Văn Hoá Việt Nam
Trong một lần may mắn được gặp nữ sĩ Mộng Cầm, tác giả bài báo đã được nghe bộc bạch những gì mà bà giấu kín trong lòng gần 60 năm.
Từng ngâm nga thơ Hàn Mặc Tử, từng nghe chuyện tình của Hàn thi sĩ với Mộng Cầm, rồi từng nghe đi nghe lại ca khúc "Hàn Mặc Tử"của Trần Thiện Thanh, bất ngờ vào mùa hè năm 1997, tôi lại có dịp ngồi cạnh "người đẹp của thi nhân", nơi một quán cà phê sân vườn, mang tên Mộng Cầm. Quán là một căn nhà lợp tranh, cạnh đại lộ Nguyễn Văn Linh, khu Nam Sài Gòn, xung quanh có nhiều ao bèo thả cá để khách có thể vừa câu cá vừa nhâm nhi cà phê. Chủ quán là đôi vợ chồng bác sỹ Mộng Đào và Phạm Thiên Bê, con gái và con rể của bà Mộng Cầm.
Nữ sĩ Mộng Cầm khi quen nhà thơ Hàn Mạc Tử
Đây thôn Vĩ dạ, một vết cứa đâm tim
Người ta chỉ mới được biết về mối tình lãng mạn của Mộng Cầm - Hàn Mạc Tử qua sách báo. Nhưng bên cạnh mối tình đẹp như mơ ấy, còn có một đời thường với rất nhiều bí ẩn. Mộng Cầm- Huỳnh Thị Nghệ, người thiếu nữ trong mộng ngày xưa ấy của Hàn Mạc Tử, trước mặt tôi bây giờ là một cụ bà ở tuổi tám mươi. Tuy vậy, trên gương mặt bà vẫn còn phảng phất nét kiêu sa. Thốt nhiên bà mở lời: "Vào tuổi này rồi chẳng còn gì để giấu". Rồi bà kể như từng phân đoạn hồi tưởng, qua hơi thở có khi hụt hẫng, đứt quãng, dường như là những lời sám hối, tiếc thương.
Quê Mộng Cầm ở Phan Thiết, gần lầu Ông Hoàng nhưng thân sinh bà lại ra làm việc tận Nghệ An. Và ngày 17/7/1917, bà được sinh ra ở đó nên mới có tên "cúng cơm" là Huỳnh Thị Nghệ. Thì ra, tên Nghệ là do sinh ở Nghệ An. Sau đó bà được gửi về trọ ở nhà ông cậu ở Phan Thiết học trường Pline Exercices. Mộng Cầm là cháu gọi nhà thơ Bích Khê bằng cậu nên bà cũng có "máu thơ văn". Tên Mộng Cầm xuất hiện từ khi bà làm thơ gửi đăng báo. Qua những vần thơ trên báo, Hàn Mạc Tử đã tìm đến làm quen, bày tỏ tình cảm với bà qua bài Muôn năm sầu thảm, với câu mở đầu "Nghệ hỡi Nghệ"…Bài thơ ấy, bà Mộng Cầm vẫn thuộc nằm lòng từ đó đến nay. Hàn Mặc Tử là tình yêu đầu đời của bà.
Bà nhìn ra bầu trời tím hoàng hôn ngoại ô Sài Gòn hồi tưởng… Một mùa hè, năm xưa, Hàn Mặc Tử từ Quy Nhơn vào Phan Thiết thăm Mộng Cầm. Hàn hỏi ở đâu có cảnh đẹp thì đưa anh đi thăm cho biết. Mộng Cầm đã đưa Hàn Mặc Tử lên lầu Ông Hoàng. Đó là một ngọn đồi thấp, nhưng lên đó vào những đêm trăng tỏ, có thể nhìn thấy Mũi Né và thị xã Phan Thiết mờ ảo, lấp lánh đèn hiệu hay đèn ghe chài như những viên kim cương khổng lồ. Nào ngờ, đây lại là lần đi chơi sau cùng của hai người. Hàn Mạc Tử ra Huế, sau đó vào Quy Nhơn, điều trị bệnh phong ở bệnh viện phong Quy Hòa, và mất ở đó .
Tại sao Hàn Mặc Tử lại ra Huế? Bây giờ thì Mộng Cầm nói hết những gì mà bà giấu kín trong lòng gần 60 năm. Đó là Hàn Mặc Tử có mối tình đầu với một cô gái Huế tên là Hoàng Cúc. Thân sinh của Hoàng Cúc làm quan chức trong Sở Đạc điền ở Quy Nhơn. Sau khi biết Hàn Mặc Tử theo đuổi con gái mình, do không thích văn nhân, thi sĩ nên ông đã tìm cách đưa Hoàng Cúc về Huế. Thế là Hàn Mặc Tử ra Huế tìm và sau đó có bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ này tuyệt hay nhưng Mộng Cầm lại ghét cay, ghét đắng...
Bà trải các câu thơ ra và dằn từng tiếng, khác với các nghệ sĩ ngâm thơ ngọt ngào. Và dằn cho đến câu cuối.
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ.
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.
Lá trúc che ngang mặt chữ điền…"
Không biết lần này ra Huế, Hàn có tìm đến thăm cụ Phan Bội Châu như lần trước, hồi cuối năm 1931, khi còn là Phong Trần hay không? Bấy giờ thi sĩ mới 19 tuổi, tìm đến thăm cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự, giữa vòng vây của mật thám Pháp. Do trước đó, từ năm 1930-1931, Hàn đã nổi tiếng với bút hiệu Phong Trần là nhờ lời giới thiệu của cụ Phan. Lúc bấy giờ cụ Phan bị Pháp bắt an trí ở Huế. Cụ lập Mộng Du thi xã với mục đích quy tụ những nhà thơ yêu nước, Hàn Mặc Tử gửi đến thi xã 3 bài thơ yêu nước là Thức khuya, Chùa Hoang và Gái ở chùa (sau in lại trong "Lệ Thanh thi tập"). Mở đầu bài "Thức khuya" có câu: "Non sông bốn mặt ngủ mơ màng/Thức chỉ mình ta dạ chẳng an…" và được cụ Phan rất tán thưởng "…Từ ngày về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm, song chưa gặp được bài nào hay đến thế…Ước ao có ngày gặp gỡ". Cụ đã họa lại và cho đăng báo. Bài họa bài "Thức khuya" mở đầu: "Chợ lợi trường danh tí chẳng màng/Sao ăn không đặng ngủ không an…"
Ngoài Hoàng Cúc và Mộng Cầm ra, Hàn Mặc Tử còn có hai người tình nữa là Mai Đình nữ sĩ và Ngọc Sương, chị gái của thi sĩ Bích Khê. Mối tình của Mai Đình nữ sĩ không sâu đậm, chỉ là "tình văn chương", còn với Ngọc Sương thì như ngọn gió mát thoảng qua đời Hàn mà thôi (theo Quách Tấn, một người bạn thân thiết của thi sĩ).
"Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu"
Mối tình của Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm chẳng đi đến đâu. Mộng Cầm bộc bạch: Với hai lẽ, một là bà là con nhà phong kiến, cha mẹ luôn cản trở bà lấy một người Công giáo, lại là văn nhân, thi sĩ. Nhưng quan trọng hơn là lúc ấy bà quá thương Hàn Mặc Tử. Theo bà hiểu thì người bị bệnh phong gần đàn bà sẽ rất mau chết. Vì vậy, bà cố tránh để Hàn Mặc Tử mau chóng bình phục, sau đó sẽ liệu lần với cha mẹ. Nhưng tiếc là Hàn không qua khỏi… Bây giờ người đọc thấy những vần thơ hai người viết cho nhau rất thắm thiết, nhưng thật sự cho đến lúc Hàn Mặc Tử mất, giữa Mộng Cầm và Hàn Mặc Tử không hề có chuyện gần gũi. Thời ấy, mới cầm tay nhau là đã run lắm rồi. Sau này nhớ lại những kỷ niệm với cố nhân, Mộng Cầm có bài thơ "Kỷ niệm Hàn Mặc Tử ở lầu Ông Hoàng", một bài thơ chưa bao giờ phổ biến, được bà chép tay, nét chữ đã phai màu, trao cho tôi.:
Sương sa trong lúc hoàng hôn
Đường lên dốc đá sáng dần bể xanh
Triều dâng con nước mênh mông
Chuông chùa văng vẳng tiếng lòng xôn xao
Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu?
Hồn xưa anh mất cảnh gieo sầu
Mây mù phủ kín vòng bình địa
Căm hờn tháp cũ cuộc bể dâu
Thật cảm động, như một chiều tình cờ được nghe thơ nhạc giao duyên, vì khi bà Mộng Cầm ngâm nga: "Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu" thì cô con gái, bác sỹ Mộng Đào mở lớn nhạc bài "Hàn Mặc Tử".
Sau khi Hàn Mặc Tử mất, Mộng Cầm lập gia đình và sinh được 7 người con. Người bạn đời của bà cũng biết rõ mối quan hệ của bà với Hàn Mặc Tử nhưng vẫn tôn trọng nhà thơ quá cố. Con gái lớn của bà là Mộng Đào, là bác sĩ, đang công tác tại thành phố Hồ Chí Minh. Mười lăm năm trước, Thành phố mới Nam Sài Gòn được khai hoang trên đồng phèn, Cảnh chiều buồn vắng vẻ, khi tiễn chân tôi ra cổng, bà níu tay tôi dặn dò: "Anh coi có bạn bè nhạc sỹ, nhờ phổ bài thơ này ra bài hát dùm tôi". Ngày 23/7/2007, bà Mộng Cầm qua đời tại số nhà số 300, Trần Hưng Đạo, Phan Thiết. Theo lời trăng trối của bà Mộng Cầm, cô con gái Hồ Mộng Đức đã mai táng bà trên lưng đồi lầu Ông Hoàng. Và lầu Ông Hoàng từ lâu đã đi vào tâm thức bao thế hệ khi nghe những bài hát về mối tình lãng mạn này, như Hàn Mặc Tử, Mộng Cầm Ca… và cả bài ca vọng cổ Tâm sự Mộng Cầm… Thế mà đến nay tôi vẫn chưa nhờ ai phổ nhạc bài thơ "Lầu Ông Hoàng đây, anh ở đâu?" của bà được.
Lê Văn Sâm
Nguồn: nguoiduatin.vn
Một trong những đề tài chính yếu của thơ Hàn Mặc Tử là Tình yêu – nhân bản mạnh mẽ nhất của con người.
Nhiều người đẹp đã đi qua đời Hàn Mặc Tử (trong thực tế và cả trong mộng), và đều đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử: Hoàng Thị Kim Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình, Ngọc Sương, Thương Thương. Điều ấy là minh chứng cho câu nói nổi tiếng của Lamartine: “Đằng sau các công trình vĩ đại của các bậc vĩ nhân bao giờ cũng thấp thoáng hình bóng của một người đàn bà”.
Riêng mối tình Hàn Mặc Tử – Mai Đình là một giai thoại đặc sắc trong làng thơ Việt Nam hiện đại.
Khi còn là một thanh nữ chưa đầy hai mươi tuổi, nàng Lê Thị Ngọc Mai (tức Mai Đình) làm việc trong một xưởng nữ công (ngành may) ở Sài Gòn. Nàng đặc biệt yêu thơ văn và có tài thơ bẩm sinh. Nhờ khối óc sáng láng và mẫn cảm, nàng đã sớm phát hiện giữa làng thơ Việt Nam khá đông đúc đương thời (những năm 1930 – 1935) một thi sĩ lỗi lạc: Lệ Thanh (tức Hàn Mặc Tử). Phát hiện ấy của nàng tỏ ra chẳng hề thua kém phát hiện tương tự về tài thơ Hàn Mặc Tử của nhà chí sĩ Phan Bội Châu và các bạn tri âm của nhà thơ như Bích Khê, Chế Lan Viên, Quách Tấn, Yến Lan… Nàng thú nhận:
Chưa có bao giờ ta thấy say
Cho lòng ngây ngất tuổi thơ ngây
Mà sao nay bỗng như điên dại
Bởi khúc đàn người gảy quá hay…
(Điệu đàn êm ái)
Thế rồi cái logic tất yếu của trái tim một cô gái, nhất lá một cô gái mẫn tuệ, đã được thể hiện: Mai Đình đã từ cảm phục đến “trộm dấu thầm yêu” Hàn Mặc Tử. Vào năm 1937 nàng đã một mình tìm đến nhà thơ lúc ấy đang nằm bệnh tại gia đình ở Qui Nhơn.
Là người thuộc về hàng ngũ những phụ nữ tiên phong của thời đại văn minh, sớm giác ngộ về nhân quyền nữ giới, Mai Đình đã vượt xa dạng phụ nữ thời phong kiến chỉ biết khuất phục số mệnh, mang cuộc đời gìm trong biển nước mắt hoặc thậm chí đem… chôn! Nàng đã quyết định sống theo chỉ thị của trái tim khối óc mình.
Tuy nhiên, khác xa nhiều phụ nữ văn minh khác, tâm hồn và trí tuệ Mai Đình đã chấp nhận và vượt qua một thử thách vô cùng lớn lao: bằng lòng hiến dâng cuộc sống cho người mình thờ phụng mặc dù chàng đang mắc phải một chứng bệnh khủng khiếp. Tình yêu trong lòng nàng nảy nở cùng một lúc với đức hi sinh cao cả khó tưởng tượng nổi. Phải, nàng yêu không phải chỉ để hưởng thụ, chiếm đoạt, mà còn để chia sẻ bất hạnh, để giúp người yêu trong cơn hoạn nạn, để hi vọng cùng “chàng” thoát hiểm, tiến vào một kỉ nguyên hoàn toàn hạnh phúc! Trong cái lốt của một người con gái đang yêu có một vị Bồ Tát cứu khổ cứu nạn và ban phát ân phúc. Tình yêu của Mai Đình lấy sự hoà hợp về tinh thần, lấy sự cao thượng của tâm hồn làm cứu cánh: đó chính là mẫu mực của tình yêu thánh thiện.
Chấp nhận tình yêu trong nghịch cảnh, Hàn Mặc Tử và Mai Đình cũng như những con người xuất chúng khác, vẫn cố gắng hái lấy những bông hoa hạnh phúc, đồng thời ra sức sáng tạo nên một điều gì đó tuyệt diệu. Đó chính là tình yêu của hai người thơ, là tác phẩm thơ chung mang tên ĐÔI HỒN1.
Sự hiện hữu của Mai Đình và tình yêu của nàng là mạch nguồn cảm hứng quí báu để Hàn Mặc Tử viết nên những bài thơ tình tuyệt diệu. Chùm thơ ấy (khoảng 15 bài cả thảy) phơi bày một tình yêu cuồng nhiệt, nhiều lần mơ tưởng đến hôn nhân, biểu đạt đầy đủ mọi góc cạnh của một tâm hồn đang sống, đang làm chủ và đang tận hưởng một tình yêu “bằng xương bằng thịt”.
Những cảm nhận đầu tiên về nàng:
Thơ em cũng giống lòng em vậy,
Nghĩa là thơm tho như ánh trăng
Mềm mại như là tơ liễu rủ…
(Lưu luyến)
Sự thăng hoa của tình yêu lên cõi cao vời thanh khiết:
Chúng ta biến, em ơi, thành thanh khí,
Cho tan ra hoà hợp với tinh anh
Của trời đất, của muôn vàn ý nhị
Và tình ta sáng láng như trăng thanh.
(Sáng láng)
Tuy nhiên, sau cùng đôi cánh lãng mạn vẫn không quên vươn tới một thời khắc tương lai tràn trề hạnh phúc: đêm tân hôn.
Đàn ngọc đã rít lên chiều nả nớt
Tôi kêu rêu van khóc lạy nàng thôi
Hãy uống đi cốc rượu ngấm đầy hơi
Chan chứa vị nồng say đêm hiệp cẩn.
(Đàn ngọc)
Những cuộc du chơi giữa thiên nhiên hoang dã sao mà kì thú:
Trăng bay lả tả ngã trên cành vàng
Tới đây là nơi tôi gặp được nàng
Rủ rê, rủ rê hai đứa đi vào rừng hoang
Tôi lượm lá trăng làm chiếu trải
Chúng tôi kề đầu lên khối sao băng
Chúng tôi nói chuyện bằng hơi thở…
(Rượt trăng)
Cả hai đã đồng tình với phương cách sống “tất cả cho hiện tại” bởi lẽ… tương lai là chuyện quá đỗi mịt mù:
Cứ nhắm mắt, cứ yêu nhau như chết
Cứ sảng sốt, tê mê và rũ liệt
Đừng nghe chi âm hưởng địa cầu đang
Vỡ toang ra từng mảnh, cả không gian
Cả thời gian từ tạo thiên lập địa
Đều trộn trạo, điều hoà và xí xoá
Thành hư không như tình ái đôi ta.
(Đôi ta)
Trong tình yêu mãnh liệt, nhà thơ đã có những giây phút cảm xúc ở cung bực tột đỉnh với người yêu – nữ thánh của ông:
Anh nhìn Mai chua xót cả tấm lòng
Không biết nói làm sao cho da diết
Trắng như tinh và rất nên thanh bạch
Cốt cách đều rất mực đồng trinh…
Đây Mai Đình, tiên nữ ở Vu Sơn
Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt
Nàng! Ôm nàng! Hai tay ta ghì chặt
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay!
(Thắm thiết)
Còn một điều không sao tránh được trong tình yêu, cho dù là một tình yêu “thánh thiện” hay tình yêu ở trên tầng “thượng thanh khí” gì gì đi nữa: đó là những phút ghen tuông, hờn giận. Vâng, thật là thú vị: Hàn Mặc Tử đã để lại trong kho văn của mối tình với Mai Đình một bài thơ “ghen” khá là dữ dội khi nhà thơ ngờ nàng… có tình ý với ai:
Mai tiên nữ! Đọc hồn ta cho rõ
Đau không rên, chết cũng mặc mình thôi!
Mối tình si đã lỡ vỡ tan rồi
Ta chỉ biết lặng nhìn thiên hạ khóc.
Được diễm phúc yên vui nơi điện ngọc
Tiên nữ đừng sa xuống chốn trần gian
Tìm hồn ta quằn quại giữa lầm than
Để đổi lấy những ngày đầy huyết lệ!
(Thầm lặng)
Lòng tri ân chân thành với người yêu - tri kỉ Mai Đình đã nói lên thứ tình cảm hoà làm một với đức hạnh phương Đông trong lòng Hàn Mặc Tử, phân biệt nhà thơ với tất cả những kẻ sống một cách thực dụng trong tình yêu mà người ta thấy nhan nhản trong xã hội văn minh hiện đại:
Anh chỉ thẹn không còn son trẻ nữa
Để cho tình âu yếm mặn nồng hơn
Và chỉ sợ đời em còn măng sữa
Một ngày kia trĩu nặng nuốt căm hờn…
(Lòng anh)
Hàn Mặc Tử nào biết rằng những nỗi lo âu của ông không bao lâu sau đã trở thành hiện thực: ông sớm phải xa rời thế giới này, khiến Mai Đình thật sự phải “trĩu nặng nuốt căm hờn” suốt gần 60 năm trời cho đến phút trái tim bà ngừng đập!
Sau chót chính là lời trăn trối bi thương của nhà thơ đang ở trong “một vũng cô liêu cũ vạn đời” với người yêu phương xa:
Ta trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vô hạn nuối trong cây
Còn em sao chẳng hay gì cả
Hãy để tang anh đến vạn ngày!
(Trút linh hồn)
Bản đàn tình yêu với ngần ấy cung bậc bi hoan, không đủ để tạo nên hình khối, bản sắc và phong cách của một tình yêu đích thực và thánh thiện hay sao? Không còn nghi ngờ gì nữa: người yêu hiện hữu Mai Đình là linh hồn của một mảng thơ đặc sắc trong sự nghiệp thi ca của Hàn Mặc Tử.
Mai Đình là một nữ sĩ có tài năng bẩm sinh. Bà có thể viết một cách nhuần nhuyễn cả thơ Đường luật lẫn “thơ mới”, có khả năng “hoạ thơ” và viết những bài thơ trường thiên hàng trăm câu. Tuy nhiên, nếu những nhà thơ phái nam đôi khi có thể viết được một bài thơ hay về “người khác” (không có quan hệ trực tiếp với mình) thì Mai Đình, cũng như tất cả các nhà thơ phái nữ khác, thường “chịu” không viết được về những gì mà bản thân mình không có gì gắn bó với nó.
Chúng tôi đã từng viết: “Chỉ trong tình yêu, người đàn bà mới bộc lộ toàn bộ bản sắc tuyệt diệu của mình” (Những dòng tâm tưởng). Thật vậy, không ở đâu thơ Mai Đình réo rắt và tuyệt diệu cho bằng thơ bà viết trong mối tình với Hàn Mặc Tử, trong đó có nhiều bài “huyết lệ”. Rõ ràng tình yêu với một thi nhân kiệt xuất đã chắp cánh cho thơ Mai Đình bay cao:
Lệ Thanh ơi, vắng anh trong hai tháng,
Sáu mươi ngày dằng dặc nỗi nhớ nhung.
Những đêm thâu em sẽ nấp dưới bóng tùng
Để hấp thụ lấy hồn anh đương chới với…
(Đợi chờ)
Cũng như Hàn Mặc Tử, trong thơ Mai Đình, những khát vọng yêu đương hoà quyện với tính chất đạo lí rất sắc nét của con người Việt Nam. Thứ tình yêu như Mai Đình quan niệm, như thơ bà đã lột tả, là thứ tình yêu thuộc về những con người cao quí nhất trong loài người. Đó là tình yêu được đặt trên cơ sở sự hoà hợp về tinh thần, vượt lên trên những vật dục tầm thường, và đầy đức hi sinh cao thượng:
Tôi chẳng sợ cảnh nghèo hèn đói khó,
Tôi không kiêng thứ da thịt khác người
Vì lòng tôi tôi chỉ biết yêu thôi
Và thân thể có phải đâu châu ngọc?
Tôi yêu chàng đã khắc sâu vào tim óc,
Tôi thờ chàng như một vị thần linh…
(Tuyên bố)
Lần này em đã quyết tâm
Về đây ở một hai năm mới đành
Để em theo dõi bệnh tình
Bữa ăn, giấc ngủ cho anh đỡ sầu…
(Em vẫn bên anh)
Có những câu thơ mang nữ tính cao độ: người ta có cảm tưởng Mai Đình thương xót người yêu đến điên cuồng, đến độ “tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên”:
Em muốn phá tan cả đất trời
Cho lòng nhẹ bớt nỗi bi ai
Thương anh càng thấy căm trời đất
Gieo bệnh nan y để hại người!
(Căm giận)
Tình yêu ở Mai Đình, ở phụ nữ nói chung, khi đã đến đỉnh cao, đến độ “chín muồi” sẽ biến thành sự dâng hiến, dâng hiến để “đền đáp” cho người tình và cũng là để tận hưởng lạc thú tình yêu:
Ta ở, lòng chàng sẽ ngất ngây
Khi đàn nắn phím, lúc lên dây.
Ta như cô bé đầy ngoan ngoãn
Tuỳ cái tay chàng điểm đắm say…
(Điệu đàn êm ái)
Đủ biết những cô gái Việt Nam ưu tú nhất của “thời đại văn minh” cách đây hơn 60 năm đã “giác ngộ nhân quyền nữ giới”, đã vươn mạnh về phía tự do, giải phóng, nhất là trong lĩnh vực tình yêu như thế nào!
Tất nhiên những “căn bệnh tình” như nghi ngờ, ghen tuông… thỉnh thoảng cũng xen vào một chút cho cuộc tình thêm ý vị:
Em muốn mỗi lần anh với em
Cùng đi dạo phố hoặc đi xem
Thì bao thiếu nữ, em xin mượn
Đôi mắt long lanh để hết nhìn.
(Ghen)
Và còn một điều khá “ý vị”: đó là sự… “giả vờ lên mặt kiêu” của Mai Đình để kích thích cho chàng thi sĩ vốn đã điên phải phát điên nhiều hơn nữa vì yêu:
Đã biết bao lần em nhận thấy
Lòng anh mở cả một trời yêu,
Mong em đem lại bao tươi sáng
Kẻo tội đời anh khổ đã nhiều.
Em đang sung sướng bởi say sưa
Những phút nhìn anh dáng sững sờ
Những lúc chuyện trò đầy ngượng nghịu
Những lời chết sững cả hồn thơ.
Đã biết bao lần em lẳng lặng
Hững hờ như kẻ chẳng buồn yêu.
Đố ai đọc được lòng thi sĩ
Những buổi chiều đông gió lạnh nhiều?
Cứ để cho em giễu cợt tình
Hững hờ trong ý vị tươi xinh
Để anh sống với bao mơ ước
Tô điểm cho tim một bóng hình.
(Lơ là trong ý vị)
Nhưng có lẽ điều nổi bật ở tình yêu này chính là “nỗi tương tư” gay gắt, bởi vì những khoảng thời gian hai người gặp gỡ nhau rất ít ỏi, do hoàn cảnh khe khắt gây nên. Nỗi nhớ nhung tràn ngập trong thơ Mai Đình:
Anh hỡi, sao hôm nay xa lạ
Tận chân trời che lấp bóng hình anh.
Em cố tìm trên dãy núi xa xanh
Như vương vấn trong muôn ngàn dây lụa.
Tìm kiếm mãi mà lòng em vẫn khổ
Bởi nhớ thương mong mỏi những gì đâu.
Chết lòng đi trong những buổi chiều sầu
Trên bờ ruộng ngồi nhìn ra chân núi…
(Thương nhớ)
Bởi vì Mai Đình quyết dấn thân vào một tình yêu “không bình thường”, một tình yêu trong nghịch cảnh, nên con đường của tình yêu ấy tất nhiên sẽ đầy dẫy bất bằng và tính chất bi kịch. Một phần lớn thơ Mai Đình dành để nói về tình yêu bi kịch ấy:
Hôm ấy em đi lắm nỗi buồn
Bên ngoài mưa gió cảnh tang thương
Anh trên giường bệnh khôn ngăn lệ
Chẳng tiễn đưa em một tấc đường.
(Nhớ mãi)
Bệnh “tình” hoành hành làm nổi lên những thảng thốt lo âu:
Sao cả tin thơ cũng vắng dần?
Lạnh lùng ta tiếc chuỗi ngày xuân
Tiếc bao mộng đẹp khi gần gũi
Tiếc buổi ban đầu dưới ánh trăng…
(Hờn thương)
Thậm chí Mai Đình đã than van trong một tâm trạng bẽ bàng:
Ta đã chết rồi bởi ước mơ
Từ đây chàng đã cướp hồn ta
Mà sao chàng chẳng cho ta được
Gần gũi bên chàng để thiết tha?
Mai Đình đã không biết được sự thật này: là người có lương tâm, Hàn Mặc Tử đã phải dằn lòng giữ khoảng cách với người yêu, kiên quyết không để nàng bị lây căn bệnh khủng khiếp của mình, và trong ý chí, nhà thơ không có ý định bắt Mai Đình hi sinh cả cuộc đời cho mình. Trong khi đó thì Mai Đình chịu một cơn đau kịch phát trong tuyệt vọng:
Mơ tan mơ, mơ tan theo mây gió,
Tình tan tình, tình ghẹo khách tình chi?
Đuổi mơ đi, tình ta thôi gắn bó.
Phá mộng vàng, đoạn tuyệt bạn tình si.
Lệ Thanh ơi, từ đây thôi chẳng gặp,
Biển rừng phân xa cách lắm chàng ơi.
Em chết thôi bởi tiếc công bồi đắp,
Mộng yêu đương ai nỡ phá tan rồi?
Trời lạnh lẽo, gió đưa sầu vô hạn,
Buồng tim ta tan vỡ bởi đau thương.
Muốn nhắn gửi gió mây đưa tới bạn
Những giọng sầu hấp hối cháy tâm can.
Nhưng giờ ấy ta đang trong ý chết,
Bạn phương trời đang đẫm cuộc say sưa.
Xác rã rời, thân ta đà lỡ mất,
Óc điên cuồng nuối tiếc mối tình xưa.
(Ý chết)
Nhưng rồi tất cả những “cơn bệnh tình yêu” quái ác ấy đều đột ngột chấm dứt khi Hàn Mặc Tử qua đời. Thiên tình sử bước ngoặt sang một hướng khác: những kẻ yêu nhau không chỉ đối diện với nhau và đối diện với cuộc đời nữa, mà đối diện với vô cùng.
Xưa nay đều thế: chỉ những gì trác việt phi thường mới có đủ sức mạnh để “đối thoại” với vô cùng sau khi cuộc “sống gửi” ở trần gian kết thúc. Diệu kì thay, Mai Đình đã bằng linh cảm của mình mà nhận diện được rằng có những cái không những đã tồn tại mà còn tồn tại vĩnh viễn sau khi chủ nhân của nó đã vắng bặt trên cõi thế gian. Chính vì thế, nữ sĩ đã thấy rất rõ công việc mình phải tiếp tục làm sau khi Hàn Mặc Tử đã ra đi: phải viết thêm một chương mới của thiên diễm tình đó với những chất liệu hoàn toàn mới mà trước kia chưa từng có. Đó là nỗi lòng của một goá phụ, nỗi lo sợ về sự lãng quên và sự phản bội, sự băn khoăn day dứt khi “cuộc đời thường” đầy tươi đẹp của thực tại có vẻ đang lấn át ảnh hưởng của tình yêu cao vời trong quá khứ, cách xử trí của một người đàn bà cô đơn đối với cuộc sống phiền tạp của thực tại cũng như đối với mối tình xưa mà mỗi ngày lại càng chứng tỏ tính bất diệt của nó, và sau cùng là giấc mơ tái ngộ ở thế giới bên kia.
Chúng ta không khỏi bàng hoàng khi được chiêm ngưỡng một thứ tình yêu kì lạ xảy ra giữa một người còn đang ở cõi dương và một người ở cõi âm (hoặc đang ở một vùng thượng thanh khí nào đó)! Việc đi sâu mô tả một tình yêu kì lạ như vậy, đối với văn học là một hiện tượng đáng giá. Mai Đình đã một mình sống tiếp với tình yêu và viết tiếp phần sau của tập thơ ĐÔI HỒN gồm khoảng 15 bài thơ đặc sắc, bài cuối cùng mang tên “Mộng chửa tàn” viết năm 1995, khi nữ sĩ đã 78 tuổi (trước khi mất 4 năm).
Mở đầu cho chương mới của thiên tình sử, Mai Đình – lúc này đã có sự thay đổi về chất, không còn là một cô gái si tình nữa mà là một quả phụ với tâm hồn rất mực trầm sâu – bắt đầu đĩnh đạc gióng lên lời thề nguyện trăm năm:
Tôi chẳng yêu ai, tôi chỉ yêu
Một người đau khổ giữa cô liêu,
Một mồ trên bãi tha ma ấy
Và một hồn thơ đã xế chiều.
Tôi yêu một kẻ không hình xác
Đã chết từ muôn thế kỉ rồi
Nhưng vẫn còn đây trong mộng tưởng,
Trong hồn, trong trí, não cân tôi.
Những mộng năm xưa tôi đã ghi
Vào tim vào phổi của hồn si
Thì dù chàng vắng hay không vắng
Đối với tình tôi, có nghĩa gì?
Em yêu anh quá, Lệ Thanh ơi!
Khóc chẳng nên câu, nói nghẹn lời.
Yêu anh mà chẳng gần anh được,
Nguyện để tang anh suốt một đời!
(Tôi yêu)
Chúng ta nên biết lúc này Mai Đình mới có 23 tuổi, hoàn toàn trinh trắng. Lời tuyên bố quá “nặng cân” như trên, không một cô gái bình thường hoặc còn một chút “tỉnh táo, khôn ngoan” nào lại có thể dại dột làm. Rõ ràng đối với Mai Đình, không gì nữa cả ở trên đời này - kể cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai - có thể đặt nổi lên đĩa cân so sánh với tình yêu của nàng và Hàn Mặc Tử. Nói như Nguyễn Du, Mai Đình đã “mang lấy một chữ tình, Khư khư mình buộc lấy mình vào trong”. Quyết định ấy của Mai Đình đã được bà thực hiện bằng cả cuộc đời sau này của bà: có thể nói, bà đã “thả nổi” cuộc đời cho bàn tay số phận, không hề tính toán, mưu toan gì nữa về tình yêu. Trọn đời, bà chỉ có một tình yêu đích thực duy nhất với Hàn Mặc Tử mà thôi. Quan hệ với những người đàn ông khác chỉ tựa như những “công việc đời thường” chứ tuyệt nhiên không có cao vọng về một tình yêu lí tưởng trong đó!
Thì ra giữa vẻ đẹp tuyệt vời của một người con gái đang say đắm trong yêu đương so với vẻ đẹp thánh thiện của một goá phụ cô đơn trong sự thờ phụng, chưa chắc vẻ đẹp nào trội hơn vẻ đẹp nào! Phải chăng Thượng Đế đã ban cho đàn bà đủ cả hai đặc tính ấy để họ trở thành “kiệt tác của vũ trụ”, điều mà toàn thể nhân loại đã thừa nhận?
Trong trọn thời gian còn lại của cuộc đời Mai Đình, tình yêu xưa cũ vẫn chiếm ngự trái tim bà, vẫn khiến bà thổn thức không phút nào nguôi:
Thiếp nhớ chàng, thiếp nhớ chàng khôn tả
Dẫu muôn ngày thiếp còn ở thế gian
Không phút nào thiếp quên chàng được cả
Một thiên tài đã yên giấc Vu San.
(Tìm kiếm)
Tuy nhiên, trên thực tế, có lúc bà đã cảm thấy “sự can thiệp của thời gian” không phải không đáng sợ:
Tôi muốn gặp chàng những tối mơ
Để cùng nhau nối những đường tơ
Nhưng hồn chàng bị hồn ai chiếm
Nên với tình tôi đã hững hờ…
(Mơ)
Thậm chí Mai Đình đã có những lúc rũ mình ra khỏi tất cả những giáo điều, kể cả giáo điều về tình yêu thánh thiện, và thẳng thắn thừa nhận giá trị của cuộc sống thực đang diễn ra không kém phần hấp dẫn và thi vị:
Tôi tưởng hồn tôi đã chết rồi,
Cuộc đời cô độc mãi theo tôi
Nhưng thời gian giúp tôi mờ xoá
Trong trái tim đau bóng một người.
Chồng tôi đem lại bao tươi đẹp,
Những đứa con thơ gọi Mẹ, Thầy.
Chồng biết yêu thương, con trìu mến,
Lòng tôi mờ xoá bóng hình ai…
Tôi biết: tình tôi trong giấc mơ
Đâu bằng sự thật chứa chan thơ?
Một trời tình ái trong tư tưởng
Một phút kề vai cũng đủ mờ.
Con tôi có lúc ôm tôi hỏi:
– Này mẹ yêu ai nhất, mẹ nào?
– Mẹ chỉ yêu ba cùng Hương, Yến
Và còn… nhưng biết nói làm sao?
Sức mạnh thời gian vẫn cứ trôi,
Gia đình hạnh phúc chiếm tim tôi
Tôi vì bổn phận quên lời hứa,
Quên cả trong tim một bóng người…
(Quên)
Ôi! Có lẽ cái lớn của Mai Đình, cái lớn khiến chúng ta tin tất cả những gì bà nói, chính là sự chân thành của bà thể hiện không giấu giếm, hệt như trong cuốn nhật kí riêng tư! Sự chân thành ấy là động lực lôi kéo bà tránh xa vũng lầy của tất cả các thứ tư tưởng giáo điều và đưa bà về trọn vẹn với chủ nghĩa nhân bản! Bà nói về tình yêu cao cả, thánh thiện, về sự hi sinh tuyệt đối, về lòng chung thuỷ, và bà cũng nói đầy đủ về bản chất của cuộc sống trần gian “không bao giờ đáng chán”, điều mà chính Hàn Mặc Tử đã nhìn thấy rõ và đã tin tưởng tuyệt đối. Không phải bằng tư duy triết học mà chỉ bằng trực giác của đàn bà, Mai Đình đã miêu tả được một chân lí vĩ đại: vũ trụ này tồn tại với tính đa dạng vô cùng tận của nó. Cái Đẹp cũng vậy, có thiên hình vạn trạng. Vì vậy, người ta chỉ có thể so sánh tương đối những Cái Đẹp với nhau để chọn ra Cái Đẹp nào ưu tú hơn chứ tuyệt đối không được phép tuỳ tiện cắt xén, thủ tiêu những Cái Đẹp này để phục vụ cho sự độc tôn của Cái Đẹp khác. Những sự cắt xén như vậy là chống lại qui luật về tính đa dạng của thiên nhiên.
Cho đến khi cái “hạnh phúc trần gian” với chồng con kia hoàn toàn đổ sụp (phải chăng những kẻ đã từng đạt tới đỉnh cao tình ái thì không thể nào còn hái lượm được hạnh phúc đích thực trong những cuộc tình tầm thường?) thì một lần nữa Mai Đình lại rơi trọn vẹn vào “mối tình bất diệt” thuở xưa. Bà đã nhiều lần mường tượng đến cuộc “tái hồi Kim Trọng” với Hàn Mặc Tử:
Anh ơi, xin hãy chờ em với!
Hết nợ rồi em sẽ trở về
Chắp lại đôi hồn cho trọn nghĩa…
(Chắp lại đôi hồn)
Có một điều dường như là một qui luật: những người phụ nữ đã xuất sắc về tình cảm thì cũng thường xuất sắc cả về lí trí và nhân cách. Khác hẳn với những tiểu thư khuê các đương thời mà ngoài những chuyện tình cảm riêng tư, họ không còn biết đến cái gì khác, Mai Đình là nhân vật nữ lưu có chí khí và tinh thần công dân sâu sắc. Nét khá “mới lạ” ở Mai Đình là trong thơ bà, chúng ta bắt gặp được sự hoà quyện nhuần nhuyễn giữa tình yêu và tình nước. Điều đó giúp cho chúng ta được thấy toàn diện bức chân dung của bà: bà vừa là một người tình đắm đuối vừa mang dòng máu “cân quắc anh hùng” truyền thống của Bà Trưng Bà Triệu thuở trước. Nữ sĩ Ngân Giang đã phát hiện chính xác cả hai đặc tính nổi trội như nhau và bổ trợ cho nhau đó ở Trưng Vương, ở những người phụ nữ Việt Nam toàn hảo nói chung – yêu đương vô cùng thắm thiết, đồng thời cũng cực kì anh hùng:
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi…
(Trưng nữ vương)
Mạnh mẽ tham gia vào công cuộc kháng chiến cứu nước, Mai Đình giãi bày với người yêu ở bên kia thế giới như sau:
Sắt son đã chẳng cùng nhau trọn,
Em phải đem mình gửi núi sông.
Em đã là dân của nước nhà
Khi quân thù địch dấy can qua
Máu hồng đang nhuốm trang hùng sử
Em lẽ nào quên lẽ quốc gia?
Hăng hái say sưa giữa cuộc đời
Tấm lòng tranh đấu phút nào nguôi?
Bao giờ tổ quốc ca toàn thắng
Là lúc tìm anh giữa cõi trời.
(Trăng cũ)
Rồi nhân ngày giỗ thứ 50 của Hàn Mặc Tử, bà lại viết:
Năm mươi năm xa vắng
Lòng em vẫn tấc gang…
Không có gì linh thiêng
Giữa cõi đời tạm bợ,
Em đi tìm linh thiêng
Dâng mình cho Đất Tổ.
Em tin anh đã hiểu
Tâm hồn em thuở nào
Sống cuộc đời nô lệ
Sóng gió đưa về đâu?
… Ngày thống nhất hai miền
Thơ anh bay khắp nẻo
Thơ ta thêm trong trẻo,
Lời nhạc say tình người
Chung thuỷ luôn sáng ngời
ĐÔI HỒN ghi trang sử.
(Sắt son. 11-11-1990)
Những vần thơ chân thực, trang trọng nhưng ngọt ngào và giàu nữ tính làm sao! Người ta không ngửi thấy có một chút mùi giáo điều, lên gân nào khi Mai Đình hoà trộn những tình cảm cao quí nhưng rất khác biệt về chất đó trong một bài thơ. Theo chúng tôi, những bài thơ như vậy, nếu đem vào tập “Thơ tình cách mạng” sẽ xứng đáng có thứ hạng cao hơn hẳn những thứ thơ minh hoạ “hét ra lửa” mà ngày nay không ai còn đọc nổi nữa.
Và đây, những khúc nhạc chiều (sérénade) gợi nhớ khôn nguôi mối tình xa xưa, khi bóng hoàng hôn đang phủ dần xuống cuộc đời Mai Đình:
… Chiều nay gợi nhớ Gò Bồi
Nơi anh chữa bệnh hẹn tôi đợi chờ
Niềm vui cửa biển bây giờ
Là nơi chín đợi mười chờ năm nao.
Người thơ nay đã bạc đầu
Mà hồn thơ vẫn dạt dào thuỷ chung.
Người đi hơn bốn mươi năm,
Bốn mươi năm ấy trăng rằm lẻ loi.
Hồn chàng cùng với hồn tôi
Quyện trong làn sóng sánh đôi sớm chiều.
Người tôi yêu, biển tôi yêu,
Trăng Qui Hoà giữ bao điều khó quên…
(Niềm vui cửa biển)
Rồi bất chợt, những khát vọng chưa được thoả mãn từ thời hoa niên lại loé lên một lần cuối cùng khi nữ sĩ đã ở vào tuổi 75:
Nụ hôn em đã sẵn sàng,
Hôn anh cho thật nồng nàn say sưa.
Bao nhiêu tháng đợi năm chờ
Nụ hôn hẹn đến bao giờ anh ơi?…
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Hôn anh em gửi gió mây hôn giùm!
(Nụ hôn không thành)
Cuối cùng, ở tuổi 78, bà viết bài thơ sau chót (hoạ bài “Thức khuya” của Hàn Mặc Tử), là minh chứng hùng hồn cho sự hiện diện của tình yêu bất diệt:
Em biết yêu anh đã muộn màng
Nỗi niềm thương nhớ dễ gì tan?
Ngâm thơ cảm động thương hình ảnh,
Dệt tứ âm thầm tủi chiếu chăn.
Thổn thức bao đêm vương mối chỉ
Mỏi mòn năm tháng lạnh cung đàn.
Ghì trăng ôm gió tìm hương cũ,
Tóc trắng tình xanh mộng chửa tàn.
(Mộng chửa tàn)
Và trong màn chót của mối tình đã từng hiện diện trên trần thế, của cuộc đời một người đàn bà yêu đương, “giấc mơ tái hợp” đã ứng vào phút nữ sĩ lâm chung ở tuổi 82:
Còn có khi nào nhớ đến em
Hồn anh hãy kiếm buổi ban đêm
Giữa dòng sóng bạc, trên cồn cát
Dưới ánh trăng ngà, anh đón em!
(Nghẹn ngào)
Dồn thương nhớ vào tận cùng cân não
Để đêm nay xây đắp mộng luân hồi.
Anh hãy cùng em về căn nhà nhỏ
Túp lều tranh muôn thuở đã chung đôi!
(Em đã về đây)
Trở lên, chúng ta đã du lãm vào khu rừng bí mật của tình yêu Hàn Mặc Tử – Mai Đình. Phương Tây có câu “Tất cả là tốt đẹp với những gì kết thúc tốt đẹp” (Tout est bien qui finit bien). Theo dõi toàn bộ mối tình ấy trong cả hai giai đoạn – trước và sau khi Hàn Mặc Tử mất – chúng ta thấy chính Mai Đình có công rất lớn làm nên cái “kết thúc tốt đẹp” ấy, điều mà dân tộc ta thường dùng thành ngữ “có hậu” để diễn đạt. Bà đã thực hiện được một kì tích: bằng tình yêu mà chiến thắng cả cuộc đời lẫn cái chết. Bà đã làm cho thiên tình sử với Hàn Mặc Tử có được một chương “vĩ thanh” thật là hoàn hảo. Chúng ta nhận chân được tất cả những gì là thực chất nhất, sâu xa nhất, huyết lệ nhất của một tình yêu hiếm có giữa hai con người ưu tú. Đồng thời, chúng ta chiêm ngưỡng những đoá hoa thi ca thần kì nở ra từ tình yêu đặc sắc ấy.
Trong tập sách “Những gương mặt tiêu biểu thi ca Việt Nam”,
NXB Văn Học, 2006
nguồn Newvietart.com
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22-09-1912 tại làng Lệ Mỹ, thị xã Đồng Hới (nay là phường Đồng Mỹ, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình).
Ông Nguyễn Văn Toản, thân sinh Hàn Mặc Tử là con trưởng của cụ Phạm Bồi. Lúc sinh Hàn Mặc Tử ông Nguyễn Văn Toản đang làm Chủ sự Sở Thương Chánh Nhật Lệ - Đồng Hới. Lớn lên, Hàn Mặc Tử theo cụ thân sinh đi nhiều nơi và theo học ở các trường Tiểu học Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Sa Kỳ (1924)... đến năm 1926, cụ thân sinh của Hàn Mặc Tử bị bệnh và mất ở Huế, Hàn Mặc Tử được mẹ cho học tiếp ở trường Pellevin - Huế. Năm 1930, Hàn Mặc Tử mới thôi học theo mẹ vào Quy Nhơn.
Hàn Mặc Tử có tất cả 6 anh chị em, trong đó người anh cả tên là Nguyễn Bá Nhân, hiệu Mộng Châu là một nhà thơ Đường luật. Cũng chính nhờ người anh cả mà đường học vấn của Hàn Mặc Tử không bị dở dang sau khi cha anh qua đời và cũng chính người anh đã dìu dắt Hàn Mặc Tử bước vào làng thơ.
Năm 15 tuổi đã làm thơ và bắt đầu nổi tiếng trên thi đàn, Hàn Mặc Tử đã họa lại thơ của Mộng Châu. Lúc họa thơ, ký là Minh Duệ Thị, sau đổi là Phong Trần, rồi đổi là Lệ Thanh (Lệ là chữ đầu của sinh quán làng Lệ Mỹ - Đồng Hới, còn Thanh là chữ đầu của chánh quán Thanh Tân - Phong Điền - Huế). Sau đó lại đổi là Hàn Mạc Tử và cuối cùng mới lấy hiệu là Hàn Mặc Tử.
Hàn Mặc Tử - mặc dù không phải là người Đồng Hới - Quảng Bình mà chỉ sinh ra đặt tên Thánh ở Nhà thờ Tam Toà và cũng chỉ sống ở Đồng Hới có 1/3 cuộc đời ngắn ngủi (9 năm); mặc dù nhà thơ không có một tác phẩm nào về Đồng Hới hay Quảng Bình nhưng khi đọc thơ Hàn Mặc Tử, người Đồng Hới hay người Quảng Bình, người ta vẫn tìm thấy trong đó chất quê, tình quê Quảng Bình toát lên từ mỗi câu thơ, và do đó coi Hàn Mặc Tử là người đồng hương của mình. Đó chính là việc dựa vào cách dùng thổ ngữ, tục ngữ hay thành ngữ địa phương trong thơ của Hàn Mặc Tử. Trong cuốn ’’Địa chí Đồng Hới’’, cụ Nguyễn Tú - Nhà Nghiên cứu văn hoá Quảng Bình đã tìm ra hàng chục bài thơ của Hàn Mặc Tử có sử dụng thổ ngữ địa phương. Có những từ ngữ địa phương khá thông dụng từ ngày xưa gần như các cụ già mới dùng đến, vậy mà ta vẫn thường gặp trong thơ Hàn Mặc Tử, đến nỗi có nhiều người nghĩ rằng nếu tác giả không phải là người Quảng Bình thì nhất định không biết sử dụng.
Hội Di sản Văn hóa Việt Nam tỉnh Quảng Bình - 2008
BY: HOÀNG THẠCH
I- LỤA HÀ ĐÔNG
Nói tới Lụa Hà Đông, dân chúng miền Nam không xa lạ gì với bài thơ Áo Lụa Hà Đông của thi sĩ Nguyên Sa. Nói tới thi sĩ Nguyên Sa, giới học sinh xưa nhiều người không quên giáo sư Trần Bích Lan, hiệu trưởng trường Văn Học ở thủ đô Sài Gòn. Triết học là một trong các môn khó hiểu và nếu không giảng hay dễ làm cho học sinh ngủ gật hoặc cúp cua. Nhưng đối với thày Trần Bích Lan thì học triết học hấp dẫn đến độ học sinh quên ngủ trong lớp. Bài thơ Áo Lụa Hà Đông đã được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ nhạc và nhiều ca sĩ đã hát:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa Thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bay vội vã vào trong hồn mở cửa
Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng gì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau?
Để anh gọi tiếng thở buồn vọng lại.
Nói tới Lụa Hà Đông, người Việt trong nước mới biết có một phim đắt tiền nhất từ trước đến nay, một triệu Mỹ-kim, do các công ty Phước Sang, Ánh Việt và phim Việt thực hiện với chủ đề Áo Lụa Hà Đông đã được gửi tới Đại hội Điện ảnh Cannes 2005 để dự thi. Phim do đạo diễn Lưu Huỳnh thực hiện và hai diễn viên chính là Trương Ngọc Ánh và Quốc Khánh. Phim được quay tại Hội An, Huế, Quảng Trị, Hà Nội và Hà Đông.
Tại đại hội diện ảnh Cannes, phim Áo Lụa Hà Đông không đạt được giải quan trọng nào. Điều này chứng tỏ mức độ nghệ thuật và cốt truyện phim chưa đạt được trình độ mà giới điện ảnh quốc tế đòi hỏi. Tuy nhiên về phương diện quảng cáo thì Lụa Hà Đông có dịp được biết tiếng trên thị trường thề giới nhiều hơn.
Đưa ra hai sự kiện nêu trên, trong bài này chúng tôi muốn nói tới tới Lụa Hà Đông, một sản phẩm thủ công nghiệp nổi tiếng của Việt Nam có từ thời xa xưa và lưu truyền cho tới ngày nay.
Khi nói đến sản phẩm thủ công nghiệp của dân Việt, chúng ta không thể quên hai câu ca dao đã đi vào lịch sử dân tộc:
The La, lĩnh Bưởi, chồi Phùng
Lụa Vân Vạn Phúc, nhiễu vùng Mỗ bên (*)
Tơ lụa Hà Đông là sản phẩm dệt thủ công bằng tơ tằm, rất đặc sắc, độc đáo và xứng đáng tiêu biểu nhất trong số những hàng dệt của Việt Nam. Hàng tơ lụa bền, đẹp. Về màu sắc và mỹ thuật hội họa đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật.
1. Các loại hàng tơ lụa Hà Đông
Tơ lụa của Việt Nam có nhiều loại khác nhau như: lụa, là, gấm, vóc, the, lĩnh, bằng, quế, đoạn, sa, đũi, kỳ cầu... Chỉ riêng làng dệt Vạn Phúc (Hà Đông), một trung tâm dệt thủ công lớn và nổi tiếng nhất trong cả nước đã từng làm ra hàng chục loại the, lụa, đũi, gấm, lĩnh, vải...
-Gấm: Đây là loại vải dày, có nhiều màu sắc khác nhau gồm: gấm lam, gấm hồng cánh chấu, gấm đỏ, gấm vàng... Hoa trên gấm thường có màu tươi rực rỡ, được dệt nổi,
giống như thêu chỉ màu, nên hình ảnh coi rất hấp dẫn. Một tấm gấm mầu, thường có 5 hay 7 màu được gọi là gấm ngũ thể hay gấm thất thể. Gấm là mặt hàng quý giá và khó làm nhất trong tất cả các mặt hàng tơ lụa. Người thợ dệt gấm phải đạt tới trình độ tay nghề rất cao, kỹ thuật điêu luyện và có óc thẩm mỹ. Vì yếu tố kỹ thuật và mỹ thuật đòi hỏi cao như vậy, nên từ xưa tới nay có rất ít nghệ nhân biết dệt gấm.
Theo truyền tụng trong dân gian thì dưới thời Lê, chỉ có làng Vạn Phúc là nơi duy nhất biết dệt gấm.
2. Những loại vải lụa tiêu biểu
-Vân: Là mặt hàng lụa mỏng có hoa nổi, hoa chìm. Hoa nổi trên mặt lụa thì bóng mịn. Còn hoa chìm phải soi lên ánh sáng mới thấy được. Vân được dệt ở làng Vạn Phúc, là một loại sản phẩm đặc biệt và chỉ có thợ Vạn Phúc dệt vân giỏi nhất trong nước. Qua ca dao người ta còn nhớ câu: "The La, lụa Vạn, vải Canh” để chỉ các làng dệt nổi tiếng.
-Lụa: Bao gồm các loại lụa trơn, lụa hoa. Đây là mặt hàng dệt theo kiểu đan lóng mót, mặt lụa rất mịn màng và óng ả.
-The, sa, xuyến, băng, quế:
Các loại sản phẩm này có đặc điểm chung, nét đặc sắc là đều dệt hở (thưa) - nghĩa là trên mặt đều có những lỗ thủng nho nhỏ trông rất đẹp. Lỗ hở giữa các loại vải này cũng khác nhau về kích thước, mức độ thưa và dày.
-Lĩnh, đoạn, vóc, sa tanh: Là các loại vải dệt dày. Số lượng sợi dọc nhiều hơn vải lụa. Mỗi tấm vải này có khoảng 8.000 sợi dọc so với lụa tơ chỉ có chừng 3.000.
-Sa tanh: là loại vải lụa mỏng, mặt vải dệt bằng sợi bóng láng dễ nhìn ra dưới ánh sáng ban ngày.
-Xuyến: giống Sa tanh một phần, nhưng mỗi hàng chỉ dệt thưa và mỗi hàng chỉ tơ người ta bỏ đi một sợi.
-Băng: loại vải thưa nhìn giống màng nhện.
-Sa, xuyến và băng thường dùng để may quần áo lót bên trong.
-Nhiễu: vào những ngày lạnh người ta mặc nhiễu, một loại vải dệt bằng nhiều lớp sợi tơ để chịu được khí lạnh mùa đông.
-Lĩnh: là vải dệt bằng sợi dài và đầy hơn bình thường, bề mặt bóng loáng. Phụ nữ thường mặc quần Lĩnh vào dịp Tết hay các ngày lễ hội.
-Đoạn: giống vải Lĩnh, nhưng dầy hơn và thường dùng cho nam giới.
Nghệ thuật trang trí và hoa văn trên lụa được coi là tiêu điểm nghệ thuật của phương pháp tạo hình trên vải sợi của các nghệ nhân và nghệ sĩ Việt Nam. Các nghệ nhân vẽ mẫu và dệt ở Hà Đông đã dựa vào kho tàng nghệ thuật truyền thống dân tộc, sáng tạo chứ không rập khuôn, nhằm thích ứng với từng loại vải dệt. Đề tài thường là Ngũ phúc, Long vân (rồng mây), Nguyên hoa (hoa chanh, cúc, hồng...), Thọ đỉnh (lư hương và chữ Thọ)... Nhìn chung, hoa văn dệt theo truyền thống bao giờ cũng trình bày đối xứng. Đường nét trang trí không rườm rà, phức tạp mà mềm mại, phóng khoáng.
3. Lịch sử về tơ lụa
Theo truyền thuyết thì khoảng 3.000 năm trước đây, Công Chúa Hoàng Phủ Thiệu Hoa là người con gái xinh đẹp, nết na, chăm chỉ và có tài thêu dệt, nên được Hùng Định Vương (Hùng Vương I) rất quí yêu. Khi công chúa Thiệu Hoa tới tuổi kết hôn, Vua cha muốn nàng lấy một nhà giáo, nhưng nàng xin cha trì hoãn cuộc hôn nhân. Sau đó nàng di chuyển tới làng Cổ Sát để sinh sống nghề nông và tại đây nàng đã dậy dân dệt vải. Tới tuổi 32 Công chúa đã đi tới hơn 60 làng dọc theo sông Hồng dậy dân nghệ thuật dệt lụa. Sau đó nàng trở về làng Cổ Sát và qua đời tại đây. Ở Cổ sát nay là làng Cổ Đô vùng Ba Vì thuộc tỉnh Sơn Tây, cách Hà Nội khoảng 40 cây số, có đền thờ Công chúa Hoàng Phủ Thiệu Hoa, Tổ Mẫu của ngành Lụa Việt Nam.
Lụa còn gọi là nhung được người Việt sản xuất kể từ những năm 1040 dưới đời vua Lý Thái Tông, để khỏi phải nhập cảng từ ngoại quốc. Nhung lụa từ thuở ban đầu chỉ dành cho Hoàng Cung và giới thượng lưu. Chính vì thế mới có câu nói "Sống trong nhung lụa", "bọc trong áo gấm" ám chỉ cuộc sống của giới giầu sang quyền quí.
Từ hơn nửa thế kỷ nay tơ lụa của Việt Nam đã nổi tiếng tại thị trường Ba Lê. Lụa Vạn Phúc đã từng được triển lãm tại Marseilles (1928), Paris (1931-1938), Jakarta (1931-1941). Lụa nổi tiếng nhất của Vạn Phúc là Lụa Vân (vẽ mây). Về thống kê cho thấy, 785 trong số 1.343 gia đình tại Vạn Phúc đã thu được một lợi tức hàng năm là 27 tỉ đồng, bằng 63% ngân sách của tỉnh. Ngày nay hàng ngàn mẫu tây sẽ được canh tác trồng dâu, nuôi tằm để sản xuất tơ lụa. Theo thống kê lợi tức về xuất cảng tơ lụa thu được khoảng 50 triệu Mỹ-kim vào năm 2005.
Trong các loại vải quí, có thể nói vải Gấm là Nữ Hoàng của lụa. Gấm dày, được thêu hoa, vẽ vật thật công phu. Trong quá khứ Gấm chỉ dùng để may áo cho vua, vì nó đòi hỏi công trình dệt và thêu rất tinh vi và đẹp mắt. Trên áo Gấm thường được vẽ hình hai con rồng chầu mặt trăng. Để hoàn thành mỗi tấm vải Gấm chính hiệu, người thợ chuyên nghiệp phải mất khoảng gần một năm để vẽ, trang trí và ba tháng để may. Ngày xưa khi dệt và thêu áo Gấm cho vua hay Hoàng hậu xong, mẫu vải phải hủy bỏ ngay để áo gấm đó là kiểu mẫu duy nhất, không ai được phép bắt chước. Nếu chủ may vi phạm sẽ bị án "Tru di tam tộc" (dòng họ ba đời bị giết chết!)
Ngày nay giá gấm khoảng 20.000 đồng một mét đối với vải có 50% lụa; 50.000 đồng vải có 75% lụa và 100% lụa thì tùy theo mặt hàng và chất lượng.
Ngày nay nhiều quí bà ở ngoại quốc đãõ may và mặc áo Gấm rồi, ngang hàng với Hoàng Hậu thời xưa, mà chẳng ai sợ bị tru di tam tộc cả. Như vậy vải gấm không còn là sản phẩm độc quyền dành cho vua chúa và giới quyền quí nữa.
Đúng là: "Có tiền mua tiên cũng được"
II - LÀNG NHUỘM ĐAN LOAN
Nói đến tơ Lụa Hà Đông thì không thể không nói tới làng nhuộm Đan Loan, nơi biến tơ lụa thành nhiều mầu rực rỡ.
Theo tài liệu thì Làng Đan Loan xưa thuộc Tống Minh Luân, huyện Đường An, nay thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Vốn là một làng nhỏ nằm giữa vùng châu thổ sông Hồng. Nơi đây là quê hương của danh nhân Phạm Đình Hổ, người đã để lại cho văn học nước nhà nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu như Vũ Trung Tuỳ Bút, Châu Phong Tạp Khảo và nhiều tác phẩm khác.
Tuy nhiên làng Đan Loan được biết tiếng không phải vì danh nhân văn học, mà nổi tiếng là một làng nhuộm vải tơ lụa. Từ xa xưa dân chúng trong vùng đã lưu truyền câu ca dao:
Hồng hồng, biếc biếc, xanh xanh
Đan Loan, Ngọc Cục thị thành vẻ vang.
Dân làng Đan Loan thì tự trào bằng câu đối:
Thiên hạ thanh hồng do ngã thủ
Triều đình chu tử tự ngô gia
(có nghĩa: Sắc màu xanh đỏ trong thiên hạ đều do tay ta. Quần áo tía hồng ở triều đình cũng từ nhà ta mà có).
Làng Đan Loan còn có tên là làng Đọc. Truyền thuyết kể lại rằng: khoảng hai nghìn năm trước, nơi đây là vùng đất hoang vu toàn lau cỏ. Ở Tổng Minh Luân có vợ chồng cụ Độc, tên thì thế nhưng tính tình hiền lành, chịu khó làm ăn và trở nên khá giả. Hai cụ tuổi đã cao mà chưa có con, nên thường đi đến các làng lân cận nhận trẻ mồ côi không nơi cư trú về nuôi. Hai cụ đã kiếm được bẩy trẻ làm con nuôi, đặt tên theo họ là Lê, Phạm, Đào, Bùi, Đoàn, Dương, Vũ. Các con lớn lên, gia đình đông đúc, cụ Độc xin phép dân làng cho ra khai hoang khu đất cách làng cũ chừng 2 cây số, trồng lúa để sinh sống. Bảy người con lớn lên, xây dựng gia đình ở quây quần bên cạnh, trở thành thôn ấp. Dân trong vùng gọi là ấp cụ Độc.
Cụ Độc dạy các con cày bừa, cấy gặt và mời thầy đồ về dạy con học chữ. Cụ dựng ngôi nhà gỗ 5 gian để làm trường học, đọc chữ. Vì vậy về sau người ta gọi là làng Đọc. Cái tên làng Đọc vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Làng Đọc là làng khoa bảng, có số Tiến sĩ nhiều thứ hai của huyện Bình Giang, chỉ sau làng Mộ Trạch. Theo nhiều tài liệu lịch sử thì ông Vũ Huyên là con ông Vũ Thạnh, là cháu ông Vũ Huy. Ba anh em, chú cháu cùng làm quan trong triều nên đương thời có người mừng câu đối rằng
‘’Đông triều tam tiến sĩ. Nhất nhật lưỡng vinh qui (cùng một triều đại có 3 Tiến sĩ. Trong một ngày có hai người cùng về vinh qui bái tổ).
Cụ Độc là Thuỷ tổ làng, nhưng thành hoàng làng lại là ông bà Triệu Xương. Lịch sử làng đã ghi: Vào thời nhà Đường cai trị nước ta, có một viên quan tên là Triệu Xương cùng vợ là Phương Dung công chúa đi qua vùng này, thấy làng quê trù phú dân làng chịu khó cấy cày, lại ham đọc sách, nên ngự lại làng, dạy cho dân biết nghề nhuộm vải và tơ lụa, là nghề gia truyền bên Trung Quốc. Từ đó dân làng Đọc có thêm nghề nhuộm, (còn gọi là nghề ruộm). Dân làng nhớ công ơn nên thờ ông bà Triệu Xương làm Thành Hoàng làng.
Người làng Đọc biết nhuộm nhiều màu sắc, nào màu đỏ, màu hồng, màu xanh, màu tía... do biết cách pha màu nên người ta có thể nhuộm các màu theo ý muốn. Nghề nhuộm đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội thời đó, nên người làng Đọc đã có cơ hội làm giàu. Nhiều gia đình đã ra thành phố mở những cửa hiệu nhuộm. Những người còn ở lại làng thì với gánh đồ nghề trên vai họ đã đi khắp chợ cùng quê để nhuộm thắm, nhuộm hồng, nhuộm tía và để tiền thiên hạ chảy về làng Đọc. Dân vùng này có câu ca: Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Trằm.
Vào thời Tiền Lê, những người thợ tài giỏi của làng đã được vua Lê mời vào cung nhuộm vải và tơ lụa, để làm tàn, lọng, áo mũ và nhuộm cả những sợi tơ tằm để làm tua, làm hoa gắn vào mũ áo của vua và các quan lại trong triều. Từ đó làng Đọc được gọi tên mới là làng Đan Loan.
(Theo chữ Hán: Đan là màu đỏ, Loan là con chim Phượng cái màu Đỏ). Ý nói đây là nơi tạo ra nhiều màu sắc, với màu đỏ là màu rực rỡ nhất, những người thợ nhuộm của làng tần tảo, chịu khó như con chim phượng bay đi khắp mọi nơi làm đẹp cho đời. Không sử sách nào ghi người đặt tên cho làng, nhưng đây là cái tên vừa đẹp, vừa hợp với một làng thợ nhuộm.
Theo sử liệu có đoạn nói về Phố hàng Đào từ đầu thế kỷ XV của Nguyễn Trãi:
"... Đã làm trung tâm nhuộm và buôn bán vải, lụa lớn nhất kinh đô Thăng Long. Đan Loan, một làng nghèo xứ Đông, cách Thăng Long đến 50 cây số, do có kỹ thuật nhuộm điều đã kéo về hành nghề ở Thăng Long ngày một đông. Vào cuối thế kỷ XVII người làng Đan Loan đã lập được đình ở Hàng Đào, lập được chợ riêng ở phố Hàng Đào. Phố Hàng Đào trở thành phố riêng của dân làng Đan Loan và họ giàu lên nhanh chóng”.
...................
Chú thích (*):
-Mỗ: làng Đại Mỗ, Tây Mỗ, Thường Mỗ
-La: (nay là làng La Khê, La Ca. La Nôi, La Tỉnh, La Phù, Ba La) những làng dệt the. Tiếng Hán La có nghĩa là Lụa.
-Canh: (nay là làng Canh Diễn) dệt vải bằng sợi bông.
Nói đến văn hóa của một dân tộc, người ta không thể không nghiên cứu các ngày lễ hay hội hè và đình đám của dân tộc đó. Miền Bắc là cái nôi lịch sử của Việt Nam và dĩ nhiên các sinh hoạt của người dân trong suốt hàng ngàn năm lịch sử đã nói lên được các đặc điểm văn hóa của vùng này. Miền Trung và miền Nam cũng có những sắc thái đặc biệt trong nền văn hóa dân tộc mà chúng tôi sẽ lần lượt nghiên cứu và trình bày trong các số kế tiếp.
Chủ đề văn hóa cho Dân Chúa Âu Châu số này, chúng tôi muốn giới thiệu một vài lễ hội không mang tích chất lịch sử đấu tranh giữ nước và chống ngoại xâm của dân tộc ta. Những lễ hội này, nói một cách nôm na, là các cuộc chơi giữa chỗ đông người và có tính chất quần chúng, địa phương.
Dân ta sống về nông nghiệp trải qua nhiều thế kỷ. Phương tiện cày bừa của người miền Bắc xưa không phải là máy móc hay sức người mà là con trâu. Chính vì người và vật cùng sống chết trên cánh đồng, trong mùa gặt và sau vụ gặt, nên hình ảnh con trâu đã đi sâu vào tâm khảm của bác nông phu, các gia đình và làng xóm. Thi vị hơn một chút, chúng ta có thể hình dung ra một cảnh đẹp của cuộc sống êm đềm tại nông thôn thơ mộng vào lúc chiều tà qua hai câu thơ trong bài “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan:
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.Hình ảnh trẻ em ngồi trên lưng trâu, gõ sừng trâu và thổi sáo trên đường về thôn dã là hình ảnh rất thân thương và quen thuộc của dân ta. Con trâu được hòa đồng với dân miền quê trong cảnh sống an bình và mộc mạc, nhưng sinh động qua câu: “Chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa”.
Mục đồng và con trâu cũng là đề tài cho nhiều bài thơ tình cảm và những bài hát có âm hưởng dân ca đã được phổ biến từ nông thôn tới thị thành. Bài “Ai bảo chăn trâu là khổ?” là một ví dụ.
Trâu còn là đề tài để khuyên nhủ trai gái trong làng đang bơ vơ trước ngưỡng cửa yêu đương như:
Trâu ta ăn cỏ đồng ta,
Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm.
và:
Trâu kia kén cỏ bờ ao,
Anh kia không vợ đời nào có con. Trâu cũng được dùng làm hình ảnh để mỉa mai hay dậy đời như:
Trâu chậm uống nước dơ,
Trâu ngơ ăn cỏ héo.Tuy trâu có tình nghĩa với người dân nông thôn như vậy; nhưng nó vẫn chỉ là một con vật và người ta đối xử với nó như bao con vật khác. Trâu còn khoẻ thì kéo cày, bệnh hoặc khi về già thì bị làm thịt cho các lễ hội của gia đình hay dân làng. Ngoài ra, trâu còn được dùng trong trò chơi giải trí rất phổ thông trong dân chúng tại một số tỉnh ở miền Bắc, tiêu biểu nhất là các cuộc chọi trâu. Hai nơi có tục chọi trâu nổi tiếng tại miền Bắc là Hải Lựu và Đồ Sơn.
Tên đất nước Việt Nam đã từng bị thay đổi nhiều lần. Kinh đô hay Thủ đô Việt Nam cũng đã mang nhiều danh hiệu khác nhau. Khác với Thăng Long hay Hà Nội, tên gọi của cố đô Huế xuất hiện trong trường hợp nào, không có tài liệu xác nhận, dưới triều Nguyễn cũng như trong các thời kỳ kế tiếp.
Để mở đầu cho loạt bài nói về lịch sử văn hóa miền Trung, trước hết chúng tôi xin giới thiệu cố đô Huế.
I- Đôi dòng lịch sử khai sinh kinh đô Huế
Sự phát triển theo chiều dài Nam tiến của Việt Nam bắt nguồn từ các dữ kiện lịch sử sau đây:
1.1- Vua Trần Nhân Tông đổi Công chúa Huyền Trân lấy hai châu của Chiêm Thành
Việt Nam sử lược có ghi: “năm Tân Sửu (1301) Thượng Hoàng đi sang Chiêm Thành xem phong cảnh, có ước gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Được ít lâu, Chế Mân cho người đưa vàng bạc và các sản vật sang cống và xin cưới. Triều thần có nhiều người không thuận. Chế Mân lại xin dâng châu Ô và châu Rí để làm lễ cưới, bấy giờ Anh Tông mới quyết ý thuận gả. Đến tháng sáu năm Bính Ngọ (1306) cho công chúa về Chiêm Thành. Sang năm sau vua Anh Tông thu nhận hai châu Ô và Rí, đổi tên thành Thuận châu và Hóa châu, rồi sai quan là Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị.”
Buồn cho mối tình Huyền Trân công chúa, người Việt có câu ca dao:
Tiếc thay cây quế giữa rừng,
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo!
1.2- Nguyễn Hoàng khai sinh vương quyền miền Nam
Nguyễn Hoàng là con thứ ba của Nguyễn Kim (bị tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc giết chết năm 1545). Sau khi người anh là Nguyễn Uông bị anh rể Trịnh Kiểm loại trừ, vì nghi ngờ có thể cướp quyền lực của mình, Nguyễn Hoàng quá lo sợ cho thân phận, bèn nhờ người đến hỏi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm làm cách nào để thoát nạn. Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ nói: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (một dẫy Hoành sơn có thể bao dung cho vạn đời).
Nghe vậy, Nguyễn Hoàng mới nói với chị là Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ tiền đồn phía Nam là Thuận Hóa, nơi thường bị người Chàm quấy phá. Năm 1558, Nguyễn Hoàng và gia đình cùng một số binh sĩ quê Thanh Hóa, Nghệ An đi vào miền Nam. Cùng thời điểm này đất Quảng Nam đã có Tổng binh Nguyễn Bá Quýnh. Năm 1570, Trịnh Kiểm triệu Nguyễn Bá Quýnh về Bắc. Từ đó Nguyễn Hoàng làm chủ phương Nam với lệ mỗi năm phải nộp 400 cân bạc và 500 tấm lụa. Từ năm 1572-1627 Nguyễn Hoàng đã thành công trong việc xây dựng và phát triển 3 tỉnh Quảng Bình, Thuận Hóa và Quảng Nam, trở thành lực lượng đối khác với họ Trịnh tại miền Bắc và sông Gianh là biên giới của hai quyền lực Trịnh-Nguyễn.
II-Tại sao lại gọi là Huế?
Như trên Hóa châu hay Thuận Hóa là đất được vua Chiêm dâng cho nhà Trần trong cuộc tình duyên vương giả mà Huyền Trân Công Chúa là nạn nhân. Chữ Hóa châu dần dà được người ta rút gọn gọi là Hóa, rồi biến thành Huế qua nhiều gian đoạn biến đổi khác nhau.
Theo học giả Thái Văn Kiểm trong quyển Làng Xưa Phố Cũ, tập II, thì trong thời gian đầu Chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613) xây dựng thủ phủ tại làng Ái Tử (Quảng Trị). Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) lại dời về làng Phước Yên (Quảng Điền, Thừa Thiên). Năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Loan (1635-1648) đổi về làng Kim Long (Hương Trà, Thừa thiên), gần chùa Thiên Mụ. Năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691) xây dựng phủ mới tại làng Phú Xuân, ở Đông-Nam kinh thành Huế hiện nay. Năm 1712, chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) lại dời phủ ra làng Bắc Vọng (Quảng Điền, Thừa Thiên). Năm 1738, Nguyễn Phúc Khoát, Võ Vương (1738-1765) lại dời phủ chính về Phú Xuân, xưng vương và chọïn Phú Xuân là chính dinh, Đô thành.
Sau khi Nguyễn Phúc Khoát chết thì tình hình miền Nam bất ổn, khai sinh ra triều Nguyễn Tây Sơn đóng đô ở Phú Xuân, rồi triều Nguyễn Gia Long cũng đóng đô ở Phú Xuân; nhưng công trình xây cất được mở rộng hơn. Kinh thành Huế bắt đầu xây dựng năm 1805, chiếm đất của 6 làng: Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Thái, An Vân, An Hòa, Thế Lợi, An Bửu. -Nguyên ủy chữ Huế
Cuộc hành trình vào Nam của Nguyễn Hoàng, giòng họ và binh lính không chỉ làm cho cuộc sống thay đổi mà cả đến phong tục tập quán của người miền Bắc di dân cũng đổi thay. Tiếng nguyên thủy của người miền Bắc khi sống trên mảnh đất miền Trung bị pha trộn với tiếng nói của người miền núi Trường Sơn, hấp thụ tiếng “ri, mô, tê, răng, rứa” của người Chiêm Thành, dần dà tạo nên một thứ tiếng nói với giọng đặc biệt Huế. Lịch sử của chữ Huế phát sinh từ chúa Võ Vương muốn thay đổi từ chữ Hóa hay vì kỵ húy, tên vợ vua Minh Mạng là (Hồ thị) Hoa, thực tế không có bằng chứng chắc chắn.
Học giả Thái Văn Kiểm cho rằng chữ Huế có thể chứng minh qua các dữ kiện ngôn ngữ và tự điển sau đây:
1-Trên bản đồ “Carte du Tonkin et de l’ Annam của Alexandre de Rhodes”, in năm 1653, có ghi “Province de Thoanoa”. Thoanoa tức là Thuận Hóa. Trong vài hồi ký của ông đã thấy ghi chữ Huế.
2-Trên bản đồ “An Nam Đại Quốc Họa Đo” kèm theo quyển Tự Vị “Dictionarii Latino – nnamitici” (tome II) của L. Taberd ấn hành năm 1838 tại Serampore (Ấn Độ), chúng ta thấy ghi: Phủ Thừa Thiên Quảng Đức – Huế? Đó là lần đầu tiên, ta thấy tên Huế xuất hiện trong tự điển.
3-Trong quyển Tự Vị Dictionarium Annamitici – Latinum (tome I) của hai vị Giám mục Pigneau de Béhaine (Évêque d’ Adran) và L. Taberd ấn hành năm 1838 tại Seramporei Ấn Độ), chúng ta thấy ghi như sau:
Huế: Province regia Cocincinae
Thuận Hóa: -id-
Chè Huế: Theum illius provincae.
Trước và sau Alexandre de Rhodes, đã có nhiều linh mục phiên âm chữ Hóa:
-Sinoa: xứ Hóa, tức Thuận Hóa (Joao Roiz, 162)
-Sinuua: xứ Hóa (Christoforo Borri, 1621)
-Sinua: xứ Hóa (Alexandre de Rhodes, mai 1631). Chữ Huế cũng có thể viết chữ Nho với chấm thảo.
4-Jean Baptiste Chaigneau mà vua Gia Long đã phong là Đức Thắng Hầu, đã lấy vợ Việt Nam tên là Benotte Hồ thị Huệ, quê ở quán Phủ Cam (Thừa Thiên). Bà sinh mười một người con: trưởng nam là: Michel Đức Chaigneau (25-06-1803) sinh trưởng ở Huế, có viết một thiên ký sự nhan đề Souvenirs de Huế, ấn hành năm 1867 ở Paris, trong đó ông kể lại rất nhiều kỷ niệm thời thơ ấu nơi cố đô Huế, hồi đầu thế kỷ XIX.
5-Vốn là Hoàng hậu, vợ vua Minh Mạng, nhũ danh là Hồ Thị Hoa, con gái ông Hồ Văn Vui, tức Bôi, vị quan coi tàu ngựa của vua Gia Long. Năm Bính Dần 1806, vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu lựa con gái công thần Hồ Văn Vui làm phối thất cho Thái tử Đởm, sau này lên ngôi là vua Minh Mạng. Gia đình họ Hồ quê quán ở Thủ Đức (Nam Việt)… Theo Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện sơ tập bà Hoa có nhiều đức tính: thục, thuận?, hiền, trinh, hết đạo hiếu kính với cha mẹ và người trên. Vua Gia Long ngợi khen, bèn đặt tên là Thật (hay Thiệt). Vua dậy rằng: Phi nguyên tên là Hoa, hoa thì chỉ nghe thơm mà thôi, chi bằng chữ Thật (Thiệt) là gồm cả quả phúc.
Tháng 5 năm Đinh Mão 1807, bà hạ sinh Hoàng tử Miên Tông (sau này là vua Thiệu Trị), sinh được 13 ngày thì bà bị sản hậu mà băng hà, hưởng dương 17 tuổi. Vua Gia Long, Thái tử Đởm và Hoàng gia thương tiếc vô cùng. Vì Húy tên bà mà tên gọi Hoa phải đổi thành Huê, Bông, Ba. Ví dụ như: cửa Đông Hoa cải gọi là Đông Ba, cầu Hoa gọi là cầu Bông, v.v.. Rồi có lẽ chữ Hóa (đọc na ná như Huế) cũng thành chữ húy, cũng như chữ Thật phải đọc thiệt, chữ Anh phải đọc Yêng (Yêng mình đi mô rứa?) để tránh tiếng Ánh là tên của vua Gia Long.”
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy các bằng chứng qua ngôn ngữ và tự điển của các linh mục và giám mục Tây phương chỉ là sự kiện ghi lại trên thực tế tên kinh đô mà người dân quen gọi. Nhưng văn bản nào xác nhận có Quyết định chính thức đặt tên hay đổi tên Thuận Hóa (hay Hóa) thành Huế về phía vương quyền Việt Nam dưới triều Nguyễn thì vẫn chưa chứng minh được. Chúng tôi chưa sưu tầm được các văn bản hành chánh do triều Nguyễn ban hành Quyết định đặt tên kinh đô hoặc công văn gửi cho các quan địa phương hay cho chính phủ Pháp, trên đó ghi nơi gửi là Phú Xuân, Thừa Thiên hay Thuận Hóa hoặc Huế ngày... tháng … năm nào?
Kế đến, triều đình, các quan và dân chúng kỵ húy tên vợ vua Minh Mạng là Hoa nên gọi là Huế thì chỉ bắt đầu vào thời vua Minh Mạng, còn thời Gia Long, Thiệu Trị thì sao? Nếu các vua trước đã đặt tên cho kinh đô là Phú Xuân hay Thuận Hóa, ai dám cản hay không tuân hành lệnh. Nếu vua Minh Mạch đổi tên kinh đô thì văn bản nào xác định được biến cố này?
(Nếu quí độc giả và học giả có các dữ kiện liên quan đến vấn đề này, kính xin sao cho chúng tôi một bản gửi về tòa soạn Dân Chúa Âu Châu để làm tài liệu nghiên cứu. Xin đa tạ.)
III-Kinh Thành Huế
Kinh thành Huế được xây dựng gần 30 năm (từ 1803 đến 1832), là một dãy thành lũy cao 6,60m, dày 21m, chu vi gần 9.000m. Trên mặt thành ngày xưa có tới 24 pháo đài. Bên ngoài, dọc theo bờ thành có hào sâu bảo vệ. Kinh thành liên lạc với bên ngoài qua 8 cửa trổ theo 8 hướng: Chính Đông, Chính Tây, Chính Nam, Chính Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam. Ngoài ra hai bên Kỳ Đài còn có hai cửa Thể Nhơn, Quảng Đức và hai cửa bằng đường thủy ở hai đầu sông Ngự Hà là Đông Thành Thủy Quan và Tây Thành Thủy Quan. Phía Hoàng Thành ở góc đông bắc có một thành nhỏ, thời Gia Long gọi là Thái Bình, đến thời Minh Mạng đổi thành Trấn Bình Đài có chu vi gần 1km, bên ngoài có hào rộng ăn thông với hào của Hoàng Thành.
Theo nguyên tắc địa lý phong thủy của Đông Phương và thuyết âm dương-ngũ hành của Dịch học. Kinh thành quay mặt về hướng Nam, dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng 2 hòn đảo nhỏ trên sông Hương (Cồn Hến - Cồn Dã Viên) làm Rồng chầu Hổ phục (Tả Thanh Long - Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ đế đô. Dòng Sông Hương chảy ngang trước mặt dùng làm Minh Đường. Bốn mặt kinh thành đều được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi gọi là sông Hộ Thành.
Ở trong lòng Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành được gọi chung là Đại Nội. Hoàng Thành được xây dựng để bảo vệ các cơ quan lễ nghi và chính trị quan trọng nhất của triều đình và các điện thờ. Tử Cấm thành bảo vệ nơi làm việc, ăn ở và sinh hoạt hàng ngày của nhà vua và gia đình…
Được xây dựng từ 1804-1833, Đại Nội có mặt bằng theo hình gần vuông, mặt trước và mặt sau dài 622m, mặt trái và phải 604m. Xung quanh thành xây bằng gạch (cao 4,16m, dày 1,04m), bên ngoài có hệ thống hộ thành hào, gọi là Kim Thủy Hồ, để bảo vệ thành. Mỗi mặt trổ một cửa để ra vào: Ngọ Môn (trước), Hòa Bình (sau), Hiển Nhơn (trái), Chương Đức (phải). Cửa chính của Ngọ Môn chỉ dành cho vua đi mà thôi.
-Từ Ngọ Môn đến Điện Thái Hòa là nơi cử hành các lễ lớn của triều đình.
-Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và Điện Phụng Tiên là nơi thờ các vua chúa nhà Nguyễn.
-Cung Diên Thọ và Cung Trường Sanh là nơi ở của Hoàng Thái Hậu và Thái Hoàng Thái Hậu.
-Phủ Nội Vụ là nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng hoàng gia.
-Vườn Cơ Hạ và Điện Khâm Văn là nơi các Hoàng tử học tập và chơi đùa.3.1-Tử Cấm Thành: Có mặt bằng cũng gần vuông, cao 3,7m, mặt trước và sau dài 324m; mặt trái và phải dài 290m. Quanh thành trổ 10 cửa. Đại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua ra vào, hiện nay đã hư hại hoàn toàn. Bức bình phong to rộng dăng ngang sau lưng điện Cần Chánh (nơi vua làm việc hàng ngày) là
dấu hiệu cho biết thế giới sau đó chỉ dành riêng cho vua và gia đình. Trong đó có hàng trăm cung nữ và hàng chục thái giám thường trú để phục vụ hoàng gia. Trong khu vực này có gần 50 công trình kiến trúc vàng son lộng lẫy bao gồm: điện Càn Thành (nơi vua ở), điện Khôn Thái (nơi vợ chính vua ở),
Duyệt Thị Đường (nhà hát), Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua), Thái Bình Lâu (nơi vua đọc sách), điện Quang Minh (nơi ở các hoàng tử), điện Trinh Minh (nơi các hoàng hậu ở), điện Kiến trung, vườn Cẩm Uyển...3.2-Ngọ Môn: Vừa là cổng chính, vừa là bộ mặt Đại Nội, được vua Minh Mạng xây dựng vào năm 1833. Ngọ Môn là một tổng thế kiến trúc đa dạng, phía trên là lầu Ngũ Phụng với chức năng như một lễ đài, dùng để tổ chức một số lễ nghi trọng thể như duyệt binh, lễ xướng tên những người thi đỗ tiến sĩ, lễ ban sóc hàng năm và đây cũng là nơi diễn ra lễ thoái vị của vua Bảo Đại - vị vua cuối cùng của Việt Nam vào ngày 30/8/1945.
Theo kinh dịch thì các vị vua bao giờ cũng quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ. Thời Gia Long (1802-1819), khi xây dựng kinh đô Huế, các nhà kiến trúc đã cho hệ thống thành quách và cung điện ở vào vị thế tọa càn hướng tốn (Tây Bắc - Đông Nam) cũng có nghĩa là hướng Bắc - Nam, thuộc Ngọ trên trục Tý – Ngọ. Minh Mạng đã đặt tên cho chiếc cổng mới xây ở chính giữa mặt trước hoàng thành là Ngọ Môn, thay cho tên cũ là Nam Khuyết đài.3.3-Điện Thái Hòa: là công trình kiến trúc quan trọng nhất xét về nhiều mặt: chức năng, vị trí, ý nghĩa lịch sử, giá trị văn hóa nghệ thuật. Điện Thái Hòa là địa điểm sinh hoạt quan trọng nhất của triều đình nhà Nguyễn. Đây là nơi diễn ra các lễ đại triều hàng tháng (vào ngày 1 và 15 âm lịch) hoặc các đại lễ khác như lễ Đăng Quang (vua lên ngôi), lễ Vạn Thọ (sinh nhật vua), lễ Hưng Quốc Khánh Niệm... với sự tham gia của vua, hoàng thân, quốc thích và các vị đại thần. Về lịch sử xây dựng ngôi điện này, có thể chia làm ba thời kỳ chính, trong mỗi thời kỳ đều có một số thay đổi, cải tiến về kiến trúc trang trí,...
Trên mái điện, người ta đắp nổi 9 con rồng với một nghệ thuật cực kỳ tinh xảo. Cuối gian giữa của chính điện là ngai vàng được chạm khắc công phu, phía trên là bửu tán được trang trí cực kỳ lộng lẫy. Tám mươi cây cột gỗ lim khá lớn đều vẽ hình rồng vờn mây, màu vàng son rực rỡ.3.4-Ngai Vàng: Phía trước Điện Thái Hoà là sân Đại Triều, hồ Thái Dịch và cầu Trung Đạo. Sân Đại triều chia làm 3 tầng, là nơi dành cho các quan từ nhất phẩm đến cửu phẩm sắp hàng làm lễ. thứ tự các quan được đánh dấu bởi hai hàng phẩm sơn (bia đá nhỏ) dựng ở hai bên sân.3.5-Thế Miếu: Năm 1804, Gia Long cho xây dựng miếu Hoàng Khảo ở vị trí của Thế Miếu ngày nay để thờ cha mình là Nguyễn Phúc Luân. Đến năm 1821 Minh Mạng đã cho dời miếu Hoàng Khảo về phía sau vài chục mét, đổi thành Hưng Miếu, còn xây Thế Miếu lên vị trí ấy (từ 1821-1822) để thờ vua Gia Long và các vua kế vị. Thế Miếu được xây dựng trên mặt bằng 1.500m2, cho đến giữa thế kỷ này (1954) chỉ có 7 án thờ của các vua: Gia Long (1802-1819); Minh Mạng (1820-1840); Thiệu Trị (1841-1847); Tự Đức (1848-1883); Kiến Phúc (1883-1884); Đồng Khánh (1886-1888); Khải Định (1916-1925). Ba ông vua Hàm Nghi (1884-1885); Thành Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-1916) có tinh thần chống Pháp bị triều đình Huế liệt vào hạng xuất đế nên không được đưa vào thờ ở đây. Đến 10/1958, ba vị vua này mới được đưa vào thờ phụng ở Thế Miếu.3.6-Hiển Lâm Các: xây dựng một lần với Thế Miếu từ 1821-1822 (thời vua Minh Mạng), trên khối nền cao hình chữ nhật, từ dưới bước lên mặt nền trước sau có 9 bậc. Hiển Lâm Các được kiến trúc bằng gỗ theo hình thức cao tầng, chức năng chính được xem như là đài kỷ niệm ghi nhớ công lao các vua triều Nguyễn thờ ở Thế Miếu và các đại thần có công thờ ở hai bên Tả Tùng Tự và Hữu Tùng Tự.3.8-Cung Diên Thọ:
Cung Diên Thọ gồm có hơn 10 tòa nhà được bố trí trong khuôn viên tường thành bao bọc hình chữ nhật rộng khoảng 100m, dài gần 150m. Tòa nhà chính nằm giữa dành làm nơi mẹ vua nghỉ và tiếp khách. Ở đây nay chỉ còn cung Diên Thọ, điện Thọ Ninh, tạ Trường Du, am Phước Thọ và lầu Tịnh Minh. Cung Diên Thọ được xây dựng từ năm 1804 và qua nhiều lần đổi tên. 3.7-Phủ Vân Lâu: được xây dựng vào năm 1819 dưới thời vua Gia Long, dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức. Năm 1829, vua Minh Mạng dùng nơi đây làm địa điểm tổ chức cuộc đấu giữa voi và hổ, năm 1830 ông lại tổ chức cuộc vui chơi yến tiệc suốt 3 ngày để mừng sinh nhật của mình. Phủ Văn Lâu là ngôi nhà hai tầng duyên dáng, quay mặt về hướng nam.
Dưới thời vua Thiệu trị, triều đình cho dựng ở hai bên hai tấm bia đá khắc 4 chữ “khuynh cái hạ mã”, nghĩa là ai đi qua đều phải cởi mũ và xuống đi bộ. Phía trước mặt Phủ Văn Lâu là một ngôi nhà nằm kế bên sông Hương gọi là Nghinh Lương Đình. Đây là nơi dùng để các vua tắm sông, hóng gió, ngắm cảnh.3.8-Văn Miếu: Lập ra để tôn vinh các thánh hiền của đạo Nho, đồng thời là nơi đào tạo nhân tài của đất nước. Khởi công xây dựng từ 17:4:1808 đến 12:9:1808 tại một ngọn đồi thấp phía trên chùa Thiên Mụ sát tả ngạn sông Hương.
Văn Miếu quay về hướng Nam tọa lạc trên một mô đất hình vuông, mỗi cạnh chừng 160m, xung quanh có la thành bao bọc. Tất cả chừng 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ, trong đó có 32 tấm bia khắc tên, tuổi, quê quán của 239 vị tiến sĩ của các kỳ thi được tổ chức dưới triều Nguyễn và 4 tấm bia khác. Văn Miếu đã nhiều lần được tu sửa, xây dựng thêm các công trình phụ nhất là dưới thời vua Minh Mạng,
Thiệu Trị. Từ thời Minh Mạng về sau mở các khoa thi Hội nên bắt đầu dựng bia tiến sĩ từ 1831-1919. Hơn nửa thế kỷ nay, chiến tranh và thiên nhiên đã tàn phá, Văn Miếu trở thành nơi hoang phế, điêu tàn, vừa qua được tiến hành trùng tu lại với nỗ lực giữ gìn sự tồn tại những di tích có giá trị về nghệ thuật, văn hóa và lịch sử.3.9-Quốc Tử Giám: là trường Đại học quốc gia ngày xưa do triều đình mở ra để đào tạo nhân tài. Ở nước ta, Quốc Tử Giám đầu tiên đã được thành lập vào năm 1076 tại Kinh đô Thăng Long. Dưới thời Gia Long, cùng với việc xây dựng Văn Miếu ở vị trí phía trên chùa Thiên Mụ, trường Quốc Tử Giám cũng được lập ra ở đó. Sang thời Minh Mạng, số lượng người đi học ngày càng đông, quy mô trường ngày càng được mở rộng.3.10-Đàn Nam Giao: được xây dựng vào năm 1806 thời vua Gia Long, là nơi triều đình và nhà vua làm lễ tế trời. Đàn cách Kinh thành Huế khoảng 4km về phía Nam. Đàn gồm 3 tầng, quay mặt về hướng Nam. Tầng thứ nhất hình vuông, màu đỏ, tượng trưng cho người. Tầng thứ hai gọi là Phương đàn cũng hình vuông, màu vàng, tượng trưng cho đất. Tầng thứ ba hình tròn, gọi là Viên đàn, màu xanh, tương trưng cho trời. Kiểu kiến trúc này phản ánh quan niệm về vũ trụ Đông phương: Trời tròn, Đất vuông. Chung quanh đàn Nam Giao, còn nhiều ngôi nhà: Trai Cung (nơi nhà vua ở và chay tịnh khi làm lễ tế trời), Thần Trù (nhà bếp), Thần Khố (nhà kho)... và trồng nhiều thông. Lễ tế trời ở Đàn Nam Giao là một đại lễ, được tổ chức mỗi năm một lần, kéo dài tới 3 ngày (từ thời vua Gia Long đến thời vua Đồng Khánh). Từ sau đời vua Thành Thái (1889-1907) đến năm 1945, ba năm mới tiến hành lễ tế trời một lần. Thời Bảo Đại (1926-1945), lễ tế trời rút lại chỉ còn một ngày.
(Tài liệu nghiên cứu cho chủ đề Huế và miền Trung đúc kết từ các trang Website nói về cố đô Huế và Tự điển Địa danh Văn hóa và Thắng cảnh VN - NXB/KHXH)
Nói về Cố Đô Huế, kinh thành của một triều đại đã qua, tưởng cũng nên ngược giòng lịch sử để nhắc lại những nhân vật và biến cố đã làm thành cố đô như ta thấy ngày nay, với bao di tích lịch sử được thế giới công nhận là di sản văn hóa của nhân loại.
Nguyễn Kim tức là Đức Triệu Tổ Tịnh Hoàng Đế khai sáng ra Nguyễn Triều và lập thành Hệ Nhất (1). Ngài sanh năm 1468 mất năm 1545, thọ 77 tuổi. Ngài sanh hạ được hai vị hoàng tử: Nguyễn Uông tức là Tả Tướng Lạng Quận Công và Nguyễn Hoàng tức là Đức Thái Tổ Gia Dủ Hoàng Đế và Công chúa Ngọc Bảo.
Sử sách truyền lại: nhà Lê được hưng thịnh là nhờ công lao của Nguyễn Kim, không may Nguyễn Kim bị tướng lãnh nhà Mạc đánh thuốc độc chết (1545) nên quyền bính triều Lê thuộc về Trịnh Kiểm, con rể của Nguyễn Kim, chồng Công chúa Ngọc Bảo.
Trịnh Kiểm lo sợ hai người con của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng sẽ dành quyền kế nghiệp cha, bèn tìm cách giết chết Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng phải giả điên để khỏi bị nghi kỵ. Cậu ruột của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Ư Dĩ lo sợ bèn ra Hải Dương tìm gặp Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để vấn kế. Trạng Trình trả lời ngắn gọn: Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân (nghĩa là: một dãy Hoành Sơn, có thể an thân đến muôn đời)
Nguyễn Hoàng hiểu ý nên nhờ chị là Công Chúa Ngọc Bảo xin anh rể cho mình vào trấn giữ đất Thuận Hóa và được Trịnh Kiểm chấp thuận.
Được lệnh vào Nam (1558), bất chấp đang mùa đông giá rét, Nguyễn Hoàng giong buồm đi ngay cùng một số nghĩa quân. Khi đoàn thuyền đi ngang Thanh Nghệ Tĩnh, nhiều người hưởng ứng đem cả vợ con theo ngài. Đến Cửa Việt ngài đổ bộ lên bờ và dựng dinh thự ở Ái Tử, thuộc huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị.
Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, nhân hậu, lưu tâm đến dân tình, hết lòng thu dụng hào kiệt, giảm sưu, hạ thuế, khiến lòng người ai cũng mến phục. Nhân dân xưng tụng ngài là Chúa Tiên hay Tiên Chủ. Để tránh sự nghi kỵ của chúa Trịnh, năm 1569 ngài ra chầu vua Lê ở An Trường, việc làm nầy tăng thêm tín nhiệm tại triều đình nên năm 1570 Chúa Tiên được giao trấn thủ luôn đất Quảng Nam, ảnh hưởng chính trị của ngài lan rộng từ Thuận Hóa đến Quảng Nam.
Với cương vị mới, Nguyễn Hoàng cho dời dinh vào Trà Bát cũng thuộc huyện Đăng Xương, Quảng Trị. Năm 1572 tướng Lập Bạo của nhà Mạc theo đường biển, đem quân vào định triệt hạ sự nghiệp của Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hoàng dùng kế mỹ nhân phá được âm mưu của Lập Bạo và đánh tan được quân nhà Mạc. Năm 1593 Nguyễn Hoàng lại đem quân ra Đông Đô giúp Trịnh Tùng đánh dẹp dư đảng họ Mạc. Vì lập được nhiều chiến công nên ông lại bị Trịnh Tùng nghi ngại, nảy ý hãm hại nên năm 1600 Nguyễn Hoàng bỏ trốn về Thuận Hóa. Từ đó ngài trị vì từ Thuận Hóa đến Quảng Nam trong vòng 55 năm.
Thuận Quảng (Thuận Hóa-Quảng Nam) vốn là đất cũ của vua Chiêm, chịu ảnh hưởng văn hóa Chiêm Thành và hầu hết theo Phật giáo. Chúa Tiên vốn là phật tử thuần thành nên ngài cho xây dựng và trùng tu nhiều ngôi chùa và bành trướng tinh thần hiếu hòa của Phật Giáo trên mọi tầng lớp nhân dân. Đáng kể nhất là việc Chúa Tiên cho xây chùa Thiên Mụ (1601), ngôi chùa này nổi tiếng cho đến ngày nay vì quan hệ mật thiết với quá trình phát triển đất Thuận Hóa và Triều Nguyễn tại Việt Nam. Một điều đặc biệt là trong lúc Chúa Tiên sùng mộ Phật giáo thì bà Minh Đức Vương Thái Phi (tức là Vương Phi của Chúa Tiên, mẹ của người con thứ mười của Chúa Tiên là Nguyễn Phúc Khê) lại theo Thiên Chúa giáo do linh mục Phanxicô de Pina, người Bồ Đào Nha rửa tội cho bà.
Tương truyền một hôm Chúa Tiên đi dạo xem hình thế núi sông, thấy ở giữa cánh đồng xã Hà Khê, huyện Hương Trà, nổi lên một gò cao có dáng dấp đầu con rồng quay lại, soi bóng xuống mặt nước của một con sông lớn và đẹp. Chúa dừng chân, tìm người địa phương hỏi chuyện. Dân địa phương thưa: Gò ấy rất thiêng. Khi xưa có người nằm mơ thấy một bà già mặc áo đỏ, quần xanh ngồi trên đỉnh gò dạy rằng: sẽ có một vị chân chủ đến dựng nghiệp ở đây, để tụ khí thiêng cho bền long mạch. Nói xong bà già biến mất. Vì sự tích ấy mà cái gò có tên Thiên Mụ (Bà Trời).
Chúa Tiên nghe chuyện, cho rằng gò ấy có linh khí và chân chủ ấy chính là mình, liền xuất tiền cho xây chùa vào năm 1601 và đặt tên Chùa Thiên Mụ, từ đó ghi lại dấu ấn trong suốt chiếu dài lịch sử nhà Nguyễn. Khi đến vãn chùa, ta đừng quên chiêm ngắm chiếc khánh đồng đại hồng chung Bình Trung Quang đời Nguyễn Phúc Tần. Bia đá lớn dựng trên lưng rùa đời Nguyễn Phúc Chu, thủ bút 4 chữ Linh Thứu Cao Phong. Còn bức hoành Linh Mụ Tự đời Tự Đức.
Năm 1613, biết mình không thể sống lâu hơn nữa, Chúa Tiên cho triệu hoàng tử thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên (2) đang làm trấn thủ Quảng Nam ra và họp các Sĩ Vương lại. Trước khi lâm chung ngài căn dặn các Sĩ Vương rằng:
"Ta với các ngươi cùng nhau cam khổ đã lâu mới dựng nên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ngươi nên đồng lòng giúp đỡ cho thành công nghiệp "
Rồi ngài nói với Nguyễn Phúc Nguyên:
«Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, anh em trước hết phải thương yêu nhau. Con giữ được lời dặn đó thì ta an lòng. Đất Thuận Quảng phía bắc nhờ Hoành Sơn và Linh Giang hiểm trở, phía nam cậy Hải Vân và Bí Sơn ổn cố. Núi sẵn kim khí, biển sẵn cá muối, thật là nơi Trời để cho anh hùng dụng võ. Vậy con phải thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ để gầy dựng sự nghiệp muôn đời».
Nói xong, Chúa băng hà, thọ 88 tuổi. Từ lời trối trăng đó, các chúa Nguyễn về sau gầy dựng miền này trở thành kinh đô của phương Nam, rồi trở thành kinh đô của cả nước khi Nguyễn Phúc Ánh tức là vua Gia Long lập nên triều đại mới, tiếp nối sự nghiệp nhà Nguyễn kéo dài gần 400 năm (1558-1945) gồm có chín đời Chúa và mười ba đời Vua. Vị vua đầu tiên là Thế Tổ Cao Hoàng Đế húy Nguyễn Phúc Ánh, con thứ ba của Nguyễn Phúc Côn - Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế. Ngài sinh ngày 15 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (08.02.1762). Khi Đức Hưng Tổ mất ngài mới 4 tuổi, vị Chúa cuối cùng là Đức Duệ Tông đem về nuôi ở trong cung (3). Lúc ngài 13 tuổi gặp loạn năm Giáp ngọ (1774) quân Trịnh tấn công Thuận Hóa, ngài theo Đức Duệ Tông vào Quảng Nam, năm sau đến Gia Định. Đức Duệ Tông giao cho ngài giữ chức Chưởng sứ, mặc dầu tuổi còn nhỏ nhưng đầu óc rất sáng suốt, mỗi khi có việc quân thường được mời bàn tính và các tướng rất bái phục.
Năm Đinh dậu (1777) Sài Côn (Saigon) bị quân Tây Sơn chiếm, Đức Duệ Tông bị giết hại, Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát và lánh mình ở đảo Thổ Châu, rồi trở về tập hợp các tướng sĩ khởi binh ở Long Xuyên đánh lấy Sài Côn. Các tướng tôn ngài làm Đại Nguyên Súy Nhiếp Chính Quốc, lúc ấy ngài mới 17 tuổi.
Năm Canh tý (1780) tướng sĩ tôn ngài lên ngôi vương ở Sài Côn, dùng ấn Đại Việt Quốc Nguyên Chúa Vĩnh Trấn Chi Bửu. Từ năm 1782-1786 quân Tây Sơn nhiều phen đánh phá Gia Định, cố tâm hại cho được ngài. Ngài thất trận nhiều lần, có lúc bị vây ở Côn Lôn, có lúc trốn ra Phú Quốc rồi qua Xiêm đến hai lần, cuối cùng ngài gởi Hoàng Tử Cảnh theo Giám Mục Bá Đa Lộc tức là Giám Mục Pierre Pigneau de Behaine sang Pháp cầu viện. Đức Giám Mục Bá Đa Lộc thay mặt Thế Tổ ký với De Montmorin Thượng Thư Bộ Ngoại Giao Pháp đại diện Pháp Hoàng tức là vua Louis XVI hòa ước gọi là Hòa Ước Versailles vào ngày 28.11.1787. Nhưng cho đến năm 1788 Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Ấn Độ tuy được toàn quyền giúp Thế Tổ vẫn trì hoãn không đưa quân qua giúp. Sang tháng 10 năm 1789 Tham Chính Viện Pháp (Conseil d’État) bác bỏ việc thi hành hiệp ước, vì lúc bấy giờ nước Pháp đang trong thời kỳ dầu sôi lửa bỏng sau cuộc cách mạng lật đổ vương triều Louis XVI.
Năm Đinh Mùi (1787) Thế Tổ trở về Long Xuyên, các tướng giỏi và nghĩa quân theo ngài rất đông nên thế lực mạnh dần. Tháng 8 năm Mậu Thân (1788) lấy thành Gia Định, năm Canh Tuất (1790) chiếm lại Bình Thuận và từ đó ngài tiến dần về phương Bắc. Tháng 5 năm Tân Dậu (1801) tiến quân vào cửa Tư Hiền, đến tháng 6 năm (1801) thu phục lại Kinh đô cũ. Tháng tư năm Nhâm Tuất (1802) ngài cho trùng tu Hoàng thành, qua ngày mồng một tháng năm cho lập đàn ở xã An Ninh (Kim Long, Hương Trà, Thừa Thiên) hiệp tế trời đất về việc đặt niên hiệu, hôm sau ngày mồng hai tháng năm tức là ngày 1.6.1802 vua ngự ở điện nhận lễ triều hạ, đặt niên hiệu Gia Long, ban lệnh đại xá khắp nước. Sau đó ngài cho dựng Thái Tổ Miếu (Thế Miếu) ở bên trái Hoàng thành để làm nơi thờ cúng các tiên đế.
Qua tháng 6 ngài đưa quân ra Bắc tiểu trừ tàn quân Tây Sơn. Đến ngày 21.6.1802 xa giá tiến vào Thăng Long hoàn thành việc thống nhất sơn hà. Sau đó ngài ban dụ cho các cựu thần nhà Lê cùng kẻ sĩ Bắc Hà đến triều kiến, tùy theo tài năng mà bổ dụng. Ngài đến viếng miếu thờ vua Lê Thái Tổ, sắc phong cho con cháu nhà Lê và họ Trịnh. Đến tháng 10 ngài vào Thanh Hóa viếng lăng miếu Đức Triệu Tổ Tịnh Hoàng Đế tức là Nguyễn Kim. Trở về Thuận Hóa, ngài làm lễ tế trời đất và bắt đầu sửa sang mọi việc triều chính.
Tháng giêng năm Giáp Tý (1804) ngài làm lễ nhận tuyên phong của nhà Thanh, qua tháng 2 đổi quốc hiệu là Việt Nam và mãi đến năm Bính Dần (1806) ngài mới làm lễ lên ngôi Hoàng đế ở điện Thái Hòa.
Sau khi lên ngôi, lập tức ngài lo việc chấn hưng văn hóa và tuyển mộ nhân tài. Ngài cho dựng Văn Thánh tại làng An Ninh nằm về phía tây kinh thành và các doanh trấn để thờ Khổng Tử. lập Quốc Tử Giám ở Kinh đô để dạy các sĩ tử ưu tú. Năm Đinh Mão (1807) mở khóa thi Hương đầu tiên của triều Nguyễn, khóa này có 61 sĩ phu đỗ Hương Cống (đời Minh Mạng đổi thành Cử Nhân) được niêm yết tại Phu Văn Lâu. Lập lại trật tự xã hội, ngài truyền lệnh cho Tiền quân Bắc thành Tổng trấn Nguyễn văn Thành « lấy luật lệ của các triều đại nước ta làm căn bản, tham chiếu luật Hồng Đức và luật Thanh triều » (lời tựa của Vua Gia Long) làm thành bộ Hoàng Việt Luật Lệ (hoàn tất năm 1811). Xây dựng kinh tế và quốc phòng, ngài tiếp tục sự nghiệp của các chúa Nguyễn, đẩy mạnh việc khai hoang, cho đào kênh Thoại Hà và kênh Vĩnh Tế, vừa là hệ thống thoát nước và dẫn thủy nhập điền cho việc canh tác, vừa là trục giao thông liên lạc lại vừa đảm bảo việc quốc phòng. (Khuôn khổ bài này không cho phép khai triển thêm sự nghiệp phát triển đất nước của vua Gia Long, xin dành lại vào một dịp khác). Công nghiệp thống nhất quốc gia của Hoàng Đế Gia Long đã được sử sách tóm lược như sau: Trước khi lên ngôi, vua Gia Long đã có 26 năm nằm gai nếm mật không những để khôi phục lại sự nghiệp của các chúa Nguyễn ở xứ đàng trong mà còn thống nhất đất nước từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mâu. Trong 26 năm chiến đấu ấy tỏ rõ đức nhẫn nại, giàu ý chí, không ngại gian khổ hiểm nguy, thu phục được nhân tâm để thực hiện lý tưởng của mình. Ngài cũng là người đầu tiên xử dụng phương tiện tàu chiến và súng lớn, kỹ thuật khoa học quân sự và các chuyên viên phương tây như: J.B. Chaigneau, Vannier, de Forcant….
Điểm nổi bật hơn cả là ngài đã thu phục được lòng người Nam kỳ. Nhân tài vật lực của Nam kỳ giúp ngài chiến thắng và làm điểm tựa vững chắc cho ngài trong việc xây dựng triều Nguyễn sau này.
Sau khi thắng Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh trở về đất Phú Xuân, đóng đô trên gò Dương Xuân, trước ga Huế ngày nay. Ngài sai Nguyễn văn Yên với sự giúp đỡ của các chuyên gia phương Tây, phá hết thành quách cũ có từ thời Võ Vương, xây lại kinh thành Huế.
Tương truyền trước khi xây dựng Kinh Thành Huế, vua Gia Long đã đến chùa Thiên Mụ ở phía Tây đô thành Phú Xuân để cầu xin Trời Phật phù trợ cho mình trong việc chọn đất định đô. Một bà tiên già (tiên chủ Thiên Mụ Sơn) hiện ra và đưa cho nhà vua một nén nhang rồi bảo: « Tướng công hãy thắp nén nhang này lên, đi bộ xuôi giòng sông này về phía hạ lưu. Khi nào nhang cháy hết, đất dựng nghiệp đế vương của tướng công chính là nơi ấy ». Ngài làm y như lời bà tiên dạy, và nơi bó nhang cháy hết chính là thửa đất dựng nên Kinh Thành Huế sau này, lấy trục Ngự Bình-Hương Giang làm trục chính ở ngay trung tâm Cố Đô.
Trước hết ngài cho xây Kinh Thành, còn được gọi là Thành Nội hay Phòng Thành. Kinh thành khởi công từ năm 1805, hoàn chỉnh năm 1833 dưới thời Minh Mạng, rộng 520 mẫu, chu vi hơn 10 km. Thành xây bằng đất, bề ngang 24m, gồm mặt ngoài cao 6,6 m, mặt trong cao 5,5 m. Kinh thành là lớp thành ngoài cung, xây cất kiên cố để bảo vệ Hoàng cung bên trong. Các công trình kiến trúc thuộc về Kinh thành gồm có: Hồ Thành Hào, thành giai, phòng lộ, pháo nhãn, giác bảo, dược khố (kho thuốc súng), Kỳ Đài, Quan Tượng Đài và các cổng thành. Mặt trước Kinh Thành có một số kiến trúc tiêu biểu: Phu Văn Lâu, nơi niêm yết chiếu chỉ của nhà vua và danh sách các thí sinh đỗ tiến sĩ; Nghênh Lương Đình, nơi nghỉ mát của nhà vua và hoàng hậu; Thương Bạc Viện, cơ quan ngoại giao của triều đình. Bên trong Kinh thành là một loạt công trình kiến trúc bao gồm các trại lính, công thự, trường học, thắng cảnh như: Lục Bộ, Cơ Mật Viện, Quốc Tử Giám, điện Long An, Tôn Nhân Phủ, Quốc Sử Quán, Tàng Thơ Lâu, hồ Tịnh Tâm, đàn Xã Tắc. Theo linh mụcc Leopold Cadière trong khu vực Kinh thành có đến 307 địa danh di tích lịch sử.
Hoàng Thành, thường gọi là Đại Nội, xây dựng năm 1804 dưới triều vua Gia Long, năm 1833 vua Minh Mạng mới hoàn chỉnh. Hoàng Thành được xây theo hình vuông, diện tích gần 38 mẫu, tường thành dày 1m, cao 5m, thông thương với bên ngoài bằng bốn cửa: Ngọ Môn (phía nam), Hòa Bình (phía bắc), Hiền Nhân (phía đông), Chương Đức (phía tây). Hoàng Thành là trung tâm trị vì của vương triều Nguyễn, đặc biệt nằm giữa lòng Hoàng Thành là Tử Cấm Thành là nơi ăn chốn ở của nhà vua và hoàng gia, có 7 cửa ra vào, trong đó Đại Cung Môn ở phía nam là một công trình điêu khắc bằng gỗ được xem là cái cổng đẹp nhất trong Hoàng Thành. Bên trong Tử Cấm Thành là một loạt các công trình kiến trúc phục vụ cho việc trị vì: Cần Chánh Điện, Tả Vu, Hữu Vu; nơi ăn ở như: Càn Thanh Điện, Khôn Thái Cung, Kiến Trung Điện; nơi giải trí: Thái Bình Lâu, Dưỡng Tâm Điện, Ngự Uyển... Ngoài ra trong Hoàng Thành còn được chia ra nhiều khu vực như: Ngọ Môn, Đại Triều Nghi, Thái Hòa Điẹân; khu vực dành cho việc thờ cúng: Triệu Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu (4), Phụng Tiên Từ... khu vực ăn ở của Hoàng Thái Hậu, Thái Hoàng Thái Hậu: Diên Thọ Cung, Trường Sanh Cung; khu vực kho tàng va nơi ăn chơi, học tập của hoàng tử, công chúa: Nội Vụ Phủ, Cơ Hạ Viện, Khâm Văn Điện... Tiếc thay, thời gian và chiến tranh đã làm các di tích lịch sử bị tiêu hủy và hư hại rất nhiều.
Ngày 25.11.1981, sau chuyến viếng thăm Huế, Tổng Giám Đốc UNESCO lúc bấy giờ là ông Amadou Mahtar M. Bow đã kêu gọi quốc tế cứu vãn Cố Đô, nhằm bảo tồn và khôi phục các giá trị di sản văn hóa. Từ thời điểm này trở đi, việc bảo quản, trùng tu tôn tạo các di tích Huế bắt đầu vận hành đúng với quỷ đạo của nó. Quy ước về di sản thế giới khiến cho những hoạt động hướng về việc bảo tồn di tích Huế được xúc tiến mạnh mẽ trong những năm 1981 cho đến 1990. Ngày 27.7.1991, đạo luật về việc Bảo vệ và tu bổ những di tích lịch sử ở Huế của UNESCO được công bố, mở ra cho Cố Đô Huế một tương lai khả quan hơn, qua sự giúp đỡ, hướng dẫn của các chuyên gia do UNESCO cung cấp trong hai năm 1992 và 1993, bộ hồ sơ về quần thể di tích Cố Đô Huế đã được hoàn tất và đệ trình lên Hội Đồng Di Sản Thế Giới (HĐDSTG) thuộc UNESCO. Kết quả là ngày 11.12.1993 trong phiên họp tại Carthagene (Colombia), HĐDSTG đã ghi danh quần thể di tích Cố đô Huế vào Danh mục Di Sản Văn Hóa Thế Giới. Ngày 2.8.1994 ông Daniel Janicot Phó Tổng Giám Đốc UNESCO đã đến Huế trao cho đại diện chính quyền Tỉnh Thừa Thiên Huế tấm bảng công nhận có chữ ký của Tổng Giám Đốc UNESCO là ông Federico Mayor Zaragoza với dòng chử: " Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị toàn cầu, đặc biệt của một tài sản văn hóa hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại ". ---------------
Chú thích
(1) Hệ: trong Nguyễn Phước Tộc, chia thành từng Hệ từng Phòng để nhận biết bà con theo thứ bậc. Một ví Chúa hay vì Vua mở ra một Hệ cho hoàng tử nối ngôi, mỗi ông Hoàng mở ra một Phòng.
(2) Tương truyền: Bà Nguyễn Thị, vợ của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng nằm mơ thấy chữ Phúc rơi vào lòng lúc bà đang mang thai, bà mừng rỡ định lấy chữ Phúc đặt tên cho đứa con này, nhưng lại nghĩ: đặt tên thì chỉ có một người được hưởng phúc thôi, bèn lấy chữ Phúc làm chữ lót cho nhiều đời được hưởng phúc. Từ đó về sau con cháu Nguyễn Hoàng lấy chữ Phúc để lót, như: Nguyễn Phúc Nguyên. Sở dĩ Chúa Tiên truyền ngôi cho Nguyễn Phúc Nguyên là con thứ sáu, vì năm người con lớn một số đã mất, một số ở lại Bắc phò chúa Trịnh.
(3) Nguyễn Phúc Khoát tức là Võ Vương truyền ngôi lại cho con Nguyễn Phúc Côn, nhưng Trương Phúc Loan muốn chuyên quyền đổi di chiếu, đem con thứ 16 của Võ Vương tức là Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi, khi ấy mới 12 tuổi.
Nguyễn Phúc Thuần – Đức Duệ Tông Hiếu Định Hoàng Đế (1753-1777) thọ 24 tuổi, trị vì 12 năm (1765-1777), ngài chỉ sanh được một bà Chúa nên đem Nguyễn Phúc Ánh tức là con của Nguyễn Phúc Côn về làm con nuôi.
(4) Thế Tổ Miếu, còn gọi là Thế Miếu, được xây dựng từ năm Minh Mạng thứ hai (1981) để thờ các hoàng đế nhà Nguyễn bắt đầu từ đời Gia Long.
------------------
Tài liệu tham khảo:
- Việt Nam Sử Lược trọn bộ in lần thứ bảy 1964 Trần Trọng Kim.
- Nguyễn Phước Tộc Lược Biên 1995; Hội Đồng Hoàng Tộc Việt Nam Hải Ngoại.
- Công Nghiệp Thống Nhất Quốc Gia; Hội Đồng Hoàng Tộc Việt Nam Hải Ngoại của Hoàng Đế Gia Long 2002.
- Lịch Sử Giáo Phận Huế qua các Triều Đại Vua Chúa 1596-1945; 1993; Lm. Nguyễn Văn Ngọc và Lm. Nguyễn Văn Hội.
- Chín Đời Chúa - Mười Ba Đời Vua Nguyễn 2001 Nguyễn Đắc Xuân.
- Kiến Thức về Triều Nguyễn và Huế Xưa I Nguyễn Đắc Xuân.
- Kiến Thức về Triều Nguyễn và Huế Xưa II 2002 Nguyễn Đắc Xuân.
- HUẾ Triều Nguyễn một cái nhìn 2004 Trần Đức Anh Sơn.
BY: HOÀNG THẠCH
1- ĐÔI HÀNG VỀ THÂN THẾ SỰ NGHIỆP NGUYỄN HUỆ
Theo Việt Nam Sử Lược thì nguyên ông Tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ, cùng một Tổ với Hồ Quý Ly, người ở huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An; gặp lúc chúa Trịnh, chúa Nguyễn đánh nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây Sơn thuộc đất Qui Nhơn. Đến đời ông thân sinh là Hồ Phi Phúc dời nhà sang ở ấp Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn, sinh được ba người con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ. Anh em ông Nhạc muốn khởi loạn, mới lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ thu phục nhân tâm, vì rằng đất trong Nam vẫn là đất của chúa Nguyễn…
Để phá thành Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc bày mưu tự ngồi trong cũi, cho binh sĩ khiêng nộp cho quan Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên. Đến nửa đêm, Nguyễn Nhạc tháo cũi, mở cửa thành cho quân Tây Sơn tràn vào chiếm thành.
(Mưu của Nguyễn Nhạc giống như truyện cổ Hy Lạp "Con Ngựa thành Troy" của Homer)
Sau đó thế lực Tây Sơn ngày một mạnh, tiến chiếm Quảng Nam, Bình Thuận rồi Gia Định. Năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng đế đóng đô ở thành Đồ Bàn (Qui Nhơn), phong cho Nguyễn Lữ làm Đông-định-vương đóng ở Gia Định, Nguyễn Huệ Bắc-bình-vương đóng ở Thuận Hóa, lấy Hải-vân-sơn làm biên giới.
2- CHIẾN CÔNG CỦA NGUYỄN HUỆ
-Mới 23 tuổi, Nguyễn Huệ được anh cả Nguyễn Nhạc cử làm chủ tướng đem quân vào Nam đánh tan quân chúa Nguyễn, giết được hai tướng là Nguyễn Văn Hiền và Tống Văn Khôi.
-Tháng 3 năm 1777, Nguyễn Huệ mang thuỷ quân vào Gia Định, một lần nữa đánh bại cả hai cánh quân nhà Nguyễn.
-Tháng 9 năm 1777, Nguyễn Huệ mang quân bao vây tấn công Ba Việt, bắt sống Nguyễn Phúc Dương và toàn bộ quân tướng. Nguyễn Phúc Dương và 18 tướng tuỳ tùng bị đưa về Gia Định xử tội.
- Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức Nguyễn Nhạc mang quân thuỷ bộ Nam tiến, phá tan quân Nguyễn, giết chết cai cơ người Pháp là Manuel (Mạn Hoè). Nguyễn Ánh bỏ chạy về Hậu Giang.
-Tháng 2 năm 1783, Nguyễn Huệ mang quân Nam tiến. Dù Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước, vẫn bị quân Tây Sơn phá tan. Nguyễn Ánh bỏ chạy về Đồng Tuyên. Nguyễn Huệ đánh phá Đồng Tuyên, Nguyễn Ánh lại bỏ chạy ra Hà Tiên, rồi sau trốn ra đảo Phú Quốc. Nguyễn Huệ cho quân truy kích, nhưng vì bão làm cho cuộc hành quân bị trở ngại.-Trận Rạch Gầm - Xoài Mút 1784
Nguyễn Ánh đã nhiều lần xin Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) cầu viện người Pháp nhưng không thu được nhiều kết quả. Do đó, Nguyễn Ánh chuyển sang cầu viện Xiêm (Thái Lan). Vua Xiêm sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiếc thuyền sang giúp. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp (Căm Bốt) với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, thực chất với ý đồ tạo gọng kìm phía Tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn.
Mặc dù phải đương đầu với 3 vạn quân Trịnh đang rình rập ở phía Bắc, 3 vạn quân bộ của Xiêm chực chờ ở phía Tây và 2 vạn thủy quân Xiêm La ở phía Nam, nhưng sau khi vào Gia Định, Nguyễn Huệ cho bố trí trận địa và nhử quân Xiêm đến gần Rạch Gầm và Xoài Mút ở phía trên Mỹ Tho. Với chiến thuật lừa địch đi vào ổ phục kích, Nguyễn Huệ trong một ngày, chỉ đánh một trận, tiêu diệt toàn bộ 2 vạn thủy quân của Xiêm vào đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 (đêm 9 rạng 10 tháng 12 năm Giáp Thìn). -Tiêu diệt chúa Trịnh ở miền Bắc.
Với danh nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh”, Nguyễn Huệ sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm tiên phong bắc tiến. Quân Trịnh bị tan rã nhanh chóng. Tướng của họ Trịnh biết tin Phú Xuân thất thủ, khi nghe báo quân Tây Sơn đang trên đường tiến tới Thăng Long thì hoảng sợ bỏ trốn. Vì không được lòng dân nên khi chúa Trịnh bỏ thành Thăng Long chạy, bị dân bắt đem nộp cho Tây Sơn. Trên đường áp giải, Trịnh Tông tự sát. Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long ra mắt vua Lê Hiển Tông. Ngưỡng mộ tài danh của một trang hào kiệt, vua gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.-Tiêu diệt hơn 20 vạn quân Thanh xâm lược
Nói tới chiến sử, không người Việt Nam nào không nhớ một trong các chiến công rực rỡ nhất là trận Đống Đa. Cuộc hành quân trên con đường dài 654 cây số, bắt đầu vào ngày 25.11.1788, phát xuất từ Phú Xuân (Huế) tới Tam Điệp ngày 20.12.1988. Nguyễn Huệ cho nghỉ dưỡng quân, ăn Tết trước và cuộc giải phóng cố đô Thăng Long sẽ mở màn vào đêm Giao Thừa. Dưới sự thống lĩnh tài ba của Hoàng Đế Quang Trung, chỉ 5 ngày, từ đêm 30 tới ngày mùng 5 Tết, Thăng Long sạch bóng quân thù. Hơn 20 vạn quân Thanh trên các trận địa bị loại khỏi vòng chiến.
Các danh tướng của Tàu: Hứa Thế Hanh, Trương Sĩ Long, Thượng Duy Thăng đều tử trận tại Hà Hồi, Ngọc Hồi. Sầm Nghi Đống trấn thủ Đống Đa phải thắt cổ tự tử. Tổng Đốc lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) là Tôn Sĩ Nghị, Tổng Tư lệnh đoàn quân viễn chinh của bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quí Châu và Vân Nam ngự trị tại Thăng Long nghe tin ngoại thành thất thủ thì “kinh hồn bạt vía’’, sợ quá không kịp mang theo ấn tín, “chạy vắt giò lên cổ’’ trốn về Tầu. Vua Lê Chiêu Thống, kẻ “cõng rắn cắn gà nhà’’, thấy cái chết kề bên cổ cũng chạy thục mạng theo gót quân xâm lược. Dân Tầu sống gần biên giới Ải Nam Quan nghe tin quân mình thất trận hoảng hốt bỏ chạy về phương Bắc xa hàng trăm dặm.
Năm 1792, sau khi ổn định tình hình trong nước, Vua Quang Trung sai sứ sang Tàu ngỏ ý xin cầu hôn và xin trả lại đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây về cho Việt Nam. Nhưng kế hoạch đang diễn tiến tốt đẹp thì bất ngờ Ngài qua đời, làm vua được 4 năm, thọ 40 tuổi. Toàn bộ chương trình mở mang bờ cõi và phát triển đất nước bị bỏ dở.
2- CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA TRIỀU ĐẠI TÂY SƠN NGUYỄN HUỆ
2.1-Nhạc trống Tây Sơn
Xuất thân từ quê hương nổi danh về võ, nổi tiếng về tuồng hát Bình Định, vua Quang Trung rất ham văn chuộng võ và có tâm hồn nghệ sĩ. Ông đưa nhạc vào võ; dùng nhạc võ để xung trận qua những tiếng trống mà người ta gọi là nhạc trống, một hình thức quân nhạc thời trung cổ. Từ đó “Trống Tây Sơn’’ nổi danh trên đất nước và lưu truyền mãi cho tới ngày nay.
Trống Tây Sơn là dàn trống 16 chiếc lớn nhỏ. Khi đánh lên nghe thật hào hùng khích động, như hun đúc tinh thần chiến đấu và thúc giục quân lính lao vào trận chiến. Khi biểu diễn thì chỉ cần một người có thể đánh 16 trống, tùy theo nhịp điệu và bộ điệu. Khi tập luyện, người tập đứng trên hai khúc gỗ tròn lớn gấp đôi quả bưởi. Đôi chân phải điều khiển hai khối tròn đó một cách nhanh nhẹn; còn cùi chỏ, bàn tay và vai đều được sử dụng để đánh trống theo nhịp điệu của đường quyền. Người đánh phải dùng thế võ côn quyền mới đánh được nhiều trống. Khi ra trận thì chỉ dùng hai trống đặt trên xe đẩy. Hai dùi trống không chỉ dùng để đánh trống thúc quân mà còn là khí giới giết địch.
2.2-Bến đò Đại Nài, nơi truyền hịch gọi đò của vua Quang Trung
Bến đò Đại Nài ở xã Thạch Hòa hiện nay, cách thị xã Hà Tĩnh khoảng 3 cây số về phía Đông Nam. Sông ở đó rộng, hai bên bờ là bến cát, dễ qua lại. Bên khúc sông này có làng dân chài gọi là Vạn Nài. Cụ Dương Lung ở xã Thạch Khê, huyện Thạch Hà đã cung cấp một văn bản chữ Nôm, nguyên văn Hịch gọi đò mà người ta cho là của vua Quang Trung. Hịch này được truyền ra trong một đêm cuối tháng 12 năm 1788, khi đại quân Bắc tiến diệt Thanh phải dùng bến đò Đại Nài.
“Ngang thiên chi tường
Bùng binh chi quân
Khẩn đáo Bắc Hà
Tảo trừ Thanh Tặc
Đại binh chi tề tựu giang biên
Yếu đắc tốc hành cấp hạn
Sở tại chi quan,
Giang biên chi dân
Tốc bát giang thuyền,
Giải thanh bề bề bộn bộn
Bất lai tức trảm trảm, thu tru,
Tư truyền."Nghĩa là:
Tướng ngang trời,
Quân trùng điệp,
Phải kịp đến Bắc Hà.
Để quét sạch quân Thanh
Tất cả đã đến sát bờ sông
Cần đi ngay cho kịp.
Quan sở tại.
Dân hai bên bờ sông,
Nhanh chèo thuyền đến,
Chuyển kịp quân sang cho khỏi bề bộn.
Ai chống truyền lại sẽ bị chém đầu. Nay truyền
2.3-Núi Quyết, nơi chiêu quân Bắc tiến diệt gian thần, phá quân Thanh xâm lược
Ngọn núi này đã từng in dấu chân của cả vạn chiến binh dưới quyền thống lĩnh của Hoàng Đế Quang Trung trong cuộc Bắc phạt lần thứ hai. Đây cũng là linh địa mà La Sơn Phu Tử (Nguyễn Thiếp) giúp xây dựng Kinh đô trong tương lai. Đây là dấu tích Phượng Hoàng Trung Đô thuộc thành phố Vinh ngày nay. Chương trình xây dựng đang tiến hành thì bất ngờ vua Quang Trung băng hà, nên công trình bị bỏ dở. Ngày nay vẫn còn dấu tích bờ thành và các đồn lũy.
Theo tác giả Phan Sáng thì núi Dũng Quyết có 4 chi: Long Thủ (đầu Rồng), Phượng Dực (cánh Phượng), Kỳ Lân (con mèo), Quy Bối (con Rùa). Người xưa gọi địa thế này là đất tứ linh, bởi có đủ Long, Ly, Quy, Phượng. Đỉnh núi cao nhất 101,5 mét và thấp nhất 53,5 mét.
Sông Vĩnh (Cồn Mộc) bắt nguồn từ dẫy núi Đại Huệ, có mười hai khúc quanh co, lững lờ chạy dưới chân núi Kỳ Lân, rồi đổ ra sông Lam nơi ngã ba Hạc. Dòng sông Lam như một con rồng xanh khổng lồ (Thanh Long), chảy từ thượng ngàn về đây uốn mình vòng quanh phía Đông-Nam chân núi Dũng Quyết, tạo nên một khu vực thiên nhiên có phong cảnh đẹp độc đáo.2.4-Núi Bân, dấu tích thời Quang Trung tại Phú Xuân
Khu Núi Bân được Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận là di tích lịch sử quốc gia vào năm 1988.
Khi thực hiện đề tài khoa học “Khảo sát, sưu tầm và biên dịch những di sản văn hóa Hán Nôm hiện còn ở Thanh Hóa”, các nhà nhà nghiên cứu đã phát hiện bài thơ “Kiến Quang Trung linh cữu” trong tập “Liên Khê Nam hành tạp vịnh” (gồm 200 bài thơ) của Lê Triệu.
Qua “Kiến Quang Trung linh cữu”, có thể thấy ông Lê Triệu rất ngưỡng mộ, tôn kính vua Quang Trung. Tác giả bài thơ đã ca ngợi vua Quang Trung là bậc anh hùng và lên án Gia Long - Nguyễn Ánh tàn bạo như Tần Thủy Hoàng.
Hai câu thơ đầu
“Trấp niên sấp sá tẩu phong vân. Như thử anh hùng cổ hãn văn” được tác giả mượn ý từ đôi câu đối ở đền thờ Quang Trung ở Do Xuyên, Hải Thanh, Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Đó là câu: “Anh hùng thanh sất Bân Sơn cổ. Miếu mạo quan lưu Bạng Hải kim”
(Nghĩa là: Tiếng thét mắng (quân giặc) của người anh hùng ở núi Bân còn rực sáng để lại ở bến Lạch Bạng ngày nay).
Đôi câu đối trên nhắc lại sự kiện cuối năm 1788, Nguyễn Huệ lập đàn ở núi Bân (Huế), làm lễ cáo trời đất để lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Tại đây, trước khi hành quân thần tốc ra Bắc Hà, nhà vua đã thét mắng (sất sá) quân xâm lược Mãn Thanh.
Những câu thơ tiếp theo, tác giả ám chỉ sự trả thù của nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn và Quang Trung nói riêng. Theo đó, năm 1802, sau khi lên ngôi, Gia Long đã thực hiện cuộc “tắm máu” cực kỳ tàn khốc. Không chỉ “đào mồ, cuốc mả”, “tru di tam tộc” đối với dòng họ, con cháu vua Quang Trung, ngay cả những trung thần, tướng sĩ, quan lại của triều Tây Sơn cũng bị nhà Nguyễn trả thù.
Câu cuối của bài thơ
“Linh nhân chung cổ tiểu Doanh Tần!” cũng chính là lời tố cáo đanh thép đối với nhà Nguyễn, đồng thời cho thấy tình cảm sâu nặng của tác giả đối với Quang Trung.
Không những thế, có thể nói, “Kiến Quang Trung linh cữu” còn là một tư liệu lịch sử có giá trị.
Như chúng ta đã biết, trong “chiến dịch trả thù”, Gia Long - Nguyễn Ánh đã cho quật cả lăng mộ của vua Quang Trung và san bằng tất cả.
Sách “Đại Nam Chính biên liệt truyện” (Quốc sử quán triều Nguyễn) có chép: “Mùa đông năm ấy (1802), vua về Kinh, cáo tế ở miếu, dâng những tù bắt được đem hết phép trừng trị, đào mộ Nhạc, mộ Huệ, đem giã hài cốt vất đi, giam đầu lâu ở nhà ngục, đổi ấp Tây Sơn gọi là ấp Tây An”.
Vì vậy, hơn nửa thế kỷ qua, nhiều nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học; nhiều cuộc hội thảo về lăng mộ vua Quang Trung đã được tổ chức nhằm làm sáng tỏ sự thật, xác định rõ vị trí thực sự của lăng mộ nhà vua. Ngay từ năm 1941, nhà nghiên cứu Nguyễn Thiệu Lâu đã thực hiện cuộc khảo sát thực địa ở phía Nam kinh thành Huế và công bố bài viết “Lăng hoàng đế Quang Trung”. Sau đó là hàng loạt công trình, tư liệu, bài viết của các nhà nghiên cứu: Lê Văn Hoàng, Bửu Kế, Nguyễn Hữu Đính, Phan Thuận An, Trần Đại Vinh, Nguyễn Đắc Xuân, Đỗ Bang, Mai Khắc Ứng…
Dù có những chi tiết và ý kiến trái ngược nhau, song tựu trung, hầu hết các nhà nghiên cứu đều tập trung dự đoán khả năng vị trí lăng mộ vua Quang Trung là ở khu vực lăng Ba Vành (nằm ở phía nam tu viện Thiên An - Huế) và khu vực gò Dương Xuân (phủ Dương Xuân, sau đó là cung điện Đan Dương).
Thật bất ngờ là qua bài thơ “Kiến Quang Trung linh cữu”, tác giả Lê Triệu cho biết, ông đã từng đến viếng lăng mộ vua Quang Trung và tỏ lòng đau xót, phẫn nộ khi lăng mộ Quang Trung bị Gia Long - Nguyễn Ánh phá hủy (Quang cảnh nhất ban thành phấn mị).
Đáng lưu ý, vị trí lăng mộ vua Quang Trung được tác giả xác định cụ thể là ở trên một ngọn núi có tên là Khuân Sơn.
Vậy Khuân Sơn là ngọn núi nào, ở đâu?
Theo tư liệu trang 133 sách “Đại Nam Nhất thống chí” (tập 1) có chép: “Núi Khuân Sơn ở phía Nam huyện Phong Điền (Thừa Thiên Huế - NV), có tên nữa là Thượng Sơn, vì hình núi tròn như vựa thóc, thượng lưu sông Phong Điền chảy về phía tây, có một con đường theo ven núi chạy về bắc, đi theo về phía Tây có thể đến đất người Man Thượng.2.5-Bản Kinh Kim Cang thêu trên gấm
Bộ Kinh Kim Cang bằng gấm lót nhiễu điều thêu chỉ ngũ sắc từ thời Tây Sơn, được đánh giá là bộ kinh thêu lớn nhất VN. Toàn bộ bản kinh dài 2,47m, rộng 0,234m; số lượng chữ được thêu khoảng chừng gần 7.000 chữ Hán, đặt trong một chiếc hòm gỗ trầm có khắc chạm hoa văn rất đẹp dài 29 cm, rộng 10 cm, cao 7,7 cm.
Nguồn gốc của bản kinh này rất ly kỳ, gắn liền với triều đại nhà Tây Sơn và đầu triều các vua Nguyễn. Bản kinh ra đời vào ngày mùng 1 tháng 11 năm Cảnh Thịnh thứ 8 (16-12-1800). Phần lạc khoảnh trong bản kinh có ghi tên người thêu là tỳ kheo ni Diệu Tâm.
Bản Kinh từng có một thời gian lưu lạc trong dân gian. Hòa thượng Phước Huệ ở chùa Thập tháp Di Đà (Bình Định) trong thời gian ra Huế giảng dạy tại chùa Tây Thiên biết có một bản kinh quý đang lưu truyền trong dân gian. Ông bèn sai môn đồ dò tìm. Sư bà Diệu Không tìm ra tung tích và mua lại cả chiếc hộp và bản Kinh với giá 250 đồng thời bấy giờ (tương đương 7 lượng vàng). Sau đó, Kinh được hòa thượng Mật Hiển ra sức gìn giữ chu đáo như một bảo vật cho tới ngày nay.2.6-Chuông Đại Hồng Chung
Chuông Đại Hồng Chung của chùa làng La Chữ là một trong các di tích lịch sử văn hóa quan trọng. Chuông được đúc vào năm Quang Trung thứ 4 (1791), do vợ chồng võ tướng Điện tiền Thái bảo Ngự giá Quận công Võ Văn Dũng, một vị võ tướng dưới triều Tây Sơn, cùng với nhạc phụ (bố vợ) là ông Lê Công Học đứng ra làm hội chủ quyên góp trùng tu chùa làng La Chữ và đúc chuông. Quả chuông này cao 0,92m, đường kính miệng chuông 1,78m. Các hoa văn trên chuông không mang nặng dấu ấn Phật giáo mà được trang trí bằng bộ “Tứ thời” Xuân - Hạ - Thu - Đông.
Ô Xuân trang trí hai cái lược thưa, lược dày và gương hoa (các vật dụng trang điểm của phụ nữ). Nhiều người cho rằng đây là khung biểu thị cho phái đẹp. Ô Hạ, hoa văn trang trí là ngọn lá và thanh gươm, biểu thị cho sự quyết liệt của các đấng mày râu. Ô Thu có hai bầu rượu quấn dải lụa mềm mại. Ô Đông trang trí hình chiếc quạt lá vả và cuốn sách.
Dưới các ô văn ấy có hình 8 vị võ tướng tay cầm khí giới... Đây là những hoa văn trang trí rất lạ so với phong cách trang trí trên các pháp khí của chốn thiền môn, thường gắn liền với những biểu tượng mang dấu ấn triết lý Phật giáo như: từ bi, hỷ xả, giới, định, tuệ...
Bên cạnh chuông chùa La Chữ, tại làng Hạ Lang cũng có một quả chuông đồng được đúc vào thời Tây Sơn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 7 (1799). Nhưng quả chuông này không phải được đúc tại Thuận Hóa mà tại tỉnh Hà Đông, rồi chuyển vào Nam. 2.7-Sắc phong
Theo ông Phạm Hữu Bằng thì ít người biết trên thế giới chỉ có 3 nơi còn lưu giữ sắc phong, gồm Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản.
Theo đánh giá của các nhà khoa học Nhật thì VN đang là nước sở hữu những bức sắc phong cổ nhất và nhiều nhất. Ông Bằng cho biết ở VN hiện có hàng chục vạn bức sắc phong, nằm rải rác ở 15.000 đình làng, trong đó có những bức đặc biệt quý hiếm. Bức cổ nhất hiện nay tìm thấy có từ thời Hồng Đức cách đây trên 500 năm. “500 năm rồi mà dấu son vẫn đỏ chót, chữ vẫn đen nháy, giấy vẫn dai và bền”.
Bức sắc phong từ thời Quang Trung nguyên niên cũng rất đặc biệt. Theo ông Bằng, nó quý không phải vì thời gian, mà vì sau khi Quang Trung thất thế, nhà Nguyễn lên ngôi tìm mọi cách tiêu diệt tàn dư của thời Quang Trung. Bức sắc phong này ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ Hà Tây và những đóng góp cho quê hương, đất nước của họ.
Đây có lẽ là bức sắc phong độc nhất còn sót lại từ thời Quang Trung.
--------------
NB: Đúc kết từ các tài liệu: Bách Khoa Toàn Thư, Thư viện Bình Định, báo Tuổi Trẻ, Tiền Phong, Tự điển Địa danh Văn hóa VN, VNSL/TTK.
BY: HOÀNG THẠCH
1- THIÊN MỤ, MỘT BIỂU TƯỢNG CỦA CỐ ĐÔ HUẾ
Khi nói về biểu tượng của Huế, người ta nghĩ ngay tới chùa Thiên Mụ. Khi nói tới ngôi chùa danh tiếng này, người dân Huế thường nhắc tới hai câu thơ:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương.Trước khi nói về chùa Thiên Mụ, chúng tôi nhận thấy cần tìm hiểu về lai lịch của hai câu thơ nêu trên.
1.1- Phải chăng hai câu thơ trên phát xuất từ miền Bắc? Đối với người dân Thăng Long, văn gia và thi sĩ của quê hương Ngàn Năm Văn Vật thì không ai quên bốn câu thơ:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Quốc canh gà Thọ Xương (1)
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Nhịp chầy Yên Thái mặt gương Tây Hồ.
(2)Để hiểu rõ bốn câu thơ trên, chúng ta cần biết qua danh xưng liên quan tới địa danh miền Bắc:
(1) Chùa Trấn Quốc (hay Trấn Võ, Trấn Vũ) được xây vào thời Lý Nam Đế (1010) với tên là Khai Quốc. Đến đời Hậu Lý (1225) danh hiệu Khai Quốc dành cho chùa Cổ Pháp; nên đổi chùa Khai Quốc thành Trấn Quốc. Đến Vua Thiệu Trị (1841-1847) chùa lại bị đổi thành Trấn Bắc. Ông vua này viện cớ Thăng Long không còn là kinh đô và không muốn người dân tưởng nhớ tới các triều đại cũ. Nhưng đối với dân chúng thì chùa Trấn Quốc đã in sâu vào tâm trí họ. Cảnh đẹp của chùa Trấn Quốc, một công trình được nhà sư Viên Thắng xây dựng trên Hồ Tây có thể đã tạo nên nguồn cảm hứng trong dân gian, nên mới xuất hiện bốn câu thơ được truyền tụng qua nhiều thế kỷ. Thọ Xương (có nơi viết là Thọ Sương) là huyện Thọ Xương ở Hà Nội, nơi có ngôi miếu ở số 222 phố Bạch Mai, thờ các bậc hiền sĩ tài cao đức trọng. Canh gà Thọ Xương có nghĩa là tiếng gà gáy ở Thọ Xương. Ngày xưa dân ta chưa có đồng hồ, nên tiếng gà gáy được dùng để chỉ giờ và mỗi giờ gọi là Canh. Canh gà Thọ Xương không phải là canh nấu bằng gà của huyện Thọ Xương, như có người đã hiểu lầm và dịch là “chicken soup!”
Chúng ta nên hiểu rằng Phật giáo “cấm sát sinh”, nếu câu thơ Tiếng chuông Trấn Quốc hay tiếng chuông Thiên Mụ đối với canh gà Thọ Xương là “Thọ Xương chicken soup” thì nghe không ổn hoặc có vẻ nhạo báng nhà chùa! Ngồi nghe tiếng chuông chùa để thưởng thức hay nhắc tới canh nấu bằng gà ở Thọ Xương thì nghe không ổn. Xét về luật đối trong thơ thì tiếng chuông là âm thanh phải đối với một âm thanh khác. Ở đây tiếng gà gáy đối với tiếng chuông rất hoàn hảo.Để tuổi trẻ hiểu thêm về “Canh gà”, chúng tôi xin ghi lại sau đây 4 câu ca dao nói về cảnh sống của người xưa đã dựa vào tiếng gà gáy khi chưa có đồng hồ báo thức.
Người phụ nữ Việt Nam vẫn được đề cao là trung thành, đạo đức và cần cù nhẫn nại. Người phụ nữ khi về làm dâu bên nhà chồng không chỉ lo bổn phận mình, làm lụng vất vả ngày cũng như đêm để nuôi chồng con, mà còn lo cho công danh của người chồng đang còn cắp sách tới trường như bài thơ dưới đây:
Canh một dọn cửa dọn nhà,
Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm.
Canh tư bước sang canh năm,
Trình anh dậy học, chớ nằm làm chi.
Nữa mai Chúa mở khoa thi,
Bảng vàng choi-chói kia đề tên anh.
Ngày xưa, để coi giờ ban ngày, người ta dựa vào bóng mặt trời; còn ban đêm thì dựa vào tiếng gà gáy gọi là Canh. Canh một là lúc gà gáy lần 1: khoảng 1 giờ sáng; Canh hai: khoảng 2 giờ sáng; Canh ba: khoảng 3 giờ sáng; Canh tư: khoảng 4 giờ sáng….
Chính vì vậy mà tiếng chuông chùa vang vọng cùng với tiếng gà gáy từng canh nói lên thời điểm và sự yên tĩnh, thanh thoát của cảnh vật trong đêm khuya. (2) Yên Thái còn gọi là Kẻ Bưởi ở phía Tây-Bắc Hà Nội là làng làm giấy Mật Hương nổi tiếng nhất VN. Theo sử liệu thì năm 284 các thương gia Ý đã mua hàng ngàn tấm giấy này làm quà dâng vua Tấn Vũ Đế. Nhịp chầy Yên Thái có nghĩa người dân phải dùng cối chầy để giã vỏ cây đó thành bột, đem nấu rồi mới đàn ra làm giấy. Khi lấy chầy giã vào cối đá nó phát ra tiếng vang cả vùng Yên Thái. 1.2-Có phải chúa Nguyễn Hoàng sau khi xây chùa Thiên Mụ (năm 1601) thì hai câu thơ mới dưới đây xuất hiện để ca tụng cảnh đẹp của chùa và cảnh yên tịnh trong đêm khuya không?
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương.
Để hiểu rõ vấn đề có lẽ chúng ta phải dựa vào sự kiện lịch sử của chiếc chuông phát ra câu ca dao nổi danh trên.
Theo sử thì chúa Nguyễn Phúc Chu rất mộ đạo Phật. Ông vua này đã trùng tu chùa chiền và quảng bá đạo Phật. Năm 1694 ông sai người sang Quảng Đông mời sư Thích Đại Sán (Thạch Liên Hòa Thượng) sang thuyết pháp đạo Phật cho quan quân và dân chúng. Năm 1710, Đại Hồng Chung của chùa Thiên Mụ được đúc,ï nặng 2.021kg, cao 2,5m, đường kính 1,2m. Tiếng Đại Hồng Chung khi đánh lên vang dội khắp kinh thành.
Phải chăng hai câu thơ trên xuất hiện vào thời điểm đó?
Tuy nhiên, theo tạp chí Nam Phong số 10 tháng 4 năm 1918, tức 208 năm sau, có ghi lại một nhà báo miền Bắc, nhân dịp dạo thuyền trên sông Hương vào đêm khuya, đã cao hứng viết hai câu thơ
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương.
Ông nhà báo miền Bắc dĩ nhiên thuộc lòng bốn câu thơ của miền Bắc và có lẽ để thích hợp với cảnh vật sông Hương, núi Ngự, ông ta đã thay chùa Trấn Quốc bằng chùa Thiên Mụ chăng?
Có người cho rằng, có thể nhà báo này đã nhớ tới hai câu thơ của cụ Dương Khuê:
Phất phơ ngọn cỏ trăng tà,
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.
Ngoài ra, khi tra cứu các tự điển và địa danh VN chúng tôi không thấy chữ Thọ Sương. Chỉ có Thọ Xương, một huyện của Hà Nội, và cũng là tên của một xã, phường của tỉnh Bắc Giang.
Như vậy, Tiếng chuông Thiên Mụ ở Huế lại đối với Canh gà Thọ Xương ở Hà Nội thì nghe có vẻ giống như “Râu ông nọ cắm cằm bà kia!” Tiếng chuông Thiên Mụ không thể vọng tới Hà Nội và ngược lại, tiếng gà Thọ Xương không thể vang tới Huế.
Nếu hai câu ca dao phát xuất từ Huế thì tại sao không là:
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Hà Khê (hoặc Kim Long hay Thủy Xuân?) vì cả ba làng này nằm gần chùa Thiên Mụ.
Nếu dựa vào thời điểm lịch sử thì chùa Trấn Võ được Lý Nam Đế xây năm 1010, trong khi chùa Thiên Mụ được Nguyễn Hoàng xây vào năm 1601; như vậy tiếng chuông Thiên Mụ nếu có, xuất hiện sau 529 năm hoăïc 700 năm sau khi Nguyễn Phúc Chu cho đúc Đại Hồng Chung, vào năm 1710. Như vậy, hai câu thơ trên có thể “nhập cảng” từ miền Bắc và thay vì chùa Trấn Võ người ta đổi thành Thiên Mụ chăng?
Dù sao đi nữa, sự xuất phát của hai câu thơ trên vẫn còn chỗ khó hiểu!
Dù sao thì hai câu thơ đã trở thành ca dao và người dân Huế coi như đã thuộc lầu. Nó được nói trên miệng môi và xuất hiện trong văn chương, sách báo và thi ca mỗi khi nhắc tới kinh đô của một thời đã qua.
2- LỊCH SỬ CHÙA THIÊN MỤ
2.1- Về sự tích:
Về lịch sử của chùa Thiên Mụ thì có nhiều truyền thuyết kể lại như:-Theo Bách khoa Tự điển và các mạng lưới điện tử về Huế thì khi Nguyễn Hoàng được chúa Trịnh cho vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã có mưu đồ mở mang cơ nghiệp và xây dựng một giang sơn riêng cho mình. Trong một lần dạo mát bên bờ sông Hương, Nguyễn Hoàng gặp một ngọn đồi nhỏ có tên là Hà Khê nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại. Tiến thêm một đoạn đường, ông gặp dân địa phương và qua câu chuyện dân kể lại nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lam xuất hiện trên đồi. Bà ta nói cho họ biết: “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập nghiệp và xây chùa trên đất long mạch, kết tụ linh khí thì nước Nam sẽ hùng mạnh.”
Nghe dân kể như vậy, Nguyễn Hoàng tự cho mình là chân chúa và xây ngôi chùa vào năm 1601 để cho phù hợp với câu chuyện. -Theo quyển “Từ điển địa danh văn hóa và thắng cảnh VN” thì sự tích có vẻ ly kỳ hơn:
“… Bấy giờ, sau hơn 6 năm ở kinh đô Thăng Long, giữ chức Thái Bảo, Nguyễn Hoàng trở về Thuận Hóa xây dựng thế lực để biệt lập với họ Trịnh. Một hôm, nhân rỗi việc, Nguyễn Hoàng đi thăm các nơi núi sông cảnh đẹp trong bản trấn. Khi đến xã Hà Khê, huyện Kim Trà, thấy giữa chốn đồng bằng đột khởi một đồi cao tựa đầu rồng, đang nhìn về núi mẹ. Đoan Quốc Công thầm khen là nơi danh thắng, bèn trèo lên đồi cao ngắm khắp xung quanh. Chợt thấy một đoạn hào cắt ngang dưới chân núi, chưa rõ nguyên do ra sao. Nguyễn Hoàng sai hỏi người địa phương. Các bô lão nói: “Tương truyền núi này rất linh thiêng, Cao Biền (nhà Đường) sang làm An Nam Sứ, từng đi khắp nơi ở nước ta xem nơi nào có vượng khí thì lập phép trấn yểm. Đêm hôm ấy, Cao Biền chiêm bao thấy một bà lão đầu tóc bạc phơ ngồi dưới chân núi này kêu gào than vãn, rồi cất tiếng nói to: “Đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi này để làm mạnh cho Nam triều, thì nên lập chùa thờ Phật, cầu linh khí trở về giúp nước yên dân, tất không có sự gì đáng phải lo ngại”. Nói xong bà lão biến mất. Dân địa phương từ đó đặt tên núi là Thiên Mụ (bà lão nhà trời). Nguyễn Hoàng nghe nói cả mừng, bảo rằng: “Ấy là bà lão trời bảo ta mở nền định đất, biến nhà thành nước để gây nghiệp lớn”. Nói đoạn, sai người cất dựng chùa Phật, tự tay viết biển đề tên chùa là “Thiên Mụ tự”.
Chùa Thiên Mụ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây. Về lịch sử, trước khi có chùa Thiên Mụ thì trên đồi Hà Khê đã có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu của người Chăm (Chàm). Di tích này được nhắc đến trong “Ô Châu Cận Lục” của ông Dương Văn An vào năm 1553. Sau Nguyễn Hoàng xây rộng lớn hơn hay phá chùa cũ để xây chùa Thiên Mụ không thấy tài liệu nói rõ.
Năm 1862, vua Tựï Đức bị bệnh bất lực, có vợ và hàng chục Cung tần Mỹ nữ mà không có con. Để cầu cho có người nối dõi tông đường, vua cũng tin nhảm, sợ nói tới chữ “Thiên” phạm đến “Ông Trời” nên đổi tên “Thiên Mụ” thành “Linh Mụ”, có nghĩa “Bà mụ Linh thiêng”.
Tuy nhiên, vấn đề kiêng nhảm chỉ tồn tại từ năm 1862 cho tới năm 1869.
Sau đó, người ta quen gọi cả hai tên: chùa Thiên Mụ và chùa Linh Mụ. Lý do cũng dễ hiểu vì chữ “Linh” đồng nghĩa với “Thiêng”, âm người Huế khi nói “Thiên” nghe tựa “Thiêng”, nên khi nói “Linh Mụ”, “Thiên Mụ” hay “Thiêng Mụ” đều có nghĩa giống nhau mà không sợ bị bắt bẻ.
2.2- Về Kiến trúc
Chùa Thiên Mụ chính thức khởi công xây cất vào năm 1601, đời Nguyễn Hoàng.
Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Năm 1710, chúa cho đúc một chiếc chuông lớn, nặng tới trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc đồ sộ hơn như: điện Thiên Vương, Đại Hùng nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền... Nhiều công trình trong số này ngày nay không còn nữa.
Chúa Quốc còn đích thân viết bài văn, khắc vào bia lớn (cao 2m60, rộng 1m2) nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây, việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1.000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu Tàng Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm - người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong.
Bia được đặt trên lưng một con rùa đá lớn, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp.
Với cảnh đẹp tự nhiên và diện tích được mở rộng ngay từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã từng được dùng làm đàn Tế Trời Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn.
Năm1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị xây lại ngôi chùa lớn hơn, thêm một tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyên và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua.
Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo. Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay tròn khi gió thổi). Tháp được coi là tháp cổ nhất Việt Nam.
Tháp Phước Duyên (Phước Duyên Bửu Tháp) được xây 7 tầng vì số 7 là con số linh của đạo. Hệ thống bậc cấp của chùa cũng tính theo số 7.
Đại Hồng Chung: chuông cao 2,3m, đường kính 1,4m, nặng 2.025 kg. Đây là một trong những kiệt tác của nghệ thuật đúc đồng của người Việt vào đầu thế kỷ XVIII. Mặt trên quả chuông có khắc 8 chữ THỌ. Giữa thân chuông chia làm 14 khung, khắc bài minh của chúa Nguyễn Phúc Chu và chạm nổi hình Rồng, mây, ngày, trăng sao v.v… Ở phần dưới khắc hình Bát Quái và Thủy Ba.
Bia thời chúa Nguyễn Phúc Chu là tấm bia đá cao: 2,6m, rộng: 1,25m, dựng trên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch dài 2,2m, rộng 1,6m đều được khắc chạm tinh vi.
Điện Đại Hùng: gian phòng chính trong chùa. Trong phòng này, ngoài các tượng Phật bằng đồng còn có một khánh đồng lớn chạm hình mặt trăng, mặt trời, sao và dòng chữ kỷ niệm do quan Trần Đình Ân thuê đúc năm 1677 để cúng chùa; và một bức hoành phi bằng gỗ sơn son thiếp vàng do chúa Nguyễn Phúc Chu đề năm 1714.
Trận bão năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái cho xây dựng lại, nhưng chùa không còn được to lớn như trước nữa. Hai bên tháp có hai nhà tứ giác, đặt hai tấm bia đời Thiệu Trị. Sâu vào bên trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và một nhà để quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu.
Chùa Thiên Mụ được xếp vào hai mươi thắng cảnh đất Thần Kinh với bài thơ Thiên Mụ Chung Thanh do đích thân vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng gần
cổng chùa.Thiên Mụ Chung Thanh
Cao cương cổ sát trấn điền xuyên
Nguyệt tướng thường viên tự tại thiên
Bách bát hồng thanh tiêu bách kết
Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên
Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm
Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền
Phật tích Thánh công thùy hải vũ
Thiện nhân tăng quả phố khai diên.Dịch thơ:
Tiếng Chuông Thiên Mụ
Trên bến gò xưa chùa lập ra
Bên trời tự tại mãi Gương Nga
Tiếng ngân trăm tám tan trăm oán
Thế giới ba ngàn giải nợ ba
Chuông động giữa trưa miền tối
Kinh gieo canh sớm đạo tăng gia
Truyền công Phật Thánh tràn non nước
Nhân quả ươm lành khắp chốn xa.Năm 1899, nhân dịp lễ Cửu tuần Đại Khánh Tiết (mừng 90 tuổi bà Từ Dũ (sau được đặt tên cho bệnh viện hộ sinh Từ Dũ ở Sài Gòn), vợ vua Thiệu Trị, vua Thành Thái cho Bộ Công tu bổ Tháp Phước Duyên và dựng bia kỷ niệm. Năm 1920, vua Khải Định cho dựng bia đá gần tháp Phước Duyên và khắc bài thơ ca tụng cảnh đẹp của chùa.Qua nhiều đợt trùng tu lớn nhỏ thời Tây Sơn và nhà Nguyễn, ngoài những công trình kiến trúc như tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm... cùng bia đá, chuông đồng, chùa Thiên Mụ ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quí giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về nghệ thuật. Những bức tượng Hộ Pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Đà, tượng Tam Thế Phật... hay những hoành phi, câu đối v.v…
BY: HOÀNG THẠCH
Nhìn vào bản đồ ghi dấu thời điểm vào thế kỷ 11 ở trên, người ta thấy nước Chàm đã một thời tồn tại cùng với nước Việt Nam. Cũng từ bản đồ này, người ta thấy dân Việt đã đồng hóa một dân tộc thiểu số khiến đất nước Chàm không còn tồn tại trên bản đồ thế giới. Ngày nay dân tộc Chàm đã hội nhập vào xã hội Việt Nam và nếu không tới vùng đất năm xưa để nghe tiếng nói của dân địa phương miền Trung, người ta khó có thể nhận ra nguồn gốc của họ.
Tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt-Chàm không chỉ được chứng minh qua sự chung sức chống lại các cuộc xâm lăng của Hán triều và Mông Cổ, mà còn thể hiện qua cuộc tình Huyền Trân công chúa và vua Chàm Chế Mân, mà người dân Việt đã tiếc thương cho số phận nàng qua hai câu ca dao:
Tiếc thay cây quế giữa rừng,
Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo!
Ngoài ra, một số nhạc sĩ đã phổ nhạc và thi sĩ làm thơ nói lên nỗi lòng của Công chúa Huyền Trân như: *-Về âm nhạc: Trường ca Con đường Cái Quan (Phạm Duy), Tiễn Biệt Huyền Trân (PD), Huyền Trân Công Chúa (Nguyễn Hiền), Nhớ (Châu Kỳ), Tình sử Huyền Trân (Nam Lộc), Sương Gió Chiêm Thành (Cổ nhạc). *-Về thơ:
-Công chúa Huyền Trân (Hoàng Cao Khải)
-Tiễn Biệt Huyền Trân (Đào Tiến Luyện)
1-ĐÔI HÀNG LỊCH SỬ VỀ SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA HAI NƯỚC VIỆT-CHÀM (CHĂMPA - CHĂM)
Vương quốc Chămpa bao gồm các khu vực ngày nay thuộc miền Trung và miền Nam Việt Nam có từ khoảng năm 192 đến năm 1697. Các tên gọi khác nhau của vương quốc này theo dòng lịch sử là Hồ Tôn Tinh, Tượng Lâm, Lâm Ấp, Hoàn Vương Quốc và Chiêm Thành. Vương quốc này bắt đầu suy tàn từ cuối thế kỷ 11 (sau khi vua Lê Thánh Tông sai quân chiếm đóng vào năm 1471). Chămpa trở thành chư hầu của Việt Nam năm 1697 và bị thôn tính hoàn toàn vào thập niên 1720, thời kỳ các chúa
Nguyễn, khởi đầu từ Nguyễn Hoàng.
Theo sử thì nước Chămpa được thành lập sau cuộc nổi dậy của quan địa phương tên là Khu Liên (Kiu-lien) chống lại chính quyền nhà Hán năm 192 tại khu vực ngày nay là Huế. Lãnh thổ của Chămpa là thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Trong thời kỳ đầu Chămpa chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa và tôn giáo Trung Hoa. Nhưng sau các cuộc chiến với quốc gia láng giềng Phù Nam và bị thôn tính vào thế kỷ 4, thì văn hóa Chămpa có sự hòa trộn văn hóa Ấn Độ.
Lịch sử của vương quốc Chămpa là các cuộc xung đột với Trung Hoa, Đại Việt, Khmer và Mông Cổ, cũng như xung đột nội bộ. Các cuộc chiến tranh là nguyên nhân làm cho Chămpa mất dần lãnh thổ vào tay Đại Việt, một quốc gia có tổ chức chính quyền và quân sự hoàn hảo hơn. Chămpa trong quá khứ từng là một nước chư hầu của các triều đại phong kiến Trung Hoa và Đại Việt; nhưng dân Chàm vẫn giữ được bản sắc văn hóa của mình. Người Chàm là những chiến binh giỏi đã sử dụng địa hình đồi núi để chiếm ưu thế trong các cuộc chiến. Năm 1471, người Chàm chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông. Vương quốc này còn tiếp tục kháng cự đến năm 1720 trong các vùng núi xung quanh Nha Trang cho đến khi quốc vương cuối cùng đem con cháu chạy sang Campuchia. Các thế lực của người Chàm chỉ khuất phục Việt Nam hoàn toàn vào năm 1832, dưới thời vua Minh Mạng.
Tôn giáo và văn hóa chính của người Chàm chịu ảnh hưởng Ấn Độ giáo. Tuy nhiên, ngày nay phần lớn người Chàm theo Hồi giáo do ảnh hưởng của người Mã Lai. Trong số các di tích văn hóa còn lại có Thánh địa Mỹ Sơn gần Hội An đã được Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa thế giới.
2-CÁC VƯƠNG TRIỀU CHIÊM THÀNH
Tuy là một nước nhỏ, nhưng Chiêm Thành cũng đã nhiều lần đem quân tấn công nước Việt.
Các triều đại của nước Chàm gồm:
-Triều đại Bhrigu / khoảng 877
-Indravarman II khoảng 896-905
-Jayasimhavarman 905-910
-Bhadravarman II 911-971
-Indravarman III năm 989-?
-Vijaya Shri Harivarman II khoảng 989
-Yanpuku Vijaya Shri
- Triều đại miền Nam 1041-1059:
-Jayasimhavarman II 1059-1060?
-Bhadravarman III khoảng 1060
-Rudravarman khoảng 1081
-Jaya Indravarman IV?-1086
-Paramabodhisattva 1086-1139
-Jaya Indravarman V 1139-1147
-Jaya Indravarman VI 1147-1163
-Jaya Harivarman VI 1163 -?
-Jaya Indravarman VII?-1190
-Jaya Indravarman VIII 1226 -?
-Jaya Parameshvaravarman IV?-1237
-Jaya Indravarman X 1266-?
-Indravarman IX?-1307
-Jayasimhavarman IV 1307-?
-Mahendravarman 1342-1360
-Bo-dê1360-1390.
Chế Bồng Nga
Chế bồng Nga là một trong các vua nổi tiếng nhất trong sử sách của dân Chàm. Ca sĩ Chế Linh gốc người Chàm cũng một thời nổi danh với bản nhạc "Hận Đồ Bàn" có nội dung gợi lại nỗi nhớ thương một thời vàng son của vương quyền Chămpa và kinh đô Đồ Bàn đã bị xóa tên trên bản đồ. Năm 1360, Chế Bồng Nga, được dân tộc Chăm tôn vinh là một nhà chính trị, một nhà quân sự đại tài, đã từng đem quân đánh nước Việt nhiều lần, ra tới Kinh đô Thăng Long.
-Năm 1361, Chế Bồng Nga đánh phá hải cảng Di Lý (?) của Đại Việt (theo Khâm định Việt sử thông giám Cương mục thì Chế Bồng Nga đánh phủ Lâm Bình) -Năm 1368, Chế Bồng Nga đánh thắng đoàn quân Đại Việt ở Chiêm Động (?) -Năm 1370, Chế Bồng Nga tiến quân chiếm thành Thăng Long lần thứ nhất. (Theo Khâm định Việt sử thông giám Cương mục là năm 1371.) -Năm 1377, Chế Bồng Nga đánh thắng đoàn quân Đại Việt sang tấn công thủ đô Vijaya và giết chết vua Đại Việt là Trần Duệ Tông, sau đó đem quân cướp phá thành Thăng Long lần thứ hai -Năm 1380, Chế Bồng Nga đánh Nghệ an, Diên Châu và Thanh Hóa -Năm 1382, Chế Bồng Nga lại đánh phá Thanh Hóa. -Năm 1383, Chế Bồng Nga đem quân chiếm đóng đồng bằng sông Hồng một lần nữa. (Theo Khâm định Việt sử thông giám Cương mục thì Chế Bồng Nga đánh phủ Quảng Oai.) -Năm 1389, Chế Bồng Nga lại xuất quân đánh Đại Việt và bị quân Đại Việt do tướng Trần Khát Chân chỉ huy giết chết trong một trận thủy chiến ở Hải Triều.
II-CUỘC TÌNH ĐỔI CÔNG CHÚA LẤY ĐẤT HAI CHÂU
Theo sử liệu thì Vua Trần Nhân Tông húy Khâm, sinh ngày 11.10 năm Mậu Ngọ (7.11.1258), có công đánh tan cuộc xâm lược cuối cùng của Nguyên Mông. Ông nhường ngôi lại cho con, lên làm Thái Thượng Hoàng năm 1293. Sau đó Vua ẩn tu tại am Ngọa Vân núi Yên Tử vào năm 1299, lấy pháp hiệu Hương Vân Đại Đầu Đà, khai sáng thiền phái Trúc Lâm và được tôn xưng Điều Ngự Giác Hoàng. Vua Nhân Tông băng hà ngày mồng 3.11 năm Mậu Thân (6.12.1308), để lại nhiều tác phẩm, trong đó Khoá Hư Lục nổi tiếng nhất. Con trưởng của Vua Nhân Tông là Trần Thuyên, tức Trần Anh Tông, sinh ngày 17.9 năm Bính Tý (25.10.1276), lên ngôi ngày mồng 9.3 năm Quý Tỵ (16.4.1293), chết năm 1320.
Sau chiến tranh đánh tan quân Mông Cổ, năm 1301 Vua Trần Nhân Tông du hành qua Chàm và được Quốc vương Chế Mân (Jaya Shimhavarman III, tức thái tử Harijit thời chống Nguyên) ân cần đón tiếp. Thấy Chế Mân phong thái anh hùng và nghĩ tình hoà hảo giữa hai nước Việt-Chiêm, Ngài hứa gả công chúa út là Huyền Trân, mặc dù Chế Mân đã có hoàng hậu người Java. Chế Mân nhớ lời hẹn ước, sai sứ đem vàng ngọc, sản vật quí sang cống hiến và xin cưới. Vua Trần Anh Tông và triều thần bàn bạc mãi và không biết quyết định ra sao. Chế Mân không nản lòng, bèn xin dâng đất châu Ô và châu Lý làm sính lễ. Công chúa Huyền Trân vì chữ hiếu bằng lòng trao thân gửi phận, vì nước ra đi làm dâu xứ người.
Tháng Sáu năm Bính Ngọ 1306, Anh Tông cử một phái đoàn đưa em gái sang làm dâu Chămpa và tiếp nhận đất đai. Qua tháng Giêng năm sau, dân Chàm các thôn La Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng chống đối, vua sai hành khiển Đoàn Nhữ Hài vào dẹp, đổi tên châu Ô ra châu Thuận, châu Lý ra châu Hoá, cùng thuộc phủ Lâm Bình với ba châu cũ, chọn người bản xứ cho làm quan cai trị, cấp ruộng đất và miễn tô thuế ba năm cho dân chúng.
Huyền Trân Công chúa rất được Chế Mân sùng ái; nhưng chẳng may, cuộc tình duyên quá ngắn ngủi! Tháng 5 năm Đinh Mùi (1307), Chế Mân qua đời. Sợ em mình bị đưa lên dàn hỏa thiêu theo tục lệ Chàm, đến tháng Mười, Anh Tông sai Trần Khắc Chung và Đặng Văn sang dùng mưu đón công chúa và thế tử Chế Đa Đa (chắc là con của Huyền Trân) về nước... Mối giao hảo Việt-Chàm bị tan vỡ từ đó. Quốc vương Chàm thường xuyên đánh phá đất Việt và đòi lại hai châu. Quân Nhà Trần nhiều lần tấn công, khi thắng khi bại. Dân chúng ở đây lâm vào cảnh chiến tranh cho đến khi vua Lê Thánh Tông mở rộng biên giới về phía Nam năm 1470-1471 mới ổn định được tình hình.
III-MỘT SỐ DI TÍCH VĂN HÓA CỦA NGƯỜI CHÀM
1-Thành Đồ Bàn
Thành còn gọi là thành Chà Bàn hoặc thành Hoàng Đế thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn và cách thành phố Qui Nhơn (tỉnh Bình Định) 27 cây số về hướng Tây Bắc. Năm 982 dưới triều đại vua Yangpuku Vijaya thành Đồ Bàn được xây dựng. Đây là kinh đô cuối cùng của vương quốc Chămpa và các vua đã đóng đô ở đây từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15.
Năm 1376, vua Trần Duệ Tông đem 12 vạn quân thủy, bộ chiếm thành Đồ Bàn bị Chế Bồng Nga đánh bại, Trần Duệ Tông tử trận. Năm 1403, Hồ Hán Thương sai tướng đem 20 vạn quân vây đánh thành Đồ Bàn ngót hai tháng trời, nhưng bị quân Chiêm Thành phản công quyết liệt, phải rút quân về nước. Năm 1471, Vua Lê Thánh Tông đem một đoàn thủy, lục quân hùng mạnh sang đánh Chămpa. Sau khi chiếm được, Lê Thánh Tông ra lệnh phá hủy thành Đồ Bàn. Năm 1776 (có tài liệu là 1778), Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung Ương Hoàng Đế, đóng đô ở đây, nên còn gọi là Hoàng Đế thành. Nguyễn Nhạc cho mở rộng về phía Đông, xây dựng nhiều công trình lớn. Năm 1799, thành bị quân nhà Nguyễn chiếm, đổi lại là Bình Định. Ngày nay, Thành Hoàng Đế là một trong những di tích có giá trị về lịch sử quân sự và khảo cổ học.
Đặc điểm: Di tích Đồ Bàn hiện nay không còn nguyên vẹn, chỉ còn sót lại các bức tường thành xây bằng đá ong, có hào và đường lát đá hoa cương. Trong thành có di tích cũ của người Chàm như giếng vuông, voi; bên cửa hậu có gò Thập Tháp, trên gò có 10 ngôi tháp. Đặc biệt có tháp Cánh Tiên cao gần 20m, góc tháp có tượng rắn làm bằng đá trắng, 2 voi đá và nhiều tượng quái vật. Tháp này được đánh giá là biểu tượng phong hóa Bình Định, có niên đại hậu bán thế kỷ 11, đầu thế 12, nằm trong giai đoạn lịch sử từ triều Harivarman IV (1074-1081) đến triều Harivarman V (1113-1139). Phía Bắc thành có Chùa Thập Tháp Di Đà, phía Nam có chùa Nhạn Tháp, đều là những ngôi chùa cổ. Trong đó còn giữ được nhiều di tích, hiện vật liên quan đến văn hóa Chàm và Tây Sơn. Trong lăng còn chiếc lầu bát giác cổ kính, trong lầu còn tấm bia đá khắc công tích của Ngô Tùng Châu và Võ Tánh (năm 1800). Bia bằng đá trắng, chịu nhiều gió bụi thời gian đến nay đã mòn cả những chữ Hán khắc trên đó.
2-Thành cổ Châu Sa
Thành lũy được người Chàm xây dựng bằng đất vào TK 9 tại xã Tịnh Châu, huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi. Đây là loại thành bằng đất duy nhất ngày nay vẫn còn dấu tích. Thành nằm trên quốc lộ 24B đi cảng Sa Kỳ - Dung Quất, cách thành Quảng Ngãi 7 cây số về phía Đông Bắc; phía Nam giáp sông Trà Khúc, Bắc giáp sông Hàm Giang chảy về cảng Sa Kỳ.
Năm 1924, kiến trúc sư người Pháp Henry Parmentier đã tìm thấy ở đây các di chỉ văn hóa và đưa về trưng bày tại Bảo tàng viện điêu khắc Chàm ở Đà Nẵng. Các dấu vết cho thấy thành cổ Châu Sa đã từng là trung tâm kinh tế của châu Amaravati thuộc Vương quốc Chàm trước kia. Năm 1994, tức sau 70 năm được phát hiện, thành mới được công nhận là di tích văn hóa cấp quốc gia của Việt Nam.
3-Po Nagar – Tháp Bà
Tháp Bà là ngôi đền nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 50 mét so với mực nước biển, ở cửa sông Cái (sông Nha Trang) Nha Trang, cách trung tâm thành phố khoảng 2 cây số về phía Bắc, nay thuộc phường Vĩnh Phước. Tên gọi "Tháp Po Nagar“ được dùng để chỉ chung cả công trình kiến trúc này, nhưng thực ra nó là tên của ngọn tháp lớn nhất cao khoảng 23 mét. Ngôi đền này được xây dựng trong thời kỳ đạo Hindu (Ấn Độ) đang cường thịnh, vào thời kỳ Hoàn Vương Hoàn. Vì thế tượng nữ thần có hình dạng của thần Umar, vợ của thần Shiva.
-Truyền thuyết 1:
Nữ vương Po Nagar, còn gọi là Yan Pu Nagara, Po Ino Nagar hay Bà Đen (nguời Việt Nam gọi là Thiên Y Thánh Mẫu Ana) là vị nữ thần được tạo nên bởi áng mây trời và bọt biển, người tạo dựng ra trái đất, sản sinh gỗ quí, cây cối và lúa gạo. Bà có 97 chồng, trong đó chỉ một mình Po Yan Amo là người có uy quyền và được tôn trọng hơn cả. Bà có 38 người con gái, tất cả đều hóa thân thành nữ thần, trong đó có ba người được người Chăm chọn làm thần bảo vệ đất đai và còn thờ phụng cho tới ngày nay là Po Nagar Dara, nữ thần Kauthara (Khánh Hòa); Po Rarai Anaih, nữ thần Panduranga (Ninh Thuận) và Po Bia Tikuk, nữ thần Manthit (Phan Thiết). Tương truyền, tượng bà Thiên Y Thánh Mẫu Ana theo tín ngưỡng phồn thực của người Chăm, không có quần áo. Po Nagar hiện nay được người Việt Nam sử dụng, nhưng đã cho nữ thần ăn mặc theo kiểu Phật.
-Truyền thuyết 2:
Ngày xưa tại núi Đại An (Đại Điển) có hai vợ chồng tiều phu đến cất nhà và làm rẫy trồng dưa nơi triền núi. Suốt một thời gian dài, hễ trái dưa nào chín đều bị mất. Ông lão rình và một hôm bắt gặp một cô bé khoảng 9-10 tuổi hái dưa rồi chơi dỡn dưới trăng. Thấy cô bé dễ thương, ông bèn đem về nuôi và thương yêu như con ruột. Hôm đó, trời mưa to gió lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã, cô bé lấy đá chất thành ba hòn dã sơn và hái hoa lá cắm vào rồi đứng ngắm chơi vui. Ông lão không ngờ cô bé là tiên giáng trần buồn nhớ cảnh bồng lai. Đang buồn lại chợt nhìn thấy một khúc kỳ nam theo nước trôi đến, cô bé bèn biến thân vào khúc kỳ nam cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ nam trôi ra biển rồi tấp vào đất Trung Hoa, hương toả ngào ngạt. Dân địa phương lấy làm lạ kéo đến xem. Thấy gỗ tốt, họ bèn xúm vào khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không khiêng nổi. Thái tử Bắc Hải nghe tin đồn bèn tìm đến xem hư thực và giơ tay nhấc thử. Thật kỳ lạ, khúc gỗ bỗng nhẹ như tờ giấy. Chàng liền đem về cung và nâng niu như báu vật.
Một đêm, dưới ánh trăng mờ, Thái tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam, nhưng khi lại gần xem thì tứ bề vắng vẻ, chỉ phảng phất mùi hương từ khúc kỳ nam bay ra. Những đêm sau đó, Thái tử vẫn tiếp tục theo dõi... Rồi một đêm, chàng thấy từ trong khúc kỳ nam bước ra một giai nhân tuyệt sắc. Chàng vụt chạy đến, ôm choàng lấy nàng. Không biến kịp vào khúc gỗ, giai nhân đành theo Thái tử về cung và cho biết lai lịch cũng như danh tính là Thiên Y Ana. Thái tử thấy nàng Ana xinh đẹp khác thường bèn tâu phụ hoàng xin cưới làm vợ. Vợ chồng ăn ở với nhau rất tương đắc, sinh được hai con, một trai một gái, dung mạo khôi ngô tuấn tú.
Một hôm, vì nỗi nhớ quê hương, Thiên Y bồng hai con nhập vào kỳ nam trở về làng cũ. Núi Đại An còn đó, nhưng vợ chồng ông tiều phu đã về cõi âm. Thiên Y xây đắp mồ mả cho cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn lạc hậu, bà dạy cày cấy, kéo vải, dệt sợi và đặt ra các lễ nghi... Từ đó, ruộng nương luôn tươi tốt, đời sống dân chúng mỗi ngày thêm phong phú. Đến một ngày, có con chim hạc từ trên mây bay xuống, Thiên Y cùng hai con cưỡi hạc bay về trời. Dân chúng địa phương nhớ ơn đức của Bà Thiên Y nên năm 817 đã xây tháp và tạc tượng thờ phụng. Hàng năm, vào ngày bà thăng thiên (23.3 âm lịch) đều có tổ chức lễ múa bóng dâng hoa rất long trọng.
-Lịch sử
Ngôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ vương Jagadharma (công chúa Tchou Koti hay Thiên Y Thánh Mẫu) (cai trị Lâm Ấp từ năm 646 đến năm 653) được Prithi Indravarman cho xây dựng lại bằng vật liệu cứng tại Aya Tră (Nha Trang), trên một ngọn đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần Bhagavati (bằng vàng). Năm 774, quân Nam Đảo (Java, Indonesia) vào cướp phá. Đền Po Nagar, bị quân Nam Đảo phá hủy, sau đó được Satyavarman cho dựng lại bằng gạch, năm 784 thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay. Sau này quốc vương Harivarman I và con trai làVikrantavarman III có thể đã lần lượt xây dựng thêm 5 tháp nữa.
-Kiến trúc
Từ dưới chân núi ngay sát quốc lộ, theo những bậc đá đi lên là một khu đất bằng phẳng khoảng hơn 200m2, có 10 trụ gạch lớn cao trên 5m xếp thành bốn hàng trên nền gạch rộng. Theo các bậc đá lên cao mãi tới đỉnh núi là một nền đất rộng khoảng 500m2. Nơi này hiện có bốn ngôi tháp, hai miếu thờ và một nhà nghỉ. Hai ngôi tháp lớn, một cao 18m, một cao 22,48m, được xây bằng gạch nung. Tháp lớn xây thành 4 tầng, mỗi tầng đều có cửa giả, tượng thần và hình thú bằng đá. Tại 4 góc có 4 tháp nhỏ, tạo nên những đường nét hết sức độc đáo. Tháp lớn nhất thờ nữ thần Ponagar (tiếng Chăm có nghĩa là Mẹ Xứ Sở). Tượng nữ thần bằng đá hoa cương, đặt trên bệ đá hình đài sen, lưng tựa vào phiến đá lớn hình lá đề. Tượng cao 260cm. Đường nét trên thân hình tượng nhìn rất sống động, hai bầu vú căng tròn đầy sức sống và những nếp nhăn ở bụng khi nhìn người ta có cảm tưởng như nó đang phập phồng theo hơi thở.
Po Nagar gồm 3 tầng, đi từ dưới lên trên.
-Tầng thấp: Ngang mặt đất bằng là ngôi tháp cổng mà nay không còn nữa. Từ đấy có những bậc thang bằng đá dẫn lên tầng giữa.
-Tầng giữa: Nơi đây hiện chỉ còn hai dãy cột chính bằng gạch hình bát giác, mỗi bên 5 cột có đường kính hơn 1 mét và cao hơn 3 mét. Ở hai bên các dãy cột lớn có 12 cột nhỏ và thấp hơn, tất cả lại nằm trên một nền bằng gạch cao hơn 1 mét. Dựa vào cấu trúc này người ta cho rằng đây vốn là một tòa nhà rộng lớn có mái ngói, là nơi để khách hành hương nghỉ giải lao và sắm sửa lễ vật trước khi lên dâng cúng ở các điện bên trên. Từ tầng giữa này, lại có một dãy bậc thang bằng gạch dốc hơn dẫn lên tầng trên cùng.
-Tầng trên cùng: Là nơi các tháp được xây dựng, ngay trước mặt ngôi tháp chính. Những bậc thang này từ lâu đã không hề được sử dụng. Bậc thang bằng đá ong thấy hiện nay ở phía nam tháp Bà rộng lớn hơn được xây vào thập niên 1960 do nhu cầu du lịch gia tăng. Ở tầng trên, có hai dãy tháp được bao quanh bởi bốn bức tường đá mà nay chỉ còn lưu lại tường phía tây và nam mà thôi. Dãy tháp phía trước có 3 ngôi, và dãy phía sau vốn có dấu vết của 3 ngôi tháp khác, thế nhưng nay chỉ còn 1, chúng chạy song song với nhau. Cả 4 tháp còn lại được xây dựng theo kiểu tháp của người Chăm, gạch xây rất khít mạch, không nhìn thấy chất kết dính. Lòng tháp rỗng tới đỉnh, cửa tháp quay về hướng đông. Mặt ngoài thân tháp có nhiều gờ, trụ, đấu. Trên đỉnh các trụ, thường đặt gạch trang trí hoa văn hình vòm tháp, trông như chiếc tháp nhỏ đặt lên một tháp lớn. Trên thân tháp còn có nhiều tượng và phù điêu bằng đất nung, trong đó có hình Po Nagar, thần Tenexa, các tiên nữ, các con nai, ngỗng vàng, sư tử...
(Tổng kết theo tài liệu
Bách Khoa Toàn Thư, Từ điển địa danh văn hóa và mạng lưới Bình Định)
- Kỷ niệm 100 năm phong trào Hướng Đạo 1907-2007
- Di tích lịch sử Văn hóa : Hội an
- Các món ăn nổi tiến của Huế và miền Trung
- Làng nghề tại Huế và miền Trung
- Cảnh đẹp tại Huế và miền Trung
- Câu đối Xuân
- Di tích văn hóa Chân lạp (Khmer)tại Miềnnnam việt nam
- Dinh độc lập Việt nam cộng hòa
- Nhà thờ Cha Tam
- Việt nam Quốc tự