường, thêm tài cỡi ngựa bắn cung tên chính xác. Khương Thị rất mực thương yêu, muốn sau này được nối ngôi nên thường khoe Đoạn là người hiền trước mặt chồng và tỏ ý muốn Đoạn được nối ngôi thế tử. Trịnh Vũ công bảo:
-Anh em có thứ bực, không nên xáo trộn đạo lý. Hơn nữa Ngộ Sinh không có tội lỗi gì, sao lại bỏ trưởng mà lập thứ được. Trịnh Vũ Công lập Ngộ Sinh làm thế tử. Còn Đoạn thì cấp đất Cung. Khương Thị càng bất bình. Vũ Công mất, Ngộ Sinh lên kế vị tức là Trịnh Trang Công. Khương Thị rất buồn bã, bảo Trịnh Trang Công:
-Con nối ngôi cha làm chủ nước Trịnh, đất rộng ngoài mấy trăm dặm mà chỉ để cho người em ruột thịt một chỗ đất nhỏ bé không đủ dung thân, sao yên lòng đượcTrịnh Trang Công hỏi:
-Vậy xin mẫu thân dạy cho biết ý muốn?
Khương Thị nói:
-Sao con không lấy đất Chế Ấp mà phong cho em con.
Trang Công trả lời:
-Chế Ấp là một nơi hiểm yếu, tiên vương ngày xưa có di chúc cấm phong đất này cho bất cứ ai. Vậy trừ đất ấy, mẫu thân muốn chỗ nào, con sẽ vâng lời.
Khương Thị cướp cơ hội nói ngay:
-Nếu vậy phong cho Đoạn ở Kinh Thành.
Trịnh Trang Công im lặng, không nói gì. Khương Thị thấy thế nổi giận, nói:
-Nếu con không nhận như vậy thì cứ đuổi Đoạn đi sang nước khác, để nó kiếm cách gì làm ăn được thì nó làm!
Trịnh Trang Công thở dài:
-Con đâu lại làm thế được!
Hôm sau, Trang Công gọi Đoạn vào phong cho đất Kinh Thành.
Đại phu là Sái Túc can rằng:
-Kinh Thành là một ấp lớn, đất rộng, người đông.
Nếu đem phong cho Đoạn thì mai hậu người tất cậy thế chuyên quyền.
Trang Công nói:
-Mẫu thân ta muốn như vậy thì ta phải làm theo vậy.
Đoạn được phong đất Kinh Thành, vào cáo biệt mẹ. Khương Thị đuổi kẻ hầu cận rồi bảo Đoạn:
-Anh mày không nghĩ đến tình ruột thịt, cư xử với mày thật là bội bạc. Nhờ ta ba lần khẩn khoản, nó mới phong đất Kinh Thành cho mày. Nó vị nể mẹ chứ chưa chắc thành thật. Con về Kinh Thành nên lo luyện tập binh mã, phòng bị sẵn sàng, nếu có cơ hội thì đem quân lại đánh, ta sẽ nội ứng cho mà chiếm lấy nước Trịnh. Nếu con đoạt được ngôi của Ngộ Sinh thì ta có chết cũng được hả dạ. Đoạn vâng lịnh mẹ ra đóng ở đất Kinh Thành.
Từ đấy, Đoạn giả cách đi săn bắn mà luyện tập binh mã, tìm kiếm mưu mô chiếm lấy nước Trịnh. Đoạn lại chiếm luôn cả hai ấp gần đó. Quan ấp tể trốn vào Trịnh kêu cứu. Trịnh Trang Công không nói gì chỉ cười lạt mà thôi. Đại phu Sái Túc và quan thượng khanh là công tử Lữ nằng nặc tâu xin Trang Công cho đem quân đi dẹp. Trang Công nói:
-Đoạn dẫu vô đạo nhưng chưa rõ tội lỗi. Nếu ta đem quân đánh thì quốc mẫu ắt tìm cách ngăn cản. Người ngoài không biết lại bảo ta bất hữu, bất hiếu. Chi bằng cứ để thế, Đoạn tất làm càn, không hề kiêng nể, lúc ấy ta sẽ kể tội trạng đem quân đi đánh thì người trong nước chẳng ai giúp Đoạn, mà đến mẫu thân ta cũng không trách oán gì được.
Công tử Lữ nói:
-Mặc dù vậy nhưng tôi sợ thế lực Đoạn ngày một to, lan ra như cỏ mọc, cắt không hết được thì mới làm sao? Chúa Công nên mưu cách gì cho Đoạn phản nghịch, nổi loạn sớm thì đánh hắn mới chắc được. Trang Công cho là phải. Bấy giờ cả hai mới tính kế. Sáng hôm sau, Trang Công ra lịnh giao việc quốc chính cho Sái Túc để vào triều nhà Chu. Khương Thị nghe biết mừng lắm, cho là có dịp cướp được nước, vội vã viết thư sai người tâm phúc đem đến Kinh Thành, hẹn với Đoạn chiếm lấy nước Trịnh. Nhưng công tử Lữ đã cho người đón đường, giết tên đưa thư và đoạt lấy thư. Trang Công xem xong niêm lại, rồi sai kẻ tâm phúc giả làm người của Khương Thị đem thư sang đưa cho Đoạn và lấy thư trả lời về. Thư của Đoạn hẹn đến ngày mùng 5 tháng 5 thì khởi sự.
Trang Công tiếp được thư, mừng nói:
-Tờ cung chiêu của Đoạn sẵn có đây rồi. Mẫu thân hẳn không còn binh vực thế nào được.
Đoạn từ khi tiếp được thư mẹ liền sai con là Hoạt sang nước Vệ mượn binh; rồi phao tin rằng mình về Trịnh phụng mạng coi việc quốc chính và mở cửa thành tiến quân. Công tử Lữ sai quân giả dạng lái buôn vào thành, đợi khi Đoạn cất quân thì đốt lửa làm hiệu cho Lữ biết mà đem quân đến, trong thành sẽ mở cửa đón.
Lữ vào được thành liền kể tội trạng của Đoạn và đem những đức tính của Trang Công yết cho dân chúng biết. Đoạn biết cớ sự không thành, rút quân về Cung Thanh. Trịnh Trang Công đem quân tiến đánh. Đoạn tự tử. Trang công vào thành, ôm thây Đoạn than khóc, lại đem tất cả thư từ của mẹ gởi cho Đoạn và thư của Đoạn gởi cho mẹ gói làm một gói, truyền Sái Túc trao lại cho Khương Thị. Trong lúc buồn tức, Trang Công truyền an trí mẹ ở Đỉnh Ấp và thề rằng: "Chỉ đến khi xuống suối vàng, mẹ con mới gặp mặt được".
Khương Thị trông thấy cả hai bức thư, lấy làm hổ thẹn, tự nghĩ không còn mặt mũi nào nhìn thấy Trang Công nữa nên theo lịnh an trí ở Đỉnh Ấp. Trang Công về cung, thấy vắng mẹ, lòng chua xót than thở:
“Ta buộc lòng mà để em chết, nay nỡ tình nào lìa mẹ nữa. Ta thật có tội với luân lý."
Nhà vua rất lấy làm hối nhưng đã lỡ thề rồi. Quan trấn Đỉnh Ấp là Đĩnh Khảo Thúc biết ý Trang Công nên mới bày cách giải lời thề là cho người đào đất đến tận mạch nước, rồi làm một cái nhà dưới hầm bên cạnh suối đem Khương Thị xuống ở, đặt thang dài để Trang Công xuống gặp mẹ. Trang công sụp lạy mẹ, nói:
-Ngộ Sinh này bất hiếu, lâu nay thiếu sự phụng thờ mẹ, xin mẹ tha tội cho.
Khương Thị nói:
-Đó là lỗi của mẹ, con không có tội gì.
Đoạn đỡ Trang Công dậy, mẹ con khóc lên não nuột. Trang Công liền dắt mẹ lên thang rồi ngồi xe, và tự tay cầm cương đưa mẹ về cung đình.
97-Áy: Vàng úa.
112-Vận vào: ý nói lời nào cũng như ám chỉ vào mình.
113-Âm khí: Cái khí cõi âm, cõi chết, ở đây chỉ không khí bãi tha ma.
116-Thể: Thể xác (hữu hình). Phách: Chỉ những cái gì vô hình chỉ dựa vào thể xác mà tồn tại.
118-Hiển linh: linh thiêng, ở đây ý nói hồn chết linh thiêng của Đạm Tiên xuất hiện.
126-Tinh thành: Lòng thành thuần khiết, lòng chí thành.
128-U hiển: U là tối, chỉ cõi chết ám chỉ cõi âm. Hiển là sáng rõ, chỉ cõi sống. Ý nói: quen nhau chớ nề hà kẻ sống, người chết; kẻ ở cõi âm, người ở cõi dương.
131-Cổ thi
Cổ phong hay Cổ thể, cổ thể thi là một thể thơ cổ có từ nhiều thời đại trước đời nhà Đường. Về sau trở thành tên gọi chung là thơ 5 chữ (ngũ ngôn), 7 chữ (thất ngôn)… không giới hạn số câu, tức thơ Đường luật. Thơ Cổ Phong có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận) nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, luật bằng trắc v.v... n
-------------------------
1-Tài liệu tham khảo cũ:
Các tài liệu đã đăng trong các số báo trước.
2-Tài liệu tham khảo mới:
-http://www.avsnonline.net/library/ebooks/vn/others/DienHayTichLa/dhtl_ntq_119.htm
-http://24x7interestingfacts.blogspot.com/2008/10/one-swallow-does-not-make-summer.html
-http://www.special-dictionary.com/latin/u/una_hirundo_non_facit_ver.htm
-http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5986&rb=0102
- Đình làng, những di tích văn hóa đặc biệt của dân tộc Việt Nam
- Các Hồ Thiên Nhiên Đã Tạo Nên Vẻ Đẹp Thơ Mộng Cho Cố Đô Thăng Long
- Hà Nội băm sáu phố phường có từ bao giờ
- Di tích lịch sử văn hóa và tên gọi thủ đô Hà Nội
- Tết Nguyên Đán và các ngày lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam
- Di tích cổ Thành Thăng Long, một trong những kho tàng qúi giá của Việt nam và Thế giới