Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh cha họp báo trên máy bay
Tại cuộc họp báo trên máy bay, trong hành trình từ Kazakhstan trở về Roma, chiều ngày 15 tháng Chín vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đã bênh vực quyền tự vệ, nhưng cảnh giác chống lại những âm mưu nuôi chiến tranh và buôn bán võ khí. Ngài cũng tái bênh vực tiếp đón di dân, chống việc làm cho chết êm dịu, và đặc biệt kêu gọi kiên nhẫn trong đối thoại...
Cung cấp võ khí
Đáp câu hỏi của một ký giả người Đức về vấn đề cung cấp võ khí cho Ucraina, Đức Thánh cha nói: “Đây là một quyết định chính trị, có thể là hợp luân lý, nếu được thực hiện theo nhiều điều kiện luân lý. Nhưng việc cấp võ khí này cũng có thể là vô luân, nếu người ta làm với chủ ý tạo thêm chiến tranh, để bán võ khí, hay thải những võ khí không sử dụng nữa. Chính chủ ý là điều phần lớn xác định luân lý tính của hành động giúp võ khí. Tự vệ không những là điều hợp pháp, nhưng cũng là một sự biểu lộ lòng yêu mến tổ quốc. Ai không bảo vệ, thì không yêu mến.”
Trong lãnh vực này, Đức Thánh cha tái kêu gọi suy nghĩ hơn về ý niệm cuộc chiến tranh chính đáng. “Vì ngày nay, mọi người đều nói về hòa bình: từ 70 năm nay, Liên Hiệp Quốc nói về hòa bình, với bao nhiêu diễn văn, nhưng trong lúc này có bao nhiêu chiến tranh đang xảy ra. Chiến tranh Ucraina và Nga, nay có thêm chiến tranh giữa Azerbaijan và Armenia, vì Nga không còn là nước bảo đảm cho Armenia nữa. Rồi có chiến tranh tại Syria, mười năm chiến tranh, điều gì xảy ra tại đó để người ta không chặn chiến tranh? Đâu là những lợi lộc chi phối những điều đó? Rồi có vùng Sừng bên Phi châu, miền Bắc Mozambique, hoặc ở Eritrea, một phần ở Ethiopia. Tiếp đến là Myanmar với dân tộc đau khổ mà tôi rất yêu mến, dân Rohingya đi lang thang mà không tìm được hòa bình. Chúng ta đang ở trong một thế chiến...”.
Đối thoại với Nga
Trả lời câu hỏi của một ký giả Ba Lan về vấn đề đối thoại với Nga, Đức Thánh cha nhìn nhận rằng “thật là điều vẫn luôn khó hiểu về cuộc đối thoại với những nước đã bắt đầu chiến tranh. Tuy khó khăn, nhưng chúng ta không được loại bỏ đối thoại, chúng ta phải mở cho mọi người cơ hội đối thoại! Vì luôn luôn có thể xảy ra, là trong đối thoại, ta có thể thay đổi sự việc, và trình bày một quan điểm khác. Tôi không loại trừ việc đối thoại với bất cứ cường quốc nào, dù họ là nước bị chiến tranh, hay họ là nước gây hấn”.
Tây phương sa đọa
Một ký giả người Pháp hỏi Đức Thánh cha về sự sa đọa của Tây phương, như một vài vị lãnh đạo tôn giáo đã đề cập tới trong Hội nghị tại Nur Sultan vừa qua, đặc biệt là tranh luận hiện nay về vấn đề an tử (Eutanasia), kết liễu mạng sống người bệnh. Đức Thánh cha nhìn nhận rằng “Đúng là Tây phương nói chung hiện nay không ở mức độ gương mẫu cao nhất. Tây phương đã đi vào con đường sai lầm, tôi nghĩ tới bất công xã hội giữa chúng ta. Tôi nghĩ đến Địa Trung Hải ngày nay là nghĩa trang lớn nhất không những của Âu châu nhưng của nhân loại nữa. Tây phương đã đánh mất cái gì để rồi quên đón nhận dân chúng, giữa lúc Tây phương đang cần có thêm dân, trong tình trạng mùa đông dân số hiện nay: ở Tây Ban Nha cũng như tại Ý là những nước trống rỗng dân, chỉ có những người già...
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “tại đất nước tôi, Argentina, hiện có 49 triệu dân mà chỉ có một triệu dân bản địa, tất cả những người khác đều là gốc di dân: Tây Ban Nha, Ý, Đức, người Slave, Ba Lan, Tiểu Á, Liban... máu các dân tộc khác nhau giao nhau và kinh nghiệm này giúp chúng tôi rất nhiều.”
Và Đức Thánh cha tái khẳng định Eutanasia, “giết người không phải là điều nhân đạo. Nếu bạn giết người với những lý do thì sau cùng bạn càng giết người hơn nữa. Chúng ta hãy dành việc giết cho các súc vật”.
Tự do tôn giáo và Trung Quốc
Một ký giả hỏi Đức Thánh cha về vấn đề tự do tôn giáo và vấn đề Đức Hồng y Trần Nhật Quân, nguyên giám mục Hong Kong, sắp sửa bị nhà nước tại đây thuộc Trung Quốc xét xử, ngài đáp lại rằng:
“Để hiểu Trung Quốc cần phải có một thế kỷ, nhưng chúng ta không sống một thế kỷ. Tâm thức Trung Hoa là một tâm thức phong phú và khi ta ốm đau thì có thể mất sự phong phú và có khả năng làm những điều sai lầm. Để hiểu chúng tôi đã chọn con đường đối thoại, cởi mở đối thoại. Có một ủy ban song phương Vatican-Trung Quốc đang hoạt động tốt, từ từ, vì nhịp độ từ phía Trung Quốc chậm, họ có một vĩnh cửu để tiến bước: đó là một dân tộc kiên nhẫn vô biên... Không dễ hiểu tâm thức người Hoa, nhưng cần phải luôn tôn trọng. Và tại Vatican này, có một ủy ban đối thoại tiến hành tốt, do Đức Hồng y Parolin chủ trì và trong lúc này, Đức Hồng y là người biết nhiều về Trung Quốc và vấn đề đối thoại với Trung Quốc. Về vấn đề Đức Hồng y Trần Nhật Quân sẽ ra tòa trong những ngày này, Đức Hồng y nói điều mà ngài nghe và ta thấy rằng có những giới hạn tại đó. Tôi tìm cách ủng hộ con đường đối thoại. Và trong đối thoại, người ta làm sáng tỏ bao nhiêu điều, không những về Giáo hội nhưng cả những lãnh vực khác. Ví dụ lãnh thổ Trung Quốc rộng lớn, các chính quyền tỉnh tất cả khác nhau, có những nền văn hóa khác nhau trong Trung Quốc. Nhưng không được mất kiên nhẫn, trái lại cần tiến bước.
Tình hình Nicaragua
Trả lời câu hỏi về tình hình Nicaragua, Đức Thánh cha cho biết là “có đối thoại với chính quyền nước này, điều này không có nghĩa là ủng hộ tất cả những gì chính phủ làm, hoặc phê bình mọi sự. Có đối thoại và có nhu cầu giải quyết các vấn đề... Tôi mong các nữ tu của Mẹ Têrêsa [bị trục xuất] được phép trở lại nước này. Đó là những nữ tu tốt lành, những nhà cách mạng giỏi theo tinh thần Tin mừng. Các chị chẳng gây chiến với ai. Đúng hơn tất cả đều cần các chị. Việc trục xuất các chị là điều không hiểu được. Nhưng chúng tôi hy vọng các chị sẽ trở lại.
Đức Thánh cha cũng nhắc đến vụ Đức Tổng giám mục Sứ thần Tòa Thánh bị chính phủ Nicaragua trục xuất hồi tháng Ba năm nay và mới đây ngài bổ nhiệm sang Phi châu, và nói: “Vị Sứ thần Tòa Thánh (tại Nicaragua) cũng là người tài khéo, và giờ đây được bổ nhiệm đi nơi khác. Đây là điều thật khó hiểu và cũng khó chấp nhận”.
Dự án viếng thăm
Về dự án tông du, Đức Thánh cha nhận rằng đó là điều khó khăn vì bệnh đau đầu gối của ngài vẫn chưa khỏi, nhưng chuyến đi tới đây tôi sẽ thực hiện. Ngài ám chỉ đến chuyến viếng thăm tại Bahrein, dự kiến vào tháng Mười Một năm nay. Đồng thời ngài nói thêm rằng “Hôm nọ tôi đã nói chuyện với Đức Tổng giám mục Welby [Giáo chủ Anh giáo] và chúng tôi thấy có thể thực hiện chuyến đi Nam Sudan vào tháng Ba. Và nếu tôi đi Nam Sudan, thì tôi cũng sẽ đi Congo. Chúng tôi đang cố gắng. Chúng tôi sẽ đi cả ba người: vị thủ lãnh Giáo hội Ecosse, Đức Tổng giám mục Welby và tôi. Hôm nọ, chúng tôi đã nói chuyện với nhau qua Zoom về vấn đề này.
Số tín hữu tại Tây phương giảm sút
Sau cùng, một ký giả người Đức hỏi Đức Thánh cha về tình trạng nhiều Giáo hội tại Âu châu, như ở Đức, có sự giảm sút trầm trọng số tín hữu, nhiều người trẻ không có ý định đi dự lễ nữa.
Đức Thánh cha nhìn nhận điều đó đúng một phần, nhưng một phần khác chỉ là tương đối. “Điều phải làm trước tiên là sống và hành động hợp với niềm tin của mình. Nếu bạn là giám mục hoặc linh mục mà không có thái độ nhất quán, thì người trẻ thấy ngay điều đó và rời bỏ! Khi một Giáo hội nghĩ nhiều đến tiền bạc, phát triển các kế hoạch mục vụ chứ không nghĩ đến việc săn sóc gần gũi tín hữu, thì không thu hút dân chúng. Cách đây hai năm, tôi đã viết lá thư gửi dân Chúa ở Đức, và đã có những mục tử công bố và đích thân phổ biến thư ấy cho từng người. Khi mục tử gần dân, thì họ nói: dân chúng cần phải biết xem Đức Giáo hoàng nghĩ gì. Tôi nghĩ các mục tử phải tiến bước, nhưng nếu họ mất mùi chiên và chiên mất mùi của mục tử thì không tiến triển được. Tôi nói chung, chứ không phải chỉ nói về trường hợp Đức, nhiều lần người ta nghĩ đến cách thức đổi mới, làm cho việc mục vụ tân tiến hơn, nhưng điều đó phải luôn ở trong tay của một mục tử, chứ không phải trong tay các “chuyên gia về mục vụ”. Họ đưa ra ý kiến ở đây và nói điều gì cần thực hiện tại đó... như vậy là không ổn. Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo hội với các mục tử, chứ không phải với những nhà lãnh đạo chính trị. Chúa đã lập Giáo hội với những người dốt, 12 tông đồ là những người dốt hơn những người khác, thế mà Giáo hội tiến triển vì đoàn chiên cảm thông với mục tử và mục tử cảm thông với đoàn chiên.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
ĐTC chào biệt Kazakhstan và trở về Roma
Đến phi trường Đức Thánh Cha được Tổng thống Cộng hoà Kazakhstan, ông Kassym-Jomart K. Tokayev, chào đón ở lối vào của Sảnh VIP, và sau đó hai vị đã đàm đạo trong ít phút.
Tổng thống Kazakhstan đã tặng Đức Thánh Cha một cây đàn dombra, nhạc cụ truyền thống của người Kazakhstan mà Đức Thánh Cha đã nói đến trong bài diễn văn đầu tiên của ngài tại Kazakhstan.
Sau nghi thức chào biệt, Đức Thánh Cha đã lên chiếc máy bay A330 của hãng hàng không ITA của Ý để trở về Roma. Lúc khoảng 17 giờ 15 theo giờ Kazakhstan, máy bay đã cất cánh.
Máy bay sẽ đưa Đức Thánh Cha và đoàn tháp tùng vượt qua 5.200 km, qua không phận của các nước Kazakhstan, Azerbaijan, Georgia, Thổ Nhĩ Kỳ, Bulgaria, Serbia / Montenegro, Bosnia Herzegovina, Croatia và Ý.
Theo thông lệ, Đức Thánh Cha sẽ gửi điện thư chào các vị lãnh đạo của các nước này.
Trong điện thư, một lần nữa, Đức Thánh Cha cảm ơn Tổng thống Kazakhstan về sự đón tiếp mà ngài đã nhận được trong 3 ngày qua và bảo đảm cầu nguyện cho tất cả người dân nước này.
Trên chuyến bay, như thường lệ, Đức Thánh Cha đã mở cuộc họp báo với khoảng 80 nhà báo tháp tùng ngài trong chuyến viếng thăm.
Chuyến bay sẽ kéo dài khoảng 7 tiếng rưỡi và Đức Thánh Cha sẽ về đến phi trường Fiumicino ở Roma vào lúc khoảng 8 giờ rưỡi tối theo giờ của Ý.
Đức Thánh Cha kết thúc chuyến viếng thăm kéo dài 3 ngày tại Kazakhstan, mang theo sự chào đón và lòng biết ơn của người dân Kazakhstan. Sự dấn thân vì hoà bình, đối thoại và từ chối mọi bạo lực là một số dấu ấn trong hành trình của Đức Thánh Cha tại Kazakhstan.
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Thánh cha gặp gỡ các giám mục, giáo sĩ, tu sĩ Kazakhstan
Đức Thánh cha Phanxicô khích lệ cộng đoàn giáo sĩ, tu sĩ và các nhân viên Giáo Hội tại Kazakhstan, tuy bé nhỏ, nhưng hăng say trong sứ mạng làm men trong bột tại xã hội nước này.
Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây, trong cuộc gặp gỡ sáng ngày 15 tháng Chín năm 2022, ngày chót trong chuyến tông du ba ngày tại thủ đô Nur-Sultan của Kazakhstan.
Ngày 15 tháng Chín của Đức Thánh cha bắt đầu với thánh lễ riêng lúc 7 giờ, tại Tòa Sứ thần Tòa Thánh, tiếp đến là cuộc gặp gỡ các tu sĩ dòng Tên hiện diện tại Kazakhstan vào lúc 9 giờ. Lúc 10 giờ, Đức Thánh cha đến Nhà thờ Chính tòa Đức Mẹ hằng cứu giúp, cách đó hơn 4 cây số để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ.
Lịch sử thánh đường
Lịch sử thánh đường này bắt đầu từ đầu thập niên 1930 khi dân miền tây Ucraina, Belarus, miền Volga và các nơi khác bị nhà cầm quyền Liên Xô lưu đày tới Kazakhstan. Cộng đoàn Công giáo trong nhiều thập niên phải lén lút sống đức tin để tránh sự đàn áp của nhà nước Xô Viết, và mãi đến ngày 20 tháng Chín năm 1979, sau rất nhiều khó khăn, họ mới được chính thức đăng ký. Ngày 14 tháng Mười tiếp đó, có một nhà nguyện được thánh hiến, tọa lạc ở ngoại ô thành phố, do các tín hữu đóng góp để mua và nhà nguyện được đặt tên là “Nhà nguyện Đức Mẹ hằng cứu giúp” để tôn kính ảnh Đức Mẹ được các tín hữu bí mật gìn giữ trong bao năm khó khăn. Ngày 18 tháng Năm năm 1994, Đức cha Jan Pawel Lenga, Giám quản Tông tòa Kazakhstan, cho phép xây một nhà thờ mới và thánh lễ đầu tiên được cử hành ngày 27 tháng Sáu năm 1999, tại nhà thờ lúc đó vẫn chưa hoàn tất, do Đức Hồng y Joachim Meisner, Tổng giáo phận giáo phận Koeln bên Đức, đại diện Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến chủ sự lễ thánh hiến.
Ngày 25 tháng Sáu năm 2006, sau khi thành lập miền Giám quản Tông tòa Astana do Đức Gioan Phaolô II, nhà thờ Đức Mẹ hằng cứu giúp trở thành nhà thờ chính tòa, và Đức Tổng giám mục Antonio Mennini, Sứ thần Tòa Thánh, đã thánh hiến nhà thờ này.
Cuộc gặp gỡ
Khi đến nhà thờ chính tòa, lúc 10 giờ 30, giờ địa phương, Đức Thánh cha được ba em bé, do một nữ tu hướng dẫn, tặng hoa cho ngài, rồi một gia đình gồm 23 người, cha mẹ và các con: ba người con ruột và phần còn lại là các con nuôi, trong y phục cổ truyền, chơi đàn tỳ bà hai dây (dombra) tặng Đức Thánh cha một bản nhạc ngắn. Trong số các con của ông bà, có một bé gái vượt thắng được tật nguyền nhờ âm nhạc.
Đức Tổng giám mục sở tại, Đức cha phụ tá và cha sở trao thánh giá để hôn kính và nước thánh để Đức Thánh cha rảy làm phép, theo nghi thức viếng thăm của các vị mục tử.
Có khoảng 200 người hiện diện trong thánh đường, và trong số các giám mục Trung Á, cũng có Đức tân Hồng y Marengo người Ý, Phủ doãn Tông tòa Ulan Bator bên Mông Cổ.
Cuộc gặp gỡ diễn ra dưới hình thức một buổi phụng vụ lời Chúa, với lời chào mừng mở đầu của Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Trung Á, Mumbiela Sierra, gốc Tây Ban Nha, Giám mục giáo phận Chúa Ba Ngôi ở Almaty, liền đó là bài đọc thư thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô (3,5-6.11-17). Tiếp đến là chứng từ của một linh mục, một nữ tu, một nữ tín hữu thuộc Công giáo nghi lễ Đông phương, và một nhân viên mục vụ.
Bài giảng của Đức Thánh cha
Trong bài giảng tiếp đó, Đức Thánh cha gợi lại quá trình của cộng đoàn Công giáo tại Kazachstan, mời gọi mọi người hãy duy trì ký ức về lai lịch, nhưng không phải trong thái độ hoài tưởng, bị bế tắc vì những điều quá khứ, trái lại nghĩ lại quá khứ “với một tâm hồn biết ơn, trào dâng những lời chúc tụng, không nuôi dưỡng than trách, nhưng đón nhận ngày hôm nay và sống như một ân phúc, mong ước tiến bước, thông truyền Chúa Giêsu, như các phụ nữ và môn đệ làng Emmaus trong ngày Chúa Phục Sinh!”
Hướng về tương lai, Đức Thánh cha nhắc đến bao nhiêu thách đố đức tin đang diễn ra trước mắt cộng đoàn Giáo hội tại đây, nhất là sự tham gia của các thế hệ trẻ, cũng như những vấn đề và cơ cực của cuộc sống, và tình trạng con số bé nhỏ của Giáo hội trong một nước rộng lớn như Kazakhstan. Nhưng Đức Thánh cha nói:
“Nếu chúng ta chấp nhận một cái nhìn hy vọng của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thực hiện một khám phá ngạc nhiên: Tin mừng nói rằng bé nhỏ, tinh thần thanh bần là một mối phúc đầu tiên (Xc Mt 5,3), vì sự bé nhỏ làm cho chúng ta khiêm tốn tín thác vào quyền năng của Chúa và làm cho chúng ta không đặt hoạt động của Giáo hội trên khả năng của chúng ta. Đó là một ân phúc! Phong phú vì chẳng có gì và nghèo mọi sự, chúng ta tiến bước trong sự đơn sơ và gần gũi những anh chị em trong dân chúng, mang niềm vui Tin mừng đến trong các hoàn cảnh. Như men trong bột và hạt giống bé nhỏ nhất được gieo vào lòng đất (Xc Mt 13, 31-33), chúng ta sống trong những biến cố vui buồn của xã hội, để phục vụ từ bên trong”.
“Tình trạng bé nhỏ nhắc chúng ta rằng chúng ta không tự đủ cho mình, và chúng ta cần Thiên Chúa và người khác, cần mọi người: cần những anh chị em thuộc các hệ phái Kitô và tín ngưỡng khác, cần những người nam nữ thiện chí... Theo cách thức đó, lời hứa sự sống và phúc lành mà Chúa Cha hứa đổ xuống trên chúng ta nhờ Chúa Giêsu, không những được thể hiện cho chúng ta nhưng cho cả những người khác nữa”.
Trong bài giảng, Đức Thánh cha cũng khích lệ các thành phần cộng đoàn Giáo hội tại Kazakhstan sống tình huynh đệ với nhau, nâng đỡ những người nghèo và những người bị thương tổn trong cuộc sống, mỗi lần trong các tương quan nhân bản và xã hội, chúng ta làm chứng cho công lý và sự thật, chống lại nạn tham nhũng và gian trá.
Đức Thánh cha không quên nhắn nhủ các giám mục và linh mục dành chỗ cho giáo dân, để cộng đoàn không trở nên cứng nhắc, không bị giáo sĩ hóa. Một Giáo hội đồng hành, tiến bước về tương lai trong Thánh Linh là một Giáo hội tham gia và đồng trách nhiệm. Ngài nhắc các vị đừng trở thành những người quản lý sự thánh hoặc những hiến binh chỉ lo về việc tôn trọng các luật lệ tôn giáo, trái lại hãy trở thành những mục tử gần dân, là những hình ảnh sống động về con tim cảm thương của Chúa Kitô.
Sau bài giảng, Đức Thánh cha đã đọc kinh phó thác cho Đức Mẹ, Nữ Vương hòa bình, trước khi ban phép lành cho mọi người. Trước khi chào thăm từng giám mục, Đức Thánh cha cũng làm phép ảnh Đức Mẹ là Mẹ Đại Thảo Nguyên (Grande Steppa).
Cuộc gặp gỡ dài một giờ đồng hồ, kết thúc với kinh Lạy Cha bằng tiếng Latinh và phép lành của Đức Thánh cha.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha gặp gỡ các tu sĩ Dòng Tên
Lúc 9 giờ sáng thứ Năm, ngày 15 tháng Chín, Đức Thánh cha Phanxicô đã gặp gỡ 19 tu sĩ Dòng Tên tại Kazakhstan và miền Nga.
Từ lâu, Đức Thánh cha vẫn có thói quen gặp gỡ các tu sĩ cùng dòng trong các chuyến viếng thăm tại nước ngoài.
Trong số 25 tu sĩ của dòng, hoạt động ở vùng Nga, gồm cả Belarus, Nga, Kirghizisatn, Tagikistan và Kazakhstan, có 19 vị đến dự cuộc gặp gỡ với Đức Thánh cha. Có Đức cha Joseph Werth, người Nga gốc Đức, Giám mục giáo phận Novosibirk ở miền Siberia bên Nga.
Cha Antonio Spadaro, Giám đốc tạp chí Văn minh Công giáo, “Civiltà Cattolica” của dòng Tên Ý cho biết trong cuộc gặp gỡ dài một tiếng 15 phút, các vị đề cập đến vấn đề mục vụ và chính trị địa lý. Theo thói quen trong thời gian tới đây, cha Spadaro viết bài tường thuật chi tiết hơn về nội dung cuộc gặp gỡ và đăng trên báo Văn minh Công giáo.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Công bố Tuyên ngôn chung kết và kết thúc Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo
Lúc quá 4 giờ chiều, ngày 15 tháng Chín năm 2022, Hội nghị kỳ VII các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới đã kết thúc, với phần công bố Tuyên ngôn chung kết tại Tòa nhà Độc Lập, với sự hiện diện của Tổng thống, Đức Thánh cha Phanxicô và gần 100 phái đoàn đến từ 50 quốc gia.
Tuyên ngôn chung kết dài đã được đại đa số các đoàn đại biểu tôn giáo thông qua trước đó và được nữ Giám mục Anh giáo Jo Balley Wells (1965), thuộc giáo phận Dorking, thuộc phái đoàn Đức Tổng giám mục Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo tham dự hội nghị này, tuyên đọc bằng tiếng Anh.
Nội dung Tuyên ngôn chung
Trong văn kiện này, gồm 35 điểm, các vị lãnh đạo nhấn mạnh ý chí của các tôn giáo đề ra những sáng kiến chung để xây dựng hòa bình và đối thoại, loại bỏ những thái độ cực đoan, duy căn và khủng bố. Tuyên ngôn lên án mọi loại xung đột võ trang: các xung đột này dẫn tới đổ máu vô ích, những phản ứng dây chuyền không thể lường trước được và hủy hoại những quan hệ quốc tế. Văn bản không nêu ví dụ cụ thể và không nói tới chiến tranh tại Ucraina hiện nay.
Trong ý hướng đó, Hội nghị tại Kazakhstan sẽ được mở rộng để trở thành diễn đàn đối thoại liên tôn. Để được vậy, các vị lãnh đạo tôn giáo muốn cộng tác với các tổ chức quốc gia và quốc tế trên toàn thế giới. Căn bản cho công việc tương lai sẽ là Văn kiện về Tình huynh đệ nhân loại, đã được Đức Giáo hoàng Phanxicô và Đại Rabbi Ahmed al-Tayyeb ở Cairo ký kết hồi tháng Hai năm 2019.
Sau Tuyên ngôn, đến lượt Đức Thánh cha, Tổng thống và đại diện các phái đoàn tôn giáo lên tiếng nhận xét.
Diễn văn của Đức Thánh cha
Trong diễn văn nhân dịp này, Đức Thánh cha nhìn nhận rằng Hội nghị này là những ngày chia sẻ khẩn trương, làm việc và dấn thân trong dấu chỉ đối thoại. Đây là điều càng quý giá trong một thời kỳ rất khó khăn, sau đại dịch, nhân loại còn phải chịu sự điên rồ của chiến tranh. Có quá nhiều oán ghét và chia rẽ, quá nhiều tình trạng thiếu đối thoại và cảm thông tha nhân. Trong một thế giới hoàn cầu hóa, điều này càng nguy hiểm và là một gương mù gương xấu... Chúng ta không thể tiến bước, vừa liên kết vừa chia rẽ, vừa nối kết và vừa xâu xé vì vì nhiều chênh lệch.
Trong bối cảnh trên đây, Đức Thánh cha nhận xét rằng Tuyên ngôn chung kết của hội nghị này xác quyết chủ nghĩa thái quá, cực đoan, nạn khủng bố và những thứ xách động khác xúi giục oán ghét, đố kỵ, bạo lực và chiến tranh, bất kỳ vì động lực hoặc mục tiêu nào, chẳng có gì liên hệ với tinh thần tôn giáo chân chính và cần loại bỏ chúng một cách quyết liệt bao nhiêu có thể (n.5). Ngoài ra, vì Đấng Toàn Năng đã sáng tạo mọi người bình đẳng, bất luận họ thuộc tôn giáo, chủng tộc và xã hội nào, chúng ta đã đồng ý với nhau khẳng định rằng sự tôn trọng và cảm thông nhau phải được coi là điều thiết yếu và không thể tách rời khỏi giáo huấn tôn giáo (n.13).
Tự do tôn giáo
Đức Thánh cha ca ngợi Kazakhstan, qua quốc kỳ của mình, nhắc nhở sự cần thiết phải bảo tồn một tương quan lành mạnh giữa chính trị và tôn giáo. Con phượng hoàng màu vàng trên lá cờ, nhắc nhở quyền bính trần thế, gợi lại những đế quốc xưa kia, nền xanh dương gợi lại trời cao, sự siêu việt. Vì thế có một liên hệ lành mạnh giữa chính trị và siêu việt, sự sống chung lành mạnh, phân biệt lãnh vực khác nhau. Phân biệt chứ không lẫn lộn, và cũng chẳng phải là tách biệt xa cách.
Trong chiều hướng đó, Đức Thánh cha bênh vực tự do tôn giáo và chống lại chủ trương “đẩy lùi và đóng khung tôn giáo trong lãnh vực riêng tư: cần luôn luôn bảo vệ tại mọi nơi những người muốn biểu lộ một cách hợp pháp tín ngưỡng của họ. Trong thực tế, ngày nay bao nhiêu người vẫn còn bị bách hại và kỳ thị vì tín ngưỡng của họ! Chúng ta đã mạnh mẽ kêu gọi các chính phủ và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền trợ giúp các nhóm tôn giáo và các cộng đoàn sắc tộc bị vi phạm các nhân quyền và những tự do căn bản của họ. Họ phải chịu những bạo lực do những thành phần cực đoan và khủng bố, cũng như những hậu quả chiến tranh và xung đột võ trang (n.6). Nhất là cần dấn thân để tự do tôn giáo không phải là một ý niệm trừu tượng, trái lại đó là một quyền cụ thể. Chúng ta bảo vệ quyền tự do tôn giáo cho mọi người, quyền hy vọng và vẻ đẹp...
Ba điều Đức Thánh cha lưu ý đặc biệt
Tiếp tục nhận định về bản Tuyên ngôn chung của Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo, Đức Thánh cha đặc biệt lưu ý về ba điều:
Trước tiên là hòa bình
Ngài nói:
“Tổng hợp thứ nhất là một tiếng kêu thống thiết, một giấc mơ và là mục đích hành trình của chúng ta, đó là hòa bình. Hòa bình là điều cấp thiết vì bất kỳ xung đột quân sự hoặc lò căng thẳng và đụng độ nào trên thế giới ngày nay chỉ có thể tạo nên một thứ hậu quả dây chuyền (domino), lôi kéo nhau và làm thương tổn trầm trọng hệ thống các liên hệ quốc tế (n.4). Hòa bình không phải là vắng bóng chiến tranh, và cũng không thể thu hẹp vào sự quân bình giữa các lực lượng đối nghịch, nhưng là một công trình của công lý (GS 78). Nó nảy sinh từ huynh đệ, tăng trưởng qua cuộc chiến đấu chống bất công và chênh lệch, tình huynh đệ này được xây dựng khi giơ tay cho người khác. Tất cả chúng ta xác tín rằng cần phải đi hàng đầu trong việc phổ biến sự sống chung hòa bình. Chúng ta phải làm chứng, rao giảng và khẩn cầu sự sống chung như thế. Chúng ta, nhân danh Thiên Chúa và vì thiện ích của nhân loại, chúng ta kêu gọi các vị lãnh đạo thế giới hãy ngưng các cuộc xung đột và đổ máu ở mọi nơi, từ bỏ những luận điệu hung hăng, và phá hoại” (n.7).
Thứ hai là phụ nữ
Đức Thánh cha nêu nhận xét: Sở dĩ thiếu hòa bình là vì thiếu quan tâm, dịu dàng, khả năng sinh ra sự sống. Vì thế, hòa bình cần phải tìm kiếm với sự can dự nhiều hơn của nữ giới. Vì phụ nữ chăm sóc và mang lại sự sống cho thế giới: đó là con đường dẫn đến hòa bình. Vì thế, chúng ta đã xác quyết cần phải bảo vệ phẩm giá, cải tiến vị thế xã hội của phụ nữ trong tư cách là thành phần đồng quyền của gia đình và xã hội (n.24). Cần dành cho phụ nữ những vai trò và trách nhiệm lớn hơn. Bao nhiều chọn lựa chết chóc có thể tránh được nếu phụ nữ ở trung tâm những quyết định...
Sau cùng là người trẻ
Họ là những sứ giả hòa bình và hiệp nhất ngày nay cũng như ngày mai. Chính những người trẻ, nhiều hơn những người khác, đã kêu cầu hòa bình và tôn trọng căn nhà chung của thiên nhiên. Trái lại, những chủ trương thống trị và bóc lột, vơ vét tài nguyên, quốc gia chủ nghĩa, chiến tranh và những vùng ảnh hưởng gợi lại một thế giới cũ mà người trẻ phủ nhận, một thế giới khép kín đối với những giấc mơ và hy vọng của người trẻ. Vì thế, cả lòng đạo đức cứng nhắc và làm ngộp thở không thuộc về tương lai, nhưng thuộc về quá khứ.
Trong lãnh vực này, Đức Thánh cha khẳng định tầm quan trọng của việc giáo dục củng cố sự đón nhận nhau và sống chung trong sự tôn trọng giữa các tôn giáo và văn hóa (Xc n.11).
Sau diễn văn của Đức Thánh cha, Tổng thống Kazakhstan và các vị lãnh đạo tôn giáo khác: Hồi giáo, Chính thống, Do thái và các vị khác lần lượt lên tiếng trình bày những nhận định. Sau cùng, Tổng thống tuyên bố kết thúc hội nghị.
Bấy giờ là quá 5 giờ chiều, giờ địa phương. Các lễ nghi từ biệt được thu ngắn tối đa và Đức Thánh cha ra phi trường Nur-Sultan, cách đó gần 18 cây số để đáp máy bay về Roma.
Vẫn máy bay Ita Airways của Ý chở Đức Thánh cha, đoàn tùy tùng và 80 ký giả quốc tế trở về Roma. Chuyến bay dài 7 tiếng 30 phút và Đức Thánh cha về đến Roma vào khoảng 8 giờ 30 tối giờ địa phương, kết thúc tốt đẹp chuyến tông du thứ 38 của ngài ở nước ngoài.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Phanxicô “sẵn sàng đi Trung quốc”
cath.ch, I.Media, 2022-09-13
Đức Phanxicô chào các nhà báo tháp tùng ngài trong chuyến đi Kazakhstan | © Camille Dalmas I.MEDIA
Sau chuyến bay kéo dài 6h30 giờ, máy bay đã hạ cánh xuống phi trường quốc tế Nur-Sultan, Kazakhstan. Khi được hỏi liệu có khả năng ngài sẽ gặp chủ tịch Tập Cận Bình, cũng sẽ ở thủ đô ngày 14 tháng 9, Đức Phanxicô tuyên bố ngài không có thông tin gì về cuộc gặp trong lúc này, nhưng ngài nói ngài “sẵn sàng đi Trung Quốc”.
“Tôi không biết gì cả. Tôi không có thông tin. Nhưng tôi luôn sẵn sàng đi Trung Quốc,” ngài trả lời các nhà báo khi đến chào họ trên máy bay. Với tất cả các nhà báo, ngài cho biết ngài rất vui khi đi Kazakhstan.
Sứ thần Tòa Thánh Srancis Assisi Chullikatt và tổng thống Cộng hòa Kazakhstan Kassym-Jomart Tokaïev ra đón ngài tại sân bay. Trái ngược với truyền thống, lễ đón không diễn ra trên đường băng mà bên trong sân bay trong phòng chờ VIP. Vì thế ngài không phải xuống máy bay bằng thang máy như ngài đã xuống trong hai chuyến tông du trước đó, mà đi xe cầu.
Sau đó, Đức Phanxicô đến dinh tổng thống Ak Orda và sẽ gặp riêng nguyên thủ quốc gia lúc 6:45 giờ chiều, giờ địa phương. Kế đó ngài dự cuộc họp cuối cùng trong ngày ở Phòng hòa nhạc Qazaq lúc 7:30 tối để gặp các nhà chức trách chính trị, ngoại giao và tôn giáo của đất nước. Nhân dịp này, ngài sẽ có bài phát biểu đầu tiên.
Lúc 8 giờ Lúc 8 giờ tối ngài sẽ về tòa sứ thần tòa thánh, nơi ngài sẽ ngủ trong hai đêm ở Nur-Sultan. Ngày thứ tư, ngài sẽ dự Đại hội VII các nhà lãnh đạo của các tôn giáo truyền thống và thế giới
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
ĐTC tại Kazakhstan: Đừng quen thuộc với chiến tranh
Sau khi cảm ơn Giáo hội địa phương đã chuẩn bị cho Thánh lễ và chuyến viếng thăm của ngài, cũng như bày tỏ lòng biết ơn chính quyền Kazakhstan và chào các lãnh đạo tôn giáo và mọi người hiện diện trong Thánh lễ, Đức Thánh Cha mời gọi kết hợp thiêng liêng với đền thánh địa cuốc gia Nữ vương Hòa bình ở Oziornoje trong Ngày lễ Suy tôn Thánh Giá được cử hành trọng thể vào ngày 14 tháng 9.
Lòng biết ơn trở thành lời cầu xin hoà bình
Ngài nhắc lại rằng các từ "Biết ơn người dân Kazakhstan" và "Hòa bình cho nhân loại" được khắc trên cây thánh giá lớn tại Thánh địa Quốc gia.
Được truyền cảm hứng từ những lời đó, Đức Thánh Cha nói rằng “lòng biết ơn Chúa về dân thánh của Chúa sống trong đất nước vĩ đại này, kết nối với lòng biết ơn vì cam sự dấn thân thúc đẩy đối thoại, trở thành lời cầu xin cho hòa bình, hòa bình mà thế giới của chúng ta vô cùng khao khát."
Cầu nguyện cho các vùng bị xâu xé bởi chiến tranh
Đức Thánh Cha không quên nghĩ đến nhiều nơi đang bị chiến tranh tàn phá, đặc biệt là đất nước Ucraina thân yêu. Từ đó ngài nhắn nhủ: “Chúng ta đừng quen với chiến tranh, đừng cam chịu sự tất yếu của nó. Chúng ta hãy giúp đỡ những người đau khổ và cố gắng không mệt mỏi để mọi người thực sự cố gắng đạt được hòa bình.”
Khẳng định rằng “Lối thoát duy nhất là hòa bình và cách duy nhất để đạt được điều đó là đối thoại”, Đức Thánh Cha mời gọi tiếp tục cầu nguyện để thế giới sẽ học cách xây dựng hòa bình, cũng bằng cách hạn chế chạy đua vũ trang và bằng cách chuyển những chi phí chiến tranh khổng lồ thành hỗ trợ cụ thể cho người dân. Ngài kết thúc với lời “Cảm ơn tất cả những người tin tưởng vào điều này, cảm ơn anh chị em và tất cả những người là sứ giả của hòa bình và thống nhất!”
Hồng Thủy - Vatican News
Hoạt động của Đức Thánh cha tại Kazakhstan ngày 15 tháng Chín
Thứ Năm, ngày 15 tháng Chín, là ngày thứ ba và cũng là ngày chót trong chuyến tông du của Đức Thánh cha tại Kazakhstan. Ban sáng tại nhà nguyện Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Nur Sultan, ngài sẽ cử hành thánh lễ riêng lúc 7 giờ, rồi gặp riêng các tu sĩ Dòng Tên hiện diện tại Kazakhstan vào lúc 9 giờ. Tiếp đến, lúc 10 giờ, ngài sẽ đến nhà thờ chính tòa Đức Mẹ hằng cứu giúp cách đó hơn 4 cây số để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ.
Ban chiều, lúc 3 giờ, Đức Thánh cha trở lại Tòa nhà Độc Lập để tham dự buổi công bố Tuyên ngôn chung kết của Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới. Một giờ sau đó, Đức Thánh cha ra phi trường để đáp máy bay trở về Roma.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha tại Kazakhstan: Các tôn giáo là thành phần của giải pháp cho sự sống chung hòa hợp hơn
Thứ Tư, 14 tháng Chín, ngày thứ hai trong chuyến tông du của Đức Thánh cha Phanxicô tại Cộng hòa Kazakhstan. Đức Thánh cha có hai hoạt động chính: tham dự buổi khai mạc Hội nghị kỳ VII các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới vào ban sáng; và ban chiều, cử hành thánh lễ cho các tín hữu Công giáo, cũng là thánh lễ duy nhất cho công chúng trong chuyến tông du này.
Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo
Từ 19 năm qua, tức là từ năm 2003, chính phủ Kazakhstan đã tổ chức sáu Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới, cứ ba năm một lần, về sự đóng góp của các tôn giáo cho hòa bình và sự hòa hợp trên thế giới. Nhưng phải nhận rằng dư luận quần chúng ít chú ý đến các hội nghị này, tuy rằng con số các phái đoàn từ các nước đến tham dự gia tăng với thời gian. Hội nghị đầu tiên năm 2003 có số tham dự ít. Ba năm sau, 2006, có 29 đoàn từ 20 nước. Hội nghị năm 2009 được 77 đoàn từ 35 nước. Sang đến Hội nghị thứ lần thứ tư năm 2012 được có 85 đoàn từ 40 nước đến dự. Năm 2015, con số này hầu như đứng yên. Hội nghị lần thứ sáu hồi năm 2018 có 82 phái đoàn từ 42 nước và bàn về đề tài: “Các tôn giáo thế giới cho một thế giới an ninh”.
Trong sáu Hội nghị trước đây, lần nào Tòa Thánh cũng gửi một phái đoàn cấp cao do một hồng làm trưởng đoàn, đến tham dự. Lần này, Tổng thống đã mời được Đức Thánh cha đích thân đến dự, cùng với hơn 100 đoàn từ 50 quốc gia.
Hội nghị kỳ VII bàn về vai trò các vị lãnh đạo thế giới và các truyền thống tôn giáo trong sự phát triển tinh thần và xã hội của nhân loại thời hậu đại dịch. Đề tài này bao gồm bốn phần:
Trước tiên là vai trò các tôn giáo trong việc thăng tiến các giá trị tinh thần và văn hóa trong thế giới tân tiến hiện đại. Tiếp đến là vai trò của giáo dục và sự soi sáng tôn giáo trong việc tăng cường sự sống chung hòa bình, trong tinh thần tôn trọng giữa các tôn giáo và văn hóa, công lý và hòa bình. Thứ ba là sự đóng góp của các vị lãnh đạo tôn giáo và các nhà chính trị vào việc thăng tiến đối thoại liên tôn và hòa bình thế giới, chống lại trào lưu cực đoan, khủng bố, đặc biệt là nạn khủng bố dựa trên tôn giáo. Sau cùng là sự đóng góp của nữ giới vào an sinh và sự phát triển lâu bền của xã hội và vai trò của các cộng đoàn tôn giáo trong việc hỗ trợ vị thế xã hội của phụ nữ.
Đức Thánh cha tham dự Hội nghị
Rời Tòa Sứ thần lúc 9 giờ 40 phút sáng 14 tháng Chín, Đức Thánh cha đến Tòa nhà Độc Lập nơi diễn ra Hội nghị. Tòa nhà vĩ đại này có hình thang, tọa lạc ở quảng trường trung tâm thủ đô Nur-Sultan, bọc kiếng màu xanh dương, có ba lầu, với diện tích trên 40.000 mét vuông. Lầu một dành làm trung tâm báo chí, phòng tiệc và các lễ nghi, một đại thính đường cho các hội nghị, rộng gần 4.800 mét vuông, với những tường lưu động, để nếu cần có thể phân chia thành bốn phòng lớn đều nhau, dành cho các cuộc gặp gỡ, diễn đàn, các Hội nghị quốc tế.
Lầu hai của Tòa nhà Độc Lập hoàn toàn dành cho nghệ thuật, các cuộc triển lãm. Sau cùng lầu ba dành để kể lại lịch sử của Nur-Sultan. Tòa nhà cũng có một phòng chiếu phim và thư viện.
Tại Hội trường, có một bàn tròn lớn với Đức Thánh cha và cạnh ngài là Tổng thống Tokayev, các vị trưởng phái đoàn tôn giáo ngồi quanh, trong khi các bộ trưởng, các thành viên phái đoàn tôn giáo khác, cũng như các tham dự viên ngồi ở khu vực quanh bàn tròn.
Lúc 10 giờ, Đức Thánh cha đã cùng với các vị lãnh đạo tôn giáo hiện diện cầu nguyện trong thinh lặng, trước khi Tổng thống Tokayev chính thức đọc diễn văn khai mạc Hội nghị. Ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các tôn giáo trong việc xây dựng hòa bình thế giới.
Diễn văn của Đức Thánh cha
Đức Thánh cha lên tiếng lúc 10 giờ 30, giờ địa phương, và ngài nói bằng tiếng Ý. Ngay trong lời mở đầu bài diễn văn, Đức Thánh cha chào mọi người, các vị lãnh đạo tôn giáo và chính quyền, bằng lời xưng hô quen thuộc: “Thưa anh chị em!” để nói lên xác tín về tình huynh đệ liên kết tất cả mọi người với nhau, trong tư cách là con của cùng một Trời.
Đức Thánh cha nói: “Đặc tính cùng là thụ tạo của chúng ta tạo nên một đặc tính chung, một tình huynh đệ thực sự. Nó nhắc nhở chúng ta rằng ý nghĩa cuộc sống không thể thu hẹp vào những lợi lộc cá nhân của chúng ta, nhưng được ghi trong tình huynh đệ, là điều làm cho chúng ta nổi bật. Chúng ta chỉ tăng trưởng với người khác và nhờ người khác”.
Trong bài diễn văn, Đức Thánh cha nhiều lần trưng dẫn người cha của nền văn chương mới, nhà giáo và là nhà sáng tác âm nhạc nổi tiếng của Kazakhstan, đó là ông Abai (1845-1904) sống vào hậu bán thế kỷ XIX. Các tác phẩm của vị này biểu lộ tâm hồn tốt đẹp nhất của dân tộc Kazakhstan: một sự khôn ngoan hài hòa, mong ước hòa bình, và khiêm tốn tự vấn, tìm kiếm, khao khát một sự khôn ngoan xứng đáng với con người, không bao giờ khép kín trong những quan niệm hẹp hòi. Ông Abai cũng từng nói rằng chúng ta cần giữ cho “tâm hồn tỉnh thức và tâm trí trong sáng” (Parola 6), và Đức Thánh cha nói:
Nêu gương tỉnh thức và trong sáng
“Anh chị em, thế giới đang chờ đợi nơi chúng ta tấm gương về những tâm hồn tỉnh thức và tâm trí trong sáng, thế giới đang chờ đợi lòng đạo đức chân chính. Đã đến giờ thức tỉnh khỏi thái độ cực đoan, duy căn (fondamentalismo) làm ô nhiễm và hao mòn mọi tín ngưỡng. Đã đến lúc làm cho con tim trong sáng, và cảm thương... Tại những nơi này, vốn khét tiếng vì gia sản của chế độ nhà nước vô thần, áp đặt trong nhiều thập niên, với não trạng đàn áp và bóp nghẹt, nguyên việc dùng từ “tôn giáo” cũng đủ gây khó chịu. Trong thực tế, các tôn giáo không phải là vấn đề, nhưng là thành phần của giải pháp cho sự sống chung hòa hợp hơn...”
Thăng tiến tự do tôn giáo
“Để được vậy, điều kiện thiết yếu cho sự phát triển chân thực nhân bản và toàn diện chính là tự do tôn giáo. Anh chị em, chúng ta được dựng nên như những thụ tạo tự do. Đấng Tạo Hóa đã trở nên thành phần của chúng ta. Có thể nói, Ngài đã giới hạn tự do tuyệt đối của Ngài để làm cho chúng ta trở thành những hữu thể tự do. Làm sao chúng ta có thể cưỡng cách các anh chị em chúng ta nhân danh Ngài?... Tự do tôn giáo là một quyền căn bản, chính yếu và bất khả xâm phạm, cần phải thăng tiến khắp nơi và không thể bị thu hẹp vào tự do phụng tự mà thôi. Thực vậy, đó là quyền của mỗi người được làm chứng tá công khai về tín ngưỡng của mình: đề nghị tín ngưỡng ấy nhưng không bao giờ áp đặt... đẩy lùi tín ngưỡng quan trọng nhất trong cuộc sống vào lãnh vực riêng tư thì sẽ làm cho xã hội bị mất một sự phong phú vô biên.
Trong bối cảnh này, Đức Thánh cha ca ngợi sự tôn trọng tự do tôn giáo ở Kazakhstan và hơn nữa quốc gia này còn tổ chức Hội nghị quốc tế quan trọng các vị lãnh đạo tôn giáo từ 20 năm nay. Hội nghị năm nay đề nghị chúng ta suy tư về vai trò của tôn giáo trong việc phát triển tinh thần và xã hội cho nhân loại trong thời hậu đại dịch.
Bốn thách đố
Từ tiền đề trên đây, Đức Thánh cha nói đến bốn thách đố lớn mà tất cả mọi người, đặc biệt là các tôn giáo, được kêu gọi đáp ứng trong sự liên kết các ý hướng.
Chăm sóc trong liên đới
Trước tiên, đại dịch Covid-19 làm chúng ta hiểu rằng mình không phải là thần minh, nhưng là người mong manh, tất cả đều cần trợ giúp, không ai hoàn toàn tự đầy đủ cho mình. Vì thế, chúng ta không thể phá tán nhu cầu liên đới chúng ta đã cảm thấy, để rồi tiếp tục tiến bước như thể không có gì xảy ra, không để cho mình được kêu gọi cùng nhau đáp ứng những nhu cầu cấp thiết liên hệ tới tất cả mọi người. Và các tôn giáo không thể dửng dưng trước nhu cầu này. Chúng ta được kêu gọi đi hàng đầu, thăng tiến một sự đoàn kết trước những thử thách có nguy cơ chia rẽ gia đình nhân loại hơn nữa.
Thách đố này bao hàm điều này là: các tín hữu thời hậu đại dịch được kêu gọi chăm sóc: chăm sóc nhân loại chung, trở thành những người kiến tạo hiệp thông, làm chứng về một sự cộng tác vượt lên trên những rào cản về mặt cộng đồng, chủng tộc, quốc gia hoặc tôn giáo. Để được vậy, cần lắng nghe những người yếu thế hơn, dành tiếng nói cho những người mong manh, nói lên tình liên đới đại đồng, liên hệ trước tiên tới họ, những người nghèo túng đã chịu đau khổ nhiều nhất vi đại dịch...
Xây dựng hòa bình, chống bạo lực
Thách đố thứ hai được đặt ra đặc biệt cho các tín hữu, đó là thách đố hòa bình. Trong những thập niên qua, cuộc đối thoại giữa các vị lãnh đạo tôn giáo đặc biệt xoay quanh đề tài đó, vậy mà chúng ta thấy vấn đề hòa bình vẫn còn đè nặng trên chúng ta. Nếu Đấng Tạo Hóa đã mang lại nguồn gốc cho sự sống con người, làm sao chúng ta có thể, trong tư cách là tín hữu, đồng ý để cho sự sống con người bị hủy diệt?
Nhớ lại những kinh hoàng và những lỗi lầm quá khứ, chúng ta hãy liên kết nỗ lực để không bao giờ Đấng Toàn Năng trở thành con tin của ý muốn quyền lực phàm nhân. Học giả Abai đã nhắc nhớ rằng “người nào để cho sự ác xảy ra mà không chống lại sự ác, thì không thể được coi là tín hữu chân chính, nhưng cùng lắm thì họ chỉ là một tín hữu nguội lạnh mà thôi” (Parola 38)... Chúng ta đừng bao giờ biện minh cho bạo lực. Đừng bao giờ để cho điều thánh thiêng bị những gì là phạm tục lợi dụng. Điều thánh thiêng không được là điểm tựa cho quyền lưc và quyền lực không được dựa vào thánh thiêng!
Thiên Chúa là hòa bình và luôn dẫn đến hòa bình, không bao giờ dẫn tới chiến tranh. Vì thế, chúng ta càng cần dấn thân hơn nữa để thăng tiến và củng cố sự cần thiết làm sao để các cuộc xung đột được giải quyết, không phải bằng những lý lẽ võ lực, với võ khí và những đe dọa nhưng bằng những phương thế duy nhất từ Trời Cao và xứng đáng với con người: đó là gặp gỡ, đối thoại, thương thảo kiên nhẫn, tiến hành đặc biệt nghĩ đến các trẻ em và người trẻ thuộc các thế hệ tương lai.
Tình huynh đệ
Thách đố thứ ba Đức Thánh cha nói đến là sự đón tiếp huynh đệ. Ngài nhận xét rằng: Ngày nay có một sự mệt mỏi lớn trong việc chấp nhận hữu thể người. Mỗi ngày có các thai nhi và trẻ em, người di dân và người già bị gạt bỏ. Bao nhiêu anh chị em bị hy sinh trên bàn thờ lợi lộc, được bọc trong hương trầm phạm thánh của sự dửng dưng. Nhưng mỗi hữu thể người là thánh thiêng: nhiệm vụ nhất là của chúng ta của các tôn giáo, là nhắc nhở điều đó cho thế giới! Chưa bao giờ như ngày nay, chúng ta chứng kiến những di chuyển lớn của dân chúng vì chiến tranh, nghèo đói, thay đổi khí hậu, tìm kiếm an sinh mà thế giới hoàn cầu hóa cho biết, nhưng thường khó đạt tới.
Bảo vệ căn nhà chung
Đức Thánh cha cũng nói đến thách đố hoàn vũ cuối cùng là bảo vệ căn nhà chung. Đứng trước những đảo lộn khí hậu cần phải bảo vệ căn nhà này, để nó không phải theo những tiêu chuẩn lợi lộc, nhưng được bảo tồn cho các thế hệ mai sau, chúc tụng Đấng Tạo Hóa. Chúng ta hãy chung nỗ lực trong thách đố này. “Virus như Covid-19, tuy nhỏ bé, nhưng chúng có thể làm hao mòn những tham vọng lớn về sự tiến bộ và thường xảy đến từ thế giới động vật, từ một sự quân bình bị thoái hóa, phần lớn do chúng ta. Ví dụ, chúng ta hãy nghĩ đến nạn phá rừng, buôn bán động vật bất hợp pháp, chăn nuôi cấp tốc. Đó là não trạng khai thác bóc lột tàn phá căn nhà chúng ta đang ở. Hơn nữa nó làm lu mờ viễn tượng tôn giáo và tôn giáo về thế giới mà Đấng Tạo Hóa mong muốn. Vì thế, điều cấp thiết là tạo điều kiện và thăng tiến sự bảo vệ sự sống trong mỗi hình thức của nó”.
Kết thúc bài diễn văn dài của Đức Thánh cha, còn có nhiều bài tham luận khác của các vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị, trong đó có Đức Tổng giám mục Antony, Chủ tịch Hội đồng Ngoại vụ tòa Thượng phụ Chính thống Nga, Rabbi trưởng của Do thái giáo, Đại Imam Al Tayyeb của Đền thờ Hồi giáo Al Azhar ở Cairo Ai Cập, ông Guterres Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, v.v.
Lúc 11 giờ 30, Đức Thánh cha cùng với các vị lãnh đạo khác tiến ra gian bên ngoài để chụp hình lưu niệm và giải lao.
Tiếp đến từ lúc 12 giờ, Đức Thánh cha dành một tiếng để gặp gỡ riêng một số vị lãnh đạo tôn giáo, trong khi các vị khác cũng có cơ hội gặp gỡ và trao đổi riêng với nhau.
Sau cùng, Đức Thánh cha trở về Tòa Sứ thần, lúc quá 13 giờ để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha cử hành thánh lễ duy nhất tại Kazakhstan
Xem Video : https://youtu.be/_Zcdll4zz_c
Lúc 4 giờ chiều ngày 14 tháng Chín, Đức Thánh cha Phanxicô đã mở lại hoạt động tại Nur-Sultan, với thánh lễ ngài cử hành cho các tín hữu toàn quốc.
Từ Tòa Sứ thần Tòa Thánh, Đức Thánh cha di chuyển tới Khu Triển lãm quốc tế cách đó 7 cây số, nơi đây đã từng đón tiếp cuộc triển lãm Quốc tế Expo 2017, về đề tài “Năng lượng tương lai”, từ ngày 10 tháng Sáu đến ngày 10 tháng Chín năm 2017. Tại đây có các gian hàng nói lên sự hiệu năng về năng lượng, sự lâu bền, có thể đổi mới và những thay đổi khí hậu. 115 quốc gia và 22 tổ chức quốc tế đã tham gia cuộc triển lãm này, thu hút bốn triệu khách viếng thăm, trong đó có 650.000 người đến từ nước ngoài. Tòa Thánh cũng có một gian hàng với chủ đề: “Năng lượng cho công ích: chăm sóc căn nhà chung của chúng ta”.
Quảng trường lớn ở khu Triển lãm có thể đón nhận 10.000 tín hữu. Họ từ các giáo phận ở Kazakhstan và các nước vùng Trung Á, kể cả từ Nga, đã đến đây để dự lễ với Đức Thánh cha. Đặc biệt có phái đoàn Ba Lan, do Đức Tổng giám mục Stanisław Gądecki, Chủ tịch Hội đồng Giám mục, hướng dẫn.
Đến khu vực triển lãm, Đức Thánh cha đã dùng xe mui trần tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu, trước khi tới nhà mặc áo để chuẩn bị thánh lễ, bắt đầu lúc 4 giờ 45 phút chiều.
Đồng tế với Đức Thánh cha, có hơn 20 hồng y và giám mục, từ Kazakhstan và các quốc gia khác, cùng với khoảng 100 linh mục, nhiều linh mục đến từ các nước lân cận, vì cả nước Kazakhstan chỉ có 104 linh mục triều và dòng.
Thánh lễ Suy tôn thánh giá được cử hành bằng tiếng Latinh và tiếng Nga.
Bài giảng thánh lễ
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh cha diễn giải ý nghĩa hình ảnh hai con rắn được các bài đọc của ngày lễ nói đến: con rắn cắn và con rắn cứu, để mời gọi các tín hữu gia tăng niềm tín thác nơi tình yêu cứu độ của Chúa. Ngài nói:
Con rắn cắn, tấn công dân đã rơi vào tội lẩm bẩm kêu trách. “Lẩm bẩm chống lại Thiên Chúa không những có nghĩa là nói xấu và than phiền về Chúa, nhưng sâu xa hơn, nó còn có nghĩa là trong tâm hồn người Israel thiếu lòng tín thác nơi Chúa, nơi lời hứa của Người... Quỷ, dưới hình con rắn, cũng đã mê hoặc ông Adong và bà Eva, tạo nên nơi họ sự bất tín nhiệm đối với Thiên Chúa, làm cho họ tin rằng Thiên Chúa không tốt, Chúa ghen tương với tự do và hạnh phúc của họ”.
Đức Thánh cha mời gọi các tín hữu hãy xét mình xem, trong lịch sử bản thân và cộng đoàn, đã xảy ra sự thiếu tín nhiệm đối với Chúa thế nào. Ngài nói: “Bao nhiêu lần, vì thiếu tín nhiệm và đau khổ, chúng ta đã trở nên khô cằn trong các sa mạc của chúng ta, đánh mất mục tiêu của hành trình. Tại quốc gia rộng lớn này với phong cảnh tuyệt với cũng có sa mạc nhiều khi chúng ta mang trong lòng. Có những lúc mệt mỏi và thử thách, trong đó chúng ta không còn sức mạnh để nhìn lên cao, hướng về Thiên Chúa. Có những tình trạng bản thân và xã hội, trong đó chúng ta bị con rắn thiếu tín nhiệm tiêm nọc độc thiếu tín thác, thất vọng, bi quan, cam chịu, khép kín chúng ta trong cái tôi và dập tắt mọi sự hăng say”.
Đức Thánh cha cũng nhắc đến những con rắn lửa khác trong lịch sử đất nước Kazakhstan: nạn bạo lực, những cuộc bách hại do chế độ vô thần, đàn áp tôn giáo, tự do và nhân phẩm của dân tộc bị đe dọa...
Sang đến con rắn cứu thoát tượng trưng bằng con rắn đồng ông Môsê cho đúc theo lệnh của Chúa và treo trên cột để những ai nhìn lên con rắn ấy thì giữ được mạng sống của mình (Ds 21,8), Đức Thánh cha ghi nhận cách hành động của Thiên Chúa và giải thích rằng: “Thời đó cũng như bây giờ, trong trận chiến thiêng liêng to lớn, trong lịch sử cho đến tận thế, Thiên Chúa không tiêu diệt những hèn hạ mà con người tự do theo đuổi: những con rắn độc không biến mất, chúng vẫn còn đó, rình rập, luôn có thể cắn. Nhưng điều gì đã thay đổi, Thiên Chúa làm gì?
“Chính Chúa Giêsu giải thích điều đó trong Tin mừng: “Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng cần được giương cao để tất cả những ai tin nơi Người thì sẽ được sống đời đời” (Ga 3,14-15). Sự thay đổi là con rắn cứu thoát đã đến nơi chúng ta: Chúa Giêsu được nâng cao trên thập giá không để cho những con rắn độc tấn công và dẫn chúng ta đến cái chết. Đứng trước những hèn hạ của chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta một sự cao cả mới: nếu chúng ta hướng nhìn lên Chúa Giêsu, thì những vết cắn của sự ác không thể thống trị chúng ta nữa, vì Chúa trên thập giá đã mang lấy nọc độc của tội lỗi và sự chết, và đã chiến thắng quyền lực tàn hại của nó. Đó là điều Chúa Cha đã làm đứng trước sự ác lan tràn trên thế giới... Sự cao cả vô biên của lòng Chúa Thương Xót là: Chúa Giêsu đã “trở nên tội lỗi” để cứu chúng ta; chúng ta có thể nói Chúa Giêsu, trên thánh giá, đã trở nên “con rắn” để khi nhìn lên Người, chúng ta có thể chống lại những vết cắn độc hại của những con rắn ác độc tấn công chúng ta”.
Và Đức Thánh cha kết luận rằng: con đường cứu độ duy nhất của chúng ta, sự tái sinh và sống lại của chúng ta là nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đanh... Từ thập giá của Chúa Kitô, chúng ta học yêu thương thay vì oán ghét, học cảm thương thay vì dửng dưng, học tha thứ chứ không báo thù. Đôi cánh tay giang rộng của Chúa Giêsu là vòng tay ôm dịu dàng qua đó Thiên Chúa muốn đón nhận cuộc sống chúng ta.
“Trên thập giá, Chúa Kitô đã tước bỏ nọc độc của con rắn ác độc, và là Kitô hữu có nghĩa là sống không có nọc độc: không cắn nhau, không lẩm bẩm, không cáo buộc, nói xấu, gieo rắc những việc gian ác, không làm ô nhiễm thế giới với tội lỗi và sự thiếu tín nhiệm đến từ Ma Quỷ. Anh chị em, chúng ta đã được tái sinh từ cạnh sườn mở toang của Chúa Giêsu trên thập giá: ước gì nơi chúng ta không có nọc độc chết chóc nào (Xc Kn 1,14). Trái lại, chúng ta hãy cầu nguyện để nhờ ơn Chúa, chúng ta ngày càng có thể trở thành Kitô hữu hơn: những chứng nhân vui tươi về đời sống mới, yêu thương, an bình”.
Lời kêu gọi cuối lễ
Cuối thánh lễ, Đức Tổng giám mục Tomash Peta của Giáo phận Astana Nur-Sultan sở tại, đã ngỏ lời chào mừng và cám ơn Đức Thánh cha. Và ngài đáp từ, cám ơn Đức Tổng giám mục vì tất cả công trình chuẩn bị thánh lễ này. Đức Thánh cha không quên cám ơn chính quyền đạo đời của Kazakhstan hiện diện trong buổi lễ, đặc biệt những vị đến từ những nước Trung Á khác.
Ngài bày tỏ tình liên kết với Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Hòa Bình ở Ozyornoye, như Đức ông Tomash đã nhắc, tại đền thánh ấy có cây thánh giá lớn, trên đó có ghi hàng chữ “cám ơn nhân dân Kazakhstan và những người hòa bình. Cám ơn Chúa vì dân thánh của Chúa sống tại đại quốc này, cùng với sự dấn thân thăng tiến đối thoại, biến thành lời khẩn cầu hòa bình mà thế giới chúng ta khao khát”.
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Tôi nghĩ đến bao nhiêu nơi đang bị tàn phá vì chiến tranh, nhất là tại Ucraina yêu quý. Chúng ta đừng trở nên quen thuộc với chiến tranh, đừng cam chịu với sự không tránh được chiến tranh. Hãy cứu giúp những người đau khổ và quyết liệt yêu cầu cố gắng đạt tới hòa bình. Điều gì còn phải xảy ra nữa, bao nhiêu người chết nữa, trước khi những đối nghịch nhường chỗ cho đối thoại để mưu ích cho dân chúng, cho các dân tộc và nhân loại? Con đường duy nhất để ra khỏi tình trạng như thế là hòa bình và là con đường duy nhất để đạt tới chính là đối thoại”.
Sau cùng, Đức Thánh cha mời gọi mọi người tiếp tục cầu nguyện để thế giới học xây dựng hòa bình, giới hạn sự chạy đua võ trang, và biến những chi phí khổng lồ cho chiến tranh thành những hỗ trợ cụ thể cho dân chúng. Xin cám ơn tất cả những người tin nơi điều đó, cám ơn anh chị em và tất cả những người là sứ giả hòa bình và hiệp nhất!”
Thánh lễ kết thúc lúc quá 6 giờ chiều và Đức Thánh cha trở về Tòa Sứ thần Tòa Thánh để dùng bữa và qua đêm.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu