Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Lãnh đạo Giáo hội Công giáo Đông phương Ucraina yết kiến ĐTC
Đây là lần đầu tiên vị lãnh đạo Giáo hội Công giáo Đông phương Ucraina yết kiến Đức Thánh Cha kể từ khi bùng nổ cuộc chiến tranh xâm lược của Nga ở Ucraina.
Món quà mang tính biểu tượng
Đức Tổng Giám mục Shevchuk đã tặng Đức Thánh Cha một mảnh của quả mìn đã phá hủy mặt tiền của nhà thờ Công giáo Đông phương ở thành phố Irpin, gần Kyiv, hồi tháng 3.
Thông cáo của Văn phòng Thư ký của Đức Tổng giám mục giải thích rằng “Đó là một món quà rất mang tính biểu tượng, không chỉ vì Irpin là một trong những ‘thành phố tử đạo’ đầu tiên bị tấn công bởi sự xâm lược của Nga chống lại Ucraina, mà còn vì những mảnh mìn tương tự được lấy ra từ thi thể của binh lính, dân thường và trẻ em Ucraina, dấu hiệu hữu hình của sự tàn phá và chết chóc mà chiến tranh mang lại mỗi ngày.”
Sự gần gũi và dấn thân của Đức Thánh Cha và Toà Thánh vì Ucraina
Trong cuộc gặp gỡ, Đức Thánh Cha lặp lại sự gần gũi của ngài với dân tộc Ucraina bị giày xéo và đảm bảo rằng ngài luôn ở bên người dân Ucraina trong lời cầu nguyện và hành động. Ngài cũng khuyến khích Đức Tổng Giám mục và các mục tử của Ucraina “phục vụ, với tinh thần Phúc âm, những người đang đau khổ, bị áp bức bởi nỗi sợ hãi và bạo lực chiến tranh”.
Đức Thánh Cha cũng tái khẳng định sự dấn thân của Tòa Thánh trong việc chấm dứt hành động xâm lược và tiến tới một nền hòa bình công bằng. Ngài cho biết Tòa thánh cũng dấn thân thúc đẩy tình liên đới vì người dân Ucraina, cũng như hỗ trợ các nỗ lực hòa bình.
Biết ơn Đức Thánh Cha về mọi việc ngài làm vì người dân Ucraina
Về phần mình, Đức Tổng Giám mục Shevchuk cho biết ngài muốn mang tiếng khóc của người dân Ucraina đến với Đức Thánh Cha. Ngài trình bày về công việc mà Giáo hội đã thực hiện để hỗ trợ người dân trong hoàn cảnh chiến tranh và kể lại những gì ngài nhìn thấy khi đến thăm các cộng đồng ở miền trung, đông và nam Ucraina, những vùng lãnh thổ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi chiến tranh.
Đức Thánh Cha cũng đã được trình bày về kế hoạch mục vụ năm 2023 của Giáo hội Công giáo Đông phương Ucraina, với trọng tâm là phục vụ những người yếu đuối nhất, chào đón và đồng hành với những người di tản, điều trị các vết thương do chiến tranh gây ra.
Cuối cùng, Đức Tổng Giám mục Shevchuk đã cảm ơn Đức Thánh Cha về tất cả những điều ngài đã làm để ngăn chặn chiến tranh và hòa giải hòa bình, giải phóng con tin và tù nhân, tổ chức sự liên đới toàn cầu của Giáo hội Công giáo ủng hộ những người dân Ucraina đang đau khổ. (Sismografo 07/11/2022)
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Thánh Cha cầu nguyện cho các nạn nhân của vụ tai nạn máy bay ở Tanzania
Ngày 06/11, máy bay ATR 42-500 của hãng hàng không Precision Air, khởi hành từ thành phố Dar es Salaam đã lao xuống hồ Victoria khi đang tìm cách hạ cánh xuống sân bay Bukoba trong điều kiện gió bão và mưa lớn. Máy bay rơi xuống địa điểm cách sân bay khoảng 100m.
Máy bay chở tổng cộng 43 người, trong đó có 39 hành khách và 4 thành viên phi hành đoàn. Các nhân viên cứu nạn nỗ lực tiếp cận máy bay và giải cứu được 24 người. Đây được cho là vụ tai nạn hàng không thảm khốc nhất tại Tanzania trong hàng thập kỷ qua.
Nhận được tin buồn này, thứ Ba 07/11, trong một điện thư được ký bởi Đức Hồng Y Parolin, Đức Thánh Cha bày tỏ sự đau buồn và đảm bảo sự gần gũi thiêng liêng của ngài với tất cả những ai bị ảnh hưởng bởi thảm kịch này, đặc biệt cho gia đình các nạn nhân.
Trong điện thư, Đức Thánh Cha nói ngài cầu nguyện cách riêng cho sự yên nghỉ của những người đã khuất, sự chữa lành cho những người bị thương và sức mạnh cho những ai nỗ lực tham gia cứu hộ và phục hồi. Sau cùng, Đức Thánh Cha nguyện xin sự ủi an và bình an của Đấng Toàn Năng xuống trên mọi người.
Ngọc Yến - Vatican News
Đức Thánh cha và Caritas Đức kêu gọi trợ giúp Ethiopia
Phân bộ cứu trợ quốc tế thuộc tổ chức Caritas Đức kêu gọi cộng đồng quốc tế tiếp tục tạo sức ép để hiệp định đình chiến mới tại Ethiopia được tôn trọng và kéo dài.
Do sức ép của quốc tế, trong đó có Mỹ và Liên hiệp Âu châu, chính phủ Ethiopia bên Phi châu đồng ý tham gia các cuộc hòa đàm chính thức do Liên hiệp Phi châu hướng dẫn, từ ngày 24 tháng Mười vừa qua, tại Pretoria, thủ đô Nam Phi. Hôm mùng 03 tháng Mười Một vừa qua, một cuộc ngưng chiến mới đã đạt được giữa quân đội chính phủ và các dân quân Mặt trận nhân dân giải phóng miền Tigray.
Nội chiến tại Ethiopia do sự tranh giành quyền bính giữa trung ương và địa phương. Nó bắt đầu từ ngày 04 tháng Mười Một năm 2020, khi quân đội chính phủ tấn công vào miền Tigray ở mạn bắc, để giải tán chính quyền miền này.
Theo Liên Hiệp Quốc, riêng tại miền Tigray có sáu triệu dân cư, trong đó 4,2 triệu người phải tản cư vì chiến tranh. Hàng ngàn người đã bị thiệt mạng và hàng trăm ngàn người bị nạn đói đe dọa. Số người đói cần được cứu trợ lên tới chín triệu 400.000 người.
Hôm 04 tháng Mười Một vừa qua, ông Oliver Mueller, Giám đốc phân bộ cứu trợ quốc tế của Caritas Đức đã đưa ra lời kêu gọi trên đây và nói rằng: “Hai phe lâm chiến đã đồng ý để cho các hoạt động cứu trợ dân chúng được tiến hành. Nay cần phải nhất thiết làm sao để hiệp định đình chiến được tôn trọng và đứng vững. Chương trình cứu trợ đã được chuẩn bị trước đây cần được tiến hành mau lẹ và qui mô. Thời gian chậm trễ sẽ tạo nên sự thiệt mạng cho nhiều người”.
Tuy có sự lạc quan được nhiều người bày tỏ, nhưng không thiếu những quan sát viên tỏ ra nghi ngờ về hiệp định đình chiến. Hiệp định trước đây đã bị vi phạm hồi tháng Tám năm nay, sau năm tháng ký kết.
Về phần Đức Thánh cha, sáng Chúa nhật, ngày 06 tháng Mười Một vừa qua, vào cuối cuộc gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ và nhân viên mục vụ ở Bahrain, ngài tái kêu gọi hòa bình cho Ethiopia và nói rằng: “Anh chị em thân mến, trong những tháng này, chúng ta đang cầu nguyện nhiều cho hòa bình. Trong bối cảnh đó, có một tin hy vọng là hiệp định đình chiến đã được ký kết liên quan đến tình hình ở Ethiopia. Tôi khích lệ tất cả hãy hỗ trợ quyết tâm này cho một nền hòa bình lâu bền, để với sự phù trợ của Thiên Chúa, người ta tiếp tục theo đuổi con đường đối thoại và dân chúng sớm tìm lại được một cuộc sống thanh thản và xứng đáng. Và ngoài ra, tôi không muốn quên cầu nguyện và xin anh chị em cầu nguyện cho Ucraina bị tang thương, để cuộc chiến tranh hiện nay chấm dứt”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha tiếp kiến Học viện Claretianum ở Roma
Sáng ngày 07 tháng Mười Một vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến cộng đoàn Học viện Claretianum ở Roma, chuyên về thần học đời sống tu trì, nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Học viện. Ngài cám ơn và khích lệ các tu sĩ dòng thánh Antôn Maria Clarét tiếp tục sứ mạng này.
Các thừa sai Dòng thánh Claret cũng đảm trách các Học viện tương tự tại Madrid-Tây Ban Nha, Manila-Philippines, Bangalore-Ấn Độ, Bogotà-Colombia và Abuja bên Nigeria. Tốt nghiệp từ Học viện ở Manila và Roma, cũng nhiều linh mục và nữ tu Việt Nam.
Đức Thánh cha nhận xét rằng trong những thập niên qua, các học viện cao đẳng này đã và còn tiếp tục mang lại công tác phong phú, giúp hiểu và phát triển thần học về đời sống thánh hiến. Ngài cám ơn các học viện này đã giúp đỡ nhiều người và cộng đoàn qua những ngày học hỏi, những tuần lễ và hội nghị giúp đỡ các tu sĩ nam nữ, cũng như đồng hành với các tu nghị, các cơ quan cai quản của các dòng tu và tu đoàn tông đồ.
Nhắc đến tình trạng giảm sút ơn gọi tu trì ở nhiều nơi, của nhiều hội dòng, Đức Thánh cha cảnh giác rằng: “Ngày nay những người sống đời thánh hiến không thể để cho mình bị nản chí vì tình trạng thiếu ơn gọi hoặc các tu sĩ ngày càng trở nên già nua. Những người để cho mình bi quan như thế là gạt đức tin ra bên ngoài. Chính Chúa là Chủ Tể của lịch sử, Ngài nâng đỡ và mời gọi chúng ta hãy trung thành và trở nên phong phú. Chúa chăm sóc tới phần “còn lại” của Ngài, với lòng thương xót và từ nhân, Chúa nhìn đến công trình của Ngài và tiếp tục gửi Thánh Linh tới. Hễ chúng ta càng đến gần đời tu qua Lời Chúa, cũng như lịch sử và tinh thần sáng tạo của các vị sáng lập, thì chúng ta càng có khả năng sống tương lai trong niềm hy vọng. Chúng ta chỉ có thể hiểu đời sống tu trì qua điều mà Chúa Thánh Linh thực hiện nơi mỗi người được kêu gọi. Có người quá tập trung vào bề ngoài như cơ cấu và hoạt động, và họ không thấy ơn thánh dồi dào nơi con người và các cộng đoàn”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Các Giám Mục Hòa Lan và Đức về Roma thăm Tòa Thánh
Giáo Hội tại Hòa Lan
Hòa Lan ở trong tình trạng tục hóa cao độ nhất Âu Châu. Tin gần đây nhất
gây chú ý về Giáo Hội này là ngày 10/9/2022, Đức Cha Jan Hendricks, Giám Mục giáo phận Harlem-Amsterdam, vùng thủ đô Hòa Lan, cho biết 60% thánh đường của giáo phận, tức là gần 100 nhà thờ sẽ bị đóng cửa trong vòng 5 năm tới đây, vì số tín hữu đi nhà thờ, số người thiện nguyện và số thu nhập của giáo phận bị giảm sút.
Đức cha Hendricks cho biết như trên trong cuộc gặp gỡ khoảng 90 vị quản trị các giáo xứ hôm 10/9 vừa qua. Giáo phận này được thành lập năm 1559, và bao gồm toàn miền bắc Hòa Lan cũng như miền nam tỉnh Flevoland, bao gồm thủ đô Amsterdam.
Đức Cha cai quản giáo phận này từ 2 năm nay (2020). Ngài nhận định rằng đại dịch Covid-19 đã đẩy mạnh sự suy giảm số tín hữu đi nhà thờ. Nhiều người cao tuổi không còn đến thánh đường nữa. Một số khác trở nên quen thuộc với việc tham dự Thánh lễ trực tuyến Chúa Nhật. Số người thiện nguyện giảm sút và nhiều ca đoàn cũng ngưng hoạt động. Tình trạng này đưa tới viễn tượng: trong số 164 nhà thờ của giáo phận, có 99 thánh đường sẽ bị đóng cửa trong vòng 5 năm tới. Trong số 65 nhà thờ còn lại, 37 thánh đường sẽ tiếp tục trong vòng từ 5 đến 10 năm như những "nhà thờ hỗ trợ", và chỉ còn lại 28 nhà thờ chủ yếu được coi là có thể sống lâu dài.
Đức Ông Bart Putter, tổng đại diện giáo phận Harlem-Amsterdam, nói với báo The Pillar ở Mỹ hôm 26/9 vừa qua rằng giáo phận chưa lập danh sách những nhà thờ cần bị đóng cửa, nhưng hy vọng các cộng đoàn địa phương sẽ chọn những nhà thờ chính. "Ý tưởng chính là thành lập 28 nơi tích cực loan báo Tin Mừng và chúng tôi hy vọng các cha sở cũng như Hội đồng giáo xứ có thể thực hiện điều đó".
Những con số được trình bày trong cuộc họp ngày 10/9 vừa nói cho thấy số tín hữu đi dự lễ giảm sút, từ hơn 25 ngàn hồi năm 2013 xuống còn 12 ngàn trong năm ngoái, 2021. Số người dự lễ giảm sút nhiều trong nhiều năm qua, chứ không phải chỉ trong thời gian gần đây. Trong thập niên 1950, số tín hữu Công Giáo tham dự thánh lễ là 80% nhưng ngày nay chỉ còn lại 3% tín hữu đi dự lễ, trong tổng số 425 ngàn người Công Giáo trong giáo phận. (The Pillar 27/9/2022)
Tình hình Công Giáo Đức
Còn về Công Giáo tại Đức, từ lâu Giáo Hội tại đây thu hút nhiều chú ý và quan tâm của dư luận Công Giáo thế giới, đặc biệt là tình trạng căng thẳng và chia rẽ trầm trọng về lập trường đối với đạo lý của Giáo Hội, như được biểu lộ trong Con đường Công nghị, và các vị hy vọng cuộc viếng thăm Tòa Thánh sắp tới sẽ giúp tái lập sự hòa giải với nhau.
Bối cảnh vấn đề
"Chúng tôi đồng ý rằng có sự bất đồng giữa chúng tôi. Và đó không phải là điều thích hợp”. Đức Cha Georg Baetzing, Giám Mục giáo phận Limburg, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức, tuyên bố như trên trong cuộc họp báo trưa ngày thứ Năm, 26/9/2022, sau khi kết thúc hóa họp mùa thu của 69 Giám Mục thuộc 27 giáo phận toàn quốc tại Fulda, cạnh mộ của thánh Bonifaxio, Tông đồ của dân tộc Đức.
Qua câu nói trên đây, Đức Cha Baetzing tóm tắt nội dung khóa họp và theo ngài, các Giám Mục Đức phản ánh một xã hội trong đó không phải mỗi người đều đồng ý với nhau.
Từ lâu nay, tình trạng chia rẽ giữa các Giám Mục Đức ngày càng rõ rệt, như kết quả của điều gọi là Con đường Công nghị (Synodal Weg). Đây là một tiến trình do Hội Đồng Giám Mục và Ủy ban trung ương giáo dân Công Giáo Đức đề xướng nhắm cải tổ Giáo Hội sau những vụ Giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên trong những thập niên trước đây: cải tổ trong 4 lãnh vực cũng là 4 diễn đàn của công nghị: cải tổ việc thực thi quyền bính trong Giáo Hội, cụ thể là dân chủ hóa; vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội, trong đó có việc cho phụ nữ chịu thánh chức, cải tổ luân lý tính dục của Giáo Hội cho hợp thời và sau cùng là thay đổi luật độc thân giáo sĩ. Khóa họp toàn thể của Công nghị có tối đa là 230 đại biểu, đa số là giáo dân.
Trong đại hội lần thứ 4 hồi đầu tháng 9 năm nay của Con đường Công nghị Công Giáo Đức, các đại biểu đã bỏ phiếu về 4 văn kiện chính, trong đó Văn kiện thứ nhất về việc thay đổi luân lý tính dục của Công Giáo không được thông qua vì không hội đủ 2 phần 3 số phiếu của các Giám Mục trong cuộc bỏ phiếu kín. Sau đó, ban lãnh đạo công nghị gồm các giáo dân và Giám Mục cấp tiến, đã quyết định phải bỏ phiếu công khai, kêu tên mỗi đại biểu, để họ bỏ phiếu thuận hay chống. Với biện pháp này, 3 văn kiện sau đó đều hội đủ số phiếu để thông qua. Lý do vì nhiều Giám Mục không muốn bị dư luận phê phán và chống đối, nên đã bỏ phiếu thuận đối với các văn kiện đó, ví dụ như đề nghị thỉnh cầu Tòa Thánh truyền chức thánh cho phụ nữ, biến luật độc thân giáo sĩ thành điều tùy ý, dân chủ hóa Giáo Hội.
Lập trường của Tòa Thánh
Lập trường của Tòa Thánh đối với hướng đi của Con đường Công nghị đã được Đức Tổng Giám Mục Nikola Eterovic, người Croát, Sứ thần Tòa Thánh tại Đức, bày tỏ qua lời kêu gọi các Giám Mục nước này hãy hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ.
Trong buổi khai mạc Đại hội mùa thu 26/9/2022 của các Giám Mục Đức, Đức Tổng Giám Mục Sứ Thần nhấn mạnh rằng "tính hiệp hành, tính đoàn thể và cộng đoàn tính của hàng Giám Mục là những thực tại bổ túc đặc tính của Giáo Hội Công Giáo”. Và Đức Tổng Giám Mục Eterovic bày tỏ quan tâm của Đức Thánh Cha Phanxicô về con đường công nghị của Công Giáo Đức, theo đó, Giáo Hội Công Giáo tại Đức quá quan tâm tới các vấn đề cơ cấu, cải tổ các cơ cấu Giáo Hội, mà ít nghĩ đến việc loan báo sứ điệp Tin Mừng cứu độ.
Cụ thể, vị đại diện Tòa Thánh nhắc nhở cho các Giám Mục Đức rằng các cơ cấu mới và giáo huấn tại các giáo phận chỉ có thể được du nhập trong sự phù hợp với Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ, như thông cáo của Tòa Thánh gửi Hội Đồng Giám Mục Đức hồi tháng 6 năm nay. Cần phải duy trì sự hiệp nhất của các thành viên Giám mục đoàn với Đức Giám Mục Roma.
Đức Sứ Thần Tòa Thánh nhắc lại lời cảnh giác của Đức Thánh Cha chống lại nguy cơ "duy nghị viện”, trong tiến trình công nghị đồng hành của Giáo Hội, nguy cơ theo đó người ta quyết định mọi sự theo đa số và thiểu số phải phục tùng đa số.
Đức Tổng Giám Mục nhắc nhở Hội Đồng Giám Mục Đức về truyền thống bỏ phiếu kín trong Thượng Hội Đồng Giám Mục hoặc các cuộc họp chính thức của Giáo Hội. Các ký giả báo chí không được tham dự, để các Giám Mục được tự do quyết định và không chịu sức ép từ bên ngoài hoặc của dư luận.
Trước đó, hồi tháng 7 năm nay, một thông cáo Phủ Quốc Vụ khanh Tòa Thánh nhắc nhở các Giám Mục Đức và các thành viên Con đường Công nghị rằng Công nghị này không có quyền "buộc các Giám Mục và các tín hữu chấp nhận những cách thức cai quản mới và những đường lối tiếp cận mới về đạo lý và luân lý của Giáo Hội Công Giáo”.
Hy vọng vượt thắng chia rẽ và hòa giải
Trong cuộc họp báo trưa ngày 26/9/2022, Đức Cha Baetzing cho rằng sở dĩ có sự bất đồng của một số Giám Mục chống đối và phê bình từ phía Tòa Thánh là vì Đức Thánh Cha và các vị tại Tòa Thánh không được nghe trực tiếp những lý lẽ và nội dung của Con đường Công nghị. Sở dĩ có sự chống đối vì "Hình ảnh mà Đức Giáo Hoàng có về Con đường Công nghị không tương ứng với sự thật”.
Với hy vọng giải tỏa những "hiểu lầm” đó, việc chuẩn bị cho cuộc "Visit ad Limina”, hành hương về Roma, viếng mộ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, gặp các cơ quan trung ương Tòa Thánh và nhất là gặp Đức Thánh Cha là một chủ đề chính trong khóa họp của các Giám Mục Đức tại Fulda.
Đức Cha Baetzing đã trình bày "chiến lược” của các Giám Mục Đức khi về Roma: sẽ có 11 cuộc gặp gỡ giữa các Giám Mục với các cơ quan Tòa Thánh, từ Phủ Quốc vụ khanh, tới Bộ Giám Mục, giáo lý đức tin, đại kết, dòng tu, phụng vụ và kỷ luật bí tích, và các cơ quan khác. Hội Đồng Giám Mục sẽ bổ nhiệm người phát ngôn mỗi nhóm trong các cuộc gặp gỡ đó. Chương trình sẽ có một điểm mới, "một hình thức mới trong đó các Giám Mục Đức chúng tôi sẽ ngồi cùng với Đức Giáo Hoàng và nhiều vị bộ trưởng, và một lần nữa sẽ có một cái nhìn khẩn trương về Con đường Công nghị.
Đức Cha Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức tuyên bố rất hy vọng Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ tham dự các cuộc thảo luận chứ không chỉ gặp chung các Giám Mục trong 1 hay 2 tiếng đồng hồ để lắng nghe mà thôi, như thường xảy ra với các đoàn Giám Mục khác. Nhưng trong cuộc phỏng vấn ngày 26/9, với đài Phát thanh Bavavia (Bayerischer Rundfunk), Đức Cha Baetzing nhấn mạnh rằng "Nói cho cùng, chính Đức Giáo Hoàng là nhà đại cải tổ, vì thế không phải là một nhận thức đúng khi nói Đức Giáo Hoàng là người chống lại Con đường Công nghị”.
G. Trần Đức Anh, O.P.
Nguồn: Vatican News
Dư âm tích cực cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha đến Bahrain
Đức Hồng Y Tagle nói với Vatican News: “Đó là một cuộc hành hương của hòa bình và là lời mời gọi tất cả các dân tộc thuộc các tôn giáo, văn hóa và quốc tịch khác nhau tái khám phá bản chất nhân loại chung của chúng ta”. Theo Đức Hồng Y, tất nhiên, có rất nhiều biểu tượng trong các sự kiện của Đức Thánh Cha cũng như các mục tiêu văn hóa và chính trị. Nhưng cuối cùng, đó thực sự là một lời kêu gọi cầu nguyện và tôn thờ một Thiên Chúa.
Đức Hồng Y chỉ ra rằng ngay cả khi tập trung vào các Kitô hữu, Đức Thánh Cha đã chiếu sáng tinh thần đại kết và sự cần thiết phải vượt qua những chia rẽ, cũng như thực tế là các tổ chức của Giáo hội Công giáo ở đây mở ra cho những người không phải Kitô hữu. Vì vậy, Đức Thánh Cha khuyến khích người Công giáo làm cho trường học và bệnh viện và nơi “bất kỳ dịch vụ nào” của chúng ta trở thành nhà cho tất cả mọi người.
Đức Hồng Y lưu ý rằng khu vực Vùng vịnh này là “lãnh thổ truyền giáo thực sự”. Các nhà truyền giáo vĩ đại nhất là những giáo dân đến tìm việc làm, nhưng tại đây họ đã thấy một cánh đồng truyền giáo và họ đang làm rất tốt. Có rất nhiều tác động tích cực trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha, có thể hiện nay chưa thấy rõ, nhưng theo Quyền Bộ trưởng Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc, những người sống và làm việc ở đây sẽ chứng kiến sự thay đổi đó.
Cũng trả lời Vatican News, Đức Hồng Y Miguel Ángel Ayuso Guixot, Tổng trưởng Bộ Đối thoại Liên tôn nói rằng đối thoại, tôn trọng, tình huynh đệ và hoà bình là những từ luôn được nhắc đến trong suốt cuộc viếng thăm.
Đức Hồng Y vui mừng ghi nhận tính liên tục trong tương quan giữa Hồi giáo và Kitô giáo, và tầm quan trọng của đối thoại mà ngài mô tả như một “kỹ năng hiện sinh”. Ngài nói: “Tôi thấy những giây phút gặp gỡ trong một thế giới đang xung đột. Tôi thấy những cuộc gặp gỡ với chính quyền và cộng đoàn Kitô hữu rất thú vị và tốt đẹp, đặc biệt trong Thánh lễ tại sân vận động, với sự hiện diện của các tín hữu ở Vùng vịnh. Cuộc họp đại kết và liên tôn cũng rất quan trọng. Tôi nghĩ đó là một hành trình đối thoại cởi mở, đơn giản, thân thuộc của tình huynh đệ, như Đức Thánh Cha mong muốn”.
Về đối thoại với Hồi giáo, Đức Hồng Y Guixot nói rằng những cuộc gặp gỡ với Hồi giáo ở Bahrain giúp cho công cuộc đối thoại được liên tục. Đối thoại là thái độ hiện sinh cần phải sống hàng ngày.
Đức Hồng Y Guixot cho rằng sự hiện diện của Đức Thượng Phụ Bartolomeo tại Vương quốc này rất quan trọng. Đó là dấu hiệu mới của tình bạn và sự hiệp thông với Đức Thánh Cha. Đó là điều minh chứng cho mong muốn cùng xây dựng một thế giới của tình bạn và tình huynh đệ.
Ngọc Yến - Vatican News
ĐTC cảnh giác Giáo hội Công giáo Đức đừng đánh mất ý nghĩa tôn giáo của dân tộc
Nhà báo Ludwig Ring-Eifel của Trung tâm Thông tin Công giáo nhận xét rằng ở Bahrain có một Giáo hội nhỏ, một đoàn chiên nhỏ, một Giáo hội nghèo, với nhiều hạn chế, vv., nhưng là một Giáo hội sống động, tràn đầy hy vọng, đang phát triển. Ngược lại, ở Đức, chúng con có một Giáo hội lớn, với những truyền thống tuyệt vời; giàu có với thần học, tiền bạc và mọi thứ, nhưng mất đi ba trăm ngàn tín hữu mỗi năm, người thì ra đi, người thì đang rơi vào khủng hoảng sâu sắc. Nước Đức vĩ đại có thể học hỏi điều gì từ đàn chiên nhỏ ở Bahrain?
Một Giáo hội Công giáo
Trước hết Đức Thánh Cha nói với người Công giáo Đức rằng ngài muốn có một Giáo hội Công giáo, chứ không phải là một Giáo hội Tin Lành. Ngài nhận xét rằng đôi khi chúng ta đánh mất ý nghĩa về Giáo hội như là Dân trung thành và thánh thiện của Thiên Chúa. Chúng ta sa vào những cuộc thảo luận về luân lý, những cuộc thảo luận có kết quả thần học nhưng không phải là cốt lõi của thần học.
Dân Thánh của Thiên Chúa có nghĩa là gì? Đức Thánh Cha nói: “Hãy đến đó và tìm kiếm những gì Dân Chúa cảm nhận được, tính tôn giáo đơn giản mà các bạn tìm thấy ở ông bà. Tôi không nói đi lùi lại, không; nhưng hãy đi về cội nguồn cảm hứng, về cội nguồn.”
Nguồn gốc của tôn giáo là Chúa Giêsu Kitô
Đức Thánh Cha nhận xét: Khi chúng ta còn non yếu, chúng ta hứa hẹn nhiều điều. Nhưng khi trở nên vững mạnh, chúng ta sa vào những cuộc tranh luận. Nhưng chúng ta quên rằng nguồn gốc của tôn giáo chính là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu hằng sống và từ Người chúng ta có được lòng can đảm của các tông đồ để đi đến những vùng ngoại biên, cả về luân lý, để giúp đỡ người dân.
Lời chia sẻ chân thành và cũng là lời cảnh giác của Đức Thánh Cha: “Nếu không có cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô, sẽ có một thứ luân lý giả dạng Kitô giáo.”
Hồng Thủy - Vatican News
Thật an ủi khi được gặp Đức Phanxicô ở Bán đảo Ả-rập
cath.ch, I.Media, 2022-11-06
Thánh lễ tại Sân vận động Bahrain ngày 5 tháng 11 năm 2022 © Hugues Lefèvre / I.MEDIA
Gần 30.000 giáo dân dự thánh lễ Đức Phanxicô cử hành ở Sân vận động Bahrain ngày thứ bảy 5 tháng 11-2022. Một niềm vui lớn lao cho giáo dân đến từ các nước Ả-rập Xê-út, Ấn Độ hoặc Liban, những người có thể tìm thấy ở Bahrain một nơi để sống đức tin của mình.
Sáng thứ bảy, gần hai giờ trước khi thánh lễ bắt đầu, sân vận động đã chật cứng. Trên khán đài và trên bãi cỏ, gần 30.000 tín hữu kitô họp nhau để nhìn Đức Phanxicô và để cầu nguyện với ngài.
Bà Mirella, 39 tuổi cùng đi với chồng và con trai 5 tuổi thở phào: “Chúng tôi thật may mắn!” Định cư tại Bahrain từ năm 2014, gia đình gốc Liban nhưng vì tình hình kinh tế bất ổn của đất nước nên họ buộc phải di cư đến vùng Vịnh. Bà giải thích: “Chồng tôi làm việc ở Ả-rập Xê-út và đi qua cầu mỗi ngày để đến Bahrain.” Bà nói ở đây giáo dân được “bao dung tốt” không giống như ở Ả-rập Xê-út, ngay cả mang thánh giá đi ngoài đường cũng không được.
Bà Mirella đến dự thánh lễ của Giáo hoàng cùng chồng và con trai năm tuổi. © Hugues Lefèvre / I.MEDIA
Xa xa hơn một chút trong sân vận động, cô Rosy, một người Liban khác cũng xác nhận như vậy, cô rời Liban 9 năm trước đây. Cô sống với hai đứa con ở đất nước Saud và không thể tự do sống đức tin của mình: “Ở nhà, chúng tôi có một góc cầu nguyện. Nhưng không có thánh lễ. Gần như mỗi thứ sáu tôi đều đi qua cầu để xem lễ ở Nhà thờ Thánh Tâm Bahrain.”
Cô Rosy nói tiếp: “Thật khó để rời một đất nước chỉ vì chúng tôi là người có đạo… Nhưng chúng tôi phải tìm việc làm.” Cô không nghĩ sẽ quay về Liban trong bối cảnh đất nước đang bị sụp đổ vì kinh tế. Vì thế cô hy vọng chuyến đi này của giáo hoàng có thể làm thay đổi một cái gì, cô mơ, một ngày nào đó Ả-rập Xê-út sẽ cho xây nhà thờ.
Ông Xavia nói: “Thật tràn đầy hy vọng khi thấy giáo hoàng đến đất nước Ả-rập. Có nhiều người công giáo có nguồn gốc khác nhau ở Bahrain và chúng tôi cảm thấy được hòa nhập.” Ông cùng đi với vợ và một người con. Ông 42 tuổi, là người Ấn Độ và đã sống ở Bahrain 17 năm, ông muốn ở lại đây vì có việc làm và giáo dân được bao dung tốt, ông thường đi thánh lễ nói tiếng Tamil ở nhà thờ Thánh Tâm, tại đây mỗi thứ sáu có 13 thánh lễ.
Cũng như ông Xavia, ông Gasper là cột trụ của giáo xứ Thánh Tâm. Ông là một trong 300 thừa tác viên cho rước lễ trong thánh lễ ngày thứ bảy ở Sân vận động. Ông là kế toán viên trong một công ty dược phẩm, ông nói: “Đây là một ngày tuyệt vời với chúng tôi, giấc mơ được nhìn thấy giáo hoàng ở đây đã được toại nguyện.”
Ông Gasper cũng là người Ấn Độ, 62 tuổi, ông đã ở Bahrain từ 40 năm nay và sẽ ở lại đây luôn. Trong số hơn 80.000 người công giáo ở quốc gia vùng Vịnh nhỏ bé, đại đa số người dân đến từ Philippines hoặc Ấn Độ.
Bà Muriel người Pháp, 54 tuổi thì thầm: “Nhìn sân vận động này, chúng tôi hiểu tương lai của đạo công giáo là ở châu Á.” Xa xứ từ 8 tháng nay ở Abu Dhabi, thuộc Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, bà đi máy bay đến đây để gặp giáo hoàng. Bà là giám đốc điều hành ngành dầu mỏ.
Bà rất buồn khi thấy đạo công giáo sụp đổ ở phương Tây, bà nhận xét: “Tôi đi du lịch nhiều nơi và thấy năng lực là ở châu Á và châu Phi. Tôi nhận thấy người giàu họ nghĩ họ không còn cần đến tâm linh, họ tự đủ cho họ. Chỉ có người nghèo mới đến nhà thờ.”
Bà Mirella kết luận khi ôm đứa con trai 5 tuổi của mình: “Thật an ủi khi được gặp Đức Phanxicô ở Bán đảo Ả-rập.”
Vì chính vùng ngoại vi này của Giáo hội công giáo, một vùng ngoại vi sống động và đa dạng, mà Đức Phanxicô đến để tôn vinh sự hiện diện của họ.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Bức chân dung mới của Đức Bênêđíctô XVI
Hiệp hội Vaticana Joseph Ratzinger – Bênêđictô XVI – Facebook
fr.aleteia.org, Ary Waldir Ramos – Cécile Séveirac, 2022-11-04
Giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI nhận món quà tuyệt đẹp của họa sĩ Natalia Tsarkova, người vẽ chân dung chính thức của Vatican. Một bức tranh vẽ ngài với ‘gia đình giáo hoàng’ của ngài được nghệ sĩ tặng ngài ngày thứ năm 3 tháng 11, tại Palazzio Cardinal Cesi, một tòa nhà gần Vatican.
Nghệ sĩ chính thống giáo Nga Natalia Tsarkova, người vẽ chân dung các giáo hoàng từ thời Đức Gioan-Phaolô II đã vẽ bức tranh này trong gần 4 năm, trong mục đích tôn vinh giáo hoàng, người đã quyết định từ nhiệm năm 2013.
Họa sĩ giải thích, đây là bức tranh sơn dầu có kích thước 2×2 mét làm nổi bật lúc ngài cầu nguyện, suy tư sâu sắc mà giáo hoàng danh dự đã sống mỗi ngày từ khi ngài từ nhiệm. Đức Joseph Ratzinger đã từng là người mẫu cho họa sĩ, bà đã vẽ chân dung chính thức của ngài năm 2007.
Một số nháy mắt đồng ý của Đức Bênêđíctô XVI
Bức tranh có một số chi tiết được xem là có sự đồng ý của Đức Bênêđíctô XVI, đặc biệt là con mèo hung đỏ đang liếm chân nó, gợi ý đến con mèo ngài rất yêu quý. Ngoài ra còn có hoa hồng, biểu tượng của chuỗi mân côi và Đức Trinh Nữ Maria, hoa hồng là hoa ngài yêu thích. Ngoài ra họa sĩ Natalia còn vẽ những người ở bên cạnh ngài hàng ngày, “gia đình giáo hoàng” của ngài, đặc biệt là giám mục Georg Ganswein, thư ký riêng của ngài và các nữ tu của cộng đồng Memores Domini và cuối cùng bên phải ngài là người anh Georg Ratzinger của ngài đã qua đời năm 2020.
Theo nghệ sĩ, đây là tác phẩm có mục đích vinh danh nhà thần học vĩ đại của thời đại chúng ta, với đức tin sâu sắc được quyền năng của Chúa Thánh Thần soi sáng.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Bài họp báo của Đức Phanxicô trên chuyến bay từ Bahrain về Rôma ngày chúa nhật 6 tháng 11-2022
Đức Phanxicô: Ba chiến tranh thế giới trong một thế kỷ, lời kêu hòa bình
vaticannews.va, 2022-11-06
Trong cuộc họp báo trên chuyến bay từ Bahrain về Rôma ngày chúa nhật 6 tháng 11-2022, Đức Phanxicô đã nói về Ukraine và nhiều cuộc xung đột trên thế giới, về tình bạn giữa ngài với thượng giáo sĩ Ahmed Al Tayeb, về tầm quan trọng của việc trao quyền cho phụ nữ và bình đẳng phụ nữ, về người di cư, về lạm dụng trẻ em. Ngài cũng đề cập đến thượng hội đồng Đức, ngài không muốn một “giáo phái phúc âm” được thành lập ở đây.
Sau đây là cuộc họp báo trên máy bay.
Trước khi đặt câu hỏi, tôi muốn nói với cha một chuyện, cha có một vị trí rất đặc biệt trong trái tim tôi, không chỉ vì cha đến thăm đất nước tôi, nhưng ngày cha được bầu làm giáo hoàng, đó là ngày sinh nhật của tôi. Tôi xin hỏi cha, cha đánh giá như thế nào về kết quả chuyến đi này và về những nỗ lực của Bahrain nhằm củng cố và thúc đẩy cuộc sống chung, trong mọi lĩnh vực xã hội, tôn giáo, mọi giới tính và với các chủng tộc?
Đức Phanxicô: Đây là hành trình gặp gỡ trong mục đích tìm thấy chính mình trong đối thoại giữa các tôn giáo, với hồi giáo, với thượng phụ Bartholomew. Những ý tưởng của thượng giáo sĩ Ahmed Al Tayeb chính xác đi theo hướng này, hợp nhất trong hồi giáo bằng cách tôn trọng các sắc thái, sự khác biệt nhưng trong tinh thần đoàn kết, hiệp nhất người tín hữu kitô với các tôn giáo khác, với đối thoại liên tôn hoặc đại kết, nhưng phải giữ bản sắc riêng của mình. Chúng ta không bắt đầu bằng một bản sắc chung chung. Tôi là người hồi giáo, tôi là người kitô giáo, tôi có bản sắc này và tôi nói chuyện với bản sắc này.
Khi mình không có bản sắc riêng thì sẽ khó đối thoại, hai vị khách của chúng tôi là thượng giáo sĩ Ahmed Al Tayeb và thượng phụ Bartholomew là những người có bản sắc mạnh. Và như thế là tốt.
Về quan điểm liên quan đến hồi giáo, tôi đã nghe kỹ ba bài phát biểu của thượng giáo sĩ và tôi ấn tượng cách ngài nhấn mạnh nhiều đến đối thoại nội bộ hồi giáo, để không phải xóa bỏ khác biệt nhưng hiểu nhau, cùng làm việc với nhau và không chống lại nhau.
Tín hữu kitô chúng ta, chúng ta có một lịch sử về sự khác biệt khá xấu đã dẫn đến những cuộc chiến tôn giáo: người công giáo chống người chính thống giáo, người công giáo chống giáo phái Luther. Tạ ơn Chúa, bây giờ sau Công đồng đã có một sự thống nhất và chúng ta có thể đối thoại và cùng làm việc với nhau, điều này rất quan trọng, bằng chứng là trong những chuyện tốt đẹp chúng ta đã làm cho người khác.
“Đó là một hành trình gặp gỡ. Với tôi đó là điều mới lạ khi tìm hiểu một nền văn hóa mở cửa cho tất cả mọi người. Ở đất nước của quý vị có chỗ cho tất cả mọi người.”
Sau đó, các chuyên gia, các nhà thần học thảo luận về các vấn đề thần học nhưng chúng ta phải đi cùng nhau như người tín hữu, như bạn bè, như anh em để làm điều tốt. Tôi cũng ấn tượng khi nghe buổi nói chuyện của Hội đồng Các nhà hiền triết về tạo dựng và bảo vệ Tạo dựng, đó là mối quan tâm chung của mọi người không phân biệt tôn giáo. à đây là mối quan tâm chung của tất cả mọi người, hồi giáo cũng như kitô giáo. Bây giờ hồng y ngoại trưởng Vatican và thượng giáo sĩ Ahmed Al Tayeb đang đi cùng chuyến máy bay từ Bahrain đến Cairo, họ đi như người anh em và đó là một cái gì rất xúc động. Sự hiện diện của Thượng phụ Bartholomew – người có thẩm quyền trong lĩnh vực đại kết – cũng là một điều tốt. Chúng tôi đã thấy công việc đại kết chúng tôi đã làm và cả trong những lời ngài tuyên bố trước đó. Ngoài ra tôi rất ấn tượng trước đông đảo tín hữu người Philippine, người Ấn Độ từ Kerala đến đây làm việc và sinh sống.
Bà Carol Glatz (CNS)
Trong chuyến đi Bahrain, cha nói về các quyền cơ bản, đặc biệt là quyền của phụ nữ, phẩm giá của họ, quyền có vị trí của họ trong lĩnh vực xã hội và công cộng, và cha khuyến khích người trẻ can đảm, năng động để hướng tới một thế giới công bằng hơn. Trước tình hình đang diễn ra gần đây ở Iran với các cuộc biểu tình của phụ nữ và người trẻ muốn có thêm tự do, cha có ủng hộ cam kết này của phụ nữ và nhiều người trẻ, những người đòi hỏi các quyền cơ bản cũng được tìm thấy trong tài liệu về tình huynh đệ của con người không?
Đức Phanxicô: Nhưng chúng ta phải tự nói sự thật. Đấu tranh cho quyền phụ nữ là một đấu tranh liên tục. Ở một số nơi, phụ nữ bình đẳng với nam giới, nhưng ở những nơi khác không được như vậy. Tôi còn nhớ trong những năm 1950 ở đất nước tôi, có cuộc đấu tranh cho quyền công dân của phụ nữ: để phụ nữ có quyền bầu cử. Vì cho đến năm 1950, chỉ có đàn ông mới được đi bầu. Và tôi nghĩ đến cuộc chiến tương tự ở Mỹ để đòi quyền đi bầu cho phụ nữ. Tôi tự hỏi vì sao phụ nữ phải đấu tranh hết mình để có quyền của mình? Tôi không biết có phải truyền thuyết hay không, nhưng có những truyền thuyết giải thích sự tàn bạo đối với phụ nữ. Họ nói sở dĩ phụ nữ mang nhiều nữ trang vì ở một số nước, khi người chồng bỏ vợ, họ nói “đi đi” và người vợ phải đi ngay, thậm chí không được về nhà lấy đồ đạc, chỉ ra đi với những gì có trên người. Đó là lý do vì sao họ phải mang nữ trang để khi ra đi còn có một cái gì. Tôi không biết nó có đúng hay không, nhưng đó là hình ảnh giúp chúng ta suy nghĩ.
Đấu tranh cho quyền phụ nữ là một đấu tranh liên tục. Ở một số nơi, phụ nữ bình đẳng với nam giới, nhưng ở những nơi khác không được như vậy.
Quyền là cơ bản: nhưng làm sao ở thế giới ngày nay chúng ta có thể ngăn chặn việc cắt xẻo âm hộ của các em bé gái? Thật là kinh khủng. Làm những việc này là tội ác. Tôi nghe nói có hai khuynh hướng, hoặc xem phụ nữ là “thứ bỏ đi” hoặc là “phải bảo vệ”. Nhưng bình đẳng giữa nam-nữ vẫn chưa được phổ biến, chúng ta phải phải tiếp tục đấu tranh vì phụ nữ là món quà của Thượng đế. Chúa tạo ra con người bình đẳng với nhau. Trong các thư của ngài, Thánh Phaolô đã viết về mối quan hệ giữa nam và nữ, đối với chúng ta bây giờ nghe như lỗi thời, nhưng vào thời của ngài, đó là cả một cách mạng đến nỗi đã làm chướng tai khi ngài nói về sự trung tín giữa người nam và người nữ, người đàn ông chăm sóc người phụ nữ như chính da thịt mình. Vào thời đó, là cả một cách mạng. Tất cả các quyền phụ nữ đều bắt nguồn từ sự bình đẳng này. Một xã hội không đặt phụ nữ vào đúng vị trí của họ thì sẽ không tiến lên được. Chúng tôi có kinh nghiệm về chuyện này. Tôi nhận thấy khi có một phụ nữ vào Vatican làm việc, mọi thứ đều được cải thiện. Ví dụ, phụ tá thống đốc Vatican là một phụ nữ, mọi thứ đã thay đổi nhiều khi bà làm. Trong Hội đồng Kinh tế, có sáu hồng y và sáu giáo dân, tất cả đều là nam giới. Tôi thay đổi và đưa một người đàn ông và năm phụ nữ vào nhóm giáo dân. Và đó là một cách mạng, phụ nữ biết cách tìm ra con đường đúng đắn, họ biết cách tiến về phía trước. Bây giờ tôi bổ nhiệm bà Marianna Mazzuccato vào Giáo hoàng Học viện về Sự sống. Bà là nhà kinh tế học vĩ đại đến từ Hoa Kỳ, để mang lại một chút nhân văn hơn cho tất cả những điều này.
Họ không cần phải giống đàn ông, họ là phụ nữ và chúng ta cần họ. Và một xã hội xóa bỏ phụ nữ ra khỏi đời sống công cộng là một xã hội làm cho chính mình bị nghèo đi. Quyền bình đẳng, có. Nhưng cũng có bình đẳng cho mọi cơ hội. Bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về khả năng để tiến lên, nếu không chúng ta sẽ nghèo đi. Tôi nghĩ với điều này, tôi đã nói những gì cần phải làm trên toàn cầu.
Nhưng vẫn còn một chặng đường dài để đi. Tôi đến từ một dân tộc cho rằng đàn ông có giá trị hơn phụ nữ. Tôi xuất thân từ dân tộc đó. Người đàn ông Argentina luôn cho mình cao hơn phụ nữ. Điều này không vinh dự gì, khi chúng tôi có vấn đề, chúng tôi đến xin các bà mẹ giải quyết. Tính ‘ma-sô’ này giết chết nhân loại. Tôi xin cám ơn bà đã cho tôi cơ hội để nói điều này, đó là một điều gì đó rất gần gũi với trái tim tôi. Chúng ta không chỉ đấu tranh cho quyền mà còn vì chúng ta cần phụ nữ trong xã hội giúp chúng ta thay đổi.
Với Đức Phanxicô, thử thách thực sự là yêu kẻ thù của mình
Ông Antonio Pelayo (Vida Nueva)
Lần duy nhất cha ứng biến trong chuyến đi này là khi cha nói “Ukraine tử vì đạo” và “các cuộc thương thuyết cho hòa bình”. Xin cha cho biết Vatican đã có cách cho các cuộc thương thuyết này không và gần đây cha có nói chuyện với Putin hay trong tương lai cha có ý định nói chuyện với ông không?
Đức Phanxicô: Trước hết Vatican thường xuyên lo lắng và Phủ Quốc vụ khanh làm việc chu đáo. Tôi biết giám mục Gallagher rất nhiệt tâm. Tôi xin nhắc lại một chút câu chuyện: một ngày sau khi cuộc chiến bắt đầu, tôi đã đến đại sứ quán Nga, để nói chuyện với đại sứ. Tôi biết ông đã sáu năm kể từ khi ông đến, ông là một nhà nhân văn. Tôi nhớ một nhận xét ông nói với tôi hồi đó: “Chúng ta đã rơi vào chế độ độc tài tiền bạc” khi ông nói về văn minh. Một nhà nhân văn, một người chiến đấu cho bình đẳng. Tôi nói với ông tôi sẵn sàng đi Matxcova để nói chuyện với Putin nếu cần. Ông Lavrov, bộ trưởng Ngoại giao lịch sự trả lời, xin cám ơn nhưng chưa cần thiết lúc này. Tôi cũng đã nói chuyện với tổng thống Zelensky hai lần, sau đó với đại sứ một vài lần nữa. Và những nỗ lực đang được thực hiện để gắn kết mọi thứ lại với nhau, để tìm ra giải pháp. Vatican cũng đã can thiệp cho tù nhân.
Điều làm cho tôi kinh ngạc là sự tàn ác – đó là lý do vì sao tôi dùng từ “tử đạo” cho Ukraine – tàn ác không phải từ người dân Nga, có lẽ, vì người dân Nga là một dân tộc vĩ đại – tàn ác của những người lính đánh thuê, những người đi vào chiến tranh như đi phiêu lưu, như lính đánh thuê… Tôi thích nhìn mọi việc như vậy vì tôi rất quý trọng nhân dân Nga, chủ nghĩa nhân văn Nga. Chỉ cần nghĩ về Dostoyevsky, văn hào đã truyền cảm hứng cho chúng ta, cho tín hữu kitô khi họ nghĩ về kitô giáo. Tôi có tình cảm rất lớn với người dân Nga và người dân Ukraine. Khi tôi mười một tuổi, có một linh mục gần nhà tôi làm lễ bằng tiếng Ukraine và không có em bé nào giúp lễ, cha đã dạy tôi giúp lễ bằng tiếng Ukraine và tất cả những bài hát tiếng Ukraine, tôi học khi còn nhỏ vì thế tôi có một tình cảm sâu đậm với phụng vụ Ukraine. Tôi đang ở giữa hai dân tộc mà tôi yêu mến. Nhưng không phải chỉ có tôi. Tòa Thánh đã có nhiều cuộc họp mật, nhiều cuộc họp có kết quả tốt. Bởi vì chúng ta không thể phủ nhận một cuộc chiến tranh, lúc đầu, có thể làm cho chúng ta dũng cảm, nhưng sau đó sẽ làm chúng ta mệt mỏi, tổn thương, thấy tác hại của chiến tranh để thấy khía cạnh con người hơn, gần gũi hơn.
“Bởi vì ngày nay, tôi tin rằng tai họa lớn nhất trên thế giới là ngành công nghiệp vũ khí.”
Nhân câu hỏi này, tôi muốn nói: trong một thế kỷ mà chúng ta có ba thế chiến, năm 1914-1918, năm 1939-1945 và cái này! Đây là chiến tranh thế giới, vì khi các đế chế, dù bên này hay bên kia, khi họ suy yếu, họ cần tiến hành chiến tranh để cảm thấy mạnh, nhưng cũng phải bán vũ khí! Vì ngày nay, tôi tin rằng tai họa lớn nhất của thế giới là ngành công nghiệp vũ khí. Tôi nghe nói, nếu chúng ta không chế tạo vũ khí trong một năm, nạn đói trên thế giới sẽ chấm dứt. Ngành công nghiệp vũ khí thật khủng khiếp.
Cách đây vài năm, một chiếc thuyền chở đầy vũ khí từ một nước khác đến hải cảng Gênes, nước Ý để chuyển sang một thuyền lớn hơn chở đến Yemen. Những người làm việc ở Gênes không muốn làm việc này. Mười năm chiến tranh, Yemen không có thức ăn cho trẻ con. Người Rohingya bị trục xuất liên tục, họ vẫn còn chiến tranh. Thật khủng khiếp cho những gì xảy ra ở Miến Điện. Bây giờ đến lượt Ethiopia, tôi hy vọng sẽ có một cái gì tốt cho Ethiopia với hiệp ưóc được hai bên ký ngày 2 tháng 11 tại Nam Phi. Nhưng chúng ta đang có chiến tranh ở khắp nơi và chúng ta không hiểu điều đó. Hôm nay Âu châu bị chiến tranh Nga-Ukraine tác động mạnh. Và còn ở Syria, Liban, những nước luôn có chiến tranh từ nhiều năm nay.
Tôi đã nói với quý vị nhiều lần, mỗi lần tôi đến thăm các nghĩa trang quân nhân tôi đều khóc, biết bao nhiêu gia đình tan nát, trẻ em mồ côi. Chiến tranh gieo rắc thảm kịch. Đó là lý do vì sao nhà báo các bạn, các bạn hãy là những người bảo vệ hòa bình, xin các bạn lên tiếng chống chiến tranh, đấu tranh chống chiến tranh. Tôi xin các bạn như người anh em. Xin cám ơn.
Ông Hugues Lefevre (I.Mdia)
Sáng nay trong bài phát biểu với các tu sĩ ở Bahrain, cha đã nói về tầm quan trọng của niềm vui kitô giáo, nhưng trong những ngày này, giáo dân Pháp đã mất niềm vui khi họ biết vụ Giáo hội đã giữ bí mật trong việc loan báo kỷ luật trừng phạt một giám mục năm 2021, ông đã phạm tội lạm dụng tình dục trong năm 1990 khi còn là linh mục. Khi câu chuyện được báo chí tiết lộ, đã có thêm 5 nạn nhân mới được đưa ra. Ngày nay, nhiều người công giáo muốn biết có nên thay đổi văn hóa giữ bí mật của công lý giáo luật và trở nên minh bạch hay không, cha có nghĩ các biện pháp trừng phạt giáo luật nên được công khai hay không.
Đức Phanxicô: Xin cám ơn câu hỏi của ông. Tôi muốn bắt đầu với một chút lịch sử về chủ đề này. Vấn nạn lạm dụng luôn tồn tại, không chỉ trong Giáo hội mà ở khắp nơi. Có từ 42 đến 46% trường hợp lạm dụng tình dục xảy ra trong gia đình hoặc với người lân cận. Nó rất nghiêm trọng, nhưng thói quen luôn là che đậy. Gia đình che đậy, người lân cận che đậy. Thói quen xấu này trong Giáo hội đã bắt đầu thay đổi từ vụ tai tiếng ở Boston dưới thời hồng y Law, vì vụ tai tiếng này mà ngài đã từ chức. Đây là lần đầu tiên một vụ lạm dụng được cho là một vụ tai tiếng. Kể từ đó, Giáo hội ý thức và bắt đầu hoạt động, trong khi trong xã hội và các thể chế khác thường che giấu. Trong các cuộc họp của các chủ tịch hội đồng giám mục về vấn đề này, tôi đã hỏi Unicef, Liên hợp quốc về con số thống kê trong các gia đình, khu phố, trường học, trong môi trường thể thao… Một nghiên cứu nghiêm túc thực hiện cho cả Giáo hội, và họ cho biết chúng ta là một thiểu số nhỏ, nhưng theo tôi, dù chỉ có một trường hợp duy nhất, thì nó cũng đã là thảm kịch, bởi vì với tư cách linh mục, người có ơn gọi làm cho người khác lớn lên thì với hành động này, họ đã hủy hoại người khác. Với linh mục, lạm dụng là đi ngược bản chất linh mục và chống lại bản chất xã hội của mình.
Trong sự thức tỉnh này, tiến hành các cuộc điều tra và đưa ra các cáo buộc, tất cả không phải lúc nào và ở mọi nơi đều giống nhau. Một số vụ bị che giấu, trước vụ tai tiếng ở Boston, các linh mục phạm tội lại được thuyên chuyển đi chỗ khác. Bây giờ mọi chuyện đã rõ ràng và chúng tôi đang đi tới trên vấn đề này. Vì thế chúng ta không nên ngạc nhiên khi có những trường hợp này lại tái xuất hiện. Nhân đây tôi xin cám ơn công việc can đảm của hồng y O’Malley, ngài đã hiểu cần thiết phải thể chế hóa điều này với ủy ban bảo vệ trẻ vị thành niên mà ngài điều hành. Chúng tôi làm việc với tất cả những gì chúng tôi có thể, nhưng quý vị cũng nên biết, trong Giáo hội vẫn còn có những người chưa rõ ràng, chưa chia sẻ… đây là một tiến trình liên tục và chúng tôi can đảm đi tới, không phải ai cũng có can đảm này. Đôi khi có bị cám dỗ để thỏa hiệp, và tất cả chúng ta ai cũng là nô lệ cho tội lỗi của mình, nhưng ý muốn của Giáo hội là làm sáng tỏ mọi thứ. Ví dụ, tôi đã nhận được hai khiếu nại trong những tháng gần đây về các vụ lạm dụng Giáo hội đã che đậy và đánh giá sai: ngay lập tức tôi yêu cầu một cuộc xem xét mới cho cả hai trường hợp và bây giờ một phiên tòa mới đang được thực hiện. Ngoài ra còn có điều này: việc sửa đổi các thử nghiệm cũ, xem lại các vụ án cũ, đã làm không đúng, đã không tiến hành một cách đúng đắn.
“Giáo hội nên xấu hổ về những điều xấu đã làm và tạ ơn Chúa cho những điều tốt đã được thực hiện”
Chúng tôi làm những gì chúng tôi có thể, chúng tôi đều là những kẻ có tội, các bạn đã biết. Và điều đầu tiên chúng ta làm là phải cảm thấy xấu hổ, xấu hổ sâu xa vì điều này. Tôi nghĩ biết xấu hổ là một ơn. Chúng ta có thể chiến đấu chống lại mọi tính xấu, nhưng không biết xấu hổ là… vô ích. Đó là lý do vì sao tôi rất ngạc nhiên khi trong Bài tập Linh thao, Thánh I-Nhã xin tha thứ cho các tội lỗi đã phạm, ngài bắt linh thao viên phải biết xấu hổ, và nếu chúng ta không có ơn xấu hổ thì chúng ta không thể đi tiếp. Ở đất nước tôi, một trong những câu thóa mạ năng là “bạn thật xấu hổ!” và tôi nghĩ Giáo hội không thể không xấu hổ. Giáo hội nên xấu hổ về những điều xấu xa đã làm. Tôi có thể nói với ông, chúng tôi có tất cả thiện chí để tiếp tục, cũng là nhờ sự giúp đỡ của các bạn.
Nhà báo Ludwig Ring-Eifel (Centrum Informationis Catholicum)
Tôi xin nói một chuyện cá nhân trước vì tôi rất xúc động. Sau 8 năm gián đoạn, tôi trở lại chuyến bay với giáo hoàng. Tôi rất biết ơn khi được ở đây một lần nữa…
Chào mừng ông trở lại!
Ông Ludwig: Xin cám ơn cha. Chúng tôi là nhóm người Đức thiểu số, chỉ có ba người trong chuyến bay này, chúng tôi nghĩ: làm thế nào để tạo mối liên hệ giữa những gì chúng tôi đã thấy ở Bahrain và tình hình ở Đức. Bởi vì ở Bahrain, chúng tôi thấy một Giáo hội nhỏ bé, một đoàn chiên nhỏ bé, một Giáo hội nghèo với nhiều hạn chế, v.v., nhưng là một Giáo hội sống động, tràn đầy hy vọng, đang phát triển toàn diện. Mặt khác, ở Đức, chúng tôi có một Giáo hội tuyệt vời, với những truyền thống tuyệt vời; phong phú, với thần học, tiền bạc và mọi thứ, nhưng mỗi năm chúng tôi mất 300,000 trăm ngàn giáo dân, những người ra đi, những người đang rơi vào khủng hoảng sâu đậm. Có điều gì để học hỏi từ đàn chiên nhỏ chúng ta đã thấy ở Bahrain cho nước Đức to lớn này không?
Đức Phanxicô: Nước Đức có một lịch sử tôn giáo lâu đời. Trích dẫn triết gia Hoelderlin, tôi sẽ nói: “Rất nhiều thứ đã được sống, rất nhiều.” Lịch sử tôn giáo của nước Đức rất dài và phức tạp, đầy rẫy những đấu tranh. Tôi nói với người công giáo Đức: Nước Đức có một Nhà thờ Phúc âm cao cả và tuyệt đẹp, tôi không muốn một cái khác, sẽ không bao giờ tốt bằng cái này; nhưng tôi muốn nó là công giáo, trong tình huynh đệ với người tin lành. Đôi khi chúng ta đánh mất ý thức tôn giáo của dân tộc, một dân tộc thánh thiện và trung thành với Chúa, chúng ta rơi vào những cuộc thảo luận về luân lý, về kết hợp, những cuộc thảo luận là hệ quả thần học, nhưng không phải là trọng tâm thần học. Dân thánh và trung thành với Chúa nghĩ gì? Làm thế nào để dân thánh của Chúa lắng nghe? Hãy tiếp tục và tìm hiểu cách lắng nghe, đó là lòng mộ đạo đơn sơ mà quý vị sẽ tìm thấy nơi ông bà.
Tôi không nói là phải đi lui, không, nhưng phải quay về nguồn cảm hứng, về cội nguồn. Tất cả chúng ta đều có một câu chuyện về cội nguồn của đức tin; dân tộc nào cũng có: hãy đi tìm! Tôi nhớ câu này của Hoelderlin cho thời đại chúng ta: “Người già phải giữ những gì họ đã hứa khi còn nhỏ”. Chúng ta, trong thời thơ ấu, chúng ta đã hứa rất nhiều điều, rất nhiều. Bây giờ chúng ta đi vào các cuộc thảo luận luân lý, thảo luận tình huống, nhưng gốc rễ tôn giáo là dấu ấn Tin Mừng cho bạn, cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô hằng sống: và từ đó là hệ quả, tất cả hệ quả; từ đó là có sự can đảm làm tông đồ, đi ra các vùng ngoại vi, ngay cả đến vùng ngoại vi luân lý của con người để giúp đỡ họ; nhưng xuất phát từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô. Nếu không có cuộc gặp gỡ này, chúng ta sẽ có một thứ đạo đức giả, giả dạng kitô giáo. Đó là những gì tôi muốn nói từ đáy lòng tôi. Xin cám ơn.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn