Dân Chúa Âu Châu

Tu viện cổ Mission San Juan Capistrano được các Lm dòng Phanxicô đến truyền giáo từ thế kỷ thứ 18 và xây dựng  ở đây.
 
Từ Santa Anna chúng tôi lên đường đi hướng San Diego hành hương và tham quan một tu viện được xếp hạng cổ nhất Ở California này.
 
Theo sự giải thích của cô em hướng dẫn viên và sử sách để lại thì vào ngày 1 tháng 11 năm 1776 nhằm đúng  (ngày lễ kính Các Thánh của Giáo Hội Công Giáo) Linh mục Serra thuộc dòng Phanxicô cùng một đoàn 9 người, và 8 người dân bản địa đồng hành đến khu này với mục đích thành lập một tu viện để làm địa điểm truyền giáo cho những người Thổ dân tại đây.
Từ đó năm 1776 đến năm 1806, hội truyền giáo San Juan Capistrano phát triển rất mạnh về mọi mặt từ dân số đến xây dựng nhà cửa thành làng mạc, nuôi gia súc, trồng cấy và phát triển không ngừng. Sau khoảng hơn mười năm đã tăng dân số lên hơn 1 ngàn người sinh sống, và có hơn 10 ngàn gia súc như bò cừu, dê, heo, ngan vịt gà v.v... 

Năm 1796 Linh mục Serra bắt đầu xây một thánh đường lớn bằng đá và tu viện cho các cha và các tu sỹ ở. Công việc kéo dài 10 năm sau đó mới xong và khánh thành vào năm 1806.  Trong khoảng thời gian huy hoàng này đang phồn thịnh, nhưng đáng tiếc là chỉ được 6 năm thì một trận động đất dữ dội đã xảy ra và trong phút chốc nhà thờ chỉ còn là một đống đổ nát điêu tàn và hơn 40 người chết. 
 
Từ đó đến nay khu đại thánh đường bằng đá đã được giữ như thế và không xây dựng lại. Hôm nay chúng tôi đến hành hương và tham quan đã thấy được khu cung thánh cổ này. Một mô hình thu nhỏ của Đại thánh đường xưa gồm bảy vòm và một tháp chuông cao 21 mét được trưng bày cho những người đến hành hương xem để biết lúc chưa bị sụp đổ vì động đất nhìn nó như thế nào. Đại thánh đường này cũng giống như nhiều thánh đường bên nước Tây Ban Nha mà tôi đã từng xem thấy.
Trong khuôn viên tu viện đổ nát còn sót lại một ít như: một phần tháp chuông cũ, những bờ tường phòng áo, hay khu nhà bếp khi xưa hơn 200 năm trước nhìn nó đã tốt đẹp ra rao... Nhìn khu nhà bếp này tôi đoán chắc rằng khi xưa ở trong tu viện này có nhiều người lắm nên mới có cả một khu nhà bếp lớn như vậy.
Theo tài liệu thì San Juan Capistrano là Tu Viện truyền giáo thứ bảy trong tổng số 21 Tu Viện Công Giáo  được các Lm dòng Thánh Phanxicô Asisi thành lập trải dài từ nam đến bắc tiểu bang California. 
 
Khu Tu Viện và Đại Thánh Đường là di tích lịch sử xưa nhất cho vùng Alta California này, nhưng không thể nào so sánh được với những Thánh tích lịch sử bên Châu Âu được, vì Châu Âu là mẹ của Tân Thế Giới này mà. Những lối kiến trúc và văn minh đã được đưa tới từ bên Giáo Hội Mẹ là Châu Âu.
May mắn trong trận động đất vẫn còn lại gần như nguyên trạng nhà thờ nhỏ và phòng cầu nguyện của cha Serra nằm sát bên nhà thờ Đá Lớn. 
 

Nhà nguyện này được đặt theo người sáng lập tu viện . Có chiếc ghế gỗ củ là nơi cách đây hơn 200 năm cha Serra đã từng đứng đó dâng thánh lễ.
Rời nhà thờ nhỏ Serra, đi dọc theo những hành lang gạch đỏ cũ kỹ, tiến sâu vào phía trong khuôn viên tiến đến khu vực sinh họat hằng ngày của những tu sỹ trước đây ở trong này. Có những băng ghế dài còn in đậm dấu tích thời gian. Nơi đây còn lưu giữ những gì 200 năm trước còn sót lại. Những lễ hội đều đặn vẫn được tổ chức, những bản nhạc xưa vẫn còn hát lại, người dân ở đây luôn cố gắng duy trì lại nét văn hóa cổ tốt đẹp mà hội truyền giáo của các cha dòng ngày xưa để lại.

ĐÀN CHIM ÉN MỪNG THÁNH CẢ GIUSE

Một trong những điều rất thú vị khác về tu viện truyền giáo này là cứ vào đúng ngày 19 tháng 3 lễ kính thánh cả Giuse hằng năm thì có từng đàn chim én bay về tụ họp xây tổ nương náu tại nơi này. Theo tài liệu cho biết thì vào khoảng 2.000 (Hai ngàn con) kéo về mỗi năm. Chúng ở cho qua mùa hè kéo dài cho đến ngày 23 tháng 10 rồi chúng từ giã lại bay đi hẹn đến ngày  19 tháng 3 lễ kính thánh cả Giuse năm sau lại về xum họp nơi này. 

Thành phố và Giáo Xứ họ tổ chức một tuần lễ hội mừng kính Thánh Giuse vào ngày 19.03 hằng năm, và đồng thời cũng là đón đàn chim én trở về. Và một tuần lễ hội vào ngày 23.10 để mừng kính thánh Quan Thầy giáo xứ Joan Capistrano và đồng thời tiễn đàn chim én bay đi.
Có bài hát rất nổi tiếng của Mỹ vào những thập niên năm mươi rất hay: 
When the Swallows Come Back to Capistrano
(Khi đàn chim én trở về Capistrano) 

ĐÀN CHIM ÉN MỪNG THÁNH CẢ GIUSE

Khi đàn chim én bay về
Là ngày kính thánh Giu se vũ hoàn
Từng bầy chim én hân hoan
Lượn thành vũ điệu để loan Tin Mừng
Tháng ba mười chín tưng bừng
Trổi lên hòa nhịp vang lừng khắp nơi
Trong vườn hoa huệ nở tươi
Chào mừng danh thánh tên người Giu se.


*****
Khi đàn chim én bay đi
Dân làng dâng lễ khắc ghi ơn người
Gioan Capistrano
Đây là vị thánh Luật sư cứu người
Hai ba(23) lễ kính tháng mười
Nơi đây kèn trống hát lời vang xa
Từng đàn én lượn hòa ca
Hẹn ngày mười chín tháng ba trở về


 
Vì nhu cầu của giáo dân nơi đây và sự quan trọng của việc sửa soạn mừng kính vị Lm sáng lập Tu Viện Joan Capistrano sắp được Giáo Hội phong lên bậc Chân Phước. Giáo dân nơi đây cùng với Giáo Phận xây lại một tiểu Vương Cung Thánh Đường (Minor Basilica) mang hình dáng gần giống như nhà thờ cũ đã bị hư hại vì trận động đất năm 1812 sát bên ngoài khuôn viên Tu Viện cũ.
Khởi công vào ngày 31.01.1982. và khánh thành đúng vào ngày kính thánh quan thầy Joan Capistrano 23.10.1986. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã công nhận đây  là tiểu Vương Cung Thánh Đường ngày 14.02.2000.
 
Thánh Junipero Serra
Cậu Miguel Jose Serra sinh ở đảo Majorca Tây Ban Nha, và lấy tên Junipero khi gia nhập Dòng Phanxicô. Ðược thụ phong linh mục năm 1737, ngài dạy triết thần ở Ðại Học Lulliana cho đến năm 1749 thì ngài chuyển sang công việc truyền giáo ở Tân Thế Giới và được gửi sang Mễ Tây Cơ.
 
Vào năm 1768, Cha Serra tiếp quản công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên (là những người đã bị chính quyền trục xuất cách sai lầm) trong tỉnh California Hạ và Thượng, lúc bấy giờ California là một tỉnh của Mễ Tây Cơ. Là một tông đồ hoạt động không biết mệt, Cha Serra trách nhiệm phần lớn cho việc thành lập và phát triển Giáo Hội ở vùng ven biển phía Tây của Hoa Kỳ khi phần đất này vẫn còn là khu vực truyền giáo.
 
Cuộc đời truyền giáo của Cha Junipero là một cuộc chiến chống với giá lạnh và đói khát, với các nhà lãnh đạo quân sự không có cảm tình và ngay cả bị nguy hiểm đến tính mạng vì những người da đỏ. Ðể duy trì tinh thần truyền giáo hăng say ấy, ngài cầu nguyện hàng đêm, có khi từ nửa đêm cho đến sáng.
 
Tổng cộng, ngài đã sáng lập 9 trung tâm truyền giáo sau khi ngài qua đời những người kế nhiệm thành lập thêm 12 trung tâm truyền giáo nữa tổng cộng lại là hai mươi mốt trung tâm truyền giáo. Ngài hoán cải rửa tội cho khpoảng 6.000 (sáu ngàn) người da đỏ. Người tân tòng không những được học biết đức tin, mà còn được dạy bảo cách trồng trọt, chăn nuôi cũng như thủ công nghệ.
 
Vì sự lao nhọc trong việc tông đồ, ngài từ trần ngày 28 tháng Tám 1784 vì bị rắn cắn. 
Ngài được Ðức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước ngày 25.09 năm 1988.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô phong hiển thánh 23.9.2015 tại thủ đô Washington, đây cũng là lễ phong hiển thánh đầu tiên tại Hoa Kỳ.
 
Trầm Hương Thơ
Trên đường hành hương