Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Hồng y Ngô Thành Tài hy vọng nơi cuộc viếng thăm sắp tới của Đức Thánh cha tại Singapore
Đức Hồng y William Ngô Thành Tài (Goh Seng Chye), Tổng giám mục Singapore, hy vọng cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha Phanxicô vào tháng Chín năm nay, sẽ giúp mang lại một niềm hăng say mới cho Giáo hội tại địa phương.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Thánh cha Phanxicô sẽ đến thăm tiểu quốc này, từ ngày 11 đến ngày 13 tháng Chín, sau khi đã viếng thăm Indonesia, Papua New Guinea và Đông Timor, từ ngày 03 tháng Chín.
Trong thông cáo sau khi có tin về cuộc viếng thăm, Đức Hồng y khuyến khích các tín hữu Công giáo tại Singapore hiệp nhất “cầu nguyện cho Đức Thánh cha được sức khỏe dồi dào và an mạnh, đồng thời cầu xin cho chúng ta có được chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha mang đầy ý nghĩa và ân phúc”.
Cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha Phanxicô diễn ra mười năm, sau khi Đức Hồng y Ngô Thành Tài công bố kế hoạch mục vụ mười năm cho Giáo hội địa phương.
Trong một cuộc gặp gỡ hồi năm 2014, với khoảng 750 đại diện của các cộng đoàn giáo xứ ở Singapore, Đức Hồng y nhận xét rằng: “Mặc dù Giáo hội tại đây, với nhiều thánh lễ, rửa tội và thêm sức, có vẻ là sinh động, nhưng vẫn còn đứng trước thách đố, trong đó có tình trạng việc sống đạo của các tín hữu giảm sút. Một nửa số tín hữu đi nhà thờ tại đây là những người nhập cư, di dân”.
Để giúp các tín hữu tại Singapore chuẩn bị tinh thần cho cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, qua cuộc viếng thăm của Đức Giáo hoàng Phanxicô, Tổng giáo phận tại đây mới mở một trang mạng với những kinh nguyện, các tài liệu và các thông tin khác về chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha, vào tháng
Chín tới đây. Trang mạng cũng trình bày ba chủ đề, là “Hiệp nhất, hy vọng và thánh giá”, do Đức Hồng y chọn cho cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha tại đây.
Sau cùng, Đức Hồng y Ngô thành Tài hy vọng chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha mang lại một sự đổi mới và củng cố đức tin, hoán cải tâm hồn và gia tăng tinh thần truyền giáo cho các cộng đoàn Công giáo ở Singapore.
Hiện nay, Tổng giáo phận Singapore có 395.000 tín hữu Công giáo, với các nền văn hóa và chủng tộc khác nhau. Phần lớn các thánh lễ bằng tiếng Anh, nhưng cũng có tiếng quan thoại, Tamil và các ngôn nữ khác ở miền Đông nam Á và Âu châu cho các cộng đoàn tín hữu nhập cư.
(KNA 18-4-2024)
Một Coca cho Đức Gioan-Phaolô II, một Fanta cho Đức Bênêđíctô XVI
Đức Gioan-Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI, cả hai giáo hoàng đều thích uống sôđa.
fr.aleteia.org, Cyprien Viet, 2024-04-14
Các giáo hoàng thích uống gì để thư giãn? Chúng ta thường thấy Đức Phanxicô uống trà maté quê hương Argentina của ngài, còn Đức Gioan-Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI lại có những sở thích khác nhau: Đức Gioan-Phaolô II rất thích Coca-Cola, ngài uống rất nhiều, còn Đức Bênêđíctô XVI thì thích Fanta và bia.
Câu nói nổi tiếng “chúng ta cần những thánh mặc quần jean và uống Coca-Cola”, đôi khi mạng xã hội gán cho Đức Phanxicô hoặc Đức Gioan-Phaolô II, nhưng sai. Chắc chắn Đức Gioan-Phaolô II không mặc quần jean, nhưng lại là vị thánh đầu tiên uống thức uống có ga này.
Ngài gắn bó với cộng đồng Ba Lan ở Hoa Kỳ, khi còn là hồng y ngài đã đến thăm nhiều lần, giáo hoàng tương lai là fan của Coca-Cola, thức uống rõ ràng khó tìm ở nước Ba Lan cộng sản. Các nhà viết tiểu sử của ngài thường kể, trong giờ giải lao trong những lần họp Công đồng Vatican II, giám mục trẻ của giáo phận Krakow thường đến quầy giải khát để uống Coca. Sở thích này tiếp tục trong suốt triều của ngài. Những người đi cùng máy bay với ngài nhớ một kỹ thuật viên Alberto kín đáo của Đài phát thanh Vatican luôn mang theo vài lon Coca trong chuyến đi.
Coca-Cola, biểu tượng chiến thắng chủ nghĩa cộng sản
Có thể Đức Gioan-Phaolô II bắt đầu làm quen với thức uống có ga nổi tiếng này trong Ngày Thế Giới Trẻ tổ chức tại Denver năm 1993. Hoa Kỳ khi đó là nước chủ nhà của cuộc họp mặt quốc tế này, có kinh nghiệm hậu cần trước khi tổ chức Cup bóng đá năm sau, rồi Thế vận hội Olympic ba năm sau, tạo cơ hội phát triển cơ sở hạ tầng, và Brazil sẽ thực hiện ‘bộ ba’ tương tự như thế 20 năm sau.
Chưa đầy bốn năm sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, Ngày Thế Giới Trẻ Denver mang hình thức của một kỷ niệm chiến thắng của chủ nghĩa tư bản và các biểu tượng của nó. Nhãn hiệu Coca-Cola, màu trắng trên nền đỏ, tên công ty thuốc lá Marlboro, màu đỏ trên nền trắng nổi bật trên khán đài. Việc dựng các thương hiệu trong buổi tập họp tôn giáo bị nhà viết tiểu luận người Canada Naomi Klein chỉ trích mạnh trong quyển sách No Logo của bà, một trong những tác phẩm tham khảo về phong trào toàn cầu hóa.
Theo sử gia Charles Mercier trong quyển Giáo hội, giới trẻ và toàn cầu hóa – Lịch sử Đại hội Giới trẻ (L’Eglise, les jeunes et la mondialisation – Une histoire des JMJ, nxb. Bayard, 2021), ông nhắc lại sự hiện diện khắp nơi của Coca-Cola và McDonald’s vẫn là ký ức đau buồn cho “đời sống nội tâm” của những người tham dự Ngày Thế Giới Trẻ Denver. Việc cung cấp nước ngọt và bia tại địa điểm tập trung ngày cuối, thay vì cung cấp nước đã làm hàng ngàn khách hành hương bị mất nước và bị ngộ độc thực phẩm. Sự quá mức của các nhà tài trợ đã làm cho nước tổ chức các Ngày Thế Giới Trẻ tiếp theo, đặc biệt là ở Paris năm 1997, ủng hộ hình thức bảo trợ kín đáo hơn và cung cấp cho người tham dự một chế độ ăn uống cân bằng hơn.
Đức Bênêđíctô XVI thích Fanta trộn với bia
Chủ một nhà hàng ở Borgo, gần Vatican cho biết hồng y Ratzinger thích uống Fanta. Báo chí Anh tính ra, nếu Đức Bênêđíctô XVI uống 4 lon Fanta mỗi ngày, thì một năm ngài uống… 1.460 lon! Nếu suy diễn này có vẻ quá đáng, nhưng sở thích này của ngài được tổng giám mục Georg Gänswein, thư ký riêng của ngài xác nhận trong quyển hồi ký gây tiếng vang “Không có gì ngoài Sự thật”, ông nói ngài thích uống Fanta, có khi ngài trộn với bia… Sự pha trộn kỳ lạ này khá thành công với giáo hoàng sống lâu nhất lịch sử, và ngài chưa bao giờ gặp vấn đề tiêu hóa.
Đức Bênêđíctô XVI nhớ lại kỷ niệm của ngài về Công đồng Vatican II và những giây phút rảnh rỗi ngài đi “uống bia” với các thần học gia đồng nghiệp ở khu phố Trastevere Rôma. Bầu khí những cuộc gặp này dịu dàng và tinh tế hơn bầu khí của “hiệp ba” sau trận bóng bầu dục, nhưng ký ức này mang sắc thái hình ảnh về sự khắc khổ thường gắn liền với ngài.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Các Giám mục Quebec mời gọi các Kitô hữu đáp lại tiếng kêu của người nghèo
Vatican News
Trong một tuyên bố cho ngày Quốc tế lao động 1/5 sắp tới, các Giám mục lưu ý, trong năm 2023, 10% dân số Quebec đã sử dụng mạng lưới ngân hàng thực phẩm Quebec, tăng 30% so với năm 2022, và tăng 73% so với năm 2019. Các vị mục tử cũng lưu ý rằng cuộc khủng hoảng lương thực đang diễn ra làm tăng thêm những đau khổ mà những người đang phải đối diện với khủng hoảng nơi ở và lạm phát phải trải qua. Các Giám mục hỏi: “Chúng ta có nhận thấy sự đau khổ này xung quanh chúng ta không? Chúng ta có nhạy cảm với điều này không?”
Các Giám mục tiếp tục, nhắc lại lời kêu gọi “chống lại tình trạng mất an ninh lương thực bằng cách tôn trọng phẩm giá của những người đang cần thực phẩm tốt với giá cả phải chăng”.
Các Giám mục viết: “Đối diện với cuộc khủng hoảng lương thực hiện nay, các cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta, vốn thường dấn thân giúp đỡ những người dễ bị tổn thương, phải đáp lại tiếng kêu của những người đói khát… bởi vì, khi làm như vậy, chúng ta sẽ hành động vì công bình, như Chúa Giêsu Kitô đã dạy chúng ta, tiếp nối truyền thống tốt đẹp của Kinh Thánh về dấn thân vì công bình”.
Nhằm đảm bảo mọi người đều có đủ thức ăn, hoặc ít nhất làm việc hướng tới mục tiêu đó, các Giám mục mời gọi các Kitô hữu dự trữ các nguồn tài nguyên sẵn có, và sau đó tổ chức “tái phân phối các nguồn này một cách công bằng, nghĩa là chia sẻ được truyền cảm hứng và hướng dẫn bởi tình yêu và lòng thương xót Chúa, Đấng đã ban những điều tốt lành cho tất cả mọi người, và chúng ta mang những gì ít ỏi chúng ta có đến cho Người”.
Các Giám mục kết luận bằng cách nhấn mạnh rằng khi làm việc cùng với các thành viên khác của xã hội, và “nhân danh đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ duy trì niềm hy vọng về một xã hội công bằng”.
Thành phố Roma sẵn sàng chào đón 50 triệu người trong Năm Thánh 2025
Vatican News
Ông Mariano Angelucci nói các sự kiện lớn của Năm Thánh sẽ tập trung vào 5 địa điểm, ba địa điểm ở trung tâm thành phố: quảng trường Thánh Phêrô, Đền thờ Thánh Gioan Latêranô, đấu trường Massimo; và hai địa điểm ngoài Roma: công viên Centocelle và Tor Vergata.
Về tình hình giao thông, người chịu trách nhiệm về du lịch và các sự kiện lớn giải thích: “Chúng tôi có một kế hoạch làm việc và đón tiếp hoàn chỉnh để đảm bảo mọi thứ diễn ra tốt đẹp. Chúng tôi đang làm mới các tuyến tàu điện ngầm và các nhà ga”.
Roma hiện chỉ có hai tuyến tàu điện ngầm A và B giao nhau tại ga trung tâm Termini, tuyến thứ ba, tuyến C vẫn đang được thực hiện và chưa có điểm dừng trung tâm. Theo ông Angelucci, ga tàu điện ngầm Colosseo, đặc biệt quan trọng đối với khách du lịch, sẽ mở cửa vào giữa năm 2025. Ngoài ra, thành phố đã mua 500 xe buýt và thiết lập 4 tuyến xe điện mới. Nói chung, khi lên kế hoạch cho các cơ sở hạ tầng, Roma tập trung vào tính bền vững. Ông nói: “Chúng tôi quyết định tiếp cận dự án Năm Thánh như sau: với năm đến sáu dự án lớn, nhưng trên hết là có nhiều can thiệp nhỏ trong thành phố để cải thiện chất lượng cuộc sống trong tương lai. Chúng tôi cải tạo đường phố, vỉa hè, công viên, khu đô thị và đường trường học. Chúng tôi muốn có một thành phố tốt đẹp hơn cho người dân Roma sau Năm Thánh. Các dự án sẽ được hoàn thành theo đúng kế hoạch”.
Về rác thải, ông Angelucci nói, trong Năm Thánh, Roma cũng muốn trở nên sạch sẽ hơn. Thực tế, người dân Roma và du khách đều biết, ngoài ùn tắc giao thông, việc thu gom rác là một thách đố đối với thành phố này. Sau hai năm nhậm chức, đô trưởng Roberto Gualtieri đã cố gắng giải quyết vấn đề này. Roma sẽ sớm có nhà máy xử lý chất thải lớn đầu tiên, giúp tiết kiệm 150 triệu euro chi phí xuất khẩu chất thải mỗi năm. Ông giải thích: “Chúng tôi tuyển thêm nhân viên và đã mua máy móc để làm sạch và thu gom rác thải. Điều này sẽ cho phép chúng tôi, trong những tháng tới, cải thiện đáng kể sự sạch sẽ của thành phố và chào đón tốt hơn khách hành hương và du lịch đến Roma”.
Người phụ trách về du lịch của Roma tin rằng với 3,3 tỷ euro, khách đến Roma sẽ thấy được một thành phố sạch sẽ và tiện dụng, người Roma phải nhận được những lợi ích lâu dài từ Năm Thánh để cải thiện cuộc sống hàng ngày vốn khó khăn ở đô thị. Và đó cũng là vấn đề trở nên nhất quán “với sứ điệp hy vọng và tình huynh đệ phổ quát” mà Năm Thánh muốn truyền tải.
Giám mục bị đâm dao sẵn sàng tha thứ cho kẻ tấn công
Hồng Thủy - Vatican News
Vụ tấn công Đức Giám mục Emmanuel của Giáo hội Assyria xảy ra đang lúc ngài chủ sự buổi lễ và tình cờ được phát trực tiếp trên kênh YouTube của ngài. Cảnh sát Australia gọi đây là một vụ tấn công khủng bố và đã bắt giữ nghi phạm nhưng chưa tiết lộ danh tính do luật bảo vệ tội phạm vị thành niên.
Cha Isaac Royel và các thành viên khác trong nhà thờ cũng bị thương trong vụ tấn công nhằm bảo vệ Đức Giám mục.
Tha thứ
Từ giường bệnh, Đức Giám mục Emmanuel ngỏ lời với kẻ tấn công: “Đối với chàng trai trẻ này, cha nói với con rằng, con là con của cha và con sẽ luôn ở trong những lời cầu nguyện của cha. Xin Chúa Giêsu tha thứ cho con, xin Chúa Giêsu ban phúc lành cho con và chỉ đường cho con, con yêu dấu của ta”.
Đức Giám mục nói thêm: “Tôi tha thứ cho bất cứ ai đã thực hiện hành động này và tôi nói với cậu ấy rằng con là con của cha, cha yêu thương con và cha sẽ luôn cầu nguyện cho con. Và bất cứ ai cử con đến làm việc này, cha cũng tha thứ cho họ”. Ngài nhấn mạnh rằng trong lòng ngài “không có gì ngoài tình yêu thương dành cho mọi người”, đồng thời lưu ý rằng Chúa Giêsu đã dạy rằng các Kitô hữu nên yêu thương những người lân cận như chính mình.
Lấy thiện báo ác; không gây chiến nhưng cầu nguyện
Sau vụ tấn công, những người biểu tình bắt đầu gây bạo loạn bên ngoài nhà thờ, gây nên một số thiệt hại về tài sản và trở ngại cho việc phong toả của lực lượng ứng cứu khẩn cấp. Cha Daniel Kochou nhận định rằng “Những sự việc đáng tiếc xảy ra bên ngoài nhà thờ đã gây ra sự chậm trễ và đe dọa không cần thiết cho cả nạn nhân, nhân viên y tế và cảnh sát”, đồng thời lưu ý rằng Giáo hội không chấp nhận các hành động dẫn đến thiệt hại tài sản, thương tích và sự chậm trễ trong việc hỗ trợ chống lại bạo loạn.
Đức Giám mục Emmanuel mời gọi các tín hữu hành động như Chúa Kitô: “Chúa Giêsu không bao giờ dạy chúng ta gây chiến. Chúa Giêsu không bao giờ dạy chúng ta trả thù. Chúa Giêsu không bao giờ nói với chúng ta ‘mắt đền mắt, răng đền răng’. Chúa Giêsu đã nói: ‘Đừng bao giờ lấy ác báo ác, nhưng lấy điều thiện đáp lại sự ác’”.
Trong khi kêu gọi các công dân bình tĩnh và tuân thủ luật pháp, Đức Giám mục nhắc các tín hữu chiếu tỏ Chúa Kitô trong cuộc sống; đừng chiến đấu trên đường phố nhưng hãy cầu nguyện. (CNA 18/04/2024)
ĐTC Phanxicô gặp gỡ 6.000 học sinh và giáo viên của 137 Trường Hòa bình ở Ý
Hồng Thủy - Vatican News
Sáng thứ Sáu ngày 19/4/2024, 6.000 học sinh và giáo viên của 137 Trường Hòa bình, đến từ 94 thành phố của 18 miền của Ý đã quy tụ tại đại thính đường Phaolô VI ở nội thành Vatican để yết kiến Đức Thánh Cha. Sự kiện có chủ đề “Chúng ta biến đổi tương lai. Hướng đến hòa bình bằng sự quan tâm”, nhắm đào tạo một thế hệ những người kiến tạo hòa bình.
Những nhân vật chính của tương lai
Từ chủ đề của sự kiện, Đức Thánh Cha nhắn nhủ các học sinh sinh viên rằng “các con được mời gọi trở thành những nhân vật chính chứ không phải là các khán giả của tương lai”. Ngài giải thích: “Tất cả chúng ta đều được thách thức xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn và trên hết là chúng ta phải cùng nhau xây dựng nó! Chúng ta không thể chỉ giao phó mối quan tâm về ‘thế giới sắp tới’ và việc giải quyết các vấn đề của nó cho các tổ chức được chỉ định và cho những người có trách nhiệm chính trị và xã hội”. Ngài nói rằng những thách đố này đòi mỗi người chúng ta tham gia cách tích cực và có sự dấn thân của cá nhân; cần liên kết với nhau, hợp lực và hợp ý làm việc với nhau. Không phải là “tôi làm việc cho lợi ích của tôi”, nhưng “chúng ta làm việc vì thiện ích chung, vì lợi ích của tất cả”.
Giấc mơ tập thể
Tiếp đến, Đức Thánh Cha nhắc rằng những thách đố đe dọa tương lai của tất cả chúng ta, đòi hỏi cộng đồng có sự can đảm và sáng tạo của một giấc mơ tập thể thúc đẩy một cam kết liên tục cùng nhau đối mặt với các cuộc khủng hoảng môi trường, kinh tế, chính trị và xã hội mà hành tinh chúng ta đang trải qua. Giấc mơ này đòi chúng ta tỉnh thức, không mê ngủ, bước đi trên đường, không nằm dài trên giường, sử dụng tốt phương tiện thông tin nhưng không mất thời giờ trên các mạng xã hội. Ngài đặc biệt nhấn mạnh rằng “loại giấc mơ này được thực hiện bằng cách cầu nguyện, nghĩa là cùng với Chúa, không chỉ bằng sức riêng của chúng ta”.
Hòa bình không chỉ là sự im tiếng vũ khí
Cuối cùng, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng hòa bình và sự quan tâm là hai thực tại liên kết với nhau: “hòa bình không chỉ là sự im lặng của vũ khí và không có chiến tranh; đó là một bầu khí nhân từ, tin tưởng và yêu thương có thể trưởng thành trong một xã hội được xây dựng trên các mối quan hệ quan tâm, trong đó chủ nghĩa cá nhân, sự xao lãng và thờ ơ nhường chỗ cho khả năng chú ý đến người khác, lắng nghe họ trong những nhu cầu cơ bản của họ, chữa lành những vết thương của họ, trở thành khí cụ của lòng trắc ẩn và chữa lành cho họ”. Ngài nhận định: “Đây là sự quan tâm mà Chúa Giêsu dành cho nhân loại, đặc biệt là những người mong manh nhất, và là điều mà Tin Mừng thường nói với chúng ta”. (CSR_1672_2024)
Đức Thánh cha nhắc nhở các tín hữu Kitô về sự hiệp nhất
Đức Thánh cha Phanxicô chào thăm và đề cao sự hiệp nhất giữa các tín hữu Kitô, được liên kết nội tại do sứ mạng đại kết và Kitô.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Ngài bày tỏ lập trường trên đây, trong sứ điệp gửi đến các tham dự viên Diễn đàn Kitô thế giới lần thứ IV, khai diễn hôm 16 tháng Tư vừa qua, tại thủ đô nước Ghana, bên Phi châu, với sự tham dự của 240 đại biểu các Giáo hội Kitô đến từ 60 nước trên thế giới.
Diễn đàn khai diễn với buổi phụng tự do bà Mục sư Lydia Neshangwe chủ sự. Bà là Chủ tịch Hội đồng toàn Phi châu các Giáo hội Kitô và cũng là thủ lãnh Giáo hội Tin lành Trưởng lão hiệp nhất ở Nam Phi.
Trong sứ điệp chào mừng, Đức Thánh cha nhắc đến chủ đề Diễn đàn năm nay, là: “Để thế giới nhận biết” (Ga 17,23b) và nhận định rằng: “Đề tài này kêu gọi các Kitô hữu hãy thể hiện tình hiệp nhất và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi trong đời sống bản thân và Giáo hội, để có thể làm chứng cho một thế giới đang bị chia rẽ và cạnh tranh.”
Đức Thánh cha cũng nhấn mạnh rằng: “Hiệp nhất là yếu tố không thể thiếu được để có thể đón nhận viễn tượng về Nước Thiên Chúa. Như thế, có một tương quan nội tại giữa đại kết và sứ vụ Kitô. Qua dòng lịch sử, Diễn đàn Kitô thế giới đã đóng góp quan trọng việc thăng tiến tương quan đó bằng cách cung cấp không gian, trong đó các thành viên, đặc biệt là những người thuộc các cộng đoàn biểu lộ đức tin Kitô trong những thể thức lịch sử khác nhau, được tăng trưởng trong sự tôn trọng nhau và trong tình huynh đệ qua cuộc gặp gỡ nhau trong Chúa Kitô”.
Sau cùng, Đức Thánh cha cầu chúc cuộc gặp gỡ lần này, nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Diễn đàn, sẽ đào sâu đức tin và mang lại sinh lực cho tình yêu huynh đệ, trong khi cầu nguyện với nhau, trao đổi những lịch sử riêng và đương đầu với những thách đố mà cộng đoàn Kitô hoàn cầu đang gặp phải.
(Rei 18-4-2024)
Hơn 200 cha sở thế giới gặp gỡ gần Roma
Hôm 16 tháng Tư vừa qua, Văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục thông báo rằng hơn 200 cha sở từ các nơi trên thế giới sẽ tham dự cuộc gặp gỡ, từ ngày 29 tháng Tư đến ngày 02 tháng Năm năm nay, về Thượng Hội đồng Giám mục vào tháng Mười năm nay ở Roma.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Văn phòng đứng ra tổ chức cuộc gặp gỡ này với sự thỏa thuận của Bộ Giáo sĩ, Bộ Loan báo Tin mừng và Bộ các Giáo hội Công giáo Đông phương.
Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Fraterna Domus, Nhà Huynh đệ, ở Sacrofano, cách Roma 25 cây số. Đây cũng là nơi đã diễn ra ba ngày tĩnh tâm của các nghị phụ và tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục thế giới kỳ thứ XVI, hồi đầu tháng Mười năm ngoái.
Chủ đề cuộc gặp gỡ sắp tới là: “Các linh mục cho Thượng Hội đồng. Một cuộc gặp gỡ quốc tế”. Mục đích là để lắng nghe và đề cao kinh nghiệm của các linh mục trong các Giáo hội địa phương và tạo dịp để cảm nghiệm năng động công việc của Thượng Hội đồng Giám mục trên bình diện hoàn vũ. Khi kết thúc cuộc gặp gỡ, các tham dự viên sẽ được Đức Thánh cha tiếp kiến tại Vatican, ngày 02 tháng Năm.
Các khía cạnh trong cuộc gặp gỡ sẽ được đưa vào tài liệu làm việc cho khóa họp tháng Mười năm nay của Thượng Hội đồng Giám mục.
Sáng kiến tổ chức cuộc gỡ các linh mục là để đáp ứng đề nghị của các tham dự viên khóa họp tháng Mười năm ngoái của Thượng Hội đồng Giám mục, trong bản tường trình đúc kết có nêu rõ sự cần thiết phải “phát triển những thể thức để có sự can dự tích cực hơn của các phó tế, linh mục và giám mục trong tiến trình Thượng Hội đồng Giám mục trong năm 2024 này. Một Giáo hội đồng hành không thể thiếu tiếng nói, kinh nghiệm cũng như những đóng góp của họ”.
(Ekai 17-4-2024)
Đại diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc kêu gọi cứu trợ Ethiopia
Đại diện Tòa Thánh cạnh các tổ chức Liên Hiệp Quốc ở Genève, Thụy Sĩ, Đức Tổng giám mục Ettore Balestrero, kêu gọi cộng đồng quốc tế trợ giúp nhân đạo cho Ethiopia đang bị khủng hoảng trầm trọng.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Tổng giám mục Balestrero đưa ra lời kêu gọi trên đây, trong cuộc họp cấp cao hôm 16 tháng Tư vừa qua, các quốc gia và tổ chức ân nhân, nhóm tại Genève. Ngài nhắc đến tình trạng hơn bốn triệu 400.000 người Ethiopia phải di tản trong nội địa và hơn một triệu người tị nạn vì chiến tranh tại miền Tigré trong hai năm, và sau đó có những xung đột tại những miền khác. Ngoài ra, có thiên tai và bệnh dịch bùng phát tại nước này, khiến cho các nước hỗ trợ khẩn cấp cho Ethiopia trong tình liên đới.
Ethiopia bị lụt năm mùa mưa liên tiếp khiến nạn thiếu lương thực đặc biệt đè nặng trên các phụ nữ và trẻ em. Ngoài ra, có những khó khăn về kinh tế, như lạm phát và những trao đổi thương mại bị gián đoạn làm cho tình thế trở nên đồi tệ hơn. Trong bối cảnh này, Đức Tổng giám mục Balestrero nhắc lại lời Đức Thánh cha Phanxicô nhấn mạnh sự cấp thiết cần tỏ tình liên đới với những tầng lớp dân chúng bị tổn thương nhất.
Giáo hội Công giáo tại Ethiopia giữ một vai trò hàng đầu trong các hoạt động cứu trợ, tuy chỉ là một thiểu số. Năm ngoái (2023), Giáo hội đã hỗ trợ gần sáu triệu người tại chín trên tổng số mười hai miền của đất nước Ethiopia, không phân biệt tôn giáo, với 80 triệu đôla. Các dự án cứu trợ tập trung vào việc trợ giúp nhân đạo và an ninh lương thực.
Đức Tổng giám mục Balestrero tái khẳng định sự dấn thân của Tòa Thánh đối với Ethiopia và nói rằng: “Hành động này không phải vì nghĩa vụ, nhưng là do ý thức sâu xa về tình nhân đạo chung, một nghĩa vụ tôn giáo và do đòi hỏi của luân lý”.
Ngài cũng nhấn mạnh rằng: “Điều thiết yếu là tất cả các tác nhân, trong cũng như ngoài nước, thực hiện một nỗ lực có phối hợp và thống nhất để lấp đầy những thiếu sót cho năm 2024”.
Với diện tích hơn một triệu 127.000 cây số vuông, Ethiopia có 121 triệu dân cư, đa số là tín hữu Chính thống, với 43%, và 19% thuộc các hệ phái Kitô khác, trong đó có Công giáo, 33% là tín hữu Hồi giáo.
(Vatican News 17-4-2024)
Cuộc tử đạo của người Công giáo ở Rwanda năm 1994
Vatican News
Trách nhiệm của Giáo hội
Trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương vào Chúa nhật 15/5/1994, Thánh Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Đây là một cuộc diệt chủng thực sự, và thật đáng tiếc người Công giáo cũng phải chịu trách nhiệm”. Và ngài cảnh báo: “Một lần nữa tôi kêu gọi lương tâm của tất cả những ai lên kế hoạch và thực hiện những cuộc thảm sát này. Họ đang đưa đất nước tới vực thẳm. Mọi người phải trả lời về tội ác của mình trước lịch sử và trên hết trước Thiên Chúa”.
Dịp Đại Năm Thánh 2000, trong khi cử hành phụng vụ, các Giám mục Rwanda đã dâng lên Chúa lời cầu xin tha thứ cho những tội lỗi mà người Công giáo đã phạm trong cuộc diệt chủng. Vào ngày 04/02/2004, mười năm sau vụ bạo lực huynh đệ tương tàn, các Giám mục Rwanda đã công bố một sứ điệp, mời gọi các tín hữu “đừng quên những gì đã xảy ra, và do đó củng cố sự thật, công lý và sự tha thứ”. Các Giám mục viết: “Chúng tôi rất đau buồn vì đã là những chứng nhân bất lực trong khi đồng bào chúng ta phải chịu những cái chết đê hèn, bị tra tấn dưới cái nhìn thờ ơ của cộng đồng quốc tế; chúng tôi cũng bị tổn thương sâu sắc trước sự tham gia của một số tín hữu vào các vụ giết người”. Các vị mục tử cám ơn Thánh Gioan Phaolô II vì sự gần gũi của ngài trong cuộc diệt chủng và tiếng kêu cứu của ngài trước cộng đồng quốc tế. Nhớ đến các vụ thảm sát, hậu quả của sự độc ác không gì sánh được, các Giám mục đã mời gọi mọi người xây dựng sự hiệp nhất của người dân Rwanda, kêu gọi sự đóng góp để bảo vệ sự thật và công lý, và cầu xin Thiên Chúa tha thứ.
Trong ngày kết thúc “Năm Thánh Lòng Thương Xót” (08/12/2015 -20/11/2016), các Giám mục cũng đã công bố một thư được đọc trong tất cả các nhà thờ, vì một “tội” mới mà mà các Kitô hữu đã phạm trong thời diệt chủng. Như Đức cha Philippe Rukamba, Giám mục Butare Chủ tịch Hội đồng Giám mục Rwanda giải thích: “Tại Rwanda, chúng ta không thể nói về lòng thương xót nếu không nói về nạn diệt chủng”. Thư nhắc lại việc lên án tội ác diệt chủng chống lại người Tutsi vào năm 1994 cũng như mọi hành động và hệ tư tưởng liên quan đến phân biệt đối xử trên cơ sở sắc tộc. Trong chuyến thăm của tổng thống Rwanda Paul Kagame với Đức Thánh Cha Phanxicô tại Vatican, vào ngày 20/3/2017, chuyến thăm đầu tiên sau cuộc diệt chủng, Đức Thánh Cha “đã bày tỏ đau buồn sâu sắc của Tòa Thánh và của Giáo hội đối với nạn diệt chủng chống người Tutsi, một lần nữa đã cầu xin Thiên Chúa tha thứ vì những tội lỗi và thiếu sót của Giáo hội cũng như các thành viên của Giáo hội đã chịu thua trước hận thù và bạo lực, phản bội chính sứ vụ loan báo Tin Mừng”.
Các nạn nhân là nhân viên mục vụ
Theo dữ liệu do hãng tin Fides của Bộ Loan báo Tin Mừng thu thập, trong cuộc diệt chủng này có 248 nhân viên mục vụ của Giáo hội là nạn nhân: khoảng 15 người chết do bị ngược đãi và thiếu chăm sóc y tế, và cả những người biến mất không bao giờ được nhắc lại và do đó được coi là đã bị giết. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, danh sách này chưa đầy đủ, trước hết vì chỉ đề cập đến các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân thánh hiến; trong khi số người bị giết còn có cả chủng sinh, tập sinh các dòng tu và một số đông các giáo dân, như các giáo lý viên, các thừa tác viên phụng vụ, nhân viên bác ái, thành viên của các hiệp hội, những người đóng vai trò quan trọng trong Giáo hội như các bạn trẻ. Trong nhiều trường hợp, ngay cả các giáo phận cũng không có các thông tin về những người làm việc thường xuyên trong các cộng đoàn xa xôi khó tiếp cận. Hơn nữa, vào năm 1994, các phương tiện thông tin hiện đại chưa có sẵn để cập nhật các dữ liệu.
Theo hãng tin Fides, ở Rwanda, năm 1994, số các thành viên Giáo hội bị giết gồm: 3 Giám mục, 103 linh mục, 47 tu sĩ nam, 65 nữ tu, 30 nữ giáo dân thánh hiến.
Các chứng từ
Kỷ niệm 30 năm cuộc diệt chủng ở Rwanda, hãng tin Fides trình bày một số chứng từ của thời bi thảm. Ngoài những hành động tàn bạo mà một số người Công giáo đã tham gia, những hành động anh hùng của các thành viên Giáo hội Công giáo đã được ghi nhận qua việc hy sinh mạng sống để cứu người khác.
Ba Giám mục bị giết ở Kabgayi: “Dù có chuyện gì xảy ra, chúng tôi sẽ ở lại đây”
Ngày 05/6/1994, ở Kabgayi, ba Giám mục đã bị sát hại cùng với một nhóm linh mục khi các vị đang đồng hành giúp đỡ và an ủi những người dân phải di dời, kiệt sức vì bạo lực. Đó là Đức Tổng Giám Mục Vincent Nsengiyumva của Kigali; Đức cha Thaddee Nsengiyumva, Giám mục Kabgayi, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Rwanda; và Đức cha Joseph Ruzindana, Giám mục Byumba. Trong một lá thư viết vài ngày trước khi qua đời, ngày 31/5, các vị mục tử xin Tòa Thánh và cộng đồng quốc tế tuyên bố Kabgayi là một “thành phố trung lập”: 30.000 người di tản đã tập trung ở đây, cả người Hutu và người Tutsi, những người đã tìm được nơi ẩn náu trong các cơ sở Công giáo mở ra cho tất cả mọi người, không có sự phân biệt, như toà giám mục, giáo xứ, tu viện, trường học và một bệnh viện lớn.
Các Giám mục viết trong thư kêu gọi: “Dù có chuyện gì xảy ra, chúng tôi sẽ ở lại đây, để bảo vệ người dân và những người phải di tản”. Có cơ hội trốn thoát nhưng các mục tử vẫn ở lại đó vì nghĩ rằng sự hiện diện của mình cách nào đó sẽ bảo vệ tất cả mọi người, kể cả những người tị nạn. Với sự quyết tâm này các vị đã bị giết cùng với 10 tu sĩ và nhiều người khác.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết trong sứ điệp ngày 09/6/1994 gửi người Công giáo Rwanda: “Cầu mong các Mục tử cùng với rất nhiều anh chị em khác, những người đã ngã xuống trong các cuộc xung đột, được sự bình an vĩnh cửu trong Nước Trời, một sự bình an mà họ đã bị từ chối ngay trên mảnh đất thân yêu của mình. Xin Chúa ở cùng các cộng đoàn giáo phận bị mất các Giám mục và nhiều linh mục, gia đình các nạn nhân, những người bị thương, những trẻ em bị tổn thương, những người tị nạn. Xin tất cả người dân Rwanda cũng như những người có trách nhiệm với quốc gia ngay lập tức làm mọi điều có thể để con đường hòa hợp và tái thiết đất nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng này được mở ra”.
Các nhà truyền giáo: giữa sự tàn bạo, hoa trái đức tin cũng nảy sinh
Cha Jozef Brunner, thuộc Dòng Thừa sai châu Phi, quen gọi là các Cha dòng Trắng, đã chia sẻ chứng từ của một tu sĩ cùng dòng, người đã nhiều năm điều hành trung tâm đào tạo các lãnh đạo cộng đoàn Kitô giáo ở Butare: Tai và mắt của các nhà báo không nhận thấy gì cả: đức tin đã bén rễ và sống sâu sắc bởi các Kitô hữu, từ những người đơn sơ nhất đến những người có học, bởi các quan chức, những người lính đã hy sinh mạng sống vì người khác. Cùng với mức độ tàn bạo đã gây ra, những hành động anh hùng đích thực cũng phát triển mạnh mẽ. Chắc chắn Giáo hội đã ở trong tầm ngắm của bạo lực: sứ điệp hòa bình và hiệp nhất của Giáo hội là một trở ngại đối với những kẻ cực đoan. Nếu không thì không thể giải thích tại sao 4 đến 6 ngàn người trú ẩn trong nhà thờ lại bị thảm sát mà không phải những người tập trung ở các tòa thị chính. Một số linh mục đã bị giết khi cố gắng cứu những người này. Trên truyền hình, tôi thấy tám học sinh của tôi đang tắm rửa và chăm sóc một số trẻ bị bỏ rơi: bằng cách này, các học sinh của tôi đã trở thành thầy của tôi.
Các nữ tu dòng Trắng cũng chia sẻ kinh nghiệm bằng những lời này: “Chúng tôi đã chứng kiến sự bình an của Thiên Chúa và sự đón nhận hoàn toàn thánh ý Người, được thể hiện qua những người bị dẫn đến cái chết như chiên con bị đem đi làm thịt”.
Đức tin của cô Maria Teresa: Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên Thiên đường
Cô Maria Teresa người Hutu dạy học ở Zaza. Chồng cô Emmanuel là người Tutsi, một công nhân lành nghề tại trường Zaza. Họ có 4 người con, 3 trai và một gái. Chúa nhật ngày 10/4/1994, Emmanuel cùng con trai lớn đi ẩn náu. Maria Teresa nói: “Vào tối thứ Hai, họ quay lại để nói lời tạm biệt với chúng tôi”. Thực tế, vào ngày 12/4, họ đã bị xác định danh tính và bị tàn sát. Maria Teresa biết được tin này khi cô đang ở cùng bố mẹ, nơi cô ẩn náu cùng các con sau khi ngôi nhà bị cướp phá của họ. Ngày 14/4, 4 người đàn ông đến tìm các con trai của cô để giết.
Maria Teresa cảm thấy phải chuẩn bị cho các con: “Các con, trong lúc này người ta thật xấu, họ đã làm cho cha và anh Olivier của các con phải chết. Chắc chắn họ sẽ tìm các con, nhưng đừng sợ. Các con sẽ đau khổ một chút nhưng sau đó con sẽ được đoàn tụ với cha và Olivier, vì còn có một cuộc sống khác với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, chúng ta sẽ gặp lại nhau và chúng ta sẽ rất hạnh phúc”. Cùng ngày, họ đến tìm hai trẻ và những người chứng kiến vụ việc đều chứng minh rằng các em rất dũng cảm và bình tĩnh.
Sơ Felicitas: Đã đến lúc làm chứng
Sơ Felicitas người Hutu và là nữ tu Phụ tá Tông đồ ở Gisenyi. Sơ và các nữ tu khác chào đón những người tị nạn Tutsi vào cộng đoàn. Người anh, một đại tá quân đội ở Ruhengeri, biết sơ đang gặp nguy hiểm, đã yêu cầu sơ rời đi và nhờ đó thoát khỏi cái chết. Nhưng nữ tu trả lời bằng thư rằng thà chết cùng 43 người mà sơ phải chịu trách nhiệm hơn là tự cứu mình. Sau đó sơ tiếp tục cứu hàng chục người bằng cách giúp họ vượt biên.
Vào ngày 21/4, dân quân đến tìm và đưa sơ cùng các chị em lên một chiếc xe tải, hướng đến nghĩa trang. Sơ Felicitas động viên các chị em: “Đã đến lúc làm chứng”. Trên xe tải họ hát và cầu nguyện. Tại nghĩa trang, nơi các ngôi mộ tập thể đã sẵn sàng, những người dân quân lo sợ cơn thịnh nộ của đại tá đã cho sơ Felicitas cơ hội, ngay sau khi đã giết tất cả 30 nữ tu Phụ tá Tông đồ, nhưng sơ trả lời: “Tôi không còn lý do gì để sống nữa sau khi các ông giết chị em tôi”. Sơ Felicitas trở thành nạn nhân thứ 31.
Cử hành Thánh lễ mở tay ngay tại nơi gia đình bị sát hại
Cha Gakirage đã cử hành Thánh lễ mở tay tại chính nơi mà các anh em của ngài đã bị giết. Dưới đây là câu chuyện cha kể về cuộc đời và những khoảnh khắc trước khi được thụ phong linh mục:
Tôi sinh ra ở Musha, gần Kigali, thủ đô của Rwanda, vào ngày 14/11/1960, trong một gia đình đông con và thực hành đạo thường xuyên thuộc bộ lạc Tutsi. Ngay khi còn nhỏ, tôi đã luôn cảm thấy có một sự lôi cuốn đối với đời sống dâng hiến và truyền giáo. Khi còn ở tiểu chủng viện, thử thách đầu tiên đã đến với tôi: cuộc xung đột nổ ra giữa người Hutu và người Tutsi, và nhiều bạn cùng chí hướng đã bị giết. Tôi không cảm thấy yên lòng trong chủng viện vì trong khi người ta giết nhau bên ngoài, tôi có cảm tưởng các linh mục chưa tố cáo đủ những điều xấu này. Tôi đặt câu hỏi về ơn gọi linh mục và rời chủng viện, và đến Uganda để học các môn khác. Khi chuẩn bị vào chuyên ngành Y, tôi cảm nhận sâu sắc tiếng gọi của Chúa Giêsu. Tôi vào dòng Comboni và năm 1990, xong tập viện, tôi sang Peru học thần học. Bốn năm sau tôi trở về quê hương để chuẩn bị thụ phong linh mục. Lẽ ra lễ chịu chức diễn ra ở quê hương, nhưng khi đi qua Roma, tôi được biết gia đình đã bị một nhóm lính Hutu sát hại. Điều này xảy ra vào đêm trước ngày tôi thụ phong và đã thay đổi mọi sự. Sau tin buồn, không thể trở lại Rwanda, tôi tiếp tục đến Uganda, và được thụ phong linh mục tại đây.
Muốn biết có người thân nào trong gia đình tôi đã được cứu hay không, ngay trong ngày thụ phong tôi đã cố gắng vượt biên và đến Rwanda. Hành trình của tôi sẽ không thể thực hiện nếu không có sự quan phòng của Chúa.Thực tế, tại biên giới tôi đã được hộ tống bởi phái đoàn của Đức Hồng Y Roger Etchegaray, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình đến thăm chính thức Rwanda thay mặt Đức Giáo Hoàng.
Ngày hôm sau, một số người lính tháp tùng tôi đến Musha. Ở trong thị trấn bị chiến tranh tàn phá và hoang tàn, mong muốn đầu tiên của tôi là được cử hành Thánh lễ mở tay giữa những đống đổ nát đó. Thật đau đớn khi nghĩ rằng nơi tôi đang đứng cũng chính là nơi mà các anh chị em cũng như 30 thanh niên Tutsi đã bị sát hại. Khi nghĩ rằng sẽ không tìm thấy bất kỳ thành viên nào trong gia đình còn sống, một nỗi buồn sâu sắc ập đến trong tôi. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là nhìn xa hơn tảng đá dùng làm bàn thờ, tôi thấy ba em bé: hai bé gái của một người chị và một bé trai của một người chị họ. Các em là những người sống sót duy nhất của một bộ tộc mà trước ngày 06/4/1994 chỉ có 300 người. Tôi vô cùng xúc động và không thể cầm được nước mắt. Tôi bình tĩnh, ngẩng đầu lên tiếp tục dâng lễ tạ ơn Chúa vì phép lạ ba trẻ đó vẫn sống sót.
Trong bài giảng đầu tiên, tôi đã nói về sự phục sinh. Đó không phải là những lời nói suông hay những lời thương xót. Tôi đã nói về sự phục sinh của chúng ta, tôi đã nói rằng chúng ta là sự phục sinh của mình. Thật sự rất khó để liên tưởng đến thực tế này giữa quá nhiều cái chết và sự hủy diệt. Nó giống như ngọn nến yếu ớt mà cơn gió bão cố gắng dập tắt.
Đức tin của cô Maria Teresa: Chúng ta sẽ gặp lại nhau trên Thiên đường
Cô Maria Teresa người Hutu dạy học ở Zaza. Chồng cô Emmanuel là người Tutsi, một công nhân lành nghề tại trường Zaza. Họ có 4 người con, 3 trai và một gái. Chúa nhật ngày 10/4 Emmanuel cùng con trai lớn đi ẩn náu. Maria Teresa nói: “Vào tối thứ Hai, họ quay lại để nói lời tạm biệt với chúng tôi” Thực tế, vào ngày 12/4, họ đã bị xác định danh tính và bị tàn sát. Maria Teresa biết được tin này khi cô đang ở cùng bố mẹ, nơi cô ẩn náu cùng các con sau khi ngôi nhà của họ bị cướp phá. Ngày 14/4, 4 người đàn ông đến tìm các con trai của cô để giết.
Maria Teresa cảm thấy phải chuẩn bị cho các con: “Các con, trong lúc này người ta thật xấu, họ đã làm cho cha và anh Olivier của các con phải chết. Chắc chắn họ sẽ tìm các con, nhưng đừng sợ. Các con sẽ đau khổ một chút nhưng sau đó con sẽ được đoàn tụ với cha và Olivier, vì còn có một cuộc sống khác với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, chúng ta sẽ gặp lại nhau và chúng ta sẽ rất hạnh phúc”. Cùng ngày, họ đến tìm hai trẻ và những người chứng kiến vụ việc đều chứng minh rằng các em rất dũng cảm và bình tĩnh.
Sơ Felicitas: Đã đến lúc làm chứng
Sơ Felicitas người Hutu và là Phụ tá Tông đồ ở Gisenyi. Sơ và các nữ tu khác chào đón những người tị nạn Tutsi vào cộng đoàn. Người anh, một đại tá quân đội ở Ruhengeri, biết sơ đang gặp nguy hiểm, đã yêu cầu sơ rời đi và nhờ đó thoát khỏi cái chết. Nhưng nữ tu trả lời bằng thư rằng thà chết cùng 43 người mà sơ phải chịu trách nhiệm hơn là tự cứu mình. Sau đó sơ tiếp tục cứu hàng chục người bằng cách giúp họ vượt biên.
Vào ngày 21/4, dân quân đến tìm và đưa sơ cùng các chị em lên một chiếc xe tải, hướng đến nghĩa trang. Sơ Felicitas động viên các chị em: “Đã đến lúc làm chứng”. Trên xe tải họ hát và cầu nguyện. Tại nghĩa trang, nơi các ngôi mộ tập thể đã sẵn sàng, những người dân quân lo sợ cơn thịnh nộ của đại tá đã cho sơ Felicitas cơ hội, ngay sau khi đã giết tất cả 30 nữ tu Phụ tá của Tông đồ, nhưng sơ trả lời: "Tôi không còn lý do gì để sống" nữa sau khi các ông giết chị em tôi". Sơ Felicitas trở thành nạn nhân thứ 31.
Các nhà truyền giáo: giữa sự tàn bạo, hoa trái đức tin cũng nảy sinh
Cha Jozef Brunner, thuộc Dòng Thừa sai châu Phi, quen gọi là các Cha dòng Trắng, đã chia sẻ chứng từ của một tu sĩ cùng dòng, người đã nhiều năm điều hành trung tâm đào tạo các lãnh đạo cộng đồng Kitô giáo ở Butare: Tai và mắt của các nhà báo không nhận thấy gì cả: đức tin đã bén rễ và sống sâu sắc bởi các Kitô hữu, từ những người đơn sơ nhất đến những người có học, bởi các quan chức, những người lính đã hy sinh mạng sống vì người khác. Cùng với mức độ tàn bạo đã gây ra, những hành động anh hùng đích thực cũng phát triển mạnh mẽ. Chắc chắn Giáo hội đã ở trong tầm ngắm của bạo lực: sứ điệp hòa bình và hiệp nhất của Giáo hội là một trở ngại đối với những kẻ cực đoan. Nếu không thì không thể giải thích tại sao 4 đến 6 ngàn người trú ẩn trong nhà thờ lại bị thảm sát mà không phải những người tập trung ở các tòa thị chính. Một số linh mục đã bị giết khi cố gắng cứu những người này. Trên truyền hình, tôi thấy tám học sinh của tôi đang tắm rửa và chăm sóc một số trẻ bị bỏ rơi: bằng cách này, các học sinh của tôi đã trở thành thầy của tôi.