Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Ngoại trưởng Ukraine Dmytro Kouleba: “Không quốc gia nào mong muốn hòa bình hơn chúng tôi”
la-croix.com, Loup Besmond de Senneville (gởi từ Kyiv, Ukraine), 2022-12-09
Ngoại trưởng Dmytro Kouleba trong cuộc phỏng vấn ngày thứ sáu 9 tháng 12 với một nhóm truyền thông quốc tế trong đó có báo La Croix, ông trả lời Đức Phanxicô và chỉ trích sự trung lập của Tòa Thánh.
La Croix: Ngày thứ năm 8 tháng 12, tại Rôma, Đức Phanxicô đã rất xúc động khi nói về Ukraine. Ngài đã khóc khi cầu nguyện với Đức Mẹ trong ngày lễ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội tại quảng trường Tây Ban Nha. Cử chỉ này có ý nghĩa gì với Ukraine?
Ngoại trưởng Dmytro Kouleba: Lòng trắc ẩn này có ý nghĩa rất lớn với chúng tôi, nó đi thẳng vào trái tim người Ukraine khi phản ứng của ngài là chân thành. Nhưng, trên hết, chúng tôi chờ ngài đến thăm Ukraine. Ngài có nhiều giáo dân trong nước, nhất là trong xã hội Ukraine, ngài là biểu tượng của cảm thông, trắc ẩn và nâng đỡ tinh thần. Chúng tôi sẽ rất vui được chào đón ngài khi ngài đến.
Ukraine đang làm việc với Tòa thánh về những vấn đề gì?
Tôi đã gặp giám mục Paul Gallagher, đặc trách quan hệ ngoại giao Tòa Thánh bên lề cuộc họp gần đây của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu, OSCE ở Ba Lan, chúng tôi có nhiều chủ đề thảo luận. Dĩ nhiên tất cả những gì liên quan đến chiến tranh đều ưu tiên tuyệt đối. Về phía chúng tôi, đề xuất của chúng tôi luôn giống nhau: Vatican có thể chọn chủ đề nào Vatican có khả năng thúc đẩy tốt nhất. Chúng tôi luôn chào đón mọi nỗ lực của Vatican như thương thuyết để giúp cho hàng trăm trẻ em, cho các tù nhân bị bắt ở Nga được trở về, giúp cung cấp lương thực cho Ukraine hoặc tham dự vào đề xuất hòa bình do tổng thống Zelensky đưa ra.
Đó là bước đầu tiên. Nhưng điều này là không đủ. Bước tiếp theo làm sao thực hiện. Trong giai đoạn này, cần tránh một số sai sót cũng như nhầm lẫn và hiểu lầm.
Chiến tranh ở Ukraine: Chiến dịch Reinhardt được Đức Phanxicô đề cập đến là gì?
Đầu tiên, chúng ta không thể nói, một mặt muốn xúc tiến công việc, mặt khác lại nói về tình anh em giữa người Ukraine và người Nga. Chúng ta phải ngừng nói chúng tôi sẽ làm hòa vì chúng tôi là các quốc gia anh em. Trường hợp ở đây không phải vậy. Và nếu chúng ta nói về tình huynh đệ mà nước Nga dựa lên, thì đó là huynh đệ giữa Cain và Abel. Người Nga đến Ukraine để giết và hãm hiếp.
Chiến tranh, đó là chọn “Ca-in”
Thứ nhì, dấn thân vào vấn đề thì không thể vin vào cớ để có trung lập trong cuộc xung đột và không gọi đúng sự việc, con mèo là con mèo với lý do không muốn làm Nga sợ hãi. Chúng tôi không chấp nhận. Đừng bao giờ quên Nga là kẻ xâm lược và Ukraine là nạn nhân của cuộc xâm lược này. Chúng tôi không bao giờ được đặt ngang hàng với Nga, như những người kêu gọi phân chia trách nhiệm giữa hai nước đang làm.
Ông có nghĩ Vatican có thể đóng vai trò trung gian hòa giải trong cuộc xung đột không?
Tổng thống Putin không muốn chấm dứt cuộc xung đột này. Điều đó có nghĩa một hòa giải rộng lớn ở giai đoạn này sẽ không thành công. Thật không may, kể từ năm 2014 khi Nga xâm chiếm Crimea và Donbass, 90% đề xuất hòa giải đến từ các quốc gia đã dùng đề xuất này như làn khói để họ khỏi chọn lựa đứng về phía nào, không tham gia với Ukraine để chống lại Nga. Trong những điều kiện này, hòa giải là không thể.
Đây có phải là trường hợp của Tòa Thánh không?
Không. Tòa thánh đã làm nhiều hơn, Vatican đã đưa ra các đề xuất nhưng Nga không bao giờ trả lời. Họ sẽ không bao giờ làm. Vì vậy, tất cả những gì Vatican có thể làm là chọn những vấn đề cụ thể và xúc tiến chúng.
Tháng 10 vừa qua, giáo hoàng kêu gọi tổng thống Putin ngừng chiến tranh và xin tổng thống Zelensky chấp nhận các đề xuất hòa bình nghiêm túc. Ông thấy lời kêu gọi này như thế nào?
Thành thật mà nói, nó không giúp được gì. Kêu gọi tổng thống Putin chấm dứt chiến tranh là điều hoàn toàn hợp lý, vì ông khơi đầu. Nhưng khi, trong câu tiếp theo, kêu gọi tổng thống Zelensky cởi mở với những đề xuất hòa bình nghiêm túc thì hàm ý ông không cởi mở với những đề xuất như vậy. Như thế là hoàn toàn sai. Không có quốc gia nào trên thế giới mong muốn hòa bình hơn Ukraine. Điều này tạo ấn tượng cả hai quốc gia đều có tội, một vì họ tấn công và nước kia vì họ từ chối hòa bình.
Chiến tranh ở Ukraine: Đức Phanxicô có thể làm gì để ngăn chặn Putin?
Theo ông, một đề xuất hòa bình nghiêm túc là gì?
Với Ukraine, bất kỳ đề xuất hòa bình nghiêm túc nào đều phải dựa trên nguyên tắc cơ bản: sự toàn vẹn lãnh thổ ở Ukraine phải được khôi phục hoàn toàn. Chúng ta có thể đề cập đến các vấn đề khác, nhưng vấn đề này là không thể nhân nhượng.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo có thể đóng vai trò gì trong việc giải quyết xung đột này?
Cuộc xâm lược Ukraine đã tạo ra những rạn nứt sâu sắc trong thế giới tôn giáo, và không chỉ giữa các kitô hữu mà còn với tín hữu hồi giáo và do thái giáo. Trước hết, điều chúng tôi mong đợi nơi các tôn giáo là họ an ủi và giúp đỡ người dân về mặt tinh thần. Hơn nữa, tôi xin nhắc, Giáo hội và Nhà nước là riêng biệt, có nghĩa không tôn giáo nào có thể hỗ trợ cho Nga hoặc hành động của nước này. Chúng tôi không thể dung thứ cho một linh mục ở Ukraine ban phép lành cho người lính Nga tham chiến. Vai trò của các Giáo hội ở Ukraine là giúp đất nước này vực lên.
Chiến tranh ở Ukraine: Đức Phanxicô cố gắng hòa giải để giải thoát 300 tù nhân
Mỗi Giáo hội đều mang trách nhiệm cụ thể với lời nói và hành động của mình. Theo nghĩa này, tuyên truyền của Nga giữa các giáo sĩ của Tòa Thượng phụ Matxcova ở Ukraine là không thể chấp nhận được. Bất kỳ hoạt động nào của Giáo hội tạo điều kiện hoặc hỗ trợ cho kẻ xâm lược đều phải bị dập tắt bằng mọi biện pháp hợp pháp của chúng tôi. Giáo hội không thể là thiên đàng che giấu cho nước Nga.
Ông đã chỉ trích quan điểm của Đức Phanxicô về cuộc xung đột này. Nhưng ông có nghĩ quan điểm này đã phát triển kể từ khi bắt đầu chiến tranh?
Đúng, nó đã phát triển đúng hướng. Sự thật cuộc chiến này đã phá vỡ nhiều nền tảng của trật tự chính trị thế giới, một số trong đó đã được xây dựng từ nhiều thập kỷ. Sự thất vọng lớn nhất của chúng tôi là khi ngài nói về NATO, và việc Nga bị khiêu khích bằng cách nào đó khi NATO “sủa” trước cổng nhà họ. Tôi hiểu rất rõ lập luận này đến từ đâu, đó là tiếng Nga, và tôi kết luận, ai đó đã chia sẻ với giáo hoàng như lời giải thích cho chiến tranh. Nhưng điều đó hoàn toàn không hợp pháp hóa lập luận này.
Đức Phanxicô so sánh chiến tranh ở Ukraine với nạn đói do Stalin gây ra
Thật đau lòng khi nghe giáo hoàng nói như thế, nhưng tôi phải khen ngài về quan điểm gần đây của ngài. Ngài không dính vào các khái niệm không còn phù hợp, không tương ứng với thực tế, ngài luôn quyết tâm đi tìm sự thật và hòa bình. Nhưng sự thật đáng buồn là thời điểm hòa giải rộng rãi vẫn chưa đến, lý do là vì tổng thống Putin.
Đức Phanxicô so sánh cuộc chiến ở Ukraine với chiến dịch quốc xã của Đức
Vì khi chúng ta khao khát hòa bình, chúng ta không bắn hàng trăm tên lửa mỗi tuần để phá hủy cơ sở hạ tầng năng lượng để người dân không có điện nước. Chúng tôi cũng không gởi hàng
trăm binh sĩ đến đánh chiếm các thị trấn ở Donbass hoặc các vùng lãnh thổ lân cận. Ngày hòa giải sẽ đến, và Tòa thánh chắc chắn sẽ đóng một vai trò. Nhưng thật đáng tiếc, chúng ta vẫn chưa đến giai đoạn này.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Chiến tranh ở Ukraine: Chiến dịch Reinhardt được Đức Phanxicô đề cập đến là gì?
la-croix.com, Matthieu Lasserre, 2022-12-09
Trong buổi tiếp kiến chung hàng tuần ngày thứ tư 7 tháng 12 tại Hội trường Phaolô VI, hướng về giáo dân hành hương Ba Lan, Đức Phanxicô đã so sánh cuộc chiến do Nga phát động ở Ukraine với Chiến dịch Reinhardt do Đức quốc xã tiến hành ở Ba Lan trong Thế chiến thứ hai, đã tiêu diệt hơn 1,5 triệu người do thái.
Một hoạt động quân sự của Đức năm 1943 tại khu ổ chuột Warsaw trong Thế chiến thứ hai. /AFP
“Lịch sử tự chính nó lặp lại.” Đức Phanxicô đã so sánh cuộc chiến ở Ukraine với một trong những giai đoạn đẫm máu nhất của Holocaust, nạn diệt chủng người do thái. Ngài nói với giáo dân hành hương Ba Lan có mặt tại Vatican: “Thứ hai tuần trước, Trung tâm Quan hệ công giáo-do-thái tại Đại học Lublin, Ba Lan đã kỷ niệm ngày Chiến dịch Reinhardt. Ký ức về sự kiện khủng khiếp này khơi dậy trong mỗi chúng ta ước vọng và hành động cho hòa bình. Và lịch sử tự chính nó lặp lại. Bây giờ chúng ta thấy những gì đang xảy ra ở Ukraine.”
1,7 triệu người chết
Theo Bảo tàng Tưởng niệm Holocaust ở Washington thì “Chiến dịch, Aktion Reinhardt được đặt theo tên của Reinhard Heydrich, người chịu trách nhiệm tổ chức Giải pháp Cuối cùng, cao điểm của Holocaust. Chiến dịch đã được chính quyền Đức quốc xã lên kế hoạch từ mùa thu năm 1941 với mục đích sát hại khoảng hai triệu người do thái sống trên lãnh thổ Ba Lan, bóc lột sức lao động của một số người do thái-ba lan trước khi giết họ hoặc tịch thu tài sản của họ.”
Chiến dịch Reinhardt được phát động vào tháng 3 năm 1942. Đức quốc xã đã tổ chức vụ giết người hàng loạt này xung quanh ba trung tâm hủy diệt nằm ở Ba Lan: Belzec (434.500 người chết), Sobibór (ít nhất có 167.000 người chết) và Treblinka (khoảng 925.000 người chết, chủ yếu là từ các khu ổ chuột ở Warsaw).
Ngoài vụ sát hại gần 1,5 triệu người Do Thái trong các trung tâm, Đức quốc xã và cảnh sát đã thực hiện một số hoạt động giết người đặc biệt là các vụ hành quyết lên tổng số 1,7 triệu người chết.
Ngoài người do thái, khoảng 50.000 người du mục cũng bị giết ở Ba Lan. Các tù nhân chiến tranh của Liên Xô cũng bị bắn trong các trại.
Jonathan Littel: “Những cách làm này ở Ukraine rõ ràng là thuộc tội diệt chủng”
“Chiến dịch Lễ hội thu hoạch mùa màng”
Toàn bộ chiến dịch này chiếm khoảng một phần ba số người chết do Holocaust đã kết thúc ngày 19 tháng 10 năm 1943, với việc giải thể ba trại hủy diệt. Các công nhân bị trục xuất đã bị bắn hoặc bị cho vào lò hơi ngạt.
Lo sợ một cuộc nổi dậy, Heinrich Himmler, người đứng đầu Đức quốc xã và Gestapo dưới Đệ tam Quốc xã, quyết định loại bỏ những tù nhân do thái cuối cùng bị cưỡng bức lao động. Một mệnh lệnh đã dẫn đến “Chiến dịch Lễ hội thu hoạch mùa màng” trong đó có 42.000 người do thái đã bị Waffen-SS bắn ở vùng Lublin.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Cây thông Zaporizhia và những giọt nước mắt của Đức Phanxicô
la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2022-12-10
Tuần này Đức Phanxicô đã rất xúc động khi ngài cầu nguyện xin Đức Mẹ ban hòa bình cho Ukraine. Mỗi thứ bảy, nhà báo Loup Besmond de Senneville, phóng viên thường trực của báo “La Croix” đưa quý độc giả vào hậu trường của đất nước nhỏ nhất thế giới này.
Bối cảnh diễn ra cách đây hai tuần tại Vatican. Ngày hôm đó, giám mục phụ tá Jan Sobilo, giáo phận Kharkiv-Zaporijjia, Ukraine có hẹn với Đức Phanxicô. Cùng với một số giám mục Ukraine khác, giám mục đến nói với Đức Phanxicô, người dân Ukraine đang đau khổ biết bao, nhưng cũng để nghe lời nâng đỡ của Đức Phanxicô. Hàng ngày, người mặc áo trắng theo dõi tin tức về cuộc xung đột và những người chung quanh ngài cho biết, ngài luôn quan tâm đến tình hình chiến tranh tiếp diễn ở Ukraine.
Đến từ một trong những vùng Ukraine bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhất, trong lúc chờ gặp Đức Phanxicô, ngày hôm đó giám mục Sobilo đưa mắt nhìn ra Quảng trường Thánh Phêrô, ngài nhìn cây thông Noel vừa được chở từ vùng Abruzzo nước Ý đến. Cây thông được dựng trước cửa vương cung thánh đường. Hôm đó giám mục người Ba Lan được bổ nhiệm năm 2010 tại vùng đông nam Ukraine nói: “Tôi tự hỏi không biết họ có dựng một cây thông như thế này ở Zaporijjia không. Không. Chắc chắn là không. Nhưng chúng tôi vẫn sẽ chờ Chúa Giêsu, sinh ra trong hang tối. Chúng tôi sẽ chờ Ngài bất chấp giá lạnh và bóng tối.”
Có phải đó là người mà Đức Phanxicô nghĩ đến khi ngài ở dưới chân tượng Đức Mẹ ngày thứ năm 8 tháng 12 ở quảng trường Tây Ban Nha, nhân ngày lễ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội không? Khi cầu nguyện cho số phận của người dân Ukraine tử vì đạo và cho hòa bình mà ngày nay dường như ngày càng xa vời đó không? Những hình ảnh về một giáo hoàng dựa vào cây gậy, giọng nói khàn vì xúc động, những giọt nước mắt đã đi khắp thế giới. Có lẽ lúc này ngài nghĩ đến những em bé ở Zaporijjia, những gia đình bị ly tán này, về những cây thông sẽ không bao giờ được dựng lên ở nhiều thành phố của Ukraine.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Kinh Truyền tin với Đức Thánh cha: Mùa Vọng là thời điểm để chúng ta ngạc nhiên về lòng thương xót cao cả của Thiên Chúa
Trưa Chúa nhật, ngày 11 tháng Mười Hai năm 2022, Đức Thánh cha Phanxicô đã chủ sự kinh Truyền tin với hàng chục ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô dưới bầu trời nắng đẹp, sau một ngày mưa.
Đặc biệt trong số những người hiện diện, có đông đảo các trẻ em cùng với phụ huynh, các giáo lý viên và huynh trưởng, từ các giáo xứ ở Roma, đến tham dự buổi đọc kinh. Theo một thói quen từ lâu, các em mang theo những tượng Chúa Hài Đồng để Đức Thánh cha làm phép rồi các em mang về đặt trong các hang đá máng có trong gia đình các em. Trước đó có nhiều em tham dự thánh lễ tại Đền thờ thánh Phêrô, do Đức Hồng y Giám quản Mauro Gambetti cử hành.
Huấn dụ của Đức Thánh cha
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, Đức Thánh cha giải thích bài Tin mừng Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng, kể lại sự nghi ngờ của thánh Gioan Tẩy Giả về Đấng Thiên Sai.
Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Nghi ngờ của Gioan Tẩy Giả
Bài Tin mừng Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng này nói với chúng ta về ông Gioan Tẩy Giả: ở trong tù, thánh nhân sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải chờ đợi ai khác nữa?” (Mt 11,4). Thực vậy, Gioan, khi nghe kể về những công việc của Chúa Giêsu, thì bắt đầu nghi ngờ không biết Người có thực sự là Đấng Messia hay không. Thánh nhân nghĩ đến một Đức Messia nghiêm khắc, khi đến, sẽ thi hành công lý trong quyền năng, trừng phạt những kẻ có tội. Vậy mà, giờ đây Chúa Giêsu có những lời nói và cử chỉ cảm thương đối với tất cả mọi người, nơi trung tâm hành động của Người có lòng thương xót, nhờ đó “những người mù được thấy, người què đi được, người phong cùi được thanh tẩy, người điếc nghe thấy, kẻ chết sống lại, và người nghèo được loan báo Tin mừng” (v.5). Nhưng chúng ta nên dừng lại nơi cuộc khủng hoảng của vị Tẩy Giả, vì có thể sự kiện này nói lên một điều quan trọng đối với cả chúng ta.
Nghi ngờ có thể giúp tăng trưởng thiêng liêng
Bản văn đoạn Tin mừng nhấn mạnh rằng Gioan ở trong tù, và điều này, không những về mặt thể lý, nhưng cũng làm cho chúng ta nghĩ đến tình trạng nội tâm thánh nhân đang trải qua: trong tù có sự tăm tối, thiếu cơ hội nhìn rõ và nhìn xa. Thực vậy, vị Tẩy Giả không nhận ra được nơi Chúa Giêsu là Đấng Messia được trông đợi, và vì bị nghi ngờ vây bủa, thánh nhân sai các môn đệ đi kiểm chứng. Chúng ta ngạc nhiên vì thấy điều đó cũng xảy ra đối với thánh Gioan, người đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu nơi sông Giordan và đã chỉ cho các môn đệ thấy đó là Chiên Thiên Chúa (Xc Ga 1,29). Nhưng điều này cũng có nghĩa là cả người tin tưởng mạnh cũng trải qua đường lằn nghi ngờ. Và đó không phải là một điều xấu, đúng hơn, đôi khi là điều thiết yếu để tăng trưởng trong đàng thiêng liêng: sự nghi ngờ ấy giúp chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa luôn lớn hơn điều chúng ta tưởng nghĩ; những công việc Chúa thực hiện gây ngạc nhiên đối với những toan tính của chúng ta; cách hành động của Chúa khác biệt, vượt lên trên những nhu cầu và mong đợi của chúng ta; và vì thế không bao giờ chúng ta được ngưng tìm kiếm Chúa và trở về với tôn nhan đích thực của Chúa. Một nhà đại thần học đã nói rằng “ta cần tái khám phá Thiên Chúa từng giai đoạn... đôi khi ta tưởng mình đã đánh mất Chúa” (H. De Lubac, Sulle vie di Dio, Milano 2008, 25). Đó cũng là điều vị Tẩy Giả đã làm: trong cơn nghi ngờ, ngài vẫn tiếp tục tìm kiếm, thưa hỏi, “thảo luận” với Chúa và sau cùng đã tái khám phá Người. Thánh Gioan, được Chúa Giêsu định nghĩa là người cao trọng nhất trong số những người sinh ra bởi người nữ (xc Mt 11,11), dạy chúng ta đừng đóng kín Thiên Chúa trong các khuôn khổ của chúng ta.
Áp dụng vào cuộc sống
Đức Thánh cha nói rằng: “Anh chị em, cả chúng ta đôi khi cũng có thể ở trong tình trạng của thánh Gioan, trong nhà tù nội tâm, không thể nhận ra sự mới mẻ của Chúa, mà có lẽ chúng ta giam giữ Người do sự tự phụ đã biết quá rõ về Người. Có khi trong đầu, chúng ta nghĩ đến một Thiên Chúa quyền năng muốn làm gì thì làm, thay vì một vị Thiên Chúa khiêm tốn dịu dàng, thương xót và yêu thương, khi can thiệp luôn tôn trọng tự do và những chọn lựa của chúng ta, thậm chí có khi chúng ta thưa với Chúa: “Chúa khiêm tốn dường ấy, Chúa có thực sự là Đấng đến cứu thoát chúng con hay không?”. Và có thể xảy ra một điều tương tự như với các anh chị em chúng ta: chúng ta đã có những ý tưởng, những thành kiến và chúng ta gán cho những người khác những nhãn hiệu cứng nhắc - đặc biệt là những người chúng ta cảm thấy khác với chúng ta-. Vì vậy, Mùa Vọng là thời điểm lật lại những cái nhìn, để cho chúng ta ngạc nhiên về lòng thương xót cao cả của Thiên Chúa. Mùa Vọng là mùa trong đó, khi chuẩn bị làm hang đá máng cỏ cho Chúa Hài Đồng, chúng ta tái học hỏi xem ai là Chúa của chúng ta; đây là mùa trong đó chúng ta đi ra khỏi những khuôn khổ và thành kiến đối với Thiên Chúa và anh chị em; một thời điểm trong đó, thay vì nghĩ đến những quà tặng cho bản thân, chúng ta có thể trao ban những lời nói và cử chỉ an ủi cho người bị thương tổn, như Chúa Giêsu đã làm cho những người mù, người điếc và người què.
Và Đức Thánh cha kết luận với nguyện ước: “Xin Đức Mẹ cầm tay chúng ta trong những ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh và giúp chúng ta nhận ra, trong sự bé bỏng của Chúa Hài Đồng, sự cao cả của Thiên Chúa đang đến”.
Chào thăm và kêu gọi
Sau khi đọc kinh và ban phép lành cho mọi người, Đức Thánh cha đã nhắc đến lễ phong chân phước, sáng thứ Bảy, ngày 10 tháng Mười Hai vừa qua, tại thành phố Barbacena, Brazil, do Đức Hồng y Raymundo Damasceno chủ sự, cho vị tôi tớ Isabel Cristina, bị sát hại tàn bạo cách đây 40 năm, ngày 01 tháng Chín năm 1982, lúc mới 20 tuổi, do sự oán ghét đức tin và ngài cương quyết bảo vệ phẩm giá và đức trinh khiết.
Đức Thánh cha cũng nhắc đến những cuộc xung đột trong những ngày qua tại Nam Sudan, quốc gia ngài sẽ đến viếng thăm vào đầu năm tới. Đức Thánh cha xin các tín hữu cầu nguyện cho hòa bình và cho cuộc đối thoại giữa các phe phái tại nước này.
Sau khi nhắc đến và chào thăm nhiều phái đoàn tín hữu hành hương hiện diện tại Quảng trường, Đức Thánh cha làm phép các tượng Chúa Hài Đồng do các em bé mang tới, và ngài kêu gọi cầu nguyện cho các trẻ em trên thế giới, đặc biệt là các trẻ em tại Ucraina, đang chịu cảnh giá lạnh và tối tăm, vì các cuộc tấn công, bao nhiêu trẻ em đã bị thiệt mạng.
Sau cùng, Đức Thánh cha chúc mọi người ngày Chúa nhật an lành và xin họ đừng quên cầu nguyện cho ngài.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Chánh Toà Ân giải Tối cao gửi thư Giáng Sinh cho các linh mục giải tội
Vatican News (10.12.2022) – Đức Hồng y Mauro Piacenza, Chánh Toà Ân giải Tối cao gửi thư cho các linh mục nhân dịp Giáng Sinh, nhắc nhở các linh mục ý thức rằng khi cử hành bí tích Hoà giải, trong tâm hồn của hối nhân, chỉ có cuộc gặp gỡ cứu độ của họ với Chúa Kitô Đấng Cứu Độ. Chính cuộc gặp gỡ này làm cho mỗi lần xưng tội là một tia sáng thắp sáng đức tin và sưởi ấm tâm hồn tín hữu.
Trong thư, Đức Hồng Y giải thích rằng khi cử hành bí tích Hoà giải, không phải một danh sách các quy tắc phải tuân theo, mặc dù cần thiết và hợp lệ, nhưng chính một đề nghị rõ ràng, tích cực, thuyết phục mang lại sức mạnh hoán cải. Trong tâm hồn của hối nhân, chỉ có cuộc gặp gỡ cứu độ của họ với Chúa Kitô Đấng Cứu Độ. Chính cuộc gặp gỡ này làm cho mỗi lần xưng tội là một tia sáng thắp sáng đức tin và sưởi ấm tâm hồn tín hữu.
Chánh Toà Ân giải Tối nhắc các linh mục giải tội: “Không phải lúc nào chúng ta cũng gặp những anh chị em có đức tin trưởng thành, có khả năng nhận thức về tình trạng luân lý”. Theo ngài, nguyên nhân đến từ một thế giới hồ nghi về sự hiện diện của Thiên Chúa. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản một người bước vào toà giải tội. Chắc chắn không phải tất cả mọi sự có thể được giải quyết trong một cuộc trò chuyện ngắn nơi toà giải tội, nhưng thời gian này có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để không gây nghi ngờ hoặc xác nhận sự mất phương hướng của thời đại. Trái lại, đây là lúc để đưa ra những điều chắc chắc rõ ràng, và đầu tiên đó là sự hiện diện của lòng thương xót Chúa trong cuộc đời mỗi người.
Cuối thư, Đức Hồng Y Piacenza ước mong thời gian và ánh sáng nơi toà giải tội mà ngài gọi là “túp lều Bêlem” là nguồn bình an đích thực và niềm vui thánh thiện cho mọi người. Tất cả chúng ta đều cần “nhiêu liệu” này. (Acistampa 09/12/2022)
Ngọc Yến - Vatican News
Nguồn: vaticannews.va/vi
Tĩnh tâm Mùa Vọng cùng Giáo triều Rôma - Bài thứ 2: Cửa Đức Cậy – Niềm hy vọng đời đời
Trong bài thuyết giảng có chủ đề: “Cửa Đức Cậy – Niềm hy vọng đời đời”, Đức Hồng Y đã nhấn mạnh tầm quan trọng của niềm hy vọng Kitô giáo, và khuyến khích Giáo hội mang đến cho thế giới món quà hy vọng này có chân trời là sự sống vĩnh cửu, và có người bảo lãnh, là Chúa Giêsu Kitô và sự phục sinh của Ngài.
Ngài lưu ý rằng Đền Thờ Giêrusalem có một cánh cửa được gọi là “Cửa Đẹp” (Cv 3:2) và đền thờ của Thiên Chúa, là trái tim của chúng ta, cũng có một “cửa đẹp” là cánh cửa của hy vọng – cánh cửa của chúng ta mở ra chào đón Chúa Kitô đến.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính,
để Đức Vua vinh hiển ngự vào (Tv 24:7)
Chúng ta đã lấy câu thánh vịnh này làm kim chỉ nam cho các bài suy niệm Mùa Vọng, nghĩa là như những cánh cửa mở ra các nhân đức đối thần: tin, cậy, mến. Đền thờ Giêrusalem – chúng ta đọc trong sách Công Vụ Tông Đồ – có một cánh cửa gọi là “Cửa Đẹp” (Cv 3:2). Đền thờ của Thiên Chúa là trái tim của chúng ta cũng có một “cửa đẹp”, và đó là cánh cửa của niềm hy vọng. Đây là cánh cửa mà hôm nay chúng ta muốn cố gắng mở ra để đón Chúa Kitô, Đấng đang ngự đến.
Chờ đợi niềm hy vọng hồng phúc
Đâu là đối tượng thích hợp của “niềm hy vọng hồng phúc”, mà chúng ta tuyên bố là “đang trông đợi” trong mỗi Thánh Lễ? Để nhận ra sự mới lạ tuyệt đối do Chúa Kitô mang lại trong lĩnh vực này, chúng ta cần đặt sự mặc khải của Phúc âm trên nền tảng của niềm tin cổ xưa về đời sau.
Về điểm này, ngay cả Cựu Ước cũng không có câu trả lời. Ai cũng biết rằng chỉ ở phần cuối của Cựu Ước, ta mới có thể tìm thấy một số tuyên bố rõ ràng về cuộc sống sau khi chết. Trước đó, niềm tin của Israel không khác với niềm tin của các dân tộc láng giềng bao nhiêu, đặc biệt là niềm tin của người Lưỡng Hà (Mesopotamia). Cái chết kết thúc cuộc sống mãi mãi; tất cả chúng ta, dù tốt hay xấu, đều kết thúc trong một loại “ngôi mộ chung” ảm đạm mà ở những nơi khác người ta gọi là Arallu và trong Kinh thánh là Sheol. Không có gì khác biệt là niềm tin thống trị trong thế giới Hy Lạp-Rôma trong thời Tân Ước. Người ta gọi nơi bóng tối buồn bã đó là Inferi, hay Hades, nghĩa là a tì địa phủ.
Điều tuyệt vời phân biệt Israel với tất cả các dân tộc khác là, bất chấp mọi thứ, họ vẫn tiếp tục tin vào lòng nhân hậu và tình yêu của Thiên Chúa. Người Babylon cho rằng cái chết là do sự ghen tị của các thần minh chỉ muốn dành sự bất tử cho riêng mình, dân Israel không nghĩ như thế nhưng quy cái chết là là tội lỗi của con người (St 3), hoặc đơn giản là do bản chất có sinh có tử của con người. Đúng là đôi khi, con người Kinh Thánh đã không giữ im lặng trước một số phận dường như không phân biệt giữa người công chính và kẻ tội lỗi. Tuy nhiên, dân Israel chưa bao giờ nổi loạn. Trong một số lời cầu nguyện theo Kinh thánh, dường như dân Israel đã đi xa đến mức ước muốn và thoáng thấy khả năng có một mối quan hệ với Thiên Chúa sau cái chết: một hữu thể “được lôi ra khỏi địa ngục” (Tv 49:16), “được ở bên Thiên Chúa luôn mãi” (Tv 73, 23 ) và “thỏa lòng hân hoan trước mặt Người” (Tv 16, 11).
Vào cuối Cựu Ước, khi kỳ vọng này, đã chín muồi trong lòng đất của linh hồn Kinh thánh, cuối cùng được đưa ra ánh sáng, thì nó không diễn đạt mình, theo cách của các triết gia Hy Lạp, như là sự sống còn của một linh hồn bất tử, mà, khi thoát khỏi thể xác, thì quay trở về với thế giới siêu phàm của mình. Phù hợp với quan niệm Kinh Thánh về con người, như một thể thống nhất không thể tách rời giữa linh hồn và thể xác, sự sống còn bao gồm trong sự sống lại của cả thân xác và linh hồn từ trong cõi chết (Dn 12: 2-3; 2 Mac 7: 9).
Chúa Giêsu đột nhiên đưa xác tín này đến mức tỏ tường nhất và – điều quan trọng nhất là – Ngài đưa ra bằng chứng không thể chối cãi bằng cách sống lại từ trong cõi chết. Sau Ngài, đối với một tín hữu, cái chết không còn là một cuộc hạ cánh, mà là một cuộc cất cánh!
Món quà đẹp nhất và di sản quý giá nhất mà Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhị của Anh Quốc để lại cho quốc gia và thế giới sau 70 năm trị vì, là niềm hy vọng Kitô giáo của bà vào sự sống lại của người chết. Trong nghi thức tang lễ, được theo dõi trực tiếp bởi hầu hết những người có quyền lực trên trái đất và qua truyền hình, bởi hàng trăm triệu người, trong bài đọc đầu tiên, những lời sau đây của Thánh Phaolô đã được công bố, theo ý muốn rõ ràng của bà:
Tử thần đã bị chôn vùi.
Đây giờ chiến thắng! Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi?
Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?
Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật.
Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. (1Cr 15: 54-57).
Và trong bài Tin Mừng, vẫn theo di nguyện của bà, những lời sau của Chúa Giêsu đã được cất lên:
Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở.. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó (Ga 14:2-3).
Đức Cậy, một nhân đức tích cực
Chính vì chúng ta vẫn còn đắm chìm trong thời gian và không gian, nên chúng ta thiếu những phạm trù cần thiết để trình bày cho chính chúng ta về những gì bao gồm trong “cuộc sống vĩnh cửu” với Thiên Chúa. Nó giống như cố gắng giải thích ánh sáng là gì cho một người mù bẩm sinh. Thánh Phaolô chỉ nói đơn giản:
Gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang.
Gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ
Gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí. (1 Cr 15,43-44).
Một số nhà thần bí, ngay trong cuộc sống đời này, đã được ban cho cảm nghiệm vài giọt trong đại dương hân hoan vô tận mà Thiên Chúa đã chuẩn bị sẵn cho dân Người, nhưng tất cả đều nhất trí khẳng định rằng không lời nào có thể diễn đạt được điều đó bằng lời nói của con người. Người đầu tiên trong số họ là Tông đồ Phaolô. Thánh nhân tâm sự với các tín hữu thành Côrintô rằng, mười bốn năm trước, ngài đã được đưa đến “thiên đường thứ ba”, trên trời cao, và đã nghe “những lời không thể diễn tả được mà không ai được phép nói lại”. (2 Cr 12: 2-4). Ký ức mà trải nghiệm đó để lại trong ngài có thể cảm nhận được trong những gì ngài viết vào một dịp khác:
Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. (1 Cr 2:9).
Nhưng hãy bỏ qua những gì sẽ xảy ra ở thế giới bên kia (là điều mà chúng ta có thể nói rất ít) mà thay vào đó hãy đến với cuộc sống hiện tại của chúng ta. Suy tư về niềm hy vọng Kitô giáo có nghĩa là suy tư về ý nghĩa tối hậu của sự hiện hữu của chúng ta. Về vấn đề này, có một điểm chung cho tất cả mọi người: đó là niềm khao khát được sống “tốt”, được “hạnh phúc”. Tuy nhiên, ngay khi bạn cố gắng hiểu từ “tốt” nghĩa là gì, thì lập tức nảy sinh hai hạng người: hạng người thứ nhất là những người chỉ nghĩ đến lợi ích vật chất và cá nhân; và hạng người thứ hai là những người cũng nghĩ đến lợi ích đạo đức của tất cả mọi người, đến điều được gọi là “thiện ích chung”.
Đối với hạng người thứ nhất, thế giới đã không thay đổi bao nhiêu kể từ thời tiên tri Isaia và thời của Thánh Phaolô. Cả hai đều đưa ra câu nói đã từng thịnh hành vào thời của các ngài: “Chúng ta hãy ăn uống vì ngày mai chúng ta sẽ chết” (Is 22, 13; 1 Cr 15, 32). Thú vị hơn là hãy cố gắng hiểu những người đề xuất – ít nhất như một lý tưởng – để “sống tốt” không chỉ về vật chất và cá nhân, mà còn về mặt đạo đức và cùng với những người khác. Có những trang web trên internet phỏng vấn những người cao tuổi về việc họ đánh giá cuộc sống mà họ đã sống khi đến thời xế bóng như thế nào. Nói chung, họ là những người đàn ông và phụ nữ đã sống một cuộc sống giàu có và đàng hoàng, phục vụ gia đình, văn hóa và xã hội, nhưng không có bất kỳ liên quan nào đến tôn giáo. Thật thảm hại khi thấy họ cố gắng khiến mọi người tin rằng một người hạnh phúc khi được sống như vậy. Nỗi buồn vì đã sống – và chẳng bao lâu nữa không còn sống nữa! – bị che giấu bởi lời nói của họ, đã hét lên từ đôi mắt của họ.
Thánh Augustinô đã diễn tả cốt lõi của vấn đề: “Sống tốt có ích gì, nếu không được sống luôn mãi?”. Trước ngài, Chúa Giêsu đã nói: “Người nào được cả thiên hạ mà mất mạng sống, thì có ích gì?”. (Lc 9:25). Đây là lời đáp thích đáng cho niềm hy vọng thần học – và nó khác biết bao. Lời đáp này bảo đảm với chúng ta rằng Thiên Chúa tạo dựng chúng ta để sống chứ không phải để chết; rằng Chúa Giêsu đến để bày tỏ sự sống đời đời cho chúng ta và để bảo đảm với chúng ta qua sự sống lại của Ngài.
Cần phải nhấn mạnh một điều để không rơi vào một sự hiểu lầm nguy hiểm. Sống không “luôn luôn” đối lập với sống “tốt”. Hy vọng về cuộc sống vĩnh cửu là điều làm cho cuộc sống hiện tại trở nên tươi đẹp, hoặc ít nhất là có thể chấp nhận được. Mọi người trong cuộc đời này đều có phần của mình trên thập tự giá, kể cả các tín hữu lẫn những người không tin. Nhưng đau khổ mà không biết vì mục đích gì là một chuyện, còn đau khổ vì biết rằng “những đau khổ hiện tại chẳng sánh được với vinh quang mai sau sẽ tỏ ra nơi chúng ta” (Rm 8:18) lại là một chuyện khác.
Niềm hy vọng thần học có một vai trò quan trọng liên quan đến việc phúc âm hóa. Một trong những yếu tố quyết định sự lan truyền nhanh chóng của đức tin, trong những ngày đầu của Kitô giáo, là lời loan báo về một cuộc sống mai hậu sau khi chết vô cùng viên mãn và hân hoan hơn cuộc sống trần gian.
Hoàng đế Hadrian đã xây dựng những biệt thự ngoạn mục cho mình ở nhiều nơi trên thế giới và đã chuẩn bị khu vực ngày nay là Castel Sant'Angelo hay Lâu đài Thiên Thần, cách đây không xa, để làm lăng mộ của ông. Gần chết, ông đã viết một loại văn bia cho ngôi mộ của mình. Nói với linh hồn của mình, ông ấy khuyên nó hãy nhìn lại lần cuối những vẻ đẹp và thú vui của thế giới này, bởi vì - ông ấy nói - bạn sắp đi xuống “những nơi không màu, gian khổ và trần trụi”. Hades – A tì địa phủ! Trong một bầu không khí như thế, người ta có thể tưởng tượng cú sốc tinh thần chắc hẳn đã gây ra bởi lời hứa về một cuộc sống viên mãn và tươi sáng hơn nhiều so với cuộc sống bị bỏ lại bởi cái chết. Điều này giải thích tại sao ý tưởng và biểu tượng về cuộc sống vĩnh cửu lại xuất hiện thường xuyên trong các lễ chôn cất của các tín hữu Kitô trong hầm mộ.
Trong Thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô, hoạt động bề ngoài của Giáo Hội, nghĩa là truyền bá Tin Mừng, được trình bày như là “việc mang lại lý do cho niềm hy vọng”: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng.” (1Pr 3:15-16). Đọc những gì đã xảy ra sau lễ Phục sinh, người ta có cảm tưởng rõ ràng rằng Giáo hội được sinh ra từ sự trào dâng “một niềm hy vọng sống động” (1Pr 1:3) và với niềm hy vọng này, các Tông đồ lên đường chinh phục thế giới. Ngay cả ngày nay chúng ta cần tái sinh niềm hy vọng nếu chúng ta muốn thực hiện một cuộc tân phúc âm hóa. Không có gì được thực hiện mà không có hy vọng. Con người đi đến những nơi có không khí hy vọng và trốn chạy khỏi những nơi họ không cảm thấy sự hiện diện của nó. Hy vọng là điều mang lại cho những người trẻ can đảm để lập gia đình hoặc theo ơn gọi tu trì và linh mục, là điều giúp họ tránh xa ma túy và những thứ tương tự khác đầu hàng trước sự tuyệt vọng.
Thư gửi tín hữu Do Thái so sánh niềm hy vọng với một cái mỏ neo: “Chúng ta có niềm hy vọng đó cũng tựa như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn” (Dt 6: 18-19). Chắc chắn và vững chắc vì được ném vào cõi vĩnh hằng. Nhưng chúng ta có một hình ảnh khác của hy vọng, theo một nghĩa nào đó ngược lại: đó là cánh buồm. Nếu mỏ neo là thứ mang lại cho con thuyền sự an toàn và giữ cho con thuyền vững vàng giữa sóng biển dập dềnh thì cánh buồm là thứ đưa con thuyền ra đi và tiến trên biển cả. Hy vọng với con thuyền Giáo Hội liên quan đến cả hai hình ảnh này.
So với quá khứ, ngày nay chúng ta ở trong một hoàn cảnh tốt hơn về mặt hy vọng. Chúng ta không còn phải mất thì giờ bảo vệ niềm hy vọng Kitô giáo khỏi các cuộc tấn công từ bên ngoài; do đó, chúng ta có thể làm điều hữu ích và hiệu quả nhất, đó là công bố niềm hy vọng của chúng ta, cống hiến nó và chiếu tỏa nó trên thế giới. Không đưa ra nhiều lời hộ giáo cho bằng các diễn từ về niềm hy vọng.
Chúng ta hãy xem điều gì đã xảy ra liên quan đến niềm hy vọng của Kitô hữu trong hơn một thế kỷ nay. Lúc đầu, có cuộc tấn công trực diện vào niềm hy vọng Kitô bởi những người như Feuerbach, Marx, Nietzsche. Trong nhiều trường hợp, niềm hy vọng của Kitô giáo là mục tiêu trực tiếp cho sự chỉ trích của họ. Cuộc sống vĩnh cửu, mai hậu, thiên đường: tất cả những điều này được coi là sự phóng chiếu hão huyền của những mong muốn và nhu cầu không được thỏa mãn của con người trên thế giới này, như một sự “lãng phí những kho báu trên trời dành cho trái đất”. Các tín hữu đã phải cố gắng bảo vệ nội dung của niềm hy vọng Kitô, thường với sự khó chịu không che giấu được. Niềm hy vọng Kitô giáo là “thiểu số”. Cuộc sống vĩnh cửu hiếm khi được nói đến và rao giảng.
Tuy nhiên, sau khi phá hủy niềm hy vọng Kitô giáo, nền văn hóa Mác-xít đã không chậm trễ nhận ra rằng con người không thể sống nổi nếu không có hy vọng. Và họ đã phát minh ra “Nguyên tắc Hy vọng”. Với nó, nền văn hóa Mác-xít không tuyên bố đã phá hủy niềm hy vọng của Kitô giáo, mà tệ hơn, nó cho rằng đã vượt ra ngoài niềm hy vọng Kitô và trở thành người thừa kế hợp pháp của niềm hy vọng ấy. Đối với tác giả của “Nguyên tắc hy vọng” (xin lưu ý các bạn nguyên tắc chứ không phải nhân đức) thì chắc chắn rằng hy vọng rất quan trọng đối với con người. Nó có thật và có một lối thoát là “sự xuất hiện của con người ẩn giấu”, tức là những khả năng vẫn còn tiềm ẩn của con người. Biểu hiện của Con Người, là Chúa Kitô, được thay thế bằng biểu hiện của con người ẩn giấu, parousia hay sự quang lâm lần thứ hai của Chúa Kitô được thay thế bằng utopia, một xã hội hoàn chỉnh không tưởng.
Tôi nhớ, trong vài thập kỷ, đã có rất nhiều cuộc nói chuyện về chủ đề này trong các trường đại học và đối với nhiều nhà tư tưởng Kitô giáo, điều xem ra rất đáng khích lệ là có những người nào đó ở phía bên kia đã chấp nhận coi trọng hy vọng và thiết lập một cuộc đối thoại về điều đó. Đặc biệt là vì sự đảo ngược quá tinh tế và ngôn ngữ thường giống nhau. Quê hương trên trời trở thành “quê hương của bản sắc”; không phải là nơi mà cuối cùng con người nhìn thấy Chúa, mặt đối mặt, mà là nơi anh ta nhìn thấy con người thực, nơi có sự đồng nhất hoàn hảo giữa những gì con người có thể trở thành và những gì con người đạt được. Cái gọi là “thần học về hy vọng” đã ra đời để đáp lại thách thức này, nhưng thật không may, đôi khi lại chấp nhận đường lối của cộng sản. Điều ít được nhận thấy nhất trong tất cả các bài viết này chính là điều mà Thánh Phêrô gọi là “niềm hy vọng sống động” (1 Pt 1:3), sự hào hứng của niềm hy vọng, nghĩa là cuộc sống chứ không phải ý thức hệ.
Bây giờ, tôi đã nói, tình hình đã thay đổi một phần. Nhiệm vụ mà chúng ta có trước mắt, liên quan đến niềm hy vọng, không còn là bảo vệ nó và biện minh cho nó về mặt triết học và thần học, mà là loan báo nó, bày tỏ nó và trao nó cho một thế giới đã đánh mất niềm hy vọng và đang ngày càng chìm sâu vào chủ nghĩa bi quan và chủ nghĩa hư vô, vào “hố đen” thực sự của vũ trụ.
Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay (Gaudium Et Spes)
Một cách làm cho niềm hy vọng trở nên sống động và lan tỏa là cách được Thánh Phaolô trình bày khi ngài nói rằng “đức ái hy vọng tất cả” (1Cr 13:7). Điều này không chỉ đúng với cá nhân, mà còn đúng với toàn thể Giáo hội. Giáo Hội hy vọng mọi sự, tin tưởng mọi sự, chịu đựng mọi sự. Giáo Hội không thể tự giới hạn trong việc tố cáo những khả năng của cái ác đang tồn tại trong thế giới và trong xã hội. Chắc chắn chúng ta không được bỏ qua nỗi sợ bị trừng phạt và địa ngục; và chúng ta cũng không được ngừng cảnh báo mọi người về khả năng gây hại mà một hành động hoặc một tình huống có thể gây ra, chẳng hạn như những vết thương gây ra cho môi trường. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy rằng chúng ta đạt được nhiều hơn một cách tích cực, khi nhấn mạnh vào những khả năng tốt đẹp; theo thuật ngữ Phúc Âm, bằng cách rao giảng lòng thương xót. Có lẽ thế giới hiện đại chưa bao giờ tỏ ra thiện cảm với Giáo hội và quan tâm đến sứ điệp của Giáo hội như trong những năm của Công đồng Vatican. Và lý do chính là Công đồng đã trao ban hy vọng.
Một số người sẽ nói rằng nhưng làm theo cách này há chẳng phải chúng ta tự đưa mình đến chỗ thất vọng và tỏ ra ngây thơ hay sao? Đây là cám dỗ lớn lao chống lại niềm hy vọng, do sự thận trọng của con người gợi ra, hoặc do sợ bị chứng minh là sai bởi các sự kiện và đó là điều đang xảy ra một phần đối với Công đồng. Dám nói về “niềm vui và hy vọng” (gaudium et spes) được xem là một sự ngây thơ mà chúng ta thậm chí phải hơi xấu hổ về điều đó. Đây là điều mà nhiều người đã nghĩ về Đức Gioan 23 khi ngài công bố Công đồng.
Chúng ta phải khởi động lại phong trào hy vọng do Công đồng khởi xướng. Sự sống đời đời là một chiều kích rất lớn; nó cho phép chúng ta hy vọng vào tất cả mọi người, không bỏ rơi bất cứ ai trong vô vọng. Tông đồ Phaolô đã ra lệnh cho các Kitô hữu ở Rôma phải tràn đầy hy vọng. Ngài viết: “Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng” (Rm 15:13).
Giáo hội không thể trao tặng cho thế giới một món quà nào tốt hơn là mang lại cho nó niềm hy vọng; không phải là những hy vọng thế tục, phù du, kinh tế hay chính trị, mà Giáo hội không có năng lực cụ thể, nhưng là niềm hy vọng thuần khiết và đơn sơ, niềm hy vọng mà dù không biết đi chăng nữa, vẫn có vĩnh cửu là chân trời và có người bảo đảm cho niềm hy vọng ấy là Chúa Giêsu Kitô và sự phục sinh của Người. Sau đó, chính niềm hy vọng thần học này sẽ hỗ trợ tất cả những hy vọng chính đáng khác của con người. Bất cứ ai đã từng gặp bác sĩ thăm một người bệnh nặng đều biết rằng cách hỗ trợ lớn nhất mà bác sĩ có thể cung cấp, tốt nhất hơn tất cả các loại thuốc, là nói với anh ta: “Bác sĩ tin tưởng tràn trề; bác sĩ có những hy vọng tốt cho anh!”.
Hy vọng, được hiểu theo cách này, biến đổi mọi thứ mà nó tiếp xúc. Hiệu quả của nó được mô tả rất hay trong đoạn văn này từ tiên tri Isaia:
Thanh niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn,
trai tráng cũng ngả nghiêng, lảo đảo.
Nhưng những người cậy trông Thiên Chúa
thì được thêm sức mạnh.
Như thể chim bằng, họ tung cánh.
Họ chạy hoài mà không mỏi mệt,
và đi mãi mà chẳng chùn chân. (Is 40:30-31)
Thiên Chúa không hứa loại bỏ những lý do khiến chúng ta mệt mỏi và kiệt sức, nhưng Ngài ban cho chúng ta niềm hy vọng. Hoàn cảnh tự nó vẫn như cũ, nhưng niềm hy vọng mang lại sức mạnh để vượt lên trên nó. Trong Sách Khải Huyền chúng ta đọc thấy rằng
Khi con Mãng Xà thấy mình đã bị tống xuống đất, nó liền đuổi bắt người Phụ Nữ đã sinh con trai. Bà được ban cho đôi cánh đại bàng, để bay vào sa mạc, vào nơi dành cho bà (Kh 12:13-14).
Hình ảnh đôi cánh của đại bàng rõ ràng được lấy cảm hứng từ bản văn của ngôn sứ Isaia. Do đó, người ta nói rằng toàn thể Giáo hội đã được ban cho những đôi cánh hy vọng to lớn, để nhờ đó, Giáo hội luôn luôn có thể thoát khỏi những tấn công của sự dữ, vượt qua những khó khăn một cách hăng hái.
“Hãy đứng dậy và bước đi!”
Cánh cửa của ngôi đền được gọi là “Cổng Đẹp” được biết đến với phép lạ xảy ra gần đó. Một người què nằm trước cổng để xin bố thí. Một ngày nọ, Thánh Phêrô và Thánh Gioan đi ngang qua và chúng ta biết chuyện gì đã xảy ra. Người què, được chữa lành, nhảy dựng lên và cuối cùng, sau nhiều năm nằm đó bị bỏ rơi, anh ta cũng đi qua cửa đó và vào đền thờ “nhảy múa và ngợi khen Thiên Chúa” (Cv 3:1-9).
Điều gì đó tương tự cũng có thể xảy ra với chúng ta đối với niềm hy vọng. Về mặt thiêng liêng, chúng ta cũng thường thấy mình ở vị trí của một người què quặt trước ngưỡng cửa đền thờ: bất động, thờ ơ, như thể bị tê liệt trước những khó khăn. Nhưng ở đây, niềm hy vọng thiêng liêng lướt qua chúng ta, được Lời Chúa mang đến, và cũng nói với chúng ta, giống như Thánh Phêrô nói với người què: “Hãy đứng dậy và bước đi!” Và chúng ta đứng dậy và cuối cùng bước vào trung tâm của Giáo hội, sẵn sàng đảm nhận, một lần nữa và vui vẻ, các nhiệm vụ và trách nhiệm. Chúng là những phép lạ hằng ngày phát sinh từ đức cậy. Đức cậy thực sự là một người làm phép lạ tuyệt vời; đức cậy đã giúp hàng ngàn người tàn tật đứng dậy hàng ngàn lần.
Ngoài việc rao giảng Tin Mừng, đức cậy giúp chúng ta trên hành trình nên thánh cá nhân. Đối với những người thực hành đức cậy, nó trở thành nguyên tắc của sự tiến bộ tâm linh. Đức cậy cho phép bạn luôn khám phá ra “những khả năng tốt đẹp” mới, luôn là điều có thể làm được. Đức cậy không để chúng ta an nhàn trong sự thờ ơ và lạnh nhạt. Khi bạn muốn nói với chính mình: “Không còn gì để làm nữa”, đức cậy sẽ đến và nói với bạn: “Hãy cầu nguyện!”. Bạn trả lời: “Nhưng tôi đã cầu nguyện rồi!” và đức cậy nói: “Hãy cầu nguyện một lần nữa!”. Và ngay cả khi hoàn cảnh trở nên cực kỳ khó khăn và dường như không thể làm gì hơn nữa, thì đức cậy vẫn chỉ cho bạn một nhiệm vụ: hãy kiên trì cho đến cùng và đừng mất kiên nhẫn, hãy kết hợp bản thân với Chúa Kitô trên thập giá. Như chúng ta đã nghe, vị Tông đồ khuyến khích “hãy tràn đầy hy vọng”, nhưng ngài ngay lập tức thêm vào cách thức điều này có thể thực hiện được: “nhờ Chúa Thánh Thần”. Không phải bởi những nỗ lực của chúng ta.
Giáng Sinh có thể là dịp cho một bước nhảy vọt của hy vọng. Nhà thơ vĩ đại đương thời với chúng ta về các nhân đức thần học, Charles Péguy, đã viết rằng Đức tin, Đức cậy và Đức ái là ba chị em, hai người lớn và một bé gái. Họ nắm tay nhau đi xuống phố: hai cô lớn Đức tin và Đức ái ở hai bên và cô bé Đức cậy ở giữa. Mọi người khi nhìn thấy họ đều nghĩ rằng chính hai cô lớn đang kéo cô bé ở giữa. Họ sai! Chính cô ấy là người kéo theo mọi thứ. Bởi vì nếu hy vọng không thành, mọi thứ sẽ dừng lại.
Muốn đặt một cái tên đàng hoàng cho cô gái bé nhỏ này, chúng ta chỉ có thể gọi cô là Maria, một người dưới thế này – Dante Alighieri, một nhà thơ vĩ đại về các nhân đức thần học khác đã nói – “đối với loài người trần thế nguồn hy vọng là nguồn sống”.
1.Augustine, On the Gospel of John, 45, 2 (Quid prodest bene vivere si non datur semper vivere?).
2.Cit. in Marguerite Yourcenar, Memoirs of Hadrian.
3.Ernst Bloch, Das Prinzip Hoffnung, 3 vol. Berlin 1954–1959.
4.Ch. Péguy, Le porche de la deuxième vertu.
5.Paradise, XXXIII.
Nguồn: Vietcatholic News
Đức Thánh cha tiếp Phong trào Công nhân Kitô
Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 09 tháng Mười Hai vừa qua, dành cho Phong trào Công nhân Kitô, Đức Thánh cha Phanxicô kêu gọi các thành viên phong trào trở thành “men công bằng và liên đới” trong đời sống xã hội tại nước Ý.
Phong trào này được thành lập cách đây 50 năm, sau Công đồng chung Vatican II, với sự chúc lành của Đức Thánh cha Phaolô VI. Hàng trăm thành viên phong trào đã về Roma trong dịp mừng kỷ niệm này và được Đức Thánh cha tiếp kiến.
Đức Thánh cha cám ơn phong trào vì những điều tốt lành đã gieo vãi trong 50 năm qua và đề nghị hai hướng đi cho hiện tại và tương lai, đó là thanh tẩy và gieo vãi:
Thanh tẩy là điều luôn luôn cần thiết đối với tất cả chúng ta và trong mọi hoạt động của con người. Đức Thánh cha nói: “Chúng ta là những người tội lỗi và cần lòng thương xót, như không khí chúng ta thở. Sự sẵn sàng hoán cải, để cho mình được thanh tẩy, thay đổi cuộc sống, thay đổi đường lối, đó là dấu hiệu can đảm, mạnh mẽ, chứ không phải là dấu hiệu yếu đuối; sự ngoan cố cứng đầu là dấu hiệu yếu nhược”.
Tiếp đến là gieo vãi mới mẻ. Đức Thánh cha nói: “Trong khi mừng kỷ niệm, anh chị em hãy nhìn về đằng trước. Thực vậy, đây không phải chỉ là lúc thu lượm thành quả, nhưng cũng là thời điểm tái gieo vãi. Thời kỳ chúng ta đang sống đòi hỏi điều đó. Đại dịch và chiến tranh làm cho bầu không khí xã hội u ám và bi quan hơn. Tình trạng này đòi hỏi anh chị em trở thành những người gieo vãi hy vọng. Bắt đầu từ chính bản thân, từ môi trường hội đoàn của anh chị em: hãy mở rộng cửa, và làm sao để người trẻ không cảm thấy họ chỉ là khách, nhưng là những người giữ vai chính, với khả năng sáng tạo một xã hội khác”.
Trong chiều hướng này, Đức Thánh cha đặc biệt khuyến khích Phong trào Công nhân Kitô dấn thân, giúp cho những quan tâm của các công nhân được để ý đến trong cộng đoàn Kitô. Ngài nói: “điều quan trọng là các công nhân cảm thấy thoải mái như ở nhà trong các giáo xứ, các hội đoàn, các nhóm và phong trào; các vấn đề của họ được coi trọng, lời thỉnh cầu liên đới của họ được lắng nghe”.
Đức Thánh cha đặc biệt tố giác những hình thức bóc lột công nhân và nói: “Tôi nhắn nhủ anh chị em hãy mở rộng tâm trí đối với các công nhân, nhất là những người nghèo và vô phương thế tự vệ, lên tiếng thay cho những người không tiếng nói, dấn thân thăng tiến công ăn việc làm của phụ nữ, tạo điều kiện để người trẻ đi vào thế giới lao động, với những hợp đồng xứng đáng chứ không phải với những đồng lương chết đói. Hãy loại trừ mọi hình thức bóc lột!”
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Giám hạt tòng nhân Opus Dei miền Trung Âu
Từ ngày 08 tháng Mười Hai năm 2022, cơ cấu mới của Giám hạt tòng nhân Opus Dei miền Trung Âu đã chính thức có hiệu lực và gồm 1.300 thành viên của Giám hạt tại 5 nước, là Đức, Áo, Hungary, Rumani và Thụy Sĩ.
Giám hạt tòng nhân do thánh Escrivà de Balaguer người Tây Ban Nha sáng lập năm 1928 và ngành nữ được thành lập năm 1930. Giám hạt thường được ví như một giáo phận không lãnh thổ, với tôn chỉ giúp các thành viên nên thánh trong đời sống thường nhật. Hiện nay, Giám hạt có hơn 2.000 linh mục và trên 90.000 giáo dân tại các nước, nhưng đa số là người Tây Ban Nha. Opus Dei đảm trách nhiều đại học và các cơ sở giáo dục tại các nước. Tại Roma, có Đại học Giáo hoàng Thánh Giá (Santa Croce), và tại Tây Ban Nha có Đại học Navarra, trong đó có cả trường y khoa. Ngày 22 tháng Bảy vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô ban hành tự sắc quy định Giám hạt Opus Dei do một Giám chức không có chức giám mục cai quản và thuộc Bộ Giáo sĩ, thay vì thuộc Bộ Giám mục như trước kia. Bề trên hiện nay là Đức ông Fernando Ocariz Brana, người Tây Ban Nha, nguyên là một luật gia.
Giám hạt vùng Trung Âu do Đức ông Christoph Bockam, nguyên là một bác sĩ, phụ trách. Cha nguyên là đại diện Bề trên tại Đức. Đặc trách về tông đồ của các nữ thành viên Opus Dei trong miền này là bà Amparo Lluch, người Tây Ban Nha.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Hơn 1.000 Kitô hữu ở Gaza làm đơn xin đến Jerusalem và Bethlehem
Năm nay có hơn 1.000 tín hữu Kitô tại miền Gaza làm đơn xin đến Jerusalem và Bethlehem, nhân dịp lễ Giáng sinh sắp tới.
Theo hãng tin Wafa của Palestine, truyền đi hôm mùng 08 tháng Mười Hai vừa qua, có khoảng 800 đơn được nhà chức trách Israel chấp thuận và 200 đơn bị từ chối, tuy nhiên đây không phải là tin chính thức.
Miền Gaza rộng 360 cây số vuông, bị Israel phong tỏa từ năm 2007 sau khi đảng Hamas lên nắm chính quyền tại đây. Theo Văn phòng Liên Hiệp Quốc về nhân đạo, gọi tắt là OCHA, trong 5 tháng đầu năm nay, cửa ải Rafah giữa Gaza và Ai Cập được mở 95 ngày trên tổng số 151 ngày.
Tại Gaza, có khoảng hai triệu dân cư, hầu hết theo Hồi giáo, chỉ có 1.066 tín hữu Kitô, hầu hết là tín hữu Chính thống, và chỉ có 136 tín hữu Công giáo họp thành một giáo xứ do cha Gabriel Romanelli, người Argentina, thuộc dòng Ngôi Lời Nhập Thể, coi sóc.
Israel phong tỏa Gaza vì cho rằng Hamas là một tổ chức khủng bố. Các tín hữu Kitô muốn tới Jerusalem và Bethlehem vào dịp lễ Giáng sinh phải làm đơn xin phép chính quyền Israel. Lễ Giáng sinh năm ngoái (2021), Israel cho phép 500 Kitô hữu được ra khỏi Gaza. Cha Romanelli nói rằng cho đến nay người ta không biết có bao nhiêu Kitô hữu sẽ được thị thực ra khỏi Gaza trong dịp Giáng sinh, vì có những giấy phép được Israel cấp, nhưng sau đó lại thu hồi.
Nhà cầm quyền Hamas ở Gaza phê bình chính sách của Israel về việc cấp thị thực xuất cảnh cho các Kitô hữu ở Gaza và gọi việc làm này là trái với công pháp quốc tế. Thông cáo của Hamas công bố hôm mùng 08 tháng Mười Hai vừa qua, nói rằng: “Chúng tôi lên án việc Israel cấm các tín hữu Kitô ở Gaza không được đến các nơi thánh trong những ngày lễ ở Jerusalem và Bethlehem. Đó là một sự vi phạm trắng trợn quyền tự do hành đạo”. Hamas kêu gọi Liên Hiệp Quốc và cộng đồng quốc tế cũng như các tổ chức nhân quyền “lãnh trách nhiệm bảo vệ nhân quyền đối với nhân dân Palestine và buộc Israel là quyền lực chiếm đóng phải chịu trách nhiệm”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Chuyện dài quan hệ giữa Tòa Thánh và Trung Quốc
G. Trần Đức Anh, O.P
Trong cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí America của dòng Tên tại Mỹ, phổ biến ngày 28/11 vừa qua, ký giả đã hỏi Đức Thánh Cha về việc ngài bị một số người phê bình “vì đã ký hiệp định với Nhà Nước Trung Quốc về việc bổ nhiệm các giám mục. Một số người trong Giáo Hội và trong chính tri nói rằng ngài đang trả một giá đắt đỏ vì đã im lặng về vấn đề nhân quyền tại Trung Quốc.”, Đức Thánh Cha đáp:
“Không phải là một vấn đề nói hay im lặng. Thực tế không phải như vậy. Thực tế là đối thoại hay không đối thoại. Và đối thoại được thực hiện đến mức độ có thể thực hiện được... Đối thoại là con đường ngoại giao tốt nhất. Với Trung Quốc, tôi đã chọn con đường đối thoại. Con đường này chậm, có những thất bại, và có cả những thành công. Nhưng tôi thấy không có con đường nào khác”.
Thất bại mới nhất
Trong số những thất bại mới nhất từ sau khi hiệp định tạm thời được ký kết giữa Tòa Thánh và Trung Quốc hồi tháng 9 năm 2018, có lẽ là vụ xảy ra ngày 24/11 vừa qua khiến Tòa Thánh phải mạnh mẽ phản đối Trung Quốc không tôn trọng hiệp định đã ký kết.
Thông cáo công bố hôm 26/11 của Tòa Thánh khẳng định rằng “Tòa Thánh ngạc nhiên và lấy làm tiếc khi hay tin về lễ nhậm chức hôm 24/11 mới đây của Đức Cha Gioan Bành Vệ Chiếu (Peng WeiZhao) tại thành phố Nam Xương (Nanchang), Giám Mục giáo phận Du Giang (Yjiang), tỉnh Giang Tây (Jiangxi), làm “Giám Mục phụ tá Giang Tây”, một Giáo phận không được Tòa Thánh nhìn nhận.
“Thực vậy, biến cố này không diễn ra phù hợp với hiệp định tạm thời về việc bổ nhiệm Giám Mục ký ngày 22/9 năm 2018. Hơn nữa, theo các tin nhận được, sự nhìn nhận Đức Cha Bành do chính quyền dân sự, diễn ra sau những sức ép lâu dài và nặng nề của Chính quyền địa phương.”
“Tòa Thánh mong sẽ không tái diễn những vụ tương tự, và đang chờ đợi những thông tin thích hợp về vấn đề này từ phía chính quyền, đồng thời tái khẳng định sự hoàn toàn sẵn sàng đối thoại trong sự tôn trọng về tất cả những vấn đề có liên hệ tới hai bên.”
Trước đó, ngày 24/11 vừa qua, hãng tin Asia News cho biết Đức Cha Bành Vệ Chiếu năm nay 56 tuổi, và tại Du Giang, toàn thể hàng giáo sĩ bị sức ép mạnh mẽ. Khi nhậm chức với sự chấp thuận của Nhà Nước, Đức Cha Bành đã phải đọc bản tuyên hứa tuân hành nguyên tắc Giáo Hội tự trị và tự quản, “hướng dẫn Công Giáo tuân theo xã hội chủ nghĩa.”
Hiện diện tại buổi lễ có khoảng 200 người do Giám Mục Gioan Baotixita Lý Tô Quang (Li Suguang), 58 tuổi, chủ sự. Vị này cũng là Phó Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Trung Quốc và không được Tòa Thánh công nhận.
Đức Cha Bành Vệ Chiếu đã thụ phong Giám Mục bí mật ngày 10/4/2014 với phép của Tòa Thánh như người kế nhiệm Đức Cha Tôma Tăng Kính Mục (Zeng Jingmu), Giám Mục hầm trú của Giáo hội hầm trú ở địa phương, đã từng bị 23 năm tù và qua đời năm 2016 lúc 96 tuổi. Vài tuần sau khi thụ phong Giám Mục bí mật, Đức Cha Bành Vệ Chiếu bị công an bắt, và được trả tự do vào tháng 11/2014 nhưng luôn bị nhà nước giới hạn mạnh mẽ trong việc thi hành sứ vụ.
Hãng Asia News cũng nói rằng sự việc nhà nước Trung Quốc tổ chức lễ nhậm chức của Đức Cha Bành Vệ Chiếu như Giám Mục Phụ tá giáo phận Giang Tây, là giáo phận do nhà nước Trung Quốc tự ý xác định và không được Tòa Thánh công nhận ranh giới, là điều trái hiệp định. Trong khi giáo phận Dư Giang có từ năm 1885, nơi mà trước khi nhà nước cộng sản lên nắm quyền năm 1949, các thừa sai dòng thánh Vinh Sơn Phaolô thi hành sứ vụ. Vì thế, Tòa Thánh phản đối Nhà Nước Trung Quốc đã không hề thỏa thuận với Tòa Thánh, tự ý gộp 5 giáo phận trong tỉnh Giang Tây thành một giáo phận duy nhất.
Phản ứng từ Bắc Kinh
Sau phản ứng mạnh mẽ trên đây của Tòa Thánh, hôm 28/11, phát ngôn viên Bộ ngoại giao Trung Quốc, ông Triệu Lập Kiên (Zhao Lijian) cho biết ông không biết về tình trạng đặc biệt liên quan đến Giám Mục Bành, nhưng ông nói rằng “quan hệ giữa Trung Quốc và Vatican đã được cải tiến trong những năm gần đây, mang lại lợi ích và ‘sự phát triển hòa hợp’ cho Công Giáo Trung Quốc. Trung Quốc muốn tiếp tục mở rộng sự đồng thuận thân hữu với Vatican và cùng nhau duy trì tinh thần hiệp định tạm thời giữa hai bên” (Reuters 28-11-2022)
Phản ứng trên đây của phía nhà nước Bắc Kinh có thể có ý nghĩa và cũng có thể chẳng có ý nghĩa gì, dầu sao nó cũng phản ánh một sự “xấu hổ” từ phía chính quyền Bắc Kinh khi Vatican quyết định phản đối mạnh, thay vì chỉ theo đuổi một cuộc đối thoại với những điều kiện do phía Trung Quốc ấn định (National Catholic Register 1-12-2022).
Im lặng là vàng?
Một điều mà nhiều người trong dư luận quốc tế mong muốn là Tòa Thánh lên tiếng về những bất công như những vụ vi phạm nhân quyền tại Trung Quốc, đặc biệt những vụ bách hại và xách nhiễu các Kitô hữu tại nước này, hoặc vụ vừa qua Đức Hồng Y Trần Nhật Quân, nguyên Giám Mục Hong Kong bị bắt, bị phạt tiền (khoảng 500 Mỹ kim) trong vụ kiện vì không đăng ký Quỹ Nhân đạo 612 ở Hong Kong, và có thể sẽ bị xét xử theo luật an ninh như ông Jimmy Lai, Lê Trí Anh, một đại doanh nhân Công Giáo ở Hong Kong, chuyên bênh vực dân chủ và nhân quyền, đang bị nhà cầm quyền Hong Kong xét xử theo luật bảo vệ an ninh quốc gia và có nguy cơ bị kết án tù chung thân.
Có những thái độ từ phía Tòa Thánh cũng gây thắc mắc cho nhiều người.
Ví dụ trang mạng “Tân địa bàn thường nhật” (Nuova Bussola Quotidiana) truyền đi ngày 24/11 vừa qua ở Ý kể rằng ngày 5/10 năm nay, Đại sứ quan Đài loan cạnh Tòa Thánh đã tổ chức tiếp tân mừng kỷ niệm 80 năm thiết lập quan hệ giữa Tòa Thánh và Đài Loan. Có một số chức sắc Tòa Thánh hiện diện trong dịp này, đặc biệt là Đức Tổng Giám Mục Paul Gallagher, Ngoại trưởng Tòa Thánh. Trong diễn văn, Đức Tổng Giám Mục đã khẳng định quan hệ thân hữu giữa Tòa Thánh và Trung Hoa dân chủ và nói: “Tôi cám ơn Đài Loan và đại sứ quán tại đây về những hoạt động liên đới gần đây, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch... và về những nâng đỡ các linh mục và tu sĩ Đài Loan trên thế giới.”
Ký giả trang mạng này nhận xét rằng sự việc Đức Tổng Giám Mục không cho phép các ký giả hiện diện được thu bài phát biểu của ngài, một điều không hề xảy ra trong các sinh hoạt với các nước khác, có lẽ vì không muốn làm cho chính quyền Trung Quốc phẫn nộ trong lúc sắp sửa gia hạn hiệp định với Tòa Thánh. Nhưng đây không phải là lần đầu tiên xảy ra những tình trạng đặc biệt như vậy với Đài Loan dưới triều đại Đức Thánh Cha Phanxicô: hồi năm 2018, tất cả các cơ quan truyền thông của Vatican đều loại bỏ hình chụp lúc Đức Thánh Cha đang chào thăm Phó tổng thống Đài Loan, Ông Trần Kiến Nhân (Chen Chien-jen), một tín hữu Công Giáo, đến Roma để dự lễ phong thánh cho Đức Phaolô 6 và sáu vị chân phước khác. Ngoài ra, năm 2020 Tòa Thánh đã không hỗ trợ lời kêu gọi cho Đài Loan được tham dự Đại hội của tổ chức Sức khỏe thế giới về coronavirus chỉ vì sự chống đối của Trung Quốc.
Lý do của Tòa Thánh
Có lần Đức Tổng Giám Mục ngoại trưởng Paul Gallagher trả lời cho các ký giả về thắc mắc tại sao Tòa Thánh không công khai phản đối Trung Quốc vì những vụ vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo. Đức Tổng Giám Mục cho biết vì Tòa Thánh thấy rằng những lời phản đối ấy, trong một số trường hợp, không mang lại hiệu quả nào nhưng chỉ làm cho tình thế trầm trọng và tệ hại hơn.
Đó cũng là thái độ của Đức Thánh Cha Phanxicô. Cho đến nay ngài không nêu đích danh Tổng thống Vladimir Putin của Nga như người chủ chốt trong cuộc chiến tranh chống Ucraina.
Ngoài ra, sự kiện trong cuộc phỏng vấn dành cho báo America nói trên, Đức Thánh Cha “lỡ lời” phê bình sự tàn ác của các binh sĩ người Ceceni và Buriati trong quân đội Nga tại Ucraina, đã tạo nên phản ứng mạnh mẽ từ phía Nga, và đe dọa làm tiêu tán những cố gắng từ 9 tháng nay của Tòa Thánh làm trung gian hòa đàm giữa Nga và Ucraina. Tuy các chức sắc ngoại giao của Tòa Thánh đã “thanh minh” với phía Nga rằng Đức Thánh Cha không có ý như vậy, nhưng ngoại trưởng Lavrov của Nga trong cuộc họp báo hôm 1/12 (2022) đã nói rằng những lời của Đức Giáo Hoàng “không hợp tinh thần Kitô” và ông cho rằng “phía Vatican không đáng tin cậy”!
Những phản ứng đó cho thấy Tòa Thánh đã có ý khi im lặng không lên tiếng, để những cánh cửa đối thoại khỏi bị khép lại và để tình hình khỏi trở nên tai hại hơn.