Phỏng vấn ông Bùi Kiến Thành: Tại sao phải giết Tổng thống Ngô Đình Diệm?
Viết bởi Mạc Lâm/ RFA
RFA ngày 29.10.2015 -- LGT của người chuyển: Bùi Kiến Thành sinh năm 1931, con trai của Bác Sĩ Bùi Kiện Tín, làm Trưởng phòng Ngoại hối, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam từ 1954 đến 1956, được xem như chính khách trẻ nhất thường xuyên ra vào Dinh Gia Long. Khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ông ở tù 15 tháng thì
được ân xá rồi trốn dưới hầm một tàu viễn dương sang Pháp.[2] Hoạt động trong lĩnh vực địa ốc từ 1965 đến 1983, ông trở thành nhà kinh doanh địa ốc thành công ở Pháp.
Phỏng vấn của Mạc Lâm
Cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 đã đưa đất nước Việt Nam vào một khúc quanh lịch sử. Cái chết của hai anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông là Ngô Đình Nhu, những tướng lãnh tham gia cuộc đảo chánh không ai biết người ra lệnh thủ tiêu hai ông là ai nhưng sau khi tro bụi của cuộc cách mạng lắng xuống những gương mặt đứng phía sau giật dây cho cuộc tàn sát ấy bắt đầu được điểm danh và lịch sử luôn công bằng cho từng người một.
Mặc Lâm phỏng vấn ông Bùi Kiến Thành, một nhân chứng lịch sử, một người bạn, người cố vấn cho Tổng thống Ngô Đình Diệm từ những ngày đầu tiên khi từ Mỹ trở về Việt Nam chấp chính cho tới khi biến cố xảy ra.
Cái tốt và chưa tốt của chế độ Đệ nhất Cộng hòa
Mặc Lâm:Thưa ông Bùi Kiến Thành, xin cảm ơn ông cho phép chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này. Ngày 1 tháng 11 hàng năm có lẽ ai theo dõi tình hình Việt Nam trong lịch sử đương đại đều nhớ là ngày mà cuộc đảo chính không những lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm mà còn giết cả hai anh em ông ấy tại Sài gòn vào năm 1963. Ông có nhận đình gì về ngày lịch sử này thưa ông?
Bùi Kiến Thành: Có lẽ cũng là một ngày chúng ta nên ôn lại cái được và cái chưa được cái tốt và cái chưa tốt của chế độ Đệ nhất Cộng hòa để chúng ta rút bài học.
Mặc Lâm: Vâng, trước khi đi sâu hơn vào chi tiết xin ông vui lòng cho biết về mối quan hệ của ông với Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Bùi Kiến Thành: Trong khi tôi học ở Columbia vào những năm 1952 cho tới năm 1954 lúc đó thì chí sĩ Ngô Đình Diệm đang ở New Jersey. Cứ mỗi cuối tuần thì ông qua New York thăm chơi với tôi cùng một anh bạn nữa là anh Bùi Công Văn, ảnh là phóng viên của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Cứ tối thứ Bảy thì ông qua ngồi nói chuyện suốt đêm cho tới sáng Chúa Nhật thì ông đi lễ, đi lễ về rồi lại nói chuyện suốt ngày, tới chiều Chúa Nhật thì ông trở lại tu viện Maryknoll.
Chúng tôi sống với nhau trong cảnh bạn cố tri trao đổi như thế trong suốt gần hai năm tại New York trước khi ông Diệm về bên Pháp và sau đó về làm Thủ tướng chánh phủ.
Sau khi ông Diệm về làm Thủ tướng chính phủ chấp chánh vào ngày mùng 7 tháng 7 thì ông Diệm gửi điện qua New York và Washington yêu cầu tôi trở về để giúp đỡ. Ngày 23 tháng 8 năm 1954 sáu anh em chúng tôi là cựu sinh viên của các đại học Mỹ về giúp cho ông Diệm trong thời kỳ rất là khó khăn. Làm Thủ tướng mà không có cảnh sát không có quân đội chỉ vỏn vẹn có 27 sĩ quan đi theo mà thôi.
Cả một đất nước do Pháp đang cai trị vì vậy khi nắm lại quyền tự do, quyền tự chủ, quyền độc lập trong thời kỳ đó rất là khó khăn vì vậy chúng ta phải đánh giá cao việc ông Diệm bình định được tình hình, đưa quân Pháp ra khỏi nước Việt Nam một cách ổn định và xây dựng nền đệ nhất cộng hòa. Điều này khi nghiên cứu lịch sử và đánh giá cao tinh thần của cả một thời kỳ không riêng gì ông Diệm mà những người đi theo hỗ trợ giúp đỡ cho ông Diệm, những nhân sĩ ở miền Nam, nhân sĩ ở miền Trung, miền Bắc… tất cả đều có công lớn đã xây dựng chế độ đệ nhất cộng hòa, nhưng rất tiếc rằng sau đó chúng ta không làm được những chuyện ta cần phải làm để đến nỗi bị đổ vỡ.
Mặc Lâm: Thưa ông trong khi gần gũi với Thủ tướng Ngô Đình Diệm ông và các người được Thủ tướng mời về cụ thể làm những việc gì để giúp cho chính phủ còn non nớt lúc ấy?
Bùi Kiến Thành: Tôi bên cạnh ông Diệm suốt ngày mà! Khi tôi về tại Dinh Gia Long ngày 23 tháng 8 đó ăn cơm trưa với ông Diệm và một số Bộ trưởng, Tổng trưởng, có những nhân hào nổi tiếng của Việt Nam như ông Phạm Duy Khiêm, Bác sĩ Bùi Kiến Tín, Nguyễn Văn Châu… chúng tôi hết sức khẩn thiết làm bất cứ việc gì để ổn định tình thế, tôi ở suốt ngày suốt đêm trong dinh một thời gian rồi sau đó tôi mới dời ra ngoài. Sau khi bố trí lại thì ngày nào đêm nào tôi cũng vào trong dinh để mà làm việc với Thủ Tướng rồi Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Một là bên Dinh Gia Long, sau nữa khi dời sang Dinh Độc Lập tôi cũng sát cùng ông Diệm như một cộng sự đặc biệt vì cái chỗ thân tình từ khi còn nhỏ kia, khi tôi mới 15-16 tuổi, hồi đó gia đình tôi thân với ông Diệm lắm. Chính ông cụ tôi đã cất giấu ông Diệm trong khi bị Nhật tìm bắt ông. Sau này khi không còn tham chính nữa ông cụ tôi tiếp tục làm y sĩ riêng cho Tổng Thông đến ngay ông ấy bị sát hai. Cái thân tình ấy dẫn tới chỗ hết sức gần với nhau. Tất cả những chuyện thâm cung bí sử, khó khăn trong thời kỳ tháng 8 tháng 9 tới tháng 12 năm 1954 thì thật sự hội lại chỉ có 4 người trong Dinh Gia Long thôi: Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Bác sĩ Bùi Kiến Tín và Bùi Kiến Thành. Chúng tôi bàn với nhau cái gì cần phải làm. Làm sao nắm được quân đội, làm sao đối kháng với Bình Xuyên, làm sao giải tỏa được thành phố Sài Gòn xây dựng lên một chính quyền được nhân dân ủng hộ.
Riêng về tôi đặc biệt là có trách nhiệm giúp cho Tổng thống, khi ấy là Thủ tướng, quan hệ với các phái bộ đặc biệt của Mỹ từ bên Mỹ gửi qua chứ không phải quan hệ với sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn thân với Pháp, ông đại sứ Mỹ Donald Heath rất thân với Pháp, sau đó thì Lawton Collins cũng thân với ông Cao Ủy Pháp Paul Ely. Công việc của tôi và của ông Ngô Đình Nhu là bắc cây cầu trực tiếp với chính phủ Mỹ ở Washington, qua những phái bộ đặc biệt của Hoa Kỳ gửi qua trong đó có Trung tướng O’Daniel, Đại tá Lansdale sau này là General Lansdal, Paul Hardwood (Trưởng phái bộ CIA), việc của tôi làm lúc ấy cũng chỉ trong 4 người mà thôi bao nhiêu là công việc hết sức khó khăn.
Xây dựng được tờ báo Tự Do là việc tôi hết sức thú vị. Tôi nói với Thủ tướng mình cần có cơ quan ngôn luận tự do. Tờ báo đó được Bác sĩ Bùi Kiến Tín, lúc đó là Bộ Trưởng Bộ Thông tin, ký giấy phép. Tôi tập hợp những nhân sĩ ở Bắc Hà vào làm trong đó có Tam Lang, có Đinh Hùng, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong, Vũ Khắc Khoan …làm ban biên tập để cho tờ báo Tự do có tiếng nói tự do trong thời kỳ hết sức khó khăn như thế. Chỉ có tờ báo Tự do lúc ấy là thực sự nổi tiếng, có tiếng nói tự do trong một khung cảnh rất khó khăn và để chống lại những tờ báo thiên Pháp hay thân các chế dộ trước kia của Sàigon và những đài phát thanh khi đó tại Sài Gòn theo phe quân đội chửi bới Ngô Đình Diệm suốt ngày. Tôi có nhiệm vụ lập nên đài phát thanh “Tiếng nói Quốc dân đoàn kết”, một đài phát thanh đặc biệt để nói lên những sự việc như thế nào trong khi chúng ta phải xây dựng một chính quyền độc lập đó là việc Thủ tướng Ngô Đình Diệm giao cho tôi làm.
Mặc Lâm: Xin ông nói rõ hơn tại sao đã là thủ tướng mà còn bị đài phát thanh bên quân đội chống phá bằng cách chửi bới công khai như ông vừa nói, phải chăng còn một thế lực nào công khai chống lại Thủ tướng vào lúc sơ khai ấy hay không?
Bùi Kiến Thành: Thủ tướng Ngô Đình Diệm lúc ấy làm gì có quân? Thủ tướng mà không nắm cảnh sát, công an. Công an trong tay của Bình Xuyên là một đám giang hồ, cướp của. Pháp cho họ quản lý sòng bạc Đại thế giới, Kim Chung… Cảnh sát thì không nắm được còn quân đội thì trong tay của Trung tướng Nguyễn Văn Hinh. Trung tướng Hinh là một người thân Pháp con của ông Nguyễn Văn Tâm, không phải là người ủng hộ cho chính phủ Ngô Đình Diệm vì vậy khi làm Thủ tướng ông Ngô Đình Diệm ngồi trong dinh nhưng cái đài phát thanh là của người khác.
Đài Quốc gia cũng như đài quân đội thì người Pháp, hay thân Pháp, quản lý cứ mỗi ngày chửi bới Ngô Đình Diệm thế này, chửi bới Ngô Đình Diệm thế kia…ngồi trong dinh mà không giải quyết được vấn đề đó vì vậy phải kiên trì xây dựng lực lượng mình lên để giải quyết điều đó.
Xây dựng lực lượng bằng cách thu dụng những nhân sĩ tài ba của đất nước vào ủng hộ mình đồng thời cũng phải có tiếng nói qua cái đài phát thanh “Tiếng nói Quốc dân đoàn kết”, tiếng nói qua tờ báo Tự Do lúc đó đóng một vai trò quan trọng phổ biến tâm tư nguyện vọng, chính sách của Ngô Đình Diệm cho dân chúng được biết. Vấn đề đó cực kỳ quan trọng và tôi được giao trọng trách tổ chức hai việc đó trong những ngày đen tối nhất sau khi ông Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, tức là những ngày trong tháng 8 tháng 9 năm 1954 cho tới đầu năm 1955 khi bình định xong thì trong hai cơ quan đó, “Đài Tiếng nói quốc dân đoàn kết” không tiếp tục nữa nhưng tờ báo Tự Do vẫn tiếp tục rất tốt. Tờ Tự Do là nguồn dư luận rất tốt trong thời kỳ đó, trong chánh thể đệ nhất cộng hòa.
Không có tổ chức chính trị nồng cốt
Mặc Lâm: Báo chí quốc tế cũng như giới tướng lãnh đa số cho rằng chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ bởi những tuyên bố gây sự giận dữ trong và ngoài nước của bà Ngô Đình Nhu cùng với những hành động đàn áp Phật giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm. Ông có chia sẻ gì về việc này?
Bùi Kiến Thành:: Đấy chỉ là một phần thôi thực sự ra chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ còn nhiều vấn đề cốt lõi hơn nữa. Ông Ngô Đình Diệm là một người hết sức yêu nước và có công tâm nhưng ông Diệm không có kinh nghiệm tổ chức. Còn ông Nhu thì rất uyên thâm về vấn đề học thuật, ông học rất giỏi về tổ chức thư viện, ông nghiên cứu rất tốt nhưng không có tài năng tổ chức lực lượng chính trị. Nếu quản lý một nhà nước mà không có tổ chức thì làm sao? Vì vậy cho nên cái Đảng Cần lao của ông Nhu không có tổ chức tốt còn cái “Phong trào cách mạng quốc gia” mà ông Bác sĩ Tín làm chủ tịch sáng lập thì nó cũng chỉ là phong trào thôi. Sau một phong trào rồi thì nó lặng im. Quyền chính trị trong nước là ở trong đảng, mà Đảng Cần Lao không được tổ chức tốt vì vậy cho nên chế độ Ngô Đình Diệm không tồn tại được vì không có tổ chức chính trị nồng cốt để làm việc.
Sau nữa còn có cái lỗi ở chỗ lầm lẫn hai việc khác nhau: quản lý các vấn đề nhà nước là việc quản lý hành chính, còn tổ chức nồng cốt do một chính đảng đứng lên để đóng vai trò cột trụ cho một đất nước thì là một việc khác. Do lầm lẫn ở vai trò lãnh đạo chính trị và lãnh đạo hành chính cho nên chế độ Ngô Đình Diệm tập trung nhiều hơn về vấn đề hành chính mà quên đi vấn đề lãnh đạo chính trị, xây dựng nồng cốt tức là sự ủng hộ của nhân dân, làm sao để vấn đề đảng được nhân dân ủng hộ…
Chính phủ Ngô Đình Diệm không làm được, không xây dựng được một đảng chính trị thật sự của dân, do dân và vì dân vì vậy cho nên không đứng vững được và vì thế có thể nói sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm không phải là vấn đề nhỏ bé như chuyện bà Nhu nói cái này cái kia. Có! nó có ảnh hưởng nhưng chuyện đó là chuyện nhỏ đối với khả năng xây dựng nên một chính đảng mạnh thì chính phủ Ngô Đình Diệm không làm được.
Mặc Lâm: Vậy phải chăng do điều mà người ta nhận xét về ông Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩa dân tộc đã khiến ông bị người Mỹ lo sợ vì không theo sự dẫn dắt của họ, đặc biệt là khi Mỹ muốn đổ quân vào Việt Nam thưa ông?
Bùi Kiến Thành: Khi Mỹ muốn vào Việt Nam năm 1962 ông Diệm nói với người Mỹ rằng các ông nên nhớ trên đất nước tôi trong 4 nghìn năm lịch sử không có một chế độ nào đi theo quân đội nước ngoài mà có thể được nhân dân ủng hộ. Vì vậy ngày nào quân đội Mỹ đặt chân lên đất nước này chúng tôi sẽ mất chính nghĩa, mà khi mất chính nghĩa thì các ông không thể nào thắng được và chúng tôi cũng phải thua theo. Vì vậy ngày nào quân Mỹ đổ bộ lên đất nước này thì kể như ngày đó chính nghĩa Việt Nam đã mất rồi, chúng tôi không thể chấp nhận được.
Người Mỹ không chấp nhận cái lý luận của ông Ngô Đình Diệm nên họ tìm cách lật đổ ông Diệm đi, đó là vấn đề cốt lõi chứ không phải do bà Nhu thế này thế khác. Bà Nhu gây ra nhiều tai tiếng, nhưng không có vai trò chánh hay lý do chánh làm sụp đổ chính phủ Ngô Đình Diệm.
Mặc Lâm: Thưa ông, một câu hỏi cho tới ngày nay vẫn nằm trong bí mật, ông thân cận với Tổng thống Ngô Đình Diệm nên có lẽ hiểu được phần nào câu trả lời: ai ra lệnh giết anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm và tại sao phải giết họ khi đã nắm tất cả quân đội trong tay và họ đã bị bắt?
Bùi Kiến Thành:Tôi không có thông tin chính xác để nói về vấn đề này nhưng suy luận từ một lần đảo chính trước do Nguyễn Chánh Thi chủ mưu ông Diệm đã lập lại ván cờ bằng cách chỉnh đốn lại, thì lần này Dương Văn Minh và những người theo Dương Văn Minh nghĩ rằng khả năng ông Nhu ông Diệm có đủ bản lĩnh và đủ sự ủng hộ của những quân đoàn còn theo ông ta để lập lại thế cờ thì rất khó khăn cho phe đảo chính. Vì vậy người ta không chấp nhận để cho ông Diệm ông Nhu tồn tại để mà có cái rủi ro đấy. Tôi không có thông tin ai là người ra lệnh giết hai anh em ông Diệm nhưng tôi chắc chắn rằng những người theo phe đảo chánh và nhất là phía Mỹ, thấy nguy cơ Ngô Đình Diệm có thể lập lại thế cờ rất là nguy hiểm vì vậy không để cho Ngô Đình Diệm sống. Đấy là quyết định chính trị chiến lược trong tranh đấu chứ không phải ai làm, hay ai ra lệnh không quan trọng, vấn đề phải tiêu diệt anh em ông Ngô Đình Diệm là để tránh nguy cơ bị lật trở lại.
Mặc Lâm: Trong ngày đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963 ông đang làm gì và có theo dõi hay tham gia trong một vai trò nào đó hay không?
Bùi Kiến Thành: Hôm đó tôi đang đi làm việc ở ngoài thì nghe phong phanh ngày hôm đó có bạo động. Tôi gọi về trong dinh thì gặp ông già Ẩn, tức là cận vệ của Tổng thống tôi hỏi anh Ẩn hiện giờ có vấn đề gì không vậy? tôi nghe ngoài này xào xáo lắm, thì ông Ẩn trả lời không có vấn đề gì đâu anh Thành ơi, mình hoàn toàn kiểm soát được mọi chuyện!
Đó là một cái chủ quan đầu tiên tại vì trong buổi sáng hôm ấy ông Nhu đã có sắp xếp một số chiến lược, chiến thuật nhằm giải quyết vấn đề bạo động nhưng vì chủ quan nên không thực hiện được. Tôi nói với ông Ẩn: coi chừng nhé nếu cần gì thì tôi vào trong dinh ngay để giúp cho các anh. Ông Ẩn nói không sao đâu anh Thành, nên tôi về nhà ăn cơm trưa và chờ cho tới hai ba giờ chiều không thấy gì xảy ra. Nhưng khoảng ba bốn giờ chiều tôi gọi lại thì tình hình bế tắc hết tôi không còn làm gì được nữa.
Ngày hôm đó tôi ở Sài Gòn, tôi muốn làm một cái gì đó để giúp đem lại trật tự an ninh nhưng mà cái thời thế có lẽ như là định mệnh của đất nước mình không cho mình làm gì được trong lúc ấy. Có làm gì được nữa trong lúc ấy khi thế lực của kẻ chủ mưu là người Mỹ đứng sau lưng những ông tướng của mình? thế lực ấy nó quá mạnh chúng ta không làm gì được.
Việc đảo chánh ông Ngô Đình Diệm không phải là chuyện của Dương Văn Minh, Dương Văn Minh chỉ là một con cờ thôi, cũng như Trần Văn Đỗ cũng như mấy ông kia củng chỉ là con cờ còn người chỉ huy, đưa ra tất cả những chiến thuật chiến lược để làm việc này. là người Mỹ mà người đại diện cho Mỹ làm việc này là đại tá Conein, ngồi thường trực tại Bộ Tổng tham mưu để điều khiển mấy ông tướng kia thành ra tất cả bộ tham mưu lúc đó nghe theo lời của một anh đại tá mật vụ của Mỹ, anh thấy có đau khổ chưa?
Mặc Lâm: Theo ông thì tại sao các tướng lĩnh lúc ấy lại nghe theo người Mỹ? Vì những hứa hẹn quyền lực hay âm mưu chính trị nào khiến họ trở thành như vậy?
Bùi Kiến Thành: Do những ông tướng không nghiên cứu tình hình đất nước, do không hiểu lý tưởng, không hiểu được chính nghĩa như thế nào mà đi theo lời của nước ngoài để mà sát hại một tổng thống, tưởng mình làm được cái gì nhưng cuối cùng cũng đầu hàng cộng sản mà thôi chứ làm được gì đâu.
Cái tội của những anh đảo chính Ngô Đình Diệm là tội ngu dốt không biết tình hình kinh tế, tình hình chính trị, tình hình chiến lược trên thế giới nó như thế nào, họ làm cái việc tự mình sát hại mình, đi đến chỗ 10 năm sau phải chắp tay đầu hàng cộng sản.
Đấy là cái tội của các anh làm cho bao nhiêu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa phải chết, đó là tội của các anh vì các anh không hiểu gì về chính trị, hữu dũng vô mưu, đưa đất nước đến chỗ suy tàn.
Nếu chúng ta có cơ hội thì còn thương lượng được giữa miền Bắc với miền Nam, cũng như Tây Đức và Đông Đức có thể thương lượng với nhau. Chúng ta phải có nội lực có sức mạnh để mà thương lượng chứ không phải giao đất nước cho ngoại bang, giao cho Mỹ rồi đi đến chỗ chết.
Đó là tội của những người tự cho mình giỏi hơn người khác. Không thể nào một dân tộc một đất nước nào giữ được chính nghĩa của mình bằng cách bước theo những đội quân nước ngoài bắn phá làng xóm cả. Không thấy cái đó là mất chính nghĩa. Đầu óc các anh ở đâu mà anh vác súng đi theo người Mỹ vào trong làng xóm bắn giết dân chúng mình, như vậy là không thể được. Vì không thấy nên anh làm hại cả một thế hệ, làm hại cả một đất nước.
Mặc Lâm: Nhiều tài liệu lịch sử nói là chính phủ Ngô Đình Diệm từng có ý định nói chuyện với miền Bắc, ông có ý kiến gì về những chi tiết này?
Bùi Kiến Thành: Khi chính phủ Ngô Đình Diệm thấy cái nguy cơ lính Mỹ đổ bộ lên Việt Nam rồi mà không rút ra được thì chiến tranh sẽ tràn lan, mà chiến tranh khi đã tràn lan rồi thì dù cho quân đội Mỹ có đánh thẳng tới Hà Nội đi nữa thì chúng ta vẫn thua như thường tại vì quân đội Trung Quốc nó sẽ vào vì nó không để cho mình tiến qua biên giới của nó. Vì vậy Miền Bắc sẽ chiến đấu đến cùng để không cho quân của Trung Quốc qua chiếm đóng Việt Nam.
Vì vậy nhìn về chiến lược thì hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu thấy rõ ràng cái nguy cơ tác hại cho cả miền Nam và miền Bắc. Hà Nội cũng có những đầu óc thông minh để mà hiểu rõ sự nguy hiểm khi chiến tranh lan rộng như thế. Đó là đồng thuận về tinh thần là làm sao phải làm dịu chiến tranh xuống để tránh việc tàn phá đất nước. Giữa Nam Bắc Việt Nam phải có sự hiểu biết và tìm giải pháp tránh chiến tranh. Muốn làm việc đó thì Việt Nam phải mạnh, không mạnh thì không nói chuyện được.
Qua sự trung gian của đại sứ Ấn Độ trong Ủy ban Đình chiến, và Đại sứ Pháp…qua các cuộc đi săn bắn của ông Nhu trên vùng biên giới hai bên đã có những cuộc chia sẽ, chưa hẳn là thương thảo nhưng đã liên lạc được với nhau rồi. Khi Mỹ nghe như thế thì họ nói chính phủ Ngô Đình Diệm phản thùng và nó đưa việc này ra cho mấy ông tướng lãnh Việt Nam bảo là ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu bán nước cho cộng sản, vì vậy anh phải lật đổ Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Diệm đi để “cứu nước” không thì họ theo cộng sản, “bán đứng” các anh cho cộng sản….
Những đầu óc suy yếu của những anh tướng hữu dũng vô mưu không biết gì cả, nghe như thế lại tưởng rằng mình là người ái quốc ái quần, lật đổ Ngô Đình Diệm để cứu đất nước khỏi họa cộng sản.
Tôi đề nghị anh đọc cuốn sách “Robert Kennedy and His Time” của Arthur Schlesinger Jr. viết, trong đó có một chương nói về tình hình Việt Nam. (*)
Trong chương đó có viết Bùi Kiến Thành nói cái gì, Ngô Đình Diệm nói cái gì và Tổng thống Kennedy đã quyết định cái gì. Rất tiếc rằng Tổng thống Mỹ không thực hiện được. Tháng 9 năm 1963 Tổng thống Kennedy đã quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam rồi nhưng do cuộc bầu cử năm 1964 nên không thể làm được cho nên chờ tới năm 64 sau khi bầu xong thì sẽ làm, nhưng rất tiếc vận hạn của nước ta và nước Mỹ là Kennedy bị bắn chết, Ngô Đình Diệm bị lật đổ Việt Nam đi vào cuộc chiến tranh tàn khốc do sự thiếu hiểu biết của một số người nông cạn của phía Mỹ cũng như Việt Nam.
Mặc Lâm:Xin cám ơn ông
QUỐC TÁNG 02-11-1963 : CÁI CHẾT ĐAU THƯƠNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Viết bởi Nguyễn Thu Trâm
VIẾT CHO NGÀY 01 THÁNG 11: MUÔN ĐỜI THÀNH KÍNH TRI ÂN NGÔ TỔNG THỐNG, VỊ KHAI SÁNG NỀN ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA
- Đối với phần lớn người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì sự kiện ngày 01 tháng 11 năm 1963 mãi mãi là một cơn ác mộng. Nhất là bản tin ngắn được phát đi vình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu đã thực sự làm suy sụp tinh thần của hầu hết đồng bào di cư, nhất là đồng bào công giáo. Đối với hầu hết người Bắc di dân thì cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và sự cáo chung của nền Đệ Nhất Cộng Hòa là một hồi chuông báo tử cho nền cộng hòa ở miền Nam. Những giáo dân di cư, trong đó có cả ông nội tôi, đã mường tượng một ngày quân đội cộng sản tiến vào Sài gòn, và một cuộc “di cư” nữa để lánh nạn cộng sản sẽ diễn ra sau đó.
Suốt những ngày tiếp theo của tháng 11 kinh hoàng năm đó, gia đình ông bà chúng tôi cùng tất cả giáo dân, giành hầu hết thời gian đến nhà xứ để cầu nguyện cho Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu, những đại ân nhân đã giúp cho gia đình chúng tôi cùng hơn một triệu đồng bào khác thoát được hiểm họa cộng sản ở miền Bắc, bởi sau hai năm miền Bắc cải cách ruộng đất, với chính sách tố khổ, cộng sản đã mang đến bao nỗi tang thương và kinh hoàng cho những người dân xứ Bắc.
Chắc sẽ có nhiều người đặt vấn đề rằng với thời gian 300 ngày để di cư, thì cứ tùy nghi ra đi chứ cần gì phải có ai giúp đở? Sự thật hoàn toàn không đúng như vậy, vì chính quyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức chính quyền cộng sản của ông Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để ngăn chặn người ta di cư sang xứ tự do ở miền Nam, bằng nhiều hình thức đe dọa, bưng bít thông tin, kể cả khủng bố tinh thần và tuyên truyền xuyên tạc chính sách di cư cũng như xuyên tạc về chế độ Cộng Hòa để giảm thiểu số người di cư vào vùng tự do đến mức thấp nhất. Nhân ngày hiệp kỵ lần thứ 49 của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 01 tháng 11 năm 2012, như một nén hương lòng, để ghi tạc công đức của Cụ Ngô, chúng tôi xin thuật lại hành trình lánh nạn cộng sản lần thứ nhất của gia đình chúng tôi, cũng như của hơn một triệu đồng bào miền Bắc, theo nhật ký hành trình của ông tôi, nguyên là một Chánh Tổng ở Văn Giang, Hải Hưng.
Sau khi quân đội pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa chính phủ của Hồ Chí Minh và chính phủ Cộng Hòa Pháp, chia đôi Việt Nam thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức là Cộng Sản Việt Nam. Từ Vĩ tuyến 17 đến Cà Mau thuộc Quốc Gia Việt Nam. Việc đất nước phải bị chia cắt làm hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau là một thảm họa của dân tộc Việt Nam, mà ít nhất đã một lần xãy ra trong lịch sử của đất nước khi Trịnh – Nguyễn Phân Tranh kéo dài hơn 100 năm từ 1627 cho đến năm 1789 khi Hoàng Đế Quang Trung kéo đại binh ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh vào khuya tối mùng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 mới hoàn toàn chấm dứt 100 năm chiến tranh giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn mang bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân Việt giữa hai bờ sông Gianh. Có một điều khác biệt trong lần chia cắt đất nước lần này là giới tuyến không còn là sông Gianh mà là sông Bến Hải, và “Họa trung hữu phúc”, cũng “nhờ” Hồ Chí Minh ký hiệp ước chia cắt đất nước mà ít nhất là một nữa dân tộc Việt ở bờ nam sông Bến Hải đã không phải chịu sự thống trị sắt máu của cộng sản ngót 21 năm từ 1954 cho đến 1975.
Trại Tạm Cư Cho Người Bắc Mới Di Cư Vào Nam
Ít nhất cũng hơn 1 triệu người Bắc chúng tôi cũng tránh được họa cộng sản trong ngần ấy năm, nhờ vào Điều 14 phần (d) của Hiệp định Geneva cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến, tức việc di cư sẽ chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày để di cư.
Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Geneve được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký một Hiệp định với Quốc gia Việt Nam, công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập. Theo đó chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm với những hiệp định quốc tế được ký bởi Pháp trước đó nhưng có liên quan tới họ, cũng như không còn bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do Pháp ký sau này.
Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam và đại diện phái đoàn Quốc Gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:
“... Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở."
Tuy vậy, lời phản kháng và đề nghị của đại diện Quốc gia Việt nam đã không được Hội nghị bàn tới. Ngoại trưởng Trần văn Đỗ từ Genève tuyên bố với các báo chí như sau: "Từ khi đến Genève, phái đoàn không bao giờ được Pháp hỏi về ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng tuyển cử. Tất cả nhưng vấn đề đó đều được thảo luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình".
Tuy lên tiếng phản đối, nhưng sau khi hiệp định được kí kết, Chính phủ và quân đội Quốc Gia Việt Nam vẫn cùng quân Pháp tập kết về phía nam vĩ tuyến 17. Ngày 28 tháng 4 năm 1954, Uỷ Ban Bảo vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam tìm cách kêu gọi dân chúng di cư vào Nam để lánh nạn cộng sản. Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ Ban Di Cư được thành lập. Ngày 30 tháng 7 năm 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phát biểu cổ vũ dân chúng miền Bắc di cư vào miền Nam để lánh nạn cộng sản.
Một ngày sau khi Hiệp định được ký kết, tức ngày 22 Tháng Bảy, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối sự chia đôi đất nước.
Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”., và khẳng định: “Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”. Đây là lần đầu tiên, Hồ Chí Minh bày tỏ lập trường của Quốc Tế Cộng Sản về chiến lược nhuộm đỏ cả Đông Dương, và quyết tâm dùng bạo lực cách mạng, dùng máu xương của đồng bào Việt Nam trong một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn để mở rộng quyền thống trị của Hồ Chí Minh và của chế độ cộng sản trên toàn bộ đất nước.
Sở dĩ chúng tôi phải nêu lại những sự việc trên là để quý độc giả cũng như các lãnh đạo của cộng sản Việt Nam hiện nay thấy được rằng việc chia cắt đất nước là tội ác của Hồ Chí Minh và Thực dân Pháp, chứ hoàn toàn không có sự can dự của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam hay của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Sau đó, hậu thân của Quốc gia Việt Nam là Việt Nam Cộng hòa, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã từ chối tổ chức tuyển cử thống nhất Việt Nam. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa được thành lập trên cơ sở Quốc Gia Việt Nam. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm tuyên bố: “Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ" nhưng "nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc”. Đây là một nhận định vô cùng sáng suốt của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bởi theo thể thức “đảng cứ dân bầu” của cộng sản, thì chắc chắc toàn thể cử tri miền Bắc buộc phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh, bởi họ biết rằng chỉ có làm như thế họ mới mong được yên phận, chứ nếu chọn lựa theo lương tri của họ, để bầu cử cho chính phủ Quốc Gia Tự Do, thì chắc chắn họ sẽ bị quy kết là Việt Gian, rồi cả gia đình, họ tộc sẽ bị đấu tố bị tru diệt. Trong khi đó ở miền Nam tự do, người ta có quyền lựa chọn ngay cả việc chống đối lại chính phủ mà không bao giờ sợ phải bị trả thù, không bao giờ bị đấu tố, thì thiếu gì những thành phần thân cộng hoặc những kẻ phá thối, sẳn sàng bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh để thủ tiêu nền Cộng Hòa còn non trẻ.
Trở lại với việc di cư vào Nam, gia đình chúng tôi cũng như hầu hết đồng bào Bắc phần vào thời gian đó, những vụ đấu tố trong cải cách ruộng đất bắt đầu từ năm 1953 là một ác mộng kinh hoàng, và cả những vụ khủng bố, thanh trừng của cộng sản đối với những sỹ phu yêu nước, những chính khách thuộc các đảng phái khác, luôn luôn là một nỗi ám ảnh về những cái chết oan nghiệt hãi hùng, cho nên ai cũng mong muốn được thoát khỏi ách thống trị của cộng sản, ai ai cũng muốn được vào miền Nam tự do, nhưng khốn nạn cho nhiều người Bắc chúng tôi, cơm chưa đủ ăn, áo chưa đủ mặc thì làm sao có đủ chi phí cho hành trình từ quê nhà về đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam, dù chuyến hành trình từ bắc vào Nam là hoàn toàn miễn phí. Cũng như vào những năm cao trào vượt biên đi tìm tự do sau năm 1975, cả dân tộc Việt Nam đều muốn bỏ nước ra đi, cả cái cột điện mà đi được thì nó cũng đã đi rồi, nhưng đâu phải ai cũng có đủ vàng đủ bạc để chi phí cho những chuyến vượt biên đi tìm tự do này. Cho nên, chỉ có khoảng hơn một triệu người có đủ điều kiện để vào Nam trong suốt 300 ngày di cư. Bên cạnh cái nghèo khó cái đói rách đã ngăn chặn người miền Bắc di cư, thì chính sách tuyên truyền, xuyên tạc và khủng bố của chính quyền cộng sản cũng là một cản trở lớn. Những truyền đơn, bích chương của Liên Hiệp Quốc in ấn, phát hành để tuyên truyền, khích lệ và hướng dẫn cho dân chúng về chính sách di cư đều bị chính quyền tịch thu, không đến được tay của dân chúng, ngoài ra các cán bộ thôn xã còn đến từng nhà xuyên tạc chính sách của Liên Hiệp Quốc, cũng như đe dọa rằng những ai có ý định di cư vào Nam tức là những người có tư tưởng theo Việt gian, chống lại đảng, chống lại chính phủ của cụ Hồ, sẽ bị trừng phạt đích đáng! Nhiều gia đình có điều kiện ra đi, nhưng vì những sự đe dọa đó, họ sợ rằng nếu không đi được mà phải trở về thì chắc chắn là không còn đường sống với chính quyền cộng sản, mà đành nhắm mắt đưa chân, quyết định ở lại chung sống với cộng sản.
Do vậy mà phần lớn những người di cư vào Nam năm 1954 là những người từng là nạn nhân của cộng sản, từng bị tịch thu tài sản, nhà cửa ruộng vườn, vì bị quy vào thành phần địa chủ, phú nông hay tư sản, tiểu tư sản phản động ở các thành phố, là những người hiểu rằng họ không thể nào sống dưới chế độ cộng sản được mà phải quyết tâm bỏ lại cửa nhà để ra đi. Tuy nhiên, chính quyền cộng sản lúc bấy giờ vu cáo rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay "dụ dỗ di cư". Cộng sản Bắc Việt từng lu loa rằng “các Linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo” Sic. Đó là lối tuyên truyền xuyên tạc lố bịch và trơ tráo của công sản mà thôi. Thực tế các Linh mục, các Cha xứ là người hiểu rỏ hơn dân chúng về chế độ cộng sản, và các vị linh mục cũng là người nắm được đầy đủ thông tin từ Liên Hiệp Quốc về chính sách di dân, nên đã giảng giải, giúp giáo dân hiểu đích xác về vấn đề, cũng như khích lệ họ vượt qua sự sợ hãi mà mạnh dạn lên đường đi về miền tự do đó là lý do tại sao trong số hơn một triệu người di cư vào Nam thì đã có đến 800.000 người công giáo. Đây là công lớn của các vị mục tử.
Trong khi đó, có những bằng chứng cho thấy rằng những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của chính quyền cộng sản Bắc Việt của Hồ Chí Minh, khiếu nại về hành động cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị "cưỡng bách di cư" hay muốn trở về Bắc cả. Thế mới thấy rỏ được sự lường láo tráo trở của Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam.
Theo số liệu thống kê Uỷ hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến thì ngoài những người kinh là nạn nhân của chế độ cộng sản hoặc giáo dân Công giáo thì trong số dân di cư vào Nam, còn có những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên cũng đã gồng gánh con cái, theo đường bộ đến Hải Phòng để xuống tàu vào Nam.
Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệm lập Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.
Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư Lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng 8 đưa khoảng 1200 sinh viên miền Bắc vào Nam. Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.
Ngày 04 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhất, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.
Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là "tàu há mồm" tiếng Anh là Landing Ship Tank viết tắt là LST- đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan... giúp được 555.037 người "vô Nam". Ngoài ra cũng có tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng để tự túc di cư vào Nam, lánh nạn cộng sản miền Bắc.
Được sự trợ giúp tận tình của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, những người di cư chúng tôi rất sớm ổn định cuộc sống trên quê hương mới trên nhiều tỉnh thành ở miền Nam, với những tên gọi thân quen của những làng xã, phố thị bản quán của chúng tôi ở miền bắc như Bùi Chu, Phát Diệm hoặc Tân Hoá, Tân Thanh tức Thanh Hoá mới, Tân Phát tức Phát Diệm mới, Tân Hà tức Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê xưa trên vùng đất mới còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người những người vì lý tưởng tự do mà phải xa rời nơi chôn nhau cắt rốn.
Những tướng tá đã tham gia vụ đảo chánh ngày 01/11/1963
Biến cố 30 tháng Tư năm 1975, một lần nữa mang hiểm họa cộng sản đến cho toàn dân miền Nam, và cho cả người Bắc di cư chúng tôi, những người đã một lần phải lìa bỏ quê hương bản quán để lánh nạn cộng sản 21 năm về trước. Những tưởng chúng tôi đã vĩnh viễn thoát khỏi họa cộng sản rồi, nào ngờ đâu cái biến cố 01 tháng 11 năm 1963 lại báo hiệu cho chúng tôi về một hiểm họa cộng sản mới, và điều đó đã ứng nghiệm lời tiên liệu của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu phát biểu trong một cuộc họp của Tổng Đoàn Thanh Niên Dân Vệ tháng 10 năm 1962 tại Trung Tâm Huấn Luyện Thi Nghè, rằng “Nếu chính phủ này bị ngoại bang và tay sai lật đổ thì 12 năm sau (tức là năm 1975) Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị rơi vào tay cộng sản.”. Thế là hàng triệu người Việt lại phải ra đi tìm tự do mà không có bất cứ sự sắp đặt nào của quốc tế! Những người Bắc 54 của chúng tôi lại một lần nữa phải “di cư” để lánh nạn cộng sản thêm một lần nữa trong đời. Thật là ai oán! Sao chúng tôi lại phải hai lần tắm trên một dòng sông? Điểm khác biệt là lần này chúng tôi ra đi không được sự bảo trợ nào của quốc tế, mà chúng tôi phải trả chi phí cho chuyến đi bằng vàng, bằng máu và cả bằng sinh mạng của chúng tôi nữa. Bởi người Ta đã sát hại Cụ Diệm, vị ân nhân của chúng tôi rồi… còn ai nữa đâu để chở che cho chúng tôi trên bước đường gian nan đi lánh nạn cộng sản lần thứ hai này, trách sao chúng tôi không phải trả giá.
Nhiều người cho rằng chính những kẻ phản loạn và ăn cháo đái bát như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có, Lê Văn Nghiêm, Đỗ Mậu, Phạm Xuân Chiểu, Trần Văn Minh, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính và Lê Văn Kim… là những tội đồ của dân tộc, là những con chó phản chủ đã gián tiếp dâng miền Nam cho cộng sản để cả dân tộc phải lầm than… Riêng tôi là những người sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không dám phán xét ai cả, mà chỉ tâm niệm rằng vì nghiệp chướng của dân tộc Việt Nam quá nặng nên đã đã trót sinh ra Hồ Chí Minh và những kẻ “ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” đó mà thôi. Vả lại, trên bước đường di tản nhọc nhằn rồi những năm tháng sống lưu vong nơi đất khách quê người vật vờ như cái bóng, những kẻ đó chắc cũng đã nhận ra tội ác và lầm lỗi của mình đối với một vị tổng thống anh minh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc Việt Nam, khi vì tiền, bàn tay của họ đã vấy máu của Người đã ban phát cho họ những ân huệ, bổng lộc và chức tước... Đó là sự trừng phạt không nhỏ, và chắc chắn với những ray rức đó trong suốt những năm cuối đời trong kiếp sông lưu vong, khi nhắm mắt xuôi tay, trở về với đất, chắc chắn linh hồn của họ sẽ không bao giờ được siêu thoát. Nhất là lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt sẽ phán xét họ.
Tôi viết lên bài tâm bút này chỉ là để làm tròn ước nguyện của ông tôi trước khi qua đời cũng là xin được tỏ bày lòng tri ân của chúng tôi đối với NGÔ TỔNG THỐNG và Nền Để Nhất Cộng Hòa đã một lần giải thoát chúng tôi khỏi ách cộng sản vào năm 1954.
Như một nén hương lòng xin thành kính dâng lên Cụ với tấm lòng thành kính tri ân muôn đời muôn kiếp của con dân đất Việt.
Ông bà ta bảo: Nói phải củ cải cũng phải nghe, nhưng các cụ lại không dạy con cháu làm sao bịt được mồm những kẻ nói ngày chưa đủ tranh thủ nói đêm, cứ mãi cãi xùi bọt mép để giữ cho được Xã hội Chủ nghĩa Tham nhũng mất lòng dân ở Việt Nam.
Đó là câu chuyện đang râm ran trong xã hội trước ngày Đại hội đảng XII. Trí thức thì bức xúc, lão thành cách mạng buồn rầu, đảng viên mất định hướng và người dân hoang mang ở ngã ba đường.
Nhưng đảng không quan tâm. Lãnh đạo coi chuyện tiếp tục giữ vững độc lập gắn liền với Xã hội Chủ nghĩa Cộng sản cho Việt Nam bây giờ và mãi mãi sau này là ưu tiên quan trọng hàng đầu. Ai cũng biết họ đã lý luận cùn, lạc hậu và thoái trào hơn 20 năm, kể từ khi Thế giới Cộng sản tan rã năm 1991 ở Nga.
Riêng đội ngũ “dư luận viên” của Hội đồng Lý luận Trung ương và Ban Tuyên giáo thì không. Họ quan niệm “còn đảng còn mình” như lực lượng Công an được học tập từ phát biểu năm 1959 của nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn ("Công an là vũ khí sắc bén, là trụ cột của Đảng, Đảng giao cho Công an nhiệm vụ bảo vệ Đảng. Công an phải thấy Đảng giao vận mệnh của Đảng cho mình. Vì vậy, Đảng lựa chọn Công an trong những người trung thành nhất với Đảng, những người chỉ biết sống chết với Đảng, chỉ biết còn Đảng thì còn mình".)
Thay vào đó, họ tăng cường sử dụng báo đài đảng để lái dư luận vào tuyên truyền đấu tranh chống kẻ thù vô hình gọi là “diễn biến hòa bình”, bị cáo buộc do Mỹ và các nước Tây Phương chủ trương nhằm loại đảng cầm quyền Cộng sản.
Nhưng để giữ đảng và chủ nghĩa Cộng sản sống mãi ở Việt Nam như Trung ương XI đã họach định trong Dự thảo Báo cáo Chính trị (BCCT) tại Đại hội đảng XII, những “nhà thông thái” có học hàm Tiến sỹ, Thạc sỹ lại mơ hồ lên án những chống đối nhắm vào BCCT của người trong và ngoài nước là sản phẩm của “các thế lực thù địch” và những kẻ “cơ hội chính trị” ở Việt Nam. Tuyệt nhiên họ không dám đụng tới những kẻ nội thù đã và đang làm ngơ trước đe dọa xâm lăng biển đảo Việt Nam của Trung Quốc; quốc nạn tham nhũng và những cán bộ, đảng viên mất phẩm chất, đang bóc lột nhân dân ở mọi nơi, mọi ngành.
Ngoài những bài viết phản biện của đội ngũ dư luận viên có học vị cao, đảng còn chỉ thị công an khoác áo côn đồ, như nhóm Trần Nhật Quang ở Hà Nội, đến tận nhà khủng bố những người chống đường lối lãnh đạo của đảng như đã xẩy ra cho Tiếc sỹ Nguyễn Lân Thắng của dòng họ văn hóa nổi tiếng Giáo sư Nguyễn Lân.
Những nhóm Công an dư luận viên này còn công khai thực hiện các cuộc đánh người bất đồng chính kiến như phường đâm thuê chém mướn trước mắt công an giữa phố đông người. Người dân thấp cổ bé miệng thì nín thinh, sợ hãi tránh xa những nhóm như Trần Nhật Quang mà Tiến sỹ Tô Văn Trường gọi là “lưu manh đỏ” , vì chúng làm việc này theo lệnh đảng và được các cơ quan nhà nước bảo trợ.
Nhưng một xã hội mà công an mặc áo côn đồ được tự do lộng hành như thế là hiện thân của một nhà nước nhu nhược đã mất khả năng lãnh đạo.
Vì vậy ta không lạ khi thấy các miệng lưỡi lý luận của đảng cho rằng, các “thế lực thù địch” và “những kẻ cơ hội trong nước” đã lợi dụng thời gian đảng chuẩn bị Đại hội để tăng cường chống đảng, tung tin thất thiệt gây hoang mang dư luận và làm mất đòan kết trong đảng viên.
Nhưng mà Dự thảo BCCT đã nhìn nhận một số vấn đề cơ bản báo hiệu đảng lâm nguy như:
- Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí... chưa được ngăn chặn và đẩy lùi.
-- Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
---- Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
Vì vậy, BCCT mới hứa tiếp tục: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, sức chiến đấu của Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.”
BCCT còn thừa nhận:”Nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp chưa thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu, yêu cầu. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe doạ sự tồn vong của chế độ.
BÁO CÁO CHÍNH PHỦ-QUỐC HỘI
Khi nói về thất bại chống tham nhũng, lãng phí thì phải kể đến bản báo cáo của Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh trước Quốc hội ngày 28/10 (2015).
Ông Tranh cho biết: “Tình hình tham nhũng vẫn diễn ra phức tạp. Tình trạng nhũng nhiễu trong khu vực công còn nhiều, biểu hiện qua nạn hối lộ, lót tay, chạy chọt khi giao dịch với các cơ quan công quyền. Đã xuất hiện tình trạng tham nhũng có tính lợi ích nhóm trong một số lĩnh vực.
Qua kết quả phát hiện, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng cho thấy tính chất tham nhũng ngày càng phức tạp, thủ đoạn tinh vi hơn, phạm vi, tính có tổ chức của các vụ việc, vụ án tham nhũng rõ nét hơn. Một số vụ án tham nhũng gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm thất thoát lớn tài sản của Nhà nước. Một số vụ tham nhũng có yếu tố nước ngoài, phần nào ảnh hưởng đến nhìn nhận của quốc tế về tình hình tham nhũng ở Việt Nam. Tham nhũng vẫn là một trong những vấn đề bức xúc của xã hội hiện nay, là một nguy cơ gây mất ổn định chính trị, xã hội.” (Trích Cổng thông tin Chính phủ, 28/10/2015)
Phản biện lại báo cáo của ông Tranh, báo cáo thẩm tra của
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện cho biết: “ Công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng vẫn còn một số hạn chế. Việc khắc phục sơ hở, bất cập về chính sách, pháp luật trên một số lĩnh vực còn chậm; một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng hiệu quả thấp; chưa xử lý triệt để, nghiêm minh trách nhiệm của người đứng đầu để xảy ra tham nhũng; thiếu quy định có hiệu quả để kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.” (Tin Chính phủ)
Cũng rất ngạc nhiên khi nhân sự và kinh phí dành cho cơ quan Thanh tra phòng chống tham nhũng gia tăng thì công tác “phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng năm nay đều giảm.”
Theo ông Hiện thì : “ Trong khi tình hình tham nhũng trong khu vực công vẫn còn nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, diễn ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Đây là vấn đề cần nghiêm khắc đánh giá hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng của các cơ quan, nhất là cơ quan chuyên trách về phòng chống tham nhũng.”
Ủy ban Tư pháp đánh giá : “Công tác phát hiện tham nhũng vẫn là khâu yếu đã kéo dài nhiều năm, nhưng cho đến nay vẫn chưa có chuyển biến đáng kể. Việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng năm nay đều giảm so với cùng kỳ năm 2014.
Vẫn còn một số vụ án xử lý kéo dài, vi phạm thời hạn tố tụng, việc xem xét, xử lý hành vi tham nhũng trong một số trường hợp chưa nghiêm, nặng về xử lý kỷ luật hành chính. Việc thu hồi tài sản tham nhũng vẫn thấp.”
Cũng theo tiết lộ của Văn phòng Thanh tra Chính phủ, được đăng trên báo Cổng thông tin Chính phù ngày 28/10 (2015) thì : “Khảo sát về xung đột lợi ích do Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng Thế giới thực hiện trong quý II/2015 tại 512 doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân cho thấy: 48% doanh nghiệp được hỏi thừa nhận có tặng quà cho cán bộ, công chức trong khoảng thời gian 12 tháng gần đây, trong đó 82% là quà có giá trị trên 500.000 đồng; 88,6% tặng trực tiếp cho cán bộ, công chức; 46% tặng trước và trong khi đang giải quyết công việc của doanh nghiệp; 66% là nhằm mục đích giải quyết công việc của doanh nghiệp và 31% để “nuôi quan hệ”; 56% do doanh nghiệp chủ động tặng quà dù cán bộ, công chức không đòi hỏi hay gợi ý.”
CÔNG AN –QUỐC HỘI
Cũng ngạc nhiên không ít khi thấy báo cáo của Ủy ban Tư pháp Quốc hội đã nói về tình trạng “xuống cấp” của Công tác phòng chống tham nhũng thì Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang lại nói khống lên thành tích của ngành trong báo cáo về “công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm” đã có nhiều chuyển biến tích cực, hầu hết chỉ tiêu mà Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ đề ra đều đạt và vượt.”
Theo báo Công an Nhân dân (28/10/2015) thì tướng Quang báo cáo : “Hầu hết các vụ án kinh tế, tham nhũng, nhất là các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng theo dõi, chỉ đạo đã được cơ quan điều tra các cấp khẩn trương điều tra, kết luận, chuyển viện kiểm sát đề nghị truy tố, đồng thời tiếp tục phát hiện, điều tra làm rõ các vụ án kinh tế, tham nhũng lớn được dư luận quan tâm (như vụ án xảy ra tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Dương, Ngân hàng thương mại cổ phần dầu khí Toàn cầu, Công ty cổ phần than Tây Nam Đá Mài)…
Đáng chú ý, tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng tăng khá, từ 22,3% năm 2014 lên 55,8% năm 2015 (đạt mục tiêu Quốc hội đề ra). Đây là vấn đề được cơ quan điều tra phối hợp các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt quan tâm, áp dụng các biện pháp theo luật định để thu hồi tài sản.”
Ngay sau khi nghe các báo cáo, Quồc hội đã thảo luận. Theo báo chí ở Việt Nam thì Đại biểu (ĐB) Nguyễn Ngọc Phương (Quảng Bình) cho rằng” “ Tham nhũng diễn ra trên mọi lĩnh vực cuộc sống, từ người có địa vị thấp đến người có địa vị cao trong xã hội; người tham nhũng ít nhìn người tham nhũng nhiều mà làm theo; người không tham nhũng có khi bị người tham nhũng cô lập. Thậm chí, tham nhũng còn lan ra đến tận một số người dân thường, chỉ cần họ có chức trách gì đó như trông xe, gác đền, phát hàng cứu trợ. Tệ hại hơn nữa là tham nhũng cả chính sách cho hộ nghèo; chế độ cho người có công, gia đình thương binh liệt sĩ, tham nhũng của cả người còn sống hay đã chết.”
Theo ông Phương thì có “một dạng tham nhũng tinh vi nhưng lâu nay ít được đề cập và trong báo cáo cũng nêu chưa rõ, đó là tham nhũng chính sách, thông qua việc mua chuộc, chạy chọt để ban hành các văn bản pháp luật có kẽ hở để tạo lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân.”
ĐB Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng) cho rằng: “ Báo cáo nhận định tình hình tham nhũng không giảm nhưng số vụ tham nhũng bị phát hiện lại giảm chứng tỏ công tác điều tra, khám phá tội phạm tham nhũng không đáp ứng được yêu cầu. “Cần thành lập Ủy ban điều tra, chống tham nhũng độc lập với cơ quan công an và chỉ thành lập ở cấp trung ương, đồng thời trao cho các cơ quan này toàn quyền trong việc điều tra cán bộ cấp cao khi có dấu hiệu vi phạm”.
Như vậy thì ai, Quốc hội, những cơ quan chống tham nhũng thất bại hay các “thế lực thù địch, diễn biến hòa bình, những phần tử cơ hội ” đang vạch áo đảng cho thiên hạ xem lưng ?
Do đó khi báo Quân đội Nhân dân ngày 26/10 (2015) đã che dấu thất bại để chĩa mũi dùi tấn công người chống đảng, trước thềm Đại hội XII thì cũng chả có gì phải ngạc nhiên.
Bài viết của Vọng Đức là một tỷ dụ: “ Thực tế cho thấy, vào dịp chuẩn bị diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng của đất nước như các lễ kỷ niệm lịch sử, đại hội Đảng, kỳ họp Quốc hội…, thì các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước lại lợi dụng không gian mạng để phát tán thông tin nhằm chống phá cách mạng nước ta, chế độ ta. Những thông tin này thường xuất hiện trên các website, blog nói chung, trong đó có mạng Facebook và nhiều hãng thông tấn nước ngoài, như Đài Châu Á tự do (RFA), Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA), Hãng BBC... Bên ngoài, các đài phát thanh, hãng thông tấn này đều tuyên bố “tôn chỉ” của mình là đưa tin “trung thực, khách quan, không vụ lợi”…, nhưng trên thực tế thì họ thường “cài đặt” những mục tiêu chính trị dưới nhiều hình thức. Phương thức chủ yếu của họ là “cắt gọt”, “bình luận” dẫn dắt, “lựa chọn sự kiện, tình tiết”, rút “tít” giật gân nhằm phục vụ cho những mục tiêu chính trị nào đó.”
Những “thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài” là ai ? Đối với các Dư luận viên đảng CSVN thì họ là những thành phần phải bị “phanh thây xẻ thịt” vì đã viết những bài trái ý đảng, không chạy theo quan điểm chính trị độc tài đảng trị của nhà nước không phải của dân, do dân và vì dân mà tất cả là của đảng, do đảng và vì đảng.
Vọng Đức lên án những quan điềm trái chiều phê phán các Dự thảo Văn kiện đảng là “xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ hệ tư tưởng XHCN, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.”
Tác gỉa cũng bênh vực quyết định chọn nhân sự đảng XII của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương XI, đồng thời cảnh giác chống lại những thông tin được cho là “thất thiệt về đời tư, phẩm chất (người này là “bảo thủ, giáo điều”, người kia là “cấp tiến”) hoặc vấn đề nhân sự đại hội chỉ là chuyện “đấu đá”, “giành giật quyền lực” giữa các "nhóm lợi ích”.
Nhưng cho đến 24 năm sau ngày Thế giới Cộng sản tan rã năm 1991 không hề có ai nuối tiếc ngay ở nước Nga, cái nôi của sinh nặng đẻ đau Chủ nghĩa Cộng sản, mà đảng CSVN vẫn còn hoang tưởng để kiên định “qúa độ lên Xã hội Chủ nghĩa” thì có “cổ hủ, lỗi thời” không, hay “văn minh, hiện đại” ?
Còn chuyện nhân sự đảng thì người dân ở Việt Nam và những người đàng hòang trong đảng đã nói nhiều đến các trường hợp con ông cháu cha, như trường hợp Nguyễn Văn Anh, tân Bí thư Đà Nẵng là con trai của nguyên Ủy viên Bộ Chính trị,Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Nguyễn Văn Chi; Nguyễn Bá Cảnh, sinh năm 1983, con trai của cố Bí thư Thành ủy Nguyễn Bá Thanh, nguyên Trưởng ban Nội Chính Trung ương được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020;
Đặc biệt 2 con trai Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh Nghị, 39 tuổi, nắm chức Bí thư Tỉnh ủy của Kiên Giang và Nguyễn Minh Triết, 24 tuổi cũng lọt vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định nhiệm kỳ 2010-2015.
Những người này được đưa vào chỗ “hái ra bạc, khạc ra tiền” như thế có được chọn lựa công bằng dựa trên đức độ,khả năng và thành tích đàng hòang, minh bạch không hay cũng nằm trong đội ngũ “con vua thì lại làm vua” nên nhân dân còn xầm xì ?
Trước tình trạng này, bài viết của Quân đội Nhân dân khuyến cáo dư luận nên:” Tránh dựa vào các thông tin không được kiểm chứng, những bình luận xuất phát từ quan điểm xa lạ với chế độ ta để đánh giá, nhận xét cán bộ chủ chốt của Đảng và Nhà nước các cấp trong dịp chuẩn bị cho Đại hội XII.”
Tác gỉa Vọng Đức kết luận: “Hiện nay, ngoài kênh thông tin nội bộ theo quy định của tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm đến công tác chuẩn bị đại hội các cấp có thể đọc, truy cập, lấy thông tin ở các cơ quan báo chí định hướng thông tin của đất nước, đó là: Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân.”
Như vậy đã hai 5 rõ 10 chưa cái lối thông tin muốn che mắt ngựa trên đường đi ? Nhưng mục đích thông tin coi thường sự hiểu biết của dân như thế trong thời đại diện tử ngày nay có ích lợi gì cho đất nước ?
Nếu các báo đài của đảng có bản lĩnh và tư cách thì thử viết một bài moi ra những nguyên nhân tại sao sau 40 năm thống nhất đất nước và 30 năm đổi mới mà tham nhũng vẫn sống vinh quang “như có Bác trong ngày vui đại thắng” ?
Phạm Trần
Chuyến tàu vét trước ngày rã đám
Viết bởi Phạm Trần
Những phiên chợ chiều ở vùng quê Việt Nam thuở xưa thường có 2 hình ảnh nổi bật: Một là người bán không rao gía cao để bán cho nhanh các món hàng . Hai là người mua thì cũng không muốn kỳ kèo lâu sợ trễ bữa cơm chiều xum họp quan trọng của gia đình. Do vậy mà chợ chiều chì dài từ 2 đền 6 giờ tối là nhiều.
Có nơi người ta gọi cảnh sinh hoạt mua bán nhanh chóng này là “ phiên chợ vét”, ai nhanh chân thì được lợi nhưng cả kẻ mua và người bán đều thỏa mãn với quyết định của mình trong tình làng nghĩa xóm.
Trong chính trị thì khác. Khi những kẻ cầm quyền mà làm “chuyến tàu vét” thì chỉ có 2 lý do: Biết trước sẽ mất nên phải vơ bèo vợt tép cho cạn tàu ráo máng, không để cho các phe khác nhảy vào ăn ké; hay biết không vững được lâu nên phải gom góp bề tôi để bảo vệ cái đang có trước khi nó vuột khỏi tầm tay bởi sức mạnh lật đổ của quần chúng, hay quân đội.
Đấy là những dấu hiệu đang diễn ra ra ở Việt Nam trước thềm Đại hội đảng XII, dự trù diễn ra vào đầu năm 2016. Căn cứ theo hai diễn biến chưa hề có trong lịch sử bầu chọn các Ủy viên Trung ương đảng thì công tác chọn người cho khóa XII có nhiều điều không bình thường :
Thứ nhất, sau 8 kỳ họp, từ Hội nghị quan trọng hàng đầu của khóa XI, Trung ương 4 (“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, từ ngày 26 đến ngày 31 tháng 12 năm 2011) đến Hội nghị Trung ương 12 (“Bàn về Nhân sự đảng Khóa XII”, từ ngày 05 đến chiếu 11/10/2015) đảng vẫn chưa giải quyết được Quốc nạn tham nhũng và suy thoái tư tưởng, đạo đức của đảng viên. Đảng viên, kể cả một số không nhỏ cấp lãnh đạo then chốt đã phải “tự phê bình và phê bình lẫn nhau“ để sửa mình nhưng chuyện đâu vẫn không những còn nguyên mà còn nghiêm trọng hơn.
Bốn (4) nguy cơ trước mắt là: “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa ; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch” , lần đầu tiên xác nhận tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (thời Đỗ Mười) từ ngày 20 đến 25-1-1994 tại Hà Nội.
Đến gần hết khoá đảng XI, Chủ tịch nước Trương Tấn Sáng đã cảnh báo chúng “vẫn còn nguyên” và lại đẻ ra thêm 2 nguy cơ nữa là “”Tự diền biến” và “Tự chuyển hoá”
Đến bây giờ, ngay trước ngày khai mạc Đại hội tòan quốc khoá đảng XII thì nhiều đảng viên, kể cả trong Lực lượng võ trang là Quân đội và Công an đã coi chuyện “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” để tự làm, tự nói cái gì mình thích là chuyện bình thường và dân chủ, không cần phải bàn cãi. Nhưng không chỉ mất đinh hướng mà có nhiều người còn công khai chống lại Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh mà Bộ Chính trị đã kiên quyết buộc mọi đảng viên phải tuyệt đối trung thành, và phải lấy đó làm nền tảng để xây dựng đất nước.
Nhưng đảng viên ngày nay không còn lạch hậu, khờ khạo, bảo sao nghe vậy như trong Thế kỷ 20. Nhiều người trong họ đã biết mở mắt trước sự tan rã thê thảm của Thế giới Cộng sản do nước Nga lãnh đạo từ 1989 đến 1991 ở Đông Âu và ngay tại Moscow. Ngay cả Cộng sản Trung Quốc cũng đã lột xác và thay áo Mác-Lênin-Mao Chủ tịch bằng chiếc áo mới mang tên “Chủ nghĩa Xã hội đặc sắc Trung Quốc”.
Người Trung Hoa không giải thích “đặc sắc” là gì, nhưng ai cũng biết họ muốn ấm ớ nói “theo kiểu của người Tầu”.
Đảng CSVN cũng bắt chước làm theo, hay bị buộc phải noi theo, từ sau Hội nghị “bán mất danh dự” ở Thành Đô, Tứ Xuyên (Trung Quốc) năm 1990 giữa các Lãnh tụ Giang Trạch Dân-Lý Bắng (Trung Hoa) và Nguyễn Văn Linh-Đỗ Mười-Phạm Văn Đồng (Việt Nam).
Mấy ông CSVN không muốn làm bản sao “đặc sắc” mà gọi là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đề tiếp tục “qúa độ lên xã hội Chủ nghĩa” theo kiểu Việt Nam không có trong đời sống.
Chính ông Tổng Trọng cũng đã ngán ngẫm nói rằng : “ Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa .” (Báo Tuổi Trẻ, 23/10/2013)
Như vậy thì công tác tìm cho ra nhân sự khóa XII phải là những người tuyệt đối “trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp…. kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH” như ông Trọng và Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Tô Huy Rứa đưa ra tại Hà Nội ngày 28/05/2015 thì có khác nào đưa nhau vào chốn âm ti hoang tưởng ?
Do đó mà vẫn còn nhiều bất đồng ý với nhau về tiêu chí chọn nhân sự, nhất là thành phần Lãnh đạo chiến lược gồm Bộ Chính trị, Ban Bí thư và 4 chức danh chủ chốt gồm Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng chính phủ. Lãnh đạo đảng của Thủ đô Hà Nội, và Thành phố thương mại đứng đầu nước Hồ Chí Minh cũng phải đợi chọn ra từ các Ủy viên Bộ Chính trị khoá XII.
Lãnh đạo đảng bộ nhiệm kỳ 2016-2020 của Lực lượng võ trang gồm Quân đội và Công an cũng chưa ngả ngũ. Tin Ủy viên Bộ Chính trị (khóa XI),Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quanh Thanh, 67 tuổi vào năm 2016, sẽ nghỉ hưu vì lý do sức khỏe đang lan nhanh ở Hà Nội đã không bị cải chính.
Đại tướng Thứ trưởng Quốc phòng, Tổng tham mưu Trưởng Đỗ Bá Tỵ có nhiều hy vọng thay tướng Thanh cả trong Bộ Chính trị lẫn Bộ Quốc phòng.
MỤC TIÊU CHUẨN
Tại cuộc họp của Bộ Chính trị với “cán bộ toàn quốc triển khai phương hướng công tác nhân sự và quy trình giới thiệu nhân sự tham gia BCH TƯ Đảng khóa 12” ngày 28/05/ 2015, ông Rứa nói: “BCH TƯ phải thật sự là một tập thể đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, thống nhất ý chí và hành động, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; có tầm nhìn chiến lược; có trí tuệ, tư duy đổi mới, sáng tạo; tiêu biểu cho toàn Đảng về tính chiến đấu, tính kỷ luật; gắn bó mật thiết với nhân dân, quy tụ được sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân; đủ uy tín, năng lực lãnh đạo đất nước trong giai đoạn phát triển mới; có cơ cấu, số lượng hợp lý đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện, tính kế thừa và phát triển.”
Nói thì dễ mà làm thì còn lắm chông gai như quyết định của Bộ Chính trị đã lên kế họach Trung ương phải họp thêm 2 lần nữa (Trung ương 13 và 14) may ra mới thống nhất thành phần lãnh đạo XII. Như vậy, Đại hội XII sẽ phải lùi lại sau tháng 1/2016 là sớm nhất.
Nhưng các Ủy viên Trung ương mới phải “trong sạch” đến cỡ nào thì được chọn mà sao không thấy phổ biến các bản “kê khai tài sản” của những người đã được các đảng bộ bầu vào Ban Chấp hành, hay nẳm trong Danh sách được cử đi dự Đại hội XII ? Nhân dân có hay biết gì đâu. Hai ban kiểm tra đảng và nhà nước cũng nín thinh thì ai đo lường được mức độ “trong sạch” của họ? Tiêu chuẩn chung cho các Ủy viên tương lai, nhất là thành phần của Bộ Chính trị và Ban Bí thư là đội ngũ nắm đầu cả nước, dù chả có ai bầu họ, được Bộ Chính trị quy định phải có “tầm trí tuệ, tư duy chiến lược, khả năng nắm bắt, đề xuất, giải quyết những vấn đề mới; về đạo đức cách mạng, tinh thần dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; dám đương đầu với khó khăn, thử thách; không tham nhũng, quan liêu, cơ hội, vụ lợi, tham vọng quyền lực, lợi ích nhóm; có ý thức giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng”.
Sau những lời đu đưa nhiều lý thuyết hơn thực tế của Trưởng ban Tổ chức Trung ương Tô Huy Rứa, Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng lên lớp giảng cán bộ toàn quốc: “Tinh thần của những người cộng sản là đặt lợi ích của Đảng, của đất nước lên trên hết, trước hết, không vì cá nhân, lợi ích cục bộ, phải trong sáng, công tâm, khách quan, với mong muốn xây dựng cơ quan lãnh đạo cao nhất ở các cấp và đặc biệt là ở Trung ương phải thực sự trong sạch vững mạnh, là một tập thể đoàn kết thống nhất cao, đủ trí tuệ, phẩm chất, năng lực, quan hệ tốt với dân, không tham nhũng tiêu cực, không vướng vào lợi ích nhóm… cố gắng không để lọt vào cơ quan lãnh đạo của Đảng cả ở cấp Trung ương và địa phương, những đối tượng mắc một trong các khuyết điểm đã nêu.”
Nhưng “cố gắng” bằng cách nào khi nhân dân và nhiều “lão thành cách mạng” đang vò đầu, bứt tóc tìm câu trả lời cho thắc mắc : tại sao một cán bộ hạng trung mà có nhà tiền tỷ, hay nhiêu nhà, nhiều đất, nhiều xe ôtô láng coóng và có tiền gửi con đi học nước ngoài ? Nếu không tham nhũng và trong sáng như đòi hỏi của hai ông Rứa và Trọng thì tiền chùa ở đâu mà chui vào túi cán bộ nhiều như thế ? Bằng chứng Ủy ban Chỉ đạo Trung ương phòng, chống tham nhũng do ông Trọng đứng đầu từ sau Trung ương 5 đã làm được gì mà lúc nào đảng cũng nói “tình trạng tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng” ?
Bằng chứng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người từng giữ chức “Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương phòng, chống tham nhũng” trong 7 năm, trước khi bàn giao qua ông Trọng, đã báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp 10, khai mạc ngày 20/10/2015: “Phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên nhiều lĩnh vực chưa đáp ứng yêu cầu.”
Tại sao lại “chưa đáp ứng yêu cầu” khi nhà nước đã có Luật phòng, chống tham nhũng từ năm 2005 rồi có thêm hàng hà sa số văn kiện, nghị quyết, nghị định v.v... phòng chống mà sao đến giờ này Tham nhũng đã leo ngồi cười toe trên đầu đảng ? Vì vậy mà khi nghe ông Trọng nói nhiều đến tiêu chuẩn “trong sáng” để chọn nhân sự thì ai cũng biết ông là người lý luận giỏi nhưng làm thì chẳng được bao nhiêu, sau 5 năm làm Tổng Bí thư.
Tính của ông Trọng là cứ nói cho hay, đúng bài bản rồi tính sau.
Ông bảo cán bộ: “Trong thực tế công tác cán bộ khó nhất là có trong sáng, công tâm hay không? Có quán triệt đúng tiêu chuẩn, yêu cầu, nguyên tắc hay không? Nếu không trong sáng thì nhìn tiêu chuẩn sẽ khác, đến khi làm cũng không đúng quy trình, dễ luồn lách để đạt được mục đích, tham vọng cá nhân, bất chấp nguyên tắc, quy chế của Đảng...”
CON ÔNG CHÁU CHA THẮNG TO
Thứ hai, khi nói đến chuyện “dễ luồn lách” thì không hiểu ông Trọng có nghiên cứu, xem xét đến đến trường hợp mới bầu chọn những người có liên hệ gia đình, dòng tộc của đương kim và nguyên lãnh đạo đảng vào các chức Bí thư hay Ủy viên Ban chấp hành các đảng bộ địa phương ?
Trong số này có 4 người tiêu biểu là các ông Nguyễn Văn Anh, tân Bí thư Đà Nẵng là con trai của nguyên Ủy viên Bộ Chính trị,Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Nguyễn Văn Chi.
Cũng tại Đà Nẵng, ông Nguyễn Bá Cảnh, sinh năm 1983, con trai của cố Bí thư Thành ủy Nguyễn Bá Thanh, nguyên Trưởng ban Nội Chính Trung ương được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020.
Nhưng đáng chú ý hơn phải kể đến người con trai trưởng của ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh Nghị, 39 tuổi, nắm chức Bí thư Tỉnh ủy của Kiên Giang.
Ông Nghị được bầu vào Ủy viên dự khuyết của Ban Chấp hành Trung ương XI cùng lượt với Nông Quốc Tuấn, con trai Tổng Bí thư đảng hai khoá IX và X, Nông Đức Mạnh. Ông Tuấn đang giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc.
Sau cùng là người con út trong gia đình Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Minh Triết, 24 tuổi cũng lọt vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định nhiệm kỳ 2010-2015. Như vậy, chắc là những “con ông cháu cha, được ngồi mát ăn bát vàng” này cũng phải hội đủ những điều kiện do Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Tô Huy Rứa đưa ra tại Hà Nội ngày 28/05/2015 ?
Nhưng có ai, kể cả ông Nguyễn Phú Trọng bảo đảm được họ là những cán bộ “trong sáng”, có thực tài, được kiểm tra bầu cử minh bạch và đã không phải gửi gắm bởi các ông bố quyền thế , hay là họ cũng đã được cha mẹ vẽ đường cho biết cách “luồn lách” vào những địa vị béo bở ? Chuyện lớn như thế mà cả nước, cả Quốc hội cũng không ai dám nêu thắc mắc với ông Trọng xem bằng cách nào mà các con ông cháu cha này đã lên chức lên bậc ngon ơ như thế ?
Hay là họ đã được chọn để đồng hành với các nhóm lợi ích trên chuyến tầu chót của đảng CSVN ? -/-
Phạm Trần (10/015)
Thi hành lệnh truất phế Bảo Đại
Viết bởi Lữ Giang
(Ghi nhớ 60 năm ngày truất phế Bảo Đại)
Lữ Giang
Như chúng tôi đã nói nhiều lần, khi các tài liệu căn bản về chiến tranh Việt Nam đã được công bố gần hết, chúng ta không còn có thể ngồi viết hay nói theo cảm tính, tức theo ý muốn của mình được nữa, vì các thế hệ tới, nhất là các sử gia, sẽ không viết lịch sử chiến tranh Việt Nam theo như chúng ta nghĩ hay muốn, mà viết căn cứ vào các tài liệu lịch sử đã được công bố. Mọi cố gắng tô hồng hay bôi đen theo cảm tính trong suốt 40 qua sẽ trở thành vô nghĩa.
Về vai trò của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng vậy, thời kỳ biểu hiện cảm tính bằng cách hoan hô hay đá đảo Ngô Tổng Thống đã qua rồi, bây giờ đến giai đoạn phải làm sáng tỏ lịch sử. Các huyền thoại phải bỏ lại đàng sau.
Trong bài này chúng tôi chỉ xin trình bày một sự kiện lịch sử thường hay được nêu lên mỗi khi đến ngày lễ giỗ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đó là việc truất phế Bảo Đại. Một câu hỏi đã được đặr ra: Quốc Trưởng Bảo Đại là người đã đưa ông Diệm về lãnh đạo đất nước với sự tin tưởng rằng ông Diệm có thể giúp ông giữ ngôi báu và đưa đất nước qua những ngày đen tối, tại sao ông Diệm lại tổ chức truất phế Bảo Đại?
Vấn đề có lẽ không chỉ đơn giản như vậy. Ngày 29.4.1955 Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng gồm đại diện các đoàn thể và giáo phái đã họp tại Dinh Độc Lập và ra nghị quyết truất phế Bảo Đại, và ngày 30.4.1955 họ đã kéo nhau ra Tòa Đô Chánh Sài Gòn công bố nghị quyết này và hạ hình Bảo Đại xuống. Dân chúng reo hò đá đảo Bảo Đại và ủng hộ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Nhưng sau đó Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lại phải tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23.10.1955 để truất phế Bảo Đại một lần nữa. Tại sao có chuyện lạ như vậy?
Quốc Trưởng Bảo Đại đang duyệt binh tại Hòa Bình ngày 28.12.1951
Đây là một vấn đề khá phức tạp, chúng tôi sẽ trình bày đầy đủ trong cuốn “Người Mỹ đã xây dựng rồi phá sập chế độ Ngô Đình Diệm như thế nào?”. Ở đây chúng tôi chỉ xin trình bày một số tài liệu chính để đọc giả có thể thấy: Lệnh trất phế Bảo Đại xuất phát từ đâu và tại sao Bảo Đại lại bị truất phế đến hai lần?
“CHÍNH SÁCH TIỀN ĐỊNH”
Trong cuốn “Gọng kìm lịch sử, hồi ký chính trị”, ông Bùi Diễm có viết về việc truất phế Bảo Đại năm 1955 như sau:
“Không ai rõ tại sao ông Diệm phải có thái độ quyết liệt như vậy. Vì dầu sao ông cũng là người phải “trung quân, ái quốc”, trọng đạo quân thần, từng làm quan to trong triều đình Huế, nên không ai cho rằng ông muốn lật đổ Cựu Hoàng. Trái lại, mọi sự nghi ngờ đều đổ vào đầu ông Nhu cả, người được coi là có đủ mọi thủ đoạn đối phó và ứng biến (trong một buổi hàn huyên chuyện cũ với tôi năm 1991, cựu Quốc Trưởng không hề tỏ ý oán hận ông Diện và chỉ nói là ông Diệm đã bị gia đình ảnh hưởng).” (tr. 155).
Ông Bùi Diễm đã từng là Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng dưới thời chính phủ Phan Huy Quát và là một viên chức ngoại giao cao cấp của VNCH, nghe nói ông còn là một “agent” của CIA, nhưng cũng như nhiều viên chức cao cấp khác của VNCH, ông biết rất ít Mỹ đã làm gì trên đất nước và cũng không đọc tài liệu lịch sử để biết chính xác những chuyện Mỹ đã làm, nên ông mới viết như vậy.
Ngày 25.6.1954 ông Diệm về nước giữa cảnh hoang tàn. Ngày 6.7.1954 ông lập chính phủ và ngày 7.7.1954 ông ra mắt chính phủ nên ngày đó thường được gọi là “Ngày Song Thất”.
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
Chỉ hơn một tháng sau, hôm 12.8.1954, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ đã họp và đưa ra Nghị Quyết số NSC 5029 với đầu đề “Duyệt xét lại chính sách của Hoa Kỳ ở Viễn Đông”, nhận xét về những hậu quả của Hiệp Định Genève và đưa ra một số biện pháp để đối phó. Nghị Quyết cũng đồng ý rằng ông Diệm phải mở rộng căn bản chính trị, soạn thảo hiên pháp và truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp
Hôm 20.8.1954, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia lại họp và đưa ra Nghị Quyết số NSC 5429/2 ấn định chính sách của Hoa Kỳ sau Hiệp Định Genève. Nghị Quyết nhận định rằng Pháp đã mất ý chí chiến đấu tại Việt Nam và đưa ra kế hoạch để đảm đương vai trò của Pháp trên đất nước này. Nghị Quyết ghi:
“Pháp phải trao trả hoàn toàn độc lập (kể cả quyền rút lui khỏi Liên Hiệp Pháp) cho Việt Nam và ủng hộ một chính phủ bản xứ mạnh. Diệm phải mở rộng căn bản chính phủ, bầu cử quốc hội, soạn thảo hiến pháp và trất phế Bảo Đại một cách hợp pháp.”
(France must grant total independence (including right to withdraw from French Union) to South Vietnam andsupport a strong indigenous government. Diem must broaden the governmental base, elect an assembly, draft a constitution and legally dethrone Bao Dai). [Gravel Edition, The Pentagol Papers, Volume I, Beacon Press, Boston 1971, tr. 303]
Pháp cũng đồng ý với Mỹ như vậy. Ngày 31.7.1954, ông Guy La Chambre, Bộ Trưởng Các Quốc Gia Liên Hiệp của Pháp, tuyên bố cần phải thực hiện ba việc sau đây:
- Thành lập một chính phủ đại diện cho toàn Miền Nam.
- Thực hiện cải cách ruộng đất
- Truất phế Bảo Đại và thành lập chế độ cộng hòa.
Chúng tôi gọi đây là “Chính Sách Tiền Định”, vì nó đã được chính quyền Eisenhower phác họa ngay từ khi ông Diệm mới trở về cầm quyền và được áp dụng một cách chặt chẽ, đẩy chính phủ Ngô Đình Diệm đi theo. Chính sách đó được thu gọn trong những chữ vắn tắt được ghi trong Nghị quyết số NSC 5429/2:
1.- Truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp (legally dethrone Bao Dai).
2.- Bầu cử quốc hội và soạn thảo hiến pháp (elect an assembly, draft a constitution).
3.- Mở rộng căn bản chính phủ (broaden the governmental base).
4.- Ủng hộ một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous government).
Về việc hình thành “một chính phủ bản xứ mạnh”, tài liệu cho biết chính quyền Eisenhower muốn ông Diệm thành lậpmột chế độ độc đảng theo mô thức Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch để đối đầu với Cộng Sản. Ông Ngô Đình Nhu đã thành lập tổ chức đó và đặt tên cho nó là “Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng” (Revolutionary Personalist Labor Party). Hai chữ “Nhân Vị” chỉ mới là một ý niệm được dùng để đối với hai chữ "Cộng Sản", nó chưa được xây dựng thành một chủ nghĩa nên không có giá trị thực dụng như chủ nghĩa cộng sản, mặc dầu sau này có nhiều người đã thêm râu ria vào để biến nó thành huyền thoại.
Năm 1955, Đại tá Edward Lansdale rồi Tướng Joseph Lawton Collins đã được Tổng Thống Eisenhower lần lượt đưa qua Việt Nam để thực hiện các kế hoạch nói trên. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ nói đến kế hoạch truất phế Bảo Đại. Sở dĩ cả Mỹ lẫn Pháp đã quyết định như vậy vì Bảo Đại lúc đó chỉ lo ăn chơi, không quan tâm gì đến việc nước.
CÁC GIÁO PHÁI VÀ ĐOÀN THỂ TRUẤT PHẾ BẢO ĐẠI
Tháng 4/1955, với sự đồng tình của Bảo Đại và sự yểm trợ của Pháp, lượng Bình Xuyên nổi lên đánh chiếm các vùng quanh và trong Sài Gòn. Trong khi tiếng súng đang nổ ở khu trường Petrus Ký, đường Trần Hưng Đạo, khu Bàn Cờ, cầu Ông Lãnh, v.v., ngày 29.4.1955 đại diện 18 đảng phái, đoàn thể và 29 nhân sĩ có tên tuổi đã đến dự cuộc họp tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập vào lúc 10 giờ. Ba Tướng Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Giác Ngộ và Trình Minh Thế cũng có mặt. Trong số các nhân sĩ, người ta chú ý đến các nhân vật sau đây: Luật sư Hoàng Cơ Thụy, Luật sư Vũ Văn Mẫu, Giáo sư Vũ Quốc Thông, Giáo sư Vũ Quốc Thúc, Luật sư Trần Thanh Hiệp, Cư Sĩ Đoàn Trung Còn (Tịnh Độ Cư Sĩ), Giáo Sư Phạm Việt Tuyền, ông Bùi Quang Nga, ông Nguyễn Hữu Khai, ông Huỳnh Minh Ý, v.v.
Luật Sư Vũ Minh Trân có mặt tại cuộc họp cho biết ông không thấy ông Diệm mà chỉ thấy ông Bùi Văn Thinh, Tổng Trưởng Tư Pháp. Luật sư Hoàng Cơ Thụy liền nói với ông Bùi Văn Thinh rằng để tránh mọi dị nghị, ông không nên có mặt. Ông Thinh liền bỏ đi.
Cuộc thảo luận rất gay cấn, kéo dài từ 10 giờ 30 sáng đến 4 giờ chiều mới biểu quyết xong bản tuyên cáo nguyên văn như sau:
1.- Tuyên bố truất phế Bảo Đại kể từ ngày 29.4.1955.
2.- Tuyên bố Bình Xuyên là phiến loạn.
3.- Giải tán chính phủ Ngô Đình Diệm do Bảo Đại lập ra, cũng kể từ ngày 29.4.1955.
4.- Do sự đòi hỏi của tình thế nghiêm trọng hiện tại, tuyên bố ủy nhiệm chí sĩ Ngô Đình Diệm thành lập một chính phủ lâm thời quốc gia Việt Nam kể từ ngày 29.4.1955 với ba nhiệm vụ:
a) Dẹp phiến loạn Bình Xuyên để duy trì an ninh trật tự;
b) Buộc Quân Đội Viễn Chinh Pháp lập tức triệt thoái khỏi lãnh thổ Việt Nam để kiện toàn độc lập.
c) Tổ chức tổng tuyển cử Quốc Hội để trao trả chính quyền cho quốc dân.
Mặc dầu chưa có ý kiến của ông Diệm, ngày 30.4.1955 Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng đã tổ chức một cuộc họp tại Phòng Khánh Tiết Tòa Đô Chánh Sài Gòn, trình bày diễn biến cuộc họp ngày hôm trước. Có khoảng 200 người tham dự. Ba tướng Nguyển Thành Phương, Nguyễn Giác Ngộ và Trình Minh Thế xuất hiện cùng một lúc đã được dân chúng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Các đại diện đã thay nhau lên diễn đàn tố cáo Bảo Đại là bù nhìn, không xứng đáng đại diện cho Việt Nam. Sau đó, Hội Đồng công bố bản tuyên cáo đã đọc hôm qua.
Trong không khí sôi sùng sục, một số người đã trèo lên Tòa Đô Chánh gỡ chân dung Bảo Đại ném xuống đường giữa trời mưa.
MỸ RA LỆNH PHẢI LÀM LẠI
Trong khi Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng đang bàn cải về việc phân chia chính quyền, ngày 3.5.1955 Tướng Joshep Lowton Collin, Đại Sứ Đặc Mệnh Toàn Quyền của Tổng Thống Eisenhower tại Sài Gòn, đến gặp ông Diệm lúc 20 giờ và cho biết: Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nói rằng nếu truất phế Bảo Đại theo yêu cầu của Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng Quốc Gia, tình hình sẽ rất nguy hiểm. (FRUS, 1955 – 1957, Vulume I, trang 359 – 360). Nói một cách khác, Bộ Ngoại Giao muốn truất phế Bảo Đại bằng con đường hợp pháp chứ không phải bằng đảo chánh như Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng đã làm, vì Nghị Quyết số NSC 5429/2 ngày 20.8.1954 đòi hỏi phải truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp (legally dethrone Bao Dai). Ông Ngô Đình Nhu đã lưu ý các thành viên trong Hội Đồng về vấn đề này, nhưng phe Tướng Nguyễn Thành Phương và ông Nguyễn Bảo Toàn không tán đồng.
Để đối phó với phe nảy, ông Ngô Đình Nhu đã trình ông Diệm triệu tập hội nghị đại biểu các hội đồng thành phố và thị xã để quyết định. Hội nghị đã họp tại Dinh Độc Lập ngày 6.5.1955, thảo luận và đưa ra một kiến nghị yêu cần Bảo Đại trao toàn quyền cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ổn định tình thế và triệu tập Quốc Dân Đại Hội trong vòng 6 tháng.
Cuộc tranh luận về việc nên thực hiện nghị quyết của Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng hay thi hành lời khuyến cáo của Mỹ đã trở nên rất gay cấn và kéo dài. Mãi đến ngày 4.10.1955, một Ủy Ban Trưng Cầu Dân Ý gồm đại diện 15 đoàn thể mới được thành lập. Ủy Ban đưa ra kiến nghị yêu cầu truất phế Bảo Đại và suy tôn Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Ngày 6.10.1955, Hội Đồng Chính Phủ quyết định tổ chức trưng cầu dân ý để truất phế Bảo Đại vào ngày 23.10.1955.
Vì lúc đó số người mù chữ còn đông, tài liệu cho biết chính Đại Tá Edward Lansdale là người đã gợi ý dùng hai là phiếu có màu khác nhau để bầu cử, lá đỏ cho ông Diệm, lá xanh cho Bảo Đại. (Colonel Edward Lansdale suggested that Diem should provide two ballot papers, red for Diem and green for Bao Dai). Dựa vào màu sắc của hai lá phiếu này, các vận động viên của ông Diệm đã đưa ra lời hướng dẫn “xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì” để những người không biết chữ làm theo và dồn phiếu tối đa cho ông Diệm. Kết quả, có 5.838.907 cử tri đã đi bầu trong đó có đến 5.721.735 phiếu truất phế Bảo Đại.
Bảng kết quả trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại
Năm 1982, khi đến thăm California, ông Cao Xuân Vỹ có hỏi Bảo Đại: “Ngài nghĩ thế nào về việc ông Diệm tổ chức trưng cầu dân ý để truất phế Ngài?” Bảo Đại trả lời: “Việc thế thì phải thế thôi. Pháp đã quyết định trước rồi!”. Bảo Đại không hay biết gì việc Mỹ cũng quyết định truất phế ông. Trong cuốn hồi ký “Con Rồng Annam”, Bảo Đại không hề trách ông Diệm về chuyện này. Giả như lúc đó Quốc Trưởng Bảo Đại năng nổ và quan tâm đến đất nước hơn như Quốc Vương Sihanouk của Cambodia chẳng hạn, nước Việt Nam có thể đã xoay theo một chiều hướng khác.
LÀM “ĐỒNG MINH” MỸ RẤT NGHIỆT NGÃ!
Qua những sự kiện được trình bày trên, chúng ta thấy quyết định truất phế Bảo Đại là do Mỹ và Pháp đã đưa ra khi ông Diệm mới về nước. Thể thức truất phế cũng phải được thi hành theo đúng sự chỉ đạo của Mỹ.
Kết quả thu được tuy đúng với sự chỉ đạo của Mỹ nhưng đã tạo ra những sự mâu thuẩn giữa chính phủ Ngô Đình Diệm với đa số thành phần thuộc Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng. Họ cho rằng họ đã bị phản bội nên liên kết với nhau để chống ông Diệm. Mỹ lại biến họ thành một “tổ chức xã hội dân sự”, nuôi dưỡng nó, để khi ông Diệm không làm theo ý muốn của Mỹ, dùng nhóm này để quậy phá. Những thành phần chủ chốt của nhóm này đã tham gia cuộc đảo chánh ngày 11.11.1960. Khi cuộc đảo chánh thất bại, một số đã bị bắt, riêng Luật sư Hoàng Cơ Thụy được Mỹ cho ngồi bó gối trong một bao bố đựng thư lớn, chở ra phi trường Tân Sơn Nhất, đưa lên một máy quân sự và đem ra khỏi Việt Nam hôm 6.12.1960. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, Nam Á, Paris, Quyển 5, tr. 2861).
Làm “Đồng Minh” của Mỹ quả thật vừa phức tạp vừa nghiệt ngã, vì Mỹ thường coi những người được họ yểm trợ hay xử dụng chỉ là công cụ từng giai đoạn, xài xong rồi bỏ.
Ngày 23.10.2015
Ghi nhớ 60 năm ngày truất phế Bảo Đại.
Lữ Giang
Chuyến thăm Việt Nam của ông Tập Cận Bình – người dân phản đối?
Viết bởi Paulus Lê Sơn
GNsP(17.10.2015) – Phản ứng của các tầng lớp nhân dân về việc ông Tập Cận Bình, chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa sang thăm Việt Nam khá rầm rộ, có nhiều luồng ý kiến khác nhau, trên các trang mạng, diễn đàn hay facebook đều mang tính chất tẩy chay sự kiện ông Tập Cân Bình sang thăm Việt Nam.
Đã có rất nhiều facebooker lên tiếng phản đối một cách công khai và mạnh mẽ, họ cho rằng không thể đón tiếp “một kẻ có dã tâm xâm lược biển đông vào nhà được, hay không thể rước giặc vào nhà”.
Trong “Bản Lên Tiếng” do Cựu TNLT Phạm Minh Hoàng, các CTNLT và các nhà hoạt động xã hội khác khởi xướng vào ngày 15/10/2015 gồm có ba điểm chính trong đó nói khá đầy đủ về các vấn đề liên quan đến tình hình biển đông, an ninh quốc phòng, tài nguyên và ngư nghiệp mà Việt Nam đang phải bị những tổn thất lớn lao do Trung Quốc gây ra. Bản lên tiếng kêu gọi “người Việt Nam yêu nước nhận thấy có bổn phận phải lên tiếng để cảnh giác mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam và kêu gọi nhân dân Việt Nam phải nói “Không !” về sự có mặt của Tập Cận Bình trên đất nước chúng ta.”
Chúng tôi đã đặt vấn đề với một số người về việc ông Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Trung Quốc sang thăm Việt Nam vào tháng 11 năm 2015 tới đây. Họ có suy nghĩ thế nào về việc ông Tập Cận Bình sang thăm việt Nam?
Ông Nguyễn An Việt, một thương nhân tại Sài Giòn cho biết “việc các ngư dân Việt Nam liên tục bị đánh đập phá hoại ngay trên ngư trường của mình, và phía Trung Quốc đang có hành động lấn chiếm, san lấp, mở rộng các hòn đảo thuộc chủ quyền Việt Nam, nhưng phía nhà cầm quyền Việt Nam chỉ đưa người phát ngôn của Bộ ngoại giao phản đối để có lệ, mà không có hành động cụ thể nào. Ông Tập vẫn sang Việt Nam không biết mục đích gì. Nên tôi phản đối chuyến thăm của ông tới Việt Nam”.
Ông Việt nhận định cụ thể hơn “có thể thấy rằng việc các chính khách hai bên qua lại lẫn nhau, nhưng qua theo dõi thì vẫn để chủ quyền biển đảo vẫn không có gì thay đổi, thiệt thòi vẫn đến cho nhân dân ta. Vậy chỉ có thể là vấn đề nhân sự trước các kỳ “bầu bán” của Đại hội.”
Trong khi đó đặt câu hỏi với nghệ sĩ Kim Chi về sắp tới đây sẽ diễn ra kỳ đại hội đảng, người dân nhận định như thế nào khi chuyến thăm của ông Tập Cận Bình lại có trùng hợp? Vấn đề nhân sự trong đại hội đảng sắp tới? Nghệ sĩ Nguyễn Kim Chi cho hay bà đã nghe không ít người phàn nàn tỏ ý phản ứng về việc Tập Cận Bình sắp sang Việt Nam. Bà cho biết thêm “họ hỏi tôi: “cái ông này sang Việt Nam để làm làm gì nhỉ?” Tôi nói ngay: “Tôi thì cũng như các bạn thôi. Chim bồ câu thì khó suy đoán được tâm địa của lũ sói. Chỉ biết chắc rằng Việt Nam đại hội đảng Cộng sản XII sắp họp thì Tập sang để chỉ thị, đe nẹt và chỉ đạo việc bầu bán nhân sự và đường lối XHCN…Dân Trung Quốc ông ấy còn thẳng tay đàn áp thì sao ông ấy thương dân Việt Nam được. Chừng nào ông ấy chỉ đạo trả lại Trường Sa, Hoàng Sa và tất cả đất đai lấn chiếm ở các tỉnh biên giới thì tôi mới đón chào ông ta”. Vậy muốn thoát sự lệ thuộc của Trung Quốc thì suy nghĩ của bà như thế nào? Nghệ sĩ Kim Chi nói rằng muốn thoát Trung Quốc thì Việt Nam phải có NHÂN QUYỀN, DÂN CHỦ, phải kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế để đòi lại biển đảo. Phải liên kết chặt chẽ với các nước như Nhật Bản, PhiLipin… Đặc biệt là phải quan hệ tốt với MỸ. Phải hòa giải thực sự với bà con VNCH ở trong và ngoài nước. Phải kiên quyết bỏ điều 4 Hiến pháp. Không có đa nguyên đa đảng thì Việt Nam mãi mãi không hết Tù Nhân Lương Tâm và mãi mãi lệ thuộc Trung Quốc.
Chúng tôi tiếp tục đặt vấn đề với một bạn trẻ sống tại Hà Nội khi được hỏi có suy nghĩ gì về việc ông Tập Cận Bình sang thăm Việt nam, một bạn trẻ cho biết, là một người viết văn muốn biết cuộc thăm này của ông Tập Cận Bình mang lại điều gì, phản đối như luôn bất tình vì sự ngang ngược của Trung Quốc trên biển Đông, và sẽ hoan nghênh nếu ông nói rõ, như một lời minh bạch về những mất mát của các ngư dân, mà Trung Quốc đã gây ra. Trả lời, và trả lại những gì Trung Quốc đã ngang tàng cướp của đất nước tôi. Nếu những yêu cầu trên không được hồi đáp, tôi phản đối mọi nghênh tiếp liên quan đến Tập Cận Bình trên đất nước mình, dù chỉ một cuộc đi thuyền trên biển đông.
Cũng với câu hỏi suy nghĩ gì về việc sắp tới đây ông Tập cận bình sang thăm Việt Nam ? Kỹ Sư Hoàng Vũ nhận định “Đầu tiên việc một nguyên thủ cấp cao nhất của Trung Quốc sang Việt Nam là 1 sự kiện lớn và hiếm có, bởi chính sách ngoại giao của Trung Quốc đối với Việt Nam lâu nay luôn mang tính chất coi Việt Nam là “chư hầu”. Hầu hết khi diễn ra các cuộc gặp cấp cao giữa lãnh đạo 2 nước thì lãnh đạo bên Việt Nam đều phải thân hành sang Trung Quốc. Sự kiện này phần nào cho thấy giới lãnh đạo Trung Quốc đang muốn kéo Việt Nam trở lại phía mình sau những động thái ngả về phương Tây của lãnh đạo Đảng Cộng Sản. Điều này cũng đang cho thấy vị thế của Trung Quốc đối với quốc tế và với riêng Việt Nam đã giảm đi nhiều”. Kỹ sư Hoàng Vũ cho rằng nếu ngả về phương Tây thì Việt Nam có thể thoát Trung Quốc, trước mắt một phần có thể thoát được Trung Quốc về vấn đề phụ thuộc kinh tế, bởi ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam về mọi mặt là khá nặng nề, việc tham gia các hiệp định thương mại chỉ có thể giải quyết được một phần bề nổi của cả 1 xã hội đang xuống cấp trầm trọng, và bản thân việc ngả về phương Tây và các hiệp định thương mại đó cũng chưa chắc phục vụ lợi ích được cho người dân mà chỉ có cho 1 nhóm lợi ích, bản thân tôi không lạc quan nhiều về TPP sẽ ảnh hưởng tốt đối với người dân Việt Nam.
Sự kiện ông Tập Cận Bình sang thăm Việt Nam sẽ đem lại lợi ích gì cho đất nước? Tiếng nói của người dân có được nhà cầm quyền Hà Nội xem xét và lưu tâm với những suy nghĩ và trăn trở của họ về hiện tình đất nước, về mối giao bang giữa Việt Nam và Trung Quốc đang không được mấy tốt đẹp liên quan đến Biển đông, ngư dân?
Phải chăng chuyến thăm của ông Tập Cận Bình là để trù bị nhân sự cho đại hội Đảng Cộng sản tại Việt Nam như một số người nhận định. Nhìn chung là chuyến thăm này của ông Tập không được chào đón bởi người dân mà chỉ được nhiệt liệt hoan nghênh của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Paulus Lê Sơn
Việt gian Việt cộng Việt kiều
Viết bởi Bảo Giang
Việt gian Việt cộng Việt kiều,
Ba tên họp lại tiêu điều nước Nam!
Không chiêng, không trống, hai câu thơ lục bát như lời đồng dao tự nhiên bước vào cuộc sống của nhân gian. Nó được đón nhận và lưu truyền từ vùng này sang vùng khác, từ mắt môi người gần đến người xa, từ người gìa đến em bé, không một nơi nào không có sự hiện diện của nó. Nó như ngủ với mọi người cả đêm lẫn ngày. Vậy mà, chẳng một ai cần biết đến nguồn gốc, xuất xứ của nó. Cũng chẳng cần một ai giải nghĩa về nó. Tất cả như đã hiểu và chấp nhận nó như một thực tế, như lẽ đương nhiên không cần bàn cãi. Tại sao thế? Đó là một câu chuyện của thời đại, hay là sự mỉa mai, khinh miệt? Hoặc giả, là tất cả những điều đó gom lại để cho thấy nó là tai họa cho xã hội, cho đất nước mà mọi người phải xa lánh, loại trừ nó?
Những lúc gần đây, trong câu chuyện thường ngày, có nhiều ngưòi nói đến ba thành phần này trong xã hội Việt Nam. Tuy thế, tôi không muốn viết về câu chuyện này, một câu chuyện chẳng hay ho một chút nào. Phân vân mãi rồi tôi cũng phải viết. Viết để trả lời một câu hỏi mà nhiều người, trong số có cả người thân, quen, đã hỏi tôi là: Tại sao trong các bài viết, tôi luôn luôn dùng hai từ Việt cộng, thay vì Cộng sản Việt Nam? Lúc ấy, tôi trả lời lẩn tránh cho qua chuyện, tại quen rồi. Thật ra không phải như thế. Tôi gọi cái tập đoàn ấy là Việt cộng vì cái lý lịch nhân sự cũng như những hành động vô đạo, đê hèn của nó tạo ra cho người dân và còn vĩnh viễn gắn liền với đời của nó. Tôi không viết bằng thói quen, trái lại, viết có chủ đích. Đó là sự khinh miệt từ xã hội dành cho nó. Nhưng trước hết, Việt gian, Việt cộng, Việt kiều là gì, là ai? Tại sao nó lại có thể tạo ra câu đồng dao như lòng dân vậy?
I. Việt gian.
“Việt gian là một cụm từ miệt thị dùng để ám chỉ những người Việt Nam bị xem là phản quốc, làm tay sai cho ngoại bang, có những hành động đi ngược lại với quyền lợi dân tộc” (.wikipedia). Định nghĩa như thế, tôi cho là còn thiếu ba chữ “ và đất nước”. Lý do, chỉ có dân tộc không là chưa đủ. Bởi vì, đất nước, con người và chủ quyền luôn phải đi chung với nhau mới có thể tạo thành một Quốc Gia.
Sách vở thì viết như thế, tuy nhiên, thông thường người dân đều hiểu rằng: “ Việt gian” là cách gọi đầy khinh miệt dành cho một người, hay một nhóm người nào đó, vì quyền lợi riêng tư của mình, hay của phe nhóm đã phạm tội bán nước hay âm mưu bán nước. Dĩ nhiên, hành vi này được tính trong cả hai trường hợp đã hiện thực hay chưa. Nằm ở trong trường hợp này, ở nước ta xưa nay cũng đã có nhiều:
A. Những tên tuổi lớn trong hệ gọi Việt gian:
1. Trần ích Tắc.
Theo An Nam Chí Lược của Lê Trác và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1697) ghi lại như sau: “Người Nguyên vào cướp, Ích Tắc xin hàng chúng để mong làm vua. Người Nguyên phong là An Nam Quốc Vương. Sau khi người Nguyên thất bại, Ích Tắc lòng hổ thẹn, chết ở đất bắc“. Như thế, khi nước ta còn, và còn phải bảo vệ nền Độc Lập thì Trần ích Tăc và những tên tuổi lớn dưới đây, dù đã chết cả nghỉn năm trước, Y vẫn phải “ sống” để chiụ sự nguyền rủa như một tấm gương tồi tệ cho người đời nhìn đó mà tránh xa.
2. Lê chiêu Thống.
Theo sử liệu:” Thái hậu (mẹ vua) sang nhà Thanh “gào khóc” xin nhà Thanh xuất quân. Rồi, khi quân Tàu vào cõi, vua “đích thân” đem quan lại ra nghênh tiếp và đem trâu rượu ra khao” Theo bản văn của Lê Quýnh, người theo hầu Lê chiêu Thống, viết:” đám người thân cô này chỉ mong trú ngụ ít lâu rồi kiếm được mảnh đất ở Cao Bằng, được Trung Quốc hậu thuẫn để yên thân ít năm, rồi tìm cách khôi phục (giống nhà Mạc)”. Trong khi đó vào “Tháng 5 năm 1788, mẹ Lê Duy Kỳ cùng các bầy tôi sang Long Châu cầu viện nhà Thanh phát binh đánh Tây Sơn. Tháng 7 năm 1788, Lê Chiêu Thống ở Kinh Bắc cũng sai người sang Trung quốc cầu viện. Càn Long nhân cơ hội đánh chiếm Đại Việt bèn sai Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn sỹ Nghị mang từ 18.000 đến hơn 20 vạn, gồm các đạo binh huy động từ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Qúy Châu hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa phù Lê.”(wikipedia)
3. Nguyễn Ánh:
Đến nay, người ta kết tội Nguyễn Ánh là kẻ bán nước, kẻ rước voi vào dày đất Việt bởi Hiệp Ước Versailles để sau đó, Việt Nam phải chịu ách thống trị bởi thực dân Pháp gần một trăm năm. Chuyện này được ghi lại như sau: “Ngày 28 tháng 11năm 1878 tại cung diện Versailles Bá Đa Lộc với tư cách là đại diện của Nguyễn Ánh đã ký với Thượng thư Bộ Ngoại giao Pháp là Armand Marc, một bản hiệp ước "Tương trợ tấn công và phòng thủ" (thường gọi là Hiệp Ước Versailles. Hiệp ước này gồm có 10 khoản, nội dung chính là về việc vua Pháp cam kết cung cấp cho Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu chiến loại frégaté cùng 1.200 bộ binh 200 pháo binh và 250 lính Cafres (lính da đen châu Phi) và các phương tiện trang bị vũ khí tương ứng; ngược lại Nguyễn Ánh chấp thuận nhường cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn cho Pháp, cho phép người Pháp được quyền tự do buôn bán và kiểm soát thương mại của người nước ngoài ở Việt Nam, mỗi năm sẽ đóng trả cho Pháp một chiếc tàu giống với loại tàu Pháp viện trợ, đồng thời cung cấp lương thực và quân nhu thiết yếu cho Pháp khi Pháp có chiến tranh với một nước khác ở khu vực Viễn Đông.
4. Hồ chí Minh,
Thư xin làm tay sai: Ngày 06-6-1938, Hồ gởi Stalin. “Đồng chí hãy phân tôi đi đâu đó, hay là giữ tôi ở lại đây. Hãy giao cho tôi một việc làm gì mà theo đồng chí cho là có ích. ( HCM toàn tập, tập 3 trang 90).
Thư xin giết người Việt Nam. Vào ngày 31-10-1952 . Hồ viết: “Đồng chí Stalin kính mến, Tôi gởi cho đồng chí đề án cải cách ruộng đất của đảng Lao Động Việt Nam ( tên của đảng cộng sản lúc bấy giờ). Đề án này tôi đã hoàn thành với sự giúp đỡ của hai đồng chí Liu Shaoshi và Van szia-Sian. Đề nghị đồng chí tìm hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này”.
Hiệp Ước xin làm phiên thuộc cho Pháp. “ Tại Hà Nội, ngày 6-3-1946, tại số 38 đường Lý Thái Tổ, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, HCM ký thỏa ước Sơ bộ với Pháp, gồm 2 điều chính: 1) Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương (LBĐD) và trong Liên Hiệp Pháp (LHP). 2) Việt Nam sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa để giải giáp quân đội Nhật. Điều 1 ghi rằng Việt Nam nằm trong LBĐD và trong LHP. Như thế, về hành chánh, Việt Nam dưới quyền của cao uỷ Pháp, người đứng đầu LBĐD. ( Trần gia Phụng, ngày sinh của HCM)
5. Phạm văn Đồng:
Giấy bán hai quần đào Hoàng Sa và Trường Sa của việt Nam cho Trung cộng; Nhắc lại, khi Chu ân Lai tự ý lấn chiếm đất đai, sông biển cua Việt Nam bằng cách công bố chủ quyền trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, 10 ngày sau, Phạm văn Đồng đã nương theo thông báo này mà viết công hàm sau:
“CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ CÔNG NHẬN QUYẾT ĐỊNH VỀ HẢI PHẬN CỦA TRUNG-QUỐC
Thưa đồng chí Chu Ân-lai,
Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa,
Chúng tôi xin trân trọng thông báo tin để đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG”
6. Trường Chinh
Đơn xin làm chư hầu cho Trung cộng; Nhân danh tổng bí thư đảng, Đặng xuân Khu đã đưa ra chỉ thỉ cho đảng cộng và gởi thư cho đồng bào Việt Nam như sau:
“Việt Minh Vận Động cho Việt Nam làm Chư Hầu Trung Quốc
ỦY BAN HÀNH CHÁNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG Hòa
Hỡi đồng bào thân mến!
Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào! Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mủi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế ?
Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối âu tây ấy – một cách viết rõ ràng có mau thật đấy – và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc.
Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta – mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế – có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không?
Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo! Có thế thôi! Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Ðế quốc phương Tây đem qua xứ ta! Ta hãy bỏ nhà bảo sinh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu. Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa hoc, phát minh v.v.
Ta hãy quét sạch lủ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân! Chúc “Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”.
Trường Chinh , Tổng thư ký đảng Lao Ðộng ( cộng sản)”
7. Lê Duẫn:
Trong cuộc chiến Quốc cộng, 1954-1975, tập đoàn cộng sản theo lệnh Trung cộng mở chiến tranh vào miền nam. Lê Duẫn TBT của tập đoàn này đã công bố chủ đích của cuộc chiến là: “ Ta đánh Mỹ, chiếm miền nam là đánh cho cả Trung quốc và Liên xô” ( Nguyễn mạnh Cầm). Rồi “Trong số các tài liệu đã được giải mật, một tài liệu được lưu trữ ở Trung tâm Wilson cho thấy, trong cuộc họp với Mao Trạch Đông hồi năm 1970, Lê Duẩn đã cho Mao Trạch Đông biết, Việt Nam đang trường kỳ kháng chiến chống Mỹ là vì Trung Quốc. Lê Duẩn đã nói, nguyên văn như sau: “Tại sao chúng tôi giữ lập trường bền bỉ chiến đấu cho một cuộc chiến kéo dài, đặc biệt trường kỳ kháng chiến ở miền Nam? Tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là vì chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch…Chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, đó là vì Mao Chủ tịch…”. (Đài Á Châu tự Do, giải phóng miền nam, cho ai và vì ai?)
Cùng khoảng thời gian tháng 7-1966, trong lúc đi cầu viện với Trung cộng, Lê Duẩn nói:” ‒ Thưa đồng chí, chúng tôi luôn nghĩ rằng Trung Quốc là anh lớn của chúng tôi, người bạn đáng tin cậy nhất, hỗ trợ của Trung Quốc chúng tôi xem rất trọng và đương nhiên có vay thì phải có trả, có ai cho không bao giờ!…” Mao đáp lời:” Đảng Cộng Sản Việt Nam bảo vệ phía Nam (có nghĩa là đánh thuê) cho Trung Hoa, nay kêu gọi nhân dân Trung Hoa, đáp ứng lời cầu cứu ngoài biên cương, hỗ trợ cho Việt Nam chống Mỹ. Tức nhiên đây là nhiệm vụ của toàn nhân dân cứu nước Trung Hoa” Mao tuyên bố:” Chúng tôi đáp ứng lời cầu viện của Hồ và Duẩn ( Hùynh Tâm),
8. Tập đoàn Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Phạm văn Đồng, Lê Đức Anh, Lê khả Phiêu… trong Mật Ước Thành Đô.
Cho đến nay, không ai nắm rõ những điều bí nhật trong Hiệp Ước Thành Đô. Tuy nhiên trong những thời gian gần đây người ta nói nhiều đến những điểm chính yếu được ghi trong Hiệp Ươc này, trong đó có nhật ký Lý Bằng, viên thủ tướng của Trung cộng trong Hội nghị, cho biết đại ý như sau: “Đảng CSVN va nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Mao trạch Đông và Hồ chí Minh dày công xây đắp trong qúa khứ và Việt Nam ( cộng) bày tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung cộng để Việt cộng được hưởng quy chế khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc kinh như Trung cộng đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng… Phía Trung cộng đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho tpphía Việt cộng một thời hạn là 30 năm ( 1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bư1ơc tiến hành cần thiết cho việc giai nhập đại gia đình các dân tộc Trung quốc”.
Câu chuyện là thế, thực tế ra sao? Đến nay chưa ai biết rõ. Tuy nhiên, những tiến trình mà Việt cộng thực hiện trong những năm qua sau các vụ Trường Sa, Hoàng Sa, bán đất đầu nguồn, rồi Nam Quan, Bản Giốc, Lão Sơn, Tục lãm… cũng như các khu tự trị Bình Dương, Đà Nẵng, Vũng Áng… có lẽ là những bước dọn đường chăng? Những câu hỏi này chỉ có thể được trả lời từ tập đoàn Việt cộng Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh, Võ văn Kiệt, Phan văn Khải và nay là Nguyễn phú Trọng, Trương tấn Sang, Nguyễn tấn Dũng và Nguyễn sinh Hùng… mà thôi. Ngoài ra là không có ai khác.
B. Những kẻ làm tay sai cho Việt gian:
Ở miền nam, trước 30-4-1975 có một số người được liệt kê vào thành phần Việt gian. Bọn ăn cơm quốc gia, hưởng bổng lộc, lạm dụng sự tự do của Miền Nam đi thờ ma cộng sản. Tên tuổi của họ vẫn thường được nhắc nhở tới trên báo chí, trong các bài viết trên các trang mạng gồm đủ mọi thành phần, từ những kẻ mặc áo nhà tu bên Công Giáo, Phật giáo, áo rộng tay dài, phản bội lý tưởng tự do của đồng bào, cầm cờ đi đón cộng sản vào miền nam, đến những loại trí thức nửa mùa, trong đó có một số trở thành những đao phủ khát máu, đồ tể trong tết Mậu Thân ở Huế như bọn Nguyễn đắc Xuân, Hoàng phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan, Nguyễn thị Trinh... đã tiếp tay với bọn Việt gian, tạo nên cái cùng khốn của Việt Nam hôm nay. Kế đến, sau ngày 30-4-1975, chúng lại giống như một loài ký sinh, bám theo đoàn người Việt Nam đi tỵ nạn cộng sản ở các quốc gia Tự Do, vẫn chỉ có một cái nghề duy nhất làm tay sai cho bọn Việt gian. Ngày nay, chúng có một cái tên hoa mỹ hơn, Bọn ăn cơm, hưởng trợ cấp của Mỹ, Úc, Pháp, Canada… nhưng lại đi thờ ma Việt cộng để hại người dân Việt. Tuy thế, các nhóm này chẳng có vốn liếng để bán, có chăng là làm tổn thương chút uy tín của tập thể người Việt Nam ở hải ngoại hôm nay mà thôi.
Như thế, nhìn lại dòng sử, Việt gian vào thời nào cũng có. Có từ khi lập quốc đến nay. Tuy nhiên, hành động bán nước hại dân của chúng thì nặng nhẹ, khác nhau. Có khi chỉ là hoạt động cá nhân hay theo từng nhóm nhỏ. Có khi thì kết bè thành một tập thể lớn như đảng phái. Nhưng dù nhỏ hay lớn, luôn để lại những vết thương cho người dân Việt mà, lịch sử còn ghi lại hai vết thương chừng như chưa ngưng rỉ máu. Đó là hai thời kỳ bị chia ra làm hai vì những việc làm của bọn Việt gian này.
a. Thời kỳ thứ nhất: Thời Trịnh Nguyễn phân tranh.
Con sông Bến Hải lần đầu trở thành đường phân chia ranh giới Bắc Nam. Đây là cuộc phân chia nội bộ. Từ cuộc tranh giành ngôi Vua, phủ Chúa, Trịnh Nguyễn đã tạo ra cuộc chia lìa này. Sau khoảng 200 năm ( 1602- 1789), cuộc phân chia này được kết thúc bằng hai tên tuổi hoàn toàn đối kháng nhau: Việt gian Lê chiêu Thống với mưu đồ “ cõng rắn cắn gà nhà”, để quân Thanh vào dày xéo nước ta. Tuy thế, việc quân Thanh xâm phạm bờ cõi nước Nam đã tạo nên một trang sử oanh liệt của Việt Nam. Vua Quang Trung đã đại phá quân Thanh và tạo nên cuộc Thống Nhất cho đất nước. Cuộc Thống Nhất này phải khẳng định là đã gắn liền với sự kiện lịch sử Độc Lập Dân Tộc và Toàn Vẹn Lãnh Thổ. Đến sau khi vua Quang Trung tạ thế, Gia Long thắng nhà Tây Sơn, chiếm được ngôi vị, lên nắm quyền cũng được coi là Thống Nhất. Nhưng thực chất, cái Thống Nhất của Nguyễn Ánh là tạo ra từ việc dâng đất biển cho Pháp ( Hiệp ước Versailles) và chỉ kế thừa sự Thống Nhất đã có sẵn từ Vua Quang Trung mà thôi.
b. Thời kỳ thứ hai: Thời Quốc-Cộng phân tranh.
Sau trăm năm tranh đấu chống thưc dân Pháp, nhà Việt Nam vừa có Tuyên Ngôn Độc Lập Thống Nhất vào ngày 14-3-1945. Bất ngờ, Việt Minh, một tổ chức theo chủ nghĩa tam vô: Vô gia đình, vô tôn giáo vô Tổ Quốc do Việt gian Hồ chí Minh lãnh đạo nổi lên cướp chính quyền ở nhiều địa phương và đến ngày 2-9-1945, nhân cuộc tổng bãi thị ở Hà Nội của công chức và học sinh thanh niên do chính phủ tổ chức, Việt Minh đã cướp chính quyền và tự thành lập một nhà nước có tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do Hồ chí Minh lãnh đạo. Nhưng đến ngày ngày 6-3-1946, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, HCM ký thỏa ước Sơ bộ với Pháp, gồm 2 điều chính: 1) Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương (LBĐD) và trong Liên Hiệp Pháp (LHP). 2) Việt Nam sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa để giải giáp quân đội Nhật
Bản văn này có gía trị xé nát tuyên ngôn Độc Lập do Quốc trưởng Bảo Đại đã công bố trước đó vào ngày 14-3-1945. Đưa Việt Nam trở lại cuộc lệ thuộc vào nền hành chánh trong Liên Bang Đông Dương do Pháp lãnh đạo. Rồi chỉ sau đó một thời gian, tập đoàn Việt Minh đã đẩy cả nước vào cuộc chiến mới, cuộc chiến Đông Dương 1946-1954. Sau cuộc chiến này, một lần nữa bọn Việt Gian Hồ chí Minh, Đặng xuân Khu, Phạm văn Đồng, Lê Duẩn… đã cõng rắn Tàu vào và tạo nên cảnh chia hai đất nước vào ngày 20-7-1954. Chuyện rước voi về dày mả tổ chưa dừng lại ở đó, tập đoàn Việt Gian này nhờ súng đạn Tàu đã mở ra cuộc chiến với những người bảo vệ nền Độc Lập và Tự Do của Việt Nam ở miền nam do Tổng Thống Ngô đình Diệm lãnh đạo. Chúng đã tạo nên biển máu, núi xương kéo dài trong suốt 20 năm…
II.Việt cộng/ bọn Vẹm
Bảo Giang
10-2015
TNLT Tạ Phong Tần: Hãy phó thác cho Chúa quan phòng
Viết bởi GNsP
GNsP(16.10.2015) – Vừa qua, Hội Nhà báo Độc lập có bài phỏng vấn TNLT Tạ Phong Tần, người vừa bị nhà cầm quyền VN đưa từ nhà tù sang Mỹ.
PV: Gần 1 tháng chị rời khỏi Việt Nam để sang đất nước Hoa Kỳ mở đầu cuộc sống mới, không biết chị hòa nhập được với cuộc sống ở bên ấy hay chưa?
TPT: Nói là hòa nhập thì chưa, vì tôi vẫn chưa biết tự lái xe, chưa nói được tiếng Anh với người Mỹ bản xứ, nhưng ở đây có cộng đồng người Việt rất đông nên gần như không gặp trở ngại gì trong sinh hoạt hằng ngày. Điểm hay nhất ở Cali này là tất cả cơ quan công quyền, dịch vụ đều có nhân viên người Việt Nam (bắt buộc) để phục vụ cho người Việt.
PV: Chị thấy cuộc sống người dân bên Hoa Kỳ khác ở VN như thế nào? Có những gì tốt hay không tốt hơn ở VN?
TPT: Bên này dĩ nhiên là phải tốt hơn, ai cũng biết nếu Chính phủ Hoa Kỳ cho phép thì “cây cột đèn” ở Việt Nam nó cũng chạy sang Mỹ, nói gì đến con người. Có điều bất tiện là khó nhớ tên đường, địa điểm vì bảng hiệu tiệm quán, nhà hàng, khách sạn… bên này không ghi địa chỉ, tên đường phố lên như ở Việt Nam.
PV: Với những gì tốt đẹp trong cuộc sống mà người dân ở đất nước Hoa Kỳ đang được hưởng chắc hẳn là niềm mơ ước của nhiều người dân ở VN, vì lẽ này mà có không ít nguồn dư luận nói rằng bản thân chị cũng như nhiều người đấu tranh khác suy cho cùng đấu tranh cũng chỉ để được đi Hoa Kỳ sống, chị nói sao về nguồn dư luận này?
TPT: Đó là luận điệu xuyên tạc của bọn “dư luận viên” CSVN, nhằm bôi nhọ uy tín, làm mất lòng tin của nhân dân vớ người đấu tranh chống Cộng sản độc tài. Đi Mỹ mà phải đánh đổi bằng cái giá như Tạ Phong Tần thì cái giá đó quá đắt. Bản thân những kẻ đặt ra vấn đề ấy có dám đánh đổi không?
PV: ông CT QH Nguyễn Sinh Hùng từng phát biểu: “Không thể để một cái tội chống nhà nước quy định chung chung như vậy, muốn bắt ai thì bắt, đâu có được”. Từng là người bị xét xử về cái tội này, chị phản ứng sao về bản án dành cho chị qua lời phát biểu của ông Hùng?
TPT: Nhắc lại câu mở đầu trong Bản luận cứ bào chữa của Tạ Phong Tần tại phiên tòa sơ thẩm ngày 24/9/2012: “Tôi không công nhận tính hợp pháp của Cáo trạng nói trên, đó là sự vu khống, bịa đặt trắng trợn, vô căn cứ và bóp méo sự việc, hình sự hóa hành vi dân sự nhằm động cơ chính trị”.
PV: Không riêng gì chị mà tự những người dấn thân đấu tranh cho một VN tự do- dân chủ nhân quyền đều khẳng định: rời khỏi đất nước không phải là không còn đấu tranh nữa vậy bản thân chị cũng như CLB NB Tự do đã vạch những hướng đi gì trong thời điểm trước mắt và lâu dài về sau?
TPT: Trước hết, tôi khẳng định tôi luôn luôn là một nhà báo tự do. Thời gian ở Việt Nam, tôi thể hiện quan điểm của mình bằng những bài báo đăng tải ở báo chí tiếng Việt hải ngoại và blog cá nhân của mình. Và còn phải lo đối phó với sự khủng bố của nhà cầm quyền CSVN; Hiện nay yếu tố thứ hai (khủng bố) đã bị loại trừ. Theo ý bạn thì ở đâu điều kiện làm việc của tôi tốt hơn?
PV: Theo chị thì truyền thông thông tin độc lập trong thời điểm hiện tại nó quan trọng như thế nào đối với người dân trong nước?
TPT: Bất cứ thời điểm nào người dân Việt Nam cũng cần đến truyền thông độc lập và sự thật về xã hội mình đang sống để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình; nhưng điều đó gây bất lợi cho nhà cầm quyền, chính vì thế mà họ mới bưng bít sự thật và cấm đoán, đàn áp truyền thông độc lập.
PV: Quay trở về vấn đề trong nước, hiện nay vấn để nổi trội là việc bức cung, nhục hình dẫn đến chết người tại các đồn công an, trại giam vậy lúc chị còn ở tù Việt Nam chị có bị bức cung, nhục hình hay không?
TPT: Không. Tôi đã tuyệt thực ngay sau khi bị bắt (và tuyệt thực đến 1 tháng 20 ngày) để tỏ rõ cho họ thấy rằng: Có những thứ mạnh hơn cái chết. Tôi không hèn như họ.
PV: Trước khi trở thành chiến sĩ đấu tranh dân chủ, chị vốn là một đại úy an ninh tức là người nằm trong bộ máy chính quyền Việt Nam. Vậy chị có tận mắt thấy được trường hợp nào mà công an, an ninh VN bức cung, nhục hình đối với người dân tại đồn công an, trại giam nơi chị công tác hay không?
TPT: Không phải “nằm” mà là “đứng”. Vì “đứng” mới đi ra sớm như vậy. Về chuyện bức cung, nhục hình, nếu không có sự chỉ đạo thì chẳng ai ngu mà làm. Thành tích hưởng chung, thằng to hưởng trước, thằng làm tự chịu trách nhiệm cá nhân. Nơi tôi công tác trước kia thì không có chuyện bức cung, nhục hình vì chính cán bộ CA cũng phải dè chừng lẫn nhau, sợ “bọn ác” nó tranh ghế lấy làm bằng “hạ bệ” thì mình chết.
PV: Vấn đề chính quyền VN vi phạm nhân quyền bây giờ không dễ gì che đậy được do sự phát triển của Internet, phản ứng của chị ra sao đối với chính quyền VN về vấn đề này?
TPT: Cái này phải hỏi nhà cầm quyền CSVN chớ sao lại hỏi Tạ Phong Tần?
PV: VN đã ký xong đàm phán TPP, cải thiện vấn đề nhân quyền lại là điều kiện Hoa Kỳ đưa ra để đàm phán với phía VN tại TPP, chị có nghĩ để đạt được TPP thì chính quyền VN buộc phải cải thiện vấn đề nhân quyền tốt hơn hay không?
TPT: Tất nhiên phải cải thiện, mà sự ra đi của Tạ Phong Tần (một kẻ “cứng đầu cứng cổ”, “chống đối quyết liệt” như bọn CA nói) sang Mỹ là một trong số bằng chứng điển hình.
PV: Phải thừa nhận phong trào dân chủ trong nước ngày một lớn mạnh, theo chị thì nó có ảnh hưởng như thế nào đến vấn đề dân chủ, nhân quyền ở VN?
TPT: Sinh thời, cụ Phan Chu Trinh có chủ trương: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Bây giờ phong trào dân chủ trong nước đang thực hiện cùng một lúc hai khâu “Khai dân trí, chấn dân khí”.
PV: Đối với anh em đấu tranh dân chủ trong nước, chị có gửi gắm hay chia sẻ điều gì về nơi họ hay không?
TPT: Khi ta thấy việc ta làm là hợp lẽ, ta đừng quan tâm đến lời bàn tán của thiên hạ. Hãy kiên nhẫn, kiên định, kiên cường mục tiêu lý tưởng. Công lý và danh dự bản thân phải đặt lên hàng đầu. “Sĩ khả sát, bất khả nhục” (Kẻ sĩ có giết chết nhưng không thể làm nhục). CSVN có thể cầm tù thân thể, nhưng không cầm tù được trái tim và ý chí. Hãy phó thác cho Chúa quan phòng.
Xin quý vị đọc lại các bài viết trong chuyên mục “Hướng về Thiên Chúa” trong blog này:
https://taphongtan.wordpress.com
Hãy yên tâm vì lúc nào cộng đồng người Việt tiến bộ, nhân loại tiến bộ toàn thế giới luôn ủng hộ cuộc đấu tranh của chúng ta.
Sửa luật hay siết luật ???
Viết bởi bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 229
GNsP(16.10.2015) – Nhà cầm quyền Việt cộng đang bị quốc tế áp lực phải sửa lại các luật phản nhân quyền của họ, các luật mà chỉ có những chế độ độc tài Cộng sản man rợ mới nghĩ ra, bất chấp sự tụt hậu của đất nước, sự điêu linh của đồng bào, sự hỗn loạn của xã hội, sự toàn cầu hóa về tự do dân chủ và sự tác hại lên nền văn minh chung của nhân loại. Áp lực đó xuất phát một đàng từ việc Hà Nội đang ngồi trên ghế Hội đồng Nhân quyền LHQ và đang bước vào ghế Đối tác xuyên Thái Bình Dương, đàng khác từ những thông tin của các báo lề trái trong nước và những tường trình của các cơ quan nhân quyền ngoài nước về các vụ vi phạm quyền con người liên tục của Việt cộng, cụ thể như đàn áp các tôn giáo, các nhà dân chủ đối kháng và các tổ chức xã hội dân sự.
Trong khoảng một năm gần đây, Quốc hội bù nhìn đang có chiến dịch xây dựng, sửa đổi và xin dân góp ý về một số luật gây tranh cãi lâu nay. Mới nghe thì thấy nhà nước VN quả là thiện chí đầy mình, vì theo quan niệm thông thường, người ta xây dựng hay sửa đổi luật là để đáp ứng hoàn cảnh biến đổi, canh tân tình trạng đất nước, cải thiện quan hệ xã hội và phục vụ cuộc sống công dân. Thế nhưng, chỉ cần điểm qua dự thảo Luật tín ngưỡng tôn giáo, Luật về hội và Luật hình sự sửa đổi và phản ứng của người dân thì rõ tâm địa của đảng và nhà cầm quyền Việt cộng.
Trước hết, về Dự thảo Luật tín ngưỡng tôn giáo (LTNTG), Hội đồng Giám mục VN, trong Nhận định và góp ý đưa ra ngày 04 tháng 5, có viết: “Dự thảo 4 chưa làm rõ mục đích của luật, vì luật được tạo ra nhằm đảm bảo quyền con người, tạo sự bình đẳng cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, đem lại bình an cho xã hội cùng cộng đồng dân tộc. Điều kiện tiên quyết đem lại bình an cho cộng đồng dân tộc là việc người dân chu toàn bổn phận làm người, – tu thân, tề gia, trị quốc, – phải mang tính thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Thiên thời là thuận ý trời. Địa lợi là lợi cho truyền thống văn hoá đạo đức dân tộc. Nhân hòa là hoà với lòng nhân, lòng đạo của người dân. Trong bản Dự thảo 4 có những điều luật chỉ nhằm mang lại quyền lợi cho nhà cầm quyền (như Điều 9, cùng những Điều nói về việc đăng ký…), mà quên đi quyền lợi của người dân, chưa làm rõ tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo. Điều thiếu sót quan trọng nhất của Dự thảo 4 là không công nhận sự “tồn tại” hợp pháp của một tổ chức tôn giáo trước pháp luật Việt Nam, qua việc không công nhận tổ chức tôn giáo là một “pháp nhân” chiếu theo Điều 84-85 của Bộ Luật Dân sự 2005”. Và cuối cùng Hội đồng GMVN thẳng thừng phán quyết: “Dự thảo 4 đi ngược lại với Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế (Điều 18) và Hiến pháp 2013 (Điều 24). Chúng tôi nhận thấy nó là một bước thụt lùi so với Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004”.
Hiện giờ thì đã xuất hiện Dự thảo thứ 5, nhưng nó cũng chỉ có những sừa đổi râu ria, nên Hội đồng Liên tôn, trong Bản trình bày về hiện tình tôn giáo tại VN (gởi đến Hội nghị về Tự do tôn giáo vùng Đông Nam Á họp tại Bangkok hôm 29-09), đã tố cáo: “a- Một Nhà nước vô thần với những chuyên viên không có kinh nghiệm sống tôn giáo –thậm chí thuộc bộ Công an- lại lập luật cho niềm tin tôn giáo và cho người có tín ngưỡng. Đó chỉ có thể là một luật kiểm soát sự hình thành và hoạt động của các tôn giáo mà thôi. Dự thảo LTNTG dài gấp đôi Pháp lệnh 2004, do đó tinh vi hơn và siết chặt hơn. b- Dự thảo LTNTG vẫn tiếp tục cơ chế “xin-cho”, nghĩa là buộc phải xin phép đối với mọi hoạt động lớn nhỏ của các Giáo hội, từ việc tổ chức cơ cấu, huấn luyện nhân sự, thủ đắc tài sản, đến việc sinh hoạt phụng thờ, truyền bá giáo lý và liên hệ quốc tế… Mục đích là kiểm soát, khống chế, lũng đoạn các Giáo hội, giới hạn các tôn giáo một cách nghiêm ngặt hơn nữa và hình sự hóa mọi quyền liên quan đến tự do tôn giáo (nghĩa là không xin phép, tức vi phạm luật)”.
Thứ đến, đối với Dự thảo Luật về Hội, theo nhận xét chung của nhiều chuyên gia luật học, nó đã trao cho cơ quan quản lý nhà nước quyền can thiệp quá sâu vào quá trình thành lập, nhân sự và hoạt động của hội. Dự thảo không tôn trọng nguyên tắc tự do, tự nguyện, tự chịu trách nhiệm của tổ chức hội, và nhằm mục đích hạn chế, kiểm soát quyền tự do thành lập hội. Đồng thời nó cũng đi ngược với tinh thần luật pháp quốc tế, biểu tỏ qua lời nói đầu của Nghị quyết 15/21 của Hội đồng Nhân quyền: “Quyền tự do lập hội là một trong những thành tố thiết yếu của xã hội dân chủ.” Xin nêu một vài điểm cụ thể trong Dự thảo:
– Khoản 3 điều 9 quy định về điều kiện thành lập Hội: “Lĩnh vực hoạt động chính không trùng lắp với lĩnh vực hoạt động chính của hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trong cùng phạm vi hoạt động.” Quy định này hạn chế các tổ chức mới được thành lập nay mai. Bởi lẽ các hội do chính quyền thành lập trước đó (trên 40, đang quy tụ trong cái rọ Mặt trận Tổ quốc) đã bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Qui định này cũng không tạo ra sự cạnh tranh trong hoạt động hợp pháp của các tổ chức hội, trái lại tạo ra sự độc quyền và độc đoán của các hội do nhà nước đẻ ra. Như thế là tước quyền tự do lựa chọn hay thành lập hội khi công dân có nhu cầu.
– Khoản 1 điều 10: “Công dân, tổ chức VN có nhu cầu thành lập hội phải dự kiến danh sách những người tham gia ban vận động hội, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận ban thành lập hội.” Ban vận động thành lập hội có ý nghĩa quyết định đến việc ra đời của hội. Nếu nó không được nhà cầm quyền công nhận thì hội sẽ chẳng bao giờ hình thành cả. Buộc ban vận động thành lập phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận là chuyện vô lý và ngang ngược. Đây sẽ là điều kiện để nhà cầm quyền loại bỏ ngay từ đầu những ai tham gia thành lập hội mà họ không ưa thích, cụ thể là những ai từng tranh đấu cho nhân quyền dân chủ.
– Khoản 4 điều 21 qui định: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và bãi nhiệm chức danh người đứng đầu hội.” Việc bầu người đứng đầu hội là do đa số các thành viên của hội tự do lựa chọn và quyết định. Cơ quan quản lý nhà nước không có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của hội và càng không có quyền công nhận hay bãi nhiệm chức danh người đứng đầu hội.
Ngoài ra còn vô số điều khác trong Dự thảo cho thấy nhà cầm quyền Việt cộng không hề từ bỏ não trạng độc tài (duy mình có quyền lực) và toàn trị (phải kiểm soát mọi tổ chức), để cuối cùng công cụ hóa hay ít nhất tê liệt hóa tất cả các thực thể trong xã hội (công đoàn độc lập chẳng hạn).
Cuối cùng là dự thảo Bộ luật Hình sự sửa đổi. Ai cũng biết văn bản qui định tội phạm và hình phạt này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do và bất khả xâm phạm về thân thể của con người, đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng,…. của công dân. Bởi thế các hành vi phạm tội được định nghĩa và mô tả trong các điều luật phải rõ ràng và minh bạch, khoa học và cụ thể. Các hành vi bị coi là phạm tội phải thực sự là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, cần phải ngăn chặn và trừng phạt. Thế nhưng, trong dự thảo Bộ luật HS sửa đổi lần này có rất nhiều qui định mơ hồ, không rõ rệt, rất dễ giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng lạm quyền bắt giam, điều tra, truy tố, xét xử người vô tội, xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xin nêu vài thí dụ:
– Điều 109. “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân: Người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, thì bị phạt như sau: 1. Người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình; 2. Người đồng phạm khác thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm; 3. Người chuẩn bị phạm tội này thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Khoản 3 thật đáng lưu ý. Người chuẩn bị phạm tội trong trường hợp này là người đang tìm hiểu để thành lập tổ chức, hoặc tìm hiểu về một tổ chức nào đó để tham gia. Hành vi của họ chưa gây bất cứ nguy hiểm gì cho xã hội. Hoặc sau khi tìm hiểu, họ chỉ dừng lại ở đó mà không thành lập cũng chẳng tham gia vào một tổ chức nào. Do đó hành vi của họ hoàn toàn không thể bị coi là phạm luật và bản thân họ không thể bị coi là tội phạm. Đúng là một quy định hết sức man rợ và vô lý giữa nền luật pháp loài người.
– Điều 117. “Tội làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước CHXHCN VN: 1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước CHXHCN VN, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm: a) Làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu có nội dung phỉ báng chính quyền nhân dân; b) Làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu gây hoang mang trong nhân dân. 2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. 3. Người chuẩn bị phạm tội này thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Một người làm ra, tàng trữ các thông tin, tài liệu có nội dung phỉ báng chính quyền mà không phát tán thì chả có ai biết. Như thế chẳng gây ra bất cứ hậu quả nào cho xã hội và chính quyền cả. Ngoài ra, hành vi làm và tàng trữ thông tin, tài liệu có nội dung phỉ báng chính quyền không thể coi là vi phạm pháp luật, là hành vi phạm tội vì đó là quyền phê phán nhận định của công dân. Thứ đến, cụm từ “gây hoang mang trong nhân dân” hết sức hàm hồ. Bởi trong thực tế, có rất nhiều công dân, cơ quan báo chí đưa những thông tin, tài liệu có thật về chính trị, kinh tế, xã hội,… rồi nhiều công dân khác chia sẻ chúng trên mạng xã hội. Và tất nhiên chúng sẽ gây ra sự lo lắng, hoang mang cho mọi người. Nhưng đó là sự thật và nằm trong quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Ngoài ra, điều 177 này còn khiến người ta nhớ đến điều 88 điều thường luật bị quốc tế lên án và đòi hỏi gỡ bỏ. Trước sức ép của quốc tế, Quốc hội cân nhắc gỡ bỏ điều 88 này. Nhưng đó chẳng phải là tiến bộ, nhân nhượng. Trái lại điều 117 còn vô nhân đạo hơn điều 88 cũ, vì bổ sung thêm cái mà điều 88 không có. Đó là kể cả người chuẩn bị phạm tội làm ra, tàng trữ, tán phán tài liệu phỉ báng chính quyền, làm hoang mang trong nhân dân nhằm chống nhà nước ….cũng bị kết án tù từ 1 đến 5 năm. Đây là chi tiết mà điều 88 trước đó vốn bị lên án nặng nề không quy định.
Nói tóm lại, chiến dịch sửa luật lần này của Hà Nội chẳng phải là để cởi mở theo chiều hướng nhân đạo và dân chủ theo yêu cầu của quốc tế, đòi hỏi của nhân dân chỉ là để siết luật hơn. Chiến dịch đó cho thấy nhà cầm quyền Việt cộng ngày càng thêm thách thức và bất chấp, độc tài và nham hiểm, dối trá và hung bạo. Để làm gì? Để củng cố quyền lực đang bị lung lay trước ý thức ngày càng rõ và phản kháng ngày càng mạnh của nhân dân. Củng cố quyền lực để tiếp tục bóc lột, vơ vét tư sản lẫn công sản cho cạn kiệt, rồi dông thẳng ra ngoại quốc, để lại một quê hương điêu tàn cho bọn ngoại thù Bắc phương đang dòm ngó và chực sẵn.
BAN BIÊN TẬP
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 229 (15-10-2015)
Đảng ăn hết -Dân ngồi chơi xơi nước lã
Viết bởi Phạm Tràn
Không đâu trên Thế giới mà người dân được rảnh rỗi như ở Việt Nam, vì mọi việc đã có Nhà nước lo. Cả cái bụng cũng được Đảng ăn giúp nên nếu muốn sống tiếp, dân chỉ cần uống nước lã cầm hơi. Đó là kết qủa nhãn tiền từ 7 ngày họp của Trung ương đảng kỳ 12 từ ngày 05 đến chiều 11/10/2015.
Trước ngày khai mạc, nội bộ đã có hy vọng “đột biến” trong việc chọn Nhân sự cho khoá XII, căn cứ vào quyết định của Hội nghị 11 (từ ngày 04 đến 07 tháng 5/2015), theo đó, những cán bộ tham nhũng, làm giầu nhanh không chứng minh được, xa dân, mất phẩm chất, suy thoái tư tưởng v.v… sẽ bị loại. Nhưng cuối cùng, đảng vẫn bưng kín mọi chuyện. Lãnh đạo coi chuyện điều hành việc nước là của riêng phe nhóm nên không cần phải cho “dân biết, dần bàn, dân làm, dân kiểm tra” như đảng vẫn lu loa tuyên truyền từ xưa đến nay.
Người dân chỉ nghe thấy ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bảo: “Ban Chấp hành Trung ương cơ bản tán thành với Báo cáo của Bộ Chính trị và thảo luận, đề xuất nhiều ý kiến về tiêu chí xem xét trường hợp "đặc biệt" đối với Uỷ viên Trung ương và Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XI tái cử khoá XII, tiêu chuẩn cụ thể của từng chức danh (Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội); về các phương án lựa chọn các chức danh lãnh đạo chủ chốt.”
Chả ai biết những “tiêu chí”, “tiêu chuẩn” và các trường hợp "đặc biệt" được đảng tự biên, tự diễn, vẽ đường cho hươu chạy là cái chi chi nên không ai dám thắc mắc khi ông Trọng tiếp xúc với cử tri Ba Đình và Tây Hồ ngày 12/10/2015.
Khi ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang về Sài Gòn tiếp xúc cử tri Quân 1 và Quận 4 ngày 12/10/2015 cũng không nói gì với người dân nên từ Bắc vô Nam đều mù mịt như nhau. Tuy vậy, người dân cũng đã nghe ông Trọng khoe: “Trung ương đã bỏ phiếu biểu quyết lần thứ nhất danh sách nhân sự mới lần đầu được dự kiến giới thiệu tham gia Ban Chấp hành Trung ương khoá XII (cả Uỷ viên Trung ương chính thức và dự khuyết); Trung ương ghi phiếu đề xuất danh sách các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá XI đủ tiêu chuẩn, điều kiện tái cử Ban Chấp hành Trung ương khoá XII và ghi phiếu đề xuất, giới thiệu nhân sự đủ tiêu chuẩn, điều kiện tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XII.” ( Trích Diễn văn Bế mạc)
Như thế là đảng làm “trọn gói” từ chọn đến bầu ở địa phương cho đến chuyện chấp thuận (hay thông qua cũng thế) ở Trung ương. Ai được lọt vào Trung ương, ai phải về vườn, ai trong số 16 Ủy viên Bộ Chính trị và 4 chức chóp bu gồm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ ở lại và làm gì ở đảng khoá XII cũng không ai biết.
Sự thiếu minh bạch trong việc “bầu” và “bán” này, tuy vậy hãy còn nhiều tiếng bấc tiếng chì nên ông Trọng mới nói: “Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị và Tiểu ban Nhân sự căn cứ Nghị quyết của Hội nghị, Báo cáo giải trình, tiếp thu của Bộ Chính trị và các ý kiến đóng góp của Trung ương, tiếp tục xem xét, rà soát thật kỹ, bổ sung, hoàn chỉnh các phương án nhân sự theo đúng quy trình công tác nhân sự đã đề ra để báo cáo Trung ương xem xét, quyết định tại các Hội nghị Trung ương tiếp theo.” Bộ Chính trị nuôi hy vọng mọi việc sẽ thu xếp xong ở phiên họp chót thứ 14 của Ban Chấp hành Trung ương XI, nhưng không cho biết bao giờ sẽ diễn ra. Cũng như bao giờ thì phiên họp thứ 13 sẽ được tổ chức cũng chả ai biết, nhưng chắc chắn phải sau kỳ họp thứ 10 của Quốc hội, dự trù khai mạc vào ngày 20-10, bế mạc ngày 25-11-2015. Nghị trình của Quốc hội kỳ 10 cũng có cả việc thảo luận về đề án nhân sự cho khoá đảng XII vừa mới thông qua lần thứ nhất tại Hội nghị Trung ương 12.
Cách làm này của ông Trọng và Bộ Chính trị rất khôn vì khi có Quốc hội dính vào thì coi như trách nhiệm cá nhân của ông Trọng, người đứng đầu phe bảo thủ, giáo điều trong Bộ Chính trị sẽ được hóa giải, không ai quy trách được ông ! Như vậy dự kiến ban đầu Đại hội đảng XII sẽ khai mạc vào tháng 1/2016 sẽ khó xẩy ra vì Lãnh đạo phải chuẩn bị đón Tổng thống Mỹ Barack Obama, dự trù ghé thăm Việt Nam, sau Hội nghị APEC (18-19/11/2015) ở Manila, Phi Luật Tân và ông bạn Chủ tịch “16 vàng, 4 tốt” Tập Cận Bình của Trung Quốc cũng muốn thăm Việt Nam vào cuối năm, trước kỳ Đại hội đảng XII. Thắc mắc đang xôn xao ở Việt Nam là tại sao Chủ tịch, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Hoa Tập Cận Bình cũng muốn thăm Việt Nam trước ngày đảng Cộng sản Việt Nam có Tổng Bí thư mới, hay trước khi ông Trọng tái trúng cử ?
KHÔNG HÒA TAN
Mọi nghi vấn đang lảng vảng giữa Hà Nội và Bắc Kinh thì có tin Đại tướng Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã rời Hà Nội đi tham dự cuộc gặp không chính thức giữa Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc với Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN và Diễn đàn Hương Sơn từ ngày 14 đến 18/10 tại Bắc Kinh.
Thống Tấn Xã Việt Nam viết : “ Tham gia đoàn có các đồng chí: Trung tướng Nguyễn Đức Hải, Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng; Trung tướng Vũ Văn Hiển, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng; Thiếu tướng Vũ Chiến Thắng, Cục trưởng Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng; Thiếu tướng Ngô Quang Liên, Trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Thiếu tướng Vũ Tiến Trọng, Viện trưởng Viện Quan hệ Quốc tế về Quốc phòng.”
Đây là chuyến đi nước ngòai đầu tiên của tướng Thanh, người thân Trung Quốc, kể từ ngày từ Pháp về nước ngày 25/07/2015 sau chuyến thăm và nằm bệnh viện Georges Pompidou, Paris để được phẫu thuật một khối u phổi (ngày 30/06/2015).
Nhưng thay vì ở lại nhà riêng thì tướng Thanh lại được bố trí ở và làm việc luôn tại Bộ Quốc phòng vì “lý do sức khỏe”.
Trước khi đi Trung Quốc, ông Thanh đã tiếp Phó Tổng Tham mưu trưởng Trung Quốc, Thượng tướng Tôn Kiến Quốc ngày 10/08/ (2015), sau khi hai nước tiến hành cuộc đối thoại chiến lược về quốc phòng tại Hà Nội.
Liệu tướng Thanh có mang thông điệp gì đặc biệt của ông Nguyễn Phú Trọng sang Bắc Kinh hay không thì chưa biết, nhưng chuyện một Ủy viên Bộ Chính trị có nhiều “quan hệ đặc biệt” với Trung Quốc sang Trung Hoa ngay sau Hội nghị Trung ương 12 có quyết định sơ bộ về nhân sự cho khoá đảng XII cũng đáng chú ý.
Có tin tướng Thanh sẽ nghỉ hưu và người lên thay là Đại tướng Đỗ Bá Tỵ, Thứ trường Quốc phòng, Tổng Tham mưu Trưởng.
Trước đó 2 ngày, Đài Tiếng nói Việt Nam (Voice of Việtnam,VOV) đưa tin: “ Chuẩn bị cho kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII, chiều ngày 12/10, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội và các thành viên Đoàn đại biểu Quốc hội Hà Nội, đơn vị bầu cử số 1 đã tiếp xúc cử tri quận Ba Đình và Tây Hồ.” Ông Trọng đã nói chuyện với cử tri nhiều vấn đề, nhưng khi đế cập đến hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và nước ngoài, ông lưu ý mọi người : “Đặc biệt, trong thời gian tới, chúng ta phải sẵn sàng đón nhận cả cơ hội và thách thức trong quá trình hình thành Cộng đồng ASEAN và Việt Nam đã ký một loạt hiệp định thương mại song phương cũng như vừa kết thúc đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). “Tham gia những hiệp định như thế này có nghĩa sắp tới chúng ta hội nhập vào sân chơi chung. Vấn đề là làm sao hội nhập nhưng không hòa tan, vẫn giữ được độc lập, tự chủ, giữ được bản sắc riêng, giữ được thể chế chính trị của chúng ta. Đó là bài toán rất là cơ bản và cũng rất khó.”
Lập trường “hội nhập nhưng không hòa tan” và “đổi mới nhưng không đổi màu” đã được Hội đồng Lý luận Trung ương đưa ra từ khóa đảng VII thời Đỗ Mười làm Tổng Bí thư, khi ấy ông Trọng là Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương. Do đó, khi ông Trọng lập lại lập trường chính trị này chẳng qua ông muốn khẳng định dù có hội nhập làm ăn với các chế độ chính trị khác thì vẫn phải “giữ được thể chế chính trị của chúng ta”, hay chế độ Cộng sản độc tôn và độc tài giống như chế độ ở Trung Quốc.
Quan điểm chính trị giữ vững chế độ dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh của ông Trọng và của những người Cộng sản giáo điều, bảo thủ, chậm tiến và lạc hậu ở Việt Nam đã bị liên tục lên án đang làm cho dân nghèo, nước mạt. Bằng chứng người dân Việt Nam đang lâm vào ngõ bí của mức “lợi tức trung bình thấp”, sau 30 năm “đổi mới” vì đảng cứ tiếp tục ôm cứng chủ trương kinh tế nửa nạc nửa mỡ gọi là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Nhưng tờ Thời báo Kinh tế Việt Nam loan tin ngày 13/10/2015 rằng một báo cáo về tình hình Kinh tế của Quốc hội tại kỳ họp thứ 10, dự trù khai mạc ngày 20/10 (2015), sẽ nói ra nhiều sự thật không lạc quan.
Báo này viết: “Theo Ủy ban Kinh tế (Quốc Hội), nhiều chỉ tiêu kinh tế xã hội đạt thấp so với Nghị quyết quốc hội và kế hoạch 5 năm 2011- 2015.
Đó đều là những chỉ tiêu cơ bản đo sức khỏe cho nền kinh tế.
Trước hết, về GDP, tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011- 2015 khoảng 5,88%/ năm, thấp hơn giai đoạn trước và thấp xa so với chỉ tiêu tăng trưởng bình quân 6,5%- 7%.
Đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp vào tăng trưởng còn hạn chế ở mức 24- 25% trong khi con số này ở một số nước trong khu vực là 35-40%.
Điều đáng chú ý là vào thời điểm năm 2010, yếu tố năng suất tổng hợp vào tăng trưởng của nền kinh tế Việt còn đạt được mức 28- 29%.
Năng suất lao động Việt Nam so với Singapore chỉ bằng 1/18, Malaysia bằng 1/6,5…Tốc độ tăng của khu vực dịch vụ sụt giảm trong hai năm gần đây, năm 2014 tăng 5,96% và năm 2015 tăng khoảng 6,4% thấp hơn mức 6,56% của năm 2013.”
Vẫn theo báo cáo này thì mức “chi thường xuyên vẫn tăng nhanh, khiến cho tổng chi đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước giai đoạn 2011-2015 chỉ còn ở mức khoảng 18,1 % so với tổng chi cân đối ngân sách Nhà nước, giảm mạnh so với 25% trong tổng chi ngân sách Nhà nước giai đoạn 2006 – 2010.
Bội chi ngân sách dự kiến là 5% không đạt mục tiêu giảm xuống còn 4,5% GDP (bao gồm cả trái phiếu Chính phủ).
Nợ công nằm trong giới hạn cho phép nhưng tăng nhanh trong giai đoạn 2011-2015. Tỷ lệ nợ công/GDP năm 2011 là 50,1%, năm 2012 là 50,8%, năm 2013 là 54,5%, ước năm 2014 là 59,6%, dự kiến năm 2015 là 61,3%.” Như vậy, trên hết là ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phải giải thích tại sao Nhà nước cứ nói mãi “đổi mới” và “tái cơ cấu kinh tế” hoài mà kinh tế lại không tiến lên như các nước trong khu vực Đông Nam Á, nói chi so với các nước tân tiến khác như Nam Hàn và Nhật Bản v.v… ? Vì vậy, câu nói sau đây của ông Trọng với cử tri Hà Nội ngày 12/10 (2015), khi ông nhấn mạnh :” Đổi mới nhưng không được chệch hướng, đổi mới phải đúng đắn, phải đúng quỹ đạo” thì là “hướng nào” và “qũy đạo ở đâu ” ?
“Đại hội XII sẽ tổng kết 30 năm đổi mới và đề ra chiến lược cho chặng đường phát triển mới. Trong đó khẳng định tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ, đồng bộ hơn nữa, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hệ thống chính trị ở cơ sở. Tổng Bí thư nhấn mạnh: Đổi mới nhưng không được chệch hướng, đổi mới phải đúng đắn, phải đúng quỹ đạo.
Đổi mới phải đúng quỹ đạo, tính toán cụ thể, không đi chệnh hướng.”
Nếu “qũy đạo” và hướng đi của ông Trọng vẫn làm kinh tế gọi là thị trường, nhưng phải vùi đầu xuống cát “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, đang làm tòan dân điếu đứng và kìm hãm Việt Nam vươn ra biển khơi thì ông và đảng CSVN thoát sao khỏi bị nhân dân lên án trước lịch sử ?
LẬP LUẬN TRÁI CHIỀU
Ấy vậy mà báo Quân đội Nhân dân vẫn ngạo ngược viết rằng : “ Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của toàn dân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vừa tuân theo quy luật chung, vừa tuân theo quy luật lịch sử đặc thù của Việt Nam.” (QĐND, 5/10/2015)
Ý nguyện của dân muốn đảng đè đầu bóp cổ họ hay đảng đã tự tung tự tác nắm đấu dân lôi đi từ 85 năm qua ?
Những gì đảng viết trong khỏan 1 Điều 4 Hiến pháp đã chứng minh tính tự chiếm, tự khoác vào mình chiếc áo tự may : “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.” Đảng tự cho mình quyền “lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, bất chấp dân có muốn hay không mà dân chủ à ?
Lại còn cái khỏan nói văng mạng “không chấp nhân đa nguyên đa đảng” và “ở Việt Nam không có báo tư nhân” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Đinh Thế Huynh mới chướng tai gai mắt, chống lại quyền làm chủ đất nước của dân như thế nào.
Vì thế không lạ khi Tác gỉa bài viết tr6en báo Quân đội Nhân dân, Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Văn Cần đã tát nước theo mưa: “Hầu hết những người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đều hiểu rõ một điều, trong hơn 85 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam không giành quyền lực với bất kỳ đảng nào khác, mà Đảng ta đã được chính nhân dân tin tưởng, lựa chọn giao cho trọng trách lãnh đạo đất nước, dù trong nhiều thời kỳ, ở Việt Nam đã tồn tại các đảng khác. Còn nhớ, năm 1946, ngoài Đảng Cộng sản, ở nước ta còn có sự tồn tại của hai đảng (Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam cách mạng đồng minh hội); khi quân Tưởng rút khỏi Việt Nam, hai đảng này cũng cuốn gói chạy theo.”
Chả cần phải cãi nhau làm gì cho mất thời giờ nhưng rõ ràng ông Cần đã quên mất vai trò “khủng bố” và “ám sát” đẫu máu của ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã giao cho 2 ông Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hòan lúc ấy để loại phe Quốc gia trong Chính phủ liên hiệp năm 1946.
Các lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh và Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách) Nguyễn Hải Thần đã phải chạy qua Tầu lánh nạn Cộng sản mà gọi là “chạy theo” thì lịch sử đã mù mắt hay sao ?
Tác gỉa Quân đội này cũng quên rằng, đầu phải cần chém giết lẫn nhau hay gây ra chiến tranh huynh đệ tương tàn như đảng CSVN đã chủ động gây ra cho nhân dân trong 2 cuộc chiến gọi là “chống Pháp gìanh độc lập” và “chống Mỹ cứu nước”, mới có thể “Giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước” ?
Cái gía máu xương phải trả cho “giải phóng” và “thống nhất đất nước” của trên dưới 6 triệu con người Việt Nam trong 2 cuộc chiến nồi da xáo thịt của đảng CSVN là qúa đắng cay. Con mắt lịch sử vẫn đang mở to ở giữa Thủ đô Hà Nội chứ chưa nhắm lại đâu mà nói huyên thuyên làm chi ?
Do đó không gì sai lầm cho bằng khi Tác gỉa Nguyễn Văn Cần kết luận rằng: “Vì vậy, với tuyệt đại đa số nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam là hiện thân cho quyền lực chính đáng từ trong lịch sử.”
Lịch sử này cũng cho thấy sau 40 năm thống nhất đất nước và 30 năm gọi là “đổi mới” nhưng không đổi màu của đảng CSVN đã làm cho đất nước băng họai ra sao và con người Việt Nam ly tán chừng nào để cho Đảng ôm hết quyền lực và ăn hết mọi thứ thì nhân dân còn gì ngoài bát nước lã ? -/-