Văn Hoá Việt Nam
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
Xét về phương diện văn hóa và văn học thì dân tộc ta chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi học thuyết của Đức Khổng Tử. Cái trật tự xã hội được xây dựng trên quan điểm "Quân/Thần - Phụ/Tử - Phu/phụ" có nghĩa người dân phải tôn trọng đạo "Vua/bề tôi - Cha/con - Chồng/vợ". Ba bậc luôn có quyền hành là vua, cha và chồng. Cũng theo phong tục thì ngành trai trưởng có nhiệm vụ và được ưu tiên nối dòng dõi trong gia đình hoặc nối dõi vương quyền đối với Hoàng-tộc. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp ngoại lệ, vua chúa có khi lại chỉ định con trai thứ nối ngôi, như vua Thiệu Trị (1841-1847) truyền ngôi cho hoàng-tử thứ hai là Hồng Nhậm tức vua Tự Đức (1847-1883) lên kế nghiệp.
Nói chung, theo phong tục cũ phái nam được ưu đãi hơn phái nữ qua câu: "Nhất nam viết hữu, Thập nữ viết vô". Nếu nói là nối dõi tông đường thì con cái sau này phải thuộc giòng máu chính thống. Đứa con được sinh ra phải là con từ một người mẹ chính chuyên để danh giá gia đình được bảo tồn. Chính vì vậy mà phái nam được ưu tiên chọn lựa phụ nữ còn trinh làm vợ. Ngược lại, các cô không ai đòi hỏi đàn ông phải còn trinh!
I)- Chữ trinh trong lịch sử văn hóa Việt Nam
-Chữ trinh trong thời đại Mẫu-hệ
Tục ngữ Việt Nam có câu "Phúc đức tại mẫu". Phải chăng câu này phát xuất từ truyền thuyết Lạc Long Quân lấy Âu Cơ? Sau đó cha mẹ chia cách, 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên vùng núi lập nghiệp, theo chế độ Mẫu-hệ và 50 con theo cha Lạc Long Quân xuống vùng biển lập nghiệp, theo chế độ Phụ-hệ? Như vậy có thời dân Việt đã coi trọng chế độ Mẫu-hệ. Người đàn bà có quyền đi "bắt chồng" và cái gia đạo là cái đạo đức, tập quán có ảnh hưởng lớn từ người mẹ. Ngày nay chúng ta cũng thấy còn một số bộ lạc của dân tộc thiểu số như người Chàm, người Gia-rai và Ê-đê v.v... vẫn theo chế độ Mẫu-hệ. Người phụ nữ tới tuổi lấy chồng thì phải có hàng trăm bó củi, vài con trâu, con bò v.v... để đi "bắt chồng".
Trong gia đình người Ê-Đê, chủ nhà là phụ-nữ, con cái mang họ mẹ, con trai không được hưởng thừa kế. Đàn ông ăn ở trong nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ không còn ai thay thế theo gia truyền thì người chồng phải trở về ở với chị em gái mình. Khi chết được đưa về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ đẻ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản. Người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.
Nếu người phụ nữ trong chế độ Mẫu-hệ có quyền như vậy thì đàn ông nào dám đưa ra điều kiện các nàng phải còn trinh?
II)- Chữ Trinh trong lịch sử người Tầu
-Nếu người con gái phải còn trinh trước khi lấy chồng thì ai đưa ra luật lệ này?
-Tại sao người ta không bắt buộc đàn ông phải còn trinh khi cưới vợ?
Theo tác giả Bình Nguyên Lộc trong quyển "Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam" (Sài Gòn, 1971, tr. 342-343) thì tới đời nhà Thương (1776-1122 trước Công-nguyên) vẫn còn theo mẫu hệ. Đời nhà Thương không có việc truyền ngôi cho con, mà truyền ngôi cho các em cùng mẹ. Mãi đến đời Nhà Tần (221-206 TCN), tàn tích mẫu hệ vẫn còn. Tần Thủy (Thỉ) Hoàng đã đàn áp thẳng tay bọn đi ở rể, quyết diệt cho hết di tích của chế độ mẫu hệ. Tất cả bọn đi ở rể đều bị bắt đầy ải tới những thuộc địa xa xôi mới chiếm, như Ngũ Lĩnh chẳng hạn. Người ta đã có bằng chứng đích xác rằng mãi đến cuối đời nhà Chu (1122-256 TCN), người Tàu mới theo chế độ Phụ-hệ. Chữ Tánh của Tàu viết với chữ Nữ và chữ Sinh. Ðó là dấu vết theo Họ mẹ, và văn tự thì có trước đời Chu. Những họ lớn của Tàu như Nghiêu, như Cơ, tổ nhà Chu, đều viết có chữ Nữ. Chữ ở mu rùa và xương thú đều cho biết rằng người Tàu thờ mẹ và bà ngoại, chớ không phải thờ cha và ông nội. Chuyện vua Nghiêu nhường ngôi cho rể là vua Thuấn cũng rất có ý nghĩa.
-Theo tác giả người Pháp Durkheim (1858-1917), cũng như học giả Linh-mục Kim Định, thì đặc tính tín ngưỡng Thần-nữ cũng xuất hiện theo chế độ Mẫu-hệ đầu tiên được thấy xuất hiện trong quan niệm của người Tầu. Mẹ vua Phục Hy (đời Tam Hoàng: 4480-4365 TCN) dẫm phải dấu chân to lớn rồi sinh ra ông. Mẹ Hoàng Đế (đời Ngũ Đế: 2700-2600 TCN) thấy điển vây quanh sao Bắc Đẩu rồi có thai. Mẹ vua Nghiêu hợp hôn với rồng đỏ rồi sinh ra ông; và Bà Giản Định, tổ mẫu Nhà Thương, nuốt trứng chim mà đẻ ra ông Khiết v.v...
-Nếu người phụ nữ trong chế độ Mẫu-hệ có quyền như vậy thì đàn ông nào dám đưa ra điều kiện các nàng phải còn trinh?
II)- Chữ Trinh trong phong tục Việt Nam
Ca dao đã mỉa mai người thanh niên kết hôn với người phụ nữ đã có một đời chồng, hoặc đã ly thân, ly dị. Ngày nay quan niệm này không còn hoàn toàn thích hợp nữa. Với phong trào tự do ly thân, ly dị và sống chung không hôn thú, thì chữ trinh đã không hẳn còn được đề cao như xưa. Hiện nay, khi cưới nhau, người theo đạo Hồi vẫn còn giữ phong tục con gái phải còn trinh.
"Trai tơ lấy phải nạ-dòng,
Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu.
Nạ-dòng vớ phải trai tơ,
Đêm nằm hớn hở như mơ được vàng!"
và
"Gái khôn tránh khỏi đò đưa,
Trai khôn tránh khỏi vợ thừa người ta!"
Cái giá trị cao đẹp của người phụ nữ xưa là phải còn trinh trước khi lấy chồng. Người con gái mất trinh vì ăn vụng tình hay vì một nguyên do nào đó, cũng bị người ta mỉa mai chê cười:
Không chồng mà chửa mới ngoan,
Có chồng mà chửa thì oan nỗi gì?
Có tài liệu ghi: "Có chồng mà chửa xưa nay lẽ thường" hoặc "Có chồng mà chửa thế gian thiếu gì".
Vì thế, chữ trinh luôn được đề cao đối với nữ giới về phương diện gia đình nói chung và về đạo đức cá nhân nói riêng. Nói đến Trinh-tiết, ca dao tục ngữ của dân tộc ta còn lưu lại cho đời sau những câu mà ngày nay tuổi trẻ không còn tôn trọng như câu: "Nam nữ thọ thọ bất thân"
Nam nữ thọ thọ bất thân nghĩa là con trai và con gái đưa và nhận vật gì thì bàn tay của họ không được đụng chạm vào nhau. Họ phải giữ khoảng cách tiếp xúc da thịt để tránh sự khêu gợi dục tình. Lý do cũng dễ hiểu vì người thanh niên hay thiếu nữ đã để ý nhau, thì khi được đụng vào tay hay da thịt họ sẽ cảm thấy sung sướng, có khi mất ăn mất ngủ, và cứ tưởng rằng đối tượng của mình đã thích hay yêu mình.
Một câu chuyện đề cao chữ Trinh
Ngũ Tử Tư tên là Viên, con của Ngũ Xa và là em của Ngũ Thượng, cùng với Tôn Vũ là những vị tướng giỏi của nước Ngô thời Xuân Thu, Chiến Quốc. Ông vốn là người nước Sở, nay là địa bàn tỉnh Hồ Bắc. Chuyện về Ngũ Tử Tư có nhiều truyền thuyết khác nhau như: Một đêm bạc đầu, Đào mả quất roi, Móc mắt treo nơi cửa thành...
Theo Đông Chu Liệt Quốc, Ngũ Viên có tên tự là Tử Tư người nước Sở, văn võ song toàn. Cha ông là Ngũ Xa, một người chính trực, làm quan nước Sở, nhưng bị kẻ xấu hãm hại, nên bị vua khép vào tội phản nghịch bắt giam để xử tội. Sở Bình Vương là vua nước Sở sợ hai con của Ngũ Xa sẽ làm phản nên ép Ngũ Xa viết thư dụ hai con về triều để vua phong chức. Nhận được thư của cha, Ngũ Thượng là anh tin cha theo về triều. Ngũ Viên biết trước sự lừa dối của vua Sở không theo, bỏ trốn đi. Trước khi đi ông còn nói với một viên quan Đại-phu nước Sở rằng: ”Nước Sở muốn còn giữ được cúng tế thì chớ giết cha và anh ta, bằng không thì tất ta phải diệt nước Sở mới hả lòng căm tức của ta!”
Vua Sở không bắt được Ngũ Viên tức giận giết cha và anh của Ngũ Viên, đồng thời đưa quân đi khắp nơi để bắt Ngũ Viên. Do bị truy lùng khắp nơi nên ông trốn đến cửa biên giới, định sang nước Ngô mà không qua được. Một đêm nằm suy nghĩ không ngủ được, ông đứng dậy đi đi lại lại trong nhà, nghĩ ngợi đến tận sáng hôm sau thì toàn bộ râu tóc biến thành trắng xóa. Sau đó ông được người giúp đỡ đưa qua cửa quan sang nước Ngô. Trong lúc phải lưu vong đói bụng Ngũ Viên đã phải xin ăn trên đường. Khi đến đất Phiên Dương ông thấy một thiếu nữ đang ngồi giặt lụa trên bến sông Lại Thủy. Bên cạnh nàng có mo cơm (cơm đựng trong bẹ lá cau). Đói quá, Ngũ Tử Tư bèn hỏi:
-Ta trên bước đường cùng nên mới xin ăn, xin nàng giúp cho!
Thiếu nữ ngước lên nhìn Tử Tư rồi nói:
-Thiếp trông ngài không phải là người thường, đâu dám vì chuyện nhỏ mọn mà không cho ăn?
Người con gái mở gói cơm đưa cho Ngũ Viên và Thắng (Thắng là đứa bé con của Thái tử Kiến). Thái-tử Kiến bị vua cha muốn giết, nên bỏ trốn tránh sang nước Trịnh, sau phản Trịnh bị giết. Ngũ Viên và Thắng cùng ăn. Ông biết thiếu nữ nghèo khổ, lại ở nơi vắng vẻ, nên không dám ăn hết, để lại cho nàng một phần.
Thiếu nữ nói:
-Hai người còn đi xa, hãy dùng hết đi.
Ngũ Viên và Thắng ăn hết cơm. Lúc sắp đi, ông nói:
-Tôi không bao giờ quên ơn nàng. Tôi là người chạy trốn. Nếu gặp người khác xin đừng tiết lộ.
Thiếu nữ than:
-Ba chục năm nay ta chưa hề tiếp chuyện với người đàn ông nào. Giờ vì miếng ăn thành ra thất tiết! Thôi, các ngươi đi đi!
Ngũ Viên đi được mấy bước, ngoảnh mặt thấy cô gái giặt lụa ấy đã ôm lấy cục đá nhảy xuống sông mà chết. Ông bi thương quá đỗi, cắn ngón tay chảy máu, lấy máu viết hai mươi chữ trên đá: “Nhĩ hoàn sa, ngã hành khất. Ngã phúc bảo, nhĩ thân nịch. Thập niên chi hậu, thiên kim báo đáp” (Nàng giặt lụa, ta ăn xin. Ta bụng no, nàng chết chìm. Hẹn mười năm nữa ngàn vàng báo đền). Ngũ Viên lấp đất hòn đá lại rồi dắt Thắng vào nước Ngô.
Lời bàn
Chắc quí độc giả cũng thắc mắc: "Tại sao nàng lại nhẩy xuống sông tự tử?"
Có quan niệm cho rằng, thiếu nữ chết là bởi Ngũ Viên dặn một câu: “Nếu gặp người khác xin đừng tiết lộ”. Có hai lý do: -một là nếu nàng tiết lộ cho người khác biết thì quân của triều đình sẽ đuổi theo ông mà giết ông ta và con của Thái-tử Kiến, -hai là nàng chết như vậy để chứng tỏ lòng trung tín của mình để Ngũ Viên an tâm. Ngũ Viên là người quan trọng, dĩ nhiên phải hiểu phong tục về nam nữ, mà còn nói: "nếu gặp người khác xin đừng tiết lộ" thì chính ông ta đã không tin tưởng nàng, hoặc coi thường nàng là con gái nhà quê thiếu hiểu biết thế nào là trung tín!
Có quan niệm khác cho rằng, dựa vào câu nàng nói: “Thiếp trông ngài không phải là người thường, đâu dám vì chuyện nhỏ mọn mà không cho ăn?” Khi tiếp xúc với một người “không phải người thường” như vậy, nàng biết rằng mình đã phạm một lỗi là không chỉ tiếp xúc với một người lạ nơi vắng vẻ, mà còn "cho quà" là cơm cho người đó. Hành động này theo nàng nghĩ nó có tính cách vụng trộm. Sự tiếp xúc và hành động của nàng chưa có phép của cha mẹ. Chính người nhận cơm từ tay nàng biết đâu cũng nghĩ là tại sao nàng lại cho cơm cho một người không quen biết? Nếu người khác biết được, thông báo cho cha mẹ hoặc vu khống với làng xóm là nàng dám đơn phương tư tình, tiếp chuyện với đàn ông, rồi lại cho cơm, thì danh dự về phương diện đạo đức "Nam nữ thọ thọ bất thân" của nàng cũng như gia đình sẽ bị tổn thương. Chính vì nghĩ như vậy mà nàng mới than: “Ba chục năm nay ta chưa hề tiếp chuyện với người đàn ông nào. Giờ vì miếng cơm thành ra thất tiết!”
Khi đọc câu chuyện này, chắc quí độc giả cũng thấy rằng, chỉ nói chuyện và cho người lạ cơm ăn mà nàng cho là “thất tiết” thì đủ hiểu cái “tiết” của người xưa to lớn như thế nào. “Tiết” ở đây không chỉ là "Trinh tiết" theo nghĩa đen về thể xác; mà còn phải hiểu là tiết hạnh, sự trong trắng của tâm hồn. Cái phẩm giá tiết hạnh của người phụ nữ không hẳn chỉ được coi trọng nơi những nhà quyền quý, các bậc tiểu thư, công nương, những gia đình thế phiệt; nhưng cả trong giới bình dân.
Có người cho rằng, cái chết của thiếu nữ giặt lụa là “chết dại”. Dựa vào lịch sử thì Ngũ Tử Tư sau thành công, làm tới chức Tướng-quốc, vì có công lớn đối với nước Ngô. Nếu nàng không chết thì Ngũ Tử Tư sẽ tìm kiếm nàng để trả ơn và trọng đãi nàng như đã hứa. Hơn thế nữa, Ngũ Tử Tư có thể đón nàng về làm vợ hoặc thiếp thì thật là hạnh phúc biết bao.
Tuy nhiên, xét về phương diện phẩm hạnh của người xưa thì: “Danh tiết còn giá trị hơn thân xác”. Nó cũng đúng như câu tục ngữ của dân Việt: "Cọp chết để da, người ta chết để tiếng". Vì thân xác hay vật chất có thể tan đi, nhưng danh tiết vẫn còn. Đây là hình ảnh cao quí và đáng là gương soi cho hậu thế. Chữ Trinh của người xưa vì thế không hẳn là còn trinh theo nghĩa xác thịt.
III)- Chữ Trinh trong truyện Kiều
Trong truyện Kiều thi hào Nguyễn Du đã đề cao chữ trinh trong một số câu thơ.
1)-Chữ Trinh theo quan niệm của Thuý Kiều:
Kim Trọng sau khi được nghe Kiều gẩy đàn và thấy nàng làm thơ quá hay thì không chỉ yêu chuộng tài năng mà còn say đắm nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành của nàng. Trong lúc con tim rạo rực và tình yêu bốc cháy, Kim Trọng có hành động lả lơi dục tình, như thói thường của người con trai khi được ngồi gần người mình yêu: "Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi".
Thấy chàng có hành động muốn chiếm hữu thân xác mình quá vội vàng, Kiều đã tỏ ra là người luôn tôn trọng luân thường đạo lý, bèn mắng khéo chàng. Nàng không phải là gái lẳng lơ; nàng muốn nói cho chàng biết khi nào làm vợ, nàng sẽ noi gương người xưa trở nên vợ hiền và lúc nào cũng chiều theo ý chồng. Khi chưa kết hợp thành vợ chồng thì đừng có làm hỏng cái trinh tiết của nàng. Nếu chỉ vì yêu xác thịt thì nàng có cầu mong lấy Kim Trọng làm gì!
"Thưa rằng đừng lấy làm chơi,
Dẽ cho thưa hết một lời đã nao.
Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vườn hồng chỉ dám ngăn rào chim xanh.
Đã cho vào bậc Bố-kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi!"
(câu 499-508)
Chính vì giữ mình trong sạch để chờ ngày vu quy mà Kiều đã từ chối hiến dâng thân xác mình cho Kim Trọng khi hai người chưa thành hôn. Sau khi tình nguyện bán mình làm vợ Mã Giám Sinh để cứu cha, Kiều hối hận, vì đã không cho Kim Trọng được hưởng cái hạnh phúc thân thể của nàng: "Biết thân đến bước lạc loài, Nhị đào thà bẻ cho người tình chung!".
Xét về mặt sinh lý, sau 15 năm trôi dạt Kiều không muốn dâng cho Kim Trọng tấm thân đã bị bao người hưởng thụ, nhất là trong quãng đời lưu lạc giang hồ ở chốn lầu xanh, cũng như hai lần làm vợ Thúc Sinh và Từ Hải. Mặc dù bị sa vào chốn bùn nhơ; nhưng cuộc đời đó không do ý muốn của nàng. Mục đích của Kiều bán mình chuộc cha là để làm vợ Mã Giám Sinh; chứ không phải vì tiền bạc bán mình vào chốn lầu xanh. Nếu hiểu sâu xa và nhận xét một cách từ bi quảng đại, thì cái tiết-hạnh về lãnh vực tinh thần hay đạo lý của nàng đối với Kim Trọng không bị tổn thương.
Xét về mặt tình lý thì Kiều vẫn yêu Kim Trọng, và muốn trả nợ tình, nàng đã chấp nhận trở về sống chung trong đại gia đình. Với Kim Trọng, nàng chỉ muốn coi như tình bạn quí mến nhất đời, nếu có kết hợp lại thì chỉ là đôi vợ chồng "không chăn gối". Chính vì quan niệm tình yêu không phải chỉ dựa trên xác thịt mà nàng đã cảnh giác Kim Trọng, khi hai người mới gặp nhau và thề hứa sẽ lấy nhau: "Ra tuồng trên Bộc trong dâu, Thì con người ấy ai cầu làm chi!"
Trở về với gia đình và Kim Trọng đó là món quà tiết hạnh cao quý còn lại mà nàng muốn dâng hiến cho chàng để chu toàn cả hai: chữ Hiếu và chữ Tình.
“Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng
Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương
Chữ trinh đáng giá nghìn vàng
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”
…Thiếp từ ngộ biến tới giờ,
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.
…Còn chi là cái hồng nhan,
Đã xong thân thể còn toan nỗi nào.
Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,
Dám đem trần cấu dự vào Bố-kinh!
(câu 3093-3104)
Khi biết mình không còn trinh trắng như thuở đầu mới yêu nhau, Thuý Kiều đã quyết chí tu hành và phản đối việc tái hôn thành cập vợ chồng chung chăn chung gối. Nếu Kim Trọng còn yêu nàng thì hãy coi nhau như tình bạn, chơi cờ, ngâm thơ và gẩy đàn cho nhau nghe như xưa cũng đủ rồi. Nếu chàng cứ nhất quyết đòi hỏi về tình dục thì chàng có khác gì những người đã qua đi trong đời nàng "Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi!"
"Từ rày khép cửa phòng thu,
Chẳng tu thì cũng như tu mới là.
Chàng dù nghĩ đến tình xa,
Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ".
và:
“Chữ trinh còn một chút này
Chẳng cầm cho vững lại dày cho tan!
Còn nhiều ân ái chan chan
Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi”. (3107-3164)
Cái cao đẹp của Thúy Kiều là sự trinh trong của trái tim, của tình yêu mà nàng đã dành cho chàng ngay trong thời gian trốn cha mẹ, trèo qua tường sang nhà Kim Trọng và thề non hẹn biển với chàng. Xưa và nay người ta cũng thường nói, nếu chỉ chiếm được thân xác của người phụ nữ, mà tâm hồn hay con tim thì không, thử hỏi rằng tình nghĩa vợ chồng còn ra gì hay chỉ là yêu hờ lấy nhau cho có!
2)-Chữ Trinh theo quan niệm của Kim Trọng
Có thể nói Cụ Nguyễn Du đã bày tỏ quan niệm mới của mình về sự cao quý của chữ “trinh” ở Kiều nói riêng và phụ nữ nói chung. Trinh về phương diện sinh lý hay thể xác; và Trinh về tâm hồn hay tinh thần.
Chữ trinh về sinh lý quan trọng ở chỗ nó chứng tỏ người con gái chưa bị xâm phạm về thể xác tình dục. Hình ảnh các bé gái hay thiếu nữ còn trinh nguyên trong trắng, như các Thiên-thần, mà người ta thấy trong các bức tranh của họa sĩ, là hình ảnh đẹp ngây thơ và tự nhiên. Đôi khi người ta chỉ biết cảm nhận và không thể diễn tả như thế nào.
Chữ trinh về tinh thần còn cao quý hơn ở chỗ con người luôn quí trọng và đề cao cái đẹp của đạo lý. Nếu so sánh cái đẹp trinh trắng của một thiếu nữ ngoài đời và cái đẹp trinh trắng của một nữ tu, có lẽ ai cũng cảm nhận cái đẹp trong trắng và "thánh-thiện" của nữ tu có vẻ cao quí hơn. Chiêm ngưỡng một thiếu nữ đẹp ngoài đời có thể người ta "động tình xác thịt". Nhưng chiêm ngưỡng một nữ tu đẹp thánh thiện có lẽ ít ai dám "nghĩ bậy". Sự so sánh này cho thấy yếu tố tinh thần, đạo đức vượt trên yếu tố sinh và vật lý.
Trong truyện Kiều chúng ta thấy Mã Giám Sinh, Thúc Sinh, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến và bọn làng chơi đã được hưởng cái thú thân thể của Kiều; nhưng chưa chinh phục được cái vành ngoài của chữ Trinh tâm hồn Kiều. Có nghĩa con tim của nàng không rung động trước họ và các cuộc chơi chỉ là nghề nghiệp mà nàng miễn cưỡng phải chấp nhận. Nếu không, nàng không trả nợ được cho cha mẹ và thoát được lầu xanh. Dù đã kết hôn với Thuý Vân, có con cái đề huề và công danh toại nguyện rồi mà Kim Trọng không thể quên được tình yêu ban đầu và lời ước nguyện kết hôn với Kiều: "Chưa chăn gối cũng vợ chồng". Cái cao đẹp của Kim Trọng và Kiều khi đoàn tụ là không dựa trên công danh, vật chất, tình dục mà chính là tình yêu.
Trở lại đoạn Kim và Kiều gặp lại sau 15 năm xa cách. Đôi bên đã kể nể nỗi lòng, vừa chua xót vừa thương tâm, không phải để oán trách rồi lại xa nhau. Mỗi người đều có lý do riêng và nếu theo sự xét đoán thường tình thì cả hai đều có cớ xa lánh nhau. Nhưng cái "khối tình" chung đã được gây dựng từ 15 năm trước và nó không thể tan được là tâm điểm của một mối tình thuỷ chung. (như chúng tôi đã chứng minh qua các điển tích về khối tình trong các bài trước).
Vì thế, đối với Kim Trọng thì Kiều là:
"Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.
Có khi biến có khi thường,
Có quyền nào phải một đường chấp kinh.
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?"
Gương trong chẳng chút bụi trần,
Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm. (câu 3115-3122)
Như vậy, thi hào Nguyễn Du, qua vai trò Kim Trọng, đã làm cuộc cách mạng văn hóa và đem lại giá trị cho phụ nữ, không còn coi việc trai tơ lấy gái Nạ-dòng là xấu nữa; mà "Hoa tàn mà lại thêm tươi, Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa!"
IV)- Bán trinh
Trong xã hội xưa, khi bị mất trinh về lý do này hay lý do khác thì người phụ nữ bị đau khổ và mang nặng mặc cảm suốt đời. Tuy vậy, xưa và nay vẫn có những người phụ nữ tự bán trinh với nhiều lý do khác nhau. Các ông giầu tiền dư bạc và có chức quyền thì dù có vợ mà vẫn còn thèm gái trinh. Đã có những ông chịu trả hàng chục ngàn, trăm ngàn và cả triệu Đô-la để phá cái màn đi vào động tiên. Ngày nay vẫn có những nàng Kiều vui vẻ bán cái trinh tiết của mình để có tiền học cao hoặc để giúp gia đình.
-Ở Tân Tây Lan đã có 30.000 người vào mạng lưới điện tử Internet để coi nữ sinh viên 19 tuổi quảng cáo bán trinh với giá $32.000 Mỹ-kim để có tiền học đại học. Theo cô ta, có 1.200 người đã ngỏ ý mua và nàng đã dành cho người nào trả giá cao nhất!
-Năm 2004, một cô sinh viên đại-học Bristol đã bán trinh với giá £8.400 Bảng Anh (Sterling).
-Năm 2005, một thiếu nữ kiểu mẫu người Peru muốn bán trinh với giá $1,5 triệu Mỹ-kim để có tiền lo bảo vệ sức khoẻ cho cha mẹ. Có một ông người Canada đã hân hoan mua món hàng quí này.
-Năm 2008, Raffaella Fico, một thiếu nữ kiểu mẫu người Ý, 20 tuổi, quảng cáo bán trinh trên hệ thống mạng lưới điện tử Internet với giá €1 triệu Euro. Bà mẹ cũng nói là con tôi còn nguyên, chưa biết sự đời.
-Cũng năm 2008, để có tiền học đại học y khoa, Natalie Dylan, nữ sinh viên người Mỹ, 22 tuổi, ở San Diego, đã quảng cáo bán trinh với giá $3,7 triệu Mỹ-kim. Một ông ở Gia Nã Đại đã chịu chi $1,5 triệu Mỹ-kim để mua của quí.
-Ở Việt Nam cũng có những môi giới làm tiền bán các cô gái trinh làm vợ người Tầu hay Nam Hàn. Họ phải khỏa thân cho khách khám và chọn!
Một số sự kiện nêu trên cho thấy, ngày xưa "Chữ trinh đáng giá ngàn vàng"; ngày nay thì "Chữ trinh đáng giá triệu Đô" (US-Dollar)". Như vậy, chữ trinh thời nào cũng có giá trị của nó.
--------------------
Tài liệu tham khảo
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
Truyện Kiều không phải là một tác phẩm thi văn mang chủ đề giáo dục luân lý; nhưng qua truyện Kiều người ta thấy thi hào Nguyễn Du không phê phán hành động thiếu đạo đức của các nhân vật. Ông chỉ nêu ra các hành vi không đại diện cho một nền đạo đức luân lý tốt đẹp theo phong tục ngày xưa để người đọc tự nhận xét. Tuy nhiên, khi tạo nên hoàn cảnh gia đình Kiều bị lâm đại nạn, tác giả đã đưa nhân vật chính Kiều ra gánh nạn. Nàng hy vọng bán mình làm vợ Mã Giám Sinh với mục đích giải thoát cha và em trai khỏi cảnh bị đánh đập tàn nhẫn và tù tội. Như vậy thi hào Nguyễn Du đã đặt chữ Hiếu lên hàng đầu. Mặc dù bị lừa dối và bị bán vào lầu xanh, nhưng Kiều không bao giờ than trách cha mẹ, lúc nào nàng cũng thương nhớ và ghi ơn công ơn của các ngài. Cuối cùng nàng vẫn vâng lời cha mẹ, trở về đoàn tụ với Kim Trọng để trả nợ tình và ân nghĩa mà chàng đã dành cho gia đình nàng.
Chữ Hiếu không chỉ được coi trọng đối với Thúy Kiều; nhưng cả với Kim Trọng. Kiều và Kim Trọng chỉ mới yêu nhau và thề hứa sẽ kết duyên; nhưng hoạn nạn xẩy ra bất ngờ, nàng phải dứt tình để tròn chữ Hiếu và Kim Trọng dù chưa phải là con rể mà chàng đã đón cha mẹ Kiều về nhà mình nuôi nấng bảo bọc: "Chưa chăn gối cũng vợ chồng …Vội về sửa chốn vườn hoa, Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang". Hành động và cách cư xử của Kim Trọng cũng chứng tỏ chữ Hiếu đã được thi hào Nguyễn Du đưa lên hàng đầu cho hậu thế soi chung.
Thi hào Nguyễn Du sống dưới thời Quân-chủ Nhà Nguyễn, ít hay nhiều, ông đã thấm nhuần đạo Hiếu trong phong tục Việt Nam, trong đạo đức học Khổng-giáo và Phật-giáo. Vào thời kỳ đó có lẽ chữ Hiếu trong Thiên Chúa giáo còn mới mẻ và chưa có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng của tác giả, nên chúng tôi không đề cập tới. Trong bài này chúng tôi chỉ trình bầy một cách khái quát chữ Hiếu trong truyện Kiều so với đạo lý của dân tộc Việt Nam, Khổng-giáo và Phật-giáo.
I)- Chữ Hiếu theo phong tục Việt Nam
Dù được cắp sách đến trường hay không, hầu như người Việt ai cũng thuộc bốn câu ca dao nói về công ơn của cha mẹ và bổn phận Hiếu thảo của con cháu đối với các ngài.
"Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha.
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Dù chỉ với bốn câu thơ lục bát; nhưng trong đó chứa đựng cả một đạo lý dân tộc Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Không ân nghĩa nào cao bằng công cha, nghĩa mẹ. Không đạo lý nào trọng bằng thờ mẹ kính cha, một triết lý đầy tính nhân bản của dân tộc. Cái bổn phận của con cháu cũng được đề cao và phân biệt rõ. Con trai thì phải trung thành với vua và hiếu thảo với cha mẹ. Con gái thì phải giữ tròn trinh tiết và đức hạnh
"Trai thì Trung-Hiếu làm đầu,
Gái thì Tiết-Hạnh làm câu sửa mình".
Có sống cảnh không còn cha mẹ, như trẻ em trong các cô nhi viện, người ta mới hiểu được nỗi cô đơn và buồn khổ của con cháu, như ca dao đã ghi lại:
"Có cha có mẹ thì hơn,
Không cha không mẹ như đờn đứt giây.
Đờn đứt giây còn tay nối lại,
Cha mẹ mất rồi con phải mồ côi".
Chính vì đạo lý cao đẹp này mà người Việt Nam thường làm bàn thờ gia tiên hoặc treo hình ảnh tổ-tiên, ông bà và cha mẹ để thờ cúng. Vào các ngày giỗ và Tết, người ta cũng dâng đồ cúng và làm tiệc gia đình để con cháu sum họp, tưởng nhớ công ơn của những người thân đã qua đời. Dĩ nhiên hành động hiếu thảo của con cháu không phải đợi đến khi ông bà, cha mẹ qua đời mới được thể hiện. Khi các ngài còn sống, con cháu cũng phải lo chu toàn bổn phận nuôi nấng và giúp đỡ các ngài, khi còn khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau, chứ không được ăn ở tệ bạc như những người con bất hiếu:
"Sống thời con chẳng cho ăn,
Chết thời xôi, thịt làm văn tế ruồi".
II)- Chữ Hiếu trong đạo Khổng
Bị người Tầu đô hộ gần ngàn năm dĩ nhiên dân tộc Việt Nam không khỏi bị ảnh hưởng phong tục tập quán và tư tưởng của họ được thể hiện qua đạo lý của Khổng Tử, được gọi là Khổng-giáo hay Nho-giáo.
Quan niệm xưa cho rằng có ba điều bất hiếu là:
-"Gia bần thân lão, bất vị lộc sĩ", có nghĩa: Cha mẹ già, nhà nghèo mà không chịu ra làm quan để lấy lộc nuôi dưỡng.
-"A ý khúc tùng, hãm thân bất nghĩa", có nghĩa là: Dựa theo ý muốn của cha mẹ để làm điều bậy, tức là hãm cho mẹ vào điều bất nghĩa.
-"Bất thú, vô tử, tuyệt tiên tổ tự", có nghĩa là: Không cưới vợ, không có con, làm dứt nòi giống tổ tiên.
Hiếu kinh, tác phẩm chính của Nho giáo nói về đạo hiếu được mở đầu như sau:
"Hiếu là gốc của đức, là nguồn của giáo…thân thể tóc da, nhận từ cha mẹ, không dám tổn thương đó là khởi đầu của hiếu. Lập thân hành đạo, dương danh với hậu thế, để làm rạng rỡ cha mẹ, đó là kết cục của hiếu. Xét về hiếu, khởi đầu là lo việc song thân, kế đến là việc vua tôi, sau cùng mới đến việc lập thân."
Kinh sách này dẫn lời của đức Khổng Tử về đạo hiếu rằng: "Người con hiếu phụng dưỡng cha mẹ, ăn ở phải hết sức cung kính, cung dưỡng cha mẹ phải hết mực vui vẻ, khi cha mẹ đau ốm phải lo lắng hết lòng, khi lo việc tang lễ phải cực kỳ thương xót, khi cúng tế cha mẹ phải vô cùng trang nghiêm."
Một người có hiếu luôn làm tròn hai bổn phận chính là:
Về phương diện vật chất:, người con phải thực hiện ba điều căn bản: chăm sóc cha mẹ chu đáo, luôn ý thức rằng thân thể mình được tạo thành từ máu thịt cha mẹ nên phải biết quí trọng nó và phải lập gia đình, sanh con để nối dõi tông đường.
Theo Mạnh Tử, xét về phương diện thế tục, có năm điều được xem là bất hiếu:
-Thứ nhất: cơ thể lười biếng, chẳng đoái hoài đến việc phụng dưỡng cha mẹ;
-Thứ hai: đam mê cờ bạc rượu chè, chẳng nghĩ đến việc phụng dưỡng cha mẹ;
-Thứ ba: chạy theo của cải, tiền tài, chỉ nghĩ đến vợ con mà chẳng lo báo ân cha mẹ;
-Thứ tư: đắm vào dục lạc sắc thanh làm cho cha mẹ tủi nhục;
-Thứ năm: ưa thích sự kiêu hùng, đấu tranh, tàn nhẫn làm nguy hại cho cha mẹ.
Tuy nhiên, về quan điểm của đạo Quân-tử, Mạnh Tử lại cho rằng: "Hiếu tử hữu tam, tam đại vô tự " (Bất hiếu có ba, không người nối dõi là lớn nhất).
Tư tưởng này của Mạnh Tử về sau được Trình Di (1033-1107), một trong những nhà cách tân nổi tiếng của Nho giáo dưới thời Tống, kế thừa và cổ xúy mạnh mẽ. Trình Di cho rằng việc nối dõi như thế chính là trọng tâm của đạo làm người. Có lẽ chính vì điều này mà việc hôn nhân là điều rất quan trọng trong truyền thống Nho giáo. Thông thường việc hôn nhân này gồm ba khía cạnh sau:
-Thứ nhất: đôi vợ chồng trẻ phải gắn bó, chung thủy và đối với họ việc ly dị là điều tối kỵ;
-Thứ hai: việc cưới hỏi thường do cha mẹ hai bên đặt để. Việc tìm hiểu nhau trước khi hôn nhân diễn ra của đôi vợ chồng ấy không là điều quan trọng. Chính vì vậy mới có câu "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó".
-Thứ ba: trách nhiệm và cũng là niềm tự hào của đôi vợ chồng ấy là phải sinh con trai để tiếp nối tổ tiên.
Trong bối cảnh đó nếu họ không sinh được con trai thì người chồng có quyền ly dị vợ hoặc sẽ cưới thêm tỳ thiếp khác. Đây là một trong những nguyên nhân phát sinh tục đa thê.
Về phương diện tinh thần:
Khi cha mẹ còn ở đời, người con hiếu phải thực hiện những hoài bão mà cha mẹ trông mong, phải tiếp nối chí hướng của cha mẹ. Khi cha mẹ qua đời người con phải tỏ lòng
tiếc thương và lo việc cúng tế, thờ phụng chu đáo.
Sách Lễ Ký giải thích rằng, sau khi một người qua đời hình phách (khí của đất) của người đó sẽ ẩn vào trong đất và hồn khí (khí của trời) sẽ về với trời. Vì vậy lễ tang được tổ chức để cho hai luồng khí này được dung hòa, gắn bó với nhau mãi mãi. Theo thời gian cách thức và nội dung của lễ nghi như thế càng ngày càng được xem trọng và đó được xem là biểu hiện của lòng hiếu thảo của người sống đối với người đã khuất.
Như vậy Hiếu là nền tảng của đạo làm người, là nhân tố tạo nên đức Nhân của người Quân-tử, một mẫu người lý tưởng trong Nho giáo. Chung quy việc tu thân để tiến đến việc "Tề gia, trị quốc và bình thiên hạ" phải bắt đầu từ một đức tính căn bản trong mỗi người, đức tính đó không gì khác hơn là Hiếu hạnh.
Có 24 gương hiếu thảo (Nhị thập tứ hiếu) của người Tầu mà người Việt Nam ham học và thích đọc sách đều biết. Trong bài này chúng tôi chỉ ghi lại vắn tắt một vài truyện.
1)- Thầy Tử Lộ tên là Do, học trò Đức Khổng Tử, hồi còn nhỏ cha mẹ nghèo chuyên đội gạo đi bán để nuôi cha mẹ. Một hôm ông vào hầu Đức Khổng Tử và nói:
-Đội nặng đường xa thì tiện đâu nghỉ đó, không đợi chọn chỗ rồi mới nghỉ. Nhà nghèo, cha mẹ già, thì con làm nên thế nào, hay thế ấy, không đợi có chức trọng quyền cao mới làm. Ngày trước Do này, lúc song thân còn, cơm thường dưa muối, đường xa trăm dặm, phải đội gạo về nuôi song thân. Sau khi song thân mất rồi, làm quan ở Sở, xe ngựa hàng trăm, bổng lộc hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc những đồ tốt, mỗi khi nhớ đến song thân, lại muốn dưa muối, đội gạo để nuôi người như trước, thì không sao được nữa! Cha mẹ tuổi già như bóng qua cửa sổ. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con muốn nuôi, mà cha mẹ không đợi!
Đức Khổng Tử nói:
-Do, trò phụng sự song thân như thế rất phải. Lúc người còn thì hết lòng phụng dưỡng, lúc người mất thì hết lòng thương tiếc. Hết lòng phụng dưỡng lúc cha mẹ còn sống và hết lòng tiếc thương khi cha mẹ đã qua đời, đó là hiếu.
2)- Mẫn Tử Khiên mồ côi mẹ từ thuở nhỏ. Cha lấy vợ kế sanh được hai trai. Người mẹ kế tánh ác, chỉ thương con đẻ mà ghét con chồng. Mùa đông giá lạnh, hai em thì áo bông lồng áo kép, còn Tử Khiên thì chỉ được mặc một chiếc áo hoa lao mỏng mảnh. Một hôm Tử Khiên đánh xe hầu cha, co ro run rẩy. Cha quở mắng, Tử Khiên không đành nói sự thật, nín lặng giục xe đi. Nhưng lạnh quá tay sút dây cương. Cha giận đánh, chẳng ngờ áo Tử Khiên rách, bật hoa lao ra! Cha thấy thế mới hay con mình bị vợ kế bạc đãi, giận lắm, toan đuổi người vợ kế đi. Tử Khiên liền quì xuống khóc mà thưa rằng:
-Dì con còn ở lại thì chỉ một mình con chịu rét. Dì con mà bị đuổi đi, thì cả ba anh em chúng con đều không có người may áo.
Cha nghe nói cảm động ôm con mà khóc. Người vợ kế hay biết liền ăn năn. Từ ấy đem lòng thương yêu Mẫn Tử Khiên như con đẻ vậy.
3)- Hàn Bá Du người đất Lương đời nhà Hán. Bá Du mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu. Những khi có lỗi bị mẹ đánh, ông vẫn tươi cười. Một hôm phải đòn, ông ôm mặt khóc. Mẹ hỏi:
-Mọi khi mẹ đánh, con biết lỗi, nhận ngay. Lần này sao con lại khóc dai thế?
Bá Du quì thưa:
-Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ còn mạnh khoẻ, con mừng. Lần này mẹ đánh con, con thấy không đau mấy, con biết sức mẹ đã yếu, nên con nghĩ thương mẹ mà khóc.
4)- Khấu Chuẩn là một nhân vật trứ danh đời Tống. Ông nổi tiếng là công minh chính trực. Tuổi nhỏ tính du đãng, không giữ lễ phép, lại thích chơi với chim và chó. Bà mẹ quở phạt mà ông vẫn không chừa. Một hôm, ông bỏ học đi chơi, bà mẹ giận quá, cầm quả cân ném phải chân ông, máu chảy đầm đìa, phải chữa lâu ngày mới khỏi. Từ ấy ông hồi tâm, chuyên lo học tập. Về sau, thi đỗ, làm quan đến Tể Tướng. Lúc vinh hiển thì mẹ ông đã mất. Mỗi khi ông sờ đến chiếc sẹo ở chân, thì ông nức nở khóc và nói rằng: "Chính vết thương này làm ta nên người. Mà khi nên người, mẹ lại không còn nữa! "
5)- Thầy Tăng Sâm bừa cỏ ruộng dưa, lỡ tay làm đứt ít rễ. Cha là Tăng Tích giận, cầm gậy đánh vào lưng. Tăng Sâm đau quá, nhưng sợ cha giận thêm, không dám bỏ chạy. Đương cơn tức giận, cha đánh đến ngất đi, ngã gục hồi lâu mới tỉnh lại. Khi về nhà đến thưa với cha rằng:
-Lúc nãy con có tội đến nỗi cha phải đánh, thật con lỗi đạo. Xin cha tha thứ.
Nói xong lui xuống vừa gảy đàn vừa hát, có ý để cho cha nghe tiếng biết rằng mình không còn đau đớn gì nữa. Đức Khổng Tử nghe chuyện, bảo học trò cấm cửa không cho Tăng Sâm vào. Tăng Sâm nghĩ mình vô tội, mượn bạn lại hỏi vì cớ gì mà ngài giận. Đức Khổng Tử nói:
Ngày trước ông Thuấn phụng sự cha là Cổ Tẩu, luôn ở bên cạnh, cha sai khiến gì cũng không dám trái. Cha đánh bằng roi thì cam chịu, đánh bằng gậy gộc thì chạy trốn, lúc cha giận dữ muốn giết thì lánh xa. Thế cho nên ông Cổ Tẩu không mang tiếng bất từ. Nay Sâm thờ cha, liều mình để chịu cơn giận đến nỗi ngất đi. Giá lỡ cha đánh quá tay mà chết mất, thì có phải làm cho cha mắc tội chăng? Tội bất hiếu còn to hơn nữa?
Tăng Sâm nghe dạy, biết mình lầm lỗi, đến tạ tội cùng đức Khổng Tử. Liều mình để chiều cơn giận của cha mẹ như Tăng Sâm còn bị đức Khổng cho là đại bất hiếu, huống hồ chiều lòng cha mẹ để các ngài làm những điều bất nghĩa thì tội bất hiếu càng nặng hơn.
III)- Chữ Hiếu trong đạo Phật
Đạo phật cũng có ảnh hưởng sâu đậm đối với dân tộc Việt Nam, trong sinh hoạt văn hóa và cả trong lãnh vực văn chương. Trong truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du cũng đề cập tới Phật giáo qua hành động từ bi của sư bà Giác Duyên, qua thuyết Nhân Quả, Luân Hồi v.v…
Chữ Hiếu được Đức Phật nói đến trong nhiều hoàn cảnh và kinh sách khác nhau. Trong Kinh Bộ Tăng Chi, Ngài đưa ra bốn trách nhiệm mà những người con cần thực hiện để đền đáp công sinh dưỡng. Trong Kinh Thiện Sanh thuộc Kinh Trường A Hàm, Ngài khẳng định năm bổn phận mà một người con hiếu phải có. Nhưng có lẽ sâu sắc nhất vẫn là những lời Ngài dậy trong Kinh Vu Lan Bồn và Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân. Kinh sách ghi rằng, một hôm trên đường đi giảng đạo từ Thành Xá Vệ về phương Nam, Đức Phật gặp một đống xương khô ngoài đồng. Ngài tự nhiên cúi đầu lậy đống xương ba lậy, khiến Tôn Giả A Nan hết sức ngạc nhiên, hỏi rằng
-Thế Tôn là bậc Cha lành của bốn loài trong ba cõi, sao Ngài lại lạy xương khô?
Đức Phật trả lời: "Ta lậy là lậy các bậc tiền bối. Vì trong đống xương khô ấy có hài cốt của lục thân quyến thuộc và có thể ngay cả của chính mình trong nhiều đời trước."
Tiếp nhận lời dạy của Đức Phật, Tôn Giả A Nan nghĩ đến công lao sanh dưỡng của cha mẹ thật là sâu nặng, nên Ngài cầu Đức Phật chỉ dạy phương pháp báo hiếu để con người thi hành.
Trước khi dậy về cách báo hiếu, Đức Phật tóm lược mười công đức của cha mẹ như sau:
-Một là trong thời gian mười tháng cưu mang, người mẹ phải thận trọng giữ gìn, nuôi nấng chăm sóc thai nhi hết sức chu đáo;
-Hai là, đến ngày sanh nở sự nguy hiểm và khó nhọc trăm phần: sanh được thì sống, không sanh được thì chết.
-Ba là mẹ chịu cực khổ nuôi con từ tấm bé. Mỗi khi trở trời trái gió em bé nóng mình khó ở thì người thao thức bỏ ăn mất ngủ, nhưng không vì vậy mà phiền hà.
-Bốn là mẹ ăn đắng nuốt cay, để dành bùi ngọt cho con.
-Năm là săn sóc chăm chút cho con từng ly từng tí, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn.
-Sáu là sú nước nhai cơm, bế bồng bú mớm.
-Bảy là mẹ phải chịu đựng ô uế, tắm rửa giặt giũ đồ dơ cho con.
-Tám là lớn lên, khi con đi ra, cha mẹ phải lo lắng buồn phiền.
-Chín là cha mẹ cam chịu nghiệp chướng khổ đau, chỉ mong cho con được sung sướng.
-Mười là cha mẹ kham nhẫn sự thiếu thốn để con được sống thanh nhàn.
Cuối cùng Đức Phật xác định: bất hiếu là tội đứng đầu trong năm trọng tội. Kẻ mắc vào tội này bị rơi vào địa ngục vô gián, nghĩa là bị hành hạ suốt ngày đêm cho đến trăm nghìn kiếp không có một giây gián đoạn. Đến đây hai con đường họa, phúc mở ra rõ ràng cho hàng tứ chúng.
Đức Phật nêu ra những hành vi bất hiếu của con cái như sau:
-Ăn nói hỗn hào với cha mẹ, xấc xược với anh em chú bác bà con v.v...
-Không tuân theo lời dạy của cha mẹ, thầy bạn và các bậc trưởng thượng trong gia tộc.
-Theo bạn bè xấu ác, từ bỏ gia đình đi hoang, gây ra tội lỗi làm cho cha mẹ, bà con phải buồn lòng.
-Không lo học tập, xao lãng nghề nghiệp, không tạo dựng được một đời sống vững chắc, làm cho cha mẹ lo lắng.
-Không phụng sự cha mẹ về vật chất, không an ủi về mặt tinh thần, coi thường cha mẹ, coi trọng vợ con.
Đức Phật dạy về phương pháp báo hiếu:
Ngoài việc cung phụng cha mẹ về mặt vật chất và an ủi tinh thần mà ai cũng biết, chúng ta phải:
-Khuyến hoá cha mẹ thực hành thiện pháp.
-Vì cha mẹ mà thực hành tịnh giới, bố thí, làm các việc lợi ích cho mọi người.
-Truyền bá tư tưởng hiếu đạo này cho nhiều người được lợi ích.
Có một lần, Đức Phật đi khất thực ở một xứ mất mùa, Ngài đi cả buổi mà không có thức ăn, có một Tỳ kheo đổi lá y-dược được một bát cơm dâng lên Đức Phật.
Ngài hỏi: "Ngươi còn cha mẹ không?"
Tỳ kheo đáp: "Bạch Thế Tôn, con còn mẹ"
Đức Phật hỏi tiếp: "Mẹ ngươi có cơm ăn chưa?"
Tỳ Kheo đáp: "Bạch Thế Tôn, con đổi lấy chỉ được một bát cơm dâng lên Thế Tôn, mẹ con vẫn chưa có cơm ăn."
Đức Phật nói: "Ta không dám nhận bát cơm này, người đáng nhận bát cơm này là mẹ của ngươi. Hãy đưa cơm về cúng dường cho mẹ ngươi."
Chính vì đề cao chữ Hiếu mới có ngày Rằm tháng Bảy, ngày lễ Vu Lan theo phong tục Phật-giáo. Chữ Vu Lan dịch âm tiếng Phạn là Vu Lan Bồn, dịch nghĩa là "Giải đảo huyền". Giải là mở, đảo huyền là tội treo ngược, giải đảo huyền là thoát khỏi tội treo ngược, nghĩa là lễ cầu nguyện cho những người bị tội ở địa ngục ngạ quỷ được thoát khỏi cảnh đọa đày.
Nội dung Kinh Vu-Lan-Bồn kể về sự kiện: Ngài Mục Kiền Liên, một đệ tử xuất sắc của Đức Phật, sau khi đắc đạo, dùng thần thông kiếm và thấy mẹ đang bị đày đọa trong cảnh giới quỷ đói, thân hình tiều tuỵ khổ sở. Ngài sử dụng năng lực thần thông của mình, đưa bát cơm đến dâng cho mẹ. Mẹ Ngài được cơm, tay trái che bát, tay phải bốc ăn. Nhưng cơm chưa tới miệng đã hoá ra lửa, bà không ăn được. Ngài Mục Kiền Liên bèn xin Đức Phật chỉ dạy phương pháp cứu mẹ ra khỏi cảnh khổ Ngạ-quỷ.
Đức Phật dạy rằng "phải nhờ đến uy lực của tập thể chúng tăng mới cứu được mẹ ông. Vào ngày rằm tháng bảy là ngày chư tăng tập trung tự tứ sau 3 tháng an cư kiết hạ thanh tịnh, hãy sắm sửa vật dụng cúng dường chư tăng, nhờ chư tăng chú nguyện, mẹ ông mới thoát được khổ".
Ngài Mục Kiền liền vâng lời Đức Phật dạy, thực hành phương pháp báo hiếu ấy, nên đã cứu được mẹ. Sau đó Ngài xin Đức Phật cho phép các phật tử sau này được thực hành phương pháp cúng dường Vu-Lan-Bồn để báo đáp công ơn cha mẹ. Đức Phật khen ngợi và chấp thuận. Từ đó, ngày lễ Vu-Lan, tức ngày rằm tháng bảy trở thành ngày báo hiếu truyền thống của Phật Giáo.
IV)- Chữ Hiếu trong truyện Kiều
Đọc qua quan niệm cao đẹp về đạo Hiếu trong Khổng-giáo và Phật-giáo ở trên, chúng ta mới thấy tại sao thi hào Nguyễn Du đã đề cao chữ Hiếu trong thi phẩm Đoạn Trường Tân Thanh (tức truyện Kiều) của mình. Ở đây chúng tôi không cần phải bàn giải nhiều hơn mà chỉ nêu ra một số câu thơ nói về chữ Hiếu trong truyện Kiều.
Khi quyết định bán mình chuộc cha, Thuý Kiều đã suy tư về quan hệ giữa chữ Hiếu và chữ tình. Nàng không khỏi lo âu và tự đặt nhiều câu hỏi cho mình:
"Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!"
Khi biết con gái quyết định hy sinh đời mình, Vương ông buồn khổ đập đầu vào tường khóc lóc, than thở:
"Theo lời càng chảy dòng châu,
Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi".
Thấy vậy Kiều và mọi người khuyên can cha với lý lẽ rằng, nếu có khổ đau chỉ mình nàng chịu đựng. Cha còn trách nhiệm với nhiều người trong gia đình, chẳng khác gì một cây gánh vác nhiều cành. Nếu chỉ một cành gẫy đổ thì thân cây và các cành khác lá vẫn được tươi xanh. Kiều cũng đem các gương hiếu thảo của người xưa để mong cha thông cảm và chấp nhận quyết định của nàng:
"Vội vàng kẻ giữ người coi,
Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:
Vẻ chi một mảnh hồng nhan,
Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,
Lại thua ả Lýbán mình hay sao?
Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
Lòng tơ dù chẳng dứt tình,
Gió mưa âu hẳn tan tành nước non.
Thà rằng liều một thân con,
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây."
Để hiểu sâu xa hơn đoạn thơ trên, chúng ta cần biết hai điển tích dưới đây:
-Điển tích Nàng Oanh:
Nàng Đề Oanh, con gái của Thuần Vu Ý đời nhà Hán. Thuần Vu Ý làm quan đất Tề, mắc tội bị vua ra án tử hình. Thuần Vu Ý không có con trai, chỉ sinh được năm người con gái, Đề Oanh là con gái út. Đề Oanh là người con hiếu thảo thấy cha bị lâm nạn bèn theo lên cha lên kinh đô và tự mình mạo muội viết đơn dâng lên Hán Văn Đế. Nội dung của lá đơn đại ý nói rằng, kẻ thác rồi không thể nào sống lại và có cơ hội chuộc tội. Để cứu cha, nàng tình nguyện vào Hoàng-cung làm tôi tớ hầu hạ. Hán Văn Đế đọc đơn của nàng Oanh thì cảm động, hết mực khen lòng hiếu thảo của người con gái; nên tha tội cho Thuần Vu Ý.
-Điển tích ả Lý
Sách "Sưu Thần ký" có kể chuyện nàng Lý Ký:
Thời Hán Vũ Đế, ở quận Mân Trung đất Đông Việt, trong một cái hang sâu có con rắn khổng lồ mà dân chúng trong vùng rất kinh hãi, gọi là thần rắn. Hàng năm dân làng phải cúng cho thần rắn một người con gái đồng trinh thì cuộc sống mới được yên ổn. Nhưng dần dà gái trinh bị dâng hết rồi tìm đâu ra nữa? Bấy giờ ở huyện Tương Lạc, có nàng Lý Ký, nhà nghèo xơ xác, cả cha mẹ đều bệnh nặng không tiền mua thuốc thang. Nàng Lý đã trốn cha mẹ, đến cửa quan tự nguyện bán mình nộp mạng cho rắn, rồi nhờ chuyển tiền về cho cha mẹ. Không chịu bó tay làm mồi cho rắn, nàng xin quan ban cho một cây gươm bén và một con chó dữ. Nàng tiến vào hang và thả chó dữ ra chiến đấu với thần rắn. Trong lúc rắn quần thảo với chó thì nàng lựa lúc rắn sơ hở, vung gương chém vào mình nó. Khi thấy rắn bị thương ngã gục, nàng chạy đến chém nó ra từng khúc. Thế là dân chúng không còn thần rắn để sợ nữa.
Dư Thiện là cháu lâu đời của Việt Câu Tiễn được Hán Vũ Đế phong vương ở đất Đông Việt. Khi biết được chuyện người con gái can trường và hiếu thảo ấy, Đông Việt vương đã đón ả Lý về làm vợ.
Nói một cách tổng quát chúng ta thấy lòng hiếu thảo của Kiều quả cao đẹp và đáng khen. Nàng đã hy sinh tình yêu đầu và chấp nhận cuộc đời bất định và bất hạnh của mình để chu toàn bổn phận của người con đầu trong gia đình, khi không có con trai trưởng, như phong tục của người Việt: "không có con trai thì dùng con gái" (Vô nam dụng nữ). Thực tế thì Kiều có em trai sẽ nối dõi tông đường; nhưng Vương Quan và cha đều bị bọn tham quan địa phương bắt trói và treo ngược để hành hạ; nên không còn con trai nào cứu cha.
Khi gia đình được đoàn tụ, cha mẹ thoát cảnh tù tội và Vương Quan đã thi đỗ ra làm quan rồi thì đúng ra Thúy Kiều không còn nợ nần gì về chữ Hiếu nữa. Nàng đã trả Hiếu cho cha mẹ qua 15 năm lưu lạc và sống trong cảnh ô nhục, làm gái làng chơi, thì không ai còn nỡ tâm bắt nàng phải làm tròn bổn phận hiếu thảo nữa. Nhưng không phải vậy, thi hào Nguyễn Du không muốn hủy bỏ phong tục cổ truyền. Trong phần cuối của truyện, Kiều vẫn vâng lời cha, trở về đoàn tụ với gia đình để chu toàn chữ Hiếu.
"Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
Ông rằng: Bỉ thử nhất thì,
Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.
Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?"
Khi Kiều tính thoát tục, không muốn dan díu với tình yêu nữa, quyết chí tu hành, thì Vương Ông lại khuyên nhủ con muốn tu thì gia đình sẽ làm cho cái am rồi rước thày về tu chung.
"Độ sinh nhờ đức cao dày,
Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung.
Nghe lời nàng cũng chiều lòng,
Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra"
Trong phần cuối chúng ta thấy thi hào Nguyễn Du đã dung hòa hai quan niệm đạo đức của Khổng-giáo và Phật-giáo. Về Khổng-giáo, Kiều trước sau như một, vẫn coi trọng chữ Hiếu, nghe lời cha trở về với gia đình. Về Phật-giáo, Kiều quyết chí tiếp tục tu hành để quên đi quá khứ bụi trần. Nhưng cái tu của Kiều không phải là cái tu của các tu sĩ Phật-giáo xuất gia tu chùa khi chưa vương vấn bụi đời. Cái tu của Kiều là cái "Tu tại gia". Thi hào Nguyễn Du đã khéo léo cho sư bà Giác Duyên đi du hành phương xa để hái lá cây làm thuốc, khiến chùa bỏ hoang, cỏ mọc trên mái và rêu bám đầy tường. Tác giả đã phân biệt một cách rất tế nhị giữa cái tu chuyên chính trong sáng của sư bà và cái tu đã vẩn bụi đời của nàng Kiều, người phụ nữ lầu xanh. Vì thế, tác giả cố tình cho sư bà ra đi như mây bay, hạc lánh ở một phương trời vô định, không ai tìm được, với mục đích không cho hai người tu chung là vậy.
Một trong những cái hay và thâm thuý tuyệt vời của truyện Kiều cũng là ở chỗ này.
"Nhớ lời lập một am mây,
Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên .
Đến nơi đóng cửa cài then,
Rêu trùm kẻ ngạch cỏ len mái nhà,
Sư đà hái thuốc phương xa,
Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu?"
BY: HOÀNG THẠCH
Trong hai bài trước chúng tôi đã bàn về nghệ thuật tả người và tả cảnh thật tài tình của thi-hào Nguyễn Du. Nếu chỉ nói về cái tài tả người và tả cảnh không thôi thì vẫn chưa lột hết được cái thi vị của truyện Kiều. Trong các bài kế tiếp chúng tôi sẽ bàn về nghệ thuật tả tâm tình buồn của tác giả được lồng trong khung cảnh của trời đất, cỏ cây, sông nước và đặc biệt là các điển tích, mà nếu người đọc không tìm hiểu ý nghĩa của các điển tích thì vấn đề thưởng thức cái hay của truyện Kiều vẫn chưa đạt tới tuyệt đỉnh.
Có khá nhiều những câu thơ tả tâm tình buồn của Cụ Nguyễn Du, nhưng vì giới hạn của bài viết, chúng tôi chỉ nêu ra một số diễn tả điển hình sau đây:
1)- Lối tả tâm tình qua cảnh chiều tà
Cảnh chiều tà tự nó thường đem lại chút buồn thênh thang, khách quan và không hướng về một đối tượng quan trọng nào đối với các nhân vật trong truyện như các câu thơ dưới đây:
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
hay
Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Cảnh chiều tà như hòa chung nỗi xót xa của khách qua đường tiếc thương cho thân phận của một nàng ca nhi xấu số. Đạm Tiên đang nằm dưới nấm mộ hoang vắng bên đường:
Trải bao thỏ lặn ác tà,
Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngả dậm về còn xa.
Cảnh chiều tà hòa chung với tâm trạng buồn vì mối tình tương tư, hoặc tâm trạng thương nhớ quê hương và gia đình của người trong cuộc phải sống nơi đất khách quê người:
Hiên tà gác bóng chênh chênh,
Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình
Gió chiều như gợi cơn sầu,
Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
2)- Lối tả tâm tình khi chia ly
Còn nỗi buồn nào hơn lúc chia tay, khi kẻ ở người đi, mỗi người đi về một phương trời. Cuộc chia tay như con đường chia hai, như mặt trăng xẻ đôi, khiến cho người trong cuộc lệ rơi thấm đá, sầu buồn mênh mang:
Buộc yên quảy gánh vội vàng,
Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai
hay:
Đau lòng kẻ ở người đi,
Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm.
và:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
3)- Lối tả tâm tình qua điển tích
Không chỉ dùng thiên nhiên tả cảnh hiện thực và tâm tình nhân vật trong từng hoàn cảnh, Cụ nguyễn Du còn đưa các điển tích vào câu truyện để gia tăng giá trị về phương diện lịch sử văn chương, văn học hoặc lịch sử đất nước, để cho nỗi buồn trở nên sâu đậm hơn, xót xa hơn. Đoạn thơ sau đây là một trường hợp điển hình:
Sau khi Kiều tự bán mình chuộc cha, nàng than cho thân phận nữ nhi của mình:
Một mình nàng ngọn đèn khuya,
Áo dầm giọt lệ, tóc xe mối sầu.
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi.
Vì ta khăng khít, cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
Trời Liêu non nước bao xa.
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi.
Biết bao duyên nợ thề bồi.
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì.
Tái sinh chưa dứt hương thề.
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan. (câu 695-710)Để hiểu thấu cái nỗi xót xa của Thuý Kiều qua 4 câu thơ cuối ở trên, chúng ta cần biết các điển tích dưới đây: 1)-
Sự tích làm thân trâu ngựa:
Tác giả Đàm Duy Toại trong tác phẩm "Truyện Kim-Vân-Kiều, Giảo-đính Tường-giải" có kể một người vay bạn một số tiền để đi buôn, nhưng không may thua lỗ mất hết cả. Tuy bạn không đòi, nhưng anh ta vẫn ân hận mãi và lúc gần chết nhắn lại bạn là sẽ trả. Được ít lâu, bỗng một hôm người bạn mơ thấy anh ta vui vẻ đến trả nợ. Sáng sau, người bạn thấy con trâu cái nhà mình đẻ một con trâu đực con rất mập mạp, biết là bạn đến trả nợ, chăm nuôi rất tử tế. Con trâu con lớn lên rất ngoan, kéo cày rất khoẻ. Mỗi khi trâu mệt, kéo cày có ý chểnh mảng, thì thợ cày nói đến nợ, là trâu lại cố gắng kéo. Người chủ thấy vậy rất thương tình. Một tối nọ mới bảo trâu rằng: "Bác trả nợ tôi thế là hết rồi, từ mai không phải đi làm nữa, ở đây chơi với tôi cho vui". Sáng hôm sau trâu chết lúc nào không ai biết. Người chủ chôn trâu tử tế".
Có tài liệu giải thích theo thuyết Luân Hồi của Phật Giáo. Kiếp sau của Kiều, vì còn nợ đời nếu phải tái sinh làm kiếp con trâu hay con ngựa để kéo cày, kéo xe trả nợ tình Kim Trọng thì cũng là chuyện không có gì phải oán trách. Kiếp này chưa trả được nợ tình thì có chết đi khối tình của nàng dành cho chàng vẫn không tan.
2)- Điển tích trúc mai
Trong các bức tranh thủy mạc của Tầu thường người ta vẽ bụi trúc bên cạnh cành mai. Hai loại cây này, dù trong đông giá vẫn không tàn úa. Đông đi xuân đến được biểu tượng qua bốn loại bông hoa là mai, lan, cúc, trúc, tượng trưng cho 4 mùa của trời đất vận chuyển theo một chu kỳ nhất định.
Trúc Mai được chép trong sách "Lưỡng ban thư vũ tùy bút".
Tại huyện Long Môn, tỉnh Quảng Đông có một cái đầm nước rất đẹp. Vào mùa Thu, lá vàng xào xạc, thân cây trơ trụi, riêng chỉ có hai loài mai và trúc lá vẫn xanh tươi. Những người quyền quí thường đến đó ngoạn cảnh trong tiết Thu sang. Tình cờ có hai trai gái quen nhau, rồi yêu nhau. Đôi uyên ương đều là con nhà gia phong thế phiệt. Chàng là Lâm Bá Trúc, nàng là Hoàng Kỳ Mai. Người con gái có cốt cách cao sang thường được tả là mình hạc xương mai. Còn cây trúc được ví với các nho sinh, công tử hay người quân tử.
Ngày ngày Kỳ Mai và Bá Trúc đều hẹn nhau dạo chơi trên đầm. Nhưng rồi mùa Thu cũng ra đi. Đôi uyên ương trao lời tạm biệt. Buổi chiều cuối dạo thuyền trên đầm, Bá Trúc bẻ một cành mai, Kỳ Mai bẻ một nhánh trúc, rồi cùng thành tâm khấn nguyện: "Hai cành trúc mai là đôi chúng ta. Chúng ta ném hai cành cây này xuống nước theo hướng khác nhau. Nếu là duyên trời định thì giòng nước sẽ đưa đẩy hai cành cây này đến với nhau, đó là trúc mai hòa hợp, chúng ta sẽ nên duyên vợ chồng. Xin đất trời chứng giám".
Một cơn gió nổi lên, mặt nước đang lặng lờ bỗng gợn sóng. Chỉ một lúc sau, sóng gió đưa đẩy hai cành trúc mai đến gối đầu lên nhau. Lời nguyện đã linh ứng. Đôi trẻ trở về thưa chuyện với lệnh đường đôi bên. Hai họ cho đó là duyên tiền định, nên hoan hỷ tác hợp cho Trúc-Mai thành duyên vợ chồng. Về sau người ta đặt cho cái đầm ấy tên là
"Đỗ phụ đầm" có nghĩa là "cái đầm đánh cá được vợ".
Đời sau, khi nói trúc mai là nói đến tình nghĩa vợ chồng.
Kim Trọng và Thuý Kiều dù chỉ mới thề ước, nhưng đã coi nhau như phu thê tình nồng. Sau khi Kiều bán mình chộc cha và bị trôi nổi phương xa, Kim Trọng đã đón cha mẹ Kiều về nuôi. Tình nghĩa Trúc-Mai cũng được nói đến trong nhiều câu thơ khác của truyện Kiều như:
"Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai” (Câu 745, 746. Kiều nói với Thúy Vân).
"Muôn ngàn người thấy cũng yêu, Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai“ (Câu 943, 944. Tú Bà khấn vái).
"Thờ ơ gió trúc mưa mai, Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân“ (Câu 1249, 1250. Kiều ở thanh lâu).
"Một nhà sum họp trúc mai, Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.“ (Câu 1381, 1382. Thúc sinh chuộc Kiều).
"Chắc rằng mai trúc lại vầy, Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau“ (Câu 1679, 1680. Thúc Sinh than khóc).
3)- Điển tích Khối Tình:
Sự tích 1:
Trong một triều đại của thời nhà Đường, có vị thượng quan kia chán cảnh quan trường cương toả, nên cáo lão qui điền. Ông đưa gia quyến đến một vùng ngoại ô vắng vẻ của kinh thành, cư ngụ trên bờ một giòng sông. Ông chỉ có một người con gái duy nhất, năm ấy tuổi vừa cập kê, nhan sắc tuyệt vời, tên là Mỵ Nương. Tiểu thư Mỵ Nương suốt ngày nhàn nhã, chỉ lấy thú đọc sách, đánh đàn làm vui. Một đêm trăng nọ, Mỵ Nương đứng trên bao lơn vọng lầu ngắm ánh trăng vàng lung linh trên mặt sông rộng. Bỗng nàng nghe có tiếng sáo du dương, trầm bổng từ đâu vẳng đến theo làn gió nhẹ của đêm thu. Tiếng sáo như có một ma lực huyền diệu xoáy sâu vào tâm hồn nàng tiểu thư khuê các đang độ tuổi xuân xanh. Nàng say mê lắng nghe với nỗi xúc cảm mãnh liệt của tâm hồn.
Liên tiếp nhiều đêm như thế, Mỵ Nương cứ đứng lặng trên lầu để thưởng thức tiếng sáo tuyệt vời ấy mà chẳng biết nó xuất phát từ đâu. Lòng xuân của cô tiểu thư đài các vẩn vơ nghĩ ngợi. Nàng mường tượng ra người thổi sáo phải là một trang thanh niên tài ba tuấn tú, nếu không phải là một công tử kim mã ngọc đường thì cũng phải là một tao nhân mặc khách. Lòng nàng đã thêu dệt nhiều ước mơ. Mấy đêm sau, Mỵ Nương không còn nghe tiếng sáo tuyệt vời ấy nữa. Đêm nào nàng cũng đứng chờ đợi và lắng tai. Nhưng tiếng sáo kia bỗng biến mất. Rồi nàng ngã bệnh. Bệnh tình của Mỵ Nương ngày càng nặng thêm, dù nàng đã được vị lương y trong vùng tận tình bốc thuốc cứu chữa. Một đêm kia, tiếng sáo huyền hoặc nọ bỗng vẳng đến, Mỵ Nương đang nằm bệnh, nhưng khi nghe tiếng sáo liền bừng tỉnh. Đôi môi xinh tươi hé một nụ cười. Nàng thì
thầm: "Ôi, tiếng sáo huyền diệu kia đã đến với ta…"
Người mẹ thấy thế lấy làm lạ, liền đi báo cho chồng:
-Thưa tướng công, con gái nhà ta nghe tiếng sáo thì có vẻ tỉnh táo và vui thích nữa.
Vị thượng quan cau mày nghĩ ngợi một lúc rồi gật gù bảo:
-Thì ra nó tương tư tiếng sáo của kẻ nào đó. Biết rõ căn nguyên thì việc chữa trị chẳng khó khăng gì.
Phu nhân thở dài:
-Nhưng biết người thổi sáo là ai và ở đâu mà mời đến?
-Phu nhân cứ yên lòng, chuyện ấy không khó đối với ta.
Hôm sau, ông cho gia nhân tủa ra khắp vùng để tìm tông tích người thổi sáo trên sông về đêm. Gia nhân về bẩm lại rằng người thổi sáo kia là một tên đánh cá nghèo hèn, không nhà cửa, sống lênh đênh trên chiếc thuyền nhỏ làm bạn với sông nước gió trăng. Chàng ta tên là Trương Chi. Vị thượng quan bèn sai hai gia nhân tâm phúc đem vàng bạc tìm gặp Trương Chi và mời chàng về dinh cho ông gặp. Khi Trương Chi đến, vi thượng quan nhận thấy chàng "nghệ sĩ" ấy là một kẻ nghèo hèn, lại xấu xí. Nhưng ông cần gì chuyện xấu đẹp, giàu sang. Ông chỉ cần tiếng sáo của chàng để cứu mạng con gái của ông mà thôi. Ông bảo Trương Chi:
-Ta được biết nhà ngươi là một nghệ sĩ có tiếng sáo thần tuyệt diệu. Hiện nay con gái ta đang lâm bệnh, thuốc thang không chữa khỏi. Nhưng khi nghe được tiếng sáo của nhà ngươi thì tinh thần tiểu thư sảng khoái. Ta nghĩ rằng tiếng sáo của ngươi sẽ là phương thần dược chữa khỏi bệnh tình của con ta. Vậy ngươi hãy trổ tài rồi ta sẽ trọng thưởng cho.
Trương Chi tuân lời, lấy sáo trúc ra thổi. Tiếng sáo của chàng cất lên khi du dương, khi trầm bổng, khi dịu dàng, khi réo rắt khiến vị thượng quan cũng phải phục tài. Trương Chi thổi sáo chưa đầy một khắc thì trong phòng bệnh, Mỵ Nương bừng tỉnh cơn mê. Nàng mở mắt ra và có vẻ chú tâm lắng nghe tiếng sáo. Dần dần, Mỵ Nương cảm thấy tâm hồn mình khoan khoái lạ lùng. Nàng ngồi phắt dậy một cách gọn gàng như chưa hề nằm bệnh. Mẹ nàng hốt hoảng ngăn lại:
-Kià con, con đang bện phải nằm yêu dưỡng.
Mỵ Nương chớp đôi mi cong, tiếng oanh thỏ thẻ:
-Thưa mẫu nhân, ai thổi sáo trong dinh nhà ta thế? Con muốn gặp người ấy.
Bà mẹ đỡ nàng nằm xuống và nói:
-Người thổi sáo tên là Trương Chi, một anh chài lưới trên sông. Vì biết con thích nghe tiếng sáo
của Trương Chi nên phụ thân con cho đòi gã đến thổi sáo đấy.
-Hãy cho con gặp mặt ngưòi thổi sáo kia đi mẹ.
-Được thôi, con cứ nằm yên đây, để mẹ ra ngoài trình với thân phụ con cho Trương Chi vào.
Nói xong, bà bước ra ngoài nói cho chồng ý muốn của con gái. Vị thượng quan bằng lòng và đích thân dắt Trương Chi vào phòng tiểu-thư. Bức tường liêm được vén lên và hình bóng Trương Chi hiện ra. Mỵ Nương trông thấy anh chàng thổi sáo thì la lớn:
-Hãy đưa anh ta ra.
Bọn a hoàn vội vã đưa Trương Chi ra khỏi phòng. Mỵ Nương quay mặt vào tường và thổn thức. Thì ra, Trương Chi không phải là một chàng trai tuấn tú phong nhã như Mỵ Nương tưởng tượng bấy lâu. Chàng lùn tịt, mặt mày xấu xí với chiếc mũi to và cái miệng rộng; thân phận lại là một kẻ bần hàn ăn mặc lôi thôi lếch thếch. Bao nhiêu mộng ước trong lòng Mỵ Nương lâu nay bỗng sụp đổ. Nàng thất vọng hoàn toàn. Nhưng cũng chính nhờ va chạm một sự thật phũ phàng như thế, Mỵ Nương dứt hẳn được chứng bệnh tương tư.
Trương Chi được vị thượng quan tặng một số vàng bạc nhưng chàng từ chối. Chàng đớn đau âm thầm, lặng lẽ xuống thuyền rời khỏi dinh thự. Mỵ Nương tuy đã hết bệnh, nhưng từ đó nàng không còn hồn nhiêu vui vẻ nữa. Nàng ít nói và trầm tư mặc tưởng hơn xưa. Có lẽ vết thương lòng vừa qua không còn làm cho nàng mộng mơ gì nữa. Phần Trương Chi, từ khi nhìn thấy mặt Mỵ Nương thì tâm hồn chàng hoàn toàn bị nhan sắc ấy chinh phục. Dù là một kẻ mang nhân diện xấu xí, nhưng Trương Chi lại có tâm hồn một nghệ sĩ thì chàng cũng biết cảm, biết yêu như bao nhiêu con tim người bình thường khác. Thế là Trương Chi tương tư Mỵ Nương và không còn thiết gì đến chuyện thổi sáo nữa.
Rồi đến một đêm kia Trương Chi từ giã cõi đời trong chiếc thuyền con lênh đênh trên mặt nước. Vài bạn đồng nghiệp thương tình đắp cho chàng một nấm mộ ven sông. Thời gian trôi qua, không còn ai nhớ đến chuyện chàng đánh cá xấu xí Trương Chi tương tư một tiểu thư khuê các đến chết bỏ mình. Nhưng rồi có một năm nọ, nước lũ dâng cao xoáy trốc ngôi mộ của chàng nghệ sĩ đáng thương. Khi nước rút, người ta không tìm thấy hài cốt của Trương Chi, mà chỉ thấy trong đáy ngôi một chàng có một viên đá trong vắt như pha lê, bằng nắm tay. Bấy giờ người ta mới nhớ lại câu chuyện chàng tương tư tuyệt vọng nàng Mỵ Nương trước kia. Người ta đem viên đá ấy dâng cho vị thượng quan, cha của Mỵ Nương. Ông thấy viên đá đẹp nên nhận lấy và để trên án thư. Lòng ông cũng nghe một chút xót xa khi nghĩ đến người nghệ sĩ tài hoa nhưng mệnh bạc.
Một buổi chiều, Mỵ Nương đi ngang qua án thư của thân phụ, vô tình trông thấy viên đá lạ ấy. Nàng đứng lại và tò mò cầm viên đá lên ngắm nghía. Ban đầu Mỵ Nương chỉ thấy viên đá trong suốt như pha lê, nhưng nhìn một lúc lâu thì nàng thấy ẩn hiện trong viên đá ấy hình dáng chàng Trương Chi đang thổi sáo trên chiếc thuyền con. My Nương lại nhớ ra rằng Trương Chi chết đi cũng vì tương tư nàng. Lòng nàng bỗng xúc động mạnh và hai giòng nước mắt từ từ lăn trên đôi má mịn màng. Những giọt nước mắt của Mỵ Nương rơi xuống viên đá nàng đang cầm trên tay. Lạ thay, viên đá pha lê ấy từ từ tan ra trong tay nàng.
Sự tích 2:
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Bên Trung Hoa, tại vùng Trúc Giang có một chàng lái buôn tên Quan Diệp Nhược yêu một nàng thôn nữ tên Tần Thúy Hải. Cả hai yêu nhau thắm thiết, nguyện cùng kết tóc, se tơ cho đến ngày răng long tóc bạc. Quan Diệp Nhược thường đi buôn bán nơi xa. Mỗi chuyến đi có cả hàng tháng. Và, mỗi chuyến đi như thế, chàng đều có hẹn ngày về với nàng. Đúng ngày, Tần Thúy Hải đến đón người yêu. Lần nào cũng đúng hẹn cả. Thời gian xa nhau không lâu nhưng họ đều cảm thấy dài đằng đẵng. Nỗi nhớ thương vẫn canh cánh bên lòng. Nhưng vì nghề nghiệp, họ đành phải chịu đựng và cầu mong ngày tái ngộ.
Mùa Thu năm ấy, ngô đồng vừa rụng lá, Quan Diệp Nhược lại phải từ giã, tạm chia tay cùng người yêu, lên đường sang Hồ Bắc buôn châu báu với mấy người bạn. Cũng như thường lệ, nàng Tần ra tiễn chàng Quan và hẹn ngày này tháng sau sẽ trở về. Nhưng chuyến này lại khác. Đến ngày hẹn, nàng Tần trang điểm, hớn hở vui tươi ra đón người yêu. Nàng mỏi mắt trông chờ suốt ngày đêm mà không thấy bóng chàng trở về. Rồi ngày này sang ngày khác, mấy lần Thu qua Đông đến nàng mỏi mòn chờ đợi, nhưng người yêu xưa lại chẳng thấy về, tin tức cũng vắng bặt. Hay là chàng đã bỏ mình nơi đất khách quê người? Nàng quằn quại sống trong cảnh sầu thương, mong nhớ. Rồi vào một ngày mùa Đông lạnh lẽo, tuyết rơi trắng cả trời đất, nàng Tần lâm bệnh nặng trút hơi thở trên giường.
Theo tục lệ ở địa phương, những gái tiết trinh chết được hỏa táng thi hài. Lửa đã đốt cháy người trinh nữ, xương thịt nàng Tần đã trở thành tro bụi. Nhưng khi người ta bới đám tro tàn lạnh lẽo ấy thấy một quả tim đóng thành một khối long lanh như ngọc. Lửa không sao đốt cháy, búa đập cũng không tan. Ai cũng lấy làm lạ, cho đó là khối tình u uất của nàng, vì tương tư thương nhớ người yêu, vì quá đau khổ nỗi duyên phận bẽ bàng. Tuy thân xác đã tiêu tan mà khối tình vẫn còn mãi mãi.
Nhưng rồi, một hôm Quan Diệp Nhược trở về. Sở dĩ chàng sai lời hẹn ước vì chàng gặp phải tai nạn bất ngờ. Ngày về giữa đường chàng bị giặc cướp hết tiền bạc và chiếc thuyền. Chàng phải lênh đênh phiêu bạt, lại lâm trọng bịnh, tưởng chừng đã bỏ xương cốt nơi đất khách quê người. Xót thương cho nàng vì quá thương nhớ mình mà chết, Quan Diệp Nhược cầm lấy quả tim thành ngọc của người yêu mà khóc nức nở. Lạ thay, nước mắt của chàng nhỏ xuống thì viên ngọc ấy lại tan ra, hòa chung với nước mắt của chàng.
Sự tích 3: Trương Chi và Mỵ Nương Việt Nam
Ngày xưa, có một ông quan Thừa-tướng sinh được người con gái tên là Mỵ Nương, nhan sắc tuyệt trần. Nàng ở cấm cung trong ngôi lầu cạnh bờ sông. Bấy giờ có một chàng trai con nhà thuyền chài tên là Trương Chi, ngày ngày đến thả lưới kiếm ăn trên khúc sông đó. Chàng ta thường buông lưới và ca hát. Tiếng hát rất hay, khiến cho Mỵ Nương ở trong lầu xao xuyến say mê.
Một dạo, Trương Chi đi đánh cá ở khúc sông khác. Không được nghe tiếng hát, Mỵ Nương sinh ra sầu não. Nàng bồn chồn trông đợi. Tiếng hát vẫn vắng lặng và nàng bắt đầu đau ốm. Thừa tướng vội cho mời các lương y đến xem mạch, bốc thuốc. Thuốc uống đã nhiều mà bệnh Mỵ Nương vẫn không bớt. Sau Thừa tướng hỏi dò những người hầu hạ Mỵ Nương, mới biết là con mình bị bệnh tương tư. Các lương y khuyên Thừa tướng cho gọi anh lái đò đến. Trương Chi được mời đến thăm Mỵ Nương. Chàng ta đội chiếc nón lá che mất khuôn mặt mình. Mỵ Nương năn nỉ mãi, phải ra lệnh, Trương Chi mới ngả nón ra. Nhưng khi nhìn thấy mặt Trương Chi, Mỵ Nương vỡ mộng, vì chàng xấu quá. Nàng cho chàng ra về, và từ đó không còn yêu hình bóng Trương Chi nữa.
Về phần Trương Chi, từ khi trông thấy Mỵ Nương xinh đẹp, chàng thầm yêu trộm nhớ nàng. Trong lúc tủi cho thân phận nghèo hèn của mình, buồn chán và không thiết gì làm ăn nữa, chàng cất tiếng hát:
Kiếp này đã dở dang nhau,
Thì xin kiếp khác, duyên sau lại lành.
Trương Chi mang mối tình hận mà chết. Một dạo sau không ai còn nghe tiếng chàng hát trên sông nữa. Mỵ Nương lại nhớ tiếng hát, hỏi ra mới biết anh dân chài đã chết. Mỵ Nương sai đào đắp cho chàng một nấm mộ cao. Nhưng lạ thay, khi đào mộ lên, thịt xương Trương Chi đã tan rữa, duy chỉ có trái tim biến thành một khối ngọc sáng long lanh.
Mỵ Nương sai người mang khối ngọc đẽo thành một cái chén uống nước. Một hôm, Mỵ Nương cầm chén rót nước, thì lạ thay, hình ảnh người đánh cá chèo thuyền hiện lên chậm chậm xoay quanh trong lòng chén. Cùng lúc ấy, tiếng hát năm xưa lại văng vẳng như than, như trách. Mỵ Nương chạnh lòng nhớ lại mối tình của chàng liền ứa lệ. Nước mắt của nàng nhỏ xuống chén và tự nhiên chén ngọc tan ra thành nước.
Sự tích này cũng được nhạc sĩ Văn Cao viết thành bản nhạc "Khối tình Trương Chi".
Sự tích 4: Khối tình trong lịch sử Việt Nam
Sử ta cũng có chép: Nhà Hậu Lê (1533-1788), vua Tây Sơn là Nguyễn Huệ đem quân ra đánh Bắc Hà, vua cuối cùng nhà Hậu Lê là Lê Chiêu Thống bỏ chạy sang Tàu cùng một số quan tòng vong. Chiêu Thống mong cầu viện vua nhà Thanh đem binh sang giúp mình để dựng lại cơ đồ. Nhưng quân nhà Thanh vừa bị vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh bại tại trận Đống Đa, vua Càn-Long nhà Thanh vỡ tan mộng xâm lược nên bằng lòng chịu hòa với Tây Sơn. Do đó sự cầu viện của vua Lê bất thành. Vua nhà Thanh lại còn bạc đãi, sỉ nhục vua Lê Chiêu Thống đủ điều, bắt các quan tòng vong như Lê Quỳnh, Trịnh Hiến cả thảy 10 người phải đổi áo, gióc bím như dân nhà Thanh và còn đày họ mỗi người ở mỗi nơi. Vua Chiêu Thống lấy làm tủi nhục. Hoàng tử bị bệnh đậu mùa chết khiến nhà vua càng buồn bã rầu rĩ hơn sinh lâm phải bịnh ngày thêm trầm trọng, rồi mất vào năm 1793, lúc mới 28 tuổi. Hoàng-hậu sau đó chết vào năm 1799. Khi vua Gia Long lên ngôi, năm 1802, sai sứ sang Tầu cầu phong, các quan nhà Lê nhân dịp dâng biểu xin đem hài cốt vua và hoàng hậu về nước. Vua Gia Khánh nhà Thanh bằng lòng. Sử gia Trần Trọng Kim có ghi trong Việt Nam Sử Lược, quyển II trang 140 như sau:
"Sử chép rằng khi đào đất lên để cải táng mả Cố-quân (tức mả vua Lê Chiêu Thống), thì thấy da thịt đã tiêu cả, chỉ còn có quả tim không nát, vẫn đỏ như thường. Ai trông thấy cũng động lòng thương xót. Dẫu chuyện đó thực hư thế nào mặc lòng, nhưng tưởng đến tình cảnh vua Chiêu Thống lúc bấy giờ, thì ai cũng ái ngại thay cho ông vua một nước phải đày đọa đến nỗi như thế, có thể làm một bài bi kịch thảm xót muôn đời. Tuy rằng tại vua tôi nhà Lê vụng tính cho nên bị người ta đánh lừa, nhưng cũng nên trách vua quan nhà Thanh xử tệ bạc đãi một ông vua vong quốc, đem thân đến nương nhờ nước mình. Ấy cũng là một thời dã man về đời áp chế, khiến cho cái oan khổ của người ta muôn đời về sau không tiêu thoát đi được."
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
Trong bài trước chúng tôi đã viết về nghệ thuật tả người của thi hào Nguyễn Du tài tình như thế nào thì nghệ thuật tả cảnh của Cụ cũng không kém phần đặc sắc. Cụ đã dùng cảnh vật thiên nhiên, cây cỏ, bông hoa để tả người thì Cụ cũng dùng cảnh vật trăng khuya, núi đồi, sông hồ, biển cả để diễn tả tâm tình của Kiều trong những hoàn cảnh khác nhau, theo kiểu "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" mà người ta gọi là lối tả ngụ tình. Nghệ thuật tả cảnh của Cụ Nguyễn Du nói chung rất đa dạng, tài tình và phong phú đã làm tăng giá trị và thi vị cho truyện Kiều qua các lối hành văn như:1)- Lối tả cảnh ngụ tình.
Đây là lối tả cảnh mà chúng ta đọc được nhiều đoạn khác nhau trong truyện Kiều. Có lúc Cụ Nguyễn Du dùng cảnh vật thiên nhiên, có lúc đưa tâm tình nhân vật hòa chung với vũ trụ bao la. Sau lễ Thanh Minh là cảnh chia tay, chị em Kiều trở về khi mặt trời đang ngả về hướng Tây báo hiệu một ngày sắp qua hoặc sâu xa hơn cuộc đời sắp tàn, như người ta thường nói "tuổi đã xế chiều"... Có cảnh chia tay nào mà không vương vấn nỗi nhớ. Cảnh vật chiều nay như hòa chung với nỗi buồn nao nao, thơ thẩn, man mác của chị em Kiều đang trên đường về. Cảnh chiều tà buồn buồn được diễn tả qua hai câu thơ dưới đây:
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Cảnh đã vắng lặng lại thêm giòng nước của con suối nho nhỏ lững lờ trôi dưới chiếc cầu con con, nói lên được cảnh thanh tĩnh và giòng nước trong phản chiếu bóng cây mầu xanh xanh. Có đứng ngắm bên bờ suối vào lúc chiều tà người ta mới cảm thấy cái thi vị của một nỗi buồn bâng khuâng.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Xa xa là cảnh cỏ cây in bóng hình dưới suối và gần đường đi cùng với mầu tàn úa của đám cỏ bên đường, cạnh nấm mồ hoang thấp lè tè làm gia tăng cảnh buồn vào lúc hoàng hôn.
Sè sè nấm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rằng: Sao trong tiết thanh minh,
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
Cách dùng các chữ "thanh thanh, nao nao, nho nhỏ, sè sè, dàu dàu, vắng tanh" của tác giả rất kỳ diệu, nó nói lên cái cảnh thanh vắng của một buổi chiều đầy thơ mộng. Nó cũng tạo lên cái cảm giác buồn nhè nhẹ, thoang thoảng, không làm cho con người quá sầu lụy để rồi những giọt nước mắt phải tuôn rơi.3)- Lối tả cảnh buồn
Khi Kiều được Tú Bà tha tội cho ra lầu Ngưng Bích nghỉ ngơi theo kế hoạch dụ dỗ hiểm độc của bà ta, nàng phải sống lẻ loi, lòng buồn vời vợi khi đưa mắt nhìn cảnh trời đất về chiều đêm hiện ra:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra cửa biển vào buổi chiều tối, Kiều thấy hình ảnh chơi vơi của một con thuyền còn căng buồm lơ lửng giữa sóng nước. Cảnh lạc lõng chưa về bến của con thuyền là bức tranh đẹp nói lên cái buồn man mác của thiên nhiên, khi ngày sắp qua và lúc màn đêm đang buông xuống. Mỗi khi cơn sóng lên cao, vỗ xuống làm cho những cánh hoa tàn không biết sẽ trôi về phương trời nào. Có nhìn cảnh chiếc lá vàng rơi trôi lững lờ trên mặt nước, người ta mới thấy cái buồn làm sao ấy của thiên nhiên, cảnh vật và con người.
Gần hơn, Kiều thấy đồng cỏ xanh tươi trải dài trên mặt đất tới tận chân trời. Gió thổi qua ghềnh đá và tiếng sóng vỗ quanh ghế ngồi vào một buổi chiều tối thật là khung cảnh hợp với tâm hồn nhớ nhà, nhớ cha mẹ của Kiều. Quí vị trung và cao niên chắc còn nhớ đoạn thơ tả cảnh thiên nhiên và tâm tình buồn nhớ quê hương của Thuý Kiều trên đây mà ai cũng thuộc lòng, đã được in vào sách giáo khoa của Bộ Giáo-dục dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Điều đó chứng tỏ nghệ thuật mượn thiên nhiên, hòa chung vào tâm sự nàng Kiều là những ngón điêu luyện của văn chương truyện Kiều.
Đọc lại đoạn thơ Cụ Nguyễn Du tả Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích đưa mắt nhìn cảnh chiều tà, chúng tôi lại liên tưởng đến bài thơ thất ngôn bát cú tuyệt diệu của Bà Huyện Thanh Quan. Bà cũng tả cảnh một buổi chiều trong đó ngư ông gác mái chèo để trở về nhà sau một ngày đánh cá vất vả. Bài thơ này có phần nào trùng hợp với cảnh buồn lúc chiều tối trên biển nước gần lầu Ngưng Bích. Bài thơ hay như bản tình ca bất diệt mà qua năm chục năm hay nửa thế kỷ rồi chúng tôi vẫn chưa quên. Bài thơ tả cảnh thiên nhiên và tâm trạng của người nhớ quê hương cũng được tuyển chọn và ghi vào sách giáo khoa của Bộ giáo-dục Việt Nam Cộng Hòa:
Cảnh chiều hôm
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?4)- Đem Trăng vào truyện Kiều.
Trăng thường là đề tài muôn thuở tạo nên nguồn cảm hứng của văn thi sĩ xưa và nay. Trăng cũng đã gợi cảm hứng cho các nhạc sĩ sáng tác nhiều bản tình ca quê hương bất hủ như nhạc bản "Gạo trắng trăng thanh" của Hoàng Thi Thơ, hoặc các bài thánh ca nhiệm mầu đã làm rung động con tim của bao lớp người. Bản thánh ca "Trinh Vương Maria: mở đầu Như một vầng trăng, vầng trăng tuyệt vời..." của nhạc sĩ Phạm Đức Huyến có nội dung ca tụng vẻ đẹp dịu hiền của Đức Trinh Nữ Maria, mà hầu hết giáo dân siêng đi lễ cầu nguyện và ca hát nhạc đạo đều thuộc lòng là một chứng minh.
Trăng có mặt khắp nơi, không chỉ chiếu sáng cho người nam hay nữ mà cho mọi người, như thi-sĩ Hàn Mặc Tử đã diễn tả qua hai câu thơ:
Không gian dày đặc toàn trăng cả,
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng
Trăng không những có mặt trong thi ca, trong văn chương, mà nó còn góp mặt trong các môn nghệ thuật hội họa, tạo nên những bức tranh thủy mặc thật đẹp. Trăng là một hình ảnh thân thiết với đời sống con người, đặc biệt với người dân nông thôn. Trong đời sống chúng ta, có lẽ không ai lại không có đôi lần ngắm trăng trong các ngày lễ, Tết Trung Thu là một trường hợp điển hình. Đối với các thi nhân thì trăng có một ý nghĩa và là đối tượng đặc biệt để từ đó nguồn thơ trở nên mượt mà lai láng. Vốn đã mang sẵn một tâm hồn nhạy cảm, đa tình, yêu nghệ thuật, nên khi ngắm trăng, các nhà thơ không khỏi say đắm trăng, như chú Cuội say đắm chị Hằng.
Cụ Nguyễn Du là một nhà thơ lão luyện thì trăng đối với Cụ cũng như người bạn tình muôn thuở và trăng đã được cụ đem vào truyện Kiều một cách tài tình. Có hơn 60 câu thơ nói về trăng, tả về cảnh hoặc tâm tình của các nhân vật trong truyện, đặc biệt đối với nhân vật chính Thúy Kiều. Trăng hiện ra tùy hoàn cảnh, tùy cảnh vật, tùy nơi chốn và nó như tỏa ánh sáng dịu dàng, đưa con người vào tâm cảnh bình an hay buồn tủi.
Khi diễn tả gương mặt xinh đẹp của Thúy Vân có đôi nét khác biệt với Thúy Kiều, tác giả đã mượn hình ảnh dịu dàng của mặt trăng:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Trăng đầy là trăng rằm. Nó đẹp và hoàn chỉnh nhất. Trong toán học người ta cũng xếp hình tròn là hình toàn vẹn so với các hình khác. Gương mặt của Thúy Vân, gương mặt đẹp tròn như trăng rằm, gương mặt của một người con gái phúc hậu, tươi cười và cởi mở. Trăng cũng được dùng để nói về nam giới, đặc biệt là các chàng thư sinh đang cắp sách tới trường hay học tại tư gia của một cụ đồ nào đó. Trong truyện Kiều thì trăng cũng được nói tới khi Cụ Nguyễn Du tả chàng Kim Trọng:
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau lưng theo một vài thằng con con.
Bốn chữ: ”lưng túi gió trăng”, gió trăng là hai trong số các cảnh vật thiên nhiên mà các thi sĩ thường dùng để viết lên thơ hoặc cùng nhau ngồi ngâm vịnh thơ dưới những đêm trăng thanh gió mát. Túi gió trăng có ý nói tới túi thơ và vì đang là thư sinh, nên thơ của Kim Trọng còn ít, còn vơi. Kim Trọng đang học để thi đậu làm quan mà thi cử ngày xưa thì đa số nói về kinh sách của Đức Khổng Tử, các danh nhân và những bài thơ tuyệt tác của các thi sĩ lừng danh Việt-Tầu, mà thí sinh nào cũng phải thuộc và viết cho đúng. Đọc câu thơ trên, chúng ta thấy tác giả không dùng chữ "thư sinh", mà dùng bốn chữ với nghĩa bóng "lưng túi gió trăng". Tuy vậy, người đọc có thể hiểu và hình dung được cái dáng dấp của anh chàng thư sinh Kim Trọng như thế nào.
Khi nói về thời gian và không gian của sự việc xảy ra, trăng được tác giả diễn tả theo thể nhân cách hóa:
Gương nga chênh chếch nhòm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
Gương Nga tức là mặt trăng sáng như gương. Nga tức là Thường Nga hay Hằng Nga là tên người vợ của Hậu Nghệ ngày xưa. Nàng đã ăn vụng thuốc trường sinh của chồng trốn lên mặt trăng. Do điển tích này mà về sau người ta dùng trong văn chương để chỉ cho mặt trăng. Ở đây, tác giả cho chúng ta thấy một hình ảnh tuyệt đẹp. Hai chữ "chênh chếch" diễn tả mặt trăng nghiêng nghiêng, có vẻ như người đang nhìn lén qua cửa sổ vào trong nhà. Ca dao Việt Nam cũng có câu:
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ?
“Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân”. Câu này, tác giả cho chúng ta một hình ảnh thơ mộng tuyệt đẹp của đêm trăng. Ánh trăng vàng chiếu xuống nước làm cho cả vùng nước biến thành mầu vàng long lanh. Hai chữ "ngấn nước" là diễn tả mặt nước bị gió nhè nhẹ thổi làm cho nổi sóng nhỏ. Những ngọn sóng nhỏ tạo thành những đường nước dài nhấp nhô dưới ánh trăng, nên tác giả dùng chữ lăn tăn thật tài tình. Chỉ trong hai câu thơ, tác giả đã tả toàn cảnh trời đêm trăng, suối nước và cây cối bên sân.
Chúng tôi ghi lại đây điển tích Hằng Nga và Hậu Nghệ để quí độc giả đọc và thưởng thức cái tài tình dùng trăng tả cảnh của Cụ Nguyễn Du và mỗi khi mừng Tết Trung Thu chúng ta có dịp kể lại điển tích này cho con cháu. Hằng Nga hay chị Hằng được nói tới nhiều trong thi ca của Tầu và Việt Nam.
Trong “Bích Câu kỳ ngộ” của Vô Danh có câu:
Hay là lỗi sổ Hằng Nga,
Đêm đông vò võ, bóng tà sao thưa.
Trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, đoạn ca tụng sắc đẹp của nàng cung nữ, có câu:
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đời nhà Trần (1225-1400) kêu gọi tướng sĩ, trong một bài hịch có đoạn “Nay ta bảo thật các ngươi nên cẩn thận như củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên được công danh.”Sự tích Hậu Nghệ: Theo “Sơn hải kinh”, trên hang Dương phía bắc nước Răng-Đen có cây Phù tang to lớn sống ở dưới nước, 9 mặt trời ở cành dưới; 1 mặt trời ở cành trên. Theo sách của Hoài Nam Tử, đời vua Nghiêu, 10 mặt trời cùng mọc một lần làm cây cỏ khô héo, vua Nghiêu sai Hậu Nghệ bắn 10 mặt trời, bỗng có 9 con quạ rớt lông cánh xuống.
Theo kinh Thư của Đức Khổng Tử, vua nước Hữu-Cùng là Hậu Nghệ. Vì dân không phục đã nổi lên kháng cự Hậu Nghệ tại sông Hà. Sách “Tả Truyện” có chép: khi nhà Hạ suy, Hậu Nghệ nhờ sức mạnh địch muôn người đã ủng hộ dân chúng được lên làm vua thay thế nhà Hạ. Về sau, Hậu Nghệ ỷ mình bắn giỏi, không lo chính sự và dâm bạo hơn thú dữ. Dân chúng oán ghét nổi lên giết chết, lại lóc thịt bắt con của Hậu Nghệ ăn. Không nỡ ăn thịt cha, con của Hậu Nghệ cũng bị giết luôn.
Trong bản dịch thần thoại ”Lên cung trăng” của văn hào Trung Hoa là Ngô Tổ Quang có chép:
Một thời đại rất xa xưa... Lúc bấy giờ con người được tự do, không bị áp bức chiến tranh hoặc người hiếp bức người. Ai làm nấy ăn. Mặt trời mọc thì đi làm; mặt trời lặn, trở về nghỉ. Đói có hoa quả; khát có nước suối. Con người lúc bấy giờ không có họa do người tạo ra, chỉ có tại họa thiên nhiên. Để tránh gió mưa, rét mướt, loài người đốn cây làm nhà, dệt vải may áo... Ngày tháng trôi qua, con người dùng kinh nghiệm và lao lực để cải thiện đời sống, mưu lấy sự hạnh phúc thanh bình.
Nhưng, một hôm thình lình xảy ra một thiên tai dữ dội. Khắp dưới gầm trời đâu đâu cũng bị đại hạn. Nắng như lửa thiêu, đốt cháy tất cả, khiến cho sinh linh dậm đất kêu trời. Trên đường, thây người, thây thú chết chồng chất đầy dẫy. Nguyên ở gò đất cuối biển Đông có hang Dương. Nơi đây 10 con quạ vàng vâng lệnh Thượng Đế thay nhau ban ánh sáng cho vạn vật. Trên hang có cây Phù tang cao vút tận trời. Chín con quạ ở cành dưới, một con quạ ở cành trên. Từ ngàn xưa chỉ có một con ra khỏi biển hóa thành mặt trời, ngày ngày tháng tháng chiếu ánh sáng xuống mặt đất làm cho mưa hòa, gió thuận, vạn vật sinh hóa. Nhưng bất ngờ, một hôm bốn biển chuyển động, đất lở núi rung, cây Phù tang quay cuồng, vì 10 con quạ vàng tranh nhau xuất hiện cùng một lượt.
Thế là nắng như lửa thiêu, đốt cháy cả vạn vật. Ban đầu, người ta còn ngâm mình dưới nước, núp trong hang núi... nhưng rồi, đầm nước, dòng suối đều hóa thành những vạc nước sôi. Đất bằng bỗng chốc lửa dậy làm cho dân chúng điêu đứng, đời người biến thành địa ngục. Đương lúc tiếng khóc, tiếng kêu gào kinh khủng của dân chúng vang khắp nơi, bỗng có một vị anh hùng xuất hiện. Vị anh hùng đó có tên là Hậu Nghệ, sinh ở biển Đông, nước Hữu-Cùng. Người võ nghệ phi thường, sức có thể bạt núi lấp sông, giỏi nghề kỵ xạ. Hậu Nghệ có hai người học trò tên Phùng Mông và Ngô Cương đều có tài xuất chúng.
Trông thấy 10 con quạ vàng hoành hành dữ tợn làm cho nhà cửa tiêu tan, đồng ruộng khô cháy, Hậu Nghệ vừa hoảng kinh vừa tức giận, đem lòng thương xót sinh linh, và nghĩ đến mối liên hệ với thân mạng mình, nên mang 10 mũi tên thần, giương cây cung nặng 10 tạ lên quyết bắn 10 con quạ vàng cho tiêu ra tro bụi. Nhưng ánh sáng rạng chói làm cho mắt chàng đổ hào quang, không thể nhìn lên được. Hậu Nghệ bực tức, đứng tựa góc biển chân trời không do dự bắn luôn mấy phát. Những nơi có tên của Nghệ bắn tới thì nóng cháy nguội dần, ánh sáng êm dịu. Lông và cánh đủ màu của lũ quạ đua nhau rớt xuống và một làn không khí mát mẻ bắt đầu.
Trông thấy chín con quạ chết, Hậu Nghệ lại muốn giương cung bắn nữa, nhưng Phùng Mông ngăn lại:
- Thưa thầy! Nếu thầy bắn chết cả thì vũ trụ sẽ trở nên đen tối mất.
Nghệ ”à” một tiếng, hạ cung xuống. Bấy giờ núi sông trở lại như xưa, cây cỏ tươi tốt. Đâu đâu cũng vang dậy tiếng hò reo hoan lạc. Dân chúng ca tụng công ơn vĩ đại của Hậu Nghệ, tôn thờ ông là một vị cứu tinh và trọng quý ông hơn cha mẹ. Sơn hào hải vị, họ đem dâng cho Hậu Nghệ dùng.
Hậu Nghệ lên làm Hoàng đế.
Mười năm sau. Dân chúng trước kia bị tai ách của 10 con quạ vàng thì nay lại mang phải tai ách do Hậu Nghệ gieo rắc. Ỷ mình có tài, tự kiêu là cứu dân, Hậu Nghệ bắt dân phải làm tôi mọi mới xứng đáng đền đáp công ơn ấy và chiếm đoạt hết thịt rừng, tài sản của dân. Nhờ có Linh Chi dược thảo do ông Tiên ban cho, Hậu Nghệ lại tự hào là mình sẽ sống mãi mãi sợ gì ai. Dân bấy giờ sống trong tình trạng cực kỳ thảm khốc. Từng đám dân nghèo đói, quần áo rách nát, thân trụi mình trần, mặt mũi hốc hác vàng hoe, phải chúi đầu vào đất kiếm rễ cây ăn. Có những xác người thắt cổ treo lơ lửng trên cành cây làm mồi cho đàn quạ đương đảo qua lượn lại. Bấy giờ núi rừng hoang vu xơ xác, cành khô lá úa, năm ba gốc cây còn lại, nhưng trơ trọi, cằn cỗi. Ngày trước, Hậu Nghệ được bá tánh hoan hô vang dậy. Ai ai cũng trìu mến vâng theo. Khi Hậu Nghệ đi ra, cả ngàn người chạy theo quỳ lạy chúc tụng. Ngày nay, dân oán ghét căm thù. Hậu Nghệ đi đến đâu, bá tánh bỏ chạy đến đó. Hậu Nghệ nhục nhã, tức giận ra lệnh cho học trò là Ngô Cương tàn sát hàng triệu sinh linh. Bị đói rách, bị giết chóc, dân đau khổ, nỗi uất hận căm hờn ngùn ngụt cao mấy tầng mây. Phùng Mông can gián không được, bỏ Hậu Nghệ theo đám dân nghèo võ trang đánh lại thầy.
Vợ của Hậu Nghệ là Hằng Nga. Nàng là con nhà nghèo ở một cánh đồng hoang phương Bắc. Nhưng nàng là con chim phượng hoàng, là đóa hoa khôi sắc đẹp tuyệt vời. Ngô Cương vâng lệnh thầy đi tìm người làm hoàng hậu. Đến phương Bắc, Ngô Cương gặp và bắt Hằng Nga về dâng cho Hậu Nghệ. Hằng Nga được sủng ái và Hậu Nghệ giao Linh Chi cho nàng cất giữ. Hằng Nga vì bị bắt, bỏ cha xa mẹ, quyết liệt đòi về. Hậu Nghệ sợ Hằng Nga trốn trong khi bỏ nàng đi săn bắn, nên truyền cho Ngô Cương canh gác, không cho nàng rời khỏi cung. Hằng Nga buồn tủi, ngày ngày chỉ làm bạn cùng con Ngọc Thỏ trong cung lạnh. Trước sự tàn bạo của chồng, Hằng Nga không khuyên ngăn được; và biết rằng nếu chồng sống mãi thì càng làm nhiều tội ác, dân đau khổ càng nhiều; nên nàng nuốt cỏ Linh chi, để Hậu Nghệ không còn dùng cỏ tiên mà sống mãi nữa. Nuốt xong, Hằng Nga mặt mày xây xẩm một lúc, rồi thấy mình trở nên nhẹ nhàng, có thể bay bổng trong không khí. Một đám mây ngũ sắc dưới chân Hằng Nga từ từ nâng nàng lên, Ngọc Thỏ cũng chồm nhảy theo. Hằng Nga đưa tay dắt Ngọc Thỏ rồi từ từ bay qua cửa sổ lên cung trăng. Hậu Nghệ đi săn thịt trở về, thấy mất Hằng Nga liền bóp cổ Ngô Cương cho đến chết, vì để nàng trốn mất.
Hậu Nghệ chạy lại cửa sổ trông lên mặt trăng. Ánh trăng sáng vằng vặc chiếu vào mặt và thấy hình bóng của vợ thấy thấp thoáng trong trăng. Bất ngờ, Hậu Nghệ thét bọn vệ sĩ mang cung tên lại. Chúng khệ nệ khiêng chiếc cung và ba mũi tên lớn trên tường xuống. Hậu Nghệ đứng thẳng người như một trụ đá to, râu tóc dựng ngược, đôi mắt sáng quắc, không khác cảnh ngày xưa bắn mặt trời. Hậu Nghệ lắp tên, căng dây cung rồi bắn lên. Hai phát tên bay ra khiến mặt trăng lung lay. Nhưng mũi tên thứ ba bật khỏi dây cung, mặt trăng vẫn sáng chói như trước, không hề hấn gì. Hậu Nghệ hạ cung xuống, mặt mày buồn phiền, đứng im lặng và đau khổ. Bỗng một cụ già hiện xuống. Hậu Nghệ giựt mình, nhìn ra là ông lão đã cho mình Linh Chi thảo cách mười năm về trước. Cụ già liệng 3 mũi tên xuống đất, điềm đạm nói:
-Già xin hỏi cố nhân. Ngày trước hạnh ngộ, già có nhắn nhủ cố nhân việc trị đời không khó. Phải thực hành nhân chính, quên mình để lo cho người. Mình phải lo lắng cho dân trước nỗi lo lắng của họ và chỉ vui sau khi người dân vui. Dân quý nhứt, nước thứ nhì, vua sau hết (*). Cố nhân sẵn sàng vâng nghe, nên già thể theo lời yêu cầu tha thiết của cố nhân là muốn sống mãi để hoàn thành sự nghiệp, vì đời sống con người thì hữu hạn mà sự nghiệp thì vô cùng, mới cho Linh chi thảo. Vậy mà khi cầm lấy quyền, cố nhân lại quên mất lời. Dân không sợ chết, sao lấy sự chết chóc trị thiên hạ. Bao nhiêu năm trời loạn lạc đau thương, giờ đây lòng người ly tán, sự nghiệp tan hoang, cố nhân còn chưa tỉnh hay sao. Kìa, nghĩa quân đã hò reo tứ phía, cố nhân đã nghe chưa?
(*): Quan niệm của Đức Khổng Tử về chính trị: (Dân vi quý, Xã-tắc thư chi, Quân vi khinh)Hậu Nghệ hai tay ôm đầu, giọng nói thiểu não:
- Nghệ ăn năn, xin cụ chỉ giáo.
- Việc đã qua rồi, ăn năn không kịp. Chỉ có cách cố nhân bỏ sắc phục Hoàng-đế, ăn năn hối lỗi thì mới có cơ cứu vãn.
Hậu Nghệ cả giận, quắc mắt, quát:
- Lão già khốn! Thừa lúc hiểm nguy của ta mà sỉ nhục ta sao?
Vừa nói vừa rút gươm chém ông lão.
Cụ già bình thản đưa tay hất gươm ra. Hậu Nghệ rùng mình lui lại ngồi xuống. Cụ già mỉm cười:
- Cố nhân đến nước cùng mà còn hiếu sát. Kìa, cố nhân hãy nhìn xem.
Giữa lúc ấy bên ngoài có tiếng chém giết lẫn tiếng hò reo vang dậy. Nghĩa quân bao vây tứ phía dưới sự chỉ huy của Phùng Mông. Bóng trăng khuất dần. Cụ già biến mất. Lửa cháy khắp nơi. Tiếng la vang:
- Tiến! Tiến!
Hậu Nghệ rút gươm xông tới, Phùng Mông đưa gươm ngăn. Cả hai đánh nhau. Nghĩa quân ào đến. Hậu Nghệ kiệt sức bỏ chạy. Đám dân đói rách cầm hèo gậy chận lại. Nhìn qua tứ phía, nơi nào cũng có nghĩa quân. Phùng Mông kêu lên:
- Hậu Nghệ! Hậu Nghệ! Thầy làm việc bất nghĩa, ngày nay tự xử lấy, đừng để bọn tôi ra tay.
Hậu Nghệ đứng dậy, dậm chân, cất tiếng cười đau đớn, rồi đưa gươm đâm mạnh vào cổ. Xác Hậu Nghệ ngã xuống giữa tiếng reo hò của nghĩa quân.Còn người chặt cây quế trên cung trăng đuợc ghi trong sách ”Dậu dương tạp trở”. Trên mặt trăng có cây quế cao 500 trượng, sắc vàng, mùi thơm bát ngát, dưới gốc cây có một người ngồi chặt mãi, nhưng chặt xong, dấu chặt lại liền như cũ. Người ấy tên là Ngô Cương quê ở Tây Hà, tu tiên có lỗi nên bị trời phạt chặt cây. Ngô Cương cầm búa chặt mãi cây quế nhưng cây quế không sứt mẻ mà vẫn càng cao càng lớn, càng tươi. Hắn bị đọa vì tính hiếu sát theo thầy. Cây quế bị chặt nhưng không hề hấn, dân bị tàn sát nhưng dân làm sao diệt hết được.
Theo sách ”Ngũ thông kinh nghĩa”, trong mặt trăng có con thỏ (Ngọc Thố). Hằng Nga ngồi xem Ngọc Thố tán thuốc. Thỉnh thoảng, nàng lại thở dài, sa nước mắt. Nàng còn luyến tiếc cảnh trần gian. Vì trần gian đã chịu bao tai nạn: lụt lội, hạn hán, nắng lửa mưa dầu, binh đao chém giết, máu chảy thành sông, xương người thành núi. Tuy vậy, ngày nay dân chúng đã cố gắng chống trả được phần nào tai ách rồi. Kìa từng đám người nô nức đương cày cấy, ca hát vui mừng. Xa xa làn khói lam chiều vẩn vơ quyện trên những mái nhà nhỏ ấm cúng. Hằng Nga tưởng nơi đây có lẽ là phương Bắc, quê hương yêu dấu của nàng. Ở đây, quanh năm vắng lạnh, chẳng có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Muôn vật không sinh, không hóa. Trăm hoa không nở không tàn. Chán chường cảnh đời lẻ loi, hiu quạnh, Hằng Nga muốn trở về trần thế. Nhưng vì đã ăn cỏ Linh Chi thảo, nàng không bao giờ chết. Nàng lại trẻ đẹp mãi, nhưng phải sống hoang liêu trên cung Quảng Hàn này.
Nhìn ra ngoài, nàng không thấy thế gian đâu nữa, tư bề lạnh lẽo âm u, Hằng Nga bất giác xót xa đau đớn, nước mắt chảy ròng.
Sau tấm bình phong bóng đuốc xa,
Sao mai lặn hết, vắng Ngân Hà.
Hằng Nga hối cắp Linh chi thảo,
Sống mãi nhìn trời dạ xót xa.Kết luận
Học giả Đào Duy Anh đã có nhận xét chính xác về truyện Kiều “Chúng ta sở dĩ yêu chuộng truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lý cho đời, mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kỳ diệu để rung động tâm hồn ta...” (Khảo Luận về Kim Vân Kiều)..
Đúng vậy, những rung động của tâm hồn chúng ta có thể được khơi dậy khi đọc truyện Kiều, bởi vì những cảm xúc như vậy chúng ta vẫn từng chứng kiến trong cuộc đời, đặc biệt cuộc đời tị nạn và thân phận của những người phụ nữ đã và đang rơi vào hoàn cảnh đáng thương trên đất khách quê người.
Truyện Kiều, vì thế, đã sống mãi trong lòng dân tộc và qua các thời đại. n
--------------------
Tài liệu tham khảo
Ngoài những tài liệu đã in, một số tài liệu mới:
my.opera.com/vudangthanh/blog/200��
vantuyen.net/index.php
www.vietcyber.net/forums/showthread.php
music.vietfun.com/trview.php
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
II- Giá trị văn chương truyện Kiều so với văn học Thế-giới
Tại sao Cơ quan Giáo-dục Khoa-học và Văn-hóa của Liên Hiệp Quốc "UNESCO’’ lại công nhận truyện Kiều là một trong các thi phẩm tuyệt tác của nhân loại và thi hào Nguyễn Du được công nhận là văn nhân thế giới?
Muốn hiểu rõ vấn đề chúng ta cần ném cái nhìn xa hơn, vượt biên giới quốc gia Việt Nam, để so sánh với các nền văn học khác của nhân loại, điển hình là hai nền văn học Đông phương và Tây phương, trong đó các thi phẩm có giá trị cao nhất đã mở đầu cho nền thi văn của các quốc gia trong vùng và trở thành tài sản văn hóa chung của nhân loại.
1- So với văn học Đông phương
-Văn học Trung-hoa
Khi nói đến văn học Trung-hoa về lãnh vực thi ca người ta không thể không nhắc tới thi hào Lý Bạch và thơ Đường-luật, một thể thơ có ảnh hưởng đến nhiều thi phẩm danh tiếng của các thi sĩ Việt Nam. Thơ Đường-luật đánh dấu thời "Hoàng-kim’’ của nền văn học Trung-hoa dưới triều đại Đường Huyền Tông và Lý Bạch là một biểu tượng sáng ngời. Lý Bạch, một thiên tài của những bài thơ Tuyệt Cú (4 câu 5 chữ) và thất ngôn bát cú (7 chữ 8 câu), ngắn gọn, nhưng cô đọng, hàm súc, đầy đủ, là những tuyệt tác bất hủ được lưu truyền trong nhân gian từ đời này qua đời khác.
Với tài sáng tác hơn hai chục ngàn (20.000) bài thơ, ông đã được người đời tặng cho danh hiệu là Thi Tiên (Trích Tiên Lý Bạch). Lý Dương Băng trong "Thảo đường tập tự" đã có câu nói về thiên tài Lý Bạch: "Hàng ngàn năm chỉ có một mình ông mà thôi" (Thiên tài độc bộ, duy công nhất nhân).
Lý Bạch (701-762) tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, người huyện Chương Minh (tỉnh Tứ Xuyên) đời Đường Huyền Tông, làm chức Cung phụng trong Hàn lâm viện.
Tuy có tài; nhưng cuộc đời của Lý Bạch bị trôi nổi, lên voi xuống chó. 20.000 bài thơ của ông phần lớn đã bị thất lạc, vì cuộc bạo loạn đốt phá kinh thành của An Lộc Sơn, vì hoàn cảnh thời gian v à sự thiếu bảo tồn; nên ngày nay người ta còn lưu giữ được khoảng 1.000 bài. Các tập nổi tiếng nhất là Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình điệu, Hành lộ nan... Các thi phẩm của Lý Bạch đã phổ biến rộng rãi trên văn đàn Trung Hoa trong nhiều thế kỷ, nhưng mãi đến năm 1862 người ta mới thấy một bản dịch ra tiếng Pháp đầu tiên xuất hiện tại Tây-phương. Sau đó, vào năm 1901, H.A. Giles đã phát hành một bản dịch tiếng Anh và năm 1915 Ezra Pound, nhà thơ nổi tiếng Mỹ, cũng cho ra đời một bản.
Tuy được tặng danh hiệu Thi Tiên; nhưng thì hào Lý Bạch phải kính phục và không làm thơ họa lại. Bài thơ đó là “Hoàng Hạc lâu" (Lầu Hạc Vàng) của Thôi Hiệu (? - 754).
Vào thế kỷ thứ VIII, Thôi Hiệu – thi sĩ nổi tiếng thời Đường (618-907) đã đến nơi này và viết bài thơ lưu danh thiên cổ “Hoàng Hạc Lâu". Thi hào Thôi Hiệu, ông sanh vào năm nào thì không ai biết, nhưng chỉ biết ông mất vào năm 754, (trước thi hào Lý Bạch 8 năm). Thôi Hiệu người huyện Biện Châu, nay là tỉnh Hà Nam, Huyện Khai Phong (Trung-quốc). Ông đỗ Tiến Sĩ vào năm Khai Ngyên thứ 11, và làm quan đến chức Thượng Thư Tư Huân Viên Ngoại Lang. Thuở nhỏ bản chất thông minh, bắt đầu làm thơ từ tuổi thiếu thời, văn thơ lỗi lạc, nên được người đời gọi ông là: "Niên Thiếu Vi Thư, Danh Thao Khinh Bạt" (Tuổi trẻ giỏi văn thơ, tiếng tăm thật lẫy lừng).
Trong quyển Đường Thi Tam Bách Thủ (ba trăm bài thơ “chọn lọc" thời thịnh Đường) nguyên bản Hán văn, do Tân Hoa Thư Cục Đài Loan ấn loát và phát hành thấy ghi lại: "Hoàng Hạc Lầu là một bài thơ tuyệt tác của đại thi hào Thôi Hiệu (có người gọi là Thôi Hạc). Bài thơ này, vì vào thời buổi đó, chưa có thơ Đường Luật, nên làm theo lối cổ phong và do chính thi hào sáng tác đã để lại trên vách tường của một căn gác hoang, đó là lầu Hoàng Hạc. Nguyên lầu này tọa lạc tại hướng Tây Bắc, thành Vũ Xương, ngày nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Hoa. Do đó người ta gọi là Hoàng Hạc Lầu."
Tương truyền rằng: Xưa kia có một vị tiên ông, tên là Phí Văn Vi, sau khi tu đắc đạo thành Tiên thường cỡi con hạc vàng, rồi bay đến căn lầu hoang vắng này để nghỉ ngơi. Cùng lúc ấy, Phí tiên ông cũng "cầm kỳ thi họa" cùng các vị tao nhân mặc khách thường lai vãng đến lầu này. Một hôm, Phí Văn Vi đột nhiên cỡi con hạc vàng bay đến một phương trời xa thẳm y như những lần trước, nhưng chuyến cỡi hạc ra đi lần này là lần cuối cùng. Phí tiên ông không bao giờ trở lại phàm trần nữa. Tục truyền rằng Phí Văn Vi đã cỡi hạc về cảnh tiên giới để tiếp tục đường tu hành. Vì vậy người ta gọi căn lầu hoang vắng kia là Hoàng Hạc Lâu.
Nhân một chuyến du ngoạn, thi hào Thôi Hiệu đi ngang qua căn lầu hoang vắng này đã ghé vào để nghỉ ngơi. Ông được nghe kể lại sự tích trên, rồi đưa mắt nhìn quang cảnh lầu hoang bụi bám, tơ nhện giăng đầy khắp nơi, nhưng người xưa thì nay đã khuất bóng. Chỉ còn trơ lại thực tại ngôi lầu hoang vắng, cũ kỹ, nằm trên một triền đồi hẻo lánh, trong cảnh âm u của núi rừng sâu thẳm. Nhưng đối với hồn thơ đa sầu, thì nó chính là tụ điểm của một bức tranh xuân sơn thủy lục, được thi hào Thôi Hiệu tô điểm vào một buổi chiều tà. Bức màn đêm đang từ từ buông xuống, như đè lên những sợi nắng hồng nhạt của buổi hoàng hôn cô tịch. Cảm xúc bởi tình yêu quê hương, quyến thuộc, đang len lén xâm nhập vào hồn thơ, khiến ông không thể không dùng bút chấm vẽ những vần thơ đẹp như phượng múa rồng bay. Tám câu thơ trên vách tường đã phác họa một bức tranh cảnh vật thiên nhiên tuyệt mỹ trước lầu Hoàng Hạc. Nó hoà nhịp với niềm tâm sự lâng lâng buồn của người lữ khách. Bút pháp tuyệt kỹ, viết thành những dòng thơ tuyệt hảo, ông đã làm người đọc thương cảm, làm xúc động nhiều con tim từ thuở ấy cho đến hôm nay. Và kể từ đó, bài thơ này được ghi chép lại và truyền tụng khắp trong dân gian.
Một thời gian sau, thi hào Lý Thái Bạch, nhân một hôm đi du ngoạn, cũng có ghé thăm viếng lầu Hoàng Hạc, và đọc qua bài thơ của thi hào Thôi Hiệu, bút tích vẫn còn y nguyên trên vách tường lầu. Khi đọc xong bài thơ, Lý Bạch không tiếc lời khen ngợi thiên tài thi hào Thôi Hiệu, nên liền thốt ra câu :
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc,
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu.
(nghĩa là “Trước mắt có cảnh nói không được, Thôi Hiệu đề thơ ở trên đầu").
Lý Bạch tỏ ý nhún nhường chăng hay tỏ lòng kính phục thiên tài thi phú của thi hào Thôi Hiệu, để rồi không dùng thần bút của mình phác họa bức tranh thơ tại lầu này, mà tìm đến một nơi khác cũng có một ngôi lầu, quang cảnh cũng tương tự như Hoàng Hạc lầu nơi đây, để làm một bài thơ khác. Khi Lý Bạch đi qua Lầu Hoàng Hạc thấy bài thơ của Thôi Hiệu đọc rồi không làm thơ vịnh lầu nữa. Hành động của ông không giống người đời ở chỗ hễ thấy ai đề thơ là đưa ra một bài thơ, là cố gắng tìm cách họa lại để chứng tỏ ta có tài của mình. Mặc dù những bài thơ họa lại không phản ảnh được đúng tâm tư tình cảm của tác giả; hoặc cảnh vật đã quá đủ, không còn gì phải thêm vào nữa.
Có tài liệu cho rằng Lý Bạch đã phải gác bút không làm thơ nữa sau khi đọc bài thơ của tuyệt hảo Thôi Hiệu!
Cho đến nay tại Việt Nam đã có nhiều văn nhân, thi sĩ đã dịch Hoàng Hạc lâu ra tiếng Việt như: Tản Đà, Ngô Tất Tố, Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Vũ Hoàng Chương v.v... Tản Đà là một trong những người dịch đầu tiên và tài năng của ông đã giúp cho bài thơ trở nên quen thuộc với người Việt Nam.
Hoàng Hạc lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhất mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Thôi Hiệu
Bản dịch thơ của thi sĩ Tản Đà
Lầu Hạc Vàng
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ vẫn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai…
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Người xưa cưỡi hạc đã cao bay
Lầu hạc còn suông với chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bến Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dầy
Hoàng hôn về đó quê đâu tá?
Khói sóng trên sông não dạ người.
Có sách ghi lại rằng, Lý Trích Tiên đã dựa trong ý thơ của bài Hoàng Hạc Lầu mà làm thành bài thơ Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài, (vì bài thơ, có những ý thơ tương tự lầu Hoàng Hạc)
Dưới đây là nguyên bản Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài của thi hào Lý Thái Bạch, do Đông Thiên Triết chuyển ngữ.
Nguyên tác bài Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài của thi hào Lý Thái Bạch:
Phụng hoàng đài thượng phụng hoàng du,
Phụng khứ, đài không, giang tự lưu.
Ngô cung hoa thảo mãi u kính,
Tấn đại y quan thành cổ khưu.
Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại,
Nhị thủy trung phân bạch vũ châu.
Tổng vị phù vân năng tỵ nhật,
Trường An bất kiến sử nhân sầu.
Chuyển ngữ theo thể Đường Luật của Đông Thiên Triết:
Phụng hoàng cất cánh đã bay đâu?
Phụng vắng lầu hoang, sông chảy sầu
Hoa cỏ rường Ngô vùi nẻo thẳm,
Mão y nếp Tấn lấp đường sâu.
Trời xanh ba núi in trong bóng,
Nước bạc hai ngòi rẽ giữa châu .
Mây phủ giăng tầng che bóng ác,
Trường An mờ khuất, dạ thêm rầu
Đọc bài thơ của Thôi Hiệu, không ai không khen cảnh đẹp thiên nhiên và nỗi buồn man mác nhớ quê hương, nhớ tìm về lối cũ. Nhưng theo thiển ý của chúng tôi thì nếu thi hào Lý Bạch mà đọc bài thơ Đường luật, thất ngôn bát cú "Qua Đèo Ngang"của Bà Huyện Thanh Quan, chắc chắn thi hào cũng phải thầm khen nữ thi sĩ ưu tú của thi đàn Việt Nam. Bài thơ tả cảnh thiên nhiên bao la, ôm cả vũ trụ, trái đất và tâm tình của người lữ thứ, không thua bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu.
Qua Đèo Ngang
Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ* mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
(*"Rợ": chữ này nhiều bản chép là "chợ", nhưng theo nhiều tài liệu thì đây phải là chữ "rợ" (người gốc thiểu số) thì mới đúng và chuẩn. Vì "chợ" không thể đối với "tiều" được)
Nếu kể về thơ không thôi thì Lý Bạch làm được: 20.000 bài thơ Đường-luật, thể thất ngôn bát cú (7 chữ 8 câu) và Tuyệt Cú (4 câu 5 chữ). Tính chung có khoảng 160.000 câu thơ. Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du gồm có 3.254 câu, thể Lục Bát (một câu 6 chữ và một câu 8 chữ). Tuy chỉ có 3.254 câu; nhưng toàn thể tập thơ liên tục kể về cuộc đời trôi nổi của nàng Kiều. Nó khác ở chỗ 20.000 bài thơ riêng rẽ từng bài và được viết trong nhiều trường hợp hứng khởi bất ngờ của Lý Bạch, vào những hoàn cảnh khác nhau, so với một truyện liên tục gồm 3.254 câu thơ Lục-bát vần điệu nhịp nhàng như một bản trường ca bất hủ của Nguyễn Du.
2- So với văn học Tây-phương
2/1- Trường Thi Anh Hùng Ca "Iliad và Odysseus"
Trong nhiều bài viết và sách bình luận về truyện Kiều, chúng tôi chưa thấy các tác giả so sánh truyện Kiều với Trường Thi Anh Hùng Ca "Iliad và Odysseus" của thi hào Homer, người Hy lạp.
Chắc quí độc giả cũng biết rằng: khi nói đến nền văn học hay nền văn minh Tây-phương, người ta không thể không nói đến nền văn học cổ Hy-lạp có ảnh hưởng tới triết học và văn chương của Âu Châu, mà các văn nhân, thi sĩ Tây-phương đều am tường. Về lãnh vực thơ thì lịch sử bắt đầu từ tác phẩm nổi tiếng nhất và mở đầu cho lịch sử văn học của Hy Lạp là Trường thi Anh hùng ca "Iliad, tiếp nối là Odysseus’’ của Homer. Toàn truyện thơ Iliad gồm 24 quyển, xuất hiện vào khoảng Thế-kỷ IV hoặc III trước Công-nguyên.
Đọc Trường thi Anh hùng ca của Homer, người ta không thể không nói tới "Con ngựa thành Troy (the Trojan Horse) hay "Chiến tranh thành Troy" (The Trojan War), một chiến tích lẫy lừng trong lịch sử cổ kim nói về chiến thuật quân sự nghi binh để phá thành luỹ kiên cố của đối phương. Odysseus vua xứ Ithaca, Achilles chủ tướng của đạo quân Myrmidon của Hy Lạp với 1.100 chiến thuyền và khoảng 50.000 tới 100.000 quân, đã bao vây và công phá thành Troy 9 năm, nhưng không thành công. Cuộc chiến tranh xẩy ra cũng chỉ vì mối tình ngang trái giữa hoàng tử tuấn tú Paris, con của vua Pram thành Troy, cướp người đẹp Helen, vợ của nhà triệu phú Menelaos xứ Sparta, em của vua Aggamemnon của xứ Mykenai.
Người ta cũng không quên cuộc phiêu lưu mạo hiểm dài mười năm của Odysseus với những lần gặp người độc nhỡn (Cyclops Polyphemus), các Mỹ nhân có cánh (Sirens) sống ở núi hải đảo, chuyên dùng tiếng hát ngọt ngào quyến rũ các thuỷ thủ, khiến họ lái thuyền đụng vào ghềnh đá vỡ tan và chết đuối. Phù thuỷ Circe đã cho các thuỷ thủ ăn uống rượu no say và biến họ thành những con heo. Penelope người vợ chung thuỷ muôn thuở của Odysseus nói riêng và biểu tượng trung thành trong tình yêu của dân Hy Lạp nói chung. Nàng bị bọn bộ hạ của Odysseus cướp quyền và bắt phải kết hôn với người trong bọn chúng. Nàng đã kiên nhẫn chờ chồng với mánh lới là khi nào đan xong khăn tẩm niệm cho cha chồng thì nàng sẽ quyết định. Ban ngày nàng đan khăn, nhưng đến đêm lại tháo ra. Khi Odysseus sống sót trở về đã diệt bọn gian tà mà nàng vẫn chưa đan xong cái khăn.
Theo trường thi Iliad bằng tiếng Hy Lạp thì một bài thơ (đoạn thơ) gồm 7 câu thơ, như hình đính kèm (Odysseus dài khoảng 12.110 câu thơ). Dựa vào các bản dịch sang tiếng Anh và Pháp thì Trường-thi Anh-hùng ca Iliad có khoảng 7.600 bài thơ (verses, có thể hiểu như một tiểu khúc hay điệp khúc trong một bản nhạc, có nơi ghi là hơn 15.600 câu thơ hay dòng thơ (lines of poetry (verses). Nhưng dịch qua thơ tiếng Pháp thì có thể dài hơn, tuỳ theo số dòng thơ của mỗi 7.600 đoạn hay bài thơ (verses). Iliad đã được dịch ra trên 200 bản dịch với nhiều tác giả khác nhau, bản lâu đời nhất vào khoảng năm 1598-1611 của George Chapman.
2/2- Thi hào Homer của Hy Lạp và H.C. Andersen của Đan Mạch
Cụ Nguyễn Du lấy cốt truyện Kim Vân Kiều của tác giả người Tầu là Thanh Tâm Tài Nhân để viết truyện Kiều bằng thơ Lục-bát.
Thi hào H.C. Andersen của Đan Mạch cũng đã mượn cốt truyện "Mỹ nhân có cánh" (the Sirenes) trong Trường thi Anh hùng ca "Odysseus" của thi hào Homer, người Hy Lạp, để viết thành truyện "Cô Bé Người Cá"(Den lille havfrue – The Little Mermaid).
Cả hai trường hợp, truyện Kiều của Nguyễn Du đã được mượn cốt truyện người Tầu; và H.C. Andersen đã mượn cốt truyện Odysseus và Mỹ nhân có cánh của Hy Lạp, rồi phóng tác thành tuyệt tác phẩm "Cô Bé Người Cá". Hai tác giả đã viết theo lối văn chương mang nặng tình cảm dân tộc; nên tác phẩm thi ca của Cụ Nguyễn Du và tác phẩm văn xuôi của H.C. Andersen được yêu thích hơn và hấp dẫn hơn hai nguyên tác. Điều này chứng tỏ mượn cốt truyện của nước ngoài để viết hoặc phóng tác thành các tuyệt tác phẩm theo tinh thần văn hóa dân tộc không còn là điều mới lạ hay có tính cách vay mượn.
Trong lịch sử văn học thế giới, người ta cũng gặp nhiều trường hợp tương tự.
Ví dụ:
- Ở Pháp có vở bi kịch “The Cid" (The Master) rất nổi tiếng, của Pierre Corneille sáng tác năm 1636, dựa vào truyện "El Cid" của Tây Ban Nha. Nội dung nói về cuộc tình ngang trái giữa Don Rodrigue và Chimène. Cái hay ở chỗ Pierre Corneille đã đem tâm hồn mình và người Pháp của thế kỷ XVII vào vở kịch và biến nó thành một kiệt tác văn học đặc trưng Pháp, chứ không còn là nguyên gốc của Tây Ban Nha nữa.
- Ở Ý có “Hài kịch Thần thánh" (Divine Comedy, nguyên thuỷ là Commedia) của thi hào và cha đẻ ngôn ngữ Ý Dante Alighieri (1265-1321). Đây là một trong các tác phẩm lừng danh của nền văn chương Ý và Thế-giới.
- Ở Anh quốc nhà soạn kịch nổi tiếng William Shakespeare đã viết truyện tình oan trái giữa Romeo và Juliet từ tập quán viết tiểu thuyết thời Trung-cổ, cũng dựa vào một truyện của Ý được Arthur Brooke dịch ra thơ "Truyện bi thương của Romeo và Juliet" (The Tragical History of Romeus and Juliet) vào năm 1562. Sau đó William Painter kể lại qua văn xuôi với tựa đề "Lâu đài Khoái-lạc" (Palace of Pleasure) vào năm 1582. Shakespeare đã mượn cả hai văn bản, rồi bi thương hóa câu truyện thành bi kịch bản cho ra đời vào khoảng năm 1591-1595. Romeo và Juliet đã trở thành truyện tình ngang trái lừng danh muôn thuở và được coi là kiệt tác văn học, văn nghệ, xuất diện nhiều lần trên sách báo, phim ảnh và kịch trường thế giới.
Như vậy, về tính nhân loại trong văn học hay văn hóa ngày nay thì người ta sẽ không còn thắc mắc về cái nguồn gốc vay mượn của “Truyện Kiều hay Đoạn Trường Tân Thanh" hoặc "Cô Bé Người Cá" nữa. Truyện Kiều tổng hợp được hai yếu tố: văn học Việt Nam và tiếp nhận văn học Trung Quốc để biến đổi thành văn học Việt Nam, cũng chỉ là hoạt động văn học hỗn hợp có tính cách vượt qua biên giới quốc gia.
Tạm lấy 15.600 câu thơ trong tuyệt tác Iliad và 12.100 câu thơ Odysseus làm căn bản, chúng ta thấy 3.254 câu thơ Lục Bát của Cụ Nguyễn Du tuy ít hơn; nhưng nếu gần 100 điển tích văn hóa, văn học và lịch sử của người Tầu được dịch ra thơ, thì có thể truyện Kiều không thua về số lượng câu thơ.
Về phương diện thi văn thì truyện Kiều dĩ nhiên là tác phẩm thơ dài nhất và nội dung phong phú nhất của nền văn học Việt Nam, trong đó toàn bộ cái đẹp của điển tích trong lịch sử văn học và lịch sử Trung-quốc đã được gói ghém trong toàn truyện.
Vì thế, có thể nói truyện Kiều là một tác phẩm chứa đựng nội dung phong phú của hai nền văn học: Việt Nam qua thể thơ Lục-bát và Trung-quốc qua gần trăm điển tích.
Cái vĩ đại và nổi tiếng của truyện Kiều so với văn học thế giới là ở chỗ đó.
--------------------------------
Tài liệu tham khảo:
- vi.wikipedia.org/wiki/Odyssey
- www.livius.org/ho-hz/homer/homer_iliad.html
- www.dthoi.com/forums/showthread.php
- www.giacngo.vn/dulich/2010/01/29/5B5200/
- www.vantholacviet.org/.../Dong-Thien-Triet--Hoang-Hac-Lau.html<cite></cite>
<cite>- vi.wikipedia.org/wiki/Hoàng_Hạc_Lâu_(thơ_Thôi_Hiệu)</cite>
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
Trong nền văn học Việt Nam có thể nói chưa có tác phẩm văn chương nào làm cho giới văn nhân và trí thức đặc biệt quan tâm và tranh luận nhiều nhất bằng truyện Kiều của thi sĩ Nguyễn Du. Hơn hai trăm năm nay, từ vua chúa đến các nhà văn, nhà thơ, nhà nho, nhà giáo… đã bàn về thơ, luận về con người tài hoa Thúy Kiều hoặc bình luận về tác giả Nguyễn Du. Dù dưới cái nhìn của thời Quân-chủ chuyên chế hay cái nhìn phóng khoáng của chủ nghĩa tự do dân chủ tại miền Nam hoặc cái nhìn độc đoán của Cộng-sản độc tài đảng trị tại miền Bắc, mỗi bài bình luận mang một sắc thái riêng; nhưng không làm mất vẻ đẹp văn chương của tuyệt tác truyện Kiều.
Cùng thời kỳ với Cụ Nguyễn Du có tác giả Mộng Liên Đường và Phạm Lập Trí đã phân tích và khen ngợi tài văn chương truyện Kiều. Kế đến có vua Minh Mạng, vua Tự Đức, Hà Tôn Quyền, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh; rồi đến các học giả thời cổ động văn chương chữ quốc ngữ và thời cận đại như Trương Vĩnh Ký, Đào Nguyên Phổ, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Trần Trọng Kim, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Kỷ, Dương Bá Trạc, Tản Đà, Nguyễn Văn Tố, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Tường Tam, Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Đinh Gia Trinh, Nguyễn Mạnh Tường v.v...
Khen với tinh thần khách quan hay phê bình với tinh thần chủ quan về một vài khía cạnh nào đó, các tác giả đã vô tình hay hữu ý cùng nhau đưa truyện Kiều lên văn đàn của đất nước, để rồi tiếng tăm truyện Kiều, với thời gian, vượt ra ngoài biên giới tổ quốc và được biết tiếng trên văn đàn thế giới. Sự kiện này chứng tỏ truyện Kiều không phải chỉ là vấn đề văn chương thuần túy trong lãnh vực văn học mà đã biến thành đề tài văn hoá của cả dân tộc Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung.
Vì tính cách quan trọng về lãnh vực văn chương truyện Kiều, chúng tôi sẽ viết đề tài này trong hai bài.
Văn chương truyện Kiều bài 1
Giá trị của một tác phẩm không những chỉ được người ta đánh giá cao tại một quốc gia, qua việc xuất bản và phổ biến rộng rãi trong học đường và quần chúng, mà còn dựa vào sự kiện dịch thuật nhiều hay ít ra các ngôn ngữ của các quốc gia khác trên Thế-giới. Giá trị càng được nâng cao hơn khi Tổ-chức Giáo-dục Khoa-học và Văn-hóa của Liên Hiệp Quốc "UNESCO" (The United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization)công nhận và xếp vào kho tàng văn học của nhân loại. Do đó, chúng ta cần tìm hiểu các vấn đề sau đây:
I)- Truyện Kiều được dịch qua các ngôn ngữ:
1- Tiếng Anh:
-Kim Vân Kiều của Lê Xuân Thủy, Sài Gòn, 1963.
- The Tale of Kieu của Huỳnh Sanh Thông, New York, 1973. Năm 1973, ông là người dịch đại tác phẩm thi ca, Truyện Kiều của đại văn hào Nguyễn Du vào đầu thế kỷ 19, sang tiếng Anh. Mười năm sau khi giới thiệu Truyện Kiều với độc giả ngoại quốc, để mở rộng giảng dạy cho giới sinh viên văn chương và làm tài liệu cho giới học giả nghiên cứu, ông bổ túc thêm chú giải và cùng Yale University Press tái xuất bản tác phẩm này dưới dạng song ngữ. Vì có công tiên phong trong việc phổ biến Truyện Kiều ra thế giới, Gs Huỳnh Sanh Thông được trao học bổng MacArthur Fellowship danh tiếng vào năm 1987. Người ta còn nhớ, trước đó, vào năm 1981, Gs Thông là một người Việt Nam từng được giải thưởng the AAS Benda Prize.
- Kiều của Michael Councell, Luân Đôn.
- The Kim Vân Kieu of Nguyen Du (1765-1820) được ấn hành năm 2004 bởi Pandanus Books, trực thuộc Trường Nghiên cứu châu Á Thái Bình Dương của Đại học Quốc gia Úc.
2- Tiếng Ba Lan: “Kim Wen Kieov”, Vacsava, (?).
3- Tiếng Đại Hàn: “Truyện Kiều” của Gs Ahn Kyong Hwan, tốt nghiệp khoa tiếng Việt trường Đại-học Ngoại ngữ Hàn Quốc năm 1976. Ông là người Hàn đầu tiên làm Luận án thạc sỹ ngôn ngữ tại Việt Nam (năm 1996) và viết bằng tiếng Việt. Truyện Kiều của ông được ra mắt ngày 20.12.2004, nhân dịp kỷ niệm 12 năm tình hữu nghị Việt-Hàn.
4- Tiếng Đức: “Das Mädchen Kiêu”, của ông Franz Faber và bà Irene Faber in năm 1964, được tái bản ở Đức năm 1976.
5- Tiếng Hung Gia Lợi (Hungary), của Trương Đăng Dung, người Việt Nam đầu tiên dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du sang tiếng Hung, và được nhà xuất bản Europa xuất bản năm 1984.
6- Tiếng Mông Cổ: Truyện Kiều bằng tiếng Mông Cổ của Dịch giả Dashtsevel.
7- Tiếng Nhật: Kim Vân Kiều của tác giả Aoi Komatsu, Tokyo. Nhà thơ Nguyễn Giang, con trai của Nguyễn Văn Vĩnh đưa cho nhà văn Komatsu Kiyoshi (Kô-ma-tsu Ki-yô-shi) tập truyện Kiều bằng tiếng Pháp. Từ tập sách này, Komatsu đã dịch ra tiếng Nhật, được nhà xuất bản Đông Bảo xuất bản và phát hành ở Nhật Bản. Đó là bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Nhật lần đầu tiên. Komatsu viết: “Muốn biết rõ tâm hồn của người An Nam thì phải đọc cuốn sách này”
- Kim Vân Kiều Tân Truyện của Takeuchi Yonosuke, do nhà xuất bản Kodansha, Tokyo, xuất bản năm 1975. Ông là dịch giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng của văn học Việt Nam như: Chinh phụ ngâm, Lục Vân Tiên, Đoạn tuyệt, Hồn bướm mơ tiên…Tất cả những sách này đều được Đại học Thư Lâm (Daigaku shorin) ấn hành.
8- Tiếng Pháp: 10 bản.
Trên thế giới, hiếm có trường hợp một tác phẩm được nhiều người dịch ra cùng một thứ tiếng như Truyện Kiều với 10 bản dịch tiếng Pháp khác nhau, gồm các thể loại văn xuôi, thơ, thơ tự do hoặc thơ 12 chữ:
- Bản của Abel des Michels (2 tập-Paris 1884-1885, Ernest Leroux).
- Bản Thu Giang (Paris 1915, Challamel): Bản này hiện Phạm Đan Quế chưa tìm được, chỉ căn cứ theo phần "Danh mục" trong cuốn Tập Văn họa kỷ niệm Nguyễn Du (Hội Quảng Trị - Huế, 1942) do Đào Duy Anh chủ trương.
- Bản René Crayssac(Kim Vân Kiều - bài thơ An Nam nổi tiếng của Nguyễn Du do René Crayssac dịch sang thơ Pháp - NXB Lê Văn Tân 1926) dịch hơn 100 trang thơ Kiều thành 384 trang thơ tiếng Pháp 12 chữ.
- Bản Kim, Van, Kièu của L. Masse dịch từ tiếng An Nam, NXB Bossard, 140 Paris, 1926. Đây chỉ là bản lược dịch thành văn xuôi (không theo sát nguyên văn) với 140 trang sách.
- Bản M.R: Kim Vân Kiều, bản dịch sang tiếng Pháp mới, 2 NXB Hà Nội - NXB Alexandre de Rhodes 1944: Không rõ lần xuất bản thứ nhất vào năm nào, bìa sách in lần hai không ghi tên người dịch mà chỉ ghi cuối phần lời nói đầu: M.R. Trong “Danh mục“ sách của Tập Văn họa kỷ niệm Nguyễn Du (1942) không đề cập đến bản dịch này.
- Bản Kim Vân Kiều củaNguyễn Văn Vĩnh dịch sang tiếng Pháp, NXB Alexandre de Rhodes ấn hành các năm 1942 (tập I), 1943 (tập II): Đây là bản dịch được đầu tư công sức và thời gian nhiều nhất (gần 30 năm, từ 1908 đến 1936 - với 3 lần dịch). Bảy năm sau khi Nguyễn Văn Vĩnh mất, bản dịch cuối cùng của ông mới được xuất bản, được đánh giá là bản dịch văn xuôi tỉ mỉ và tinh tế nhất. Bởi giá trị như thế nên bản dịch này còn được tái bản 4 lần nữa (Vĩnh Bảo 1951, Khai Trí 1970, NXB Văn học 1994 và NXB Văn nghệ TP. HCM 2002).
- Bản Kiều Nguyễn Du của Nguyễn Khắc Viện, NXB Văn học 1970, NXB Ngoại văn Hà Nội tái bản 1974... Từ năm 1979 sách được in lại nhiều lần bằng song ngữ Việt-Pháp (thể thơ tự do).
- Bản Kim Vân Kiều của Xuân Phúc, Xuân Việt dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp gồm 192 trang do Gallimart xuất bản trong tủ sách Connaissances de l’Orient, Paris 1961. Đây là bản dịch theo thể văn xuôi.
- Bản Histoire de Kiều của Lê Cao Phan: Truyện Kiều, dịch từ tiếng Việt sang thể thơ 12 chữ với phần chú và bình của Lê Cao Phan. NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1994. Ưu điểm lớn của bản dịch này là dịch giả đã bỏ ra nhiều công sức để dịch mỗi câu thơ tiếng Việt ra một câu thơ tiếng Pháp (đồng thời ông còn thực hiện một bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh).
- Bản Lưu Hòa: (thơ tự do) - NXB Hà Nội 1999. Bản này dùng văn bản Truyện Kiều và chú thích của bản Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim (NXB Tân Việt).
9- Tiếng Tầu: Kim Vân Kiều của Hoàng Dật Cầu, Bắc Kinh, do NXB Văn Học Nhân Dân xuất bản năm 1959 tại Bắc Kinh.
-Truyện Kiều của La Trường Sơn. Quê ở Quảng Đông, Trung Quốc, nhưng La Trường Sơn lại sinh năm 1938 tại Huế. Năm 1954, vượt tuyến ra Bắc vào đúng ngày Quốc khánh Trung Quốc 1-10-1955 về đến Quế Lâm. Không kể Mơ và Tỉnh, tập thơ gồm 67 bài viết bằng tiếng Việt hầu hết đều viết theo thể lục bát, trên các tạp chí Toàn Cảnh Đông Nam Á, Nghệ Thuật Dân Tộc, Học Báo Học Viện Giáo Dục Quảng Tây..., La Trường Sơn đã dịch hàng chục truyện ngụ ngôn, cổ tích VN, hàng trăm câu ca dao tục ngữ và rất nhiều công trình của các nhà văn bản học, phong tục học, folklore học của VN như Trần Văn Giáp, Phan Kế Bính, Ngô Đức Thịnh, Toan Ánh, Lý Khắc Cung. Ông cũng trực tiếp viết hàng chục tiểu luận giới thiệu với bạn đọc Trung Quốc gần như mọi mặt về đời sống văn hóa phong tục VN. La Trường Sơn cũng yêu mến không kém nền văn học cổ điển VN. Ông đã dịch toàn bộ thơ Bà Huyện Thanh Quan. Khâm phục thơ ca và cả cá tính của “bà chúa thơ Nôm", ông cũng đã viết hai tiểu luận về Hồ Xuân Hương, đã dịch toàn bộ thơ của bà kèm theo những chú thích tỉ mỉ và lời bình giải cho mỗi bài. Ngoài việc phát hành ở VN vào dịp Quốc khánh Trung Quốc (1-10), Truyện Kiều bản tiếng Hán đã được phát hành trong hội chợ Asian tại Nam Ninh (Trung Quốc) vào khoảng cuối tháng mười 2006.
10- Tiếng Tiệp Khắc: "Kiều" của Gustav Franck, Praha, 1957
11- Tiếng Thụy Điển:"Kim och Kieu", Magnus Hedlund, Claes Hylinger, Lars Lindvall, Stockolm, 1969.
II)- Kỷ Lục Về Truyện Kiều
Từ truyện Kiều, người ta đã chế biến ra bói Kiều, lẩy Kiều, bình Kiều, vịnh Kiều, đố Kiều, viết tiếp Truyện Kiều, Truyện Kiều đọc ngược, giai thoại Truyện Kiều... và cả Những kỷ lục của Truyện Kiều do Phạm Đan Quế nêu ra.
1- Kỷ lục Việt Nam
- Truyện Kiều là một tác phẩm văn học đã đưa nhà thơ Nguyễn Du lên hàng danh nhân văn hóa thế giới (do Unesco công nhận).
- Là quyển sách duy nhất không viết ra để bói nhưng người dân vẫn thường xuyên dùng để bói.
- Quyển sách có hiện tượng vịnh Kiều với hàng ngàn bài thơ vịnh Kiều đã từng được đăng báo hoặc in sách. Từ các vị vua say mê Truyện Kiều như Minh Mạng, Tự Đức đến các nhà Nho như Phạm Quý Thích, Hà Tôn Quyền, Nguyễn Công Trứ, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, Tản Đà...
- Bộ phim đầu tiên của Việt Nam ra đời năm 1924 tại Hà Nội với cốt truyện và tựa đề Kim Vân Kiều (phim câm).
- Thi phẩm có hàng trăm cuốn sách viết về nó, nhiều nhất tại Việt Nam.
- Thi phẩm tạo ra nhiều giai thoại nhất Việt Nam vượt qua con số hàng trăm. Chỉ trong cuốn Kho tàng giai thoại Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh (NXB Văn Hóa 1994), đã có tới 53 giai thoại về Truyện Kiều và trong cuốn Đố vui tìm hiểu Truyện Kiều của Nguyễn Thiện Văn (NXB Thanh Niên 2000) đã có 101 câu đố (và đáp án).
- Quyển Kiều nặng nhất Việt Nam (tính đến thời điểm hiện nay) có lẽ là Truyện Kiều độc bản do nhà thư pháp Nguyệt Đình viết chữ quốc ngữ trên 300 trang giấy cossin 120 khổ 1m x 1,6m. Sách nặng 50 kg. Cuốn sách này hiện đặt tại Khu di tích Nguyễn Du (xã Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh).
2- Kỷ lục thế giới
- Tác phẩm có nhiều bản dịch (10 bản) ra cùng một ngoại ngữ (tiếng Pháp) với nhiều thể loại khác nhau.
- Tác phẩm có 7 cuốn "hậu"
- Đào Hoa Mộng Ký của tác giả Mộng Liên Đình, với khoảng 3.000 câu thơ lục bát và Đào Hoa Mộng Ký diễn ca chưa rõ bản gốc, ông Phạm văn Phương dịch ra quốc ngữ (Nhà Mạc Đình Tư xuất bản năm 1917) gồm 1.910 câu thơ lục bát. Đây là 2 cuốn hậu Truyện Kiều được viết vào thế kỷ thứ 19, tuy cùng một câu chuyện về giấc mộng hoa đào nhưng nội dung lại khác.
- Kiều Tân thời (Hài văn) gồm 304 câu lục bát của Bạch Diện (nhà in Trung Bắc, Hà Nội 1935) mang tính châm biếm hài hước, đả phá các thói xấu của xã hội ở thập kỷ ba mươi của thế kỷ trước.
- Kiều Bình-dân Học-vụ (2.050 câu lục bát, tác giả Nguyễn Văn Trinh, sở giáo dục Hà Nội 1985) nhằm phục vụ cho phong trào xóa nạn mù chữ.
- Đoạn Trường Vô Thanh gồm 3.296 câu lục bát (Truyện Kiều dài 3.254 câu) của Phạm Thiên Thư là cuốn hậu Truyện Kiều đúng nghĩa và thành công hơn cả, tác phẩm này đã được trao giải nhất văn chương tại miền Nam năm 1973.
- Đoạn Trường Nhất Thanh với 1.028 câu lục bát của Trần Thanh Vân (NXB Kiên Giang): Từ Hải xây dựng triều đình riêng, Kiều là hoàng hậu. Kim Trọng thi đỗ Trạng võ, được triều đình nhà Minh cử đi đánh dẹp Từ Hải...
- Truyện Kiều đọc ngược gồm toàn bộ 3.254 câu Kiều xếp dần ngược lại do Phạm Đan Quế thực hiện (NXB Thanh Niên 2002).
- Cuốn sách duy nhất trên thế giới có thể đọc ngược từ cuối đến đầu đề truyện về nàng Kiều diễn ra theo chiều thời gian ngược lại, như đang xem một cuốn phim tua ngược chiều (đúng với nội dung trong tác phẩm của Nguyễn Du).
-Tác phẩm tạo ra quanh nó một loạt nhiều loại hình văn hóa nhất: bình Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều, tập Kiều, đố Kiều, câu đối Kiều, hát nói tập Kiều, phú-văn tế Kiều, án Kim Vân Kiều, những cuốn hậu Truyện Kiều, giai thoại về Truyện Kiều… Kiều trên điện ảnh, sân khấu, trong âm nhạc, hội họa.
III)- Tại sao Truyện Kiều được coi là tuyệt tác văn chương thi ca của Việt Nam?
Trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi sẽ nhận định, so sánh giá trị văn chương của Truyện Kiều trong nền văn học Việt Nam và Thế-giới.
I- Giá trị văn chương của truyện Kiều trong nền văn học Việt Nam
Giá trị văn chương của truyện Kiều trong nền văn học Việt Nam được nhiều học giả, thi sĩ, sử gia nhận định. Trong bài này chúng tôi chỉ đưa ra một vài nhận định như sau:
- Sử gia Trần Trọng Kim: "Truyện Thúy Kiều" là một tập văn chương rất hay, diễn được đủ cả nhân tình thế cố, tả được cả mọi cảnh trong đời, mà chỗ nào văn chương cũng tao nhã, lời lẽ cũng lý thú. Nói theo tiếng đời nay thì "Truyện Thúy Kiều" thật là một tập văn chương đại trước tác của nước ta vậy’’.
- Học-giả Phạm Quỳnh: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; Tiếng ta còn, nước ta còn..." - “Đối với những kẻ nào chê rằng người Việt Nam chúng ta không có văn chương, các bạn hãy đọc cho họ nghe những câu thơ của Nguyễn Du mà tất cả các bạn hẳn đã thuộc lòng, hoặc những câu thơ của Nguyễn Công Trứ, hoặc những bài thơ của Hồ Xuân Hương, rồi các bạn thử hỏi họ xem đã có mấy nền văn chương trên thế giới có được những câu thơ đậm đà tao nhã như thế, dĩnh ngộ như thế; biểu diễn bằng một hình thức hoàn toàn đến thế những tình cảm khác màu sắc đến thế và sâu sắc đến thế không?" (Bài: “Etudes classiques sino annamitos’’ - Sách Nouveaux essais franco-annamites).
- Giáo-sư Dương Quảng Hàm: “Trên từ các bậc văn nhân thi sĩ, dưới đến các kẻ thường dân phụ nhụ, ai cũng thích đọc, thích ngâm và thuộc được ít nhiều...”
- Ca dao
Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống chè Mạn Hảo, xem Nôm Thuý Kiều.
- Georges Boudarel: “Ít nhà thơ trên thế giới có khả năng đạt được tiếng vang sâu đậm trong dân chúng của mình như Nguyễn Du ở Việt Nam. Truyện Kiều của ông là cuốn sách kinh điển của văn chương Việt Nam nhưng là một thứ kinh điển mọi người đều biết, không có ai là ngoại lệ.”
1/1-Giá trị dựa trên thơ lục bát
Truyện Kiều nổi tiếng, theo tác giả Georges Boudarel, là “...cuốn sách kinh điển của văn chương Việt Nam nhưng là một thứ kinh điển mọi người đều biết, không có ai là ngoại lệ’’.
Kinh điển văn chương của dân tộc Việt Nam là gì, nếu không phải các câu ca-dao, đồng dao, tục ngữ, phong dao được làm theo thể thơ Lục Bát (1 câu 6 chữ và 1 câu 8 chữ) rất phổ biến trong dân gian. Thực tế cho thấy Cụ Nguyễn Du không phải là tác giả đầu tiên viết truyện bằng thơ Lục Bát. Trước truyện Kiều đã có một số thi phẩm được viết bằng thơ Lục Bát như: Trinh Thử của Hồ Huyền Quy, Trê Cóc của tác giả vô danh và Phan Trần v.v...
a)-Trinh thử nghĩa là con chuột có lòng trinh tiết. Đây là một câu truyện ngụ ngôn. Tác giả mượn truyện của loài chuột để tán dương lòng trinh tiết và chỉ trích lòng dâm tà của người đời. Cũng có ý kiến cho rằng Hồ Huyền Quy mượn truyện con chuột để châm biếm Hồ Quý Ly (1336-1407) và hoàn cảnh chính trị đương thời. Hồ Quý Ly còn có tên là Lê Quý Ly, người đã cướp quyền lực của nhà Trần và khởi đầu nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam. Trong thời gian cầm quyền, ông đã thực hiện nhiều cải cách quan trọng, nhưng bị thất bại trong việc chống lại cuộc xâm lăng của nhà Minh.
Về sự ra đời của truyện kiều có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820). Có thuyết nói Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể vào thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Như vậy so với truyện Trinh Thử, truyện Kiều xuất hiện sau khoảng 400 năm, hay nói cách khác thơ Lục Bát trong truyện Trinh Thử đã xuất hiện trước truyện Kiều 400 năm.
Chúng tôi xin đưa ra là một đoạn trích dẫn thơ Lục-bát trong truyện Trinh Thử:
Trinh thử/I
Vừa năm Long Khánh đời Trần,
Muôn phương triều cống mười phân thái bình.
Ngụ miền Lộc đổng cảnh thanh,
Là Hồ sinh vốn thiện danh đang thì.
Nhiều bề cách vật trí tri,
Tiếng muông chim lại hay suy nên lời.
Kinh thành nhân thủa ra chơi,
Lý Lê thủ tướng gần nơi ngụ nhà.
b)-Trê Cóclà một truyện Nôm khuyết danh của Việt Nam, chủ ý bày tỏ cái thói "tranh hơi tức khí" gây nên những cuộc kiện tụng và chỉ trích cái tệ nhũng lạm của bọn sai nha cùng cái hại "xui nguyên giục bị" của bọn thầy cò (theo Gs. Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển).
("Xui nguyên giục bị" là xúi người này kiện, khiến người kia phải lo chạy kháng kiện, mình đứng giữa làm cò mồi hưởng lợi, ám chỉ kẻ xấu)
1-Truyện đời có cổ có kim,
Ngẫm trong vật lý mà xem cũng kỳ.
Những tuồng loài vật biết gì,
Cũng còn sự lý tranh thi khéo là.
c)- Phan Trần
Truyện Phan Trần xuất hiện vào khoảng đầu Thế-kỷ 17, như vậy thợ Lục Bát trong truyện Phan Trần cũng xuất hiện trước thơ Lục Bát trong truyện Kiều.
Chúng tôi đưa ra vài câu dẫn chứng:
Mối liên lạc của họ Phan và họ Trần
Trên am thong thả sách, cầm,
Nhàn nương án ngọc, buồn ngâm quyển vàng.
Thấy trong triều Tống Tĩnh-khang,
Một chàng Hòa-quận, một chàng Đàm-chu,
Bảng vàng, bia đá nghìn thu,
Phan, Trần hai họ,cửa nho dõi truyền.
***Bài kỳ tới: II. Giá trị văn chương
truyện Kiều so với văn học Thế-giới.
-------------------------
Tài liệu tham khảo
- thethaovanhoa.vn/173N20100523090948598T173/canada-ngam-tho-ly-bach-bang-10-thu-tieng!.htm
- vietnamnet.vn/vanhoa/vandekhac/2004/12/358218/
answers.yahoo.com/question/index
- news.yahoo.com/s/afp/20060804/od_afp/francepoemoffbeat
- thethaovanhoa.vn/173N2010010610052404T133/hoi-nghi-quoc-te-gioi-thieu-van-hoc-vn-dich-ai-ai-dich.htm
- www.bbc.co.uk/vietnamese/culturesport/story/2006/03/060315_truyenkieu_bandich.shtml
- thongtinhanquoc.com/cuoc-song/van-hoa/140-truyen-kieu-duoc-dich-sang-tieng-han-quoc/
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
Số phận của con người đã được nói nhiều trong các lãnh vực tôn giáo, văn hóa và văn chương. Có rất nhiều bài thơ diễn tả tâm tình của những người than thân trách phận làm mủi lòng người. Có những bản nhạc diễn tả thân phận của của những người sinh ra làm kiếp con nhà nghèo đã làm rơi nước mắt của nhiều khán thính giả. Có nhiều tác phẩm thời danh nói về những người đẹp mang kiếp "Hồng nhan bạc mệnh" đã gây ấn tượng sâu xa trong tâm hồn độc giả. Thân phận của phụ nữ bị rơi vào hoàn cảnh "ba chìm bẩy nổi" được đề cập tới, qua thực tế cuộc sống cũng như trong thi ca và tiểu thuyết, không thiếu trên văn đàn thế giới. Truyện Kiều là một.
Như vậy, phải chăng số phận của mỗi người hay định mệnh của con người do Trời Phật định đoạt?
Như vậy, phải chăng con người không thể nào cải hoán được mệnh mình?
Tài sắc của Thuý Kiều dẫn tới nghịch cảnh, như một định mệnh, đã được thi sĩ Nguyễn Du nêu ngay từ phần mở đầu câu truyện:
Phần mở đầu: (từ câu 1-6)
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Trong suốt 15 năm lưu lạc gian khổ, Kiều đã không làm sao thoát khỏi nghiệp chướng và trả lời cho câu hỏi tại sao thân phận hay số mệnh của nàng lại gian truân như vậy, chúng ta thấy thi sĩ Nguyễn Du đã viết trong phần kết luận:
Phần kết luận: (từ câu 3241-3254):
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh.
I- Vấn đề Định Mệnh có hay không?
Để hiểu định-mệnh hay số phận của con người có hay không, chúng ta cần tìm hiểu quan niệm của dân Việt và của một số tôn giáo trong thời kỳ truyện Kiều ra đời.
1-Định Mệnh theo quan niệm Việt Nam
Định-mệnh hay số phận theo quan niệm của người dân Việt được diễn tả qua sự tin tưởng vào một đấng siêu nhân là "Trời" hay "Ông Trời". Khi người ta không lo ngại về việc đẻ nhiều con lấy gì nuôi chúng thì dân Việt có câu ca dao: "Trời sinh, trời dưỡng - Trời sinh voi, trời sinh cỏ". Do đó, số phận hay định-mệnh của các người con được cha mẹ phó thác cho Trời.
Khi người ta lên án một kẻ bất chính thì câu: "Trời nào có dong kẻ gian, có oan người ngay" được phát ra để cảnh báo kẻ gian và chia sẻ với người ngay lành.
Khi khuyến khích nhiệt tình làm việc và sự tin tưởng vào khả năng của của mỗi người thì câu:
"Trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu, có chí thì nên" được trao đổi với nhau để chứng minh có sự quan tâm của Trời. Sự thành công của con người là ở chỗ có chí và hăng say làm việc.
Khi có ý trách Trời đã bất công trong một lãnh vực nào đó thì dân ta không ngần ngại than vãn: "Trời sao trời ở chẳng công, người ba bốn vợ, người không vợ nào".
Khi muốn cầu lợi cho một vấn đề chính trị hay kinh tế, người ta tha thiết: "Lậy trời cho cả gió nồm, cho thuyền chúa Nguyễn thẳng buồm chẩy ra"; hoặc "Lậy trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm đun bếp".
Như vậy dân Việt coi Trời như một đấng siêu đẳng có thể quyết định sự biến đổi của vạn vật hoặc số phận của con người. Chính vì vậy mà khi sa cơ thất thế hay khi muốn cầu an bình hoan lạc, người dân thường có tập quán cầu Trời. Người Việt xưa còn bi quan, tin vào số mệnh qua thực tế xã hội mà chúng ta có thể tìm thấy trong ca dao:
Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa lại quét lá đa!
hoặc
Con quan thì lại làm quan, Con nhà kẻ khó đốt than tối ngày.
Tuy nhiên ý niệm Trời trực tiếp có ảnh hưởng đối với thân phận hay số mệnh của con người trong lãnh vực này không là một cường lực cưỡng chế hay trở thành một tín điều bắt người dân phải tuân theo, để được phúc hay trách được hoạn nạn. Đây chỉ là một ý niệm thông thường không hoàn toàn mang tính chất tôn giáo và sự tin tưởng chỉ có tính cách khách quan, không bị ràng buộc.
Mở đầu truyện Kiều, cụ Nguyễn Du cũng dựa vào phong tục người dân Việt và Khổng học: "Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
2- Định Mệnh theo quan niệm của Đức Khổng Tử
Theo quan điểm của Nho giáo, khái niệm định-mệnh xuất phát từ thuyết Thiên-mệnh, tức là mệnh Trời. Trời quyết định mọi sự thành công hay thất bại trong đời sống của con người. Trong tác phẩm Luận-ngữ của Thiên Nhan Uyên, Khổng Tử cho rằng: "Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên” (Sống chết có số mạng, phú quí tại trời). Con người không thể cãi lại mệnh trời. Mọi cố gắng của con người không ngoài ý trời. Chính ngay bản thân mình, Khổng Tử cũng thừa nhận: "Ngô thập hữu ngũ, nhi chí vu hoc, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri Thiên mệnh…" (Năm ta mười lăm tuổi chỉ để tâm vào việc học, năm ba mươi tuổi đã đủ lực mà lập thân, năm bốn mươi tuổi tâm trí đã đủ sáng suốt, năm năm mươi tuổi, ta hiểu được mệnh Trời…) (theo Luận-ngữ, thiên Vi Chính). Con người hầu như đặt hết sự tin tưởng của mình vào ý chí của Trời nếu muốn trở thành người quân tử: "Không hiểu mệnh Trời không xứng đáng là một người quân tử" (Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử dã - Luận Ngữ, thiên Nghiêu Viết).
Như vậy, theo một số nhà bình luận quan điểm về Thiên-mệnh của Nho giáo có vẻ mang tính chất tiêu cực. Nó hạn chế mọi nỗ lực biến đổi thân phận và sự cố gắng vươn lên của con người. Nếu một người khi mới sinh ra đã có sẵn một số mệnh an bài và được định đoạt bởi ý chí của một đấng siêu nhiên thì con người đành phải chấp nhận xuôi tay, giao phó toàn bộ đời mình cho một đấng quyền năng quyết định.
Trong truyện Kiều một số câu thơ diễn tả rất rõ về quan niệm Thiên Mệnh của Nho Giáo. Là người phụ nữ đẹp, nhan sắc mặn mà thì ai mà chẳng bị trời ghen tức, mà khi trời đã ghen tức thì cuộc đời của những người phụ nữ này phải khổ, "Hồng nhan bạc mệnh".
Lạ gì bỉ sác tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. (Câu 5-6)
Đạm Tiên là một nạn nhân:
… Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
Nổi danh tài sắc một thì, Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến oanh.
Kiếp hồng nhan có mong manh, Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương. (Câu 62-66)
và rằng:
Hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu? (Câu 107-108)
Trời đã quyết định số mệnh của Kiều, nên cụ Nguyễn Du đã kết thúc câu truyện:
Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao. (Câu 3241-3244)
3- Định Mệnh theo quan niệm của Phật Giáo
Theo Phật Giáo, định-mệnh của con người có thể nói đã được quyết định dứt khoát qua thuyết “Luân Hồi và Nghiệp Quả”. Nếu dựa vào thuyết này thì số phận hiện tại của Thuý Kiều là hậu quả của các hành động xấu của nàng trong kiếp trước.
Vậy thuyết Luân-hồi và Nghiệp-quả hay Nhân-quả là gì?
3/1- Thuyết luân hồi
Trong tất cả những lời dạy của Đức Phật, từ bài thuyết pháp đầu tiên ở Lộc Uyển cho đến khi ngài nhập Niết bàn, thuyết luân hồi luôn được nhắc đi nhắc lại. Một thí dụ trong đoạn kể lại việc ngài tham thiền dưới gốc bồ đề để đạt đến giác ngộ viên mãn. Theo Kinh Lalitavistara (Phổ Diệu Kinh), trong phần đầu của đêm hôm đó, sau khi trải qua bốn tầng thiền, Bồ Tát dùng thiên nhãn (divine eye/divya-cakshus) quán sát sự luân hồi sinh tử của chúng sinh.
“Với thiên nhãn thanh tịnh, Bồ tát thấy chúng sinh chết rồi lại tái sinh trong những giai cấp thấp hèn, trong thuận cảnh và nghịch cảnh. Ngài thấy chúng sinh luân hồi tùy theo nghiệp quả của mình “than ôi, những sinh linh này đã tự tạo nghiệp xấu qua thân, khẩu, ý, họ bất kính với các thánh nhân và ôm giữ tà kiến. Do tạo nghiệp với tà kiến, khi thân hoại mạng chung, họ tái sinh trong hoàn cảnh xấu và trong các địa ngục. Nhưng những chúng sinh tạo nghiệp tốt qua thân, khẩu, ý, cung kính các bậc thánh và không có tà kiến, do tạo nghiệp tốt với chánh kiến, khi thân hoại mạng chung, họ sẽ tái sinh trong hoàn cảnh tốt và trong các cõi thiên giới”.
Luân hồi cũng thường được đề cập đến trong những kinh khi Đức Phật nói đến những sự kiện của kiếp hiện tại theo nghiệp của những kiếp trước và khi ngài dạy về nghiệp quả và về sự cần thiết phải tu tập.
Thí dụ, trong kinh “Pravrajyantaraya- Sutra”, Phật dạy:
“Này Mahanam, nếu một cư sĩ làm bốn hành vi, người ấy sẽ chịu bốn nghịch cảnh sau này: y sẽ phải tái sinh nhiều lần, sinh ra bị mù, thiểu trí, bị câm, hay như một người hạ cấp, luôn luôn nghèo khổ, luôn luôn bị ngược đãi. Y sẽ trở thành người lưỡng tính hay người hoạn, hay sinh ra trong cảnh làm nô lệ suốt đời. Y sẽ trở người nữ, chó, heo, lừa, lạc đà, hay rắn độc, và do đó không thể thực hành giáo lý của Đức Phật”.
(Bốn hành vi là cản trở những người muốn theo Đạo, cản trở những người thân của mình quy y, không tin Chánh pháp, phá hoà hợp tăng và những bậc bà la môn đức hạnh). Ngoài sự tái sinh làm thú vật hay ngạ quỷ, nhiều kinh sách Tiểu Thừa cũng như Đại Thừa còn dạy rằng tái sinh trong địa ngục là nghiệp quả từ những hành vi tà dâm và ăn thịt chúng sinh cho đến hủy báng giáo pháp.
3/2- Nghiệp-quả
Có một lần, có người hỏi Đức Phật, tại sao có người sanh ra lại giàu có trong khi những người khác nghèo khổ, có người được thân thể khỏe mạnh trong khi kẻ khác lại ốm yếu, bệnh tật. Tại sao có người lại đẹp đẽ và có người lại xấu xí? Tại sao có người có đông bạn bè, trong khi có người lại chẳng có một ai? Cái gì có thể giải thích được sự sai biệt này giữa mọi người với nhau?
Ðức Phật trả lời rằng mỗi người đều là kẻ thừa kế, thừa hưởng những nghiệp quả của chính họ đã tạo ra trong quá kh. Thật ra, chính vì những việc làm trong quá khứ mà chúng ta sanh ra trong cõi này. Cuộc sống mà chúng ta đang kinh nghiệm trong giờ phút hiện tại đây, là kết quả huân tập của những việc ta đã làm trong quá khứ.
Ðức Phật còn giải thích thêm những hành động nào sẽ đưa đến những kết quả ra sao. Ngài nói những ai giết kẻ khác sẽ bị chết yểu. Những ai phóng sanh sẽ có một cuộc đời trường thọ. Những người tạo khổ đau cho kẻ khác sẽ sanh ra ốm yếu bệnh tật. Những ai theo con đường không bạo động, sẽ có một sức khỏe lành mạnh. Ðức Phật dạy rằng, những ai tham lam ích kỷ sẽ có một cuộc sống nghèo khó. Những ai biết bố thí, rộng rãi sẽ được giàu có sung túc. Ðây chính là sự vay trả luật nhân quả. Mỗi một hành động sẽ tạo nên một kết quả đặc biệt.
Những ai buông lỏng trong sự tức giận, luôn luôn sử dụng ngôn ngữ thô lỗ, sẽ có một bề ngoài khó coi, xấu xa. Còn những ai thực hành từ bi, ăn nói dịu dàng, sẽ có một bề ngoài đẹp đẽ, sáng sủa. Chúng ta là những người thừa tự các kết quả của hành động tạo mình trong quá khứ. Những người hay có hành động bất hòa, như là tà dâm, trộm cắp, sẽ bị giao du với những kẻ mê muội, không có bạn bè nhiều và sẽ không có cơ hội gặp được Phật pháp. Còn những ai biết giữ giới luật sẽ được gặp những hoàn cảnh thuận tiện, giao du với những thiện trí thức và được nhiều sự giúp đỡ trong cuộc sống. Những ai không bao giờ biết thắc mắc về cuộc sống này, không hề tìm hiểu tâm mình, cũng không cần để ý phân tách tự thể của sự vật chung quanh, sẽ sanh ra ngu si và mê muội. Còn những ai biết thắc mắc, tìm hiểu, luôn đi tìm câu trả lời cho cuộc sống này, sẽ sanh ra là một người sáng suốt. Tóm lại, tất cả chỉ là một sự vận hành của luật nhân quả.
Trong truyện Kiều Nghiệp Quả hay Nhân Quả được nói tới lần đầu khi Tú Bà bắt Kiều tiếp khách làng chơi. Nàng nhất quyết từ chối, lấy dao cắt cổ mình tự tử. Máu chảy và sự sợ hãi đã làm nàng hôn mê. Trong cơn mơ màng ấy nàng gặp lại hồn Đạm Tiên và tiếng nói:
Rỉ rằng: Nhân quả dở dang, Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
Số còn nặng nợ má đào, Người dầu muốn quyết trời nào đã cho. (Câu 995-998)
Sau đó Tú Bà sợ Kiều mà chết thì không chỉ mất tiền mà còn tật mang, bị quan lại điều tra; nên bà ta làm bộ nhân ái khuyên dỗ nàng. Kiều suy nghĩ một cách chán chường, sống không xong mà chết cũng chưa yên:
Kiếp này nợ trả chưa xong, Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau. (Câu 1019-1020)
Như vậy, theo thuyết Luân-hồi và Nghiệp-quả thì số phận của con người đã được định do kiếp trước, không ai có thể cải phận được. Nếu có chỉ là ăn ngay ở lành, làm việc thiện và chờ sự biến đổi trong kiếp sau.
II- Vấn đề Tài và Mệnh
Có người cho rằng, do phân vân trong tư tưởng Thiên Mệnh theo quan niệm của Nho-giáo, cụ Nguyễn Du đã đem cái Nghiệp Quả trong Phật-giáo để giải thích cuộc đời của Kiều:
"Đã mang lấy nghiệp vào thân, Thì đừng trách lẫn trời gần đất xa”
Nếu đã tin vào Trời có quyền quyết định số phận của con người theo quan niệm Nho-giáo thì vấn đề Luân-hồi và Nghiệp-quả nghe không hợp lý và nó cũng không liên quan gì tới cái tài của Kiều:
Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Kiều cũng có vẻ tự mâu thuẫn than rằng:
"Nàng rằng: Nhân quả dở dang, Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao.
Số còn nặng nợ má đào, Người đà muốn chết, trời nào có cho?”
Nghĩ cho cùng, có thể cụ Nguyễn Du muốn dung hòa tư tưởng của Tam Giáo là Phật-giáo, Nho-giáo và Lão-giáo, một triết lý trung dung nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau.
2/1-Phải chăng con người tài hoa thì đời lao đao?
Thúy Kiều nhắc lại lúc còn nhỏ thày tướng số đã nói về cuộc đời của mình:
Anh hoa phát tiết ra ngoài, Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Hai yếu tố tài và mệnh đóng một vai trò nhất định trong sự quyết định một người phải đau khổ hay hạnh phúc: Theo triết lý của nguyên lục (mà cụ Nguyễn Du cũng bị ảnh hưởng khi viết truyện Kiều) thì giữa tài và mệnh có sự chống đối nhau.
Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Nghĩ về thân phận có lẽ cụ Nguyễn Du đã hiểu rõ mình hơn ai hết. Nếu có tài mà khoe khoang và hống hách thì sẽ bị tai nạn. Chính vì vậy mà cụ đã mượn nhân vật Thúy Kiều để hé lộ phần nào cái mặc cảm của mình. Lịch sử đã chứng minh: khi được lệnh phải ra làm quan dưới triều Nguyễn thì cụ làm như ngẩn như ngơ. Trong những buổi họp ở triều đình cụ Nguyễn Du thường ít nói và không dám khoe tài.
Có một hôm vua Gia Long hỏi: "Này khanh, nhà nước dùng người là để có thêm trí tuệ, thêm nhận thức để chính trị có thể đem thêm lợi ích cho nước cho dân. Tại sao khanh không chịu nói gì hết mà cứ ngồi im lặng như vậy?"
Lý do cụ không dám nói nhiều hay khoe tài vì người ta nghĩ cụ mang mặc cảm là trung thần nhà Lê lại ra làm quan cho nhà Nguyễn. Như vậy cụ không trung thành với nhà Lê theo quan điểm của Khổng-giáo: "Trung thần bất sư nhị quân" (trung thần thì không thờ hai vua).
Ngẫm lại, Từ Hải là tướng giặc hùng cứ một phương; nhưng cuối cùng nghe Kiều ra hàng Hà Tôn Hiến rồi bị lừa và bị giết chết thảm. Cụ Nguyễn Du có thể đã mượn hình ảnh Từ Hải để nói về thân phận mình. Cụ cũng là tướng của nhà Lê chống lại vua Quang Trung nhưng không thành. Cụ trốn vào Nam để phò Nguyễn Ánh (sau là vua Gia Long) để chống Tây Sơn; nhưng bị quân lính Tây Sơn bắt và bị nhốt tù. Nhờ người anh làm quan cho Tây Sơn cứu ra. Do đó, dù làm quan cho nhà Nguyễn; nhưng cụ Nguyễn Du vẫn sợ bị hại về cái quá khứ của mình nếu các nịnh thần dèm pha với vua ở chỗ là nếu cụ đã từng chống vua Quang Trung thì biết đâu có ngày nào đó cụ chống lại nhà Nguyễn để khôi phục nhà Lê?
Nếu cụ khoe tài thì sẽ bị các quan dưới triều Nguyễn ghen ghét, nói xấu; và biết đâu cụ sẽ không tránh khỏi bị chết oan như Lê Văn Duyệt?
Do đó, "chữ tài liền với chữ tai một vần" không hẳn nói về Thúy Kiều vì:
Thúy Kiều có tài đàn ca và làm thơ; nhưng tài này không đem lại tai họa cho nàng. Trái lại hai lần nhờ tài nàng đã được giảm bớt hoạn nạn:
-Lần 1: Khi Hoạn Thư, vợ của Thúc Sinh, biết tài đàn ca, hay chữ và làm thơ của Kiều thì không còn đối xử tàn tệ đối với nàng. Khi Kiều đưa tờ trình về hoàn cảnh của mình thì Hoạn Thư khen và thương: "Thoạt xem dường có ngẩn ngơ chút tình… Rằng: tài nên trọng mà tình nên thương … Ví rằng có số giầu sang, Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên…" và thay vì bắt Kiều tiếp tục hầu hạ trong nhà như con ở, Hoạn Thư cho nàng ra tu dưỡng trong Quan Âm Các của nhà Hoạn Thư.
"Lĩnh lời nàng mới lựa dây, Nỉ non thánh thót dễ say long người.
Tiểu thư xem cũng thương tài, Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân" (câu 1779-1782).
-Lần 2: Nhờ tài làm thơ Kiều được quan phủ khen ngợi không thua gì thơ thời thịnh Đường. Nàng không chỉ được tha tội gái làng chơi lại lấy chồng khi chưa có phép, mà còn được quan tổ chức đám cưới linh đình cho nàng với Thúc Sinh:
"Nàng vâng cất bút tay đề, Tiên hoa trình trước án phê xem tường.
Khen rằng: Giá đáng thịnh Đường! Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!" (câu 1453-1456) và
"Kíp truyền sắm sửa lễ công, Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao.
Bày hang cổ xúy xôn xao, Song song đưa tới trướng đào sánh đôi.
Thương vì hạnh trọng vì tài" (câu 1465-1469).
Như vậy, "chữ tài liền với chữ tai một vần" không hẳn là mẫu số chung hay định mệnh của Kiều.
Nếu có tài sẽ bị tai hoạ như một định mệnh thì Kim Trọng là con người tài hoa; nhưng chàng đâu có bị chi phối bởi quy luật Tài-Mệnh.
"Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh, Văn chương nết đất, thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tuyệt vời…" (câu 148-151)
Như vậy cái tài mà cụ Nguyễn Du đề cập trong truyện có thể là cái tài của Tướng Hoàng Sào, Từ Hải và chính thân phận của cụ (từng là Tướng giặc phù Lê Chiêu Thống chống Tây Sơn Quang Trung Nguyễn Huệ), nếu cụ không biết lo giữ thân phận mình?
2/2-Phải chăng hồng nhan bạc mệnh?
Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen (Câu 5-6)
Và
Số còn nặng nợ má đào, Người dầu muốn quyết trời nào đã cho. (Câu 997-998)
Sau khi nghe lời Sở Khanh trốn khỏi lầu xanh bị Tú Bá bắt lại đánh cho nhừ tử, Kiều đành phải tiếp khách làng chơi, nên than thở:
Tẻ vui cũng một kiếp người, Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru?
Kiếp xưa đã vụng đường tu, Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xong.
Sinh rằng: Thật có như lời, Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay! (Câu 1905-1906)
Những người đẹp ngày xưa thường được diễn tả là "Hồng nhan bạc mệnh".
Dưới thời quân chủ nhiều phụ nữ đẹp bị biến thành thú tiêu khiển của vua chúa và người hầu thiếp của các quan lại. Vì thế, khi nhìn vào thực tế khách quan, người ta thường thương hại cho số phận của họ.
Ngày nay, những người đẹp kiểu mẫu hay minh tinh màn bạc và ca sĩ thời danh có bạc mệnh hay không thì vấn đề cần phải xét lại. Dĩ nhiên chúng ta không thể lẫn lộn nàng Kiều bạc mệnh thời Nguyễn Du, cách đây hơn 200 năm, phải "Sống làm vợ khắp người ta, Khéo thay thác xuống làm ma không chồng´´, với những nàng Kiều kiểu mẫu, ca sĩ và tải tử điện ảnh ngày nay, những người triệu phú, thay chồng như thay áo, và thân phận đâu có bạc như vôi?
Như vậy, phụ nữ đẹp thường mang thân phận "Hồng nhan bạc mệnh" phải chăng chỉ là một quan niệm của một thời kỳ nào đó và chỉ có giá trị đối với nhà nghèo?2/3-Con
người có cải được số mệnh không?
Kim Trọng, sau khi nghe Thúy Kiều nói thày tướng số đã báo trước số phận mình từ khi nàng còn nhỏ, thì trấn an rằng:
Sinh rằng: Giải cấu là duyên,
Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều! (Câu 419-420)
Ngoài vấn đề tôn giáo, khi nói thân phận con người qua cung Mệnh của Tử-vi hay Tướng-số theo thuyết Thiên-mệnh hay định mệnh, người ta không khỏi rơi vào tình trạng phân vân.
Trường hợp 1: Nếu hai hay ba đứa con (sinh đôi hay sinh ba) được sinh ra cùng giờ, cùng ngày, tháng và năm trong một gia đình nông dân nghèo nàn thì số phận của chúng trong tương lai có giống nhau không?
Câu trả lời là không!
Tại sao không?
Tại vì mỗi đứa lớn lên có thể có hoàn cảnh khác nhau. Đứa nào được gửi lên ăn học ở thành phố, được làm con nuôi hay đỡ đầu bởi nhà giầu hoặc người quyền thế, thì cuộc đời của nó sẽ sáng sủa hơn. Đứa nào tiếp tục sống ở thôn quê xa xôi hẻo lánh với cha mẹ thì ít có cơ hội phát triển và kiếp nghèo cứ đeo đưổi mãi.
Như vậy số mệnh nói theo kiểu trời định có vẻ không ổn.
Trường hợp 2: Trong hai cuộc di cư năm 1954 và 1975 hoặc các cuộc di cư khác trên thế giới, vì lý do chính trị, đã làm đảo lộn số phận của nhiều người và nhiều gia đình.
Có những người mang thân phận "khố rách áo ôm" tại miền Bắc đã trở thành triệu phú tại miền Nam sau cuộc di cư 1954. Có những người mang thân phận con nhà nghèo ở Việt Nam đã trở thành tiến sĩ, bác sĩ, nhà khoa học và người giầu tại nước ngoài sau cuộc di cư 1975.
Như vậy hoàn cảnh và ý chí vươn lên của mỗi người có thể làm thay đổi số phận của mình. Những câu ca dao của Việt Nam thuở xưa nay nhìn vào thực tế hình như không còn hợp thời nữa:
Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa lại quét lá đa!
hoặc
Con quan thì lại làm quan, Con nhà kẻ khó đốt than tối ngày.
2/4-Chữ Tâm và chữ Tài
Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Căn là gốc rễ, Thiện căn là gốc rễ của cái thiện.
‘Thiện căn ở tại lòng ta’ nghĩa là gốc rễ cái thiện nằm ngay ở trong lòng mình chứ không ở đâu xa.
‘Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Tâm này là tâm gì?
Tâm có ác tâm, thiện tâm, tà tâm. ‘Chữ tâm’ dùng trong truyện Kiều nên hiểu về phía thiện: "Thiện căn ở tại lòng ta" Chữ Thiện căn (kusala mula) là một danh từ thuần túy Phật học và có ảnh hưởng tới cụ Nguyễn Du. Cụ Nguyễn Du công nhận chúng ta có những hạt giống thiện. Chịu khó vun tưới những hạt giống đó thì tâm của chúng ta sẽ nẩy nở cái thiện và được nhờ vào đó rất nhiều, vì: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài".
Ví dụ: hai bác sĩ có tài giống nhau, nhưng một bác sĩ chữa người với cái tâm nhân đạo, ngay chính, giúp đỡ người nghèo và tham gia vào các hội từ thiện… sẽ khác với một bác sĩ chỉ mở phòng mạch kiếm tiền.
Nếu mình không có tài mà có thiện tâm thì mình vẫn có hạnh phúc và hạnh phúc hơn những người có tài mà không có thiện tâm. Đó có thể là triết lý của cụ Nguyễn Du.
Kết luận
Cụ Nguyễn Du đã dung hòa quan niệm Thiên Mệnh và Nghiệp Quả qua lời của sư bà Giác Duyên nói với đạo cô Tam Hợp:
"Sư rằng: Phúc họa đạo trời, Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng có ta, Tu là cõi phúc tình là dây oan". (Câu 2655-2658)
Bốn câu thơ trên làm cho nhiều người phân vân ở chỗ cụ Nguyễn Du muốn dung hoà hai quan niệm của Khổng-giáo và Phật-giáo hoặc vì Cụ phân vân trong việc không thể lấy thuyết Thiên Mệnh làm căn bản cho cuộc sống của Thúy Kiều là do trời định; nên đành dùng thuyết Nghiệp Quả của nhà Phật?
Nghiệp Quả hay Nhân Quả cũng được nói tới lần đầu khi Tú Bà bắt Kiều tiếp khách làng chơi và nàng nhất quyết từ chối, lấy dao cắt cổ mình tự tử. Máu chảy làm nàng sợ hãi, bị hôn mê, gặp lại hồn Đạm Tiên báo mộng:
Rỉ rằng: Nhân quả dở dang, Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
Số còn nặng nợ má đào, Người dầu muốn quyết trời nào đã cho. (Câu 995-998)Nếu Kiều, hay Cụ Nguyễn Du, đã tin vào Nghiệp Quả, thì không thể lại báo oán đời này để rồi tạo nên nghiệp xấu cho đời sau cả cho mình và cho người khác (binh sĩ đao phủ của Từ Hải thi hành lệnh của Kiều). Khi Kiều được Tướng giặc Từ Hải cưới làm vợ thì
nàng bèn "Báo ơn trả oán" (câu 2295-2390).
Máu rơi thịt nát tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời! (câu 2389-2390)
Trong truyện Kiều cụ Nguyễn Du chỉ tả cảnh trả thù của Kiều qua 2 câu thơ trên. Nhưng trong nguyên tác Kim Vân Kiều Truyện của tác giả người Tầu là Thanh Tâm Tài Nhân thì Kiều trả thù tàn nhẫn hơn nhiều. Chúng tôi đã viết trong DCÂC tháng 4/2010. Ở đây chỉ xin ghi lại vắn tắt:
".... Phu nhân bắt đầu tuyên bố tội trạng: Mụ Bạc Bà kia đẩy người vào trong cạm bẫy, còn tên Bạc Hãnh, bán người lương thiện vào nhà xướng ca. Vậy theo đúng lời thề trước của mi, lấy dao vằm nát thân thể, rồi cho ngựa ăn. Còn mụ Bạc Bà thì đem chặt đầu bêu lên ngọn cây phía trước. Bạc Hãnh thì dùng chiếu bó như bó củi, ngoài quấn dây thừng thật chặt, rồi hai người giữ, một người cầm cưa, cắt từ dưới chân lên đầu thành hơn 100 đoạn. Ghê thay một cái thân hình như vậy mà trong giây phút thịt nát như bùn, người coi ai cũng hoảng hồn chết ngất. Bọn đao phủ vào bẩm đã thi hành xong, phu nhân truyền đem đống thịt trộn lẫn với cỏ để cho ngựa ăn. Rồi nàng gọi quân đao phủ đem bọn Ưng, Khuyển ra chém đầu để cảnh cáo những kẻ hào nô (nô bộc của phú hào) khác.
Vương phu nhân bèn truyền lệnh cho cung nữ đem Hoạn Thư ra, lột trần áo xiêm rồi treo lên đánh 100 trượng. Cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi ra, lột hết áo quần, chỉ để chừa một cái khố, tóc bị buộc lên xà nhà. Hai tên cung nữ mỗi tên túm một tay để lôi giăng ra, hai tên khác thì cầm vọt ngựa đứng trước và sau, một tên đánh từ trên đánh xuống, một tên đánh từ dưới đánh lên, đánh như con đỉa bỏ trong thùng vôi, con lươn trong vạc nước nóng, luôn luôn dẫy dụa kêu trời. Toàn thân chẳng còn miếng da nào lành lặn. Sau khi cung nữ báo cáo đủ 100 roi, phu nhân truyền lệnh lôi ra cho Thúc Sinh nhận lãnh.
Kế đó Sử Chiêu (3) giải bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh vào dinh. Phu nhân hỏi: Tú Bà, mi có nhận được ta là ai không? Quân sĩ đâu, lôi con Tú Bà này ra, lấy dầu vông đun sôi để tẩm vào người, rồi dựng ngược cho đầu xuống đất, chân chổng lên trời, châm lửa đốt như ngọn đèn trời để làm tròn lời thề ngày trước. Mau lên! Còn tên Mã
Bất Tiến (tên thật của Mã Giám Sinh) thì kẹp chân tay vào mảnh gỗ cho căng thẳng ra, rồi rạch da và moi gân khiến cho tứ chi rời rạc, để ứng lời thề của nó. Ngoài ra, lại nấu một nồi dầu thông trộn lẫn với vỏ cây gai, đun thật sôi và lấy thùng nước lã lớn để bên, rồi đem Sở Khanh ra, lột hết áo xiêm, một người thì múc dầu thông đun sôi rưới vào mình hắn, một người thì lấy nước lạnh dội theo. Quân sĩ được lệnh lôi ba phạm nhân ra ngoài. Tú Bà thì cuốn thành một cây sáp lớn. Phía dưới chỉ lộ cái đầu. Mã Giám Sinh thì bị căng xác. Sở Khanh bị quấn thành một thỏi sắt nguội. Đoạn rồi phu nhân hô to:”Đốt sáp”, quân sĩ bèn châm lửa vào chân Tú Bà. Mụ mới bị châm một mồi lửa đã kêu đau ầm ĩ. Phu nhân mắng rằng: Mi cũng biết đau ư? Cớ sao ngày trước mi nỡ lòng hủy hoại da thịt người khác? Tú Bà chết ngất, không trả lời được nữa. Kế đến Mã Giám Sinh, quân sĩ tìm chỗ chùm gân, lấy mũi dao nhọn khoét da, rồi dùng lưỡi câu móc vào đầu gân, dùng sức lôi mạnh một cái. Giám Sinh lập tức chết tươi. Quân sĩ rút thêm ba bốn cái gân nữa làm cho thi thể Giám Sinh rời ra từng mảnh. Phu nhân bèn sai quẳng ra ngoài bể cho cá nóc ăn để báo lại tội bạc tình.
Còn Sở Khanh bị tẩm dầu thông và keo vỏ gai, bên trong tuy vẫn còn sống nhưng bên ngoài không cựa quậy được. Quân sĩ chạy đến bóc lột miếng vỏ gai nơi đầu ra, thì ngoài da đã bị dầu thông ăn loẻn, chẳng cần dùng sức, chỉ tuốt một cái thì lột hết da. Độ nửa giờ sau, thân thể Sở Khanh chỉ còn trơ lại một cục máu đỏ lòm nhưng vẫn còn thoi thóp. Phu nhân lại sai đem nước vôi rưới vào, tức thì toàn thân Sở Khanh nổi lên những cái mụn như là bọt nước. Rồi sau ít phút trở thành mủ, rã thịt lòi xương mà chết thê thảm..."
Với hành động trả thù quá tàn ác như vậy, cuộc đời kế tiếp, sau khi Kiều chết, Nghiệp Quả của nàng sẽ xấu hay tốt?
Như vậy, phải chăng truyện Kiều không phải là một tác phẩm đề cao luân lý đạo đức con người, nên mới có câu: "Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều"? và tác giả cũng chỉ coi truyện này là:
"Lời quê góp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh?"
---------------------------
Tài liệu tham khảo:
www.dthoi.com/forums/showthread.php
(http://www.thuvienhoasen.org/bamuoingaythienquan-19.htm
www.dunglac.org/index.php
(http://www.quangduc.com/Taisanh/18luanhoi.html
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
1- Đại ý đoạn thơ kế tiếp
Sư bà Giác Duyên sau khi cứu Kiều đưa về chùa, đi ngang qua sông Tiền Đường bỗng thấy có người làm bàn thờ bên sông cầu siêu cho Thúy Kiều thì ngỡ ngàng hỏi "Người còn sao bỗng làm ma khóc người?" Khi biết Kim Trọng là chồng chưa cưới của Kiều, cha mẹ, em trai và em gái của Kiều, sư bà mới kể lại mọi chuyện đã xẩy ra đối với nàng. Sau đó Kim Trọng và mọi người cám ơn sư bà rồi theo về chùa để gặp Thúy Kiều. Sau 15 năm cách biệt, nay Kiều không ngờ được gặp lại gia đình. Để tỏ lòng biết ơn trời đất, gia đình quì lậy cảm tạ trước bàn thờ Phật. Sau đó Vương Ông gọi xe hoa đưa nàng về nhà. Nhưng nàng thưa rằng thân phận con như cánh hoa rơi: "Sự đời đã tắt lửa lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi" và đã nhận cửa Phật làm nơi an thân quãng đời còn lại, nên nàng không muốn trở về nữa.
Vương Ông nghe vậy khuyên can rằng, nếu con quyết định đi tu thì tình yêu, ân nghĩa và tình phụ tử ai sẽ thay con đáp đền? Ông cũng hứa là nếu nàng muốn tu thì cha mẹ sẽ lập cái am gần nhà, rồi mời thày về trông coi. Thấy vậy Kiều đồng ý theo gia đình. Khi về tới nhà, Vương Ông mở tiệc mừng. Nhân cơ hội này Thúy Vân đứng ra phân trần: xưa kia vì chữ Hiếu chị đành bán mình chuộc cha, rồi gán tình yêu Kim Trọng cho em. Nay mọi chuyện đã qua rồi chị nên nối lại tình xưa.
Kiều nghe vậy thì cảm thấy xấu hổ vô cùng, vì cuộc đời 15 năm qua của nàng đã hai lần làm vợ người ta, hai lần bị bán vào lầu xanh, nên còn trinh tiết gì nữa mà nối lại tình xưa với Kim Trọng "Chữ trinh đáng giá nghìn vàng, Thiếp từ ngộ biến đến giờ. Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa. Nói chi kết tóc xe tơ, Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời!"
Kiều còn khuyên Kim Trọng nếu còn yêu nàng thì đừng: "Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa. Còn nhiều ân ái chan chan, Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi?
Thấy Kiều có vẻ mặc cảm, Kim Trọng bèn phân trần: "Xưa nay trong đạo đàn bà, Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường, Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay? Hoa tàn mà lại thêm tươi, Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. Tuy vậy, Kiều chỉ chấp nhận tình bạn thay vì tình vợ chồng "Chàng dù nghĩ đến tình xa, Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ. Nói chi kết tóc xe tơ, Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời!"
Trong đêm động phòng Kim Trọng và Kiều không giao hoan theo thói đời dục tính. Nàng gẩy đàn theo yêu cầu của Kim Trọng. Hai người vui vẻ cùng nhau ngâm thơ, uống rượu và đánh cờ suốt đêm. Hành động đó chứng tỏ một tình bạn cao đẹp, vượt trên các cuộc tình bình thường. "Cho hay thục nữ chí cao, Phải người tối mận sớm đào như ai? Hai tình vẹn vẽ hòa hai, Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ. Khi chén rượu khi cuộc cờ, Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên. Ba sinh đã phỉ mười nguyền, Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy."
Kiều quyết chí tu hành nên sai người đi mời sư bà Giác Duyên tới trông coi am do nhà nàng xây dựng. Nhưng sư bà đã đi hái thuốc phương xa, nên Kiều ngày ngày tự mình lo việc nhang đèn.Từ đó gia đình được hạnh phúc vinh hoa phú quí và danh tiếng ngàn đời.
Giác Duyên đưa Gia Đình đến chùa gặp Kiều
Cơ duyên đâu bỗng lạ sao,
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
2975. Trông lên linh vị chữ bài,
Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?
Với nàng thân thích gần xa,
Người còn sao bỗng làm ma khóc người?
Nghe tin ngơ ngác rụng rời,
2980. Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra:
Này chồng này mẹ này cha,
Này là em ruột này là em dâu.
Thật tin nghe đã bấy lâu,
Pháp sư dạy thế sự đâu lạ thường!
2985. Sư rằng: Nhân quả với nàng,
Lâm truy buổi trước Tiền đường buổi sau.
Khi nàng gieo ngọc trầm châu,
Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về,
Cùng nhau nương cửa bồ đề,
2990. Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.
Phật tiền ngày bạc lân la,
Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây.
Nghe tin nở mặt nở mày,
Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
2995. Từ phen chiếc lá lìa rừng,
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây.
Rõ ràng hoa rụng hương bay,
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
Minh dương đôi ngả chắc rồi,
3000. Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên!
Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên,
Bộ hành một lũ theo liền một khi.
Bẻ lau vạch cỏ tìm đi,
Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần.
3005. Quanh co theo dải giang tân,
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường.
Giác Duyên lên tiếng gọi nàng,
Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra.
Trông xem đủ mặt một nhà:
3010. Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi.
Hai em phương trưởng hòa hai,
Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa!
Tưởng bây giờ là bao giờ,
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!
3015. Giọt châu thánh thót quẹn bào,
Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình!
Huyên già dưới gối gieo mình,
Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi:
Từ con lưu lạc quê người,
3020. Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm!
Tính rằng sông nước cát lầm,
Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!
Ông bà trông mặt cầm tay,
Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra.
3025. Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa,
Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.
Nỗi mừng biết lấy chi cân?
Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu!
Hai em hỏi trước han sau,
3030. Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi.
Quây nhau lạy trước Phật đài,
Tái sinh trần tạ lòng người từ bi.
Kiệu hoa giục giã tức thì,
Vương ông dạy rước cùng về một nơi.
3035. Nàng rằng: Chút phận hoa rơi,
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
Tính rằng mặt nước chân mây,
Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
Được rày tái thế tương phùng.
3040. Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay!
Đã đem mình bỏ am mây,
Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừạ
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
3045. Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Dở dang nào có hay gì,
Đã tu tu trót quá thì thì thôi!
Trùng sinh ân nặng bể trời,
3050. Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
Ông rằng: Bỉ thử nhất thì,
Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.
Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
3055. Độ sinh nhờ đức cao dày,
Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung.
Nghe lời nàng cũng chiều lòng,
Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra.
Thúy Vân muốn Kiều tái hợp Kim Trọng
Một nhà về đến quan nha,
3060. Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy.
Tàng tàng chén cúc dở say,
Đứng lên Vân mới giãi bày một hai.
Rằng: Trong tác hợp cơ trời.
Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.
3065. Gặp cơn bình địa ba đào,
Vậy đem duyên chị buộc vào cho em.
Cũng là phận cải duyên kim,
Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao?
Những là rày ước mai ao,
3070. Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.
Còn duyên may lại còn người,
Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.
3075. Quả mai ba bảy đương vừa,
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.
Dứt lời nàng vội gạt đi:
Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
Một lời tuy có ước xưa,
3080. Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều.
Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!
Chàng rằng: Nói cũng lạ đời,
Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao?
3085. Một lời đã trót thâm giao,
Dưới dày có đất trên cao có trời!
Dẫu rằng vật đổi sao dời,
Tử sinh phải giữ lấy lời tử sinh!
Duyên kia có phụ chi tình,
3090. Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai?
Nàng rằng: Gia thất duyên hài,
Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng.
Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương.
3095. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa.
Thiếp từ ngộ biến đến giờ.
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.
Bấy chầy gió táp mưa sa.
3100. Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn.
Còn chi là cái hồng nhan,
Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?
Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!
3105. Đã hay chàng nặng vì tình,
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
Từ rày khép cửa phòng thu,
Chẳng tu thì cũng như tu mới là!
Chàng dù nghĩ đến tình xa,
3110. Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ.
Nói chi kết tóc xe tơ,
Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời!
Chàng rằng: Khéo nói nên lời,
Mà trong lẽ phải có người có ta!
3115. Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,
Có khi biến có khi thường,
Có quyền nào phải một đường chấp kinh.
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
3120. Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
Trời còn để có hôm nay,
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
3125. Có điều chi nữa mà ngờ,
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu!
Nghe chàng nói đã hết điều,
Hai thân thì cũng quyết theo một bài.
Hết lời khôn lẽ chối lời,
3130. Cúi đầu nàng những vắn dài thở than.
Nhà vừa mở tiệc đoàn viên,
Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là.
Cùng nhau giao bái một nhà,
Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi.
3135. Động phòng dìu dặt chén mồi,
Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa.
Những từ sen ngó đào tơ,
Mười lăm năm mới bây giờ là đây!
Tình duyên ấy hợp tan này,
3140. Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao.
Canh khuya bức gấm rủ thao,
Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân.
Tình nhân lại gặp tình nhân,
Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
3145. Nàng rằng: Phận thiếp đã đành,
Có làm chi nữa cái mình bỏ đi!
Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may.
Riêng lòng đã thẹn lắm thay,
3150. Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi!
Những như âu yếm vành ngoài,
Còn toan mở mặt với người cho qua.
Lại như những thói người ta,
Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa.
3155. Khéo là giở nhuốc bày trò,
Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi!
Người yêu ta xấu với người,
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau!
Cửa nhà dù tính về sau,
3160. Thì còn em đó lọ cầu chị đây.
Chữ trinh còn một chút này,
Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan!
Còn nhiều ân ái chan chan,
Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi?
3165. Chàng rằng: Gắn bó một lời,
Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau.
Xót người lưu lạc bấy lâu,
Tưởng thề thốt nặng nên đau đớn nhiều!
Thương nhau sinh tử đã liều,
3170. Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình
Chừng xuân tơ liễu còn xanh,
Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân.
Gương trong chẳng chút bụi trần,
Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm!
3175. Bấy lâu đáy bể mò kim,
Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa?
Ai ngờ lại họp một nhà,
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!
Nghe lời sửa áo cài trâm,
3180. Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng:
Thân tàn gạn đục khơi trong,
Là nhờ quân tử khác lòng người ta.
Mấy lời tâm phúc ruột rà,
Tương tri dường ấy mới là tương tri!
3185. Chở che đùm bọc thiếu chi,
Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay!
Thoắt thôi tay lại cầm tay,
Càng yêu vì nết càng say vì tình.
Thêm nến giá nối hương bình,
3190. Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan.
Thúy Kiều chỉ muốn là bạn của Kim Trọng
Tình xưa lai láng khôn hàn,
Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa.
Nàng rằng: Vì mấy đường tơ,
Lầm người cho đến bây giờ mới thôi!
3195. Ăn năn thì sự đã rồi!
Nể lòng người cũ vâng lời một phen.
Phím đàn dìu dặt tay tiên,
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa.
Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
3200. ấy là hồ điệp hay là Trang sinh.
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình Đỗ Quyên?
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên,
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông!
3205. Lọt tai nghe suốt năm cung,
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao.
Chàng rằng: Phổ ấy tay nào,
Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
Tẻ vui bởi tại lòng này,
3210. Hay là khổ tận đến ngày cam lai?
Nàng rằng: Ví chút nghề chơi,
Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu!
Một phen tri kỷ cùng nhau,
Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa.
3215. Chuyện trò chưa cạn tóc tơ,
Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông.
Tình riêng chàng lại nói sòng,
Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao.
Cho hay thục nữ chí cao,
3220. Phải người tối mận sớm đào như ai?
Hai tình vẹn vẽ hòa hai,
Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ.
Khi chén rượu khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
3225. Ba sinh đã phỉ mười nguyền,
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
Nhớ lời lập một am mây,
Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên.
Đến nơi đóng cửa cài then,
3230. Rêu trùm kẻ ngạch cỏ len mái nhà,
Sư đà hái thuốc phương xa,
Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu?
Nặng vì chút nghĩa bấy lâu,
Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai.
3235. Một nhà phúc lộc gồm hai,
Nghàn năm dằng dặc quan giai lần lần.
Thừa gia chẳng hết nàng Vân,
Một cây cù mộc một sân quế hòe.
Phong lưu phú quý ai bì,
3240. Vườn xuân một cửa để bia muôn đời.
2- Chú từ và điển tích
-Câu 3071: Gương Vỡ Lại Lành
Thời Nam Bắc triều, Trần Hậu Chủ là một hôn quân, ham mê tửu sắc, không màng chi việc triều chính. Trong lúc đó, nước Tùy ở phương Bắc đang trổi dậy, thanh thế lớn nhanh; Từ Văn Đế Dương Kiên ngấp nghé mưu toan diệt Trần.
Em gái Trần Hậu Chủ là quận chúa Lạc Xương, một giai nhân tuyệt sắc, có chồng là nho sĩ Từ Đức Ngôn. Tuy sống trong phú quí hoàng cung, nhưng vợ chồng Từ Đức Ngôn cứ phập phồng lo sợ, một ngày nào đó ngoại xâm sẽ giày xéo giang sơn nhà Trần. Ngày đó không xa, quân Tùy đã tràn vào như thác lũ. Đức Ngôn vội vàng thu quén ít tiền bạc, định đưa cả gia đình bỏ trốn khỏi kinh thành. Nhưng Lạc Xương đã ngăn lại:
- Chàng là bậc nam nhi, gặp lúc loạn ly, phải xả thân cứu quốc. Thiếp sẽ luôn ở bên chàng, thà chết vinh hơn là sống nhục.
- Đúng, ta phải ở lại góp sức diệt giặc. Nhưng nàng, một nhan sắc không khỏi bị nhục khi giặc tràn vào. Vây nàng hãy vâng lời ta, một mình trốn đi. Lạc Xương thuận theo lời chồng, rồi cầm lấy chiếc gương hàng ngày mình vẫn soi bóng, đập vỡ làm đôi:
- Chàng hãy cầm lấy nửa mảnh gương này, thiếp giữ một nửa. Nước sẽ mất, nhà sẽ tan, nhưng tình đôi ta không có gì có thể chia cắt được. Chúng mình phải sống cho nhau; hẹn chàng, đến ngày thượng nguyên, không được năm nay, thì qua năm khác, qua năm nữa..., vợ chồng mình đem mảnh gương này ra chợ Tràng An bán. Nếu trời thương cho vợ chồng mình còn gặp nhau, thì hai mảnh gương sẽ được ghép khít vào, gương vỡ lại lành, đôi ta sum vầy. Vợ chồng bùi ngùi chia tay.
Chưa đầy một tháng, kinh thành nước Trần thất thủ, vua tôi lưu lạc tán loạn. Tướng Tùy là Việt Công xua quân, tha hồ càn quét. Lạc Xương, từ ngày chia tay chồng đã chạy thoát gần đến biên giới an toàn, nhưng vì lo âu cho chồng, nên lại quay trở về kinh thanh dò la tin tức, không may lọt vào vòng vây của giặc. Một nhan sắc giữa rừng gươm, hỏi ra lại là dòng dõi trâm anh thế phiệt, thì làm sao Việt Công lại không rúng động. Tên tướng Tùy liền giành lấy cánh hoa này, đem về ép làm hầu thiếp. Lạc Xương kháng cự mãnh liệt, hoặc là giữ được tiết hạnh hoặc chọn lấy cái chết. Cũng may, Việt Công không phải là tên võ biền háo sắc, hạ tiện nên đã không cố ép liễu nài hoa. Nghĩ rằng rồi thời gian, giai nhân sẽ xiêu lòng nên cho nàng cấm cung, có đàn cung nữ hầu hạ, canh giữ ngày đêm.
Rồi xuân đến, nơi hẹn hò Tết nguyên tiêu hãy tìm đến nhau, nhưng giờ này đôi uyên ương lưu lạc nơi nào. Phần nàng, bị vây trùng trong cung cấm, làm sao đem mảnh gương tìm ra chợ đây?
Phần Từ Đức Ngôn, từ khi kinh thanh thất thủ, bôn ba chạy đi khắp nơi; kịp lúc xuân về, chàng hồi hộp đem mảnh gương vỡ ra chợ, giả vờ bán.
Trong cung cấm. Lạc Xương may mắn đã thuyết phục được một nàng hầu, nên đúng ngày rằm tháng giêng nàng đã nhờ hầu nữ này cầm mảnh gương ra chợ Tràng An tìm Đức Ngôn. Đến chợ, hầu nữ thấy đám đông đang đứng vây quanh một anh chàng, trêu chọc thằng điên đang đòi bán một tấm gương vỡ với giá ngàn vàng. Biết là gặp được người đang tìm, cô hầu đưa ngay nửa mảnh gương cho thằng điên. Hai mảnh gương ghép khít vào nhau, Từ Đức Ngôn bật khóc như đứa trẻ. Chàng hôn hít tấm gương rồi viết vào mặt sau, bài thơ gởi người tình:
Ảnh dữ nhân câu khứ
Ảnh qui nhân vị qui
Vô phục hằng nga ảnh
Không lưu minh nguyệt huỵ
Nghĩa là:
Theo người gương vỡ mắt sâu
Gương đà về đó, nhưng đâu thấy nàng
Chị Hằng cũng quạnh tâm cang
Vầng trăng sầu muộn úa vàng năm canh.
Nàng hầu lật bật đem gương về. Lạc Xương đọc được thơ, ôm lấy hai mảnh gương vào lòng mà khóc tức tưởi Việt Công tình cờ đi vào, trông thấy, gạn hỏi sự tình. Lạc Xương phải tình thật, kể lại hết chuyện tình của mình. Nghe xong chuyện, Việt Công giả vờ nghiêm giọng thét to:
- Gương đã vỡ.
Lạc Xương hoảng hốt:
- Nhưng...
Sắc diện của Việt Công bỗng hiền hòa, đôn hậu:
- Nhưng...giờ nay lại lành. Ta cảm phục mối tình của hai người Dù lòng dạ lang sói cũng phải động lòng...
Rồi Việt Công sai quân hầu lập tức chạy ra chợ rước Từ Đức Ngôn vào thành, đãi đằng trọng thể, trao trả hạnh phúc cho tình yêu.-Câu 3104: Bố Kinh
Sự tích 1: Bố kinh là hai chữ thu ngắn, Bố quần là chiếc quần bằng vải, kinh thoa là cái trâm cài đầu bằng gai Bố kinh lấy từ chuyện Lương Hồng Mạnh Quang trong sách Di
Uyển của Trung Quốc:
Lương Hồng là một hàn sĩ ở Giang Nam, nhà nghèo xơ xác, hiếu học, trọng đạo đức nhân nghĩa Nhiều người rất cảm phục nhân cách của chàng, trong đó có một phú hộ thật tâm muốn tìm cách giúp đỡ. Lần đầu tiên tìm đến gặp Lương Hồng, phú hộ muốn tặng chàng hai gói chè quí ngọn hái từ đỉnh núi Vũ Di Lương Hồng nhẹ nhàng thưa:
- Nếu có gì cần dạy bảo xin ngài vui lòng chỉ giáo, còn lễ vật ngài cho tôi xin được phép từ chối.
Phú hộ đành cầm lễ vật ra về, trong lòng nghĩ hay là chàng nho sĩ kia vì nghĩ phận mình nghèo hèn không dám giao tiếp với người giàu sang như ta. Nghĩ vậy nên ít ngày sau, phú hộ lại tìm đến, chân đi giày cỏ, cẩn thận buộc ngựa từ ngoài xa. Trong lều tranh, Lương Hồng vẫn mải mê đọc sách; phú hộ kiên nhẫn chắp tay đứng đợi ngoài sân. Sau mấy canh giờ, Lương Hồng chợt gấp sách, nhìn ra ngoài, trông thấy vị khách đang đứng chờ. Chàng cung kính mời vào. Lần này phú hộ chỉ xin tặng một gói trà ngang, nhưng bên trong lại có mấy nén vàng, gọi là chút tiền độ nhật cho hàn sĩ. Lương Hồng nhất mực từ chối:
- Nếu ngài có ý coi trọng kẻ hèn nay thì hãy cư xử nhau bằng tình nghĩa; xin bảo trọng tình nghĩa trong sáng này, đừng để lễ vật làm hoen ố đi.
Phú hộ lại phải đem lễ vật về và vẫn không nghĩ ra cách gì để giúp đỡ con người liêm khiết này. Và không những chỉ có phú hộ này, nhiều danh gia khác cũng nghe tiếng thơm Lương Hồng, muốn muốn đem gả ái nữ cho. Trong số này, có nhà họ Mạnh, giòng dõi nho gia, giàu có mấy đời, có tiểu thư Mạnh Quang, sắc nước khuynh thành, vương tôn công tử gần xa đều ngấp nghé. Nhà họ Mạnh chủ động muốn nhận Lương Hồng làm rể. Lương Hồng cũng nghe tiếng gia đình họ Mạnh tuy giàu có, nhưng nổi tiếng mấy đời lương thiện, nên bằng lòng kết nghĩa trăm năm với nàng Mạnh Quang.
Ngày hợp hôn, Mạnh Quang muốn làm đẹp lòng chồng, trang điểm má phấn tô son, xiêm y lộng lẫy, vàng ngọc sáng ngời. Nào ngờ, trông thấy tân nương rực rỡ như vậy, tân lang lại tiu nghỉu, suốt bảy ngày đêm ủ ê không buồn động phòng hoa chúc. Thoạt đầu, Mạnh Quang đã quá lo âu, không hiểu mình đã lời ăn tiếng nói như thế nào để chàng phải phật ý; cuối cùng thì nàng cũng nghĩ ra và đã vất bỏ hết các xiêm y, trang sức sặc sỡ đó, mà chỉ mặc quần áo vải và đầu cài thoa gai đến bên chồng. Đến đây, Lương Hồng mới bật lên mừng rỡ, ôm chầm lấy tân nương:
- Đây mới thật là vợ của Lương Hồng. Trong phú quí, giàu sang, thường người ta không giữ được nhân nghĩa. Ta chỉ muốn sống trong thanh bần, tự mình cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, cuộc sống đạm bạc nhưng vợ chồng luôn có nhau, tương kính nhau.
Sau đó ít lâu, Lương Hồng bàn với vợ nên dời nhà vào núi Sương Lăng tự cày ruộng lấy mà ăn, tự dệt vải lấy mà mặc. Mạnh Quang vui vẻ tùng phục ý chồng không một lời phải đối. Lúc đầu hai vợ chồng đi qua đất Thương Ngô, vào ở nhờ nhà Cao Bá Thông, làm nghề giã gạo thuê. Cao Bá Thông cho vợ chồng Lương Hồng trọ trong một chái nhỏ bên hè. Hàng ngày khi đến bữa ăn, Mạnh Quang đều cung kính dâng mâm cơm lên ngang mày để trao cho chồng. Cao Bá Thông thấy vậy cảm thán rằng:
- Vợ chồng nhà ấy chỉ là kẻ đi làm thuê làm mướn mà còn có lễ nghĩa, vợ biết tôn kính chồng như thế thật là đáng kính phục.
Rồi Cao Bá Thông thu xếp cho vợ chồng Lương Hồng được chỗ cư ngụ đàng hoàng, rộng rãi trong nhà.
Người đời sau lấy chữ Bố kinh trong điển tích này để nói đến các bà vợ hiền thục. Sự tích 2: về Bố Kinh là chuyện Hoàng Thiếu Quân.
Hoàng Thiếu Quân là con gái nhà giàu có nhưng tánh tình rất hiền thục. Thiếu Quân lấy chồng là Bảo Tuyên, nhà nghèo khó. Khi về nhà chồng, Thiếu Quân tự trút bỏ hết xiêm y lụa là, mặc quần vải áo thô, cài trâm và chịu khó làm lụng vất vả. Nàng lại thành kính thờ chồng một mực, không bao giờ dám làm điều gì trái ý với Bảo Tuyên. Người đời còn ca tụng nàng rằng:
“Thiếu Quân, gái ấy tuyệt hay
Thay quần vải, đổi trâm cây, thờ chồng”-Câu 3123: Hoa Tàn Mà Lại Thêm Tươi
Hoa tàn mà lại thêm tươi điển tích trong sách Tam ngôn truyện.
Thời Tống Nhân Tông có chàng Thu Tiên uyên bác, nhưng không màng công danh, sống ẩn nhẫn cùng hoa thơm cỏ lạ. Vợ mất sớm, không có con, từa tự được mấy mẫu đất, chàng không canh tác màu, mà chỉ trồng hoa. Cơm không đủ ăn, áo không có mặc, được đồng nào chàng dành để mua những giống hoa quí. Vườn hoa của Thu Tiên đẹp nổi tiếng ở đất Giang Nam. Bấy giờ trong thành Bình Giang có tên Trương Ủy ngang tàng, độc ác, chẳng coi ai ra gì. Một hôm hắn ta cùng bọn thủ hạ đi ngang qua nhà của Thu Tiên, nhìn thấy vườn hoa quí bạt ngàn màu sắc rực rỡ. Trương Ủy chẳng cần hỏi han chủ nhân, sai bọn thuộc đạp đổ hàng giậu, xông thẳng vào trong tha hồ bẻ, ngắt hoa. Thu Tiên quá đau lòng, nhưng càng van xin thì tên Trương Ủy và thuộc hạ càng làm tới:
-Mày không biết ta là ai à? Hôm này có ta đây đặt chân đến vườn hoa này là vinh hạnh cho mày đấy. A kìa, loại hoa mẫu đơn kia mới đẹp làm sao. Thật là uổng phí loài hoa quí phải yên phận trên mảnh đất của tên ngốc nghếch này. Khu vườn này phải thuộc về ta.
Nói xong, tên côn đồ lại giang tay bứt hết những cánh hoa mẫu đơn. Vì quá thương yêu hoa, Thu Tiên đã phải chắp tay van xin:
-Xin công tử hãy nương tay, đừng hủy hoại hoa tội nghiệp. Loài mẫu đơn này tôi đã phải ngày đêm chăm sóc, nâng niu.
Trương Ủy cười ha hả, bóp nghiến cánh hoa trong tay:
-Mày yêu hoa, mày chăm sóc nâng niu. Ta yêu trăng hoa ta thích dày vò tan nát. Vườn hoa này phải là của ta. Ta cho mày ít thời gian để lo cuốn gói đi ở nơi khác. Ta sẽ trở lại đây sau hai ngày nữa, không để tao phải trông thấy các mặt thằng yêu hoa ngu si như mày.
Bọn Trương Ủy bỏ đi. Thu Tiên nằm vật xuống lăn lộn, người xác xơ còn hơn cả những cánh hoa tơi tả trên đất. Chàng khóc tức tưởi như chàng thư sinh đánh mất mối tình đầu. Bỗng có ai đó khẽ động trên vai. Thu Tiên quay lại; một tiểu thư kiều diễm đang nhìn chàng ngời thương cảm.
- Xin hỏi tiểu thư từ đâu đến đây?
-Thiếp ở cách đây không xa. Nghe chàng khóc thương cho loài hoa, thiếp xin đến đây được chia sẻ nỗi niềm. Hoa đã rơi rụng hết rồi. Nhưng xin chàng chớ quá âu sầu. Chàng đã yêu hoa như thế thì muốn hoa tàn mà lại thêm tươi cũng chẳng khó gì...
Đang lúc buồn bã, người đẹp lại nói chuyện phong thần, Thu Tiên càng rầu rĩ thêm. Tiểu thư biết Thu Tiên không tin, cũng chẳng phân giải; nàng nói Thu Tiên hãy thu nhặt những cánh hoa tàn gom lại, rồi đi gánh nước. Thu Tiên miễn cưỡng làm theo. Khi đôi thùng nước quay lại, thì kỳ diệu thay cả vườn hoa bừng sống lại, nở rộ hương sắc. Người đẹp đã biến mất. Thu Tiên quá đỗi mừng rỡ, chàng đưa tay nựng từng cánh hoa mà cứ tưởng như trong mơ. Nàng ấy chắc hẳn là từ cõi tiên về đây ban phép lành cho chàng.
Lòng thành, Thu Tiên thắp nén hương, quỳ xuống van vái:
-Xin tạ ơn tiên nữ giáng trần thương cho kẻ trần gian này....
Lâng lâng với niềm vui dào dạt, chàng nằm xuống giữa hai luống hoa, kê đầu bên một gốc mẫu đơn rồi ngủ thiếp đi giữa áng mây chiều. Chập chùng trong giấc mơ, Thu Tiên thấy mình đang gối đầu trên chân một thiếu nữ; đúng là tiểu thư lúc ban ngày. Nàng cúi xuống thủ thỉ bên tai chàng... thiếp nào đâu phải là tiên nữ, mà chỉ là một kiếp hoa. Cảm ơn chàng đã nâng niu đời hoa. Từ đây thiếp sẽ mãi ở bên chàng. Sẽ không có kẻ phàm phu nào đến quấy nhiễu chàng nữa. Chàng nặng tình với hoa, thì thiếp mãi bên chàng, mãi bên chàng....
Tiếng nói nhỏ nhỏ dần, nhỏ dần rồi cùng với hình dáng yêu kiều hút vào lòng đất. Thu Tiên chợt tỉnh giấc mơ hoa; đầu chàng đang kề sát một gốc mẫu đơn, thoang thoảng tỏa hương thơm dìu dặt. Trên cao xa lắc, ánh sao hôm đang lấp lánh.-Câu 3126: Chàng Tiêu
Chàng Tiêu chuyện được ghi trong sách Tình sử Trung Quốc:
Thời Khai Nguyên nhà Đường, có chàng Tú tài Thôi Giao, văn tài trác tuyệt, nhưng thế cô, nhà lại nghèo xơ xác nên khó bề lập thân. Tuy vậy chàng Tú vẫn thiết tha yêu đời vì có người yêu Lục Châu, một dung nhan kiều diễm đang tuổi trăng tròn, giỏi thi phú, đàn ca xướng hát.
Gia cảnh Lục Châu cũng vào thuộc loại bần hàn, nên nàng phải làm thị tỳ cho người cô của Thôi Giao. Cũng là một cơ may để cho đôi lứa có nơi chốn mà tình tự. Bà cô cũng có ý muốn tác hợp cho hai trẻ, nên cô gắng buôn bán vài chuyến lớn kiếm lãi, tổ chức hôn lễ đàng hoàng và cho đôi tân hôn chút của hồi môn.
Chẳng may, chuyến buôn này rồi chuyến buôn khác cứ bị lỗ lã nặng. Gia sản bà sa sút quá nhanh chóng, rồi sinh nợ chồng chất. Đường cùng, để khỏi bị con nợ tịch biên nhà cửa bà cô phải bán Lục Châu cho quan Liên súy Vũ Địch, giá bốn mươi vạn tiền.
Vậy là từ đó, đôi uyên ương như chim cụt cánh, như cây cụt cành.
Quan Vũ Địch đưa nàng Lục Châu vào dinh nhưng vẫn không làm điều chi sỗ sàng quá đáng. Còn chàng Thôi Giao thì lang thang thất thểu đó đây, tự đặt tên cho mình là Tiêu Lang. Nhưng dù có nghêu ngao ở đâu, sáng nào chàng ta cũng đứng ngấp nghé ngoài cổng dinh phủ, mong được nhìn thấy người yêu. Nhưng mỗi lần may mắn gặp mặt, Tiêu Lang lại phải nén lòng, quay mặt đi nơi khác, làm ra vẻ hờ hững. Lục Châu cũng bị xé nát tâm can, cắn răng cúi đầu, lẫm lũi bỏ đi. Giọt châu lã chã khôn cầm.
Một hôm, vào tiết hàn thực trời rét như cắt, Lục Châu có việc ra ngoài, phải mặc đến hai áo bông; nàng chợt trông thấy Tiêu Lang đứng dưới gốc liễu rũ, thân thể gầy gò run rẩy trong trong chiếc áo rách mỏng manh. Không cầm lòng được, nàng chạy đến ôm chầm lấy chàng. Thôi thì tha hồ mà khóc, kể lể nỗi nhớ thương. Lâm ly lắm rồi cũng phải ngậm ngùi chia tay. Lục Châu choàng áo bông ôm ấp hơi ấm cho chàng. Thôi Giao cỡi chiếc áo rách lỗ chỗ, viết lên đó mấy câu thơ tặng nàng:
”Công tử vương tôn trực hậu trần
Lục Châu thúy lệ thấu la cân
Hầu môn nhất nhập thâm như hải
Tòng thử Tiêu Lang thị lộ nhân”
Ngô Tất Tố dịch:
Theo chân bao kẻ ngộp mùi hương
Tầm tã khăn the lệ mấy hàng
Một tới cửa hầu sâu tợ biển
Chàng Tiêu từ đó khách qua đường. Lục Châu ôm thơ về, đêm đêm gối đầu chờ mộng. Trong phủ Liên Súy Vũ Địch có một tên hầu, ngày trước đã từng rắp tâm bắn sẻ Lục Châu, nhưng đâu được toại nguyên, nên sinh thù ghét. Gặp dịp may đưa đến, hắn trộm chép bài thơ, dán gần cửa thư phòng Vũ Địch. Quan đọc được thơ, tra hỏi kẻ hầu người hạ, biết được tác giả là Tiêu Lang Thôi Giao. Vũ Địch cho lính truy tìm, đưa được Thôi Giao vào phủ đường. Tiêu Lang nghĩ rằng mạng sống sắp tiêu tùng, nhưng dù có được chết vì tình, cũng không khỏi run sợ. Nhưng khi tiếp kiến Vũ Địch, quan không bắt quì chịu tội, mà lại chỉ ghế mời ngồi. Quan bước lại gần, cầm lấy tay Tiêu Lang, cười độ lượng:
Một tới cửa hầu sầu tợ biển,
Chàng Tiêu từ đó khách qua đường.
Hai câu thơ này hẳn là của Tiêu Lang rồi. Từ lâu ta vẫn nghe danh Tú tài Thôi Giao tài hoa. Nhưng chỉ vì tội nghèo mà không tiến thân được, lại không giữ được người yêu. Sá gì bốn mươi vạn tiền mà ta phải làm tan nát một mối tình. Vũ Địch cho người hầu chuẩn bị một số tiền bạc, nữ trang và một cỗ xe ngựa, rồi cho mời Lục Châu:
- Nay ta ban tặng cho người con gái thủy chung chút vốn liếng và lễ vật. Nàng hãy lên xe cùng với Thôi Giao, về quê cũ xây tổ ấm.
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
1. Đại ý đoạn thơ kế tiếp
Kim Trọng về quê lo tang chú ở Liêu Dương nửa năm mới trở về nhà trọ và sang thăm Thuý Kiều thì thấy cảnh vật tiêu điều. Nhìn vào trong vườn chàng thấy hoa lan thì ít mà cỏ hoang thì nhiều; cửa sổ thì vắng lặng quạnh hiu và trước sân sau nhà không một bóng người qua lại. Nhớ lại cảnh xưa tình cũ, Kim Trọng buồn thẩn thơ. Trong lúc không biết hỏi ai để tìm gia đình Kiều thì có người hàng xóm tới kể cho chàng biết hoàn cảnh nghiệt ngã của gia đình nàng: gia đình bị vu oan cáo vạ, cha và Vương Quan bị quan quân hành hạ dã man, nên Thuý Kiều phải bán mình chuộc cha. Từ đó gia đình lâm cảnh khốn đốn phải dọn đi nơi khác sinh sống. Vương Quan phải đi viết mướn, còn Thúy Vân phải may thuê để kiếm tiền sống cho qua ngày.
Sau khi nghe đầu đuôi câu chuyện, Kim Trọng bèn dò đường tìm đến nơi ở của gia đình Kiều. Than ôi! Một căn nhà tranh vách đất tồi tàn, cửa không còn màn nhung lụa bông hoa, mà là rèm lau, thềm trúc lưa thưa và rách nát. Sân nhà không gạch lát mà chỉ cỏ rả mọc đầy tràn. Trước cảnh tượng xơ xác này Kim Trọng không khỏi bàng hoàng ngẩn ngơ. Chàng thử lên tiếng gọi thì Vương Quan chạy ra đón vào nhà gặp cha mẹ Kiều. Ông bà vừa khóc vừa kể lể đầu đuôi câu chuyện thương tâm đã xẩy ra, khiến Kiều phải lỗi hẹn ước với chàng. Vương Ông cũng nói là theo ước muốn, Kiều muốn em gái Thuý Vân thay mình kết hôn với Kim Trọng gọi là chút tình nghĩa còn lại dành cho người tình xưa.
Kim Trọng nghe câu chuyện quá thương tâm và số phận hẩm hiu của Thuý Kiều chàng bật khóc. Chàng khóc thương đến nỗi máu hòa chung nước mắt; người thì lúc tỉnh lúc mê: “thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê, máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao”. Vương Ông và Vương Bà thấy Kim Trọng xót xa khổ não quá mức bèn hết lời khuyên nhủ xin chàng bình tâm. Đáp lại, chàng nghĩ rằng “Chưa chăn gối cũng vợ chồng”, nên coi Kiều như vợ và quyết chí tìm cho được nàng. Để tỏ lòng thủy chung, Kim Trọng về nhà dọn dẹp sạch sẽ, rồi đón cha mẹ Kiều qua ở. Sau đó chàng thuê người đi tìm kiếm Kiều. Cha mẹ Kiều thấy chàng một người chung tình hiếm có, lại quá buồn đau day dứt, bèn an ủi bằng cách chuẩn bị ngày hôn lễ cho chàng và Thúy Vân, như lời hẹn ước của Kiều trước khi bán mình chuộc cha.
Đôi trai tài gái sắc nên duyên vợ chồng. Tuy nhiên, Kim Trọng dù có Thúy Vân bên mình nhưng lòng chàng làm sao quên được mối tình đầu. Khi buồn chàng dạo đàn và ngâm thơ để tưởng nhớ hình ảnh Kiều. Bỗng đâu gió thổi lay rèm, khiến chàng có cảm tưởng như có tiếng Kiều phát ra từ trong góc chái.
Sau đó, cả Kim Trọng và Vương Quan đều thi đỗ và quyết đi Lâm Truy tìm kiếm Kiều. Kim Trọng được một người họ Đô kể lại chuyện 10 năm qua, bị Tú Bà và Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu xanh, rồi gặp Thúc Sinh cứu ra cưới làm vợ lẽ, nhưng bị Hoạn Thư ghen hành hạ khiến nàng phải trốn tới chùa của sư bà Giác Duyên xin tu. Nhưng nợ trần chưa dứt, kiếp tu không trọn, lại bị Bạc Bà và Bạch Hạnh lừa bán vào lầu xanh Châu Thai. Tiếp theo câu chuyện thì chàng nên tìm Thúc Sinh để hỏi. Kim Trọng nghe thế liền viết thư mời Thúc Sinh đến gặp và Thúc Sinh kể tiếp sự tình. Ở Châu Thai nàng gặp Tướng giặc Từ Hải cưới làm vợ; nhưng sau khi báo ân trả oán xong thì họ Thúc không biết gì về Kiều nữa.
Sau 5 năm thi đậu, Kim Trọng được Vua bổ nhiệm làm quan tại tỉnh Nam Bình, còn Vương Quan được làm quan ở Châu Dương. Hai người rủ nhau sắm xe ngựa đi tỉnh Hàng Châu tìm Kiều, vì chiến tranh giặc dã ở Phúc Kiến và Chiết Giang đã chấm dứt. Từ Hàng Châu, Kim Trọng được biết thêm Từ Hải bị thua trận và chết; còn Kiều thì gieo mình xuống sông Tiền Đường tự tử. Tưởng Kiều đã chết, Kim Trọng bèn lập bàn thờ tế lễ bên sông Tiền Đường cho hồn nàng được thảnh thơi nơi miền cực lạc, giống như Tinh Vệ công chúa của Viêm Đế bị chết đuối, oan hồn biến thành chim trở về.
Kim Trọng Sang Thăm Nhà Kiều
Nỗi nàng tai nạn đã đầy,
2740. Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương.
Từ ngày muôn dặm phù tang,
Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà.
Vội sang vườn Thúy dò la,
Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa.
2745. Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Xập xè én liệng lầu không,
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy,
Đi về này những lối này năm xưa.
Chung quanh lặng ngắt như tờ,
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
2755. Láng giềng có kẻ sang chơi,
Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.
Hỏi ông ông mắc tụng đình,
Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
Hỏi nhà nhà đã dời xa,
2760. Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân.
Đều là sa sút khó khăn,
May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi.
Điều đâu sét đánh lưng trời,
Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao!
2765. Vội han di trú nơi cao,
Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi.
Nhà tranh vách đất tả tơi,
Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa.
Một sân đất cỏ dầm mưa,
2770. Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường!
Gia Đình Kiều Giải Khuyên Kim Trọng
Đánh liều lên tiếng ngoài tường,
Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra.
Dắt tay vội rước vào nhà,
Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay.
2775. Khóc than kể hết niềm tây:
Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?
Kiều nhi phận mỏng như tờ,
Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!
Gặp cơn gia biến lạ dường,
Bán mình nó phải tìm đường cứu cha.
Dùng dằng khi bước chân ra,
Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần.
Trót lời hẹn với lang quân,
Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.
2785. Gọi là trả chút nghĩa người,
Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên!
Kiếp này duyên đã phụ duyên,
Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh.
Mấy lời ký chú đinh ninh,
2790. Ghi lòng để dạ cất mình ra đi.
Phận sao bạc bấy Kiều nhi!
Chàng Kim về đó con thì đi đâu?
Ông bà càng nói càng đau,
Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa.
2795. Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai!
Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,
Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê.
Thấy chàng đau nỗi biệt ly,
2800. Nhẫn ngừng ông mới vỗ về giải khuyên:
Bây giờ ván đã đóng thuyền,
Đã đành phận bạc khôn đền tình chung!
Quá thương chút nghĩa đèo bòng,
Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?
2805. Dỗ dành khuyên giải trăm chiều,
Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền.
Kim Trọng Kết Duyên Với Thúy Vân
Thề xưa giở đến kim hoàn,
Của xưa lại giở đến đàn với hương.
Sinh càng trông thấy càng thương.
Gan càng tức tối ruột càng xót xa.
Rằng: Tôi trót quá chân ra,
Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.
Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
Những điều vàng đá phải điều nói không!
2815. Chưa chăn gối cũng vợ chồng,
Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?
Bao nhiêu của mấy ngày đàng,
Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi!
Nỗi thương nói chẳng hết lời,
2820. Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra.
Vội về sửa chốn vườn hoa,
Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang.
Thần hôn chăm chút lễ thường,
Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa.
2825. Đinh ninh mài lệ chép thơ,
Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe.
Biết bao công mướn của thuê,
Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi.
Người một nơi hỏi một nơi,
Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?
Sinh càng thảm thiết khát khao,
Như nung gan sắt như bào lòng son.
Ruột tằm ngày một héo don,
Tuyết sương ngày một hao mòn hình ve.
2835. Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê,
Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.
Xuân huyên lo sợ biết bao,
Quá ra khi đến thế nào mà hay!
Vội vàng sắm sửa chọn ngày,
Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng.
Người yểu điệu kẻ văn chương,
Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì,
Tuy rằng vui chữ vu quy,
Vui nào đã cất sầu kia được nào!
2845. Khi ăn ở lúc ra vào,
Càng âu duyên mới càng dào tình xưa.
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng.
Có khi vắng vẻ thư phòng,
Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa.
Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm.
Dường như bên nóc trước thềm,
Tiếng kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng,
2855. Bởi lòng tạc đá ghi vàng,
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.
Những là phiền muộn đêm ngày,
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
Chế khoa gặp hội trường văn.
Kim, Vương Thi Đỗ Quan Tìm Kiều
2860. Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày.
Cửa trời rộng mở đường mây,
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.
Chàng Vương nhớ đến xa gần,
Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền.
2865. Tình xưa ân trả nghĩa đền,
Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần.
Kim từ nhẹ bước thanh vân,
Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương
Ấy ai dặn ngọc thề vàng,
Bây giờ kim mã ngọc đường với ai?
Ngọn bèo chân sóng lạc loài,
Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly.
Vâng ra ngoại nhậm Lâm truy,
Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn.
Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,
Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao
Phòng xuân trướng rủ hoa đào,
Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng.
Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng,
Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi
Họ Lâm thanh với Lâm truy,
Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm.
Trong cơ thanh khí tương tầm,
Ở đây hoặc có giai âm chăng là?
2885. Thăng đường chàng mới hỏi tra,
Họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
Sự này đã ngoại mười niên,
Tôi đà biết mặt biết tên rành rành.
Tú bà cùng Mã Giám sinh,
2890. Đi mua người ở Bắc kinh đưa về.
Thúy Kiều tài sắc ai bì,
Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ.
Kiên trinh chẳng phải gan vừa,
Liều mình thế ấy phải lừa thế kia.
2895. Phong trần chịu đã ê chề,
Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang.
Phải tay vợ cả phũ phàng,
Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa.
Rứt mình nàng phải trốn ra,
Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia.
Thoắt buôn về thoắt bán đi,
Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!
Bỗng đâu lại gặp một người,
Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh.
2905. Trong tay mười vạn tinh binh,
Kéo về đóng chật một thành Lâm truy.
Tóc tơ các tích mọi khi,
Oán thì trả oán ân thì trả ân.
Đã nên có nghĩa có nhân,
Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen.
Chưa từng được họ được tên,
Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường.
Nghe lời đô nói rõ ràng,
Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc sinh.
2915. Nỗi nàng hỏi hết phân minh,
Chồng con đâu tá tính danh là gì?
Thúc rằng: Gặp buổi loạn ly,
Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ.
Đại vương tên Hải họ Từ,
2920. Đánh quen trăm trận sức dư muôn người.
Gặp nàng khi ở châu Thai,
Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên.
Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng.
2925. Đại quân đồn đóng cõi đông,
Về sau chẳng biết vân mồng làm sao.
Nghe tường ngành ngọn tiêu hao,
Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ.
Xót thay chiếc lá bơ vơ,
Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong?
Lập Đàn Giải Oan Kiều Bên Sông Tiền Đường
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan!
Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây,
2935. Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,
Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi?
Bình bồng còn chút xa xôi,
Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!
Rắp mong treo ấn từ quan,
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha.
Dấn mình trong án can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau.
Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,
Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn!
2945. Những là nấn ná đợi tin,
Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dờỉ
Năm mây bỗng thấy chiếu trời,
Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.
Kim thì cải nhậm Nam bình,
2950. Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu dương.
Sắm xanh xe ngựa vội vàng,
Hai nhà cùng thuận một đường phó quan.
Xảy nghe thế giặc đã tan,
Sóng êm Phúc kiến lửa tàn Chiết giang.
2955. Được tin Kim mới rủ Vương,
Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa.
Hàng Châu đến đó bây giờ,
Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành.
Rằng: Ngày hôm nọ giao binh,
2960. Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền.
Nàng Kiều công cả chẳng đền,
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
Nàng đà gieo ngọc trầm châu,
Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!
2965. Thương ôi! Không hợp mà tan,
Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!
Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
Ngọn triều non bạc trùng trùng,
Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo
Tình thâm bể thảm lạ điều,
Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?
2- Chú từ và điển tích
-Câu 2748: Hoa đào năm ngoái…
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Đường (618-907), nhân dự hội Đạp Thanh đến Đào Hoa Trang, gõ cửa một nhà xin được giải khát. Một thiếu nữ đứng thập thò bên cửa đưa nước cho chàng. Nàng đẹp, duyên dáng, e lệ. Chàng đưa tay tiếp lấy bát nước. Đôi tay trai gái chạm nhau. Nàng ngượng ngùng, cúi mặt xuống. Đôi má hây hây đỏ như đóa hoa đào. Chàng rụt rè, ngượng nghịu. Đoạn chàng từ giã đi, nhưng rồi đèn sách và mộng công hầu không xóa mờ hình bóng của giai nhân. Đào Hoa Trang vẫn gợi lên một hình ảnh đầm ấm trong trí não, khiến lòng chàng nho sinh chan chứa biết bao tình cảm mặn nồng...
Rồi năm sau, ngày hội du xuân đến. Thôi Hộ tìm đến Đào Hoa Trang. Cảnh cũ còn đó, nhưng người xưa vắng bóng. Cửa đóng then cài. Chỉ có ngàn hoa đào rực rỡ phe phẩy theo gió xuân như mỉm cười, chào đón khách du xuân. Ngẩn ngơ, thờ thẫn trước cảnh cũ quạnh hiu, Thôi Hộ ngậm ngùi:
- Hay là nàng đã về nhà chồng!Từng bước một, chàng quay bước trở ra. Lòng cảm xúc vô hạn, rồi muốn ghi lại mấy dòng tâm tư của mình, chàng thảo mấy câu thơ trên cửa cổng:
Năm ngoái ngày này vẫn cửa trong,
Hoa đào mặt ngọc đối vầng hồng.
Mặt hoa nay biết đi đâu vắng?
Chỉ thấy hoa đào cợt gió đông.
Nguyên văn:
Khứ niên kim nhựt thử môn trung,
Nhơn điện đào hoa tương ánh hồng.
Nhơn điện bất tri hà xứ khứ?
Đào hoa y cựu tiếu đông phong. Chiều đến, nàng thiếu nữ họ Đào cùng thân phụ đi viếng người thân trở về. Nàng theo sau cha, chợt nhìn lên cổng thấy bốn câu thơ, nét chữ tinh xảo, ý thơ dồi dào, nàng hiểu rõ tâm tình của khách du xuân năm ngoái. Nàng buồn bã thở dài, hối tiếc duyên vừa gặp gỡ lại khéo bẽ bàng. Rồi ngày này sang ngày khác, nàng thiếu nữ họ Đào vẫn tựa mình bên cửa cổng, mong đợi và hy vọng người khách hào hoa phong nhã xin nước năm xưa. Nhưng ngày lại ngày qua, mấy lần bóng chiều xuống, bóng người xưa chẳng thấy mà chỉ thấy vài cánh chim chiều bạt gió, lẻ loi từ ngàn phương kêu bạn đổ về bằng một giọng não nùng... Nàng âm thầm gạt lệ. Nhưng lệ vẫn trào lên khóe mắt, đẫm lên đôi má. Rồi đông qua xuân đến, hè lại thu sang, lá rơi rụng bay lả tả phủ đầy thềm. Trời thu hiu hắt. Cảnh sắc thu thêm giục khách sầu đau. Rồi mỗi khi xuân về, ánh thiều quang ấm áp, ủ ấp trên ngàn cây nội cỏ càng gợi lại nỗi nhớ nhung hình ảnh của ai làm dằng dặc cõi tâm tư.
Nàng cảm thấy đời hoàn toàn tuyệt vọng. Rồi từ ấy nàng bỏ ăn bỏ ngủ, thân hình tiều tụy, dung nhan võ vàng. Thân phụ ngày đêm lo lắng, tìm thầy thuốc. Nhưng nào biết đâu: “Nhược hữu lương y viên tuyệt mạng, tùng lai vô dược liệu tương tư” (Có thầy giỏi cứu được sự sống cho người, chớ không có thuốc chữa bệnh tương tư). Biết không sống được, nàng đành thuật lại tâm sự của mình cho cha già nghe và xin tha tội bất hiếu. Người cha xúc động đau khổ cho số phần đen bạc của đứa con gái duy nhất của mình. Nhìn thấy đứa con nằm thiêm thiếp trên giường như chờ đợi tử thần, ông lão thương con nóng lòng, liều chạy tìm người đã đề thơ trên cổng.
Nhưng hạc nội mây ngàn tìm đâu cho thấy. Người cha đau khổ ấy bối rối, cứ chạy ra chạy vào, lòng mang một mong mỏi yếu đuối. Trong giờ phút cuối cùng may được gặp chàng trẻ tuổi xa lạ đã gây sóng gió bão tố trong gia đình ông mà giờ phút này, ông cho là vị cứu tinh của gia đình, nên ông lại chạy kiếm nữa... Vừa ra khỏi cổng, bỗng chạm phải một người. Ông ngửng mặt nhìn. Đó là một thư sinh tuấn tú. Thấy ông, mặt mày giàn giụa nước mắt, cử chỉ hốt hoảng, chàng thư sinh thăm hỏi. Ông vừa bươn bả đi vừa kể lể. Nhưng kể chưa dứt câu chuyện, chàng thư sinh bỗng ôm mặt khóc. Ông lão lấy làm ngạc nhiên, chưa kịp hỏi thì chàng thư sinh nói:
- Tôi là Thôi Hộ, người đã đề bài thơ trên cổng...Chàng chưa dứt lời, ông đã mừng rú lên rồi lôi sền sệt chàng vào nhà, đưa thẳng đến phòng. Nhưng nàng thiếu nữ cũng vừa trút hơi thở cuối cùng. Nhìn nàng thiếu nữ nặng tình yêu đã vì chàng mà vóc liễu tiều tụy, dung nhan võ vàng, chết một cách thảm thiết, chàng cảm động quá, quỳ bên giường, cầm lấy tay nàng. Chàng úp mặt vào mặt nàng, khóc nức nở! Lạ thay, nước mắt của chàng nhỏ xuống mặt nàng thiếu nữ họ Đào, thì nàng bỗng từ từ mở mắt ra đăm đăm nhìn chàng, trên môi điểm một nụ cười tươi thắm. Nàng đã sống lại. Ông già họ Đào mừng rỡ. Chàng thư sinh họ Thôi hớn hở vui tươi. Câu 2853: “Dường như bên nóc trước thềm” hay là “Dường như góc chái bên thềm?”
Để hiểu rõ câu này, theo chúng tôi, chúng ta nên biết dân Việt ở miền Bắc trước đây thường làm nhà có sáu hay tám cột ngang, mỗi khoảng giữa hai cột gọi là một gian nhà. Nếu sáu cột thì có hai gian chính và tám cột thì có ba gian chính. Nếu có hai thì người ta thường dùng một gian làm phòng khách và một gian làm phòng ngủ. Nếu ba gian thì gian giữa làm phòng khách và hai gian hai bên là phòng ngủ. Nhà có hai hay ba gian thường vẫn có thêm hai gian nhỏ ở hai đầu nhà gọi là gian chái. Hai gian chái thì một gian làm phòng chứa đồ đạc, tủ quần áo, đồ quý và một gian làm bếp. Có gia đình làm bếp riêng ở ngoài nhà. Hai gian chái thường nhỏ và tối tăm vì không có cửa sổ; nên trẻ con, dù ban ngày, hay sợ ma không dám vào,.
Chính người viết bài này cũng đã trải qua thời thơ ấu “sợ ma” khi bố mẹ sai vào gian chái lấy một đồ vật gì đó. Theo Cụ Đàm Duy Toại, một nhà nho lão thành, thì hai chữ “góc chái Thúy mới đúng vì bản chữ Nôm viết là góc bên ốc, gần âm gốc; nghĩa chữ Hán là mái núi chìa ra. Vì người phiên dịch trước đây không biết nghĩa chữ chái, lại tưởng lầm chữ góc là nóc (vì chữ ốc là mái nhà) thành ra không luận ra hai chữ góc chái đọc là gì và nghĩa là gì; nên mới đổi bừa và dịch câu này là:
“Dường như bên nóc bên thềm,”Muốn hiểu rõ hơn, chúng ta phải hiểu là hai câu thơ này Nguyễn Du đã lấy từ truyện Tiểu Tạ trong Liêu Trai: “Hốt văn ô, ô quỷ khốc ư ám tư” (có nghĩa: Bỗng nghe tiếng ma khóc nỉ non ở góc tối).Truyện tóm tắt như sau:
Hai cô gái ma là Thu Dung và Tiểu Tạ cùng yêu Đào Sinh. Sau Thu Dung được nhập vào xác Hác-Nữ hồi lại thành người lấy được Đào Sinh. Tối đến, vợ chồng vào buồng làm lễ hợp cẩn, bỗng nghe tiếng Tiểu Tạ khóc rên rỉ ở xó buồng tối. Vợ chồng thương quá, mang đèn đến đó, thấy nàng áo xiêm đầy nước mắt, dỗ suốt đêm không nín, trong bẩy đêm liền không sao làm được lễ hợp cẩn. Sau nhờ nhà Đạo-sĩ sai âm binh đi lấy trộm xác chết Sái-nữ về cho Tiểu Tạ nhập vào hóa ra người. Thế là Đào Sinh được hai vợ rất đẹp. Biết truyện này mới hiểu hai câu Kiều này hay, thật hợp tình hợp cảnh. Như vậy, bên nóc thật là vô nghĩa.-Câu 2972: «Hồn Tinh Vệ»
1. “Tinh Vệ” là loài chim sống ở bờ biển, trông na ná như quạ. Tục truyền con gái vua Viêm Đế là Nữ Oa chết đuối hóa thành chim, nên chim thường ngậm đá ở núi Tây những mong lấp cạn biển Đông để báo thù. (Đừng lầm với Bà Nữ Oa đội đá vá trời). Tinh Vệ dùng theo nghĩa bóng là “việc gì khiến ta xả thân làm hết sức mình, bất luận thành bại”.
2- “Ngô đô phú” (Phú làm tại kinh đô nhà Ngô) trong Tả Tư có câu: “Tinh Vệ hàm thạch nhi ngộ kiểu” (Tinh Vệ ngậm đá gặp lại chủ cũ). Uông Tinh Vệ (1885-1944), chính trị gia người Quảng Đông, sau khi Tôn Văn mất, lãnh đạo cánh tả của Quốc Dân Đảng, một thời đối lập với Tưởng Giới Thạch. Năm 1937, khi chiến tranh Trung-Nhật khuếch đại, ông khởi xướng phong trào hòa bình với Nhật Bản, lập chính phủ Nam Kinh. Uông cũng lấy “Tinh Vệ” làm tên chữ, tên thật của ông ta là Uông Triệu Minh.
BY: HOÀNG THẠCH
Sau đó Kiều bị già Hồ gả cho Thổ Quan. Hận số phận, nàng bèn nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử
1- Đại ý đoạn thơ kế tiếp
Triều đình nghe danh vang của Từ Hải thì nể sợ, bèn sai quan đại thần là Hồ Tôn Hiến đem quân đóng gần. Để chiêu dụ họ Hồ sai hai mỹ như bưng nghìn cân ngọc, vàng, gấm vóc tới tặng cho Từ Hải. Nhưng Từ Hải coi mình là tay anh hùng xông pha trời Ngô, bể Sở và cuộc sống tung hoành cả một biên thùy không thú vị hơn hay sao mà nay lại chịu về làm quan qui hàng triều đình? "Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?" Tuy nhiên, trước vinh danh chức vị và vàng ngọc châu báu, Kiều lại xiêu lòng nói với chàng rằng, cuộc đời trôi nổi phiêu bạt của mình và của chàng, một Tướng nổi loạn đã gây nên chiến tranh để lại những đống xương cao bằng đầu; nếu cứ tiếp tục, chàng có thể cướp thiên hạ như Hoàng Sào; nhưng cuối cùng sẽ rơi vào hoàn cảnh của Hoàng Sào thi số phận vợ chồng ra sao? "Ngẫm từ gây việc binh đao, Đống xương Vô định đã cao bằng đầu. Làm chi để tiếng về sau, Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!". Như vậy, tốt nhất là ra đầu hàng để được hưởng bổng lộc quyền cao và sống hạnh phúc với gia đình.
Đúng là "Vua nghe vợ mất nước; Tướng nghe giặc dụ mất đầu!"
Từ Hải nghe Kiều khuyên, đang từ thế tấn công như vũ bão trở thành thế yếu, bỏ bê canh gác và phòng thủ. Hồ Tôn Hiến cho tiến quân giả bộ làm lễ hòa hoãn, nhưng sau đã chuẩn bị một toán quân tấn công bất ngờ. Dù bị lừa dối và sa vào bẫy, nhưng từng mang danh đội trời đạp đất, ngang tàng coi thiên hạ không ra gì, Từ Hải tả xông hữu đột, quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Tuy nhiên, sức người có hạn, chàng bị đâm chết mà thân xác vẫn đứng như bức tượng đá "Trơ trơ như đá vững như đồng, Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời." (1)
Kiều được binh lính báo tin vội chạy tới chiến trường thấy chồng chết đứng, bèn hối hận than thở: "Khóc rằng: Trí dũng có thừa, Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!" Vừa khóc thương, vừa hối hận, Kiều đập đầu vào bên xác Từ Hải thì bỗng nhiên xác chàng liền ngã xuống, như cảm thông được nỗi lòng của nàng! Quan quân đưa nàng vào doanh trại ra mắt quan triều đình. Hồ Tôn Hiến ca tụng Kiều có công đem lại thắng lợi cho vua và hỏi nàng muốn được thưởng gì?
Kiều hối hận oán than, tưởng rằng chồng được phú quý thì vợ được vinh quang; nhưng nay thì: "Tin tôi nên quá nghe lời, Đem thân bách chiến làm tôi triều đình. Ngỡ là phu quí phụ vinh, Ai ngờ một phút tan thành thịt xương!" Cuối cùng vì muốn bảo toàn thân xác của Từ Hải không bị chặt đầu phanh thây, vì tội làm giặc, nàng xin được chôn xác chồng bên bờ sông cho trọn tình nghĩa phu thê. Hồ Tôn Hiến chấp nhận lời yêu cầu của Kiều rồi tổ chức tiệc mừng liên hoan thắng trận. Hồ già bắt Kiều hầu rượu và đàn ca giúp vui. Kiều phận bạc như vôi, nên mỗi khi cầm đàn lên là gẩy ngay khúc ca "Bạc Mệnh" khiến họ Hồ cũng phải ngạc nhiên, hỏi ra thì nàng trả lời đã quen gẩy khúc nhạc này từ hồi tuổi thơ. Sau một đêm yến tiệc linh đình, mặt già Hồ đanh như thép mà thấy Kiều cũng phải đắm say. Sáng ra họ Hồ thấy mình là thượng quan của triều đình mà ngồi ăn uống say sưa với vợ giặc Từ Hải là gái làng chơi thì trên dưới sao kính phục; nên bày kế gả Kiều cho một quan thuộc dân tộc thiểu số. Kiều mang mặc cảm đã giết chồng mà nay lại đồng ý làm vợ thổ quan hay sao? "Giết chồng mà lại lấy chồng, Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời?"
Buồn cho thân phận và để kết liễu đời mình Kiều bèn nhẩy xuống sông Tiền Đường, nơi mà hồn ma Đạm Tiên đã báo mộng trước đây. Nhưng nợ trần của nàng vẫn chưa trả xong, nên bất ngờ lại được sư bà Giác Duyên đang di du hành gần đó, được đạo cô Tam Hợp cho biết, liền thuê ngư phủ vớt được và cứu sống nàng. Trong lúc hôn mê Kiều như gặp lại hồn ma Đạm Tiên và biết tên mình đã được rút ra khỏi sổ đoạn trường, tương lai sẽ được nối lại duyên xưa và phúc hậu đầy tràn. "Đoạn trường sổ rút tên ra, Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau. Còn nhiều hưởng thụ về lâu, Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!". Nhưng khi nghe gọi tên qui y của mình là Trạc Tuyền, Kiều tỉnh dậy thì thấy sư bà Giác Duyên ngồi bên cạnh; rồi nàng được sư bà đưa về chùa nuôi dưỡng.
Kiều Mắc Lừa Hồ Tôn Hiến, Từ Hải Hàng
Có quan tổng đốc trọng thần,
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,
Tiện nghi bát tiểu việc ngoài đổng nhung.
2455. Biết Từ là đấng anh hùng,
Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.
Đóng quân làm chước chiêu an,
Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.
Lại riêng một lễ với nàng,
Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân.
Tin vào gởi trước trung quân,
Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ.
Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!
2465. Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Sao bằng riêng một biên thùy,
2470. Sức này đã dễ làm gì được nhau?
Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
Nàng thời thật dạ tin người,
Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
2475. Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
Bằng nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!
Công tư vẹn cả hai bề,
2480. Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
Trên vì nước dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
2485. Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,
E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa.
Nhân khi bàn bạc gần xa,
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Rằng: Trong Thánh trạch dồi dào,
2490. Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu.
Bình thành công đức bấy lâu,
Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao.
Ngẫm từ gây việc binh đao,
Đống xương Vô định đã cao bằng đầu.
2495. Làm chi để tiếng về sau,
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
Sao bằng lộc trọng quyền cao,
Công danh ai dứt lối nào cho qua?
Nghe lời nàng nói mặn mà,
2500. Thế công Từ mới trở ra thế hàng.
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh.
Tin lời thành hạ yêu minh,
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.
2505. Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.
Hồ Tôn Hiến Phục Binh Giết Từ Hải
Hồ công quyết kế thừa cơ,
Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công.
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,
Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau.
Từ công hờ hững biết đâu,
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên.
Hồ công ám hiệu trận tiền,
Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
2515. Đương khi bất ý chẳng ngờ,
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
Tử sinh liều giữa trận tiền,
Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!
Khí thiêng khi đã về thần,
2520. Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!
Trơ như đá vững như đồng,
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.
Quan quân truy sát đuổi dài.
ầm ầm sát khí ngất trời ai đang.
2525. Trong hào ngoài lũy tan hoang,
Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi.
Trong vòng tên đá bời bời,
Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.
Khóc rằng: Trí dũng có thừa,
Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống thác một ngày với nhau!
Dòng thu như dội cơn sầu,
Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
2535. Lạ thay oan khí tương triền!
Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
Quan quân kẻ lại người qua,
Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần.
Đem vào đến trước trung quân,
2540. Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han.
Rằng: Nàng chút phận hồng nhan,
Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương!
Đã hay thành toán miếu đường,
Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
2545. Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?
Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,
Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng.
Rằng: Từ là đấng anh hùng,
Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi!
Tin tôi nên quá nghe lời,
Đem thân bách chiến làm tôi triều đình.
Ngỡ là phu quý phụ vinh,
Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
2555. Năm năm trời bể ngang tàng,
Đem mình đi bỏ chiến trường như không.
Khéo khuyên kể lấy làm công,
Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
Xét mình công ít tội nhiều,
Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi!
Xin cho tiện thổ một doi,
Gọi là đắp điếm cho người tử sinh.
Hồ công nghe nói thương tình,
Truyền cho cảo táng di hình bên sông
Hồ Tôn Hiến Ép Gả Kiều Cho Viên Thổ Quan
2565. Trong quân mở tiệc hạ công,
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan.
Bắt nàng thị yến dưới màn,
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu.
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Hỏi rằng: Này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!
2575. Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này,
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.
Cung cầm lựa những ngày xưa,
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!
Nghe càng đắm ngắm càng say,
2580. Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
Dạy rằng: Hương lửa ba sinh,
Dây loan xin nối cầm lành cho ai.
Thưa rằng: Chút phận lạc loài,
Trong mình nghĩ đã có người thác oan.
2585. Còn chi nữa cánh hoa tàn,
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân.
Rộng thương còn mảnh hồng quần,
Hơi tàn được thấy gốc phần là may!
Hạ công chén đã quá say,
2590.Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra
Nghĩ mình phương diện quốc gia,
Quan trên nhắm xuống người ta trông vào.
Phải tuồng trăng gió hay sao,
Sự này biết tính thế nào được đây?
2595. Công nha vừa buổi rạng ngày,
Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài.
Lệnh quan ai dám cãi lời,
ép tình mới gán cho người thổ quan.
Ông tơ thực nhẽ đa đoan!
2600.Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao.
Kiều Nhảy Xuống Sông Tiền Đường Tự Tử
Nàng càng ủ liễu phai đào,
Trăm phần nào có phần nào phần tươi?
2605. Đành thân cát lấp sóng vùi,
Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh
Chân trời mặt bể lênh đênh,
Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào,
Duyên đâu ai dứt tơ đào,
2610. Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay!
Thân sao thân đến thế này?
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
Đã không biết sống là vui,
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
2615. Một mình cay đắng trăm đường,
Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi!
Mảnh trăng đã gác non đoài,
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong.
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng,
Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền đường.
Nhớ lời thần mộng rõ ràng,
Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây!
Đạm Tiên nàng nhé có hay!
Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.
2625. Dưới đèn sẵn bức tiên hoa,
Một thiên tuyệt bút gọi là để sau.
Cửa bồng vội mở rèm châu,
Trời cao sông rộng một màu bao la.
Rằng: Từ công hậu đãi ta,
Chút vì việc nước mà ra phụ lòng.
Giết chồng mà lại lấy chồng,
Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời?
Thôi thì một thác cho rồi,
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông!
2635. Trông vời con nước mênh mông,
Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang.
Thổ quan theo vớt vội vàng,
Thời đà đắm ngọc chìm hương mất rồi!
Thương thay cũng một kiếp người,
2640. Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu ly,
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!
Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
Làm gương cho khách hồng quần thử soi!
2645. Đời người đến thế thì thôi,
Trong cơ âm cực dương hồi khốn hay.
Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,
Trời làm chi đến lâu ngày càng thương!
Sư Tam Hợp Đạo Cô Báo Giác Duyên Cứu Kiều
Giác Duyên từ tiết giã màng,
Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du.
Gặp bà Tam Hợp đạo cô,
Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
2655. Sư rằng: Phúc họa đạo trời,
Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng tại ta,
Tu là cõi phúc tình là dây oan.
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
2665. Ma đưa lối quỷ đem đường,
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Hết nạn ấy đến nạn kia,
Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.
Trong vòng giáo dựng gươm trần,
2670. Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi.
Giữa dòng nước dẫy sóng dồi,
Trước hàm rồng cá gieo mồi thuỷ tinh.
Oan kia theo mãi với tình,
Một mình mình biết một mình mình hay.
2675. Làm cho sống đọa thác đầy,
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!
Giác Duyên nghe nói rụng rời:
Một đời nàng nhé thương ôi còn gì!
Sư rằng: Song chẳng hề chi,
Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều
Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm,
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
2685. Hại một người cứu muôn người,
Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng.
Thửa công đức ấy ai bằng?
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi!
Khi nên trời cũng chiều người,
2690. Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,
Tiền đường thả một bè lau rước người.
Trước sau cho vẹn một lời,
Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!
Kiều Được Cứu, Đạm Tiên Báo Mộng
2695. Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
Lân la tìm thú bên sông Tiền đường,
Đánh tranh chụm nóc thảo đường,
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Thuê năm ngư phủ hai người,
2700. Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông.
Một lòng chẳng quảng mấy công,
Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần!
Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,
Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
2705. Ngư ông kéo lưới vớt người,
Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa!
Trên mui lướt mướt áo là,
Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương.
Giác Duyên nhận thật mặt nàng,
2710. Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
Mơ màng phách quế hồn mai,
Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
Rằng: Tôi đã có lòng chờ,
Mất công mười mấy năm thừa ở đây.
2715. Chị sao phận mỏng phúc dày,
Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai!
Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu cứu người là nhân.
Một niềm vì nước vì dân,
2720.Âm công cất một đồng cân đã già!
Đoạn trường sổ rút tên ra,
Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau.
Còn nhiều hưởng thụ về lâu,
Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!
2725. Nàng nghe ngơ ngẩn biết sao,
Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai.
Giật mình thoắt tỉnh giấc mai,
Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên,
Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.
Thấy nhau mừng rỡ trăm bề,
Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư.
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
2735. Bốn bề bát ngát mênh mông,
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
Nạn xưa trút sạch lầu lầu,
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này
<h2>2- Chú từ và điển tích</h2>
-Câu 2494: Đống xương Vô định đã cao bằng đầu
Là xương của các chiến binh quân nhà Hán đánh nhau với quân Hung Nô. Năm nghìn quân lính của hai bên chết tại bờ sông Vô Định, một phụ lưu của sông Hồng Hà ở vùng Lũng-Tây thuộc tỉnh Thiểm Tây của Trung quốc. Thi sĩ Trần Đào đời nhà Đường có làm bài thơ tả cảnh chết thê thảm đó như sau:
Thệ tảo Hung Nô bất cố thân,
Ngũ thiên diêu cẩm táng Hồ trần.
Khả liên Vô Định hà biên cố,
Do thị thâm khuê mộng lý nhân
Giải nghĩa của Cụ Đàm Duy Toại:
Quyết thề quét sạch quân Hung Nô, không ngó thân mình,
Năm nghìn quân mặc áo gấm lót da điêu thử, chết ở bãi bụi cát đất Hồ.
Thật đáng thương những bộ xương phơi ở bên sông Vô Định,
Mà vẫn là những người vợ ở trong nơi buồng sâu mơ mộng mong về.
-Câu 2581: Dạy rằng: Hương lửa Ba Sinh
Ba Sinh: Ba kiếp sống luân hồi của con người theo thuyết nhà Phật là quá khứ, hiện tại và tương lai.
Sách Truyền Đăng lục chép: Có một người nằm mộng thấy mình đến một chân núi đá to. Ở đó; có một nhà sư đang ngồi và trước mặt nhà sư có một cây hương. Nhà sư bảo người nọ rằng: “Cây hương này chính là của ông kết nguyện đấy. Hương còn cháy mà ông đã trải qua bao đời rồi”.
Sách “Cam Trạch Dao” lại có câu chuyện như sau:
Lý Nguyên và Viên Trạch là người đời Đường. Một hôm hai người đi chơi núi Tam Giáp, gặp một người đàn bà gánh nước giếng. Viên Trạch chỉ người đàn bà ấy và nói với Lý Nguyên:
- Người đàn bà ấy là nơi thác thân của tôi. Mười hai năm sau, tôi sẽ gặp lại anh tại mé ngoài chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu.
Đêm hôm ấy Viên Trạch mất. Mười hai năm sau, Lý Nguyên nhớ lời nói của Viên Trạch thưở xưa nên đến ngay nơi hẹn ước của Viên. Đến nơi, Lý Nguyên trông thấy một đứa trẻ chăn trâu hát nghêu ngao rằng: "Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn, thử thân tuy dị tánh trường tồn”. (Hồn tinh anh cũ gởi đá ba sinh, thân này tuy khác nhưng tính tình vẫn như xưa).
Lý Nguyên biết ngay đứa trẻ chăn trâu ấy chính là Viên Trạch thác sinh. Duyên nợ ba sinh hay hương lửa ba sinh là ý nói duyên nợ vợ chồng do tiền định.
Câu 2586. Tiểu Lân:,
Nàng Tiểu Lân tên là Phùng Thục Phi tài sắc vẹn toàn, đàn giỏi hát hay, là ái phi của vua Trần Hậu Chủ, đời Nam Bắc triều. Hai nước Trần, Chu giao tranh. Trần thua. Chu Vũ Đế bắt được Tiểu Lân đem về, gả cho Đại vương Đạt. Đạt thương yêu lắm, nhưng biết Tiểu Lân vẫn một lòng thủy chung với Hậu Chủ, nên không nỡ ép duyên. Một hôm, Đạt muốn nghe Tiểu Lân đàn tỳ bà, nửa chừng đứt dây, nàng tiếp lời thơ:
Thiết thừa kim nhật sủng
Do ức tích thơì duyên
Dục tri tâm đoạn tuyệt
Ưng khán tất thượng huyền.
Thánh thượng có lòng thương
Nhưng tình cũ đong đầy
Thiếp tơ lòng đứt đoạn
Như dây đàn đứt ngang
Nghĩa là muốn biết tơ lòng dứt nát, nên xem cái dây trên đầu gối thì rõ. Câu này mượn ý câu thơ ấy.
Còn chi nữa, cánh hoa tàn
Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân
-Câu 2630: Sông Tiền Đường hay Tiền Đường giang, tên cổ là Chiết Giang, Khúc Giang hay Chi Giang, là dòng sông lớn nhất của tỉnh Chiết Giang, chảy ra Vịnh Hàng Châu. Đây là vùng đất phát nguyên của văn hóa Việt Trung Quốc. Sông Tiền Đường bắt nguồn từ vùng ranh giới giữa hai tỉnh An Huy và Giang Tây chảy qua Hàng Châu, thủ phủ tỉnh Chiết Giang theo hướng Tây-Nam - Đông-Bắc.
Vì truyện Kiều bắt nguồn từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, tác giả người Tầu, nên chúng ta thấy Cụ Nguyễn Du đã lấy toàm bộ các điển tích và sự kiện liên quan tới lịch sử, địa lý và văn học của Trung quốc. Sông Tiền Đường là một ví dụ. Tại sao sông Tiền Đường lại được các văn nhân, thi sĩ người Tầu và người Việt dùng để tả cảnh, mang tâm sự hay thân phận các nhân vật vào các truyện? Để tìm hiểu con sông nổi danh này, mời quí độc giả theo dõi bài viết dưới đây:
Ngắm thủy triều sông Tiền Đường
Tiền Đường là dòng sông lớn nhất của tỉnh Triết Giang, chảy từ phía tây về đông, ra vịnh Hàng Châu, đóng vai trò rất quan trọng trong việc chuyển nước giữa hai miền. Tiền Đường được bao quanh bởi những trung tâm kinh tế thương mại nhộn nhịp như Thượng Hải, Ninh Ba. Sự dâng tràn thuỷ triều khác thường của sông Tiền Đường là một hiện tượng thiên nhiên lạ lùng nổi tiếng toàn thế giới, do lực hấp dẫn giữa các ngôi sao và trái đất. Lực ly tâm gây ra bởi sự quay của trái đất và hình dạng nút thắt cổ chai khác thường của vịnh Hàng Châu làm cho thuỷ triều dễ tràn lên, nhưng lại rất khó rút. Hiện tượng thuỷ triều bay vút lên cao của sông Tiền Đường là một cảnh tượng cực kỳ ngoạn mục, mà chỉ có thuỷ triều sông Amazone mới sánh kịp. Hằng năm, hàng tỉ người trong nước và trên thế giới tập trung ở đó để chiêm ngưỡng hiện tượng tuyệt diệu này vào ngày 18-8 (âm lịch).
Khi thuỷ triều tràn lên, cột nước có thể cao đến 30 feet và tiếng ồn giống như sấm sét hoặc có hàng ngàn con ngựa đang chạy. Nhiều hoạt động cũng được tổ chức để tôn vinh Lễ hội Ngắm Thuỷ Triều hàng năm dựa theo truyền thống của địa phương. Theo lịch sử, việc xem thuỷ triều đã diễn ra hơn hai ngàn năm trước và trở nên phổ biến vào đời Đường. Thị trấn Yangong ở Hàn Giang, cách Hàng Châu khoảng 45 km là nơi thích hợp nhất để ngắm thuỷ triều sông Tiền Đường. Dòng thuỷ triều lướt qua có thể rất nguy hiểm nếu bạn không cẩn thận. Nên tốt nhất là phải nghe sự hướng dẫn của cảnh sát địa phương - những người có nhiệm vụ bảo đảm cho sự an toàn của du khách. Bắc qua dòng sông là cầu Tiền Đường - cây cầu đầu tiên mà Trung Quốc tự thiết kế và xây dựng, khởi công từ 4/1934 đến 9/1937 thì hoàn tất. Cầu sông Tiền Đường dài 1.453 mét. Đó cũng là kiểu cầu hai tầng đầu tiên ở Trung Quốc. Tầng trên là đường giao thông, tầng dưới là đường rầy xe lửa. Cầu được thiết kế bởi kỹ sư cầu đường nổi tiếng của Trung Quốc Mao Yisheng, người đã bất chấp lời của những người nước ngoài rằng, không thể nào xây dựng được cầu ở một vị trí như vậy, và là người đã có những đóng góp lớn lao cho ngành công nghiệp cầu đường Trung Quốc.
** Chính vì sông rộng, sóng lớn như vậy; nên chúng tôi mới ghi một câu hỏi cho vui trên hình:”Thúy Kiều nhẩy xuống sông rộng mênh mông, sóng cao chết người mà ngư ông kiếm được xác, nhưng không chết là chuyện lạ!”
Trong truyện Kiều, sông Tiền Đường xuất hiện trong báo mộng của Đạm Tiên, trong sự cứu vớt Kiều của Tam Hợp đạo cô và Giác Duyên, trong lời kể của một người ở đất Hàng Châu…Có tất cả sáu câu:
- Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau
- Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường
- Tiền Đường thả một bè lau cứu người
- Lân la tìm thú bên sông Tiền Đường
- Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan
- Lâm Truy buổi trước, Tiền Đường buổi sau
--------------------------------
Tài liệu tham khảo:
(1) Từ biến cố trên, thành ngữ dân Việt có câu ví von hoặc rủa "Chết đứng như Từ HảI hoặc chết trồng!"
- vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%81n_%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng
- Truyện Kiều ( sau khi trở thành vợ của tướng giặc Từ Hải, Thúy Kiều liền báo ân và trả oán )
- Truyện Kiều ( Giai nhân gặp Tướng giặc Kiều gặp từ Hải, nên duyên vợ chồng )
- Truyện Kiều ( Hoạn Thư ghen lập mưu bắt Kiều để hành hạ khiến nàng phải trốn ra ở Chiêu Ân Am )
- Truyện Kiều ( Kiều gặp Thúc Sinh và được Thúc Sinh cứu ra khỏi lầu xanh )
- Truyện Kiều ( Kiều rơi vào cạn bẫy của Tú bà và Sở khanh nên phải hành nghề mải dâm! )
- Truyện Kiều ( Tú Bà và Lầu xanh )
- Truyện Kiều (Kiều bán mình chuộc Cha)
- Truyện Kiều ( " Từ biệt Sinh ly" Kim trọng về quê để tang chú - Gia đình Thúy Kiều lâm nạn khiến Kiều phải bán mình chuộc Cha! )
- Truyện Kiều ( Kim Trọng và Thúy Kiều trao lời hẹn ước )
- Truyện Kiều ( sau khi gặp Thúy Kiều, Kim Trọng ôm mối tình tương tư của kẻ si tình )