Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Qua “tính trần tục”, Đức Phanxicô muốn nói điều gì ?
Đức Phanxicô nhìn thấy nơi tính trần tục một sự bại hoại của đời sống thiêng liêng. Ngài nhìn thấy ở đó việc chiều theo tính tự mãn quy ngã (autosuffisance)… nhiều hơn là một sự gắn bó với thế gian.
Tính trần tục: đó là một thuật ngữ đã được chú ý kể từ đầu triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô ! Các Hồng y hay linh mục, những người trẻ hay già, ở bậc sống giáo sĩ hay giáo dân, tất cả mọi người đều trải qua. Trong tiếng Pháp, thuật ngữ chỉ sự giao du với những người quyền lực hoặc giàu có và sự sùng bái vẻ bề ngoài. Tiếng Ý đã giữ lại ý nghĩa nguyên thủy hơn: sự gắn bó với của cải của thế gian này. Đức Phanxicô còn đi xa hơn nữa. Sau khi đọc các bản văn của ngài, bạn có thể trả lời cho một bảng câu hỏi thấu đáo để biết liệu bạn là người trần tục theo ngài không, và bạn đang ở đâu: hơi quá “thế gian”, hay không đủ “ở trong thế gian” ? Đối với ngài, tính trần tục biểu lộ một mối nguy hiểm thực sự, “điều tồi tệ nhất trong những gì có thể xảy đến với Giáo hội của Thiên Chúa”. Và ngài đề cập đến cuốn sách của Henri de Lubac, “Méditation sur l’Eglise” (1953), trong đó định nghĩa tính trần tục là một “thái độ lấy con người làm trung tâm triệt để”, được che giấu dưới những thái độ tôn giáo hoàn hảo… Điều mà André Mauriac đã mô tả rất hay trong cuốn tiểu thuyết “La Pharisienne” (1941) của mình. Người phụ nữ Pharisêu này, cảm thấy mình được Thiên Chúa chọn, được Giám mục của mình chú ý vì lối sống khổ hạnh khắt khe của mình, đã biết áp bức những người xung quanh mình bằng sự khắt khe của một sự hoàn thiện luân lý xa rời với sự thánh thiện.
Sự lẫn lộn giữa chủ nghĩa hoàn hảo và sự thánh thiện
Đây là nguồn gốc của tính trần tục thiêng liêng bị tố cáo: sự lẫn lộn giữa chủ nghĩa hoàn hảo và sự thánh thiện, được ngăn cách bởi bề dày của sự đắn đo chu đáo. Điều khác biệt giữa chúng: việc kiêu ngạo tìm kiếm chính mình (“Gương soi ơi, gương soi đẹp đẽ của tôi ơi, hãy cho tôi biết ai là người xinh đẹp nhất”) hay chỉ vinh quang của Thiên Chúa trong sự khiêm tốn (“Chúa đã làm cho tôi những điều cao cả, Danh Người là Thánh !”). Nữ hoàng Grimhilde hay Nữ Vương Thiên Đàng…tình yêu đối với cái “tôi” của mình cho đến độ coi thường Thiên Chúa, hay tình yêu đối với Thiên Chúa đến độ coi thường cái “tôi” của mình.
Bản văn tham khảo về tính trần tục vẫn là Tông huấn Evangelii Gaudium (số 93-97), trong đó khái niệm này được định nghĩa rõ ràng: “Tính trần tục thiêng liêng, ẩn giấu đằng sau vẻ bề ngoài sùng đạo và thậm chí cả tình yêu đối với Giáo hội, hệ tại việc tìm kiếm vinh quang của con người và phúc lợi cá nhân, thay vì vinh quang của Chúa” (số 93). Nó giống như thể một Hồng y (cuối cùng đã xảy đến !) tìm kiếm một loại vải màu đỏ lóng lánh tốt nhất cho tu phục của mình mà không còn ưu tư đến ý nghĩa của màu sắc này nữa: chứng tá cho Chúa Kitô cho đến đổ máu. Tính trần tục đang được nói đến có thể được tóm tắt như sau: có một hành vi tôn giáo hoàn hảo…trong khi đức tin đã chết.
Thuyết ngộ đạo và thuyết Pêlagiô
Trong Evangelii Gaudium, Đức Thánh Cha cho thấy hai khía cạnh của sự bại hoại thiêng liêng này, mà ngài sẽ tiếp tục nhắc đến trong hai bản văn khác: Tông huấn Gaudete et exultate (lời mời gọi nên thánh phổ quát, 2018) và Tông Thư Desiderio desideravi (2022). Nói cách khác, người tu sĩ trần tục mang lại vẻ bề ngoài của sự thánh thiện này theo hai cách: thứ nhất, thuyết ngộ đạo hệ tại “tin rằng bởi vì chúng ta biết điều gì đó hay chúng ta có thể giải thích nó theo một lôgíc nào đó, nên chúng ta đã là thánh thiện, hoàn hảo, tốt hơn “đám đông vô tri”…Thậm chí, tự bản chất, thuyết ngộ đạo muốn chế ngự mầu nhiệm”, cả mầu nhiệm về Thiên Chúa và ân sủng của Ngài cũng như mầu nhiệm về cuộc sống của người khác (Gaudete et exultate, số 40).
Một cách nào đó, đó là “Thiên Chúa ở trong giới hạn của lý trí đơn thuần”. Ở đây, kẻ trần tục vui thích những gì mà chỉ lý trí của họ có thể biết được về Thiên Chúa cách rõ ràng, mà không tính đến sự xác tín của đức tin…Sự bại hoại thứ hai, thuyết Pêlagiô: chủ thuyết này hệ tại vui thích với những nỗ lực duy nhất của ý chí của mình trong việc đạt tới sự hoàn thiện, từ chối mọi sự cần thiết của ân sủng… ”một ý chí không có sự khiêm tốn” (Gaudete et exultate, số 47), hay sự công chính hóa bởi sức riêng của mình (số 57).
Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất
Ở đây, cái “tôi” tỏa sáng trong phòng khách, trên mạng xã hội, hơn cả Chúa mà nó muốn là người phát ngôn nhưng lại trở thành màn hình về Ngài ; ở đó, cái “tôi” được ngắm bóng trong sự tốt lành của nó, mà hoàn toàn thiếu đi đức ái. Tính trần tục tấn công hai năng lực tinh thần của chúng ta: trí tuệ và ý chí, qua đó chúng ta trở thành người mang ánh sáng của chính mình (theo nghĩa từ nguyên: Lucifer), gán cho bản thân vinh quang chỉ thuộc về Thiên Chúa mà thôi. Chúng ta có thể hiểu các vấn đề và cám dỗ trong lãnh vực phụng vụ (Desiderio desideravi, số 17-20).
Làm thế nào thoát khỏi đó ? Không có sự thánh thiện Kitô giáo mà không có đức tin và lòng khiêm tốn. Đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong sự khiêm tốn của đức tin cho sự thánh thiện của trí tuệ ; khiêm tốn đón nhận ân sủng cho sự thánh thiện của ý chí. Tắt một lời, Chúa Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất. Có nhiều nhân đức tự nhiên nâng cao con người trong việc tìm kiếm chân lý và sự thiện hảo của nó: thận trọng, công bằng, dũng lực, tiết độ, trí tuệ, khoa học, khôn ngoan đều cần thiết nhưng không đủ. Chỉ duy ân ban của Thiên Chúa, nâng chúng ta lên sự thánh thiện, cho phép chúng ta sống như con cái Thiên Chúa, được tự do và cứu độ…nhất là được cứu thoát khỏi chính chúng ta !
Tý Linh
Chuyển ngữ từ: fr.aleteia.org (04.12.2022)
Nguồn: xuanbichvietnam.net (05.12.2022)
Bài giảng thứ nhất tĩnh tâm Mùa Vọng 2022 của Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa trước Giáo triều Rôma
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Thưa Đức Thánh Cha, các Cha đáng kính nhất, các anh chị em của Giáo triều Rôma, tôi đã nhiều lần tự hỏi ý nghĩa và sự hữu ích của những bài giảng trong Mùa Vọng và Mùa Chay này, những bài giảng làm gián đoạn hoặc trì hoãn các công việc khác và quan trọng hơn. Điều khích lệ tôi và khiến tôi không ngại lãng phí thời gian của các vị là niềm tin rằng người ta đến với những bài giảng này không phải để nghe ý kiến hoặc tìm giải pháp cho các vấn đề của Giáo Hội vào thời điểm này, mà để nhận được sức mạnh từ các chân lý đức tin và do đó đối mặt với mọi vấn đề một cách đúng tinh thần. Nói tóm lại, để tắm rửa – hay ít nhất là một sự sảng khoái – của niềm tin, hy vọng và lòng bác ái.Đây là lý do tại sao tôi nghĩ đến việc chọn ba nhân đức đối thần làm chủ đề cho ba bài giảng Mùa Vọng này. Đức tin, đức cậy và đức mến là vàng, nhũ hương và mộc dược mà chúng ta, những Đạo sĩ ngày nay, muốn mang đến như một món quà dâng lên Thiên Chúa, Đấng “từ trên cao đến thăm viếng chúng ta”. Tận dụng truyền thống cổ xưa – thời giáo phụ và thời trung cổ – về các nhân đức thần học, tôi sẽ cố gắng đào sâu– càng nhiều càng tốt trong ba bài suy niệm ngắn – một đường lối hiện đại và hiện sinh, nghĩa là, đáp lại những thách thức, những sự phong phú và, đôi khi, những điều thay thế được đề xuất ngày nay đối với các đức tính thần học của Kitô giáo.
* * *
Trong lời cầu nguyện của Kitô giáo, một Thánh Vịnh luôn có âm vang lớn, có nội dung sau:
Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên,
cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính,
để Đức Vua vinh hiển ngự vào.
Đức Vua vinh hiển đó là ai?
Là Thiên Chúa mạnh mẽ oai hùng
Thiên Chúa oai hùng khi xuất trận.
(Tv 24, 7-8).
Theo cách giải thích thiêng liêng của các Giáo phụ và phụng vụ, những cánh cửa được nói đến trong Thánh Vịnh là những cánh cửa của trái tim con người: “Phúc cho ai được Chúa Kitô gõ cửa”, Thánh Ambrôsiô bình luận. “Cánh cửa của chúng ta là đức tin… Nếu bạn muốn nâng cánh cửa đức tin của mình lên, thì vua vinh quang sẽ đến với bạn”. Thánh Gioan Phaolô II đã biến những lời trong Thánh Vịnh thành bản tuyên ngôn cho triều đại giáo hoàng của mình. “Hãy mở rộng những cánh cửa cho Chúa Kitô!”, ngài đã hét lên với thế giới, vào ngày bắt đầu sứ vụ mục tử toàn thể Hội Thánh của mình.
Cánh cửa lớn mà con người có thể mở hoặc đóng với Chúa Kitô là một và được gọi là tự do. Tuy nhiên, nó mở ra theo ba cách khác nhau, hay theo ba loại quyết định khác nhau mà chúng ta có thể coi là ba cánh cửa: đức tin, đức cậy và đức mến. Đây đều là những cánh cửa đặc biệt: chúng mở từ bên trong và bên ngoài cùng một lúc: bằng hai chìa khóa, một chiếc nằm trong tay con người, chiếc còn lại nằm trong tay Chúa. Con người không thể mở chúng nếu không có sự giúp đỡ của Chúa và Chúa không muốn mở những cánh cửa ấy nếu không có sự hợp tác của con người.
Đức Kitô, nguồn gốc và sự viên mãn của đức tin
Vì thế, chúng ta hãy bắt đầu suy tư từ cánh cửa đầu tiên trong ba cánh cửa: đó là đức tin. Chúng ta đọc trong Sách Tông Đồ Công Vụ rằng Thiên Chúa “đã mở cánh cửa đức tin cho dân ngoại” (Cv 14:27). Thiên Chúa mở cánh cửa đức tin theo nghĩa Người ban khả năng tin bằng cách sai đến những người rao giảng Tin Mừng; con người mở cánh cửa đức tin bằng cách chấp nhận khả thể này.
Với sự xuất hiện của Chúa Kitô, có một bước nhảy vọt về chất liên quan đến đức tin. Không phải trong bản chất của nó, mà trong nội dung của nó. Giờ đây, vấn đề không còn là niềm tin chung chung vào Thiên Chúa, mà là niềm tin vào Chúa Kitô đã xuống thế làm người, chết và sống lại vì chúng ta. Thư gửi tín hữu Do Thái liệt kê một danh sách dài những người tin Chúa: “Nhờ đức tin Aben… Nhờ đức tin Ápraham… Nhờ đức tin Isaác… Nhờ đức tin Giacóp… Nhờ đức tin Môise…” Nhưng Thánh Phaolô kết luận bằng cách nói: “Nhờ đức tin, tất cả các nhân vật đó đã được chứng giám, thế mà họ không đạt được những điều Thiên Chúa đã hứa” (Dt 11, 39). Thiếu cái gì ở đây? Thưa: Thiếu Chúa Giêsu Đấng – như Bức thư nói – là “Đấng khai mở và kiện toàn đức tin. “ (Dt 12:2).
Do đó, đức tin Kitô giáo không chỉ bao gồm việc tin vào Thiên Chúa; nó hệ tại ở việc tin vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến. Trước khi làm phép lạ, Chúa Giêsu hỏi: “Anh có tin không?” và sau khi hoàn thành, Ngài khẳng định: “Đức tin của anh đã cứu anh”, Ngài không ám chỉ một niềm tin chung chung vào Thiên Chúa (điều này được coi là điều hiển nhiên ở mọi người Israel); nhưng đề cập đến niềm tin vào Người, vào sức mạnh thiêng liêng được ban cho Người.
Bây giờ đây, đức tin công chính hóa kẻ gian ác, đức tin sinh ra sự sống mới. Nó được đặt ở phần cuối của một quá trình mà trong chương thứ mười của Thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô lần theo dấu vết, gần như trực quan, các giai đoạn khác nhau, vẽ chúng trên bản đồ cơ thể con người. Ngài nói, mọi sự bắt đầu từ đôi tai, từ việc nghe công bố Tin Mừng: “Đức tin đến từ việc lắng nghe”, fides ex auditu. Từ đôi tai, chuyển động đi đến trái tim, nơi quyết định cơ bản được đưa ra: corde creditur, “người ta tin bằng trái tim”. Từ trái tim, chuyển động quay trở lại miệng: “bằng miệng người ta tuyên xưng đức tin”: ore fit confessionio.
Quá trình không kết thúc ở đó, mà – từ đôi tai, trái tim và cái miệng – nó chuyển sang đôi tay. Vâng, bởi vì như Thánh Tông Đồ nói “đức tin hành động nhờ tình yêu” (Gl 5:6). Thánh Giacôbê Tông đồ có thể cảm thấy yên tâm. Cũng có chỗ cho “việc làm”: tuy nhiên, không phải trước, mà là sau đức tin (về mặt luận lý nếu không phải theo trình tự thời gian). Thánh Grêgôriô Cả nói: “Người ta không đạt đến đức tin bắt đầu từ các nhân đức, nhưng đạt đến các nhân đức bắt đầu từ đức tin”.
Lúc này, một câu hỏi rất thời sự được đặt ra. Nếu đức tin cứu rỗi là đức tin nơi Chúa Kitô, thì phải nghĩ sao về tất cả những người không có cơ hội tin nơi Ngài? Chúng ta đang sống trong một xã hội đa nguyên, kể cả về tôn giáo. Các nền thần học của chúng ta - Đông phương và Tây phương, Công Giáo cũng như Tin lành - đã phát triển trong một thế giới mà trên thực tế chỉ có Kitô giáo tồn tại. Tuy nhiên, sự tồn tại của các tôn giáo khác đã được biết đến, nhưng các tôn giáo ấy đã bị coi là sai ngay từ đầu, hoặc hoàn toàn không được xem xét. Ngoài cách hiểu khác nhau về Giáo Hội, tất cả các Kitô hữu đều chia sẻ một tiên đề truyền thống: “Không có ơn cứu độ bên ngoài Giáo Hội”: Extra Ecclesiam nulla salus.
Ngày nay điều này không còn đúng nữa. Trong một thời gian, đã có một cuộc đối thoại giữa các tôn giáo, dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và thừa nhận các giá trị hiện diện trong mỗi tôn giáo. Trong Giáo Hội Công Giáo, điểm khởi đầu là tuyên nguyên “Nostra aetate” của Công đồng Vatican II, và tất cả các Giáo Hội Kitô lịch sử đều chia sẻ một định hướng tương tự. Với sự công nhận này, có một xác tín đã bám rễ cho rằng ngay cả những người bên ngoài Giáo Hội cũng có thể được cứu.
Theo quan điểm mới này, liệu còn có thể duy trì vai trò cho đến nay được gán cho niềm tin “rõ ràng” vào Chúa Kitô hay không? Trong trường hợp này, phải chăng châm ngôn cổ xưa: “ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ” cuối cùng, tồn tại được trong định đề “ngoài đức tin không có ơn cứu độ”? Trên thực tế, trong một số giới Kitô Hữu, điều sau là học thuyết thống trị và nó là điều thúc đẩy sự dấn thân truyền giáo. Tuy nhiên, theo cách này, sự cứu rỗi ngay từ đầu đã bị giới hạn cho một thiểu số rất nhỏ người dân.
Điều này không thể khiến chúng ta hài lòng và nó có lỗi với Chúa Kitô, tước đoạt của Ngài một phần lớn nhân loại. Người ta không thể tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, rồi giới hạn sự liên quan thực sự của Ngài vào một phần rất hẹp duy nhất của nó. Chúa Giêsu là “Đấng Cứu Độ Thế Gian” (Ga 4:42); Chúa Cha đã sai Chúa Con “để thế gian nhờ Người mà được cứu độ” (Ga 3:17): thế gian, không phải là một tập hợp ít người trên thế giới!
Chúng ta hãy thử tìm câu trả lời trong Kinh Thánh. Kinh Thánh khẳng định rằng ai chưa biết Đức Kitô, nhưng hành động theo lương tâm của mình (Rm 2:14-15) và làm điều thiện cho người thân cận (Mt 25:3 tt.) thì được Thiên Chúa chấp nhận. Trong sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta nghe từ miệng Thánh Phêrô tuyên bố long trọng này: “Quả thật, tôi thấy Thiên Chúa không thiên vị ai. Trái lại, trong mọi nước, ai kính sợ Ngài và hành động ngay thẳng đều được Ngài chấp nhận” (Cv 10:34-35).
Ngay cả những người theo các tôn giáo khác nói chung cũng tin rằng “Thiên Chúa hiện hữu và ban thưởng cho những ai tìm kiếm Ngài” (Dt 11: 6); do đó, họ nhận ra điều mà Kinh thánh coi là dữ liệu cơ bản và chung của mọi niềm tin. Tất nhiên, điều này áp dụng theo một cách rất đặc biệt đối với những anh em Do Thái tin vào cùng một Thiên Chúa của Ápraham, Isaác và Giacóp mà Kitô hữu chúng ta tin.
Tuy nhiên, lý do chính cho sự lạc quan của chúng ta không dựa trên điều thiện mà những người theo tôn giáo khác có thể làm được, nhưng dựa trên “ân sủng muôn hình muôn vẻ của Thiên Chúa” (1Pr 4:10). Đôi khi tôi cảm thấy cần phải dâng hy tế Thánh Lễ chính xác nhân danh tất cả những người được cứu nhờ Chúa Kitô, nhưng không biết điều đó và không thể tạ ơn Người. Phụng vụ cũng thúc giục chúng ta làm như vậy. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể 4, ngoài lời cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, Đức Giám Mục và tín hữu, một lời cầu nguyện được thêm vào “cho tất cả những ai thành tâm tìm kiếm Chúa”.
Thiên Chúa có nhiều cách để cứu rỗi hơn chúng ta có thể nghĩ đến. Ngài đã thiết lập các “kênh” ân sủng của mình, nhưng Ngài không tự ràng buộc mình với những kênh ấy. Một trong những phương tiện cứu rỗi “phi thường” này là đau khổ. Sau khi Đức Kitô đã mặc lấy và cứu chuộc, thì một cách nào đó, đau khổ cũng là một bí tích cứu độ phổ quát. Người đã xuống nước sông Giođan để thánh hóa nước trong mọi phép rửa, Người cũng xuống nước của khổ nạn và sự chết, biến chúng thành khí cụ cứu rỗi tiềm tàng. Một cách mầu nhiệm, mọi đau khổ – không chỉ đau khổ của các tín hữu –, theo một cách nào đó, hoàn thành “điều còn thiếu sót* trong những gian nan thử thách của Đức Kitô” (Cl 1:24) [Thánh Phaolô viết “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh]. Giáo Hội cử hành lễ Các Thánh Anh Hài; các thánh này cũng không biết rằng họ đang chịu khổ vì Chúa Kitô!
Chúng ta tin rằng tất cả những ai được cứu rỗi đều là nhờ công nghiệp của Chúa Kitô: “Chẳng có sự cứu rỗi bởi đấng nào khác, cũng chẳng có danh nào khác dưới gầm trời ban cho loài người mà nhờ đó chúng ta được cứu.” (Công vụ 4:12). Tuy nhiên, khẳng định nhu cầu phổ quát của Chúa Kitô đối với ơn Cứu Độ là một chuyện, và khẳng định sự cần thiết phổ quát của đức tin nơi Chúa Kitô để được cứu rỗi lại là một chuyện khác.
Vậy có thừa không khi tiếp tục loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật? Còn cần hơn nữa! Cần phải thay đổi lý do truyền giáo, chứ không phải thay đổi việc truyền giáo. Chúng ta phải tiếp tục loan báo Chúa Kitô; không phải vì một lý do tiêu cực – là nếu không thì thế giới sẽ bị kết án – mà vì một lý do tích cực: vì ân sủng vô hạn mà Chúa Giêsu mang đến cho mỗi con người. Đối thoại liên tôn không đối lập với việc rao giảng Tin Mừng, nhưng nó xác định phong cách của việc rao giảng Tin Mừng. Cuộc đối thoại này – Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong thông điệp “Sứ vụ của Đấng Cứu Chuộc” – “là một phần trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội”.
Mệnh lệnh của Đức Kitô: “Hãy đi khắp thế gian, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16:15) và “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28:19) vẫn có giá trị vĩnh cửu, nhưng phải được hiểu trong bối cảnh lịch sử của nó. Đây là những từ ám chỉ thời điểm chúng được viết ra, khi “cả thế giới” và “mọi dân tộc” là cách nói rằng thông điệp của Chúa Giêsu không chỉ dành cho dân Do Thái mà còn cho phần còn lại của thế giới. Chúng luôn có giá trị đối với tất cả mọi người, nhưng đối với những người đã thuộc về một tôn giáo thì cần có sự tôn trọng, kiên nhẫn và yêu thương. Thánh Phanxicô thành Assisi đã hiểu điều này và đem ra thực hành. Ngài dự tính hai cách để đi tới “người Hồi Giáo và những kẻ ngoại đạo khác”. Ngài viết trong Bản luật của mình:
Tuy nhiên, những anh em đi giữa những người Hồi Giáo và những người ngoại đạo khác có thể cư xử theo hai cách về mặt tinh thần giữa họ. Một cách là không tranh cãi hay tranh chấp; nhưng hãy để những người ấy là “chủ thể của sinh vật con người vì lợi ích của Chúa,” nhưng anh em vẫn tuyên xưng mình là Kitô hữu. Cách khác là khi họ thấy điều đó đẹp lòng Thiên Chúa, thì anh em công bố Lời của Thiên Chúa, để những người ấy có thể tin vào Thiên Chúa Toàn Năng, Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Đấng Tạo Hóa của muôn vật, Chúa Cứu Thế và Cứu Chuộc của chúng ta, ngõ hầu họ có thể được chịu phép rửa tội và trở thành Kitô hữu.
Thách thức của khoa học
Với trái tim rộng mở này, bây giờ chúng ta hãy trở lại với niềm tin Kitô giáo của mình. Thử thách lớn lao mà đức tin phải đương đầu trong thời đại chúng ta không đến từ triết học như trong quá khứ, nhưng đến từ khoa học. Có một tin tức giật gân cách đây vài tháng. Một kính viễn vọng được phóng lên vũ trụ vào ngày 25 tháng 12 năm 2021 và ở vị trí cách trái đất một triệu rưỡi km, đã gửi những hình ảnh phi thường về vũ trụ vào ngày 12 tháng 7 năm nay khiến giới khoa học phải say mê.
“Kính viễn vọng mới – chúng ta đọc trên tin tức – đã mở ra một cửa sổ mới về vũ trụ, có thể đưa chúng ta quay ngược thời gian, cho đến ngay sau vụ nổ lớn ban đầu của thế giới. Đó là cái nhìn chi tiết nhất về vũ trụ sơ khai từng có được. Nó đại diện cho hương vị đầu tiên của một ngành thiên văn học mới và mang tính cách mạng sẽ tiết lộ vũ trụ mà chúng ta chưa từng thấy trước đây”.
Chúng ta sẽ thật ngu ngốc và vô ơn nếu không tham gia vào niềm tự hào chính đáng của nhân loại về điều này cũng đúng đối với bất kỳ khám phá khoa học nào khác. Như đã nói, nếu niềm tin được nảy sinh từ việc lắng nghe cũng như từ sự ngạc nhiên thì những khám phá khoa học này không nên làm giảm khả năng tin tưởng, mà phải làm tăng khả năng tin tưởng. Nếu sống ở thời nay, tác giả Thánh Vịnh sẽ còn nhiệt tình hát hơn nữa: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo kỳ công tay Người làm” (Tv 19:2) và Thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa với muôn loài”.
Chúa muốn ban cho chúng ta một dấu hiệu hữu hình về sự vĩ đại vô tận của Ngài với sự bao la của vũ trụ và muốn ban cho chúng ta một dấu hiệu về “sự khó thấu hiểu” của Ngài với hạt vật chất nhỏ nhất mà vật lý học bảo đảm dù từng được biết đến vẫn có “sự không chắc chắn” của nó. Vũ trụ không tự tạo ra nó. Chất lượng của sự tồn tại là điều quyết định chứ không phải số lượng; và chất lượng của sự sáng tạo là… được tạo ra! Hàng tỷ thiên hà, cách xa hàng tỷ tỷ năm ánh sáng, không thay đổi chất lượng này.
Chúng ta đưa ra những suy tư về đức tin và khoa học này không phải để thuyết phục các nhà khoa học không có đức tin (không ai trong số họ ở đây để nghe hoặc đọc những lời này), mà là để củng cố chúng ta là những người tin vào đức tin của chúng ta và không bị quấy rầy bởi những tiếng nói trái ngược. Đó cũng là mục đích mà Thánh Luca nói với “Theophilô lừng lẫy” rằng ngài đã viết Tin Mừng của mình: “để anh em nhận ra sự chắc chắn của những lời anh em đã lãnh nhận” (Lc 1: 4).
Đối mặt với sự mở ra trước mắt chúng ta các chiều kích vô tận của vũ trụ, hành động đức tin lớn nhất đối với Kitô hữu chúng ta không phải là tin rằng tất cả những điều này được tạo ra bởi Thiên Chúa, mà là tin rằng “muôn vật được tạo dựng nhờ Chúa Kitô và cho Ngài. “(Cl 1:16), rằng “không có Người thì không có gì” (Ga 1:3). Kitô hữu có bằng chứng về Thiên Chúa thuyết phục hơn nhiều so với bằng chứng thu được từ vũ trụ: đó là con người và cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.
Các tín hữu không phải là đà điểu. Chúng ta không giấu đầu trong cát để không nhìn thấy. Chúng ta chia sẻ với mỗi người sự hoang mang trước muôn vàn bí ẩn và mâu thuẫn của vũ trụ: của tiến hóa tự nhiên, của lịch sử, của chính Kinh thánh… Tuy nhiên, chúng ta có thể vượt qua sự hoang mang đó bằng một điều chắc chắn mạnh mẽ hơn mọi điều không chắc chắn: đó là sự khả tín của con người Đức Kitô, của đời sống và lời nói của Người. Sự chắc chắn trọn vẹn và vui mừng không đến trước mà đến sau khi đã tin.
Người công chính sẽ sống nhờ niềm tin
Đức tin là tiêu chí duy nhất có khả năng khiến chúng ta liên hệ đúng đắn, không chỉ với khoa học, mà còn với lịch sử. Khi nói về đức tin công chính hóa, thánh Phaolô trích dẫn lời sấm nổi tiếng Khabarúc: “người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (Ab 2:4). Thiên Chúa có ý gì qua lời tiên tri đó, vì chính Thiên Chúa đã thốt ra lời ấy?
Thông điệp mở đầu bằng lời than thở của nhà tiên tri, vì sự thất bại của công lý và vì Thiên Chúa từ trên cao dường như thản nhiên chứng kiến bạo lực và áp bức. Chúa trả lời rằng tất cả những điều này sắp kết thúc vì một tai họa mới sẽ sớm đến – người Chanđê – sẽ quét sạch mọi thứ và mọi người. Nhà tiên tri phản đối giải pháp này. Đây lại là câu trả lời của Chúa sao? Một sự áp bức thay thế cho một sự áp bức khác à?
Nhưng ngay tại đây, Thiên Chúa đang chờ đợi nhà tiên tri: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình” (Ab 2, 2-4). Nhà tiên tri được yêu cầu thực hiện bước nhảy vọt về đức tin. Thiên Chúa không giải quyết bí ẩn của lịch sử, nhưng yêu cầu chúng ta tin tưởng vào Ngài và công lý của Ngài, bất chấp mọi thứ. Giải pháp không nằm ở việc chấm dứt thử thách, mà nằm ở việc gia tăng đức tin.
Lịch sử là cuộc đấu tranh không ngừng giữa cái thiện và cái ác, kẻ ác chiến thắng và người chính nghĩa chịu đau khổ. Chiến thắng bền vững của cái thiện trước cái ác không được tìm thấy trong chính lịch sử, mà vượt ra ngoài lịch sử. Chúng ta hãy bỏ lại đằng sau tất cả các hình thức của chủ nghĩa thiên niên kỷ. Tuy nhiên, Thiên Chúa có quyền tể trị và kiểm soát mọi sự kiện đến nỗi ngay cả sự kích động của kẻ ác cũng phục vụ cho những kế hoạch bí ẩn của Ngài. Quả thật, Thiên Chúa viết thẳng bằng những đường cong! Các tình huống có thể nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, nhưng với Chúa thì không.
Thông điệp của Khabacúc đặc biệt thích hợp cho chúng ta ngày nay. Nhân loại đã trải qua trong những năm cuối của thế kỷ sự giải phóng khỏi quyền lực áp bức của các hệ thống toàn trị cộng sản. Nhưng chúng ta không có thời gian để thở phào nhẹ nhõm vì những bất công và bạo lực khác đã phát sinh trên thế giới. Có những người, khi “chiến tranh lạnh” kết thúc, đã ngây thơ tin rằng chiến thắng của nền dân chủ giờ đây sẽ dứt khoát khép lại chu kỳ của những biến động lớn và rằng lịch sử sẽ tiếp tục tiến trình của nó mà không có những cú sốc kinh hoàng. Chính xác là không có thêm “lịch sử” như thế. Luận điểm này đã sớm bị bác bỏ một cách đáng tiếc bởi các sự kiện, với sự xuất hiện của các chế độ độc tài khác và sự bùng nổ của các cuộc chiến tranh mới, bắt đầu từ cuộc chiến “Vùng Vịnh”, cho đến cuộc chiến bất hạnh năm nay ở Ukraine.
Trong hoàn cảnh này, câu hỏi chân thành của vị tiên tri cũng được khuấy động trong chúng ta: “Lạy Chúa, cho đến khi nào? Chúa có đôi mắt quá trong sáng đến nỗi Chúa không thể nhìn thấy điều ác sao! Tại sao có quá nhiều bạo lực, quá nhiều xác người trơ xương vì đói, quá nhiều sự tàn ác trên thế giới mà Chúa không can thiệp?” Câu trả lời của Chúa vẫn thế: ai không có tấm lòng ngay thẳng với Chúa thì dễ bi quan và vấp phạm, còn người công chính sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình và tìm được câu trả lời trong đức tin của mình. Anh ta sẽ hiểu điều Chúa Giêsu muốn nói khi, trước mặt Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36).
Nhưng chúng ta hãy ghi nhớ kỹ điều đó trong đầu và nếu cần, hãy thông báo với thế giới: Thiên Chúa công minh và thánh thiện; Ngài sẽ không cho phép cái ác có tiếng nói cuối cùng và những kẻ bất lương thoát tội. Sẽ có một sự phán xét ở phần kết của câu chuyện, “một cuốn sách viết sẽ được mở ra, trong đó chứa đựng mọi thứ và theo đó thế giới sẽ được phán xét”: Liber scriptus proferetur – in quo totum continetur – und mundus judicetur.
Một sự phán xét đầu tiên, không hoàn hảo nhưng nằm trong tầm tay của tất cả mọi người, các tín hữu và những người không tin, hiện đã có sẵn, hơn nữa có cả trong lịch sử. Những ân nhân của nhân loại đã làm việc vì lợi ích thực sự của đất nước họ và vì hòa bình thế giới được ghi nhớ với sự vinh danh và chúc lành từ thế hệ này sang thế hệ khác; tên của bạo chúa và những kẻ bất lương tiếp tục qua nhiều thế kỷ đi kèm với sự ô nhục và bị trù dập. Chúa Giêsu đã mãi mãi đảo ngược vai trò. “Người chiến thắng vì là nạn nhân”, do đó, Thánh Augustinô định nghĩa Chúa Kitô: Victor quia victima. Dưới ánh sáng của sự vĩnh cửu – và cả của lịch sử – không phải những kẻ hành quyết mới là những người chiến thắng thực sự, mà là những nạn nhân của họ.
Điều mà Giáo Hội có thể làm, để không chứng kiến một cách thụ động lịch sử, là đứng về phía chống lại những kẻ áp bức và kiêu ngạo và luôn đặt mình, “đúng lúc cũng như toàn thời gian”, về phía người nghèo, người yếu thế, những nạn nhân, những người gánh chịu mọi bất hạnh và mọi cuộc chiến.
Những gì Giáo Hội có thể làm cũng là loại bỏ một trong những yếu tố luôn gây ra xung đột là sự cạnh tranh giữa các tôn giáo, những “cuộc chiến tôn giáo” khét tiếng. Một lực đẩy đạo đức có thể đến từ sự hiểu biết và sự hợp tác trung thành giữa các tôn giáo lớn đã ghi dấu ấn trong lịch sử chứ không phải tiến trình mới mà chúng ta mong đợi một cách vô ích từ các cường quốc chính trị. Theo nghĩa này, cần phải thấy được sự hữu ích của các sáng kiến cho một cuộc đối thoại mang tính xây dựng giữa các tôn giáo do thánh Gioan Phaolô II khởi xướng và được Đức Giáo Hoàng đương nhiệm thúc đẩy ngày nay.
Đức tin là vũ khí của Giáo Hội. Giáo Hội, giống như người công chính của Khabacúc, cũng “sống nhờ đức tin của mình”. Trong tiếng Ý, từ “đức tin” có nghĩa thứ hai, đó là chiếc nhẫn cưới mà vợ chồng trao nhau trong ngày cưới. Đức tin, nhân đức đối thần, là chiếc nhẫn cưới của Hiền Thê Chúa Kitô! Rôma từ lâu đã không còn là caput mundi, thủ đô của thế giới, nhưng nó phải là caput fidei, thủ đô của đức tin. Không chỉ có niềm tin đúng đắn, tức là chính thống, mà còn có cường độ tin tưởng.
Điều mà các tín hữu nắm bắt ngay lập tức nơi một linh mục và một mục tử là liệu họ có “tin vào điều đó” hay không, họ có tin vào những gì mình nói và những gì mình cử hành hay không. Ngày nay có rất nhiều việc sử dụng truyền dẫn không dây hay WiFi, như chúng ta nói trong tiếng Anh. Đức tin cũng được truyền đạt tốt hơn theo cách này: không ràng buộc, không nhiều lời nói và tranh luận, nhưng thông qua một luồng ân sủng được thiết lập giữa hai người.
Hành động đức tin lớn nhất mà Giáo Hội có thể làm – sau khi đã cầu nguyện và làm mọi điều có thể để tránh hoặc chấm dứt xung đột – là tuân phục Thiên Chúa với một hành động hoàn toàn tin tưởng và từ bỏ trong thanh thản, đồng thời lặp lại cùng với Thánh Tông đồ: “Tôi biết tôi tin vào ai!”: Scio cui credidi (2 Tim 1:12). Thiên Chúa không bao giờ rút lui để làm cho những ai lao vào vòng tay của Người sẽ rơi vào hư không.
Vì thế, chúng ta hãy đi gặp Chúa Kitô, Đấng đang đến, với một hành vi đức tin cũng như với một lời hứa của Thiên Chúa và do đó là một lời tiên tri: “Thế giới ở trong tay Thiên Chúa và khi lạm dụng tự do của mình, con người đã chạm đến đáy, Người sẽ can thiệp để cứu con người”. Vâng, Người sẽ can thiệp! Đây là lý do tại sao Người đến thế giới hai nghìn hai mươi hai năm trước.
1.Ambrôsiô thành Milano, Chú Giải Thánh Vịnh 118, XII, 14.
2.Gregory Đại đế, Bài giảng về tiên tri Edêkien, II, 7 (PL 76, 1018).
3. Bản luật không có sắc chỉ, XVI.
4. Sequence Dies irae.
Source:Cantalamessa
Nguồn: Vatican News
Liên Hiệp Quốc: Nhà nước Hồi giáo ở Iraq phạm tội ác chiến tranh chống các Kitô hữu
Phúc trình được đệ trình lên Hội đồng Bảo an, cơ quan cao nhất của Liên Hiệp Quốc, vào ngày 01/12, cho biết kết quả điều tra chứng minh rằng các nhóm cực đoan có liên hệ với Nhà nước Hồi giáo đã tấn công các Kitô hữu, đặc biệt là khi tổ chức này nắm quyền kiểm soát các thành phố của Iraq vào năm 2014.
Nội dung của phúc trình cũng bao gồm các vấn đề khác, như các nhóm cực đoan có liên hệ với Hồi giáo đã buộc các Kitô hữu phải di dời, buộc phải cải sang Hồi giáo, tịch thu nhà cửa và tài sản của họ, phá hủy các nhà thờ và các địa điểm khảo cổ khác.
Liên Hiệp Quốc đã khẳng định hoạt động của các nhóm vũ trang đã giành quyền kiểm soát các khu vực Kitô giáo, nổi bật nhất của Đồng bằng Nineveh, phía bắc Mosul. Các thành phố là Al-Hamdaniya, Karemlesh và Bartella.
Các Kitô hữu của những khu vực này cũng bị buộc phải cải đạo sang Hồi giáo hoặc rời bỏ nhà cửa. Kết quả là, hàng ngàn gia đình đã chạy trốn đến các khu vực phía bắc của Iraq.
Đức Tổng Giám Mục Bashar Warda thuộc Công giáo Canđê, của Tổng Giáo phận Erbil ở miền Kurdistan, bắc Iraq, nói rằng phúc trình là một bằng chứng xác thực cho những gì Giáo hội đã trải qua. Ngài nói “Từ năm 2014, chúng tôi đã bắt đầu nói công khai vụ thảm sát và các sự kiện. Chúng tôi trình bày cho các phái đoàn quốc tế bằng chứng sống về tội ác của các tổ chức khủng bố.”
Theo Đức Tổng Giám Mục Warda, hệ tư tưởng mà các nhóm này theo đuổi không mới, vì ý tưởng ủng hộ việc thành lập một nhà nước Hồi giáo được điều hành bởi luật Hồi giáo đã có từ trước. Có những học giả và luật gia đã phản đối dự án thành lập một nhà nước Hồi giáo do những hành vi phạm tội của các tổ chức vũ trang.
Ngài nhận xét: “Sự công nhận của quốc tế mang lại sức mạnh, phục hồi phẩm giá của con người và được ghi vào lịch sử, để thảm kịch này không xảy ra nữa và để bồi thường cho các nạn nhân. Chúng tôi mong muốn chính phủ Hoa Kỳ làm việc với chính quyền Iraq để có được những quyền này.”
Giáo hội Công giáo Canđê ở Erbil đã đóng một vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn cuộc khủng hoảng lớn nhất mà các Kitô hữu phải đối mặt trong nhiều thập kỷ. Từ năm 2015, Giáo hội đã làm việc với Hội Hiệp sĩ Columbo và các tổ chức quốc tế để thành lập ủy ban điều tra các hoạt động tội phạm chống lại hàng trăm ngàn Kitô hữu.
Những nỗ lực không mệt mỏi đã khiến cựu Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và Hạ viện Hoa Kỳ thông qua việc nhìn nhận tội các của cuộc chiến chống lại các Kitô hữu ở Iraq. (Acidigital 05/12/2022)
Ngọc Yến - Vatican News
Số tín hữu Công giáo Hoa Kỳ gia tăng
Cuộc điều tra dân số về tôn giáo Hoa Kỳ do Hiệp hội các nhà thống kê của các tổ chứ tôn giáo Hoa Kỳ tiến hành 10 năm một lần. Báo cáo mới nhất đã được công bố vào tháng trước.
Kết quả khảo sát cho biết, tính tới năm 2020, Hoa Kỳ có 61,9 triệu người Công giáo, chiếm khoảng 18,7% dân số.
Ở Hoa Kỳ, mặc dù số các tín hữu Tin lành đông hơn các tín hữu Công giáo, nhưng các nhà nghiên cứu dân số về tôn giáo Hoa Kỳ đã xem các tổ chức Tin lành như các nhóm giáo phái riêng, không tính chung. Theo cách phân loại này, người Công giáo là nhóm tôn giáo lớn nhất ở Hoa Kỳ. Số người Công giáo nhiều gấp ba lần so với nhóm người không thuộc hệ phái Kitô nào hoặc Tin lành Baptist ở Nam Hoa Kỳ, là hai nhóm tôn giáo lớn nhất tiếp theo.
Cuộc khảo sát cũng đã xác định Giáo hội Công giáo có 19.405 tổ chức. Đây là con số thấp nhất trong hơn 50 năm. Nhưng theo các nhà nghiên cứu đây là dấu hiệu phản ánh sự hiệp nhất trong Giáo hội.
Theo mục đích của cuộc điều tra dân số năm 2020, một tổ chức Công giáo có nghĩa là một cộng đoàn giáo xứ, cơ quan truyền giáo hoặc địa điểm có Thánh lễ theo lịch trình thường xuyên ít nhất sáu tháng trong năm. Một tín hữu Công giáo là một cá nhân có liên hệ với một cộng đoàn Công giáo theo một cách nào đó.
Trong hơn một thế kỷ, Giáo hội Công giáo là tôn giáo lớn nhất ở Hoa Kỳ. Số tín hữu trung bình của mỗi cộng đoàn là 3.000 người, cao hơn so với các cộng đoàn của các tôn giáo khác. Ở các tôn giáo khác, không cộng đoàn nào có số tín đồ lên tới 2.000.
Công giáo cũng là tổ chức tôn giáo lớn nhất ở 36 bang. Tiếp đến là Baptist Miền Nam với số tín hữu lớn nhất trong 9 bang ở Nam Hoa Kỳ. (CNA 06/12/2022)
Ngọc Yến - Vatican News
Đức Phanxicô sẽ tiếp bác sĩ Denis Mukwege ngày thứ sáu 9 tháng 12
Đức Phanxicô và bác sĩ Denis Mukwege trong buổi tiếp kiến chung tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 22 tháng 5-2019
mediacongo.net, 2022-12-05
Thứ sáu 9 tháng 12, Đức Phanxicô sẽ tiếp bác sĩ Denis Mukwege, người được giải Nobel Hòa bình năm 2018. Hai nhân vật sẽ thảo luận cụ thể về sự xâm lược của Rwanda và cuộc khủng hoảng nhân đạo ở miền đông Cộng hòa Dân chủ Congo.
Cuộc gặp diễn ra hơn một tháng trước chuyến đi của Đức Phanxicô đến Kinshasa, thủ đô nước Cộng hòa Dân chủ Congo, đặc biệt trong bối cảnh có hơn 100 người Congo bị quân đội Rwandan và những kẻ khủng bố M23 tàn sát trên lãnh thổ Rutshuru.
Bác sĩ Mukwege đã yêu cầu các chuyên gia pháp luật-y tế của Liên Hợp Quốc có mặt tại Goma đến thăm các địa điểm xảy ra vụ thảm sát để khai quật những ngôi mộ tập thể và thu thập bằng chứng. Ông viết trên tài khoản Twitter: “Sau vụ thảm sát Kishishe và Bambo, theo yêu cầu điều tra độc lập, chúng tôi kêu gọi nhóm chuyên gia pháp luật-y tế của Liên Hợp Quốc ở Goma đến thăm hiện trường vụ án, khai quật các ngôi mộ tập thể, trả lại sự chôn cất đàng hoàng cho các nạn nhân và thu thập bằng chứng về tội ác.”
Đức Phanxicô sẽ ở Kinshasa từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 3 tháng 2 năm 2023. Ngài sẽ gặp các nạn nhân cuộc chiến ở miền Đông, đại diện của một số tổ chức từ thiện, chính quyền Congo, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Những bức thư từ Kiev: thư thứ 31 của linh mục Đa Minh Jaroslav Krawiec từ trung tâm cuộc chiến
cath.ch, Jaroslav Krawiec, 2022-12-05
Jaroslav Krawiec linh mục Dòng Đa Minh, người gốc Ba Lan, cha ở tu viện Mẹ Thiên Chúa ở trung tâm Kyiv. Kể từ ngày 26 tháng 2 năm 2022, cha thường xuyên gởi về báo Công giáo Thụy Sĩ các câu chuyện “ghi nhận từ Ukraine.”
Đại sứ Ba Lan tại Ukraine Bartosz Cichocki (trái) tham gia phân phát lương thực cứu trợ cùng các tình nguyện viên của Nhà Thánh Martinô ở Izium | © Jaroslaw Krawiec
Ngày thứ bảy 3 tháng 12, Nga cho biết họ sẽ không chấp nhận mức trần giá dầu của họ. Vì thế Matxcova đang phản ứng lại thỏa thuận đạt được giữa Liên minh Âu châu, các nước G7 và Úc về việc thành lập một cơ chế như vậy để hạn chế các phương tiện tài trợ cho cuộc xâm lược Ukraine của Matxcova. Kiev lo ngại các cuộc tấn công ở quy mô lớn hơn nữa vào cơ sở hạ tầng năng lượng của họ.
Anh chị em thân mến,
Một lần nữa cha Misha, các tình nguyện viên Thánh Martinô và tôi đến Izium và Balakliya, miền đông đất nước. Lần này ông Bartosz Cichocki, đại sứ Ba Lan tại Ukraine cùng tham gia với chúng tôi. Ông là một trong những nhà ngoại giao đã không rời chức vụ ở Kiev khi bắt đầu chiến tranh. Ông và vợ là bà Monika giúp đỡ rất nhiều trong các hoạt động trợ giúp, kể cả nhà Thánh Martinô của chúng tôi ở Fastiv. Chúng tôi đã đi đường ba ngày.
Khi xuống xe buýt, ông và chúng tôi phân phát viện trợ ngay cho người nghèo. Trẻ em ở ngôi làng nhỏ Kunje, bên ngoài Izium, ngạc nhiên trước những món đồ chơi, băng tay phản quang và ba lô. Người dân ở đây sống rất giản dị nên những món quà đầy màu sắc dành cho trẻ em đã mang niềm vui đến cho họ và phá tan đi sự xám xịt của cuộc sống. Mọi người tụ tập đông ở cửa hàng trung tâm ngôi làng, nơi chúng tôi phân phát viện trợ nhân đạo. Tôi nghĩ cha Krzysztof, bề trên của Korbielów, người mê xe và mô tô nổi tiếng sẽ rất vui khi cha thấy bảo tàng sống của ngành công nghiệp xe ở đây. Nhiều chiếc xe đến nhận giúp đỡ có từ thời… Liên Xô.
Chuyển từ tay này sang tay khác những túi thực phẩm nặng 5 kílô thật mệt mỏi, nhưng thật khó để tìm ra cách tốt hơn để dỡ đồ đạc từ xe xuống. Công việc này mang ý nghĩa sâu xa hơn. Trao từ tay này sang tay khác luôn là cuộc gặp với người khác, những người chúng ta nhận được từ họ và những người chúng ta cho đi. Đó là minh họa đơn giản lời Thánh Phaolô: “Anh em có gì mà anh em không nhận lãnh?” (1Cr 4,7). Trong thông điệp cuối cùng nhân Ngày Người Nghèo, Đức Phanxicô cũng đã khéo léo bày tỏ điều mà nhiều người trong chúng ta đã trải qua từ khi bắt đầu cuộc chiến: “Trước mặt người nghèo, chúng ta không hùng biện. Chúng ta xắn tay áo và làm những gì chúng ta tin, bằng cách tham gia trực tiếp. Không thể ủy thác cho bất kỳ ai”.
Trẻ em đi cùng cha mẹ đến trung tâm phân phát thực phẩm ở Kunje | © Jaroslaw Krawiec
Đó là lý do vì sao khi nghĩ đến các tình nguyện viên và các anh chị em Đa Minh, tôi xác tín sâu xa chúng tôi may mắn khi được sống ở cuối của chuỗi công việc tốt lành. Thật vậy, đằng sau mỗi bao lương thực, thuốc men, quần áo ấm hay máy phát điện đến với người nghèo là công sức, thời gian, tiền bạc và sự tham gia của rất nhiều người thiện tâm. Chúng tôi rất biết ơn về tất cả những điều này! Không có anh chị em, chúng tôi không tồn tại.
Ngôi trường bị người Nga bỏ lại trong đống đổ nát
Trước chiến tranh, Kunje có một khu trường học rộng lớn gồm các trường cấp ba, cấp hai, tiểu học và mẫu giáo. Thật không may, tòa nhà bị Nga ném bom ngay đầu cuộc chiến. Từ đó, cho đến giữa tháng 9, lực lượng chiếm đóng đã dùng nó làm doanh trại. Bây giờ chúng là đống đổ nát. Trẻ em các làng xung quanh không có nơi nào để đến trường.
Cha Misha rất xúc động khi gặp một phụ nữ ở Izium. “Nhiệt độ trong nhà của bà gần như không khi nào lên tới 3 độ. Tôi không muốn nghe bất cứ ai phàn nàn họ lạnh ở Fastiv!”
Trên đường trở về từ oblast Kharkiv (phân chia hành chính của một số quốc gia do sự tan rã của Liên Xô cũ bao gồm Nga, Belarus, Kazakhstan, Kyrgyzstan và Ukraine), tôi đến nhà ga để cô Ania xuống, cô thuộc nhóm tổ chức điều phối viện trợ nhân đạo Charytatywni ở Warsaw cho Ukraine. Cô sẽ đi chuyến tàu đêm về Ba Lan. Trên một trong những sân ga mà các phương tiện có thể dùng được, gần ba mươi xe cứu thương đang chờ đoàn tàu di tản để đón những người bị thương. Bây giờ là hình ảnh thường thấy ở ga Kiev. Tôi phải mất một thời gian mới làm quen được với hình ảnh này.
Người lính có một con mèo
Một người lính làm chúng tôi chú ý: anh cao to để râu quai nón, trên tay là chiếc ba lô với con mèo. Anh đi đứng khó khăn và rõ ràng là rất đau. Tôi nói chuyện với anh khi anh đứng trên thang cuốn. Anh trở về từ tiền tuyến, bị thương ở cả hai chân vì bốn mảnh đạn.
Người lính mang theo con mèo anh tìm thấy trong căn hầm ở Spirne, nơi anh ta vừa mới chiến đấu | © Jaroslaw Krawiec
Sau khi chào từ giã cô Ania, tôi nghĩ anh có thể cần tôi giúp. Dù sao thì tôi cũng không thể về nhà. Tôi đi bộ đến trước nhà ga trong hy vọng anh còn ở đó. Còn. Anh tên là Yuriy, anh đang ngồi ở trạm xe buýt. Tôi đề nghị chở anh đi. anh bằng lòng vì anh đã gọi taxi mà không thấy họ trả lời.
Yuriy bằng tuổi tôi. Anh đi xe lửa từ Kramatorsk đến, nơi anh được gởi ra chiến trường. Nhiều năm trước, anh đã làm việc ở Ba Lan và đánh giá Ba Lan rất cao. Anh nói một thứ tiếng Ba Lan kỳ lạ, pha trộn các từ tiếng Nga và tiếng Ukraine. Cấp trên cho anh nghỉ mười ngày. Tôi sợ anh không đủ thì giờ để chữa đôi chân nhưng tôi không nghe anh phàn nàn gì về chuyện này.
“Chết không phải là chuyện khổ nhất”
Tôi hỏi anh đời sống ở đó khó lắm không. Anh nói về sự chiếm đóng của Nga: “Cha biết đó, chết không phải là chuyện khổ nhất – điều kinh khủng là sống trong bấp bênh hoài”. Anh hy vọng và muốn tiếp tục chiến đấu cho một Ukraine tự do. “Cuối cùng thì tôi cũng tắm rửa sạch sẽ, và ngày mai tôi về nhà với vợ và ba con của tôi. Tôi đã không gặp gia đình một năm nay.” Tôi nói với anh, tôi biết ơn anh vô cùng về những gì anh làm cho chúng tôi trên chiến trường.
Trong xe, con mèo của anh thỉnh thoảng kêu meo meo. Tên nó là Mushka, anh cười giải thích giống như kính chiếu hậu của khẩu súng. Anh tìm thấy con mèo trong căn hầm ở Spirne, một ngôi làng nhỏ ở biên giới Luhansk và Donetsk, nơi anh chiến đấu gần đây. Anh nói: “Mushka không muốn theo người khác, nó chỉ đi theo tôi. Tôi không biết tôi đã cứu nó hay nó cứu tôi.” Con gái của anh gởi cho anh chiếc túi đặc biệt để đựng nó nên Mushka đã cùng “vị cứu tinh” của mình đi du lịch sang trọng về nhà mới.
Tôi theo dõi tin tức Kherson và tôi rất lo. Chúng tôi đã ở đó ba tuần trước. Thành phố chìm trong bóng tối thật buồn. Khi chúng tôi rời đi, chúng tôi còn thấy vài đốm ánh sáng rải rác, nhưng vài ngày qua người Nga đã phá hủy lưới điện. Tôi sẽ kể về Kherson trong lá thư tiếp theo.
Mở “các điểm kiên trì”
Chủ nhật tuần trước, sau gần 72 giờ, các láng giềng của chúng tôi ở Kyiv đã có điện trở lại. Cha Petro đã chụp tấm ảnh với lời giải thích: “Bức ảnh vui vẻ!” Việc bắn phá ồ ạt và lặp đi lặp lại các cơ sở hạ tầng chiến lược đã làm cho đời sống ở Ukraine mất ổn định. Nếu họ tiếp tục như vậy, cuộc sống ở thủ đô của Ukraine và nhiều nơi khác sẽ rất khó khăn.
Chính quyền mở những nơi để người dân có thể đến sưởi ấm và sạc điện thoại. Họ gọi chúng là “điểm kiên trì”. Thiếu điện là thiếu liên lạc nghiêm trọng: không ánh sáng, không Internet, điện thoại di động cũng không hoạt động. Vì lý do này, đến được Fastiv là một kỳ công.
Cha Petro gởi “Bức ảnh vui vẻ” của các tòa nhà trong vùng lân cận tu viện Đa Minh ở Kyiv sau 72 giờ không có điện | © Cha Petro
Dù bóng tối bên ngoài bao trùm toàn bộ Ukraine trong những ngày này, nhưng Ukraine vẫn không thiếu ánh sáng. Không thiếu những tia sáng và hy vọng trong những ngày này. Với tôi, một trong số hy vọng này là cuộc gặp của cha Marek, bề trên dòng ba Đa Minh ở Kyiv đã cùng nhóm từ Khmelnytskyi tổ chức, họ muốn là tu sĩ dòng ba của chúng tôi. Tôi hy vọng tình anh em của Kiev sẽ giúp họ thành lập một cộng đồng mới ở đó. Tất nhiên, sẽ cần thời gian và kiên nhẫn, nhưng nhiệt tình và cam kết đã có, tôi đã có thể chứng kiến tận mắt trong chuyến thăm tu viện mới ở Ukraine.
“Chiếc thang lên thiên đàng”
“Gởi những người bạn của tôi ở Ukraine”, đó là lời mở đầu thư của cha Alain, phụ tá bề trên Dòng gởi chúng tôi chúa nhật đầu tiên Mùa Vọng. Nhiều anh chị em tu sĩ và giáo dân Đa Minh đã có dịp gặp cha Alain (cha phụ trách vùng Tây Âu và Canada, Ba Lan, Teutonia, Thượng Đức, Áo) tại Ukraine và vẫn còn liên lạc với cha. Trong bức thư ngắn, cha Alain nhắc đến tác phẩm của nghệ sĩ người Áo Billi Thanner. Tác phẩm có tên “Chiếc thang lên thiên đàng” gần đây được thấy ở Vienna.
Một phần của thang nằm bên trong Nhà thờ Thánh Stephen; phần còn lại treo trên tháp phía nam. Cả hai phần của thang đều làm bằng nhôm với ánh đèn neon màu vàng vàng. Cha Alain viết: “Bước đầu tiên nằm trong nhà nguyện, cạnh nơi khách du lịch thường đi qua, mời gọi họ dừng lại, hướng suy nghĩ và ánh mắt của họ về một thực tại khác, bên ngoài những bức tường đá và thạch cao. Với các giáo dân đến cầu nguyện, tác phẩm nghệ thuật này đã hiện thực hóa và thắp sáng con đường cho những lời cầu nguyện của họ vươn lên Thiên Chúa.”
Người dân Kyiv trú ẩn trong tàu điện ngầm trong các cuộc không kích | © Jaroslaw Krawiec
Tôi nhận ra rằng cuộc chiến này đang dạy tôi lắng nghe và quan sát cẩn thận hơn. Đây thường là loại chú ý liên quan đến nguy hiểm. Gần đây, khi tôi đi bộ trên vỉa hè, tôi nghe tiếng nổ tên lửa ở đâu đó. Cùng với những người qua đường khác, tôi dừng lại, nhìn lên bầu trời. Trời yên bình và nhiều mây. Trên những con đường dẫn đến Izium hoặc Kherson, tôi nhìn kỹ hơn xuống phía trước chân mình, biết rằng có thể vẫn còn mìn ở đây.
Chiếc thang lên thiên đàng của Billy Thanner củng cố lời kêu gọi trong Mùa Vọng: nhìn lên với hy vọng và đức tin vào Chúa Kitô, cũng như chăm chú nhìn xuống nhiều hơn với anh chị em đang đau khổ. Thánh Tôma Aquinô đã dạy: “Lòng thương xót sinh ra từ sự thiếu thốn”. Đặc biệt là khi chúng ta bắt đầu xem nỗi khổ của người khác là của chính mình.
Với tấm lòng trân trọng và biết ơn của tôi cho tất cả giúp đỡ và hỗ trợ chúng tôi nhận được, và xin cầu nguyện cho chúng tôi.
Jarosław Krawiec OP,
Kiev, ngày 3 tháng 12, 8 giờ tối
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Tiếp kiến chung của Đức Thánh cha: An bình nội tâm giúp chúng ta có những chọn lựa đúng đắn
Sáng thứ Tư, mùng 07 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến chung các tín hữu hành hương ngồi chật Đại thính đường Phaolô VI ở nội thành Vatican. Vì trời lạnh hơn, và số tín hữu hành hương vào mùa đông cũng bớt đi. Trên hàng đầu, có nơi dành cho nhiều đôi vợ chồng mới cưới và cũng có một phần dành cho những người khuyết tật.
Như thường lệ, buổi tiếp kiến được bắt đầu với lời chào phụng vụ và phần tôn vinh Lời Chúa. Mọi người nghe đọc một đoạn trích từ sách Huấn ca (1,12.13.18.23).
Bài huấn giáo
Trong bài giáo lý tiếp đó, Đức Thánh cha tiếp tục đề tài về sự phân định và bài thứ mười một này có tựa đề: “Khẳng định sự chọn lựa tốt”.
Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong tiến trình phân định, cũng cần chú ý đến giai đoạn liền sau khi ta đưa ra quyết định, để đón nhận những dấu chỉ khẳng định quyết định đó hoặc những dấu chỉ phủ nhận nó.
Thực vậy, chúng ta đã thấy rằng thời gian là tiêu chuẩn cơ bản để nhận ra tiếng Chúa giữa bao nhiêu tiếng nói khác. Chỉ có Chúa là Chúa tể thời gian: thời gian là dấu hiệu bảo đảm tính chất đặc biệt của tiếng Chúa, làm cho tiếng ấy tách biệt với những tiếng nói giả mạo, nói nhân danh Chúa, nhưng không đúng như vậy. Một trong những dấu hiệu để phân biệt tinh thần lành, là tinh thần ấy thông truyền một niềm an bình kéo dài trong thời gian. Một an bình mang lại hòa hợp, hiệp nhất, nhiệt thành và hăng say.
Ví dụ, nếu tôi quyết định dành thêm nửa giờ để cầu nguyện, và rồi tôi nhận thấy tôi sống tốt đẹp hơn những lúc khác trong ngày, thanh thản hơn, bớt lo lắng hơn, thi hành công việc kỹ lưỡng và hứng thú hơn, cả những tương quan với những người khó tính cũng trở nên trôi chảy...: tất cả những dấu chỉ quan trọng ấy hỗ trợ sự tốt lành của quyết định đã đề ra. Đời sống thiêng liêng là tuần hoàn: sự tốt lành của một chọn lựa giúp cho tất cả các lãnh vực khác trong đời sống chúng ta. Vì đó là sự tham phần vào hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa.
Vài khía cạnh để thẩm định
Chúng ta có thể nhận ra một vài khía cạnh quan trọng giúp đọc thời gian, sau khi đưa ra quyết định như một sự xác nhận tính chất tốt lành của quyết định ấy. Chúng ta đã gặp chúng một cách nào đó trong loạt bài giáo lý này và bây giờ chúng ta thấy một áp dụng thêm của chúng.
Khía cạnh thứ nhất là xem quyết định ấy có thể là như một dấu hiệu đáp trả tình thương và lòng quảng đại của Chúa đối với tôi hay không. Nó không nảy sinh từ sợ hãi, từ một sự đòi buộc tình cảm hoặc cưỡng bách, nhưng từ lòng biết ơn vì điều tốt lành đã nhận được, nó thúc đẩy tâm hồn sống tương quan với Chúa một cách tự do.
Một yếu tố quan trọng khác là biết mình cảm thấy đang ở đúng chỗ trong cuộc sống, và là thành phần của một kế hoạch rộng lớn hơn, mà ta muốn đóng góp. Tại Quảng trường thánh Phêrô có hai điểm chính xác - điểm hội tụ của hình bầu dục - từ đó người ta thấy những hàng cột của Bernini hoàn toàn thẳng hàng với nhau. Cũng vậy, con người có thể nhận thấy mình đã tìm được điều mình đang tìm kiếm khi cuộc sống hằng ngày của mình trở nên ngăn nắp thứ tự, nhận thấy một sự hội nhập gia tăng giữa nhiều quan tâm khác nhau, thiết định phẩm trật quan trọng và sống tất cả những điều ấy một cách dễ dàng, đương đầu với những khó khăn xảy ra với một năng lực mới và với lòng đại đảm.
Một dấu chỉ tốt lành khác để xác nhận là: sự kiện ta vẫn tiếp tục tự do đối với điều ta đã quyết định, sẵn sàng đặt lại vấn đề về nó, kể cả việc từ bỏ đứng trước những sửa sai có thể, cố gắng tìm ra trong chúng một giáo huấn khả dĩ của Chúa. Điều này không phải vì Chúa muốn làm cho chúng ta bị mất những gì là quý giá đối với chúng ta nhưng để sống trong tự do, không dính bén. Chỉ có Chúa mới biết điều gì thực sự là tốt đối với chúng ta. Sự ám ảnh muốn chiếm hữu là kẻ thù của điều thiện và giết chết tình cảm: bao nhiêu trường hợp bạo lực trong lãnh vực gia đình mà rất tiếc là chúng ta thường nghe thấy qua các tin tức, hầu như luôn nảy sinh từ sự nghĩ rằng mình sở hữu tình cảm của người khác, nó nảy sinh từ sự tìm kiếm an ninh tuyệt đối, giết chết tự do và bóp nghẹt cuộc sống, biến nó thành hỏa ngục.
Đức Thánh cha giải thích rằng: “Chúng ta chỉ có thể yêu thương trong tự do, vì thế Chúa đã tạo dựng nên chúng ta như những người tự do, tự do từ khước Ngài. Dâng hiến cho Chúa điều chúng ta quí chuộng nhất là điều có lợi cho chúng ta, giúp chúng ta sống một cách tốt đẹp bao nhiêu có thể và trong chân lý, như một hồng ân được ban cho chúng ta, như một dấu chỉ sự tốt lành nhưng không của Chúa, ý thức rằng cuộc sống chúng ta cũng như toàn thể lịch sử ở trong bàn tay nhân lành của Chúa. Đó là điều mà Kinh thánh gọi là sự kính sợ Chúa, nghĩa là kính trọng Thiên Chúa, là điều kiện không thể thiếu được để đón nhận ơn khôn ngoan (Xc Hc 1,1-18). Chính sự kính sợ xua đuổi mọi thứ sợ hãi khác, vì hướng về Đấng là Chúa Tể mọi sự. Đứng trước Chúa, không gì có thể làm cho chúng ta lo âu. Đó là kinh nghiệm lạ lùng của thánh Phaolô: “Tôi đã học sống nghèo, tôi đã học sống giàu; tôi đã học mọi sự, trong mọi cách: no đầy cũng như đói khát, sung túc cũng như bần cùng. Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Ph 4.12-13).
Và Đức Thánh cha kết luận rằng: Nhận ra điều đó thật là quan trọng để quyết định tốt, và chắc chắn về điều này là chúng ta không thể kiểm soát hoặc dự đoán sức khỏe, tương lai, những người thân yêu, các dự phóng của chúng ta. Điều hệ trọng là lòng tín thác của chúng ta nơi Chúa Tể vũ trụ. Chúa yêu thương chúng ta vô biên và biết rằng chúng ta có thể cùng Chúa làm những điều tuyệt vời, vĩnh cửu. Đời sống các thánh chứng tỏ cho chúng ta điều đó một cách đẹp đẽ nhất”.
Chào thăm và kêu gọi
Sau bài huấn giáo của Đức Thánh cha, buổi tiếp kiến được nối tiếp với phần tóm tắt bài giáo lý và những lời chào thăm của ngài gửi đến các nhóm hành hương.
Đặc biệt bằng tiếng Ba Lan, Đức Thánh cha nhắc nhớ rằng thứ Hai vừa qua, Trung Tâm Liên lạc Công giáo và Do thái giáo thuộc đại học Công giáo ở Lublin, có lễ tưởng niệm “Chiến dịch Reinhardt”, một chiến dịch đã tiêu diệt trong Thế chiến thứ hai gần hai triệu nạn nhân, nhất là những người Do thái. Ước gì việc tưởng niệm biến cố kinh khiếp này khơi lên nơi mọi người những quyết tâm và hoạt động cho hòa bình.
Bằng tiếng Ý, Đức Thánh cha chào thăm nhiều nhóm khác nhau, trong đó có các giáo sư các chủng viện thuộc các giáo phận tân lập, đến Roma tham dự một khóa học do Bộ Loan báo Tin mừng tổ chức. Ngài cũng nhắc đến các tham dự viên trường đào tạo của Phong trào Focolare Tổ Ấm, và các tham dự viên Hội nghị do Phong trào Pax Christi, Hòa bình của Chúa Kitô, tổ chức.
Và sau cùng, như thường lệ, Đức Thánh cha nhắc đến những người cao niên, các bệnh nhân, người trẻ và các đôi tân hôn hiện diện tại buổi tiếp kiến. Ngài nói “Ngày mai (08/12) là lễ Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội: với cái nhìn hướng về Đức Trinh Nữ Maria, anh chị em hãy luôn mạnh dạn trong việc thăng tiến các giá trị tinh thần. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ rất hiền dịu của chúng ta ơn an ủi cho những người bị thử thách vì chiến tranh tàn bạo, nhất là tại Ucraina đau thương.”
Buổi tiếp kiến chung kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Thánh cha nhóm họp Hội đồng Hồng y Cố vấn
Trong hai ngày, mùng 05 và 06 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đã nhóm họp Hội đồng Hồng y Cố vấn của ngài.
Hiện diện trong khóa họp, có bẩy Hồng y, và Đức cha Tổng thư ký Marco Mellino.
Trong ngày đầu tiên, các Hồng y và Đức Thánh cha đã trao đổi về Hội nghị COP-27 tại Ai cập, về sự thay đổi khí hậu. Phần dẫn nhập do Đức Hồng y Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Đức Hồng y Besungu, Tổng giám mục Kinshasa, thuộc Cộng hòa Dân chủ Congo, trình bày.
Ngày 06 tháng Mười Hai, Đức Thánh cha và các Hồng y đã bàn về giai đoạn cấp đại lục, trong tiến trình chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục thế giới năm tới, về việc “tiến tới một Giáo hội đồng hành: hiệp thông, tham gia và sứ mạng”. Cuộc thảo luận dựa trên một phúc trình của Đức Hồng y Mario Grech, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục.
Cuối khóa họp, Đức Hồng y O’Malley, Tổng giám mục Tổng giáo phận Boston, Hoa Kỳ đã giới thiệu những cố gắng gần đây của Ủy ban Bảo vệ trẻ vị thành niên, phục vụ các Hội đồng Giám mục trên thế giới. Ban chiều, Đức Hồng y Gracias, Tổng giám mục Bombay, Ấn Độ đã trình bày về Liên Hội đồng Giám mục Á châu, mới nhóm khóa họp hồi tháng Mười vừa qua, tại Bangkok, Thái Lan.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Các tổ chức tại Vatican dưới quyền kiểm soát của Bộ Kinh tế
Hôm mùng 06 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đã ban hành Tự sắc quy định rằng các ngân quỹ và tổ chức trong các cơ quan giáo triều và quốc gia thành Vatican, - cho đến nay được hưởng một sự tự lập về hành chánh, - từ nay phải ở dưới sự kiểm soát của các cơ quan kinh tế của Tòa Thánh.
Tuy các tổ chức đó có tư cách pháp nhân riêng và một sự tự lập hành chánh, nhưng chúng là phương tiện để thực thi những mục tiêu của các cơ quan giáo triều, phục vụ cho sứ vụ của Người Kế vị thánh Phêrô. Vì thế, chúng là những cơ quan của Tòa Thánh, trừ khi được quy định rõ do quy luật thiết lập chúng. Do đó tài sản của các cơ quan này là gia sản của Tòa Thánh, nên không những chúng phải chịu sự giám sát của các cơ quan giáo triều mà chúng lệ thuộc, nhưng còn chịu sự kiểm soát và canh chừng của các cơ quan kinh tế của Tòa Thánh nữa.
Các cơ quan có tư cách pháp nhân và là phương tiện của Tòa Thánh như vừa nói, phải thích ứng trong vòng ba tháng với các quy luật trong Tự sắc mới do Đức Thánh cha ban hành. Tự sắc này có hiệu lực từ ngày 08 tháng Mười Hai năm 2022.
Tự sắc mới gồm có 8 điều khoản, trong đó khoản số 3 liên quan đến sự canh chừng và kiểm soát về vấn đề kinh tế tài chánh. Bộ Kinh tế thi hành công tác này đối với các cơ quan có pháp nhân và là phương tiện của Tòa Thánh, chiếu theo quy chế riêng.
Khoản số 4 và số 5 nói về sổ sách kế toán và trao đổi thông tin. Các cơ quan có pháp nhân như vừa nói phải trình cho Bộ Kinh tế của Tòa Thánh ngân sách dự chi và kết toán chi thu, theo các điều kiện do Bộ Kinh tế và Văn phòng Tổng kiểm toán của Vatican ấn định. Hai cơ quan này luôn có thể xét sổ sách kế toán của các cơ quan đó, các văn kiện chứng minh và những thông tin liên quan đến việc chuyển tiền.
Với quy luật mới trên đây, Đức Thánh cha siết chặt sự kiểm soát và thúc đẩy các cơ quan Tòa Thánh thi hành những đề nghị của Ủy ban Moneyval thuộc Hội đồng Âu châu. Hồi tháng Tư năm ngoái, Ủy ban Moneyval nhận định rằng tại Vatican thiếu một luật bao quát quản lý việc thành lập và quản trị các ngân quỹ đăng ký tại Quốc gia thành Vatican. Các quỹ này nhận tiền dâng cúng của các tín hữu, nhưng cho đến thời gian gần đây ít có sự giám sát hoặc kiểm soát trách nhiệm.
Từ ngày 01 tháng Mười Hai vừa qua, Bộ Kinh tế của Tòa Thánh do ông Maximino Caballero Ledo, 63 tuổi, người Tây Ban Nha, điều khiển. Ông là giáo dân đầu tiên giữ nhiệm vụ này.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Hội đồng Giám mục Ý tài trợ 73 dự án tại các nước nghèo
Hội đồng Giám mục Ý đã quyết định tài trợ 73 dự án từ thiện tại các nước nghèo, với gần 10 triệu Euro (9.837.800 Euro).
Trong phiên họp ngày 25 và 26 tháng Mười Một vừa qua, Ủy ban can thiệp từ thiện giúp Thế giới thứ ba thuộc Hội đồng Giám mục Ý đã đi tới quyết định trên đây. Trong số ngân khoản vừa nói, có gần bốn triệu rưỡi Euro (4.422.196) dành cho 26 dự án tại Phi châu, ba triệu rưỡi dành cho 35 dự án tại Mỹ Latinh và một triệu 275.000 Euro cho 11 dự án tại Á châu. Sau cùng có 640.000 Euro dành cho một dự án tại Trung Đông.
Chi tiết hơn, có sáu dự án tại Phi châu nhắm vào việc huấn luyện. Tại Angola, Caritas giáo phận Menongue sẽ tổ chức một chương trình huấn luyện lưu động cho các thiếu nữ và phụ nữ thuộc 26 làng, trong đó có những lớp dạy chữ, dạy kinh tế gia đình, nữ công gia chánh, giáo dục về phẩm giá, sức khỏe, lương thực và vệ sinh.
Ví dụ, tại Burkina Faso, Hiệp hội thiện nguyện “Giọt nước” (La Goccia onlus) sẽ mở một trường tiểu học ở Ziniarè, cách thủ đô 35 cây số, có thể đón tiếp 240 học sinh, phần lớn là các trẻ mồ côi... Tại Ethiopia, các sư huynh La San sẽ tái thiết và mở rộng Trường thánh Giuse ở Adama.
Tại Á châu, một trong số những dự án được tài trợ ở Ấn Độ, là dự án của Hội dịch vụ xã hội ở giáo phận Cochin, là lớp huấn luyện phát triển kinh tế xã hội cho các gia đình của tù nhân. Họ thường bị lên án, cô lập, nạn nhân của nạn tự tử, và dự án này nhằm giúp các công nhân nghèo được hội nhập. Sẽ có những buổi hội học, khám bệnh, các lớp học và hoạt động cho các trẻ vị thành niên, tổng cộng có 15.000 người được trợ giúp trong dự án này.
Sau cùng, tại Trung Đông, nhờ dự án Trung tâm thủ công, do các tu sĩ dòng Phanxicô tại Thánh địa thành lập năm 2018, Tổng giáo phận Genova, bắc Ý, hỗ trợ việc phát triển thủ công truyền thống của người Palestine, đặc biệt chú ý đến việc bảo tồn gia sản nghệ thuật và văn hóa ở Bethlehem và huấn luyện cho các người thợ trẻ trong nghề thủ công. Trong dự án này, có việc mua các máy móc mới, và thiết lập một hệ thống năng lượng mặt trời. Tổng cộng, có 300 người trẻ từ 14 đến 19 tuổi, được hỗ trợ qua dự án này.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA