Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đấng Tạo Hoá và những giả thuyết của khoa học
Vatican News
Một sự thật đầu tiên không thể nghi ngờ là con người quan tâm về nguồn gốc của vũ trụ và giả thuyết về Thiên Chúa Đấng Sáng Tạo. Điều này được chứng thực qua sách của Michel-Yves Bolloré và Olivier Bonnassies xuất bản vào năm 2021, tại Pháp, trở thành sách bán chạy nhất, và điều này cũng được lặp lại khi tới Ý.
Hai tác giả muốn trình bày bằng chứng khoa học về sự hiện diện của Chúa và một thiết kế thông minh về nguồn gốc của vũ trụ, nối tiếp một loạt khám phá gần đây. Đó là những lý thuyết, được chứng thực bằng những tính toán và quan sát, làm lung lay nhiều niềm tin được cho là của những người nhân danh khoa học tuyên bố phủ nhận sự tồn tại của Đấng Tạo Hóa.
Thực vậy, sách giúp hiểu được sự khôn ngoan của những lời trong hiến chế tín lý Dei Filius của Công đồng Vatican I: “Không thể có sự bất đồng thực sự giữa đức tin và lý trí”. Công đồng đã trả lời cho những người ủng hộ sự không tương hợp giữa chân lý đức tin và tri thức hợp lý được suy luận bởi lý trí tự nhiên, bằng cách tuyên bố, với những từ ngữ vẫn còn phù hợp cho đến ngày nay, rằng có hai cấp độ kiến thức khác nhau, khác nhau về nguyên tắc và đối tượng, không xung đột nhau. Nhưng Công đồng cũng giải thích rằng có một loại trí thông minh rộng lớn hơn gắn kết mọi thụ tạo với Đấng Tạo Hóa, có khả năng kết hợp những gì trí thông minh của con người, bằng các phương tiện của nó, có thể biết về thực tại thực nghiệm. Đó là ý tưởng về lý trí mà Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã nói đến trong bài phát biểu đáng nhớ trước Quốc hội Đức vào tháng 9/2011: Ngài so sánh lý trí “với những tòa nhà bê tông cốt thép không có cửa sổ, trong đó chúng ta cung cấp cho mình khí hậu và ánh sáng và không còn muốn nhận cả hai thứ đó từ thế giới rộng lớn của Thiên Chúa”.
Việc không có xung đột giữa khoa học và đức tin được chứng thực bởi các nhà khoa học có đức tin, tác giả của những khám phá vĩ đại. Ở đây chỉ cần đề cập đến hai cái tên: đó là một người cùng thời với Darwin, Gregor Mendel, giáo sĩ dòng Augustinô người Moravian, ngày nay được coi là cha đẻ của ngành di truyền học; hoặc của linh mục Georges Edouard Lemaître, được coi là cha đẻ của vũ trụ học hiện đại, là người đầu tiên vào năm 1927 nhận thấy sự giãn nở của vũ trụ, một khám phá nằm ở nguồn gốc của thuyết Big Bang.
Trong cuốn sách của Bolloré và Bonnassies, hai lập luận vũ trụ học được mô tả rộng rãi để ủng hộ sự tồn tại của Chúa. Trước hết, bằng chứng được xác nhận bởi nhiều thử nghiệm khoa học khác nhau, rằng vũ trụ đang giãn nở và nó bắt đầu vào khoảng 13,8 tỷ năm trước. Nếu không thể quan sát được thời điểm ban đầu thì dấu vết của một giai đoạn sau đó đã được kiểm chứng, khi vũ trụ bằng 0,003% tuổi hiện tại. Bằng chứng này làm cho các tác giả cho rằng, vì khoa học đã chứng minh sự khởi đầu của thời gian nên điều này mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại của Đấng Tạo Hóa. Cho đến vài thập kỷ trước, các nhà vật lý học thiên thể vẫn có niềm tin chắc chắn hơn nhiều so với ngày nay. Bây giờ các nhà khoa học nói với chúng ta rằng chúng ta chỉ biết 5% vũ trụ. Chỉ 5% số lượng này được tạo thành từ vật chất “thông thường” và có thể nhìn thấy được (các thiên hà, ngôi sao, hành tinh, mặt trăng, khí...). 95% “phần còn lại” chưa biết bao gồm 27% vật chất tối và 68% năng lượng tối. Vật chất tối và năng lượng tối này thực sự là gì, chúng kết hợp như thế nào vào cấu trúc tổng thể của vũ trụ, vẫn chưa được khám phá.
Lập luận thứ hai được đề xuất liên quan đến một bằng chứng khoa học khác, đó là thực tế rằng các quy luật điều chỉnh trong vũ trụ của chúng ta có xu hướng tạo ra các điều kiện cho sự xuất hiện của sự sống. Sự sống trên trái đất thực sự được tạo ra nhờ một loạt các hoàn cảnh chính xác. Tóm lại, vũ trụ được tạo dựng để cho phép chúng ta tồn tại. Sự hài hòa với sự tồn tại của sự sống chính xác đến mức nếu vũ trụ không giống như hiện tại thì chúng ta sẽ không tồn tại.
Do đó, có những hằng số vật lý cơ bản mà giá trị của chúng cho phép tồn tại vũ trụ và sự sống. Những hằng số này không nhiều và hiện tại không có lý do nào được biết tại sao chúng lại như vậy. Nếu có nhiều vật chất hơn hiện nay, vũ trụ sẽ sụp đổ: vũ trụ đã được làm như vậy rồi, nó sẽ không đạt tới mốc hơn 13 tỷ năm. Nếu có ít vật chất hơn một chút, vũ trụ sẽ giãn nở nhanh hơn và sẽ không có các ngôi sao, vốn là yếu tố cơ bản cho sự sống. Nếu vật chất không tổng hợp thành các ngôi sao thì sự sống không tồn tại.
Đứng trước bằng chứng này, có những người cho rằng ngẫu nhiên là một yếu tố nằm ở nguồn gốc của vũ trụ. Họ đưa ra giả thuyết về sự hiện diện của các vũ trụ vô tận - lý thuyết về đa vũ trụ - mà có thể đã phát triển một cách ngẫu nhiên theo một cách hoàn toàn khác với vũ trụ của chúng ta và mà đối với chúng ta không thể biết được. Một khẳng định có phần “siêu hình”: những vũ trụ vô tận khác này trên thực tế có thể được đưa ra giả thuyết để biện minh cho sự tồn tại nhân quả của chúng ta, nhưng chúng không thể quan sát được và do đó chúng không thể được trải nghiệm. Như chúng ta có thể thấy, giả thuyết - đối với những người có hồng ân đức tin, không phải là giả thuyết mà là sự chắc chắn - rằng Ai đó đã nghĩ đến và là nguồn gốc của trời và đất, rằng Ai đó đã nghĩ đến chúng ta, muốn có chúng ta và yêu thương chúng ta và tiếp tục yêu chúng ta, ban cho chúng ta sự sống, không thể được chứng minh một cách “khoa học”, nhưng nó cũng hợp lý không kém các giả thuyết siêu hình không kém khác.
Về vấn đề này, thật thú vị khi đọc Trước Big Bang, sách của giám đốc Khoa Vật lý Lý thuyết tại CERN Gian Francesco Giudice, xuất bản vào tháng 9 năm ngoái. Sách được viết do câu hỏi của một cô bé cùng đi một chuyến tàu với nhà khoa học. Cô bé hỏi ông đang đọc gì và ông trả lời: “Lịch sử của vũ trụ”. Cô bé hỏi tiếp: “Nếu cuốn sách nói về tất cả lịch sử vũ trụ thì có phải nó cũng nói về con không?” Một câu hỏi khiến Giudice ngạc nhiên, không nói nên lời, và trả lời một cách không chắc chắn: “Không, tôi không nghĩ vậy. Nhưng tôi vẫn chưa đọc hết”.
Trong sách này, ông Giudice viết: “Việc khám phá những vận hành sâu xa làm nền tảng cho các hiện tượng vật lý không làm mất đi vẻ đẹp của chúng nhưng còn làm cho chúng ta trải nghiệm cảm xúc khi bất ngờ nhìn thiên nhiên bằng con mắt khác, với cảm giác thấm nhập vào bản chất sâu sắc nhất của nó... Bức chân dung của Big Bang được vẽ bằng sự thổi phồng có cường độ mạnh đến mức khiến chúng ta cảm thấy như đang hiện diện trước cảnh tượng về nguồn gốc của vật chất, dường như mở ra trước mắt chúng ta giống như một sự trưng bày vũ trụ ngoại thường”.
Do đó, cuốn sách này giúp chúng ta hiểu hơn về những bí ẩn sự hình thành vũ trụ. Nhưng cần hết sức thận trọng để tránh dựa vào khoa học và các phương pháp của nó để “chứng minh” sự tồn tại của Đấng Tạo Hóa. Cần phải luôn nhớ những phát biểu của Thánh Gioan Phaolô II, trong buổi tiếp kiến chung vào tháng 7 năm 1985: “Khi chúng ta nói về những bằng chứng sự hiện hữu của Thiên Chúa, chúng ta phải nhấn mạnh rằng chúng ta không nói về những bằng chứng khoa học-thực nghiệm. Bằng chứng khoa học, theo nghĩa hiện đại của từ này, chỉ có giá trị đối với những thứ có thể cảm nhận được bằng giác quan, vì chỉ dựa vào những thứ này thì các công cụ điều tra và xác minh mà khoa học sử dụng mới có thể được thực hiện. Muốn có bằng chứng khoa học về Chúa có nghĩa là hạ thấp Chúa xuống ngang hàng với sinh vật trong thế giới của chúng ta, và do đó đã sai lầm về phương pháp luận về Chúa là gì. Khoa học phải thừa nhận những giới hạn và sự bất lực của mình trong việc đạt đến sự hiện hữu của Thiên Chúa: khoa học không thể khẳng định hay phủ nhận sự tồn tại này. Tuy nhiên, không được rút ra kết luận từ điều này rằng các nhà khoa học không có khả năng tìm ra, trong các nghiên cứu khoa học của họ, những lý do xác đáng để thừa nhận sự tồn tại của Thiên Chúa. Nếu khoa học như thế không thể đạt tới Thiên Chúa, thì khoa học gia, người sở hữu một trí thông minh, mà đối tượng không bị giới hạn ở những điều có thể cảm nhận được, có thể khám phá trong thế giới những lý do để khẳng định một hữu thể vượt trội hơn mình. Nhiều khoa học gia đã và đang thực hiện khám phá này”.
Những lời trên giúp chúng ta liên hệ tới sự khẳng định của cha Georges Lemaitre, người Bỉ, người đầu tiên đề xuất lý thuyết vũ trụ Big Bang. Trong một hội nghị, khi được hỏi liệu nguyên tử nguyên thủy có được đồng nhất với Chúa hay không, cha mỉm cười trả lời: “Tôi rất tôn kính Chúa nên không thể đưa ra một giả thuyết khoa học nào về Người”.
Đức Thánh Cha tiếp Uỷ ban Giáo hoàng về Kinh Thánh
Vatican News
Đức Thánh Cha nói chủ đề này gần gũi với tâm hồn ngài, và điều quan trọng là phải đối diện với đau khổ và bệnh tật xứng với nhân phẩm. Ngài nhắc lại: “Dưới ánh sáng đức tin, đau khổ và bệnh tật có thể trở thành những yếu tố quyết định trong một tiến trình trưởng thành. Đau khổ giúp phân định điều gì chính yếu và điều gì không. Nhưng trước hết mẫu gương của Chúa Giêsu chỉ ra con đường. Chúa khuyến khích chúng ta chăm sóc những ai đang đau yếu với ý muốn thắng vượt bệnh tật, đồng thời Chúa mời gọi chúng ta kết hiệp những đau khổ của chúng ta với của lễ cứu độ của Người như hạt giống sinh hoa trái”.
Ở điểm này, Đức Thánh Cha mời gọi các thành viên của Uỷ ban Giáo hoàng về Kinh Thánh suy tư hai cụm từ: lòng trắc ẩn và bao gồm.
Trước hết về lòng trắc ẩn. Lòng trắc ẩn cho thấy thái độ lặp đi lặp lại của Chúa Giêsu dành cho những người yếu đuối và cần được giúp đỡ. Lòng trắc ẩn cho thấy sự gần gũi của Chúa với những người đau khổ và làm cho Người đồng hoá với họ “Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm” (Mt 25, 36). Tất cả những điều này cho thấy một chiều kích quan trọng: Chúa không giải thích đau khổ nhưng cúi xuống với những ai đau khổ. Người không đưa ra câu trả lời dễ dàng cho những câu hỏi “tại sao” của chúng ta, nhưng trên Thánh giá Người đã biến câu hỏi lớn “tại sao” của chúng ta thành của Người.
Đức Thánh Cha suy tư tiếp về “sự bao gồm”. Ngài nhận xét, trong Kinh Thánh không có cụm từ này nhưng những hành động của Chúa Giêsu tỏ rõ sự bao gồm: tìm kiếm tội nhân, người bị gạt ra bên lề, không có ai bị loại trừ khỏi ơn cứu độ của Thiên Chúa. Sự bao gồm còn thể hiện trong khía cạnh khác: Chúa mong muốn toàn thể con người cả hồn lẫn xác đều được chữa lành. Bởi vì chữa lành thể xác chẳng ích gì nều tâm hồn không được chữa lành.
Đối với Đức Thánh Cha, quan điểm bao gồm này đưa chúng ta đến thái độ chia sẻ. Qua kinh nghiệm đau khổ và bệnh tật, Giáo hội được mời gọi cùng bước đi với mọi người, trong tình liên đới Kitô và nhân loại, mở ra những cơ hội đối thoại và hy vọng.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha cám ơn các thành viên vì sự phục vụ và khuyến khích họ tiếp tục nghiên cứu cách nghiêm túc với tinh thần huynh đệ để chiếu sáng Kinh Thánh vào những khía cạnh mà tất cả mọi người đều quan tâm.
Đức Thánh Cha: Người khuyết tật có đầy đủ phẩm giá như mọi người
Vatican News
Đi từ chủ đề của Đại hội tập trung vào người khuyết tật, Đức Thánh Cha nhắc lại học thuyết xã hội của Giáo hội về điều này: Người khuyết tật có đầy đủ mọi quyền và nghĩa vụ; Mỗi người đều có quyền sống xứng nhân phẩm, ngay cả khi họ có những hạn chế; Phẩm giá của mỗi người không dựa trên hoàn cảnh nhưng dựa trên giá trị sự hiện hữu.
Theo Đức Thánh Cha, tính dễ bị tổn thương và yếu đuối là một phần tình trạng con người, và không chỉ liên quan đến người khuyết tật. Sự quan tâm của Giáo hội dành cho người khuyết tật hiện thực hoá nhiều cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với những người dễ bị tổn thương này.
Trước hết, Chúa tiếp xúc trực tiếp với những người khuyết tật và thay đổi ý nghĩa tình trạng của họ. Đối với Chúa Giêsu, mọi thân phận con người, cả những người có những giới hạn thể lý là một lời mời gọi dệt lên một tương quan với Thiên Chúa và giúp con người tìm lại chính mình, như trường hợp anh mù Batimê trong Tin Mừng (Mc 10, 46-52).
Đức Thánh Cha nói tiếp, đề cập đến văn hoá vứt bỏ không biên giới trong xã hội ngày nay. Chống lại thứ văn hoá này có nghĩa là thúc đẩy một nền văn hoá hội nhập, tạo ra và củng cố các liên kết xã hội. Những người tham gia vào hành động liên đới này là những người cảm thấy đồng trách nhiệm vì lợi ích của mỗi người, làm việc cho công bằng xã hội và loại bỏ những rào cản làm cho nhiều người không được hưởng các quyền tự do cơ bản.
Vấn đề là xây dựng một văn hoá hội nhập, trong đó người khuyết tật không phải là người tiếp nhận thụ động nhưng tham gia vào đời sống xã hội như những nhân vật chính của sự thay đổi. Trong ánh sáng này, vai trò của các hiệp hội và phong trào là rất quan trọng.
Về điểm này, Đức Thánh Cha khen ngợi và cảm ơn các thành viên Hàn lâm viện Toà Thánh về Khoa học vì những đóng góp dành cho người khuyết tật. Thực tế, cơ quan này của Toà Thánh đã có những nghiên cứu và thảo luận trong cộng đồng khoa học và nâng cao nhận thức trong các môi trường xã hội và Giáo hội về lĩnh vực này.
Ban Việt Ngữ và Đài Chân Lý Á Châu mừng kỷ niệm 50 năm thành lập
Thứ Ba, 09/04/2019
Quezon, Philippines - Chiều mùng 09/04/2019, tại khuôn viên của Đài Chân Lý Á Châu, thành phố Quezon, Philippines, Ban Việt Ngữ Đài Chân Lý Á Châu đã long trọng cử hành thánh lễ tạ ơn Mừng Kỷ niệm 50 Năm Thành lập.
Chủ tế thánh lễ là Đức cha Giuse Nguyễn Tấn Tước, Giám mục Giáo phận Phú Cường, Chủ tịch Ủy ban Truyền thông Xã hội trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Đồng tế với Đức cha Giuse, có Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giám mục Giáo phận Thái Bình, Chủ tịch Ủy ban Tu sĩ trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Giám quản Tông tòa Tổng Giáo phận Sài Gòn, Chủ tịch Ủy ban Mục vụ Di dân trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức cha Yvon Ambroise, nguyên Giám mục Giáo phận Tuticorin bên Ấn Độ, cùng khoảng 50 linh mục đồng tế, trong đó có cha Raymond Ambroise, người Ấn Độ, vừa kết thúc nhiệm kỳ Tổng Thư Ký Văn phòng Truyền thông Xã hội thuộc Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) và cha George Plathottam, tân Tổng Thư Ký Văn phòng Truyền thông Xã hội của FABC.
Cùng tham dự thánh lễ có khoảng 400 người, bao gồm quý tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân đang học tập, tu học và làm việc tại Philippines.
Mở đầu thánh lễ, Đức cha Giuse Chủ tịch Ủy ban Truyền thông Xã hội mời gọi mọi người cùng tạ ơn Thiên Chúa về hành trình 50 loan báo Tin mừng của Đài Chân Lý Á Châu, nhất là trong những giai đoạn khó khăn, thử thách. Đức cha cũng nhắc nhớ mọi người hiện diện tưởng nhớ và cầu nguyện cho Cố Đức ông Phêrô Nguyễn Văn Tài, nhân lễ giỗ 4 năm (21.04.2015-21.04.2019).
Trong bài giảng thánh lễ, Đức cha Phêrô, Giám mục Giáo phận Thái Bình đã chia sẻ về sứ vụ truyền giáo mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho từng tín hữu Kitô khi chịu phép Rửa tội. Đức cha nói lên cốt lõi của truyền thông là tình yêu, tình yêu của Chúa Ba Ngôi thông truyền cho nhân loại qua chính Chúa Giêsu Kitô. Với những lời đầy xúc động và biết ơn, Đức cha giảng lễ cũng nhắc lại cuộc đời và sự nghiệp của Cố Đức ông Phêrô Nguyễn Văn Tài, một người bạn cùng lớp với ngài tại Giáo hoàng Học viện Piô X Đà Lạt khi xưa, đặc biệt là quãng thời gian 38 năm phục vụ cho sứ vụ truyền giáo nơi Đài Chân Lý Á Châu.
Cuối thánh lễ, cha Gioan Baotixita Trần Thanh Thế, Dòng Đa Minh, Trưởng Ban Việt Ngữ đã ngỏ lời tri ân Thiên Chúa, cám ơn Quý Đức cha, quý cha, quý tu sĩ nam nữ và tất cả cộng đoàn hiện đã yêu thương và hiện diện trong dịp kỷ niệm trọng đại này của Đài Chân Lý Á Châu nói chung và Ban Việt Ngữ nói riêng.
Thứ Tư, 10/04/2019
Manila, Philippines - Mùng 10/04/2019, Đài Chân Lý Á Châu và Đài Veritas 846 (tách khỏi Đài Chân Lý Á Châu từ năm 1986 và trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Philippines) đã cùng nhau cử hành Thánh lễ Tạ ơn mừng Kỷ niệm 50 Năm Thành Lập tại khuôn viên của Trường Đại học Hoàng gia Giáo hoàng Thánh Tôma Aquinô, Manila, Philippines.
Mục đích của ngày cử hành này là để nhắc nhớ lại sự kiện vào ngày 10 tháng 12 năm 1958, đã có hơn 100 Giám mục từ khắp Á Châu, quy tụ về Đại học Giáo hoàng này, với Vị Đặc sứ của Đức thánh Giáo hoàng Gioan XXIII gửi đến, để cùng bàn luận việc thành lập một đài phát thanh Công giáo cho lục địa Á Châu, với tên gọi Chân Lý Á Châu (Radio Veritas).
Chủ tế thánh lễ Tạ ơn là Đức Tổng Giám mục Gabriele Caccia, Khâm sứ Tòa Thánh tại Philippines. Đồng tế với Đức Khâm sứ Gabriele có Đức Hồng y Charles Muang Bo, SDB, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Yangoon, Myanmar, Chủ tịch Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC), Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Manila, Đức Tổng Giám mục Stephan Burger, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Freiburg, Đại diện Hội Đồng Giám Mục Đức, với khoảng 30 Giám mục và 100 linh mục đến từ nhiều nước tại Á Châu, với sự hiện diện của các tổ chức bác ái, nhân thân từ Âu Châu, khoảng 1000 tu sĩ nam nữ, chủng sinh và quý khách từ khắp nơi tại Á Châu cùng tham dự.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Hồng y Tagle đã cùng với cộng đoàn hiện diện lần trở lại lịch sử, với những cột mốc quan trọng trong việc hình thành nên Đài Chân Lý Á Châu. Một trong những thời khắc đầy ý nghĩa, đó là buổi hội họp tại Đại học UST của hơn 100 giám mục Á Châu và nhiều nơi khác để cùng quyết định gửi đề án thành lập Đài Chân Lý Á Châu đến Tòa Thánh. Cột mốc tiếp theo là những cuộc viếng thăm của hai thánh Giáo hoàng Phaolô VI và Gioan Phaolô II năm 1970 và 1995.
Đức Hồng y Tổng Giám mục Manila còn mời gọi mọi người tạ ơn Chúa vì những hồng ân vĩ đại mà Chúa ban cho Đài, nhất là các tín hữu tại Á Châu, thông qua Đài Chân Lý Á Châu. Đồng thời, Đức Hồng y người Philippines khích lệ các nhà làm truyền thông hãy nhớ sứ điệp chính yếu của Đài Chân Lý Á Châu, đó là Sự Thật, Sự Thật về Thiên Chúa Tình Yêu, và chỉ có Sự Thật này, con người mới có được sự tự do đích thực.
Cuối thánh lễ, Đức Khâm sứ Gabriele đã đọc sứ điệp chúc mừng của Đức Thánh cha Phanxicô gửi đến Đài Chân Lý Á Châu nhân dịp mừng kỷ niệm trọng đại này. Riêng mình, Đức Tổng chỉ lưu ý tất cả mọi người, cách riêng những người làm truyền thông của Đài Chân Lý Á Châu và Đài Veritas 846, rằng: 1) Truyền thông là thông truyền Niềm vui của Tin mừng và tình yêu của Chúa Kitô; 2) Phương pháp thực hiện phải là sự liên kết-hiệp nhất; 3) Biết “lắng nghe” Lời Chúa trong trung tín.
Thứ Năm 11/04/2019
Quezon, Philippines - Thứ Năm 11/04/2019 là lễ chính ngày mừng Kỷ niệm 50 Năm Thành lập Đài Chân Lý Á Châu.
Thánh lễ tạ ơn trọng thể được tổ chức tại Hội trường Đài Chân Lý Á Châu. Chủ tế thánh lễ là Đức Hồng y Charles Muang Bo, SDB, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Yangoon, Myanmar, Chủ tịch Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC). Đồng tế với Đức Hồng y Charles Bo, có Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Manila, Đức Tổng Giám mục Stephan Burger, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Freiburg, Đại diện Hội Đồng Giám Mục Đức, và khoảng 30 Giám mục và gần 100 linh mục đến từ nhiều nước tại Á Châu.
Trước thánh lễ, cộng đoàn hiện diện cùng tham dự nghi thức làm phép nhiều công trình được thực hiện cho dịp mừng kỷ niệm này, như: biểu tượng nói lên căn tính của Đài, những hình ảnh mô tả những nhân vật và những giai đoạn đầy ý nghĩa đối với Đài, và Nhà Truyền thống.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Hồng y Chủ tịch FABC mời gọi cộng đoàn hiện diện dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân lớn lao Người dành cho Giáo hội tại Á Châu, thông qua Đài Chân Lý Á Châu, để từ đó mỗi người biết tri ân quá khứ, nỗ lực trong hiện tại và hướng đến tương lai với trái tim đầy hy vọng.
Đức Hồng y người Myanmar cũng nhắc lại mục đích đầu tiên mà các bậc tiền bối tại Á Châu nghĩ đến khi thành lập Đài Chân Lý Á Châu, đó là hướng đến việc đem Tin mừng và Sự Thật đến cho những tín hữu trong những quốc gia gặp khó khăn về chính trị, xã hội, như Trung Quốc, Việt Nam.
Sau hết, Đức Hồng y Chủ tịch FABC khích lệ các nhân viên của hai đài phát thanh: Chân Lý Á Châu và Đài Veritas 846 tiếp tục loan báo về Sự Thật-Chân Lý, về tình yêu của Thiên Chúa đến với mọi người trên thế giới, bất luận có cùng tín ngưỡng hay không.
Thánh lễ kết thúc trong niềm hân hoan, vui mừng của những người tham dự, đặc biệt là các thành viên của Đài Chân Lý Á Châu và Đài Veritas 846.
Nguồn: Radio Veritas Asia
Cha Ibrahim Faltas: Chiến tranh cũng khiến cho tương lai của Kitô hữu ở Thánh Địa trở nên đen tối
Hồng Thủy - Vatican News
Cha chia sẻ: “Các cộng đồng Kitô giáo ở Thánh Địa đang sống tồi tệ. Chiến tranh luôn là một thất bại, như Đức Thánh Cha Phanxicô nói, và đối với các Kitô hữu thuộc nhóm thiểu số ở Thánh Địa, chiến tranh trở thành một thảm kịch thực sự khó khăn mà họ phải đối mặt”.
Tín hữu Gaza thiếu thức ăn, nước uống và thuốc men
“Ở Gaza, khoảng 800 Kitô hữu đã tìm được nơi ẩn náu trong giáo xứ Thánh Gia, 200 người khác ở nhà thờ Chính Thống Hy Lạp. Nhiều người chết, những người sống sót mất tất cả. Họ phải chia sẻ đồng thời cho mọi nhu cầu của mình và không có thức ăn, nước uống hay thuốc men”.
Kitô hữu Bờ Tây không có việc làm
Theo Cha Faltas, chiến tranh cũng khiến các Kitô hữu ở Bờ Tây, những người chủ yếu sống nhờ du lịch, không có việc làm do thiếu các chuyến hành hương. Họ không thấy tương lai cho gia đình mình và nhiều người muốn rời khỏi Thánh Địa. Ngay cả ở Israel, các cộng đồng Kitô giáo cũng đang sống và gánh chịu hậu quả của chiến tranh. Ngay cả ở phía bắc, ở Nazareth và Galilê, họ cũng rất gần với một mặt trận chiến tranh khác.
Người trẻ mất niềm tin vào tương lai
Cha Faltas nói về tình hình tại Giêrusalem: “Chúng tôi đã trải qua một Lễ Phục Sinh Thánh mà không có người hành hương và không có các Kitô hữu từ Bờ Tây, những người không có giấy phép ra ngoài và tham gia các hoạt động cử hành Lễ Phục Sinh ở Thành Thánh. Bầu khí thật buồn và hy vọng đang lụi tàn. Các Kitô hữu, đặc biệt là ở Bờ Tây, phải chịu nhiều hạn chế và tình trạng thiếu việc làm cũng thực sự là một điều đáng lo ngại. Điều đặc biệt nổi bật là sự mất niềm tin vào tương lai của người trẻ, nỗi buồn không thể xây dựng cuộc sống ở mảnh đất nơi họ sinh ra”.
Nhưng các Kitô hữu ở Thánh Địa đều đang làm chứng cho đức tin
Tuy nhiên, tất cả các Kitô hữu ở Thánh Địa đều đang làm chứng cho đức tin của mình một cách mẫu mực. Giữa những tàn phá, Cha Faltas vẫn tin rằng Chúa thật cao cả và nhân hậu và nâng đỡ nhân loại đang bị tổn thương này. Ngài nói: “Tôi nhìn thấy điều đó trong đôi mắt của những đứa trẻ và những người không có khả năng tự vệ ở Thánh Địa đầy đau khổ này”. Và theo ngài, chứng tá đức tin mạnh mẽ của các Kitô hữu được thể hiện qua những cử chỉ đơn giản của việc chia sẻ những nỗi đau khổ. Cuộc sống của họ ở đây là một chứng tá liên tục và chúng ta phải tiếp tục hỗ trợ họ. (Fides 09/04/2024)
Hội đồng Giám mục Úc công bố quy tắc ứng xử cho nhân viên Giáo hội trên toàn quốc
Vatican News
Trong thông cáo báo chí được Hội đồng Giám mục Công giáo Úc công bố vào ngày 8/4/2024, các giám mục nói tài liệu là một phương tiện “thúc đẩy hơn nữa cam kết liên tục của Hội đồng Giám mục Công giáo Úc đối với sự an toàn của trẻ em và những người dễ bị tổn thương”.
Tài liệu “Tính chính trực về đạo đức trong sứ mạng chung của chúng ta” đã được các Giám mục phê chuẩn tại cuộc họp toàn thể vào tháng 11/2023 và thay thế các quy tắc trước đó dành cho giáo sĩ và tu sĩ, và dành cho các nhân viên giáo dân của Giáo hội, và đưa những điều này vào một bản trình bày duy nhất, theo yêu cầu của Ủy ban Hoàng gia về Phản ứng của Thể chế đối với Lạm dụng Tình dục Trẻ em.
Tài liệu phản ánh các Tiêu chuẩn Bảo vệ của Công giáo Toàn quốc và nhằm mục đích “hỗ trợ việc đào tạo và khuyến khích các giáo sĩ và các nhà lãnh đạo mục vụ giáo dân phản ánh sự đúng đắn luân lý trong mọi khía cạnh của cuộc sống của họ”.
Trong thông cáo báo chí, các Giám mục Úc viết rằng “bất kỳ ai thực hiện công việc mục vụ theo yêu cầu hoặc dưới sự giám sát của một Giám mục giáo phận đều phải tuân thủ quy tắc ứng xử quốc gia. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, họ cũng có thể phải tuân theo các nghĩa vụ cụ thể theo luật định, hợp đồng hoặc các nghĩa vụ khác”.
Đức Cha Greg Bennet, chủ tịch Ủy ban Tiêu chuẩn Nghề nghiệp và Bảo vệ của Hội đồng Giám mục, nhấn mạnh điều này hơn nữa bằng cách khẳng định rằng Giáo hội không khoan nhượng đối với hành vi lạm dụng. Ngài nói: “Sự ngay chính trong sứ mạng chung của chúng ta là nguồn lực quan trọng để canh tân cam kết của chúng ta đối với sự an toàn của trẻ em và những người dễ bị tổn thương”. Ngài nói thêm rằng “các nguyên tắc của nó đã được phát triển để hướng dẫn, hình thành, củng cố và khẳng định những hành vi được mong đợi đối với tất cả những người tham gia vào các hoạt động mục vụ của Giáo hội”.
Thông cáo báo chí kết thúc bằng cách nêu bật một số lĩnh vực khác được đề cập trong Bộ Quy tắc, chẳng hạn như ranh giới về thể chất và tinh thần, phản hồi khiếu nại, các mối quan hệ tích cực, sử dụng mạng xã hội, lạm dụng tại nơi làm việc và đạo đức tài chính.
Tiếp kiến chung của Đức Thánh cha: Đức can đảm khiến ta chiến thắng sợ hãi, đương đầu với thử thách và bách hại
Sáng thứ Tư, ngày 10 tháng Tư năm 2024, đã có hơn 10.000 tín hữu đến tham dự buổi Tiếp kiến chung của Đức Thánh cha Phanxicô, tại Quảng trường thánh Phêrô.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Sau khi dùng xe mui trần tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu, Đức Thánh cha khai mạc buổi tiếp kiến với phần tôn vinh Lời Chúa, qua một đoạn ngắn trích từ thánh vịnh thứ 31 (2.4.25):
“Lạy Chúa, con nương náu bên Ngài, con sẽ không bao giờ thất vọng [..]. Vì Ngài là núi đá và thành lũy bảo vệ con, vì danh dự Ngài, xin dẫn đường chỉ lối cho con... Hỡi mọi người, hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!”
Trong bài giáo lý tiếp đó, Đức Thánh cha tiếp tục loạt bài về các nết xấu và các nhân đức. Bài thứ mười bốn này có tựa đề là: Đức can đảm.
Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Đức can đảm là gì?
Bài giáo lý hôm nay nói về nhân đức trụ thứ ba, là đức can đảm. Chúng ta đi từ sự mô tả trong Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo: “Can đảm là một nhân đức luân lý, giữa những khó khăn, đảm bảo sự cương quyết và kiên trì trong việc tìm sự thiện”. Nó củng cố quyết định chống lại những cám dỗ và vượt thắng những chướng ngại trong đời sống luân lý. Đức can đảm khiến ta có khả năng chiến thắng sợ hãi, cả cái chết nữa, và đương đầu với thử thách và bách hại” (n.1808).
Đặc tính
Vì thế, đó là nhân đức “chiến đấu” nhất trong các nhân đức. Nhân đức đầu tiên trong các nhân đức trụ là đức khôn ngoan, nhất là nó liên kết với lý trí con người; và trong khi đức công bình tìm được nơi ở trong ý chí thì nhân đức thứ ba này thường được các tác giả kinh viện gắn liền với điều mà những người xưa gọi là “appetito irascibile”, đam mê thúc đẩy. Tư tưởng xưa kia không tưởng tượng ra một người không có những đam mê, chẳng vậy họ sẽ là một cục đá. Và người ta cũng không nói rằng những đam mê nhất thiết là tàn tích của một tội lỗi; nhưng chúng cần được giáo dục, chỉnh đốn, thanh tẩy bằng nước của bí tích Rửa tội, hoặc đúng hơn là bằng lửa của Chúa Thánh Linh. Một Kitô hữu không có can đảm, không uốn nắn sức mạnh của mình về sự thiện, không làm phiền toái một ai, thì đó là một tín hữu Kitô vô ích. Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa tinh ròng và lạnh lùng, không biết những cảm xúc của con người. Trái lại là đàng khác. Đứng trước cái chết của anh Lazzaro, bạn Ngài, Ngài đã bật khóc; và trong một số lối diễn tả của Ngài, có biểu lộ một tâm hồn say mê, như khi Ngài nói: Thầy đến để ném lửa vào trần thế và Thầy muốn nó được cháy lên dường nào!” (Lc 12.49); và đứng trước nạn buôn bán trong đền thờ, Chúa đã mạnh mẽ phản ứng (Xc Mt 21.12-13).
Hai chuyển động của đức can đảm
Nhưng bây giờ chúng ta hãy tìm một định nghĩa thiết yếu về nhân đức rất quan trọng này. Nó giúp chúng ta mang lại thành quả trong cuộc sống. Những người xưa, các hiền triết Hy Lạp cũng như các nhà thần học Kitô giáo - nhìn nhận trong đức can đảm hai chuyển động, một là thụ động, hai là tích cực.
Đối nội
Chuyển động thứ nhất hướng về nội tâm chúng ta. Có những kẻ thù nội tâm mà chúng ta phải đánh bại. Nó nấp dưới tên lo lắng, âu lo, sợ hãi, mặc cảm tội lỗi: tất cả những sức mạnh giao động trong nội tâm chúng ta và trong vài hoàn cảnh, làm cho chúng ta tê liệt. Bao nhiêu người chiến đấu đã gục ngã trước khi bắt đầu chiến đấu! Đức can đảm là một chiến thắng trước tiên chống lại chính mình. Phần lớn sợ hãi nảy sinh trong chúng ta là những điều siêu thực, và không hề xảy ra trong thực tế. Khi ấy, điều tốt nhất là cầu xin Chúa Thánh Linh và đương đầu với tất cả trong can đảm kiên nhẫn: từng vấn đề một, theo khả năng của chúng ta, nhưng không phải một mình! Chúa ở với chúng ta, nếu chúng ta tín thác nơi Chúa và chân thành tìm kiếm sự thiện. Vậy, trong mỗi tình trạng chúng ta, có thể trông cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Người là khiên thuẫn và giáp mã của chúng ta.
Đối ngoại
Sang đến chuyển động thứ hai của đức can đảm, lần này nó tích cực hơn. Ngoài thử thách nội tâm, có những kẻ thù bên ngoài, đó là những thử thách của cuộc sống, những bách hại, khó khăn mà chúng ta không ngờ và chúng chợt đến với chúng ta. Thực vậy, chúng ta có thể tìm cách dự phòng điều sẽ xảy ra cho chúng ta. Nhưng phần lớn thực tại gồm những biến cố không lường trước được, và trong biển mênh mông ấy nhiều lần thuyền của chúng ta bị sóng gió vùi dập. Khi ấy, đức can đảm làm cho chúng ta trở thành những thủy thủ kháng cự, không kinh hãi và không nản lòng.
Tác động của đức can đảm
Đức can đảm là một nhân đức cơ bản vì nó coi trọng thách đố của sự ác trên thế giới. Có người làm như thể nó không hiện hữu. Tất cả mọi sự tiến hành tốt, và cho rằng ý chí con người nhiều khi không mù quáng, và trong lịch sử, không có những thế lực đen tối mang lại chết chóc. Nhưng chỉ cần lật sách sử, hoặc rất tiếc là cả các báo chí, để khám phá những đen tối đau thương mà chúng ta phần nào là nạn nhân, và cũng có khi lại giữ vai chính: chiến tranh, bạo lực, nô lệ, đàn áp người nghèo, những vết thương không bao giờ lành và còn rướm máu. Đức can đảm làm cho chúng ta phản ứng và kêu to không chấp nhận như vậy. Tại Tây phương thoải mái của chúng ta, vốn làm cho mọi sự phần nào được nới lỏng, đã biến con đường trọn lành thành một thứ phát triển hữu cơ đơn giản, không cần những cuộc chiến đấu, vì tất cả dường như giống nhau đối với họ. Đôi khi chúng ta cảm thấy một sự nhớ nhung lành mạnh đối với các ngôn sứ. Không phải là điều rất hiếm hoi những người gây phiền toái và có những viễn kiến. Cần có người nào đó thúc đẩy chúng ta từ chỗ êm ấm chúng ta đang an hưởng và làm cho chúng ta lập lại một cách quyết liệt chống lại sự ác và tất cả những gì dẫn đến sự dửng dưng.
Vậy, chúng ta hãy tái khám phá trong Tin mừng đức can đảm của Chúa Giêsu và học từ nơi chứng tá của các vị thánh nam nữ.
Chào thăm và kêu gọi
Sau bài giáo lý trên đây là phần tóm tắt và chào thăm bằng các thứ tiếng, kèm theo những lời nhắn nhủ của Đức Thánh cha.
Với các tín hữu nói tiếng Pháp, Đức Thánh cha nhắc đến các tín hữu đến từ các giáo xứ ở Bỉ, Tiểu vương quốc Monaco và Pháp. Ngài mời gọi họ hãy tập luyện trong nhân đức can đảm và tìm được can đảm hăng sau biểu lộ đức tin.
Bằng tiếng Anh, Đức Thánh cha chào các nhóm đến từ Anh quốc, Đan Mạch, Hòa Lan và Mỹ, đồng thời nói thêm rằng: “Trong niềm vui của Chúa Kitô Phục sinh, tôi khẩn cầu trên anh chị em và thân quyến tình yêu thương xót của Thiên Chúa là Cha chúng ta”.
Đức Thánh cha cũng nhắc đến nạn lụt trầm trọng ở Cộng hòa Kazakhstan và liên đới tinh thần với dân chúng tại nước này.
Với các tín hữu Ba Lan, Đức Thánh cha nhắc đến các tín hữu thuộc giáo xứ Bydgoszcz, đến Roma hành hương nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập giáo phận. Ngài nói thêm rằng trong việc tập luyện hằng ngày nhân đức can đảm, có mẫu gương của vị bổn mạng giáo phận anh chị em, là chân phước Giám mục Michal Kozak, tử đạo tại trại tập trung Dachau [bên Đức]. Người đã nói rằng: “Sự thất bại về tinh thần của con người là điều đáng kinh tởm hơn một sự thất trận và người nghi ngờ vô tình trở thành đồng minh của kẻ thù”. Tôi thành tâm chúc lành cho anh chị em và phó thác anh chị em cho sự phù hộ của Đức Trinh Nữ Maria.
Sau cùng, bằng tiếng Ý, Đức Thánh cha chào thăm đặc biệt các linh mục, chủng sinh và các tín hữu ở đảo Sardegna bên Ý, về Roma nhân cuộc viếng thăm của các giám mục của mình nơi mộ các thánh tông đồ và gặp gỡ Tòa Thánh. Ngài cũng nhắc đến nhiều nhóm và hội đoàn khác, trong đó có cả một nhóm binh sĩ nhảy dù thuộc Lữ đoàn “Folgore”, Sấm Chớp, ở thành Livorno, Bắc Ý.
Đức Thánh cha cũng nhắc đến những người trẻ, các bệnh nhân, người cao tuổi và các đôi tân hôn, đồng thời cầu chúc cho mỗi người làm cho ánh sáng an ủi của sứ điệp Phục sinh tăng trưởng trong tâm hồn. Sứ điệp này mời gọi củng cố niềm tin và hy vọng nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh và sống lại.
Đức Thánh cha không quên tái kêu gọi liên đới và cầu nguyện với các nạn nhân chiến tranh, đặc biệt tại Ucraina, Thánh địa và Myanmar. Tại Ucraina, các cuộc tấn công không ngừng với các máy bay không người lái, làm gia tăng số người chết, thường dân cũng như các binh sĩ.
Còn tại Gaza, gần đây nhất là vụ không quân Israel tấn công, tối ngày 09 tháng Tư tại thành phố Zawada, làm cho 11 người chết, trong đó 7 phụ nữ và 4 trẻ em.
Sau cùng, Đức Thánh cha nói: “Chúng ta đừng quên Myanmar, xin Chúa ban hòa bình cho dân nước này!”
Đức Thánh cha tái lập tước hiệu “Thượng phụ Tây phương”
Trong Niên giám Tòa Thánh năm 2024 mới xuất bản, Đức Thánh cha Phanxicô âm thầm tái lập tước vị của ngài là “Thượng phụ Tây phương”, một điều có thể làm cho các Thượng phụ Chính thống cũng như Đông phương hài lòng.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Tước hiệu “Thượng phụ Tây phương”, dùng cho các vị Giáo hoàng, đã bị Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI (2005-2013) bãi bỏ trong Niên giám Tòa Thánh, từ năm 2005. Điều này làm cho các Thượng phụ Đông phương khó chịu, vì các Thượng phụ Đông phương không công nhận quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng và chỉ coi ngài là một Thượng phụ “đồng hàng”, trong cuộc đối thoại đại kết, với Đức Thượng phụ Chính thống Constantinople và các Giáo hội Đông phương khác. Hiện nay, vị Thượng phụ đứng đầu Chính thống giáo là Đức Bartolomaios I, người mà Đức Thánh cha Phanxicô nhiều lần gặp gỡ và gọi là “người anh em”. Báo chí cho rằng việc Đức Thánh cha quyết định lập lại tước hiệu “Thượng phụ Tây phương” đã được thông báo cho Đức Thượng phụ Bartolomaios.
Từ năm 2020, trong Niên giám Tòa Thánh, nơi trang đầu tiên dành cho Đức Giáo hoàng, có ghi ‘Phanxicô, Giám mục Roma’, và mặt sau có ghi ngày tháng sinh trưởng và tiến chức trong Giáo hội, rồi có ghi các tước hiệu lịch sử của vị Giáo hoàng là: Vị Đại diện Chúa Kitô, người kế vị các tông đồ, Giáo chủ của Giáo hội hoàn vũ, Giáo chủ Ý, Tổng Giám mục và Tổng Giám mục của Giáo tỉnh Roma, Quốc trưởng Quốc gia Thành Vatican, Tôi tớ các tôi tớ của Thiên Chúa”.
(KAP 10-4-20240)
Thủ bản Kinh thánh bán đấu giá 3,8 triệu Mỹ kim
Một trong những thủ bản Kinh thánh cổ kính nhất thế giới được bán đấu giá, từ 3,8 triệu Mỹ kim, khoảng 3,5 triệu Euro.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đó là văn bản bằng tiếng Kopte, một trong những hình thức mới nhất của ngôn ngữ Ai Cập, được viết trên giấy cói (Papyri) hồi thế kỷ thứ III và IV, từ năm 250 đến 350, và được viết tại một trong những đan viện Kitô đầu tiên. Nhờ khí hậu khô của Ai Cập, thủ bản được bảo tồn rất tốt.
Cuộc bán đấu giá sẽ diễn ra vào ngày 11 tháng Sáu năm nay, tại tiệm bán đấu giá quốc tế Christie’s ở Luân Đôn, theo trang mạng Abouna bằng tiếng Arập.
Thủ bản dài 104 trang, gồm 52 tờ bằng giấy cói gồm trọn thư thứ nhất của thánh Phêrô tông đồ và sách Giona của Cựu ước, quen được gọi là thủ bản Crosby-Schoen, theo tên của nhà sưu tập Martin Schoen người Na Uy. Ông thủ đắc các tài liệu này hồi năm 1988 và là một trong những văn bản bằng giấy cói được gọi là Bodmer. Các văn bản này được khám phá tại Ai Cập hồi thập niên 1950 và mang tên người thủ đắc là Martin Bodmer, trong đó có nhiều tác phẩm Kitô giáo, các phần của Kinh thánh và cả những sách đời, như tập thơ Iliad của Homer. Nhiều tài liệu bằng giấy cói của Bodmer, với các văn bản Kinh thánh cổ nhất hiện nay ở Bảo tàng viện Vatican.
(KAP, CNN 9-4-2024)
Đức Thánh cha chia buồn với các nạn nhân bị lụt lội tại Kazakhstan
Đức Thánh cha Phanxicô chia buồn với các nạn nhân bị lụt lội trầm trọng nhất tại Kazakhstan.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Trận lụt nặng nề nhất từ hàng chục năm nay ở Kazachstan vì tuyết tan mau lẹ, cùng với mưa lũ xảy ra từ hơn ba ngày tại mười miền ở mạn bắc nước này và lan sang cả vùng biên giới Nga.
Vị Bộ trưởng đặc nhiệm của Kazachstan cho biết hôm Chúa nhật 07 tháng Tư vừa rồi, 12.000 người phải di tản đến những nơi tạm trú. Trong khi đó các nhân viên cứu hộ đã di chuyển được khoảng 60.000 súc vật từ các nông trại đến nơi an toàn. Nay số người di tản đã lên tới hơn 96.000 người.
Hôm thứ Bảy, ngày 06 tháng Tư, Tổng thống Kassym Tokayev nói rằng đây là thiên tai nặng nề nhất từ 80 năm nay tại Kazakhstan. Tuyên bố trên đài truyền hình ông cho biết chính phủ đang hết sức cố gắng để giảm bớt ảnh hưởng của nạn lụt này và trợ giúp bao nhiêu có thể cho dân chúng.
Về phía Nga, phát ngôn viên của chính phủ, ông Dmitry Peskov nói rằng Tổng thống Putin đã ra lệnh cho các thống đốc vùng Tymen và Kurgan ở miền Siberia chuẩn bị đối phó với mực nước ngày càng dâng cao, đưa tới lụt lội không thể tránh được.
Chính quyền Nga, hôm thứ Bảy, ngày 06 tháng Tư vừa rồi, đã ra lệnh di tản gần 4.500 người ở miền Orenburg tới thành phố Orsk. Đe dọa lụt khiến nhà máy lọc dầu ở thành phố Orsk, cách Mascơva 1.800 cây số, về hướng đông nam, phải ngưng hoạt động. Chính phủ Nga cảnh giác rằng mực nước sông lên dâng nhanh hơn nhiều kể từ 100 năm nay.
Lên tiếng trong buổi Tiếp kiến chung, sáng ngày 10 tháng Tư vừa qua, Đức Thánh cha nói rằng: “Tôi muốn chuyển đến nhân dân Kazachstan sự gần gũi tinh thần của tôi trong lúc này, do nạn lụt ồ ạt tại nhiều miền trong nước, khiến cho hàng ngàn người phải tản cư. Tôi mời gọi tất cả mọi người hãy cầu nguyện cho những người đang phải chịu thiên tai này. Và tôi nhắn nhủ rằng cả trong những lúc khó khăn, chúng ta hãy nhớ đến niềm vui vì Chúa Kitô Phục sinh”.
(Tổng hợp 10-4-2024)