Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh cha tôn phong hai hiển thánh mới
Xem Video : https://youtu.be/GBU0mv-eb9c
Lúc gần 10 giờ sáng, Chúa nhật mùng 09 tháng Mười năm 2022, Đức Thánh cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể tại Quảng trường thánh Phêrô, với nghi thức tôn phong hai vị chân phước lên bậc hiển thánh. Đây là lễ phong thánh thứ hai và lễ cuối cùng ngài cử hành trong năm nay. Lần đầu là lễ phong mười vị hiển thánh Chúa nhật, ngày 15 tháng Năm.
Trên mặt tiền Đền thờ, có treo hình hai vị thánh mới trên hai tấm thảm hình lớn.
Hiện diện trong buổi lễ có hơn 30.000 tín hữu thập phương. Đồng tế với Đức Thánh cha có 20 hồng y và 50 giám mục, và gần 400 linh mục, trong đó có nhiều vị thuộc dòng thánh Scalabrini và Don Bosco. 180 linh mục và phó tế đảm nhận việc trao Mình Thánh Chúa cho các tín hữu rước lễ. Trong số các tín hữu hiện diện cũng có nhiều tu sĩ nam nữ người Việt thuộc hai dòng liên hệ.
Nghi thức phong thánh
Nghi thức phong thánh diễn ra vào đầu thánh lễ. Sau lời chào phụng vụ của Đức Thánh cha, mọi người hát kinh cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến, rồi Đức Hồng y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, tiến lên trước Đức Thánh cha, cùng với hai linh mục thỉnh nguyện viên của các án phong, và thưa rằng: “Hội Thánh xin Đức Thánh cha ghi tên vào sổ bộ các thánh hai vị chân phước và để mọi Kitô hữu kêu cầu các ngài như những vị thánh.”
Sau khi xướng danh các vị, Đức Hồng y Semeraro lần lượt tóm tắt tiểu sử của hai vị:
Gioan Baotixita Scalabrini sinh ngày 08 tháng Bảy năm 1839 tại tỉnh Como, bắc Ý, con thứ ba trong gia đình tám người con, năm trai ba gái. Năm 1857, khi được 18 tuổi, Gioan gia nhập chủng viện và thụ phong linh mục năm 1863, khi được 24 tuổi. Cha muốn đi làm thừa sai nhưng Đức giám mục bản quyền không cho phép và bổ nhiệm tân linh mục làm giáo sư tiểu chủng viện Como, đồng thời làm giám thị và phó giám đốc tại đây.
Năm 1870, cha Scalabrini được bổ nhiệm làm cha sở giáo xứ thánh Bartolomeo, ở ngoại ô thành Como. Quan tâm đầu tiên của cha là tổ chức lại các trường giáo lý để huấn luyện các giáo lý viên chu đáo hơn, và cha soạn thủ bản cho họ. Cha cũng thường viếng thăm các bệnh nhân và người già, lập một hội để giúp đỡ họ, đồng thời cũng lập một nhà trẻ và một hội sinh hoạt cho các nam thiếu niên. Và đứng trước tình trạng khó khăn của các nông dân và thợ thuyền, cha gợi ý thành lập một hội tương trợ và dấn thân tìm công ăn việc làm cho những người mất việc. Cha chạy đến cả những nhà công nghệ xin giúp đỡ trong lãnh vực này.
Mới làm cha sở được 5 năm, cha Scalabrini được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Piacenza ngày 30 tháng Giêng năm 1876, lúc mới 36 tuổi. Đức cha ở lại nhiệm sở này gần 30 năm trời cho đến khi qua đời.
Trong thời gian dài làm chủ chăn tại Piacenza, Đức cha Scalabrini đã viết nhiều bài báo về bao nhiêu vấn đề thời đó, phản ánh thực trạng tôn giáo, xã hội và chính trị tại Ý thời đó.
Vốn là người tinh tế quan sát và giải thích thực tại con người đồng thời, Đức cha Scalabrini thành lập một viện câm điếc, một tổ chức trợ giúp các nữ công nhân nông nghiệp, một hội tương trợ và quỹ nông thôn.
Tuy nhiên, ký ức về Đức cha Scalabrini đặc biệt gắn liền với những giải pháp mục vụ sáng suốt cho người di dân. Đức cha đặc biệt quan tâm giúp đỡ những người Ý di cư. Ngài thành lập một tu hội linh mục hoàn toàn lo việc săn sóc tinh thần cho đông đảo người Ý di cư tại Mỹ. Đó là dòng thừa sai thánh Carlo. Về sau ngài thành lập thêm tu hội nữ thừa sai thánh Carlo.
Đức cha Scalabrini được phong chân phước ngày 09 tháng Mười Một năm 1997. Gia sản của Đức cha Scalabrini ngày nay vẫn là các thừa sai nam nữ thánh Carlo: khoảng 650 năm tu sĩ đang hoạt động tại 34 quốc gia năm châu. Tiếp đến là khoảng 550 nữ thừa sai thánh Carlo. Từ lâu các tu sĩ của hai dòng này không giới hạn hoạt động vào những người Ý di cư, nhưng giúp đỡ những người di cư thuộc đủ mọi quốc tịch trên thế giới.
Tu huynh Artemide Zatti sinh năm 1880 trong một gia đình nông dân nghèo ở Boreto, bắc Ý. Năm 1897, khi được 17 tuổi, Artemide theo gia đình di cư tới miền Bahía Bianca bên Argentina.
Năm 20 tuổi, anh muốn gia nhập dòng ở Bernal, gần thủ đô Buenos Aires. Tại đó, có một tu sĩ Don Bosco trẻ tuổi bị bệnh lao phổi, và Artemide tình nguyện săn sóc, nhưng tu sĩ ấy đã bị bệnh quá nặng nên qua đời sau đó. Artemide cũng bị lây bệnh lao phổi và được gửi đi dưỡng bệnh tại Viedma, nơi dòng Don Bosco có một bệnh xá và một tiệm thuốc tây. Artemide giúp cha Evasio Garrone tại nhiệm sở này.
Một hôm, cha Evasio Garrone gợi ý với Armetide hãy cầu xin Đức Mẹ Phù Hộ các tín hữu cứu giúp và nói: “Nếu Đức Mẹ chữa con lành bệnh, con hãy hiến trọn cuộc đời cho các bệnh nhân này”. Thầy Armetide Zatti hăng hái hứa như vậy và được khỏi bệnh một cách lạ lùng và thầy giữ lời hứa. Năm 1908, khi được 28 tuổi, thầy tuyên khấn lần đầu, và ba năm sau đó khấn trọn đời.
Năm 1913, cha Garrone qua đời, và thầy Zatti đảm trách tiệm thuốc thánh Phanxicô và bệnh xá thánh Giuse. Thầy tận tụy và vui tươi giúp đỡ người nghèo và các bệnh nhân. Việc phục vụ của thầy không giới hạn tại nhà thương, nhưng mở rộng ra cả thành phố. Trong những trường hợp cần thiết, thầy di chuyển ngày cũng như đêm, tới bất kỳ khu xóm tồi tàn ở ngoại ô thành Viedma, và giúp đỡ các bệnh nhân miễn phí. Tiếng tăm của thầy y tá thánh thiện lang rộng cả miền nam Argentina và từ miền Patagonia, cực nam của Argentina, cũng có các bệnh nhân tới xin thầy giúp đỡ. Thầy yêu mến các bệnh nhân một cách đặc biệt, nhìn thấy Chúa Giêsu nơi họ. Thầy chu toàn các công tác này với tinh thần hy sinh cao độ, không biết mệt mỏi.
Thầy Zatti là một người rất dễ tiếp xúc, đầy thiện cảm và vui mừng vì có thể giao tiếp với những người dân khiêm hạ. Nhưng đặc biệt thầy là một người của Chúa. Một bác sĩ ở nhà thương, không có đức tin mạnh, nói rằng: “Khi tôi thấy thầy Zatti, thì sự cứng lòng tin của tôi bị lay chuyển”. Một người khác nói: “Tôi tin nơi Thiên Chúa từ khi tôi được quen biết thầy Zatti”.
Năm 1950, thầy Zatti đột nhiên cảm thấy mình già nua và bệnh tật. Thầy đau nhói ở hông bên trái và kéo dài như vậy. Thầy biết rõ đó là bệnh ung thư tụy tạng và trấn an mọi người: “Xin anh chị em đừng vất vả làm chi, vì không có thuốc chữa đâu”. Thầy còn tiếp tục nhiệm vụ thêm một năm nữa.
Thầy Artemide Zatti qua đời ngày 15 tháng Ba năm 1951, trong sự tỉnh táo hoàn toàn, giữa sự quí mến và biết ơn của dân chúng. Thầy hưởng thọ 71 tuổi. Thầy được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 14 tháng Tư năm 2002.
Bài giảng của Đức Thánh cha
Trong bài giảng sau các bài đọc của phần phụng vụ Lời Chúa, Đức Thánh cha đã quảng diễn bài Tin mừng theo thánh Luca (17), thuật lại sự tích 10 người phong cùi kêu xin Chúa Giêsu cứu giúp. Tất cả đều được chữa lành, nhưng chỉ có một người trở lại lớn tiếng cảm tạ Thiên Chúa, và đó lại là một người Samaritano, một người “lạc đạo” (Lc 17,15).
Đức Thánh cha nhận xét rằng: Mười người phong cùi tiến bước chung với nhau, không phân biệt giữa người Samaritano với chín người khác. Bệnh phong cùi không phải chỉ là bệnh thể lý, nhưng cũng là một thứ bệnh xã hội, vì thời đó họ phải ở ngoài cộng đoàn, không được vào những khu dân cư. Cả người Samaritano vốn bị coi là “rối đạo” cũng ở chung với những người khác. “Bệnh tật và tình trạng mong manh chung làm đổ những hàng rào và vượt lên trên mọi sự loại trừ”.
Đồng hành với người khác
Đức Thánh cha nói: “Đây là một hình ảnh đẹp đối với cả chúng ta: nếu thành thực với chính mình, chúng ta nhớ rằng tất cả chúng ta đều là những người bị bệnh trong tâm hồn, tất cả đều là những người tội lỗi, cần lòng thương xót của Chúa Cha. Và chúng ta ngưng chia rẽ nhau dựa trên công trạng, vai trò chúng ta đảm trách; những bức tường nội tâm, những thành kiến sẽ sụp đổ, và như thế, sau cùng chúng ta khám phá mình là anh chị em với nhau”.
“Chúng ta hãy nhớ điều này: đức tin Kitô luôn đòi chúng ta đồng hành với những người khác, không bao giờ là những người tiến bước đơn độc; đức tin luôn đòi chúng ta ra khỏi bản thân để tiến về Thiên Chúa và về anh chị em, không bao giờ chia rẽ chúng ta với nhau, luôn đòi chúng ta nhìn nhận mình là những người cần được chữa lành và tha thứ, và vì cùng chia sẻ sự giòn mỏng của người ở cạnh chúng ta, không cảm thấy mình cao trọng hơn nhau”.
Áp dụng vào cuộc sống thường nhật
Và Đức Thánh cha nhắc nhở rằng: “Anh chị em, chúng ta hãy kiểm chứng xem trong đời sống chúng ta, trong gia đình, tại những nơi làm việc và gặp gỡ nhau mỗi ngày, chúng ta có khả năng đồng hành với những người khác, lắng nghe, vượt thắng cám dỗ tự đóng khung mình trong thái độ tự tham chiếu và chỉ nghĩ đến những nhu cầu của chúng ta hay không.”
Cộng đoàn cởi mở không loại trừ ai
“Nhưng đồng hành với nhau cũng là ơn gọi của Giáo hội. Chúng ta hãy tự hỏi xem chúng ta có thực sự là những cộng đoàn cởi mở và bao gồm đối với tất cả mọi người hay không; chúng ta có làm việc chung được với nhau, linh mục và giáo dân, để phục vụ Tin mừng hay không; chúng ta có một thái độ đón tiếp không những bằng lời nói nhưng bằng những cử chỉ cụ thể, đối với người ở xa và với tất cả mọi người đến gần chúng ta hay không... Chúng ta có làm cho họ cảm thấy là thành phần của cộng đoàn hay là chúng ta loại trừ họ?”
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Tôi sợ khi thấy những cộng đoàn Kitô phân chia thế giới thành những người tốt và những người xấu, thánh thiện và tội lỗi: như thế rốt cuộc ta cảm thấy mình tốt hơn những người khác và đẩy ra ngoài bao nhiêu người mà Thiên Chúa muốn ôm lấy họ. Xin anh chị em hãy luôn bao gồm trong Giáo hội cũng như trong xã hội, đang còn nhiều chênh lệch và tình trạng gạt ra ngoài lề”.
Lòng biết ơn
Đức Thánh cha cũng nhắc đến thái độ biết ơn của người Samaritano sau khi được lành bệnh và nhận xét rằng: “Đó cũng là một bài học lớn cho chúng ta, là những người hằng ngày được hưởng các ơn của Thiên Chúa, nhưng thường thường chúng ta đi đường của mình mà quên vun trồng một tương quan sinh động với Chúa. Đó là một thứ bệnh tinh thần xấu xa: coi mọi sự là điều dĩ nhiên, cả đức tin và tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, đến độ trở thành những Kitô hữu không còn biết ngạc nhiên nữa, không biết nói “cám ơn”, không còn biết nhận ra những kỳ công của Thiên Chúa nữa.
Gương hai vị hiển thánh
Đề cập đến hai vị hiển thánh được tôn phong, Đức Thánh cha nói rằng: “Hai vị nhắc nhớ chúng ta về điều quan trọng là đồng hành với nhau và biết cám ơn.
Đức giám mục Scalabrini, - đã thành lập dòng chăm sóc những người xuất cư -, đã khẳng định rằng khi đồng hành với những người xuất cư, không cần chỉ nhìn những vấn đề nhưng cần nhìn cả những ý định của Chúa Quan Phòng. Thánh nhân nói: “Chính nhờ những cuộc di cư do những bách hại, Giáo hội đã vượt lên trên các ranh giới Jerusalem và Israel để trở thành “công giáo”; nhờ những cuộc di cư ngày nay, Giáo hội sẽ là dụng cụ hòa bình và hiệp thông giữa các dân tộc” (L’emigrazione degli operai italiani, Ferrara 1899). Đức cha Scalabrini đã nhìn xa, nhìn về đằng trước, về một thế giới và một Giáo hội không biên giới, không có người ngoại quốc.
Về phần Tu huynh Salesien Artemide Zatti, người là một tấm gương sinh động về lòng biết ơn: sau khi được khỏi bệnh lao phổi, đã hiến trọn cuộc đời để làm ơn cho những người khác, chữa lành các bệnh nhân với lòng yêu thương và dịu dàng. Người ta kể là đã thấy thầy vác thi thể của một người bệnh nhân trên vai. Đầy lòng biết ơn vì những gì đã lãnh nhận, thầy muốn nói lời “cám ơn” khi đảm nhận các vết thương của người khác”.
“Chúng ta hãy cầu nguyện để những người anh thánh thiện này giúp chúng ta cùng bước đi với nhau, không có những bức tường chia rẽ; hãy vun trồng tâm tình cao thượng rất đẹp lòng Chúa là tâm tình biết ơn”.
Lời cuối lễ
Cuối thánh lễ, khoảng 11 giờ 45, Đức Thánh cha đã chủ sự kinh Truyền tin với cộng đoàn. Số người tại quảng trường lúc này lên tới 60.000 người.
Trước khi đọc kinh, Đức Thánh cha chào thăm tất cả các hồng y, giám mục, linh mục, các tu sĩ nam nữ, đặc biệt là các nam nữ thừa sai thánh Carlo Borromeo và các tu huynh Salesien Don Bosco. Ngài không quên chào thăm các phái đoàn chính thức.
Và ngài nói thêm rằng: “Hôm nay tại Fabriano, có lễ phong chân phước cho nữ tu Maria Costanza Panas, đan sĩ dòng thánh Clara Capuxin, sống tại Đan viện Fabriano, từ năm 1917 đến năm 1963 khi về trời. Chị đón tiếp những người đến gõ cửa Đan viện, chiếu tỏa nơi mọi người sự thanh thản và tín thác. Trong những năm cuối đời, khi bị bệnh nặng, chị dâng những đau khổ để cầu nguyện cho Công đồng chung Vatican II, mà ngày 11 tháng Mười này, chúng ta kỷ niệm 60 năm khai mạc. Xin chân phước Maria Costanza giúp chúng ta luôn tín thác nơi Thiên Chúa và đón tiếp tha nhân.
Học bài học của quá khứ
Đức Thánh cha cũng nói rằng: “Về việc khai mạc Công đồng chung Vatican II cách đây 60 năm, chúng ta không thể quên nguy cơ chiến tranh hạt nhân bấy giờ cũng đang đe dọa thế giới. Tại sao không học bài học lịch sử? Hồi đó cũng có những xung đột và căng thẳng lớn, nhưng rồi người ta đã chọn con đường hòa bình.”
Trong Kinh thánh có ghi rằng: “Chúa phán: “Các ngươi hãy dừng lại trên đường và hãy nhìn, hãy tìm hiểu những con đường quá khứ, để xem đâu là con đường đúng cần theo, như thế các ngươi sẽ tìm được hòa bình cho cuộc sống của các ngươi” (Ger 6,16).
Cầu cho dân Thái Lan
Rồi Đức Thánh cha nói: “Tôi cầu nguyện cho các nạn nhân của hành động bạo lực điên rồ xảy ra cách đây ba ngày, 06 tháng Mười, tại Thái Lan. Tôi xúc động phó thác cho Cha của sự sống, đặc biệt các em bé và gia đình các em”.
Giờ đây, chúng ta hãy hướng về Đức Trinh Nữ Maria, xin Mẹ giúp chúng ta trở thành những chứng nhân Tin Mừng, noi gương các thánh”.
Rồi Đức Thánh cha xướng kinh Truyền tin và ban phép lành cuối lễ cho mọi người.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Hồng y Quốc vụ khanh: Tòa Thánh sẵn sàng giúp thương thuyết
Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, tỏ ra lo âu về nguy cơ chiến tranh hạt nhân và tái bày tỏ sự sẵn sàng của Tòa Thánh giúp làm trung gian thương thuyết.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho phái viên báo Il Messaggero, Người Sứ giả, xuất bản ở Roma hôm 07 tháng Mười vừa qua, Đức Hồng y Parolin trả lời câu hỏi: “Vatican có nghĩ thực sự có nguy cơ chiến tranh hạt nhân hay không?”
Ngài đáp: “Thật là khó nói. Theo những gì chúng ta đọc thấy, thì không có gì là mới so với điều chúng ta đã biết và từ những gì Tổng thống Putin vẫn nói”.
Đức Hồng y Parolin mới từ Liên Hiệp Quốc ở New York trở về Vatican, và trong tuần trước đây đã gặp Ngoại trưởng Nga, ông Sergej Lavrov. Đức Hồng y cho biết: “Ngoại trưởng Nga đã bày tỏ với tôi lập trường đã được nêu rõ trước Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Đại khái ông trách Tây phương không làm gì khi mà tại miền Donbass đã diễn ra một cuộc xung đột ở cấp độ nhỏ. Nghĩa là Tây phương không lên án thái độ của Ucraina và không tôn trọng các quyền của những người nói tiếng Nga thiểu số tại miền này. Trong thực tế, Ngoại trưởng Lavrov đã trình bày một phân tích dài về thái độ của tây phương đã không lên án tình trạng như tôi vừa nói”.
Đức Hồng y Quốc vụ khanh cũng nói rằng chính ngài đã yêu cầu gặp Ngoại trưởng Lavrov để bày tỏ mối quan tâm của Tòa Thánh và tái khẳng định điều Đức Thánh cha đã bày tỏ là sẵn sàng giúp tạo điều kiện cho cuộc đối thoại giữa hai bên trong cuộc xung đột”. Báo “Người Sứ Giả” nhắc lại rằng Nga hiện có kho võ khí hạt nhân lớn nhất thế giới và trong những ngày trước đây, Tổng thống Vladimir Putin tái khẳng định là “có tất cả những quyền bính và phương tiện để bảo vệ nước Nga”, đồng thời nhắc lại rằng chính Mỹ đã tạo nên “một tiền lệ” về võ khí hạt nhân, khi thả hai quả bom nguyên tử trên hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản năm 1945.
Nga hiện có 5.977 đầu đạn nguyên tử, trong khi Mỹ có 5.428, theo con số của Liên đoàn các nhà khoa học Mỹ. Tuy Mỹ và Nga đã tháo gỡ hàng ngàn đầu đạn, nhưng hai nước vẫn còn 90% số võ khí hạt nhân trên thế giới.
Thêm vào đó, Nga có 1.459 đầu đạn chiến lược đã được bố trí, nghĩa là sẵn sàng sử dụng, trong khi Mỹ có 1.389 đầu đạn bố trí như vậy, theo những dữ liệu tuyên bố công khai. Nga có số võ khí hạt nhân chiến thuật nhiều gấp 10 lần so với Mỹ. Khoảng một nửa trong số 200 võ khí hạt nhân chiến thuật của Mỹ được đặt rải rác tại nhiều nơi ở Âu châu.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Nhà thờ Đức Bà Paris sẽ được mở lại năm 2024 như dự định
Công trình tái thiết nhà thờ Chính tòa Đức Bà Paris được tiến hành theo chương trình và sẽ được mở lại vào năm 2024, theo phúc trình của tòa kiểm toán ở Paris, công bố hôm ngày 06 tháng Mười vừa qua.
Phúc trình xác nhận có đủ ngân khoản để hoàn tất công trình tái thiết và cho đến nay số tiền quyên góp được nhiều hơn số chi và phí tổn dự trù.
Nhà thờ chính tòa Paris bị hỏa hoạn trầm trọng hồi tháng Tư năm 2019. Phí tổn giữ cho thánh đường này khỏi sụp là 151 triệu Euro. Việc canh tân thánh đường để có thể hoàn thành và mở cửa lại nhà thờ trong vòng hai năm tới đây có phí tổn là 552 triệu Euro. Tính đến cuối năm ngoái, ngân khoản quyên góp được để tu bổ thánh đường là hơn 841 triệu Euro.
Tòa kiểm toán ở Paris đề nghị rằng ngân sách thặng dư có thể được sử dụng, sau khi tham khảo ý kiến các đại ân nhân, để sửa chữa những thiệt hại khác do hỏa hoạn gây ra. Thực tế, trước khi xảy ra hỏa hoạn, nhà thờ chính tòa Đức Bà đã ở trong tình trạng nguy kịch. Người ta dự đoán sau khi được mở lại vào năm 2024, số khách viếng thăm sẽ gia tăng thêm hai triệu người và có thể lên tới 14 triệu người mỗi năm. Vì thế, tòa kiểm toán đề nghị cứu xét vấn đề làm sao đáp ứng số khách viếng thăm đông đảo như vậy.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
“Mạng lưới Giới trẻ” giúp người trẻ châu Âu tham gia vào các vấn đề chính trị
Các đại biểu từ các Giáo phận Công giáo của Liên minh Châu Âu, trong độ tuổi từ 18 đến 35, sẽ được chọn để phục vụ trong hai năm và được COMECE tư vấn về nhiều vấn đề chính sách.
Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, Chủ tịch COMECE cho biết, “Cơ quan tham vấn mới này sẽ thúc đẩy sự tham gia cụ thể của những người Công giáo trẻ châu Âu trong việc định hình các chính sách của Liên minh Châu Âu.”
Việc thành lập “Mạng lưới Giới trẻ”, vào ngày 5/10, theo sau hai Công ước Giới trẻ Công giáo COMECE về Tương lai của Châu Âu, vào tháng 6/2021 và tháng 6/2022. Trong những tháng tới, các thành viên của mạng lưới sẽ “suy tư về việc thúc đẩy các giá trị chung của EU, ví dụ như dân chủ và các quyền cơ bản”, trình bày những phát hiện của họ trước hội đồng COMECE vào năm 2023.
Các Giám mục EU nói rằng họ hy vọng những đại biểu trẻ tuổi này sẽ đưa quan điểm của giới trẻ vào tất cả các khía cạnh trong quá trình hoạch định chính sách của EU, cũng như “sự nhạy cảm đa dạng của giới trẻ đối với những thách thức chính trị và xã hội hiện nay”.
Đức Hồng Y Hollerich mời gọi các đại biểu “làm cho Mạng lưới Giới trẻ trở thành một nơi của tình huynh đệ thực sự, một tấm gương về cách chúng ta có thể là anh chị em, ý thức về bản sắc văn hóa độc đáo của chúng ta, thực sự hiệp nhất trong sự đa dạng”.
Hồng Thủy - Vatican News
Một thần học gia dòng Tên và một giáo sư luật đạt giải Ratzinger
Giải thưởng Ratzinger, được khởi xướng vào năm 2011, là giải thưởng danh giá được trao cho các học giả nổi bật với nghiên cứu khoa học của họ trong lĩnh vực thần học theo tinh thần của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, nhà thần học người Đức, là nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI.
Các ứng cử viên cho giải thưởng được chọn bởi ủy ban khoa học của tổ chức Ratzinger Foundation và được trình lên Đức Thánh Cha và ngài sẽ là người phê duyệt những người đạt giải.
Cha Michel Fédou
Cha Michel Fédou 69 tuổi, sinh tại Lyon, nước Pháp. Từ năm 1987, ngài đã giảng dạy thần học tín lý và Giáo phụ tại Trung tâm Sèvres, một học viện của Dòng Tên ở Paris. Ngài là thành viên của một số tổ chức thần học và ủy ban liên quan đến đối thoại đại kết với các tín hữu Tin Lành Luther và Chính thống giáo. Ngài là tác giả của một số tác phẩm, chủ yếu về Giáo phụ học và Kitô học.
Giáo sư Joseph H. H. Weiler
Còn giáo sư Joseph H. H. Weiler 71 tuổi, sinh tại Johannesburg, Nam Phi, từng là chủ tịch Viện Đại học Châu Âu ở thành phố Firenze nước Ý và là tác giả của nhiều tác phẩm về luật hiến pháp và quốc tế cũng như nhân quyền. Ông là một học giả về luật tại nhiều trường đại học ở Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, bao gồm cả tại Đại học Harvard và New York, cũng như ở những nơi khác. Ông nổi tiếng với vai trò bảo vệ việc treo các Thánh giá ở các trường công lập trước Tòa án Nhân quyền Châu Âu. (CNA 07/10/2022)
Hồng Thủy - Vatican News
Đền thờ Thánh Phêrô sẽ có lối vào riêng cho tín hữu
Mỗi ngày có thể có đến 50.000 người đến Đền thờ Thánh Phêrô | © Pixabay
cath.ch, Bernard Hallet, 2022-10-02
Đền thờ Thánh Phêrô là một trong những di tích nổi tiếng nhất trên thế giới. Nhưng quá nhiều khách du lịch nên đã làm cho bầu khí thiêng liêng của nơi này thành bảo tàng viện, hồng y Mauro Gambetti, quản nhiệm đền thờ Thánh Phêrô lấy làm tiếc. Ngài cho biết sẽ làm một lối đi riêng cho tín hữu muốn đến đây cầu nguyện.
Trong một phỏng vấn với nhật báo Ý Avvenire, hồng y cho biết phải làm cho Đền thờ Thánh Phêrô thành nơi thiêng liêng. Có vào khoảng 50.000 người đến đây mỗi ngày, thường các chuyến thăm này có hướng dẫn viên.
Dự trù có một lối đi riêng
Vì số lượng đông du khách đến thăm nên Đền thờ Thánh Phêrô gần như một viện bảo tàng, tạo khó khăn cho tín hữu muốn đến đây cầu nguyện hoặc tham dự các buổi phụng vụ, họ phải sắp hàng lâu trước đền thờ.
Một lối đi dễ dàng, tách biệt với khách du lịch hiện đang được nghiên cứu để thực hiện. Ngoài ra, cần có thêm nhiều buổi lễ hơn ở Đền thờ, những buổi cầu nguyện buổi trưa, thêm các dịch vụ tôn giáo và chăm sóc mục vụ thích hợp. Hồng y giải thích những việc này sẽ làm cho Đền thờ thành nơi thiêng liêng hơn.
Video về cuộc đời của Thánh Phêrô
Xem Video : https://youtu.be/IQrF9cmlUi8
Ngoài ra nhằm mục đích để nhiều người biết đến đặc sủng của Thánh Phêrô và các giáo hoàng kế nhiệm ngài nên có các buổi chiếu video về cuộc đời Thánh Phêrô. Video có đề tài “Theo Ta” được chiếu trong hai tuần kể từ ngày 2 tháng 10, mỗi buổi tối sẽ có chiếu một đoạn phim về cuộc đời của Thánh Phêrô ở mặt tiền Đền thờ Thánh Phêrô.
Video 8 phút và mỗi 15 phút phát một lần, là một phần của hành trình ‘nghệ thuật và đức tin’ do Đền thờ Vatican khởi xướng, được hồng y Mauro Gambetti cổ động, hồng y là tổng giám đốc Đền thờ Thánh Phêrô, và là tổng đại diện của giáo hoàng của Thành phố Vatican.
Chương trình, logo và khẩu hiệu của chuyến viếng thăm của ĐTC tại Bahrain
Tham dự Diễn đàn về Đối thoại cũng có Đại Imam Sheik Ahmed Al-Tayyeb của Đại học Hồi giáo Al-Azhar. Đức Thánh Cha và Đại Imam Al-Tayyeb mới gặp nhau trong Đại hội các vị lãnh đạo các tôn giáo truyền thống lần thứ 7 diễn ra hồi giữa tháng 9 tại Kazakhstan.
Tham dự Diễn đàn cũng sẽ có hơn 200 nhà lãnh đạo tôn giáo từ các nơi trên thế giới.
Chương trình viếng thăm
Theo chương trình, Đức Thánh Cha sẽ thăm thành phố Awali, gặp Quốc vương Bahrain, các cấp chính quyền và xã hội dân sự và ngoại giao đoàn. Sau đó ngài sẽ tham dự buổi kết thúc Diễn đàn Đối thoại, gặp các thành viên Hội đồng Hồi giáo Bô lão, cũng như có buổi gặp gỡ và cầu nguyện đại kết cho hoà bình. Ngày kế tiếp Đức Thánh Cha sẽ dâng Thánh lễ tại Sân vận động Quốc gia Bahrain và gặp Giới trẻ. Ngày cuối cùng, trước khi trở về Roma, Đức Thánh Cha có buổi gặp gỡ cầu nguyện với các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và nhân viên mục vụ tại thành phố Manama.
Khẩu hiệu và logo
Khẩu hiệu chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha là “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”
Trên logo của chuyến viếng thăm có hai lá cờ của Toà Thánh và Bahrain, được trình bày như hai bàn tay hướng lên Thiên Chúa.
Theo Phòng Báo chí Toà Thánh, logo nói lên “sự dấn thân của các dân tộc và các quốc gia để gặp gỡ nhau mà không có định kiến và trong tinh thần cởi mở như các anh chị em.”
Một cành ôliu vươn lên từ bàn tay tượng trưng cho hòa bình, “hoa trái của cuộc gặp gỡ huynh đệ”.
Dòng chữ “Đức Giáo hoàng Phanxicô” màu xanh lam nằm bên dưới biểu tượng cho thấy rằng chuyến tông du được phó thác cho “Đức Mẹ Ả Rập”, Vị Bảo trợ của Nhà thờ Chính toà; nhà thờ này là món quà của Vương quốc Bahrain tặng cho Giáo hội Công giáo địa phương. (CSR_4206_2022)
Hồng Thủy - Vatican News
Gặp gỡ đối thoại giữa Đức Hồng y Koch và Đức cha Bätzing
Đức Hồng y Kurt Koch, Bộ trưởng Hiệp nhất các tín hữu Kitô, và Đức cha Georg Bätzing, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, đã gặp gỡ và đối thoại với nhau, sau khi “đụng độ” về vấn đề “Con đường Công nghị” ở Đức.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Công giáo “Die Tagespost”, xuất bản ngày 29 tháng Chín vừa qua, tại thành phố Wuerzburg, Đức Hồng y Koch, người Thụy Sĩ-Đức, cho biết ngài cảm thấy bức xúc vì lập trường của những người chủ trương Con đường Công nghị tại Đức hiện nay, giống như những “Kitô hữu Đức” thời Đức quốc xã, coi như một mạc khải mới sự xuất hiện của nhà độc tài Hitler. Thời đó, có một phong trào mạnh mẽ trong Tin lành Đức sau cuộc bầu cử năm 1932.
Đức Hồng y Koch nhận xét thêm rằng: “Nguy cơ lớn nhất ngày nay là chân lý và tự do không còn đi chung với nhau, nhưng bị tách biệt. Trong nền thần học ở Đức ngày nay, có một xu hướng mạnh mẽ coi tự do như giá trị cao cả nhất của con người và từ đó phán đoán điều gì còn có thế được coi là chân lý đức tin và điều gì phải bị vứt bỏ”.
Đức cha Georg Bätzing, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức đã phản ứng mạnh mẽ chống lại nhận định trên đây của Đức Hồng y Koch, và đòi Đức Hồng y phải công khai xin lỗi, nếu không Đức cha sẽ chính thức trình lên Đức Thánh cha. Tuy nhiên, ngay chiều thứ Năm, 29 tháng Chín, Đức Hồng y Koch cho biết ngài bị hiểu lầm, và không muốn làm thương tổn một ai, và không hề có ý ví Con đường Công nghị tại Đức với ý thức hệ Đức quốc xã.
Trong những ngày qua, Đức cha Bätzing cùng với Đức cha Bode, Phó Chủ tịch và vị Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Đức, đã về Roma, gặp các cơ quan Tòa Thánh để chuẩn bị chuyến viếng thăm “Ad Limina” của các giám mục Đức, vào giữa tháng Mười Một tới đây. Nhân dịp này đã có cuộc gặp gỡ giữa Đức Hồng y Koch và Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức.
Thông cáo sau đó của ông Matthias Kopp, Phát ngôn viên của các giám mục Đức, nói rằng trong cuộc gặp gỡ, Đức Hồng y Koch đã minh thị nhấn mạnh rằng ngài không hề muốn gán cho Con đường Công nghị tại Đức ý thức hệ kinh khủng của thập niên 1930. Ngài cũng xin lỗi tất cả những ai cảm thấy bị thương tổn vì sự so sánh ngài đã đưa ra. Trong cuộc gặp gỡ, hai bên đã có dịp trình bày lập trường của mình. Thông cáo kết luận rằng: “Cuộc thảo luận thần học mà Đức Hồng y Koch muốn góp phần phải được tiếp tục”.
Đức cha Bätzing và nhiều người trong Con đường Công nghị tại Đức vẫn chủ trương thay đổi luân lý tính dục của Hội thánh Công giáo cho hợp với thời đại ngày nay, và coi những dấu chỉ thời đại như những nguồn mạch mới của mạc khải, ngoài nguồn mạch khải Kinh thánh và Truyền thống. Tuy nhiên, Đức Hồng y Koch bác bỏ lập luận này và nói rằng: “Những dấu chỉ thời đại cần được quan sát với sự quan tâm và nghiêm túc cứu xét, nhưng chúng không phải là những nguồn mạch mới của mạc khải. Trong ba giai đoạn nhận thức đức tin - là nhìn, phán đoán và hành động, - các dấu chỉ thời đại thuộc vào giai đoạn quan sát, và không thuộc vào giai đoạn phán đoán, cạnh các nguồn mạch của mạc khải.”
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Tòa Thượng phụ Chính thống Constantinople quyên góp năm triệu Mỹ kim giúp Ucraina
Phủ Tổng thống Ucraina cho biết Tòa Thượng phụ Chính thống Constantinople ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, đã quyên góp được hơn năm triệu Mỹ kim để giúp đỡ nhân dân Ucraina.
Trong buổi tiếp kiến mới đây, tại Tòa Thượng phụ, Phu nhân Tổng thống Ucraina Zelenski, cùng với phái đoàn chính phủ đã cám ơn Đức Thượng phụ Bartolomaios, Giáo chủ Chính thống Constantinople về nghĩa cử này. Bà Zelenski nói: “Giáo hội Chính thống Nga ủng hộ cuộc xâm lăng quân sự, chúc lành cho những kẻ giết và hành quyết người. Hành động phản Kitô giáo của Tòa Thượng phụ Chính thống Mascơva cũng phải bị phán xét ở mức độ liên Giáo hội”. Bà cũng cám ơn Đức Thượng phụ chung của Chính thống giáo, cũng như cộng đoàn Chính thống ở Thổ Nhĩ Kỳ vì sự trợ giúp nhân đạo hồi tháng Ba năm nay, với hơn 250.000 Euro cho Ucraina.
Thêm vào đó, do sáng kiến của Đức Thượng phụ Bartolomaios, Tổng giáo phận Chính thống tại Mỹ đã thiết lập quỹ trợ giúp Ucraina, và đã quyên được hơn năm triệu Mỹ kim.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Năm nay Ba Lan có 338 chủng sinh mới
Niên học mới này, Giáo hội Công giáo tại Ba Lan có 338 chủng sinh và tu sinh, bắt đầu chương trình đào tạo để trở thành linh mục, trong đó có 236 chủng sinh thuộc các giáo phận và 102 tu sinh thuộc các dòng tu.
Đứng đầu danh sách là Đại chủng viện giáo phận Tarnów, có 15 tân chủng sinh và Đại chủng viện quốc gia ơn gọi muộn, trên 35 tuổi, ở thành phố Lodz, có 14 thầy. Trong số các dòng tu, dòng Đa Minh có số tân tu sinh cao nhất với 14 thầy, tiếp đến là dòng Phanxicô ở thành phố Lodz với 9 thầy, sau đó là dòng Salesien Don Bosco 8 thầy.
Thống kê về các tân ứng sinh linh mục năm nay được thu tập từ 72 trung tâm đào tạo linh mục trên toàn nước Ba Lan, do cha Przemyslaw Kwiatkowski, Chủ tịch Hội đồng các vị Giám đốc Đại chủng viện, thực hiện.
Năm ngoái, Giáo hội Công giáo Ba Lan có 356 chủng sinh và tu sinh mới bắt đầu hành trình đào tạo làm linh mục, tức là nhiều hơn con số năm nay 18 thầy.
Từ nhiều năm nay, số ơn gọi linh mục tại Ba Lan liên tục giảm sút. Ví dụ, cách đây 10 năm (2012), số tân ứng sinh linh mục tại nước này là 828 người, tức là nhiều hơn con số năm nay 490 thầy. Bình quân con số này giảm mỗi năm 10%.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu