Văn Hoá Việt Nam
BY: SH.TRẦN CÔNG-LAO (LẠC-ĐÀ ĐIỀM-ĐẠM)
![]() |
![]() |
Năm nay (2007), tổ-chức Hướng-đạo thế-giới long-trọng cử-hành kỷ-niệm Đệ-nhất Bách-chu-niên ngày thành-lập Phong-trào Hướng-đạo. Một phong-trào giáo-dục đặc-biệt dành cho thanh-thiếu-niên, để bổ-túc nền giáo-dục học-đường, do sáng-kiến của huân-tước Baden Powell, một cựu tướng lãnh trong quân-đội hoàng-gia Anh.
Dịp nầy, cũng chính là cơ-hội rất tốt để các Bạn đọc Nguyệt-san Dân Chúa Âu Châu cùng nhau nhìn lại thân-thế và sự-nghiệp của một vị tướng-lãnh lỗi-lạc, đã xây-dựng được một phương-pháp giáo-dục khá hấp-dẫn đối với người trẻ. Qua phương-pháp nầy đã hun-đúc được nhiều nhân-vật quan-trọng, làm lợi-ích cho các quốc-gia dân-tộc trên hoàn-vũ, trải dài trong một thế-kỷ qua.
Đề-tài duy-nhất được chọn để cho những nam-nữ hướng-đạo-sinh trên các châu lục sinh-hoạt trọn năm 2007, cũng như cho trại họp bạn thế-giới lần thứ 21 (21ème Jamboree Mondial Scout) tổ-chức tại Anh-quốc, chiếc nôi hướng-đạo, để mừng
kỷ-niệm 100 năm ngày thành-lập là: «2007, một thế-giới, một lời hứa».
Trại Họp Bạn nầy, không thể tổ-chức tất cả mọi sinh-hoạt ngay trên hải-đảo «lịch-sử» Brownsea, nơi mà Baden Powell đã thực-hiện cuộc cắm trại thí-nghiệm đầu tiên, vì địa-thế nhỏ hẹp, nhưng một phần lớn sẽ diễn ra tại Chelmsford Hylands Park (Essex), cách thủ-đô Luân-đôn 50 km về phía Đông-Bắc. Thời-gian sinh-hoạt sẽ bắt đầu từ ngày 27 tháng 7 đến ngày 8 tháng 8 năm 2007. Quy-tụ 40.000 tham-dự-viên: 28.000 đoàn-sinh, tuổi từ 14 đến 17, cùng 12.000 trưởng hướng-đạo, thuộc 150 quốc-gia trên khắp thế-giới. Mỗi ngày, theo người ta dự-đoán, sẽ có 80.000 du-khách đến tham-quan.
Để vinh-danh vị sáng-lập phong-trào, ngày 22 tháng 2 năm 2007, ở tại Kenya, châu Phi, các thủ-lãnh hướng-đạo cùng hàng ngàn đoàn-sinh đã tập-trung tại làng Nyeri, cách thủ-đô Nairobi 120 km ở về phía Bắc, nơi có phần mộ của Huân-tước Baden Powell, đã long-trọng cử-hành nghi-thức đầy ý-nghĩa tượng-trưng: thắp lên ngọn đuốc «tinh-thần hướng-đạo». Ngọn đuốc nầy đang được mang đi khắp châu Phi và châu Âu. Đến đêm 31.7.2007, sẽ được rước tới đảo Brownsea, Anh-quốc, để sáng ngày 1.8.2007, lúc rạng đông, sẽ hiện-diện trên phần đất đã do huân-tước Baden Powell tổ-chức cuộc cắm trại đầu tiên, cách đây 100 năm về trước.
1.- BADEN POWELL, VỊ SÁNG-LẬP
Huân-tước Baden Powell hay Sir Robert Stephenson Smyth, sinh ngày 22.02.1857 tại Landoge thuộc thành phố Luân-đôn, là người con thứ 8 và cũng là con trai út. Thân-sinh là giáo-sư vật-lý tại đại-học Oxford và cũng là một nhà thần-học danh-tiếng với nhiều tác-phẩm giá-trị. Nhưng ông không được may-mắn, vì mới 3 tuổi đã phải chịu cảnh mồ côi. Nhờ bà Henrietta Grace, người mẹ can-đảm, đầy yêu thương và nhiều nghị-lực săn-sóc dưỡng-dục, Baden Powell đã tốt-nghiệp được bậc trung-học, rồi năm 19 tuổi, gia-nhập trường võ-bị Hoàng-gia Anh.
Trong thời-gian huấn-luyện, ông đã tỏ ra xuất-sắc về kỵ-binh lẫn bộ-binh. Đời sống chiến-sĩ, xem ra rất thích-hợp đối với sở-trường thiên-phú của ông. Vì ông có óc phiêu-lưu mạo-hiểm, nên sau khi ra trường (1878) với cấp bậc trung-úy, ông đã gia-nhập đoàn quân viễn-chinh qua Á rồi đến Phi-châu.
Năm 1887, ông được thuyên-chuyển về Ấn-độ với cấp bậc cao hơn là đại-úy, nắm giữ nhiều địa-vị quan-trọng. Mãi đến năm 1889, ông được cử đi tham-dự trận đánh, chống với quân dấy loạn Boers ở Nam Phi.
Trong trận chiến-tranh giữa dân Boers và quân-đội Hoàng-gia Anh-quốc, ông đã dùng nhiều mưu-lược khá kỳ-lạ đối với thời buổi bấy giờ. Khi thành Mafeking bị bao vây ngặt-nghèo, chỉ một lực-lượng không đầy 1000 quân, đại-tá Baden Powell phải cầm cự với hơn 9000 quân Boers, trong 217 ngày, để chờ đợi đoàn quân tiếp-viện.
Trong những ngày giao-chiến, ông đã dùng đủ mọi mưu-kế để đánh lừa địch-quân như: đặt mìn chỗ nầy, rồi cho nổ súng chỗ kia, khiến quân địch lầm tưởng chiến-địa phòng-thủ đâu đâu cũng được bố-trí cẩn-mật và quân số chống cự bên trong, cũng đông-đảo không kém gì quân-số tấn-công bên ngoài của họ.
Ông lại có thể chế-tác được một số đèn rất ít ỏi. Nhưng số đèn nầy đã được luân-phiên đem đi chiếu trên nhiều địa-điểm khác nhau, làm như góc trời nào cũng có đèn chiếu cả. Ông cũng có thể chế ra được một loại lựu-đạn bằng loong thiếc… và đặc-biệt nhất là ông đã khéo-léo nuôi-dưỡng tinh-thần chiến-đấu bền dai, dũng-cảm và kỷ-luật của toàn thể binh-sĩ.
Nhờ đó, Baden Powell đã chống-cự được lâu dài, cho đến ngày được tiếp-viện, rồi chiến-thắng. Hoà-bình vãn-hồi, nữ-hoàng Anh-quốc đã tôn phong ông lên chức đại-tướng. Rồi sau đó, vào năm 1903, đã đặc-cử giữ chức thanh-tra tổng kỵ-binh.
Ông mất ngày 08.01.1941, thọ 84 tuổi. Thi-hài được an-táng tại chân núi Kenya, Phi châu, giữa một khung-cảnh núi rừng hùng-vĩ của thiên-nhiên. Đây cũng là ước-nguyện của ông khi còn sinh-tiền. Ông đã đi vào lòng người mãi mãi, không chỉ riêng ở Anh-quốc, mà chung cho cả thế-giới. Vì mỗi khi nói đến phong-trào Hướng-đạo, thì không thể không đề-cập đến Baden Powell.
2.- DIỄN-TIẾN PHONG-TRÀO
Sau vụ bình-định cuộc nội-loạn dân Boers nói trên, Baden Powell đã trở về Luân-đôn, thăm quê-hương. Điều làm ông đau lòng là thấy cảnh nhiều thanh-niên lang-thang, bê-tha dọc phố xá, sống đời vô tư vô vị, có thể sa ngã vào đường tội-lỗi bất cứ lúc nào. Ông nghĩ rằng, những phần-tử ấy, có thể trở thành những công-dân xứng-đáng, hữu-ích cho xã-hội, nếu có người biết cách dìu-dắt chúng.
Những năm ở Phi châu và Ấn-độ, Baden Powell đã quen sống trong cảnh núi cao rừng rậm, nên ông đã thu-thập được một số kinh-nghiệm quý báu để chiến-thắng hoàn-cảnh và đào-tạo con người có óc tự-lập, tinh-thần tháo vát để xoay-xở cho riêng mình lúc cần và để phụng-sự tập-thể.
Khi ông sắp được phong chức thống-tướng, một chức-vụ cao nhất trong quân-đội thì bỗng-nhiên ông lại xin từ chức, từ bỏ địa-vị, bổng-lộc… vì ông cảm thấy mình có một sứ-mệnh phải hoàn-thành: việc cải-tạo lại tinh-thần thanh-niên xứ sở, đó là bước đầu của phong-trào Hướng-đạo thế-giới ngày nay.
Ông bắt tay vào công-việc ngay: Mùa hè năm 1907, sau khi đã qui-tụ được 22 đứa trẻ thuộc đủ mọi giai-cấp, ông đem chúng ra đảo Brownsea, ngoài khơi Anh-quốc, chia thành 4 đội (Sói, Quạ, Cun-cút và Bò rừng). Đây chính là đoàn Thiếu đầu tiên. Từ ngày 1 đến ngày 9 tháng 8, ông bày cho chúng lối sống tập-thể; chỉ cách tự lo lấy bữa ăn của mình ở ngoài trời; dạy cách-thức đi điều-tra, thám-hiểm; chỉ-dẫn cách tiến, cách lùi, cách ngụy-trang đồng-thời cách chiến-đấu để tự-vệ lúc cần. Đối với tuổi trẻ, nếp sống mới nầy rất hấp-dẫn và thu-hút được nhiều cảm-tình, nên chuyến thí-nghiệm nầy rất thành công.
Rút tỉa kinh-nghiệm trong những cuộc sinh-hoạt như thế nầy, sau đó không lâu, ông đã đặt ra Bản Nội-qui về sinh-hoạt, lấy khẩu-hiệu «Hãy sẵn-sàng» cùng với những lời tuyên-thệ cho những kẻ mới gia-nhập phong-trào: «Trên danh-dự, tôi xin thề làm tròn bổn-phận tôi đối với Chúa và Vua. Tôi sẽ tận-dụng khả-năng tôi để giúp-đỡ đồng-bào bất cứ với giá nào. Tôi đã thông-thạo luật Hướng-đạo và quyết-tâm tôn-trọng».
Vào tháng 8 năm 1907, Baden Powell đã chính-thức thành-lập phong-trào. Ấn-định lối đồng-phục đơn-giản, rẻ tiền để ai cũng có thể mua sắm được: quần ống ngắn, áo kaki và mũ rộng vành. Đặt các điều luật, dựa trên những nguyên-tắc trung-thực, tận-tâm, lễ-độ, vui tính, tiết-kiệm cùng một số đức-tính khác.
Năm 1908, ông phát-hành cuốn «Hướng-Đạo Cho Trẻ» (Scouting For Boys), gồm 6 tập (hiện nay đã được dịch ra 35 thứ tiếng). Trong đó, ông trình-bày toàn bộ ý-kiến của ông về tôn-chỉ và tổ-chức phong-trào. Chẳng bao lâu, phong-trào lan khắp Anh-quốc và số thanh-thiếu-niên xin gia-nhập mỗi ngày mỗi đông.
Cũng trong thời-gian nầy, các thanh-thiếu-nữ trong nước cũng đã đứng ra xin thành-lập cho họ một tổ-chức riêng. Vì thế, năm 1909, Baden Powell đã thành-lập ngành nữ hướng-đạo. Cô Agnes, em ruột ông, nhận lãnh trách-nhiệm điều-khiển. Vài năm sau, vì phong-trào Hướng-đạo nữ-giới phát-triển mạnh, nên chính vợ ông, bà Olave Soames, từ năm 1912, cũng đã phải giúp sức vào.
Ngoài ra, còn có ông Warrington Baden Powell, bào-huynh của ông và là cựu sĩ-quan thủy-quân, cũng đã mật-thiết cộng-tác với Baden Powell trong công-việc thành-lập và điều-hành các ngành chuyên-môn Hướng-đạo.
Năm 1914, Baden Powell thành-lập ngành Ấu và viết "Sách Sói Con". Ông đã dựa theo tư-tưởng được trình-bày trong tác-phẩm "Sách Rừng Xanh" của văn-hào Rudyard Kipling để viết cuốn nầy. Đến năm 1918, ông thành-lập thêm ngành Tráng và xuất-bản cuốn "Đường Thành Công".
Từ năm 1908 trở đi, đã có một vài đơn-vị Hướng-đạo đầu tiên được tổ-chức ngoài Anh-quốc. Đó là những đơn-vị ở Gibraltar. Ít lâu sau, tại Malte. Rồi những thời-gian kế tiếp, đã xuất-hiện tại các nước khác như ở Gia-nã-đại, Úc, Tân-tây-lan, Nam Phi. Từ năm 1910 trở đi, lại thêm các quốc-gia Bỉ, Ấn-độ, Singapour, Thụy-điển, Đan-mạch, Pháp, Nga, Phần-lan, Na-uy, Mễ-tây-cơ, Á-căn-đình, Hy-lạp, Hoa-kỳ…
3.- CÁC TRẠI HỌP BẠN HƯỚNG-ĐẠO THẾ-GIỚI
Baden Powell nghĩ đến việc «tập họp» hướng-đạo-sinh các quốc-gia. Ông đã bắt đầu thực-hiện ý-định đó năm 1909 để kỷ-niệm cuộc cắm trại đầu tiên tại đảo Brownsea. Cuộc tập họp nầy đã diễn ra tại Luân-đôn với hơn 11.000 đoàn-sinh tham-dự, và từ đó, như người ta thấy trong 100 năm qua, đại-gia-đình hướng-đạo luôn tổ-chức các «Trại Họp Bạn Hướng-đạo Thế-giới» (Jamboree Mondial Scout). Đã tổ-chức nhiều lần (trung-bình 4 năm 1 lần), tại nhiều quốc-gia trên các châu lục. Kể từ năm 1920 cho đến nay (2007) đã có 21 lần Trại Họp Bạn Hướng-Đạo Thế-Giới.
LẦN 1: 1920
Theo lời mời của Baden Powell, Trại Họp Bạn Hướng-Đạo Thế-Giới lần thứ nhất đã được tổ-chức, từ ngày 30 tháng 7 đến ngày 8 tháng 8 năm 1920 tại Olympia Hall, gần Luân-đôn, thủ-đô Anh-quốc. Chính Baden Powell đã đặt tên «Jamboree» cho Trại Họp Bạn nầy. Jamboree, gốc tiếng Zouloue, có nghĩa là «tập hợp».
Có hơn 8.000 hướng-đạo-sinh của 33 quốc-gia tham-dự, trong đó có 12 nước là thuộc-địa của người Anh. Mỗi ngày, có hàng ngàn du-khách thập-phương đến tham-quan. Dịp nầy, Baden Powell đã được bầu cử giữ chức Thủ-Lĩnh Huynh-Trưởng đầu tiên của Phong-trào Hướng-đạo Thế-giới.
LẦN 2: 1924
Đã được tổ-chức tại Emerlunden, ở phía Bắc thủ-đô Copenhague, Đan-mạch. Có 4.549 trại-sinh của 34 quốc-gia tham-dự. Nhưng bị mưa lụt, các hướng-đạo-sinh đều bị ướt như chuột lột, phải ngủ nhờ 1 đêm trong nhà người dân.
Ngày cuối trại, vua Đan-mạch là Christian X và hoàng-hậu Alexandrine đã đến tham-dự lễ bế-mạc.
LẦN 3: 1929
Trại Họp Bạn đã được diễn ra tại Arrow Park ở Birkenhead, Anh-quốc, qui-tụ 50.000 hướng-đạo-sinh đến từ 69 quốc-gia trên thế-giới, cũng như đã thu-hút 320.000 du-khách đến thăm viếng trong thời-gian sinh-hoạt trại.
LẦN 4: 1933
Tổ-chức tại Godollo, Hung-gia-lợi. Gồm có 26.000 trại-sinh đến từ 32 quốc-gia và 21 nước thuộc-địa. Trong số đó, có gần 18.000 hướng-đạo-sinh bản-địa. Trại được khai-mạc bởi Baden Powell và thống-tướng Horthy của chính-phủ Hung-gia-lợi.
Biểu-trưng của Trại là Con Nai Trắng. «Bạn hãy xem con nai nầy như là tinh-thần Hướng-đạo: đi tiên-phong và luôn ngẩng đầu lên cao» (BP). Thực vậy, lần đầu tiên tại Hung-gia-lợi, loại tem kỷ-niệm Trại Họp Bạn Hướng-Đạo Thế-Giới với hình con nai đang ngẩng đầu co chân phóng tới, dưới có những chữ «Jamboree 1933 Macyarorszác», đã được phát-hành, và cái đặc-biệt thứ hai: suốt trong thời-gian trại, đã xuất-bản báo hàng ngày bằng 4 thứ tiếng: Hung, Anh, Pháp và Đức.
LẦN 5: 1937
Đã được tổ-chức tại Vogelenzang-Bloemendaal, nước Hoà-lan. với 28.750 hướng-đạo sinh của 54 quốc-gia tham-dự. Hàng ngày, có triển-lãm về các sinh-hoạt Hướng-đạo. Trong kỳ Trại Họp Bạn nầy, vì Baden Powell, vị sáng-lập phong-trào, đã 80 tuổi, nên ông quyết-định rút lui, đã nói lời từ-giã để rồi sau đó, đi hưu-dưỡng tại Nyeri, ở Kenya, Phi châu.
LẦN 6: 1947
Đã diễn ra từ ngày 9-20.8.1947, tại Moisson, Yvelines, Pháp-quốc, dưới danh-xưng «Trại Họp Bạn Hoà-Bình» (Jamboree de la Paix). Có 24.152 hướng-đạo-sinh của nhiều miền xứ trên thế-giới về tham-dự. Ngày khai-mạc, có cuộc diễn-hành theo từng quốc-gia.
LẦN 7: 1951
Tổ-chức tại Salzkammergut, Bad Ischl, Áo-quốc. Có 12.884 hướng-đạo-sinh của nhiều quốc-gia tham-dự. Đặc-biệt trong lần nầy, hội Hướng-đạo Áo-quốc đã có sáng-kiến, dựng lên tại sân cờ 7 ngọn tháp. Mỗi ngọn, tượng-trưng cho một lần Trại Họp Bạn trước đây, trong các quốc-gia đã đăng cai tổ-chức. Khi tên Trại lần lượt được xướng lên, thì trên đỉnh tháp, cờ của nước ấy phất-phới tung bay trong tiếng nhạc Jamboree oai-hùng và rộn rã.
LẦN 8: 1955
Lần đầu tiên, Trại Họp Bạn Hướng-Đạo Thế-Giới đã được tổ-chức ngoài Âu châu. Trại nầy đã diễn ra tại Niagara on the Lake, Gia-nã-đại, Bắc Mỹ, và đã qui-tụ 11.139 hướng-
đạo-sinh thuộc 71 quốc-gia trên thế-giới. Cũng là lần đầu tiên, có một đoàn hướng-đạo, đã rời khỏi quê xứ của họ 4 tháng trước, và phải vượt qua 45.000 km để tới dự trại. Đó là Đoàn Hướng-Đạo xứ Tân-tây-lan!
LẦN 9: 1957
Để kỷ-niệm 50 năm thành lập phong-trào hướng-đạo và để ghi nhớ 100 năm ngày sinh-nhật của vị sáng lập, kỳ Trại Họp Bạn lần nầy đã được tổ-chức trên quê-hương Baden Powell tại Sutton Park, Anh-quốc. Có hơn 30.000 hướng-đạo-sinh của 80 quốc-gia tham-dự. Trên phần đất trại ở Sutton Park, đã được dựng lên một cột tháp (obélisque) để ghi nhớ các biến-cố nói trên.
LẦN 10: 1959
Tại Mont Makiling ở Phi-luật-tân. Đây là lần đầu tiên được tổ-chức tại một nước thuộc vùng châu Á. Trại lấy khẩu-hiệu là "Xây-dựng ngày mai, chính hôm nay", gồm có 12.203 hướng-đạo-sinh thuộc 44 quốc-gia (trong đó có Việt-nam Cộng-hoà) tham-dự. Điều đặc-biệt người ta đã ghi nhận là: có tới 500.000 du-khách đến tham-quan, chỉ trong một ngày!
Một điều đáng nghi nhớ khác là: Lần đầu tiên, Hội Hướng-đạo Việt-nam (thuộc Miền Nam Cộng-Hoà) đã tham-dự Trại Họp Bạn Hướng-đạo Thế-giới với một số-lượng khá đông-đảo là 59 hướng-đạo-sinh..
LẦN 11: 1963
Được tổ-chức tại Skinias gần Marathon, Hy-lạp với khẩu-hiệu "Cao hơn, lớn hơn". Có 14.000 hướng-đạo-sinh thuộc 89 quốc-gia tham-dự và 300 nhà báo ngoại-quốc theo dõi các sinh-hoạt hàng ngày. Dịp trại nầy có một thảm-hoạ: phái-đoàn hướng-đạo Phi-luật-tân bị tử-vong do tai-nạn phi-cơ, khiến cờ hướng-đạo phải treo rủ.
Lễ khai-mạc do thái-tử Hy-lạp chủ-toạ. Hôm bế-mạc, trong phần nghi-thức, có mục trao Đuốc Marathon cho đại-diện hướng đạo Hoa-kỳ để đốt lên vào ngày khai-mạc Trại Họp Bạn lần sau, sẽ được tổ-chức tại nước họ. Dịp nầy, bà Olave Baden Powell cũng có gởi một sứ-điệp cho các hướng-đạo-sinh toàn thế-giới.
LẦN 12: 1967
Đã diễn ra tại Farragut State Park, tiểu-bang Idaho, Hoa-kỳ với đề-tài "Cho Tình Bạn". Đây là lần thứ 2 được tổ-chức tại một nước ở Bắc-Mỹ, 12 năm sau Gia-nã-đại. Có 12.011 hướng-đạo-sinh thuộc 105 quốc-gia về tham-dự.
LẦN 13: 1971
Tổ-chức ở Asagiri Heights, gần ngọn núi Phú-sĩ (Fuji), tại Nhật-bản với đề-tài "Để Thông-Cảm", có 23.758 hướng-đạo-sinh thuộc 87 quốc-gia về tham-dự.
Trời chỉ tốt ngày đầu và ngày cuối. Trong thời-gian trại, trời âm-u cộng một cơn bão lớn khiến nước tràn ngập nhiều nơi, nên 16.000 trại-sinh phải di-tản cấp-tốc trong 48 tiếng đồng-hồ. Điểm sáng chói, khiến các trại-sinh ghi nhận là cách cấp-cứu mau lẹ và lối tiếp-đón niềm-nở của người dân Nhật, thật khó quên.
LẦN 14: 1975
Bờ hồ Mjosa, gần Lillehammer, ở Na-uy, là nơi đã được chọn để tổ-chức Trại Họp Bạn Hướng-Đạo Thế-Giới lần thứ 14 với khẩu-hiệu "5 ngón, 1 bàn tay". Tượng-trưng cho 5 vùng hướng-đạo trong 1 tình huynh-đệ. Có 17.259 hướng-đạo-sinh thuộc 91 quốc-gia tham-dự. Cuộc trại nầy, hồi ấy thường được gọi một cách bình-dân là "Nordjamb 75". Vua Na-uy đã đến chủ-toạ nghi-thức ngày khai-mạc và vua Thụy-điển cũng như thái-tử vua Maroc đã đến viếng tham trại.
Nên biết: Thông lệ, trại Họp Bạn Thế-Giới được tổ-chức cứ 4 năm. Năm 1979 là lần Họp Bạn thứ 15, lẽ ra phải được tổ-chức tại Iran, nhưng vì tình-hình chính-trị, không thể tổ-chức được, nên phải đợi thêm 4 năm nữa.
LẦN 15: 1983
Tổ-chức tại Kananaskis Country, Alberta, thuộc triền núi danh-tiếng Rocheuses, ở Gia–nã-đại. Trại kỳ nầy lấy khẩu-hiệu là "Tinh-thần sống mãi" và gồm có 14.752 hướng-đạo-sinh thuộc 106 quốc-gia tham-dự. Đây là lần thứ 2 Trại Họp Bạn Hướng-Đạo Thế-Giới được tổ-chức tại nước nầy.
Ngày bế-mạc có cử-hành nghi-lễ "Kỷ-niệm 75 năm thành-lập hướng-đạo" và "125 năm sinh-nhật của Baden Powell", vị sáng-lập phong-trào.
LẦN 16: 1987-1988
Tổ-chức tại Cataract Scout Park vùng New South Wales, ở Úc-đại-lợi, từ cuối tháng 12 năm1987 đến đầu tháng 1 năm 1988 với khẩu-hiệu "Tập-hợp Thế-giới", đã có 14.434 hướng-đạo-sinh của 84 quốc-gia tham-dự.
Đây là Trại Họp Bạn Hướng-Đạo Thế-Giới đầu tiên, tổ-chức ở một quốc-gia thuộc miền Nam địa-cầu và cũng chính là lần đầu tiên trong việc thay đổi ngày tháng: đã dời từ tháng 8 cổ-truyền đến tháng giêng, để có mùa Hè.
Một điểm đặc-biệt khác là trong ngày xuất-du, có hơn 50 xe bus, phục-vụ chuyên-chở 14.434 trại-sinh, từ Cataract Scout Park đến bờ biển Thirroul, nơi đang diễn ra đại-hội Carnaval, để tham-quan.
LẦN 17: 1991
Đã diễn ra tại công-viên quốc-gia Mont Sorak, ở Nam-Hàn với đề-tài "Nhiều quốc-gia, chỉ một địa-cầu", có gần 20.000 hướng-đạo-sinh thuộc 135 quốc-gia và lãnh-thổ về tham-dự. Đây là lần đầu tiên, từ sau năm 1947, các Hội Hướng-đạo Hung-gia-lợi và Tiệp-khắc được tham-dự Trại Họp Bạn Thế-Giới như là thành-viên (vì lâu nay bị nhà cầm quyền cộng-sản dẹp bỏ) và các nước khác như Nga, Ba-lan, Lỗ-mã–ni, Nam-tư-lạp-phu, Bảo-gia-lợi... cũng có gởi đại-diện đến tham-dự. Vì các nước nầy, sau khi chế-độ cộng-sản sụp đổ, hiện đang tái-tập lại.
Dịp nầy, ông Row Taw Woo, tổng-thống Nam-Hàn và Hoàng-thân Maroc là Moulay Rachid cũng đã đến viếng thăm trại.
LẦN 18: 1995
Được tổ-chức tại Flevoland, nước Hoà-lan với đề-tài "Tương-lai đã là đây", có 28.960 hướng-đạo-sinh của 166 quốc-gia (trong đó, có 36 nước bắt đầu phục-hoạt, vì trước đây đã bị cộng-sản cấm ngăn).
Trại đã được Nữ-hoàng Hoà-lan là Beatrix và phu-quân cắt băng khai-mạc, cũng như được đón tiếp vua Thụy-điển, công-chúa Jordanie là Basma, bà Sadako Ogata, Cao-Ủy Tỵ-nạn Thế-giới đến viếng thăm.
LẦN 19: 1998-1999
Được tổ-chức tại Picarquín, nước Chí-lợi, thuộc Châu Mỹ La-tinh (Nam-Mỹ) với đề-tài "Cùng nhau Xây-dựng Hoà-bình", được nhấn mạnh về vấn-đề giáo-dục hướng-đạo. Trại qui-tụ 30.948 hướng-đạo-sinh thuộc 157 quốc-gia và lãnh-thổ về tham-dự, đồng thời Liên-Hiệp-Quốc cũng đã có mặt.
Lễ khai-mạc đã được ông Eduardo Frei, tổng-thống Chí-lợi, đến chủ-toạ.
LẦN 20: 2002-2003
Đã được tổ-chức từ ngày 28 tháng 12 năm 2002 đến ngày 07 tháng 01 năm 2003 tại làng Haad Yao, huyện Sattahip, tỉnh Chon Buri, Thái-lan, với khẩu-hiệu «Hãy chia sẻ thế-giới chúng ta, hãy chia sẻ văn-hoá chúng ta».
Đất trại là một bãi biển dài một cây số rưỡi, cách thủ-đô Bangkok 180 cây số, đã có hơn 24.000 hướng-đạo-sinh thuộc 147 quốc-gia và lãnh-thổ tham-dự, cũng như có sự hiện-diện của Liên-Hiệp-Quốc.
LẦN 21: 2007
Cuộc Trại Họp Bạn nầy sẽ mang tính-cách quan-trọng hơn các lần họp mặt trước, vì là kỷ-niệm 100 năm ngày thành-lập phong-trào, như đã đề-cập ở phần nhập-đề.
Sẽ được tổ-chức tại Hylands Park, Anh-quốc và có 40.000 tham-dự-viên thuộc 150 quốc-gia trong 5 châu tham-dự, cũng như sẽ có sự hiện-diện của Liên-Hiệp-Quốc như 2 lần họp trại ở Chí-lợi (Mỹ châu) và Thái-lan (Á châu).
4.- TỔ-CHỨC HƯỚNG-ĐẠO THẾ-GIỚI
Tổ-chức Phong-trào Hướng-đạo Thế-giới mà tiếng Pháp gọi là «L’Organisation Mondiale du Mouvement Scout» = OMMS, và tiếng Anh là «The World Organisation of Scout Movement» = WOSM, được thành-lập từ năm 1919, có nhiệm-vụ giám-sát (phần lớn) các tổ-chức Hướng-đạo trên thế-giới và lo việc tổ-chức các Trại Họp Bạn Hướng-đạo Thế-giới (Jamboree Mondial Scout).
Trên bình-diện hoàn-vũ, Tổ-chức Phong-trào Hướng-đạo Thế-giới (OMMS, WOSM) hiện có hơn 28 triệu Nam Nữ Hướng-đạo thuộc 216 quốc-gia và lãnh-thổ trên thế-giới. Tổ-chức được điều-hành bởi Văn-phòng Hướng-đạo Thế-giới (Bureau Mondial du Scoutisme – World Scout Office), đặt tại Genève, Thụy-sĩ, theo như địa-chỉ dưới đây:
Bureau Mondial du Scoutisme
Box 241, 1211
Genève 4, Suisse
Téléphone: +41 22 705 10 10
E-mail:
Web site: www.scout.org
Văn-phòng nầy gồm có 1 tổng-thư-ký (hiện nay là trưởng Eduardo Missoni) và nhiều giám-đốc phụ-trách điều-hành các nha sở trực-thuộc 6 văn-phòng vùng.
1.- Văn-phòng vùng Phi châu (Bureau Régional Afrique – Africa Regional Office) đặt tại Nairobi, Kenya và 2 văn-phòng phụ, một ở Cap Town, Nam Phi và một ở Dakar, Senegal. Các văn-phòng này đặc-trách điều-hành tất cả các Hội Hướng-Đạo Quốc-Gia thành-viên ở châu Phi.
2.- Văn-phòng vùng Ả-rập (Bureau Régional Arabe – Arb Regional Office) đặt tại Le Caire, Ai-cập. Văn-phòng nầy đặc-trách điều-hành tất cả các Hội Hướng-Đạo Quốc-Gia thành-viên thuộc khối Ả-rập.
3.- Văn-phòng vùng Á-châu Thái-bình-dương (Bureau Régional Asie-Pacifique – Asia-Pacific Regional Office) đặt tại Manila, Phi-luật-tân. Văn-phòng nầy đặc-trách điều-hành tất cả các Hội Hướng-Đạo Quốc-Gia thành-viên trong Vùng Châu Á Thái-bình-dương.
4.- Văn-phòng vùng Âu-Á (Bureau Régional Eurasie – Eurasia Regional Office) đặt tại Yalta-Gurzuf, Ukraine. Văn-phòng nầy đặc-trách điều-khiển tất cả các Hội Hướng-Đạo Quốc-Gia thành-viên trong vùng Trung và Đông Âu. Hầu hết các nước nằm trong khối Liên-Sô cũ, nay lấy lại được chủ-quyền, hoặc các quốc-gia tân-lập, sau khi khối cộng-sản tan rã.
5.- Văn-phòng vùng Âu châu (Bureau Régional Europe – Europe Regional Office). Có văn-phòng chính đặt tại Genève, Thụy-sĩ và 2 Văn-phòng phụ: một đặt ở Bruxelles, Bỉ, một đặt ở Belgrade, Serbie. Các văn-phòng nầy đặc-trách điều-hành tất cả các Hội Hướng-Đạo Quốc-Gia thành-viên trong vùng Âu châu.
6.- Văn-phòng vùng Liên Mỹ châu (Bureau Régional d’Interamérique – Interamerica Regional Office) đặt tại Santiago, Chí-lợi. Văn-phòng nầy đặc-trách điều-hành tất cả các Hội Hướng-Đạo Quốc-Gia thành-viên ở châu Mỹ.
VÀI DÒNG KẾT-LUẬN
Tại làng Nyeri ở Kenya, châu Phi, trên phần mộ của Baden Powell, người ta đọc thấy hàng chữ: «Robert Baden Powell, Trưởng Hướng-Đạo Thế-Giới» Thực vậy, Baden Powell là vị sáng-lập phong-trào Hướng-đạo, một phong-trào giáo-dục giới trẻ, đã có công lớn góp phần vào việc xây-dựng thế-giới hiện-đại.
Ông là một tấm gương sáng về gan dạ, dũng-cảm, nhẫn-nại, nhiều sáng-kiến và có tài tháo-vát. Đó là những đức-tính quý-hoá, cần-thiết cho con người, để chiến-thắng những hoàn-cảnh khó-khăn. Nhưng điều quý-hoá hơn nữa là ông đã biết đem sở-trường của mình, biến thành chủ-nghĩa lành mạnh, gây được nhiều ảnh-hưởng tốt cho giới trẻ.
Đối với nhiều thanh-thiếu-niên nam nữ, việc tham-gia vào các sinh-hoạt của Phong-trào Hướng-đạo đã giúp họ trở nên những phần-tử ưu-tú trong các quốc-gia và trong xã-hội. Đã giúp họ, nói theo Nguyễn thái Học, «không thành-công thì cũng đã thành-nhân». Hay ít ra, nếu họ không tốt về phương-diện nầy, thì cũng đã có phần tốt về phương-diện khác.
Đối với thanh-thiếu-niên lỡ bị hư hỏng, phong-trào Hướng-đạo cũng đã giúp-đỡ, nếu không muốn nói là cứu vớt, họ trở về với con đường sống vui-vẻ, trẻ-trung… nghĩa là trở về với hy-vọng, với một tương-lai tốt đẹp hơn.
Đối với các phụ-huynh và những người lo việc giáo-dục, ngày nay, không ai là không nhận thấy cái lợi-ích của phong-trào về vấn-đề bổ-túc cho sự giáo-dục học-đường. Nhất là họ thấy, qua phong-trào nầy, con cái họ được chuẩn-bị về nhiều phương-diện để đi vào đời. Do đó, họ tin-tưởng con cái của họ sẽ dễ-dàng thành công hơn trong cuộc sống.
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
1-Đôi dòng lịch sử
Hội An, một địa danh từng nổi tiếng là một thương cảng có tầm vóc quốc tế qua các tên gọi khác nhau như Lâm Ấp, Hoài Phố (Faifo), Hội An... Nền văn hóa tiên khởi của Hội An được biết với tên gọi là Sa Huỳnh và qua kết quả nghiên cứu khảo cổ tại 4 di tích mộ táng (An Bang, Hậu Xá I, Hậu Xá II, Xuân Lâm) và 5 điểm cư trú (Hậu Xá I, Trảng Sỏi, Đồng Nà, Thanh Chiắm, Bàu Đà). Ở các nơi này các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều loại hình mộ chum, những công cụ dùng trong việc sản xuất và sinh hoạt hàng ngày; đồ trang sức tuyệt mỹ bằng đá, gốm, thủy tinh và kim loại. Các di vật này chứng minh nền văn hóa Sa Huỳnh có những sắc thái độc đáo riêng. Sự phát hiện hai loại tiền đồng Trung Quốc thời Hán (Ngũ Thù, Vương Mãng) và những hiện vật làm bằng sắt giống kiểu mẫu của Tây Hán, Đông Sơn và Óc Eo, hoặc đồ trang sức với công nghệ chế biến tinh luyện được khai quật từ các hố sâu… chứng minh ngành ngoại thương của Hội An đã phát triển ngay từ đầu Công nguyên.
Lịch sử cũng cho thấy dưới thời Vương quốc Chàm, các thương thuyền của Ả Rập, Ba Tư và Trung Hoa đã đến Hội An buôn bán khiến nơi này trở thành trung tâm giao thương phồn thịnh. Các di tích tháp Chàm, giếng nước và các pho tượng cổ (tượng vũ công Thiên Tiên Gandhara, tượng nam thần tài lộc Kubera, tượng voi thần...) và nhiều loại gốm sứ nhãn hiệu Trung Quốc, Đại Việt và Trung Đông có niên hiệu từ thế kỷ 2 tới 14 được đào lên từ lòng đất chứng tỏ Lâm ấp (thời kỳ Chăm Pa) trước Hội An (thời Đại Việt), từng là một thị trường buôn bán sầm uất.
Hội An nổi tiếng vì nằm gần tuyến đường biển quốc tế rất thuận tiện đối với các thương thuyền tại vùng biển Đông. Ở đây người ta nhận thấy hai dịch vụ quan trọng nhất là buôn bán "tơ lụa" và "gốm sứ" của các thương thuyền Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ, Xiêm La, Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Anh và Pháp .
Theo Thích Đại Sán trong Hải ngoại Ký sự thì số lượng tàu thuyền ra vào bến cảng tấp nập đến nỗi cột buồm của chúng được ví "như rừng tên xúm lại"; còn hàng hóa theo Lê Quí Đôn trong quyển Phủ Biên Tạp Lục thì "không thứ gì không có", nhiều đến mức cả trăm chiếc tàu lớn chở cùng một lúc cũng không hết được.
Vào thời kỳ đó, Hội An được coi là thương cảng quốc tế phát triển mạnh mẽ vào bậc nhất của Việt Nam và cả khu vực Đông Nam Á; là cơ sở kinh tế trọng yếu của chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Tác giả Phan Khoan trong quyển Lịch sử Đàng Trong có ghi lại nhận xét của mình: "Nguyên nhân cho một Hội An phồn thịnh trong lịch sử đó là chính sách của các Chúa Nguyễn ở Nam Hà, đi đôi với việc khai khẩn đất đai phương Nam, đã đồng thời mở cửa tiếp xúc với các nước khác, Á cũng như Âu, giao thiệp buôn bán với họ để thu dụng những tài năng, phẩm vật và những gì mới lạ về khoa học, kỹ thuật."
Vì thế, một số triều đại chúa Nguyễn đã khuyến khích người Tàu, Nhật và châu Âu đến buôn bán. Năm 1636, Abraham Duijecker, người Hòa Lan đầu tiên đã mở cửa hàng
tại Hội An. Đến năm 1695, Thomas Bowyear đại diện cho Công ty Anh quốc đưa tàu buôn Delphin đến Hội An và thành lập tại đây một cửa hàng buôn bán.
Tuy nhiên, chúa Nguyễn thường có cảm tình với các thương gia gốc Á Châu, dành cho người Hoa và Nhật được nhiều đặc ân hơn trong việc xây dựng phố Tầu, phố Nhật để kinh doanh; được phép xây đình chùa, lấy vợ, sinh con và lập nghiệp trên đất Hội An. Hơn thế nữa, Chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) đã gả con gái mình (tên tục là Quận chúa Anio) cho một nhà buôn Nhật có thế lực lúc bấy giờ tên là Araki Shutaro (1619). Sau đó chúa Nguyễn ban cho chàng rể tên dòng họ của mình là Nguyễn Taro, hiệu Hiển Hùng.
Trong thời gian này, một chủ tàu buôn người Nhật tên Furamoto Yashishiro đã được công nhận là Thị trưởng Hội An đầu tiên trong lịch sử Đàng Trong. Các thị trưởng ngoại quốc này có ảnh hưởng khá lớn đối với vương quyền, đến độ họ có thể che chởû giám mục Alexandre de Rhodes, trong thời kỳ nhà Nguyễn bách hại đạo Thiên chúa.
Năm Nhâm Dần (1602), Thái Tông lập dinh trấn Quảng Nam ở làng Thanh Chiêm, huyện Điện Bàn và giao cho Công tử trưởng là Nguyễn Phúc Nguyên trấn thủ. Hội An trở thành thương cảng có tiếng nhất của Thuận Hóa và Quảng Nam từ thời điểm này.
Sự phồn thịnh của Hội An đã được giáo sĩ Chistoforo Borri ghi lại vào năm 1618:
"Thành phố rộng rãi, có thể nhận ra hai khu vực, một khu vực do người Trung Hoa ở, khu vực kia thì người Nhật Bản ở" và "Người Trung Hoa và Nhật Bản là những thương nhân chủ yếu của chợ phiên, năm nào cũng mở và kéo dài trong bốn tháng. Người Nhật thường đem lại 4, 5 vạn nén bạc, người Trung Hoa thì đi một thứ thuyền buồm đem lại nhiều tơ lụa tốt và sản vật đặc biệt của họ". Quan trọng hơn hết: "Do chợ này mà Quốc Vương thu được số tiền thuế lớn, toàn quốc nhờ vậy cũng được nhiều lợi ích".
Chính sách mở cửa giao thương cùng với sự dồi dào sản vật địa phương là hai nguyên nhân đưa Hội An vượt xa Phố Hiến ở Đàng Ngoài.
Trong Phủ Biên Tạp Lục có ghi: "Thuyền từ Sơn Nam về chỉ mua được một thứ củ nâu, thuyền từ Thuận Hóa về thì cũng chỉ có một thứ là hồ tiêu. Còn từ Quảng Nam (tức Hội An) thì hàng hóa không thứ gì không có". Với các di tích lịch sử văn hóa quan trọng cần được bảo trì và ghi vào lịch sử văn hóa của nhân loại, ngày 4-12-1999, Tổ chức Văn hóa Khoa học và Giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ghi tên Hội An vào danh sách các di sản Văn hóa của thế giới
2- Một số di tích tiêu biểu của thành phố cổ Hội An
2.1-Chùa Cầu
Chùa Cầu (hay còn gọi chùa Nhật Bản) là công trình kiến trúc do các thương gia Nhật xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 16. Do ảnh hưởng của thiên tai, Chùa Cầu qua nhiều lần trùng tu bị mất đi các yếu tố kiến trúc Nhật Bản nguyên thủy. Thay vào đó người ta thấy chùa có hình dáng giống kiến trúc của Việt Nam và Tầu. Chùa Cầu hình chữ Công, mặt cầu bằng ván gỗ cong vòng ở giữa, bắc qua con lạch thông ra sông Hoài, có mái che uốn cong mềm và được chạm trổ nhiều nét vẽ tinh xảo. Trên cửa chính của Chùa Cầu có chạm nổi 3 chữ Hán "Lai Viễn Kiều" (cầu của những người bạn từ xa đến). Tên này do chúa Nguyễn Phúc Chu đặt trong một lần viếng thăm Hội An vào năm 1719.
Trên sườn cầu có một ngôi miếu nhỏ thờ thần Bắc Đế Trấn Vũ, một vị thần chuyên trấn trị phong ba, lũ lụt theo tín ngưỡng của người Hoa. Ở hai đầu cầu có đặt hai nhóm tượng khỉ và chó bằng gỗ ngồi chầu. Lai lịch của Chùa Cầu gắn liền với truyền thuyết về con Cù, một loại thuỷ quái có đầu nằm ở Ấn Độ, mình ở Việt Nam và phần đuôi ở Nhật Bản. Mỗi lần Cù cựa quậy là gây ra lũ lụt và động đất. Vì vậy, ngoài việc xây cầu nhằm mục đích phát triển sự giao thông, người xưa còn muốn trấn yểm loài thuỷ quái để bảo vệ cuộc sống an bình. Chùa Cầu là tài sản vô giá và đã chính thức được chọn là biểu tượng của Hội An.
2.2-Chùa Ông
Chùa Ông được xây dựng năm 1653, đã qua 6 lần trùng tu vào các năm: 1753, 1783, 1827, 1864, 1904, 1906. Công trình kiến trúc chùa Ông khá uy nghi. Tại đây người Hoa thờ tượng Quan Vân Trường (một biểu tượng về trung - tín - tiết - nghĩa) nên còn có tên là Quan Công Miếu. Chùa Ông là trung tâm tín ngưỡng của Quảng Nam ngày xưa và cũng là nơi các thương gia đến để cam kết trong việc vay nợ, buôn bán, làm ăn và xin xăm cầu may.
2.3-Quan âm Phật tự Minh Hương
Đây là ngôi chùa thờ Phật duy nhất còn lại giữa khu phố cổ, có kiến trúc và quang cảnh xinh đẹp. Tại đây còn lưu giữ gần như nguyên vẹn các tác phẩm điêu khắc gỗ đặc sản do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện. Chùa thờ Phật Quan Thế Âm Bồ Tát và một số chư vị Bồ Tát khác. Trong những ngày lễ và ngày rằm thường có rất nhiều người đến khẩn cầu.
2.4-Hội quán của người Hoa
Theo phong tục, tại mỗi làng của VN người dân thường xây một ngôi đình để làm nơi cúng tế và tổ chức các lễ hội hàng năm. Người Hoa cũng vậy, di dân tới quốc gia nào họ đều xây dựng một hội quán cho dòng họ hay Bang để sinh hoạt. Một số hội quán được biết tiếng tại Hội An gồm:
- Hội quán Phúc Kiến
Theo truyền khẩu, Hội quán trước đây là một gian miếu nhỏ thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu (bà chúa phù hộ cho thương nhân vượt sóng gió đại dương) được vớt tại bờ biển Hội An vào năm 1697. Qua nhiều lần trùng tu, với sự đóng góp của Hoa Kiều bang Phúc Kiến, hội quán ngày càng trở nên khang trang và trở thành một trong các công trình
văn hóa của Hội An. Bên trong thờ 6 vị Tiên Hiền (lục tánh), bà mụ và thần tài ... Hàng năm, vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng âm lịch), Vía Lục Tánh (16 tháng 2 Âm lịch), vía Thiên Hậu (23 tháng 3 âm lịch) ... tại hội quán Phúc Kiến diễn ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều người tới tham dự. Hội quán Phúc Kiến đã được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia ngày 17.2.1990.
-Hội quán Triều Châu
Hội quán được người Hoa bang Triều Châu xây dựng vào năm 1845 để thờ Phục Ba Tướng quân Mã Viện, một vị thần giỏi chế ngự sóng gió, giúp cho việc di chuyển buôn bán trên biển được an bình. Hội quán có giá trị đặc biệt về kiến trúc với bộ khung gỗ, hoạ tiết, hương án chạm trổ tinh xảo và những tác phẩm đắp nổi bằng sành sứ tuyệt đẹp.
-Hội quán Quảng Đông
Hội quán được người Hoa Bang Quảng Đông xây dựng vào năm 1885. Ban đầu hội quán dùng để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và Đức Khổng Tử. Sau năm 1911 chuyển sang thờ Quan Công và các bậc Tiền bối của Bang. Hàng năm, vào ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), vía Quan Công (24 tháng 6 Âm lịch) tại đây diễn ra lễ hội rất linh đình.
-Hội quán Ngũ Bang
Hội quán Ngũ Bang còn có tên là hội quán Dương Thương hay Trung Hoa hội quán, do các thương khách người Hoa gốc Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nam, Gia Ứng xây dựng vào năm 1741 để làm nơi thờ tự Thiên Hậu Ngũ Bang.
2.5-Bảo tàng gốm sứ Mậu Dịch
Được xây dựng vào năm 1995, bảo tàng lưu giữ trên 430 hiện vật gốm sứ có niên đại từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 18. Hầu hết gốm sứ mậu dịch có nguồn gốc từ Trung-Cận Đông, Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Thái Lan và Việt Nam.
2.6-Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh
Bảo tàng là nơi tàng trữ các di ảnh và di vật của người dân thuộc văn hoá Sa Huỳnh. Tại đây trưng bày 216 hiện vật văn hoá có niên đại trên dưới 2000 năm được phát hiện qua các đợt khảo sát và khai quật tại các địa điểm: Hậu Xá, Thanh Chiêm, An Bàng, Xuân Lâm ... từ năm 1989 đến năm 1994. Các hiện vật tại bảo tàng viện này được đánh giá là công trình sưu tập độc đáo nhất của Việt Nam về văn hoá Sa Huỳnh.
2.7-Phố Cổ Hội An
Trong lịch sử hình thành và phát triển, Hội An đã được thế giới biết đến dưới nhiều tên gọi khác nhau. Phổ biến nhất là: Faifo, Haisfo, Hoài phố, Ketchem, Cotam... Các di chỉ khảo cổ, các hiện vật và công trình kiến trúc còn lưu lại đã chứng minh Hội An là nơi hội tụ, giao lưu giữa nhiều nền văn hoá như: Chăm, Việt, Hoa và Nhật Bản ... trong đó chịu sự ảnh hưởng nhiều nhất của hai nền văn hoá là Việt Nam và Trung Hoa.
Đến nay, khu phố cổ Hội An vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng di tích kiến trúc cổ, gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình chùa, miếu, giếng cầu, nhà thờ dòng tộc, bến cảng, chợ... và những con đường phố hẹp chạy ngang dọc tạo thành các ô vuông kiểu bàn cờ.
Theo tài liệu thống kê, đến nay Hội An có 1.360 di tích, danh lam thắng cảnh. Riêng các di tích được phân thành 11 loại, gồm: 1.068 nhà cổ, 19 chùa, 43 miếu thờ thần linh, 23 đình, 38 nhà thờ tộc, 5 hội quán, 11 giếng nước cổ, 1 cầu, 44 ngôi mộ cổ. Trong khu vực đô thị cổ có hơn 1.100 di tích.
3-Thực phẩm nổi tiếng của Hội An
3.1-Hoành thánh
Tương truyền, vua Càn Long bị giặc cướp rượt đuổi, lạc đường và bụng đói. Ngài vào một quán nhỏ nhưng không còn thức ăn. Quán chỉ còn trứng gà, một ít bột mì và tôm nên bọn tùy tùng phải lấy trứng trộn với bột, bọc tôm, rồi nặn thành bánh, một món ăn mà từ trước chưa ai làm. Vua ăn xong thấy ngon bèn đặt ngay cho một cái tên là "hoành thánh".
Để ăn hoành thánh nước, bánh được lót lá chuối đặt trên cái xửng rồi cho vào nồi hấp chín lớp vỏ. Nước súp được nấu bằng xương heo nhiều nạc. Nấm rơm, su, thơm... cho vào nồi nấu chín rồi giảm lửa. Khi ăn, bánh được trụng lại cho thật chín, để vào tô. Để tăng độ ngon, hoành thánh nước nên kèm một ít sa tế, tóp mỡ chiên vàng và hành ngò.
Vào mùa mưa, người Hội An thường ăn hoành thánh chiên. Bánh được gấp 4 mí vuông vức, chiên ngập trong chảo dầu cho chín vàng và dòn. Khi ăn, xếp bánh ra đĩa, bên dưới rải một lớp xà lách, cà chua mỏng và rau thơm, rồi chan nước súp lên trên.
Còn một món hoành thánh khác là hoành thánh mì, làm tương tự như hoành thánh nước nhưng có thêm mì sợi.
3.2-Bánh tráng đập
Người dân miền Trung, nhất là vùng Quảng Nam - Đà Nẵng thích ăn bánh tráng đập, để thay đổi các món có nhiều chất béo và mau ngán như các loại thịt, cá... Bánh tráng đập gồm 2 lớp, lớp bánh tráng nướng tương đối mỏng đường kính khoảng 20cm có mầu hơi vàng. Khi ăn, người bán trải trên bánh một lớp bánh tráng mỏng mềm và dẻo, có độ lớn tương đương rồi dùng cạnh bàn tay để đập xấp bánh này làm đôi. Phần bánh tráng nướng dòn nên bị vỡ, phần bánh tráng mỏng có dộ dẻo nên giữ bánh tráng nướng không bị rơi ra ngoài. Bánh tráng mỏng phải trắng và dẻo, làm từ gạo thơm. Có nơi người ta thoa lên bề mặt của bánh ướt một ít dầu phụng đã phi hành, tỏi rất thơm.
Ở các vùng nông thôn như Điện Bàn, Đại Lộc, Hòa Vang người dân quê thích ăn loại bánh tráng đập to và dày hơn (trên 30cm). Bánh tráng đập chấm với mắm nêm hoặc mắm cái mới ngon. Bẻ miếng bánh khoảng 2 ngón tay, chấm mắm đưa vào miệng nhai vừa dòn, vừa dẻo lại vừa thơm.
3.3-Bánh ít lá gai
Bánh ít lá gai lớp ngoài bọc bằng bột nếp trộn đường và nước lá gai để có màu đen bóng. Nhân làm bằng đậu xanh không vỏ có màu vàng. Bánh ít lá gai và bánh su-sê đều được bọc bằng lá chuối màu xanh. Nhìn bên ngoài, bánh gói có chóp nhọn là bánh ít lá gai, còn dẹp là bánh su-sê.
Để giữ cho vỏ bánh có màu xanh, khi hấp bánh không để lửa cháy quá lớn hay quá nhỏ và phải canh giờ để vớt bánh ra. Tuy cùng nguyên liệu, nhưng mỗi loại bánh có một hương vị đặc biệt. Bánh ít lá gai có vị ngọt của đường, bùi béo của bột nếp và hơi đăng đắng mùi lá gai. Bánh su-sê khi ăn có vị thơm của cốt dừa và những sợi dừa tươi hòa trong nhân bánh khi nhai nghe sừn sựt, béo ngậy.
3.4-Bánh Su-sê
Bánh Su-sê hay còn gọi là bánh phu thê. Tên gọi này gắn liền với câu chuyện kể về vợ chồng người lái buôn thuở xưa. Chuyện kể rằng, trước lúc người chồng lên đường đi buôn ở phương xa, người vợ làm bánh tặng chồng và thề rằng cho dù xa nhau nhưng lòng nàng vẫn luôn ngọt ngào, đậm đà như bánh. Chồng cảm động đặt tên cho bánh là phu thê (tức bánh vợ chồng). Chẳng ngờ đến phương xa, người chồng bị say đắm bởi sắc đẹp của các cô gái lạ và không muốn quay về. Người vợ ở nhà biết tin liền làm bánh gởi cho chồng kèm theo lời nhắn:
Từ ngày chàng bước xuống ghe,
Sóng bao nhiêu đợt bánh phu thê rầu bấy nhiêu.
Nhận được bánh và lời nhắn của vợ, người chồng hối hận liền tức tốc quay về và không còn nghĩ đến chuyện thay lòng đổi dạ nữa. Từ đó bánh phu thê thường hay có mặt trong các tiệc cưới, nhằm nhắc nhở các đôi vợ chồng phải đề cao sự thủy chung.
Bánh Su-sê có màu vàng nhạt, dẻo, vị ngọt và thơm. Bánh cũng được bao bọc bởi một lớp lá chuối giống như bánh ít lá gai. Là một trong những loại đặc sản được bày bán nhiều nơi ở Hội An. Bánh Su-sê nguyên liệu như bánh ít, nhưng không sử dụng với lá gai mà trộn với nước cốt dừa, trang trí thêm bằng cơm dừa bào sợi nhỏ
3.4-Cao lầu
Nguồn gốc của món cao lầu đến nay vẫn là đề tài bàn tán của nhiều người. Có người cho rằng cao lầu xuất xứ từ xứ sở hoa anh đào (Nhật Bản), có nét giống món mì ở vùng Icé (Ice udon). Có người lại cho rằng cao lầu xuất phát từ Trung Hoa. Những người Hoa ở Hội An không công nhận đây là món ăn truyền thống của họ. Dù có nguồn gốc từ đâu thì cao lầu vẫn là món ăn riêng có của Hội An và ngày càng được nhiều thực khách biết đến.
Sợi cao lầu được cán từ bột gạo ngâm với nước tro, hấp qua 3 lần lửa, nên cứng và có màu vàng tự nhiên. Nhân cao lầu chủ yếu là thịt xá xíu, trộn với ít tép mỡ chiên dòn. Cao lầu ăn với rau sống, xì dầu và tương ớt. Chế biến Cao lầu vẫn là nghề bí truyền. Có người nói rằng, ngày xưa người ta phải ra tận đảo Cù Lao Chàm lấy củi đốt thành tro đem về ngâm với nước giếng Bá Lễ ở Hội An thì mới chế biến được sợi cao lầu ngon như ý .
3.5-Mìø Quảng
Mì Quảng, từ lâu đã được biết đến như món ăn đặc trưng của vùng đất Quảng Nam. Bây giờ, ngoài Quảng Nam, nhiều nơi cũng có quán mì Quảng. Cũng như phở, bún hay hủ tiếu, mì Quảng cũng được chế biến từ gạo thành bánh tráng rồi thái thành sợi. Nhân mì thường được chế biến từ nhiều loại khác nhau như: tôm, gà, thịt heo, thịt bò, cá lóc, cua... Người ta cũng làm cả mì chay dành cho giới tu hành. Dù làm bằng nhân gì đi nữa, mì Quảng cũng không thể thiếu cái bánh tráng nướng, trái ớt xanh, lát chanh, vài hạt đậu phộng và đĩa rau sống. Rau để ăn mì Quảng thường là rau muống chẻ nhỏ hoặc cây cải con trộn với búp chuối non thái mỏng, rau thơm và rau quế.
4-Thủ Công Nghiệp
Về hàng thủ công, Hội An xuất khẩu đi các nước gồm tơ lụa, hàng gốm và gỗ... Gốm Cochi (Giao Chỉ) được người Nhật ưa thích và đưa về nước là gốm Thanh Hà xứ Quảng. Người thợ mộc Kim Bồng làng Cẩm Kim và người làm gốm thuộc làng Thanh Hà còn nổi tiếng với những công trình kiến trúc gỗ tuyệt mỹ hiện còn lưu lại trên từng mái nhà và góc phố Hội An. Bàn tay tài hoa của họ còn góp phần trong các công trình xây cất tại kinh thành Huế.
Theo sưu tầm, hiện có 12 ngành nghề chính đang hoạt động tại Hội An gồm: Mộc, gốm mỹ nghệ, lồng đèn nghệ thuật, đan lát mây tre, chằm nón, dệt chiếu, dệt vải, thêu thùa, may mặc, sơn mài, chạm khảm gỗ ...
5-Lễ Hội
5.1-Lễ hội Cầu Bông, Hội An
Cứ vào mùng 7 tháng Giêng, nông dân làng rau truyền thống Trà Quế - Hội An lại cúng lễ Cầu Bông. Cầu Bông là một lễ hội cầu mưa cho làng trồng rau. Tập quán này có từ thuở người dân vào xứ Quảng khai khẩn đất đai và khám phá vùng đất này rất thích hợp trong việc trồng rau mùi.
Người dân không chỉ tập trung để cúng tế tại đình, mà cả làng và mỗi gia đình đều chuẩn bị một mâm lễ vật để Cầu Bông. Lễ vật cần phải có là một con gà trống miệng ngậm hoa, trên lưng cắm một con dao làm bằng tre, năm đĩa xôi hồng trên cắm năm cái bông rực rỡ và một ly rượu trắng.
5.2- Nghi lễ mở mùa
Từ sớm tinh mơ, trống chiêng khua vang, mọi người tụ hội về đình Tiền Hiền để nghinh thần. Kiệu có hoa quả tươi, lư hương và án thờ được bốn chàng trai làng vận lễ phục khiêng đi. Trước đoàn rước là hai hàng cờ, biển, sau kiệu thần là trống chiêng, đội gia lễ, đội cổ nhạc, các nghệ nhân và bô lão trong sắc phục áo dài khăn đóng. Lễ nghinh thần của nông dân Trà Quế bao giờ cũng có thêm đoàn phụ nữ vận áo dài, tay dâng mâm ngũ quả.
Đoàn nghinh thần vừa đến đình, các bô lão tiến hành lễ cúng đất và cúng âm linh theo nghi thức truyền thống. Bàn thờ cúng đất đặt trước và đối diện với bàn cúng chính. Trên bàn bày hoa quả, gạo muối, thịt heo, áo giấy và văn tế âm linh. Sau một năm làm ăn vất vả, đến lúc được nghỉ ngơi, người nông dân luôn ngưỡng vọng về ân đức của ông bà, tổ tiên.
Tiếp sau đó, mọi người bước vào phần tế lễ chính thức. Theo người dân nơi đây, gà giò cúng phải là gà trống, nuôi vừa mới lớn, có màu lông đẹp, được luộc hết sức cẩn thận; da, gân phải còn nguyên vẹn. Văn tế có nội dung tôn vinh, ngưỡng vọng công đức tổ tiên, những người đã khai hoang, lập nên làng rau truyền thống trong hơn 500 năm qua. Sau khi lễ tế xong, các cụ cao niên tập trung lại để xem giò gà. Nếu gặp giữa bàn chân gà đầy đặn thì xóm làng bình an, khá giả, hoa trái tốt tươi. —————————————
Tài liệu tham khảo:
1.http://myhoian.com/index.php?nv=News&at=article&sid=28
2.(http://www.hoianhandicraft.com/products/index.php?act=vie &code=prod&id=18
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
Khi nói tới miền Trung, người ta liên tưởng ngay tới núi đồi khô cằn, ghềnh thác cheo leo và cảnh sống khổ sở của dân chúng qua câu hò khá phổ biến:
"Quê hương em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo hạ thời thiếu ăn, trời rằng trời hành cơn lụt mỗi năm... hò ơi... khiến đau thương thấm tràn ngập Thuận An để lan biển khơi... ới hò..."
Nếu dân nghèo đói như vậy thì khi nói tới món ăn ngon, người ta không khỏi thắc mắc: "có gì phải nói?"
Nhưng thực tế không hẳn như vậy. Những ai đã từng đọc tác phẩm "Miếng ngon Hà nội" của nhà văn Vũ Bằng và "Hà nội 36 phố phường" của Thạch Lam, hoặc những thiên tuỳ bút của Nguyễn Tuân... mới thấy vấn đề ăn uống của dân tộc Việt Nam nói chung và dân miền Trung nói riêng không thua gì các dân tộc khác trên thế giới. Ăn uống còn được coi là hoạt động có tính chất văn hoá, nó phản ảnh được lối sống của người dân qua từng thời đại.
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng - ăn đi trước lội nước đi sau - ăn cá nhả xương, ăn đường nuốt chậm - ăn cháo đái bát - ăn cây nào rào cây nấy - một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp v.v… là những câu ca dao tục ngữ nói lên phong cách và giá trị của người biết ăn ở thế nào cho phải lẽ và ăn thế nào cho hợp cách.
Món ăn Huế được nói tới trong nhiều sách nấu ăn. Hàng trăm món ăn nổi tiếng của đất Thần Kinh không thể kể hết trong một bài viết. Ở đây chúng tôi chỉ tham khảo một số món ăn tiêu biểu được vua quan và người dân yêu thích.
I-MÓN ĂN CỦA GIỚI VƯƠNG GIẢ
Dưới các triều vua Nhà Nguyễn thường có khoảng 50 người đầu bếp nổi tiếng nhất trong nước được tuyển vào cung vua để nấu nướng mà người ta quen gọi là đội Thượng Thiện. Đứng đầu đội Thượng Thiện dưới thời vua Khải Định và Bảo Đại là cụ Hồ Văn Tá.
Trong một bài viết của báo Thanh Niên có ghi lại lời kể của chị Hồ Thị Hoàng Anh, cháu của cụ Tá, câu chuyện thú vị về những món ăn vương giả của vua chúa Nhà Nguyễn như sau:
Trừ các buổi đại yến và đại tiệc ngoại giao tiếp các sứ thần nhân dịp Quốc khánh, mỗi ngày nhà vua ăn ba bữa như dân chúng. Khác chăng là bữa ăn của vua có rất nhiều món.
Bữa điểm tâm có 12 món, đựng trong các chén dĩa nhỏ nhắn xinh xắn, được gắp bằng đũa tre cho nhẹ. Đũa ngà, đũa ngọc tuy sang trọng, song ít dùng vì nặng tay. Món nào trong các thứ sơn hào hải vị nhà vua khen ngon, các bà nội cung sẽ nhắc nhở đội Thượng Thiện nấu nướng. Vào bữa trưa có 66 món, trong đó có hơn 50 món mặn nấu từ đặc sản các miền như: vây cá, bào ngư, gân nai, thịt công, cá sấu, tay gấu, da tê giác, đợn chân voi... Người ta phơi khô hoặc để nguyên như vậy cạo sạch lông, hầm với các vị thuốc bắc chế biến thành những món ăn đặc biệt để nhà vua tiện dùng. Nấu xong, múc ra chén dĩa sẵn, hễ nghe chuông rung thì lẹ làng vén khéo sắp vào những quả sơn son thếp vàng, đậy nắp, niêm lại. Người ở ngoài nhà Trù không nằm trong đội Thượng Thiện tuyệt đối không được đến gần các món ăn vừa nấu xong. Đợi khi thái giám mang trình các bà nội cung, các bà sẽ tiến dâng vua vào giờ ngọ (12 giờ trưa).
Bữa thứ ba vào khoảng năm giờ chiều, số món ăn vua ngự thiện tương tự buổi trưa, gồm 50 món mặn, 16 món ngọt.
Nước dùng (canh) nấu ăn cho vua phải lấy từ giếng Hàm Long, chùa Bảùo Quốc, giếng Cam Lồ dưới núi Thúy Vân, hoặc từ thượng nguồn sông Hương. Gạo phải chọn loại ngự túc do bộ Hộ cung tiến từng quý một. Thường là loại gạo "de" trồng tại đồng An Cựu thuộc kinh thành Huế đặc biệt thơm ngon. Nồi đất dùng nấu cơm chế tác riêng tại làng Phước Tích, nấu xong một lần là đập bỏ.
Tất cả các bữa vua đều ngồi ăn một mình. Các phi tần, thái giám đứng hầu để chờ sai. Người nào việc nấy phải im lặng mà làm, không được ồn ào khua động đồ đạc lúc vua ngự thiện. Chỉ có tiếng nhạc tấu lên dịu dàng, khe khẽ.
Theo chị Hoàng Anh, đối với các ông hoàng, bà chúa, tuy bữa ăn không sang trọng, quý lạ như các món ở cung đình, không đủ "bát trân" nhưng cũng chẳng thiếu "thượng cầm, hạ thú" như: chim cu xanh quay, heo rừng tái, cá chình hon, gỏi dê, thấu thỏ...
Món ngọt ngày Tết trong cung vua thường là các loại bánh khô, bánh đóng khung hình chữ nhật, gói giấy ngũ sắc, bên ngoài dán miếng giấy nhỏ hình thoi ghi tên từng loại bánh bằng chữ Nho, trông thật vui mắt. Vì ngày Tết ở miền Trung trời thường mưa phùn khá lạnh, không sẵn các loại hoa quả, nên trong cung làm bánh có hình các loại trái tươi tốt dâng cúng và dùng trong ba ngày Tết, như bánh hình trái phật thủ, trái lựu, trái đào, nhân sâm được xếp thành hình tháp trên quả bồng sơn son thếp vàng hoặc bằng sứ men lam, mang lời chúc tốt lành năm mới kèm theo. Cạnh đó là mứt bát bửu làm từ các loại mứt quý và thịt heo quay. Mứt cam sành, nguyên trái trông như cái lồng đèn xinh xinh nho nhỏ, ngọt ngào và thơm mùi tinh dầu của vỏ cam tươi lưu lại. Các loại củ quả như bí đao, đu đủ, gừng nguyên củ, gọt tỉa thành hình các con vật trong tứ linh (Long, Ly, Quy, Phượng), cũng đều dùng làm bánh mứt.
Có rất nhiều loại món ăn và bánh trái trong cung đình, ở đây cần nhắc đến một món không thể thiếu là yến sào. Yến sào đứng đầu trong danh mục 24 món mà vua
Nguyễn chiêu đãi sứ thần Trung Hoa, thứ tự như sau:
1-Yến sào, 2- bào ngư, 3- hải sâm, 4- nhu ngư, 5- bóng cá, 6- cá viên, 7- tôm càng, 8- cua biển, 9- cá dấm, 10- gân nai, 11- thịt dê, 12- bao tử heo, 13- thịt móng ngựa, 14- thịt heo, 15- giò heo hầm, 16- gà quay, 17- gà hầm, 18- vịt hầm, 19- thịt gà luộc, 20- chim bồ câu trắng hầm, 21- thịt ngỗng quay, 22- chả lụa, 23- chả bông, 24- chả chiên.
Yến sào lấy từ tổ của những con chim yến ngoài biển, như ở Cù lao Chàm thuộc phố cổ Hội An. Có những con yến rã rời sau một kiếp làm chim đã nhỏ những giọt máu cuối cùng trên tổ ấm của mình, rồi chết. Xác của chúng được người ta gỡ ra cùng cái tổ và đem nung lên thành tro, viên lại thành bột để tiến cung. Những giọt máu màu hồng của chúng rất quý đối với những người nấu ăn ở cung đình, vì chúng thấm vào tổ yến thành một loại gọi là hồng yến, được liệt vào loại thức ăn quý hiếm bồi bổ sức lực cho các vị vua chúa. Xem vậy, ngoài dưỡng chất ngon ngọt người ta thường hiếu kỳ muốn biết, món ăn ở cung đình vẫn không kém phần cay đắng như ngoài đời, nếu người ta tìm hiểu rốt ráo, tận cùng của nguồn nguyên liệu thơm tho từ các tổ chim tan tác kia.
II-MÓN ĂN CỦA GIỚI BÌNH DÂN
2.1-Bún Bò Huế
Ngày nay, bún bò Huế được biết tiếng và phổ biến cả trong nước và ở nước ngoài, không thua gì phở. Người Việt mà chưa ăn bún bò Huế thì kể như chưa biết món ăn ngon và phổ thông của dân Thần Kinh. Nhiều gia đình Việt Nam ở ngoại quốc cũng học nấu bún bò Huế cho gia đình ăn hoặc đãi khách. Cách pha chế và thêm bớt gia vị nhiều khi khác nhau. Nhưng tựu chung, muốn nấu bún bò Huế người ta phải chuẩn bị ba thứ căn bản là bún cọng lớn, thịt bò bắp có gân và chân giò hay móng heo.
Bún ngon hay không, cũng như phở, là nồi nước dùng (nước súp). Muốn nước bún bò thơm ngon cần biết cách nấu. Trước hết, theo cách nấu xưa, phải quậy mắm ruốc ra với nước, để cho lóng xuống, lấy phần nước trong ở trên nấu mới vừa thơm ngon, vừa đậm đà mà không hôi.Gia vị cần phải có là xả, mắm ruốc, ớt màu và rau răm. Nếu thiếu bốn món nầy sẽ không thành mùi Bún Bò Huế. Muốn cho nồi nước súp có mầu đỏ, người ta thường dùng ớt mầu phi với tỏi, rồi đổ lên trên mặt nước nồi súp. Tô bún bò Huế phải cay, không cay không phải là bún bò Huế. Muốn ăn cay hơn, người ta bỏ thêm ớt sa tế (ớt tỏi phi với dầu).
Cũng là bún bò Huế, nhưng các tiệm tại miền Nam bán thường có thêm đĩa rau, gồm giá sống, rau muống chẻ hay bắp chuối sắt mỏng.
2.2-Bánh canh
Ở Huế có nhiều làng nấu bánh canh nổi tiếng như Nam Phổ (xã Phú Thượng, Huế), Thuỷ Dương, An Cựu…
Bánh canh Nam Phổ nấu với chả tôm. Bánh canh An Cựu lại nấu đủ thứ như: da heo, chả heo viên nhỏ, huyết vịt, chả cua. Ưng Bình Thúc Dạ Thi, nhà thơ người Hoàng Tộc nổi tiếng của Huế đã ca ngợi hết lời món bánh canh Nam Phổ mà ông rất ưa thích trong một lời ca Huế:
Mời anh chị chén bánh canh Nam Phổ,
Xơi vô bổ khoẻ, có chất bổ có mùi hương,
Lại thêm bát mẻ can trường,Sâm Cao Ly cũng sút, rượu Quỳnh Tương cũng không bằng.
Bánh canh cá lóc thì chế biến cầu kỳ hơn. Sau khi nhào bột "chín", phải làm cá lóc. Cá lóc (cá đô, cá tràu theo cách gọi của miền Trung) được hấp vừa chín tới, săn từng thớ thịt. Sau khi hấp, người ta phải tách riêng thịt cá, lòng cá, xương và đầu. Xương và đầu cá giã cho nhỏ rồi gói vào miếng vải mỏng bỏ vào nồi súp để cho nước ngọt. Lòng cá lóc là loại món nhậu rất được ưa thích, người ta thường bỏ riêng để bán cho những người đặt hàng trước, hoặc để riêng tiếp khách sành điệu khi vào quán gọi bánh canh lòng cá lóc. Còn thịt cá ướp tiêu, mắm, ớt và hành cho thơm. Khi khách muốn ăn, người bán hàng mới cán bột và cắt bánh thành từng sợi vừa đủ rồi nhúng vào nước sôi cho sợi bánh chín. Vớt sợi bánh ra đổ vào bát, gắp thịt cá lóc bỏ vào, rồi múc nước dùng chan lên. Bánh canh cá lóc phải ăn khi đang thật nóng mới ngon. Muốn thưởng thức tô bánh canh vừa ngon, vừa cay toát mồ hôi, khách hàng có thể cho thêm ớt bột loại thật cay, hành thái nhỏ và tiêu.2.3-Các loại kẹo
-Mè xửng
Ngoài bún bò Huế, Mè Xửng cũng là món tuyệt hảo của dân đất Thần Kinh. Ai ra Huế mà chưa thưởng thức và mua về cho gia đình vài ký Mè Xửng thì cũng kể như chưa biết loại kẹo ngon, ăn một miếng lại muốn ăn hai, của Cố Đô. Mè xửng là một trong những đặc sản đã trở thành biểu tượng văn hóa thực phẩm của Huế, giống như cơm hến, tôm chua v.v…
Muốn biết Mè Xửng ngon, khi đi mua chỉ cần cầm miếng mè xửng lên thấy màu vàng trong suốt, bóp (hoặc bẻ) thấy mềm nhẹ nhưng không gẫy, thả tay ra lại trở về hình dạng cũ, có mùi thơm của mè thì mới chính là Mè Xửng thứ thiệt.
Cách nấu mè xửng như sau: "Một chảo (gọi là một mẻ) gồm có các nguyên liệu ba cân rưỡi mè (vừng), bốn cân đậu phộng nhân (lạc nhân), chín cân đường trắng và ba đến bốn cân bột gạo. Bột gạo để làm mè xửng ngon là bột gạo La Khê huyện Hương Trà, hay bột gạo mua từ Sa Đéc, miền Nam. Bột mịn phải không vón cục khi nấu. Trước hết người ta nấu đường đến độ sôi nhất định thì cho đậu phụng (đã rang vàng, vỡ đôi) và bột gạo vào rồi khuấy thiệt mạnh và liên tục để không bị cháy. Mè rang vàng xong chà vỏ, rắc một lớp lên khuôn. Khi dung dịch đường, đậu và, bột đã nấu chín tới độ là đổ vào khuôn, rồi rắc lên trên một lớp mè thứ hai. Đợi tới khi độ nóng giảm vừa thì dùng dao hay kéo cắt thành miếng, đóng gói theo định lượng. 2.4-Các loại bánh mặn và ngotï
-Bánh bèo bì
Bánh bèo bì to và dày hơn bánh bèo Huế (phải cắn ba bốn lần mới hết). Ngoài bì ra, bánh bèo bì còn được ăn kèm với rất nhiều thứ. Trên mặt bánh bèo được trét lớp đậu xanh, mỡ phi hành lá còn nguyên màu tươi và tóp mỡ màu nâu béo ngậy. Cuối cùng là lớp bì màu vàng của bột thính. Đặc biệt, bì phải đi kèm với thịt ba rọi thái nhuyễn rồi chiên. Ăn bánh bèo bì muốn cho ngon và đúng cách người ta phải chan nước cốt dừa, nước mắm ngọt pha loãng, như chan canh. Bánh bèo bì ai ăn không quen sẽ thấy ngán, nhưng một khi đã thử nhiều lần rồi sẽ nhớ hoài.
-Bánh nổ (bánh Cốm) ngày Xuân
Dân nhiều nơi trong tỉnh Quảng Ngãi, ngày xuân thường làm các loại bánh để cúng ông bà và ăn Tết, như bánh in, bánh thuẫn, bánh gai, bánh tét, mâm ngũ quả, v.v. nhưng không thể thiếu được món bánh nổ. Không có bánh nổ, coi như chưa phải ăn Tết.
Tại sao lại gọi là bánh nổ?
Có lẽ đơn giản chỉ vì người ta rang thóc nếp cho nổ bung để làm bánh. Muốn có những lát bánh nổ thơm ngon dòn ngọt, người ta chọn lúa nếp từ vụ trước đem phơi rồi cất kỹ vào kho không bị ẩm ướt. Gần ngày làm bánh, lúa nếp lại được đem ra phơi cho thật khô, khi rang mới nở bung như hoa chanh, hoa cam. Sau khi sàng sảy, dần đãi cho sạch vỏ trấu thì bắt đầu bỏ vào khung đóng bánh.
-Bánh bèo xứ Huế
Bánh bèo là món ăn bình dân mà bất kỳ nơi nào ở thành phố Huế cũng có. Cách làm Bánh bèo cũng khá đơn giản. Bột gạo lọc kỹ quấy đều không để vón, trộn chút mỡ rồi đổ vào các chén nhỏ xinh xinh (loại chén thuở xưa hay dùng, gọi là chén bông cỏ làm bằng đất nung là đúng kiểu nhất). Khi đổ bột phải làm sao cho khéo để bánh thật mỏng và nhỏ trông giống như một cánh bèo, rồi đem hấp cách thủy, chín vừa tới là được. Nhân bánh làm bằng tôm tươi lột vỏ giã thật nhuyễn, chiên vàng với hành mỡ. Thưởng thức bánh bèo đúng cách là phải ăn bánh trong từng chén nhỏ, chứ không đựng bánh trong bát hoặc đĩa, như một số nhà hàng hoặc khách sạn làm cho sang trọng. Trên mỗi chiếc bánh rắc một ít tôm chiên (gần giống như ruốc tôm của miền Bắc) bên cạnh là mấy miếng tóp mỡ xinh xinh.
Bánh bèo ngon là nhờ ở nhân tôm chiên và nhất là nước chấm đặc biệt được làm bằng nước mắm hòa với mỡ, đường, tỏi và ớt. Cái khéo ở đây là người pha nước chấm sao cho thật vừa, không mặn không nhạt, hơi ngọt một chút. Bánh bèo xứ Huế được bày vào mâm gỗ, mỗi mâm từ 6 đến 10 chén tùy theo ý của khách hàng.
-Bánh khoái Thượng Tứ
Khách thập phương đến Huế lần đầu ai cũng muốn tìm đến Thượng Tứ, ở phía Đông Nam kinh thành, để thưởng thức một món ăn mà những lời tán tụng về nó đã lan truyền khắp tứ xứ. Đó là bánh khoái. Chỉ riêng cái tên gọi này cũng đã gợi lên sự tò mò và hấp dẫn đối với giới ẩm thực. Nhiều người đã tốn giấy mực để bàn cãi về nguồn gốc tên gọi bánh khoái mà vẫn chưa ngã ngũ.
Có người cho rằng nguyên gốc của tên bánh là Bánh Khói, nhưng do người Huế phát âm chệch đi nên thành ra bánh khoái. Có người cho rằng, bánh vừa chiên xong, nóng hổi, cắn miếng nào khói bốc theo miếng ấy, nên gọi là Bánh Khói. Người khác cho rằng, trong một quán nhỏ mà bốn năm bếp lò hừng hực lửa củi để chiên bánh đặt ngay trước cửa, khói cay muốn nổ con mắt, nên gọi là Bánh Khói?
Lúc cô hàng bưng bánh ra, nhìn đĩa bánh vừa vàng lại vừa nóng dòn thơm phức, bên cạnh có đĩa rau sống tươi xanh và tô nước lèo còn bốc khói khách hàng nào thấy mà không khoái? Ăn hết một đĩa bánh lại muốn gọi thêm. Như vậy gọi là Bánh Khoái cũng đúng thôi.
Bánh khoái Huế có chung nguồn gốc bánh xèo trong Nam. Nhưng về cách làm mà người Huế gọi là đổ bánh, thì có khác. Bột gạo khuấy trong nước lạnh, pha thêm chút muối và đường thắng để bánh có màu vàng cho ngon mắt. Tôm bóc vỏ ướp với thịt heo nạc rồi xào sơ qua với nấm hương hoặc nấm mèo xé nhỏ để làm nhân bánh.
Rau sống ăn bánh khoái phải có đủ: cải con, rau thơm, khế, chuối chát, trái vả... Trái vả chỉ ở Huế mới có nên bánh khoái Huế ngon lừng danh và có hương vị riêng biệt. Nước lèo thì phải chế biến từ tương, đậu nành, gan heo bằm nhỏ, đậu phụng hoặc mè, thêm chút bột và gia vị vừa đủ, nấu chín thành một thứ súp sền sệt có mùi thơm đầy
quyến rũ.2.5-Các loại Chè ngọt
Ở Huế từ chiều tối đến khuya thì cái gì cũng ngọt, ngọt lịm, ngọt như mía lùi, vì từ giờ phút ấy các cô bán chè Huế bắt đầu hoạt động. Tiếng rao hàng chè lanh lảnh khắp nơi, ngay cả trên sông Hương cũng có những chiếc thuyền nho nhỏ thắp đèn lồng lấp lánh, bán mọi thứ chè. Các cô tươi cười mời du khách trên thuyền ăn chè trong khi họ đang thưởng thức những điệu Nam Bình, Nam Ai, Lưu Thủy, Tứ Đại Cảnh và ngắm cảnh trăng thanh gió mát.
Một số loại chè nổi tiếng được nói tới như:
-Chè bắp: Chè này nấu từ bắp ngô non ở Cồn Hến (dân Huế gọi là bắp Cồn). Bắp ngô còn non sữa nấu với đường sẽ thành thứ chè vừa dẻo vừa có vị ngọt thơm ngon. Hiệnnay ở Cồn Hến có hàng chục quán chè bắp rất hấp dẫn khách du lịch.
-Chè thập cẩm là tổng hợp của nhiều loại chè như chè đậu xanh dừa, chè đậu đỏ, chè bột lọc... Người bán hàng múc mỗi thứ chè một ít, cho vào ly và thêm đá, thêm chút nước cốt dừa rồi mời khách.
-Chè thịt quay được chế biến từ những miếng thịt heo quay cắt nhỏ bằng cục xúc xắc (cả bì cả thịt), bên ngoài bọc màng bột sắn, sên đường rồi nấu thành chè. Loại chè này khi ăn người ta có cảm giác lạ, như cùng một lúc vừa dự tiệc mặn, vừa tiệc ngọt.
-Chè hột sen: Muốn cho loại chè này ngon và hương vị tuyệt hảo, người ta phải dùng hột sen hồ Tĩnh Tâm, loại sen có mùi vị rất thơm và hột bở; vỏ ngoài và vỏ lụa đều mỏng, tim sen lại nhỏ.
-Chè đậu ngự: Chè này có cái tên lạ mà người ta cho rằng có thể vì chè này dâng cho vua ăn, nên có tên chè "Ngự"? Khi ăn, người ta thấy hột đậu ngự thơm và bở.
-Chè đậu quyên: che này giống như chè đậu ngự, nhưng ít mùi thơm. Đậu hột nhỏ và vỏ dầy hơn. Ðậu quyên không dâng vua ngự, nên thuộc loại chè bình dân.
-Chè đậu váng: chè này có hai tên gọi là chè đậu váng đặc và chè đậu váng lỏng. Sự khác biệt ở chỗ khi nấu chè đậu váng đặc người ta bỏ thêm bột lọc cho chè "sệt sệt".
-Chè đậu xanh: Gọi là chè đậu xanh vì vỏ và hột đậu đều màu xanh đậm hay màu lá mạ. Chè này có 3 thứ:
-Chè đậu xanh đặc: người ta hột đậu nấu chín nhừ và đông đặc lại như bánh,
-Chè đậu xanh nước, chè này nấu nguyên hột đậu còn vỏ,
-Chè bông cau: người ta bóc hết vỏ hột đậu, bỏ thêm bột lọc cho "sệt sệt" và trên mặt rắc thêm bột trông giống như bông cau (hoa cau).
-Chè Kê: Có một thứ chè mà hàng năm cứ đến ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch thì nhiều người nấu. Đó là chè Kê. Cây kê lớn như cây bắp (cây ngô) và hột lại nhỏ như hột cát. Kỷ niệm ngày mồng 5 tháng 5 là tục của người Trung Hoa tưởng nhớ một vị danh y tên là Điếu Khuất Nguyên. Dưới thời kỳ Bắc Thuộc, ngày lễ này đã bị Việt Nam hóa thành tập tục hoàn toàn của người Việt. Người Pháp, lúc còn bảo hộ An Nam, thường gọi là "Fête des Canards", vì đến ngày lễ này, ngoài các phẩm vật hoa quả, bánh kẹo, người ta còn giết vịt để cúng gia tiên.
---------------
Tài liệu tham khảo:
-Mạng lưới Cố Đô
-Báo Tiền Phong & Thanh Niên.
BY: HOÀNG THẠCH
Người Việt Nam vẫn được ca tụng là chăm chỉ và chịu khó trong công việc làm ăn. Nói như vậy, nếu chỉ nhìn bề ngoài, có lẽ người ta sẽ nghi ngờ vì không thấy tận mắt thành quả của sản phẩm mà người Việt ở ba miền Nam Trung Bắc đã làm ra và bán trên thị trường. Để chứng minh sự khéo léo và sáng tạo trong các ngành thủ công nghiệp của dân Việt, trong bài này chúng tôi giới thiệu một số làng nghề truyền thống tiêu biểu của Huế và miền Trung.
1-NGHỀ CHẠM CẨN
Theo sách "Ô Châu Cận Lục“ của Dương Văn An viết năm 1553, làng Địa Linh trước kia có tên gọi khác là Trạc Linh, làng có tên trong 67 xã thuộc huyện Tư Vinh. Người Chăm (Chàm) vốn là chủ nhân của vùng đất này. Một trong những di tích văn hoá Chăm có mặt ở đây trước năm 1306 là giếng cổ có hình vuông ở cuối thôn Địa Linh. Dân cư ở đây sống dọc hai bên đường tỉnh lộ 4, nơi ngày xưa là cửa ngõ thông thương giữa hai phố Thanh Hà và Bao Vinh.
Thời bấy giờ, Địa Linh là một trong những trạm truyền đệ công văn quan trọng gọi là trạm phố chính. Dân địa phương chủ yếu sống bằng nghề mộc mỹ nghệ và nghề buôn bán nhỏ. Cho đến hôm nay, làng vẫn giữ được nghề mộc truyền thống đó là nghề chạm cẩn. Nghề chạm cẩn có nguồn gốc từ Hà Nội.
Vào cuối thế kỷ XIX, để đáp ứng nhu cầu trang trí nội thất của triều đình nhà Nguyễn, nghệ nhân Trương Văn Thiện (quê ở Quảng Nam) đang hành nghề tại quận Hoàn Kiếm - Hà Nội, được mời vào Huế, trú ngụ tại thôn Minh Thanh (Hương Vinh) để truyền đạt những nét tinh hoa của nghề chạm cẩn cho dân địa phương. Từ đó, nghề được người dân học hỏi, lan rộng dần và tồn tại cho đến ngày hôm nay.
2- NGHỀ LÀM NÓN HUẾ
Nhin hình ảnh các cô sinh viên, học sinh mặc áo dài trắng tha thướt dưới gió và chiếc nón trên đầu che nắng chắn mưa, người dân Việt tị nạn nào lại không nhớ những kỷ niệm một thời đã qua. Chiếc nón cũng là biểu tượng khó quên mà các nữ sinh, đặc biệt các cô gái Huế, đã làm cho nó thêm ý nghĩa, không chỉ ở vào tuổi thiếu niên mà cả thời kỳ còn con gái cắp sách đến trường trung và đại học; hoặc khi về nhà chồng. Nhìn những chiếc nón đẹp như vậy người ta không khỏi thắc mắc ông tổ làm ra chiếc nón lá là ai?
Chiếc nón đã xuất hiện từ lâu, lâu lắm. Nếu đòi hỏi một thời điểm thì không ai có thể chứng minh nó xuất hiện vào thời kỳ nào. Tuy vậy, dựa vào ca dao của dân tộc Việt, người ta có thể nhận định chiếc nón Huế đã "có tuổi“, ít nhất từ thời kỳ khai sinh xứ Huế.
Ai ra xứ Huế mộng mơ,
Mua về chiếc nón bài thơ làm quà.
Hay:
Mát mặt anh hùng khi nắng hạ,
Che đầu thôn nữ lúc mưa sa.
Ở Huế không chỉ một làng làm nón mà nhiều làng. Một số làng sản xuất nón Huế có tiếng phải kể đến: Đồng Di, Tây Hồ, La Ỷ, Nam Phổ, Phủ Cam, Đốc Sơ... Nón đặc biệt của Huế phải kể đến chiếc nón ba lớp làm tại La Ỷ, Nam Phổ, Đốc Sơ. Nón bài thơ nổi tiếng thì có Đồng Di, Tây Hồ, Phủ Cam.
Chiếc nón tự nó không lãng mạn, nhưng thi ca đã tạo cho nó như có một tâm hồn hòa nhịp với người thiếu nữ duyên dáng, mặn mà của Kinh thành Huế. Mấy câu thơ tình tứ sau đây có thể diễn tả phần nào cái tâm tình đó:
Áo trắng hỡi thuở tìm em chẳng thấy,
Nắng mênh mang mấy nhịp Trường Tiền.
Nón rất Huế nhưng đời không phải thế,
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng.Cái đặc điểm của nón Huế không phải chỉ để che nắng, chắn mưa mà chứa đựng cả một hồn thơ cùng với những hình ảnh đẹp được ép dưới lớp lá nón mong manh. Chiếc nón Huế tha thiết với chủ nhân của nó như người tình e lệ. Nàng luôn che dấu sự duyên dáng như một thiếu nữ gia giáo nép mình bên màn cửa. Nét mặt yêu kiều của người con gái dấu sau chiếc nón bài thơ, lúc mở lúc che, nửa hở nửa kín, là một sự quyến rũ tuy nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa, mà người Việt tị nạn khó tìm thấy ở trời Âu hay Bắc Mỹ.
Chiếc nón bài thơ được làm như thế nào?
Nói đến nón bài thơ, người ta không thể không nói tới làng Tây Hồ, một làng nằm bên giòng sông Như Ý, thuộc xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Nghề làm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả nam giới trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón. Với cây mác sắc bén, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và chính xác cho phù hợp với khung nón.
Người phụ nữ thì làm vành và ủi lá cho thẳng. Để có được lá đẹp, người thợ thường chọn lá nón vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi kết hợp lá, người thợ phải khéo léo sao cho lá không bị chồng cộm lên nhau. Khi nón hoàn tất, người ta đính thêm vào chóp nón một cái "xoài“ được làm bằng chỉ bóng láng để tăng thêm vẻ duyên dáng, sau đó mới quét dầu bóng nhiều lần, phơi đủ nắng để nón vừa đẹp lại vừa bền.
Nét đặc biệt nhất của nón lá Tây Hồ so với sản phẩm cùng loại của nhiều làng nón khác ở xứ Huế chính là dáng thanh tao và mỏng manh, nhưng bền chắc. Màu nón nhã nhặn và đặc biệt nhất là những bài thơ chan chứa tâm hồn xứ Huế được cài trong chiếc nón. Để cho nón có giá trị cao hơn, người ta không chỉ ghép vào nón các bài thơ, mà ghép cả cảnh đẹp thiên nhiên của Kinh thành như: chùa Thiên Mụ, cầu Tràng Tiền và sông Hương. Hai câu thơ được nhiều người yêu thích nhất vẫn là:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
3-ÁO DÀI HUẾ,
Chiến nón bài thơ đẹp và dễ thương, nhưng nếu chỉ đội để đi làm hay đi chợ trong bộ áo bình dân, áo bà ba hay áo cộc, thì cái vẻ duyên dáng của người phụ nữ sẽ giảm đi một phần. Chiếc nón bài thơ cùng với chiếc áo dài trắng tha thướt sẽ tạo cho người phụ nữ Huế cái vẻ thanh tao, dáng nhẹ nhàng và đầy sức quyến rũ.
Người phụ nữ Việt Nam mặc áo dài đã lâu mà chắc không nhiều người biết cội nguồn của nó. Chiếc áo dài có vào thời nào vẫn là một câu hỏi khó trả lời.
Nếu cần chọn một thời điểm đáng ghi nhớ thì theo tác giả Lê Hồ, vào thời Minh Mạng, để sửa đổi cách ăn mặc thiếu đồng nhất tại các miền sau giai đoạn Trịnh-Nguyễn phân tranh, nhà vua ra sắc chỉ quy định y phục trên toàn quốc như sau:
-Các phi tần, người hầu kẻ hạ đều phải mặc áo dài ngay khi vừa bước chân khỏi cấm cung.
-Dân gian phải mặc quần, cấm không được mặc váy. Đối với người lớn, khi ra đường ai cũng phải mặc quần áo chỉnh tề.Thời ấy, áo dài Huế cũng như ở các vùng miền khác thường có mầu đậm và áo có đến 5 tà (sau này sửa thành áo tứ thân - 4 tà). Mỗi thân trước và sau đều có 2 tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Tà thứ 5 ở bên phải, thân trước. Tay áo thì thường may nối dưới khuỷu tay (lý do thời đó các loại vải rộng nhất cũng chỉ đến khổ 40cm). Cổ áo cao khoảng 2cm-3cm, cùng tay và thân áo trên ôm sát người. Tà áo được may rộng ra từ sườn đến gấu và không chiết eo, dài đến đầu gối. Gấu áo thường võng, vạt rộng đến 80cm.
Về quần mặc cùng áo dài, phụ nữ Cố Đô thường chọn màu trắng đầy nữ tính. Riêng người trong hoàng tộc và các gia đình giàu có còn may quần chít ba (có 3 ly dọc 2 mép ngoài quần) để tạo dáng quần xòe rộng, trông yểu điệu mà cử động lại thoải mái hơn.
Chính vì lệnh vua Minh Mạng cấm mặc váy, nên trong dân gian mới có câu ca dao phản kháng truyền miệng được ghi trong Tục Ngữ Phong Dao của tác giả Ôn Như Nguyễn
Văn Ngọc:
Tháng sáu có Chiếu vua ra,
Cấm quần, cấm áo đôi ta ngặt ngùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi ra bóc lột quần chồng mà mang!Nhưng theo tác giả Nguyễn Dư (Lyon 8/2003) trích trong sách "Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu" của nhà xuất bản Thuận Hóa lại ghi:
Tháng tám (tháng chín) có chiếu vua ra,
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi thì bóc lột quần chồng sao đang.
Đến đầu thế kỷ XX, từ khi có trường Nữ sinh Trung học Đồng Khánh (1917), các nữ sinh miền Trung đều dồn về Huế theo học và áo dài trở thành đồng phục hàng ngày. Các nữ sinh đều mặc quần trắng, áo dài tím khi đến trường, sau này đổi thành áo trắng mùa khô, xanh nước biển mùa mưa.
Đến những năm 1930 - 1940 của thế kỷ XX, kiểu dáng của áo dài xứ Huế cũng như các vùng miền không thay đổi, tuy nhiên, màu sắc và chất liệu phong phú hơn hẳn.
Một điều đáng lưu ý là áo dài xứ Huế sẽ không có kiểu dáng như ngày nay, nếu không trải qua một cuộc canh tân, do một họa sĩ tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương, chủ tiệm may Le Mur danh tiếng ở Hà Nội và Hải Phòng tên là Cát Tường khởi xướng. Ông đã đem đến Hội chợ Huế 1939 một bộ sưu tập áo dài cách điệu lối Âu châu, với 2 tà thay cho 5, cổ khoét hình trái tim (có khi gắn thêm cổ bẻ và một chiếc nơ), tay nối trên vai bồng, hàng khuy chạy dọc theo vai và sườn phải đầy khêu gợi.
Thời trang mới này được phụ nữ Cố Đô tiếp nhận, tuy nhiên, do ảnh hưởng của nếp sống kín đáo, áo dài Huế chỉ canh tân trong chừng mực, bằng cách giảm số tà còn 2 và mở khuy từ vai xuống eo.
Những năm 1950, áo dài xứ Huế bắt đầu lượn eo theo thân người mặc, cổ cao hơn, vạt thu hẹp lại để tôn dáng thiếu nữ. Đến khoảng những năm 1960, các tiệm may Huế mới chít eo áo dài, tạo sức quyến rũ cho người mặc. Cuối thập niên 1950, theo mốt Sài Gòn, vai áo dài Huế lại được cắt "raglan" để tránh nhăn cho phần ngực và nách.
4-LÀNG MẮM NAM Ô
Nhứt nước mắm Nam Ô
Nhì cá rô Xuân Thiều
Làng Nam Ô, nay thuộc phường Hòa Hiệp, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, vốn là một làng đánh cá ven biển nhỏ bé nằm ngay trên đường quốc lộ số 1, được bao bọc bởi những trảng cát trắng mịn màng, kéo dài hàng cây số. Theo các bô lão trong làng, vào nửa cuối thế kỷ XVI, những cư dân người Việt đầu tiên đến định cư trên vùng đất này vốn là những tướng sĩ nằm trong đội quân của Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558. Khi đi, họ chỉ đi một mình, không đem theo vợ con, gia đình.
Bấy giờ đã diễn ra những cuộc hôn nhân mà chàng rể là lính Việt và cô dâu lại là con gái Chăm. Cho nên, trong gia phả các tộc Đinh, Phạm, Mai, Trần.. những vị tiền hiền của tộc chỉ có tên ông mà không có tên bà.
Muốn muối cá cho ngon, người Nam Ô chuẩn bị rất công phu. Đầu tiên, phải mua loại muối có xuất xứ từ Đề Gi, Sa Huỳnh hay muối Cà Ná hạt to và chắc nặng. Cứ vào cỡ cuối năm, tức tháng mười một, tháng mười hai âm lịch, khi tiết trời thuận lợi, thường có các ghe chở đầy muối do thương lái người Bàn Thạch, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, ghé bến Nam Ô bán lại.
Ở Nam Ô, mùa đánh cá bắt đầu từ tháng ba đến tháng tám âm lịch. Có nhiều loại cá. Nhưng, loại cá ngon nhất, thích hợp nhất để muối cho ra thứ nước mắm thơm ngon tuyệt hảo là cá cơm than tháng ba.
Trong ký ức của những cụ già cao tuổi, vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở Nam Ô có hai gia đình muối cá nổi tiếng nhiều và ngon, đó là gia đình bà Tú Lâm và gia đình bà Đốc Núc. Họ cũng là những gia đình giàu có khét tiếng quanh vùng. Có câu chuyện kể khá lý thú rằng ông Phạm Sĩ Lâm, vốn học giỏi, đỗ tú tài nên mới có tên là Tú Lâm. Bấy giờ, ở làng Xuân Thiều có ông bà Thừa Văn họ Mai là gia đình giàu có ít ai sánh bằng. Cho nên, mới có bài vè:
Ve ve bắt vè Thừa Văn
Trong nhà gà chọi mun săn
Ruộng trâu ấp bộ gần bằng của vua.. Do giàu có, tiếp xúc nhiều, giao thiệp rộng, biết ruộng đất của làng chưa vô bộ điền, nói nôm na là ruộng tự khai phá, chưa có sự chứng nhận của chính quyền phong kiến đương thời, ông bà Thừa Văn bèn dựa vào thế lực đồng tiền đem đút lót, đãi đằng bọn Pháp nhằm cướp ruộng đất của dân. Thấy có nguy cơ mất trắng, dân làng Xuân Thiều mới nhờ ông Phạm Sĩ Lâm là người có học làm đơn mang ra tận triều đình Huế kêu kiện. Lúc đến kinh đô, ông làm quen với bà Tôn
Nữ Thị Huyền dòng Tôn Thất, lấy bà làm vợ hai, thông qua mối quan hệ này ông thắng kiện. Riêng bà Tôn Nữ Thị Huyền, sau khi về làm dâu nhà họ Phạm mới được gọi là bà Tú Lâm. Bà vốn khéo tay, nhanh ý, thấy người dân địa phương muối mắm ngon mới nảy ra ý định học hỏi làm theo. Bà lập kho mắm lớn, chứa một lúc mấy trăm kiệu, thuê hẳn một người vừa giữ kho vừa trông coi mắm. Cuối năm là thời điểm bà cho lọc, chuẩn bị chở đi các nơi phục vụ nhu cầu thị trường. Nước mắm của bà được đặt tên là nước mắm Ô Long, Ô, chắc chắn chỉ Nam Ô. Còn Long là rồng. Có lẽ bà muốn thương hiệu nước mắm của mình phát triển và thăng tiến mãi ở tư thế... rồng bay lên?
Ngoài ra, nước mắm Nam Ô còn tìm đường vào Sài Gòn thông qua những người con đất Quảng xa quê hiện đang làm ăn, sinh sống, nhưng vẫn không quên được hương vị
đặc biệt của nước mắm Nam Ô:
Nam Ô nước mắm thơm nồng,
Đi mô cũng nhớ mùi hương quê nhà
Hay:
Bữa nay đợi bún Chợ Chùa,
Đợi mắm Nam Ổ đợi cua Làng Gành
5-LÀNG RÈN HIỀN LƯƠNG
Làng Hiền Lương là một trong những làng còn bảo tồn được khá nhiều yếu tố gốc của một làng Việt cổ truyền vùng duyên hải miền Trung, được thành lập sớm ở xứ Thuận Hoá.
Theo những tài liệu thư tịch cổ, theo tư liệu được khắc trên quả chuông cổ được đúc năm Gia Long thứ 18 (1819), khắc tên một số nhân vật người làng Hiền Lương nổi tiếng về nghề rèn và nghề cơ khí dưới triều Nguyễn như ông Nguyễn Lương Nhĩ, Nguyễn Lương Xa, Hoàng Văn Lịch... Trong các nhân vật tiền bối về nghề rèn làng Hiền Lương này, dân làng dành cho ông Hoàng Văn Lịch nhiều cảm tỉnh và kính trọng. Các bộ sử của triều Nguyễn, gia phả họ Hoàng ở làng Hiền Lương đều ghi rõ ông là người có tài đặc biệt về nghề rèn và cơ khí, làm gương cho một số người ở làng Hiền Lương học tập, nối nghiệp ông phát triển nghề rèn ở Hiền Lương và trở thành những người thợ có tiếng đương thời.
Gia phả họ Hoàng ghi: Ông Hoàng Văn Lịch sinh năm 1774, mất năm 1849, thọ 75 tuổi. Dưới thời Gia Long, ông làm việc ở đội Thạch Cơ (máy đá). Thời Minh Mạng, ông được thăng Chánh Trị sự kiêm quản Võ khố Đốc công sự vụ, đã từng chế tạo ra mấy chiếc thuyền chạy bằng máy hơi nước giống kiểu tàu của Pháp mà vua Gia Long mua về, Vua Minh Mạng sau khi xem tàu chạy thí nghiệm đã thưởng cho ông Hoàng Văn Lịch một cái nhẫn pha lê khảm vàng, một đồng tiền vàng lớn. Ngoài ra, đốc công và thợ được thưởng chung 1.000 quan tiền. Thời vua Thiệu Trị (1841 - 1847), ông được phong Chánh Giám đốc kiêm quản Bá Công Tượng cuộc. Sau đó, ông được phong tước Lương Sơn Hầu, và là người được coi là vị thuỷ tổ nghề cơ khí đầu tiên của Việt Nam.
Một người thợ rèn ưu tú thứ hai của làng rèn Hiền Lương là ông Trần Văn Đắc, ông được các triều vua Nguyễn phong tặng bằng sắc về công trạng trong nghề rèn và cơ khí như bằng sắc của vua Minh Mạng năm thứ 10 (1829); Tự Đức thứ 8 (1855) và Khải Định thứ 6 (1921). Thời vua Minh Mạng, ông làm việc ở một đơn vị lính thợ, thuộc Nhà Võ khố của triều đình, nhờ có tay nghề cao, được phong hàm Chánh Cửu phẩm, giữ chức Tượng cục - coi lính thợ. Thời Tự Đức được thăng hàm Chánh Bát phẩm và lên giữ chức Chánh Ty Tượng suất nội cuộc nhơn đẳng - đứng đầu ty lính thợ. Thời vua Khải Định, ông được truy tặng Minh nghĩa Đô uý. Điều đặc biệt hiếm có trong thời đại phong kiến, là những người con nổi tiếng của làng rèn Hiền Lương có công lớn trong phát triển nghề cơ khí, nghề rèn được phong đến tước Hầu, nhưng không phải xuất thân từ khoa bảng, mà chỉ là những người thợ có bàn tay vàng được tôn vinh, quý trọng.
Kế tục truyền thống của ông cha, trong thời cận đại còn có nhiều người con của làng rèn Hiền Lương nổi tiếng như ông Dương Phước Thiệu là người giỏi về kỹ thuật, chuyên môn sửa chữa các loại súng, các máy do Pháp chế tạo, và giỏi các nghề tiện, nguội, rèn. Ông Trương Quang Sừng là một thợ cơ khí bậc cao hiếm có, là người thầy dạy nghề nổi tiếng được quý trọng ở Trường Bá Công lập ra dưới triều vua Thành Thái (1889 - 1907), đã có công đào tạo ra một thế hệ người có tài trong lĩnh vực cơ khí như máy, tiện, đúc, gò, rèn...
-------------------
Tài liệu tham khảo:
-Mạng lưới Dũng Lạc
-Net Cố Đô & VietnamNet
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
Từ khi Nguyễn Hoàng được bổ nhiệm vào trấn giữ đất Thuận Hóa vào năm 1600, sau đó cắt đứt liên hệ với vua Lê và chúa Trịnh để tạo nên một vương quyền mới là Nhà Nguyễn, thì Huế và miền Trung, đất của Chiêm Thành năm xưa, bắt đầu phát triển và trở thành lãnh thổ của Việt Nam
Nhà Nguyễn tiếp tục phát triển quyền lực, xâm chiếm và xóa tên nước Chiêm Thành trên bản đồ, mở rộng đất đai xuống miền Nam. Kể từ thời điểm 1600 trở đi, Huế nói riêng và miền Trung nói chung trở thành tên gọi quen thuộc trên bờ môi, trên giấy tờ và địa dư Việt Nam. Vương quyền xuất hiện ở đâu thì địa danh đó trở thành Kinh đô và được ca tụng trong thi văn cũng như âm nhạc.
Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Thương em anh cũng muốn vô,
Sợ truông nhà Hồ (*), sợ phá Tam Giang (*)
Chính vì thế mà Huế được nổi danh không chỉ với vẻ đẹp thiên nhiên hiếm có, mà bên cạnh nó, còn có các di tích văn hóa, các lăng tẩm của thời quân chủ, những giá trị văn học và nghệ thuật không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà chung cho cả nhân loại.
Nói tới cảnh đẹp của Huế và miền Trung thì khá nhiều. Trong bài này chúng tôi cùng quí độc giả tìm hiểu một số danh lam thắng cảnh tiêu biểu tại đất Thầân Kinh.
1-SÔNG HƯƠNG (SÔNG THƠM)
Tại sao lại có tên "Hương Giang - sông Hương?"
Theo mạng lưới Cố Đô thì Trung tâm Di sản Thế giới thuộc Tổ chức Giáo Dục, Khoa học, Văn hóa của Liên Hiệp Quốc "UNESCO" đã đề nghị chính quyền Thừa Thiên Huế và cơ quan chuyên môn Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lập hồ sơ đệ trình xin công nhận sông Hương là di sản văn hóa thế giới.
Nếu sự kiện này trở thành sự thật thì đây là một biến cố có lợi cho dân tộc VN về phương diện văn hóa. Sự kiện này cũng làm cho nhiều người ngỡ ngàng, vì có nhiều con sông dài, rộng và nổi tiếng tại nhiều quốc gia mà chưa được UNESCO đề nghị là di sản của thế giới như: sông Seine, Mississipi, Danybe, Nile, Hoàng Hà, sông Ấn, Hằng, Dương Tử...
Vậy sông Hương có hy vọng gì không?
Theo tài liệu cũ còn để lại thì tác phẩm địa lý sớm nhất nói về sông Hương là Ức Trai Địa Dư Chí của Nguyễn Trãi biên soạn năm 1438. Sông Hương lúc ấy có tên gọi là Linh Giang. Thực ra sách chỉ đề cập đến quãng sông từ thành Hóa Châu, Ngã ba Sình, chảy ra cửa Thuận An. Năm 1552, Dương Văn An cho ra đời tác phẩm Ô Châu Cận Lục trong đó tác giả nói rõ hơn về lai lịch sông Hương.
Thời xưa dân ta có thói quen gọi tên một con sông hay trái núi dựa theo tên làng, xã, huyện, tỉnh. Sông Hồng có những đoạn mang tên Mê Linh, Bạch Hạc, Việt Trì...
Trong quyển Đất nước Việt Nam qua các đời (NXB Thuận Hóa, Huế 1996), học giả Đào Duy Anh viết:
"... thời Lê sơ là Kim Trà, chúa Nguyễn đổi làm Hương Trà. Huyện Hương Trà bấy giờ là tương đương với đất huyện Hương Trà và một phần huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay" (tr.198). Vì vậy, theo kỹ sư Nguyễn Hữu Đính, khi huyện Kim Trà được đổi tên thành huyện Hương Trà thì tên sông cũng đổi theo: sông Hương Trà. Yếu tố Hương của sông Hương có lẽ xuất hiện từ đó.
Đến nay có vài giả thuyết giải thíchnguồn gốc tên gọi của sông Hương.
1- Phải chăng Sông Hương có tên gọi từ chuyện thần tiên của Nguyễn Hoàng?
Các vị sáng lập các triều đại thường có khuynh hướng tạo ra hay dựa vào các câu chuyện truyền kỳ để cho dân chúng dễ tin tưởng và ủng hộ sự nghiệp của mình.
Nguyễn Hoàng cũng thế, dựa vào câu chuyện dân gian kể về người đàn bà nhà trời (Thiên Mụ) trao cho nhiệm vụ để tìm đất định đô là một tính toán có chủ đích, về sau trở thành huyền thoại tạo dựng vương quyền triều Nguyễn. Sự kiện này cũng giống như giấc mơ rồng bay (Thăng Long) của vua Lý Thái Tổ khi ban hành chiếu chỉ dời kinh đô từ Hoa Lư ra La Thành.
Căn cứ vào thời điểm xây dựng chùa Thiên Mụ người ta có thể xác định được thời gian xuất hiện câu chuyện nén hương của chúa Nguyễn Hoàng. Chuyện kể rằng, trong chuyến tuần du phương Nam vào năm 1601, Nguyễn Hoàng từ Dinh Cát thuộc tỉnh Quảng Trị vào Nam, dọc đường hạ trại nghỉ ngơi cạnh dòng sông (Hương). Trong giấc ngủ ông mơ thấy một người đàn bà nhà trời hiện ra, trao cho một nén hương và dặn rằng:
"Hãy thắp hương rồi đi xuôi theo dòng sông xinh đẹp này, khi nào hương tàn hết thì dừng lại, đấy là đất thiên thu vạn đại đế vương."
Tỉnh giấc, nén hương trong mộng vẫn còn trên tay, Nguyễn Hoàng cả tin bèn nghe theo lời dặn của người đàn bà nhà trời, chọn thủ phủ Phú Xuân sau này.
Câu chuyện trên làm cho người ta liên tưởng đến hai sự kiện thực tế: Nguyễn Hoàng nhân nén hương linh mà đặt tên cho dòng sông dẫn đường chọn đất đế nghiệp là sông Hương, và tạ ơn người đàn bà nhà trời mách bảo, ngay trong năm 1601, ông cho xây Quốc Tự tại nơi đã được báo mộng bên sông, đặt tên là Linh Mụ, hay còn gọi là Thiên Mụ.
Dựa vào câu chuyện mơ mộng trên, người ta nghĩ tên "sông Hương" là do Nguyễn Hoàng đặt ra.
Tuy nghiên, Nguyễn Hoàng vẫn đóng thủ phủ ở Dinh Cát (Quảng Trị) cho đến khi mất, năm 1613 Nguyễn Phúc Nguyên kế vị, 14 năm sau, năm 1626 mới dời dinh từ Dinh Cát vào Phước Yên (Quảng Điền, Thuận Hóa). Đến năm 1636, Nguyễn Phúc Lan, con chúa Nguyễn Phúc Nguyên, lần đầu tiên xây dựng dinh cơ tại Kim Long, cạnh bờ sông Hương.
Nguyễn Phước tộc thế phả, NXB Thuận Hóa, 1995, tr. 123, ghi theo sử cũ:
"Kim Long rộng rãi, cảnh trí xinh đẹp, phủ chúa và các nhà quan lại còn lan ra các làng chung quanh. Kim Long đã mang lại nhiều lợi ích cho nền thương mãi trong đời ngài (chúa Nguyễn Phúc Lan). Các thuyền buôn từ Hội An, Trung Hoa ghé Thuận An, đi dọc theo sông Hương lên Huế. Nhờ đó mà phẩm vật của người Âu và Trung Hoa (tơ sống, thuốc Bắc, bút chỉ...) đều được mang bán tại Huế. Khách phương xa ghé đến Kim Long không khỏi ngạc nhiên khi thấy cảnh tượng huy hoàng của phủ chúa và các nhà quan lại. Mỗi khi ngài ngự đi đâu đều có hơn hai nghìn thị vệ theo hầu, tiền hô hậu ủng, cờ xí rợp trời, oai vệ khác thường".
Mãi đến đời Nguyễn Phúc Thái, con Nguyễn Phúc Tần, mới dựng thủ phủ ở Phú Xuân, điểm chọn của chúa Nguyễn Hoàng theo lời khuyên của người đàn bà nhà trời trong mộng.
2- Phải chăng Sông Hương do vua Quang Trung đặt ra qua một mẩu dã sử chưa có điều kiện kiểm chứng?
Năm 1792, trong chuyến tuần du Phú Xuân, vua Quang Trung hỏi sông đang đi thuyền tên là gì. Đoàn tùy tùng đáp rằng đoạn vừa đi qua tên Đan Điền, đoạn này tên Hương Trà, trước đây lại có tên Kim Trà.
Vua không hài lòng, bảo sao lại lấy địa danh hữu hạn, thường thay đổi để đặt tên cho sông dài là thiên nhiên muôn thuở, và phán rằng từ nay thống nhất gọi là Hương Giang, từ nguồn cho tới biển.
Vua còn lệnh cho Tổng tài Quốc sử quán Ngô Thì Nhậm đưa ý tưởng của vua thành điển lệ. Như vậy, theo chuyện dã sử này, người đặt tên cho sông Hương là vua Quang Trung.
3-Sông Hương tên gọi phát xuất từ địa dư thực tế:
Theo sổ tay địa danh của Vân Bình Tôn Thất Lương (1887-1951, NXB Giáo Dục, 2001 thì:
"Hai bên bờ tả, hữu trạch có giống thạch xương bồ (và Thủy xương bồ) là một vị thuốc trường sinh, có mùi thơm, mọc hai bên bờ khe, nước khe lần hóa ra thơm. Hương Giang (sông Thơm) bởi đó mà có danh vậy"
Theo tài liệu đông y thì Thạch xương bồ còn có tên dân gian là bồ bồ, bồ hoàng. Tên khoa học là Acorus Gramineus Soland. Thạch xương bồ cũng là một loại trợ dục "Viagra". Trong sách thuốc cổ "Biện Chứng Lục" đã có bài thuốc chữa cho người bị suy yếu năng lực tình dục, trong đó thạch xương bồ là một vị quan trọng.
2-NÚI NGỰ BÌNH
Cùng với Sông Hương, núi Ngự Bình là biểu tượng tuyệt vời của Huế. Khi nói tới Huế, người ta không chỉ nói tới sông Hương thôi, nhưng bao giờ cũng kèm theo núi Ngự, như một cặp bài trùng.
Sách "Đại Nam Nhất Thống Chí" của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn viết "Phía Đông bắc Hương Thuỷ, nổi vọt lên ở quãng đất bằng "như hình bức bình phong làm lớp án thứ nhất trước kinh thành, tục gọi là núi Bằng, đời Gia Long đặt cho tên hiện nay (Ngự Bình), đỉnh núi bằng phẳng, khắp nơi trồng thông"
Núi Ngự Bình cao 105 mét, dáng cân đối uy nghi. Hai bên Bằng Sơn có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Triều Nguyễn quyết định xây dựng kinh thành Huế đã dựa trên đồ án của các thày địa lý. Bằng Sơn được coi như một bức bình phong án ngữ trước mặt hay tiền án, một trong những điều kiện cần thiết cho việc xây dựng đế đô. Vì thế vua Gia Long đã đổi tên cho ngọn núi này là Ngự Bình.
Vào những ngày đẹp trời, đứng trên đỉnh Ngự Bình, người ta có thể nhìn toàn cảnh thành phố với cung điện nguy nga, mái chùa cổ kính và dòng sông Hương xanh biếc uốn lượn quanh co. Trước mắt là các khu đồi, rừng thông bát ngát và một vùng đồng bằng rộng lớn của các huyện: Hương Thuỷ, Phú Vang, Hương Trà..., xa hơn là dãy Trường Sơn trùng điệp một màu tím thẫm ẩn hiện sau những tầng mây bạc. Nhìn về hướng Đông, dải cát trắng mờ mờ phía xa là cửa biển Thuận An. Cách núi Ngự Bình vài cây số là đồi Vọng Cảnh, một thắng cảnh khác của Huế, bên dòng sông Hương, nhìn qua núi Ngọc Trản.
3- ĐIỆN HÒN CHÉN
Điện Hòn Chén thuộc làng Hải Cát, tổng Long Hồ, huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên, đối diện với đồi Vọng Cảnh. Điện Hòn Chén nằm cheo leo lưng chừng triền núi Ngọc Trản, hướng xuống vực sông. Điện có từ lâu đời, thờ nữ thần Po Nagar (nay gọi là Thánh Mẫu Thiên Y A-Na) thuộc tín ngưỡng của người Chàm (Champa).
Kiến trúc thời xưa như thế nào không ai rõ, nhưng vào năm 1832 vua Minh Mạng mới bắt đầu ra lệnh sửa sang, và mở rộng điện này. Gần đây Điện còn thờ một số thần khác như: Thủy Long, Sơn Trung, Bà Thượng Ngàn, Quan Thánh Đế. Hàng năm đều có tổ chức nhiều lễ lậy. Nhưng lễ quan trọng nhất là lễ Quốc tế vào mùa Xuân, tháng hai Âm lịch. Triều đình Huế thường cử quan Đại thần về chủ tế. Năm 1882, vua Đồng Khánh lại cho tu sửa điện rộng rãi hơn và đổi tên là Huệ Nam Điện. Trong điện còn lưu giữ một số cổ vật tôn giáo có giá trị.
4- BÃI BIỂN CẢNH DƯƠNG, LĂNG CÔ VÀ THUẬN AN
Cửa biển Thuận An có khẩu độ rộng hơn một cây số là điểm hội tụ của nhiều đầm, phá. Đây cũng là nơi hợp lưu nhiều con sông lớn như sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lâu. Về lịch sử, cửa biển Thuận An đã từng giữ một vị trí quan trọng về quân sự, giao thông vận tải, kinh tế và thương mại. Bãi biển Thuận An nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 12 cây số, có phong cảnh đẹp và là một trong những bãi biển khá hấp dẫn khách du lịch.
Đi theo đường quốc lộ 1 từ Huế vào Đà Nẵng, người ta sẽ gặp bãi biển Cảnh Dương. Bãi nằm không xa quốc lộ 1 bao nhiêu, cách Huế 55 cây số, dưới chân đèo Hải Vân. Đây là nơi tắm biển và nghỉ mát rất lý tưởng vào mùa hè.
Bãi biển Lăng Cô thuộc bán đảo Sơn Trà, quanh năm lộng gió, khung cảnh hữu tình với bãi tắm dài ngút tầm mắt, là một trong các bãi tắm lý tưởng. Bãi này thuộc vùng biển rộng 5.000 cây số vuông. Hai dự án trong số 17 dự án nhằm khuếch trương thành bãi biển hấp dẫn du khách phải kể đến dự án P&I của Nhật Bản và Làng Xanh của Hương Cảng (HongKong).
5- NÚI BẠCH MÃ
Núi Bạch Mã thuộc dẫy núi Trường Sơn giáp ranh hai huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên và Hòa Vang thành phố Đà Nẵng, cách Huế 60 cây số về phía Nam. Núi Bạch mã ở độ cao 1.450 mét, quanh năm mây phủ trắng xóa, nên có khí hậu mát mẻ, nhiệt độ mùa hè không quá 20 độ. Đỉnh núi cao, 4 mùa cây cỏ xanh tươi, thác nước trong, suối rừng trùng điệp tạo cho nơi này có khí hậu giống vùng ôn đới như: SaPa, Tam Đảo, Đà Lạt. Một số thác đẹp như: thác Bạc, thác Đỗ Quyên, thác Ngũ Hồ.
Núi Bạch Mã còn là nơi quy tụ nhiều loại động vật và thực vật quý hiếm ở miền nhiệt đới, vì vậy đã được Việt Nam quy hoạch thành khu rừng cấm quốc gia. Khu vực rộng 8.000 mẫu Tây, có 45 loài thú, 230 loài chim, 500 loài thực vật. Nhiều động vật quí hiếm như: vượn, chó sói, báo (beo) gấm, báo hoa mai, hổ (cọp), voi, công, trĩ, gà lôi đen...
6-VƯỜN THƯỢNG UYỂN
Trong 143 năm (1802-1945) trị vì, triều Nguyễn đã xây dựng ở kinh đô Huế rất nhiều vườn thượng uyển. Cho đến nay, một số vườn chỉ còn lại dấu tích và một vườn vẫn còn nguyên vẹn tuy hoang phế, đó là Tịnh Tâm.Thượng uyển (hay Ngự uyển) những khu vườn kiến trúc tuyệt đẹp, là nơi vua và quan triều đình dạo chơi, buông câu, đọc sách, ngâm thơ... sau những giờ làm việc.
Theo sách "Thần kinh nhị thập cảnh", Tập thơ của Vua Thiệu Trị, trong 20 bài thơ nhà vua vịnh 20 thắng cảnh nổi tiếng của Kinh thành Huế xưa, có tới bảy bài vịnh các vườn thượng uyển. Các bài thơ này được thể hiện trên tranh gương đóng khung thếp vàng treo trong cung điện. Hiện nay một trong những bức tranh gương đó vẫn còn. Đọc thơ cách đây hơn 150 năm ta có thể hình dung về các vườn thượng uyển đẹp nhất kinh đô đã được miêu tả.
-Vườn Thiệu Phương, một vườn thượng uyển xây dựng năm 1828 (thời Minh Mạng) ở trong Tử Cấm Thành. Bài thơ thất ngôn bát cú vịnh vườn này được khắc tranh gương thơ còn may mắn sót lại, hiện vẫn còn lưu giữ trong Bảo tàng Cổ vật Huế".
Vườn rộng mênh mông thắm sắc hoa
Bao năm hương ngát gió đưa xa.
Lan vươn dáng khỏe sen tròn trịa
Cúc nép thân thon mai mặn mà..
Theo sử sách, khu vườn này có tường gạch bao quanh. Chính giữa là những hồi lang có mái lợp ngói hoàng lưu ly rất độc đáo dẫn ra bốn phía, nối tiếpmãi với nhau theo hình chữ vạn. Trong vườn có hai ngôi đình và hai hiên lãm ở bốn góc, có hai lạch nước tên là Ngự Câu, có hòn núi giả Trích Thúy Sơn. Năm 1841, dưới thời vua Thiệu Trị, vườn Thiệu Phương được sửa sang. Phía Tây xây thêm điện Hoàng Phúc, thêm nhiều đình tạ để vua câu cá và hóng mát. Đến nay, dấu tích còn lại duy nhất của khu vườn thượng uyển này là chiếc cổng ở trong Đại Nội. Trên cổng vẫn còn dòng chữ lớn: "Ngự chế - Thiệu Phương viên môn, Minh Mạng cửu niên cát nhật tạo".
-Vườn Thư Quang được mô tả trong bài thơ Thư Uyển Xuân Quang (Nắng xuân vườn Thư Quang) là một trong những vườn ngự uyển tráng lệ và nổi tiếng được xây dựng vào năm 1836 (Minh Mạng). Vườn phía về bắc Hoàng Thành (thuộc phường Thuận Thành bây giờ). Vườn có chu vi nửa cây số, sáu cửa ra vào, nhiều điện lầu gác, đình tạ, nhiều cầu có mái, vườn hoa, hồ nước, chim cây... Thơ vua Thiệu Trị diễn tả vườn này như sau:
Rực mầu phong cảnh như châu ngọc
Lộng ảnh ao hồ tựa gấm sa
-Vườn Ngự Viên là cảnh đẹp thứ năm được vua Thiệu Trị ca ngợi qua bài thơ Ngự Viên đắc nguyệt (Ngự Viên ngắm trăng):
Thâm nghiêm cung cấm giữa canh khuya
Trong vắt ao thu trăng nước hòa
Liền dải lâu đài in lóng lánh
Sáng ngời hoa thụ rực nguy nga
Vườn Ngự Viên được xây dựng năm 1821, ở góc đông bắc Tử Cấm Thành. Dấu vết hiện vẫn còn là Hồ Ngọc Dịch, Tiểu Ngự Hà và một số hòn núi giả ở khu nhà lầu Ngự Tiền Văn phòng (thời Bảo Đại). Trong Hoàng Thành thời Minh Mạng ở đông bắc có hồ Nội Kim Thủy. Giữa hồ có đảo Doanh Châu được xây dựng thành một vườn thượng uyển với kiến trúc cầu kỳ gồm hệ thống gác, đình, lầu, thủy tạ, hiên lãm, các hòn núi giả, các bụi tre, đầm sen, các loại bông hoa mai, trúc, cúc.
Đây là nơi các vua Nguyễn thường ra dạo chơi, hóng mát, đề thơ vịnh cảnh. Trên đảo Doanh Châu này, đẹp nhất là gác Hải - Tịnh Niên Phong (sóng lặng mùa no). Vua Thiệu Trị xếp gác này vào Thần Kinh nhị thập cảnh và có bài thơ Cao Các Sinh Lương vịnh gác này.
Bây giờ hồ Nội Kim Thủy vẫn còn các đảo mọc đầy cây cối cỏ dại. Cũng vào thời Minh Mạng, Thiệu Trị, một hoa viên nữa được ca ngợi hết lời là Cung Trường Ninh với hệ thống lầu điện nguy nga, hồ nước, vườn cây hoa thâm u, có núi Bảo Sơn, Kình Ngự, có lạch Đào Nguyên như bồng lai tiên cảnh. Cung Trường Ninh cũng được vua Thiệu Trị đề thơ:
Đình bên hồ lắng cả trời cao?
Sông nước cuộn mây hợp sắc mầu
Tơ liễu theo cần vương sợi gió
Hương sen luồn cửa cuốn trường bà
(Bài Buông câu ở hồ Trường Ninh).
-Vào năm 1840, vua Nguyễn còn cho làm một vườn thượng uyển nổi tiếng ở gần khu ruộng vua cày khi làm lễ Tịch Điền (phường Tây Lộc bây giờ) gọi là vườn Thượng Mậu. Kiến trúc cũng tương tự như các vườn ngự uyển khác, nhưng hoa hệ hơn. Đây chính là nơi Hoàng tử Miên Tông (vua Thiệu Trị sau này) sống và nghiên cứu kinh sử. Vua làm tới hàng chục bài thơ ca ngợi các cảnh đẹp trong vườn này, trong đó có bài Thường Mậu Quan Canh (xem cày ở vườn Thường Mậu) nổi tiếng.
-Một vườn thượng uyển nổi tiếng đẹp từ thời Minh Mạng đến nay tuy đã hoang phế vẫn còn nguyên diện tích và hình hài kiến trúc là Hồ Tịnh Tâm. Hồ thuộc phường Thuận Thành, từ cửa Thượng Tứ đi thẳng vào. Hồ do ngăn sông Kim Long mà thành từ thời Gia Long. Trên hồ có hai hòn đảo có nhà kho chứa thuốc súng của triều đình. Năm 1839, vua Minh Mạng cho sửa sang, xây dựng thành vườn ngự uyển lớn và đẹp nhất Hoàng gia. 8.000 binh lính tham gia xây dựng công trình. Xây xong, vua đặt tên là Tịnh Tâm Hồ. Chu vi hồ 1.450 m. Trên hồ có ba đảo. Hai đảo lớn phía nam gọi là Bồng Lai, bắc là Phương Trượng. Đảo nhỏ phía tây đảo Phương Trượng gọi là Doanh Châu. Giữa đảo Bồng Lai có Điện Bồng Doanh nguy nga, có cầu Bồng Doanh nối vào bờ, có nhà Thủy Tạ Thanh Tâm, có lầu Trùng Luyện. Trên đảo Phương Trượng có gác Nam Huân hai tầng, có cầu Bích Tảo, có lầu Tịnh Tâm, rồi hiên, đình, hòn giả sơn, cây cổ thụ, hành lang mái lợp...
Chung quanh hai đảo lớn và quanh hồ trồng nhiều tre trúc, liễu và các loại hoa. Khắp mặt hồ thả sen hồng, sen trắng... Vua Thiệu Trị xếp Tịnh Tâm Hồ là thắng cảnh thứ ba trong 20 thắng cảnh đất Thần Kinh, với bài thơ đề Tịnh Tâm Hạ Hứng (cảm hứng ở Hồ Tịnh Tâm vào mùa hè). Bức tranh thơ này có vẽ lại cảnh hồ xưa.
.....................
Chú thích
(*)-Truông là khoảng đất trống nhiều cây hoang, cạnh Hồ Xá (Xá: có nghĩa là nhà); nên người ta gọi là Truông Nhà Hồ. Nơi này nổi tiếng trộm cướp. Ông Nguyễn Khoa Đăng được lệnh chúa Nguyễn đi dẹp. Ông nghĩ kế giả bộ làm người đi đường đi ngang qua Truông Nhà Hồ. Cướp bắt ông đem về sào huyệt. Vừa đi, ông vừa tải lúa để làm dấu và binh sĩ theo đó đến tận sào huyệt bắt trọn ổ cướp.
(*)-Phá Tam Giang:
Phá Tam Giang còn có tên là Hạc Hải. Phá có tên Tam Giang vì là nơi hội tụ của ba con sông: sông Lâm, sông Bồ và sông Hương, thuộc huyện Quảng Điền, phía Đông tỉnh Thừa Thiên-Huế. Đây là nơi nước chỗ cạn, chỗ sâu và sóng cuộn bất ngờ làm cho nhiều thuyền chèo ngang qua nơi này đã bị đắm. Ngày nay Pha Tam Giang đã cạn vì đất phù sa của ba con sông bồi đắp, chỉ còn con lạch nhỏ thông ra cửa biển Thuận An.
.......................
-Tài liệu tham khảo:
-Từ điển Địa danh Văn hóa và Thắng cảnh VN (NXB: Khoa học & Xã hội)
-Mạng lưới Cố đô
-Vietnam Tourism

BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
Trong dịp đầu năm dân Việt không chỉ có hoa quả, bánh trái và rượu thịt để mừng Tết Nguyên Đán; nhưng nhiều nhà cũng muốn có bức tranh vẽ chữ treo trên bàn thờ Tổ Tiên, trên tường, trên cột hay trước cửa nhà, đó là các Câu Đối. Mỗi câu đối có một ý nghĩa riêng, tùy theo gia chủ muốn năm mới của mình đạt được những mục tiêu nào: tình yêu, hạnh phúc, công danh hay nghề nghiệp v.v...
Hai câu đối quen thuộc mà có lẽ không người Việt Nam nào không nhớ trong dịp tết:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Nêu cao, tràng pháo, bánh chưng xanh.
Hay
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bầy mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Trên đây là là những dòng thơ của cố thi sĩ Vũ Đình Liên đăng trên báo Tinh Hoa vào năm 1936. Bài thơ nói lên hình ảnh cụ đồ viết câu đối trong ngày Tết. Với tinh thần bảo vệ văn hóa và văn học VN, các câu đối thời ấy đã được viết bằng chữ Nôm thay cho chữ Hán, chữ của người Tàu.
Nhân dịp Tết Mậu Tý 2008, chúng tôi mới quí độc giả, đặc biệt các bạn trẻ, cùng tìm hiểu phong tục Khai Bút Đầu Xuân và Câu Đối.
I- Khai Bút Đầu Xuân
Vào những ngày đầu năm mới, các nhà Nho, văn nhân và thi sĩ, những người có căn bản chữ Hán hay chữ Nôm thường giữ phong tục "Khai Bút Đầu Xuân" như một hình thức mở đầu cho công việc trong năm, mà họ hy vọng nó sẽ tốt đẹp hơn năm cũ.
Khai Bút không có nghĩa là cứ cầm bút viết vào lúc nào cũng được. Theo phong tục và sự tin tưởng ở khoa học huyền bí, các cụ thường chọn giờ tốt trong ngày để viết một vài chữ, một bài thơ hay một câu đối trên tờ giấy đỏ. Nội dung tổng quát nằm trong ý nghĩa "Khai Bút Đại Cát" hay "Tân Xuân Đại Cát" (nghĩa là đầu năm mới khai bút để gặp được những điều tốt lành lớn).
Không chỉ những người "văn hay chữ tốt" mới thích khai bút đầu Xuân. Phần đông dân chúng, từ quan tới dân, cũng làm một cái gì đó có ý nghĩa mở đầu một năm mới.
Các danh sĩ thì thường khai bút bằng làm một bài thơ đầu Xuân để bày tỏ ý chí của mình. Thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến (1835-1909) đã sử dụng tài tình chữ viết của dân tộc, đưa cả ca dao, tục ngữ và thành ngữ vào câu đối. Trong 67 câu đối hiện còn của cụ thì 47 câu đối viết bằng chữ Nôm.
Một trong các bài thơ nổi tiếng trong làng văn học của một thời đã qua phải kể đến bài thơ khai bút của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến.
(Tam Nguyên Yên Đỗ có nghĩa cụ Nguyễn Khuyến ởø làng Yên Đỗ đậu (đỗ) ba bằng: Giải Nguyên (đỗ đầu Cử nhân năm 1864), Hội Nguyên và Đình Nguyên (năm 1871)
Tuổi thêm, thêm được tóc râu phờ,
Nay đã năm mươi, lẻ có ba
Sách vở ích gì cho tuổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già!
Xuân về, ngày loạn còn lơ láo,
Người gặp, khi cùng những ngẩn ngơ!
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng?
Sao con đàn hát vẫn say sưa?
Các quan vẫn có tục Khai ấn và Khai triện. Tục này cũng được thực hiện tại các Bộ ở kinh đô Huế dưới triều Nguyễn, học theo tục lệ của nhà Thanh của Tàu. Ấn và triện là những con dấu của người giữ chức vụ cao trong chính quyền. Nhân đầu năm các vị này làm lễ khai ấn và triện bằng cách đóng dấu vào những giấy tờ công văn với ý nghĩa mong cho công biệc trong năm đều trôi chảy. Lễ khai ấn và khai triện thường được cử hành vào ngày khai hạ mồng 7 tháng giêng Âm lịch.
Các Quan Võ có tục Khai Kiếm, nghĩa là dùng gươm kiếm chọc huyết (trâu bò) hay cắt tiết (lợn, gà, vịt) là các con vật sẽ được dùng trong việc tế lễ...
Dân chúng thì tùy theo nghề nghiệp của mình cũng làm lễ Khai trương cửa hàng hay công việc của mình bằng lễ cúng các vị tổ trong nghề gọi là " lễ cúng Tiên Sư, Tổ Nghề" (thường cử hành vào ngày mồng 9 tháng Giêng Âm Lịch).
II- Câu Đối Tết
Người bình dân thường đến xin các cụ đồ viết cho câu đối cầu may, cầu phúc, cầu gia đình an vui. Tùy theo ý nguyện và hoàn cảnh của mỗi gia đình, các cụ đồ chọn cho họ câu đối thích hợp.
Người Tàu gọi câu đối là đối liên. Tên gọi xưa là đào phù vốn có nghĩa gốc từ tấm ván (phù) bằng gỗ đào được treo trước cửa để xua đuổi ma quỷ. Nhà thơ Vương An Thạch đời Tống có mấy câu thơ rất nổi tiếng trong bài Nguyên Nhật:
Pháo trúc thanh trung nhất tuế dư,
Xuân phong tống noãn nhập đồ tô.
Thiên môn vạn hộ đồng đồng nhật,
Tổng ba tân đào hoán cựu phù.
(Đại ý: trong tiếng pháo rộn ràng, trong ánh nắng Xuân đang tràn khắp dương gian, cả ngàn vạn gia đình cùng gỡ câu đối cũ treo trước cửa nhà mình để thay bằng cặp câu đối mới.)
Câu đối có từ bao giờ?
Theo sách "Tống sử-Thục thế gia", thì câu đối đầu tiên được chính vua nước Thục là Mạnh Sưởng viết trên tấm gỗ đào vào năm 959:
Tân niên nạp dư khánh,
Gia tiết hiệu trường xuân
(Có nghĩa: năm mới thừa chuyện vui,
tiết đẹp Xuân còn mãi).
Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng đây là câu đối xuân đầu tiên của Trung Quốc, một câu đối thật hay và đầy khí sắc mang ý nghĩa mùa xuân Tân niên (hai chữ đầu), Tân xuân (chữ đầu và chữ cuối), Gia tiết (hai chữ đầu câu sau)...
Câu đối thường gồm hai vế đối nhau. Người ta không phải chỉ viết vài ba chữ cho có lệ; nhưng thực tế câu đối nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Cần hiểu là chữ đối ở đây có nghĩa ngang nhau, hợp nhau thành một đôi.
Suốt một ngàn năm bị người Tàu đô hộ, người Việt dù muốn hay không cũng bị ảnh hưởng văn hóa của ngoại xâm, trong đó có tục viết câu đối, nên nó trở thành một trong các thể loại của văn học Việt Nam.
Câu đối được xem là "tinh hoa" của văn hóa Hán học. Người Tàu quan niệm rằng: "Nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa".
Nói chung, các văn nhân, thi sĩ tinh thông Hán học mới viết được các Câu Đối hay, đúng nguyên tắc đối nhau và hợp vận. Một Câu Đối hay nó phải hoàn chỉnh cả về ý tưởng và chữ gọi là đối ý và đối chữ.
1-Đối ý: hai ý đối nhau phải cân xứng và đặt thành 2 câu sóng nhau.
2-Đối chữ: phải xét 2 phương diện thanh và loại.
Về thanh: thanh bằng (các chữ không có dấu hay dấu huyền) đối với thanh trắc (các chữ có dấu sắc, hỏi, ngã, nặng) và ngược lại.
Về loại: thực tự (hay chữ nặng như: trời, đất, cây...) phải đối với thực tự; hư tự (chữ nhẹ như: thì, mà, vậy, ru...) phải đối với hư tự.
Danh từ phải đối với danh từ; động từ phải đối với động từ. Nếu một vế viết bằng chữ Nho thì vế thứ hai cũng phải viết bằng chữ Nho...
Vế câu đối
Một đôi câu đối gồm hai câu đi song nhau, mỗi câu là một vế. Nếu câu đối do một người sáng tác thì gọi là vế trên và vế dưới.
Nếu câu đối do một người nghĩ ra một vế để người khác làm vế kia thì gọi là vế ra và vế đối.
Khi một câu đối do một người làm ra cả hai vế, thì chữ cuối, vế trên, câu bên phải (khi treo) là thanh trắc; còn chữ cuối, vế dưới, câu bên trái là thanh bằng.
Số chữ và các thể câu đối
Số chữ trong câu đối không nhất định. Theo số chữ và cách đặt câu có thể chia câu đối ra làm các thể như sau:
Câu tiểu đối: là những câu 4 chữ trở xuống.
Câu đối thơ: là những câu làm theo lối đặt câu của thể thơ 5 chữ (ngũ ngôn) hoặc 7 chữ (thất ngôn).
Câu đối phú: là những câu làm theo các lối đặt câu của thể phú, gồm có:
-Lối câu song quan: là những câu 6 đến 9 chữ, đặt thành một đoạn liền.
-Lối câu cách cú: là những câu mà mỗi vế chia làm 2 đoạn, một đoạn ngắn, một đoạn dài.
-Lối câu gối hạc hay hạc tất: là những câu mỗi vế có 3 đoạn trở lên. Luật bằng trắc
Câu tiểu đối:
-Vế phải: trắc-trắc-trắc
-Vế trái: bằng-bằng-bằng
Câu đối thơ: phải theo đúng luật bằng trắc của hai câu thực và câu luận trong lối thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
Câu đối phú: Chữ cuối mỗi vế và chữ cuối mỗi đoạn phải bằng đối với trắc hoặc trắc đối với bằng.
Khi mỗi vế đối có từ 2 đoạn trở lên thì nếu chữ cuối vế là trắc, các chữ cuối các đoạn trên phải là bằng và ngược lại. Nếu đoạn đầu hoặc đoạn dưới có đúng 7 chữ thì đoạn ấy thường theo luật thơ thất ngôn.
III- Câu đối Việt Nam
Câu đối Việt Nam được học giả Dương Quảng Hàm phân loại theo ý nghĩa, gồm các loại sau:
3.1-Câu đối mừng: làm để tặng người khác trong những dịp vui như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới... Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc.
Có nghĩa: (Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm) (Thi sĩ Nguyễn Khuyến viết mừng một chánh tổng trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.)
3.2- Câu đối phúng: làm để kể tâm sự của mình đối với người chết.
Nhà chỉn rất nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tưởi chân nam chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc
Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ, gật gù tay đũa tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm. (Nguyễn Khuyến: câu đối khóc vợ)
3.3- Câu đối Tết: làm để dán tại nhà, cửa, đền, chùa... vào dịp Tết Nguyên Đán.
Đây là cảnh Tết của một nhà nghèo mà lòng vẫn phơi phới sắc xuân khi giao thừa sắp đến:
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
(Đại Thần, Thi sĩ Nguyễn Công Trứ làm câu đối trên vào dịp Tết lúc còn hàn vi.) và, như hiểu rõ sự chuyển vận của vũ trụ, cụ ước ao.
Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết
Ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân.
-Trần Tế Xương
Thiên hạ xác rồi, còn đốt pháo
Nhân tình trắng thế, lại bôi vôi.
(Do câu "Tan như xác pháo")
Nực cười thay: Nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà tết;
Thôi cũng được: Rượu có, nem có, bánh chưng cũng có, thừa chơi!
(Cuối năm đón Tết, người ta rắc vôi bột trước nhà thành hình cánh cung, nỏ, giáo... để trừ ma quỉ. "Nhân tình" ở đây có nghĩa: "cảnh người" tức cảnh sống gieo neo khốn khó của con người thời ấy. "Trắng": bạc phếch, kiệt quệ.)
3.4-Câu đối thờ: là những câu tán tụng công đức tổ tiên hoặc thần thánh làm để dán hoặc treo những chỗ thờ phụng.
Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.
(Dịch nghĩa: Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân. Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết)
3.5-Câu đối tự thuật: là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình và thường dán ở những chỗ ngồi chơi.
Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.
Trời đất nhẻ! Gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng ềnh
(Nguyễn Công Trứ, câu đối tự thuật)
3.6-Câu đối đề tặng: là những câu đối làm ra để đề vào chỗ nào đó hoặc tặng cho người khác.
Nếu giầu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng.
(Vua Lê Thánh Tông, câu đối đề ở một hàng bán trầu nước)
3.7-Câu đối tứùc cảnh: là những câu tả cảnh vật đang ở ngay trước mắt.
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài
(Hồ Xuân Hương, vịnh cảnh trượt chân, ngã xoạc cẳng)
3.8-Câu đối chiết tự
Chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ: là những câu do sự tách chữ Hán hoặc chữ Nôm ra từng nét hoặc từng phần mà đặt thành câu.
Tự là chữ, cất giằng đầu, chữ tử là con, con ai con nấy?
Vu là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa nào đứa này?
3.9-Câu đối trào phúng: là những câu làm để chế diễu, châm chích một người nào đó.
Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại.
Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có một ngươi thôi
(Câu đối tặng một người chột mắt mới đỗ khoa thi võ)
3.10-Câu đối tập cú: là những câu lấy chữ sẵn ở trong sách hoặc ở ca dao, tục ngữ:
Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không ngõng.
Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
3.11-Câu đối thách: người ta còn nghĩ ra những câu đối oái ăm, cầu kỳ rồi tự đối lấy hoặc thách người khác đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị nghĩa...
Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già
Con công đi qua chùa kênh, nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại
(Câu đối có bốn chữ: cóc cách cọc cạch đối với bốn chữ công kênh cồng kềnh)
Có những vế câu đối rất khó đối như:
Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử. Vế này khó đối vì hồi hương (cũng có nghĩa "về quê") và phụ tử (cũng có nghĩa "cha con") đồng thời lại là tên gọi các vị thuốc.
IV- Một số Câu Đối nổi tiếng trong lịch sử
1-Giai thoại vua chúa
Một hôm Cao Bá Quát từ Bắc Ninh sang Hà Nội dạo chơi. Bấy giờ Quát mới là một cậu học trò còn để chỏm tóc trên đầu. Quát thấy đường phố Hà Nội có vẻ nhộn nhịp khác thường, hỏi ra mới biết vua Minh Mạng ngự giá Bắc Thành, đi thăm hồ Tây và các thắng cảnh khác.
Chờ đúng giờ Đạo ngự đi đến Hồ Tây, Quát giả vờ xăm xăm nhảy xuống hồ để tắm. Quan quân thấy vậy hoảng hốt, thét bắt trói lại. Càng bị trói, Quát càng gào to và dẫy dụa vùng chạy, gây ồn ào, hỗn độn bên bờ hồ. Vừa lúc đó, kiệu vua đi qua, Minh Mạng truyền lệnh dẫn Quát đến hỏi lý do tại sao vua tới mà dám nhảy xuống hồ tắm, không sợ tội "khinh quân" sao.
Quát bào chữa là học trò nghèo mới ở nhà quê lên tỉnh, nên không biết gì về luật lệ cũng như cuộc du ngoạn của vua Minh Mạng nghe nói liền nảy ra một ý xem thằng bé này có thông minh không. Nhân dưới hồ nước trong có nhiều đàn cá bơi lội tung tăng đuổi bắt nhau, vua bèn ra một câu vế đối, nếu thằng nhỏ đối đáp được thì sẽ tha tội:
-Nước trong leo lẻo, cá đớp cá
Cao Bá Quát không cần nghĩ ngợi, trong lúc đang bực tức về việc mình bị bắt trói một cách vô lý, bèn đối lại:
-Trời nắng chang chang, người trói người
Minh Mạng tức giận trước câu đối ấy có vẻ khiêu khích và dỡn mặt vua, nhưng vì không muốn mang tiếng với người Bắc Hà trong dịp đầu tiên ra thăm Đất Bắc, nên đành truyền lệnh cởi trói tha cho Cao Bá Quát
(Theo Cao Bá Quát - Trúc Khê)
2-Giai thoại ngoại giao với Tàu.
Có lần bà Đoàn Thị Điểm được Vua cho giả làm cô lái đò đưa sứ Tàu sang sông. Trên thuyền tình cờ sứ Tàu đánh địt (đánh rắm), vừa ngượng với cô lái đò, vừa muốn chữa thẹn nên ông ta bèn ra câu đối chơi đểu:
Sấm dậy Nam bang
(Tiếng sấm làm động cả xứ Nam).
Không chịu thua và để dằn mặt, bà Điểm ra ngay mạn thuyền vén váy lên đái rồi đáp:
Vũ tuôn Bắc quốc
(Câu đối chỉnh cả đối ý và đối chữ, một hình thức đối tục. Sấm động Nam Bang thì mưa tuôn xứ Bắc (ý chỉ nước Tàu) là quá chỉnh.
Lần khác, bà Đoàn Thị Điểm đóng vai cô hàng nước. Sứ Tàu ham thói bẻ hoa đi qua thấy bà có nhan sắc bèn trêu ghẹo:
An nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.
Nghĩa là: Xứ An nam có một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày.
Bà Điểm chẳng vừa liền đối lại rằng:
Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất.
Nghĩa là: Các trượng phu xứ Bắc, cũng từ chỗ đó mà ra cả.
Câu đối của bà làm cho sứ Tàu ngượng ngùng bỏ đi và thầm phục phụ nữ VN.
3-Giai thoại làng Nho:
Một trong các giai thoại nổi tiếng trong làng Nho kể lại rằng, khi nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đang tắm trong buồng thì bất ngờ Trạng Quỳnh tới nhà thăm và gõ cửa xin vào. Trạng Quỳnh vốn là tay nghịch ngợm và thường trêu ghẹo bà. Từng được mệnh danh tài sắc hạng nhất trong các nữ sĩ Việt Nam, bà muốn chứng tỏ cái tao nhã của văn chương thi phú nên nói bóng một câu. Nếu Trạng Quỳnh đối được thì chờ vào nhà tâm sự; bằng không thì mắc cở bỏ về. Bà liền ra câu đối:
Da trắng vỗ bì bạch
-Da: là danh từ chữ Nôm chỉ về da của người, tiếng Hán là bì cũng là danh từ. Hai danh từ cùng một nghĩa nhưng đối nhau rất tài tình.
-Trắng: là tĩnh từ tiếng Nôm chỉ mầu sắc (mầu trắng); tĩnh từ tiếng Hán là bạch; hai tĩnh từ cùng một nghĩa mầu trắng đối với nhau cũng rất tài tình
Da trắng chữ Nôm, đối với tiếng Hán là bì bạch, cùng một nghĩa, đối chỉnh không chỗ nào chê được.
-Nhưng cái hay ở đây là hai chữ bì bạch còn có nghĩa tượng thanh. Khi đang tắm tay đập vào đùi thì người ta nghe tiếng kêu "bì bạch", một phụ từ cho động từ "vỗ". Cũng như "khóc oa oa"; xe lửa chạy "kêu phình phịch".
5 chữ, nhưng nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã khéo dùng hai danh từ, hai tĩnh từ đồng nghĩa đối nhau và một động từ cùng ý nghĩa đứng giữa phân đôi. Thực ra chỉ còn 3 chữ riêng rẽ.
Vỗ thì phải dùng bàn tay, mà bàn tay phụ nữ da cũng trắng; nên câu đối thật là tài tình ở chỗ chỉ có da trắng với da trắng.
Câu đối càng chỉnh bao nhiêu càng khó đối lại. Vì thế, trong lúc bất ngờ Trạng Quỳnh không tìm được câu đối đáp lễ đành lui bước.
Giai thoại làng Nho ngưng ở đây. Người ta không biết hồi kết thúc giữa nữ sĩ nổi danh và ông Trạng nổi tiếng chọc làng phá xóm ra sao!
5-Quan Tây biết đối
Những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 trong kho tàng văn học dân gian có giai thoại về một câu đối như sau:
Một lần giáp Tết, một tên Tây đoan (thuế vụ) dẫn lính về làng lùng bắt rượu lậu. Thấy trong đình làng tụ tập đông người hắn liền chỉ ba toong hách dịch, hỏi dân tụ tập làm gì. Một cụ trả lời rằng đang cùng nhau làm câu đối. Mắt tên Tây đoan sáng lên như có vẻ thách đối. Nhìn thấy giữa sân có một cây mít hắn liền đọc: Đình tiền định lập vô tri thụ Các cụ ngạc nhiên lắm, chẳng ngờ thằng Tây thạo cả chữ Hán! Tên Tây đoan vội đi, hẹn lúc khác quay lại nghe vế đối.Các cụ cũng khá bí. Vế đối của tên Tây đoan nghĩa là. Trước sân sừng sững một cây không biết".
Oái oăm ở đây là hắn chơi chữ, "cây mít", nó gọi là "cây không biết" có ý khinh dân ta dốt. Đối lại chẳng dễ gì. Một lúc tên Tây đoan quay lại, vẻ đắc chí hất hàm hỏi: "Thế nào các ông nhà nho đã đối lại được chưa?" Hắn vừa dứt lời thì bỗng ở sau đình, một con gà trống (sống) cất tiếng gáy lảnh lót phá tan sự căng thẳng nặng nề. Một cụ đứng lên dõng dạc đọc:
Bích hậu tường minh bất tử kê. Câu đối của các cụ nghĩa là: "Sau tường rõ ràng nghe tiếng gáy của một con gà bất tử."
Các cụ chơi chữ thật cừ. "Bất tử kê" là gà trống, dân miền Bắc thường gọi là gà sống (không chết), đối lại với "vô tri thụ" (cây không biết), thật chỉnh cả ý lẫn lời.
Đến lượt tên Tây đoan ngạc nhiên. Nó cho biết đã sang nước ta gần 30 năm, thạo chữ Hán. Nó cũng phải chịu tài ứng đối của nhà nho đất Việt. (Sưu tầm từ trang nhà:
rosvina.de/forum/index.hp
-------------------
Tài liệu tham khảo:
vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91
vi.wikiquote.org/wiki/C%C3%A2u_%C4 %91%E1%BB%91i_Vi%E1%BB%87t_Nam
forums.vinagames.org/showthread.php
www.hue.vnn.vn/vanhocthica/2005/02/60691/
www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2007/02/18/VietnameseCalligraphyIntheNewEra_NTra
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
Từ hải ngoại nghĩ về miền Nam Việt Nam, hay xem qua các hình ảnh trên đài truyền hình, trên Intenet, tuổi trẻ nhận thấy đây là miền đất trù phú, dân cư hiền hòa và cởi mở; nhưng các em không biết nhiều về nơi này, nếu chưa đọc qua tài liệu lịch sử. Để giúp tuổi trẻ Việt Nam theo cha mẹ đi tị nạn lúc còn nhỏ hay được sinh ra từ ngoại quốc, chúng tôi ghi lại ở đây một cách khái quát về miền đất của người Chân Lạp (Khmer, Campuchea) và các di tích văn hóa của họ còn để tại miền Nam Việt Nam, sau khi đất nước họ bị chiếm mất một phần lãnh thổ.
1-ĐÔI HÀNG LỊCH SỬ NƯỚC CHÂN LẠP
Chân Lạp (hay Chenla) là một quốc gia cổ được hình thành ở trung tâm bán đảo Đông Dương bởi các dân tộc người Môn – Khmer vào khoảng đầu thế kỷ 5. Lãnh thổ ban đầu tương ứng với phần đất miền Trung và Nam Lào cùng với vùng Đông-Bắc Thái Lan ngày nay, thủ đô có lẽ là ở Champasak (thuộc Lào). Các vương quốc láng giềng xung quanh vào thời kỳ đó là Champa ở phía Đông, Phù Nam ở phía Nam và Pyn (Miến Điện (Myanma)) ở về phía Tây-Bắc. Chân Lạp lớn mạnh dần lên và lấn lướt dần Phù Nam (vương quốc ở phía Nam). Đến thế kỷ 6 họ đã xâm chiếm được miền Bắc của Phù Nam và đến đầu thế kỷ 7 họ tiêu diệt Phù Nam và hoàn toàn sát nhập vào lãnh thổ của mình.
Triều đại các vị vua của Chân Lạp theo truyền thuyết có nguồn gốc từ nhân vật thần thoại Campu, lấy nàng Naga (con gái thần nước, biến từ rắn thành thiếu nữ). Từ "campu" bắt nguồn cho tên gọi của Campuchea sau này.
Vương quốc Chân Lạp tồn tại từ năm 630 đến 707 do nội chiến bị phân chia thành hai lãnh thổ là Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. Thủy Chân Lạp tương ứng với khu vực đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam và miền Nam Campuchia ngày nay. Đầu thế kỷ 9, Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp sát nhập lại và mở ra thời kỳ huy hoàng của Đế quốc Khmer; nhưng sau đó suy yếu dần.
Việt Nam và Chân Lạp
Trước khi nói tới nước Chân Lạp, chúng ta cần biết sơ lược về nhà Nguyễn mở rộng bờ cõi về phía Nam.Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thì Nguyễn Kim khởi nghĩa giúp nhà Lê đánh nhà Mạc đã lấy được đất Thanh (Hóa), Nghệ (Tĩnh) rồi; sau đem quân ra đánh Sơn Nam bị hàng Tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết, binh quyền giao lại cho rể là Trịnh Kiểm. Nguyễn Kim có hai người con là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng cũng làm tướng lập được nhiều công. Nguyễn Uông được phong làm Lang Quận Công, Nguyễn Hoàng được phong Thái Úy Đoang Quận Công. Trịnh Kiểm sợ họ Nguyễn tranh mất quyền mình bèn kiếm chuyện giết Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng sợ Trịnh Kiểm cũng sẽ hại mình, cho người ra Hải Dương hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm được mách bảo: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân", có nghĩa dẫy Hoành Sơn là chỗ yên thân được muôn đời. Nghe lời, Nguyễn Hoàng vận động với chị là Ngọc Bảo nhờ Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất phía Nam. Năm 1558, đời vua Anh Tông, Trịnh Kiểm mới tâu vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa.
Năm 1611, Nguyễn Hoàng đem quân đánh nước Chiêm Thành lấy đất lập ra Phủ Phú Yên. Năm 1653 Nguyễn Phúc Tần chiếm đất Chiêm Thành tới Khánh Hòa ngày nay. Năm 1693, Nguyễn Phúc Chu đổi đất Chiêm Thành thành Thuận-phủ. Năm 1697 chúa Nguyễn đặt phủ Bình Thuận, lấy đất Phan Lý (Phan Rí) và Phan Lang (Phan Rang) làm huyện Yên Phúc và Hòa Đa. Từ thời điểm này nước Chiêm Thành bị xóa tên trên bản đồ.
Đối với Chân Lạp thì sau khi nhà Vua chết, tình trạng chú cháu tranh dành quyền hành xẩy ra. Phe thân Việt Nam chạy sang cầu cứu nhà Nguyễn. Nguyễn Phúc Hiền sai quan đem 3.000 quân đánh Mỗi Xuy (nay là Phước Thành, tỉnh Biên Hòa) bất được Nặc Ông Chân đem về Quảng bình giam, sau được thả với điều kiện phải triều cống và bênh vực người Việt đang làm ăn ở đất Chân Lạp. Năm 1674, Nặc Ông Đài cầu viện Tiêm La (Thái Lan) sang đánh Nặc Ông Chân. Nguyễn Phúc Hiền cho quân đánh Nặc Ông Đài, phá được đồn Sài Gòn, rồi tiến quân vây thành Nam Vang. Nặc Ông Đài bỏ chạy vào rừng, Nặc Ông Thu ra hàng. Vì thuộc dòng con trưởng Nặc Ông Thu được nhà Nguyễn cho làm chính Quốc vương đóng đô ở Long Úc. Nặc Ông Nộn làm đệ nhị Quốc Vương đóng tại Sài Gòn. Mỗi năm phải triều cống. Năm Mậu Dần (1698) Nguyễn Phúc Chu sai ông Nguyễn Hữu Kính làm kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố ra làm dinh, huyện. Lấy đất Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình: đặt Trấn Biên Dinh (Biên Hoà) và Phan Trấn Dinh (Gia Định) sai quan vào cai trị.
Năm 1699 Nặc Ông Thu đem quân chống quân nhà Nguyễn. Quan Tổng suất Nguyễn Hữu Kính đem quân đánh tới thành Nam Vang. Nặc Ông Thu bỏ chạy, con là Nặc Ông Yêm ra hàng. Sau cả cha con họ Nặc đều qui phục và triều cống như thường. Năm 1705, Nặc Ông Thâm (con của Nặc Ông Thu) nghi Nặc Ông Yêm (con của Nặc Ông Nộn) có ý làm phản bèn đem quân đánh. Nặc Ông Thâm cầu viện Tiêm-la sang đánh khiến Nặc Ông Yêm phải cầu cứu nhà Nguyễn. Năm 1714, Nặc Ông Thâm từ Tiêm-la đem quân về đánh Nặc Ông Yêm ở La Bích; nhưng bị quân nhà Nguyễn đánh tan và đưa Nặc Ông Yêm lên làm vua Chân Lạp.
Thời bấy giờ nội bộ Chân Lạp tiếp tục có loạn, các vương tôn tranh nhau ngôi báu. Mỗi dòng đều cậy nhờ quân Việt hoặc quân Xiêm vào giúp đỡ. Năm 1755, Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng chúa Nguyễn lãnh thổ hai phủ Tầm Bôn (Cần Thơ) và Lôi Lập (Long Xuyên) để được về Nam Vang cai trị. Năm 1758, chúa Nguyễn đưa Nặc Tôn (Ang Ton II) lên làm vua và được tặng thêm lãnh thổ Tầm Phong Long (Châu Đốc và Sa Đéc). Nặc Tôn tặng riêng Mạc Thiên Tứ lãnh thổ 5 phủ miền Đông-Nam Chân Lạp: Hương Úc (Kompong Som), Cần Bột (Kampot), Trực Sâm (Chưng Rừm), Sài Mạt (Cheal Meas) và Linh Quỳnh (vùng duyên hải từ xã Sré Ambel đến làng Peam), nói chung là toàn bộ vùng biển ven duyên quanh đảo Phú Quốc, Mạc Thiên Tứ dâng hết cho Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Thật ra đây là những vùng đất hoang, không người Khmer nào sinh sống tại đây vì sình lầy và lụt lội quanh năm. Võ vương sát nhập tất cả các vùng đất mới vào trấn Hà Tiên, giao cho Mạc Thiên Tứ cai trị.
Từ đó các lãnh thổ miền Tây được qui thành ba đạo: Đông Khẩu đạo (Sa Đéc), Tân Châu đạo (Tiền Giang) và Châu Đốc đạo (Hậu Giang). Long Hồ dinh được chuyển về Tầm Bào (Vĩnh Long) thuộc Châu Đốc đạo. Năm 1759, công cuộc bình định đất đai miền Nam xem như hoàn tất.
Như vậy đất 6 tỉnh Nam Việt bây giờ là đất của nước Chân Lạp.
2-NGƯỜI KHMER TẠI VIỆT NAM
Cộng đồng người Khmer tại miền Nam hiện nay khoảng 1,2 triệu người, đa số (90%) sinh sống trên lãnh thổ các tỉnh Cửu Long, Hậu Giang, Kiên Giang, An Giang và Minh Hải, số còn lại sinh trú và lập nghiệp quanh Sài Gòn và Tây Ninh. Dân tộc Khmer Krom hay Khơ Me Crộm là bộ phận dân tộc Khmer sống ở VN. Người Khmer được phân chia thành hai hệ, đó là Khmer Krom, sống ở Việt Nam, và Khmer Leu, sống ở Campuchea. "Krom" và "Leu" là phiên âm tiếng Việt của Khmer, có nghĩa là "Dưới" và "Trên".
Phần lớn người Khmer là Khmer Leu, sống tập trung ở Campuchia. Phần còn lại, Khmer Krom, sống ở đồng bằng sông Cửu Long thuộc các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Bến Tre. Tiếng nói và chữ viết của người Khmer thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer. Khmer là từ được viết theo phiên âm tiếng Anh thường thấy trong. Tiếng Việt phiên âm chữ này thành Khờ Me hay Khơ Me. Từ Khmer được phiên qua tiếng Hán thành Cao Miên, gọi tắt là Miên. Do đó một số người Việt còn gọi dân tộc này là dân tộc Miên.
3-CÁC DI TÍCH VĂN HÓA CỦA NGƯỜI KHMER TẠI MIỀN NAM
3.1-Tín ngưỡng
Phật Giáo Tiểu Thừa trong quá khứ và hiện nay là tôn giáo chính, chi phối những sinh hoạt tinh thần của người Khmer. Tuy nhiên, trước khi đạo Phật du nhập trong đất nước nầy, đã tồn tại một hệ thống tín ngưỡng phản ảnh nền văn hóa bản địa. Cho đến nay người Khmer vẫn còn giữa lại tinh thần tín ngưỡng vật tổ. Nhiều ảnh hưởng của Bà La Môn giáo sâu đậm trong địa hạt nầy như rắn thần Naga được lưu truyền cho đến nay trong tín ngưỡng và văn hoá. Rắn thần Naga trong truyền thuyết là "tổ tiên" của người Khmer.
Biểu tượng văn hóa cao nhất của người Khmer có thể nói là các ngôi chùa mầu sắc và kiến trúc nghệ thuật lộng lẫy. Mỗi ngôi chùa Khmer lớn hay nhỏ cũng là một bảo tàng về mặt kiến trúc cũng như về nghệ thuật điêu khắc. Nhà của người Khmer đơn sơ, mái lá, vách lá nhưng ngôi chùa thì phải là kiên cố, lộng lẫy, hợp với mục đích là một cơ sở gồm ba chức năng: tôn giáo, giáo dục và văn hóa.
Trong chùa không có tiếng chuông, tiếng mõ vì đạo Phật Khmer thuộc tông phái tiểu thừa. Chính điện của chùa là một tòa nhà đồ sộ với bộ mái nhiều tầng, ngói màu vàng rực, các góc mái cong vút lên hình ngọn lửa hay đuôi rắn thần. Tượng Phật Thích Ca, Tiên Nữ, Người Chim, Chằn hung dữ... đều là những tác phẩm mỹ thuật gây ấn tượng mạnh. Khuôn viên chùa rất rộng, với nhiều cây cổ thụ có khi um tùm như rừng cho nên chim chóc thường tụ về. Một số chùa còn thờ thêm thần Arak. Đối với người Khmer, thì Arak có nghĩa là những loài ma quỷ với ý nghĩa khác. Họ quan niệm: Arak là thần tổ của dòng họ 7 đời (?), đã biến thành ma quỷ thiêng liêng, nhưng lại có khả năng bảo vệ cho cuộc sống cá nhân và gia đình họ. Arak thường trừ khử hết những loại ma ác độc. Arak là môt nhân thần phái nữ đã chết, có những tên họ cụ thể, có huyền thoại, đồng thời mỗi vị lại có những nghi thức cúng lễ khác nhau. Để thông đạt với Arak, phải dùng đến đồng bóng. người lên đồng gọi là Rup Arak, tức là truyền thông với thần linh. Nhiều đàn bà trở thàng các "Rup Arak" chuyên nghiệp. Họ lên đồng để hiểu căn bệnh của kẻ yếu đau, hay để giải thoát những tai ương xẩy ra bất thường.
Ảnh hưởng tín ngưỡng Neak Tà thời cổ lưu lại không nhỏ. Theo nguyên nghĩa thì Neak là con người nói chung; Tà là người đàn ông đứng tuổi. Hai chữ hội lại thành ý niệm về
những vị thần linh. Neak Tà được biểu hiện:
- Neak Tà Meha Sros là vị thần cầm đầu trong các Phum Sóc,
- Neak Tà Watt là vị thần của chùa chiền đền miếu,
- Neak Tà Ra Chay là thần của ao hồ, ngã ba sông,
- Neak Tà Sâm Rông là thần của cây trôm,
- Neak Tà Đom Chreay là thần cây đa, cây đề.
Qua những hình tượng trên đây cho thấy người Khmer thường có xu hướng thờ Bách Vật Giáo từ thời nguyên thuỷ còn lưu lại Neak Tà là thần bảo hộ. Những ngôi chùa Khmer đều có dựng lên thần bảo hộ. Người Khmer có tục lệ thờ cúng Arak và thờ cúng Neak Tà, hình thức của vị thần bảo hộ. Khi thờ cúng, đồng bóng là nghi lễ không thể thiếu. Arak có mặt bảo vệ trên nhiều phương diện: bảo hộ gia đình, bảo hộ đất đai, bảo hộ làng mạc, ruộng nương. Neak Tà là vị thần bảo hộ cho thôn xóm tương tự như Thành Hoàng. Mỗi năm đều tổ chức lễ cúng vị Neak Tà rất trang trọng.
Người Khmer phân chia ra bốn loại Neak Tà khác nhau: Loại Neak Tà có tên gọi những vật trong thiên nhiên, tên thực vật hay tên của một đặc thù địa lý. Loại Neak Tà mang tên người. Loại Neak Tà mang tên các vị thần Bà La Môn. Loại Neak Tà tại chùa chiền.
Thành thử trong tín ngưỡng Neak Tà của người Khmer có đầy đủ các quan hệ tín ngưỡng đa dạng, từ tín ngưỡng vạn vật hữu linh cho đến tục thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các thần trong đạo Bà La Môn và chư Phật trong Phật Giáo. Người bình dân Khmer hiện nay vẫn còn sùng bái những vị thần trong Bà La Môn: Brahma, Vichnu, Siva, Indra, được đặt dưới những danh xưng: Prek Norey, Prek Proum, Prek Em, Prek Puon Nuk... những di chỉ khai quật tại Óc Eo và tại Đồng Tháp có nhiều bức tượng của những vị thần nầy. Hiện nay, những tàn dư của Bà La Môn Giáo chỉ tồn tại trong những nghi lễ đồng bóng.
Theo thống kê của Phật Giáo Việt Nam thì trong toàn miền Nam có 419 ngôi chùa Khmer, với khoảng 11.000 sư. Nguyên tại tỉnh Sóc Trăng có tới 200 chùa Miên. Nổi tiếng nhất phải kể đến chùa Bốn Mặt (Mỹ Tú), Tập Rèn (Kế Sách), Chén Kiểu, Cần Đước (Mỹ Xuyên), Cà Săng, Tum Nụp (Vĩnh Châu), chùa Dơi, Khléang (thị xã Sóc Trăng).
Ngôi chùa người Khmer trở thành trung tâm sinh họat tín ngưỡng của cộng đồng nầy. Cộng đồng của tộc người Khmer theo Phật Giáo hệ phái Nam Tông, từ trước đã phân chia ra làm ba giáo phái chính. Những giáo phái nầy đã ảnh hưởng cơ cấu tổ chức của Phật Giáo ở Kampuchia, gồm: giáo phái Mohanikay, giáo phái Thommayutt và giáo phái Theravada.
Theo tài liệu trong "Người Việt gốc Miên" (1969) thì: Miền Nam Việt Nam có 482 chùa Khmer theo phái Mohanikay, 18 chùa theo phái Thommayutt; giáo phái Theravada do Sơn Thái Nguyên thành lập năm 1957. Từ đó toàn thể sư sãi Khmer đều thuộc giáo phái nầy.
Tuy nhiên, bộ Nội Vụ VNCH trước đây vẫn chưa chấp thuận giáo phái nầy. Năm 1964, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Viện Hoá Đạo chỉ nhận giáo phái Theravada là đại diện cho giới sư sãi người Việt gốc Miên tại Trung ương. Những chùa chiền người Khmer ở các tỉnh vẫn giữ nguyên giáo phái chính của mình.
Khác với những ngôi chùa Việt Nam và chùa Trung Hoa, những loại chùa Khmer chỉ thờ đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, không thờ các vị Phật, Bồ tát khác như đức Quán Thế Âm Bồ tát, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, hay các vị Kim Cương, La Hán và các Bồ tát khác. Toàn thể tượng và bệ tượng thường đặt phía sau một cái khuôn lớn, có chạm khắc những mẫu hoa văn, hình kỷ hà rất tinh vi. Nổi bật nhất hiện nay là ngôi chùa Srâ Lâung, còn bảo lưu nhiều khung bằng gỗ, có những hình chạm trỗ rất đẹp.
Nổi tiếng nhất trong các ngôi chùa Khmer là các chùa Âng, Samrong Ek, Kompong Chrây, Cò Giồng Lớn, Phật Lớn, Khléang, Srâychô Mahatup (Mã tộc), còn gọi là Chùa Dơi, Salon còn gọi là Chùa Chén Kiểu, Siemcang... 3.2-Những lễ hội
Người Khmer có rất nhiều lễ hội quanh năm nhưng quan trọng nhất là: Lễ hội năm mới (Chol Chnam Thmay), Lễ hội chào mặt trăng (Ok Ang Bok), Lễ cúng tổ tiên (Donta).
Lễ hội vào năm mới là lễ hội trọng thể nhất, diễn ra vào ba ngày 13, 14, 15 tháng Chet, tức vào giữa tháng tư dương lịch (nếu là năm nhuận thì kéo dài bốn ngày).
Ngày thứ nhất của Chol Chnăm Thmay là lễ rước đại lịch tại chùa địa phương. Mọi người lễ Phật, nghe thuyết pháp rồi tham gia các cuộc vui chơi, múa hát tới khuya.
Ngày thứ hai là lễ dâng cơm và đắp núi cát. Trước và sau khi ăn, các nhà sư tụng kinh chúc phúc để tạ ơn những người đã làm ra vật thực và mang nó đến cho nhà chùa; sau đó dưới sự điều khiển của vị sư cả Achar, mọi người đua nhau đắp cát thành nhiều ngọn núi nhỏ theo tám hướng và một ngọn núi lớn ở trung tâm, tượng trưng cho vũ trụ, ở trong khuôn viên chùa.
Ngày thứ ba là lễ tắm tượng Phật, tắm sư: sau khi dâng cơm sáng cho các sư, mọi người đem nhang đèn, lễ vật và nước có ướp hương thơm đến trước bàn thờ để tắm tượngPhật, sau đó tắm (tượng trưng) cho các vị sư sãi cao niên rồi ai về nhà nấy làm lễ tắm tượng Phật tại nhà, dâng cỗ bàn cúng tổ tiên, chúc phúc cha mẹ. Lại tiếp tục vui chơi, múa hát: thả đèn trời, đốt ống lói, đánh quay lửa, ném còn, kéo co, đấu vật, đánh võ, chạy đua, múa trống xà dăm, múa ramvong, lâm thôn, hát a day, brop cay, xem biểu diễn sân khấu kịch hát dù kê và sân khấu kịch múa rô băm, thưởng thức nhạc truyền thống từ các dàn nhạc phleng siem, phleng khmer.
Lễ hội cúng trăng (lễ hội chào mặt trăng) là lễ hội lớn thứ nhì của người Khmer được tổ chức vào đúng đêm trăng rằm tháng 10 âm lịch để tỏ lòng biết ơn trăng là vị thần bảo vệ mùa màng, ban bố hạnh phúc cho con người. Lễ hội được cử hành trước sân nhà hay sân chùa, với những lễ vật: chuối, bưởi, cam, khóm, khoai lang, khoai mì, khoai môn, và đặc biệt không thể thiếu là món cốm dẹp. Sau khi khấn vái xong, đợi tuần hương cháy hết, người già gọi các em bé lại ngồi xếp thành hàng và chắp tay lại, rồi từ từ bốc những nhúm cốm đút vào miệng từng em. Sau lễ cúng trăng là các cuộc vui chơi và trình diễn văn nghệ qua lời ca, tiếng nhạc, điệu múa và tiếng trống dồn dập rộn ràng, có khi kéo dài trắng đêm với hàng ngàn người tham dự trong chùa, ngoài sóc.
Hội đua ghe ngo, sinh hoạt lễ hội văn hóa thể thao lớn nhất của người Khmer, thu hút hàng trăm ngàn người xem. Khi pháo lệnh nổ, những chiếc ghe ngo dài như con rắn khổng lồ nổi lên mặt nước lao vút đi như tên bắn. Tiếng hò reo cổ vũ náo nhiệt, tiếng trống thôi thúc cuộc đua vang động cả một vùng sông nước rộng lớn. Từ sau 1975, nhiều cuộc đua ghe ngo chung cho cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long được tổ chức đều đặn trên sông Hậu, tại thành phố Sóc Trăng. Khách thập phương, người Khmer, người Việt, người Hoa... về dự hội có năm lên tới hơn 300.000 người như vào năm 2002.
Lễ cúng tổ tiên, ông bà (Donta) là lễ hội lớn thứ ba của người Khmer tổ chức linh đình trong ba ngày, từ 29 tháng 8 đến mồng 1 tháng 9 âm lịch. Ngày thứ nhất là ngày cúng lễ nghênh đón ông bà bằng những mâm cỗ thịnh soạn, cúng sáng, cúng chiều tại nhà. Sau đó mọi người đi chùa, mời linh hồn tổ tiên nghe sư sãi tụng kinh, rồi cùng con cháu tham dự văn nghệ múa hát vui chơi thâu đêm suốt sáng. Ngày thứ hai tiếp tục mời ông bà vui chơi với con cháu tới chiều tối. Ngày thứ ba (mồng 1 tháng 9) là ngày cúng tiễn đưa linh hồn ông bà về chốn ở cũ nơi Niết Bàn: mỗi gia đình mời bà con họ hàng, láng giềng chòm xóm tới cúng vái, sau đó cùng nhau dùng cỗ rồi vui chơi, múa hát cho tới tận khuya. Trong ngày này nhà nào khá giả còn mời sư sãi đến tụng kinh, cầu phước cho thêm phần long trọng. Chấm dứt lễ hội Donta là nghi thức thả những chiếc thuyền nhỏ làm bằng bẹ chuối, cau, dừa... xuống sông suối, hoặc mương rạch quanh nhà để ông bà đi đến nơi về đến chốn.
Việc tổ chức thờ cúng ông bà tổ tiên thành một lễ hội lớn chung cho toàn sắc tộc trong không khí lạc quan hồ hởi của toàn thể cộng đồng, với sự hiện diện trọng thể của ngôi chùa và các sư sãi cùng với nhiều sinh hoạt vui chơi và văn nghệ truyền thống là một hình thức biểu hiện thuần phong mỹ tục đáng khâm phục. 3.3- Phong tục
Người Khmer thường truyền tụng đến câu chuyện kết hôn giữa Preah Tgôn và Néăng Neak từ xa xưa, xem là điển hình của phong tục, tín ngưỡng, tập quán.
Những nghi thức trong đám cưới cổ truyền của Khmer, như tục nhuộm răng, cắt quy đầu... đều in đậm dấu vết về Tô tem giáo của họ.. Những lễ tục, diễn xướng liên quan đến rắn thần được thể hiện trong nhiều hội lễ nhất là trong lễ cuất gia của tuổi thành niên Khmer. Rắn thần lại còn được xem là niềm tin và nguồn may mắn, được thể hiện trên điêu khắc chùa chiền, trên các phù điêu đền tháp, trên những nông cụ. Chim Krut cũng là một biểu tượng khác về vật tổ. Thành thử trong những hình thái sinh hoạt bình thường, không được dùng rắn Naga và chim Krut môt cách bữa bãi.
Dân tộc Khmer thuần theo đạo Phật tiểu thừa. Ở đồng bằng sông Cửu Long có hơn 440 ngôi chùa lớn nhỏ của người Khmer, mỗi chùa có ít nhất 5-10 ông lục, nhiều khi đến 60-70 ông ăn ở, học tập tu hành. Các ông lục, còn gọi là sư sãi, là con em người bổn sóc. Gia đình nào có con trai từ 12 tuổi trở lên đều cho vào chùa tu, có thể 3 tháng hoặc 3-4 năm hay trọn đời tuỳ ý, để học kinh, học chữ, rèn luyện thành người có trí thức và đức hạnh.
Ngày xưa, nếu người con trai nào không qua giai đoạn tu trong chùa thì bị xã hội và gia đình cho là bất hiếu và lớn lên rất khó lấy vợ. Bởi vì người con gái Khmer đến tuổi lấy chồng, thường chọn những chàng trai đã qua tu luyện trong chùa, đã hoàn tục. Theo họ, đó là người đã hoàn thành nghĩa vụ và học được cách làm người, nhất là biết chữ nghĩa, được mọi người trọng vọng.
Lễ đi tu thường được tổ chức vào ngày đầu tết Chôl Chnâm Thmây. Vào ngày này, gia đình nào muốn đưa con và chùa tu (vài tháng trước đó, người con trai này phải vào chùa học thuộc vài bài kinh cơ bản) sẽ tổ chức một lễ gọi là Bank-Bom-Buôn để người đi tu từ giã họ hàng, bạn bè và được mọi người cầu chúc sức khoẻ. Khi vào lễ, anh ta cạo đầu, thay quần bằng chiếc xà rông, thay áo bằng một khăn vải trắng đắp lên vai từ trái sang phải gọi là Pênexo, chứng tỏ rằng anh ta từ bỏ thế tục. Lúc đó người ta gọi anh là Nec (rồng).
Theo truyền thuyết từ kinh điển Phật giáo, ngày xưa có một con rồng tu luyện thành người và xin được vào tu theo đức Phật. Một hôm, khi ngủ trưa rồng hiện nguyên hình. Môn đệ khác của đức Phật phát hiện ra liền báo ngay. Đức Phật trục xuất rồng khỏi hàng môn đệ, vì không phải người thì không được tu. Rồng khóc van xin, nhưng không lay chuyển được lòng đức Phật. Cuối cùng rồng xin đức Phật ban cho một ý nguyện là sau này, những ai bước chân vào tu cũng phải gọi bằng tên tộc là Nec. Từ đó đến nay, từ "nec" dùng để gọi nhà sư tương lai và cũng để nhớ đến truyền thuyết trên.
Để vào lễ, buổi tối họ mời sư sãi đến tụng kinh, cúng tam bảo và thọ giới theo Phật. Sáng hôm sau, khi cơm nước xong, họ đưa anh con trai chùa, có bạn bè thân quyến mang lễ vật cùng đi theo. Đến chùa, họ đi vòng quanh chánh điện ba vòng rồi mới vào trong làm lễ. Ở đây có một nhà sư ngồi gọi là Uppachhe giảng dạy, hỏi và đọc các điều của luật tu hành cho các nec nghe. Sau đó nec mới cầm áo cà sa đi vào hàng giữa sư sãi và đọc lời xin tu. Khi vị thượng toạ chấp thuận thì nec mới đi thay xà rông và khăn trắng bằng áo cà sa. Tiếp theo là lễ thọ giới 10 điều của Phật giáo: 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà dâm; 4. Không nói láo; 5. Không uống rượu; 6. Không ăn ngoài bữa; 7. Không xem múa hát; 8. Không dùng đồ trang sức; 9. Không chiếm ghế cao và giường êm; 10. Không đụng đến vàng bạc.
Cuối cùng các nhà sư cùng Phật tử tụng kinh cầu phước cho người mới tu hành và chúng sinh để chấm dứt buổi lễ. Ngày nay, tục đi tu vẫn còn phổ biến trong người Khmer ở miền Tây Nam bộ. Bởi vì tu không phải để thành Phật mà để thành người, chuẩn bị cho cuộc sống tốt đẹp ở ngày mai, là một cơ hội tốt để cho họ được học chữ nghĩa, đạo lý và rèn luyện đức hạnh. Đi tu đồng thời theo nếp nghĩ truyền thống cũng là một cách tích phước cho cha mẹ, gia đình và chính bản thân. Tuy nhiên, ngày nay người con tra Khmer vì theo học ở một trường nào đó hoặc có những gia đình quá khó khăn, thiếu lao động thì không phải đi tu và luật tu hành cũng không quá khắt khe như xưa nữa.
3.4-Bảo Tàng Viện Khmer Bảo Tàng Viện nằm ở khóm 4, phường 9, thị xã Trà Vinh, được khánh thành vào năm 1995. Nơi đây trưng bày hình ảnh và các di tích văn hóa của dân tộc Khmer; đặc biệt là sách lá Buôm, tiếng Phạn viết trên lá bằng cách bỏ sống lá, phần lá còn lại cắt thành hình chữ nhật dài 40-65cm, phơi khô rồi ép cho thẳng. Sau đó dùng que sắt mài nhọn viết chữ trên là và dùng mầu xanh từ lá khoai hay lá nhọ nồi hoặc mực tàu miết lên mặt lá cho chữ nổi lên. Ngoài ra, trong Bảo tàng Viện còn có các văn tự cổ ghi kinh Phật, các huấn ca về đạo đức, lối sống và truyện dân gian. Hiện nay có hai Bảo Tàng Viện văn hóa Khmer, một ở Trà Vinh và một ở Sóc Trăng.
......................
Tài liệu tham khảo:
encyclopedia2.thefreedictionary.com/Campuchea
www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/PhatgiaoKHMER.htm
www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/truyenthongvaduongdai/ditichvathangcanh/2007/07/724068h
www.mientay2007.blogspot.com/2007/03/blog-post_5123.html+CH%C3%99A +KHMER&hl=da&ct=clnk&cd=5&gl=dk
www.nguoihanoi.net/diendan/index.php%3Fs%3D172c389e03c4ac83cdf339bf090b 94c7%26act%3DST%26f%3D16%26t%3D333+CH%C3% 99A+KHMER+%E1%BB%9F+s%C3%A0ig%C3% B2n &hl= da&ct= clnk&cd=4&gl=dk
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
Sài Gòn xưa vốn được ca tụng là một Hòn ngọc Viễn Đông, sau đó, kể từ năm 1956, thành phố này trở thành Thủ đô miền Nam và ông Ngô Đình Diệm là Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa. Sài Gòn có nhiều di tích lịch sử văn hóa, nhưng trong bài này chúng tôi chỉ giới thiệu một trong các công trình kiến trúc tân tạo nổi tiếng nhất là Dinh Độc Lập, nơi cư ngụ và làm việc của Tổng thống.
Nói tới Dinh Độc Lập, người ta cũng không thể không nói tới tác giả của công trình kiến trúc tuyệt đẹp và sự phối hợp giữa hai nền kiến trúc Đông-Tây của kiến trúc sư (KTS) Ngô Viết Thụ.
1- Tiểu sử Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (1926-2000)
Ông Ngô Viết Thụ sinh ngày 17 tháng 9 năm 1926 tại tại làng Lang Xá, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông lập gia đình với bà Võ Thị Cơ từ năm 1948, trong khi theo học dự bị kiến trúc tại trường cao đẳng kiến trúc tại Đà Lạt. Trong giai đoạn 1950-1955, ông là sinh viên ngành kiến trúc tại trường Mỹ thuật quốc gia Paris. Năm 1955, ông nhận giải nhất giải thưởng Roma về kiến trúc, thường được gọi là Khôi nguyên La mã, và tốt nghiệp kiến trúc sư D.P.L.G. Vào đầu năm 1960, ngành qui hoạch trên toàn thế giới vẫn còn đang ở giai đoạn đầu phát triển, và tại VN lúc đó chỉ có ba người có cả hai văn bằng kiến trúc sư và văn bằng phát triển quốc gia tại nước ngoài là: KTS Huỳnh Kim Mãng (giáo sư trường cao đẳng kiến trúc Sài Gòn), KTS Lê Văn Lắm (giám đốc tổng nha kiến thiết đô thị) và KTS Ngô Viết Thụ.
Trong thời gian 1955-1958, ông lưu trú tại Biệt thự Medicis của Viện Hàn Lâm Pháp tại Roma để nghiên cứu về quy hoạch và kiến trúc. Từ năm 1960, KTS Ngô Viết Thụ về VN làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông đã tổ chức triển lãm các dự án nghiên cứu của ông ở châu Âu tại Tòa Đô Chính Sài Gòn. Chính quyền Ngô Đình Diệm rất quan tâm đến dự án nối kết Sài Gòn với Chợ Lớn của ông bằng một khu trung tâm hành chính mới. Rất tiếc là vì lý do thời cuộc, dự án này không thực hiện được.
Năm 1962, ông là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F.A.I.A) cùng với một số kiến trúc sư danh tiếng cùng thời của các quốc gia khác như: J.H. Van den Broek, Arne Jakobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams, Herman Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H, Jerzy Hryniewiecki và John B. Parkin…
Ông đã thiết kế nhiều công trình xây dựng giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Nổi bật nhất là Đại Chủng Viện Đà Lạt (tức Giáo Hoàng Học Viện Pio X (1957), Dinh Độc Lập (1961-1966), Viện Đại học Huế (1961-1963), Viện Nguyên Tử Đà Lạt (1962-1965), Làng Đại Học Thủ Đức (1962), chợ Đà Lạt (1962) Khách sạn Hương Giang 1 tại Huế (1962), Nhà Thờ Phủ Cam (1963), Trụ sở Việt Nam Hàng Không (1972), Trường Đại học Nông nghiệp Thủ Đức (1975), Bệnh Viện Sông Bé (1985), Khách sạn Century Huế (1990)…
Ngoài ra, ông còn chứng tỏ khả năng của mình trong lãnh vực hội họa với bức tranh Thần Tốc và bộ tranh Sơn Hà Cẩm Tú, gồm 7 bức, mỗi bức dài 2m, rộng 1m. Ông cũng có tài chơi các loại nhạc cụ như: đàn Tranh, đàn Kìm và Sáo. Ông để lại hàng trăm bài thơ và bài viết.
Sau 30.4.1975, ông bị bắt đi học tập cải tạo một năm. Ông chết tại Sài Gòn năm 2000.
2-Tiểu sử Đinh Độc Lập
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Năm 1867, Pháp chiếm xong 6 tỉnh Nam kỳ (Biên Hoà, Gia định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Năm 1868, chính quyền Pháp bắt đầu cho thiết kế và xây dựng tại trung tâm thành phố Sài Gòn một Dinh thự làm Dinh Thống đốc và đặt tên là Dinh Norodom. Viên đá đầu tiên được đặt khởi công cho công trình xây dựng dinh vào ngày 23.2.1868 do Đô đốc De La Grandière chủ tọa với sự tham dự của nhiều quan chức Pháp - Việt và hoàn tất vào năm 1871. Từ 1871 đến 1887, Dinh còn có tên gọi là Dinh Toàn Quyền hay Dinh Thống Soái. Từ 1887-1945 nhiều đời toàn quyền Pháp đã sử dụng Dinh này làm nơi ở và làm việc trong suốt thời kỳ xâm lược Đông Dương. Theo sách của Jules Boissère thì công trình xây dựng và trang trí mất đến 21 năm. Đến năm 1889 Dinh mới được khánh thành. Chi phí xây dựng lên đến 4 triệu Frans vàng. Vào những năm đó Dinh Norodom được xem là một Dinh thự to nhất và đẹp nhất Á Đông, với kiến trúc theo lối cổ điển Tây phương, pha chấm vài đường nét lãng mạn của thế kỷ 18-19.
Ngày 9.3.1945, Phát xít Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương, Dinh Norodom là nơi làm việc của Toàn quyền Nhật ở Việt Nam. Từ tháng 9.1945 Nhật thất bại và đầu hàng vô điều kiện trong Thế chiến II, Pháp trở lại chiếm miền Nam, Dinh Norodom trở về chủ cũ. Dinh Norrodom) được xây dựng theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư người Pháp Hermite. (Dinh Norodom)
Ngày 07.5.1954, Pháp thất bại nặng nề trong chiến dịch Điện Biên Phủ, phải ký hiệp định Gienève và rút khỏi Việt Nam. Việt Nam bị chia cắt thành 2 miền, miền Bắc tự tuyên bố theo chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, chịu ảnh hưởng và sự chi phối của cộng sản quốc tế, còn miền Nam theo chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đồng minh với các quốc gia trong thế giới tự do.
Hiệp định Genève được ký kết ngày 20.7.1954, Pháp rút khỏi Việt Nam. Ngày 07.9.1954 Dinh Norodom được bàn giao giữa đại diện chính phủ Pháp, đại tướng Paul Ely, với đại diện cầm quyền Sài gòn là thủ tướng Ngô Đình Diệm, sau đó thủ tướng Diệm quyết định đổi thành Dinh Độc Lập.
Ngày 27.2.1962, hai viên phi công quân đội Sài Gòn, thuộc phe đảo chính, là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc lái 2 máy bay AD-6 ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của Dinh. Do không thể khôi phục lại, TT. Ngô Đình Diệm đã cho san bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, người Việt Nam đầu tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã.
Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 01.7.1962. Trong thời gian xây dựng, gia đình TT. Ngô Đình Diệm tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia Long. Công trình đang xây dựng dở dang thì TT. Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính giết chết ngày 2.11.1963.
Ngày khánh thành Dinh là ngày 31.10.1966. Người chủ tọa buổi lễ là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo quốc gia. TT. Ngô Đình Diệm là người khởi xướng xây dựng Dinh Độc Lập nhưng ông không được sống ở đây ngày nào. Người sống ở Dinh Độc Lập lâu nhất lại là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, từ tháng 10.1967 đến 21.4.1975.
10 giờ 45 ngày 30.4.1975 xe tăng mang số hiệu 843 của VC đã húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập, tiếp đó xe tăng mang số hiệu 390 đã húc tung cổng chính tiến thẳng vào Dinh. 11 giờ 30 cùng ngày, trung úy quân Bùi Quang Thận, đại đội trưởng chỉ huy xe 843 đã hạ lá cờ VNCH trên nóc Dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam lên. Cũng chính vào giờ phút này, tổng thống cuối cùng của VNCH là Dương Văn Minh cùng toàn bộ Nội các của chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Năm 1976 Dinh Độc Lập được nhà cầm quyền CSVN công nhận là "Di tích lịch sử văn hóa" do Quyết định số 77A/VHQĐ ngày 25.6.1976. Sau hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất hai miền Nam Bắc, Dinh Độc Lập bị đổi tên là hội trường Thống Nhất hay Dinh Thống Nhất. Cơ quan hiện nay đang quản lý di tích lịch sử văn hoá Dinh Độc Lập thuộc Cục Hành chính Quản trị II - Văn phòng Chính Phủ.
3-Cấu Trúc Dinh Độc Lập
Dinh có 04 khu nhà:
-Khu nhà chính hình chữ T diện tích mặt bằng là 4.500m2, cao 26m, nằm ở vị trí trung tâm của khu đất. Đây từng là nơi ở và làm việc Tổng thống chế độ Sài Gòn. Khu này có 03 tầng lầu, 2 gác lửng, 1 sân thượng, 1 tầng nền và 1 tầng hầm. Tổng diện tích sử dụng là 20.000m2 chia làm 95 phòng. Mỗi phòng có 1 chức năng riêng, kiến trúc và các trang trí phù hợp với mục đích sử dụng của mỗi phòng. Sau 1975, khu nhà chính này tiếp tục được sử dụng một số phòng, còn lại để phục vụ du khách tham quan.
-Khu nhà 2 tầng diện tích 8mx20m phía đường Nguyễn Du trước 1975 là trụ sở làm việc của đảng Dân Chủ. Sau năm 1975 đến nay là nơi làm việc của Ban giám đốc Hội trường Thống Nhất.
-Khu 04 nhà 2 tầng phía góc đường Nguyễn Du - Huyền Trân Công Chúa trước 1975 là khu nhà ở của tiểu đoàn bảo vệ Dinh Độc Lập. Sau 1975 là nơi ở của đại đội 1 trung đoàn cảnh vệ 180. Hiện nay nơi đây là khu nhà khách của văn phòng Chính phủ.
-Khu nhà trệt phía góc đường Huyền Trân Công Chúa - Nguyễn Thị Minh Khai, trước 1975 là khu sinh hoạt của đội cận vệ phi hành đoàn lái máy bay cho TT. Nguyễn Văn Thiệu, của bộ phận chăm sóc sân vườn. Hiện là khu nhà nghỉ trưa và bếp ăn tập thể của cán bộ công nhân viên hội trường Thống Nhất.
Ngoài các khu nhà trên, ở góc trái Dinh phía đường Nguyễn Thị Minh Khai còn có một nhà bát giác đường kính 4m, xây trên một gò đất cao, chung quanh không xây tường, mái ngói cong cổ kính làm nơi hóng mát, thư giãn. Xen giữa 04 khu nhà trên là những bãi cỏ xanh, vườn cây cổ thụ, những chậu cây kiểng quí và 04 sân tenis phía sau.
Tổng số các phòng trong toàn Dinh là 95, không kể các khu vực hành lang, khách sảnh và vệ sinh. Các phòng lớn liên quan tới ngoại giao trong nước và nước ngoài đặt ở tầng trệt, lầu 1 và 2.
Toàn thể bình diện của Dinh làm thành hình chữ CÁT, có nghĩa là tốt lành, may mắn. Tâm của Dinh là vị trí phòng Trình quốc thư. Lầu thượng là Tứ phương vô sự nên lầu có hình chữ KHẨU để đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU có cột cờ chính giữa sổ dọc tạo thành hình chữ TRUNG như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, bao lơn danh dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM. Theo quan niệm "dân chủ hữu tam: viết nhân, viết minh, viết võ", ý mong muốn một đất nước hưng thịnh thì phải có những con người hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba nét gạch ngang này được nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ VƯƠNG. Trên có kỳ đài làm thành nét chấm tạo thành hình chữ CHỦ, tượng trưng cho chủ quyền đất nước. Mặt trước của dinh thự toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu 3 kết hợp với mái hiên lối vào chính cùng 2 cột bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ HƯNG, ý cầu chúc cho nước nhà được hưng thịnh mãi.
Về tiền diện của dinh (gồm mái hiên bao lơn, bao lơn danh dự và mái hiên lối vào chính) hợp lại thành chữ Tam lấy từ câu: "dân chủ hữu tam: viết nhơn, viết minh, viết võ". Chữ Tam được nối bằng một nét cổ giữa hợp với nét chấm của kỳ đài phía trên làm thành chữ Chủ, ý muốn nói tòa nhà tượng trưng cho chủ quyền quốc gia. Ngoài ra thượng đình nơi Tứ phương - vô sự lâu, hình chữ Khẩu và cột cờ làm nét sổ dọc để tạo thành chữ Trung. Phía dưới toàn bộ bao lơn với những hàng cột kép, hợp với mái hiên lớn lối vào và hai cột bọc gỗ dưới mái hiên để tạo thành chữ Hưng, ý cầu chúc cho nước nhà hưng thịnh lên mãi. Đi vào bên trong dinh tất cả các đường nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ thẳng, các hành lang, các đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu "Chính đại quanh minh" làm gốc.
Vẻ đẹp kiến trúc của Dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa đá mang hình dáng những đốt trúc thanh tao bao xung quanh lầu 2. Rèm hoa đá được biến cách từ bức cửa bàn khoa của các cung điện cố đô Huế không chỉ làm tăng vẻ đẹp của Dinh mà còn có tác dụng lấy ánh sáng mặt trời.
Đi vào bên trong Dinh, tất cả các đuờng nét kiến trúc đều dùng đường ngay sổ thẳng, các hành lang, đại sảnh, các phòng ốc đều lấy câu "chính đại quang minh" làm gốc. Các phòng làm việc và tiếp khách được trang trí lộng lẫy bằng các bức tranh biểu tượng cho nghệ thuật mang mầu sắc vừa Phong kiến vừa Tôn giáo. Ghế ngồi của Tổng thống đặt trên một đế cao khiến người ta liên tưởng đến Ngai Vua đặt trên sập rồng. Có những bức tranh do chính KTS tự vẽ cho phù hợp với lối kiến trúc độc đáo của ông.
Một trong các công trình đặc biệt phải kể tới kỹ thuật sử dụng ánh sáng mặt trời vào các phòng bằng các tấm trang trí (claustras) bằng bê-tông đặt đứng cạnh nhau ở mặt tiền, hình chữ V, được sắp đặt thế nào để khi tia nắng chiếu vào tấm này thì ánh sáng hắt qua tấm bên cạnh rồi phản chiếu vào hành lang, nên không bị chói mắt. Có chỗ ánh sáng được lọt vào như những vệt sáng thưa, vạch thành đường sáng trên nền nhà lát đá hoa tạo nên cảnh sắc kỳ diệu.
Sân trước của Dinh là một thảm cỏ hình oval có đường kính 102m. Màu xanh rì của thảm cỏ tạo ra một cảm giác êm dịu, sảng khoái cho khách ngay khi bước qua cổng.
Chạy dài theo suốt chiều ngang của đại sảnh là hồ nước hình bán nguyệt. Trong hồ thả hoa sen và hoa súng gợi nên hình ảnh những hồ nước yên ả ở các ngôi đình, ngôi chùa cổ kính của Việt Nam.
Dinh có diện tích 120.000m2 (300m x 400m), được giới hạn bởi 4 trục đường chính: Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Công Lý cũ) ở phía Đông Bắc (mặt chính của Dinh); Huyền Trân Công Chúa ở phía Tây Nam (mặt sau của Dinh); Nguyễn Thị Minh Khai (Hồng Thập Tự cũ) ở phía Tây Bắc (phía bên trái Dinh); Nguyễn Du ở phía Đông Nam (phía bên phải Dinh).
Năm 1982, Hội Kiến trúc Liên-sô được KTS Ngô Viết Thụ mời sang quan sát đã ca ngời công trình tuyệt mỹ Dinh Độc Lập, một kiến trúc phối hợp nghệ thuật Đông-Tây toàn hảo, một biểu tưởng của ngành kiến chúc dân tộc Việt Nam. Ba tấm hiên bằng bê-tông cốt thép ở mặt chính Dinh được coi là biểu tượng đạo lý của TT. Ngô Đình Diệm với ba gạch ngang của Quốc kỳ hình quẻ Ly.
Tòa nhà được khởi công xây dựng ngày 1.7.1962 và được khánh thành ngày 3.10.1966. Theo đồ án, tòa nhà có diện tích xây dựng 45.000 m2 (rộng 21 gian 85m, sâu 19 gian 80m). Diện tích mặt sàn sử dụng khoảng 20.000m2, gồm ba tầng chính, hai gác lửng, một sân thượng (có sân bay trực thăng) và một tầng nền. Tổng số các phòng trong toàn dinh là 95 phòng, không kể các khu vực vệ sinh, hành lang và khách sảnh. Các phòng lớn bố trí cho các công việc đối nội, đối ngoại nằm ở các tầng trệt và lầu 1, lầu 2. Trang trí trong dinh có nhiều bức họa của những danh họa có tiếng đương thời. Bức "Giang sơn cẩm tú" của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, bức "Khuê văn các", "Vua
Trần Nhân Tông" của họa sĩ Thái Văn Ngôn.
Đặc biệt ở phòng trình quốc thư có bức "Bình Ngô đại cáo" (của Nguyễn Trãi viết trong thời giúp Lê Lợi chống giặc Minh), một bức tranh sơn mài lớn gồm 40 bức tranh sơn mài nhỏ ghép lại, tả cảnh sinh hoạt của nhân dân Việt Nam dưới thời Lê của họa sĩ Nguyễn Văn Minh. Ngoài ra còn bức tranh "Giang Sơn Cẩm Tú" của KTS Ngô Viết Thụ; bức "Khuê Văn Các" (Vua Trần Nhân Tông) của họa sĩ Thái Văn Ngôn.
KTS. Ngô Viết Thụ cho biết: phí tổn xây dựng Dinh Độc Lập tốn khoảng 150.000 lượng vàng và mỗi quân nhân, nhân viên chính quyền thời ấy phải đóng góp mỗi người một ngày lương. Một vài số liệu về vật liệu đã sử dụng: bê-tông cốt sắt độ 12.000m3, gỗ quí 200m3, kính làm các cửa 2.000m2, đá rửa và đá mài 20.000m2...
Tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa VI, ngày 25.6.1976 dinh Độc Lập đã được đổi tên thành Hội trường Thống Nhất và được đặc cách xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa theo quyết định số 77A - VHQĐ ngày 25.6.1976. n
-------
Tài liệu tham khảo:
-Tài liệu của Dinh Độc Lập
-http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_Vi%E1%BA%BFt_Th%E1%BB%A5
-http://www.simonhoadalat.com/DIAPHAN/Ditich/piox.html
-http://vi.wikipedia.org/wiki/Dinh_Th%E1%BB%91ng_Nh%E1%BA%A5t
(Giáo Hoàng học viện - Đại Chủng Viện Đà Lạt (1957
Nhà Thờ Cha Tam, một Thánh Đường in dấu tích Lịch Sử Văn Hóa, Nghệ Thuật và Chính Trị
BY: HOÀNG THẠCH
![]() |
![]() |
Về lãnh vực tôn giáo, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam (CSVN) đã xếp hàng trăm Chùa, Đền, Miếu và Đình Làng vào danh sách di tích lịch sử văn hóa hoặc di tích nghệ thuật kiến trúc của Việt Nam. Về phía Công Giáo theo từ điển địa danh văn hóa và Thắng cảnh Việt Nam (NXB khoa học xã hội) thì chỉ một công trình duy nhất của Công Giáo được công nhận là di tích nghệ thuật kiến trúc, đó là khu nhà thờ lớn Phát Diệm.
Sự kiện này chứng tỏ Việt Cộng (VC) có cái nhìn phiếm diện và kỳ thị khi nhận định về nghệ thuật. Cái nhìn đó không đúng với tinh thần khách quan. Nói tới nghệ thuật phải hiểu là nó không bị giới hạn bởi định kiến, nó không lệ thuộc vào chủ nghĩa duy tâm, duy linh hay duy vật; nó cũng không bị chi phối bởi chế độ tư bản, cộng sản hay quân chủ, phong kiến. Thái độ của VC chứng tỏ họ vẫn đề cao công trình văn hóa và kiến trúc chịu ảnh hưởng của Tàu trong thời kỳ ngàn năm đất nước Việt Nam bị đô hộ.
Trong chủ đề văn hóa kỳ này, chúng tôi muốn viết về một trong các nhà thờ nổi tiếng, nhà thờ Thánh Phanxicô Xaviê, một thánh đường đã in dấu tích lịch sử Việt Nam, dấu tích của sự hiện diện vào những giờ phút cuối cùng của cố tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, trước khi bị nhóm tướng lãnh nhận tiền của cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA) đảo chính và tướng Dương Văn Minh (đầu hàng VC ngày 30.4.1975) ra lệnh cho sĩ quan cận vệ thân tín nhất là thiếu tá Nhung bắn chết hai nhà lãnh đạo ưu tú nhất của miền Nam trong xe bọc thép M-113 vào ngày 2.11.1963.
Nhà thờ cha Tam xây cho người Hoa có trước. Sau đó số giáo hữu Việt-Hoa ngày càng gia tăng, nên nhà thờ Thánh Jeanne D’Arc hay người Việt quen gọi là nhà thờ Ngã Sáu được xây thêm. Do sự liên hệ về lịch sử, trong bài viết này chúng tôi đề cập cả hai hai nhà thờ.
1-ĐÔI HÀNG LỊCH SỬ NHÀ THỜ CHA TAM
Năm 1865, cha Philippe thuộc dòng Thừa Sai Paris (MEP) từ bên Trung Hoa sang Chợ Lớn để thành lập xứ đạo cho các giáo hữu người Hoa. Lúc sơ khai chỉ có hai gia đình Công giáo nên phải tạm sát nhập vào họ đạo Chợ Quán. Đến năm 1883, cha Briller thấy bổn đạo Việt Nam khá đông và vì khác biệt ngôn ngữ không thể đọc kinh chung, nên Ngài cất một căn nhà bên cạnh nhà thờ Thanh Nhơn (nhà thờ người Hoa) để giáo hữu VN đọc kinh, rồi qua dự thánh lễ chung với người Hoa bên thánh đường Thanh Nhơn.
Năm 1890, dưới thời đức cha Mossard, giáo hữu VN tăng lên 150 người trong khi số giáo dân người Hoa lại giảm dần; nên người Hoa lại đổi sang đọc kinh bên ngôi nhà bên cạnh; còn giáo hữu VN qua đọc kinh trong nhà thờ của người Hoa. Khi lễ thì lại nhập chung.
Năm 1898, cha Phanxicô Xaviê (Francois) Assou (người Việt quen gọi là cha Tam) xây cho người Hoa một nhà thờ mới, lấy tên thánh là Phanxicô Xaviê. Người Hoa nhường nhà thờ Thanh Nhơn cho giáo dân VN và cả hai họ đạo đều có cha sở trông coi.
Vào ngày lễ thánh Phanxicô Xaviê (Saint Francisco Savier), giám mục địa phận Sài Gòn Mossard, đã đến làm phép đặt viên đá đầu tiên xây ngôi thánh đường dành cho người Hoa.
Cha Tam cũng đã cho xây dựng thêm ở khu vực xung quanh nhà thờ một trường học, nhà nuôi trẻ, một nhà nội trú, một số nhà ở cho thuê.
Nhà thờ cha Tam (nhà thờ Phanxicô Xaviê), địa chỉ hiện nay của nhà thờ tại số 25 Học Lạc, phường 14, quận 5, Sài Gòn.
Nguyên khu đất nhà thờ là đất trống dùng làm nghĩa địa cho người Hoa ở xóm Thợ Rèn thuộc Chợ Lớn. Thời Pháp thuộc chính phủ cho xây ngôi chợ xép gần đó gọi là chợ Lò Rèn.
2-GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VĂN HÓA CỦA NHÀ THỜ CHA TAM
Ngoài công trình xây cất theo nghệ thuật kiến trúc Gothic của Tây phương, trong nhà thờ còn trang trí những tấm Hoành Phi và các tấm Liễn. Các bức hoành phi là những tấm ván được sơn đen hay đỏ bóng láng giống nền các bức tranh sơn mài của người Việt; trên đó người ta viết những chữ có ý nghĩa về đạo, văn hóa hay phong tục. Các tấm liễn là các câu đối khắc trên gỗ treo trên cột hay tường giống như ở đền miếu của người Hoa.
Kiến trúc Gothic (Gothic Architecture) ra đời sau thời kỳ kiến trúc La Mã (Roman), khoảng năm 1.200 sau Công Nguyên. Sự khác biệt dễ dàng nhận thấy nhất giữa hai lối kiến trúc trung cổ này là trong khi kiến trúc La Mã theo kiểu vòm cong tròn, còn kiến trúc Gothic lại theo kiểu vòm nhọn. Kiến trúc Gothic có cửa sổ nhiều hơn và kích thước cửa sổ lớn hơn so với kiến trúc La Mã. Do đó người Âu châu bắt đầu xây nhà thờ và cung điện theo kiểu kiến trúc Gothic. Thời kỳ hưng thịnh của kiến trúc Gothic có thể kể từ thế kỷ 12-16 ở Pháp, thế kỷ 18 ở Anh và lan rộng khắp Âu châu trong suốt thế kỷ 19, sau đó vẫn ảnh hưởng rất mạnh trong các kiến trúc về nhà thờ và trường đại học và cho đến thế kỷ 20
Mỹ thuật độc đáo của kiến trúc Gothic người ta có thể quan sát trong các thánh đường Thiên Chúa Giáo và một số công trình dân dụng. Tuy là kiến trúc Gothic, nhưng cái độc đáo là mỗi công trình xây dựng có nét đặc biệt, không hoàn toàn giống nhau. Nhiều công trình kiến trúc Gothic vĩ đại như: nhà thờ Đức Bà ở Paris, tu-viện Westminster và nhà thờ Salisbury ở Anh quốc, nhà thờ Cologne ở Đức, đại học Wellesley ở tiểu bang Massachusetts của Hoa Kỳ v.v... là những kiệt tác kiến trúc vô giá được tổ-chức giáo-dục, khoa-học và văn-hóa Liên Hiệp Quốc "UNESCO" (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization) công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Tại Việt Nam có nhiều nhà thờ lớn và có giá trị lịch sử, xây cất theo kiểu Gothic, nguy nga và vĩ đại không thua gì các nhà thờ của ngoại quốc, thế mà CSVN chỉ công nhận có một khu nhà thờ Phát Diệm!
3-NHÀ THỜ JEANNE D’ARC (nhà thờ Ngã Sáu)
Năm 1913, cha sở giáo xứ người VN là cha Colson qua đời, đức cha cử cha Phanxicô Xaviê Assou trông coi luôn giáo xứ VN và tới năm 1913 thì ngài sửa sang nhà thờ cho rộng lớn hơn. Đến năm 1914, đức cha sai cha Poitier đến coi giáo xứ VN và ngài lại mở rộng nhà thờ vì số giáo dân lên tới 500. Nhưng với thời gian và chiến tranh, nhà thờ bị hư nát nhiều, đến nỗi sở công chánh đô thành đã viết thư cho cha sở: "Nếu cha không lo sửa lại, thì sở chúng tôi phải buộc lòng ra lệnh đóng cửa, vì sợ tai nạn có thể xẩy ra."
Cha Gioan Baotixita Huỳnh Tịnh Hướng không biết xoay sở thế nào. Huê lợi trong họ không có một xu mà giáo dân ngày một đông, lại thêm nhà cầm quyền lúc đó không thích đạo Công Giáo!
Năm 1921, người Pháp mừng trọng thể lễ kỷ niệm thánh nữ Jeanne D’Arc, vị cứu tinh của Pháp quốc trong Thế Chiến I (1914-1918). Lễ mừng có kèn trống quân hành và 21 phát súng đại bác chào mừng. Nhớ biến cố này, cha sở cám ơn Chúa trong nhà thờ như thói quen và cầu nguyện cùng thánh nữ.
Lạ thay! Theo cha Hướng kể thì ít tháng sau người cầm quyền ghét đạo Công Giáo nói trên bị thuyên chuyển. De Taste, một quan khác thay thế. Theo thói quen cha sở đến chào mừng và được ông ta hứa nếu cần gì cha cứ nói. Một tuần sau ông quan tới thăm đáp lễ cha sở và ngài đã dẫn ra thăm nhà thờ sắp bị sụp đổ. Quan mới nhận chức chưa biết rõ mọi việc, nhưng hứa sẽ coi lại vấn đề. Bốn tháng sau, quan mời cha sở đến nhiệm sở và cho biết chương trình nới rộng thành phố và các nghĩa địa sẽ được dời đi chỗ khác.
Thế là cơ hội bằng vàng đã đến, cha Hướng không chỉ được cấp miếng đất nghĩa địa dành cho Huê kiều nay dời qua khu Phú Thọ, mà còn được cấp giấy phép đi quyên tiền, tổ chức hội chợ, bán xổ số Tombola để kiếm tiền xây nhà thờ mới cho họ đạo Chợ Lớn VN.
Có nhà thờ mà chưa có tượng cũng là nỗi băn khoăn của cha sở. Lại một bất ngờ xẩy ra. Một buổi chiều có vài người Ấn độ lái xe tới đậu trước nhà thờ, sau khi quan sát họ vào thăm cha sở và hỏi xem bao giờ khánh thành nhà thờ. Cha sở cho biết khi nào có ảnh tượng thánh bổn mạng Jeanne D’Arc thì sẽ khánh thành. Vài tháng sau, họ trở lại cho cha sở biết có một số người Pháp Công Giáo gốc Ấn Độ muốn dâng cho nhà thờ ba tượng: tượng Chúa Giê-su, Mẹ Maria và Jeanne D’Arc làm bằng đá cẩm thạch của Ý Đại Lợi.
Nhà thờ mang tên thánh nữ Jeanne D’Arc được khánh thành vào năm 1928, đúng ngày lễ kính của thánh nữ. Đức giám mục đến làm phép và quan khách đạo đời đều được mời tới tham dự. Cuộc rước kiệu thánh nữ Jeanne D’Arc lần đầu tiên đã được tổ chức một cách trọng thể.
Năm 1933, cha Tam (Phanxicô Assou), chánh sở nhà thờ thánh Phanxicô Xaviê qua đời và được chôn cất ngay khu tường cửa trước nhà thờ. cha Huỳnh Tịnh Hướng được đức cha cử về làm chánh sở ở họ đạo người Hoa, vì cha biết tiếng Tàu. Khi còn là thày sáu ngài đã giúp cha Tam xây nhà thờ Phaxicô Xaviê, nhà hưu dưỡng của các cha ở Chí Hòa và nhà nguyện tại bệnh viện Grall.
4-NÚI ĐÁ ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC
Đối với người Công giáo Việt Nam thì lòng sùng kính sâu đậm không thua gì Đức Giê-su. Vì thế, trong hầu hết các thánh đường đều có chưng ảnh tượng Đức Mẹ và bên ngoài thì làm hang đá Đức Mẹ.
Bên hông nhà thờ Ngã Sáu, hang đá Đức Mẹ Lộ Đức được cha Huỳnh Tịnh Hướng xây cất và khánh thành vào năm 1932. Phí tổn 5.000 đồng do một giáo dân dâng tặng. Để biết giá trị đồng tiền, chúng ta nên biết thời đó lương công nhân mỗi ngày chỉ được 0,30 đồng (30 xu), lương tỉnh trưởng một ngày 2 đồng (tháng 60 đồng.)
Hang đá Đức Mẹ sau đó bị hư hại trong chiến tranh Nhật-Pháp 9/1939. Sau chiến tranh linh mục Bùi Văn Nho đã tu bổ và dâng lễ tạ ơn vào ngày 11.2.1947, lễ kính nhớ Đức
Mẹ hiện ra tại Lộ Đức.
*Lịch sử cỏ trồng trước hang đá Đức Mẹ
Liên quan tới cỏ trồng hang đá Đức Mẹ Lộ Đức, linh mục Bùi Văn Nho có kể lại câu chuyện qua tựa đề "tù binh Nhật" như sau:
"... Năm 1946, mọi sự lật ngược lại, các tù binh đồng minh được tự do chờ ngày về quê quán. Trái lại, các anh lính Nhật, nhất là các anh có dính dáng tới chuyện hà hiếp tù binh đồng minh khi trước và những anh "chúa ngục" khi xưa thì nay phải vào tù. Sự ấy không gì lạ, vì Nhật đã đầu hàng đồng minh vô điều kiện sau hai trái quả bom nguyên tử. Khi đó tôi đến đức cha và trình bày rằng: Trong lúc các tù binh đồng minh bị giam giữ, đành rằng có nhiều anh lính Nhật bạc đãi các tù binh đồng minh một cách ác nghiệt, nhưng cũng có người rất tốt, rất thông cảm, như những anh trại trưởng của 17 trại giam mà tôi đã đến, các anh ấy tử tế, để tôi đi tự do, và còn giúp tôi việc này sự nọ, hay ban một ít ân huệ cho các tù binh mỗi khi tôi can thiệp... thí dụ: xin phép cho các anh bệnh hoạn khỏi đi làm việc hay được làm việc nhẹ nhàng hơn. Vậy con đến xin bàn với đức cha coi có phương thế gì giúp các anh ấy chăng, vì giờ đây tới phiên các anh ấy phải ngồi tù?
Đức cha hỏi: "Vậy cha nghĩ làm sao?"
-Thưa đức cha, con nghĩ có thể đức cha xin cho họ khỏi bị giam trong tù. Cho họ ở một khu vực nào đó trong thành và chờ khi có chuyến tàu thứ nhất cho họ được về quê quán.
-Tốt lắm, đức cha đáp, không cần đức cha can thiệp, mọi người đều biết cha, cha hãy đến ngay tướng Leclerc và trình bày sự cha muốn.
Tôi đến dinh Norodom và được tướng Leclerc tiếp ngay. Sau khi trình bày mọi sự, ông bảo tôi cho tên 17 người ấy.
-Tôi không biết tên của họ!
-Cha có biết mặt họ không?
-Có biết
Ông liền cho một đại tá đi cùng tôi vào khám Chí Hòa và gọi tập trung tất cả tù binh Nhật (cũng có hơn 2.000 người). Họ nghe hiệu lệnh tập trung và họ thấy tôi đến, người nào người nấy điếng hồn! Nhất là khi tôi đi nhìn mặt từng người, họ càng sợ hơn nữa. May tôi đã tìm ra được 17 người quản ngục khi xưa và thêm 10 người nữa thuộc thành phần tử tế có cảm tình. Tất cả 27 người. Ông đại tá sắp họ riêng ra và tuyên bố: "27 người này được linh mục chứng rằng khi xưa rất tử tế với đồng minh và nhờ sự can thiệp của linh mục. Ông tướng ban phép cho những người này khỏi ở tù được trả tự do bằng cách tập trung lại một nơi để chờ chuyến tàu thứ nhứt 27 người này sẽ được về quê quán.
Sau khi nghe tuyên bố, 27 người được ân xá này dường như bay bổng đến chín tầng mây. Sự vui mừng của họ không thể nào tả ra cho hết. Họ reo lên... Họ công kênh tôi lên và chạy cùng sân tù. Qua bữa sau họ được làm mọi thủ tục giấy tờ và ra thong thả. Trong lúc họ ở ngoài, tôi cũng thường năng đến thăm an ủi và giúp đỡ họ sự gì tôi làm được.
Qua mấy tháng sau, có chuyến tàu, họ được đưa về xứ. Chính tôi có đến tiễn chân họ nơi bến tàu.
Về xứ, cách độ 2 tháng, lúc gần lễ Giáng Sinh tôi nhận được một gói nhỏ như hộp bánh Biscuit, trong đó có viết ít chữ rằng:
"Tôi đã về đến xứ sở bình an, đã gặp lại vợ con. Chúng tôi gửi lời thăm cha, chúng tôi hiện đang ở quê nhà, chúng tôi không có gì biếu tặng cha trong dịp Lễ Giáng Sinh, xin phép biếu cha chút cỏ đây... Cha có thể trồng nơi núi Đức Mẹ của cha.."
Tôi đã trồng, thứ cỏ mịn màng như nhung, tạm gọi là nhung xanh của Nhật bổn mà hiện thời lan tràn Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định và các tỉnh bằng cách, từ đó đến nay 1946-1972 (26 năm) hễ ai đến xem thấy đẹp, xin, tôi sẵn sàng phúc đáp. Có khi vào mùa mưa, cỏ lên lan tràn, phải cắt xén, có người đến lượm về trồng cũng sống như thường. Cỏ này cũng có thể gọi là "Cỏ nhẫn nại", cỏ "tình thương" có thể mọc lên trên sỏi đá khô khan..."
Cỏ Nhật Bản
Cỏ hoa bất cứ mọc nơi đâu
Vẫn mọc xanh tươi ánh sắc màu
Trải tấm tình yêu lên sỏi đá
Cam lòng nhẫn nại vượt gian lao
Trong cơn nắng hạ sầu vô kể
Gặp lúc mưa xuân đẹp xiết bao
Một đám cỏ nhung bao kỷ niệm
Tông đồ dấn bước vạn thương đauCũng nên biết lm Bùi Văn Nho, một lm có uy tín rất lớn tại Sài Gòn và Chợ Lớn, một vị lãnh đạo tinh thần đã được tòa thánh Vatican, các chính quyền Việt Nam, Pháp, Mỹ ngưỡng mộ trao tặng 44 huy chương đủ loại về các hoạt động đạo đức, văn hóa và từ thiện xã hội....
Gia đình ông bà cố của lm Bùi Văn Nho có 6 người con. Tất cả dâng mình cho Chúa: 3 linh mục, 3 nữ tu. Ông bà cố mừng Ngọc Khánh hôn phối 1910-1970. Ông cố được Tòa Thánh trao huân chương Đại Hiệp Sĩ (hay Hiệp Sĩ Thánh Giá) "Pro Ecclesia Et Pontifice" và Bà cố được trao tặng huy chương "Benemerenti" về tinh thần sống đạo và phục vụ đặc biệt cho Giáo Hội, gia đình và cộng đồng. Lm. Bùi Văn Nho mừng Ngân Khánh 25 năm Linh mục vào năm 1970.
----------------
Tài liệu tham khảo:
-"Những trang sử đẫm mồ hôi của họ đạo Chợ Lớn Việt Nam" (Họ Jeanne D’Arc Chơ Lớn VN) trang 20-26, 74-77
-http://en.wikipedia.org/wiki/Gothic_architecture
Cám Ơn:
-Chân thành cám ơn anh Nguyễn Mạnh Hùng (Aarhus, Đan Mạch), cựu Hùng Tâm Dũng Chí của họ đạo Chợ Lớn đã cho mượn tác phẩm nêu trên.
-Chân thành cám ơn họ đạo Jeanne D’Arc về việc trích dẫn một vài đoạn và hình ảnh trong tác phẩm kể trên để cống hiến quí độc giả của Nguyệt san Dân Chúa
BY: HOÀNG THẠCH
Việt Nam Quốc Tự,
Một Trung Tâm Văn Hóa Của
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Có nguy cơ bị phá hủy sau khi Việt cộng bán cho ngoại quốc
Trong chủ đề văn hóa kỳ này chúng tôi giới thiệu một trong các chùa Phật Giáo nổi tiếng tại thủ đô Sài Gòn, chùa Việt Nam Quốc Tự.
Gần đây, theo tin tức trên hệ thống mạng lưới toàn cầu Internet, báo chí Việt Cộng và đặc bịêt báo điện tử Tuổi Trẻ ngày 23.2.2008 đã đăng tin nhà cầm quyền Việt Cộng thành Hồ đã quyết định bán khu đất Việt Nam Quốc Tự ở đường Trần Quốc Toản cho một công ty Mã Lai để xây trung tâm tài chính có tầm vóc quốc tế.
Quí độc giả ở Sài Gòn hay khu phố Tầu Chợ Lớn năm xưa không ai không biết Việt Nam Quốc Tự và những biến động tại thủ đô sau khi chế độ đệ I Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ vào ngày 1.11.1963. Cùng với sự bất an về chính trị có ảnh hưởng đến sinh mạng của các nhân vật quan trọng trong chế độ đệ I Cộng Hòa, sự an toàn tính mạng của vị sư chủ trì của Việt Nam Quốc Tự cũng lâm nguy, bởi vì phe Phật Giáo Ấn Quang muốn loại một đối thủ quan trọng của họ trong hệ thống Phật Giáo miền Nam!
Đến nay, sau hơn 30 năm miền Nam bị Việt Cộng miền Bắc xâm chiếm, các tài liệu chứng minh về giai đoạn lịch sử của thời xa xưa ấy không còn là những bí mật. Vì thế, khi đề cập tới biến cố Việt Nam Quốc Tự và những gì đã xẩy ra trong bóng tối, người ta không còn phải e ngại gì cả. Đó là một biến cố lịch sử, vừa mang mầu sắc chính trị, vừa mang tính chất tôn giáo.
Để hiểu rõ nội vụ, mời quí độc giả cùng hướng về thủ đô Sài Gòn năm xưa.
1-Trong bối cảnh nào Việt Nam Quốc Tự ra đời?
Không chấp nhận cho quân Mỹ vào miền Nam, tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã bị chính phủ John F. Kennedy quyết định loại bỏ và CIA chi cả triệu Đô-la cho các tướng lãnh đảo chính và giết chết. Sau đó, các cuộc chỉnh lý đã xẩy ra liên tiếp trong các năm 1963-1964. Hết chính phủ quân sự này đến chính phủ dân sự kia được thành lập, nhưng sân khấu chính trị vẫn rơi vào tình trạng bế tắc. Miền Nam bị khủng hoảng cả về chính trị lẫn quân sự. Quốc sách Ấp Chiến Lược bị Dương Văn Minh ra lệnh phá bỏ khiến cho an ninh ở nông thôn rơi vào tình trạng bất an. Việt Cộng lợi dụng thời cơ xâm nhập vào xã ấp và tấn công mạnh trên chiến trường.
Sau cái gọi là cách mạng lật đổ được chính quyền do một tổng thống Công Giáo lãnh đạo, một số tổ chức chính trị lợi dụng thời cơ, lấy danh nghĩa Phật Giáo gây nên biến động Miền Trung, tạo ra các cuộc xung đột giữa Công Giáo và Phật Giáo. Ngày 25.8.1964, làng Công Giáo Thanh Bồ và Đức Lợi tại Đà Nẵng miền Trung bị khủng bố đốt phá. Tại Sài Gòn thì nhóm sinh viên và thanh niên Phật tử quá khích xuống đường biểu tình liên miên chống Nguyễn Khánh và đòi thanh toán các đảng viên của đảng Cần Lao Nhân Vị. Du đãng Cầu Muối được mua chuộc xuống đường ngông nghênh đe dọa phá tòa báo Xây Dựng và nhà thờ Huyện Sỹ. Không thể chấp nhận sự lộng hành quá trớn và lợi dụng cách mạng để phá hoại an ninh trật tự xã hội và xâm phạm tài sản của Công Giáo, thanh thiếu niên vùng Chí Hòa, Bình An và Hố Nai được lệnh tăng cường bảo vệ các cơ sở của Giáo Hội.
Chương trình trực tiếp can thiệp vào miền Nam của chính phủ Mỹ được thực hiện. Số lượng cố vấn Mỹ gia tăng tại miền Nam. Gái làng chơi bị cấm dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm nay xuất hiện nhan nhản. Lính Mỹ nhiều là cớ cho gái mãi dâm làm cao, mua hàng quà không cần trả giá làm ra vẻ qua mặt cả các phu nhân bộ trưởng, tướng, tá. Tôn giáo vượt qua giới hạn đạo đức linh thiêng, trực tiếp hay gián tiếp can dự vào chính trị, nên người dân Sài Gòn thời đó có câu khá mỉa mai: "nhất Đĩ, nhì Sư, tam Cha, tứ Tướng".
Thủ đô Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn chưa từng có. Dù là Công Giáo, Phật Giáo, Cao Đài hay Hòa Hảo, những người lo cho tiền đồ Việt Nam Cộng Hòa không thể chấp nhận các hoạt động vô luật pháp cứ mãi tiếp diễn. Vì thế, một ủy ban Liên Tôn được thành hình. Linh mục Hoàng Quỳnh và thượng tọa Thích Tâm Châu đã dấn thân trong việc hô hào đoàn kết, chấm dứt xung đột.
Trong bối cảnh hỗn loạn đó, Việt Nam Quốc Tự ra đời ngày 26.4.1964.
Thượng tọa Thích Tâm Châu tụ trì tại Việt Nam Quốc Tự thuộc thành phần Phật Giáo miền Bắc di cư. Sau cuộc đảo chính thành công thì sự tranh chấp quyền hành và đòi ảnh hưởng đối với các chính phủ giữa hai phe Phật Giáo miền Trung do Thích Trí Quang lãnh đạo và miền Bắc di cư đã xẩy ra. Sự tranh chấp căng thẳng đến nỗi người ta đã dùng bạo lực và biểu tượng "sát sinh" để đe dọa và thanh toán nhau.
Theo tin tức trên các diễn đàn Internet và tác giả Chơn Trí thì thượng tọa Thích Tâm Châu bị đệ tử của thượng tọa Thích Trí Quang là Bùi Ngọc Đường hăm dọa giết chết bằng cách để trên bàn làm việc của thượng tọa Tâm Châu một dĩa máu với một con dao. Từ ngày 3.6.1966, thượng tọa Thích Tâm Châu và Thích Hộ Giác đã từ bỏ các chức vụ trong Viện Hóa Đạo, lánh nạn ra Vũng Tầu và trú ngụ trong trung tâm huấn luyện Nhu Đạo Quang Trung. Cũng từ thời điểm đó phe Ấn Quang coi như nắm trọn quyền hành đại diện Phật Giáo và đòi hỏi nhiều quyền lợi và ảnh hưởng đối với các chính phủ Nguyễn Khánh và Phan Huy Quát, vì cớ có công lớn trong việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm!
2-Tại sao Phật Giáo có sự thù hằn và đe dọa giết nhau?
Sự tranh chấp giữa hai phe Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự là một biến cố lớn trong sinh hoạt của Phật Giáo mà chúng tôi hy vọng sẽ có ngày trình bày một cách đầy đủ hơn. Trong bài này, chúng ta chỉ cần đọc hai đoạn văn sau đây cũng có thể hiểu được nguyên nhân.
-Bạch Thư của hòa thượng Thích Tâm Châu
Trong Bạch Thư của thượng tọa (nay là hòa thượng) Thích Tâm Châu công bố vào ngày 31.12.1993 ở phần kết luận người ta đọc được:
"Sự việc rõ ràng như thiên thanh bạch nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hỗ trợ ngầm của cộng sản nằm vùng, lải nhải vu khống cho Việt Nam Quốc Tự chia rẽ Giáo Hội cho đến nỗi những vị Tăng ni không biết chút gì về việc tranh đấu, việc xây dựng Giáo Hội, cũng như các vị Tăng Ni, Phật tử ở xa, hay sau này, cũng a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và cộng sản nằm vùng trong suốt 30 năm nay. Thực tội nghiệp! "
(Bạch Thư được đăng trên trang nhà Quảng Đức sau đó, vì có nhiều phản ứng, ngày 26.6.1994, HT. Tâm Châu và HT. Hộ Giác ký chung tuyên bố hủy bỏ Bạch Thư này)
Chi tiết về các biến chuyển chính trị và các hoạt động của Phật Giáo trong thời điểm 1963-1966, quí độc giả có thể tìm đọc "Việt Nam Chính Sử" của luật sư và cựu thượng nghị sĩ Nguyễn Văn Chức (nhà xuất bản Alpha 1992), một trong những tác phẩm lật tẩy sự xuyên tạc lịch sử của tướng Đỗ Mậu về chế độ Ngô Đình Diệm.
3-Vị trí của Việt Nam Quốc Tự
Việt Nam Quốc Tự tọa lạc ở số 16-B đường Trần Quốc Toản Sài Gòn, nay là đường 3 tháng 2, quận 10. Khu đất rộng khoảng 45 nghìn mét vuông. Lễ đặt viên đá xây dựng Việt Nam Quốc Tự được cử hành vào lúc 8 giờ sáng ngày 26.4.1964, dưới sự tham dự của Tăng Ni, phật tử, đại diện các tôn giáo bạn và sự chứng kiến của lãnh đạo Việt Nam Cộng Hoà (Bút tích của thủ tướng Nguyễn Khánh ghi lại sau ngày đặt viên đá đầu tiên xây dựng Việt Nam Quốc Tự đính kèm). Đồ án xây dựng tiêu biểu nhất là tháp cao 7 tầng và một dãy nhà làm nơi cư trú cho Tăng Ni. Ngôi tháp 7 tầng nhìn giống cảnh chùa, mái cong, chạm trổ tinh vi, màu sắc và hình ảnh hài hòa với phong tục xây cất chùa đình Việt Nam. Việt Nam Quốc Tự là một công trình kiến trúc diễn tả được nghệ thuật kiến trúc VN và tiêu biểu cho Phật giáo. Tác giả của công trình là kiến trúc sư nổi tiếng Ngô Viết Thụ, một kiến trúc sư đã làm vẻ vang dân tộc Việt trên sân khấu kiến trúc thế giới, đặc biệt với giải Khôi Nguyên La Mã và hội viên Hàn Lâm Viện kiến trúc Hoa Kỳ.
Sau năm 1975, toàn bộ khu đất Việt Nam Quốc tự của Phật giáo bị Việt Cộng thành Hồ trưng dụng làm nhà hát và khu du lịch Kỳ Hoà. Họ chỉ để lại 3.000 mét vuông trong số 45.000 mét vuông đất của chùa, tức khu vực tháp Việt Nam Quốc Tự và giao cho hoà thượng Thích Từ Nhơn cai quản. Hoà thượng Từ Nhơn nguyên là thủ quỹ Viện Hoá Đạo, giáo hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất (GHPGVNTN), nay gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Giáo hội Phật giáo quốc doanh) và giữ chức phó chủ tịch thường trực hội đồng trị sự.
3-Việt Cộng ngang nhiên bán đất chùa cho ngoại quốc
Ngày 23.2.2008, Việt cộng thành Hồ đã chính thức trao giấy phép đầu tư dự án xây cất trung tâm tài chính Việt Nam, với tổng vốn đầu tư lên tới 930 triệu Mỹ kim cho công ty Berjaya Land Bhd (B-Land) thuộc tập đoàn Berjaya của Mã Lai (Malaysia). Dự án được xây dựng tại khu vực giữa đường 3 tháng 2 và Lê Hồng Phong (Quận 10), trên diện tích 25,4 mẫu tây. Chương trình dự kiến khởi công vào tháng 7.2008 và hoàn thành vào năm 2013. Theo thiết kế, dự án là một tổ hợp gồm 6 khối cao ốc. Trong đó, 5 khối cao ốc cao 48 tầng làm văn phòng cho thuê (hạng A); 1 cao ốc làm khách sạn quốc tế 5 sao, với đầy đủ các dịch vụ như: câu lạc bộ khiêu vũ, hội nghị… 1 cao ốc cùng với 1 cao ốc khác cao 30 tầng làm trung tâm thương mại
Khi công bố các điều trên, ông Lê Hoàng Quân, chủ tịch ủy ban nhân dân xác nhận: "mục tiêu của thành phố là phát triển kinh tế thật nhanh, nhất là các ngành dịch vụ, tài chính, ngân hàng.… Đồng thời, với việc dự án được cấp phép, đã đưa nguồn vốn đầu tư nước ngoài của thành phố từ đầu năm 2008 đến nay đạt hơn 6 tỷ Mỹ kim".
Lời tuyên bố của ông Quân chứng tỏ âm mưu hủy diệt các công trình văn hóa và tôn giáo của các Giáo Hội chính thống; những người không chịu làm tay sai cho Việt Cộng. Âm mưu thâm độc của Việt Cộng có thể nhận ra qua ba bước:
-Trước hết Việt Cộng dùng mánh lới dụ dỗ dâng cúng cho cách mạng hoặc dùng bạo lực cưỡng chiếm tài sản của các tôn giáo nói chung và Phật Giáo chính tông nói riêng.
-Tiếp theo đó Việt Cộng ngang nhiên thế tục hoá các cơ sở tôn giáo qua kế hoạch biến các cơ sở này thành các trung tâm sinh hoạt văn hoá và làm chỗ ăn chơi phóng đãng.
-Cuối cùng, Việt Cộng bán đất đai và cơ sở văn hóa cho ngoại quốc với kế hoạch là để phát triển kinh tế.
Sau năm 1975, giáo hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất đã viết nhiều bức thư khiếu nại gửi đến nhà cầm quyền đòi trả lại các giáo sản bị nhà nước cưỡng chiếm. Nhưng Việt Cộng vẫn tuyệt nhiên im lặng, không hồi đáp hay giải quyết. Thái độ lì lợm cướp bóc này cũng đã thực hiện đối với hàng ngàn dân oan, đa số là nông dân, từ 20 năm qua.
Tiếp tay với Việt Cộng, sư quốc doanh Từ Nhơn đã biến dãy nhà Tăng Ni thành nhiều lô phục vụ doanh thương, hình thức giống như các tiệm chạp phô. Khu tháp chùa trở thành chợ trời và nơi giải trí. Khi trung tâm tài chính khởi công xây cất, nếu không có sự phản đối quyết liệt từ phía Phật Giáo chính tông, ngọn tháp Việt Nam Quốc Tự 7 tầng có thể sẽ bị phá hủy.
4-Phản ứng của hòa thượng Thích Tâm Châu
Qua hệ thống Internet chúng tôi nhận được lời tuyên bố của HT. Thích Tâm Châu có nội dung như sau:
Lời tuyên bố
Về việc đất Việt-Nam Quốc-Tự tại Saigon bị bán cho ngoại quốc
Văn-thư số 1420/VP/TT
Tôi vừa đi làm Phật-sự từ nơi xa về, được xem một số văn thư các nơi gửi tới, nói về việc ngày 23.02.2008, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ-Chí-Minh đã chính thức trao giấy phép đầu tư dự án trung-tâm tài-chánh Việt-Nam cho công-ty Berjaya Land Bhd (B-Land) thuộc tập đoàn Berjaya (Malaysia).
Dự án này được xây dựng trên khu đất giữa đường Ba Tháng Hai và đường Lê-Hồng-Phong, quận 10, tức là trên khu đất của Việt-Nam Quốc-Tự thuộc đường Trần-Quốc-Toản cũ, là sở hữu chủ của Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam thống nhất từ năm 1964 đến nay.
Tôi không ngờ việc này có thể xẩy ra.
Vì rằng, khu đất này được ghi dấu bởi sự hy sinh xương, máu, mồ hôi, nước mắt của Phật-giáo-đồ, của nhân-dân miền Nam Việt-Nam, tranh đấu cho bình đẳng tôn-giáo, công bằng xã hội, bất cứ chế-độ nào thực sự vì dân, nên tôn-trọng lý-tưởng ấy.
Vì rằng, lẽ sống của con người không thể chỉ hướng về vật chất mà không nghĩ đến tinh-thần. Giữa một thành phố đông người, không thể không có những nơi thoáng mát, giúp cho sức khỏe người dân được tăng trưởng, tạo thêm khả năng làm việc, phát triển xã hội.
Với tư cách nguyên-chủ-tịch ủy ban liên phái bảo vệ Phật-Giáo năm 1963, nguyên viện-trưởng Viện Hóa Đạo giáo-hội Phật-Giáo Việt-Nam thống nhất năm 1964, đương kim Thượng-thủ Giáo-hội Phật-Giáo Việt-Nam trên thế-giới,
1)- Thỉnh cầu ông chủ-tịch Nước, ông thủ-tướng chính-phủ Việt-Nam, can thiệp cùng ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, hoán đổi khu đất khác cho công ty ngoại quốc, và nên ngưng ngay dự án kiến thiết trung tâm tài chánh Việt-Nam trong khu đất trên.
2)-Xin trả lại khu đất Việt Nam Quốc Tự cho Giáo hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất, hầu giữ lại di tích lịch sử, và giúp đỡ Giáo Hội thống nhất kiến tạo khu đất này thành một nơi danh thắng, một công viên tươi mát, đem lại an lạc và hạnh phúc cho nhân dân thành phố.
Làm tại Tổ-Đình Từ-Quang, ngày 12.3.2008
Hòa thượng Thích-Tâm-Châu
Những câu hỏi nhức nhối!
Khi đức tổng giám mục Hà Nội yêu cầu Nhà Cầm quyền Việt Cộng trả lại khu tòa Khâm Sứ thuộc chủ quyền Giáo hội Công Giáo thì hòa thượng Thích Trung Hậu trong giáo hội Phật Giáo Việt Nam quốc doanh nhẩy vào ăn có, đòi phải có ý kiến của Phật Giáo, dù cái lịch sử hoang dã xa xưa còn đâu nữa.
Nếu người Chàm cũng đòi Phật Giáo phá chùa Thiên Mụ, trả lại đất và ngôi chùa nhỏ xưa của dân tộc Chàm mà loạn tướng Nguyễn Hoàng chiếm đất, phá chùa của họ đi để xây chùa Thiên Mụ, thì HT. Trung Hậu trả lời sao?
Khi Việt Nam Quốc Tự, tài sản của GHPGVNTN bị cướp bán cho ngoại quốc, không biết Sư quốc doanh đã gửi thư cho ủy ban thành Hồ đòi phải có ý kiến Phật Giáo chưa?
Thế mới biết, trong văn hóa hay tôn giáo, lòng người dễ xoay chiều đổi hướng!
- Bàn về luân lý "chữ trinh" trong truyện Kiều
- Luân lý truyện Kiều " chữ Hiếu "
- Nghệ thuật tả tâm tình buồn của thi hào Nguyễn Du
- Nghệ thuật tả cảnh của thi hào Nguyễn Du
- Văn chương truyện Kiều (2)
- Văn chương truyện Kiều
- Truyện Kiều ( thuyết tài và Mệnh )
- Truyện Kiều ( Kim Trọng và Thúy Kiều tái đoàn tụ )
- Truyện Kiều ( Kim Trọng - Vương Quan thi đậu, ra làm quan rồi đi tìm Kiều )
- Truyện Kiều ( Kiều mắc mưu khuyên từ Hải ra hàng, bị Hồ Tôn Hiến giết chết ).