Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Cuộc tử đạo của người Công giáo ở Rwanda năm 1994
Vatican News
Trách nhiệm của Giáo hội
Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương vào Chúa nhật 15/5/1994, Thánh Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Đây là một cuộc diệt chủng thực sự, và thật đáng tiếc người Công giáo cũng phải chịu trách nhiệm”. Và ngài cảnh báo: “Một lần nữa tôi kêu gọi lương tâm của tất cả những ai lên kế hoạch và thực hiện những cuộc thảm sát này. Họ đang đưa đất nước tới vực thẳm. Mọi người phải trả lời về tội ác của mình trước lịch sử và trên hết trước Thiên Chúa”.
Dịp Đại Năm Thánh 2000, trong khi cử hành phụng vụ, các Giám mục Rwanda đã dâng lên Chúa lời cầu xin tha thứ cho những tội lỗi mà người Công giáo đã phạm trong cuộc diệt chủng. Vào ngày 04/02/2004, mười năm sau vụ bạo lực huynh đệ tương tàn, các Giám mục Rwanda đã công bố một sứ điệp, mời gọi các tín hữu “đừng quên những gì đã xảy ra, và do đó củng cố sự thật, công lý và sự tha thứ”. Các Giám mục viết: “Chúng tôi rất đau buồn vì đã là những chứng nhân bất lực trong khi đồng bào chúng ta phải chịu những cái chết đê hèn, bị tra tấn dưới cái nhìn thờ ơ của cộng đồng quốc tế; chúng tôi cũng bị tổn thương sâu sắc trước sự tham gia của một số tín hữu vào các vụ giết người”. Các vị mục tử cám ơn Thánh Gioan Phaolô II vì sự gần gũi của ngài trong cuộc diệt chủng và tiếng kêu cứu của ngài trước cộng đồng quốc tế. Nhớ đến các vụ thảm sát, hậu quả của sự độc ác không gì sánh được, các Giám mục đã mời gọi mọi người xây dựng sự hiệp nhất của người dân Rwanda, kêu gọi sự đóng góp để bảo vệ sự thật và công lý, và cầu xin Thiên Chúa tha thứ.
Trong ngày kết thúc “Năm Thánh Lòng Thương Xót” (08/12/2015 -20/11/2016), các Giám mục cũng đã công bố một thư được đọc trong tất cả các nhà thờ, vì một “tội” mới mà mà các Kitô hữu đã phạm trong thời diệt chủng. Như Đức cha Philippe Rukamba, Giám mục Butare Chủ tịch Hội đồng Giám mục Rwanda giải thích: “Tại Rwanda, chúng ta không thể nói về lòng thương xót nếu không nói về nạn diệt chủng”. Thư nhắc lại việc lên án tội ác diệt chủng chống lại người Tutsi vào năm 1994 cũng như mọi hành động và hệ tư tưởng liên quan đến phân biệt đối xử trên cơ sở sắc tộc. Trong chuyến thăm của tổng thống Rwanda Paul Kagame với Đức Thánh Cha Phanxicô tại Vatican, vào ngày 20/3/2017, chuyến thăm đầu tiên sau cuộc diệt chủng, Đức Thánh Cha “đã bày tỏ đau buồn sâu sắc của Tòa Thánh và của Giáo hội đối với nạn diệt chủng chống người Tutsi, một lần nữa đã cầu xin Thiên Chúa tha thứ vì những tội lỗi và thiếu sót của Giáo hội cũng như các thành viên của Giáo hội đã chịu thua trước hận thù và bạo lực, phản bội chính sứ vụ loan báo Tin Mừng”.
Các nạn nhân là nhân viên mục vụ
Theo dữ liệu do hãng tin Fides của Bộ Loan báo Tin Mừng thu thập, trong cuộc diệt chủng này có 248 nhân viên mục vụ của Giáo hội là nạn nhân: khoảng 15 người chết do bị ngược đãi và thiếu chăm sóc y tế, và cả những người biến mất không bao giờ được nhắc lại và do đó được coi là đã bị giết. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, danh sách này chưa đầy đủ, trước hết vì chỉ đề cập đến các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân thánh hiến; trong khi số người bị giết còn có cả chủng sinh, tập sinh các dòng tu và một số đông các giáo dân, như các giáo lý viên, các thừa tác viên phụng vụ, nhân viên bác ái, thành viên của các hiệp hội, những người đóng vai trò quan trọng trong Giáo hội như các bạn trẻ. Trong nhiều trường hợp, ngay cả các giáo phận cũng không có các thông tin về những người làm việc thường xuyên trong các cộng đoàn xa xôi khó tiếp cận. Hơn nữa, vào năm 1994, các phương tiện thông tin hiện đại chưa có sẵn để cập nhật các dữ liệu.
Theo hãng tin Fides, ở Rwanda, năm 1994, số các thành viên Giáo hội bị giết gồm: 3 Giám mục, 103 linh mục, 47 tu sĩ nam, 65 nữ tu, 30 nữ giáo dân thánh hiến.
Các chứng từ
Kỷ niệm 30 năm cuộc diệt chủng ở Rwanda, hãng tin Fides trình bày một số chứng từ của thời bi thảm. Ngoài những hành động tàn bạo mà một số người Công giáo đã tham gia, những hành động anh hùng của các thành viên Giáo hội Công giáo đã được ghi nhận qua việc hy sinh mạng sống để cứu người khác.
Ba Giám mục bị giết ở Kabgayi: “Dù có chuyện gì xảy ra, chúng tôi sẽ ở lại đây”
Ngày 05/6/1994, ở Kabgayi, ba Giám mục đã bị sát hại cùng với một nhóm linh mục khi các vị đang đồng hành giúp đỡ và an ủi những người dân phải di dời, kiệt sức vì bạo lực. Đó là Đức Tổng Giám Mục Vincent Nsengiyumva của Kigali; Đức cha Thaddee Nsengiyumva, Giám mục Kabgayi, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Rwanda; và Đức cha Joseph Ruzindana, Giám mục Byumba. Trong một lá thư viết vài ngày trước khi qua đời, ngày 31/5, các vị mục tử xin Tòa Thánh và cộng đồng quốc tế tuyên bố Kabgayi là một “thành phố trung lập”: 30.000 người di tản đã tập trung ở đây, cả người Hutu và người Tutsi, những người đã tìm được nơi ẩn náu trong các cơ sở Công giáo mở ra cho tất cả mọi người, không có sự phân biệt, như toà giám mục, giáo xứ, tu viện, trường học và một bệnh viện lớn.
Các Giám mục viết trong thư kêu gọi: “Dù có chuyện gì xảy ra, chúng tôi sẽ ở lại đây, để bảo vệ người dân và những người phải di tản”. Có cơ hội trốn thoát nhưng các mục tử vẫn ở lại đó vì nghĩ rằng sự hiện diện của mình cách nào đó sẽ bảo vệ tất cả mọi người, kể cả những người tị nạn. Với sự quyết tâm này các vị đã bị giết cùng với 10 tu sĩ và nhiều người khác.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết trong sứ điệp ngày 09/6/1994 gửi người Công giáo Rwanda: “Cầu mong các Mục tử cùng với rất nhiều anh chị em khác, những người đã ngã xuống trong các cuộc xung đột, được sự bình an vĩnh cửu trong Nước Trời, một sự bình an mà họ đã bị từ chối ngay trên mảnh đất thân yêu của mình. Xin Chúa ở cùng các cộng đoàn giáo phận bị mất các Giám mục và nhiều linh mục, gia đình các nạn nhân, những người bị thương, những trẻ em bị tổn thương, những người tị nạn. Xin tất cả người dân Rwanda cũng như những người có trách nhiệm với quốc gia ngay lập tức làm mọi điều có thể để con đường hòa hợp và tái thiết đất nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng này được mở ra”.
Các nhà truyền giáo: giữa sự tàn bạo, hoa trái đức tin cũng nảy sinh
Cha Jozef Brunner, thuộc Dòng Thừa sai châu Phi, quen gọi là các Cha dòng Trắng, đã chia sẻ chứng từ của một tu sĩ cùng dòng, người đã nhiều năm điều hành trung tâm đào tạo các lãnh đạo cộng đoàn Kitô giáo ở Butare: Tai và mắt của các nhà báo không nhận thấy gì cả: đức tin đã bén rễ và sống sâu sắc bởi các Kitô hữu, từ những người đơn sơ nhất đến những người có học, bởi các quan chức, những người lính đã hy sinh mạng sống vì người khác. Cùng với mức độ tàn bạo đã gây ra, những hành động anh hùng đích thực cũng phát triển mạnh mẽ. Chắc chắn Giáo hội đã ở trong tầm ngắm của bạo lực: sứ điệp hòa bình và hiệp nhất của Giáo hội là một trở ngại đối với những kẻ cực đoan. Nếu không thì không thể giải thích tại sao 4 đến 6 ngàn người trú ẩn trong nhà thờ lại bị thảm sát mà không phải những người tập trung ở các tòa thị chính. Một số linh mục đã bị giết khi cố gắng cứu những người này. Trên truyền hình, tôi thấy tám học sinh của tôi đang tắm rửa và chăm sóc một số trẻ bị bỏ rơi: bằng cách này, các học sinh của tôi đã trở thành thầy của tôi.
Các nữ tu dòng Trắng cũng chia sẻ kinh nghiệm bằng những lời này: “Chúng tôi đã chứng kiến sự bình an của Thiên Chúa và sự đón nhận hoàn toàn thánh ý Người, được thể hiện qua những người bị dẫn đến cái chết như chiên con bị đem đi làm thịt”.
Đức tin của cô Maria Teresa: Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên Thiên đường
Cô Maria Teresa người Hutu dạy học ở Zaza. Chồng cô Emmanuel là người Tutsi, một công nhân lành nghề tại trường Zaza. Họ có 4 người con, 3 trai và một gái. Chúa nhật ngày 10/4/1994, Emmanuel cùng con trai lớn đi ẩn náu. Maria Teresa nói: “Vào tối thứ Hai, họ quay lại để nói lời tạm biệt với chúng tôi”. Thực tế, vào ngày 12/4, họ đã bị xác định danh tính và bị tàn sát. Maria Teresa biết được tin này khi cô đang ở cùng bố mẹ, nơi cô ẩn náu cùng các con sau khi ngôi nhà bị cướp phá của họ. Ngày 14/4, 4 người đàn ông đến tìm các con trai của cô để giết.
Maria Teresa cảm thấy phải chuẩn bị cho các con: “Các con, trong lúc này người ta thật xấu, họ đã làm cho cha và anh Olivier của các con phải chết. Chắc chắn họ sẽ tìm các con, nhưng đừng sợ. Các con sẽ đau khổ một chút nhưng sau đó con sẽ được đoàn tụ với cha và Olivier, vì còn có một cuộc sống khác với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, chúng ta sẽ gặp lại nhau và chúng ta sẽ rất hạnh phúc”. Cùng ngày, họ đến tìm hai trẻ và những người chứng kiến vụ việc đều chứng minh rằng các em rất dũng cảm và bình tĩnh.
Sơ Felicitas: Đã đến lúc làm chứng
Sơ Felicitas người Hutu và là nữ tu Phụ tá Tông đồ ở Gisenyi. Sơ và các nữ tu khác chào đón những người tị nạn Tutsi vào cộng đoàn. Người anh, một đại tá quân đội ở Ruhengeri, biết sơ đang gặp nguy hiểm, đã yêu cầu sơ rời đi và nhờ đó thoát khỏi cái chết. Nhưng nữ tu trả lời bằng thư rằng thà chết cùng 43 người mà sơ phải chịu trách nhiệm hơn là tự cứu mình. Sau đó sơ tiếp tục cứu hàng chục người bằng cách giúp họ vượt biên.
Vào ngày 21/4, dân quân đến tìm và đưa sơ cùng các chị em lên một chiếc xe tải, hướng đến nghĩa trang. Sơ Felicitas động viên các chị em: “Đã đến lúc làm chứng”. Trên xe tải họ hát và cầu nguyện. Tại nghĩa trang, nơi các ngôi mộ tập thể đã sẵn sàng, những người dân quân lo sợ cơn thịnh nộ của đại tá đã cho sơ Felicitas cơ hội, ngay sau khi đã giết tất cả 30 nữ tu Phụ tá Tông đồ, nhưng sơ trả lời: “Tôi không còn lý do gì để sống nữa sau khi các ông giết chị em tôi”. Sơ Felicitas trở thành nạn nhân thứ 31.
Cử hành Thánh lễ mở tay ngay tại nơi gia đình bị sát hại
Cha Gakirage đã cử hành Thánh lễ mở tay tại chính nơi mà các anh em của ngài đã bị giết. Dưới đây là câu chuyện cha kể về cuộc đời và những khoảnh khắc trước khi được thụ phong linh mục:
Tôi sinh ra ở Musha, gần Kigali, thủ đô của Rwanda, vào ngày 14/11/1960, trong một gia đình đông con và thực hành đạo thường xuyên thuộc bộ lạc Tutsi. Ngay khi còn nhỏ, tôi đã luôn cảm thấy có một sự lôi cuốn đối với đời sống dâng hiến và truyền giáo. Khi còn ở tiểu chủng viện, thử thách đầu tiên đã đến với tôi: cuộc xung đột nổ ra giữa người Hutu và người Tutsi, và nhiều bạn cùng chí hướng đã bị giết. Tôi không cảm thấy yên lòng trong chủng viện vì trong khi người ta giết nhau bên ngoài, tôi có cảm tưởng các linh mục chưa tố cáo đủ những điều xấu này. Tôi đặt câu hỏi về ơn gọi linh mục và rời chủng viện, và đến Uganda để học các môn khác. Khi chuẩn bị vào chuyên ngành Y, tôi cảm nhận sâu sắc tiếng gọi của Chúa Giêsu. Tôi vào dòng Comboni và năm 1990, xong tập viện, tôi sang Peru học thần học. Bốn năm sau tôi trở về quê hương để chuẩn bị thụ phong linh mục. Lẽ ra lễ chịu chức diễn ra ở quê hương, nhưng khi đi qua Roma, tôi được biết gia đình đã bị một nhóm lính Hutu sát hại. Điều này xảy ra vào đêm trước ngày tôi thụ phong và đã thay đổi mọi sự. Sau tin buồn, không thể trở lại Rwanda, tôi tiếp tục đến Uganda, và được thụ phong linh mục tại đây.
Muốn biết có người thân nào trong gia đình tôi đã được cứu hay không, ngay trong ngày thụ phong tôi đã cố gắng vượt biên và đến Rwanda. Hành trình của tôi sẽ không thể thực hiện nếu không có sự quan phòng của Chúa.Thực tế, tại biên giới tôi đã được hộ tống bởi phái đoàn của Đức Hồng Y Roger Etchegaray, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình đến thăm chính thức Rwanda thay mặt Đức Giáo Hoàng.
Ngày hôm sau, một số người lính tháp tùng tôi đến Musha. Ở trong thị trấn bị chiến tranh tàn phá và hoang tàn, mong muốn đầu tiên của tôi là được cử hành Thánh lễ mở tay giữa những đống đổ nát đó. Thật đau đớn khi nghĩ rằng nơi tôi đang đứng cũng chính là nơi mà các anh chị em cũng như 30 thanh niên Tutsi đã bị sát hại. Khi nghĩ rằng sẽ không tìm thấy bất kỳ thành viên nào trong gia đình còn sống, một nỗi buồn sâu sắc ập đến trong tôi. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là nhìn xa hơn tảng đá dùng làm bàn thờ, tôi thấy ba em bé: hai bé gái của một người chị và một bé trai của một người chị họ. Các em là những người sống sót duy nhất của một bộ tộc mà trước ngày 06/4/1994 chỉ có 300 người. Tôi vô cùng xúc động và không thể cầm được nước mắt. Tôi bình tĩnh, ngẩng đầu lên tiếp tục dâng lễ tạ ơn Chúa vì phép lạ ba trẻ đó vẫn sống sót.
Trong bài giảng đầu tiên, tôi đã nói về sự phục sinh. Đó không phải là những lời nói suông hay những lời thương xót. Tôi đã nói về sự phục sinh của chúng ta, tôi đã nói rằng chúng ta là sự phục sinh của mình. Thật sự rất khó để liên tưởng đến thực tế này giữa quá nhiều cái chết và sự hủy diệt. Nó giống như ngọn nến yếu ớt mà cơn gió bão cố gắng dập tắt.
Đức tin của cô Maria Teresa: Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên Thiên đường
Cô Maria Teresa người Hutu dạy học ở Zaza. Chồng cô Emmanuel là người Tutsi, một công nhân lành nghề tại trường Zaza. Họ có 4 người con, 3 trai và một gái. Chúa nhật ngày 10/4 Emmanuel cùng con trai lớn đi ẩn náu. Maria Teresa nói: “Vào tối thứ Hai, họ quay lại để nói lời tạm biệt với chúng tôi” Thực tế, vào ngày 12/4, họ đã bị xác định danh tính và bị tàn sát. Maria Teresa biết được tin này khi cô đang ở cùng bố mẹ, nơi cô ẩn náu cùng các con sau khi ngôi nhà của họ bị cướp phá. Ngày 14/4, 4 người đàn ông đến tìm các con trai của cô để giết.
Maria Teresa cảm thấy phải chuẩn bị cho các con: “Các con, trong lúc này người ta thật xấu, họ đã làm cho cha và anh Olivier của các con phải chết. Chắc chắn họ sẽ tìm các con, nhưng đừng sợ. Các con sẽ đau khổ một chút nhưng sau đó con sẽ được đoàn tụ với cha và Olivier, vì còn có một cuộc sống khác với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, chúng ta sẽ gặp lại nhau và chúng ta sẽ rất hạnh phúc”. Cùng ngày, họ đến tìm hai trẻ và những người chứng kiến vụ việc đều chứng minh rằng các em rất dũng cảm và bình tĩnh.
Sơ Felicitas: Đã đến lúc làm chứng
Sơ Felicitas người Hutu và là Phụ tá Tông đồ ở Gisenyi. Sơ và các nữ tu khác chào đón những người tị nạn Tutsi vào cộng đoàn. Người anh, một đại tá quân đội ở Ruhengeri, biết sơ đang gặp nguy hiểm, đã yêu cầu sơ rời đi và nhờ đó thoát khỏi cái chết. Nhưng nữ tu trả lời bằng thư rằng thà chết cùng 43 người mà sơ phải chịu trách nhiệm hơn là tự cứu mình. Sau đó sơ tiếp tục cứu hàng chục người bằng cách giúp họ vượt biên.
Vào ngày 21/4, dân quân đến tìm và đưa sơ cùng các chị em lên một chiếc xe tải, hướng đến nghĩa trang. Sơ Felicitas động viên các chị em: “Đã đến lúc làm chứng”. Trên xe tải họ hát và cầu nguyện. Tại nghĩa trang, nơi các ngôi mộ tập thể đã sẵn sàng, những người dân quân lo sợ cơn thịnh nộ của đại tá đã cho sơ Felicitas cơ hội, ngay sau khi đã giết tất cả 30 nữ tu Phụ tá của Tông đồ, nhưng sơ trả lời: "Tôi không còn lý do gì để sống" nữa sau khi các ông giết chị em tôi". Sơ Felicitas trở thành nạn nhân thứ 31.
Các nhà truyền giáo: giữa sự tàn bạo, hoa trái đức tin cũng nảy sinh
Cha Jozef Brunner, thuộc Dòng Thừa sai châu Phi, quen gọi là các Cha dòng Trắng, đã chia sẻ chứng từ của một tu sĩ cùng dòng, người đã nhiều năm điều hành trung tâm đào tạo các lãnh đạo cộng đồng Kitô giáo ở Butare: Tai và mắt của các nhà báo không nhận thấy gì cả: đức tin đã bén rễ và sống sâu sắc bởi các Kitô hữu, từ những người đơn sơ nhất đến những người có học, bởi các quan chức, những người lính đã hy sinh mạng sống vì người khác. Cùng với mức độ tàn bạo đã gây ra, những hành động anh hùng đích thực cũng phát triển mạnh mẽ. Chắc chắn Giáo hội đã ở trong tầm ngắm của bạo lực: sứ điệp hòa bình và hiệp nhất của Giáo hội là một trở ngại đối với những kẻ cực đoan. Nếu không thì không thể giải thích tại sao 4 đến 6 ngàn người trú ẩn trong nhà thờ lại bị thảm sát mà không phải những người tập trung ở các tòa thị chính. Một số linh mục đã bị giết khi cố gắng cứu những người này. Trên truyền hình, tôi thấy tám học sinh của tôi đang tắm rửa và chăm sóc một số trẻ bị bỏ rơi: bằng cách này, các học sinh của tôi đã trở thành thầy của tôi.
Toà Thánh kêu gọi liên đới và hành động cho cuộc khủng hoảng nhân đạo ở Ethiopia
Vatican News
Đức Tổng Giám Mục giải thích Ethiopia đang phải vật lộn với hậu quả của xung đột, dịch bệnh bùng phát và hạn hán nghiêm trọng. Những sự kiện thê thảm này đã dẫn đến tỷ lệ suy dinh dưỡng gia tăng, đặc biệt ảnh hưởng đến một triệu trẻ em và nhiều phụ nữ, hơn 4,4 triệu người phải di dời trong nước và hơn một triệu người tị nạn. Tình hình càng trở nên trầm trọng do khó khăn kinh tế nghiêm trọng, như lạm phát.
Trước những khó khăn này, Đức Tổng Giám Mục lưu ý chính quyền Ethiopia và đối tác quốc tế đã đưa ra những đáp ứng với quyết tâm và cam kết đáng chú ý. Tuy nhiên vẫn thiếu hụt kinh phí.
Vì thế Toà Thánh ủng hộ lời kêu gọi của Hội đồng Giám mục Ethiopia về hành động ngay lập tức và viện trợ nhân đạo, đồng thời đánh giá cao việc triệu tập Sự kiện Cam kết Cấp cao này. Đây là một biểu hiện tình liên đới với một quốc gia đang chịu khủng hoảng nhân đạo sâu sắc.
Về phần Giáo hội địa phương, Đức Tổng Giám Mục nhắc lại rằng mặc dù chỉ là thành phần thiểu số nhưng Giáo hội Công giáo có vai trò quan trọng trong việc cung cấp và phân phối viện trợ cho những người dân bị ảnh hưởng bởi tình trạng mất an ninh lương thực và các nạn nhân của các trường hợp khẩn cấp khác. Cụ thể, vào năm 2023, các hoạt động của các Giáo hội Công giáo địa phương đã mang lại lợi ích cho gần 6 triệu người ở 9 trong số 12 khu vực của đất nước, không phân biệt tôn giáo. Các dự án có tổng giá trị hơn 80 triệu USD, tập trung chủ yếu vào viện trợ nhân đạo và an ninh lương thực.
Kết thúc bài phát biểu, Đức Tổng Giám Mục nhắc lại rằng hiện nay Toà Thánh đang cải tổ cam kết. Đây không phải là nghĩa vụ nhưng là ý thức sâu sắc về tính nhân văn được chia sẻ, nghĩa vụ tôn giáo và đạo đức. Ngài nói: “Chúng ta hãy hành động nhanh chóng và cung cấp hỗ trợ vững chắc nhằm đảm bảo chúng ta thực hiện mọi nỗ lực đem lại an ninh, ổn định và hoà bình qua phản ứng chung đối với các nhu cầu nhân đạo của Ethiopia”.
Giáo hội tại Châu Á được kêu gọi Tin Mừng hóa thế giới kỹ thuật số
Hồng Thủy - Vatican News
25 Giám mục Á Châu đang tham dự hội thảo về chủ đề “Thừa tác vụ Giám mục và Truyền thông trong một Giáo hội hiệp hành”, được tổ chức tại Thái Lan từ ngày 15 đến ngày 20/4/2024.
Ông Ruffini nói với các Giám mục Á Châu rằng: “Truyền thông kỹ thuật số giống như một nền văn hóa mà Tin Mừng của Chúa Kitô phải thấm nhập”. “Mọi thứ đều là kỹ thuật số”, do đó Giáo hội phải Tin Mừng hóa thế giới kỹ thuật số bằng “tình yêu, sự hiệp thông và công bằng xã hội”. Ông cũng lưu ý rằng văn hóa kỹ thuật số “luôn thay đổi”.
Theo Bộ trưởng Bộ Truyền thông của Tòa Thánh, tất cả người Công giáo đều là “những nhà truyền giáo kỹ thuật số”, những người “được mời gọi trở thành môn đệ trong môi trường của mình - giáo xứ, trường học và thậm chí cả phương tiện truyền thông xã hội”.
Tiến sĩ Ruffini cũng nhắc rằng tình yêu là nền tảng hạnh phúc của con người chứ không phải là thuật toán, thứ thúc đẩy công nghệ; việc loan báo Tin Mừng “không phụ thuộc vào phương tiện truyền thông” và bí quyết của truyền thông “không phải là kỹ thuật nhưng là tình yêu”.
Ông nói thêm: “Chúng ta cần những bài học từ Châu Á về sự hiệp thông phát triển nhờ truyền thông. Truyền thông được xây dựng trên sự hiệp thông và sự hiệp thông phát triển nhờ vào truyền thông”.
Bộ trưởng Bộ Truyền thông kêu gọi các Giám mục suy tư về các yếu tố nền tảng của truyền thông, bắt nguồn từ hai từ ngữ tiếng Latinh “mun”, có nghĩa là sự gắn kết với nhau, và “munus”, có nghĩa là quà tặng. Nhắc lại bản chất của cách truyền thông của Chúa Kitô, ông nhấn mạnh rằng sự truyền thông của chúng ta nên được đặc trưng bởi sự cống hiến bản thân hơn là sự tự mãn thường thấy trong kinh doanh và tiếp thị.
ĐHY Goh hy vọng chuyến viếng thăm của ĐTC Phanxicô sẽ thúc đẩy việc canh tân đức tin tại Singapore
Hồng Thủy - Vatican News
Trong một thông cáo báo chí, Đức Hồng y Goh khuyến khích người Công giáo Singapore hiệp nhất và cầu nguyện cho chuyến viếng thăm sắp tới của Đức Thánh Cha: “Chúng ta, với tư cách là một cộng đoàn, cầu nguyện cho sức khỏe và sự an toàn của Đức Thánh Cha, đồng thời cầu xin Chúa ban cho chúng ta một chuyến viếng thăm thực sự ý nghĩa và tràn đầy ân sủng”.
Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha đến Singapore sẽ diễn ra trùng với dịp kết thúc 10 năm kế hoạch mục vụ được Đức Hồng y Goh vạch ra cho Giáo hội Công giáo ở Singapore. Tại một cuộc họp năm 2014, được tổ chức với khoảng 750 đại diện mục vụ giáo xứ, ngài tuyên bố rằng Giáo hội có thể tỏ ra sống động vì “có nhiều Thánh lễ, lễ Rửa tội, lễ Thêm sức”, tuy nhiên, Giáo hội phải đối mặt với những thách thức, bao gồm cả việc suy giảm đức tin của người dân Singapore địa phương.
Để giúp người Công giáo Singapore chuẩn bị thiêng liêng để “gặp gỡ Chúa Giêsu qua chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô”, Tổng Giáo phận Singapore gần đây cũng đã ra mắt một trang web gồm các kinh nguyện, các nguồn tài liệu trực tuyến và các cập nhật khác về cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha vào tháng 9. Trang web này cũng tiết lộ chủ đề được chọn của tổng giáo phận là “Hiệp nhất, Hy vọng và Thập giá” để đánh dấu chuyến tông du năm 2024 của Đức Thánh Cha.
Giáo hội Công giáo Singapore còn tương đối trẻ và đa dạng, và hiện đang phát triển về số lượng tại một nơi hòa bình về chính trị, nơi luật pháp đòi buộc phải có sự khoan dung tôn giáo đối với các tổ chức và cá nhân, Đức Hồng y Goh hy vọng chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha sẽ thúc đẩy một sự canh tân và củng cố đức tin, sự hoán cải trái tim và tinh thần truyền giáo trong cộng đồng Công giáo Singapore.
Giáo hội Singapore có khoảng 395 ngàn tín hữu thuộc các nền văn hóa và sắc tộc khác nhau.
Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ: Linh mục được kêu gọi để được hạnh phúc
Vatican News
Câu hỏi đầu tiên liên quan đến định nghĩa ơn gọi, Đức Hồng Y trả lời, về cơ bản ơn gọi là lời mời hạnh phúc, quan tâm đến cuộc sống của chính mình, không lãng phí. Đây là ước muốn đầu tiên mà Chúa dành cho mỗi người, để cuộc sống của chúng ta không bị hư mất, và có thể tỏa sáng một cách tốt nhất. Vì thế, cần phải phân định để nhận ra điều này. Phân định trong sự lắng nghe chính mình và sự hiện diện của Thiên Chúa trong chúng ta, vượt qua cám dỗ muốn làm cho cảm giác của chúng ta trùng với sự thật tuyệt đối.
Theo Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ, thế giới, xã hội và Giáo hội cần những linh mục có tính nhân bản sâu sắc, theo cùng một phong cách với Chúa Giêsu. Nghĩa là những linh mục có một nền linh đạo không tách biệt linh mục với người khác hay làm linh mục trở thành những “ông chủ lạnh lùng của một chân lý trừu tượng”, nhưng là khả năng thể hiện sự gần gũi của Thiên Chúa đối với nhân loại, tình yêu của Người dành cho mọi thụ tạo, lòng trắc ẩn của Người dành cho những người bị tổn thương. Đây là lý do tại sao cần những người, dù yếu đuối như bao người khác, nhưng trong sự yếu đuối có đủ sự trưởng thành về tâm lý, nội tâm thanh thản và cân bằng cảm xúc.
Về những khó khăn mà các linh mục phải đối diện, Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ giải thích trước hết, chúng ta cần suy nghĩ lại cách chúng ta là Giáo hội và cách sống sứ vụ Kitô giáo, trong sự hợp tác hiệu quả của tất cả những người đã được rửa tội, bởi vì các linh mục thường bị quá tải với công việc, không chỉ mục vụ mà còn cả pháp lý và hành chính. Tiếp đến, chúng ta cần xem lại đời sống của linh mục giáo phận, bởi vì mặc dù không được kêu gọi sống đời tu, linh mục phải tái khám phá giá trị bí tích tình huynh đệ nơi giáo xứ, cùng với giám mục và các linh mục. Sự thuộc về này có thể hỗ trợ linh mục trong công việc mục vụ và đồng hành với linh mục khi nỗi cô đơn trở nên nặng nề. Ngoài ra cần có một não trạng và cách đào tạo mới vì linh mục thường được đào tạo để trở thành một người lãnh đạo đơn độc, một “một người chỉ ra lệnh”. Trong hoạt động đào tạo linh mục, không được giới hạn ở việc làm cho các linh mục là người quản lý các nghi thức tôn giáo.
Cuối cùng Đức Hồng Y Bộ trưởng khẳng định: mặc dù khó khăn nhưng việc theo Chúa trong ơn gọi linh mục luôn có giá trị. Với Chúa chúng ta không bao giờ mất bất cứ điều gì. Ngài kết luận: “Tôi muốn nói với tất cả các linh mục, đặc biệt với những ai đang nản lòng hoặc bị tổn thương, Chúa không bao giờ thất hứa. Nếu Người đã gọi anh em, anh em sẽ không bao giờ thiếu sự dịu dàng tình yêu Người, ánh sáng Thánh Thần, niềm vui của tâm hồn. Bằng nhiều cách, Thiên Chúa sẽ tỏ hiện trong cuộc đời linh mục anh em. Tôi ước mong niềm hy vọng này có thể đến với các linh mục, phó tế và chủng sinh khắp nơi trên thế giới, để an ủi và khích lệ họ. Chúng ta không đơn độc, Chúa luôn ở bên chúng ta! Và Người muốn chúng ta hạnh phúc!”.
Đức Thánh Cha tiếp các tu sĩ Dòng Cát Minh Nhặt phép
Vatican News
Đức Thánh Cha nói những gì các đan sĩ đang làm trong những ngày này là một công việc đầy ý nghĩa, vì đây là “mùa của Thánh Thần”, một dịp để cống hiến hết mình cho cầu nguyện và phân định. Ngài nói: “Mở lòng cho Chúa Thánh Thần hoạt động, chị em được thách đố khám phá ngôn ngữ, những cách thức và những phương tiện mới để tạo động lực lớn hơn cho đời sống chiêm niệm mà Chúa đã mời gọi chị em đón nhận, để đoàn sủng Cát Minh có thể thu hút nhiều tâm hồn vì vinh quang Thiên Chúa và lợi ích Giáo hội”.
Theo Đức Thánh Cha, sửa đổi Hiến pháp có nghĩa là nhìn lại quá khứ để hướng tới tương lai. Do đó, ký ức về lịch sử và các yếu tố trong Hiến pháp đã trưởng thành qua nhiều năm là một nguồn phong phú cần phải luôn mở ra trước những thúc đẩy của Thánh Thần, sự mới mẻ của Tin Mừng và những dấu chỉ mà Chúa tỏ ra cho chúng ta qua những trải nghiệm cuộc sống và những thách đố lịch sử.
Đức Thánh Cha nhắc lại rằng con đường chiêm niệm là đường của tình yêu, như một chiếc thang nâng chúng ta lên với Thiên Chúa, không phải để tách chúng ta ra khỏi thế giới nhưng giúp chúng ta bám sâu hơn vào đó, như những chứng nhân tình yêu. Chính Thánh Têrêsa Avila đã nói rõ rằng thời gian thinh lặng và cầu nguyện là cần thiết, tuy nhiên cần phải được coi là nguồn của hoạt động tông đồ và của mọi nhiệm vụ hàng ngày mà Chúa mời gọi chúng ta thực hiện để phục vụ Giáo hội.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh, bằng cách này, đời sống chiêm niệm sẽ không có nguy cơ trở thành thành một sự trì trệ thiêng liêng, rút lui khỏi các nhiệm vụ đời sống hằng ngày, và sẽ tiếp tục cung cấp ánh sáng nội tâm cần thiết cho việc phân định. Vì thế ánh sáng mà các tu sĩ cần sửa đổi Hiến pháp là niềm hy vọng được Tin Mừng mang lại.
Niềm hy vọng Tin Mừng đòi hỏi phải phó thác cho Thiên Chúa, học cách đọc những dấu chỉ Người ban cho chúng ta để phân định tương lai, can đảm đưa ra những quyết định táo bạo và mạo hiểm, ngay cả khi không biết cuối cùng chúng sẽ dẫn đến đâu. Trên hết, nó có nghĩa là không chỉ nghĩ đến khía cạnh con người và phòng thủ khi suy nghĩ về việc nên bảo tồn hay đóng cửa một tu viện, về cơ cấu đời sống cộng đoàn, về ơn gọi. Các chiến lược phòng thủ thường là kết quả của nỗi khao khát hoài niệm về quá khứ, trong khi niềm hy vọng Tin Mừng mang lại cho chúng ta niềm vui khi chiêm ngắm lịch sử cho đến hiện tại, nhưng cũng trao quyền cho chúng ta nhìn về tương lai.
Đức Thánh Cha kết thúc với lời mời gọi các nữ đan sĩ nhìn về tương lai với niềm hy vọng Tin Mừng và với sự tự do có được từ việc phó thác cho Thiên Chúa.
Đức Hồng y Ambongo bị an ninh đối xử tệ ở Phi trường Kinshasa
Hôm 16 tháng Tư vừa qua, trang mạng Crux Now ở Mỹ, đưa tin rằng: Hôm 14 tháng Tư trước đó, một trong chín vị hồng y thuộc Hội đồng chín hồng y Cố vấn của Đức Thánh cha Phanxicô, là Đức Hồng y Fridolin Ambongo Besungu, bị nhân viên an ninh ở phi trường quốc tế N’djili, thuộc thủ đô Kinshasa của Cộng hòa Dân chủ Congo, xử tệ: mặc dù ngài mang hộ chiếu ngoại giao của Vatican và du hành trong tư cách là thành viên Hội đồng C-9, nhưng họ không cho ngài vào phòng đợi dành cho các nhân vật quan trọng (VIP).
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Hồng y Ambongo Besungu cũng là Chủ tịch Liên Hội đồng Giám mục Phi châu và Madagascar.
Trong thông cáo về vụ này, cha Clet-clay Mambemba, Chưởng ấn Tòa Tổng giám mục Kinshasa cho biết vụ nhân viên an ninh đối xử với Đức Hồng y Ambongo có thể liên hệ tới sự phê bình mạnh mẽ của ngài đối với nhà cầm quyền Congo, trong sứ điệp Phục sinh vừa qua. Cha Clet-clay nói: “Đức Hồng y đi thi hành sứ vụ, tại sao ngài lại bị chối bỏ quyền được ở trong phòng đợi dành cho các nhân vật quan trọng. Thật là một điều đáng tiếc nếu sự đối xử này theo sau những lời ngôn sứ của ngài, đặc biệt trong bài giảng đêm Vọng Phục sinh, ngày 30 tháng Ba vừa rồi, trong đó ngài thách đố tất cả những người can dự vào cuộc khủng hoảng đang hoành hành tại đất nước chúng ta”.
Trong sứ điệp Phục sinh vừa nói, Đức Hồng y Ambongo than phiền vì những vấn đề an ninh dai dẳng gây khó khăn cho Congo dân chủ, và mô tả đất nước này đang ở trong “tình trạng cực kỳ suy nhược. Chúng ta biết rất rõ đất nước chúng ta ngày nay là một nước đang hấp hối, bị bệnh nặng và khi một người bị bệnh nặng, trong tình trạng hôn mê, thì thật là điều rất nguy hiểm, khi dự đoán tương lai của họ và ngày nay Congo đang ở trong tình trạng như thế”.
Đức Hồng y phê bình các lực lượng an ninh vì thiếu sáng kiến bảo vệ nhân dân và tài sản của họ. Thực tế là đất nước tiếp tục bị những kẻ khác tiến quân chiếm miền đông Congo. Lý do hiển nhiên vì Congo không đủ sức để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của mình”.
Congo Dân chủ là nước rộng thứ hai ở Phi châu, sau Algérie, và có diện tích rộng hơn các nước Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Thụy Điển và Na Uy cộng chung lại. Trong số gần 105 triệu người, nước này có 52 triệu tín hữu Công giáo, nhưng Đức Hồng y Ambongo ví đất nước với một con voi chân bằng đất sét.
Giáo hội Công giáo tại Congo thường bày tỏ lo âu vì cuộc xung đột ở miền đông, kéo dài từ hơn 20 năm nay. Khoảng 100 nhóm võ trang, trong đó có phiến quân M23 tạo nên xung đột và hỗn độn. Họ chiến đấu với nhau để giành quyền kiểm soát miền đông Congo rộng lớn và giàu khoáng sản.
(Crux 16-4-2024)
Giáo hội Công giáo Singapore cảnh giác về việc lừa đảo bán vé cho chuyến viếng thăm của ĐTC Phanxicô
Hồng Thủy - Vatican News
Trong thông cáo báo chí, Giáo hội Singapore cho biết: “Chúng tôi đã nhận được báo cáo về các cá nhân/nhóm cố gắng lừa đảo/lấy thông tin cá nhân bằng cách giới thiệu giả rằng họ có tham gia vào quy trình cung cấp vé cho Thánh lễ của Đức Giáo hoàng”.
Văn phòng Truyền thông của Tổng Giám mục cũng kêu gọi công chúng “vẫn cảnh giác và không trở thành nạn nhân của những trò lừa đảo này” khi những kẻ lừa đảo dùng các email hoặc trang web lừa đảo người dùng internet “để lấy thông tin cá nhân hoặc bí mật của họ, sau đó có thể sử dụng chúng bất hợp pháp”. Văn phòng tổng giáo phận cũng thông báo rằng vé tham dự Thánh lễ của Đức Thánh Cha, nếu có, “sẽ phát miễn phí”.
Tổng giáo phận cũng đưa ra danh sách các trang web được phê duyệt để cung cấp thông tin chính thức về chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha, từ ngày 11 đến ngày 13/9 năm nay, 38 năm sau khi Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến thăm Singapore vào ngày 20/11/1986.
Các trang web được phê duyệt là: popefrancis2024.sg, catholic.sg, mycatholic.sg, catholicnews.sg và catholicfoundation.sg.
Theo các nguồn tin của tổng giáo phận, trong chuyến viếng thăm Singapore, Đức Thánh Cha Phanxicô dự kiến sẽ cử hành Thánh lễ, “có thể” vào ngày 12/9. Thông tin thêm về chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha sẽ “được công bố dần dần vào thời điểm thích hợp”.
Chuyến viếng thăm Singapore của Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ là chặng cuối trong chuyến tông du châu Á của ngài trong năm nay. Ngài sẽ thăm Indonesia từ ngày 3 đến ngày 6/9, Papua New Guinea từ ngày 6 đến ngày 9/9 và Đông Timor từ ngày 9 đến ngày 11/9.
Đức Thánh Cha đã dự định đến thăm Papua New Guinea, Đông Timor và Indonesia vào tháng 9/2020 nhưng chuyến đi đã bị hủy vì đại dịch Covid-19. (UCA News 16/04/2024)
4% số tân linh mục ở Hoa Kỳ năm 2024 là người gốc Việt
Hồng Thủy - Vatican News
Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ (USCCB) đã ủy quyền cho Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng (CARA) tại Đại học Georgetown thực hiện một cuộc khảo sát hàng năm. Trung tâm đã thực hiện một cuộc khảo sát với 392 ứng viên linh mục, trong số đó có 80% thuộc giáo phận và 20% thuộc các dòng tu. Nhóm đông nhất được khảo sát đang theo học tại các chủng viện ở miền Trung Tây.
4% ứng viên linh mục năm 2024 là người Việt
Kết quả cuộc khảo sát cho thấy hai phần ba ứng viên (67%) là người da trắng, một phần năm (18%) là người gốc Tây Ban Nha/Châu Mỹ Latinh, một phần mười (11%) là người Châu Á/Thái Bình Dương/bản địa Hawaii và 2% là người da màu/người Mỹ gốc Phi.
Trong số tất cả các ứng viên, 23% là người sinh ở nước ngoài. Sau Hoa Kỳ, các quốc gia quê hương của nhiều ứng viên linh mục tại Hoa Kỳ lần lượt là Mexico (5%), Việt Nam (4%), Colombia (3%) và Philippines (2%).
Độ tuổi trung bình trẻ hơn trước đây
Cũng theo kết quả của cuộc khảo sát, hầu hết các ứng viên linh mục tại Hoa Kỳ trong năm 2024 có độ tuổi từ 31 trở xuống, trẻ hơn độ tuổi trung bình trong những năm gần đây. Hầu hết các chủng sinh, theo khảo sát, bắt đầu xem xét ơn gọi linh mục khi mới 16 tuổi, nhưng tiến trình xác định ơn gọi và học hỏi để trở thành linh mục bắt đầu ở tuổi 18.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến ơn gọi
Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng trong Hoạt động Tông đồ cũng liệt kê một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến quá trình phân định ơn gọi: 29% các ứng viên linh mục có người thân là linh mục hoặc tu sĩ; 89% cho biết đã được khuyến khích suy nghĩ về chức linh mục bởi một người nào đó (thường là bởi cha xứ, bạn bè hoặc giáo dân); 82% có cha và mẹ đều thuộc gia đình Công giáo. Giáo dục Công giáo đóng vai trò quan trọng khi có hơn 30% ứng viên đã theo học các trường tiểu học, trung học và đại học của Công giáo.
Chầu Thánh Thể và đọc Kinh Mân Côi
Chầu Thánh Thể là hình thức cầu nguyện phổ biến nhất của các chủng sinh tốt nghiệp năm nay. 75% cho biết họ thường xuyên chầu Thánh Thể trước khi vào chủng viện. Kinh Mân Côi cũng rất quan trọng đối với những người phân định ơn gọi: 71% linh mục cho biết họ thường xuyên lần hạt Mân Côi trước khi gia nhập chủng viện. Một nửa cho biết họ đã tham dự một nhóm cầu nguyện hoặc Kinh Thánh, và 40% cho biết họ thực hành lectio divina.
Tham gia các hoạt động mục vụ và các cộng đoàn địa phương
Thêm vào đó, các ứng viên linh mục năm nay đã tham gia vào các cộng đoàn địa phương và các hoạt động mục vụ của giáo xứ: 51% tham gia nhóm trẻ của giáo xứ trước khi vào chủng viện, 33% tham gia mục vụ Công giáo tại trường, 28% tham gia Hướng đạo sinh và 24% tham gia Hội Hiệp sĩ Columbus hoặc Hiệp sĩ Peter Claver; 71% đã tham gia hội giúp lễ trước khi vào chủng viện, 48% là người đọc sách, 41% là thừa tác viên ngoại thường cho Rước lễ và 32% là giáo lý viên. (Crux 16/04/2024)
ĐTC Phanxicô: Tôi rất yêu mến Đức Piô X và đã luôn yêu mến ngài
Vatican News
Trước hết, Đức Thánh Cha nêu lên những lý do ngài yêu mến Đức Piô X. Ngài nhắc lại rằng khi còn làm Giám mục Buenos Aires, vào ngày lễ kính nhớ Thánh Piô X, ngài thường quy tụ các giáo lý viên của tổng giáo phận, bởi vì Đức Piô X luôn được biết đến là vị Giáo hoàng của giáo lý. Đức Thánh Cha nhận định rằng Đức Piô X “đã giúp cho toàn thể Giáo hội hiểu rằng nếu không có Bí tích Thánh Thể và không có sự hấp thụ các chân lý được mặc khải, đức tin cá nhân sẽ suy yếu và chết đi”.
Còn có những lý do khác khiến Đức Thánh Cha yêu mến vị Giáo hoàng tiền nhiệm. Ngài cảm ơn Đức Piô X về việc thành lập Học viện Giáo hoàng về Kinh Thánh ở Roma. Ngài cũng yêu mến và cảm thấy gần gũi với Đức Piô X là người đã đau buồn trước chiến tranh thế giới và kêu gọi những quốc gia quyền lực hạ vũ khí. Ngài yêu mến Đức Piô X bởi vì đó là vị Giáo hoàng muốn ở bên những người bé nhỏ, người nghèo, người thiếu thốn, nạn nhân của động đất, người bất hạnh và những người đau khổ vì thảm họa thiên nhiên và những bất công của cuộc sống; một biểu tượng của công việc mục vụ.
Do đó, Đức Thánh Cha nhận định cuốn sách của cha Lucio Bonora là một nghiên cứu độc đáo và cụ thể, bởi vì qua các huy chương, những bức chân dung bằng hình ảnh hoặc điêu khắc cùng thời với thánh Piô, ngay cả trước khi ngài được phong chân phước, cho thấy lòng yêu mến và tôn kính đối với thánh nhân của những người bình thường, của các tín hữu, các linh mục, các giáo xứ, học sinh của các trường Công giáo rải rác trên khắp thế giới, cũng như của các nhà trí thức và chính khách.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha đã vui lòng chấp thuận cuộc hành hương thánh tích Thánh Piô qua các Giáo phận Treviso, Padova và Venezia, và ngài cũng vui mừng khi hàng ngàn tín hữu tôn kính thánh tích thánh Piô X. Đức Thánh Cha cũng nhắc rằng Thánh Piô X không bị giới hạn ở thời quá khứ hay một nhóm đặc thù nào, nhưng thuộc về Giáo hội ngày nay, thuộc về đoàn dân của Giáo hội, nghĩa là đối với mọi người, những người đã được rửa tội ở mọi lứa tuổi, những người muốn trung thành với Tin Mừng và với các Mục tử của mình, đồng thời cảm nhận các vị thánh là những mẫu mực thực sự của cuộc sống và là những người bạn đồng hành chân thành của họ trên đường theo Chúa Giêsu và Tin Mừng, dựa trên những gương sáng và những lựa chọn của cuộc đời họ. (CSR_1628_2024)