Tin Giáo Hội Việt Nam
Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Viên giới thiệu về quyển sách "Kính Thưa Đức Thánh Cha"
Các em thiếu nhi và độc giả thân mến,
Trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu dành nhiều thời gian huấn luyện các môn đệ của mình, nhằm giúp họ trở thành những tông đồ thực thụ để tiếp tục sứ mệnh của Người. Giáo huấn của Đức Giêsu luôn mới mẻ! Chẳng hạn, Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người rằng “nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,3). Là môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu, thấm nhuần giáo huấn của Thầy mình, Đức Thánh Cha Phanxicô luôn quan tâm cách đặc biệt đến giới trẻ, nhất là các em thiếu nhi. Quyển sách "Kính Thưa Đức Thánh Cha" thể hiện điều đó.
Lịch sử Giáo Hội cho chúng ta nhận thức rằng các Đức Giáo Hoàng thường công bố những tài liệu đặc biệt liên quan đến nội dung đức tin Kitô Giáo hoặc diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội hay trình bày quan điểm cá nhân về những vấn đề thời sự của Giáo Hội và thế giới. Quyển sách "Kính Thưa Đức Thánh Cha" mà tôi muốn giới thiệu là một ngoại lệ, bởi vì, Đức Thánh Cha Phanxicô đã không theo bất cứ hình thức văn bản hay tài liệu nào tương tự như thế.
"Kính Thưa Đức Thánh Cha" là một tập hợp 30 lá thư và hình vẽ của đại diện các em thiếu nhi trên thế giới gửi Đức Thánh Cha và những câu trả lời của ngài. Những câu hỏi đơn sơ của các em và những câu trả lời đơn sơ của Đức Thánh Cha giúp các em và độc giả cảm nghiệm được sự gặp gỡ mật thiết của những trái tim trẻ thơ với trái tim của người cha khả kính, những trái tim xa nhau về tuổi tác nhưng gần nhau về sự quan tâm và sứ mệnh cần thiết phải biến đổi trên bình diện cá nhân cũng như cộng đoàn.
Những câu trả lời của Đức Thánh Cha mở ra cho các em và độc giả viễn cảnh mới, viễn cảnh của tương lai tốt đẹp hơn. Viễn cảnh này đòi hỏi tất cả mọi người luôn trở về, luôn tìm hiểu, luôn trả lời, luôn đọc dấu chỉ và luôn biến đổi dưới ánh sáng của Biến Cố Đức Giêsu Kitô trong lịch sử nhân loại.
Chúc các em thiếu nhi và độc giả luôn bình an.
Ngày 15 tháng 7 năm 2018
+ Phêrô Nguyễn Văn Viên
Chủ Tịch UB Mục vụ Giới trẻ và Thiếu nhi
Trực thuộc HĐGMVN
“Vở kịch” đốt rừng thông và trồng mới rừng nhằm “cướp” đất Đan viện Thiên An
#GNsP (19.07.2018) – Trong vòng chưa đầy 5 tháng, hơn 5 hécta rừng thông cổ thụ của Đan viện Thiên An (ĐVTA) bị đốt cháy rụi, không thể khôi phục lại do những con người có dã tâm, ác ý thực hiện và được tiếp tay bởi nhà cầm quyền tỉnh Thừa Thiên Huế gây ra.
Các cán bộ trực tiếp tàn phá và hủy hoại môi trường thiên nhiên tại ĐVTA
Qua 5 đợt đốt cháy rừng thông lớn lâu năm tại Đan viện, bắt đầu từ giữa tháng 3.2018, theo lời tường thuật của các Đan sĩ cho biết, khi các thầy phát hiện đám cháy, chưa đầy 5 phút, nhóm côn(g) an xã Thủy Bằng, thị Xã Hương Thủy cùng với nhóm người mặc thường phục và “dàn” phóng viên đã xuất hiện tại hiện trường quay phim, chụp hình.
Đợt đốt phá rừng thông của Đan viện gần đây nhất vào ngày 04.07.2018. Tại hiện trường, các cán bộ xã Thủy Bằng, Thị xã Hương Thủy cùng với nhân viên Lâm trường Tiền Phong (LTTP) nói rằng, dùng phương pháp đốt rừng hơi vất vả một chút nhưng có “kết quả”. “Nếu đốt qua bên này tí nữa, thì vườn sao chắc không còn cây nào”. Ông Phương, Chủ tịch mặt trận xã Thủy Bằng nói: “Hơi mệt nhưng mà nhanh”.
Điều đáng chú ý, trong các đợt đốt phá rừng thông của Đan viện, Đại úy Dương Trung Hiếu – phó công an xã Thủy Bằng, luôn có mặt tại hiện trường. Chính ông Đại úy Hiếu là người tổ chức, cầm đầu nhóm côn đồ, an ninh mặc thường phục… xông vào nội vi ĐVTA trái pháp luật; đã dùng các hung khí như: cưa sắt, búa tạ lớn, xà beng, cuốc xẻng… giật sập, bẻ cong và làm ngã cây Thánh Giá; họ còn dùng tuýp sắt, cây gậy ba khúc… túm tóc, bóp cổ, đánh đập, hành hung các Đan sĩ khiến nhiều thầy bị thương và đổ máu trong hai ngày 28-29/06/2017. Các hành vi côn đồ của các cán bộ và nhóm côn đồ trên bị công luận lên án, phản ứng mạnh mẽ.
Phá, đốt rừng thông và trồng mới lại rừng trong kế hoạch “cướp” đất Đan viện
Không dừng lại ở đây, nhóm côn đồ – dưới sự bảo kê của nhà cầm quyền – tiếp tục đốt và phá rừng thông. Sau đó hơn 20 người gồm côn(g) an và các nhân viên LTTP xuống khu đất rừng thông bị đốt cháy rụi, trồng mới lại rừng, với mục đích xác nhận đây là bằng chứng LTTP và các cán bộ đã trồng, chăm sóc rừng thông – trên diện tích đất thuộc quyền quản lý và sở hữu của ĐVTA.
Để đạt được mục đích này, nhóm người trên cố tình gây gổ, dùng tay xô đẩy và dùng các dụng cụ sắc bén đe dọa đánh đập các Đan sĩ, khi các thầy rất ôn hòa và thẳng thắn yêu cầu “những người không mời mà đến” này ra khỏi khu vực Đan viện. Họ còn văng ra những lời lẽ thô tục, lăng mạ các thầy như: “tao thách chúng mày nhổ đấy!”, “chúng mày là ai mà ngăn cản chúng tao…”. Ông Nguyễn Viết Chính, nhân viên LTTP nói: “Bọn tao đốt rừng đó, chúng mày làm được gì?” Mục tiêu của họ là “thách thức” các Đan sĩ nhổ các cây thông con – do chính họ trồng mới lại – để “thu thập” bằng chứng nhằm “kết án” các Đan sĩ đã phá hoại, hủy hoại môi trường, chứ không phải do nhà cầm quyền – những kẻ “ném đá giấu tay” – gây nên. Vụ việc này xảy ra vào sáng ngày 18.07.2018, dưới sự chứng kiến của gần 150 khách hành hương đến viếng thăm ĐVTA.
“Vở kịch” đốt rừng thông và trồng mới rừng là một trong những “vở diễn” do nhà cầm quyền tỉnh Thừa Thiên Huế “đạo diễn” nhằm thực hiện ý đồ lăm le “cướp” hơn 107 hécta đất-nhà-rừng thông – thuộc quyền quản lý và sở hữu của ĐVTA trong suốt hơn 78 năm qua, từ năm 1940 cho đến nay. Vở kịch này “học” theo cách làm của tàu cộng, lén chôn giấu cổ vật, sau đó chiếm đất của các quốc gia khác với “chứng cứ” gọi là “không thể tranh cãi rằng đã có người Hán sử dụng”!
Nhà cầm quyền tỉnh Thừa Thiên Huế muốn “cướp” đất của ĐVTA thì ít ra cũng phải làm đúng trình tự, thủ tục Pháp luật quy định, chứ ai lại đi “cướp” đất của một Tổ chức Tôn giáo lớn trực thuộc Quốc tế theo kiểu “đầu trộm đuôi cướp” như thế! “Cướp” theo đúng pháp luật thì phải là Ủy ban Tôn giáo Chính Phủ, các cơ quan Tôn giáo Trung ương, Thủ tướng chính phủ… thì mới có “thẩm quyền” “cướp”, chứ đâu phải là “cấp phường xã” như các cán bộ xã hay nhân viên LTTP.
Nhưng, cũng không thể loại trừ khả năng, “cấp phường xã” này được bật đèn xanh làm “diễn viên chính” cho “vở kịch”, từ các hành vi côn đồ đó để “cấp trên” ra phán quyết cho “cấp phường xã” được chính thức “cướp” đất của ĐVTA.
Pv. GNsP
Mẹ La Vang: Mẹ của người bị áp bức.
Do lòng thành kính và yêu mến, con cái của Đức Maria qua các thời đại đã tặng cho Mẹ rất nhiều danh hiệu như chúng ta thấy liệt kê trong Kinh Cầu Đức Bà. Mỗi danh hiệu mô tả một nhân đức của Mẹ như “Đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh”; hay một tước hiệu như “Mẹ Chúa Trời”; hoặc nói lên lòng yêu thương của người mẹ như “Yên ủi kẻ âu lo”.
Ngoài ra Đức Maria còn có nhiều danh hiệu khác, được gọi theo tên của nơi Mẹ hiện ra. Nổi tiếng nhất chúng ta có Đức Mẹ Lộ Đức ở Pháp, Đức Mẹ Fatima ở Bồ, Đức Mẹ Guadalupe ở Mễ, Đức Mẹ Medjugorje ở Bosnia, và.. . Đức Mẹ La Vang của Việt Nam v v.
Ở mỗi nơi hiện ra dù được Vatican công nhận hay không, thường thường Đức Maria gởi cho con cái một sứ điệp tinh thần như xác nhận tính không mắc tội tổ tông của Mẹ ở Lộ Đức, sứ điệp về chuỗi mân côi và sám hối ở Fatima, sứ điệp cầu nguyện, ăn chay và sám hối ở Medjurgoje v. v. Nhưng ở La Vang thì khác. Đức Maria tới La Vang không mang theo một sứ điệp nào. Mẹ chỉ mang tình thương.
BỐI CẢNH LỊCH SƯ
Sự kiện La Vang xảy ra năm 1798 tại vùng rừng núi phía tây Quảng Trị, bây giờ thuộc huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Đức Mẹ hiện ra trong bối cảnh một cuộc cấm đạo nghiệt ngã dưới thời vua Cảnh Thịnh của nhà Tây Sơn. Cuộc cấm đạo rất tàn bạo và ác liệt, giáo dân phải bỏ nhà cửa ruộng vườn chạy vào rừng sâu hoặc nơi xa xôi hoang vu để lánh nạn. Họ thường tụ tập quây quần với nhau để nương tựa nhau. Họ thường đặt tên cho các địa điểm mới tới bằng một cái tên đánh lạc hướng quan quân mà chỉ người trong cuộc mới biết đó là nơi dung thân của những người chạy trốn. Người ngoài nghe qua tưởng đó là tên người chứ không phải là một địa danh. Ở phía bắc, những nơi đó thường có cái tên bắt đầu với chữ “Kẻ” như Kẻ Sặt, Kẻ Sở.. . Trong nam tên gọi thường có chữ “Cái” như Cái Nhum, Cái Mơn, Cái Bè.. . Động Phong Nha nổi tiếng ở Quảng Bình chỉ mới được khám phá cách đây trên 10 năm vì nó quá hoang vu khuất nẻo. Nhưng giáo dân đã chạy về đó ẩn náu trước đây cả mấy trăm năm trong thời cấm đạo và để lại một địa danh mập mờ Kẻ Bàng. Đi sâu hơn nữa vào rừng núi khoảng 20 cây số hướng tây nam của Phong Nha, ta có Động Thiên Đường, mà cư dân trong vùng hiện nay hầu hết là Công Giáo thuộc hai ba xứ đạo với nhà thờ có tháp nhọn cao chót vót. Họ là con cháu của các anh hùng tử đạo thời xưa trôi dạt về đó ẩn náu.
Vua Quang Trung mất năm 1792, trước sự kiện La Vang sáu năm. Con thứ là Thái Tử Nguyễn Quang Toản lên ngôi mới 10 tuổi, lấy hiệu là Cảnh Thịnh. Thái Sư Bùi Đắc Tuyên, cậu của vua, giúp vua trẻ trị vì, nắm hết quyền hành trong tay.
Thông thường ngược đãi hay bách hại tôn giáo xảy từ hai nguồn chính: hoặc do quần chúng hoặc do chính quyền. Kỳ thị và ngược đãi tôn giáo trong quần chúng xảy ra do đố kỵ về văn hoá tập tục hoặc do cuồng tín, quá khích. Hiện nay cảnh dân đàn áp dân vì lý do tôn giáo vẫn xảy ra thường xuyên ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại các nước Hồi Giáo và Ấn giáo cực đoan. Ở đó nhiều tín hữu Ky Tô và các tôn giáo thiểu số khác bị người theo đạo đa số cáo buộc xúc phạm tôn giáo của họ và giết chết. Đó là sự đàn áp của một đa số áp đảo trên một thiểu số yếu ớt. Nhưng nếu bên bị áp bức có lực lượng tương đương với bên đàn áp thì tình thế có thể biến thành xung đột võ trang như cảnh chém giết đẫm máu giữa người Miến Điện Phật Giáo và người thiểu số Rhingya theo Hồi Giáo cách đây mấy năm và hiện vẫn còn âm ỷ; hay xung đột võ trang giữa người đạo Ky Tô và đạo Hồi ở Cộng Hòa Trung Phi những năm 2012-2014 v.v...
Đàn áp tôn giáo trên bình diện nhà nước là do chính sách của chính quyền, nhất là trong các chế độ độc tài. Nhà nước đàn áp một tôn giáo hay mọi tôn giáo trong nước vì nhà nước thấy tôn giáo đe dọa quyền lực của mình. Nổi tiếng nhất là cuộc cấm đạo Công Giáo 300 năm của đế quốc La Mã và các cuộc cấm đạo sau này của các vua chúa ở nhiều nước trên thế giới như thời Cảnh Thịnh,Minh Mạng ở VN.
Đền Đức Mẹ La Vang ngày xưa |
Ngay từ khi lập nghiệp, nhà Tây Sơn từ Nguyễn Nhạc đến Nguyễn Huệ nói chung không chủ trương cấm đạo Công Giáo. Đôi khi họ còn có cái nhìn tích cực đối với tôn giáo này. Năm 1779 Nguyễn Nhạc gửi cho cha D’Ars, tức thày Thiện, một thẻ bài “ được tự do giảng đạo”. Ông còn khen người Công Giáo biết sống hoà thuận không tranh chấp. Năm 1783 khi quân Tây Sơn vào đánh Nguyễn Ánh ở Gia Định lần thứ ba, bắt hai linh mục dòng Phan Xi Cô vì nghi các ông theo Nguyễn Ánh. Nhưng sau khi hỏi cung điều tra nhà chửc trách đã thả hai ông vì “thấy họ hoàn toàn không có gì đáng nghi ngờ. Còn giáo dân, họ được tự do giữ đạo nếu đó là đạo thật. Còn nếu đó là đạo lừa dối, chúng tôi sẽ không dung thứ.(Theo Học Viện Đa Minh; Những Văn Kiện Cấm Đạo Của Nhà Tây Sơn)
Có một điểm cần nêu rõ ở đây là trong lần tiến đánh Gia Định lần thứ hai năm 1782, quân Tây Sơn đã phải đương đầu với lực lượng thủy quân hùng mạnh hơn của Nguyễn Ánh vì Ánh có một đơn vị chiến thuyền tây phương do sự trợ giúp của ông giám mục thực dân Pigneau de Béhaine (tên Việt Nam là Bá Đa Lộc thường gọi là Cha Cả có mộ là lăng Cha Cả gần phi trường Tân Sơn Nhứt) và nhà buôn thích mạo hiểm trở thành lính đánh thuê Manuel. Đội thuyền này do chính Manuel chỉ huy nhưng đã bị quân Tây Sơn tiêu diệt ở sông Vàm Cỏ và Manuel tử trận. Sau đó Pigneau tiếp tục giúp đỡ Nguyễn Ánh tận lực về kỹ thuật và tài chánh. Thế nhưng khi hai linh nục Phan Xi Cô bị Tây Sơn bắt trong cuộc chinh phạt Gia Định lần thứ ba năm 1783, hai ông vẫn được xét xử công tâm, không bị thiên kiến vơ đũa cả nắm. So với cách Tây Sơn tàn sát người Minh Hương ở Cù Lao Phố, Biên Hòa; Chợ Lớn và Mỹ Tho vì người Hoa phò Nguyễn Ánh thì Tây Sơn đối xử với người Công Giáo quả là phân minh và tiến bộ.
Nhưng chính sách đúng đắn và tiến bộ lúc đầu của nhà Tây Sơn chẳng bao lâu sau đã biến thành đàn áp khởi đầu với sắc lệnh cấm đạo năm 1783của Nguyễn Nhạc và sắc lệnh bắt giáo sĩ thừa sai nước ngoài năm 1790 của Nguyễn Huệ. Đến thời Nguyễn Quang Toản thì việc đàn áp càng gay gắt khiến giáo dân phải trốn tránh qua địa phương khác. Một số chạy lên rừng ẩn náu.
Lý do thường được nêu ra là nhà vua sợ rằng người Công Giáo sẽ theo Giám Mục Pigneau de Béhaine ủng hộ Nguyễn Ánh và chống lại Tây Sơn. Thực ra anh em nhà Tây Sơn không sợ Nguyễn Ánh mà còn phạm sai lầm chiến lược là coi thường Nguyễn Ánh, không cho đó là lực lượng đối kháng nguy hiểm cần phái tiêu diệt để trừ hậu họa. Có lẽ vì Nguyễn Huệ thấy ba lần ông vào dẹp loạn là ba lần quân Nguyễn thua chạy tả tơi. Do đó anh em Tây Sơn đã chú tâm vào việc tiêu diệt lẫn nhau hơn là tiêu diệt Nguyễn Ánh.
Năm 1787 Nguyễn Huệ, vì mối hiềm khích anh em phát sinh do nghi kỵ và tham vọng quyền lực, đã đưa 60,000 quân từ Phú Xuân vào đánh và vây khốn Nguyễn Nhạc ở thành Quy Nhơn đến nỗi Nhạc phải lên thành khóc xin Huệ rút quân. Tháng 9 năm 1792 Nguyễn Huệ chết. Nguyễn Nhạc ra viếng tang nhưng con của Nguyễn Huệ là vua Quang Toản cho quân ngăn chặn không cho Nhạc đến Phú Xuân. Sử không nói lý do, nhưng người ta nghĩ có thể Quang Toản, đúng hơn là nhiếp chính Bùi Đắc Tuyên, sợ Nguyễn Nhạc lợi dụng tình huống tang gia bối rối sẽ đánh cướp Phú Xuân, hoặc dò la tình thế để tính chuyện thôn tính sau này.
Năm sau 1793 Nguyễn Ánh từ trong Nam kéo quân ra đánh Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc cự không nổi phải cầu cứu cháu là Quang Toản. Toản cử Ngô Văn Sở và Phạm Công Hưng đem quân vào giải nguy. Nguyễn Ánh thua bỏ chạy về Nam. Theo chiến lược quân sự thông thường thì lẽ ra bác cháu phải hợp tác với nhau truy đuổi để tiêu diệt kẻ thù chung, trừ khử cái họa về sau. Đằng này quân của Quang Toản nhân dịp chiếm luôn thành Quy Nhơn, khiến Nguyễn Nhạc, sẵn đang có bạo bịnh, uất ức thổ huyết mà chết.
Đàng khác số người theo đạo Công Giáo lúc đó không đáng kể, so với toàn dân số, không thể là một đe dọa cho nhà vua được. Trong sắc chỉ cấm đạo năm 1783 Nguyễn Nhạc không hề đề cập tới vấn đề chính trị, chỉ nói về lý do văn hóa, tập tục và đạo lý, khác hẳn với nguyên nhân đàn áp thời nhà Nguyễn và Cộng Sản.
Vậy lý do chính của việc cấm đạo thời Tây Sơn phải nói là trên bề mặt do khác biệt về văn hóa, tập tục và đạo lý. Chẳng hạn việc thờ kính tổ tiên. Người Công Giáo vẫn tôn kính, tưởng nhớ tổ tiên, nhưng không thờ lạy, cúng bái tổ tiên. Vì không thờ cúng tổ tiên họ bị coi là bất hiếu và mất gốc và đạo Công Giáo bị coi là tà đạo. Những kẻ hoạt đầu đã chính trị hóa vấn đề để trục lợi.
Dưới thời Quang Toản cấm đạo có thể nói là một chiến dịch chính trị của nhiếp chính Bùi Đắc Tuyên. Ông này là một gian thần. Lợi dụng quyền nhiếp chính ông thu tóm quyền lực trong tay,mưu đồ soán đoạt ngôi vua. Trong triều đình ông ám hại các tướng sĩ không ăn cánh. Ngoài xã hội ông mượn danh vua Cảnh Thịnh ra hai sắc chỉ cấm đạo Công Giáo ngày 07/01/1795 và 24/01/1975. Sắc chỉ thứ nhất nêu chuyện củng cố đạo Nho và sắc chỉ thứ hai phục hưng đạo Phật và đạo thờ Thần làm cớ diệt Công Giáo. Thưc ra đó chỉ là ngụy tạo chính nghĩa để chiêu dụ dân chúng bởi chính bản thân ông sống rất phóng đãng trác táng thì lấy gì để phục hưng cương thường đạo lý. Cũng giống như các quan chức cộng sản bây giờ tha hóa và nhũng lạm đến tàn ác nhưng vẫn lớn giọng dạy dân phải liêm khiết đạo đức. Bởi vì cấm đạo là một phần trong mưu đồ đen tối của Bùi Đắc Tuyên, khi ông bị Vũ Văn Dũng trừ khử rồi, vua Cảnh Thịnh không ra thêm sắc chỉ cấm đạo nào nứa.
MẸ CỦA NGƯỜI BỊ ÁP BỨC
Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ La Vang đang được xây cất |
Khi tôi vượt biên vào giữa năm 1989, thì các trại tị nạn ở Thái Lan, Singapore và Mã Lai đã đóng cửa không nhận người tị nạn nữa. Thuyền của chúng tôi được tàu tuần duyên của Mã Lai vớt lên bờ. Nhưng sau 10 ngày họ cho chúng tôi lên một con thuyền đánh cá ọp ẹp, kéo ra khơi, cắt cáp và ra hiệu cho chúng tôi đi xuống Nam Dương. Buổi chiều ngày thứ hai tàu chết máy cách một đảo nhỏ chừng 100 thước. Trời bắt đầu nổi dông, mây kéo đen trời, gió giựt mạnh. Thuyền bắt đầu bị sóng xô đẩy nghiêng qua nghiêng lại. Chúng tôi hết sức lo lắng, tìm đủ cách nhưng không sao nhúc nhích được con thuyền. Rất may cho chúng tôi là dân đảo thấy bão lớn đang tới mà thuyền của chúng tôi không chịu vào bãi. Họ nghĩ là chúng tôi bị nạn nên huy động nhiều thuyền con ra đón chúng tôi vào bờ. Chiều tối thì bão lớn ập tới. Sáng hôm sau ra coi thì thuyền đã bị lật nằm nghiêng một bên. Nhờ gần bờ nước nông nên thuyền không bị lật úp. Hai tuần sau tàu Cao Ủy Tị Nạn đón chúng tôi về trại Galang. Lên đảo tôi thấy tượng đài Đức Mẹ La Vang đứng trên con thuyền vượt biên. Tôi bật khóc và nhiều người đã khóc. Tôi chợt hiểu rằng Đức Mẹ La Vang đã cứu chúng tôi
Tôi vẫn có lòng sùng kính Đức Mẹ từ thủa bé do thói quen gia đình lần chuỗi cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Điều nữa là khi mẹ tôi mất lúc tôi chín tuổi có một người nào đó nói với tôi rằng tôi mất mẹ nhưng lại có một bà mẹ khác rất quyền năng ở trên trời là Đức Mẹ Maria. Vậy khi nào nhớ mẹ hoặc cần mẹ giúp đỡ thì hãy cầu xin với Đức Mẹ Maria. Và tôi đã làm như vậy suốt đời tôi. Đức Maria đã phù hộ tôi vượt qua rất nhiều khó khăn, có trường hợp tưởng chừng không lối thoát, nhất là thời gian 13 năm trong nhà tù cộng sản sau 1975. Bây giờ nghĩ lại tôi không biết làm sao vào những lúc đó tôi có được ý tưởng như vậy, nếu không có ơn trên.
Đầu năm 1979 ở trại tù Số 5 Thanh Hóa sau cuộc tuyệt thực toàn trại đòi cải thiện chế độ lao tù, người quản giáo buồng giam chúng tôi phát giấy bắt chúng tôi phải làm đơn xin ăn mới cho ăn lại. Lúc đó tôi nghĩ: xin ăn.. . nhục thật. Mà tôi cũng đói thật! Đàng khác tôi nghĩ: bắt xin ăn không phải chỉ để làm nhục mà còn để bẻ gãy ý chí của chúng tôi. Nếu chúng tôi khuất phục, không biết họ sẽ đẩy chúng tôi tới vực thẳm nào nữa, bởi vì họ đã đè bẹp được chúng tôi rồi thì họ muốn làm gì chúng tôi là họ làm.
Nhưng tôi không biết phải làm gì, nhất là mình đang ở thế yếu. Tôi đọc thầm kinh Kính Mừng, xin Chúa và Đức Mẹ giúp tôi. Anh em bắt đầu nhận giấy bút để viết. Tôi thấy rõ nét băn khoăn dằn vặt trên mặt họ. Cũng là băn khoăn trăn trở trong lòng tôi. Bỗng một ý tưởng đến trong đầu. Tôi e ngại vì sợ hậu quả. Nhưng ý tưởng như càng thôi thúc vì đó là điều hợp lý. Đó là là lẽ phải. Ai cũng sợ lẽ phải. Và tôi tin tưởng anh em sẽ ủng hộ tôi như đã đồng ý với tôi là buồng chúng tôi phải tham gia tuyệt thực với các buồng khác vào đêm bắt đầu. Tôi quyết định nói lên. Tôi nói với người quản giáo, “Các ông đưa chúng tôi vào đây. Các ông có trách nhiệm phải nuôi ăn chúng tôi. Chúng tôi không xin vào đây. Chúng tôi không phải xin ăn. Nuôi ăn chúng tôi là trách nhiệm của các ông. Ăn hay không là quyền của chúng tôi.”
Anh em không làm đơn. Quản giáo đứng nhìn một lúc rồi bỏ đi. Lát sau trở lại anh ta kêu chúng tôi ra ngoài sân tập họp, và ngồi xuống. Rồi anh ta nói ai muốn xin ăn thì đứng qua một bên. Tôi nhì quanh quẩn thấy còn mình tôi ngồi lại, Tôi lại cầu nguyện với Đức Mẹ. Viên quản giáo nhìn tôi mặt đỏ gay, nhưng không nói gì. Có lẽ anh ta đang bối rối không biết xử trí thế nào. Trại đã lùi một bước rồi là không đòi phải viết đơn nữa. Nhưng vẫn bắt xin ăn. Tôi không biết tình thế sẽ ra sao. Tôi chỉ biết tôi không thể xin ăn được. Tôi nghĩ chắc họ sẽ đưa tôi đi cùm. Trong lúc căng thẳng đó bỗng một anh bạn tới xốc tôi dậy. Tôi chống cự, và vì sau tuyệt thực ai cũng yếu, cả hai ngã lăn kềnh ra sân. Mấy người nữa xúm vào khiêng tôi nhập chung với anh em. Viên quản giáo kêu moi người vào buồng và sau đó họ trói giải tôi qua một phân trại khác giam chung với một số anh em đã bị bắt đi trước đó.
Trước đây Đức Mẹ đối với tôi là một Đức Mẹ chung chung. Tôi biết các danh xưng Đức Me Fatima, Đức Me Lộ Đức, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.. . nhưng không hiểu sự phân biệt và cũng chẳng để ý vì tôi tiếp nhận không thắc mắc từ thuở nhỏ. Đức Mẹ La Vang cũng chỉ là một danh xưng khác.
Nhưng từ ngày vượt biên Đức Mẹ chung chung đã trở thành Đức Mẹ La Vang của tôi. Trước hết là do khuynh hướng tình cảm chung của con người đối với mẹ của mình. Con cái luôn luôn muốn ở gần mẹ vì con người luôn luôn cần tình thương không nhất thiết phải là lúc gặp khó khăn. Nó giống như em bé đang chơi với bạn, khi cảm thấy cần tình thương, nó bỏ đó chạy tới mẹ, kéo áo bà và người mẹ hiểu ý cúi xuống ôm con và hôn. Em bé thấy hạnh phúc và trở lại chơi với bạn. Nhu cầu gần gũi tình cảm này đã làm nảy sinh việc địa phương hóa Đức Mẹ thành những Đức Mẹ Việt Nam, Trung Hoa, Phi Châu, Nam Mỹ.. . Đức Mẹ đã được địa phương hóa toàn diện trong y phục, nét mặt và cả màu da. Tôi vẫn thích nhìn Đức Mẹ La Vang dịu hiền, có gương mặt VN mũi thấp, trong tà áo tứ thân và khăn mỏ quạ.
Đối với người VN Công Giáo Đức Mẹ La Vang là tiêu biểu cho VN như Đức Mẹ Guadalupe đối với người Mễ Tây Cơ. Nhất là với người VN Công Giáo xa quê hương, thấy Đức Mẹ La Vang là thấy quê hương và đỡ nhớ nhà. Cho nên người VN ngoài nước sùng kính Đức Mẹ La Vang hơn người trong nước. Người đi xa mới nhớ nhà. Ở đâu có cộng đồng VN Công Giáo ở đó có nhà thờ hoặc tượng đài Đức Mẹ La Vang. Ở Mỹ có 19 xứ La Vang, Phi Luật Tân có ba. Canada có một. Tôi không có số liệu về Châu Âu và Úc. Đức Mẹ La Vang đi theo cả với các anh chị em lao động xuất khẩu ở Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan.. .
Với người vượt biên tị nạn, Đức Mẹ La Vang có ý nghĩa đặc biệt. Lễ Giáng Sinh 1989 ở trại tị nạn Galang, Nam Dương tôi băn khoăn không biết nói gì với mấy em minors (trẻ em vượt biên không có người thân lớn tuổi đi theo) đang khóc vì buồn tủi, bơ vơ nhớ nhà. Tôi phải nói gì để các em thấy Chúa sinh ra có dính dáng tới các em chứ không phải chỉ là mấy đèn ngôi sao, cờ hoa trưng bày nhộn nhịp càng làm các em nhớ nhà. Tôi chợt nhận ra rằng Đức Mẹ, Thánh Giu Se và Chúa Giê Su cũng đã trải qua thân phận tị nạn như chúng tôi nên rất hiễu và thông cảm hoàn cảnh của chúng tôi. Các ngài là những nạn nhân bị đàn áp phải vượt biên đầu tiên của kỷ nguyên này. Chúa Giê Su lúc đó tối đa chỉ mới hai tuổi.bởi vì Hê Rôđ Cả (Herod the Great, cha của Hê Rôđ thời Chúa Giê Su) ra lệnh giết hết trẻ em từ hai tuổi trở xuống trong vùng Giê Ru Sa Lem để loại bỏ Chúa khỏi mặt đất vì ông nghĩ em bé Giê Su sẽ là mối nguy cho vương quyền của ông. Giết lầm còn hơn bỏ sót.
Mức độ tàn sát con nít của Hê Rôđ cho thấy cuộc đàn áp rất triệt để và bạo tàn. Vì thế Thánh Giu Se phải đưa gia đình chạy xuống tận Ai Cập xa xôi. Syria và Jordan lúc đó cũng là những tỉnh thuộc địa của đế quốc La Mã và gần Do Thái hơn nhưng ông không tới đó bởi vì ông sợ thế lực rất lớn của Hê Rôđ Cả trong vùng. Hê Rôđ là vua chư hầu nhưng ông là bạn của hoàng đế La Mã và có quốc tịch La Mã.. Giống như người VN trốn bọn cộng sản cai trị. Trịnh Xuân Thanh phải chạy thật xa khỏi VN qua tận Châu Âu chứ không chỉ quanh quẩn ở Lào hay Cam Bốtm mà vẫn không yên.
Cuộc vượt biên của gia đình Đức Mẹ có nhiều gian truân. Ngoài những khó khăn thiên nhiên của địa thế sa mạc, còn có thể bị nguy hiểm vì thú dữ và cướp bóc. Vì thế đi trong sa mạc, người ta thường phải đi từng đoàn để nương tựa và bảo vệ nhau. Việc định cư cũng không hề dễ dàng. Người ti nạn ngày nay thường được quốc tế, các chính phủ hay tổ chức tư giúp đỡ. Thời Đức Mẹ không có chuyện đó. Ngày nay ở Ai Cập có nhiều nhà thờ Công Giáo Coptíc dâng kính Đức Mẹ vì tương truyền ngày xưa khi đi tị nạn gia đình Đức Mẹ đã ở những nơi đó. Điều này có nghĩa rằng cuộc sống nơi đất khách quê người của Đức Mẹ có nhiều khó khăn và phải đỗi chỗ ở nhiều lần. Có thể vì sinh kế khó khăn. Có thể vì bị kỳ thị vì khác biệt ngôn ngữ, tập tục, hay lễ nghi tôn giáo.. . Lý do Môi Sê đưa ra để đòi cho dân Do Thái đi ra hoang địa để phụng sự Chúa là của lễ họ dâng cho Chúa sẽ làm người Ai Cập ghê sợ. Nên họ phải đi cách thật xa người Ai Cập.
Đức Mẹ đến La Vang để yên ủi nâng đỡ con cái như một người đồng cảnh ngộ là nạn nhân của sự đàn áp. Hơn thế, Mẹ còn đến với tư cách là mẹ của người con bị đàn áp nữa. Trong khoảng 2000 lần hiện ra được biết từ trước tới nay, chỉ có dưới 10 lần Đức Mẹ bế theo Chúa Giê Su. La Vang là một trong số ít ỏi đó. Ở Lộ Đức, Fatima, Guadalupe.. . Đức Mẹ chỉ đến một mình. Bế theo con thơ, Mẹ muốn nói rằng Mẹ thương yêu và che chở con cái VN như thương yêu và che chở con thơ của Mẹ. Hãy tín thác vào Mẹ. Chính con Mẹ cũng đã bị đàn áp bách hại từ lúc mới sinh.
Hỡi những ai đang bị đàn áp hãy đến với Mẹ La Vang!
Bức thư của Đức Giám Mục Hoàng Đức Oanh gửi Ông Trần Đại Quang Chủ tịch Nước CHXHCNVN
Kính gửi:
Ông Trần Đại Quang,
Chủ Tịch Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Kính thưa Ông chủ tịch nước,
Tổ quốc lâm nguy! Tàu-đỏ có mặt khắp Việt Nam!? Thêm 2 dự luật an ninh mạng (ANM), bịt miệng dân và 3 đặc khu kinh hế (ĐKKT), tạo cho Tàu-cộng dễ chiếm Việt Nam! Đất nước đang bị lớp mây ô nhiễm môi trường phủ dầy đặc, nay lại bị giặc Tàu vây hãm, sao sống nổi! Lẽ nào chế độ đang cầm quyền lại muốn đưa đất nước tới tình trạng nguy kịch này sao?
Kính thưa Ông chủ tịch nước,
Tổ quốc lâm nguy! Giặc trong thù ngoài! Có bi quan quá không?
Nhìn Bản đồ bên, Ông chủ tịch có “cảm nhận” gì? Nếu thêm 3 đặc khu kinh tế chiến lược Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, thì Việt Nam sẽ như thế nào khi Tàu đã chiếm Biển Đông theo tham vọng “lưỡi bò 9 đoạn”?
Ai bán Trường Sa, Hoàng Sa cho Tàu năm 1958? Ai ký mật ước Thành Đô năm 1990? Ai ra lệnh cho bộ đội không được bắn Tàu chiếm Gạc Ma năm 1988? Sao không mau mắn phản đối lúc Tàu đưa dàn khoan HQ 981 vào lãnh hải năm 2014? Sao không dám kiện Tàu-cộng tung bản đồ “lưỡi bò 9 đoạn”, trong khi thế giới liên tục phản kháng mạnh mẽ. Philippines kiện thắng tại tòa quốc tế La Haye? Sao Tàu-đỏ có thể tha hồ xây dựng khắp tỉnh thành Việt Nam các pháo đài đồ sộ kiên cố! Như Formosa Hà Tĩnh, Thép Thái Nguyên, Nhiệt điện Vĩnh Tân Bình Thuận…. Có lẽ Bauxite Tây Nguyên đứng đầu về số diện tích, về số công nhân Tàu-cộng và sức ô nhiễm độc hại? Tướng Võ Nguyên Giáp cùng nhiều nhân sĩ khoa học đã cảnh báo! Mấy ai quan tâm? Công nhân ở đây mấy chục ngàn? Trẻ lai bao nhiêu? Nghe nói trẻ-lai-tuổi-đi-học đã tới hơn 3000? Lại thêm nhiều ưu đãi cho người-xe-hàng-hóa-Tàu-cộng ra vào tự do, không visa, không hải quan, Việt Nam mau thành bãi rác công nghệ và hầm chứa vũ khí cho Tàu-đỏ! Chóng thành Crimea-Tàu-đỏ! Kẻ cướp vào nhà! Ai là Lê chiêu Thống rước cướp vào nhà? Sao dân-là-chủ-đất-nước mà không được biết! Khi biết, chủ phản ứng thì đầy tớ (là cán bộ nhân dân) lại đánh đập, chụp mũ phản động, bỏ tù! Đất nước loạn rồi! Sao lại: “Hèn với giặc, ác với dân!” vậy?
Kính thưa ông chủ tịch,
Tổ quốc lâm nguy, tụt hậu! Có phải do thái độ vô thần đến độ “Thằng Trời đứng qua một bên, để ông nông hội đứng lên làm trời” không?
1- Tại sao không nước cộng sản nào tiến bộ phát triển? Cuba, Bắc Hàn, Bắc Việt, Tàu-cộng, Nicaragua, Venezuela? Tất cả đều phải mở cửa theo mô hình kinh tế thị trường! Kiếm ra được một “người cộng sản chính danh” khó quá! Phải chăng “Chỉ “đỏ-ngoài”, “trong-xanh-tư-bản” rồi!
2- Có đất nước cộng sản nào hạnh phúc đâu? Hạnh phúc sao hễ thấy bóng người cộng sản, dân chạy trốn! Năm 1954, năm 1975, mấy triệu người Việt bỏ vùng cộng sản, đi tìm tự do bất chấp mọi gian khổ, kể cả chết!
3- Lý do nào con cộng sản lại đi học các nước tân tiến tư bản như Anh, Mỹ, Pháp, mà không chịu đi học các nước xã hội chủ nghĩa? Chẳng lẽ sợ trường xã hội chủ nghĩa đào tạo con em thành xạo hết cả nút sao?
4- Sao các cán bộ cộng sản hễ đau bệnh, là đưa sang Singapore, Nhật, Mỹ… mà không tới bệnh viện các nước cộng sản như Tàu, Liên Xô, Cuba, Bắc Hàn? Sợ bị đầu độc hay sợ được chích phóng xạ chăng?
5- Giải thích sao hiện tượng cán bộ cao cấp chuyển tiền bạc tới các ngân hàng hàng đầu tư bản? Vợ con cán bộ đua nhau mua nhà cao cấp ở Mỹ, Canada, Úc? Để làm gì? Để khi đất nước có biến, quý vị cùng gia đình sẽ cao bay xa chạy như các tướng lãnh thiển cận, các chính trị gia xôi thịt thời VNCH? Chỉ cấp dưới ở lại phải lãnh đủ mọi tủi nhục khổ đau!
6- Ở Việt Nam: ai tham nhũng? Chỉ có cán bộ có chức có quyền phải không? Sao càng chống, càng nở rộ? Kê khai tài sản cán bộ dễ quá, sao không làm nổi? Đập chuột tham nhũng, sợ vỡ cả bình ư? Chẳng lẽ cả bình đã đầy sâu chuột tham nhũng rồi?
7- Sao Việt Nam khổ thế! Mọi thứ xuống cấp, cả đạo đức! Người người vô cảm với nhau! Mạng người rẻ như bèo! Bệnh tật nhiều, ung thư nhiều! Chết nhiều! Tù nhiều! Như cải cách ruộng đất 1956? Như Mậu Thân 1968? Rồi 1975? Mất mát nhiều đến thế! Do đâu?
Kính thưa ông chủ tịch,
Tổ quốc lâm nguy! Nói vậy, có lệch lạc không? Xin nhìn bảng so sánh 43 năm dưới chế độ ChXhCnVN với 9 năm Đệ Nhất VNCH, ông chủ tịch có thể thấy đâu là bí quyết phát triển hay tụt hậu?
Nhiều thuộc địa như Malaysia, Ấn, Thái Lan; nhiều nước bị chia cắt như Đức, Triều Tiên. Họ vẫn độc lập, hòa bình, thống nhất, phát triển. Đâu cần tới chiến tranh huynh đệ tương tàn mấy chục năm như Việt Nam? Cách người Mỹ giải quyết cuộc nội chiến (1861-1865) sao nhẹ nhàng đến thế. Tướng Grant Miền Bắc tiếp Tướng Lee Miền Nam đầu hàng bằng mẩu giấy xé từ cuốn sổ tay, ghi vội:
1- Trong cuộc chiến này, không ai thua, chẳng ai thắng. Tất cả là người Mỹ anh em của nhau.
2- Quân nhân Miền Nam đem lừa ngựa về nhà canh tác.
3- Mỗi quân nhân Miền Nam được mang súng cá nhân về nhà để bảo vệ bản thân và gia đình.
Sao một vị Tướng của nước Hoa Kỳ non trẻ Mỹ, non trẻ mới lập quốc được 85 năm (1776-1861) giải quyết với “bên thua cuộc” huynh đệ đến thế! Còn “bên thắng cuộc” của một nước Việt hơn 4000 năm văn hiến đối xử thế nào với những người anh em ruột Miền Nam sau ngày 30.04.1975?
Kính thưa ông chủ tịch,
Tổ quốc lâm nguy! Ông chủ tịch có thể bịt miệng, trói chân, trói tay người dân, nhưng không thể bịt lòng, trói trí dân được! Càng bịt, càng trói, đất nước càng tụt hậu; lòng dân càng bị dồn nén!
Đất nước đang cần một người tầm cỡ như Mahatma Gandhi hay một Mikhail Gorbachev! Ông chủ tịch dám gánh vai trò cứu tinh này không? Nhẹ lắm! Chỉ cần hướng bánh lái con thuyền Việt Nam về phía dân, tôn trọng dân, đất nước sẽ thoát nguy và vươn cao! Hủy ngay luật AnM và dự luật ĐkKt. Nếu địch tiến sang, như Mahatma Gandhi ra lệnh, toàn dân tẩy chay hàng hóa Tàu-đỏ! Cả nước đồng loạt tạo “một tiếng vang long trời lở đất” với “chiêng-trống-chuông-mõ-kẻng-nồi-niêu-xong-chảo” xua địch, khiến “địch thấy khiếp mà chạy trốn; thế giới thấy sẽ đến tiếp cứu!” Việt Nam sẽ thoát giặc ngoại xâm! Dân Việt được sống an vui hạnh phúc!
* Xin Ơn Trên soi sáng cho người Tàu-đỏ biết dừng mộng bá chủ thế giới!
* Xin cho nước Việt Nam thoát “cái roi” cộng sản vô thần!
* Xin cho dân Việt biết yêu thương, đoàn kết xây dựng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và tươi sáng!
Kính chúc Ông chủ tịch sức khỏe và khôn ngoan lèo lái đất nước vượt qua sóng gió tới bến bình an.
Trân trọng kính chào Ông Chủ Tịch.
Pleiku ngày 14.07.2018.
+ Gm Hoàng Đức Oanh,
Nguyên Giám Mục Kontum.
Lời kêu gọi của Đức Giám Mục Thomas Nguyễn Thái Thành, Giám mục phụ tá Địa Phận Orange, Hoa Kỳ . … Garden Grove ngày 28 tháng sáu 2018
Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange, Hoa Kỳ.
Đức Cha Vincent Nguyễn Văn Long thăm Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm
Xem hình
Thánh lễ đồng tế do Đức Cha Vincent chủ tế, cùng Cha Cuông Giám tỉnh Dòng Thánh Thể Việt Nam và Cha Trần Ngọc Tân, Quản nhiệm Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm đồng tế. Ca đoàn Babylon do Ca trưởng Nguyễn Xuân Kính phụ trách phần thánh ca đã dùng lời ca, tiếng đàn để tán dương, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa thêm sốt sắng và long trọng.
Trong bài chia sẻ xin tóm tắt, mở đầu Đức Cha Vincent đã nhắc lại biến cố năm 2010, khi người giáo dân Hà Nội đã phải xuống đường để đòi và ngăn không cho chính quyền Hà Nội cướp Tòa Khâm Sứ, và biến nơi này thành trung tâm thương mại. Vì mọi người chúng ta được Thiên Chúa trao cho những nhiệm vụ như Amos. Chúng ta không nói tiên tri, nhưng chúng ta phải lên tiếng đòi hỏi công bằng, bác ái, quyền bình đẳng, quyền con người tại những nơi bị áp bức, bất công.
Qua tin mừng, Thiên Chúa đã sai các môn đệ đi, từng hai người một, và Ngài ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Thần ô uế ngày nay là những điều trái đạo đức, trái luân thường, trái với đạo lý, làm ô uế, ô nhiễm con người. Trừ được thần ô uế để con người được sống trong lành mạnh đầy yêu thương và hạnh phúc.
Sau Thánh lễ, trước khi ban phép lành cuối lễ, Đức Cha Vincent được mời ra phía cuối nhà thờ, nơi vừa mới chỉnh trang thêm rộng rãi, khang trang và nhiều tiện nghi cho sinh hoạt của trung tâm, của cộng đoàn để làm phép các công trình mới này. Đức Cha đã rẩy nước phép và xin Thiên Chúa chúc lành. Đức Cha cũng không quên cám ơn đến những người đã góp công, góp của, góp sức để xây dựng ngôi nhà Chúa thêm khang trang, đẹp đẽ hơn, xứng đáng là nơi cho mọi người đến cùng tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa.
Cuối cùng, ông Lê Văn Miện đại diện cộng đoàn lên cám ơn Đức Cha Vincent, Cha Giám Tỉnh Dòng Thánh Thể, cùng toàn thể cộng đoàn đã chung tay góp sức trong đoàn kết để xây dựng nhà Chúa. Ông cũng hết lòng cám ơn Cha Quản nhiệm, vị chủ chăn đã xây dựng cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương, để làm sáng danh Chúa trên cánh đồng mầu mỡ bằng yêu thương và phục vụ.
Hội Bạn Người Cùi Việt Nam tại Úc Châu thăm và tặng quà Anh Chị Em người J`rai giáo phận Kontum
Tôi nhận được cuộc điện thoại của cha Phê-rô Nguyễn Văn Toàn, ở Melbourne nhờ dẫn lên giáo phận Kon-tum thăm anh chị em người phong cùi.
Hai cha con lên chuyến xe đêm thứ hai ngày 16 tháng 7 năm 2018 khởi hành từ bến xe Miền Đông, Saigon trong những cơn mưa xối xả trên đường. Chúng tôi đến nơi khi đồng hồ chỉ 3.20 sáng hôm sau. Nghỉ ngơi một lúc và lên đường vào làng. Các sơ Dòng Đa Minh Rosa Lima vẫn thường xuyên mang thuốc và dụng cụ rửa vết thương cho các anh chị em phong nơi đây nên rất quen lối. Khi xe chúng tôi đến nơi thì mọi người đã ngồi chờ từ bao giờ, mặc dầu trời mưa tầm tã. Nhìn những khuôn mặt già nua, nhăn nheo mong ngóng đang khoác trên mình tấm áo mưa mà thương ứa nước mắt.
Cha Phê-rô Nguyễn Văn Toàn, đại diện Hội Bạn Người Cùi Việt Nam- Úc Châu sau khi đến thăm hỏi bắt tay từng người đã chia sẻ những phần quà của Hội cho Anh chị Em. Người nhận rưng rưng niềm vui, người gửi đến rưng rưng nụ cười mà sao có giọt nước mằn mặn khóe môi. Cha Toàn chia sẻ dù đêm hôm trước đi quãng đường dài gần 500 cây số, chưa được nghỉ ngơi lại sức và thời tiết ẩm ướt mưa như trút nước, nhưng Cha cảm thấy rất vui. Vui vì những ánh mắt của anh chị em đón nhận mình; những ánh mắt như biết nói nhưng không diễn tả được vì không nói được tiếng Kinh; vui vì dù trời mưa, đường trơn và sình lầy nhưng anh chị em vẫn đến nơi hẹn; vui vì cha cảm thấy được nhận nhiều hơn từ những người Anh Em.
Có một trường hợp không thể tới nơi hẹn được, chúng tôi đến nhà thăm ông. Ông rất vui và cầu nguyện cùng chúng tôi. Tất cả cùng đọc Kinh Lạy Cha nhưng chúng tôi chỉ đọc thầm, còn Ông đọc bằng tiếng J'rai. Chẳng còn hình ảnh nào đẹp hơn vào một buổi sáng mưa bão như vậy.
Quầy quả rời làng, chúng tôi đến làng Dơnông, nơi anh chị em dân tộc đang chờ. Những cô bé cậu bé được mẹ địu trên lưng, những nhóc tì khác thì chạy loanh quanh. Với tất cả sự ân cần, cha thăm hỏi ... nhưng cũng chỉ là những câu đơn giản vì anh chị em chưa rành tiếng Kinh. Những phần quà nho nhỏ là mười kg gạo, một thùng mì tôm, nước mắm, dầu ăn, bột ngọt, muối, đường, xà bông... là những thứ cần thiết trong lúc này được Anh Chị Em đón nhận và người sẻ chia ấm lòng.
Tôi hỏi chị phụ nữ địu đứa nhỏ trên lưng và một cô con gái ba tuổi ngồi cạnh chị. Những câu trả lời rất ngắn và tôi gom thành một câu trả lời đầy đủ. Với mười kg gạo gia đình chị ăn trong năm ngày. Vị chi hai vợ chồng và hai đứa con mỗi ngày 2kg gạo. Đồ ăn chỉ là lá khoai mì tươi nấu canh. Canh gồm nước, muối, bột ngọt và lá mì. Canh này chan với cơm.
Điều làm cho chúng tôi rất vui là văn hóa của Anh chị em J'rai không chen lấn, không xô đẩy, không nháo nhào khi nhận quà. Cả đến những em bé, khi chúng tôi tặng viên kẹo xinh xinh, em cũng đứng đó chờ đến phiên mình chứ không chạy tới đòi. Những khuôn mặt thiên thần và những ánh mắt ấy theo chúng tôi suốt dọc đường về.
Xin cảm ơn những tấm lòng hảo tâm quảng đại của Anh Chị Em Hội Bạn Người Cùi. Những hy sinh của quý Anh Chị đã thắp lên những tia nắng ấm áp trong những ngày mưa bão vùng cao nguyên hẻo lánh ít bước chân người lui tới. Những tấm lòng của Anh chị đã đến được tận nơi những Anh chị Em với thân thể đang bị vi trùng Hansen hoành hành. Xin cùng chung tay nâng đỡ nhau trên hành trình hy vọng này.
Ngay trong buổi tối hôm sau, chúng tôi lại lên xe trực chỉ về Saigon trong cơn mưa dữ dội của rừng núi. Qua tấm kính xe mọi thứ nhè nhoẹt nước, nhưng những nụ cười và những ánh mắt tràn đầy yêu thương ấy như quanh đây, gần gũi và chính tôi như bỏ quên trái tim mình trên bạt ngàn ấy từ bao giờ.
Saigon 18/7/2018
Nt. Maria Nguyễn Thị Minh Du
Dòng Đa Minh Rosa Lima
Thánh Lễ Truyền Chức Linh Mục và Phó Tế tại Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam
Đó chính là ý nghĩa của Thánh lễ truyền chức Linh mục và Phó tế đã diễn ra tại Tu viện Lời Chúa, Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam, sáng nay.
Trong Thánh lễ sáng nay, Đức cha Giu-se Nguyễn Tấn Tước, Giám mục giáo phận Phú Cường, đã đặt tay truyền chức linh mục cho thầy phó tế Phê-rô Nguyễn Tiến Nghi, MF. Và Ngài cũng truyền chức phó tế cho 4 thầy thuộc Tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin Việt Nam:
Xem Hình
1. Thầy Giu-se Nguyễn Huy Thục, MF
2. Thầy Tô-ma Đỗ Văn Lâm, MF
3. Thầy Giu-se Lưu Quốc Toàn, MF
4. Thầy Phê-rô Huỳnh Văn Tha, MF
Đồng tế trong Thánh Lễ có Cha Giám tỉnh Tô-ma Đinh Ngọc Lộc, MF, quý Cha Tỉnh dòng Việt Nam, quý Cha nghĩa phụ và quý Cha khách trong và ngoài giáo phận. Đông đảo các tu sĩ nam nữ, thân nhân, ân nhân, quý khách và bạn bè xa gần đã cùng tới hiệp dâng lời cầu nguyện cho các tiến chức.
Ngay từ sáng sớm, thân nhân của các tiến chức đã tập trung tại nhà dòng trong bữa sáng thân mật cùng quý cha, quý thầy tại Tỉnh dòng.
Vào lúc 8g00, ban Tiếp tân của Tỉnh dòng hân hoan đón tiếp và hướng dẫn quý cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể thân nhân, bạn bè của các tiến chức tiến về khu vực lễ đài được chuẩn bị ngay trong khuôn viên của Tu viện.
Khuôn viên Tu viện hôm nay thật nhộn nhịp, tràn đầy niềm vui và niềm hân hoan. Ơn Chúa quan phòng đã cho thời tiết hôm nay thật mát mẻ và dễ chịu dù có dấu hiệu mây trời sắp đổ mưa.
Đúng 9g00 sáng, Thánh lễ Truyền chức Linh mục và Phó tế được cử hành.
“Từ ngàn xưa Cha đã yêu con, Cha gọi con giữa muôn người…”, lời ca quen thuộc được cất cao bởi ca đoàn liên Tu sĩ (Dòng TSĐT và Dòng Con Đức Mẹ Phú Cường) trong khi đoàn đồng tế và các tiến chức được rước từ khu vực phòng khách tiến về lễ đài.
Mở đầu Thánh lễ, Đức Cha Giu-se đã ngỏ lời cùng cộng đoàn về niềm vui hòa cùng tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì Hội Dòng và Giáo Phận sẽ có thêm một Tân Linh Mục và 4 Phó tế. Cả 5 tân chức hôm nay đều là các tu sĩ của Tỉnh Dòng Thùa Sai Đức Tin Việt Nam. Sau những năm tháng dài tu học, gắn bó với Hội dòng được ví như khoảng thời gian để các thầy “ở lại với Người”; hôm nay, qua việc đặt tay truyền chức của Đức Giám Mục, quý thầy lại bắt đầu một hành trình mới trong đời dâng hiến của mình đó là “được Người sai đi”.
Sau phần phụng vụ Lời Chúa, nghi thức truyền chức diễn ra trong không khí linh thiêng và trang trọng.
Thầy phó tế xướng danh các tiến chức. Các tiến chức lần lượt tiến lên trước mặt Đức Cha Giuse và cộng đoàn. Cha Giám tỉnh Tô-ma Đinh Ngọc Lộc, MF đã giới thiệu và xin Đức Giám Mục truyền chức cho các ứng viên.
Đức Giám Mục chấp thuận, cộng đoàn cùng đáp: “Tạ ơn Chúa” và chào mừng quyết định của Đức Giám Mục bằng một tràng pháo tay.
Sau khi đã bày tỏ ước muốn và sự vâng phục với Đức Giám Mục giáo phận cùng Bề trên hợp pháp, các tiến chức phủ phục, cộng đoàn cùng hát Kinh cầu các Thánh để cầu nguyện cách đặc biệt cho các tiến chức.
Sau đó, Đức Giám Mục Giu-se đã đặt tay và phong chức Linh mục và phó tế cho các tiến chức.
Sau nghi thức truyền chức là phần phụng vụ Thánh Thể. thánh lễ được tiếp tục trong niềm hân hoan và tâm tình tạ ơn của toàn thể cộng đoàn.
Trước khi Đức Cha ban phép lành cuối lễ, Cha Giám tỉnh Tô-ma đã bày tỏ tâm tình tri ân tới Đức Cha Giuse, quý cha, quý tu sĩ, quý phụ huynh, cộng đoàn và tất cả mọi người đã góp công, góp sức và lời cầu nguyện để thánh lễ hôm nay được diễn ra một cách tốt đẹp. Sau đó, Đức cha Giu-se đã có đôi lời huấn từ với cộng đoàn và chúc mừng Tỉnh Dòng và gia đình các tân chức.
Thánh lễ kết thúc lúc 11g15 trong niềm phấn khởi của toàn thể các thành phần dân Chúa tham dự thánh lễ truyền chức hôm nay.
Từ nay Giáo Hội, cách riêng với Dòng Thừa Sai Đức Tin, Tỉnh Dòng Việt Nam, có thêm 1 Linh mục (trong tổng số 48 Linh mục) và 4 Phó tế (trong tổng số 6 Phó tế là những thợ gặt tràn đầy lòng nhiệt thành và sức dẻo dai trên cách đồng truyền giáo.
Ban Truyền Thông MF
Phỏng Vấn Đức Cha Anphong Nguyễn Hữu Long Về Truyền Giáo
Trong tháng 6, Đức Cha Anphong Nguyễn Hữu Long, Giám Mục Phụ Tá giáo phận Hưng Hóa, Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam có gặp gỡ chia sẻ về truyền giáo tại một vài nơi trong miền Nam. Vào tháng 9 tới đây, Ủy ban sẽ tổ chức một cuộc hội thảo về loan báo Tin Mừng, với chủ đề: “ĐƯỢC RỬA TỘI VÀ ĐƯỢC SAI ĐI – TÍN HỮU GIÁO DÂN THAM GIA SỨ MẠNG LOAN BÁO TIN MỪNG”. Vietcatholic gặp gỡ đức cha Anphong và xin được phỏng vấn ngài nhân dịp này.
Xem Hình
PV. Trọng kính Đức Cha, trong cương vị Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đức Cha có thể nói gì về tình hình truyền giáo cho đến thời điểm này tại Việt Nam?
Đức Cha Anphong: Có thể nói rằng mọi thành phần dân Chúa tại Việt Nam ngày càng ý thức hơn về sứ mạng Phúc Âm hóa qua sự tham gia vào sứ mạng này bằng nhiều cách. Mỗi giáo phận có những hoạt động trực tiếp nhắm đến sứ mạng Phúc Âm hóa. Các hội dòng gửi tu sĩ đến các giáo điểm để hoạt động chuyên biệt cho sứ mạng này, nhiều hội dòng còn gửi tu sĩ ra nước ngoài, xa hay gần, thật cảm kích.
Chúng ta cần tránh hai thái cực sau:
Một là hô khẩu hiệu hay căng biểu ngữ “Hãy đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân” cho thật to, rồi không làm gì, ngồi yên một chỗ, bằng lòng với những gì đang có, chỉ lo mục vụ cho những ai đang giữ đạo rồi thôi. Đức Tổng Giám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong diễn từ triều yết Đức Thánh Cha Phanxicô dịp Ad limina tháng 3.2018[1] nói đến não trạng “cầu an”, “thủ thân khép kín” đang tồn tại nơi Giáo Hội Việt Nam. Não trạng này chịu ảnh hưởng của quan điểm cho rằng “không nên loan báo Chúa Kitô cho người chưa biết, cũng như không nhất thiết gia nhập Giáo Hội, bởi vì người ta có thể được cứu rỗi mà không cần một sự hiểu biết rõ ràng về Chúa Kitô và không cần một sự gia nhập hình thức vào Giáo Hội”[2].
Hai là bằng mọi cách, đưa người khác gia nhập Giáo Hội càng nhiều càng tốt, bất kể họ có thật sự tin vào Chúa hay không, rồi sau khi lãnh nhận các bí tích chẳng tiếp tục đồng hành giúp họ thực hành đạo. Não trạng này hài lòng khi thấy con số nhập đạo gia tăng, nhắm số lượng hơn chất lượng.
Xét về mặt thống kê, dân số Công Giáo tại Việt Nam không tăng, vẫn ở mức 7% sau mấy thập niên. Chúng ta không nên chỉ dựa vào con số để thẩm định, bởi bản chất của công cuộc Phúc Âm hóa là nhắm đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần cuộc sống cá nhân và xã hội của mọi người, kể cả người chưa phải là kitô hữu và người vô thần, chứ không nhất thiết làm cho họ trở thành kitô hữu. Việc tin theo đạo là việc của Chúa, ắt sẽ đến với người nào để Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định: “Hội Thánh phát triển không phải bằng việc chiêu dụ, nhưng bằng ‘sức thu hút’ !” (EG số 14).
Thái độ đúng đắn là thúc đẩy toàn thể Giáo Hội lên đường, rao giảng Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh, bằng mọi cách, với mọi người, ở khắp nơi, và sứ mạng này không bao giờ kết thúc.
PV. Xin Đức Cha cho chúng con biết sơ lược về công cuộc truyền giáo cho đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào vùng sâu vùng xa ở miền Bắc.
Đức Cha Anphong: Tôi chỉ nói riêng về giáo phận Hưng Hóa. Trước 1945, công cuộc loan báo Tin Mừng ở một số tỉnh như Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, nơi chỉ toàn người thiểu số, hầu như chưa có. Sau 1954, rồi 1975, bên cạnh khó khăn bên ngoài do chính quyền, còn khó khăn từ bên trong do thiếu nhân sự, dù muốn đem Tin Mừng đến với bà con dân tộc thiểu số thì cũng không thể, vì giáo phận thiếu linh mục và tu sĩ trầm trọng. Có thời điểm cả giáo phận Hưng Hóa trải rộng 10 tỉnh ở Tây Bắc với gần 250.000 tín hữu chỉ có 17 linh mục. Việc đi lại làm mục vụ cho người kinh có đạo rất khó khăn, nói chi đến việc rao giảng Tin Mừng cho người dân tộc chưa hề biết Chúa ! Chỉ từ năm 2005, khi đức cha Antôn Vũ Huy Chương được đặt làm giám mục giáo phận Hưng Hóa sau hơn 11 năm trống tòa, công cuộc loan báo Tin Mừng cho bà con dân tộc mới được nhen nhúm. Cho đến nay giáo phận có khoảng 20.000 tín hữu H’mông, một ít người Dao, Tày, Thái, Mường trong gần 100 giáo điểm hay giáo họ dân tộc. Hiện có vài linh mục đã đến ở với bà con H’mông tại Giàng La Pán, Phình Hồ, Sùng Đô (tỉnh Yên Bái), Hầu Thào, Lao Chải (Lào Cai). Các nơi khác thì tuy chưa được ở luôn tại chỗ, nhưng các linh mục có thể đi lại làm mục vụ. Công cuộc Phúc Âm hóa bà con H’mông có kết quả khả quan, vì người H’mông rất nhạy bén với tôn giáo, sẵn sàng tin theo Chúa. Đối với khoảng 30 dân tộc khác trong giáo phận thì hầu như ánh sáng Tin Mừng chưa được thắp lên, chưa có một người nào theo đạo.
Những người H’mông theo đạo đầu tiên là ở Sapa. Năm 1930, đức cha Paul Ramond Lộc, giám mục tiên khởi giáo phận Đoài (nay gọi là giáo phận Hưng Hóa) đã lập giáo xứ Sapa. Khi nghỉ hưu, ngài đến ở với bà con H’mông và qua đời tại đây, mộ phần ngài nằm trong khuôn viên nhà thờ Sapa. Sau này, người H’mông từ đây đi đến nhiều vùng khác, do tập tục du canh du cư. Đi đến đâu, dù không có linh mục và bí tích, họ vẫn giữ đức tin và truyền lại cho con cháu, cho nhiều người khác. Thật đáng khâm phục.
Chúng tôi dồn nỗ lực cho bà con dân tộc, bởi họ bị thiệt thòi nhiều, cả tinh thần lẫn vật chất từ nhiều năm qua, cần được chăm chút hơn để bù lại.
PV. Thưa Đức Cha, trong hoàn cảnh quá khó khăn như thế, việc truyền giáo cần những điều kiện cụ thể nào để có thể mang lại kết quả tốt đẹp hơn?
Đức Cha Anphong: Việc thứ nhất là tại những nơi chưa được tự do hành đạo, chúng tôi đối thoại với chính quyền để họ “công nhận đạo Công Giáo là một tổ chức được hoạt động hợp pháp”. Trong khi chờ đợi để được như vậy, mỗi khi muốn đến làm mục vụ cho người H’mông đã có đạo, chúng tôi vẫn phải làm đơn “đăng ký sinh hoạt tôn giáo ngoài nơi thờ phượng” với chính quyền, họ có cho thì mới được đến ! Còn đối với người chưa có đạo, chúng tôi vẫn chưa thể đến được với họ.
Thứ đến, chúng tôi huấn luyện các anh chị em H’mông nòng cốt để họ về dạy giáo lý cho nhau, chủ sự các buổi cầu nguyện, hướng dẫn cộng đoàn trong khi vắng bóng linh mục. Phải nhận rằng Chúa Thánh Thần hoạt động nơi những tín hữu H’mông đơn sơ chất phác cách mãnh liệt.
Bên cạnh đó, chúng tôi không quên công tác bác ái, trợ giúp những người bị đói khổ, bệnh tật, thiên tai…, vì đó cũng là một phương thế Phúc Âm hóa. Chúng tôi còn gửi các tu sĩ, chủng sinh đến giúp bà con dân tộc vào mùa hè để nâng cao dân trí, dân sinh, như dạy họ đọc và viết tiếng H'mông, biết vệ sinh thường thức để sống khỏe, tránh tảo hôn và những tập tục hủ lậu, dạy nhân bản cho các em thiếu nhi. Ở nơi nào thuận tiện, chúng tôi mở các nhà nội trú cho các em học sinh có thể đến trường, giúp các em chỗ ăn ở, học hành, với ý nghĩ mai sau chúng sẽ có đời sống tốt đẹp hơn và giúp đồng bào của mình thăng tiến.
PV. Như thế ở giáo phận Hưng Hóa, nhu cầu cấp bách nhất về truyền giáo lúc này là gì ạ?
Đức Cha Anphong: Đối với những cộng đoàn H'mông đã qui tụ, chúng tôi thấy cần làm nhà nguyện cho họ có nơi thờ phượng xứng đáng, vì cho đến nay, chúng tôi toàn cử hành thánh lễ trong nhà tư hoặc ngoài trời, mà nhà của người H'mông thì chật chội, thấp lè tè và tối tăm, cử hành thánh lễ trong những điều kiện như vậy thật bất tiện và bất xứng.
Việc truyền giáo cho người H'mông sẽ kết quả hơn nếu do chính người H'mông. Bởi thế, chúng tôi nỗ lực đào tạo các “tông đồ” H'mông, theo mô hình Yao Phu của giáo phận Kontum. Chúng tôi rất thương và cảm phục họ, vì dù nghèo khổ, thiếu ăn, bị khó dễ, nhưng người H'mông không vì thế mà lãng quên Thiên Chúa và bỏ bê đức tin như nhiều người Kinh.
PV. Xin đức cha phác họa đôi nét về cuộc hội thảo Loan báo Tin Mừng sắp tới cho chúng con được biết.
Đức Cha Anphong: Mỗi năm, Ủy ban chúng tôi tổ chức hội thảo với các giới, nhằm giúp họ ý thức và mạnh mẽ tham gia sứ mạng Phúc Âm hóa. Chúng tôi đã tổ chức đại hội Loan báo Tin mừng toàn quốc năm 2015, hội thảo với các Dòng Tu năm 2016, hội thảo với các Hội đoàn Công Giáo Tiến Hành năm 2017. Năm 2018 này, chúng tôi sẽ tổ chức hội thảo với các thành phần dân Chúa về đề tài “Được rửa tội và được sai đi – Tín hữu giáo dân tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng”. Chúng tôi sẽ tham chiếu các văn kiện về sứ mạng loan báo Tin Mừng của người tín hữu giáo dân, rồi trong bối cảnh Giáo Hội Việt Nam ngày nay, thúc đẩy giáo dân tham gia tích cực chứ không dửng dưng, đứng bên lề, thoái thác, ù lì. Chúng tôi cũng mong muốn các mục tử trong Giáo Hội tin tưởng trao phó trách nhiệm và đồng hành với giáo dân trong sứ mạng này. Có lẽ vì chưa biết tận dụng thành phần đông đảo là giáo dân cho công cuộc Phúc Âm hóa mà chúng ta thấy đạo không tiến triển tại Việt Nam.
Chúng ta có tấm gương sáng là những tín hữu Hàn Quốc. Họ ý thức sứ mạng và trách nhiệm đi tiên phong cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng, nhờ đó Giáo Hội Hàn Quốc phát triển rất mạnh, từ lúc khởi đầu và ngay cả hiện nay.
PV. Trong bài thuyết trình tại đại hội Loan báo Tin Mừng lần thứ III tại Huế năm 2015, đức cha đã nhấn mạnh “Giáo dân Việt Nam giữ đạo rất tốt cho mình, nhưng lại thiếu nhiệt huyết thông truyền niềm tin ấy cho người khác, họ nghĩ việc truyền giáo là của ai khác, phần mình chỉ lo cho mình được rỗi”. Theo đức cha, trong giai đoạn hiện nay, giáo dân cần phải làm gì để làm cho “nhiệt huyết thông truyền niềm tin” được bùng lên mạnh mẽ?
Đức Cha Anphong: Đúng vậy, cho đến nay, dù phải chịu nhiều khốn khó, giáo dân Việt Nam vẫn “giữ đạo” tốt, nghĩa là dự lễ, xưng tội, hành hương, lễ lạc rất đông và “hoành tráng” nữa. Nhưng đó mới chỉ là bề mặt, thực chất lòng tin của bà con thì chưa chắc được sâu sắc như cha ông chúng ta thời tử đạo, vẫn mang tính cầu khấn, van vái xin ơn ! Bên cạnh việc “sống đạo” cho bản thân, mọi tín hữu cần phải có nhiệt huyết loan báo Tin Mừng cho hơn 80 triệu đồng bào chưa biết Chúa. Nếu mỗi người Công Giáo sống đạo tốt và dẫn đưa được ít là một người đến với Chúa thì Giáo Hội tại Việt Nam sẽ khác hơn nhiều.
Để làm được việc ấy, tôi xin lặp lại ý tưởng của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II được xem như kim chỉ nam: “Công cuộc Tân Phúc Âm hóa đòi nhiệt huyết mới, phương pháp mới và cách trình bày mới”. Nếu thiếu nhiệt huyết thì dù có mọi phương thế trong tay cũng chẳng đem lại kết quả. Phương pháp mới thì hiện nay có rất nhiều, chẳng hạn những phát minh của ngành công nghệ thông tin như internet, facebook, instagram, truyền hình kỹ thuật số… Cách trình bày chân lý Phúc Âm cũng phải phù hợp với não trạng ngày nay, nhất là của giới trẻ. Nói về nhiệt huyết thì chúng tôi thán phục các anh em Tin Lành, họ cũng ở trong cùng một hoàn cảnh khó khăn như người Công Giáo, nhưng có những kết quả đáng kể. Ở Lai Châu, trong khi Công Giáo có 15 cộng đoàn thì Tin Lành có hơn 200 điểm nhóm. Ở huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, trong khi Công Giáo có 2.000 tín hữu, thì Tin Lành có 20.000 trên tổng số 40.000 người của cả huyện. Vấn đề này đặt chúng tôi trước câu hỏi sắc bén: Nhiệt huyết tông đồ của chúng ta ở đâu và vào công việc gì ?
Một điểm nhấn quan trọng không kém, đó là mọi thành phần dân Chúa cần hợp tác với nhau trong công cuộc quan trọng này, không thi hành riêng rẽ, vì “hợp quần gây sức mạnh”. Trong chiều hướng đó, cuộc hội thảo với các dòng tu đã được Ủy ban chúng tôi tổ chức với chủ đề: “Chung tay loan báo Tin Mừng đến vùng ngoại vi”, nhằm mời gọi các hội dòng liên kết với nhau thi hành sứ mạng này. Đối với giáo dân cũng vậy, tôi nghĩ cần giúp họ và các hội đoàn Công Giáo tiến hành chung tay góp sức để xây dựng và mở mang Nước Chúa tại trần gian này.
PV. Chúng con xin cám ơn đức cha và sẽ cầu nguyện nhiều cho công cuộc loan báo Tin Mừng trên quê hương chúng ta.
Gioan Lê Quang Vinh thực hiện
[1] http://hdgmvietnam.org/hoi-dong-giam-muc-viet-nam-vieng-tham-ad-limina-dien-tu-trieu-yet-duc-thanh-cha-phanxico/9502.63.8.aspx
[2] Bộ Giáo lý Đức tin, “Điểm chú thích giáo lý về một số khía cạnh trong việc rao giảng Tin Mừng (03/12/2007), 3; AAS 100 (2008), 491, được trích lại trong Kim chỉ nam về tác vụ và đời sống linh mục (ấn bản 2013), bản dịch của UBGS.CS/HĐGMVN, trang 36.
Hội nghị học hỏi và đóng góp cho “Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới” về Giới Trẻ tháng 10/2018: “Giới Trẻ, Đức Tin và Phân Định Ơn Gọi”
- 1. Từ ngày 9 dến 13/7/2018, Ban Giới Trẻ thuộc Văn Phòng Giáo Dân và Gia Đình của liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) tổ chức hội nghị tại Trung Tâm Mahatai của Dòng Chúa Cứu Thế, Pattaya, Thailand, để học hỏi và đóng góp cho “Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới” (SYNOD) về giới trẻ với chủ đề “Giới Trẻ, Đức Tin và Phân Định Ơn Gọi” sẽ diễn ra tại Rôma từ ngày 3 đến 28 tháng 10 năm 2018.
Tham dự hội nghị gồm 64 thành viên: 1 Tổng giám mục, 9 Giám mục, 24 linh mục, 2 tu sĩ và 28 bạn trẻ đại diện 13 quốc gia: Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan, Myanma, Sri-lanka, Bangladesh, Philippines, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Indonesia, Việt Nam, Cambodia. Đại diện Việt Nam gồm: Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng (Giám quản Tông tòa Tổng giáo phận Sài Gòn); Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Viên (Chủ tịch Ủy Ban Giới trẻ và Thiếu nhi trực thuộc HĐGMVN), cha Giuse Lê Quang Việt (Thư ký ban Mục Vụ Giới trẻ thuộc HĐGMVN), cha Phaolô Nguyễn Xuân Đường (DCCT), cha Giuse Nguyễn Thành Công (Sài Gòn) và chị Cecilia Ngô Ngọc Tú (Sài Gòn). Đức cha Giuse Hùng và Đức cha Phêrô Viên là hai Giám mục được HĐGMVN chính thức đề cử đi tham dự Thượng Hội Đồng Giám mục vào tháng 10/2018 tại Rôma Thánh lễ khai mạc do Đức cha Joel Baylon (Philippines) chủ sự. Trong phần chia sẻ Lời Chúa, Đức cha mời gọi mỗi tham dự viên hãy để Đức Kitô chạm đến và biến đổi để trở nên những người đồng hành với người trẻ Á Châu.
- Về nội dung, trước hết, Hội Nghị lắng nghe tóm tắt 3 tài liệu chính thức chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng về chủ đề: “Người trẻ, Đức tin và việc Phân định Ơn gọi”.
- a) Tài liệu Chuẩn bị cho THĐGM (Preparatory document, ấn hành ngày 13-1-2017) gồm 3 phần : (1) Giới trẻ trong thế giới hôm nay; (2) Đức Tin và việc phân định ơn gọi; (3) Đường hướng mục vụ cho người trẻ.
- b) Tài liệu cuối cùng của “Cuộc gặp gỡ Tiền-THĐGM” (Pre-synodal meeting - final document); Mục đích của Cuộc gặp gỡ Tiền-THĐGM, diễn ra tại Rome từ ngày 19 đến 24 tháng 3 năm 2018, là tạo cơ hội cho những người trẻ thể hiện quan điểm của họ về tình trạng, ý tưởng, cảm xúc của họ, đồng thời cũng nói lên những đề nghị của họ. Tham gia cuộc họp này có khoảng 300 bạn trẻ, đại diện cho những người trẻ tuổi từ 5 châu lục.
- c) Tài liệu làm việc (Instrumentum laboris) cho THĐGM (ấn hành ngày 19-6- 2018), với nội dung:
- - Phần I. Nhận diện – Giáo Hội lắng nghe thực tại: Những kinh nghiệm và ngôn ngữ giới trẻ; Nền văn hóa vứt bỏ (throwaway culture); Những thách đố về nhân học và văn hóa; Việc lắng nghe giới trẻ.
- - Phần II. Diễn giải – Đức tin và việc phân định ơn gọi: Ân phúc giới trẻ; Ơn gọi trong ánh sáng đức tin; Sự năng động trong việc phân định ơn gọi; Nghệ thuật đồng hành.
- - Phần III. Lựa chọn – Đướng hướng mục vụ và sứ mệnh biến đổi: Một cái nhìn toàn diện; Quan tâm đến cuộc sống hằng ngày; Cộng đoàn đã được loan báo Tin Mừng và ra đi loan báo Tin Mừng; Cổ vũ và tổ chức chăm sóc mục vụ.
- Một trong những điểm nhấn quan trọng của hội nghị là phần chia sẻ của 5 bạn trẻ được gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô và các bạn trẻ khác trên thế giới quy tụ tại Roma trong “Cuộc gặp gỡ Tiền-THĐGM” (Pre-synodal meeting) vào tháng 3 năm 2018 vừa qua. Theo họ, gặp gỡ Đức Thánh Cha và các bạn trẻ trên thế giới đã giúp họ cảm nghiệm được sức sống mạnh mẽ của đức tin và sự quan tâm của Giáo Hội đối với giới trẻ. Họ bày tỏ ước nguyện của mình là được đồng hành và trở nên những thành phần tích cực của Giáo Hội luôn mãi.
- Các thành phần tham dự hội nghị đánh giá cao những chia sẻ của đại diện đến từ các quốc gia như Indonesia, Việt Nam, Myanma, Ấn Độ, Pakistan, Đài Loan, Singapore, Philippines, Thái Lan, đặc biệc, đại diện của Fondatio và nhóm COYA (Catholic Organization of Youth Asia: Tổ Chức Giới Trẻ Công Giáo Á Châu).
Trong phần chia sẻ của mình, Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, đặt vấn về sự cần thiết trong việc đào tạo và đồng hành nhằm giúp giới trẻ phân định và đưa ra những lựa chọn đúng đắn nhằm xây dựng tương lai bản thân cũng như đóng góp phần mình cho Giáo Hội. Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Viên đề cập đến một số thách đố căn bản mà giới trẻ phải đối diện trong thế giới hôm nay, đồng thời, nhấn mạnh sự cần thiết của Giáo Hội trong việc đồng hành cùng các bạn trẻ, nhằm giúp họ diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh đích thực của Giáo Hội trong môi trường sống của mình.
Nhóm COYA chia sẻ về phương thức kết nối các bạn trẻ trong tinh thần yêu thương, liên đới và nâng đỡ đức tin cho nhau trên bình diện Giáo Hội địa phương và Giáo Hội hoàn vũ. Nhóm cũng trình bày về những kỹ năng thời sự như: Sử dụng mạng xã hội và các phương tiện thông tin truyền thông cách hữu ích nhất, cũng như giúp các bạn trẻ hướng về thế giới bên ngoài, với phương châm ‘hiệp thông trong phục vụ.
- Đại diện Ban tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Á Châu lần thứ 7 tại Indonesia (2017) với chủ đề “Giới trẻ Á châu tươi vui: Sống Tin Mừng tại châu Á đa văn hoá” (Joyful Asian Youth! Living the Gospel in Muticultural Asia) đã chia sẻ kinh nghiệm về việc tiếp tục tinh thần của đại hội trong các chương trình cho giới trẻ tại Indonesia – sống Tin Mừng trong bối cảnh đa văn hóa và sắc tộc của thế giới hôm nay.
- Khởi đầu mỗi ngày làm việc của hội nghị là Thánh lễ. Kết thúc mỗi ngày làm việc là Chầu Thánh Thể, với hình thức cầu nguyện Taizé. Đây là hình thức cầu nguyện có âm hưởng lớn lao trong thế giới hôm nay. Những tâm tình đơn sơ đan quyện với âm nhạc, được lặp đi lặp lại, cùng với những khoảng lặng cần thiết, đã trở nên phương thế hữu ích giúp mọi người đến gần Chúa hơn và như vậy đến gần với nhau hơn. Ước gì hình thức cầu nguyện này được các bạn trẻ đón nhận và thường xuyên thực thi trong đời sống mình.
Hội nghị kết thúc với chương trình giao lưu văn hóa của các nước tham dự. Rất vui nhộn và hữu ích!
Ban Thư Ký
(Ủy ban Giới trẻ và Thiếu nhi, HĐGMVN)