Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Hồng y Grech: Thượng hội đồng không thể bỏ qua những câu hỏi khó
ĐHY Grech nói rằng: Thượng hội đồng không thể bỏ qua những câu hỏi khó. Giáo hội hiệp hành cung cấp một diễn đàn để bày tỏ cả những bất đồng và ngài không lo lắng khi đề cập đến “con đường công nghị tại Đức.”
“Hiệp hành mang lại không gian nơi chúng ta có thể chia sẻ nỗi sợ hãi và niềm vui, sự chắc chắn và nghi ngờ, ước mơ của chúng ta. Rõ ràng, có những ước mơ có thể thành hiện thực, có những ước mơ không thể. Có những ước mơ có thể thành hiện thực vào ngày mai, có những ước mơ cần thêm thời gian. Nhưng, về mặt cá nhân, không có gì thực sự khiến tôi lo lắng cho đến nay khi chúng ta tôn trọng các nguyên tắc căn bản của Giáo hội Công giáo”, vị Giám mục người Malta cho biết.
Khi đề cập đến vai trò của các Giám mục trong tiến trình hiệp hành, ĐHY nói: “Các giám mục có chức vụ của họ trong các Giáo hội địa phương, các giám mục không phải là người làm việc tự do nhưng họ là thành phần của giám mục đoàn và sau đó, giám mục đoàn được liên kết với thánh Phêrô tông đồ.”
Lộ trình “con đường công nghị của HĐGM Đức”, vốn được phát động như một phản ứng trước các vụ bê bối lạm dụng tính dục của giáo sĩ, đã tập trung vào việc sử dụng quyền lực trong Giáo hội, vai trò của phụ nữ và giáo huấn Công giáo về tính dục. Nhưng “con đường công nghị của HĐGM Đức” đã vấp phải những chỉ trích nặng nề tại một số nơi, và từ các giám mục bên ngoài nước Đức, những người đã cảnh báo rằng điều này có nguy cơ dẫn đến một cuộc ly giáo. Một lá thư từ 92 vị giám mục cho biết người Đức đã sai khi đặt quá nhiều trọng tâm vào câu hỏi về quyền lực và nói rằng điều này gợi ý một tinh thần về cơ bản là đối nghịch với bản chất đích thực của đời sống Kitô hữu”.
Đức Hồng Y Grech chỉ ra rằng “không nên để gì dưới tấm thảm” trong cuộc thảo luận của Thượng hội đồng và rằng mọi người phải được tự do trình bày các vấn đề để Vatican suy xét. Ngài nói thêm rằng trong Thượng hội đồng “tất cả các tài liệu đến văn phòng của chúng tôi sẽ được trình lên Đức Thánh Cha,” và khẳng định “không ai bị loại trừ” miễn là họ “muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu.”
Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục cho biết vấn đề ưu tiên là trở thành một “Giáo hội hiệp hành” hơn để có thể cùng nhau lắng nghe và phân định.
Ngài nhấn mạnh: “Nếu không trở thành một Giáo hội hiệp hành, chúng ta sẽ rất khó giải quyết, rất khó để đi sâu hơn về mặt thần học vào một số vấn đề mà mọi người đang đặt ra.”
Vì vậy, Ngài gợi ý rằng Thượng hội đồng trên toàn cầu “hướng đến một Giáo hội hiệp hành” sẽ vượt xa hơn một Hội nghị của các giám mục tại Vatican vào tháng 10 năm 2023 sắp tới.
“Thượng hội đồng không có kết thúc,” ĐHY nói. “Sẽ không có kết thúc, bởi vì một khi tiến trình đã bắt đầu, nó sẽ tiếp tục, thậm chí sau ngày 23 tháng 10.”
Văn Cương, SJ – Vatican News
Đức TGM Gallagher: Tôi đã gặp những người bị thương đầy lòng can đảm
“Người dân Ucraina thực sự là một dân tộc đang bị thương, đồng thời cũng rất can đảm và quyết tâm: chúng ta không thể coi thường nỗi đau lớn của dân tộc vĩ đại này... Chúng ta phải tái cam kết giải quyết xung đột thông qua đối thoại ngoại giao và chính trị”. Đức Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher, hiện đã kết thúc chuyến thăm tại Ucraina và chia sẻ điều đó với Vatican News.
Trong buổi phỏng vấn, Đức Tổng Giám mục Gallagher mô tả tầm quan trọng của tinh thần đại kết trong việc xây dựng lại nền hòa bình của Ucraina trong tương lai. Đức TGM giải thích rằng vào thời điểm như thế này, điều tất yếu là người dân phải kiên quyết, nỗ lựcchung tay “vì sự thống nhất của đất nước, của thực thể chính trị của đất nước, vì sự hiệp nhất của các Kitô hữu, sự hiệp nhất của Giáo hội Công giáo, hiệp nhất với các tôn giáo khác, để có thể tận dụng được nguồn lực tinh thần và ơn Chúa ban trong những lúc này, và không lãng phí những điều này bởi những khó khăn hay mối bất hoà”.
Sau đó, Đức Tổng Giám mục Gallagher nói về lòng dũng cảm của một linh mục Chính thống mà ngài gặp ở Bucha, “người đã kể lại những ngày khủng khiếp, khi có những xác chết ở khắp mọi nơi và vị linh mục này yêu cầu chôn cất họ”. Đức TGM nói tiếp, có lẽ, ở một số nơi mọi thứ đã tốt hơn một chút trong những ngày này, “nhưng những vết thương vẫn còn và ngay cả chúng ta trong cách nhỏ bé của mình, chúng ta có thể đến, cố gắng nói chuyện với họ, thể hiện sự đồng cảm với nỗi đau khổ của họ, một cử chỉ hỗ trợ và động viên”.
Tuy nhiên, Ngoại trưởng Toà Thánh nhấn mạnh rằng “theo quan điểm của tôi, đây không phải là điều gì đó con người có thể tự làm một mình, giống như Maria Madalena đã gặp Chúa Kitô phục sinh. Chỉ điều này mới có thể lau khô nước mắt của dân tộc này. Đó là qua việc đào sâu đức tin của mình, bất kể truyền thống đức tin nào - Công giáo, Chính thống, Tin lành, Do Thái và các tôn giáo khác - có thể đi tới sự phục sinh, ngay cả trong mùa Phục sinh này”.
Bình luận của Đức Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher khi kết thúc chuyến thăm tại Ucraina
Theo Đức Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher: qua chuyến thăm, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi, trên hết, đối với Chúa, Đấng luôn ở với chúng tôi trong mỗi bước đi, và cho tất cả những ai đã tạo điều kiện cho chuyến thăm này. Các vị lãnh đạo dân sự ở Ba Lan và Ucraina, các nhà chức trách của Giáo hội, những người hiếu khách đã cho phép chúng tôi gặp gỡ họ và nói chuyện rất thẳng thắn. Tôi đã hứa với Bộ trưởng Kuleba là tôi sẽ đến. Chúng tôi đã đến và chúng tôi đã nói chuyện, và sẽ tiếp tục nói chuyện. Ucraina vào thời điểm này có rất nhiều nhu cầu.
Đức TGM nói thêm: Đối với phần lớn những nhu cầu này, các giáo hội đã giúp đỡ rất nhiều. Tôi đã nghe những lời khen ngợi dành cho Caritas, lời khen ngợi về những gì cácgiáo phận và giáo xứ cũng như các giám mục đã làm, thuộc cả Giáo hội Công giáo Hy Lạp và Công giáo Latinh.
Đồng thời, mọi người cũng đã ghi nhận rất nhiều công lao của Ba Lan và sự quảng đại phi thường của họ, trong việc tiếp nhận người tị nạn và gửi viện trợ nhân đạo cho Ucraina . Nhưng chúng ta cần phải tiến lên phía trước, duy trì sự hỗ trợ cho Ucraina. Chúng ta cần giúp Ucraina luôn lạc quan và trung kiên. Chúng ta cần cố gắng hết sức để trong cuộc xung đột này, các giá trị của Kitô giáo phải chiếm ưu thế hơn bất kỳ giá trị nào có thể tiêu cực hơn hoặc mâu thuẫn hơn.
Ngoài ra, sẽ cần nhiều năm để xây dựng lại xã hội tại Ucraina, một xã hội sẽ phải thúc đẩy sự hiệp nhất ở mọi cấp độ: Giáo hội, chính trị, quản trị và về đổi mới công nghiệp. Chúng ta cần phải làm việc cùng nhau để loại bỏ tất cả những hậu quả từ cuộc xung đột này mà chúng ta đang phải đối mặt như khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng lương thực, khủng hoảng chuỗi cung ứng.
Văn Cương, SJ – Vatican News
ĐTC tiếp các nhân viên bảo vệ dân sự của Ý
Trước hết, Đức Thánh Cha nhìn nhận những đóng góp lớn lao của các tình nguyện viên, đặc biệt trong giai đoạn đại dịch. Họ đã giúp đỡ những người dễ bị tổn thương nhất, hỗ trợ những người già, người nghèo, người đơn thân, cũng như hỗ trợ trong chiến dịch tiêm chủng mở rộng khắp đất nước với một tinh thần phục vụ miễn phí. Đồng thời, trong thời gian gần đây, các tình nguyện viên dấn thân hỗ trợ nhân đạo trong việc tiếp nhận những người tị nạn từ Ucraina, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, đang chạy trốn chiến tranh và đến nước Ý.
Đức Thánh Cha chia sẻ với các tình nguyện viên 3 điểm suy tư và hành động liên quan đến việc phục vụ của họ, đó là: “Bảo vệ”. Họ được đặt để bảo vệ những người dễ gặp nguy hiểm và yếu đuối nhất. Đây chính là sứ mạng của người Samari nhân hậu trong Tin Mừng (x. Lc 10,29-37).
Việc bảo vệ đầu tiên là bảo vệ khỏi sự cô lập xã hội. Đây là một cách thức quan trọng truyền đi tiếng nói của hy vọng. Trong thời gian đại dịch, nhiều tình nguyện viên đã hy sinh mạng sống của mình trong khi phục vụ. Họ đã viết nên những biến cố quyết định trong lịch sử chung của chúng ta. Không ai tự cứu một mình. Chúng ta cần hiểu và thấy rằng cuộc sống của chúng ta phụ thuộc vào cuộc sống của người khác và điều tốt đẹp thì dễ lan truyền. Trở thành người lân cận của người khác sẽ làm cho chúng ta tốt hơn, quảng đại hơn và liên đới hơn. Đồng thời, xã hội của chúng ta cũng sẽ trở nên đáng sống hơn.
Việc bảo vệ thứ hai cần được thúc đẩy là bảo vệ khỏi các thảm hoạ môi trường. Đức Thánh Cha trích một câu nói tiếng Tây Ban Nha: “Thiên Chúa luôn tha thứ, con người thỉnh thoảng tha thứ, thiên nhiên không bao giờ tha thứ.” Những biến đổi khí hậu của thời đại chúng ta đã dẫn đến các hiện tượng thời tiết cực đoan, với những hậu quả nghiêm trọng đối với con người. Chúng ta được kêu gọi để bảo vệ thế giới và không bóc lột nó.
Việc bảo vệ thứ ba ngang qua việc phòng ngừa. ĐTC trích thông điệp Fratelli tutti: “Mỗi người, với tất cả trách nhiệm, hãy yêu mến, chăm sóc xứ sở và lo lắng cho quê hương đất nước của mình, cũng như mỗi người phải yêu mến và chăm sóc ngôi nhà của mình để nó khỏi sụp đổ, vì những người hàng xóm sẽ chẳng làm điều đó thay ta. Cũng thế, thiện ích chung của thế giới đòi hỏi mỗi người phải bảo vệ và yêu mến quê hương mình.” (Fratelli tutti, 143). Lương tâm cần được huấn luyện để lợi ích chung không bị bỏ mặc hoặc chỉ trở thành món lợi cho một số ít.
Do đó, bảo vệ là chăm sóc. Chúng ta chỉ biết làm điều đó với sự dịu dàng nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta là những người được bảo vệ trước. Thiên Chúa là Cha, Đấng chăm sóc chúng ta và không để chúng ta thiếu thốn tình yêu của Người. Nếu chúng ta cảm thấy được Người bảo vệ, chúng ta sẽ học được cách bảo vệ quảng đại dành cho anh chị em mình, như rất nhiều tấm gương của các thánh đã dạy chúng ta.
Văn Yên, SJ - Vatican News
Lễ phong chân phước cho chị Pauline Jaricot
Lúc 3 giờ chiều, Chúa nhật 22 tháng Năm vừa qua, Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng cho các dân tộc, đã đại diện Đức Thánh cha Phanxicô, chủ sự thánh lễ tôn phong Nữ Tôi tớ Chúa giáo dân Pauline Jaricot lên bậc chân phước.
Pauline sinh tại Lyon năm 1799 trong một gia đình khá giả, cha là một nhà công nghệ tơ sợi. Năm 23 tuổi, tức là ngày 05 tháng Năm năm 1822, chị thành lập Hội Truyền bá Đức tin, để giúp đỡ các xứ truyền giáo. 100 năm sau đó, Hội trở thành Hội Giáo hoàng Truyền bá Đức tin và ngày nay hiện diện tại 140 quốc gia trên thế giới.
Tham dự thánh lễ, dài hai giờ rưỡi đồng hồ, tại Hội trường Triển Lãm Chassieu, có 12.000 tín hữu, trong đó có 120 vị Giám đốc toàn quốc từ các nước tựu về Lyon tham dự đại hội thường niên trong những ngày qua và tham dự thánh lễ đặc biệt này. Trong số các tín hữu hiện diện, cũng có gia đình ông Emmanuel Trần, thân phụ của bé Mayline. Năm 2012, bé được ba tuổi, lâm vào tình trạng hôn mê không thể hồi lại vì bị hóc và ngộp thở, nhưng được cứu sống một cách lạ lùng nhờ các tín hữu thuộc Hội Mân côi sống làm tuần chín ngày cầu xin chị Pauline Jaricot cứu giúp. Hội này cũng do chị thành lập. Cuộc khỏi bệnh này được Bộ Phong thánh nhìn nhận là phép lạ nhờ lời chuyển cầu của vị Tôi tớ Chúa Pauline.
Đồng tế với Đức Hồng y Tagle, có nhiều hồng y, giám mục và hàng trăm linh mục.
Cũng nên nhắc lại, trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên đàng trước đó, trưa Chúa nhật 22 tháng Năm, tại Quảng trường thánh Phêrô, với khoảng 15.000 tín hữu hành hương, Đức Thánh cha Phanxicô cũng chào mừng lễ phong chân phước chị Pauline Jaricot. Đức Thánh cha nói: “Nữ giáo dân này, sống vào tiền bán thế kỷ XIX, là một phụ nữ can đảm, quan tâm đến những thay đổi của thời đại với cái nhìn bao quát về sứ mạng của Giáo hội. Ước gì tấm gương của chị khơi lên nơi mọi người ước muốn tham gia, bằng kinh nguyện và việc bác ái, vào việc phổ biến Tin mừng trên thế giới.”
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Hồng y Parolin kêu gọi sớm hòa đàm về Ucraina
Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, kêu gọi sớm hòa đàm để đạt tới hòa bình tại Ucraina.
Trong thánh lễ tại Đền thánh Rita, sáng Chúa nhật 22 tháng Năm vừa qua, Đức Hồng y cầu khẩn sự chuyển cầu của vị thánh đã từng giúp giải quyết những trường hợp không có thể, để chấm dứt bạo lực hiện nay tại Ucraina. Trong bài giảng, Đức Hồng y nói: “Tại phần đất đức tin và hòa bình này, là miền Umbria. Tôi cầu mong các cuộc thương thuyết sẽ được khởi sự sớm hết sức và sau cùng đạt tới hòa bình từ lâu vẫn mong ước”.
Đức Hồng y Parolin cũng nói rằng: “Thánh nữ Rita là biểu tượng của “nhân đức tha thứ, an bình và bác ái. Chúng ta tôn kính thánh nữ bằng cách đặt trong tay người những yếu đuối của con người và cho sự chuyển cầu của thánh nữ. Tôi phó thác cho thánh Rita bao nhiêu ý nguyện của Đức Thánh cha Phanxicô. Ngài không ngừng lên tiếng mỗi ngày để phá vỡ cái vòng bạo lực chết chóc vô ích tại Ucraina... Bạo lực không bao giờ là một câu trả lời và những biến cố trong cuộc đời của thánh nữ Rita, dạy chúng ta rằng “bạo lực không bao giờ giải quyết những xung đột nhưng chỉ làm gia tăng những hậu quả thê thảm của nó. Chúng ta cảm nghiệm thấy điều đó mỗi ngày và tôi tự hỏi tại sao chúng ta không hiểu được từ lịch sử, từ thời sự. Dùng bạo lực là cách thức gia tăng các vấn đề”. (Vatican News 22-5-2022)
Lập trường của Tòa Thánh trên đây trái ngược với xu hướng hiện tại của các phe lâm chiến ở Ucraina hiện nay. Tổng thống Zelensky tuyên bố đây chưa phải là lúc bắt đầu thương thuyết. Trong khi đó Mỹ và Âu châu gia tăng cung cấp võ khí cho Ucraina, còn Nga gia tăng các cuộc tấn công tại miền Donbass.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Tiến bộ trong án phong chân phước cho một giám mục Philippines
Ngày 21 tháng Năm vừa qua, với sự chấp thuận của Đức Thánh cha Phanxicô, Bộ Phong thánh đã công bố tám sắc lệnh liên quan đến án phong chân phước của tám vị Tôi tớ Chúa.
Đứng đầu danh sách là sắc lệnh nhìn nhận phép lạ nhờ sự chuyển cầu của một nữ giáo dân người Tây Ban Nha, chị Maria de la Concepción Barrecheguren y García (1905-1927), qua đời năm 1927 vì bệnh lao phổi lúc mới được 22 tuổi mà chưa được nhận áo dùng như chị mong ước. Người được phép lạ xảy ra vào năm 2014 là một em bé gái người Tây Ban Nha, hai tuổi.
Ngoài ra, trong số bảy sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của các vị Tôi tớ Chúa, có trường hợp Đức cha Teofilo Bastida Camomot (1914-1988) người Philippines. Ngài sinh năm 1914 và thụ phong giám mục năm 1955, làm Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Cebu, rồi sau đó chuyển sang làm Tổng giám mục Phó giáo phận Cagayan de Oro cho đến khi về hưu năm 1970, vì lý do sức khỏe. Ngài bị tử nạn giao thông ngày 27 tháng Chín năm 1988, thọ 74 tuổi.
Đức Tổng giám mục nổi tiếng vì những ơn đặc biệt, chữa lành các bệnh nhân, người nâng bổng trong lúc cầu nguyện và ở hai nơi cùng một lúc, theo các chứng từ được gửi tới Đức Cố Hồng y Ricardo Vidal, cố Tổng giám mục Cebu, trong cuộc điều tra để làm án phong chân phước. Một chứng nhân kể rằng: ngày 27 tháng Chín năm 1985, Đức cha Camomot ở với ông, nhưng đồng thời những người khác cho biết đã thấy ngài cùng lúc đó đang xức dầu cho một bệnh nhân ở làng trên núi, cách đó gần 50 cây số.
Các linh mục cũng thường xin Đức Tổng giám mục Camomot đến giải tội lần chót cho các vị trong lúc sinh thời.
Khi còn làm Tổng giám mục Phó giáo phận Cagayan de Oro, Đức cha đã lập dòng Nữ tử thánh Têrêsa, ban đầu được gọi là dòng Ba Thánh Thể.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Tiếp tục đối thoại giữa Công giáo và các Giáo hội Chính thống
Tiểu ban điều hợp của Ủy ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội Chính thống đã nhóm họp từ ngày 16 đến ngày 20 tháng Năm vừa qua, tại Rétimo, bên Hy Lạp, dưới quyền chủ tọa của hai vị Đồng Chủ tịch, là Đức Hồng y Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô và Đức Tổng giám mục Job thuộc Giáo phận Telmessos, từ phía Tòa Thượng phụ Chính thống Constantinople, bên Thổ Nhĩ Kỳ.
Khóa họp lần cuối trước đây của Tiểu ban này đã diễn ra hồi tháng Mười Một năm 2019, tại Đan viện Bose, bắc Ý.
Trong những ngày họp, Tiểu ban đã hoàn tất việc duyệt lại Văn kiện tựa đề “Quyền tối thượng và đặc tính công nghị trong ngàn năm thứ hai và ngày nay”. Văn kiện sẽ được trình bày tại khóa họp toàn thể của Ủy ban Hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Công giáo và Chính thống, dự kiến vào năm tới, 2023.
Văn kiện cuối cùng trước đây của Ủy ban mang tựa đề “Công nghị tính và quyền tối thượng trong ngàn năm thứ nhất: tiến tới một sự hiểu biết chung phục vụ sự hiệp nhất của Giáo hội”. Văn kiện này đã được thông qua hồi tháng Chín năm 2016, trong khóa họp của Ủy ban nhóm tại thành phố Chieti, nam Ý.
Quyền tối thượng chỉ về Đức Giáo hoàng trong Giáo hội Công giáo, còn công nghị tính chỉ về cách điều hành của các Giáo hội Chính thống, trong đó các quyết định điều hành Giáo hội do công nghị (Sinodo) của Giáo hội ấy cùng đề ra, trong đó vị Thượng phụ, tuy đứng đầu, nhưng cũng chỉ có một phiếu như các thành viên khác trong Công nghị.
Ủy ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Công giáo và Chính thống gồm 56 thành viên, trong đó 28 vị Công giáo, gồm các giám mục và thần học gia, và 28 vị thuộc 14 Giáo hội Chính thống, mỗi Giáo hội cử một giám mục và một nhà thần học làm thành viên.
Ủy ban quốc tế này hiện gặp khó khăn vì xung đột giữa Chính thống Nga và Chính thống Constantinople từ đầu năm 2019, sau khi Đức Thượng phụ Bartolomaios, vị đứng đầu Chính thống giáo, công nhận quyền độc lập của Chính thống Ucraina, tách rời khỏi Chính thống Nga, vì thế Chính thống Nga đoạn giao với Chính thống Constantinople, và tuyên bố không tham dự bất kỳ cuộc họp nào do Chính thống Constantinople chủ tọa. Nền độc lập của Giáo hội Chính thống Ucraina cho đến nay mới chỉ được vài Giáo hội Chính thống công nhận, trong đó có Chính thống Hy Lạp. Chính thống Nga là khối lớn nhất trong số mười bốn Giáo hội Chính thống trên thế giới.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Giáo hội sắp có thêm hai hiển thánh mới
Giáo hội sắp có thêm hai vị hiển thánh mới, sẽ được tôn phong, gồm một giám mục và một tu huynh.
Hôm 21 tháng Năm vừa qua, Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết Đức Thánh cha Phanxicô đã phê chuẩn việc bỏ phiếu trong phiên họp thường lệ của các hồng y và giám mục thành viên Bộ Phong thánh, về việc phong hiển thánh cho chân phước Gioan Baotixita Scalabrini, Giám mục giáo phận Piacenza, bắc Ý, sáng lập Dòng Thừa sai thánh Carlo và Dòng nữ Thừa sai thánh Carlo Borromeo, sinh năm 1839 và qua đời năm 1905. Và ngài cũng quyết định triệu tập Công nghị Hồng y về việc phong hiển thánh cho chân phước Artemide Zatti, trợ sĩ Dòng Don Bosco ở Argentina.
Đối với chân phước Scalabrini, đây là một thể thức phong thánh tương đương mà không cần một phép được chứng thực. Đức Thánh cha Phanxicô quyết định như vài lần trước đây và như các vị tiền nhiệm đã làm trong một số trường hợp đặc biệt.
Thánh Scalabrini là tông đồ những người di dân và hai dòng nam nữ do ngài thành lập đều nhắm phục vụ và làm tông đồ cho người di dân. Ngài vốn là một linh mục nhiệt thành, được chân phước Giáo hoàng Piô IX bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận Piacenza năm 1876, lúc mới 37 tuổi. Năm 1887, ngài thành lập Dòng Thừa sai thánh Carlo Borromeo để săn sóc những người Ý di cư ra nước ngoài. Năm 1895, ngài thành lập dòng nữ của dòng này. Năm 1901, ngài đích thân lấy tàu từ cảng Genova để sang Mỹ viếng thăm mục vụ cho những người Ý di cư tại đây, và để gây ý thức trong dư luận tại Mỹ về chính nghĩa của những người Ý di cư. Ngài qua đời năm 1905 tại Piacenza và được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước năm 1997.
Với sự chấp thuận của Đức Thánh cha đối với việc bỏ phiếu của Hội đồng các hồng y và giám mục thành viên của Bộ Phong thánh, chân phước Scalabrini đã được ghi vào sổ bộ các thánh của Giáo hội và chỉ còn cử hành lễ tạ ơn.
Còn chân Phước Artemide Zatti, trợ sĩ Dòng Don Bosco, sẽ là tu huynh đầu tiên của dòng được phong thánh.
Thầy Zatti sinh tại Bắc Ý, cùng với gia đình di cư sang Argentina năm 1897, khi được 17 tuổi. Sau đó gia nhập dòng này trong bậc tu huynh. Thầy phục vụ trong bệnh xá và bệnh viện của dòng với tất cả lòng bác ái và tinh thần phục vụ đối với các bệnh nhân và những người nghèo tại thành phố Viedma, cho đến khi qua đời năm 1951, thọ 71 tuổi. Thầy được phong chân phước ngày 14 tháng Tư năm 2002.
Ngày 09 tháng Tư năm 2022, với sự chấp thuận của Đức Thánh cha, Bộ Phong thánh đã công bố sắc lệnh nhìn nhận một phép lạ nhờ sự chuyển cầu của chân Phước Artemide Zatti.
Người được phép lạ là một đàn ông người Philippines ở Tanauan, Batangas, cách Manila gần 100 cây số, bị đột quỵ trầm trọng vì thiếu máu cục bộ (ischaemia) ở não bộ.
Ngày 11 tháng Tám năm 2016, đương sự bị chóng mặt, ói mửa, khó bước đi. Được chở tới khu cấp cứu của bệnh viện “Daniel Mercado Medical Center”, ở thành phố Tanunan trong hoàn cảnh rất nặng. Bác sĩ khám thấy ông bị đứt mạch máu ở não thùy bên phải, gây vết thương đầy máu. Ngày 13 tháng Tám, bệnh trạng nặng thêm. Được chở vào khu điều trị khẩn trương, các bác sĩ khuyên mổ, nhưng gia đình từ khước vì không có phương tiện tài chánh để trang trải. Ngày 21 tháng Tám, họ đưa bệnh nhân về nhà, bất chấp ý kiến của các bác sĩ, vì họ muốn bệnh nhân qua những giờ cuối cùng trong gia đình. Ngày 22 tháng Tám, bệnh nhân được xức dầu và thân nhân chờ đợi sự ra đi của ông.
Sáng ngày 24 tháng Tám sau đó, ông đột nhiên rút ống thông mũi - dạ dày cung cấp dưỡng chất và ống oxy, đồng thời muốn ăn uống, và trong những ngày sau đó, ông tiếp tục sống bình thường. Chính em ruột của ông là một trợ sĩ Dòng Don Bosco ở Roma, cùng ngày ông bị đưa vào nhà thương, đã bắt đầu cầu nguyện xin chân phước tu huynh Artemide Zatti cứu giúp anh mình.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Giáo hội Ukraine thân Nga tự lập để tách khỏi Mátxcơva
Trưởng giáo chủ Onufrio, thuộc Giáo hội thân Nga đặc trưng bởi “quyền tự trị rộng rãi” đối với Mátxcơva.
settimananews.it, Lorenzo Prix, 2022-05-11
Giáo hội chính thống Nga vẫn được xem là Giáo hội lớn nhất nước. Với 12.000 giáo xứ, 52 giáo phận và cả trăm giám mục, Giáo hội này vượt qua Giáo hội tự lập (7.000 giáo xứ, 50 giám mục) và có phần lớn giáo dân chính thống giáo (60-70% trong số 41 triệu dân). Nhất quán hơn so với Giáo hội công giáo theo nghi thức byzantin (4 triệu) và nghi thức la-tinh (1 triệu).
Chưa kể đến một số cộng đồng nhỏ: Giáo hội công giáo Ruthenian, Giáo hội Filarete, các cộng đồng Tin lành, v.v. Sử gia nhà báo J-A. Derens cho biết: “Nhưng chiến tranh có thể đẩy nhanh quá trình tái cấu hình triệt để: nhiều linh mục và tín hữu Ukraine thân Nga cảm thấy bị Mátxcơva phản bội, một số giáo phận đã xin chuyển qua Giáo hội tự lập. Có thể thấy trước, khi chiến tranh kết thúc, Trưởng giáo chủ Onufrio sẽ triệu tập một hội đồng thống nhất chính thống giáo, cắt đứt quan hệ với Mátxcơva.”
Tự lập để tách khỏi Mátxcơva?
Điều kiện trước chiến tranh của Giáo hội Onufrio thân Nga đặc trưng bởi “quyền tự trị rộng rãi” đối với Mátxcơva.
Thực tế Giáo hội chính thống Nga có ba mức độ tự trị: quyền tự trị hoàn toàn như trường hợp chính thống giáo Nhật bản, quyền tự trị rộng rãi như trong trường hợp Ukraine, và chế độ ít tự trị hơn như trường hợp Moldova hoặc Latvia.
Giáo hội Ukraine bầu giáo chủ và thượng hội đồng của họ, thành lập các giáo phận và tự quyết định các quy tắc hoạt động. Các giám mục của họ có nhiệm vụ tham gia vào Hội đồng Giám mục Mátxcơva.
Giáo hội Ukraine buộc phải bày tỏ thái độ của họ về hành động xâm lược quân sự của Nga trong hội đồng giám mục tiếp theo ở Mátxcơva (dự kiến vào tháng 11 năm ngoái và sau đó bị hoãn lại cho đến mùa thu năm 2022). Cả giáo chủ Onufrio và hàng chục giám mục đều bày tỏ thái độ rõ ràng về việc này.
Cho đến nay, Giáo hội Nga vẫn chưa tách giáo chủ Onufrio và những người theo ông. Giáo hội Nga đóng vai trò là người lên tiếng tố cáo các hành vi quấy nhiễu hành chính hoặc cảnh sát đối với các cộng đồng thân Nga ở Ukraine.
Mỗi ngày các thông tin của tòa thượng phụ Mátxcơva giáng lên các giáo hội bị bách hại, các đe dọa chống các giáo chủ, các vụ xâm phạm tài sản và con người: từ Konotop đến Ivano-Frankivsk, từ Yasinya và Lviv, từ Dubensky đến Buchansky, từ Ovruch đến Rukshin. Họ phóng đại các quyết định của thượng hội đồng, xem các quyết định của cơ quan hành chính địa phương liên quan đến tài sản giáo hội là bất hợp pháp.
Nhất là họ tố cáo hai đạo luật đã chuẩn bị tại Quốc hội để trừng phạt Giáo hội thân Nga; Việc thay đổi tên đòi hỏi phải đăng ký lại phức tạp cho người dân, cho sự việc và cho các cộng đồng trong sổ đăng ký quốc gia, nhưng trên hết là chuyển từ tuần phục Giáo hội Nga sang Giáo hội tự lập, vốn đã bị chỉ trích gay gắt.
Cô lập có thể đoán trước
Các vụ đánh bom, thảm sát, phá hủy và cướp bóc của quân đội Nga đã làm cho phong trào chống Nga bùng nổ trong cộng đồng: trong những lời cầu nguyện không còn đọc tên Kyrill, yêu cầu cắt đứt mọi quan hệ với Mátxcơva ngày càng lớn, các mối quan hệ uy tín bị phá vỡ. Trong ba năm gần đây, có hơn 700 giáo xứ đã chuyển từ giáo hội này qua giáo hội khác.
Về phía Mátxcơva, đã có những dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự tách rời khỏi Giáo hội của Onufrio. Sự im lặng hoàn toàn của tòa thượng phụ Mátxcơva trước lời kêu gọi đau thương của giáo chủ Onufrio xin tạo điều kiện thuận lợi cho việc sơ tán người dân ở Mariupol đã làm mọi người ngạc nhiên.
Và khi có sự dàn xếp của Liên Hiệp Quốc, các tổ chức phi chính phủ và của thượng phụ Kyrill để giải phóng những thường dân cuối cùng khỏi nhà máy Azovstal, Mátxcơva giao cho Trưởng giáo chủ Mitrofan của Gorlovski, bỏ qua giáo chủ Onufrio.
Theo ông Peter Anderson, sự lựa chọn này có thể báo trước mong muốn của Mátxcơva trong việc yêu cầu quyền tài phán trực tiếp với Crimea, Donetsk và Luhansk. Một tín hiệu cho sự quản lý trực tiếp hơn các vùng lãnh thổ trong bối cảnh ngày càng bị cô lập.
Giáo hội Nga liên minh với Giáo hội Serbia và Bulgaria còn các giáo hội khác thì bị bỏ.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Hơn 200 giáo xứ Ukraina đã rời khỏi tòa thượng phụ Matxcova
Tu viện Thánh Michael ở Kyiv, trụ sở của Giáo hội chính thống độc lập Autocephalous của Ukraine | © Rbrechko-Eigenes Werk / CC BY-SA 4.0 / Wikipedia
cath.ch, Ban biên tập, 2022-05-18
Cuộc xâm lược Ukraine của quân đội Nga đã dẫn đến con đường vòng biên bên trong Giáo hội chính thống Ukraine. Đã có 239 giáo xứ chính thống Ukraine ly khai với tòa thượng phụ Mátxcơva để gia nhập Giáo hội chính thống độc lập.
Chỉ riêng trong ngày 16 tháng 5, 21 giáo xứ từng trung thành với Mátxcơva đã gia nhập vào Giáo hội chính thống Ukraine. Giáo hội công giáo hy lạp-Ukraine RISU đã loan trong bản tin của họ ngày thứ hai 16 tháng 5. Các giáo xứ gần như đều ở miền tây Ukraine.
Bản tin cho biết tiếp, trong ba tháng qua, tòa thượng phụ Mátxcơva chưa bao giờ mất nhiều giáo xứ như vậy trong một ngày. Theo thống kê của RISU, tổng cộng kể từ cuộc tấn công của Nga ngày 24 tháng 2 đã có 239 giáo xứ rời khỏi Giáo hội chính thống Ukraine thuộc tòa thượng phụ Mátxcơva.
Theo luật pháp Ukraine, các thành viên của một giáo xứ có thể quyết định theo đa số 2/3 về việc dời cộng đồng qua một giáo hội khác. Tuy nhiên hai Giáo hội chính thống giáo từ lâu đã buộc tội nhau dùng các phương tiện bất chính trong các vụ tranh chấp giữa các giáo xứ.
Những tuyên bố của thượng phụ Mátxcơva Kyrill về cuộc xâm lược Ukraine phù hợp với người đứng đầu Điện Kremlin Vladimir Putin, trong nhiều tuần đã dấy lên sự phẫn nộ lớn ở Ukraine. Thượng phụ Kyrill biện minh cho cuộc can thiệp quân sự là “cuộc chiến siêu hình” giữa thiện và ác ở phương Tây.
Hơn một nửa tín hữu kitô theo chính thống giáo
Khoảng 60% trong số 41 triệu người Ukraine theo chính thống giáo, nhưng họ thuộc về hai Giáo hội khác nhau: Giáo hội chính thống Ukraina của tòa thượng phụ Mátxcơva và Giáo hội chính thống Ukraina độc lập (autocephalous), được thành lập vào cuối năm 2018. Giáo hội trung thành với Mátxcơva rõ ràng có nhiều giáo xứ ở Ukraina hơn bất kỳ giáo hội nào. Tuy nhiên, trong các cuộc thăm dò, đa số người dân tuyên bố họ ủng hộ Giáo hội chính thống độc lập mới.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn