Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh cha nhóm họp Hội đồng Hồng y Cố vấn (14.04.2024)
Trong những ngày này, Đức Thánh cha Phanxicô đang nhóm họp Hội đồng chín vị Hồng y Cố vấn của ngài, quen gọi là C-9.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Cuối khóa họp, trưa thứ Tư này, ngày 17 tháng Tư, như thường lệ sẽ có thông cáo báo chí tường trình tổng quát.
Khóa họp hồi tháng Hai năm nay, từ ngày 05 đến ngày 07, đặc biệt có sự tham dự của 3 phụ nữ, để trình bày cho Đức Thánh cha và các hồng y thành viên một đóng góp phần vai trò của phụ nữ trong Giáo hội. Đó là nữ tu Linda Pocher, Dòng Con Đức Mẹ Phù hộ, giáo sư về Kitô và Thánh Mẫu học ở Học viện Auxilianum của dòng; tiếp đến là chị Giuliva Di Berardino, thuộc đoàn trinh nữ thánh hiến của Giáo hội Verona, Bắc Ý, giáo viên và cũng là người đặc trách về linh đạo và tĩnh tâm; sau cùng là Jo Bailey Wells, nữ Giám mục Anh giáo và cũng là Phó Tổng thư ký Liên hiệp Anh giáo.
Trong các cuộc phỏng vấn sau đó, nữ tu Linda Pocher cho biết Đức Thánh cha Phanxicô rất ủng hộ việc phong chức phó tế cho phụ nữ (Religión Digital).
Ngoài vấn đề trên đây, trong khóa họp tháng Hai vừa nói, Hội đồng Cố vấn của Đức Thánh cha cũng bàn đến tiến trình Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới trong Giáo hội về đồng hành, và vấn đề loan báo Tin mừng, với một bài tường trình của Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, người Philippines, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng. Sau cùng, Đức Tổng giám mục Rino Fisichella, cũng là Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng, Phân bộ các vấn đề cơ bản, cũng trình bày tại khóa họp.
Hội đồng C-9 hiện nay được Đức Thánh cha cải tổ, với việc bổ nhiệm một số hồng y thành viên mới, ngoài một số vị cũ. Các vị mới là Đức Hồng y Omella, Tổng giám mục Barcelona và cũng là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha, Đức Hồng y Gérald Lacroix, Tổng giám mục Giáo phận Québec, Canada, và Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, Dòng Tên, Tổng giám mục Luxemburg.
(Vatican News 15-4-2024)
Phái đoàn Hội đồng Giám mục Pháp viếng thăm Ai Cập để liên đới
Trong những ngày, từ mùng 09 đến ngày 13 tháng Tư vừa qua, phái đoàn của Hội đồng Giám mục Pháp đã viếng thăm Cairo, thủ đô Ai Cập để khẳng định “tình thân hữu và hỗ trợ các tín hữu Kitô Đông phương, cũng như tầm quan trọng của việc duy trì sự hiện diện của các Kitô hữu ở miền này”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Phái đoàn chính thức này do Đức cha Chủ tịch Eric de Moulins-Beaufort, Tổng giám mục Giáo phận Reims, hướng dẫn, cùng với Đức cha Laurent Ulrich, Tổng giám mục Giáo phận thủ đô Paris và cũng là vị bản quyền đặc trách các tín hữu Công giáo nghi lễ Đông phương ở Pháp, cùng với Đức giám mục Giáo phận Nanterre và cha Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Pháp.
Thông cáo của các giám mục Pháp nói rằng: “Trong khi các tín hữu Kitô thấy từ nhiều năm nay, tình trạng của họ ở Trung Đông ngày càng tệ hơn, đặc biệt với sự xuất hiện của Nhà nước Hồi giáo IS, các giám mục Pháp đã tái khẳng định tình thân hữu của Giáo hội Pháp đối với các anh chị em Kitô ở Ai Cập” và nhắc nhớ những mối liên hệ lịch sử nối kết các tín hữu Công giáo Pháp với các anh chị em Kitô ở miền này, mà Tổ chức bác ái “L’Oeuvre d’Orient” là một trong những ví dụ cụ thể”.
Trong một cuộc họp báo, hôm 13 tháng Tư vừa rồi, trực tuyến từ thủ đô Cairo của Ai Cập, Đức cha Chủ tịch de Moulins-Beaufort, Đức cha Ulrich và các vị tháp tùng đã ca ngợi “chất lượng các cuộc trao đổi với các Giáo hội và các Thượng phụ địa phương mà các vị đã gặp trong 5 ngày viếng thăm tại Cairo và Giáo phận Giza”. Phái đoàn giám mục Pháp đã nhắc đến những “thách đố lớn đối với miền này, ở trung tâm những căng thẳng lớn về địa chính trị, kinh tế, và xã hội, việc duy trì sự hiện diện của Kitô hữu ở Đông phương, đặc biệt qua nhiều trường học Công giáo ở Ai Cập. Đó là đề tài được các giám mục bàn đến trong cuộc gặp gỡ với Đại sứ Pháp ở Ai Cập, ông Eric Chevallier, và Tổng thư ký tổ chức giáo dục Công giáo ở địa phương”.
Đây không phải là lần đầu tiên một phái đoàn các giám mục Pháp đến Trung Đông. Sau Liban năm 2022, và Irak năm 2023, đây là lần thứ ba phái đoàn Hội đồng Giám mục Pháp thăm các Giáo hội ở Đông phương.
(Sir 14-4-2024)
Đức Hồng y Tổng giám mục New York viếng thăm Trung Đông
Từ ngày 12 tháng Tư vừa qua, Đức Hồng y Timothy Dolan, Tổng giám mục Giáo phận New York ở Mỹ, đang viếng thăm Israel và Palestine, trong tư cách là Chủ tịch Hiệp hội từ thiện an sinh Công giáo Trung Đông và nhân dịp kỷ niệm 75 năm thành lập Sứ bộ Tòa Thánh tại Palestine, do Đức Giáo hoàng Piô XII.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Tuy có những biến động với cuộc tấn công của Iran chống Israel, bằng các tên lửa và máy bay không người lái, trong đêm 13 rạng ngày 14 tháng Tư vừa qua, và phái đoàn Đức Hồng y phải trú ẩn, nhưng đoàn vẫn tiếp tục cho đến ngày 18 tháng Tư tới đây. Phái đoàn trọ ở Trung tâm Đức Bà của Tòa Thánh ở Jerusalem.
Trong một Video phổ biến từ Bethlehem, Đức Hồng y trấn an các thân hữu và tín hữu về sự bình an của phái đoàn và đoàn tiếp tục chương trình viếng thăm mục vụ.
Chúa nhật, ngày 14 tháng Tư vừa qua, Đức Hồng y Dolan đã cử hành thánh lễ tại cộng đoàn Công giáo La tinh ở Beit Jala, sau đó viếng thăm các nữ tu Dòng Con Đức Mẹ Phù hộ ở thung lũng Cremesan, cầu nguyện tại Vương cung thánh đường Chúa Giáng Sinh ở Bethlehem, sau đó viếng thăm những người tị nạn tại thành này.
Từ khi được thành lập đến nay, Hiệp hội an sinh Công giáo Trung Đông (CNEWA) đã trợ giúp rất nhiều cho Giáo hội tại Thánh địa, trong lãnh vực giáo dục, từ thiện và sức khỏe, không phân biệt tôn giáo, như: Công giáo, Hồi giáo, Do thái và các tín hữu Kitô khác.
(Vatican News 15-4-2024)
Công trình củng cố và tu sửa Đền thờ Thánh Mộ
Mặc dù chiến tranh, công trình củng cố và tu bổ Đền thờ Thánh Mộ Jerusalem vẫn tiếp tục tiến hành để ngăn cản nơi thánh thiêng nhất này của Kitô giáo khỏi bị sụp đổ, tuy nhiên thời biểu hoàn tất phải kéo dài thêm.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Lẽ ra, công trình này phải được tiến hành vào năm 2016 vì tình trạng đổ nát và mất ổn định của nơi thánh thiêng này. Nhưng công việc này đã bị hoãn lại, vì dưới nền nhà thờ được lát bằng những tấm ván quá mỏng, đôi khi bị hư hại nặng, và có nhiều chỗ thủng, cong vênh. Nhà thờ nằm trên một mỏ đá với nhiều mức độ khác nhau, một số khu vực nằm trực tiếp trên đá tảng đã trưởng thành, trong khi những khu vực khác có một lớp đất, và đống đổ nát dày 5 mét ở giữa, hoặc thậm chí là những hốc đá.
Vào dịp lễ Phục sinh vừa qua, các cửa thánh đường được tạm thời mở và đóng với sự thoả thuận của ba Giáo hội sở hữu, là Công giáo, Chính thống Hy Lạp và Armeni.
Sau lễ Phục sinh, theo lịch Latinh và lịch của Giáo hội Đông phương, cánh cửa có từ 200 năm của nhà thờ được đóng lại.
Trước sàn nhà thờ, nơi Chúa chịu đóng đinh, an táng và sống lại được niêm phong trong một thời gian dài, để các nhà khảo cổ từ Đại học La Sapienza ở Roma điều tra lòng đất. Họ cố gắng làm sáng tỏ lịch sử tiền xây dựng và trong thời kỳ kiến thiết thánh đường này. Thánh đường được khởi sự từ 1.300 năm trước với Hoàng đế Constantino. Sau vài lần phá hủy và xây dựng lại, thánh đường có hình dáng như hiện nay trong thời kỳ Đạo binh Thánh Giá.
Hiện nay, các Ủy viên của Giáo hội đang nóng lòng chờ đợi phúc trình thứ ba của các sử gia và các nhà khảo cổ về những di tích cổ xưa, đặc biệt là từ thời La Mã mà họ đã phát hiện dưới lòng đất, vốn đã bị đóng lại trong nhiều thế kỷ. Trong khi đó, phụng vụ tại nơi thánh này vẫn tiếp tục, theo quy chế Status Quo, có từ 160 năm nay, về việc điều hành và hoạt động của các nơi thánh. Các tín hữu Chính thống Hy Lạp, Công giáo, Armeni, cả các tín hữu Armeni và Siriac muốn tránh tình trạng đóng hoàn toàn Đền thờ Mộ Thánh để tu bổ, ít nhất là bàn thờ nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh.
Các tu sĩ, các nhà khảo cổ và các chuyên gia xây cất không đồng ý với nhau về ảnh hưởng của chiến tranh hiện nay trên thời khóa biểu của công trình tu bổ. Các chuyên gia người Ý đã rời khỏi Jerusalem, sau vụ Hamas tấn công Israel, ngày 07 tháng Mười năm ngoái. Nhưng sau hai tháng, họ đã trở lại làm việc. Ban đầu, người ta dự định công trình tu bổ sẽ hoàn tất cuối năm nay để bắt đầu Năm thánh ở Roma cũng như tại Thánh địa. Nhưng nay các vị hữu trách không chắc chắn về vấn đề này. Họ chỉ chắc chắn về thời biểu mở lại bàn thờ nơi Chúa chịu đóng đinh của Công giáo: vào Thứ Sáu Tuần thánh năm tới, 2025.
(Kath.de 13-4-2024)
Nở rộ các lễ rửa tội: “Một sức mạnh ngược dòng bác bỏ chủ nghĩa hư vô”
la-croix.com, Jean-Louis Schlegel, triết gia, nhà xã hội học về tôn giáo, 2024-04-03
Theo nhà xã hội học Jean-Louis Schlegel, sự bùng nổ số lượng người được rửa tội, hiện đang dấy lên mối quan tâm ở Pháp và các nước châu Âu rất thế tục khác, đó cũng là một phần trong việc đi tìm một không gian thở, tìm niềm an ủi sau những “thử thách của cuộc đời” làm chấn động những người trẻ tuổi.
Sự phát triển “theo cấp số nhân” ở Pháp về số lượng người lớn được rửa tội (+ 31% so với năm ngoái và + 120% trong vòng 10 năm qua) làm một số người hài lòng, họ xem đây là hứa hẹn cho một mùa xuân của Giáo hội sau nhiều năm liên tục giảm sút và có nhiều dấu hiệu tiêu cực, một số khác hoài nghi, có khi họ còn khó chịu, họ cho rằng thật là lạc điệu khi đưa ra thông báo mang tính chiến thắng trong một Giáo hội còn những thiếu sót và bị chấn thương – đặc biệt là các tội ác và lạm dụng tình dục – vẫn còn chưa lành.
Các thông tin báo La Croix đăng chắc chắn sẽ đem lại các chìa khóa cần thiết giúp chúng ta hiểu một hiện tượng bất ngờ trong bối cảnh suy thoái hiện nay của Giáo hội công giáo Pháp. Nhưng rõ ràng câu hỏi tuy không nói ra của những người vui mừng cũng như những ai hoài nghi vẫn là câu hỏi về tương lai. Liệu trong những năm tới có thể có chuyện tương tự như vậy không, hay sẽ còn tốt hơn? Hay tình hình tốt đẹp của năm 2024 – chủ yếu mang tính cơ hội – sẽ lắng xuống, và con số tăng mạnh là ngoại lệ?
Sự hồi sinh của các lễ rửa tội sẽ tiếp tục
Tôi có xu hướng nghĩ sẽ tiếp tục, dù không theo cấp số nhân. Chắc chắn chúng ta cần thêm thông tin về những gì đang xảy ra ở những nơi khác trên thế giới, nhưng nếu chỉ xét ở châu Âu trong những năm gần đây, ít nhất là ở hai quốc gia Bỉ và Hà Lan, thì chúng ta đã thấy có sự gia tăng tương tự về số người lớn được rửa tội. Hai nước này, đặc biệt là Hà Lan cũng đang trải qua quá trình phi kitô giáo hóa mạnh mẽ. Do đó, câu hỏi có thể được đặt ra là liệu chúng ta có phải “chạm tới đáy” của sự suy giảm trên thực tế, đặc biệt là việc rửa tội cho trẻ em, thì mới có sự gia tăng việc rửa tội nơi người lớn không.
Trong 20 năm qua, ở Pháp số trẻ em dưới 3 tuổi được rửa tội đã giảm một nửa, từ 400.000 xuống chưa đầy 200.000. Còn ở các nước công giáo khác như Ý, Tây Ban Nha, Ba Lan, Croatia thì sao? Và ở Đức, nước có nhiều lo ngại về việc giáo dân rời bỏ Giáo hội thì sao? Dù sao chúng ta thấy số người lớn rửa tội sẽ không thể bù đắp được số trẻ em rửa tội, ít nhất trong một thời gian dài.
Tự do đi vào thì cũng tự do đi ra
Để phần nào bớt “tâm lý chiến thắng” nói trên, nhiều người nhắc lại lòng nhiệt thành của nhiều người lớn rửa tội đã giảm mạnh sau vài năm họ vào Giáo hội. Nói cách khác, lễ rửa tội của họ hẳn là một “tấm vé vào cửa” hơn là một cam kết… Nhận xét này là đúng, nhưng tại sao chúng ta lại muốn người lớn sau khi rửa tội phải ứng xử hoàn toàn khác với người đã ở với Giáo hội từ thơ ấu?
Đối với người lớn sau khi rửa tội, thì chính kinh nghiệm sống trong Giáo hội nhất thiết phải là quan trọng, thậm chí mang tính quyết định, để họ tiếp tục tích cực ở đó hay tiếp tục sống như thể “người khách”, hoặc thậm chí ra đi. Tự do đi vào thì cũng hoàn toàn tự do đi ra, ngay cả khi các cộng đồng giáo xứ chắc chắn phải làm tốt hơn và nhiều hơn nữa để bảo đảm sự đồng hành và hỗ trợ các cựu dự tòng: chúng ta có thể có ấn tượng chính đáng, sự đồng hành và hỗ trợ các tân tòng tỷ lệ nghịch với sự sốt sắng và chào đón nồng nhiệt thường dành cho các dự tòng.
Đúng là các cộng đồng công giáo, cũng như Giáo hội, không phải là các giáo phái nhưng đôi khi “bao vây” những người mới gia nhập theo đúng nghĩa đen và làm mọi cách để giữ họ lại. Hơn nữa, theo khảo sát của báo La Croix, con đường của những người mới được rửa tội, mặc dù không đổi, vẫn có nhiều hướng khác nhau. Vì sao phải tuyệt đối “bình thường hóa” theo khuôn rất công giáo để đưa họ vào trong những khuôn mẫu đã có?
Vượt lên trên những cuộc khủng hoảng…
Qua những chứng từ được kể, vượt lên những khác biệt trong công việc khám phá hoặc tái khám phá Giáo hội và đức tin công giáo, chúng ta có cảm tưởng những người mới rửa tội có một kinh nghiệm tương đối chung hay một yếu tố chung là: muốn tìm một lối thoát, một giải pháp, một hơi thở, một an ủi trước “thử thách cuộc đời”, “những cú đánh mạnh” làm họ chấn động, làm họ cảm thấy mình ở dưới đáy, làm cho một số người cảm thấy mình bị bật gốc, bị mồ côi của một truyền thống chưa được truyền lại.
Cuối cùng, chúng ta gần với những gì bà Danièle Hervieu-Léger đã nói về cuộc trở lại ngày nay nói chung: đó là tự xây dựng lại chính mình, khôi phục chính bản thân, hoặc – nếu đó là người xuất thân từ một gia đình công giáo – là việc tìm lại chính mình, gặp lại với bản sắc bị mất. Khi đó chúng ta có thể hiểu, cuộc cải tổ Giáo hội, hay những cuộc khủng hoảng của Giáo hội không phải là vấn đề của những người lớn được rửa tội này.
Maria Tô Diệu Lan dịch
Nguồn: phanxico.vn
50.000 người Ba Lan tham gia cuộc tuần hành vì sự sống
Vatican News
Trong dịp này, chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan khẳng định: “Sự sống là một hồng ân đến từ Thiên Chúa và vì thế là một quyền bất khả xâm phạm của mỗi con người, đó là lý do tại sao sự sống phải được bảo vệ và hỗ trợ ở mọi giai đoạn phát triển. Tôn trọng sự sống, vốn thuộc về những giá trị quan trọng nhất, là một trong những nghĩa vụ cơ bản của mỗi con người”. Về cuộc tuần hành quốc gia vì sự sống, Đức cha Chủ tịch nhấn mạnh rằng đó là biểu hiện tôn trọng sự sống được thụ thai, đón nhận cuộc sống này trong tình yêu và bày tỏ lòng biết ơn đối với những khó khăn trong vai trò làm cha mẹ, mang đến cho trẻ em cơ hội lớn lên và phát triển.
Người phát ngôn cuộc tuần hành, Lidia Sankowska-Grabczuk giải thích về sự kiện: “Cuộc tuần hành của chúng tôi là một sự khẳng định sự sống, gia đình, và tất cả các quyền cơ bản của mỗi người. Nhưng đồng thời trước cuộc cách mạng đang muốn hạn chế quyền của cha mẹ và quyền sống của con người, chúng tôi cũng tuần hành với một dấu hiệu thách đố mạnh mẽ nhằm ngăn chặn sự sụp đổ về nhân khẩu học ở Âu châu”.
Tại sự kiện, Chủ tịch Quỹ Thánh Biển Đức, tuyên bố sẽ không bỏ cuộc bất cứ điều gì diễn ra tại Quốc hội Ba Lan. Tổ chức sẽ đứng vững cho tới khi quyền của thai nhi được bảo đảm.
Ngày 12/4 vừa qua, Quốc hội Ba Lan đã bỏ phiếu về bốn đề xuất, trong đó sẽ đưa trở lại luật phá thai như trước năm 2020. Nghĩa là được phép phá thai trong trường hợp hiếp dâm, loạn luân hoặc đe doạ đến sức khoẻ và tính mạng người mẹ. Các đề xuất được phê duyệt cũng bao gồm đề xuất từ đảng của thủ tướng Donald Tusk, cho phép phá thai khi thai nhi được 12 tuần tuổi. Tuy nhiên, để việc này được tiến hành, phải có sự tán thành của tổng thống.
Vì nội chiến, sự hiện diện của Giáo hội dường như không còn ở Sudan
Vatican News
Từ ngày 15/4/2023, các cuộc đụng độ vũ trang nổ ra giữa quân đội do tổng thống Abdel Fattah al-Burhan chỉ huy và Lực lượng Phản ứng Nhanh (RSF), do phó tổng thống đứng đầu đã làm cho hơn 13.900 người thiệt mạng và hơn 8,1 triệu người buộc phải rời bỏ nhà cửa.
Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ cho biết, tình trạng bi thảm này đã làm giảm sự hiện diện của Giáo hội Công giáo ở Sudan “gần như không còn gì”. Bà Kinga Schierstaedt, người đứng đầu dự án của Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ ở Sudan, lưu ý rằng trước chiến tranh, người Công giáo chỉ chiếm 5% dân số. Bà cho biết mặc dù không được phép tuyên xưng đức tin một cách công khai, Giáo hội Công giáo có thể điều hành một số bệnh viện và trường học.
Người dân Sudan luôn coi Giáo hội là “nơi trú ẩn an toàn” và khi chiến tranh nổ ra, nhiều người đến ở trong các nhà thờ. Tuy nhiên, nhiều nhà truyền giáo và cộng đoàn tu trì đã buộc phải rời khỏi đất nước nên các giáo xứ, bệnh viện và trường học đã ngừng hoạt động.
Chủng viện dự bị Khartoum cũng đóng cửa. Một số chủng sinh đã tìm cách trốn sang quốc gia láng giềng Nam Sudan, để được tiếp tục đào tạo. Nhiều Kitô hữu đã phải đi bộ hoặc vượt sông Nile để rời quê hương, và cuối cùng phải vào các trại tị nạn, nơi cuộc sống còn “là một trận chiến hàng ngày”.
Trong khi đó, Đức cha Michael Didi, Giám mục Khartoum vẫn chưa thể trở lại thành phố, còn Đức cha Tombe Trile, Giám mục El Obeid hiện sống trong thánh đường vì nhà cửa đã bị phá hủy một phần.
Tuy nhiên, Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ hy vọng Giáo hội vẫn có thể tiếp tục tồn tại trước sự tàn phá do xung đột. Dấu hiệu cụ thể đó là trong Đêm Vọng Phục sinh vừa qua, 16 người đã được rửa tội tại Port Sudan, và 34 người lớn đã được Thêm sức ở Kosti. Đó là niềm hy vọng giữa bóng tối.
Sudan và Nam Sudan có chung hội đồng giám mục. Từ dấu chỉ hiệp nhất này, Tổ chức tiếp tục hỗ trợ những người dễ bị tổn thương nhất và những nạn nhân của bạo lực chiến tranh. Bà Schierstaedt nói: “Giáo hội ở Nam Sudan đang chuẩn bị sẵn sàng cho tương lai bằng cách giúp đỡ các Kitô hữu Sudan chuẩn bị cho hòa bình ngày mai”.
ĐTC phê chuẩn sắc lệnh phong thánh cho 1 người Ý và phong chân phước cho 2 người Tây Ban Nha
Vatican News
Đầu tiên là Chân phước Elena Guerra. Vị sắp được phong thánh Guerra người Ý, sinh năm 1835 và qua đời năm 1914. Sinh ra trong một gia đình quý tộc, thừa hưởng nền giáo dục Kitô, từ khi còn trẻ Guerra đã có sự quan tâm đến cộng đồng, giúp đỡ hiệp hội “Khu vườn nhỏ của Đức Maria” và “Tình bạn thiêng thiêng” chuyên hỗ trợ các phụ nữ trẻ. Được truyền cảm hứng bởi Đức Giáo Hoàng Piô IX trong một lần gặp gỡ tại Roma, Guerra đã quyết định bước vào đời sống tu trì mặc dù bị gia đình phản đối. Từ đó, Dòng Hiến sĩ Chúa Thánh Thần được thành lập và sau này được biết đến với tên gọi “Các nữ tu Thánh Zita” do Chân phước sáng lập vào năm 1882, với sứ vụ giáo dục văn hoá và tôn giáo cho giới trẻ. Những năm cuối đời của Chân phước được đánh dấu bằng những hiểu lầm từ phía các chị em về quản lý kém đến nỗi Chân phước đã phải quyết định rời bỏ nhiệm vụ bề trên. Năm 1959, Thánh Gioan XXIII đã tuyên phong Chân phước cho vị sáng lập “Các nữ tu Thánh Zita”.
Sắc lệnh của Bộ Phong thánh được Đức Thánh Cha chấp thuận cũng liên quan đến hai vị Chân phước tương lai của Tây Ban Nha. Cũng giống như nhiều người trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, hai vị đã được phúc tử đạo vì đã công khai đối diện với sự căm thù chống Kitô giáo cũng như cuộc bách hại của lực lượng dân quân phe cộng hoà. Vị sẽ được phong Chân phước đầu tiên là cha Gaetano Clausellas Ballvé. Là tuyên uý cho một trung tâm người già, cha bị bắt vào ngày 14/8/1936 và ngày hôm sau bị bắn vào lưng. Vị thứ hai là ông Antonio Tort Reixachs. Giáo dân này là người cha của một gia đình với 11 người con, có lòng sùng kính Thánh Thể và yên mến Đức Mẹ cách đặc biệt. Do che chở các tu sĩ trong nhà, vị Chân phước tương lai đã bị tra tấn và bị bắn chết vào ngày 04/12/1936.
Sắc lệnh còn công nhận các nhân đức anh hùng của vị Tôi tớ Chúa Teresa Lanfranco, qua đời tại Roma vào năm 1989, ở tuổi 69. Năm 1937, Lanfranco gặp Chân phước Elisa Martinez và gia nhập dòng do Chân phước vừa sáng lập, dấn thân cho sứ vụ tông đồ ở giáo xứ và đào tạo các thiếu nữ do Chân phước quy tụ. Đấng Đáng kính tương lai là người được biết đến với sự kiên nhẫn hoà giải những bất đồng giữa mọi người, yêu mến Đức Mẹ và Thánh Giuse cách đặc biệt.
Những sáng kiến dành cho người khuyết tật của Giáo hội tại Campuchia
Vatican News
Vào năm 1993, trên toàn lãnh thổ Campuchia có 10 triệu quả mìn sát thương. Hiện nay, người ta ước tính còn khoảng 4 triệu, đặc biệt ở các khu vực rừng dọc biên giới giữa Campuchia và Thái Lan, giữa Campuchia và Việt Nam. Tất cả các vũ khí này có từ thời chiến tranh Việt Nam do Khmer Đỏ đặt, và vẫn còn ngay cả khi họ bị lật đổ vào năm 1979. Tính từ năm 1970, những cái bẫy gây chết người này đã sát hại 60.000 người và để lại hàng ngàn người với những thương tích không thể xoá nhoà trong suốt cuộc đời. Mỗi năm, những quả mìn còn sót lại sau chiến tranh vẫn làm bị thương hoặc giết chết khoảng 50 người, đó là một vấn đề đáng lo ngại cho nông dân và cư dân nông thôn ở các tỉnh phía tây đất nước.
Trước thực trạng đau thương này, từ lâu Giáo hội đã tìm cách giúp người dân khắc phục những hậu quả đau thương. Như sơ Denise Coghlan Dòng Chúa Thương Xót, từ 30 năm qua luôn đồng hành với các nạn nhân của bạo lực, đặc biệt những người bị ảnh hưởng bởi hậu quả của chiến tranh kéo dài. Là thành viên của chiến dịch quốc tế dẫn tới việc thông qua Hiệp ước cấm mìn vào năm 1997, nữ tu truyền giáo đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các nạn nhân. Cùng năm đó, sơ Denise và Tun Channareth người Campuchia, một cựu quân nhân bị thương do bom mìn, đã nhận giải Nobel Hòa bình vì sự dấn thân không mệt mỏi của họ đối với chiến dịch xóa bỏ mìn sát thương.
Nữ tu nói: “Chúng tôi tiếp tục làm việc bằng cách nâng cao nhận thức và yêu cầu mọi người loại bỏ mìn khỏi tâm hồn họ”. Theo sơ Denise, mọi sự đều xuất phát từ sự hoà giải và từ việc trở thành những người kiến tạo hoà bình, một nhiệm vụ rất khó khăn, cần phải nỗ lực không ngừng”.
Là người sống sót sau vụ mìn nổ, ông Tun Channareth dành trọn thời gian cho việc chăm sóc các nạn nhân. Ông chế tạo xe lăn cho hàng ngàn người bị thương do mìn. Hiện nay, tiến tới giai đoạn ba, ông đồng hành với những người khuyết tật trên hành trình hướng tới một cuộc sống xứng nhân phẩm, với việc tạo cơ hội kinh tế thông qua các sáng kiến phát triển và tạo thu nhập. Những người nhận lòng quảng đại của ông Channareth nói rằng những chiếc xe lăn của ông không chỉ đơn giản là phương tiện di chuyển nhưng đã trở thành phương tiện thúc đẩy cuộc sống, nhân phẩm, hoà bình và hoà giải. Ông giải thích: “Làm việc với các nạn nhân của bom mìn có nghĩa là mang lại một chút ánh sáng nhằm khuyến khích họ trên con đường, tìm được niềm hy vọng và sự chữa lành”.
Từ năm 1994, Tổ chức cứu trợ người tị nạn của Dòng Tên là một trong những tổ chức hiện diện và hoạt động tích cực trong chiến dịch nâng cao nhận thức về việc cấm mìn và bom chùm. Bên cạnh hoạt động vận động, Tổ chức còn đồng hành cùng phong trào của những người sống sót để giúp họ kể lại câu chuyện và cảm nghiệm của họ tại các diễn đàn quốc tế. Ngoài ra với dự án Survivor Network, Tổ chức đã tạo ra sự kết nối trong khắp đất nước giữa những người sống sót, theo dõi cuộc sống của họ và nâng cao nhận thức của những người lãnh đạo các thôn làng về nhu cầu và quyền của người khuyết tật với ý tưởng thúc đẩy sự hoà hợp và hoà nhập xã hội đầy đủ cho người khuyết tật.
Để đạt được mục tiêu này vào năm 1991, cha Enrique Figaredo Alvargonzalez, đứng đầu Hạt Phủ doãn Tông toà Battambang đã thành lập một trung tâm Banteay Prieb dành cho những trẻ em bị thương do bom mìn. Tại đây, các em được đồng hành trong mọi lĩnh vực cuộc sống. Từ đó đến nay, từ trung tâm này, hàng ngàn người trẻ Campuchia đã trưởng thành và tìm lại được nụ cười. Năm 2020, nơi đây được chuyển đổi thành trung tâm phục hồi chức năng công cộng do chính phủ điều hành. Tại Battambang, trong lúc chăm sóc cho khoảng 5000 người Công giáo, cha Enrique đã thực hiện các dự án xã hội như các trường học dành cho trẻ khuyết tật, phòng khám, trung tâm đào tạo nghề nhằm khôi phục nhân phẩm cho các em, để các em có thể tiếp tục mỉm cười.
Cha nói: “Một em trong số đó đã nói với tôi: Trong tương lai con muốn hạnh phúc. Bí quyết hạnh phúc là mọi người cùng chăm sóc nhau, trong gia đình, trong cộng đồng làng xã. Tình thương huynh đệ là chìa khoá hạnh phúc. Đó là chứng tá đức tin tôi đã nhận được từ những người bé nhỏ và nghèo khó đang loan báo Tin Mừng mỗi ngày”.
Để biểu lộ sứ vụ đang thi hành, cha chỉ vào Thánh giá đang đeo bị mất một chân, và nói: “Chúa Giêsu bị mất một chân chịu đau khổ như những người bị thương do bom mìn. Người đồng cảm với đau khổ của người khuyết tật, trong khi đau khổ của họ hiệp thông với đau khổ của Người để cứu độ thế giới. Hơn nữa, điều này nói với chúng ta rằng thân thể mầu nhiệm của Chúa không trọn vẹn, thiếu một cái gì đó, thiếu một chân do thiếu hiểu biết tình yêu Chúa. Sứ vụ của chúng ta là hoàn thành những thiếu sót này”.
Các bạn trẻ quy tụ tại Vatican nhân kỷ niệm 40 năm Ngày Giới trẻ
Vatican News
Cuộc gặp gỡ đầu tiên của các bạn trẻ với Đức Gioan Phaolô II đã đánh dấu sự khởi đầu của Ngày Giới trẻ Thế giới, một sự kiện quốc tế lớn quy tụ các bạn trẻ từ mọi châu lục xung quanh Đức Thánh Cha tại một số thành phố trên thế giới. Đại hội Giới trẻ Thế giới lần cuối cùng đã diễn ra ở Lisbon vào tháng 8/2023 với Đức Thánh Cha Phanxicô; Đại hội lần tiếp theo sẽ diễn ra tại Seoul, Hàn Quốc, vào năm 2027, trước Năm Thánh Giới trẻ ở Roma vào năm 2025.
Trong Thánh lễ Thánh lễ, Đức Hồng Y José Tolentino de Mendonça đã nhấn mạnh trong bài giảng: “Hôm nay chúng ta tạ ơn Chúa vì nguồn cảm hứng lớn lao mà Thánh Gioan Phaolô II đã có khi triệu tập Đại hội Giới trẻ Thế giới đầu tiên. Chúng ta cũng cảm ơn vì cách Đức Biển Đức XVI đã sống những Đại hội này và về cách Đức Thánh Cha Phanxicô đã sống chúng, như một khoảnh khắc không thể thiếu của Giáo hội”.
Trong những năm gần đây, Đức Hồng Y nhấn mạnh thêm, Đại hội Giới trẻ Thế giới đã nảy sinh nhiều hoa trái: “Hoa trái của niềm hy vọng và tình yêu, hoa trái của tuổi trẻ, của mùa xuân trong lòng Giáo hội”. Sau đó, ngài nhắc lại lời mời gọi của Chúa Giêsu dành cho tất cả giới trẻ: “Hãy đến, hãy chạm, hãy xem, hãy ăn” để nhắc lại rằng: “Chúa Kitô có vai trò quyết định trong đời sống con người. Tầm quan trọng của Chúa Kitô không phải là một chân lý lý thuyết trừu tượng, nhưng là điều chúng ta đã chạm đến”.
Đức Hồng Y de Mendonça cũng nhận xét rằng, trong Đại hội Giới trẻ Thế giới, giới trẻ từ khắp nơi trên thế giới trải nghiệm niềm vui được là tín hữu, niềm vui nhận ra tình huynh đệ nhân loại, niềm vui ôm lấy nhau, cầu nguyện và thờ phượng cùng nhau, lắng nghe, cười, khóc, cùng nhau quý trọng kinh nghiệm này của Giáo Hội. “Điều này làm biến đổi cuộc sống, nó đã biến đổi lịch sử của những người vĩ đại và tiếp tục biến đổi cuộc sống, lịch sử của chúng ta. Chúa Kitô không muốn chúng ta là khán giả. Chúa Kitô muốn chúng ta là chứng nhân. Và chứng nhân là người nói ‘Tôi đã thấy tận mắt, tôi đã nghe bằng tai, tôi đã chạm đến’. Điều này làm cho chúng ta trở thành một Giáo hội truyền giáo, một Giáo hội đi ra”.
Sau đó, Đức Hồng Y de Mendonça nhắc lại những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô để khích lệ giới trẻ: “Đừng đứng trên ban công nhìn lịch sử trôi qua, mà hãy đứng giữa lịch sử để tạo ra tiếng ồn… Nhưng tiếng ồn không chỉ là tiếng ồn, nó là một tin tốt lành”. Ngài cũng trích dẫn lời Đức Gioan Phaolô II khi ngài tuyên bố “những người trẻ là những người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho những người trẻ khác”. “Chúa Kitô trông cậy vào các bạn để chữa lành các vết thương. Chúa Kitô trông cậy vào các bạn để xây dựng không phải một nền văn hóa sự chết, mà là một nền văn hóa sự sống”. Kết thúc bài giảng, ngài mời gọi hãy nhìn lên Đức Maria, “hiện diện trong mọi Đại hội Giới trẻ Thế giới” và “một điểm tham chiếu giúp chúng ta ngắm nhìn Chúa Kitô”.