Văn Hoá Việt Nam
BY: HOÀNG THẠCH
1- Đại ý đoạn thơ tiếp theo
Từ Hải thắng trận trở về, sai 10 tướng dưới quyền tới nơi Kiều ở, cởi áo giáp, đặt gươm xuống và cúi đầu mời Kiều lên xe hoa, rồi rước nàng tới doanh trại đã được trang trí cờ xí rợp trời, đội kèn thổi và trống đồng nổi vang từng hồi. Từ Hải oai nghi cỡi ngựa ra đón nàng, đúng như lời hẹn ước trước khi lên đường chiến chinh. Đại lễ mừng chiến thắng cũng là lễ thành hôn giữa anh hùng và giai nhân. Kiều vui sướng trước cuộc sống dạt dào tình yêu, vinh hoa phú quí, để bù lại những năm tháng phong trần. Với tấm lòng thành, nàng đã kể đầu đuôi câu chuyện gian khổ, kể từ khi bán mình chuộc cha đến lúc phải sống cuộc đời làm gái giang hồ, bị đầy đọa ở Vô Tích và Lâm Tri. Từ Hải nghe xong thì nổi giận đùng đùng, sai hai toán quân, một đi Vô Tích, một tới Lâm Tri để bắt những kẻ đã xử tệ bạc với Kiều đem về trị tội. Từ Hải và Kiều ngồi trên bục cao và chàng dành cho nàng toàn quyền phán xét.
Ân nhân đầu tiên là Thúc Sinh, anh chàng sợ vợ, khi bị kêu tên thì sợ quá mặt xám như chàm, thân run bần bật. Nhưng Kiều không trả oán mà ca ngợi tình nghĩa của Thúc Sinh và công ơn cứu nàng. Thúc Sinh được tặng một trăm cuộn vải gấm và nghìn cân (lượng) bạc.
Ân nhân thứ hai là sư bà Giác Duyên được Kiều mời ngồi trên bục cao và được tặng nghìn lượng vàng để tỏ lòng biết ơn người hiền hoà không khác gì bà Phiếu Mẫu đối xử tử tế với Hàn Tín năm xưa.
Nạn nhân thứ nhất là Hoạn Thư, vợ Thúc Sinh, được Kiều chào hỏi nhưng trách móc “Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều’’. Hoạn Thư nghe qua thì tâm hồn tán loạn, bèn quì xuống dưới bục than thở rằng: “Rằng: Tôi chút dạ đàn bà, ghen tuông thì cũng người ta thường tình’’. Hoạn Thư khôn ngoan quỷ quyệt biện bác cho mình là thân phận đàn bà ai mà không ghen. Hoạn thư cũng gài Kiều vào cái thế khó xử bằng cách đặt câu hỏi nếu nàng rơi vào hoàn cảnh của mình thì nàng có nhường chồng cho người ta không? “Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai!’’ Vì thế, Kiều rơi vào tình trạng phân vân. Nếu tha Hoạn Thư thì may cho bà ta thoát nạn; mà xử tội thì mình bị coi là hạng người nhỏ nhen. Cuối cùng Kiều đành tha Hoạn Thư.
Các nạn nhân kế tiếp là Bạc Hạnh và mẹ là Bạc Bà; hai tên thuộc hạ của Hoạn Thư đi đốt nhà và bắt Kiều là tên Ưng và tên Khuyển; Sở Khanh, tên tay sai của Tú Bà; và chót là Tú Bà và Mã Giám Sinh, hai người lừa dối mua Kiều về làm vợ, nhưng lại bán vào lầu xanh, đều bị Kiều ra lệnh hành tội một cách tàn bạo: “Máu rơi thịt nát tan tành, Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời’’.
Sau đó sư bà Giác duyên từ giã Kiều và tiên đoán ba năm nữa có thể gặp nhau. Trả ân, báo oán xong, Kiều quì xuống cám ơn Từ Hải. Nhưng Từ Hải cho rằng, gặp việc bất công giữa đường chàng còn phải can thiệp, phương chi đây là việc nhà, việc của vợ, chàng làm sao không quan tâm. Từ ngày đó, danh tiếng của Từ Hải vang dội cả một góc trời và quyền uy của chàng như quyền năng của một triều đại, khiến cho triều đình phải nể sợ: “Nghêng ngang một cõi biên thùy, Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương. Trước cờ ai dám tranh cường, Năm năm hùng cứ một phương hải tần’’.
Thúy Kiều Báo Ơn Xưa, Trả Oán Cũ
Trong quân có lúc vui vầy,
Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:
Khi Vô Tích, khi Lâm Tri,
Nơi thì lừa đảo, nời thì xót thương.
Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong.
2295. Từ Công nghe nói thủy chung,
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.
Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri,
Mấy người phụ bạc xưa kia,
Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra.
Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
2305. Mụ quản gia, vãi Giác Duyên,
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mờ.
Thệ sư kể hết mọi lời,
Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy!
Đạo trời báo phục chỉn ghê,
Khéo thay! Một mẻ tóm về đầy nơi,
Quân trung gươm lớn áo dài,
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi.
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân.
2315. Trướng hùm mở giữa trung quân,
Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi.
Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.
Từ rằng: ân, oán hai bên,
Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh
Nàng rằng: Nhờ cậy uy linh,
Hãy xin báo đáp ân tình cho phu.
Báo ân rồi sẽ trả thù.
Từ rằng: Việc ấy phó cho mặc nàng.
2325. Cho gươm mời đến Thúc lang,
Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run.
Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
2330. Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là!
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau!
2335. Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Thúc Sinh trông mặt bấy giờ,
Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm.
Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
2340. Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai
Mụ già, sư trưởng thứ hai,
Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên:
Dắt tay mở mặt cho nhìn:
Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi.
2345. Nhớ khi lỡ bước xẩy vời,
Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân?
Hai người, trông mặt tần ngần,
Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui
Nàng rằng: Xin hãy dốn ngôi,
Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù!
Kíp truyền chư tướng hiến phù,
Lại đem các tích phạm tù hậu tra.
2355. Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Thoạt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều!
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.
2365. Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng riêng những kính yêu;
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?
Khen cho: Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời,
2375. Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay.
Tạ lòng lạy trước sân may,
2380. Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào,
Nàng rằng: Lồng lộng trời cao,
Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta?
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
2385. Tú Bà cùng Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình,
Máu rơi thịt nát tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.
Thúy Kiều Giải Oan Mọi Người
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người, chẳng bõ khi người phụ ta!
Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
2395. Ba quân đông mặt pháp trường,
Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi.
Việc nàng báo phục vừa rồi,
Giác Duyên vội vã gởi lời từ qui.
Nàng rằng: Thiên tải nhất thì,
2400. Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
Rồi đây bèo hợp mây tan,
Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu!
Sư rằng: Cũng chẳng bao lâu,
Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.
2405. Nhớ ngày hành cước phương xa,
Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri.
Bảo cho hội ngộ chi kỳ,
Năm nay là một nữa thì năm năm.
Mới hay tiền định chẳng lầm,
Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
Còn nhiều ân ái với nhau,
Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?
Nàng rằng: Tiền định tiên tri,
Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
2415. Họa bao giờ có gặp người,
Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân.
Giác Duyên vâng dặn ân cần,
Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài
Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng
Tạ ân lạy trước Từ công:
Chút thân bồ liễu nào mong có rày!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!
2425. Chạm xương chép dạ xiết chi,
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây!
Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ mới là tri ân.
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
2435. Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.
Vội truyền sửa tiệc quân trung,
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài.
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.
Đòi phen gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam.
2445. Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những loài giá áo túi cơm sá gì!
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường,
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
2- Lời bàn thêm.
Chúng tôi nhận thấy thi hào Nguyễn Du tả việc Kiều trả oán chỉ tóm gọn trong hai câu thơ đầy đủ ý nghĩa là: “Máu rơi thịt nát tan tành, Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.’’ Đọc qua hai câu thơ này quí độc giả không hình dung được cảnh Kiều ra lệnh cho tướng sĩ của Từ Hải tra tấn các nạn nhân một cách tàn bạo như thế nào. Trong thơ của cụ Nguyễn Du thì Kiều tha cho Hoạn Thư; nhưng so với tác phẩm Kim Vân Kiều, bản chính của tác giả người Tầu Thanh Tâm Tài Nhân thì Hoạn Thư cũng bị trả thù một cách tàn nhẫn.
Vì thế, chúng tôi ghi lại đây nội dung đoạn Kiều báo oán trong nguyên tác truyện Kim Văn Kiều của người Tầu.
“... Bấy giờ trong dinh bắt đầu nổi lên một tiếng trống hiệu, bọn lính tay cầm cờ mầu lam hô to lên rằng: Đem bọn phạm nhân lớp một vào hầu. Hạ Báo (1) liền dẫn Hoạn thị, Kế thị (mẹ của Hoạn Thư), Bạc Bà, Bạc Hạnh vào quỳ dưới sân. Phu nhân bắt đầu tuyên bố tội trạng: Mụ Bạc Bà kia đẩy người vào trong cạm bẫy, còn tên Bạc Hãnh, bán người lương thiện vào nhà xướng ca. Vậy theo đúng lời thề trước của mi, lấy dao vằm nát thân thể, rồi cho ngựa ăn.
Còn mụ Bạc thì đem chặt đầu bêu lên ngọn cây phía trước. Bọn đao phủ được lệnh dạ lên một tiếng, tức thì lôi mụ Bạc Bà đem ra chặt đầu. Còn Bạc Hãnh thì dùng chiếu bó như bó củi, ngoài quấn dây thừng thật chặt, rồi hai người giữ, một người cầm cưa, cắt từ dưới chân lên đầu thành hơn 100 đoạn. Ghê thay một cái thân hình như vậy mà trong giây phút thịt nát như bùn, người coi ai cũng hoảng hồn chết ngất. Bọn đao phủ vào bẩm đã thi hành xong, phu nhân truyền đem đống thịt trộn lẫn với cỏ để cho ngựa ăn.
Kế đó, gọi đến phạm nhân họ Hoạn. Họan Thư chẳng còn hồn vía, kêu xin phu nhân tha thứ tính mạng kẻ hèn này. Vương phu nhân rằng: Hoạn tiểu thư, nhà ngươi có nhiều mưu chước hay và cũng có gan nhẫn nại đó. Nhưng mà bất cứ việc gì cũng nên để lại chút tình, thì sau gặp gỡ khỏi ngượng. Vậy nay ngươi gặp lại ta, nhất định không thể sống được. Hoạn Thư khấu đầu lia lịa thưa rằng: Tội của tiện thiếp thực đáng muôn chết, nhưng xin phu nhân nhớ lại trước kia phu nhân viết tờ cung trạng, làm thiếp tôi động mối tình thương, nên đã để phu nhân viết kinh trên Quan Âm Các. Rồi khi phu nhân bước ra khỏi cửa, thiếp chẳng hề đuổi theo. Cái đó đủ biết lòng riêng vẫn kính yêu, chỉ vì thế bất lưỡng cập (tình thế không cho phép đứng đôi), nghĩa là không thể cắt sợi tơ tình chia lòng sủng ái, mà nó xui nên tội lỗi oan gia, dám xin phu nhân xét lại. Vương phu nhân tỏ vẻ nghĩ ngợi một lát rồi nói tiếp: Ta đây chỉ muốn ăn thịt và lột da ngươi, để tiêu mối hận ngày trước. Nhưng giờ đây, sở dĩ ngươi được thoát chết là lúc ta đi ngươi chẳng đuổi theo, tỏ ý hé mở cửa lồng cho chim bay bổng.
Nhưng còn tội sống thì ngươi không thể chối cãi được đâu. Vậy ta hỏi: Bọn sang Lâm Truy bắt ta là những tên nào? Cứ việc khai đúng sự thực, để chúng gánh bớt một phần tội lỗi cho ngươi. Hoạn Thư cúi đầu thưa rằng: Những kẻ thi hành mưu kế dẫu là Hoạn Khuyển, Hoạn Ưng, nhưng người bầy ra mưu đó chính là tiện thiếp. Bọn chúng chẳng qua chỉ biết theo lệnh mà thôi. Nếu đem chúng ra gánh tội thay thì thiếp không nỡ. Phu nhân rằng: Thế ra ngươi chính là phụ nữ dám nhận cả phần oan cừu vào mình đó chăng? Rồi nàng gọi quân đao phủ đem bọn Ưng, Khuyển ra chém đầu để cảnh cáo những kẻ hào nô (nô bộc của phú hào) khác. Đao phủ dạ ran, lôi tuột hai tên ra chém đầu.
Phu nhân lại truyền tả hữu đem Kế thị ra nọc đánh 30 roi. Quân lính đương sắp ra tay thì Hoạn Thư ôm chầm lấy mẹ xin chịu đòn thay, và mụ quản gia (2) cũng vội quỳ xuống thưa rằng: Tội trạng của bà chủ tôi quả thực không thể tha thứ, vậy kẻ tớ già này xin tình nguyện thay chết cho chủ mẫu. Phu nhân rằng: Thôi thì ta cũng nể lời mụ quản gia tha chết cho thị để mụ nhận lãnh đem đi. Mụ quản gia tạ ơn rồi đỡ Kế thị ra ngoài dinh trại. Nhưng Kế thị năm ấy tuổi ngoài sáu mươi, lại là một vị nhất phẩm phu nhân, chưa từng gặp cảnh khổ nhục bao giờ mà nay bị bắt từ huyện Vô Tích giải đến, khổ sở biết bao, lại thấy ba quân giết người như rạ, trong khi tuổi nhiều sức yếu, mụ đã khiếp đảm chết ngay tức thì. Mụ quản gia đành ngồi một bên để trông nom thi thể.
Vương phu nhân thấy mụ quản gia đem Kế thị đi rồi, bèn truyền lệnh cho cung nữ đem Hoạn Thư ra, lột trần áo xiêm rồi treo lên đánh 100 trượng. Cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi ra, lột hết áo quần, chỉ để chừa một cái khố, tóc bị buộc lên xà nhà. Hai tên cung nữ mỗi tên túm một tay để lôi giăng ra, hai tên khác thì cầm vọt ngựa đứng trước và sau, một tên đánh từ trên đánh xuống, một tên đánh từ dưới đánh lên, đánh như con đỉa bỏ trong thùng vôi, con lươn trong vạc nước nóng, luôn luôn dẫy dụa kêu trời. Toàn thân chẳng còn miếng da nào lành lặn. Sau khi cung nữ báo cáo đủ 100 roi, phu nhân truyền lệnh lôi ra cho Thúc Sinh nhận lãnh. Cung nữ vâng lệnh, cởi tóc đem Hoạn Thư xuống, lôi ra phía ngoài gọi Thúc Sinh vào nhận. Thúc Sinh tạ ơn xong nhìn đến Hoạn Thư, thấy nàng chỉ còn thoi thóp thì chàng than rằng: Em ơi, chỉ vì cái khiếu thông minh của em đó mà phải rước lấy tai vạ, cầm dao cắt thịt của mình. Rồi một mặt thu nhận thi thể Kế thị, một mặt đỡ Hoạn Thư về chạy chữa đến nửa năm trời mới khỏi.
Kế đó Sử Chiêu (3) giải bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh vào dinh. Phu nhân hỏi: Tú Bà, mi có nhận được ta là ai không? Tú Bà đáp: Kẻ hèn mọn này không nhận được ạ! Phu nhân thét bảo: Mi hãy ngóc đầu lên nhìn xem ta là ai? Quân sĩ dạ ran, túm tóc mụ kéo lật về phía sau. Bấy giờ mụ mới nhận rõ là Vương Thúy Kiều, thì luôn miệng kêu rằng: Tội của kẻ hèn mọn này thật đáng muôn lần bị chết chém. Chỉ xin phu nhân thương cho phần nào. Phu nhân cười bảo: Lúc này mà mi còn mơ tưởng đến sự sống sao? Lời thề trước ngọn đèn trời ngày xưa hỏi đã tiêu tan thế nào được hử? Quân sĩ đâu, lôi con Tú Bà này ra, lấy dầu vông đun sôi để tẩm vào người, rồi dựng ngược cho đầu xuống đất, chân chổng lên trời, châm lửa đốt như ngọn đèn trời để làm tròn lời thề ngày trước. Mau lên!
Còn tên Mã Bất Tiến (tên thật của Mã Giám Sinh) thì kẹp chân tay vào mảnh gỗ cho căng thẳng ra, rồi rạch da và moi gân khiến cho tứ chi rời rạc, để ứng lời thề của nó. Ngoài ra, lại nấu một nồi dầu thông trộn lẫn với vỏ cây gai, đun thật sôi và lấy thùng nước lã lớn để bên, rồi đem Sở Khanh ra, lột hết áo xiêm, một người thì múc dầu thông đun sôi rưới vào mình hắn, một người thì lấy nước lạnh dội theo.Quân sĩ được lệnh lôi ba phạm nhân ra ngoài. Tú Bà thì cuốn thành một cây sáp lớn. Phía dưới chỉ lộ cái đầu. Mã Giám Sinh thì bị căng xác. Sở Khanh bị quấn thành một thỏi sắt nguội. Đoạn rồi phu nhân hô to:“Đốt sáp”, quân sĩ bèn châm lửa vào chân Tú Bà. Mụ mới bị châm một mồi lửa đã kêu đau ầm ĩ. Phu nhân mắng rằng: Mi cũng biết đau ư? Cớ sao ngày trước mi nỡ lòng hủy hoại da thịt người khác? Tú Bà chết ngất, không trả lời được nữa.
Kế đến Mã Giám Sinh, quân sĩ tìm chỗ chùm gân, lấy mũi dao nhọn khoét da, rồi dùng lưỡi câu móc vào đầu gân, dùng sức lôi mạnh một cái. Giám Sinh lập tức chết tươi. Quân sĩ rút thêm ba bốn cái gân nữa làm cho thi thể Giám Sinh rời ra từng mảnh. Phu nhân bèn sai quẳng ra ngoài bể cho cá nóc ăn để báo lại tội bạc tình.
Còn Sở Khanh bị tẩm dầu thông và keo vỏ gai, bên trong tuy vẫn còn sống nhưng bên ngoài không cựa quậy được. Quân sĩ chạy đến bóc lột miếng vỏ gai nơi đầu ra, thì ngoài da đã bị dầu thông ăn loẻn, chẳng cần dùng sức, chỉ tuốt một cái thì lột hết da. Độ nửa giờ sau, thân thể Sở Khanh chỉ còn trơ lại một cục máu đỏ lòm nhưng vẫn còn thoi thóp. Phu nhân lại sai đem nước vôi rưới vào, tức thì toàn thân Sở Khanh nổi lên những cái mụn như là bọt nước. Rồi sau ít phút trở thành mủ, rã thịt lòi xương mà chết thê thảm...’’
3- Chú giải và điển tích
-Câu 2329: Sâm Thương
Sâm Thương, tên gọi trong dân gian là sao Hôm, sao Mai, là hai vì sao chẳng bao giờ trông thấy nhau, một đằng ở phía Đông buổi tối, một đằng ở phía Tây ban sáng. Truyện Thần tiên kể rằng: “Hàng năm, tại Thiên đình có hội Bàn Đào, tiên ông tiên nữ tề tựu dâng lễ vật, hái đào tiên chúc tụng Ngọc Hoàng. Tiên đồng Bảo Sâm theo hầu một tiên ông, ngọc nữ Thanh Thương theo hầu một tiên cô. Hai trẻ tình cờ, gặp gỡ, quen biết nhau rồi sinh tình. Trước ngày mở hội, đôi trẻ có chút thời gian bên nhau tình tự.
Một nhân vật thứ ba, tiểu đồng Trường Quang, cũng tình cờ gặp gỡ Thanh Thương, nhưng tình chỉ sinh một hướng, Thanh Thương đã yêu đậm Bảo Sâm mất rồi. Bị tình lờ, Trường Quang sầu thảm. Đến ngày Bàn Đào khai hội, đàn ca xướng hát rộn ràng. Các tiểu đồng, ngọc nữ nhịp nhàng như vũ điệu, tay bưng khay, tay nâng chén ngọc hầu rượu các tiên ông tiên bà. Thanh Thương, là ngọc nữ hát hay múa đẹp nhất, nên được chọn dâng chén cho Ngọc Hoàng. Nhưng tâm hồn nàng để lạc đâu đâu, đôi mắt cứ dõi tìm Bảo Sâm, nên sẩy tay đánh rơi cả khay ngà chén ngọc. Thanh âm ngọc vỡ tan hoang. Từ bàn dưới nhìn lên, Bảo Sâm thấy tai họa đang giáng xuống cho người yêu cũng sửng hồn, khay chén trên tay cũng đánh xoảng rơi xuống đất. Đàn ca xướng hát thanh thoát, bỗng nín bặt.’’
Ngọc Hoàng xử tội ngay đôi trẻ:
-Đôi tiên đồng, ngọc nữ còn non tuổi mà lại dám bày trò yêu đương nơi cõi tiên, tội đáng đày xuống trần gian cho làm một kiếp thú, sống trong núi thẳm rừng sâu, kiếp sau mới được đầu thai làm người ở luôn dưới cõi trần...
Trường Quang không phạm lỗi chi cũng run lập cập khi Ngọc Hoàng đang xử tội người yêụ. Một chiều, khi vừa nghe lời kết tội đày xuống trần gian làm thú, không nén được đau thương, Trường Quang đã thét lớn: “Thanh Thương ơi, Thanh Thương ơi, ta nguyện theo nàng xuống trần gian’’. Ngọc Hoàng thêm giận: “Ừ muốn theo thì ta cho thỏa ước mơ, truyền cho đày tiểu đồng tình dại này đi chung một chuyến.’’
Các tiên ông tiên bà, thương cho ba trẻ tình si, chỉ vì thương yêu mà chuốc họa. Họ đồng thanh xin Ngọc Hoàng nương tay, chớ đày xuống trần gian, mà hãy cho ở lưu lạc đâu đó trên trời. Lời cầu xin của các tiên, Ngọc Hoàng nguôi nguôi cơn giận, phán lại lần cuối cho chúng làm hai ngôi sao, tuy ở chung cùng trời, nhưng không bao giờ được gặp nhau. Nàng Thanh Thương làm sao Thương, là sao Hôm, chỉ mọc lên ở hướng Đông lúc về ban đêm; Bảo Sâm trở thành sao Sâm, là sao Mai, mọc ở phía Tây lúc trời hừng sáng. Còn Trường Quang, sẽ được như ý, suốt đời tìm kiếm tình yêu, thì biến thành sao “vượt” (sao băng), bay đi xẹt lại trọn kiếp mà kiếm tìm.
Ca dao Việt Nam ta có câu:
Sao hôm chờ đợi sao mai
Trách lòng sao vượt nhớ ai băng chừng.
Sao vượt (sao băng) muôn đời vẫn mang theo điều mơ ước.
Ngày nay, có ai mong mỏi điều gì, hãy ngước nhìn lên trời đón ánh sao Băng, điều ước mơ sẽ được toại nguyện. Nhưng còn sao Sâm, sao Thương, theo phán xử của Ngọc Hoàng phải nghìn trùng xa cách, kẻ Đông người Tây, đêm ngày đuổi bắt nhau mà không gặp được.
-Câu 2348: Phiếu Mẫu
Theo sách Tây Hán chí thì Hàn Tín, người ở Hoài Âm, nước Sở, nhà nghèo, phải làm nghề câu cá. Khi mẹ mất, vì muốn xây cất cho mẹ ngôi mộ ở nơi đẹp đẽ trên núi cao mà bán cả nhà cửa, xách kiếm đi lang thang ngoài chợ. Bà Phiếu Mẫu, nhà nghèo khó, đã giúp Hàn Tín trong cơn đói cơm rách áo. Thuở hàn vi, Hàn Tín nghèo rớt mồng tơi, ngày ngày câu cá, nhưng cũng không kiếm đủ miếng ăn. Tuy vậy, Hàn Tín lại rất ham mê đèn sách, nghiên cứu binh thư và muốn ra oai như mình là con nhà võ, đi đâu cũng lè kè mang theo cây kiếm. Bà Phiếu Mẫu ở cạnh nhà, kiếm ăn bằng nghề giặt thuê. Tuy miếng cơm vẫn thiếu trước hụt sau, nhưng thấy Hàn Tín quá đói khát, bà thường dẫn chàng dở hơi này về nhà cho cơm ăn. Hàn Tín cảm động thưa:
-Xin cảm ơn bà đã quá tử tế với tôi. Sau này công thành danh toại tôi nguyện sẽ không quên ơn bà.
Phiếu Mẫu cười hiền hậu:
-Ta thấy ngươi đói khát, nên chia sẻ miếng cơm giọt nước với ngươi, chứ đâu cần ngươi sẽ trả ơn. Đàn ông gì như ngươi, tự nuôi thân không nổi thì nói chi đến quyền cao chức trọng sau này.
Hàn Tín hổ thẹn vì lời chê trách, nên không dám tìm qua nhà Phiếu Mẫu kiếm cơm nữa. Bà già vẫn thương người cùng khổ, ngày ngày đem cơm đặt trước căn lều của Hàn Tín. Người trong làng xóm biết chuyện, gọi đó là “Bát cơm Phiếu Mẫu”.
Một hôm ở ngoài chợ có gã bán thịt to lớn, trông thấy Hàn Tín bước đi xiêu vẹo, nhưng vẫn lòng thòng thanh kiếm bên lưng. Gã trêu tức:
-Này tên ma đói kia, nam nhi như mày mà không kiếm ăn được, hằng bữa phải nhờ đến bát cơm Phiếu Mẫu, không biết nhục à? Có giỏi thì rút kiếm ra đấu, ta tay không. Thắng được ta thưởng cho cái đầu heo. Bằng không dám đấu, thì luồn dưới trôn của ông nội mày đây.
Sắc mặt Hàn Tín đã xanh này càng xanh hơn. Tần ngần một lúc, Hàn Tín khúm núm lòn qua trôn gã hàng thịt. Cả chợ nhốn nháo chê cười Hàn sĩ. Nhưng có một tiều phu là Hứa Phụ, tình cờ qua đó, dừng lại trước Hàn Tín và nói:
-Huynh là người có tướng vương hầu; tuy nay khốn khổ nhưng hậu vận lại vinh hoa phú quí.
Hàn Tín trở về túp lều, ngày đêm vẫn miệt mài dùi mài kinh sử. Lúc Hạng Lương nước Sở khởi binh đánh Tần, Hàn Tín đứng chống gươm bên bờ sông Tứ Thủy, tự tìm cơ hội tiến thân. Trông thấy Hàn Tín ngoại hình xanh xao vàng vọt, Hạng Lương “dội” ngay. Nhưng quân sư Phạm Tăng vội khuyên:
-Tuy nhìn bề ngoài yếu đuối, nhưng chân tướng là người thao lược, ngài chớ nên bỏ.
Hạng Lương miễn cưỡng nhận lời, cho Hàn Tín làm chấp kích lang, tức là vác giáo theo hầu.
Trong thời gian này, Lưu bang đang dựng nghiệp đế ở Hán Trung, nhờ Trương Lương, giả làm lái buôn, đi chu du thiên hạ để chiêu hiền. Khi đến đất Sở, gặp được Hàn Tín, Trương Lương nhận ra ngay đây là một chân tài nhưng Sở không biết dùng người. Trương Lương bèn làm quen, và trao cho Hàn Tín một thanh kiếm báu, đề thơ tặng:
Kiếm báu lập lòe tay dũng sĩ,
Non sông một giải chí hiên ngang.
Máu hồng, men rượu say băng tuyết
Muôn dặm sơn hà một tấc gang.
Hàn Tín đang còn ngỡ ngàng, thì Trương Lương đã tiếp:
-Tại hạ biết được huynh là đấng hào kiệt nên đem kiếm báu tặng chứ không bán. Nay có chút quà mọn, xin huynh chớ từ chối. Hãy cùng nhau nhấp chén rượu mừng buổi sơ kiến. Hẹn ngày hội ngô trên đất Hán.
Sau chầu rượu, Trương Lương thuyết phục Hàn Tín nên bỏ Sở, về phò Lưu Bang, là người nhân đức biết trọng lương thần, xứng danh thiên tử. Hàn Tín thuận tình, nên bỏ trốn khỏi Sở. Mấy ngày lạc trong rừng không tìm được đường đến Hán Trung, đói khát lả người. May thay, Tín gặp được một lão tiều, cho ăn uống và hướng dẫn đường đi nước bước chu đáo. Hàn Tín sụp lậy cảm ơn cứu tử, rồi nhanh nhẹn lên đường. Nhưng vừa qua được một khúc quanh, Hàn Tín chợt nghĩ:
-Ta đang bị Sở Bá Vương truy nã. Nếu chẳng may quan quân Sở cũng lần ra dấu vết đến đây, hỏi lão tiều phu này, thì tính mạng ta khó thoát. Lão già suốt ngày lầm lũi trong rừng sâu, rồi cực khổ cũng chết khô xương, còn ta, cả cơ đồ sáng lạng trước mắt. Thôi thì, ta đành làm người vong ơn bội nghĩa..
Hàn Tín quay trở lại. Kiếm vung lên, thân lão tiều phu đứt làm đôi. Hàn Tín đem xác vùi bên sườn núi.
Khi đến Hán Trung, Hàn Tín được Tiêu Hà, cận thần của Hán Vương tiếp kiến, liền tiến cử với Hán Vương. Vừa nghe đến tên Hàn Tín, Hán Vương đã cười khẩy:
-Khi còn ở huyện Bái, ta đã nghe tiếng người này lòn trôn Đỗ Trung, xin cơm Phiếu Mẫu, làng nước ai cũng khinh bỉ. Con người như vậy thì làm sao mà làm được việc lớn?
Tiêu Hà bào chữa:
-Xin Chúa công hãy suy xét, nhiều người bần tiện thuở thiếu thời nhưng sau vẫn dựng nên sự nghiệp, như Y Doãn là người sơn dã, Thái Công là kẻ đi câu ở sông Vị, Ninh Thích là gã buôn xe, Quản Trọng là kẻ tội đồ, đến lúc gặp thời đều làm nên đại sự. Hàn Tín tuy đã lòn trôn mưu sống, xin cơm cứu đói, giết ân nhân để trừ hậu hoạn… nhưng đó vẫn là người uyên bác, mưu lược; không dùng, tất hắn sẽ bỏ đi tìm nơi khác trọng dụng.
Nể lời tấu trình của cận thần, Hán Vương giữ Hàn Tín lại, cho làm thủ kho lương thực. Tiêu Hà không đồng ý vì cho rằng Hàn Tín là người trí dũng, đem dùng vào việc nhỏ không xứng với tài năng. Phần Hàn Tín cũng chán nản; nấn ná một hai hôm lại trốn đi, để lại ít câu thơ, thảo trên vách:
Anh hùng lỡ vận bước long đong
Thà chịu an thân khỏi thẹn lòng
Vó ngựa xa vời trông cố quận
Công danh chán ngắt mộng anh hùng.
Tiêu Hà hay tin Hàn Tín đã bỏ đi, dậm chân kêu trời, tiếc thay người tài không có đất dụng võ. Không nản lòng, Tiêu Hà đem theo ít quân hầu lần theo dấu tích Hàn Tín. Khi tìm gặp được, Tiêu Hà cầm tay Hàn Tín ân cần:
-Cổ nhân có câu: Sĩ vị tri kỷ giả tử (kẻ sĩ có thể chết theo người tri kỷ). Tại hạ hiểu huynh là người tài, đã quyết tâm tiến cử, nhưng Chúa công vần chưa tin dùng. Nay nếu một lần tiến cử nữa, mà Chúa công vẫn không nhận, thì Tiêu Hà này cũng từ chức mà lui về vườn.
Hàn Tín cảm kích lòng thành của Tiêu Hà, nên lại lên ngựa quay trở về Hán Trung. Nghĩ đến số phận mình còn long đong, Hàn Tín đề thơ:
Mây gió phôi pha bóng nguyệt tà
Vận thời chưa gặp khó bôn ba
Nghèo hèn phận bạc đờì dang dở
Con tạo trêu ngươi mãi thế à!
Chợt, Hàn Tín nhớ mấy câu thơ của "anh lái buôn" Trương Lương đã đề tặng mình. Lúc đó, Trương Lương vẫn còn chu du chiêu hiền chưa về đến. Hàn Tín đưa thơ cho Tiêu Hà xem. Tiêu Hà mừng rỡ:
-Trời đất, thư giới thiệu của Tử Phòng, sao tướng công đã không trình cho Chúa công.
Khi xem thơ của Trương Lương, Hán Vương giật mình:
-Ôi chao, thì ra người của Trương Tử Phòng tiến cử. Ta thật không biết nhìn người.
Theo đề cử của Tiêu Hà, Hán vương phong Hàn Tín làm Đại Nguyên Soái. Hàn Tín đã đem tài năng mình phò Lưu Bang, tóm thâu thiên hạ, dựng nên nhà Hán. Hàn Tín diệt Tề, thiên hạ 7 nước thì 6 đã theo Hán. Nước Sở rơi vào tình trạng cô thế, Hạng Vũ sai thuyết khách đến dụ ông phản Nhà Hán nhưng ông không nghe. Mưu sĩ của ông là Khoái Triệt nhân đó cũng khuyên ông phản Hán để chia ba thiên hạ, nhưng Hàn Tín không nỡ. Tuy vậy, Hàn Tín vừa lập được công xong lập tức bị tước binh quyền. Tới tháng giêng năm 202 trước Công nguyên, Lưu Bang đời Tề Vương Tín làm Sở Vương, đóng đô ở Hạ Bì. Lưu Bang lên ngôi hoàng đế, tức là Hán Cao Đế hay Hán Cao Tổ.
Nhớ ơn xưa nghĩa cũ, Hàn Tín về nước, cho gọi bà giặt vải Phiếu Mẫu đã cho mình ăn, để thưởng ngàn vàng. Rồi ông lại gọi người thanh niên đã bắt mình luồn qua háng cho làm quan nước Sở. Mọi người ngạc nhiên, nhưng ông nói với các tướng văn võ:
“Hắn là tráng sĩ đấy, lúc hắn làm nhục ta, ta có phải không giết được hắn đâu? Nhưng giết hắn thì không có danh nghĩa gì.’’
(Vì bài viết đã dài, chúng tôi hy vọng sẽ có dịp kể rõ hơn về Hàn Tín, một Đại tướng, một mưu sĩ hàng đầu đã giúp Hán Cao Tổ chiếm 6 nước; nhưng lại thua mưu và bị chết dưới tay đàn bà!)
----------------------------------
Chú thích:
(1)-Một viên tướng của Từ Hải - ghi chú của báo Ngày Nay.
(2)-Quản gia nhà mẹ Hoạn Thư, đã giúp đỡ Kiều khi nàng bị bắt về Vô Tích, và được Kiều tặng 100 lạng vàng, 2000 lạng bạc trong buổi báo ân xử oán - ghi chú của báo Ngày Nay
(3)-Một tướng khác của Từ Hải.
BY: HOÀNG THẠCH
1- Ý nghĩa đoạn thơ kế tiếp
Không thể sống cảnh làm nữ tì trong nhà Hoạn Thư, Kiều xin được tu để thoát nợ trần. Hoạn Thư cho nàng ra tu trong cái am nằm ngay trong vườn của gia đình. Thúc Sinh lợi dụng cơ hội này lén tới thăm và bày tỏ lỗi nòng của mình với Kiều. Kiều chán nản cho cái anh chồng quá sợ vợ, không bảo vệ được mình; nên cuối cùng để có phương tiện sống còn trên đường trốn thoát, nàng bèn ăn trộm chuông vàng khánh bạc của Hoạn Thư, rồi trốn đến Chiêu Âm am. Tại đây Kiều nói dối với sư bà Giác Duyên là quê quán ở Bắc Kinh, đã đi tu nhưng bị lưu lạc tới đây, xin sư bà rộng lòng thương cho nương nhờ cửa Phật. Sư bà thấy chuông vàng khánh bạc tưởng Kiều đã qui y nên thông cảm, nhưng không dám quyết định vì phải chờ sư huynh đi xa chưa về. Trong thời gian này Bạc Bà, một phật tử ngoan đạo, từng quen biết với sư bà, lên chùa thăm và bất ngờ khám phá ra chuông vàng và khánh bạc của Kiều giống của nhà Hoạn Thư. Không thể dấu diếm được nữa, Kiều đành thú tội ăn trộm và kể lại đầu đuôi câu chuyện đời mình mong sư bà thông cảm. Sư bà sợ liên lụy tới chùa, gửi Kiều qua nhà Bạc Bà ở tạm. Bạc Bà giả bộ tìm cách gả cho cháu mình là Bạc Hạnh; nhưng tên này lại âm mưu bán Kiều vào lầu xanh ở Châu Thai. Thế là nàng lại bị trầm luân trong chốn bùn nhơ lần thứ hai. Tuy nhiên, người đời thường nói, trong cái xui cũng có cái hên. Từ Hải, một tướng cướp nổi tiếng tại biên thùy bất ngờ ghé lầu xanh không phải để chơi bời mà tìm người tri kỷ. Những cái nhìn ban đầu đã làm rung động con tim của người hùng và giai nhân. Từ Hải say mê Kiều và giải thoát nàng khỏi chốn lầu xanh. Cuộc đời chiến chinh lại thúc dục Từ Hải lên đường. Nhận thấy mình đã là vợ thì phải theo chồng và sợ nếu ở một mình biết đâu lại sa vào bẫy của người khác, Kiều xin Từ Hải cho nàng đi theo `` Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi!´´. Nhưng Từ Hải trách khéo ``Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? … Bằng ngay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?’’. Cuối cùng chàng tạm biệt lên đường và hứa sau khi thắng trận sẽ trở về cưới nàng. Lời hứa đã trở thành sự thật. Sau khi thắng trận, Tù Hải sai 10 tướng đến rước Kiều lên xe hoa và cuộc tình thắm nồng giữa giai nhân và tướng cướp tươi đẹp như ngày xuân.
Kiều Ở Quan Âm Các Trốn Đi
Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau.
1995. Hoa rằng: Bà đã đến lâu,
Rón chân đứng nép độ đâu nữa giờ.
Rành rành kẽ tóc chân tơ,
Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương,
Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.
Ngăn tôi đứng lại một bên,
Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
Đàn bà thế ấy thấy âu một người!
2005. ấy mới gan ấy mới tài,
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
Người đâu sâu sắc nước đời,
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
Thực tang bắt được dường này,
2010. Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.
Thế mà im chẳng đãi đằng,
Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng!
Giận dầu ra dạ thế thường,
Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu!
2015. Thân ta ta phải lo âu,
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này!
Ví chăng chắp cánh cao bay,
Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!
Phận bèo bao quản nước sa,
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
Chỉn e quê khách một mình,
Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.
2025. Bên mình giắt để hộ thân,
Lần nghe canh đã một phần trống ba.
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
Mịt mù dặm cát đồi cây,
2030. Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương.
Canh khuya thân gái dặm trường,
Phần e đường xá, phần thương dãi dầu!
Kiều Đến Ở Chiêu Ẩn Am
Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
2035. Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
Rành rành Chiêu ẩn am ba chữ bài.
Xăm xăm gõ mái cửa ngoài,
Trụ trì nghe tiếng, rước mời vào trong.
Thấy màu ăn mặc nâu sồng,
2040. Giác duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
Gạn gùng ngành ngọn cho tường,
Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh:
Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh,
Qui sư, qui Phật, tu hành bấy lâu.
2045. Bản sư rồi cũng đến sau,
Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.
Rày vâng diện hiến rành rành,
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra.
Xem qua sư mới dạy qua:
Phải nơi Hằng Thủy là ta hậu tình.
Chỉ e đường sá một mình,
ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày.
Gửi thân được chốn am mây,
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
2055. Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay.
Sớm khuya lá bối phướn mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
Thấy nàng thông tuệ khác thường,
Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
Bạc Bà Ép Duyên Thúy Kiều
Cửa thuyền vừa tiết cuối xuân,
Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời.
Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
Có người đàn việt lên chơi cửa Già.
2065. Giở đồ chuông khánh xem qua,
Khen rằng: Khéo giống của nhà Hoạn nương!
Giác Duyên thực ý lo lường,
Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
Bây giờ sự đã dường này,
Phận hèn dù rủi, dù may, tại người.
Giác Duyên nghe nói rụng rời,
Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong.
2075. Rỉ tai nàng mới giãi lòng:
ở đây cửa Phật là không hẹp gì;
E chăng những sự bất kỳ,
Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
Lánh xa, trước liệu tìm đường,
2080. Ngồi chờ nước đến, nên đường còn quê!
Có nhà họ Bạc bên kia,
Am mây quen lối đi về dầu hương.
Nhắn sang, dặn hết mọi đường,
Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân.
2085. Những mừng được chốn an thân,
Vội vàng nào kịp tính gần tính xa.
Nào ngờ cũng tổ bợm già,
Bạc bà học với Tú bà đồng môn!
Thấy nàng mặt phấn tươi son,
Mừng thầm được mối bán buôn có lời.
Hư không đặt để nên lời,
Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen.
Mụ càng xua đuổi cho liền,
Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần.
2095. Rằng: Nàng muôn dặm một thân,
Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa.
Khéo oan gia, của phá gia,
Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây!
Kíp toan kiếm chốn xe dây,
2100. Không dưng chưa dễ mà bay đường trời!
Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
Nơi xa thì chẳng có người nào xa.
Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai.
2105. Cửa hàng buôn bán châu Thai,
Thực thà có một, đơn sai chẳng hề.
Thế nào nàng cũng phải nghe,
Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai.
Bấy giờ ai lại biết ai,
Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh.
Nàng dù quyết chẳng thuận tình,
Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau.
Nàng càng mặt ủ mày chau,
Càng nghe mụ nói, càng đau như dần.
2115. Nghĩ mình túng đất, sẩy chân,
Thế cùng nàng mới xa gần thở than:
Thiếp như con én lạc đàn,
Phải cung rày đã sợ làn cây cong!
Cùng đường dù tính chữ tòng,
2120. Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
Nữa khi muôn một thế nào,
Bán hùm, buôn sói, chắc vào lưng đâu?
Dù ai lòng có sở cầu,
Tâm mình xin quyết với nhau một lời.
2125. Chứng minh có đất, có Trời,
Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì?
Kiều Lại Bị Bán Vào Lầu Xanh Ở Châu Thai
Được lời mụ mới ra đi,
Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.
Một nhà dọn dẹp linh đình,
Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang.
Bạc sinh quì xuống vội vàng,
Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công.
Trước sân lòng đã giãi lòng,
Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên.
Thành thân mới rước xuống thuyền,
Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai.
Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi,
Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày.
Cũng nhà hành viện xưa nay,
2140. Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.
Xem người định giá vừa rồi,
Mối hàng một, đã ra mười, thì buông.
Mượn người thuê kiệu rước nường,
Bạc đem mặt bạc, kiếm đường cho xa!
2145. Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.
Đưa nàng vào lạy gia đường,
Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!
Thoắt trông nàng đã biết tình,
Chim lồng khốn lẽ cất mình bay cao.
Chém cha cái số hoa đào,
Gỡ ra, rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà chán cho đời,
Tài tình chi lắm, cho trời đất ghen!
2155. Tiếc thay nước đã đánh phèn,
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
Hồng quân với khách hồng quần,
Đã xoay đến thế, còn vần chửa tha.
Lỡ từ lạc bước bước ra,
Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
Đầu xanh đã tội tình chi?
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Kiều Gặp Tướng Giặc Là Từ Hải
2165. Lần thu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi,
Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt đông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
2175. Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cùng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.
Từ rằng: Tâm phúc tương cờ
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
Một đời được mấy anh hùng,
Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi!
2185. Nàng rằng: Người dạy quá lời,
Thân này còn dám xem ai làm thường!
Chút riêng chọn đá thử vàng,
Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?
Còn như vào trước ra sau,
Ai cho kén chọn vàng thau tại mình.
Từ rằng: Lời nói hữu tình,
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.
Lại đây xem lại cho gần,
Phỏng tin được một vài phần hay không?
2195. Thưa rằng: Lượng cả bao dong,
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!
Nghe lời vừa ý gật đầu,
Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người!
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
Một lời đã biết tên ta,
Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!
2205. Hai bên ý hợp tâm đầu,
Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân,
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.
Buồn riêng sửa chốn thanh nhàn,
Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.
Trai anh hùng, gái thuyền nguyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.
Từ Hải Biệt Kiều Đi Lập Công
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm, yên ngựa lên đàng thẳng rong.
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi!
Từ rằng: Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia,
2225. Bằng ngay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì?
Quyết lời rứt áo ra đi,
Cánh bằng tiện gió cất lìa dậm khơi.
Nàng thì chiếc bóng song mai,
Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây.
Sân rêu chẳng vẽ dấu giầy,
Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.
2235. Đoái thương muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa;
Xót thay huyên cỗi xuân già,
Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi.
Chốc là mười mấy năm trời,
2240. Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng!
Duyên em dù nối chỉ hồng,
May ra khi đã tay bồng tay mang.
2245. Tấc lòng cố quốc tha hương,
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
Từ Hải Thắng Trận Về Lấy Kiều
Đêm ngày luống những âm thầm,
Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương,
Ngất trời sát khí mơ màng,
Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.
Người quen kẻ thuộc chung quanh
Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
2255. Nàng rằng: Trước đã hẹn lời,
Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa.
Còn đương dùng dắng ngẩn ngơ
Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng loa.
Giáp binh kéo đến quanh nhà,
Đồng thanh cùng gửi: nào là phu nhân?
Hai bên mười vị tướng quân,
Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu.
Cung nga, thể nữ nối sau,
Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui.
2265. Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,
Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng.
Dựng cờ, nổi trống lên đàng,
Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau.
Hoả bài tiền lộ ruổi mau,
2270. Nam đình nghe động trống chầu đại doanh.
Kéo cờ lũy, phát súng thành,
Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài.
Rỡ mình, là vẻ cân đai,
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.
2275. Cười rằng: Cá nước duyên ưa,
Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh hùng,
Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?
Nàng rằng: Chút phận ngây thơ,
Cũng may dây cát được nhờ bóng cây.
Đến bây giờ mới thấy đây,
Mà lòng đã chắc những ngày một hai.
Cùng nhau trông mặt cả cười,
Dan tay về chốn trướng mai tự tình.
2285. Tiệc bày thưởng tướng khao binh
Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân.
Vinh hoa bõ lúc phong trần,
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày
2- Chú giải và điển tích
Vì có nhiều điển tích hay, chúng tôi không ghi phần chú giải từ ngữ.
-Câu 1931: Giọt nước cành dương:
Câu này bắt nguồn từ sự tích Cam Lồ (hay Lộ) Cam: ngọt, Lồ hay Lộ: giọt sương. Cam lồ hay Cam lộ là nước sương ngọt. Hán văn gọi là Cam lồ thủy, thứ nước huyền diệu do các Ðấng Tiên, Phật luyện thành, mùi vị thơm ngon, có công dụng rất mầu nhiệm. Khi một người được rưới nước Cam Lồ thì người đó được tiêu trừ bịnh tật, sạch hết tai ương, dù có sắp chết cũng sống lại mạnh khỏe. Ðức Quan Âm Bồ Tát, tay trái cầm Tịnh bình chứa nước Cam Lồ, tay mặt cầm cành dương liễu nhúng vào Tịnh bình để rải nước Cam Lồ cứu giúp chúng sanh.
Qua sự kiện trên, chúng tôi nhận thấy có sự tương đồng với Công Giáo, khi Linh-mục rẩy nước thánh trên đầu giáo dân trong Thánh Lễ ngày Chúa nhật, như một hình thức tẩy rửa tội lỗi để giáo dân xứng đáng được thông phần vào nghi thức tưởng niệm Chúa thành lập phép Thánh Thể.
-Câu 1988: Thiếp Lan Đình: Vương Hi Chi đời Tấn, nổi tiếng về viết chữ đẹp nhất nước. Ông làm bài tựa tập thơ vịnh hội Lan Đình. Ông cho là có thần giúp mới làm được bài thơ hay như vậy. Nên ông kén chọn bút, mực, giấy tốt nhất để viết thành một tập. Khi viết xong ông cho là tập văn hay chữ tốt tuyệt bực, mới truyền cho con cháu giữ làm gia bảo của họ Vương. Mãi đến người cháu bẩy đời của ông là sư Trí Vinh, vì lời yêu cầu của vua Đường Thái Tông, mới đem dâng. Vua quý lắm, sai Trử Toại Lương mạc lại để khắc bản in mà phát cho các quan, còn vua giữ bản chính. Và khi vua gần mất, dặn lại chỉ mang tập Thiết Lan Đình chôn theo cho vua. Tập thiếp này khắc đi khắc lại nhiều lần, truyền mãi cho đến bây giờ. (Theo cụ Đàm Duy Toại).
Câu 2192: Bình Nguyên Quân:
Nguyên đời Chiến Quốc (479-221 trước D.L.), con của Vũ Linh Vương nước Triệu tên Thắng, làm tướng quốc và được phong đất Bình Nguyên nên thường gọi là Bình Nguyên Quân. Cũng như Mạnh Thường Quân (người nước Tề), Tín Lăng Quân (người làm tướng nước Ngụy), Bình Nguyên Quân người rất hiếu khách. Trong nhà bao giờ cũng có thực khách đến hàng ngàn người. Khi quân nước Tần vây kinh đô nước Triệu là Ham Đan, vua nước Triệu phải sai Bình Nguyên Quân đến nước Sở cầu cứu bằng cách liên minh. Bình Nguyên Quân định chọn lấy 20 người đủ sức khỏe, mưu mẹo trong số thực khách cùng đi. Nhưng chỉ chọn được 19 người.
Một thực khách tên Mao Toại bước ra, tình nguyện đi cho đủ số. Bình Nguyên Quân hỏi:
-Tiên sinh ở nhà này được bao lâu?
Mao Toại đáp:
-Đã được 3 năm.
Bình Nguyên Quân nói:
-Phàm bậc hiền sĩ ở đời chẳng khác gì cái dùi ở trong cái túi, bao giờ mũi nhọn cũng thò ra ngoài. Tiên sinh ở đây đã đến 3 năm mà tôi chưa từng thấy người chung quanh tôi khen ngợi điều gì, thế là tiên sinh không có đặc tài thì xin mời tiên sinh ở lại nhà.
Mao Toại nói:
-Chính ngày nay tôi mới xin làm cái dùi trong túi đó. Nếu tôi sớm được như cái dùi trong túi thì chẳng những chỉ thò mũi nhọn ra, mà lại còn nhảy tuột cả ra ngoài nữa.
Nghe lời đáp lạ lùng, Bình Nguyên Quân bằng lòng cho đi. Mười chín thực khách kia nhìn nhau có vẻ xem thường, cười thầm. Đến nước Sở, Bình Nguyên Quân cùng vua Sở bàn việc liên minh, giải bày lợi hại, từ sáng sớm mãi đến trưa mà vẫn chưa ngã ngũ ra sao. Mười chín thực khách kia bèn bảo Mao Toại rằng:
-Xin mời tiên sinh lên đi.
Mao Toại cầm kiếm bước lên thềm, nói với Bình Nguyên Quân rằng:
-Việc liên minh lợi hại thế nào, chỉ nói vài lời cũng quyết định được, thế mà bàn bạc từ sáng đến trưa vẫn chưa ra bề nào là cớ làm sao?
Vua nước Sở hỏi ai, thì Bình Nguyên Quân cho biết đó là người nhà. Vua Sở quát:
-Sao không lùi xuống? Ta đương nói chuyện với chủ ngươi, lên đây làm gì?
Mao Toại vẫn cầm kiếm, tiến lên, đỉnh đạc nói:
-Nhà vua sở dĩ quát tháo mắng tôi là vì cậy nước Sở có đất rộng người nhiều. Nhưng từ chỗ nhà vua đến chỗ tôi đứng chỉ trong 10 bước, thì tính mạng của nhà vua là ở trong tay tôi. Cậy thế nào được đất rộng người nhiều kia? Hiện có chủ tôi ngồi đó mà nhà vua quát tháo tôi thì còn lễ độ gì? Vả tôi nghe rằng: vua Thang chỉ nhờ khoảng đất 70 dặm mà làm vua thiên hạ. Vua Văn chỉ nhờ một vùng 100 dặm mà khuất phục được chư hầu, có phải đâu là vì nhiều sĩ tốt? Nay nước Sở nếu biết giữ được thế, chấn được uy thì sẵn đất vuông 5 ngàn dặm, dưới cờ kể có 100 vạn quân, đủ sức để làm bá vương đó. Sức mạnh như thế, đáng lẽ thiên hạ không sao địch nổi, thế mà thằng nhãi Bạch Khởi, tước của nước Tần, chỉ đem có vài vạn quân đánh nhau với nước Sở, trận đầu đã chiếm được đất Yên Sinh, trận thứ hai lại đốt mất Di Lăng, trận thứ ba phạm đến cả lăng tẩm của tiên vương nước Sở. Đó là mối thù đến muôn đời, ngay nước Triệu chúng tôi còn hổ thẹn thay, thế mà nhà vua không biết căm giận. Vậy ngày nay, liên minh chính là vì nước Sở chứ không phải vì nước Triệu. Chủ tôi ngồi đó, nhà vua quát tháo tôi là nghĩa làm sao?
Vua nước Sở gật gù bảo:
-Phải, phải! Công việc nước tôi, đúng như lời tiên sinh nói. Vậy tôi xin đem cả nước để liên minh.
Đoạn tất cả tôi chúa đều uống máu ăn thề.
Mao Toại cười nói với 19 người:
-Đối với sự thành công này, các ông chỉ là theo đuôi, vấy máu ăn phần đó thôi.
Thực hiện được cuộc liên minh, Bình Nguyên Quân trở về nước Triệu, nói:
-Thôi, ta không còn dám xét đoán người nữa. Xưa nay ta đã từng xét thiên hạ, kể số nhiều thì đến hàng ngàn người, mà ít thì cũng hàng trăm, vẫn tự hào rằng chưa hề bỏ sót ai cả. Thế mà đến nay tự biết mình trước kia đã không nhận rõ đặc tài của Mao tiên sinh. Khi sang nước Sở, Mao tiên sinh đã làm cho nước Triệu được vô cùng tôn kính. Mới biết tiên sinh đã khéo dùng ba tấc lưỡi mạnh hơn trăm vạn quân. Thôi, từ đây ta không dám xét người nữa.
Rồi ông cất Mao Toại lên hàng thượng khách. Tuy dùng người mà Bình Nguyên Quân vẫn tự nhận đã thiếu sót trong việc xét người. Lời nói đó thật là tri kỷ tri bỉ vậy.
-Câu 2174: Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo: Và những câu thơ kế tiếp, đoạn Kiều khuyên Từ Hải ra hàng triều đình, có câu:
Ngẫm từ việc dấy binh đao
Ðống xương vô định đã cao bằng đầu
Làm chi để tiếng về sau
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
(câu 2493 đến 2496)
“Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo”
“Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào”
Câu thơ trên vốn xuất phát từ điển tích Hoàng Sào.
Nguyên Hoàng Sào có hai câu thơ:
Bán khiên cung kiếm bằng thiên túng
Nhất trạo giang sơn tận địa duy
(Nửa vai cung kiếm tận trời cao
Một chèo non sông xông pha khắp cõi)
Hoàng Sào là một lãnh tụ nông dân quật khởi gần cuối đời nhà Ðường (618- 907). Nguyên nhà Ðường từ vua Ðại Tông (763- 765) đến Hy Tông (874- 888) thì thế nước càng suy. Phiên Trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong. Phiên Trấn thì nắm quyền thưởng phạt, sinh sát dân trong tay; hoạn quan thì thiện tiện phế lập vua chúa.
Chính cuộc đã nguy như thế làm cho mối loạn trong dân gian càng gia tăng. Những bần cố nông phải bỏ trốn, phiêu bạt. Một số ít có ruộng đất bị kiêm tính cũng bỏ quê quán mà thành lưu vong, hoặc làm điền nô ở các trang viên, hoặc tụ họp làm trộm cướp. Tài chánh kiệt quệ, kho tàng nhà nước trống rỗng, triều đình phải đánh thuế nặng. Vừa tai nạn binh đao lại xảy ra lụt ngập rồi hạn hán luôn năm làm cho nhân dân càng cực kỳ khốn khổ.
Hoàng Sào tự Cự Thiên, người ở Tào Châu vốn con của một nhà bán muối, nhưng rất thông minh, văn võ đều giỏi, chỉ có vẻ ngoài quá thô xấu. Năm Càn Phủ thứ ba (876), đời vua Hy Tông, Hoàng Sào đi thi đỗ được võ cử Trạng nguyên. Nhưng vua thấy hình dung xấu xí của Hoàng Sào nên không dùng, đuổi Sào đi. Hoàng Sào ra khỏi triều môn trở về, giữa đường ghé quán nghỉ, lòng đầy căm tức. Sào nghĩ thầm:
- Khi đăng bảng mở khoa thi thì nói chọn người có tài văn chương hay võ nghệ, chớ không thấy nói chọn người mặt mày đẹp đẽ. Nếu ta dè hôn quân lấy diện mạo chọn người thì ta có đi thi làm chi cho uổng công.
Tức khí quá, Hoàng Sào lấy bút mực, viết một bài thơ trên vách quán rồi bỏ ra đi:
Lược thao như mỗ đáng phong hầu
Mắt thịt hôn quân dễ biết đâu
Nếu được đôi ba ngàn tử đệ
Ðoạt thâu thiên hạ bốn trăm châu
(Tào châu Hoàng Sào tự Cự Thiên Ðế)
Quân tuần hành đến quán trông thấy bài thơ, liền chép lấy dâng lên vua. Nhà vua tức giận, truyền họa đồ hình Hoàng Sào và ra lệnh tập nã. Hoàng Sào hay tin, không dám đi đường lớn nữa, phải lặn lội trong rừng núi thẳng lên Thái Hành Sơn, chiêu binh mãi mã. Hơn một năm, Hoàng Sào chiêu mộ được trăm muôn binh, thêm một số tướng tá văn võ giỏi, thế lực rất mạnh. Sào tự xưng là Xung thiên Đại tướng quân, đem hơn 10 vạn quân đoạt được nhiều Châu, và vượt qua sông Dương Tử, xuống đánh chiếm miền Giang Nam, ra phía đông đến Chiết Giang, lại đánh Phúc Châu, Kiến Ninh rồi thẳng đường xuống chiếm lấy Quảng Châu. Ở những nơi đây, Hoàng Sào giết hại rất nhiều dân thành thị cùng 20 vạn người ngoại quốc buôn bán gồm những giáo đồ Hồi, Cơ đốc, Bái hoả, người Do Thái và người Ả-rập.
Sau vì miền Nam có bệnh dịch, Hoàng Sào tiến quân lên Bắc. Năm 880 vây hãm Ðông Ðô rồi chiếm lấy Trường An, đánh phá và giết chóc những người quý tộc, quan lại và phú hào, số lượng không kể xiết. Vua Hy Tông bấy giờ phải bỏ hoàng thành, chạy vào đất Thục. Hoàng Sào tự xưng là Ðại Tề Hoàng đế. Thật là thoả chí bình sinh.
Hoàng Sào trước muốn thoả lòng căm hận và muốn cứu muôn dân thoát cảnh lầm than, nhưng đến khi thực hành thì lại chẳng cứu muôn dân mà ngược lại, gây thảm hoạ tang tóc cho muôn dân. Tướng tài Châu Ôn là bộ hạ của Hoàng Sào bất mãn đầu hàng triều đình. Trong số hơn 50 vạn quân của Sào cũng chán ghét Sào, dần dần bỏ trốn theo Châu Ôn. Còn vua Hy Tông sau khi bỏ chạy vào Tứ Xuyên, nhờ người Tây Ðột Quyết (một giống dân ở phía bắc sa mạc châu á) là Lý Khắc Dụng đem quân cứu viện. Nhà Ðường được trung hưng.
Năm 884, Hoàng Sào bị Lý Khắc Dụng đánh bại, rồi bị một tên bộ hạ ám sát tại Biện Châu. Có sách chép là Hoàng Sào đánh trận bị thương nặng, trở về tư dinh đâm cổ tự tử. (Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)
Trong lịch sử Việt Nam chúng tôi thấy có hai trường hợp danh nhân nước Việt đã mượn điển tích Hoàng Sào để bày tỏ chí hướng của mình là:
1-Hải Thượng Lãn Ông, “Ông già lười Hải Thượng” là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác (1720-1791). Ông tinh thông và nổi danh bật nhất về y học cổ truyền. Ông cũng có tài văn chương và được xếp vào lịch sử danh nhân Việt Nam thế kỷ XVIII. Sau hai lần được mời ra chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm, ông xin về ẩn cư tại Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh. Trên đường về quê, ông có làm bài thơ cũng có câu thơ mượn của Hoàng Sào để bày tỏ chí khí của mình:
Lên đường từ giã long lâu
Gươm đàn nửa gánh ra ngay đô thành,
Ngựa quen đường cũ về nhanh,
Quay thuyền khó lúc lênh đênh giữa dòng.
Mây qua đường để bớt nồng
Núi non mở mặt như lòng vì ai
Xanh xanh một dải non đoài
Giống non ta cũ chỉ vài hòn thôi.
(Thượng kinh ký sự).
2- Chí sĩ Ngô Đình Diệm, sau trở thành Tổng-thống Đệ I Cộng Hòa Việt Nam, trước khi thành danh cũng có làm một bài thơ mượn tư tưởng của Hoàng Sào để bày tỏ chí hướng của người trai Việt thời chinh chiến, sẵn sàng dấn thân vào cuộc đời để lèo lái con thuyền Việt Nam trong bối cảnh chính trị phức tạp nhất vào những năm 1950. Năm 1953, Chí sĩ Ngô Đình Diệm đã làm bài thơ Nỗi Lòng để bày tỏ lý tưởng của mình và hoài bão đó đã trở thành sự thật.
Nỗi Lòng
Gươm đàn nửa gánh quảy sang sông
Hỏi bến: Thuyền không lái cũng không!
Xe muối nặng nề thương vó Ký
Đường mây rộng rãi tiếc chim Hồng
Vá trời lấp biển người đâu tá?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông.
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi nước thuở nào trong.
(Vó ký: -Vó: chân ngựa, bước chân ngựa. Ký: tên của một giống ngựa quí, chạy rất nhanh, mỗi ngày chạy được ngàn dặm đường. Người ta thường nói: ngựa Kỳ và ngựa Ký, đều là tuấn mã. Tác giả mượn điển tích Chu Bá Nhạ để nhìn cơ đồ tổ quốc đang như một chiếc xe ngựa thồ muối ì ạch leo dốc mà thương cho những người đang cố gắng vất vả như con ngựa Ký (tương truyền là một giống ngựa giỏi, có thể đi xa, thồ nặng được như không. Chim Hồng: nhìn hoàn cảnh nước nhà như thế, mà tiếc cho cánh chim hồng trước không gian bao la của tương lai dân tộc lại không được bay bổng).
Lời bàn thêm
Sau khi nghiên cứu nhiều bài viết trên nhiều trang nhà (Websites), chúng tôi nhận thấy từ ``đàn´´ được dịch và hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Có nhiều tác giả giải thích chữ ``đàn là cây đàn để chơi âm nhạc´´ (Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp) là một trường hợp; nhưng có những tác giả khác, như Việt Nam Tự Điển trang 406 của Lê Văn Đức định nghĩa Đàn là: Cây cung, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo (K: Kiều); và trường Đại-học Hà Nội cũng giải thích như sau:
``Gươm đàn là từ Việt dịch từ từ Hán Việt: Kiếm cung. Gươm là âm Việt hóa (của từ kiếm cũng như gương là từ Việt hóa của kính, gắng và gượng là từ Việt hóa của cưỡng. Goá là từ Việt hóa của quả. Gần là từ Việt hóa của cận.)
Đàn là từ Hán Việt, là một thứ cung không bắn bằng tên mà bắn bằng đá mài tròn hay đất sét viên tròn rồi nung kỹ. Các viên đó sau này có âm là đạn. Trong truyện Kiều có câu tả về Từ Hải như sau: “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” là mượn từ câu nói của Hoàng Sào, lãnh tụ khởi nghĩa nông dân đời Đường: “Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng / Nhất trạo giang sơn vãn địa duy”. Nghĩa là: nửa vai cung kiếm tung hoành trời đất, một chèo giang sơn kéo lệch đất trời. Trong các bản dịch sang tiếng Pháp, các dịch giả dịch từ đàn thành guitare là không đúng.´´
Cái khó khăn trong việc giải thích Truyện Kiều, như chúng tôi đã trình bày trong các bài đầu, là chúng ta không có bản chính viết bằng chữ Nôm của Cụ Nguyễn Du. Các bản dịch ra tiếng Việt đều dựa vào các bản sao chép lại. Tam sao thất bản (bổn); nên sau này người ta rơi vào tình trạng không biết từ ngữ giải thích nào là đúng.
---------------------
-Tài liệu tham khảo
- vuhuu.edu.vn/Form/Thu_vien/Ebook/dien_tich_kieu/bai60.htm
- ngothelinh.tripod.com/BaiThoNoiLong.html
BY: HOÀNG THẠCH
Sau Khi Bị Đưa Ra Tòa, Rồi Được Kết Hôn,
Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả,
Hoạn Thư ghen lập mưu bắt Kiều để hành hạ khiến nàng phải trốn ra ở Chiêu Ân Am
1- Đại ý đoạn thơ tiếp theo
Sau khi anh chàng đa tình Thúc Sinh cứu Kiều ra khỏi lầu xanh đem về làm vợ lẽ được nửa năm thì những sự rắc rối đã xẩy ra.
-Chuyện rắc rối 1: Cha của Thúc Sinh là Thúc Ông, sau khi biết chuyện, tức giận đòi Thúc Sinh phải trả Kiều về lầu xanh, vì con nhà gia giáo ai lại đi lấy gái làng chơi về làm vợ lẽ, khi chưa có phép. Thấy vậy Thúc Sinh bèn van xin, dù sao chàng đã phạm tội rồi, trời có sai sấm sét đánh tan thây và cha có dùng búa dìu chém chết, chàng cũng đành cam chịu. Vì người xưa thường nói: “Cùng qua một chuyến đò với nhau là nên nghĩa bạn bè và cùng ở một ngày với nhau là nên nghĩa vợ chồng”; nay con và Kiều đã thành vợ chồng rồi làm sao nỡ dứt bỏ; như cây đàn đang gẩy ai nỡ dứt dây? Nếu cha không bằng lòng thì con đành chết đi cho rồi!
Không biết phải giải quyết ra sao, Thúc Ông bèn đem vấn đề trình quan Tri Phủ, để không bị liên hệ và danh dự của gia đình không bị tổn thương. Quan liền ra lệnh đòi hai bị cáo trình diện gấp. Thúc Sinh bị phê phán về tội chơi bời trác táng và Kiều bị kết án mượn son phấn hương thừa đánh lừa người ta: “Tuồng chi hoa thải hương thừa, Mượn màu son phấn đánh lừa con đen”. Quan tòa đưa ra hai giải pháp: một là cứ theo luật mà trị tội kết hôn sái luân lý và bất hợp pháp; hai là Kiều phải tự ý trở về lầu xanh.
Trước hoàn cảnh ngang trái này, Kiều liền bày tỏ tình cảm chân thành đối với Thúc Sinh, quyết từ bỏ lầu xanh và chấp nhận những hình phạt sẽ xẩy ra cho mình. Chân, tay, cổ của Kiều bị cùm và bị đánh đập tàn nhẫn đến nỗi má hồng trở nên xám nhợt, đôi mày liễu bị xác xơ. Nàng đau đớn quằn quại trên sân làm bụi mù bay lên. Khuôn mặt sáng như gương bị nhợt nhạt, thân hình trắng đẹp như tuyết sương bị nhừ đòn trông héo hon như cành mai gầy: “Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày, Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương”. Thấy Kiều rơi vào cảnh bị hành hạ tàn bạo, Thúc Sinh không khỏi đau lòng bèn khóc lớn than van và nhìn nhận mọi tội lỗi do mình gây ra. Quan tòa nghe được gạn hỏi. Thúc Sinh bèn trình bày hoàn cảnh oan khiên nghiệt ngã và tình cảm chân thành của Kiều đối với chàng. Để chứng minh nàng không phải là hạng dân thường, lợi dụng nhan sắc quyến rũ người khác, Thúc Sinh trình với quan phủ nàng có tài bút nghiên. Thấy vậy quan ra lệnh cho Kiều chứng minh tài nghệ. Kiều liền cầm bút viết thành thơ ngay tại chỗ. Thơ hay chữ đẹp khiến quan ca tụng sắc đẹp và tài làm thơ của nàng đáng giá nghìn vàng, không thua gì các thi hào nổi tiếng đời thịnh
Đường: “Khen rằng: Giá đáng Thịnh đường! Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân” và quan cũng khen hai người thật xứng đôi vừa lứa: “Thật là tài tử giai nhân, Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?” Lời khen này xóa án Kiều và Thúc Ông chấp nhận cuộc hôn nhân của con mình do quan tổ chức.
-Chuyện rắc rối 2: Sau một năm làm vợ lẽ Thúc Sinh, Kiều vốn tính ngay thẳng, muốn chàng báo tin này cho vợ cả biết để bà chấp nhận mối tình mới của chàng, để gia đình không rơi vào tình trạng xáo trộn, vì sớm muộn gì mối tình lẽ cũng bị lộ tẩy. Thúc Ông cũng đồng ý cho Thúc Sinh về thăm vợ cả. Khi chàng ra đi Kiều buồn man mác than thầm: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”. Vợ Thúc Sinh là Hoạn Thư, con gái của quan Bộ Lại (Bộ Nội Vụ), gia đình danh giá, đã nghe miệng người ta đồn đại về chồng chơi bời và có vợ lẽ; nhưng trong nhà thì chưa thấy chàng báo cáo gì. Hoạn Thư bực bội vì ghen tức và quyết ra tay trả thù đối thủ đã chia sẻ tình mình: “Làm cho nhìn chẳng được nhau, Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên! Làm cho trông thấy nhãn tiền, Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”. Hai gia nô báo tin đồn, một bị Hoạn Thư tát vào má, một bị bẻ răng. Bà ta cấm họ không được nói, để giữ danh giá cho bà và gia đình: “Chồng tao nào phải như ai, Điều này hẳn miệng những người thị phi!”.
Thúc Sinh về đến nhà vẫn tỏ ra đằm thắm với vợ cả như xưa “Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng”. Không thấy vợ thắc mắc gì, Thúc Sinh tưởng rằng nàng chưa biết thì dại gì phải khai ra? “Nào ai có khảo mà mình đã xưng?”. Hoạn Thư ghen tức lắm, muốn làm lớn chuyện, nhưng lại sợ tai tiếng không chỉ cho chàng mà cho cả mình và dòng họ Hoạn nữa, nên âm thầm tính độc kế. Đường bộ từ Vô Tích đi Lâm Tri bắt Kiều phải mất một tháng, quá lâu, nên Hoạn Thư sai gia nhân đem thuyền và xích sắt đi bắt kiều về hành tội. Trong khi Kiều ở nhà một mình buồn vắng, thắp hương khấn vái cầu cho đời an vui, thì bất ngờ thấy quân gian tay cầm gươm sáng lòa đang đứng ngoài sân. Sau đó nàng bị hương mê bất tỉnh. Bọn gia nô của Hoạn Thư đem một cái xác vô danh bên bờ sông vất vào nhà và đốt nhà. Thúc Ông ở gần nhìn lửa bốc cháy vội vàng chạy qua tìm Kiều, thấy một xác cháy trong phòng, nghĩ nàng đã chết! Thúc Sinh đi thăm vợ cả rồi trở về được cha kể hết mọi chuyện vừa xẩy ra. Chàng đau buồn cho số phận nàng, nhưng muốn tìm hiểu rõ sự thật bèn tìm đến thày đồng bóng nhờ kiếm nàng. Sau khi đốt hương tụng niệm, xuất thần đi tìm hồn ma, cây nhang chưa cháy hết, thày đồng liền nói không thấy mặt Kiều và theo sự việc thì nợ trần của nàng chưa dứt. Phải chờ một năm chàng mới được gặp mặt nàng. Kiếm thấy xác cháy trong phòng làm sao Thúc Sinh có thể tin được lời thày đồng bóng nói nàng còn sống: “Sự nàng đã thế lời thầy dám tin! Chẳng qua đồng cốt quàng xiên”.
Hai tên gia nô sau khi đốt nhà, ôm Kiều xuống thuyền và đưa về cho Hoạn Thư để lập công. Khi tỉnh dậy Kiều thấy mình ở trong phòng lớn của một dinh thự có bảng đề “Thiên Quan Chủng Tể” có nghĩa là nhà của quan cao nhất Triều-đình (vì cha của Hoạn Thư làm Bộ-trưởng Nội-vụ, có quyền thay Vua tuyển chọn, thăng hay giáng chức các quan). Giữa phòng có chiếc giường sang trọng và người đàn bà đang ngồi trên đó là Hoan Thư liền lên tiếng hạch hỏi và mắng nhiếc Kiều “Con này chẳng phải thiện nhân, Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng, Ra tuồng mèo mả gà đồng” (chỉ là loại gái như mèo hoang ngoài nghĩa địa và gà hoang ngoài đồng). Kiều trình bày nỗi lòng và hoàn cảnh thật của mình, nhưng bị Hoạn Thư ra lệnh đánh 30 gậy tre, một trận nhừ tử, rồi đổi tên Thuý Kiều thành Hoa Nô, và ghép nàng vào danh sách gái hầu mặc áo xanh trong nhà. Có mụ quản gia thấy nàng thanh tú đem lòng thương hại, lo giúp đỡ cơm cháo, thuốc thang cho nàng sau trận đòn dã man. Bà cũng khuyên can Kiều đừng tự tử và cẩn thận về thái độ tiếp xúc với người lạ. Kiều than vãn cho cái kiếp “Bạc Mệnh’’ của mình, kiếp khổ nhục trong lầu xanh vừa qua đi, nay lại chịu kiếp làm con ở trong nhà người ta thật là nhục nhã. Qua một thời gian, bất ngờ Tiểu Thư (con gái của Hoạn Thư) về thăm mẹ. Hoạn Thư bèn sai Kiều qua làm nô tì cho con gái mình. Nhân một bữa Tiểu Thư hỏi về tài đàn ca, Kiều bèn gẩy cho nghe và từ đó Tiểu Thư không quá khắt khe đối với Kiều.
Sau khi về Lâm Tri thăm cha và biết Kiều đã bị chết cháy, Thúc Sinh lại trở về Vô Tích thăm vợ cả. Để trả thù kẻ chia sẻ tình nhà, Hoạn Thư sai Thúy Kiều, nay có tên là Hoa nô, bưng rượu ra tiếp chồng. Kiều nhìn ra Thúc Sinh và chàng cũng nhận ra nàng. Hoạn Thư bắt kiều cúi đầu dâng rượu cho Thúc Sinh. Trong lúc hai vợ chồng cụng ly, cười đùa thụ hưởng thì Kiều phải đứng trực hầu, một nỗi nhục khó tả. Dưới mắt Kiều thì Hoạn Thư: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không dao’’. Thúc Sinh thấy hoàn cảnh xót xa của Kiều cũng không cầm được nước mắt, mặt buồn rầu, giả bộ uống đã say và quay đi nơi khác. Hoạn Thư tinh ý, giả bộ hỏi tại sao trong tiệc vui đoàn tụ chồng vợ mà mắt chàng ngấn lệ. Thúc Sinh nói dối rằng, vừa về thăm cha, nhớ tình phụ tử sâu đậm, nay lại phải xa cách, không cầm được nước mắt. Hoạn Thư quá rành việc chồng nói dối và cao tay ấn hơn, lại bắt Kiều nâng ly mời rượu, làm sao cho chàng uống cạn ly để quên sầu. Chưa xong, Hoạn Thư còn bắt Kiều phải mua vui, gẩy đàn cho chàng tươi cười thoải mái. Từ khi gặp Kim Trọng Kiều đã gẩy khúc nhạc bạc mệnh và nay lại nhạc buồn vang vọng bên hai người đang say men tình: “Bốn dây như khóc như than, Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng” Kiều đau xót than thở: “Cùng chung một tiếng tơ đồng, Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm”. Khúc nhạc buồn làm cho Hoạn Thư nổi giận thêm, mắng Kiều là tại mày làm cho chồng tao mất vui, trong lúc vui ai lại gẩy nhạc buồn? Làm nhục Kiều trước mặt chồng, dù mới lần đầu, cũng đủ cho Hoạn Thư vui mừng trong lòng, vì đã trả được mối hận tình. Sau đó hai vợ chồng đưa nhau vào thiên thai, còn Kiều thì cô đơn suốt đêm dài:
“Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài”.
Có ở vào trường hợp làm vợ lẽ mới cảm thấy thân phận hẩm hiu, buồn man mác và bị vợ cả dành hết lợi điểm cho mình. Kiều buồn, nhưng nỗi buồn nhẹ nhàng, hiu hắt, bên bóng đèn khuya. Trong lịch sử văn học Việt Nam, chắc quí vị cao niên cũng còn nhớ cái buồn cho thân phận phải làm vợ lẽ của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương chát chúa hơn, hậm hực hơn:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng!”
Thúc Ông Cáo Quỳ Cửa Công
1385. Nửa năm hơi tiếng vừa quen,
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.
Giậu thu vừa nảy gió sương,
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.
Phong lôi nổi trận bời bời,
Nặng lòng e ấp tính bài phân chia
Quyết ngay biện bạch một bề,
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh.
Thấy lời nghiêm huấn rành rành,
Đánh liều Sinh mới lấy tình nài kêu.
1395. Rằng: Con biết tội đã nhiều,
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam.
Trót vì tay đã nhúng chàm,
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
Cùng nhau vả tiếng một ngày,
1400. ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành.
Lượng trên quyết chẳng thương tình,
Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi.
Thấy lời sắt đá tri tri,
Sốt gan ông mới cáo quì cửa công.
1405. Đất bằng nổi sóng đùng đùng,
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra.
Cùng nhau theo gót sai nha,
Song song vào trước sân hoa lạy quì.
Trông lên mặt sắt đen sì,
Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời:
Gã kia dại nết chơi bời,
Mà con người thế là người đong đưa.
Tuồng chi hoa thải hương thừa,
Mượn màu son phấn đánh lừa con đen.
Suy trong tình trạng nguyên đơn,
Bề nào thì cũng chưa yên bề nào.
Phép công chiếu án luận vào.
Có hai đường ấy muốn sao mặc mình.
Một là cứ phép gia hình,
1420. Một là lại cứ lầu xanh phó về.
Nàng rằng: đã quyết một bề!
Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần.
Đục trong thân cũng là thân.
Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình!
1425. Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương
Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,
Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa.
Khóc rằng: Oan khốc vì ta!
Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau.
1435. Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu.
Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai.
Phủ đường nghe thoảng vào tai,
Động lòng lại gạn đến lời riêng tây.
Sụt sùi chàng mới thưa ngay,
Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân:
Nàng đà tính hết xa gần,
Từ xưa nàng đã biết thân có rày.
Tại tôi hứng lấy một tay,
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi.
1445. Nghe lời nói cũng thương lời,
Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi.
Rằng: Như hẳn có thế thì
Trăng hoa song cũng thị phi biết điều.
Sinh rằng: Chút phận bọt bèo,
Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.
Cười rằng: đã thế thì nên!
Mộc già hãy thử một thiên trình nghề.
Nàng vâng cất bút tay đề,
Tiên hoa trình trước án phê xem tường.
Khen rằng: Giá đáng Thịnh đường!
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!
Thật là tài tử giai nhân,
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?
Thôi đừng rước dữ cưu hờn,
Làm chi lỡ nhịp cho đàn ngang cung.
Đã đưa đến trước cửa công,
Ngoài thì là lý song trong là tình.
Dâu con trong đạo gia đình,
Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.
1465. Kíp truyền sắm sửa lễ công,
Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao.
Bày hàng cổ xúy xôn xao,
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi.
Thương vì hạnh trọng vì tài,
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba.
Huệ lan sực nức một nhà,
Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa
Thúc Ông chấp nhận mối tình Kiều-Sinh, Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả
Mảng vui rượu sớm cờ trưa,
Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh.
1475. Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh,
E tình nàng mới bày tình riêng chung:
Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.
Tin nhà ngày một vắng tin,
Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang.
Nghĩ ra thật cũng nên đường,
Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta?
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
ở vào khuôn phép nói ra mối đường.
1485. E thay những dạ phi thường,
Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!
Mà ta suốt một năm ròng,
Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào
Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,
Hoặc là trong có làm sao chăng là?
Xin chàng kíp liệu lại nhà,
Trước người đẹp ý sau ta biết tình.
Đêm ngày giữ mức giấu quanh,
Rày lần mai lữa như hình chưa thông.
1495. Nghe lời khuyên nhủ thong dong,
Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang.
Rạng ra gửi đến xuân đường,
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia…
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
1525. Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Hoạn Thư Ghen Lập Mưu Bắt Kiều
Kể chi những nỗi dọc đường,
Buồn trong này nỗi chủ trương ở nhà:
Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư
Duyên đằng thuận nẻo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
1535. Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa:
Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
Dại chi chẳng giữ lấy nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
Lại còn bưng bít giấu quanh,
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
1545. Tính rằng cách mặt khuất lời,
Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho!
Lo gì việc ấy mà lo,
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.
Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
1555. Tuần sau bỗng thấy hai người,
Mách tin ý cũng liệu bài tâng công.
Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
Chồng tao nào phải như ai,
1560. Điều này hẳn miệng những người thị phi!
Vội vàng xuống lệnh ra uy,
Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng.
Trong ngoài kín mít như bưng.
Nào ai còn dám nói năng một lời!
Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
Ra vào một mực nói cười như không.
Đêm ngày lòng những dặn lòng,
Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên.
Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
Tẩy trần vui chén thong dong,
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
Chàng về xem ý tứ nhà,
Sự mình cũng rắp lân la giãi bày.
1575. Mấy phen cười nói tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình đã xưng?
Những là e ấp dùng dằng,
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
Có khi vui chuyện mua cười,
Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu.
Rằng: Trong ngọc đá vàng thau,
Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
Khen cho những chuyện dông dài,
Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
Thiếp dù bụng chẳng hay suy,
Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!
Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
Những là cười phấn cợt son,
Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai.
Thú quê thuần hức bén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
1595. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái mấy mùa gió trăng.
Tình riêng chưa dám rỉ răng,
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
Cách năm mây bạc xa xa,
Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn.
Được lời như cởi tấc son,
Vó câu chẳng ruổi nước non quê người.
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
1605. Roi câu vừa gióng dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.
Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen,
Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,
Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.
Lâm Tri đường bộ tháng chầy,
Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.
1615. Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
Làm cho cho mệt cho mê,
Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
Trước cho bõ ghét những người,
1620. Sau cho để một trò cười về sau.
Phu nhân khen chước rất mầu,
Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
Sửa sang buồm gió lèo mây,
Khuyển ưng lại chọn một bầy côn quang.
1625. Dặn dò hết các mọi đường,
Thuận phong một lá vượt sang bến Tề.
Nàng từ chiếc bóng song the,
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
Bóng đâu đã xế ngang đầu,
Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.
Tóc thề đã chấm ngang vai,
Nào lời non nước nào lời sắt son.
Sắn bìm chút phận cỏn con,
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
1635. Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao!
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời.
Nén hương đến trước Phật đài,
Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra.
Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
1645. Thuốc mê đâu đã rưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.
Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
Sẵn thây vô chủ bên sông,
1650. đem vào để đó lộn sòng ai hay?
Tôi đòi phách lạc hồn bay,
Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
Thúc ông nhà cũng gần quanh,
Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời.
1655. Tớ thầy chạy thẳng đến nơi,
Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao.
Gió cao ngọn lửa càng cao,
Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu!
Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng.
Chạy vào chốn cũ phòng hương,
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
Tình ngay ai biết mưu gian,
Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai!
Thúc Sinh Mời Thầy Đồng Tìm Kiều
1665. Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
Di hài nhặt gói về nhà,
Nào là khâm liệm nào là tang trai.
Lễ thường đã đủ một hai,
Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ.
Bước vào chốn cũ lầu thơ,
Tro than một đống nắng mưa bốn tường.
Sang nhà cha tới trung đường,
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
1675. Hỡi ôi nói hết sự duyên,
Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan!
Gieo mình vật vã khóc than:
Con người thế ấy thác oan thế này.
Chắc rằng mai trúc lại vầy,
Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!
Thương càng nghĩ nghĩ càng đau,
Dễ ai lấp thảm quạt sầu cho khuây.
Gần miền nghe có một thầy,
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.
1685. Trên tam đảo dưới cửu tuyền,
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
Sắm sanh lễ vật rước sang,
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
Đạo nhân phục trước tĩnh đàn,
1690. Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.
Trở về minh bạch nói tường:
Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.
Người này nặng kiếp oan gia,
Còn nhiều nợ lắm sao đà thoát cho!
1695. Mệnh cung đang mắc nạn to,
Một năm nữa mới thăm dò được tin.
Hai bên giáp mặt chiền chiền,
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!
Điều đâu nói lạ dường này,
1700. Sự nàng đã thế lời thầy dám tin!
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.
Kiều Bị Bắt Về Hầu Hạ Hoạn Thư
1705. Nước trôi hoa rụng đã yên,
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian.
Khuyển ưng đã đắt mưu gian,
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
Buồm cao lèo thẳng cánh suyền,
Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.
Dỡ đò lên trước sảnh đường,
Khuyển ưng hai đứa nộp nàng dâng công.
Vực nàng tạm xuống môn phòng,
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
1715. Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,
Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?
Bàng hoàng giở tỉnh giở say,
Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.
A hoàn trên dưới giục mau,
Hãi hùng nàng mới theo sau một người.
Ngước trông tòa rộng dãy dài,
Thiên Quan Trủng Tể có bài treo trên.
Ban ngày sáp thắp hai bên,
Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà.
1725. Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,
Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa.
Bất tình nổi trận mây mưa,
Mắng rằng: Những giống bơ thờ quên thân!
Con này chẳng phải thiện nhân,
1730. Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
Ra tuồng mèo mả gà đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
Đã đem mình bán cửa tao,
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này.
1735. Nào là gia pháp nọ bay!
Hãy cho ba chục biết tay một lần.
A hoàn trên dưới dạ ran,
Dẫu rằng trăm miệng không phân lẽ nào.
Trúc côn ra sức đập vào,
Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh.
Xót thay đào lý một cành,
Một phen mưa gió tan tành một phen.
Hoa nô truyền dạy đổi tên,
Buồng the dạy ép vào phiên thị tì.
1745. Ra vào theo lũ thanh y,
Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
Quản gia có một mụ nào,
Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
Khi chè chén khi thuốc thang,
Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.
Dạy rằng: May rủi đã đành,
Liểu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
Cũng là oan nghiệp chi đây,
Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.
1755. ở đây tai vách mạch rừng,
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.
Kẻo khi sấm sét bất kỳ,
Con ong cái kiến kêu gì được oan?
Nàng càng giọt ngọc như chan,
1760. Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây:
Phong trần kiếp chịu đã đầy,
Lầm than lại có thứ này bằng hai.
Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.
1765. Đã đành túc trái tiền oan,
Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi.
Những là nương náu qua thì,
Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.
Mẹ con trò chuyện lân la,
Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
Cho về bên ấy theo đòi lầu trang.
Lãnh lời nàng mới theo sang,
Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu.
1775. Sớm khuya khăn mắt lược đầu,
Phận con hầu giữ con hầu dám sai.
Phải đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
Cửa người đày đọa chút thân,
Sớm ngơ ngẩn bóng đêm năn nỉ lòng.
1785. Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng,
Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau.
Bốn phương mây trắng một màu,
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.
Lần lần tháng trọn ngày qua,
Nỗi gần nào biết đường xa thế này.
Thúc Sinh về thăm quê, Hoạn Thư đem Kiều ra hành hạ trước mặt Thúc Sinh
Lâm Tri từ thuở uyên bay,
Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
Mày ai trăng mới in ngần,
Phần thừa hương cũ bội phần xót xa.
1795. Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
1800. Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
Tiểu thư đón cửa giãi giề,
Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
Nhà hương cao cuốn bức là,
Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.
1805. Bước ra một bước một dừng,
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
Phải chăng nắng quáng đèn lòa,
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
Bây giờ tình mới rõ tình,
Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.
Chước đâu có chước lạ đời?
Người đâu mà lại có người tinh ma?
Rõ ràng thật lứa đôi ta,
Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.
1815. Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
Bây giờ đất thấp trời cao,
Ăn làm sao nói làm sao bây giờ?
Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,
Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
Sợ uy dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
Sinh đà phách lạc hồn siêu:
Thương ơi chẳng phải nàng Kiều ở đây
1825. Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!
Sợ quen dám hở ra lời,
Không ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
Mới về có việc chi mà động dong?
Sinh rằng hiếu phục vừa xong,
Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên.
Khen rằng: Hiếu tử đã nên!
Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu.
1835. Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay.
Sinh càng như dại như ngây,
Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi.
Ngảnh đi chợt nói chợt cười,
Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra.
Tiểu thư vội thét: Con Hoa!
Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.
1845. Sinh càng nát ruột tan hồn,
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.
Tiểu thư cười nói tỉnh say,
Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.
Rằng: Hoa nô đủ mọi tài,
Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe.
Nàng đà tán hoán tê mê,
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
1855. Cùng chung một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.
Tiểu thư lại thét lấy nàng:
Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi?
Sao chẳng biết ý tứ gì?
Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi.
Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.
1865. Giọt rồng canh đã điểm ba,
Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm.
Lòng riêng khấp khởi mừng thầm:
Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay.
Sinh thì gan héo ruột đầy,
Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài:
<h3 style="MARGIN: 12pt 0cm 3pt">2- Chú giải và điển tích: </h3>
-Bề nào thì cũng chưa yên bề nào.
Câu trên có nghĩa: theo luật thì Thuý Kiều dù đã được cứu hoặc tự mình bỏ trốn khỏi lầu xanh cũng phải chờ một thời gian sống lương thiện đã rồi mới được kết hôn. Thúc Sinh, anh chàng sinh viên có vợ là con gái của quan lớn triều đình mà lại cưới một cô gái làng chơi làm vợ lẽ thì phải xin phép quan và cha là Thúc Ông. Kiều và Sinh đã tự ý ăn ở với nhau nửa năm rồi cha mới biết thì coi như sống trái với luật lệ và lễ giáo, nên “Bề nào thì cũng chưa yên bề nào“ là vậy.
-Ba cây chập lại một cành mẫu đơn: Ba cây (tam mộc) là ba cái gông cùm làm bằng gỗ để cùm chân, tay và cổ tù nhân. Theo sử liệu thì Đời Nhà Minh có lệnh nghiêm cấm các gái làng chơi (kỹ-nữ) không được dùng nhan sắc quyến rũ khách đến chơi bời, vì nó sẽ phá hoại gia đình của họ. Quan chức cũng không được phép ăn nằm với gái làng chơi, sợ làm mất danh tiếng cho cá nhân và triều đình Trong những truyện tình sử xưa cũng có ghi một số phụ nữ hành nghề bán dâm bị gông cùm và đánh cho tới chết. Trong một truyện tình sử người ta có nói tới một ông quan Huyện bị tố cáo tư tình với gái làng chơi. Quan trên bắt cô gái để điều tra; nhưng cô này, dù bị tra tấn chết đi sống lại mấy lần, có lúc bị đánh 300 roi, mà cứ nhất quyết nói là ông quan bị vu cáo oan. Kết cục nàng được thả và ông quan Huyện vô can. Ông Huyện vì ân tình đó đã bỏ chức quan, trốn cùng nàng đi sống ẩn dật ở một nơi khác 20 năm mà không ai biết. Khi có lệnh ân xá, hai người mới trở về quê và vui hưởng hạnh phúc gia đình đến trọn đời.
-Mặt sắt đen sì: do điển tích Bao Chửng đời Nhà Tống bên Tầu làm quan Giám Sát Ngự Sử, thay vua đi duyệt xét các vụ án hình sự khó khăn thường sinh ra oan ức cho các bị cáo. Ông là người đoan chính, nghiêm nghị, xét xử công minh nên ai cũng trọng kính. Mặt ông nghiêm lại hơi đen nên người ta gọi ông là Thiết-diện Ngự-sử (ông Ngự-sử mặt đen và lạnh như sắt). Cụ Nguyễn Du mượn tích này để tả vẻ mặt uy nghiêm của quan phủ.
-Châu Trần: Ở một thôn thuộc huyện Phong, tỉnh Giang Tô, xưa kia có hai họ Châu và Trần hứa hễ sinh con thì gả con cho nhau để đời đời kết nghĩa thông gia. Do đó thôn ấy được đặt tên là thôn Châu Trần. Về sau người ta dùng hai tiếng Châu Trần để chỉ những cuộc hôn nhân tốt đẹp, vợ chồng xứng đôi vừa lứa.
Nhà thơ Bạch Cư Dị thời thịnh Đường có những câu thơ về hai họ Châu Trần như sau:
”Từ Châu cố Phong huyện - (Ở huyện Phong xưa đất Từ Châu)
Hữu thôn viết Châu Trần - (có thôn gọi là Châu Trần)
Nhất thôn duy lưỡng tính - (Một thôn chỉ hai họ)
Thế thế vi hôn nhân”. - (đời đời kết làm thông gia).H
BY: HOÀNG THẠCH
I- Đại ý đoạn thơ Kiều gặp Thúc Sinh
Sau khi nghe lời Sở Khanh trốn khỏi lầu Ngưng Bích, nhưng bị bắt lại và bị đánh một trận đòn nhừ tử, Kiều phải ký giấy bảo đảm không trốn nữa và chịu tiếp khách làng chơi. Trong số khách đến lầu xanh có Thúc Sinh tên thật là Thúc Thủ tự là Kỳ Tâm. Thúc Thủ Kỳ Tâm hợp lại cũng có nghĩa là anh chàng sợ vợ. Thúc Sinh ở huyện Vô Tích, Châu Thường, tỉnh Giang-tô, theo cha mẹ buôn bán ở Lâm Tri, thành phố đô hội, nguyên trước là Kinh Đô của nước Tề. Lâm Tri cách xa Vô Tích khoảng 1 tháng đường bộ. Thúc Sinh đã có vợ là Hoạn Thư,
Nghe danh nàng Kiều xinh đẹp tuyệt diệu, Thúc Sinh bèn gửi tấm thiệp hồng để làm quen, rồi bắt đầu tới lui vui chơi vụng trộm. Trước sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành cùng với tài đàn ca quyến rũ và xuất khẩu thành thi của nàng, Thúc Sinh càng ngày càng mê mẩn, có bao nhiêu tiền đều ném vào lầu xanh để được tìm thú vui xác thịt: “Trăm nghìn đổ một trận cười như không”. Kiều đẹp như pho tượng mỹ thuật, với những đường nét tuyệt tác mà thiên nhiên đã tạo thành “Rõ màu trong ngọc trắng ngà, Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên” thế mà Thúc Sinh lại hiểu lầm nàng là con của mụ Tú Bà thô lỗ và mập ú mới khổ! Thất vọng bởi anh chàng được thấy, được nghe mà không tin lòng nàng, không thông cảm thân phận và gia cảnh nàng, qua ánh mắt Kiều tỏ ra buồn bã. Trong thâm tâm Kiều nghĩ anh chàng này có lẽ chỉ là kẻ chơi qua đường chứ có tình nghĩa gì: “Thiếp như hoa đã lìa cành, Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.” Nhưng cuối cùng từ tình dục giải trí dẫn đến tình yêu lứa đôi. Thúc Sinh quyết định cưới Kiều làm vợ: “Trước còn trăng gió sau ra đá vàng”. Kiều lo xa, chàng ta đã có vợ rồi, nay cưới mình nữa thì tránh sao khỏi cảnh tai tiếng cho chàng “Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng”. Nhưng Thúc Sinh quá yêu nàng, quyết định dứt khoát lấy nàng dù nguy khốn thế nào cũng cam chịu: “Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều”. Chàng tìm mọi cách thương lượng với Tú Bà để chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh và dấu nàng một nơi, vì sợ vợ cả biết! Thế là Kiều bất ngờ được giải thoát, hết nợ về phía quan quyền lẫn tư nhân, được sống cuộc đời tự do trở lại: “Công tư hai lẽ đều xong, Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.”
Lời bàn thêm:
Ngày nay cũng vậy, một số cô gái con nhà lành, vì chữ hiếu hay vì cảnh nghèo khổ của gia đình đã bị các Tú Bà hay các tổ chức chuyên buôn bán phụ nữ lừa dối. Bọn này tìm cách gạ gẫm cha mẹ hay đương sự bằng cho một số tiền. Đôi khi chúng hứa sẽ kết hôn hay làm môi giới hôn nhân hoặc đưa người con gái đi làm việc với số lương cao tại một thành phố, thủ đô hay xuất ngoại. Nhưng cuối cùng các phụ nữ đáng thương này bị bắt hành nghề mãi dâm. Khi bị bán rồi, ít có người có cơ hội trốn thoát vì giấy tờ tuỳ thân bị chúng thu hết và bị hăm dọa, nếu bỏ trốn, chúng sẽ giết cha mẹ, kể cả bản thân các nạn nhân. Trong trường hợp quá thương tâm hay vì lòng nhân đạo hiếm hoi còn lại thì chúng bắt nạn nhân phải hoàn trả một số tiền lớn gấp 5, 10 lần tiền chúng ứng cho cha mẹ hoặc đưa cho nạn nhân và tiền di chuyển.
Khi cô nào không chịu làm theo lệnh, có khi bị ép tiếp 10-15 khách một ngày, thì bị chúng đánh đập tàn nhẫn, như trường hợp Tú Bà hành hạ Thúy Kiều. Nếu cô nào phản đối quá đáng có thể bị chúng hủy hoại một phần thân thể. Phần lớn các trường hợp của một số phụ nữ được giải cứu là do người đi tìm hoa bắt bướm động lòng thương muốn ra tay giúp đỡ. Thúc Sinh trong truyện Kiều là một trường hợp điển hình. Cũng có khi cảnh sát chìm giả làm người đi chơi bời, rồi lần mò ra đường dây buôn bán phụ nữ. Các phóng viên và các hội tranh đấu nhân quyền cho phụ nữ bị bán vào ổ mãi dâm cũng can thiệp bằng nhiều cách như: công bố số điện thoại cứu cấp trên báo chí, hệ thống truyền thanh hay truyền hình, hoặc theo dõi tới nơi tạm trú của nạn nhân để can thiệp và thông báo cho cảnh sát. Có cô khôn ngoan, dù bị nhốt trong khu vực kín, đã viết miếng giấy cầu cứu ném qua cửa sổ và khách bộ hành nhận được đưa trình cảnh sát.
Trên đây là trường hợp của nhiều phụ nữ Thái Lan và Đông Âu, một số người có con còn ở nước họ, bị các tổ chức buôn phụ nữ lừa sang Âu Châu trong đó có Đan Mạch. Thay vì được đi làm một việc như lời hứa; các phụ nữ này lại bị giam vào lầu xanh! Đài truyền hình Đan Mạch cũng đã chiếu một số trường hợp các nạn nhân đã cầu cứu và được giải thoát.
Đưa ra lời bàn thêm này, chúng tôi muốn cảnh giác các gia đình và phụ nữ Việt Nam: “Hãy thận trọng”. Nếu lỡ bị rơi vào hoàn cảnh bất đắc dĩ thì hãy tìm phương pháp thoát nạn như nêu ở trên. Điều quan trọng là phải cẩn thận và khôn ngoan. Nếu không lại như Thuý Kiều bị Sở Khanh lường gạt!
Đưa ra lời bàn thêm này, chúng tôi muốn chứng minh: “Tại sao người ta khen truyện Kiều, một tuyệt tác thi văn?” Phải chăng nó chứa ẩn những bài học quí giá trong xã hội và đầy tính nhân bản?
KIỀU GẶP THÚC SINH
1275. Khách du bỗng có một người,
Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.
Vốn người huyện Tích châu Thường,
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm tri.
Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,
1280. Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào.
Trướng tô giáp mặt hoa đào,
Vẻ nào chẳng mặn nét nào chăng ưa?
Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng.
1285. Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng,
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?
Lạ gì thanh khí lẽ hằng,
Một dây một buộc ai giằng cho ra.
Sớm đào tối mận lân la,
1290. Trước còn trăng gió sau ra đá vàng.
Dịp đâu may mắn lạ dường,
Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê.
Sinh càng một tỉnh mười mê,
Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân.
1295. Khi gió gác khi trăng sân,
Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ.
Khi hương sớm khi trà trưa,
Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn.
Miệt mài trong cuộc truy hoan,
1300. Càng quen thuộc nết càng dan díu tình.
Lạ cho cái sóng khuynh thành,
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi.
Thúc sinh quen thói bốc rời,
Trăm nghìn đổ một trận cười như không.
Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông.
Buồng the phải buổi thong dong,
1310. Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa.
Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Sinh càng tỏ nét càng khen,
Ngụ tình tay thảo một thiên luật đường.
1315. Nàng rằng: Vâng biết lòng chàng.
Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.
Hay hèn lẽ cũng nối điêu,
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
Lòng còn gửi áng mây Hàng.
1320. Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay
Rằng: Sao nói lạ lùng thay!
Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra?
Nàng càng ủ dột thu ba,
Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh:
1325. Thiếp như hoa đã lìa cành,
Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.
Chúa xuân đành đã có nơi,
Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm chi.
Sinh răng: Từ thuở tương tri,
1330. Tấm riêng riêng những nặng vì nước non.
Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
Nàng rằng: Muôn đội ơn lòng.
Chút e bên thú bên tòng dễ đâu.
1335. Bình Khang nấn ná bấy lâu,
Yêu hoa yêu được một màu điểm trang.
Rồi ra lạt phấn phai hương,
Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?
Vả trong thềm quế cung trăng,
1340. Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong.
Bấy lâu khăng khít dải đồng,
Thêm người người cũng chia lòng riêng tây.
Vẻ chi chút phận bèo mây,
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
1345. Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?
Như chàng có vững tay co,
Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.
Thế trong dù lớn hơn ngoài,
1350. Trước hàm sư tử gửi người đằng la.
Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.
Ở trên còn có nhà thông,
Lượng trên trông xuống biết lòng có thương?
1355. Sá chi liễu ngõ hoa tường?
Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh.
Lại càng dơ dáng dại hình,
Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng.
Thương sao cho vẹn thì thương.
1360. Tính sao cho trọn mọi đường thì vâng.
Sinh rằng: Hay nói đè chừng!
Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao
Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
1365. Đã gần chi có điều xa?
Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều.
Cùng nhau căn vặn đến điều,
Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.
Nỉ non đêm ngắn tình dài,
1370. Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.
Mượn điều trúc viện thừa lương,
Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi.
Chiến hòa sắp sẵn hai bài,
Cậy tay thầy thợ mượn người dò la.
1375. Bắn tin đến mặt Tú bà,
Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao.
Rõ ràng của dẫn tay trao,
Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công.
Công tư hai lẽ đều xong,
1380. Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.
Một nhà sum họp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
Hương càng đượm lửa càng nồng,
Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen
II- Chú giải
1275. Khách du: Khách đi chơi, đi du lãm.
1276. Kỳ Tâm: Tên của họ Thúc, theo truyện Thanh tâm tài nhân thì Kỳ Tâm là tên tự của Thúc sinh.
1277. Huyện Tích, Châu Thường: tức huyện Vô Tích, phủ Thường Châu, thuộc tỉnh Giang Tô (Trung Quốc).
1278. Nghiêm đường: Tức cha. Cha tính nghiêm nghị, mẹ tính hiền từ, nên người ta gọi cha là “nghiêm đường”, “nghiêm phụ”, mẹ là “từ mẫu”, “từ thân”.
1279. Thiếp hồng: Do chữ hồng tiên, thứ thiếp hồng gửi thăm người đẹp. Hương khuê: Phòng hương, phòng ở của phụ nữ, tục xưa phụ nữ hay dùng hương thơm, nên gọi là “hương khuê”.
1281. Trướng tô: do chữ lưu tô trướng, thứ màn có tua kết bằng lông chim năm sắc.
1287. Lẽ hằng: Lẽ thường như thế.
1289. Đào mận: Nói bóng sắc đẹp của người con gái.
1290. Đá vàng: Chỉ sự đồng tâm gắn bó với nhau.
1296. Chuốc: So chữ Chước, rót rượu mời nhau.
Nối thơ: Nối câu thơ, do chữ “liên cú” một lối chơi của các tao nhân mặc khách thời xưa, thường hai người, hoặc nhiều người nối lời nhau làm chung một bài thơ.
1297. Hương sớm, trà trưa: Xông hương buổi sớm, uống trà buổi trưa.
1298. Bàn vây: Bàn cờ vây. Trung Quốc có hai lối chơi cờ: Vi kỳ: Cờ vây, Tượng kỳ: tức cờ tướng.
1299. Truy hoan: Theo đuổi sự vui chơi.
1301. Sóng khuynh thành: Cái liếc nhìn của người đàn bà đẹp cũng đủ làm đổ thành..
1303. Bốc rời: Tiền rời cứ bốc từng nắm mà chi, không cần đếm là bao nhiêu, ý nói phung phí không tiếc tiền.
1306. Hơi đồng: Tức mùi tiền bạc. Thời xưa, tiền tiêu đúc bằng đồng, nên nói “đồng” tức là tiền.
1308. Lửa lựu: Hoa lựu khi nở trông đỏ chói như lửa, chỉ cảnh mùa hè.
1312. Ý nói Kiều có một thân thể đầy đặn xinh đẹp.
1314. Luật Đường: Tức lối thơ ngũ ngôn luật (luật năm chữ) hay thất ngôn luật (luật bảy chữ),mỗi bài tám câu, năm vần, theo đúng niêm luật bằng trắc. Lối thơ này có từ đời Đường, nên gọi là luật Đường.
1318. Nỗi quê: Nỗi lòng nhớ quê hương.
1322. Cành kia, cỗi này: Chỉ Kiều và Tú bà. Thúc sinh tưởng Kiều là con đẻ của Tú bà.
1323. Thu ba: Sóng mùa thu, chỉ con mắt (nói con mắt trong suốt như suối mùa thu).
1327. Chúa xuân: Người chủ vườn xuân, chủ hoa xuân, đây chỉ Thúc sinh. Câu này ý nói: Thúc Sinh ở nhà đã có vợ rồi.
1329. Tương tri: Hiểu biết nhau, thông cảm với nhau.
1330. Nước non: Sông núi tức lời thề nguyền kết làm vợ chồng.
1334. Thú, tòng: Thú là “thú thiếp”: lấy vợ lẽ, chỉ Thúc sinh; tòng “tòng lương”: trở về lương, tức bỏ chỗ lầu xanh để trở về, đi lấy chồng, chỉ Kiều. Hai bên cùng gặp nhiều khó khăn.
1335. Bình khang: Đời Đường, ở kinh thành Trường An, gần cửa Bắc, có một xóm gọi là Bình Khang cho kỹ nữ ở, sau chỉ chung xóm kỹ nữ.
1339. Thềm quế: Thềm điện quế. Dâu đương tạp trở chép: Trên mặt trăng có cây quế tiêu, cao năm trăm trượng, do đó, khi tả mặt trăng, người ta thường dùng chữ điện quế, cung quế.
1340. Chị Hằng: Chị Hằng Nga, người chủ trong điện quế, nói bóng vợ cả Thúc sinh.
1341. Giải đồng: Giải đồng tâm.
1342. Thêm người, người cũng... chữ người chỉ Kiều, chữ người dưới chỉ Thúc sinh.
1343. Bèo mây: Nói thân phận trôi nổi bất định như bèo mặt nước, mây trên không.
1344. Bể ái: Bể ân ái, tức tình yêu vợ chồng.
1347. Vững tay co: Cái tay co vững. Kiều nói: Nếu chàng có cứng tay, tức có quyền lực đối với vợ cả.
1349. Trong ngoài: Chỉ vợ cả và Thúc sinh. Theo lễ giáo xưa: Nam tự ngoại, nữ tự nội: Đàn ông trông coi việc bên ngoài, đàn bà trông coi việc trong nhà. Ý Kiều nói: Nếu thế lực vợ cả lớn hơn thế lực chàng.
Đằng la: Những loài dây leo (chính nghĩa là dây bìm, dây tơ hồng) dây dùng như chữ cát đằng dây bìm, ví với phận lẽ mọn.
1352. Một số cố lão ở Nghệ - Tĩnh thuộc hai chữ đầu câu này là Dấm vùi hay Nhúm vùi. Ý nói: lửa bếp vùi âm ỉ cháy (chỉ thói ghen tuông) còn khó chịu hơn cả lửa hồng.
1353. Nhà thông: Nhà thung, đọc chệch ra, tức nhà xuân, do chữ xuân đường chỉ bố Thúc sinh.
1355. Liễu ngõ, hoa tường: Nói ví gái lầu xanh như liễu bên đường, hoa đầu tường, ai vịn ai hái cũng được.
1363. Ngô, Lào: Nước Ngô (Trung Quốc), nước Lào (Ai Lao) tác giả dùng nghĩa bóng. Ý nói: đừng nghĩ ngợi xa xôi, quanh quẩn làm gì.
1366. Phong ba: Sóng gió, chỉ sự bất trắc xẩy ra.
1370. Non đoài: Núi ở phía tây.
1371. Trúc viện: Viện trúc, nơi nghỉ mát có trồng trúc xung quanh.
Thừa lương: Hóng mát, nghỉ mát, Thúc sinh mượn cớ là đưa Kiều đi hóng mát.
1376. Thua cơ: Thua mưu, thua mẹo của Thúc sinh.
1378. Hoàn lương: bỏ nghề cũ chốn lầu xanh trở về đời lương thiện.
1380. Trần ai: Bụi bậm chỉ cảnh lầu xanh.
1381. Trúc, mai: Chỉ sự giao kết thân mật của vợ chồng.
1383. Hương lửa: Chỉ tình duyên vợ chồng.
1384. Ngọc, sen: Hai câu tỏ ý “sum họp” mai trúc đã về một nhà.
III- Điển tích
-Mây Hàng: Là mây trên dẫy núi Thái Hàng. Theo tích xưa thì ông Địch Nhân Kiệt đời nhà Đường đi làm quan ở nơi xa nhớ nhà, mỗi khi nhìn đám mây hồng trên núi Thái Hàng ông nói cha mẹ mình đang ở dưới đám mây đó. Khi Thúc Sinh muốn Kiều ứng thơ thì nàng nói nhớ cha mẹ “Lòng còn gửi áng (đám) mây Hàng”, nên không làm thơ được. Theo cụ Đàm Duy Tạo, một người thông hiểu Hán-Nôm thì nhiều nơi (Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ) ghi là “mây vàng” giảng giải theo câu thơ cổ “Thiên thượng hoàng vân ảnh, Du thử hà thí quy” (Trên trời có đám mây vàng, Kẻ đi xa bao giờ về) trái nghĩa, vì câu thơ này có nghĩa người ở nhà nhớ người đi xa.
-Nối điêu: Nối đuôi con điêu. “Điêu” là một loài chuột ở rừng núi miền lạnh, đuôi to, lông dài đến một tấc, màu vàng hoặc đen tía. Đời Hán, theo quan chế, các quan hầu cận vua đều đội thứ mũ có cắm đuôi con điêu. Đến đời Tần, Triệu Vương Luân cướp ngôi Huệ đế, phong quan tước cho bọn tôi tớ, mỗi khi triệu hội, ngồi đầy những người đội mũ đuôi điêu, nên người thời ấy đã chê giễu: Điêu bất tức, cầu vĩ tục (đuôi điêu không đủ, lấy đuôi chó nối vào). Người sau nhân chữ cẩu vĩ tục điêu (nối điêu) để chỉ sự việc gì có tính chất học đòi. Chữ “nối điêu” ở đây, là lời Kiều tự khiêm về việc họa lại thơ Thúc sinh.
-Lửa lựu: do chữ lựu hỏa dịch ra. Theo tục xưa thì các vua bên Tầu mỗi năm thường khoan một thứ gỗ, lấy lửa cho dân chúng. Về mùa hè thì khoan gỗ lựu lấy lửa, nên gọi là lựu hỏa. Câu này tả hoa lựu mầu đỏ về mùa hè.
-Buồng the phải buổi thong dong: chữ “buổi” trong câu này ý nói ngày mùng 5 tháng 5, tức Tết Đoan Ngọ. Người Tầu và người Việt thời xa xưa cho rằng: vào ngày Tết Đoan Ngọ mà vợ chồng và trai gái mà giao hợp thì chỉ trong vòng 3 tháng thế nào cũng chết một trong hai hay cả đôi. Chính vì việc kiêng cữ như thế mà tối hôm đó Kiều mới được nghỉ xả hơi, không bị tiếp khách.
-Hàm sư tử: (1350): Đời Tống, Trần Tháo, hiệu Long Khâu cư sĩ, hay nói chuyện đạo Phật, vợ là Liễu thị, tính dữ tợn mà hay ghen. Mỗi khi Tháo thiết tiệc tân khách, có ca kỹ, thì ở trong nhà, Liễu thị lấy gậy đập vào vách, hò hét, khách phải giải tán. Tồ Thức, Bạn Tháo, viết mấy câu thơ đùa:
Thùy tự Long Khâu cư sĩ hiền,
Đàm không thuyết hữu dạ bất miên,
Hốt văn Hà Đông sư tử hống
Trụ trượng lạc thủ tấm mang nhiên.
Dịch nghĩa:
Ai giỏi như Long Khâu cư sĩ
Nói những thuyết không, thuyết có, đêm không ngủ
Bỗng nghe sử tử Hà Đông rống lên
Tay rơi gậy chống, lòng bàng hoàng.
-Ngô Lào: Ca dao Việt Nam có câu: “Chơi cho nước Tấn sang Hồ, Nước Tần sang Sở, nước Ngô sang Lào”. Câu này có nghĩa nói chuyện vẩn vơ, xa xôi quá.
-Chiến, hòa: ở đây, chiến là chuyện kiện cáo, hòa là lựa cách điều đình. Theo Kim vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân: Thúc sinh đưa Kiều về ở nhà Hoa Dương, một tay hào phú xứ ấy, rồi một mặt cậy Hoa Dương rêu rao về tội mua con gái nhà lương thiện về làm gái điếm, một mặt mượn Bộ Tần đến điều đình việc chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh.
-Tào khang: bã rượu cám. Người vợ cùng ăn bã, ăn cám với nhau, tức là người vợ cả lấy từ lúc còn hàn vi. Vua Quang Vũ nhà Hán muốn đem người chị gái mới góa là công chúa Hồ Dương gả cho Tống Hoằng, nhưng Hoằng đã có vợ. Vua hỏi ý Hoằng, Hoằng thưa: Tào khang chi thê, bất hạ đường, nghĩa là người vợ lấy trong lúc ăn tấm, ăn cám, không thể để xuống dưới nhà, ý nói không thể khinh rẻ, phụ bạc. Vua biết ý vậy, liền thôi.
BY: HOÀNG THẠCH
1-Đại ý đoạn thơ Kiều bị rơi vào bẫy của Tú Bà và Sở Khanh
Kiều một mình ở trong lầu Ngưng Bích lòng buồn rã rượi bèn ngâm một vài câu thơ. Vén màn cửa sổ nàng bỗng nhìn xuống đường thì thấy có chàng trai khôi ngô tuấn tú trông lên phòng mình. Sau hỏi ra nàng biết người đó tên Sở Khanh. Thấy nàng đẹp như Hằng Nga, hắn làm ra vẻ si tình và trách móc trời đất sao nỡ để người đẹp phải gian truân thế này. Đối với Kiều thì hành vi cử chỉ của anh này như có vẻ hứa hẹn và nếu có cơ hội anh ta sẽ giải thoát mình. Làm như hiểu được tâm sự của hắn, Kiều bèn lấy giấy viết thư, kể lể về hoàn cảnh và mong được giải thoát. Sáng ngày hôm sau Kiều nhờ người chuyển thư cho người thanh niên xa lạ. Ngay chiều hôm đó nàng nhận được thư trả lời. Hắn hẹn vào ngày hai mươi mốt, giờ Tuất (19giờ tới 21 giờ) sẽ đến đón nàng trốn đi.
Chiều hôm hẹn ước nàng chờ mãi tới lúc trăng mọc mới thấy cành lá hướng Đông lay động và người thanh niên rón rén bước vào trong lầu Ngưng Bích. Vừa gặp anh ta, Kiều liền quì sụp xuống đất van xin người ân nhân hãy cứu mình ra khỏi chốn bợn nhơ này. Sở Khanh làm ra vẻ là người nghĩa khí sẵn sàng cứu giúp nàng bằng bất cứ giá nào qua câu: "Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi!". Khi Kiều hỏi anh ta cứu nàng bằng cách nào thì Sở Khanh nói rằng hắn có ngựa truy phong và tên vệ sĩ sẽ giúp nàng trốn đi. Hắn còn làm ra vẻ hiểu biết "Tam thập lục kế" (36 kế) trong binh pháp Tổn Tử mà "Tẩu" (chạy trốn) là kế hay nhất. Hắn cũng hứa nếu có vấn đề gì xẩy ra, hắn sẽ ra tay giải quyết. Tuy nghe Sở Khanh nói có vẻ huênh hoang, nhưng không còn đường nào thoát thân khỏi chốn ăn chơi truỵ lạc bằng cách bỏ trốn, Kiều đành "Cũng liều nhắm mắt đưa chân, Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu!’
Trời về khuya, tiếng gà gáy trong đêm làm cho Kiều bồi hồi sợ hãi. Sở Khanh và Kiều mỗi người một ngựa trốn khỏi lầu Ngưng Bích, phía sau có cận vệ đi theo. Khi hai người cưỡi ngựa được một quãng thì Sở Khanh bỗng quất ngựa chạy biến mất. Trong lúc Kiều còn đang phân vân không biết đi về hướng nào thì bọn tay sai của Tú Bà ào tới bắt nàng. Kiều bị dẫn về. Tú Bà nổi nóng, không chỉ chửi mắng thậm tệ mà còn đánh đập Thuý Kiều rất dã man: ”Thịt da ai cũng là người, uốn lưng thịt đổ cất đầu máu sa”. Biết mình có lỗi, Kiều phân bua với Tú Bà: "Bây giờ sống chết ở tay, Thân này đã đến thế này thì thôi!" Để chắc ăn, Tú Bà bắt Mã-Kiều phải làm bản bảo đảm không trốn khỏi lầu xanh mới được tha. Cuối cùng nàng đành đau đớn chấp nhận bán cái trinh tiết của mình cho khách làng chơi: "Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!" (*) Kế tiếp là đoạn thơ Tú Bà dậy nghề hành lạc cho Thuý Kiều.
Chúng tôi mạn phép không đăng đoạn thơ Tú Bà dậy Kiều hành nghề mãi dâm, mà các đấng nam nhi khoái bàn khi uống rượu ngâm thơ, cấm đàn bà con nít tới gần. Đoạn thơ dâm tục này cũng là lý do tại sao các cụ nhà ta ngày xưa ngăn cấm "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều!" Đối với thời nay, nghệ thuật yêu đương không còn là chuyện cấm kỵ mà là phương pháp cần thiết cho nam nữ, không chi để gia tăng tình yêu, mà còn bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Thi hào Nguyễn Du chỉ tả cảnh Tú Bà tra tấn Kiều tóm tắt qua hai câu thơ ”Thịt da ai cũng là người, uốn lưng thịt đổ cất đầu máu sa” nên có thể chúng ta chưa hình dung được trận đòn ác nghiệt này. Để quí độc giả thấy rõ cái cực hình mà Tú Bà đã dành cho nàng, chúng tôi ghi lại nội dung đoạn thơ này trong nguyên tác Hán văn ”Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Tử (Nhân) được Tô Nam Nguyễn đình Diệm dịch ra Việt Ngữ (Văn Hóa tùng thư - Nha Văn Hóa, Phủ Quốc-Vụ-Khanh Đặc trách Văn-Hóa xuất bản 1971) như sau:
"Khi về đến nhà, mụ Tú sai lôi nàng vào trong xó, lột hết áo quần, cả đến mảnh vải quấn chân cũng tháo trơn trọi, rồi dùng dây thừng quàng vào trước ngực, ruồn sang qua nách, bắt tréo về sau lưng, rồi buộc chặt hai đầu ngón tay cái treo lên xà nhà, để cách mặt đất ba tấc, chỉ đủ cho đầu ngón chân chấm tới mặt đất. Còn mình mảy thì để lõa lồ chỉ còn sót lại có một cái khố, khiến nàng hổ thẹn muốn chết. Nhưng tính mệnh lúc ấy ở trong tay người thì còn biết làm thế nào? Nên đành nhắm nghiền hai mắt để mặc chúng hành hạ mà thôi. Tú bà đánh Kiều cả thẩy ba lần, mỗi lần hai ba chục roi da... mà ”mỗi một roi vút, tức thì một lần tấm thân bị quay, luôn luôn quay tít chẳng dừng” Nói theo tiếng lóng hiện đại, Tú bà bắt Thúy Kiều đi ”máy bay”. Lần cuối, Tú bà toan đánh thêm 100 roi nữa nhưng mụ vừa đánh được 2. 3 roi thì thân thể nàng quay tít như cái chong chóng, 10 đầu ngón tay, máu chẩy ròng ròng, đầu tóc xõa xuống rũ rượi, nước bọt trong miệng trào ra, máu cũng theo giọt nước mắt chảy xuống. Chị em đồng nghiệp trông thấy quang cảnh như vậy, nhất tề quỳ xuống xin tha cho nàng!”
Kiều Mắc Lận Sở Khanh
1055. Chung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu lạc, nên vài bốn câu.
Ngậm ngùi rủ bước rèm châu,
Cách tường, nghe có tiếng đâu họa vần.
Một chàng vừa trạc thanh xuân,
1060. Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
Bóng Nga thấp thoáng dưới mành,
Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai.
1065. Than ôi! Sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
Giá đành trong nguyệt trên mây,
Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa?
Tức gan riêng giận trời già,
1070. Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng?
Thuyền quyên ví biết anh hùng,
Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi!
Song thu đã khép cánh ngoài,
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh.
1075. Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,
Cám lòng chua xót, nhạt tình chơ vơ.
Những là lần lữa nắng mưa,
Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi?
Đánh liều nhắn một hai lời,
1080. Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
Mảnh tiên kể hết xa gần,
Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài.
Tan sương vừa rạng ngày mai,
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang.
1085. Trời tây lãng đãng bóng vàng,
Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi.
Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành tích việt có hai chữ đề.
Lấy trong ý tứ mà suy:
1090. Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành.
Tường đông lay động bóng cành,
Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào.
1095. Sượng sùng đánh dạn ra chào,
Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần.
Rằng: Tôi bèo bọt chút thân,
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh.
Dám nhờ cốt nhục tử sinh,
1100. Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau!
Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu:
Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng!
Nàng đà biết đến ta chăng,
Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi!
1105. Nàng rằng: Muôn sự ơn người,
Thế nào xin quyết một bài cho xong.
Rằng: Ta có ngựa truy phong,
Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi.
Thừa cơ lẻn bước ra đi,
1110. Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn.
Dù khi gió kép, mưa đơn,
Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì!
Nghe lời nàng đã sinh nghi,
Song đà quá đỗi, quản gì được thân.
1115. Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu!
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu,
Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn.
Đêm thâu khắc lậu canh tàn,
1120. Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.
Lối mòn cỏ nhợt mù sương,
Lòng quê đi một bước đường, một đau.
Tiếng gà xao xác gáy mau,
Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng.
Nàng càng thổn thức gan vàng,
Thúy Kiều Chịu Tiếp Khách
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!
Một mình khôn biết làm sao,
Dặm rừng bước thấp, bước cao hãi hùng.
Hóa nhi thật có nỡ lòng,
1130. Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau!
Một đoàn đổ đến trước sau,
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời.
Tú bà tốc thẳng đến nơi,
Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà.
1135. Hung hăng chẳng nói chẳng tra,
Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời.
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau.
Hết lời thú phục, khẩn cầu,
1140. Uốn lưng thịt đổ (1), cất đầu máu sa.
Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây.
Bây giờ sống chết ở tay,
Thân này đã đến thế này thì thôi!
1145. Nhưng tôi có sá chi tôi,
Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?
Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa! (2)
Được lời mụ mới tùy cơ,
1150. Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu.
Bày vai có ả Mã Kiều,
Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan.
Mụ càng kể nhặt, kể khoan,
Gạn gùng đến mực, nồng nàn mới tha.
1155. Vực nàng vào nghỉ trong nhà,
Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:
Thôi đà mắc lận thì thôi!
Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?
Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
1160. Một tay chôn biết mấy cành phù dung!
Đà đào lập sẵn chước dùng,
Lạ gì một cốt một đồng xưa nay!
Có ba mươi lạng trao tay,
Không dưng chi có chuyện này, trò kia!
1165. Rồi ra trở mặt tức thì,
Bớt lời, liệu chớ sân si, thiệt đời!
Nàng rằng: Thề thốt nặng lời,
Có đâu mà lại ra người hiểm sâu!
Còn đương suy trước, nghĩ sau,
1170. Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào.
Sở Khanh lên tiếng rêu rao:
Rằng nghe mới có con nào ở đây.
Phao cho quyến gió rủ mây,
Hãy xem có biết mặt này là aỉ
1175. Nàng rằng: Thôi thế thì thôi!
Rằng không, thì cũng vâng lời là không!
Sở Khanh quắt mắng đùng đùng,
Sấn vào, vừa rắp thị hùng ra tay,
Nàng rằng: Trời nhé có hay!
1180. Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai?
Đem người giẩy xuống giếng khơi,
Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!
Còn tiên tích việt ở tay,
Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai?
1185. Lời ngay, đông mặt trong ngoài,
Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương!
Phụ tình án đã rõ ràng,
Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui.
Buồng riêng, riêng những sụt sùi:
1190. Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân.
Tiếc thay trong giá trắng ngần,
Đến phong trần, cũng phong trần như ai!
Tẻ vui cũng một kiếp người,
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!
1195. Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!
Dù sao bình đã vỡ rồi,
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!
<h3 style="MARGIN: 12pt 0cm 3pt">2-Chú giải </h3>
-Vì giới hạn số trang của báo, chúng tôi giảm bớt một số câu thơ và không chú giải từ ngữ.
(1): có nơi ghi "xương nổ" có nghĩa khi Kiều cong lưng đập đầu xuống đất rồi ngẩng đầu lên liên tiếp (theo kiểu đập đầu van xin tha tội) thì các khớp xương lưng nghe răng rắc, như khi người ta bẻ các đốt ngón tay. Vì đập đầu xuống đất (sàn) nhiều lần, nên khi nàng ngẩng đầu lên thì máu mũi chảy ra!
(2): có nơi ghi: "đến giờ"
(*) -Câu thơ 1148:
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!
Được lời mụ mới tùy cơ,
Câu thơ Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa! là của cụ Trương Vĩnh Ký và Kiều Oánh Mậu biên khảo, chứ chưa hẳn của thi hào Nguyễn Du. Theo các bản Kim Vân Kiều tân truyện do nhà Liễu Văn Đường khắc in chữ Nôm năm 1871 và nhà Quan Văn Đường khắc in năm 1879 thì câu thơ trên được chép là: “Xót lòng trinh bạch từ lâu đến giờ”.
Theo thiển ý của chúng tôi thì câu " Xót lòng trinh bạchtừ lâu đến giờ" có lẽ thích hợp hơn, vì nó hợp vận một cách chặt chẽ với chữ "cơ" trong câu 6 chữ tiếp theo: "Được lời mụ mới tùy cơ".
<h3 style="MARGIN: 12pt 0cm 3pt">3- Điển tích</h3>
a)-Tháo cũi sổ lồng (câu 1071, 1072. Sở Khanh đánh tiếng với Kiều)
Tháo cũi sổ lồng là giải thoát cho người bị giam cầm hay bị ràng buộc, gò bó.
Sách Tình Sử chép chuyện “Tháo cũi, sổ lồng” như sau:
Thôi Sinh là một võ quan trong đội cấm vệ quân của vua Đường Đại Tông. Cha chàng cũng là một vị quan có tiếng trong triều và kết thân với một vị nhất phẩm nhân thần. Một ngày nọ, cha Thôi Sinh sai chàng đến thăm vị nhất phẩm nhân thần kia đang bị ốm. Thôi Sinh là một chàng trai mặt đẹp không kém Phan An và Tống Ngọc, nên vị quan nhất phẩm kia tỏ ra yêu mến chàng. Lúc Thôi Sinh vào, chàng trông thấy trước giường người bệnh có ba cô gái tuyệt sắc, mà chàng biết là người hầu quan lớn, đang dầm trái đào trong âu vàng lấy nước cho người bệnh uống.
Quan lớn sai cô mặc áo hồng bưng một âu đào đến mời Thôi. Thôi thẹn đỏ mặt, không nhận. Thấy Thôi không dám nhận, quan lớn bảo cô áo hồng lấy muỗng múc đào đưa lên tận miệng Thôi. Chàng đành phải ăn. Cô gái nhìn chàng mỉm cười. Khi Thôi từ giã người bệnh ra về, cô gái áo hồng đưa chàng ra tận cổng. Nàng đưa ba ngón tay lên, lật bàn tay ba lượt rồi chỉ vào tấm gương tròn đang đeo trên ngực, nói với Thôi Sinh:
- Chàng nhớ nhé.
Thôi Sinh về nhà, lòng cứ nghĩ đến cô gái áo hồng luôn. Suốt ngày ngơ ngơ ngẩn ngẩn như kẻ thần hồn nát thần tính, không thiết gì đến ăn uống. Rồi chàng làm một bài thơ tứ tuyệt để trút tâm sự:
Trót lạc Bồng lai một buổi nào
Vòng châu tiên nữ ánh rung sao
Cánh song đã khép sâu cung quế
Nỡ để lòng ai nặng mối sầu.
Người trong nhà thấy Thôi Sinh như thế, không hiểu ra làm sao cả. Nhưng hỏi, chàng lại không nói. Riêng lão nô bộc thân tính của chàng tên Ma Lặc thì được chàng thố lộ tâm sự. Ma Lặc nghe xong, cười nói:
- Chuyện nhỏ như thế có đáng gì mà cậu phải khổ tâm. Đây này, cô ta ra hiệu như thế có nghĩ là: cô ta ở nhà thứ ba trong số mười nhà của các nàng hầu quan lớn. Còn lật bàn tay ba lượt có nghĩa là mười lăm, vì mỗi bàn tay có năm ngón; và cái gương tròn trước ngực tượng trưng cho mặt trăng. Tóm lại, cô ta hẹn với cậu vào đêm rằm ấy.
Thôi Sinh mừng rỡ hỏi:
- Vậy lão có cách nào đưa ta đến đó không?
Ma Lặc nói:
- Đêm mai là rằm rồi. Cậu hãy cho may ngay hai cái áo chẽn màu xanh thẳm cho cậu và tôi. Đêm mai tôi đưa cậu đi.
Đêm sau, Ma Lặc nói với Thôi Sinh:
- Khu nhà của các hầu thiếp quan lớn nhất phẩm được canh gác nghiêm ngặt lắm, lại có một con chó giống Tao Châu khoẻ và dữ như hổ. Người lạ ló mặt vào là nó cắn chết ngay. Ngoài tôi ra, chẳng còn ai trị được nó đấy. Bây giờ tôi phải đi thanh toán nó trước đã.
Nói xong, Ma Lặc xách quả chuỳ ra đi liền. Một lát sau ông ta trở về bảo với Thôi Sinh.
- Lão đã đập chết con chó rồi.
Đến canh ba, lão Ma Lặc cùng Thôi Sinh thay áo chẽn màu xanh rồi đi đến dinh quan nhất phẩm. Đến nơi, Ma Lặc cặp Thôi Sinh nhảy qua mười vòng tường, đột nhập vào khu nhà các hầu thiếp của quan lớn. Lúc bấy giờ lính tráng canh gác đều ngủ cả. Bốn bề im vắng bẳn bặt. Hai người đến căn nhà thứ ba, Thôi Sinh thấy cửa còn hé mở nên đẩy nhẹ bước vào. Cô gái áo hồng đang ngồi trên giường, nhận ra Thôi sinh bèn bước xuống cầm tay chàng nói:
- Hôm trước, nhìn vẻ mặt khôi ngô tuấn tú của chàng, em biết chắc thế nào chàng cũng đoán ra nên mới làm hiệu. Chàng có tài xuất quỷ nhập thần gì mà vào được đến đây vậy?
Thôi Sinh cứ tình thực nói là mình nhờ người lão bộc trung thành giúp sức. Và ông ta hiện đang đứng ở ngoài. Cô gái áo hồng bảo Thôi mời Ma Lặc vào rồi lấy rượu khoản đãi ông ta. Đoạn nàng nói với Thôi:
- Gia đình em ở tận trên miền Bắc. Quan lớn nhất phẩm đây cậy thế bắt em về làm hầu thiếp. Chàng có người thân tín tài ba như lão trượng đây, xin ra tay tháo cũi sổ lồng giúp em. Ước nguyện được thành, em dù chết cũng không hối hận.
Thôi Sinh còn đang phân vân thì Ma Lặc đã lên tiếng:
- Nếu chi cô đã quyết thế thì có khó gì.
Cô gái áo hồng tỏ ý mừng. Ma Lặc giục cô ta thu xếp quần áo, của cải vào hòm rương. Ma Lặc vác liền một lúc ba cái rương đưa ra ngoài. Rồi ông ta trở vào cặp cả Thôi Sinh và cô gái áo hồng vượt ra khỏi mười vòng tường chẳng hề gây nên một tiếng động.
Về nhà, Thôi Sinh giấu cô gái áo hồng trong phòng học của mình. Đến sáng hôm sau thì ở dinh quan lớn nhất phẩm mới hay cô gái áo hồng đã bị mất tích trong đêm. Quan lớn nhất phẩm cả kinh, cứ nghĩ rằng việc ấy phải do một tay võ nghệ siêu quần bạt chúng mới thực hiện được.
Cô gái áo hồng ở trong nhà Thôi Sinh suốt hai năm. Một sáng mùa xuân nhân mùa hoa nở rộ khắp nơi, nàng ngồi xe ra chơi đất Khúc Giang để thưởng hoa, bị người nhà quan lớn nhất phảm trông thấy. Quan lớn, nhất phẩm được báo tin, liền cho mời Thôi Sinh đến cật vấn. Thôi sợ, khai tất cả. Quan lớn vốn đã yêu mến Thôi Sinh từ lâu nên nói:
- Thôi được, mọi chuyện ta đều cho qua hết, kể cả con bé áo hồng ấy ta cũng tặng cho công tử. Nhưng ta phải vì sự an nguy của thiên hạ mà ra tay trừng trị tên Ma Lặc ấy mới được.
Liền sau đó, quan lớn nhất phẩm sai năm mươi giáp sĩ mang gươm giáo đến vây nhà Thôi Sinh để bắt Ma Lặc. Ma Lặc tay cầm đoản kiếm, phi thân qua tường cao thoát thân. Bọn giáp sĩ bắn tên theo như mưa vẫn không trúng. Chỉ trong khoảnh khắc, bóng dáng Ma Lặc đã mất hút.
Hơn mười năm sau, người nhà Thôi Sinh còn trông thấy Ma Lặc bán thuốc cao đơn hoàn tán ở chợ Lạc Dương, hình dong vẫn không thay đổi chút nào.
b)-Tường Đông lay động bóng cành
(Câu 1093, 1094. Sở Khanh đến với Kiều)
Nguyễn Du dịch câu ”Cách tường hoa ảnh động” (Cách tường bên kia có bóng hoa lung lay) trong vở tuồng ”Tây Sương Ký”. Đoạn này mô tả cảnh Trương Quân Thụy nhận được thơ của Thôi Oanh Oanh và đêm tối chàng lần sang phòng nàng.
Nội dung đoạn ấy có thể tóm tắt như sau:
- Chiều hôm ấy, Hồng nương lại đến, cầm tờ hoa tiên đưa cho chàng mà rằng: ”Của cô Thôi sai đưa sang đây”. Đầu đề là: Trăng sáng đêm rằm
Thơ rằng:
”Cửa hé theo luồng gió
Trăng chờ người Mái Tây
Chạm tường, hoa động bóng
Người ngọc đến đâu đâỵ”
Trương hơi hiểu ý thơ. Đêm ấy là đêm mười bốn tháng hai. Tường phía Đông nhà họ Thôi có một gốc hoa hạnh có thể vịn để trèo sang được.
Sang đêm rằm, Trương Quân Thụy trèo cây ấy qua tường, lần đến Mái Tây, thấy cửa đã hé mở và Hồng nương đang nằm ở giường. Chàng liền đánh thức Hồng nương dậy. Hồng nương giật mình nói:
- Sao cậu lại đến đây?
Trương nói dối Hồng nương:
- Cô Thôi viết giấy mời tôi đấy. Chị vào nói với cô giúp.
Hồng nương quay vào, một lát quay ra và nói:
- Ra đây rồi. Ra đây rồi.
Trương vừa mừng vừa sợ, nhưng nghiệm rằng việc tất xong.
Thôi Oanh Oanh xuất hiện, ăn mặc chỉnh tề, lớn tiếng mắng Trương rằng:
- Anh cứu sống nhà tôi, ơn ấy to lắm; cho nên mẹ tôi mới đem trai thơ gái dại mà ủy thác cho anh. Cớ sao anh lại nhờ đứa con hầu không ra gì đưa thơ nhảm nhí. Ban đầu thì lấy việc cứu người khỏi nạn làm tốt, rốt lại nhân việc người ta khỏi nạn mà đòi sự nọ sự kia. Lấy loạn thay loạn thì anh có hơn bọn giặc là mấy. Đã toan dập những thơ từ ấy đi, là dung túng mưu gian, không phải nghĩa. Thưa thực với mẹ, phụ bạc ơn trước, trời nào chứng cho. Gởi lời nhờ con hầu nói hộ, lại sợ không hết được chân thành; cho nên phải mượn mảnh tờ tìm đường bày tỏ. Nhưng còn lo anh sinh lòng khó dễ, cho nên dùng lời lẳng lơ để mong anh thế nào cũng sang. Việc làm trái lẽ, sao khỏi thẹn lòng. Chỉ xin anh lấy lễ giữ mình, chớ dùng mình vào chuyện bậỵ
Nói xong, Thôi Oanh Oanh nguây nguẩy đi vào. Trương ngẩn người một lúc rồi vượt tường trở về. Từ đó tuyệt vọng...
-----------------------
Tài liệu tham khảo:
- Các tài liệu đã ghi trong các số báo trước.
- Tài liệu mới: www.angelfire.com/ks3/hodacduy0/sanchoi/sanchoi_33.htm
BY: HOÀNG THẠCH
1- Đại ý các đoạn thơ nói về Tú Bà và Lầu Xanh:
Mã Giám Sinh bỏ tiền cưới Kiều không phải để làm vợ mà bán nàng cho chủ chứa gái làng chơi là Tú Bà ở Lâm Truy, phải đi một tháng mới tới nơi. Xe vừa dừng lại, Kiều thấy từ trong màn cửa một người đàn ông cao lớn, da nhợt nhạt đi tới đón nàng. Bước vào nhà nàng thấy một vài ả đào đang ngồi lả lơi bên bốn năm tên làng chơi. Giữa nhà có một bàn thờ, trên đặt tượng ông già có đôi lông mày trắng, mà gái làng chơi vẫn thờ ông ta làm tổ sư nghề nghiệp. Người ta mê tín tin rằng, cô nào ế khách thì phải cởi trần, quì gối thắp hương khấn vái, rồi thay bông hoa cũ trên bàn thờ bằng hoa mới, rồi đặt hoa xuống dưới chiếu, nằm lên thì ong bướm sẽ bu đầy!
Kiều còn bỡ ngỡ, theo lệnh quì xuống và chưa hiểu chuyện gì sẽ xẩy đến cho mình thì Tú Bà bèn khấn thay cho nàng được đêm ngày đông khách, lắm người mê say “Đưa người cửa trước, rước người cửa sau”. Khấn xong mụ ta lên giường ngồi, ra lệnh cho Kiều phải lậy bà và người đàn ông đứng bên cạnh, một hình thức ra mắt cha mẹ nuôi. Thấy bị sa cơ vào chốn chơi bời trụy lạc, Kiều bèn phân giải là nàng chịu bán mình để làm vợ người ta, chứ đâu nghĩ bị đày vào chốn Lầu Xanh. Tú Bà thấy vậy nổi cơm tam bành, cho mình như kẻ bị lường gạt, mất tiền toi, nên mắng chửi nàng thậm tệ. Mụ ta cảnh cáo Kiều là đã bị bán vào đây thì phải tuân theo lệnh bà và lấy roi da ra tiến tới đánh nàng.
Kiều tức quá liền lấy con dao đã dấu trong tay áo khi lên đường về với Mã Giám Sinh toan tự tử, nhưng chưa đâm mình được đã bị ngất xỉu. Tú Bà thấy thế hoảng sợ, tốn bao nhiêu tiền mua nàng về đây, chưa kiếm kiếm được đồng nào, nay nàng mà chết thì “tiền mất, tật mang” và còn mang họa lây, nếu Kiều chết thật. Thấy cơ nguy, Tú Bà liền bế nàng vào phòng, sai người coi sóc và tìm thày thuốc chữa trị. Trong lúc dở tỉnh dở mê, Kiều thấy hồn Đạm Tiên hiện về, đứng bên cạnh báo cho nàng biết: “Nhân quả còn dở dang, làm sao trốn thoát được; số còn nặng nợ hồng nhan, dù muốn chết nhưng trời chưa cho.” Đạm Tiên cũng báo trước sẽ gặp Kiều tại sông Tiền Đường.
Chờ nàng tỉnh dậy, mụ ta lại dùng miệng lưỡi ngọt ngào của một mụ chủ chứa để an ủi và khuyên can Kiều: “Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài”. Nàng chết có giải quyết được gì hay lại gây nguy hại cho bà ta và cả gia đình Kiều. Mụ cũng làm ra vẻ nhân đạo, không nỡ cưỡng ép nàng phải rước khách ngay và hứa sẽ tìm nơi tử tế, con cháu trong nhà, gả cho nàng. Kiều nghe qua cõi lòng như trìu xuống.
Tuy vậy, nàng vẫn không khỏi than vãn cho số phận mình: “Kiếp này nợ trả chưa xong, làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!” Để Kiều tin tưởng vào lời dụ dỗ của mình, Tú Bà lưu manh còn lấy trời đất ra thề hứa: “Mai sau ở chẳng như lời, Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.” Kiều dễ tin và cuối cùng nàng đành chấp nhận đề nghị của Tú Bà ra ở lầu Ngưng Bích để cho tâm hồn được thảnh thơi. Sống trong lầu Ngưng Bích nhìn cảnh trời xanh mây nước, núi non xa xa; nghe tiếng sóng biển vỗ ầm ầm vào ghềnh đá, nhìn hoa trôi lững lờ trên mặt nước và cỏ cây rầu rầu... Kiều nhớ nhà, phân vân không biết cha mẹ giờ này ra sao!
Thúy Kiều Trong Lầu Xanh
915-Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
Rừng thu từng biếc xen hồng,
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.
Những là lạ nước lạ non,
920-Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi.
Xe châu dừng bánh cửa ngoài,
Rèm trong đã thấy một người bước ra.
Thoắt trông nhờn nhợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!
925-Trước xe lơi lả han chào,
Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.
Bên thì mấy ả mày ngài,
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.
Giữa thì hương án hẳn hoi,
930.Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.
Lầu xanh quen lối xưa nay,
Nghề này thì lấy ông này tiên sư,
Hương hôm hoa sớm phụng thờ.
Cô nào xấu vía có thưa mối hàng,
935-Cởi xiêm lột áo sỗ sàng,
Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm.
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm,
Bướm hoa bay lại ầm ầm tứ vi!
Tú Bà Ra Oai
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,
940-Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
Cửa hàng buôn bán cho may,
Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu.
Muôn nghìn người thấy cũng yêu,
Xôn xao oanh yến rập rìu trúc mai.
945-Tin nhạn vẩn lá thư bài,
Đưa người cửa trước rước người cửa sau.
Lạ tai nghe chửa biết đâu,
Xem tình ra cũng những màu dở dang.
Lễ xong hương hỏa gia đường,
950-Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.
Dạy rằng: Con lạy mẹ đây,
Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia.
Nàng rằng: Phải bước lưu ly,
Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh.
955-Điều đâu lấy yến làm oanh,
Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?
Đủ điều nạp thái vu qui,
Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.
Giờ ra thay mặt đổi ngôi,
960-Dám xin gửi lại một lời cho minh.
Mụ nghe nàng nói hay tình,
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên:
Này này sự đã quả nhiên,
Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi.
965-Bảo rằng đi dạo lấy người,
Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,
Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.
Màu hồ đã mất đi rồi,
970-Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
Con kia đã bán cho ta,
Nhập ra phải cứ phép nhà tao đây.
Lão kia có giở bài bây,
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
975-Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?
Phải làm cho biết phép tao!
Chập bì tiên rắp sấn vào ra tay.
Nàng rằng: Trời thẳm đất dày!
980-Thân này đã bỏ những ngày ra đi.
Thôi thì thôi có tiếc gì!
Sẵn dao tay áo tức thì giở ra.
Sợ gan nát ngọc liều hoa!
Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay.
Thúy Kiều Tự Tử, Và Đạm Tiên Báo Mộng
985.Thương ôi tài sắc bậc này,
Một dao oan nghiệt đứt dây phong trần.
Nỗi oan vỡ lở xa gần,
Trong nhà người chật một lần như nêm.
Nàng thì bằn bặt giấc tiên,
990-Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.
Vực nàng vào chốn hiên tây,
Cắt người coi sóc chạy thầy thuốc thang.
Nào hay chưa hết trần duyên,
Trong mê dường đã đứng bên một nàng.
995-Rỉ rằng: Nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
Số còn nặng nợ má đào,
Người dầu muốn quyết trời nào đã cho.
Hãy xin hết kiếp liễu bồ,
1000-Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau.
Thuốc thang suốt một ngày thâu,
Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan.
Tú bà chực sẵn bên màn,
Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần:
Tú Bà Dỗ Kiều, Kiều ở Lầu Ngưng Bích
1005-Một người dễ có mấy thân!
Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài.
Cũng là lỡ một lầm hai,
Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây!
Lỡ chân trót đã vào đây,
1010-Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non.
Người còn thì của hãy còn,
Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà.
Làm chi tội báo oán gia,
Thiệt mình mà hại đến ta hay gì\?
1015-Kề tai mấy mỗi nằn nì,
Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi.
Vả suy thần mộng mấy lời,
Túc nhân âu cũng có trời ở trong.
Kiếp này nợ trả chưa xong,
1020-Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!
Lặng nghe, thấm thía gót đầu,
Thưa rằng: Ai có muốn đâu thế này?
Được như lời, thế là may,
Hẳn rằng mai có như rày cho chăng!
1025-Sợ khi ong bướm đãi đằng,
Đến điều sống đục, sao bằng thác trong!
Mụ rằng: Con hãy thong dong,
Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!
Mai sau ở chẳng như lời,
1030-Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.
Thấy lời quyết đoán hẳn hoi,
Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.
Trước lầu Ngưng bích khóa xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung.
1035-Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
1040-Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?
1045-Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm?
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
1050-Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
<h2 style="MARGIN: 12pt 0cm 3pt">2- Chú giải và điển tích</h2>
Vì có nhiều điển hay tích lạ cần đọc, chúng tôi không ghi toàn bộ phần chú giải chữ khó.
945. Tin nhạn: Tô Vũ, người đời Hán, đi sứ sang Hung nô, nhưng tính tình bất khuất, bị chúa Hung nô đầy lên Bắc Hải chăn dê, nếu nhà Hán có hỏi thì bảo là chết rồi. Sau sứ Hán phải nói khác là vua Hán săn được con chim nhạn ở vườn thượng lâm, chân nó có buộc một bức thư lụa của Tô Vũ gửi về. Khi ấy vua Hung nô mới chịu trả lại Tô Vũ cho nhà Hán. Do đó, người ta thường nói “tin nhạn” để chỉ tin thư.
952. Cậu mày: Tức cha mày, chỉ Mã Giám sinh, Tú Bà bắt Kiều lậy nhận mụ là mẹ nuôi. Mã Giám sinh là cha nuôi.
954. Tiểu tinh: Sao nhỏ, chỉ vợ lẽ.
962. Tam bành: Theo sách Đạo giáo “Trong người ta có ba Thần Thi: Thượng Thi, tên Bành Chất, ở bụng; Hạ Thi, tên Bành Kiệu, ở chân, thường làm hại người”. Do đó, họ cho rằng: những sự hung ác giận dữ của người là do thần “Tam Thi” hay”Tam Bành” làm ra, và thường dùng chữ tam bành để chỉ cơn tức giận.
978. Bì tiên: Cái roi bằng da.
1025. Đãi đằng: Tiếng cổ, nghĩa là giãi bày. Ở đây đãi đằng có nghĩa là điều ra tiếng vào của những người khách chơi.
Ca dao:
Cá buồn cá lội tung tăng
Em buồn em biết đãi đằng cùng ai.
1045. Sân Lai: Sân Lão Lai. Theo sách Cao Sĩ truyện: “Lão Lai Tử, người nước Sở, đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài bảy mươi, mà còn cha mẹ già. Là con có hiếu, ông thường mặc áo ngũ sắc sặc sỡ, ra múa ở trước sân, rồi giả cách ngã, khóc, như trẻ con, để làm cho cha mẹ vui”. Đây nói bóng sân nhà cho mẹ, tức nhà mình.
1046. Gốc tử: Gốc cây tử (loài cây thị). Ở đây dùng để chỉ cha mẹ, “gốc tử đã vừa người ôm” nói bóng cha mẹ đã già rồi.
-Hàn Thực: Ngày mồng 3 tháng 3 là ngày mọi người ăn nguội, không đốt lửa, để tưởng nhớ đến Giới Tử Thôi. Chuyện ăn đồ nguội liên hệ đến Giới Tử Thôi như sau:
Thời Chiến quốc, Công tử Trùng Nhĩ bị cha là Tấn Hiến Công và mẹ ghẻ là Ly Cơ mưu hại, phải trốn lánh lưu vong ra nước ngoài. Trong những năm lưu vong đây đó, Trùng Nhĩ và bọn tôi thần theo hầu phải trải qua nhiều gian lao khổ sở; có khi phải đi ăn xin. Một lần ở nước Vệ, cả bọn đều đói lả, cơ hồ không còn lê bước được nữa. Dước bóng mát của một cây to bên đường, Trùng Nhĩ nằm gối đầu lên đùi Hồ Mao nghỉ, chờ bọn tôi thần đi kiếm rau củ về đỡ dạ. Bỗng Giới Tử Thôi đem đến dâng cho một tô thịt nóng. Trùng Nhĩ ăn ngon lành và ăn xong cảm thấy khoẻ ngay. Ông hỏi Giới Tử Thôi:
- Nhà ngươi tìm đâu ra thịt ngon như thế?
Giới Tử Thôi thưa:
-Tôi thường nghe rằng đứa con hiếu phải biết bỏ thân vì cha mẹ, người tôi trung phải biết bỏ thân để thờ vua. Nay công tử đói không có gì ăn, tôi cắt thịt đùi mình nấu cho Công tử ăn.
Trùng Nhĩ ứa nước mắt nói:
-Ôi, ân này biết đến bao giờ ta báo đáp được.
Sau mười chín năm lưu vong đây đó, Trùng Nhĩ trở về Tấn, phục quốc được, và lên ngôi, hiệu là Tấn Văn Công. Tấn Văn Công ban thưởng cho tất cả những người đã từng gian khổ theo mình. Riêng Giới Tử Thôi, khi Tấn Văn Công lên ngôi chỉ đến chúc mừng một lần rồi về nhà, cho nên Tấn Văn Công cũng quên, không ban thưởng. Giới Tử Thôi về nhà, ngày ngày làm nghề vá thuê giày dép nuôi mẹ. Có người láng giềng là Giả Trương thấy vậy, đến nói với Giới Tử Thôi rằng:
-Ngài cũng có công theo hầu Chúa công trong suốt mười chín năm trời, nay Chúa công đã phục nghiệp lẽ nào Chúa công không chịu thưởng chút công lao?
Mẹ Giới Tử Thôi nghe thế cũng nói:
-Nhà mình nghèo khó, trước kia con đã cắt thịt đùi nuôi Chúa công trong lúc đói, sao bây giờ không nói ra?
Giới Tử Thôi đáp:
-Tấn Hiến Công xưa có chín người con, chỉ có Chúa công là hiền hơn cả. Nay Chúa công phục nghiệp được là do mệnh trời. Những kẻ theo hầu không biết, tự nhận là công lao của mình để xin ban thưởng. Con tự cho điều đó là xấu hổ lắm.
Người mẹ nghe thế, vội cười tươi nói:
-Con đã là người liêm sỉ, vậy mẹ đây há không biết làm mẹ của một người liêm sỉ sao? Vậy thì mẹ con ta nên tìm chốn rừng núi vắng vẻ mà ẩn thân, chớ nên sống nơi thị thành này.
Giới Tử Thôi mừng rỡ nói:
- Con vẫn thích đất Miên Thượng là nơi có núi cao, hang sâu, vậy mẹ con ta nên đến đó cư ngụ.
Sau đó Giới Tử Thôi bỏ nhà cửa, cõng mẹ vào vùng rừng núi Miên Thượng ẩn cư. Láng giềng không biết Giới Tử Thôi đi đâu, chỉ riêng Giải Trương biết mà thôi. Nghĩ đến tình cảnh của mẹ con Giới Tử Thôi, Giải Trương không cầm lòng được. Đêm đến, ông ta viết giấy đem treo trước của thành. Sáng ra, quân canh trông thấy đem vào trình Tấn Văn Công. Mảnh giấy viết: ”Có một con rồng khi thất thế được một đàn rắn theo hộ tống chu du thiên hạ. Một lần rồng đói, có một con rắn xẻo thịt đùi nuôi. Nay rồng mây gặp hội, đàn rắn hưởng cảnh sung sướng, chỉ riêng một con rắn kia chẳng ai hỏi đến”. Tấn Văn Công xem xong giật mình, nói:
-Chắc là Giới Tử Thôi trách ta đây thôi. Xưa lúc qua nước Vệ, Giới Tử Thôi đã cắt thịt đùi nấu cho ta ăn, thế mà nay ta ban thưởng cho công thần lại quên mất Giới Tử Thôi. Thật ta có lỗi lớn vô cùng.
Nhà vua liền sai người đến triệu Giới Tử Thôi, nhưng họ Giới đã bỏ nhà đi mất rôi. Nhà vua truyền rằng: ”Hễ ai biết Giới Tử Thôi đi đâu và chỉ ra, thì sẽ được phong làm quan”.
Giả Trương ra mắt Tấn Văn Công, tâu:
-Mảnh giấy mà Chúa công được xem là do tôi viết chớ không phải của Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi không muốn cầu thưởng, nên đã cõng mẹ vào vùng rừng núi Miên Thượng rồi. Tôi viết mảnh giấy ấy là cốt nhắc nhở Chúa công nhớ đến công lao của người.
Tấn Văn Công có vẻ buồn, nói:
-Nếu không có bức thư của nhà ngươi thì ta đã thành kẻ bội nghĩa rồi.
Đoạn, nhà vua phong Giải Trương làm Hạ Đại phu, rồi sai Giả Trương dẫn mình và quân sĩ đến vùng Miên Thượng để tìm Giới Tử Thôi. Đến nơi, chỉ thấy núi cao rừng rậm, tìm hoài chẳng thấy Giới Tử Thôi đâu. Tấn Văn Công lại truyền rằng: ”Ai thấy Giới Tử Thôi trốn nơi nào, chỉ ra thì được thưởng”
Một nông phu tâu:
-Mấy hôm trước tôi có thấy một người đàn ông cõng một bà cụ già đến đây, ngồi nghỉ nơi chân núi. Sau đó thì không biết họ đi về đâu.
Tấn Văn Công truyền đỗ xe ở chân núi và ra lệnh cho quân lính đi lục tìm. Mấy ngày trôi qua, quân lính vẫn không tìm được bóng dáng Giới Tử Thôi ở đâu. Tấn Văn Công bèn nói với tả hữu rằng:
-Ta nghe nói Giới Tử Thôi là một người con chí hiếu, nay cõng mẹ vào rừng lại giận ta không chịu ra yết kiến. Vậy ta phóng hoả đốt rừng, thế nào Giới Tử Thôi cũng cõng mẹ chạy ra.
Nói xong, nhà vua ra lệnh phóng hoả đốt rừng. Gió to lửa mạnh nên lan rất nhanh. Toàn thể khu rừng cháy suốt ba ngày mới tắt. Thế mà không ai trông thấy Giới Tử Thôi cõng mẹ chạy ra. Quân lính lại được lệnh đi lục tìm. Họ tìm thấy xác của hai mẹ con Giới Tử Thôi bên một gốc liễu và báo lại cho nhà vua. Tấn Văn Công cho chôn cất mẹ con Giới Tử Thôi tử tế, lấy ruộng chung quanh núi đặt làm ”tế điền” cho họ Giới. Nhà vua ra lệnh đốt rừng vào ngày mùng ba tháng ba, nên ra lệnh cho dân chúng hàng năm vào ngày ấy tháng ấy phải ăn đồ nguội, không được đốt lửa nấu nướng gì cả; để tưởng niệm Giới Tử Thôi. Cho nên ngày mùng ba tháng ba hàng năm gọi là ngày
”Hàn thực”.
Nguyên Tiêu: Đêm rằm tháng giêng.
Theo phong tục của người Trung Hoa, đêm rằm tháng giêng dân chúng đi lễ chùa, hội hè vui lắm. Lễ hội này bắt đầu từ thời nhà Hán để thực hiện chính sách ”Quân dân cộng lạc” (vua và dân cùng chung vui), sau khi Hán Văn Đế bình định được ”chư lữ chi loạn” và lên ngôi. Việc bình loạn hoàn tất vào ngày Rằm tháng Giêng âm lịch, nên nhà vua quyết định hàng năm cứ tới đêm Rằng tháng Giêng là tổ chức đi du ngoạn bên ngoài, để cùng dân chúng vui chơi đêm trăng sáng.
Tiêu: có nghĩa là đêm (cũng như Dạ), còn Nguyên: là vì tháng đầu trong năm. Hán Văn Đế hạ chiếu cho dân lấy ngày Rằm tháng Giêng là ngày Tết Tiêu để kỷ niệm ”ngày khai sáng đất nước thanh bình”. Vào đêm Rằm tháng Giêng ấy, thành nội cung điện được trang hoàng rực rỡ. Từ vua, các quan văn võ cho đến dân chúng đều vui vẻ ăn uống, ca múa suốt đêm dưới ánh trăng sáng.
Đến đời nhà Tống thì có thêm bữa ăn Rằm Nguyên Tiêu.
Trong quyển ”Bình Viên”, ông Châu Tất Đại viết: ”Ngày Nguyên Tiêu phải nấu món bánh trôi viên (1) mà người tiền bối chưa từng làm, để trả nợ ông bà”. Sách ”Võ lâm cựu sự” của Châu Mật cũng viết: ”Tháng Giêng mừng đầu xuân cầu phúc an dân thái bình, ai ai cũng phải làm một loại bánh bằng bột nếp với nhân bằng các thứ trái cây, các thứ đậu: trộn đường, vo thành viên bỏ vào nước sôi luộc chín, sau đó nấu nước đường thả bánh vào. Chiếc bánh vừa nổi vừa chìm nên gọi là ”phù nguyên tử”; về sau còn gọi là "bánh Nguyên tiêu”.
Lễ Nguyên Tiêu ăn ”phù nguyên tử” lấy đó làm điều tốt cho gia đình và cũng biểu thị ý nguyện của mọi người dân một năm mới khang lạc thuận hoà...”.
Lý Diệu Nguyên, một nhà thơ đời Thanh đã viết:
”Tết Nguyên Tiêu xem thuyền rồng rực rỡ
Ngựa quý, xe hương lộng lẫy khắp miền
Mưa gió đêm xuân, người tan hết,
Còn ngọn đèn leo lét, bánh canh viên”
Đối với dân tộc Trung Hoa, ngày lễ Nguyên Tiêu truyền thống ấy vẫn còn duy trì cho đến ngày nay; dù cư ngụ trong nước hay ở hải ngoại. Ban ngày của lễ Nguyên Tiêu dân chúng thường đi chùa hái lộc, cầu phước với hy vọng điều may mắn, tốt lành cho cả một năm.
-Lầu Xanh: Ngày xưa, lầu xanh là nơi các nhà quyền quý và những thiếu nữ khuê các ở. ”Đại lộ khi thanh lâu” nghĩa là đường lớn dựng lầu xanh. Nhà Tề, vua Võ Đế bắt dân phu và Bộ Công cất những lầu cao thật đẹp. Cửa sổ đều sơn xanh. Nơi này để cho nhà vua ở cùng với các mỹ nữ cung tần. Rồi lâu đài của các hàng công khanh cũng sơn cửa bằng màu xanh, nên dân chúng thường gọi chỗ ở của vua chúa, quan lại ở là ”lầu xanh”.
Về sau, những nhà quyền quý có con gái đẹp, ước mong con nhà mình được vào chầu nơi cung khuyết, nên thường sơn nhà màu xanh cho con gái ở. Những nhà nào có cửa sổ hoặc lầu đài sơn xanh là nhà có gái đẹp được nhiều bực vương tôn, công tử chú ý. Từ đó, bọn buôn son bán phấn đem gái đẹp mở nhà rước khách thưởng hoa, muốn quyến rũ khách yêu hoa hay các bực vương tôn, công tử, cũng sơn nhà xanh. Ý nghĩa lầu xanh thuở đầu bị biến đổi, lần lần trở thành hoàn toàn một nơi rước khách yêu hoa, tìm hoa giải muộn. Vì thế, đến đời nhà Lương, Lưu Diễn có hai câu thơ nói về chữ Thanh lâu để chỉ chỗ ở của bọn gái điếm:
Xướng nữ bất thăng sầu, Kết thúc hạ thanh lâu.
Nghĩa là:
Gái hát chẳng xiết buồn, Thu vén xuống lầu xanh.
-Thần Mày Trắng: có 2 giải thích
1)-Ở các lầu xanh ngày xưa, các mụ Tú Bà thường dựng một bàn hương án giữa nhà, có treo một tượng. Tượng này vẽ hình người có đôi lông mày trắng gọi là thần Bạch Mi (Thần Mày Trắng). Sách ”Dã Hoạch biên” có chép: “Các thanh lâu thường thờ thần Bạch Mi. Thần này mặt to, râu dài, cưỡi ngựa cầm dao, xem na ná như hình Quan Công, nhưng lông mày trắng và mắt đỏ. Không ai hiểu được tranh vẽ ai và lai lịch thần Mày Trắng ra sao. Nhưng các thanh lâu đều quen thờ như vậy, coi là một vị tổ sư để cầu phù hộ cho nghề được phát đạt, cửa hàng được đông khách, cũng như tất cả các nghề khác.
Đời nhà Minh (1368-1628), các cô bán dâm ở lầu xanh có cách đuổi vía lạ lùng. Khi nào một cô xui xẻo, ế hàng thì đến trước thần Mày Trắng, trút bỏ áo quần, đốt hương van vái cầu xin. Đoạn lấy hoa mới đổi lấy hoa đã cúng trên bàn thờ đem lót dưới chiếu mình nằm. Như vậy cô sẽ đắt khách hàng.
2)-Thần Mày TrắngtứcBạch Mi thần là vị thần phù hộ cho gái làng chơi mà các thanh lâu ngày xưa hay thờ. Theo truyền thuyết Trung Quốc, thì thần Bạch Mi tức là Quản Trọng tức Quản Di Ngô, Tướng quốc của Tề Hoàn Công thời Chiến quốc. Từ thời xa xưa ấy, Quản Trọng đã chủ trương xây cất hành viện chứa gái làng chơi cho các khách thương mại mua vui, nhà nước lấy thuế. Đó là một trong kế sách làm cho dân giàu nước mạnh của Quản Trọng. Truyện kể rằng: Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng:
-Nước Tề ta vốn là một nước lớn từng được chư hầu kính nể. Đến đời Tương Công Chính lên bất thường, nên xảy ra tai biến. Nay quả nhân vừa mới lên ngôi, lòng dân chưa định, thế nước chưa yên, muốn cho nước mạnh dân an thì phải làm gì trước?
Quản Trọng đáp:
-Lễ, nghĩa, liêm, sỉ là bốn điều cốt yếu để trị nước. Thiếu một trong bốn điều ấy thì tai biến xảy ra. Cả bốn điều ấy không có thì nước mất.
- Nếu đã có đủ bốn điều ấy thì làm cách nào trị dân?
-Muốn trị dân trước hết phải yêu dân.
-Muốn yêu dân thì làm cách nào?
-Lấy đạo nhân ái chăm sóc đời sống hàng ngày của dân. Bớt xâu giảm thuế làm cho dân giầu. Hễ dân giầu tức nhiên nước mạnh.
Tề Hoàn Công lại hỏi:
-Dân giầu rồi nhưng trong nước còn thiếu binh khí, quân cụ thì làm sao?
Quản Trọng đáp:
-Muốn đủ binh khí, quân cụ thì binh pháp trong nước phải định lệ cho chuộc tội. Tội nặng cho chuộc bằng cái giáp, tội nhẹ cho chuộc bằng một cái qui thuẫn, tội nhỏ cho nạp kim khí, tội còn nghi thì tha hẳn. Kẻ nào tụng lý tương đối thì bắt nạp một bó tên, rồi giải hoà. Làm thế ắt quân dụng không thiếu.
-Đã làm như thế mà vẫn không đủ dùng thì làm sao?
Quản Trọng dẫn giải tiếp:
-Khai mỏ đúc tiền, nấu nước bể làm muối, trữ hàng hoá lấy lãi, cất ba trăm nhà nữ lưu cho các khách buôn bán tới lui tụ họp giải trí và ta thu thuế. Như vậy công quỹ tất phải đủ dùng.
Tề Hoàn Công đã nghe theo lời Quản Trọng. Thế là các nhà chứa gái làng chơi đã có ở nước Tề từ thời ấy. Về sau, Quản Trọng được tôn là thần Bạch Mi.
-Sông Tiền Đường
Tiền Đường được bao quanh bởi những trung tâm kinh tế thương mại nhộn nhịp như Thượng Hải, Ninh Ba. Sự dâng tràn thuỷ triều khác thường của sông Tiền Đường là một hiện tượng thiên nhiên lạ lùng nổi tiếng toàn thế giới, do lực hấp dẫn giữa các hành tinh và trái đất. Tiền Đường là dòng sông lớn nhất của tỉnh Triết Giang, chảy từ phía tây về đông, ra vịnh Hàng Châu, đóng vai trò rất quan trọng trong việc trung chuyển nước giữa hai miền. Lực ly tâm gây ra bởi sự quay của trái đất và hình dạng nút thắt cổ chai khác thường của vịnh Hàng Châu làm cho thuỷ triều dễ tràn lên nhưng lại rất khó rút. Hiện tượng thuỷ triều lên cao của sông Tiền Đường là một cảnh tượng ngoạn mục mà chỉ có thuỷ triều sông Amazone mới sánh kịp. Hằng năm, hàng triệu người trong nước và trên thế giới tập trung tại nơi đây để chiêm ngưỡng hiện tượng tuyệt diệu này vào ngày 18/8 (âm lịch). Khi thuỷ triều tràn lên, cột nước có thể cao đến 9 mét, tiếng động giống như sấm sét hay như có hàng nghìn con ngựa đang chạy. Nhiều hoạt động cũng được tổ chức để tôn vinh lễ hội ngắm thuỷ triều hằng năm dựa theo truyền thống của địa phương. Theo lịch sử, việc xem thuỷ triều đã diễn ra hơn hai nghìn năm trước và trở nên phổ biến vào đời Đường. Thị trấn Yangong ở Hàn Giang, cách Hàng Châu khoảng 45 cây số là nơi thích hợp nhất để ngắm thuỷ triều sông Tiền Đường. Dòng thuỷ triều lướt qua có thể rất nguy hiểm nếu du khách không cẩn thận.
-Sân Lai
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Tích Sân Lai cũng có trong ”Nhị thập tứ hiếu”.
Lai Tử người nước Sở thời Đông Châu Liệt Quốc, bảy mươi tuổi vẫn còn cha mẹ già. Để làm trò cho cha mẹ vui, ông thường mặc áo ngũ sắc sặc sỡ, giả làm trẻ nhỏ, múa may đùa giỡn. Có khi làm bộ vấp bực thềm, té lăn ra đất rồi nhại tiếng khóc con nít cho cha mẹ cười.
----------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
-Các tài liệu đã ghi trong các số báo trước
Tài liệu mới:
- vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx
- www.vnexpress.net/GL/Van-hoa/Nhin-ra-The-gioi/2006/03/3B9E8157/
BY: HOÀNG THẠCH
1- Đại ý đoạn Kiều bán mình chuộc cha
Sau khi nghe lời thằng bán tơ tố cáo, một trong bọn tham quan tên là Chung, giả nhân giả nghĩa làm môi giới, đòi phải có ba trăm lượng bạc thì cha và em trai của Kiều mới không bị đưa ra tòa và có thể bị xử tử. Nhà đã nghèo, người tình Kim Trọng phải về quê lo tang chú, nay bất ngờ bị bọn tham quan hà hiếp làm sao gia đình Kiều kiếm ra ba trăm lượng bạc để đút lót cho bọn chúng. Vì trọng hiếu nghĩa hơn tình riêng, Kiều đành phải bán mình để có tiền chuộc cha và em trai. Qua môi giới, Mã Giám Sinh quê ở Lâm Thanh, đã ngoài 40 tuổi, chịu bỏ tiền ra cưới Kiều về làm vợ. Kiều một giai nhân tài sắc vẹn toàn, giá ngàn vàng, thế mà bọn lưu manh kỳ kèo cuối cùng trả có hơn 400 lượng vàng. Sau khi giao kèo được ký kết, Kiều chờ ngày về nhà chồng, cha và em được thả ra. Thoát cảnh tù tội là điều vui mừng lớn lao, nhưng Vương ông thấy con gái phải bán thân mình thì đau buồn như cắt ruột. Cha mẹ nào chẳng mơ ước nuôi con đến khi khôn lớn chỉ mong sao con được hạnh phúc lứa đôi. Nay thì Vương ông vỡ mộng than thở “Trời làm chi cực bấy trời, Này ai vu thác cho người hợp tan!”
Thúy Kiều tuy cứu được cha và em khỏi cảnh tù đày, nhưng lòng buồn não nề. Cuộc tình vừa chớm nở đã phải ly tan. Những lời hẹn ước keo sơn với Kim Trọng bỗng nhiên biến tan thành mây khói! Hiếu nghĩa và tình yêu mấy ai trọn vẹn cả đôi bề? Nhưng với tấm lòng thủy chung, Kiều đã xin em gái Thúy Vân thay mình kết duyên vợ chồng với Kim Trọng và coi thân phận mình như lá chảy xuôi dòng, biết đâu là bến bờ? Kiều coi mình như sẽ chết và dặn em khi nào chị không còn, hãy thắp nén hương trầm nghi ngút và gẩy lên cung đàn, khi nhìn thấy lá cây rung động và ngọn cỏ lung lay thì lúc đó hồn Kiều sẽ trở về. Một trong những nỗi đau khổ nhất của cuộc đời là mối tình chia ly. Kiều chua cay cất lên tiếng than thở ai oán, não nùng: “Phận sao phận bạc như vôi, Đã đành nước chẩy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! ”
Trên đường về với Mã Giám Sinh, Kiều dấu kỹ một con dao trong miếng vải, để khi tuyệt vọng, nàng sẽ kết liễu đời mình. Nghĩ tới người tình Kim Trọng, Kiều vừa thương yêu, vừa nuối tiếc. Nàng tự trách tại sao không trao tấm thân trinh nguyên này cho chàng trước cuộc chia ly! Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Tưởng rằng Mã Giám Sinh cưới nàng về làm vợ, ai ngờ hắn chỉ là kẻ lưu manh, lừa đảo, đam mê tửu sắc, vui chốn lầu xanh. Hắn vừa hưởng được bông hoa còn nguyên nhị vàng tinh khiết, vừa lấy lại vốn 300 lượng vàng khi bán nàng cho Tú Bà!
Đúng là thân phận nữ nhi khổ sở trăm chiều. Đọc hoàn cảnh gia đình Kiều lâm nạn, và thân phận Kiều, người ta mới thấy cảm thương cho số phận những cô gái, vì chữ hiếu hay vì hoàn cảnh gia đình nghèo đói phải bán mình chuộc cha, cứu gia đình. Hoàn cảnh này không khác gì dưới chế độ cộng sản Việt Nam. Biết bao cô gái Việt, những cô Kiều thời đại mới, đã phải bán mình làm vợ cho người Tầu và Nam Hàn. Nhiều người sau khi bị vùi dập, lại bị bán vào các ổ mãi dâm, tan nát cả cuộc đời!
Kiều Bán Mình Chuộc Cha
Sự lòng ngỏ với băng nhân,
Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
625. Hỏi tên rằng: Mã Giám sinh.
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao
630. Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
635. Ngại ngùng giợn gió e sương,
Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Đắn đo cân sắc cân tài,
640. ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?
645. Mối rằng: đáng giá nghìn vàng,
Gấp nhà nhờ lượng người thương dám nài.
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Một lời thuyền đã êm dằm
650. Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi.
Định ngày nạp thái vu qui,
Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong!
Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà.
Vương Ông Thương Khóc Thúy Kiều
655. Thương tình con trẻ cha già,
Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu:
Nuôi con những ước về sau,
Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi.
Trời làm chi cực bấy trời,
660. Này ai vu thác cho người hợp tan!
Búa rìu bao quản thân tàn,
Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già.
Một lần sau trước cũng là,
Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau!
665. Theo lời càng chảy dòng châu,
Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi.
Vội vàng kẻ giữ người coi,
Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:
Vẻ chi một mảnh hồng nhan,
670. Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,
Lại thua ả Lý bán mình hay sao?
Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
675. Lòng tơ dù chẳng dứt tình,
Gió mưa âu hẳn tan tành nước non.
Thà rằng liều một thân con,
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.
Phận sao đành vậy cũng vầy,
680. Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh.
Cũng đừng tính quẩn lo quanh,
Tan nhà là một thiệt mình là hai.
Phải lời ông cũng êm tai,
Nhìn nhau giọt vắn giọt dài ngổn ngang.
Mã Giám Sinh Rước Thúy Kiều
685. Mái ngoài họ Mã vừa sang,
Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao.
Trăng già độc địa làm sao?
Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên.
Trong tay đã sẵn đồng tiền,
690. Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì!
Họ Chung ra sức giúp vì,
Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong.
Thân Phận Nữ Nhi
Việc nhà đã tạm thong dong,
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.
695. Một mình nàng ngọn đèn khuya,
áo dầm giọt lệ, tóc xe mối sầu.
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi.
700. Vì ta khăng khít, cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
Trời Liêu non nước bao xa.
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi.
705. Biết bao duyên nợ thề bồi.
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì.
Tái sinh chưa dứt hương thề.
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Nợ tình chưa trả cho ai,
710. Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Thúy Kiều Tâm Sự Cùng Thúy Vân
Nỗi riêng riêng những bàng hoàng,
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn.
Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
715. Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình,
Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh?
Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây\?
Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
720. Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
725. Giữa đường đứt gánh tương tư,
Loan giao chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
730. Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai!
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
735. Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
740. Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sao dầu có bao giờ.
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
745. Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai;
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rẩy xin chén nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gẫy bình tan,
750. Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lại tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao phận bạc như vôi,
Đã đành nước chẩy hoa trôi lỡ làng.
755. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Kiều Toan Quyên Sinh
Xiết bao kể nỗi thảm sầu!
Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi.
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
780. Quản huyền đâu đã giục người sinh ly.
Đau lòng kẻ ở người đi,
Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm.
Trời hôm mây kéo tối rầm,
Rầu rầu ngọn cỏ đầm đầm cành sương.
785. Rước nàng về đến trú phường,
Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong.
Ngập ngừng thẹn lục e hồng,
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen.
Phẩm tiên rơi đến tay hèn,
790. Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai:
Biết thân đến bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.
Vì ai ngăn đón gió đông,
Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi.
795. Trùng phùng dầu họa có khi,
Thân này thôi có còn gì mà mong.
Đã sinh ra số long đong,
Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?
Trên yên sẵn có con dao,
800. Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn:
Phòng khi nước đã đến chân,
Dao này thì liệu với thân sau này.
Đêm thu một khắc một chầy,
Bâng khuâng như tỉnh như say một mình.
805. Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một đứa phong tình đã quen.
Quá chơi lại gặp hồi đe,
2-Chú giải và điển tích: Vì có nhiều điển tích hấp dẫn nên đọc, chúng tôi không ghi phần chú giải chữ Nôm.
658-Gieo cầu:
Điển tích 1:
Đời nhà Đường bên Tàu, nước Đại Huyền có công chúa Cửu Hườn, người có sắc đẹp lại văn võ song toàn. Vua cha đương kén chọn phò mã. Nàng tâu với vua:
- Nhân duyên là do trời định. Vậy xin cha cho người lập một cái đài cao tại giáo trường, và truyền cho các sắc dân trong nước, bất kỳ xấu, đẹp đều phải dự kén phò mã. Riêng con có thêu một quả tú cầu; ngày ấy, con sẽ khấn vái trời đất rồi lên lầu mà quăng quả tú cầu ấy xuống giữa đám đông. Nếu ai lượn được thì sẽ kết duyên chồng vợ.
Nhà vua cưng con, nghe cũng hữu lý nên bằng lòng. Nghe được tin nhà vua tuyển chọn phò mã bằng cách gieo cầu, các chàng trai, không phân biệt giai cấp giàu nghèo, diện mạo tuấn tú hay xấu xa, dốt nát hay hay chữ đều tấp nập đổ xô đến trước đài. Họ hồi hộp, mong ngóng đón chờ... Có chàng Tiết Cường, con thứ tư của Tiết Đinh San, vì bị nạn tru di ba họ nên lưu lạc đến đấy. Chàng là người mỹ mạo tuấn tú, võ nghệ siêu quần. Thấy người đông đảo, chàng cũng đứng xem. Đến giờ lành, công chúa lên đài, quỳ trước bàn hương án, khấn vái, đoạn đứng lên, cầm quả tú cầu quăng xuống. Quả cầu nhào lộn trên không mấy vòng rồi sa trước mặt Tiết Cường. Mọi người đổ xô đến, lấn nhau chụp, làm té lăn sóng soài trên mặt đất. Tiết Cường đưa tay bắt lấy tú cầu, giữ chặt trong tay. Mọi người liền ào đến giựt lại. Chàng tay xô, chân đạp làm té nhào hết mấy người, rồi chen ra mà chạy, lại la lớn:
-Ấy là nhân duyên trời định, may ai nấy nhờ, lẽ đâu làm điều vô lễ.
Đoàn cấm binh liền đến can thiệp, xin rước phò mã. Bấy giờ họ mới tản ra, tiu nghỉu trở về.
Cấm binh thấy Tiết Cường mỹ mạo tuấn tú, nức nở khen:
-Thật là trời khéo xui vợ xứng chồng hết sức.
Thế là ngay hôm ấy, nhà vua truyền cho công chúa cùng Tiết Cường làm lễ giao bôi hợp cẩn.
Điển tích 2:
Hán Vũ đế kén phò mã, cho công chúa ngồi lên lầu, ném quả cầu xuống, ai cướp được thì làm phò mã.
660. Vu thác: Vu là đổ tội cho, thác là đặt điều ra.
669. Một mảnh hồng nhan: Như nói một mụn con gái.
671. Nàng Oanh: Nàng Đề Oanh. Theo Liệt nữ truyện: là nàng Ðề Oanh, người đời nhà Hán. Cha Đề Oanh là Thuần Vu Ý làm quan đất Tề trong triều Hán Văn Đế, chẳng may phạm phải tội oan bị bắt giải về kinh đô Trường An, sắp bị tử hình. Ông không có con trai, chỉ sinh đến năm gái, nên than thở:
-Sinh con không có con trai, những khi nguy cấp không ai đỡ đần.
Ðề Oanh là gái út thương cha, khóc lóc theo cha đến Trường An. Nàng dâng thư lên nhà vua, kêu oan cho cha, đại ý nói: “Cha tôi làm quan, cả miền Tề trung ai cũng ca tụng là thanh liêm chính trực, nay bất hạnh phải tội rất oan ức. Vả, tôi trộm nghĩ người đã chết thì không sống lại được, đã chém thì không liền lại được. Vậy, dầu có muốn sửa lỗi, theo điều phải trở nên hay, tốt cũng không còn cách nào nữa, thế là lỡ mất hết rồi. Nay tôi xin bán mình làm tên nô lệ chỗ quan phủ, mong chuộc tội cha, để cha được sống...” Hán Văn Ðế xem thư thấy tình lý uẩn súc, lấy làm cảm động, xét lại án truyền tha Thuần Vu Ý. Lại xuống chiếu từ đó bãi bỏ nhục hình.
672. Ả Lý: Nàng Lý Ký. Theo sách Đường đại tùng thư: Gia đình Lý Ký đời Nhà Đường nghèo quá, chỉ có nàng là con một. Nàng vẫn cày cục, lam lũ mà không đủ nuôi sống cha mẹ. Bấy giờ trong làng có một cái miếu hoang có con rắn to, đêm đêm vào làng bắt gà vịt, lại còn đón người đi đường mổ chết. Người làng khủng khiếp, tôn thờ là thần Rắn. Quá mê tín, họ lại bày ra cúng lễ hàng năm cho thần Rắn một người con gái đồng trinh, để thần đừng quấy phá, cắn người. Họ tìm mua gái nhà nghèo để làm lễ vật tế thần. Nàng Lý thấy mình không nuôi sống nổi cha mẹ lấy làm buồn khổ. Tương lai đen tối, nàng thấy cần có một số tiền để cho cha mẹ an dưỡng lúc tuổi già, nên nàng lén cha mẹ, bằng lòng xin bán mình làm vật hy sinh. Ðến ngày lễ, người làng dẫn Lý Ký đến gần miếu, trói quách nàng vào một cội cây rồi hối hả bỏ chạy về. Lý Ký vốn con nhà nghèo, hằng ngày phải vào rừng đốn củi đổi gạo về nuôi cha mẹ nên có sức mạnh, tinh thần cứng cỏi, không sợ gì. Nàng liền tự cởi trói mình, bẻ cây làm gậy quyết sống chết với thần Rắn. Rắn quen thói gặp người là cất cao đầu mổ. Lý Ký cố gắng vừa tránh né vừa lia gậy nhắm vào đầu rắn mà quật. Hụt ngọn đòn này thì tiếp ngọn đòn khác, cuối cùng Lý Ký giết được rắn. Người trong làng rất hoan nghinh nàng, chẳng những là người con có hiếu mà còn là vị cứu tinh của dân. Vì từ đó không còn phải lo sợ nạn rắn dữ gieo rắc tai họa, làm hao tổn mạng người vô lý nữa. Tiếng đồn vang đến vua Việt Vương, nhà Vua truyền vời nàng về triều phong làm thứ hậu. Muốn cứu cha thoát khỏi cảnh tra khảo tội tù oan ức, Kiều không dâng thư kêu oan được, vậy chỉ còn có cách bán mình lấy vàng hối lộ mới cứu được
710. Khối tình: Khối: Một tảng, một khối. Tình: tình yêu giữa nam nữ.
Điển tích-1:
Bên Trung Hoa, tại vùng Trúc Giang có một chàng lái buôn tên Quan Diệp Nhược yêu một nàng thôn nữ tên Tần Thúy Hải. Cả hai yêu nhau thắm thiết, nguyện cùng kết tóc, se tơ cho đến ngày răng long tóc bạc. Quan Diệp Nhược thường đi buôn bán nơi xa. Mỗi chuyến đi có cả hàng tháng. Và, mỗi chuyến đi như thế, chàng đều có hẹn ngày về với nàng. Đúng ngày, nàng Tần Thúy Hải đến đón người yêu. Lần nào cũng đúng hẹn cả. Thời gian xa nhau không lâu nhưng họ đều cảm thấy dài đăng đẳng. Nỗi nhớ thương vẫn canh cánh bên lòng. Nhưng vì sự nghiệp, họ đành phải chịu đựng và cầu mong ngày tái ngộ. Mùa thu năm ấy, ngô đồng vừa rụng lá, Quan Diệp Nhược lại phải từ giã, tạm chia tay cùng người yêu, lên đường sang Hồ Bắc buôn châu báu với mấy người bạn. Cũng như thường lệ, nàng Tần ra tiễn Quan hẹn ngày này tháng sau sẽ trở về. Nhưng chuyến này lại khác. Đến ngày hẹn, nàng Tần trang điểm, hớn hở vui tươi để ra đón người yêu. Nàng mỏi mắt trông chờ suốt ngày đêm mà không thấy bóng chàng trở về. Rồi ngày này sang ngày khác, mấy lần thu qua đông đến nàng mỏi mòn chờ đợi, nhưng người yêu xưa lại chẳng thấy về, tin tức cũng vắng bặt. Hay là chàng đã bỏ mình nơi đất khách quê người? Nàng quằn quại sống trong cảnh sầu thương, mong nhớ. Rồi, một ngày đông lạnh lẽo, tuyết rơi phủ trắng cả vòm trời, nàng Tần trút hơi thở trên giường bịnh. Theo tục lệ ở địa phương, những gái tiết trinh chết được hỏa táng thi hài. Lửa đã đốt cháy người trinh nữ, xương thịt nàng Tần đã trở thành tro bụi,
nhưng khi người ta bới đám tro tàn lạnh lẽo ấy bắt gặp một quả tim đóng thành một khối long lanh như ngọc. Lửa không sao đốt cháy, búa đập cũng không tan. Ai cũng lấy làm lạ, cho đó là khối tình u uất của nàng vì tương tư thương nhớ người yêu, vì quá đau khổ nỗi duyên phận bẽ bàng... Tuy thân xác đã tiêu tan mà khối tình vẫn còn mãi mãi. Nhưng rồi, một hôm Quan Diệp Nhược lại trở về. Sở dĩ chàng sai lời hẹn ước vì chàng gặp phải tai nạn bất ngờ. Ngày về giữa đường chàng bị giặc cướp cả tiền bạc, thuyền bè, làm chàng phải lênh đênh phiêu bạt, lại lâm trọng bịnh, tưởng là bỏ xương nơi đất khách. Cảm thương người yêu vì quá thương nhớ mình mà chết, Quan Diệp Nhược lấy làm đau đớn vô cùng. Chàng cầm lấy quả tim thành ngọc của người yêu mà khóc nức nở. Lạ thay, nước mắt của chàng rỏ xuống thì viên ngọc ấy lại tan ra hòa theo giọt nước mắt của chàng.
Điển tích- 2. Chuyện Trương Chi và Mỵ Nương.
Việt Nam cũng có một truyện giống như trên. Trương Chi làm nghề lái đò với một con thuyền bềnh bồng trên mặt nước, hằng ngày đưa khách sang sông. Chàng Trương vốn có tâm hồn nghệ sĩ. Những khi hoàng hôn vừa tắt sau dãy đồi xa, bóng đêm bao phủ khắp không gian, lửa cháy lốm đốm nổi theo dòng nước, thì chàng lại cất tiếng hát vang lên. Giọng chàng trong trẻo, thánh thót như giọng hót của sơn ca vào buổi bình minh. Tiếng hát của Trương lại đồng vọng rót vào lầu tây của một quan Tể tướng, làm động lòng của nàng trinh nữ Mỵ Nương. Mỗi đêm, nàng đứng tựa bên lầu chờ nghe tiếng hát của chàng Trương. Mối tình thầm kín, sâu xa giữa nàng tiểu thư, con quan Tể tướng với anh lái đò ngày càng thắm thiết, mặn nồng. Vắng tiếng hát của Trương Chi, Mỵ Nương bàng hoàng, nhớ thương, đau khổ. Rồi từ đó, nàng mắc phải bịnh tương tư ngày càng trầm trọng, thuốc thang không chữa được. Chỉ mỗi lần có tiếng hát ngoài sông văng vẳng đưa vào thì bịnh của nàng mới đỡ được đôi phần.
Biết con gái say mê tiếng hát anh lái đò, quan Tể tướng cho đòi Trương Chi đến. Nhưng thảm thay, diện mạo của Trương Chi quá xấu xí, Mỵ Nương trông thấy chán nản, bịnh tương tư lại khỏi hẳn. Tưởng rằng đòi đến sẽ được hàn thuyên cùng người đẹp, không ngờ người đẹp lại buồn chán khiến chàng tủi nhục. Tuy vậy, hình bóng yêu kiều của Mỵ Nương vẫn không phai nhạt trong tâm hồn anh lái đò. Trương Chi lâm bịnh tương tư, thuốc thang chạy chữa không khỏi. Cuối cùng chàng chết trong tủi hận sầu đau vì mối tình tuyệt vọng. Ba năm cải táng, xương thịt của Trương Chi đều tan rã, chỉ nguyên có quả tim còn lại đóng thành khối ngọc rất đẹp mà người ta gọi là Khối tình. Có người đem dâng tim ngọc của chàng cho quan Tể tướng. Thấy ngọc lớn và đẹp, Tể tướng cho tiện thành chén uống nước trà. Mỵ Nương lấy chén ngọc rót nước uống. Vừa nâng chén lên thì trong chén lại hiện ra một chàng lái đò vừa chèo đò vừa hát, giọng văng vẳng não nùng như phảng phất đâu đây. Nàng nhìn kỹ và nhận ra hình bóng của Trương Chi đương hát trên sông vắng vẻ. Cảm mối tình tha thiết của chàng, Mỵ Nương đau đớn, ôm chén ngọc, khóc nức nở. Nước mắt của nàng nhỏ xuống làm chén ngọc vỡ tan hòa theo nước mắt của nàng.
726. Keo loan: do chữ loan giao, tức thứ keo chế bằng máu chim loan. Tương truyền người xưa thường dùng để nối dây đàn và dây cung. Có bản chép là “Keo loan chắp nối tơ thừa mặc em”. “Keo loan” bởi chữ “Loan giao” mà ra. Nghĩa là một thứ keo chế bằng máu chim loan. Sách “Hán Võ ngoại truyện” có chép: đời nhà Hán (206 trước-196 sau D.L.), miền Tây Hải có cống cho nhà vua thứ keo loan. Vua Võ Đế (140-88 trước D.L.) thường bị đứt dây cung, nên lấy keo này nối lại. Nhờ đó mà bắn suốt ngày không bị đứt. Vua lấy làm mừng lắm, đặt tên thức keo đó là “Tục huyền giao” tức là keo nối dây cung. Sách “Hán Thư” cũng có chép: vua Võ Đế ra lịnh cho Câu Qua phu nhân Triệu thị đánh đàn. Nhưng đương đánh, dây đàn bỗng đứt. Triệu thị nói:
-Giữa lúc đánh đàn mà dây đứt, thế là điềm gở.
Vua Võ Đế an ủi:
-Dây đứt nhưng có thể nối được. Có gì mà gở.
Đoạn sai người lấy máu chim loan nấu với keo để nối dây đàn.
Đời nhà Tống (950-1275), Đào Cốc vâng lịnh vua đi sứ Giang Nam, được gặp một thiếu nữ là Tần Nhược Lan. Hai người yêu nhau và cùng ở chung một đêm để trao đổi tâm tình. Nhưng vì sứ mạng, Đào phải gấp rút về triều phục lịch. Một đêm ân ái, tình thắm duyên nồng, giữa đường hạnh ngộ, mới gặp gỡ lại chia phôi, mối ân tình vẫn còn canh cánh bên lòng gây biết bao niềm cảm xúc, nên sau khi Đào về có làm một bài từ gởi cho người yêu. Trong có câu: “Tỳ bà hát tận tương tư điệu, tri âm thiểu; đãi đắc loan giao tục đoạn huyền, thị hà niên”? Nghĩa là: “Đàn tỳ bà đã gẩy hết khúc tương tư, mà người tri âm có ít, đợi được keo loan chắp nối dây đàn đứt, biết đến năm nào”? Tác giả mượn dây đàn đứt vì mối tình đứt, và mượn sự chắp dây đàn để nói sự chắp tơ tình.
Giọt hồng: Giọt nước mắt có máu, giọt lệ thảm.
Trong sách thuốc có viết: Nhân hữu vựng uất, hốt hôn mê bất tỉnh nhân sự (người có chứng vựng uất thường hay bị ngất). Giọt hồng, giọt nước mắt có màu hồng như máu, người đời còn gọi là huyết lệ khóc cho nổi đau khổ cùng cực trong những hòan cảnh khốn cùng. Điển tích Giọt hồng có trong trong Ngụy Thư:
Đời vua Ngụy Văn Đế có vị quan Tiết Hằng tuổi già về quê ở huyện Lộc Nam cùng với vợ và con gái Tiết Linh Vân. Linh Vân đang tuổi trăng tròn, nổi tiếng là một trang thiên hương quốc sắc, học giỏi, lại rất hiếu thảọ Hai năm sau khi Tiết Hằng về quê, trong vùng Lộc Nam nạn cướp bóc hoành hành, giáp biên giới giặc giã lại nổi lên. Triều đình sai Trương Bá Sanh, một vị quan trẻ kiêu ngạo, tham lam, về dẹp loạn. Tình hình tạm yên; Bá Sanh được bổ nhiệm làm tri huyện Lộc Nam. Nghe tiếng nhan sắc Linh Vân, quan huyện mon men tìm đến. Khi trở về, tức tốc huyện ta cho người mai mối. Cha con Linh Vân từ chối. Bá Sanh sinh thù. Nhân lúc giặc giã lại nổi lên, Bá Sanh lập mưu vu cáo lão quan về hưu tư thông giặc rồi sai nha quân đến nhà bắt Tiết Hằng dẫn lên huyện đường, giam vào ngục, nói là chờ ngày xét xử nhưng thật ra để ép duyên Linh Vân. Linh Vân quá đau đớn vì nỗi hàm oan của cha, đánh liều gởi thư về triều kêu oan. Làm sao thư đến được tay vua. Linh Vân lại thư cầu cứu đến vị quan thứ sử họ Huỳnh, là một người bạn cũ của cha nàng. Huỳnh Thứ sử vào chầu vua xin chiếu chỉ, phái Mạnh Quang, một viện sĩ Hàn Lâm giỏi văn chương thi phú, về huyện Lộc Nam tuần tra.
Hai tháng về Lộc Nam thanh tra, hồ sơ kêu oan của người dân đã chất cao ngất, vậy mà hàn sĩ Mạnh Quang không hề ngó ngàng tới. Suốt này quan thanh tra chỉ thơ thới với gió núi mây ngàn, chẳng buồn quan tâm đến chuyện thế sự. Một hôm Mạnh Quang lang thang xuống đường. Phố chợ sao mà đìu hiu, dân tình xơ xác. Mạnh Quang ghé vào một quán nước chè, bỗng gặp một giai nhân, áo quần xốc xếch, không chút phấn son, đang ngồi khóc tấm tức. Mạnh Quang hỏi dò bà lão chủ quán, mới hay người đẹp là Tiết Linh Vân đang khóc cho nỗi oan khiên của cha. Bấy giờ Mạnh Quang mới chợt nhớ nhiệm vụ của mình là về đây giải oan cho gia đình người con gái hiếu thảo này. Mạnh Quang đi thẳng đến huyện đường Lộc Nam, vào nhà tù thăm các phạm nhân. Mạnh Quang đòi quan huyện Trương Bá Sanh trình những hồ sơ của các phạm nhân có quan hệ với giặc. Xét xong hồ sơ, Mạnh Quang chỉ thị phóng thích hết các tù nhân loại này vì không đủ chứng cứ buộc tội. Huyện quan chấp hành lệnh quan triều đình. Ít hôm sau, Mạnh Quang lại xuống chợ, ghé lại quán nước chè của bà lão, lại vẫn thấy nàng Tiết Linh Vân ngồi khóc tức tưởi. Hỏi ra mới hay, nhiều tù nhân đã được về đoàn tụ gia đình, nhưng phụ thân của nàng bị hàm oan, vẫn chưa được cứu xét. Mạnh Quang hộc tốc quay về nha phủ gặp quan huyện:
-Ta được chiếu chỉ về huyện Lộc Nam này xét lại các vụ án kêu oan. Nay, ta muốn thẩm tra hồ sơ của Tiết Hằng, người bị kết tôi tư thông với giặc. Thì ra, Bá Quang đã dấu nhẹm hồ sơ của Tiết lão. Bây giờ quan khâm sai của triều đình đã gọi đích danh thì phải trình rạ Bá Quang đem hồ sơ về, ngày sau trả lại cho Bá Sanh với lời phê: không nhân chứng, không vật chứng sao lại kết tội người ta, lệnh phải tức tốc phóng thích nghi can.. Bá Sanh hận vô cùng, nhưng đành cắn răng chấp lệnh của quan khâm sai. Hai ngày sau, Bá Quang tìm đến thăm gia đình Tiết Hằng. Một già một trẻ, mới gặp nhau lần đầu mà đã tâm đắc, văn chương thi phú đối đáp đến sáng đêm. Tiết Hằng ngỏ ý muốn gả con gái mình cho Bá Quang. Quan khâm sai hân hoan nhận lời. Bá Quang cáo từ phải về kinh trình tấu kết luận thanh tra và xin hẹn tháng sau sẽ trở lại lam lễ thành hôn cùng Tiết Linh Vân. Phần quan huyện Bá Sanh, vì oán thù cha con Tiết Hằng, nay lại được tin tình địch của mình là Bá Quang sắp ẵm nàng Tiết Linh Vân đi, đâu được, ta phải cho chúng bây tan tác. Trương Bá Sanh liền thư về triều đình, dâng lên vua, xin đề cử tiến cung một nhan sắc tuyệt trần chim sa cá lặn. Vua Ngụy Văn Đế thích ý, liền ra chỉ dụ, triệu Tiết Linh Vân nhập cung. Ôi thôi, lại một kiếp hồng nhan. Ngày phải bước lên kiêu về cung, Tiết Linh Vân đã khóc như mưa, nước mắt uớt cả xiêm y. Lòng quặn đau thương cha. nhớ mẹ, nặng tình quê hương. Hai tì nữ theo hầu, phải dùng một bình sứ để hứng nước mắt cho nàng. Khi về đến kinh thành, bình sứ đã đầy quá nửa nước mắt hồng, cô đặc lại như máu, gọi là huyết lệ.
Trao Tơ, Gieo Cầu: ngụ ý nói đến sự kén chọn kết hôn giữa trai gái.
Theo sách ”Tam Hợp Bảo Kiếm” đời Hán thì Hán Vũ Đế có một cô Công chúa tuyệt sắc đã đến tuổi lấy chồng nhưng nhà vua chưa quyết định kén chọn ai làm Phò mã. Trong triều ngoài nội, rất nhiều tay quyền quý mong được cầu thân cùng công chúa. Hán Vũ Đế không biết chọn ai, bèn truyền cho các vương tôn công tử, các bậc danh nhân tài tử trong nước tập trung lại hoàng cung. Rồi nhà vua cho lập một cái đài cao để Công chuá ngồi trên đó, cầm một quả ”thanh cầu” bằng vải ném xuống. Hễ chàng trai nào bắt được quả cầu ấy, bất luận là sang hèn quý tiện đều được chọn làm Phò mã.
Sách Thần Tiên truyện lại chép truyện tích Gieo Cầu khác như nhau: Nho sĩ Thôi Sanh đi chơi núi được kết duyên cùng Trác Tiên cô. Trác Tiên cô cho chồng một lá bùa ”ẩn thân”. Hễ đeo lá bùa ấy vào thì không ai trông thấy mình nữa. Thôi Sanh lợi dụng lá bùa ấy để làm chuyện bất chính. Cứ hàng đêm, chàng đeo bùa vào mình rồi lén vào cung cấm để rình mò xem chuyện ái ân của bọn cung tần phi nữ. Dần dần Thôi Sanh đâm bạo dạn, xâm nhập vào các phòng cung nhân không được vua ”lâm hạnh” để gây chuyện mây mưa với các nàng. Các nàng cung nữ không được hưởng ơn mưa móc đã lâu, lòng luôn rạo rực thèm khát chuyện gối chăn nên không ngần ngại cùng Thôi Sanh giao hoan. Thế là chàng nho sinh Thôi Sanh có một nguồn vui phong phú không bao giờ cạn và luôn đổi mới. Một thời gian sau việc gian dâm của Thôi Sanh với các cung nhân bị đổ bể vì các nàng có thai trong khi sổ của Thái giám không có ghi chuyện ”lâm hạnh” của quân vương. Các cung nhân có thai bị tra xét và khai ra Thôi Sanh là kẻ phạm thượng khi quân. Rồi một đêm kia, Thôi Sanh đang giao hoan cùng cung nữ thì bị phát hiện vì bùa ẩn thân không còn linh nghiệm nữa. Thôi Sanh bị cấm vệ quân vây bắt. Chàng chạy thoát thân ra ngoài thành và đến một bờ sông. Không biết làm sao thoát thân, Thôi Sanh bèn gọi lớn:
- Trác Tiên cô cứu ta. Trác Tiên cô cứu ta
Bấy giờ Trác Tiên cô đang ở trên mây nghe tiếng chồng kêu và nhìn thấy chồng đang lâm nạn, thương tình rút chiếc thắt lưng màu xanh quăng xuống mặt sông. Chiếc thắt lưng liền hoá thành chiếc cầu và Thôi Sanh chạy lên chiếc cầu ấy sang bờ sông bên kia, thoát nạn.
Băng Nhân: người mối lái chuyện cưới hỏi, gả bán, do câu chuyện sau đây:
Linh Hồ Sách, người đời Tấn, một hôm nằm mơ thấy mình đứng trên băng tuyết nói chuyện với một người lạ nằm dưới băng tuyết. Linh Hồ Sách đem chuyện nằm mơ của mình thuật lại cho Sách Thẩm là một người giỏi về thuật số.
Sách Thẫm nói: - Băng thương nhân ngữ băng hạ nhân, tức là dương nói chuyện với âm. Điềm này tất sẽ có duyên mai mối đây. Vậy nếu có ai nhờ tiên sinh xe duyên thì tiên sinh cứ nhận lời cho, khi tuyết tan ắt lương duyên sẽ thành. Mấy hôm sau, Linh Hồ Sách được Điền Báo nhờ làm mối lái hỏi cưới con gái của Trương Công Vị Nhớ lời Sách Thẫm dặn, Linh Hồ Sách nhận lời làm mai mối cho Điền Báo và được Trương Công Vi nhận lời. Sang mùa xuân năm sau, khi tuyết tan hết thì đám cưới của Điền Báo và con gái Trương Công Vi được cử hành.
Cõi xuân: Gốc cây Xuân. Sách Trang tử chép: Trên núi có cây Xuân, tám ngàn năm một mùa xuân, tám ngàn năm một mùa thụ Ta gọi Xuân là cha, có ý cầu cho cha sống lâu vậy.
Tuổi hạc: Tuổi của loài chim hạc. Chim hạc là một loài chim quý, mình cao ba thước, mỏ, chân, cổ đều dài. Mình hạc toàn một màu trắng. Loài chim này bay lượn nhanh và cao, tiếng kêu rất lớn và trong. Tương truyền chim hạc sống đến một nghìn năm nên người đời thường dùng chữ ”tuổi hạc” để chúc và ước cho nhau sống lâu.
(1) Đông Việt vương: tước phong của Dư Thiện Dư Thiện là con cháu lâu đời của Việt Vương Câu Tiễn, được Hán Vũ Đế phong Vương ở đất Đông Việt. Có sách ghi lầm rằng Đông Việt Vương là vua của nước Đông Việt. Trong lịch sử Trung Quốc chỉ có nước Việt của Câu Tiễn thời Xuân Thu, chớ không có nước Đông Việt. Đông Việt Vương là tước Vương trấn giữ đất Đông Việt, cũng như tước Đông Bình vương, Nhữ Nam vương vậy (Ghi chú của TPH).
Trúc Mai: là hai loại cây mà mùa đông vẫn xanh tốt như mùa xuân. Trúc và Mai tượng trưng cho tình yêu gắn bó của trai gái. Gió Trúc mưa Mai: do câu ”Trúc phong mai vũ” nghĩa là Trúc gặp gió, Mai gặp mưa; ý nói sự hợp thời tiết rất tốt.
Sách ”Lương ban thu vũ tuỳ bút” chép: Ở Huyện Long Môn tỉnh Quảng Đông có một cái đầm rất đẹp. Hàng năm vào cuối thu, trai tài gái sắc thường đến du ngoạn đầm ấy. Vào cuối thu sang đông, thông thường các cây đều rụng lá trơ cành, chỉ riêng hai loại cây Trúc và Mai cành lá vẫn xanh tốt. Thưở ấy trong số khách tài hoa nhàn du ở đầm, có nàng Hoàng Kỳ Mai và chàng Lâm Bá Trúc là đôi trai gái con nhà phong lưu đài các, rất khắng khít với nhau. Qua đôi ba lần tri ngộ nơi cảnh đầm thanh lịch ấy, Hoàng Kỳ Mai và Lâm Bá Trúc đã yêu nhau tha thiết. Cuộc vui nào rồi cũng có lúc phải chấm dứt, cuộc du ngoạn nào dù thích thú đến mấy cũng phải đến lúc chia tay. Năm ấy trước khi chia tay, Hoàn Kỳ Mai và Lâm Bá Trúc còn nắm tay nhau du thuyền một lần chót trên mặt đầm; trong tay còn lại của họ, Kỳ Mai cầm một cành trúc và Bá Trúc cầm một nhành mai. Trên mặt đầm nhấp nhô sóng lượn, con thuyền thong thả trôi theo làn gió. Lâm Bá Trúc nói với người yêu:
- Mai và Trúc là tên của đôi ta. Bây giờ chúng ta hãy ném hai cành mai và trúc này ở hai hướng khác nhau, nếu chúng được nước đưa gió đẩy hợp lại với nhau thì quả là chúng ta có duyên tiền định. Chừng đó chúng ta sẽ về thưa lại song đường cho chúng ta được kết tóc se tơ với nhau.
Hoàng Kỳ Mai đồng ý. Thế là hai người cùng ném hai cành cây trong tay mình về hai hướng khác nhau. Một lúc lâu sau, gió đưa sóng đẩy hai cành mai và trúc lại hiệp nhau làm một. Hoàng Kỳ Mai và Lâm Bá Trúc cho rằng lời ước nguyện của họ đã ứng nghiệm nên vui vẻ chia tay nhau. Cả hai về với gia đình và thuật lại chuyện ấy cho cha mẹ nghe. Cả hai gia đình đều cho rằng con cái họ quả là có duyên tiền định nên cùng thuận tác hợp cho Hoàng Kỳ Mai và Lâm Bá Trúc nên duyên vợ chồng. Về sau người ta đặt cho cái đầm ấy tên là ”Đỗ phụ đầm” có nghĩa là ”cái đầm đánh cá được vợ”.
-------------------
Tài liệu tham khảo:
-Các tài liệu đã ghi trong các số báo trước,
-Tài liệu mới:
BY: HOÀNG THẠCH
1- Tóm lược đoạn thơ Kim Trọng được tin chú chết và gia đình Kiều mắc nạn
Sau khi nghe Kiều đàn ca, trao vật kỷ niệm, Kim Trọng cùng Kiều thề hứa trọn đời yêu nhau và sẽ đi tới hôn nhân. Nhưng bất ngờ Kim Trọng được người phụ việc đưa thư báo tin chú chết và bố nhắn về quê gấp lo việc tang chế. Quê của Kim Trọng ở huyện Liêu Dương thuộc tỉnh Liêu Ninh, một thời từng là thủ đô của Mãn Châu của Trung Hoa. Chuyện tình mới chớm nở và tình yêu đầu đang nồng cháy mà chàng phải từ biệt ra đi, Kiều làm sao không khỏi đau khổ? Cái buồn phải xa người yêu cùng với cái buồn Kim Trọng phải để tang chú ba năm khiến Kiều lo lắng cho thân phận mình. Xa mặt cách lòng, liệu thời gian có làm cho chàng thay lòng đổi dạ không? Riêng đối với Kiều thì nàng như linh cảm được sự phũ phàng, nên than thở:
“Ông tơ ghét bỏ chi nhau,
Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi”.
Dù sao đi nữa, Kiều vẫn một lòng:
“Đã nguyền hai chữ đồng tâm,
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai”.
Kim Trọng ra đi thì gia đình Kiều đi dự tiệc bên ngoại trở về, bất ngờ bị hoạn nạn. Nhóm quan lại tham nhũng nghe lời thằng bán tơ vu oan cáo vạ mà không chịu điều tra thật hư, liền sai quân lính tới bắt trói cha và em trai của Kiều treo ngược lên cột, cướp đồ đạc, nữ trang và quần áo đẹp của gia đình Kiều. Bọn tham quan còn làm bộ giả nhân giả nghĩa muốn giúp gia đình Kiều thoát nạn; nhưng phải có 300 lạng bạc thì cha và em trai mới được thả. Trước tình trạng nan giải này, Kiều đành bán mình chuộc cha, mặc dù đã thề non hẹn biển với Kim Trọng.
Để hiểu rõ sự khác biệt giữa nguyên tác văn xuôi Kim Vân Kiều của tác giả người Tầu là Thanh Tâm Tài Nhân và thi phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, chúng tôi xin phép ghi lại nhận định của giáo sư người Hoa Đổng Văn Thành về sự kiện gia đình Kiều bị hoạn nạn như sau:
a)-Thay đổi lại nguyên nhân Vương Thúy Kiều bán mình.
Tiểu thuyết nguyên tác viết, sau khi cha mẹ Vương Thúy Kiều tới nhà dượng của cô dự lễ mừng thọ, về tới nhà bảo Thúy Kiều: “Con ơi! Nguy rồi! Dượng con cho hai thằng bán tơ ở trong nhà, không biết chúng là cướp, khi chúng bán tơ bị nguyên chủ nhận ra đưa đi thưa quan, quan một mực cho dượng con là kẻ oa trữ. Cha mấy bữa cùng ngồi uống rượu với chúng, chỉ sợ bị chúng khai liều làm hại.”
Dương Binh mã thuộc Ty Binh mã trong thành chỉ dựa vào lời phạm nhân khai là có dính dáng đến Vương Viên Ngoại (bố của Thúy Kiều), không cần xét thật giả đã lập tức lợi dụng khẩu cung gian dối này làm cớ, sai ngay bảy, tám tên sai nha xông vào nhà họ Vương vơ vét của cải, dùng cực hình tra hỏi. Công sai chẳng cần phân giải, bắt luôn hai cha con Vương Viên Ngoại trói ghì vào cột rồi quát bảo nhau: “Khám tang vật”. Tìm khắp trước sau, trong ngoài, dưới bếp, nhà tiêu, sục vào mọi chỗ. Hòm xiểng, tủ giả, mở hết ra, thứ gì đáng giá ít nhiều, chúng đều thu hết. Vương Bà vừa mừng thọ về, trên người mặc bộ quần áo mới, chúng cũng lột lấy, đồ trang sức trâm thoa cũng không sót một thứ gì. Thấy quần áo Thúy Kiều, Thúy Vân dẫu đã cũ nhưng là hàng tơ, cũng bắt lột ra… Đáng thương cho một gia đình đang yên lành mà phút chốc tan tành như bể tuyết núi băng.
Hai cha con Vương Viên Ngoại đầu tóc rối bù, chân không giày dép, tay bị trói, chân xiềng, dựa cột ngoài sân, bị bọn công sai khảo đả trăm chiều… Chúng gọi Vương Quan lại, cởi bỏ dây trói, lột hết quần áo trơ da thịt, lấy thừng buộc chặt hai ngón chân cái treo lên cột cho gót chân chấm đất, ngón chỉ lên trời; lại buộc chặt hai ngón chân cái, đầu dây vứt qua xà, quát một tiếng: “Kéo!”, hai ba người ra sức kéo cho gót chân Vương Quan cao khỏi mặt đất hơn năm tấc. Vương Quan… thét lên một tiếng rồi lịm ngất đi. Chúng treo ngược tứ chi Vương Viên Ngoại lên, bụng quay dưới đất, trên lưng chặn một hòn đá to đè nặng lên 360 đốt xương, đốt nào cũng như muốn rời, tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông, lỗ nào cũng rỉ mồ hôi, mặt xám như tro. Những hành vi dã man, hung bạo đó quá hơn cả bọn cướp. Bọn tội phạm chính hiệu là cướp kia chỉ bị bắt giam là cùng, chưa bị hành phạt tàn khốc và khám nhà. Chẳng những thế, bọn công sai còn chia một phần số bạc Vương Thúy Kiều bán mình chuộc cha mà chúng bóp nặn được cho bọn cướp bị giam.
Người đầu bọn bảo: “Việc này mà đến cửa quan, nhất định là bị chém chết. Trừ phi một trong hai ngày phải có ba trăm lạng bạc, một trăm lạng lễ quan sai đi bắt cướp, một trăm lạng đút cho bọn cướp, bảo chúng khai không dính dáng đến nhà cô, còn một trăm thù lao cho bọn chúng tôi, có vậy mới xong việc được.” Đủ thấy nguyên nhân gốc khiến Thúy Kiều buộc phải bán mình rồi lưu lạc phong trần là do tham quan ô lại bóp nặn, bức hại mà nên. Bọn chúng tham tiền bẻ queo luật pháp, đảo lộn phải trái, tùy tiện làm oan uổng người, lấy đó làm cách kiếm tiền.
b)-Nhưng sang tới ngòi bút Nguyễn Du, bọn cướp bị bắt cấu kết với quan lại được sửa thành “thằng bán tơ”, nguyên nhân nhà họ Vương bị cực hình và bị khám nhà mất của được quy kết thành “chuyện do tên bán tơ vu cáo, bịa đặt thành tội” (câu 586). Hành động tàn bạo của lũ công sai và người đầu bọn được sửa thành không phải do đòi đút lót, mà là “Tuy cũng nha dịch, nhưng có từ tâm/ Thông cảm nàng chí tình, trọng hiếu/ Bất giác thương xót sâu sắc, bèn ngầm thu xếp biện pháp/ Đòi ba trăm lạng bạc làm tiền phạt kết thúc vụ án” (câu 607 - 611). Số bạc Thúy Kiều bán mình để đút lót, hối lộ trong nguyên tác được đổi thành “tiền phạt” tuy tiếp đó cũng có viết: “Vạn quan tiền giắt thắt lưng/ Tùy thời đổi được phải trái, trắng đen/ Chung Công (chỉ người đứng đầu bọn công sai – nguyên chú) cũng sớm liệu sắp xếp/ Tiền đến tay, là kết thúc kiện tụng chốn phủ quan” (câu 688 - 691). Xét về văn lý, kẻ mà Nguyễn Du chỉ trích là tên Mã Bất Tiến (tức Mã Giám Sinh- P.T.C) mạo xưng giàu có (Vạn quan tiền thắt lưng), bỏ tiền ra lừa mua Thúy Kiều, như thế chẳng những che đậy hoàn toàn tội ăn hối lộ, bẻ queo phép nước của quan lại mà còn biến công sai thành cứu tinh giúp đỡ vô tư nhà họ Vương thoát khỏi tai nạn. Sửa đổi như thế rõ ràng là giữ thể diện cho quan lại phong kiến, chứng tỏ Nguyễn Du đứng trên lập trường quan lại phong kiến mà cắt bỏ nội dung chống tham quan ô lại của nguyên tác.”
Nhận định
Qua sự phân tích và so sánh nêu trên của giáo sư Đổng Văn Thành, chúng tôi thấy Nguyễn Du thay đổi cốt truyện gia đình Kiều bị hoạn nạn chắc phải có nguyên do.
Sống dưới thời Quân-chủ chuyên-chế và theo đạo lý Khổng Tử “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” (Vua xử bề tôi phải chết mà bề tôi không chết là bất trung) thì Nguyễn Du khi viết truyện phải hành xử khôn ngoan thế nào để không bị vua chúa Nhà Nguyễn kết án là phạm thượng và chỉ trích chế độ. Như trong phần tiểu sử chúng tôi đã trình bày Nguyễn Du không thành công trong việc theo vua Lê Chiêu Thống trốn sang Tầu đã phải ở lại. Vì trung thành với Nhà Lê ông đã lãnh đạo một cuộc chiến chống Nhà Nguyễn Quang Trung; nhưng bị thất bại. Sau đó Nguyễn Du dự tính vào miền Nam giúp chúa Nguyễn và bị quân Tây Sơn bắt nhốt tù. Là một công thần Triều Lê mà Nguyễn Du lại được vua Nhà Nguyễn tin dùng và phong chức Tri Huyện, Tri Phù và Cần Chánh Điện Đại Học Sĩ, mặc dù chỉ mới đậu Tam Trường (Tú Tài), chưa đậu Cử-nhân. Sau đó lại được cử làm đặc sứ đi Tầu nối lại quan hệ ngoại giao, thì phải nói rằng Nguyễn Du không dại gì để bị Nhà Nguyễn nghi kỵ.
Nếu Nguyễn Du viết lại nguyên văn nội dung truyện Kim Văn Kiều của người Tầu thì có thể ông sẽ bị hiểu lầm là có ý đồ chống lại chính sách độc tài và tham quan dưới Triều Nguyễn. Qua lịch sử chúng ta thấy vua quan thời Minh Mệnh, Tự Đức đều rất mê Truyện Kiều. Người dân truyền miệng nhau câu: “Tự Đức mê đánh tổ tôm, mê ngựa Hậu bổ, mê Nôm Thúy Kiều” và theo truyền thuyết cũng chính vua Tự Đức có nói, nếu Nguyễn Du còn sống, sẽ nọc ông ra đánh một trăm roi, vì hai câu thơ nói về tướng cướp Từ Hải: “Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”.
Nếu Từ Hải là một nhân vật Việt Nam mà Nguyễn Du muốn dùng nhân vật này để bày tỏ cái khí phách ngang tàng của mình trong việc chống Tây Sơn Nguyễn Huệ, tuy anh hùng, nhưng phát xuất từ giai cấp nông dân, thì ông có thể bị Nhà Nguyễn không chỉ nọc ra đánh trăm roi mà có thể bị xử trảm (chém đầu) vì tội “Khi Quân”. Và biết đâu gia đình ông sẽ không tránh khỏi bị “Tru di tam tộc” (ba đời bị giết)?
Phải chăng chính vì vậy mà Nguyễn Du đã khôn khéo mượn cốt truyện của người Tầu và thay đổi nội dung truyện một cách có chủ đích cho hợp với hoàn cảnh và thân phận làm tôi hai chủ (Nhà Lê và Nhà Nguyễn) mà ông nghĩ sau này không biết có ai hiểu được tâm sự của ông không!
Nhờ sự khôn khéo đó thi phẩm của ông mang tính chất văn học phổ quát, không bị kết án, không bị cấm và bị đốt.
Nhờ sự khôn khéo đó mà ngày nay chúng ta mới còn thi phẩm lừng danh cổ kim để đọc.
Kim Trọng Nhận Thư Nhà
Cửa sài vừa ngỏ then hoa,
Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang.
đem tin thúc phụ từ đường,
Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề.
Liêu dương cách trở sơn khê,
Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang.
535. Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.
Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,
Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi:
Kim Trọng Về Nhà Chịu Tang
Sự đâu chưa kịp đôi hồi,
Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ,
Trăng thề còn đó trơ trơ,
Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.
Ngoài nghìn dặm chốc ba đông,
Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy!
545-Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
Tai nghe ruột rối bời bời,
Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau:
ông tơ ghét bỏ chi nhau,
550. Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi
Cùng nhau trót đã nặng lời,
Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ!
Quản bao tháng đợi năm chờ,
Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm.
555. Đã nguyền hai chữ đồng tâm,
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai
Còn non còn nước còn dài,
Còn về còn nhớ đến người hôm nay!
Dùng dằng chưa nỡ rời tay,
Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà
Ngại ngùng một bước một xa,
Một lời trân trọng châu sa mấy hàng.
Buộc yên quảy gánh vội vàng,
Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai.
565. Buồn trông phong cảnh quê người,
đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.
Não người cữ gió tuần mưa,
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày
Vương Viên Ngoại Bị Hàm Oan
Nàng còn đứng tựa hiên tây,
Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.
Trông chừng khói ngất song thưa,
Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng.
Tần ngần dạo gót lầu trang,
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về,
575. Hàn huyên chưa kịp giãi dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao;
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,
Một dây vô lại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung dệt, tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
585. Điều đâu bay buộc ai làm?
Này ai dan dậm, giật giàm bỗng dưng?
Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.
Hạ từ van lạy suốt ngày,
Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người.
595. Mặt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
Chữ Tình Và Chữ Hiếu
Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao
Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
605. Quyết tình nàng mới hạ tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!
Họ Chung có kẻ lại già,
Cũng trong nha dịch lại là từ tâm.
Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,
Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay
Tính bài lót đó luồn đây,
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.
Hãy về tạm phó giam ngoài,
Dặn nàng qui liệu trong đô i ba ngày.
615. Thương tình con trẻ thơ ngây,
Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ!
Đau lòng tử biệt sinh ly,
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên!
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.
2- Chú giải và điển tích
530. Gia đồng: Người phục dịch công việc ở trong nhà.
Thúc phụ: Chú ruột.
Từ đường: Từ bỏ nơi nhà ở, tức là chết.
532: Lữ thấn: Chết nhưng mà chưa chôn, quan tài còn quàn tạm ở nơi đất khách.
533: Liêu dương: là tên địa danh của một huyện, nay thuộc tỉnh Liêu Ninh (Trung Quốc) nơi chú ruột Kim Trọng qua đời. Liêu Dương là một trong những thành phố có người ở liên tục cổ xưa nhất ở đông bắc Trung Quốc. Thành phố có ngôi chùa Bạch Tháp nổi tiếng xây dựng từ thời Nhà Nguyên. Chùa Bạch Tháp nằm trong Công viên Bạch Tháp. Liêu Ninh đã từng là thủ đô của Mãn Châu. Hoàng đế đã dời đô về Thẩm Dương năm 1625. Đây cũng là nơi từng diễn ra trận chiến Liêu Ninh (24/8 đến 4/9/1904), một trong những trận đánh lớn trong cuộc chiến Nga-Nhật.
Sơn khê: Núi và khe suối, nguồn nước từ vùng núi chảy ra.
534: Xuân đường: Cha, Xuân là một loại cây sống rất lâu. Người sau nhân gọi cha là xuân hay Xuân đường (nhà xuân), có ý mong cha được tuổi thọ như cây ấy.
Hộ tang: Trông coi việc tang.
535: Mảng tin: Mới chợt nghe tin.
536: Đài trang: Do chữ trang đài, nơi trang điểm của phụ nữ.
537: Đinh ninh: căn dặn, cặn kẽ, đến nơi đến chốn.
539: Đôi hồi: Giãi bày, trò chuyện hết lời với nhau.
540: Trao tơ: Chỉ việc kết hôn.
Theo sách Khai nguyên Thiên bảo di sự: Trương Gia Trinh, Tể-tướng (Thủ-tướng) nhà Đường, có năm con gái vừa đẹp vừa có tài. Ông muốn gả một cô cho Quách Nguyên Chấn, đô đốc Lương Châu, nhưng không biết chọn cô nào. Để giải quyết tình trang này, ông bèn bảo năm con đứng sau một bức màn, mỗi người cầm một sợi tơ dài mầu sắc khác nhau. Các sợi tơ để thòng ra ngoài cho Nguyên Chấn tuỳ ý chọn một sợi, trúng sợi nào thì lấy người ấy làm vợ. Nguyên Chấn chọn sợi tơ mầu đỏ, trúng người con gái thứ ba, một thiếu nữ rất xinh đẹp.
543: Ba đông: Đông là mùa đông, ý chí ba năm để tang.
544: Chầy: Còn chậm, còn lâu ngày.
545: Gìn vàng giữ ngọc: Giữ thân thể cho được khoẻ mạnh, và cũng ngụ ý giữ gìn mối tình cho được thuỷ chung, trong sạch, quí trọng như giữ gìn vàng ngọc.
556: Ôm cầm thuyền ai: Ôm đàn sang thuyền của người khác, tức là đi lấy chồng khác.
566: Quyên: Chim đỗ quyên, tức chim quốc. Đây tả cảnh cuối hè, sang thu. Tiếng quyên kêu còn ra rả (nhặt) đầu cành và bóng nhạn đã thấy bay loáng thoáng (thưa) ở chân trời.
567: Cữ, tuần: Người xưa thường tính bảy ngày là một cữ, và mười ngày là một tuần.
568: Tương tư: Nguyên nghĩa là ở xa cách mà cùng nhớ nhau, sau người ta mượn để nói sự nhớ nhau của đôi trai gái yêu nhau.
570: Chín hồi: Do chữ cửu hồi, ruột chín lần bị đau quặn lại.
574: Ngoại hương: Làng ngoại, quê ngoại.
Giãi dề: Giải bày, chuyện trò.
576: Sai nha: Nha lại do quan trên sai phái đi.
577: Thước: Tay thước, một thứ võ khí cổ, bằng gỗ, dài độ một thước tây, cạnh vuông bốn góc, dùng để đánh người.
Nách thước: Nách cặp cây gậy.
Đao: Dao to, mã tấu, thứ võ khí bằng sắt, lưỡi to.
579: Già: Cái gông. Giang: Khiêng đi, giải đi. ở đây nói cha con viên ngoại và Vương quan bị đóng gông lại.
583: Tế nhuyễn: Nhỏ bé, mềm mại, chỉ chung những đồ vàng ngọc quí giá và trang sức, quần áo dễ mang đi.
585: Bay buộc: ý nói cái tai vạ tự đâu bay đến, buộc vào.
586: Dậm: Một dụng cụ đánh cá.
588: Xưng xuất: Xưng ra, khai ra.
590: Loà mây: Làm mờ cả bầu trời: ý nói: một vụ hết sức oan uổng.
594: Hạ từ: Hạ lời, nói lời thanh minh để kêu cầu van xin.
Lân tuất: Thương xót, thương tình. ý cả câu: tụi sai nha cứ phủ tay đánh đập, mặc những lời kêu van của nhà Kiều, chúng chỉ làm điếc làm ngơ.
593: Rường cao: Thanh rường nhà bắc ở trên cao.
Dây oan: Dây trói oan uổng. Tụi sai nha trói và treo ngược hai cha con họ Vương lên rường nhà.
599: Cốt nhục: Ruột thịt, chỉ Vương ông và Vương Quan.
600: Ngộ biến tòng quyền: Gặp cảnh biến phải theo đạo “quyền” (không thể giữ nguyên đạo “kính” như lúc bình thường được), ý nói: Phải tuỳ theo hoàn cảnh mà xử sự cho thích hợp.
Để hiểu một cách sâu xa hơn, chúng tôi xin trích một đoạn trong bài: “Thị Lộ cải hóa vua Lê Thái Tông từ một đứa bé bất trị thành một minh quân” một điển tích
của lịch sử Việt Nam:
“…Trong 4 năm (1438-1442), nhờ có sự hướng dẫn của Thị Lộ, ái thiếp của Đại thần Nguyễn Trãi, Thái Tông đã trị vì một cách khoan từ sáng suốt. Sử thần Vũ Quỳnh khen: “Thị Lộ đã cảm hóa được Lê Thái Tông, thuyết phục vua chăm chỉ đèn sách, lại giúp vua nhiều ý kiến để sửa trị nước. Cậu bé bất trị nay trở thành một “minh quân” khác hẳn trước. Theo lòng trời trời, Ngài ban hành “chính sách xót thương bất nhẫn” của bậc đế vương, xét xử tù nhân phần nhiều dựa theo lòng khoan dung. Được như thế, phải chăng là nhờ Thị Lộ thường xuyên nhắc nhở Thái Tông về nhân nghĩa, mà Nguyễn Trãi đã có dịp trình bày với vua trong vụ xử bảy tên vị thành niên ăn trộm tái phạm vào năm 1435, chiếu luật đáng tội chém. Thái Tông đem việc ấy hỏi Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi trả lời: “Pháp lệnh không bằng nhân nghĩa, cũng rõ lắm rồi. Nay một lúc giết bảy người e không phải là hành vi của bậc đại đức. Kinh Thư có câu: “An nhữ chỉ “ (hãy yên với chỗ đứng của mình), sách Truyện có câu: “Tri chỉ nhi hậu hữu định” (biết dừng thì rồi mới vững). Thần xin thuật lại nghĩa của chữ “chỉ” để bệ hạ nghe: “Chỉ “ có nghĩa là yên với chỗ đứng của mình, như trong cung là chỗ đứng của bệ hạ, thỉnh thoảng bệ hạ có ngự ra chỗ khác, cũng không thể ở đó mãi, phải trở về trong cung, thì mới yên chỗ đứng của mình được. Người làm vua đối với nhân nghĩa cũng vậy, phải để lòng nơi nhân nghĩa, coi nhân nghĩa là chỗ đứng của mình. Tuy có lúc ra oai giận dữ, nhưng không phải như thế mãi được, xin bệ hạ lưu ý những lời của thần.”
Vấn đề thân tình giữa Thái Tông và Thị Lộ
Vì Thái Tông tỏ ra thân mật, khăng khít ngày đêm trò chuyện với Thị Lộ, nên có nhiều dị nghị cho rằng: “Lê Thái Tông hồi 17, 18 tuổi đã thông dâm với vợ lẽ của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ.” Có biết đâu tình cảm mà Thái Tông dành cho Thị Lộ đã bắt nguồn từ một cội rễ thiêng liêng hơn.
Nguyên năm 1425, trong thời gian đang đánh nhau với quân Minh, Lê Lợi nằm mộng thấy thần “Cá Quả” đến nói “Xin tướng quân cho một người thiếp thì nguyện giúp tướng quân đánh được giặc Ngô mà thành nghiệp đế”. Ngày hôm sau, Lê Lợi gọi các thiếp đến hỏi ai bằng lòng làm vợ của thần “Cá Quả”, ta được thiên hạ sẽ truyền cho con của người ấy làm vua. Bà Phạm thị Ngọc Trần (mẹ của hoàng tử Nguyên Long, nay là Thái tông, lúc đó mới 2 tuổi) thưa: “Nếu ngài giữ lời ước thì thiếp xin nhận. Ngày sau xin đừng phụ mẹ con thiếp”. Lê Lợi giao ước với các quan văn võ y như lời ấy.
Ngày 24 tháng 3 âm lịch 1425, Ngài sai lập đàn tế thần, dâng bà phi họ Phạm làm tế vật. Bà phi mặc áo quần lộng lẫy, bịt mắt lại, lên ngồi trên chiếc thuyền nan bằng giấy. Thuyền được thả theo dòng sông Lam và chìm dần dần, trong tiếng nhị, tiếng sáo điệu Nam Ai sầu não, cùng trong tiếng khóc nức nở của các phi tần và của Nguyễn Thị Lộ, thiếp của Nguyễn Trãi. Về sau, giữ lời ước ấy, Lê Lợi truyền ngôi cho Nguyên Long, (tức là vua Lê Thái Tông).
Nguyên Long mồ côi mẹ từ lúc 2 tuổi, phải nhờ một bà phi chăm sóc, tất nhiên đã cảm thấy thiếu thốn, thèm khát tình “mẫu tử” từ lâu. Nay gặp được Thị Lộ cùng một lứa tuổi với mẹ mình (năm 1438, Thị Lộ 48, Thái Tông 15 tuổi), lại là một người đã quen biết, đã chung sống với mẹ mình, đã chứng kiến thảm cảnh mẹ mình hy sinh mạng sống để mình được lên ngôi vua ngày nay, tự nhiên cậu bé mồ côi mẹ kia không khỏi vô cùng xúc động. Thường tình, ở vào địa vị ấy, ai cũng phải tò mò muốn hỏi cho rành rọt về mọi việc liên quan đến mẹ mình. Tất cả tình thương đối với người quá cố, có lẽ nhà vua đã dồn hết vào Thị Lộ, coi như một bà dì ruột, vớt vát lại những gì đã mất mát từ thuở bé thơ. Còn về sau, khi Thái Tông đến tuổi 17, 18, sáng chiều nam nữ cận kề, thật cũng khó mà tránh khỏi bị tiếng đời dị nghị. Đó là điều mà Ngô Từ, cũng như Nguyễn Trãi, Thị Lộ cũng đã thấy trước rồi.
Một sự lựa chọn khôn ngoan, bi đát. Một bên để vua ăn chơi thất học, trị vì vô đạo, cả nước sẽ bị nguy khốn; một bên tạo ra hoàn cảnh giúp vua học hỏi nhưng không khỏi khiến vua có thể bị mang tiếng có tư tình với vợ lẽ của bầy tôi. Nếu chỉ “chấp nhất” giữ cho đúng cái ta gọi là “đạo lý tầm thường” mà làm hư đại sự, thì Mạnh-Tử cho rằng “cách chấp nhất như thế là đáng ghét”, vì nó làm cho hại mất chân đạo lý, chỉ là làm nổi một việc nhỏ mà bỏ hết trăm việc lớn.” (Mạnh tử thượng, tiết 7).
Đứng trước một sự lựa chọn gây cấn, Nguyễn Trãi đã ứng xử tùy theo tình thế, tùy theo thuyết mà Mạnh tử gọi là “ngộ biến tòng quyền”: gặp một thế bức bách bất thường, phải vị quyền nghĩa là nhận xét thật rõ ràng bên nào nặng, bên nào nhẹ để ứng xử cho thăng bằng.
Theo Mạnh tử, người quân tử đứng ra thờ vua, cốt đưa vua mình lên đường đạo đức, chỉ để tâm trí đến việc nhân mà thôi. Cho nên, nhờ biết “ngộ biến tòng quyền”, mà Nguyễn Trãi và Thị Lộ cải hóa một đứa bé bất trị thành một vị vua hiền đức.”
601: Hội ngộ: Gặp gỡ gắn bó nhau, có ý nói về mối tình duyên giữa Kiều với Kim Trọng.
Cù lao: Công ơn sinh dưỡng khó nhọc của cha mẹ.
603: Thệ hải minh sơn: Thệ: thề nguyền, Hải: biển, Minh: thề, Sơn: Núi, còn đọc là San.... thệ hải minh sơnlà chỉ núi mà thề, chỉ biển mà nguyền. Ý nói: Kim Trọng và Thuý Kiều yêu nhau và thề thốt không bao giờ phụ bạc nhau, có núi có biển làm chứng cho lời thề.
604: Sinh thành: Công ơn cha mẹ sinh con ra và nuôi dưỡng con nên người.
605: Hạ tình: Tỏ bầy ý nghĩ.
606: Rẽ cho: Lời gạt đi ý kiến những người khác để nói lên ý kiến của mình một cách kiên quyết.
607: Lại già: Người gia lại già.
608: Nha dịch: Người làm việc ở nơi gia môn, tức nơi công sở của các phủ huyện.
614. Qui liệu: Thu xếp, lo liệu.
617. Tử biệt sinh ly: Chết vĩnh biệt nhau gọi là “tử biệt”, sống mà xa lìa nhau gọi là “sinh ly”. Đó là hai cảnh thương tâm lớn của đời người. Tuy là hai cảnh, nhưng người ta thường dùng làm một thành ngữ, để nói chung cho người gặp cảnh “tử biệt” cũng như người gặp cảnh “sinh ly”.
619. Hạt mưa: Chỉ thân phận người con gái như trong ca dao Việt Nam có câu:
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng lầy.
620. Tấc cỏ, ba xuân: Do chữ thốn thảo, tâm xuân.
Thơ tả tình đi chơi xa nhớ mẹ của Mạnh Giao đời Đường có câu: Dục tương thốn thảo tâm, báo đáp tam xuân huy (Ai bảo cái lòng của ngọn cỏ một tấc (ngọn cỏ ngắn) báo đáp được ánh sáng ấm áp của ba tháng xuân). Tấc cỏ: Ví với người con. Ba xuân: Ví với công ơn cha mẹ, như bài thơ dưới đây:
Từ mẫu thủ trung tuyến
Du tử thân thượng y
Lâm hành mật mật phùng
Ý khủng trì trì quy
Thùy ngôn thốn thảo tâm
Báo đắc tam xuân huy
(Mạnh Giao)
Khúc Ngâm Cho Đứa Con Đi Xa (Du Tử Ngâm do Hải Đà dịch)
Bài 1:
Tay Mẹ hiền se chỉ
Khâu áo người đi xa
Chắt chiu từng sợi kỹ
Sợ con lâu về nhà
Lòng cỏ nào đáp nổi
Nắng ba xuân đậm đa
Bài 2:
Mẹ ngồi se chỉ trên tay
Chắt chiu áo mỏng, đợi ngày con đi
Đường khâu mũi vá chi li
Băn khoăn lo lắng con đi lâu về
Hỏi rằng tấc cỏ lòng quê
Ba Xuân nắng ấm đền bù được chăng?
----------------------
Tài liệu tham khảo
BY: HOÀNG THẠCH
Những Cung Đàn Tuyệt Diệu, Nàng Gẫy Cho Chàng Nghe
1- Đại-ý đoạn thơ Kim-Kiều trao lời hẹn ước và Kiều gẩy đàn cho Kim Trọng nghe
Kiều lợi dụng lúc cha mẹ và hai em đi dự tiệc sinh nhật bên quê ngoại, bèn mò sang nhà Kim Trọng thăm chàng. Rồi không chỉ trao tặng kim thoa và khăn hồng làm vật kỷ niệm, mà còn làm thơ, vẽ tranh, tặng hoa và cắt tóc mai trao cho chàng như một lời trăm năm hẹn ước. Kim Trọng không chỉ say mê sắc đẹp mà còn phục tài làm thơ “nhả ngọc phun châu”, tài vẽ tranh “Tay Tiên gió táp mưa sa” của nàng, không thua gì hai nữ sĩ danh tiếng là Nàng Ban đời Đông Hán và Ả Tạ đời Tấn của Tầu. Để chinh phục trọn vẹn tình yêu của chàng, nàng lấy đàn gẩy cho chàng nghe. Những khúc đàn của nàng hay tuyệt diệu đến nỗi chàng Kim phải khen: “Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như nước suối mới sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài, Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”. Tuy nhiên, các điệp khúc “Hán Sở chiến trường, Tư Mã Phượng Cầu, Chiêu Quân…”, làm người nghe buồn tê tái. Tiếng đàn thê lương gợi lại nỗi đớn đau của các cuộc tình chia ly trong lịch sử. Phải chăng cuộc đời nàng sẽ khổ đau như số phận Đạm Tiên, như các nạn nhân trong lịch sử? Thấy nàng quá bi quan và quá lo xa cho số phận mình, Kim Trọng tỏ lời an ủi: “Xưa nay nhân định thắng nhiên cũng nhiều”.
Cha mẹ và hai em đi dự tiệc, Kiều ở nhà lén sang gặp Kim Trọng
370. Lần lần ngày gió đêm trăng,
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.
Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,
Trên hai đường, dưới nữa là hai em.
Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,
375.Biện dâng một lễ xa đem tấc thành.
Nhà lan thanh vắng một mình,
Gẫm cơ hội ngộ đã đành hôm nay.
Thời trân thức thức sẵn bày,
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường.
380.Cánh hoa sẽ dặng tiếng vàng,
Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông.
Trách lòng hờ hững với lòng,
Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.
Những là đắp nhớ đổi sầu,
Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.
385. Nàng rằng: Gió bắt mưa cầm,
Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.
Vắng nhà được buổi hôm nay,
Lấy lòng gọi chút sang đây tạ lòng!
390. Lần theo núi giá đi vòng,
Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.
Xắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai.
Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,
395. Bên lời vạn phúc, bên lời hàn huyên.
Sánh vai về chốn thư hiên,
Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông.
Trên yên bút giá thi đồng,
Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên.
400. Phong sương được vẻ thiên nhiên,
Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi.
Sinh rằng: Phác họa vừa rồi,
Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.
Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
405.Khen: Tài nhả ngọc phun châu,
Nàng Ban, Ả Tạ cũng đâu thế này!
Kiếp tu xưa ví chưa dày,
Phúc nào nhắc được giá này cho ngang!
Sinh rằng: Giải cấu là duyên,
420-Xưa nay nhân định thắng nhiên cũng nhiều.
…Kiều đàn cho Kim Trọng nghe
Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài,
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.
465.Thưa rằng: Tiện kỹ sá chi,
đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng.
Hiên sau treo sẵn cầm trăng,
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.
Nàng rằng: Nghề mọn riêng tay,
470.Làm chi cho bận lòng này lắm thân!
So dần dây vũ dây văn,
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
475.Khúc đâu Tư mã Phượng cầu,
Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
Kê Khang này khúc Quảng lăng,
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.
Qua quan này khúc Chiêu Quân,
480.Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
485.Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
Khi tựa gối khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.
Rằng: Hay thì thật là hay,
490.Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!
Lựa chi những bậc tiêu tao,
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người?
Rằng: Quen mất nết đi rồi,
Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!….
2- Chú giải và điển tích
Trong bài này chúng tôi chỉ viết đại ý từ câu 370 tới câu 462 và không ghi toàn bộ phần chú giải từ ngữ. Lý do: có nhiều điển tích đáng đọc, quan trọng nhất là đoạn Kiều gẩy đàn cho Kim Trọng nghe. Nếu ghi tất các câu thơ và lời chú giải thì bài viết này sẽ quá dài.
406-Nàng Ban
Ban Chiêu tự là Huê Cơ là người đàn bà hay chữ đời Đông Hán. Năm mười lăm tuổi Ban Chiêu đã biết làm thơ và làu thông Tứ Thư, Ngũ kinh. Lấy chồng là Tào Thế Thức, một danh nho của Đông Hán. Sống chung được mười năm thì Tào Thế Thức qua đời vì bệnh. Ban Chiêu thủ tiết thờ chồng.
Đời vua Hoà Đế, Ban Chiêu được triệu vào cung để dạy học cho các hoàng tử và các phi tần. Lúc bấy giờ cha của bà là Ban Bưu đang tại chức Đông-các Đại-học sĩ, chịu trách nhiệm soạn thảo bộ Hán Thư. Công việc đang còn dang dở thì ông qua đời. Anh của Ban Chiêu là Ban Cố được nhà vua chỉ định tiếp tục công trình của cha. Nhưng chẳng bao lâu, Ban Cố cũng qua đời vì bạo bệnh, trong khi bộ Hán thư vẫn chưa xong. Ban Chiêu tâu với vua cho bà được tiếp nối công trình. Vua Hòa Đế chấp thuận và bà được sung vào Đông-các Tàng-thư tiếp tục soạn bộ Hán Thư cho hoàn tất.
Trong thời gian ở Đông-các Tàng-thư, Ban Chiêu đã trước tác tập Nữ Giới, gồm bảy thiên. Từ đó tài danh Ban Chiêu trở nên lẫy lừng.
Ả Tạ
Ả Tạ là Tạ Đào Uẩn, con gái quan Thái-úy Tạ Công đời nhà Tấn, có nhan sắc tuyệt trần lại thông minh nhất mực, nổi tiếng thơ phú hay. Trong cùng một vùng, có họ Vương cũng dòng dõi gia phong, con cháu thuộc vào bậc vọng tộc. Họ Tạ và họ Vương hứa con trai con gái hai họ chỉ kết duyên với nhau, không lấy người ngoài. Khi Tạ Đào Uẩn đến tuổi cập kê, Tào Công nhờ em là Tạ An sang hà họ Vương kén rể. Được tin, tất cả nho sinh nhà họ Vương người nào cũng áo quần tươm tất, ăn nói đoan trang, muốn phô diễn mình là bậc tài hoa thế phiệt. Tạ An hồi giờ để ý từng người nhưng chưa để mắt người đàn ông nào. Một hôm, Tạ An qui tụ các nho sinh họ Vương lại để thử tài đối đáp văn chương. Mọi người đang thi thố tài năng thì Tạ An nhìn thấy về phía đông, một chàng trai tuấn tú, mặc áo để trật bụng ra ngoài, đang nằm vắt vẻo chân chữ ngũ trên giường.
Tạ An hỏi dò:
-Công tử nằm ở giường phía đông tên là gì vậy?
-Chàng tên là Vương Ngưng Chi, tự Vương Hưu Quân có tiếng ham học, thông minh.
Tạ An ưng ý, về báo với Tạ Công. Quan Thái-úy vỗ tay:
-Người đó mới là rể tốt của ta đó.
Vài hôm sau, Tạ Công gọi Vương Ngưng Chi đến, gả nàng Tạ Đào Uẩn. Chàng trai lơ đãng chuyện kết duyên rước nàng dâu tài sắc, thường ngày hay ra bờ sông Lan Chữ (tỉnh Triết Giang) ngâm vịnh, viết thư pháp, nét chữ tuyệt đẹp, người đời sau gọi là Thiếp Lan Đình. Trong Kiều còn có câu:
Khen rằng bút pháp đã tinh
So vào với Thiếp Lan Đình nào thua.
Chàng trai tuấn tú thông minh nằm vắt chân chữ ngũ trên giường phía đông (đông sàng) mà lại được vợ đẹp. Người đời sau dùng điển tích Đông-sàng là ý muốn nói chàng rể quí, xứng đôi với gái thuyền quyên.
410. Ngọc bội: Đồ đeo bằng ngọc. Chữ dùng chỉ chung người ta đã hiển đạt và có quan chức. Kim môn: Tức Kim mã môn nói tắt, tên cửa cung Vị ương của vua nhà Hán (cửa cung có để tượng ngựa đồng nên gọi là Kim mã). Đời Hán Vũ Đế, thường cho những người có văn tài đến đợi ở đây, để chờ nhà vua hỏi han về chính sự. Kiều muốn nói Kim Trọng không là nhà quan cũng là người học cao.
437. Tiếng sen: Bước chân của người đẹp. Giấc hoè: Theo sách Nam kha ký: Thuần Vu Phần đời Đường, ngày sinh nhật, uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hoè già ở phía Nam nhà ông, liền mộng thấy đến một nước gọi là “Đại Hoè An”, được vua nước ấy gả công chúa, và cho làm quan Thái-thú quận Nam Kha, vinh hiển hơn hai mươi năm. Khi tỉnh dậy, chỉ thấy dưới gốc hoè một tổ kiến lớn, trong có con kiến chúa, mới hiểu đó là nước và vua Hoè An (gốc hoè yên ổn), còn Nam Kha tức là cành hoè phía nam nhằm thẳng xuống tổ kiến. Do đó, người ta nói “giấc Nam Kha” hay “Giấc-hoè” để chỉ cuộc phú quý hư ảo.
439. Đỉnh Giáp: Đỉnh núi Vu Giáp (hay Vu Sơn). Vua Sở Hoài Vương đi chơi quán Cao Đường, mộng thấy một người đàn bà đẹp, và tự xưng là thần núi Vu Sơn, sớm làm mây, chiều làm mưa. Do tích này, người ta thường dùng chữ “mây mưa” để chỉ việc ân ái giữa trai gái. Non thần: núi Thần nữ chỗ ở của nàng tiên gặp vua Sở nói trên.
463. Cầm Đài (Bá Nha, Tử Kỳ)
Cầm đài: cái đài để Tư Mã Tương Như ngồi gảy đàn. Tri âm: hiểu biết nhau qua tiếng nhạc phát xuất từ chuyện Tử Kỳ tri âm Bá Nha thời Chiến Quốc. Theo sách Lã thị Xuân Thu: “Bá Nha cổ cầm, Chung Tử Kỳ tại ngoại thiết tính chi viết: nguy nguy hồ như thái sơn, dương dương hồ như lưu thủy” (Bá Nha gảy đàn, Chung Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm, khen rằng: ngun ngút như núi Thái Sơn, cuồn cuộn như dòng nước chảy).
Vào lúc hai nước Tấn và Sở đang giao hảo thì Bá Nha tuy là người nước Sở, nhưng lại làm quan đến chức Thượng Đại-phu của nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời. Suốt ngày đêm, Bá Nha không bao giờ rời cây đàn Dao thân thiết của mình. Năm ấy, trên đường từ Sở về lại Tấn sau chuyến công cán, Bá Nha cho thuyền đỗ lại bến Hàm Dương vào một đêm trăng thanh gió mát. Bá Nha cho đồng tử đốt lư trầm trước thuyền, rồi lấy đàn Dao ra so phím thử dây. Dưới ánh trăng trong, tiếng đàn quyện lấy hương trầm đang bay vút lên cao giữa đêm thu thanh vắng, bỗng một tiếng “bựt “ khô khan, dây tơ đồng đứt. Bá Nha nghĩ dây đàn đứt ắt có quân tử nào nghe lén đây, bèn sang sảng cất tiếng:
-Có cao nhân nào trên bờ lắng nghe tiếng đàn của tại hạ, xin vui lòng ra mắt.
Từ trên vách núi có tiếng vọng xuống:
-Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành.
Bá Nha cười lớn:
-Tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đàn với ta?
Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại:
-Đại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa: “Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín” (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến...
Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ lời, ông tiến sát đến mũi thuyền nói lớn:
-Nếu thật là người trên bờ biết nghe đàn, thì xin cho biết lúc nãy tại hạ đã đàn khúc gì?
Giọng trên bờ bình thản vọng xuống:
-Đó là Khổng Vọng Vi, Đức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi. Hồi nãy, đại nhân đang đàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu chót.
Nghe xong, Bá Nha thấy lòng phơi phới, vội sai tùy tùng lên bờ rước người tiều phu xuống thuyền. Bá Nha trân trọng đón tiếp:
-Quý hữu biết nghe đàn, vậy chắc cũng rõ được xuất xứ của cây đàn Dao (Dao cầm)?
Tiều phu không ngập ngừng:
-Nghe nói, thuở xưa vua Phục Hy tình cờ trông thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng và chim phượng hoàng đến đó đậu. Vua biết cây ngô đồng là thứ gỗ quý, hấp thụ tinh hoa của trời đất, có thể dùng để làm nhạc khí được, liền cho người hạ cây, cắt làm ba đoạn. Đoạn ngọn, tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoạn giữa tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được. Nhà vua cho ngâm đoạn giữa thân cây giữa dòng nước, đúng bảy mươi hai ngày đêm, vớt lên phơi trong mát cho thật khô rồi gọi người thợ giỏi Lưu Tử Kỳ đẽo thành cây đàn Dao. Đàn Dao dài ba thước sáu tấc, một phần án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên, mặt trước rộng tám tấc, án theo tám tiết, mặt sau rộng bốn tấc án theo bốn mùa, bề dày hai tấc án theo lưỡng nghi. Đàn gồm mười hai phím, tượng trưng cho mười hai tháng trong năm, lại có thêm một phím phụ tượng trưng cho tháng nhuận. Đàn có năm dây án theo ngũ hành tượng trưng cho năm âm: cung, thương, giốc, thủy, vũ. Xưa, vua Thuấn gảy đàn Ngũ-huyền, thiên hạ thái bình. Khi vua Văn Vương bị ngồi tù nơi Dũ Lý, Bá Âp Khảo thêm một dây oán, gọi là dây văn (văn huyền). Về sau, khi Vũ Vương đánh nước Trụ, thêm môt dây nữa gia tăng kích động gọi là dây vũ (vũ huyền). Do đó, đàn Dao lúc đầu có năm dây, sau có bảy dây. Đàn Dao có bốn điều kỵ là: rét lớn, nắng lớn, gió lớn và tuyết lớn; và bảy điều không nên là: không đàn ở đám tang, không đàn lúc lòng rối loạn, không đàn lúc lòng không thanh bạch, không đàn lúc bận rộn nhiều việc, không đàn lúc y trang không chỉnh tề, không đàn lúc không có trầm hương và không đàn lúc không có bạn tri âm.
Bá Nha nghe nói, biết tiều phu là bậc kỳ tài, đem lòng kính mến:
-Hiền hữu quả là người tinh thông nhạc lý. Xưa kia, Khổng Tử đang gảy đàn, thầy Nhan Hồi bước vào, nghe thanh âm sao mà u trầm, biết là trong tâm Khổng Tử đang giao động. Hỏi ra, mới hay là trong khi Khổng Tử đàn, thấy con mèo đang bắt chuột, nên tâm tư đã chùng tiếng tơ đồng. Trước kia, Nhan Hồi nghe tiếng đàn mà biết được lòng học trò, còn ngày nay, nghe tiếng đàn Bá Nha này, hiền hữu có biết lòng ta đang tư lự gì không?
-Xin đại nhân cho nghe một vài khúc nhạc nữa
Bá Nha thay dây đàn, gảy khúc Ý Tại Non Cao.
Tiều phu ngẩng mặt mỉm cười:
-Tuyệt thay, ý chí cao vút. (Ý tại non cao).
Bá Nha giật mình ngưng đàn. Một lúc sau gảy thêm khúc Ý Tại Lưu Thủy.
Tiều phu khua tay xuống dòng nước:
-Trời nước bao lạ. (Ý tại lưu thủy).
Bá Nha thất kinh, nhìn người tiều phu không chớp mắt, sao lại có người cảm thấu được tiếng đàn của mình như vậy. Ông sai người hầu dẹp trà, bày tiệc rưọu. Xong, ông đứng lên trước mặt người tiều phu, kính cẩn hỏi:
-Dám hỏi tiên sinh quý danh và quê quán.
Tiều phu vội đứng lên, chắp tay thi lễ:
-Tiện dân họ Chung, tên Tử Kỳ, người thôn Tập Hiền gần núi Mã Yên này. Còn đại nhân, chẳng hay cao danh quý tánh là gì, hiện đi trấn nhậm nơi đâu mà ghé thuyền lại đây vãng cảnh.
-Tại hạ họ Du tên Thụy, là Đại-phu nuớc Tấn, nhân đi sứ nước Sở về, thấy cảnh Hàm Dương trăng thanh gió mát, nên ghé thuyền thưởng lãm. Tại hạ chỉ là một kẻ tài hèn đức bạc mà thôi. Còn như tiên sinh đây học thức uyên bác cớ sao không xuất thân lập công danh, phò vua giúp nước, mà lại sống ẩn dật chốn núi non hẻo lánh này.
-Tôi còn cha mẹ già, không có anh em, phận làm con phải lo tròn chữ hiếu, dẫu cho công hầu khanh tướng cũng không thể đổi được một ngày báo hiếu của tại hạ. Tử Kỳ hai mươi bảy tuổi.
Bá Nha trân trọng nói:
-Tiện chức hơn tiên sinh những mười tuổi. Nếu tiên sinh không chê tôi đức mọn tài hèn thì xin kết làm anh em để khỏi phụ duyên tri âm.
Chung Tử Kỳ khiêm nhượng đáp:
-Đại nhân là bậc công khanh nơi triều đình, tại hạ là kẻ áo vải chốn sơn lâm thì làm sao kết bạn với nhau được, xin đại nhân miễn cho.
-Giá trị con người đâu ở chỗ giàu sang phú quý, mà ở đức hạnh tài năng. Nay nếu tiên sinh chịu nhận làm anh em thì thật là vạn hạnh cho tiện chức.
Bá Nha đã có thành tâm, Tử Kỳ không từ chối nữa. Bá Nhà sai người hầu đốt lò hương mới, lập hương án trước thuyền, cùng Tử Kỳ lậy trời đất tám lậy, nhận nhau làm anh em khác họ. Rồi hai bạn cùng đối ẩm chuyện trò với nhau rất chi là tương đắc.
Đến lúc ánh trăng nhạt nhòa, tiếng gà eo óc gọi ánh nắng ban mai, đôi bạn đành phải chia tay. Bá Nha giọng run run, nhìn Tử Kỳ:
-Lòng huynh quá cảm mộ, chưa nỡ rời hiền đệ. Hiền đệ có thể cùng huynh đi thêm một đoạn đường để thêm được một khúc chuyện trò cho thỏa mối tâm tình.
Chung Tử Kỳ cũng không dấu được xúc động:
-Theo lễ, tiểu đệ phải tiễn hiền huynh vài dặm đường mới phải, ngặt vì song thân của tiểu đệ đang trông ngóng ở nhà, xin hiền huynh thứ lỗi.
-Vậy thì hiền đệ về nhà xin với song đường qua nước Tấn thăm chơi, chắc là sẽ được nhận lời.
- “Phụ mẫu tồn, bất khả viễn du”, làm sao Tử Kỳ có thể rời cha mẹ để vui chơi cùng bạn được.
Cuối cùng, Bá Nha nắm tay Tử kỳ, giọng khẩn thiết:
-Sang năm, cũng vào giờ này, xin hẹn hiền đệ tại đây.
Rồi lấy ra hai nén vàng, hai tay dâng cao lên trước mặt:
-Đây là món lễ vật mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ, bá mẫu, đã xem nhau là cốt nhục xin hiền đệ chớ từ chối.
Cảm tình tri ngộ, Tử Kỳ không từ chối, lưu luyến chia tay, đôi bạn bịn rịn không thốt lên nổi lời tạm biệt.
Thấm thoắt một năm qua, ngọn gió heo may từ phương Bắc về đem mùa thu đến. Bá Nha vào triều kiến vua Tấn xin được phép về Sở thăm quê nhà. Thuyền đến bến Hàm Dương, Bá Nha cho dừng lại dưới núi Mã Yên mà lòng bồn chồn trông ngóng. Vừng kim ô đã ngả bóng xuống lòng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút, sao mãi vẫn không thấy bạn tri âm. Bá Nha cho đồng tử đốt lò hương, rồi lấy Dao cầm đàn một khúc. Trong cơn gió nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của mình sao mà ai oán, não nùng. Bá Nha thất kinh, ngừng tay đàn, tâm thần rối bời; cung thương bỗng nghe sầu thảm như thế này thì chắc là Chung Tử Kỳ gặp nạn lớn rồi. Cả đêm, Bá Nha trăn trở, nhớ thương và âu lo cho bạn. Trời chưa sáng, Bá Nha đã khoác cây Dao cầm lên lưng, bỏ vào túi mười nén vàng ròng rồi cùng vài tên hầu tìm đến chân núi Mã Yên. Dọc đường gặp một ông lão, tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc. Bá Nha lễ phép thưa:
-Xin lão trượng chỉ đường đi đến Tập Hiền thôn.
-Có Tập Hiền thông thượng, Tập Hiền thôn hạ. Tiên sinh cần đến thôn nào?
-Thưa lão trượng, người Tử Kỳ họ Chung ở thôn nào?
Vừa nghe nhắc đến tên Chung Tử Kỳ, lão ông sa sầm nét mặt, đôi mắt trũng sâu chảy dài hai hàng lệ. Lão ông sụt sùi, giọng ngắt đoạn:
-Chung Tử Kỳ là con lão. Năm ngoái cũng vào ngày này, nó đi củi về, gặp một vị quan nước Tấn tên là Bá Nha và kết nghĩa huynh đệ, vì chỗ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Lúc chia tay, vị quan có tặng cho vợ chồng lão hai nén vàng. Ở nơi núi non heo hút thế này, vợ chồng lão chưa cần đến số vàng đó, nên con lão đã dùng đổi lấy sách, đọc bất kể ngày đêm, giờ giấc, ngoài việc đốn củi mưu sinh. Có thể vì quá lao nhọc, con lão đã lâm bệnh mà qua đời...
Chưa kịp nghe hết lời, Bá Nha đã bật òa khóc, ôm chầm lấy ông lão, hậu sinh này chính là người bạn kết giao của Chung Tử Kỳ đây. Ông lão thảng thốt, trời ơi:
-Mang ơn đại nhân không chê trách cảnh bần cùng, đã cùng con lão kết nghĩa tâm giao. Lúc lâm chung, con lão đã trối trăn lại: “Sống không trọn đạo làm con, chết xin được chôn dưới chân núi Mã Yên để trọn đạo nghĩa với bạn, nằm bên triền dốc chờ đúng lời hẹn mùa thu này”. Con đường mà đại nhân vừa đi qua phía bên phải có nấm đất nhỏ là ngôi mộ của Tử Kỳ. Hôm nay đúng một trăm ngày mất, lão vừa đi viếng mộ con về thì gặp đại nhân.
Trước mộ Tử Kỳ, Bá Nha vừa lạy bạn xong, truyền đem đàn đến, ngồi trên tảng đá tấu khúc “Thiên thu trường hận”. Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Tiếng gió ngàn rít mạnh, bầu trời trở màu tối sẩm và tiếng chim từ xa vọng về nghe u uất não nùng. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán lặng tiếng. Bá Nha nhìn Chung lão thưa:
-Tử Kỳ đã về đây chứng giám cho lòng thành của tiểu sinh. Cháu vừa đàn khúc đoản ca để viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu, và xin đọc thành thơ đoản ca này:
Từ nhớ đến mùa thu năm trước
Bến trường giang gặp bạn cố nhân
Năm nay lại đến Giang Tân
Giòng sông lạnh ngắt cố nhân đâu rồi
Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi
Cõi ngàn năm chia cắt đau lòng
Ôi thương tâm, ôi thương tâm
Sụt sùi lai láng bao hàng lệ rơi
Mây sầu thấp thoáng chân trời
Đêm vui đổi lấy một đời khổ đau
Tử Kỳ ơi, Tử Kỳ ơi
Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can
Thôi từ nay, thôi phím đàn
Ngàn thu thôi hết mơ màng cố nhân...
Lời thơ vừa dứt, Bá Nha nâng đàn Dao lên cao, đập mạnh xuống tảng đá. Đàn Dao vỡ tung từng mảnh, trụ ngọc, phím đồng rơi lả tả.
Lão ông hoảng kinh hỏi: “Sao đại nhân lại đập vỡ đàn quí?”
Bá Nha đáp lời bằng bài thơ tứ tuyệt:
Dao cầm đập nát đau lòng phượng
Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai
Gió xuân bốn phía bao bè bạn
Khó thay tìm được bạn tri âm
Bốn câu thơ là bài văn tế cho bạn. Bá Nha quay lại phía lão ông, sụp quỳ xuống:
-Bá Nha, Kỳ Tử đã y lời hẹn đến đây rồi. Nay tiểu sinh có đem theo ít nén vàng, xin thành tâm dâng lên bá phụ cùng bá mẫu để cung dưỡng tuổi già và tạo mươi mẫu ruộng làm tự cho Tử Kỳ. Bốn năm nữa hạ quan sẽ dâng biểu từ quan, về đây chung sống với bá phụ bá mẫu, với người bạn tri âm. Chung lão không từ chối. Bá Nha lạy Chung lão, lạy tạ từ bạn rồi quay xuống cho thuyền nhổ sào trở về nước Tấn.
473. Hán Sở Chiến Trường
Đây là chuyện Hán Sở tranh hùng, đoạn kết oan nghiệt của mối tình Hạng Võ, Ngu Cơ:
Với mưu lược của Hàn Tín, quân Hán của Lưu Bang đã chiếm được Bành Thành, cứ điểm cuối cùng của quân Sở. Hạng Võ phải kéo quân về thủ trại trên bờ sông Ô Giang. Tuy tình hình đã nguy khốn, nhưng quân số Sở vẫn còn khá đông. Hạng Võ lại là một dũng tướng phi thường, trong một ngày đánh lui hơn 60 viên tướng Hán mà đao không nhụt, ngựa không lùi. Vì vậy quân Hán chỉ bao quanh trại quân Sở reo hò inh ỏi, nhưng không có thêm tướng nào dám vào nghinh chiến với Hạng Võ.
Tướng sĩ tâu trình với Hạng Võ:
-Cả ngày hôm nay, Đại Vương thân không rời giáp, ngựa chẳng hở yên. Bây giờ tướng Hán đã khiếp sợ, án binh bất động. Vậy xin Đại Vương cho đóng dinh để Hoàng-hậu nghỉ tạm qua đêm.
Hạng Vũ đồng ý và cho mời Ngu Cơ đến:
-Quân Hán đã cướp thành. Đêm nay ái hậu cùng ta qua đêm bên giòng sông Ô Giang này, màn trời chiếu cỏ kể cũng thi vị. Ngày trước ta đánh Chương Hàm, phải mất chín ngày mới thắng được. Nay chỉ một sớm chiều đã đánh bạt được hàng chục tướng Hán, chỉ vì muốn kết trận sớm để về với nàng.
Trong lúc ấy, quân sư Hàn Tín của Lưu Bang đang đứng ngồi không yên, suy mưu tính kế. Các tướng Hán đã hợp sức giao tranh với Hạng Võ mà vẫn thua chạy dài, thì không dùng thế cương mà thắng được. Hàn Tín cho mời Trương Lương đến vấn kế:
-Luôn mấy ngày ác chiến với Hạng Vương, các tướng Hán không ai địch nổi. Nếu để tình hình này kéo dài, Hạng Vương sẽ thoát được vòng vây, kéo về Giang Đông mà dưỡng binh, thì chiến sự sẽ khó phân bề thắng bại. Xin tiên sinh chỉ giáo một mưu chước mới hòng đánh bại được Sở vương.
Một chút trầm ngâm, Trương Lương trả lời:
-Việc đó không khó. Bây giờ cứ làm cho các tướng sĩ của Hạng Võ phân ly. Khi Sở vương đã bị cô thế rồi, thì ta bắt sống dễ dàng. Từ nhỏ, tôi có học được khúc tiêu của một dị nhân. Nghe khúc tiêu này, lòng người xao động mãnh liệt tình hoài hương, đang vui thì sẽ hân hoan khó tả, đang buồn thì lại càng da diết nhớ quê. Nay đang lúc vào thu, gió heo may về, cây cỏ xao xác lá vàng, kẻ chiến chinh chắc không thể nào không thổn thức nhớ quê. Tối nay, tôi sẽ vào vách núi Kê Minh, trong canh vắng, tiếng tiêu vọng lên thì quân tướng Hạng Võ chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ đến chuyện binh đao.
Đêm về khuya, làn gió se lạnh, ánh trăng thu nhạt nhòa trong màn sương. Tiếng tiêu trổi lên réo rắt, sầu thảm như lòng cô phụ, mênh mang như lòng mẹ nhớ con, thỏ thẻ như tiếng trẻ mong cha về... lòng ai có sắt đá đến đâu bỗng chốc cũng yếu mềm như cành liễu non trước cơn gió lốc. Tiếng tiêu lại còn cách đoạn bằng lời ca bi ai:
Đêm thu mù mịt trời sương
Có người thiếu phụ quê hương lạnh lùng
Sa trường vó ngựa
Trẩy gót binh nhung
Con thơ nheo nhóc mịt mùng dặm xa
Cơ hàn đau đớn mẹ cha
Canh khuya vò võ tuổi già đợi con
Chí trai vạn dặm
Hồ thỉ bốn phương
Nhưng con đi đã lầm đường
Giúp người tàn bạo không thương dân tình
Mơ màng giữa nửa giấc ba sinh
Một đi một nhớ một mình canh thâu.
Tiếng địch trên sông Lô dẫn theo lời ca nỉ non đã mau chóng làm mềm lòng tướng sĩ của Sở vương. Họ buông gươm giáo, cởi bỏ chiến bào, lặng lẽ đào ngũ. Chỉ còn lại hai tướng trung kiên là Chu Lan và Hoàng Sở đã cưỡng lại được cái âm thanh mê hoặc đó. Cả dinh trại trong phút chốc bỗng rơi vào cái tĩnh lặng đáng sợ. Chính cái tĩnh lặng này đã đánh thức dũng tướng Hạng Võ. Sở vương vùng đứng đậy, quay mặt về phía núi Kê Minh, nơi đang vọng ra tiếng tiêu não nùng. Sở vương ngửa mặt lên trời than:
-Ôi cơ đồ của ta, trong thoáng chốc đã tiêu tan vì tiếng tiêu này.
Hai vị tướng quân đang quì dưới trướng, cúi đầu không nói nên lời. Hạng Võ truyền hai tướng bày tiệc rượu, rồi cùng Ngu Cơ đối ẩm:
Tấm thân lấp biển vá trời
Thanh gươm yên ngựa một đời dọc ngang
Giờ đây mưa gió phũ phàng
Anh hùng mạt lộ giang sơn tan tành.
Ngu Cơ nhắp tiếp mây chung rồi đáp:
Cát đằng nương bóng cội tùng
Bấy lâu khăng khít thủy chung một lòng
Tả tơi vì ngọn gió đông
Cội tùng ngả bóng cát đằng bơ vơ.
Mặc cho trời đổ, đất nghiêng, như đôi tình nhân đang say men tình, Hạng Võ, Ngu Cơ vẫn ngồi bình thản uống rượu ngâm thơ. Đến lúc trời rạng ánh mai, Chu Lan và Hoàng Sở mới rón rén bước vào:
-Trời sắp sáng rồi, xin quân vương lên đường bôn tẩu. Ngu Cơ cũng hối thúc:
-Xin lang quân hãy nhanh chóng lên đường, đừng vì tình mà luỵ. Cả một cơ đồ lang quân hãy phục hưng lại. Xin một lạy tạ từ phu quân. Thiếp không thể theo phu quân làm vướng bận bước chân người.
Hạng Võ hiểu ý người yêu, rút đoản đao ra trao cho nàng. Ngu Cơ cầm lấy, đâm vào cổ tự vẫn, vĩnh biệt tình lang. Hạng Võ nước mắt đầm đìa, thét lớn: Ngu Cơ tình ơi!
Cùng lúc ấy, quân Hán kéo vào vây phủ. Hạng Võ một thân một ngựa phá được vòng vây, thoát ra bờ sông Ô Giang. Giang sơn giờ nay đã tan mờ sương khói, không thể nào khôi phục được. Hạng Võ quay nhìn giòng sông, rút gươm tự kết liễu một đời vẫy vùng ngang dọc. Người đời sau có thơ:
Sức mạnh kinh thiên vạn cổ truyền
Vẫy vùng yên mã đoạt giang yên
Hạ thành ai luận anh hùng sự
Mãnh hổ sa cơ cũng phải hèn
475. Tư mã phượng cầu:
Tư Mã Tương Như là nhà viết từ, nhà âm nhạc nổi tiếng thời Tây Hán bên Trung Quốc cách đây hơn 2000 năm; vì ngưỡng mộ đức độ làm người của Lân Tương Như nước Triệu thời Chiến Quốc, cho nên tự đặt tên cho mình là “Tương Như”, và nuôi ý chí phải làm việc lớn oanh liệt cho đất nước. Gia cảnh Tư Mã Tương Như nghèo khó, thời Hán Cảnh Đế, ông theo đuổi Lương Vương, viết nhiều bài thơ và tự gẩy đàn ngay trên đất nhà Lương, cho nên cuộc sống trở nên dư giả hơn. Lương Vương rất tâm đắc với tài ba của Tương Như, liền ban cho ông cây đàn cổ quý hiếm mang tên Lục Kỳ. Khổ nỗi là Lương Vương chết yểu. Sau khi Lương Vương qua đời thì Tư Mã Tương Như cũng mất đi chỗ dựa. Ông phải lang thang đó đây, cuối cùng đến ở nhờ nhà người bạn thân của mì̀nh tên là Vương Cát ở một huyện nhỏ gần biên giới Tứ Xuyên, sống quãng ngày ăn nhờ ở vạ. Ở đó có một người già giầu có tên là Trác Vương Tôn. Ông này có một cô con gái tên là Trác Văn Quân mới 17 tuổi. Văn Quân xinh đẹp phi thường, không những chỉ giỏi chơi đàn, mà còn có tài làm thơ nữa. Ông Vương Tôn tính gả Trác Văn Quân cho Nhất Hoàng Tôn, không ngờ lễ cưới chưa thành Hoàng Tôn lại chết sớm. Thế là Trác Văn Tôn bị góa bụa ở nhà với cha.
Một hôm, Trác Vương Tôn mời Vương Cát đến nhà ăn cơm. Tư Mã Tương Như cũng được mời đến dự theo bạn mình. Trong bữa tiệc, việc làm những bài thơ và gẩy đàn góp vui không thể thiếu được. Biết con gái ông Trác Vương Tôn tài sắc vẹn toàn, Tư Mã Tương Như liền gẩy bản nhạc “Phượng cầu Hoàng”. Từ lâu Trác Văn Quân đã ngưỡng mộ tài ba của Tư Mã Tương Như, nàng bèn núp sau mành nghe trộm. Từ tiếng đàn thiết tha, đắm đuối đó, nàng đã lãnh hội được tình tứ của Tư Mã Tương. Thế rồi, từ đó hai người yêu nhau thắm thiết, nhưng lại bị cha phản đối kịch liệt. Không còn cách nào khác, hai người bèn cùng nhau bỏ trốn đến Thành Đô quê hương Tư Mã Tương Như. Do điều kiện sinh hoạt rất khó khăn, Văn Quân liền lấy đồ trang sức của mình mang theo đi cầm cố, rồi hai người mở một quán rượu. Văn Quân đích thân đứng bán ngoài cửa hang, còn Tương Như thì đi làm công. Tin này đến tai Trác Vương Tôn. Vì sĩ diện, ông đành cho 100 người hầu đem tiền vạn bạc triệu đến nhà con gái mình, lại cho thêm rất nhiều của hồi môn. Từ đó đời sống của hai người trở nên giầu có an nhàn, có thể uống rượu, làm thơ và ca hát suốt ngày.
Sau đời Hán Cảnh Đế, Hán Vũ Đế lên ngôi. Khi xem tác phẩm của Tư Mã Tương Như xong, Vũ Đế lấy làm thích thú, bèn cho lệnh triệu ông vào cung. Tư Mã Tương Như sáng tác bài “Thượng Lâm Phổ” bằng tài trí của mình, ca ngợi cảnh hoành tráng khi vua săn bắn. Hán Vũ Đế thích được ca tụng nên phong cho Tư Mã Tương Như chức Lang Quan. Thế là Tư Mã Tương Như hài lòng ở lại thủ đô Trường An, còn Trác Văn Quân vẫn ở Thành Đô, sống cô đơn trong căn nhà lạnh lẽo, kiên tâm chờ chồng trở về. Ở Trướng An một thời gian sau Tương Như về thăm Thành Đô thấy Trác Văn Quân có vẻ già đi, bèn sinh ý lấy vợ lẽ. Trác Văn Quân biết ý, lòng rối tơi bời nên làm bài thơ “Bạc đầu ngâm”, và bài thứ hai “Giã biệt thư”. Trong thơ có đoạn: “Mong được tấm lòng anh, bạc đầu không chia cách”. Đọc bài thơ đầy thương cảm của vợ, Tư Mã Tương Như hết sức cảm động, nhớ lại quãng năm tháng hai vợ chồng sống ân ái với nhau, ông liền bỏ ý định lấy vợ lẽ, rồi trở về quê cũ với Trác Văn Quân cho đến khi từ giã cuộc đời. Bài thơ “Bạc đầu ngâm” của Trác Văn Quân chứa đựng tình sâu nghĩa nặng, rung động lòng người nên được lưu truyền đến ngày nay.
477: Khúc Quảng Lăng
Kê Khang là một trong nhóm bảy người bạn chí thân người nước Ngụy: Kê Khang, Nguyễn Tịch, Lưu Linh, Nguyễn Đàm, Vương Mậu, Sơn Đào và Hương Tú. Khi Tư Mã Viêm diệt nhà Ngụy, lập nên nhà Tấn, thì bảy người này không hợp tác với tân triều, bỏ thị thành vào rừng trúc ở, nên người đời gọi là “Trúc lâm thất hiền”. Mỗi người đều có cá tính và nét độc đáo riêng của mình; nhưng nổi bật hơn cả là Kê Khang và Nguyễn Tịch. Sử nhà Tấn viết rằng Kê Khang là một con người phong nhã, giỏi cầm kỳ thi họa; thường đêm ông ngủ ở đình Hoa Dương. Một hôm có người khách tự xưng là người xưa, cảm phục tài hoa của Kê Khang, tặng cho chàng khúc Quảng Lăng, nhưng bắt thề là không được truyền lại cho ai. Sau khi Quảng Lăng chết, khúc nhạc ấy xem như mất. May mắn về sau có nàng Ngọc Nữ khi gảy khúc nhật cung, nguyệt cung, đã dẫn khúc Hoa Nhạc và Qui Vân đúng âm điệu của Khúc Quảng Lăng còn sót lại.
479-Quá quan: có nghĩa đi qua cửa ải, từ điển tích Chiêu Quân
Chiêu Quân là một trong Tứ Đại Mỹ Nhân trong lịch sử Trung Quốc. Với sắc đẹp được ví là “lạc nhạn” (chim sa). Câu chuyện về nàng trở thành một đề tài sáng tác phổ biến của thi ca và nghệ thuật. Chiêu Quân đi vào lịch sử Tầu như một sứ giả hòa bình. Sự quên mình của nàng góp phần mang lại hòa bình trong 60 năm giữa Trung Hoa và Hung Nô. Chiêu Quân tên là Vương Tường nên cũng được gọi là Vương Chiêu Quân Nàng là con gái của một gia đình thường dân ở Tỷ Quy, Nam Quận nay là huyện Hưng Sơn, tỉnh Hồ Bắc. Được tuyển vào nội cung vào khoảng sau năm 40 đời Hán Nguyên Đế (49-33 trước Công Nguyên). Trong thời gian ở hậu cung, Chiêu Quân chưa bao giờ được gặp mặt vua và vẫn chỉ là một cung nữ. Năm 33 TCN, Thiền Vụ Hung Nô là Hô Hàn Tà đến thủ đô Trường An để tỏ lòng thần phục nhà Hán, một phần trong hệ thống triều cống giữa nhà Hán và Hung Nô. Ông này nắm lấy cơ hội đề nghị được trở thành con rể của vua Nguyên Đế. Thay vì gả cưới một công chúa cho Thiền-vu thì Hô Hàn Tà được ban cho 5 cung nữ từ hậu cung, một trong số này là Vương Chiêu Quân.
Theo một câu chuyện trong Hậu Hán Thư (quyển 89, Nam Hung Nô liệt truyện) thì Vương Chiêu Quân đã tình nguyện theo Thiền-vu. Khi được vời đến triều đình thì vẻ đẹp của Chiêu Quân đã làm cho Nguyên Đế sững sờ và muốn thay đổi quyết định của chính mình, nhưng đã trễ. Chiêu Quân trở thành người vợ yêu quý của Hô Hàn Tà, được phong là Ninh Hồ Yên Chi. Họ sinh được hai người con trai, chỉ một trong số đó sống sót với tên gọi là Y Chư Trí Nha Sư và một người con gái, tên là Vân, sau này là một nhân vật đầy quyền lực trong hệ thống chính trị của Hung Nô. Năm 31 TCN, Hô Hàn Tà chết, Chiêu Quân muốn trở về Trung Quốc, nhưng Hán Thành Đế đã buộc nàng phải theo tập quán lưu truyền của người Hung Nô và Chiêu Quân trở thành vợ của Thiền-vu kế tiếp là Phục Chu Luy Nhược Đế, con trai lớn của Hô Hàn Tà. Trong cuộc hôn nhân mới này nàng có hai người con gái. Sau khi chết, Chiêu Quân được an táng tại “Thanh Trùng”, mộ hiện nay vẫn còn tại phía nam thành Hô Hòa Hạo Đặc, Nội Mông Cổ. Hòa bình giữa nhà Hán và Hung Nô đã được kéo dài trên 60 năm, tuy nhiên, sau này người ta đã không còn biết gì về các hậu duệ của Chiêu Quân.
Câu chuyện về Chiêu Quân trong truyền thuyết được gọi Chiêu Quân Cống Hồ trở thành một điển tích với nhiều dị bản, trong đó có nhiều chi tiết còn mâu thuẫn. Nổi tiếng hơn cả là bản kể theo những tài tiệu của sử gia Ngô Quân (469-520). Vì số cung phi trong hậu cung của vua Nguyên Đế quá đông, nên nhà vua ra lệnh cho các họa sĩ phải vẽ hình các cung phi để nhà vua chọn. Các cung phi thường lo lót tiền cho họa sĩ để được vẽ cho đẹp, mong vua để ý tới. Chiêu Quân từ chối đút lót cho họa sĩ là Mao Diên Thọ, hậu quả bức chân dung nàng thật xấu xí nên nàng không được Hán Nguyên Đế để mắt tới. Một hôm Hoàng Hậu tình cờ biết tới Chiêu Quân qua tiếng đàn lâm ly ai oán của nàng. Bà đưa Chiêu Quân tới gặp Hán Nguyên Đế. Hán Nguyên Đế ngỡ ngàng vì sắc đẹp của nàng, phong Chiêu Quân làm Tây Phi. Mao Diên Thọ bị khiển trách nặng nề. Thời bấy giờ Hung Nô là nước lân bang thường xuyên mang quân sang quấy nhiễu. Mao Diên Thọ bị Hán Nguyên Đế quở trách, đem lòng oán hận Chiêu Quân, lấy chân dung Chiêu Quân nạp cho Thiền-vu (vua) Hung Nô là Hô Hán Tà. Vua Hung Nô say đắm sắc đẹp của nàng, cất quân sang đánh, buộc Hán Nguyên Đế phải cống nạp Chiêu Quân thì mới bãi binh. Hán Nguyên Đế đành phải đem Chiêu Quân sang cho Hung Nô. Điểm này không ăn khớp với lịch sử Hung Nô, do từ thời Hô Hàn Tà thì các Thiền-vu đã chịu nộp cống phẩm cho nhà Hán.
Truyền thuyết “Chiêu quân xuất tái” (Đi đến biên cương) nói rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn cho số phận mình cũng như phải lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, nàng liền đàn “Xuất tái khúc”. Có một con ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. Từ “lạc nhạn” trong câu “Trầm ngư lạc nhạn” do đó mà có. Khi qua Nhạn Môn Quan, cửa ải cuối cùng, Chiêu Quân được cho là đã cảm tác nhiều bài thơ rất cảm động. Tiếng đàn của Chiêu Quân ở Nhạn Môn Quan trở thành điển tích Hồ Cầm. Ngôi làng quê hương của nàng ngày nay mang tên là làng Chiêu Quân. Dòng suối, nơi tương truyền nàng từng ra giặt vải trước khi được tuyển vào hoàng cung, được đặt tên là Hương Khê (suối thơm) để tưởng nhớ nàng. Trong miền Nội Mông Cổ có hai địa điểm được cho là mộ của Chiêu Quân, một gần Hohhot và một gần Bao Đầu, cả hai đều xanh ngắt cỏ tươi, nên đều được gọi là Thanh Trủng (mồ xanh).
Những chi tiết còn mâu thuẫn
-Khi vẽ Chiêu Quân, có thuyết cho rằng Mao Diên Thọ đã vẽ thêm một nốt ruồi dưới khóe mắt và tâu với Hán Nguyên Đế đó là “Sát phu trích lệ”, tướng sát chồng. Vì vậy Hán Nguyên Đế không cho vời nàng vào cung tới tận khi Chiêu Quân bị cống sang Hung Nô.
-Một thuyết khác thì Chiêu Quân tài hoa tự vẽ chân dung của mình, nhưng bức tranh đó bị Mao Diện Thọ điểm thêm nốt ruồi “Sát phu trích lệ”.
-Nhà văn nổi tiếng Thái Ung (132-192) cho rằng vua Nguyên Đế đã từng gặp Chiêu Quân, nhưng không biết cảm nhận vẻ đẹp của nàng. Chiêu Quân vô cùng thất vọng và đau khổ sau nhiều năm sống cô độc trong cung cấm. Từ đó, Thái Ung kết luận rằng quyết định sang Hung Nô của Chiêu Quân là một hành động phản kháng lại vua Nguyên Đế.
Về cái chết của Chiêu Quân cũng có nhiều giả thuyết.
-Đến Nhạn Môn Quan, Chiêu Quân gieo mình xuống sông tự vẫn.
-Chiêu Quân đến đất Hồ, nàng yêu cầu vua Hồ giết chết gian thần Mao Diên Thọ, rồi sau đó nàng tìm cách tự tử, nhảy xuống sông để xác nàng theo dòng trôi trở về đất Trung Nguyên.
-Một thuyết khác cho rằng Chiêu Quân đã sống một thời gian dài bên Hung Nô.
BY: HOÀNG THẠCH
1- Đại ý đoạn thơ Kim Trọng tương tư Thúy Kiều
Đúng là tiếng sét ái tình. Sau khi gặp chị em Kiều, Kim Trọng về nhà thương nhớ, nỗi nhớ không làm sao quên được. Một ngày không được gặp Kiều thời gian dài chẳng khác gì ba năm mong đợi. Kim Trọng hình dung hình ảnh Kiều ngồi trong cửa sổ nhà nàng mà lòng mình sầu nhớ miên man suốt cả một tuần trăng (một tháng), đèn cạn dầu tắt lụi mà lòng vẫn còn vấn vương. Kim Trọng tương tư đến nỗi phòng học để lạnh tanh, bút lông thỏ không hề viết và cây đàn cũng bỏ lơ. Phải chăng đây là duyên nợ kiếp này sang kiếp khác mà chàng phải mang? Nhớ người đẹp, Kim Trọng rời phòng ra chỗ gặp gỡ Kiều lần đầu, nhưng chỉ thấy cỏ xanh, mặt nước trong veo và bụi lau nghiêng ngả! Chịu không nổi, Kim Trọng tìm lối sang nhà Kiều; nhưng cổng kín, tường cao ngăn trở làm cho anh chàng si tình mà nhát gan không biết làm cách nào gặp được người đẹp. Về nhà, đứng sau mành cửa Kim Trọng chỉ nghe thấy tiếng chim oanh ca hót như mỉa mai mình. Mấy lần chàng tính qua thăm nhưng cổng nhà nàng vẫn đóng kín, chỉ thấy hoa rụng còn nàng ở đâu?
Để có cơ hội làm quen Thuý Kiều, Kim Trọng cũng ma mãnh tìm cách thuê nhà gần nhà Kiều. Một hôm chàng thấy có một thương gia, nay đi buôn ở nước Ngô mai đi bán ở nước Việt, nên nhà bỏ trống. Chàng liền kiếm cớ xa nhà du học hỏi thuê, rồi mau mau dọn đồ đạc sang ở. Nhà thương gia có hòn non bộ, có hiên cao rất thuận tiện cho chàng đứng ngắm sang nhà Kiều. Sau hai tháng chực chờ ngóng trông, bỗng một buổi sớm sương mù chưa tan Kim Trọng thấy bóng hồng xuất hiện. Chàng vội vã chạy đến nhưng khi tới gần chỉ còn hương thơm, nàng tiên biến mất đâu rồi. Chàng lần theo tường gạch hoa của nhà Kiều để kiếm nàng thì bất chợt thấy một trâm vàng cài tóc treo trên cành đào. Kim Trọng vội vàng đưa tay với lấy đem về nhà, hí hửng đứng nhìn trâm mãi không chán và tự nghĩ có cơ may mới nhặt được trâm vàng của người mình thầm yêu trộm nhớ. Dù chưa gặp lại Kiều; nhưng có vật quí của nàng trong tay cũng vơi đi nỗi buồn và có cớ làm quen. Kim Trọng tự hỏi phải chăng đây là nhân duyên tiền định?
Lúc trời vừa sáng tan sương, sau khi về phòng, Kiều thấy trâm cài đâu mất, bèn ra vườn tìm kiếm. Chàng Kim si tình đứng chờ từ lâu; thấy bóng Kiều bèn vội vàng lên tiếng: "Nàng ơi tự nhiên tôi nhặt được cây trâm của nàng nè". Từ bên kia tường nhà Kiều tỏ vẻ thẹn thùng đáp lại. "Chàng ơi! Của rơi có sá gì mà chàng quá quan tâm". Nhân cơ hội ngàn năm một thuở, Kim Trọng kiếm cớ xin Kiều dừng chân cho chàng trao lời tâm sự. Bốn mắt nhìn nhau, hai con tim rung động, hai người chả nói ra nhưng ai cũng hiểu được họ "đã phải lòng nhau". Thúy Kiều không đòi lại trâm mà còn vào nhà lấy thêm hai xuyến vàng và chiếc khăn lụa quí giá, rồi lén leo thang cao qua góc tường sang nhà Kim Trọng.
Lúc gặp nhau, người thẹn thùng, kẻ ngỡ ngàng. Hình ảnh cuộc gặp gỡ lần đầu lại hiện ra trong tâm trí hai kẻ "tình trong như đã mặt ngoài còn e". Kẻ nhớ, người thương, chàng và nàng như rơi vào biển tình dậy sóng. Kim Trọng tha thiết bày tỏ tình yêu của mình thà chết còn hơn không cưới được nàng (như điển tích Vĩ Sinh ôm chặt chân cầu, nơi hẹn hò người yêu, đến đỗi sóng lên cao, đành bị chết đuối chứ không chịu bỏ đi khi người tình chưa đến). Thiết tha hơn, chàng muốn tìm người mai mối kết duyên cùng nàng. Hiểu được tấm chân tình của chàng, Kiều khiêm tốn bày tỏ gia đình nàng thanh bạch, tư chất bình thường, có tài sắc gì gì đâu mà chàng quá quan tâm. Còn chuyện tình duyên, là phận nữ nhi, Kiều không dám quyết định khi chưa có sự ưng thuận của cha mẹ.
…Cho hay là thói hữu tình,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.
245-Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.
Mây Tần khóa kín song the,
250-Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao.
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
Buồng văn hơi giá như đồng,
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan.
255-Mành Tương phất phất gió đàn,
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.
Vì chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.
Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,
260-Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.
Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu!
Gió chiều như gợi cơn sầu,
Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu.
265-Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.
Kim Trọng kiếm cớ thuê phòng gần nhà Kiều
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
270-Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
Mấy lần cửa đóng then cài,
đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.
275-Là nhà Ngô Việt thương gia,
Buồng không để đó người xa chưa về.
Lấy điều du học hỏi thuê,
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.
Có cây, có đá sẵn sàng,
280-Có hiên Lãm thúy, nét vàng chưa phai.
Mừng thầm chốn ấy chữ bài,
Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.
Song hồ nửa khép cánh mây,
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.
285-Tấc gang đồng tỏa nguyên phong,
Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.
Trâm cài rơi rớt là cớ hai người tìm đến nhau
Nhẫn từ quán khách lân la,
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.
Cách tường phải buổi êm trời,
290-Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
Buông cầm xốc áo vội ra,
Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.
Lần theo tường gấm dạo quanh,
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.
295-Giơ tay với lấy về nhà:
Này trong khuê các đâu mà đến đây?
Ngẫm âu người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!
Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
300-Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
Kiều tìm trâm gặp Kim Trọng và trao quà hẹn ước
Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.
Sinh đà có ý đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:
305-Thoa này bắt được hư không,
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?
Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:
Ơn lòng quân tử sá gì của rơi.
Chiếc thoa nào của mấy mươi,
310-Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!
Sinh rằng: Lân lý ra vào,
Gần đây nào phải người nào xa xôi.
Được rày nhờ chút thơm rơi,
Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!
315-Bấy lâu mới được một ngày,
Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là.
Vội về thêm lấy của nhà,
Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông.
Thang mây rón bước ngọn tường,
320-Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe?
Sượng sùng giữ ý rụt rè,
Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu.
Rằng: Từ ngẫu nhi gặp nhau,
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn
325-Xương mai tính đã thâu mòn, (*)
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
Tháng tròn như gửi cung mây,
Trần trần một phận ấp cây đã liều. (*)
330. Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?
Ngại ngần nàng mới thưa rằng:
Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong.
Dù khi lá thắm chỉ hồng,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
335. Nặng lòng xót liễu vì hoa,
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!
2- Chú giải và điển tích
244- Tơ mành: Sợi tơ mong manh. Hai chữ này chỉ Kiều và Kim Trọng để kết thúc đoạn nói về Kim Trọng.
245-Thư song: Chỗ cửa sổ phòng đọc sách.
247- Sầu đong càng lắc càng đầy: Ý nói sầu nhớ vô cùng, nếu đem mà đong thì càng lắc càng đầy, không vơi đi được. Ca dao có câu: “Ai đi muôn dặm non sông, để ai chất chứa sầu đong vơi đầy”. Bản LVĐ chép là: Sầu “đông” càng “khắc” càng đầy.
249-Mây Tần: Trong Tấn thư có câu: “Tần vân như mỹ nhân” (mây Tần như người đẹp). Ở đây chữ “Tần” chỉ được dùng cho đẹp lời. Câu này ý nói: Mây che kín cửa sổ phòng Kiều.
250-Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao: câu này và câu trên có thể hiểu là: Cô Kiều cứ ở hoài trong phòng không ra ngoài nên Kim Trọng chỉ còn cách tìm về trong mộng để gặp mặt người yêu. “Hoa Tiên” cũng có câu: “Bụi hồng dứt nẻo đi về chiêm bao”. “Bụi hồng” trong câu 250 có nghĩa là cảnh phồn hoa náo nhiệt. Đường phú có câu: “Hồng trần một đoạn...” (Chiêm bao cách đám bụi hồng...) Xem thêm câu 3046: Còn chen vào chốn “bụi hồng” làm chi?
251-Tuần trăng khuyết: Khuyết hết cả một tuần trăng (cứ mỗi kỳ trăng tròn, gọi là một tuần trăng). Chỉ thời gian suốt cả tháng.
Đĩa dầu hao: Đĩa dầu hao cạn (Xưa khi chưa có đèn, người ta đổ dầu vào cái dĩa và dùng sợi vải nhỏ làm bấc. Khi đốt suốt đêm thì dĩa cạn dầu.).
254-Ngón thỏ: ngòi bút làm bằmg lông thỏ, đầu nhọn. Ý cả câu: Bút để lâu không viết đến ngọn bị khô đi, đàn để lâu không gẩy dây bị chùng lại. Ý nói Kim Trọng buồn trong tương tư, bỏ cả việc học hành và gẩy đàn.
255-Mành Tương: bức mành ngoài đan bằng tre, phía trong kẹp the màu vàng. Sở dĩ gọi là mành Tương vì liên quan đến điển tích hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh (xem chữ mạch Tương câu 238. Hai bà nghe tin vua Thuấn chết khóc quá thảm thiết, nước mắt vẩy vào các bụi trúc xung quanh khiến cho các thân trúc đều có những vết lốm đốm. Thứ mành làm bằng trúc có vỏ lốm đốm này gọi là “Tương phi trúc”.
257-Ba sinh: Do chữ Tam sinh, nghĩa là ba kiếp luân chuyển: “Quá khứ”, “hiện tại” và “Tương (vị) lai” của con người. Cả câu ý nói Kim Trọng và Thuý Kiều có duyên nợ từ kiếp này qua kiếp khác với nhau phải kết duyên vợ chồng.
264-Vĩ lô: Cây lau, cây sậy.
266- Lam Kiều:
Lam Kiều là cây cầu trên sông Lam, thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Chuyện xưa viết: đời nhà Đường, có chàng nho sĩ Bùi Hằng dáng người khôi ngô tuấn tú, tài cao học rộng, lại đủ tài cầm kỳ thi họạ Thành danh xong, một mình trên lưng ngựa trắng, chàng lên đường dong ruổi đó đây, áo xanh Tư Mã Giao Châu, túi thơ bầu rượu. Tiêu dao với danh lam thắng cảnh và cũng mong tìm được ý trung nhân, nhưng đi mãi mà chàng vẫn chưa gặp được người trong mộng.
Một hôm chàng đi về phía Tây-Bắc thành Thiểm Tây, chợt thấy một thiếu phụ trạc tứ tuần, nhưng dung nhan vẫn còn lưu lại nét thanh xuân tuyệt sắc. Không dừng được sự mê mẩn, Bùi Hằng xuống ngựa, lân la tiến gần đến làm quen. Người đàn bà đẹp, như có ý đợi chờ chàng từ trước; nàng tự giới thiệu tên là Vân Kiều và đã biết chàng nho sĩ đa tình từ lâu đang cố tâm tìm người se duyên kết tóc. Nàng bước vào nhà, viết mấy câu thơ lên một mảnh giấy rồi sai người nhà đem ra cho Bùi Hằng:
Nhất ẩm quỳnh tương bách cảnh sanh
Huyền sương đáo tận kiến Vân Anh.
Lam Kiều bổn thị thần tiên chốt
Hà tất khi khu thưởng ngọc kinh
(Uống chén quỳnh tương bách cảnh sanh
Huyền sương giã thuốc thấy Vân Anh
Lam Kiều vốn chỗ thần tiên ở
Hà tất đi tìm đến ngọc kinh).
Theo bốn câu thơ dẫn lối chỉ đường của Vân Kiều, thì chàng phải tìm đến Lam Kiều, chốn thần tiên ở, sẽ gặp Vân Anh, đó duyên trăm năm của chàng. Nhưng Vân Kiều là ai nhỉ, có là giai nhân tuyệt sắc như người thiếu phụ này không? Chàng cảm nhận Vân Kiều có ý giúp đỡ mình, nên bái biệt giai nhân, lên đường dò hỏi tìm đến Lam Kiều. Đi suốt ngày cho đến lúc bóng đêm đen chùm xuống. Bùi Hằng phải dắt ngựa vào một quán trọ bên đường, xin nghỉ tạm. Chủ quán là một bà lão phương phi, trông có dáng tiên phong đạo cốt. Suốt đêm, chàng trăn trở không ngủ được, hình bóng Vân Anh như nhẹ nhàng từ Vân Kiều bước ra, đứng ngồi. Sáng sớm, Bùi Hằng từ giã chủ quán; vừa đi được dặm đường, khi ngoảnh lại thì quán lá đã biến đâu mất, mà chỉ là một rừng cây rậm rạp. Trước mặt, một con sông lớn, có chiếc cầu bắc ngang. Có phải Lam Kiều đây không? Nao nao hồi hộp, chàng lần bước đến bên cầu. Gần đó có một quán nhỏ nằm lọt thõm giữa vườn dâu xanh ngắt. Chủ quán cũng là một bà lão tóc bạc phơ, tướng mạo uy phong. Chàng xuống ngựa, đi vào quán xin nước uống. Từ nương dâu xanh mướt, bước ra một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần. Giai nhân hai tay bưng chén nước mời chàng. Ôi thế gian này sao lại có người đẹp như vậy. Đã bao năm tìm kiếm, từ nay ta đã có nàng. Bùi Hằng trình lá thư của Vân Kiều cho bà lão xem:
-Ta có hai người con gái. Vân Kiều đã thành gia thất; còn lại Vân Anh sớm hôm hầu hạ mẹ già. Nhưng nay, rõ ràng là duyên trời định cho đôi lứa, ta nào dám trái ý. Nhưng muốn cưới con ta thì phải nạp sính lễ. Sính lễ không phải là vàng bạc châu báu, mà là một vật quí. Đó là chiếc chày ngọc để giã thuốc huyền sương; chiếc chày ngọc đó phải khít với cái cối ngọc này.
Bà lão đưa cho Bùi Hằng xem cái cối ngọc. Cối ngọc làm bằng thứ ngọc quí, xanh biếc. Biết tìm đầu ra chày ngọc. Bùi Hằng đăm đăm nhìn Vân Anh, rồi như sợ sẽ tan mất người trong mộng, chàng đứng vụt dậy, quyết tâm đi tìm cho bằng được vật quí đem về làm sính lễ. Ngày tháng qua quá ê chề, một mình một ngựa bôn ba khắp nơi chân trời góc biển, làm sao tìm được trong dân gian cái chày ngọc để giã thuốc huyền sương. Chút già nua cũng đã ẩn hiện trên dáng dấp phong tú của chàng thư sinh. Rồi một hôm, cũng có một quán bên đường cho chàng dừng chân lại nghỉ qua đêm. Chủ quán, lại là một bà lão, tay cầm chiếc chày bằng ngọc, hát nghêu ngao:
Chày sương ta có,
Ai muốn cần dùng,
Duyên thắm chỉ hồng,
Cầu sương đợi khách.
Vừa trông thấy chày ngọc trên tay bà lão, Bùi Hằng quá mừng rỡ, vội vàng khấu đầu thi lễ:
- Bao nhiêu năm gian khổ, tiểu nhân đã lặn lội cố tìm cho được chày ngọc giã thuốc huyền sương để làm sính lễ sánh duyên cùng giai nhân bên Lam Kiều. Xin lão bà thương tình giúp cho tiểu nhân toại ước.
Bà lão cười hiền hậu:
-Đây là báu vật chỉ trao tặng cho người kiên nhẫn, thành tâm với duyên phận. Công tử xứng đáng nhận sính vật này để thành gia thất với Vân Anh.
Tờ mờ sáng hôm sau, Bùi Hằng tạ từ bà lão, hối hả lên đường tìm về lại Lam Kiều. Bao năm tháng qua đi, nhưng thời gian ở đây như dừng lại. Vân Anh, ôi nhan sắc yêu kiều đang ngồi xe tơ dệt lụa như ngóng trông đợi chàng trở về. Chày ngọc ướm thử vào cối ngọc, vừa khít. Lão bà vui vẻ cho đôi trẻ làm lễ tơ hồng.
Lam Kiều ám chỉ điểm hẹn cho duyên lành và là nơi trao đổi sính lễ se duyên cầm sắc cho tình đôi lứa.
275-Ngô Việt thương gia: Nhà đi buôn ở nước Ngô, nước Việt (đi buôn xa, nay Ngô, mai Việt).
279-Đá: Đây chỉ núi giả (ta thường gọi là núi non bộ) do những tảng đá xếp thành.
280-Lâm Thuý: lãm: thu góp, thuý: màu xanh, tên cái hiên. “Hiên Lãm Thuý” là cái hiên ngồi ở đó có thể thu góp vào trong tầm mắt tất cả màu xanh của cây cỏ. Suy ra thì
“Lãm Thuý” còn có ngụ ý bắt được, tóm được hai chị em cô Kiều nên Kim Trọng lấy làm mừng lắm; tên cái hiên của nhà Ngô Việt thương gia. Vì có chữ Thuý trùng với một chữ trong tên Kiều nên Kim Trọng mới mừng thầm là có duyên số tiên định.
283-Song hồ: Cửa sổ dán giấy. Cành mây: Cánh cửa sổ; cánh cửa. Chữ “mây” dùng cho đẹp lời như khi nói “then mây”.
285-286. Đồng toả nguyên phong: ý nói tuy gần nhà Kiều chỉ có gang tấc mà cái khoá đồng cứ khoá mãi không thấy mở, như xa xôi cách trở.
287-Nhẫn từ: nhẫn: mãi từ, cho đến, kể từ khi ấy mãi đến nay, (tiếng cổ).
293-Tường gấm: Do chữ cẩm tường, bức tường gạch có vẽ hoa như gấm (một cách tô điểm văn hoa).
296-Khuê các: khuê: buồng, các: gác; chỉ chỗ ở của phụ nữ giàu có sang trọng. Bản Nguyễn Khắc Hiếu đã chép là “Tấc gang động khoá nguồn phong” và đã chú thích là: cửa động khoá mà đầu nguồn niêm phong, nói như cảnh Thiên Thai, Đào Nguyên không dễ lại đến được.
305-Hư không: Bỗng không, không có cớ gì, tự nhiên mà gây ra. Đây ý nói tình cờ mà Kim Trọng bắt được cái kim thoa của Thuý Kiều.
306-Hợp phố: Tên một quận, trước thuộc Giao châu, nay thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Theo Hán sử: Nguyên xưa, ven biển quận Hợp Phố có loại trai sinh ra một loại ngọc quý, nhưng vì bọn quan tước tham nhũng, bắt nhân dân đi mò ngọc cho chúng, dân tình khổ cực, nên ngọc trai biến đi nơi khác hết. Về sau, có vị quan thanh liêm là Mạnh Thường đến nhận chức, cải cách, chính sự, bãi lệnh mò ngọc, thì ngọc trai lại dần dần trở về. Do đó, người ta thường nói “Châu về Hợp Phố” (Hợp Phố châu hoàn), để chỉ những trường hợp vật báu đã bị mất lại trở về với chủ cũ.
311-Lân lí: lân: xóm, lý: làng, đây ý nói chỗ láng giềng hàng xóm với nhau.
316-Niềm tây: Nỗi lòng, chút tâm sự riêng.
319- Thang Mây: Thang bằng mây dùng để leo thành cao.
Theo điển tích thời Chiến Quốc, lúc Sở Kinh Vương chuẩn bị đánh Tống, bèn cho lệnh Công Thâu Ban, người thợ mộc giỏi nhất nước, chế tạo loại thang mây để công hãm thành trì nước Tống.
Mặc Tử biết sắp có chuyện đao binh, vội đến ngăn vua Sở:
-Nước Sở lớn, nước Tống nhỏ. Nay Chúa công lấy lớn hiếp nhỏ thì phỏng hay ho gì?
Sở Kinh Vương chưa kịp trả lời thì Mặc Tử đã tiếp:
-Nước Sở giàu, nước Tống nghèo. Chúa công đánh nước Tống thì được lợi lộc gì.
Vua Sở hăm hở:
-Nhưng ta đã chế tạo được thang mây thì phải đi công phá thành chứ.
Mặc Tử cười khẩy:
-Có thang mây đâu phải là chiếm được nước Tống.
Vua Sở bực tức:
-Công Thâu Ban là thợ giỏi nhất thiên hạ, chiến cụ của ông ta chế tạo ra há không công phá được thành nước Tống ư?
Mặc Tử đáp:
-Vậy hãy thử để tôi thủ thành, cho quân dùng thang mây của Công Thâu Ban tấn công, thử xem có thể phá thành được không?
Vua Sở đồng ý cho thử trận.
Đúng như lời Mặc Tử, quân lính đã dùng thang mây, khí cụ mới sáng chế, nhưng không sao công phá được thành.
Sở Kinh Vương cả giận, nói với Mặc Tử:
-Dù vậy, ta đây vẫn có cách để thắng được.
Mặc Tử hiểu ý vua Sở, trả lời:
-Cách của nhà vua là giết chết tôi chứ gì? Nhưng cũng chẳng có lợi gì đâu. Tôi chết đi còn có đám học trò, chúng đã học được cách thủ thành của tôi và làm vô hiệu hoá cái thang mây sáng chế của nhà vua rồi.
Sở Kinh Vương đành phải nghe theo lời của Mặc Tử, bỏ ý định đánh Tống.
323-Ngẫu nhĩ: Tình cờ, ngẫu nhiên.
325-Xương mai: Xương vóc gầy. Cây mai, thân và cành nhỏ bé, nên người ta thường gọi những người xương vóc gầy là mai cốt (xương mai).
327-328: Ấp cây: ôm chặt lấy cây cột ở chân cầu.
Theo điển tích: Vĩ Sinh hẹn với một người con gái cùng gặp nhau ở dưới chân cầu. Người con gái không đến. Dù nước thủy triều lên, Vĩ Sinh cứ ôm cây cột chờ mà chịu chết đuối. Thế mới biết lời hẹn của người xưa quan trọng hơn cả mạng sống. Câu này ý nói Kim Trọng cứ kiên nhẫn chờ đợi Thuý Kiều bỏ cả học hành.
330.Đài gương: Giá cao, trên mặt chiếc gương lớn và hộp đựng đồ trang sức của phụ nữ. Trong văn cổ, thường mượn chữ đài gương để chỉ người phụ nữ. Dấu bèo: ý nói thân phận hèn mọn như cánh bèo trôi nổi mặt nước. Ở đây là lời Kim Trọng tự nói khiêm tốn.
332-Băng tuyết: ý nói trong sạch, thanh bạch.
Chất hằng: Một thể chất lúc nào cũng như thế.
Phỉ phong: Hai thứ rau, người ta dùng lá và củ nấu canh hoặc muối dưa làm món ăn hàng ngày. Ý cả câu: Gia đình vốn thanh bạch, mà tư chất thì cũng bình thường, không có tài sắc gì, lời Kiều tự mình khiêm tốn (Bốn chữ trên nói gia đình, bốn chữ dưới nói bản thân).
333.Lá Thắm:
Điển tích 1: Lá thắm: Do chữ Hồng diệp. Vu Hựu, đời Đường, một hôm đi chơi vớt được chiếc lá đỏ đang trôi trên khe nước từ cung vua chảy ra. Trên lá có đề một bài thơ. Vu Hựu bèn viết hai câu thơ vào chiếc lá đỏ khác, rồi đem thả nơi đầu khe nước để lá trôi vào cung vua. Hàn Thị, người cung nữ thả lá đỏ trước đây lại bắt được lá đỏ của Vu Hựu. Về sau, nhờ dịp vua phóng thích cung nữ, Vu Hựu lấy được Hàn Thị. Lá thắm, theo điển tích là thư từ qua lại của đôi lứa trong ngày còn thơ mộng.
Điển tích 2: Nước Sở có thành Tây Độ. Quan trấn thủ là Kiều Công Di có aí nữ là Kiều Nga, một giai nhân tuyệt sắc. Bấy giờ, tình hình trộm cướp như rươi, dân tình không được an cư lạc nghiệp. Nội thành dành cho người quyền quí; ngoại thành cho thứ dân. Cửa thành luôn được canh phòng nghiêm ngặt, thường dân ra vào bị xét hỏi rất kỹ. Giai nhân Kiều Loan đã thầm yêu trộm nhớ chàng nho sinh nghèo rớt mồng tơi là Kim Ngọc. Nhà chàng ở ngoại thành. Cậu học trò không dễ gì qua được cổng thành, nói chi đến chuyện lọt được nha môn để gặp gỡ người yêu. Bên này bên kia chỉ là thành quách mà tưởng như núi non nghìn trùng. Không gặp nhau được, mỗi người chỉ biết nhìn giòng sông thở vắn than dài. Sông kia, mỗi ngày hai lần nước thuỷ triều lên xuống, con nước từ ngoại thành tuôn vào rồi lại chảy ra. Theo triều lên xuống, đôi gái trai đã viết thơ trên lá, thả xuống sông, nhờ giòng nước mà trao đổi tâm tình cho thỏa nhớ thương. Giòng sông đã trở thành giòng lá thắm.
Chỉ Hồng:
Những câu nói trong dân gian như lá thắm, tơ hồng vương vấn hoặc nguyệt lão se tơ đều lấy trong điển tích ông tơ bà nguyệt. Theo Thần-tiên truyện, thời Nguyên Hòa nhà Đường rất thái bình, có quan đại thần Chung Thôi rất giàu sang, thuộc vào hàng danh gia vọng tộc. Quý tử của Chung Thôi là Chung Hạo thông minh đĩnh ngộ; mới 12 tuổi đã văn hay chữ tốt, quan lại trong triều ai cũng khen; các vị có con gái đều mong muốn kết sui gia với Chung Thôi. Ngoài thời gian vui thú cùng cầm kỳ thi họa, Chung Hạo cũng thường theo cha đi săn bắn. Một hôm đi săn, mải đuổi theo con thỏ, Chung Hạo lạc vào rừng sâu, quanh co cả ngày không tìm được lối ra. Đêm xuống lạnh giữa rừng hoang, Hạo bắt đầu thấy sợ. Dưới ánh trăng bỗng nghe tiếng suối róc rách. Chàng lần đến tìm nước uống. Bên bờ suối, trong hang đá, một bà lão đang ngồi xe chỉ, màu chỉ đỏ thắm. Chung Hạo khẽ bước lại gần, kính cẩn thưa:
-Tiểu nhân đi săn, bị lạc đường. Xin hỏi nơi đây là đâu, sao lão bà lại ngồi một mình xe chỉ đỏ?
-Đây là động Tiên. Ta đang ngồi se duyên cho những đôi tình nhân yêu nhau dưới trần gian. Chỉ này là dây tơ hồng. Ta se nhiều hay ít thì trai gái cũng theo đó mà thương yêu nhau nhiều hay ít. Ta muốn đôi trai gái nào nên vợ chồng thì ắt chúng sẽ kết duyên, không xa lìa nhau được.
-Vậy thưa lão bà có thể cho tiểu nhân biết sau này sẽ được sánh duyên cùng ai?
Lão bà đưa mắt nhìn vào bên trong động. Ở đó có một ông lão đang cúi gầm trên một cuốn sách dày cộm.
-Kia là ông Tơ. Công tử muốn biết thì hỏi ông ấy.
Ông lão hỏi tên tuổi Chung Hạo rồi lật từng trang sách ra tra cứu:
-Sau này công tử sẽ được se duyên với Tố Lan, con gái một mụ ăn mày ở chợ Đông, gần kinh thành.
Lão ông chưa dứt lời, Chung Hạo đã đùng đùng nổi giận. Đường đường là một quí tử của quan đại thần, tài nghệ, văn hay chữ tốt khó ai bì kịp mà sau này lại kết duyên cùng với con gái mụ ăn mày. Tức tối, chàng quay bước đi, không một lời chào. Ông Tơ vẫn chúi đầu trong sổ bộ, bà nguyệt vẫn bình thản se chỉ hồng.
Chung Hạo chạy thục mạng suốt đêm trong rừng sâu. May mắn, sáng sớm mai, gặp được quân lính triều đình đang tỏa đi tìm kiếm. Trở về dinh, sau ngày đó, chàng công tử đâm ra biếng ăn lười nói. Lời tiên tri của ông Tơ như cứ lởn vởn trong đầu. Đến một hôm, không dìm được sự thôi thúc, Chung Hạo cùng một gia đồng tìm xuống chợ Đông. Vừa đến đầu chợ, đã gặp ngay một đứa bé gái chừng 9 tuổi mặt mày lem luốc, áo quần rách bươm, dắt theo một bà ăn xin mù lòa. Tên gia đồng dọ hỏi thì biết được tên của con bé là Tố Lan. Chung Hạo thất kinh, ù té chạy về dinh, tâm thần hoảng loạn. Không được, không thể nào, ta lại chịu khuất phục số mệnh, để làm chồng một con bé ăn mày bẩn thỉu như vậy được. Làm thế nào đây? Suy nghĩ cạn nước, chỉ còn cách là diệt trừ cái mầm định mệnh khắc nghiệt đó đi.
Với rắp tâm sẵn có, một buổi sáng Chung Hạo một mình tìm xuống chợ Đông. Anh ta đứng nấp sau một thân cây lớn. Cô bé dắt mẹ đi qua. Chàng cầm hòn đá, liệng ngay vào đầu con bé rồì ù chạy. Sau đó, dò hỏi tin tức thì được biết con bé bị thương tích quá nặng, e không sống được; và rồi bà lão mù cũng không còn thấy ăn xin giữa chợ Đông nữa.
Bảy năm sau Chung Hạo đã nên danh phận. Nghe tin thiên hạ bàn tán ở huyện Trúc Giang có con gái quan Thái úy nổi danh là một giai nhân sắc nước hương trời, tên là Thảo Nương. Vương Tôn công tử gần xa, ngày đêm đến cầu thân, nhưng chưa ai được kén chọn. Chung Hạo tìm đến, thuê một phòng trọ trước phủ đường. Mới một lần tình cờ nhìn thấy Thảo Nương, Chung Hạo giao động cả lòng. Chàng vội quay trở về nhà, xin phụ thân tính đường mai mối. Hai gia đình là môn đăng hộ đối, nên việc kết hôn sớm viên thành. Đôi uyên ương nên vợ chồng yêu nhau mặn nồng.
Một hôm, Chung Hạo âu yếm gội đầu cho Thảo Nương. Thấy vợ mình có một cái thẹo lớn đàng sau gáy, chàng hỏi:
-Vì sao có cái thẹo này?
-Nguyên thiếp là con một bà ăn mày mù ở chợ Đông. Lúc nhỏ, một hôm đang dắt mẹ đi ăn xin, không hiểu sao lại có một kẻ xấu cầm đá ném vào đầu thiếp, thương tích nặng, tưởng đã lìa đời. May nhờ bà con tận tình cứu chữa. Và sau đó, may mắn được quan Thái-úy có lòng từ tâm, lại hiếm muộn, nên đem hai mẹ con thiếp về nuôi dưỡng. Thiếp được nghĩa phụ dạy dỗ, cho ăn học. Mẹ thiếp qua đời. Thiếp được giúp việc bút nghiên cho nghĩa phụ nơi công đường. Đã rất nhiều đám đến dạm hỏi, nhưng đều bị từ chối. Lạ thay, bên nhà chàng vừa ngỏ thì dưỡng phụ bằng lòng ngay. Chúng ta đẹp duyên ngày nay chắc là có duyên nợ.
-Không, Thảo Nương nàng ơi! Nếu là định mệnh thì nàng phải là... Tố Lan.
-Tố Lan là tên của thiếp lúc còn bé. Sau khi được đưa về dinh, nghĩa phụ đã xin ý mẹ, đổi tên này.
Chung Hạo chỉ biết hôn lên mái tóc người vợ và tin tình duyên là do trời định.
- Truyện Kiều (cuộc hội ngộ bất ngờ, Kim Trọng gặp Thúy Kiều)
- " Bắt chồng " Phong tục đặc biệt của dân tộc Thiểu số Miền Nam
- Đuông. Món ăn nổi tiếng nhất của Miền Nam
- Nghành nghề tại Sài Gòn và miền Nam
- Ca hò miền Nam
- Cảnh đẹp Sài Gòn
- Đại thi hào Nguyễn Du và truyện Kiều
- Nguồn gốc truyện Kiều
- Truyện Kiều ( Lược truyện và phần mở đầu )
- Truyện Kiều (Thúy Kiều gặp Mả Đạm Tiên )