Tin nổi bật
Ông Marcel Lussier, Canada trúng lô độc đắc khổng lồ và cho Ukraine phần lớn
fr.aleteia.org, Cerith Gardiner, 2022-06-25
Khi ông Marcel Lussier nghe tin ông trúng lô độc đắc khổng lồ, suy nghĩ đầu tiên của ông là giúp đỡ người khác. Nhiều người mơ thấy mình trúng số với hy vọng có thể giải quyết các vấn đề tài chính hoặc mua những thứ mà họ luôn mong muốn.
Ngày 7 tháng 6, khi ông Marcel Lussier ở Montréal, Canada biết mình trúng số tiền khổng lồ 70 triệu đô la, ông nghĩ ngay đến việc giúp đỡ người khác.
Ông Lussier, kỹ sư nghỉ hưu cho biết ông muốn dùng một phần số tiền này để giúp tái thiết Ukraine. Ông đã thảo luận chương trình tặng nhà tiền chế với một nhà thầu. Người hâm mộ lịch sử 77 tuổi cũng muốn dùng tiền để giúp những chương trình tốt ở Canada. Theo báo Montreal Gazette, trong một dự án mà ông thiết thân, “gần với trái tim ông”, ông muốn xây một trung tâm giúp đỡ người lớn mắc chứng tự kỷ ở Quebec. Ngoài là nhà từ thiện, ông Lussier còn cho thấy khía cạnh lãng mạn của ông, ông muốn đưa vợ đi du ngoạn trên du thuyền. Một chuyến đi mà hai vợ chồng phải hủy bỏ nhiều lần do đại dịch Covid-19.
Con số bí mật của thánh Gioan Bosco để trúng vé số
Ông chia sẻ trên kênh CTV News, khi ông dò kết quả trên trang web xổ số, “đó là một ngày bình thường như các ngày khác, không căng thẳng. Tôi bình tĩnh, tự nhiên. Nhưng khi nhìn những con số của mình xuất hiện, huyết áp tôi tăng cao.” Hôm nay, ông hy vọng với số tiền trúng số, ông sẽ sống lại đam mê lịch sử của ông, sẽ đi du lịch nhiều hơn và mở rộng nghiên cứu về các nhân vật lịch sử mà ông đã nghiên cứu kể từ khi nghỉ hưu.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Giáo hội Hoa Kỳ bày tỏ sự đau lòng về cái chết của ít nhất 40 người di dân trong một chiếc xe tải
Đức cha Gustavo García-Siller viết trên tài khoản Twitter: "Có khoảng 46 người di dân chết ở San Antonio. Chúng tôi dâng lời cầu nguyện lên Chúa cho linh hồn của họ. Xin Chúa thương xót họ. Họ đã hy vọng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Lạy Chúa, sau biến cố ở Uvalde và bây giờ là vụ việc này, xin giúp chúng con! Chúng con cần Ngài! Nhiều người đang đau khổ. Chúa ơi, Chúa ơi, Chúa ơi."
Theo báo chí địa phương, chiếc xe tải chở người này có thể là thuộc một hoạt động buôn người nhằm đưa những người di cư không có giấy tờ từ Mexico đến Hoa Kỳ.
Thành phố San Antonio, Texas, chỉ cách biên giới Hoa Kỳ và Mexico hơn hai giờ lái xe.
Người ta suy đoán rằng cái chết của những người di cư có thể đã xảy ra do ngạt thở khi ở bên trong xe tải. Hôm thứ Hai 27/6/2022, nhiệt độ ở San Antonio đã lên đến 39 độ C.
Ít nhất 16 người khác đi trên xe tải đã được chuyển đi để được chăm sóc y tế.
Ngoại trưởng Mexico Marcelo Ebrard cho biết quốc tịch của các nạn nhân vẫn chưa được biết.
Thảm kịch diễn ra chỉ khoảng một tháng sau vụ xả súng ở trường tiểu học gần San Antonio.
Giám mục giáo phận San Antonio cũng viết trên Twitter: "Các tín hữu Tổng giáo phận San Antonio, chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho người dân Uvalde; bây giờ, họ nói với chúng ta rằng hơn 40 người di cư, người dân của chúng ta, đã chết ở San Antonio. Có khoảng 15 người sống sót đã được đưa đến bệnh viện. Hãy nên một trong tình liên đới."
Đồng thời ngài cũng than phiền rằng "một lần nữa, sự thiếu can đảm đón nhận việc cải cách di dân đang giết hại và huỷ diệt sự sống. Chúng ta không học những bài học. Xin Thiên Chúa dạy chúng con thay đổi. Nhân loại không ngừng gặp nguy hiểm. Chúng con cầu nguyện, chúng con yêu thương, chúng con tin tưởng. Xin ban cho chúng con sức mạnh! Chúng con muốn thực thi ý Ngài." (ACI Prensa 27/06/2022)
Hồng Thủy - Vatican News
Giải Nobel Hòa bình của Nga quyên được hơn 100 triệu đô-la để giúp trẻ em Ukraine
Trong một cuộc bán đấu giá ở New York, ông Dmitry Muratov, chủ bút báo độc lập tiếng Nga Báo Mới, Novaya Gazeta đã bán giải Nobel của ông được 103,5 triệu đô la. Số tiền này sẽ được tặng cho quỹ Unicef để giúp các trẻ em Ukraine phải di tản kể từ khi chiến tranh bắt đầu.
la-croix.com, La Croix (với AFP),2022-06-22
Giải Nobel Hòa bình Dmitry Muratov tại buổi đấu giá huy chương giải thưởng danh giá của ông ở New York vào ngày 20 tháng 6 năm 2022.
Năm 2021, cùng với nhà báo Phi Luật Tân Maria Ressa, ông Dmitry Muratov đã giành được giải thưởng Nobel danh giá vì những nỗ lực của họ trong việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận. Ông vinh danh cho tờ báo Novaya Gazeta của ông và các cộng tác viên “những người đã hy sinh để bảo vệ quyền tự do ngôn luận cho mọi người”.
Tiền thu được sẽ tặng cho Quỹ Nhi đồng Quốc tế Unicef
Cuộc bán đấu giá diễn ra sôi động ở New York với những tràng pháo tay vang dội và được kích thích bởi những người đặt giá để bán được cao hơn. Nhà báo đã ghi lại những đoạn phim về màn đấu giá và không khí trong phòng.
Theo Heritage Auctions, đơn vị phụ trách bán đấu giá thì số tiền thu được, của một người ẩn danh đấu giá qua điện thoại đã trả 100 triệu frank Thụy Sỹ tương đương với 103,5 triệu đô la, sẽ được tặng cho Quỹ Nhi động Quốc tế Unicef dành giúp trẻ em Ukraine bị di tản vì chiến tranh. Khi lần trả giá cuối cùng xong, tăng hàng chục triệu đô la so với lần trước, cả khán phòng sửng sốt, kể cả ông Muratov, chủ nhân của giải Nobel. Chỉ một vài phút sau khi phiên đấu giá kết thúc, Unixef thông báo đã nhận được khoản tiền này.
Theo ông, việc ông chọn cơ quan Unicef là vì “chúng tôi biết tổ chức này không thuộc bất kỳ chính phủ nào và có thể hoạt động ở trên và không có biên giới”.
Điều tra tham nhũng và vi phạm nhân quyền
Ông Dmitry Muratov là một trong những người sáng lập tờ báo Novaya Gazeta, được thành lập vào năm 1993 sau khi Liên Xô sụp đổ. Kể từ đó, ông điều khiển tờ báo gần như liên tục. Được biết đến đặc biệt với các cuộc điều tra về tham nhũng và vi phạm nhân quyền ở Chechnya, tờ báo đã trở thành tờ báo lớn cuối cùng chỉ trích Tổng thống Vladimir Putin và các chiến thuật của ông trong và ngoài nước.
Vào cuối tháng 3, báo Novaya Gazeta thông báo họ sẽ đình chỉ các ấn phẩm trực tuyến và báo giấy ở Nga cho đến khi kết thúc cuộc can thiệp vào Ukraine, trong bối cảnh Điện Kremlin cứng rắn chống lại những tiếng nói bất đồng. Ông viết trong thư gởi độc giả: “Ở đây chúng tôi không có giải pháp nào khác. Đối với chúng tôi, và tôi biết đối với quý độc giả, đây là một quyết định khủng khiếp và đau đớn. Nhưng chúng ta phải bảo vệ lẫn nhau.”
Sáu nhà báo bị giết từ những năm 1990
Theo ông, kể từ khi Nga tấn công Ukraine, ban biên tập đã tiếp tục làm việc trong 34 ngày “trong điều kiện kiểm duyệt quân sự”. Tờ báo đã phải trả một cái giá đắt cho dấn thân của họ: kể từ những năm 1990, có 6 nhà báo hoặc cộng tác viên của họ bị giết trong đó có nữ ký giả nổi tiếng, bà Anna Politkovskạa, người nổi tiếng với những chỉ trích về cuộc chiến đẫm máu của Điện Kremlin ở Chechnya và bị ám sát ngày 7 tháng 10 năm 2006.
Ông tâm sự với hãng tin AFP tháng 3 năm 2021, rúng động trước vụ giết người này, đã có thời gian ông cân nhắc đóng cửa tờ báo mà theo ông là nguy hiểm cho tính mạng, nhưng ông đã quyết định tiếp tục khi đối diện với quyết tâm của ban biên tập của ông.
“Được lắng nghe”
Ngày thứ hai, ông ca ngợi sự kiên trì của các nhà báo, những người tạo trở ngại quan trọng cho các chính phủ và là phương tiện ngăn chặn chiến tranh. Ông nói với hãng tin AFP: “Dù đã không biết bao nhiêu lần, mỗi người trong chúng tôi đã muốn thông báo và xin từ chức, nhưng chúng tôi phải tiếp tục công việc của mình”.
Trong một đoạn video được tổ chức Heritage Auctions đăng, ông cho biết việc có được giải Nobel “mang lại cho chúng tôi cơ hội được lắng nghe”. Ông nói: “Thông điệp quan trọng nhất ngày hôm nay là mọi người hiểu có một cuộc xung đột đang xảy ra và chúng ta phải giúp đỡ những người đang đau khổ nhất, đặc biệt là các trẻ em trong các gia đình tị nạn”.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Lần đầu tiên một Kitô hữu làm Thủ tướng Singapore
Lần đầu tiên trong lịch sử, một tín hữu Kitô được chọn làm Thủ tướng của Singapore.
Đó là ông Lawrence Hoàng Tuần Tài (Wong Shyun Tsai), 49 tuổi, thuộc Giáo hội Tin lành Methodist, hay cũng gọi là Giáo hội Giám Lý, cho đến nay là Bộ trưởng tài chánh của Singapore. Ông được bổ nhiệm làm thủ tướng hồi đầu tháng Sáu này, kế nhiệm Thủ tướng Lý Hiển Long (Lee Hsien Loong).
Cộng hòa Singapore độc lập từ năm 1958, hiện có gần sáu triệu dân cư, trong đó 33% là Phật tử, 18% là Kitô hữu, trong đó có 154.000 tín hữu Công giáo họp thành Tổng giáo phận Singapore, do Đức Hồng y tân cử William Ngô Thành Tài (Goh Seng Chye) coi sóc, và 14% theo Hồi giáo, 10% theo Lão giáo và 5% theo Ấn giáo. Trên bình diện miền, Singapore được nhiều quan sát viên coi là một mẫu gương về sự sống chung hòa bình. Đây là thành quả chính sách của chính phủ Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew), Thủ tướng đầu tiên của tiểu quốc này, từ năm 1959 đến 1990, thân phụ của Thủ tướng Lý Hiền Lương. Ông rất quan tâm khích lệ và phối hợp cuộc đối thoại liên tôn trong những thập niên gần đây.
Ông Lawrence Hoàng Tuần Tài xuất thân từ một gia đình có phần khiêm hạ, du học tại Mỹ, trước khi trở thành công chức, và làm bí thư của thủ tướng từ năm 2005 đến 2008. Từ năm 2011, ông lần lượt đảm trách các nhiệm vụ của bộ văn hóa, bộ phát triển quốc gia, rồi bộ trưởng giáo dục, trước khi làm bộ trưởng tài chánh từ năm ngoài, trong thời đại dịch Covid-19. Việc chọn ông Hoàng Tuần Tài làm thủ tướng nằm trong chủ trương tiếp tục chính sách từ trước đến nay của Singapore.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Kim Phúc, “cô bé bom napalm” ra khỏi địa ngục nhờ đức tin
Phan Thị Kim Phúc, “cô bé trong ảnh” đã tìm được bình yên nội tâm nhờ vào đức tin, một bình yên nội tâm không gì lay chuyển được.
la-croix.com, Malo Tresca, 2019-10-22
Phan Thị Kim Phúc sống ở Canada, nhận giải thưởng Dresden vì hòa bình. Oliver Killig / P-A / dpa / AP
Khuôn mặt biến dạng vì tiếng hét đau đớn, cơ thể ốm yếu trần trụi kiệt sức vì chạy thục mạng, làn da rách nát từng mảng. Chung quanh cô là các em bé khác chạy trong nước mắt. Phía sau, là bóng dáng các người lính Việt Nam lững thững chạy trốn trong đám khói mờ đục. Với một bạo lực hiếm có và trong hoảng loạn, bức ảnh nổi tiếng về chiến tranh của nhiếp ảnh gia
Nick Ut, được giải thưởng Pulitzer năm 1973, đã in sâu vào ký ức của cả thế giới về nỗi đau khổ của “cô bé bom napalm”.
Như vết phỏng xăng đã in sâu trên cánh tay trái, lưng và cổ, biệt danh “cô bé bom napalm” vẫn còn dính trên da cô. Kim Phúc, tên tiếng Việt có nghĩa là ‘phúc vàng’, nửa thế kỷ sau khi đã trở thành biểu tượng của cuộc chiến tranh sát hại nhất ở Việt Nam, người phụ nữ ngoài 50 tuổi này đức tin gắn bó với cơ thể đã hòa giải với quá khứ đau thương của mình.
Nhưng màn khói bom không làm lu mờ tuổi thơ hạnh phúc của cô Trảng Bàng, mẹ cô có quán bán cháo ở chợ để nuôi sống cả gia đình. Kim Phúc kể, ngôi làng còn giữ bầu khí vườn Địa Đàng. “Trước khi bị ném nom, chúng tôi có cuộc sống tự do, không lo lắng, ở giữa cây trái và muông thú”, cô nhẹ nhàng nói trong lần đến Paris nhân dịp phát hành quyển sách Được cứu từ địa ngục ấn bản tiếng Pháp Sauvée de l’enfer.
“Đầy uất hận, tôi mất hết hy vọng, mất hết ước mơ”
Không tránh khỏi, câu chuyện nhắc đến ngày 8 tháng 6 năm 1972. Cô xúc động nhớ lại kỷ niệm của một cô bé 9 tuổi năm xưa: “Chúng tôi đang trốn trong chùa. Những người lính miền Nam bất ngờ đến bảo chúng tôi chạy đi. Sau đó tôi thấy một chiếc máy bay. Tôi điếng người, tôi không thể cử động… Tôi nhớ tiếng nổ kinh hoàng – “bùm, bùm, bùm, bùm” -: họ thả bốn quả bom, và tôi biết tôi phải chạy lần nữa.”
Quá trễ. ngọn lửa napalm đuổi theo cô từ phía sau với sức nóng 3000 độ. Đứa bé tiếp tục chạy, trước khi ngất xỉu. Nhờ những chứng từ, qua nhiều năm, Kim Phúc đã có thể gom nhặt những mảnh ghép cho sự sống sót kỳ diệu của mình: nhờ nhiếp ảnh gia Nick Út đem về bệnh viện Sàigòn, cô bị bỏ ở nhà xác vì người ta nghĩ cô không thể sống được, rồi cha mẹ tìm thấy cô và cô được chăm sóc đặc biệt… Ngoài nỗi đau thể xác không tả xiết với 14 lần phẫu thuật và ghép da nhưng không thể bớt đau, cô còn bị tra tấn về mặt tâm lý: “Đầy uất hận, tôi mất hết hy vọng, mất hết ước mơ.”
Là sinh viên, cô tìm câu trả lời cho những câu hỏi hiện sinh của mình. Đầu tiên trong đạo Cao Đài, một tôn giáo pha trộn nhiều tín ngưỡng mà cô đã được lớn lên. Năm 19 tuổi, cô vào một thư viện ở Sàigòn, cô tìm thấy quyển Thánh Kinh. Cô mở ra đọc và đó là khởi đầu cho một ước ao hoán cải cực mạnh, trong một buổi phụng vụ Tin Mừng, cô đã theo đạo tin lành. Cô xúc động tâm sự: “Cuộc sống của tôi đảo lộn từ ngày đó, Chúa đã mang lại cho tôi sức mạnh để chịu đựng mọi thứ. Chúa Giêsu đồng hành với tôi.”
Nhà hoạt động vì hòa bình
Bị nhà cầm quyền cộng sản dựng lên làm biểu tượng tuyên truyền, bị gia đình trách cứ về đức tin, bị gián đoạn việc học… Bất chấp cạm bẫy, Phan Thị Kim Phúc vẫn vững vàng. Dù gặp bao nhiêu trở ngại, với sự giúp đỡ của “Bác Đồng” – biệt danh cô đặt cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng thời đó, như “người cha của cô”, ông đã giúp cô đi Cuba học năm 1986. Trên đảo, cô kết hôn với Toàn, người miền bắc, sau đó cả hai tị nạn ở Canada.
Ở ngoại ô Toronto, nơi gia đình cô vẫn sống cho đến bây giờ, hai vợ chồng đã có hai người con trai, Thomas và Stephen. Cô tươi cười nói: “Đó là cả một phép lạ với tôi, vì các bác sĩ nói cơ thể của tôi đã bị tổn thương quá nặng, không thể sinh con được.” Phép lạ, cô còn nhiều phép lạ khác trong đời cô. Như khi Toàn, gần như chìm trong cơn nghiện rượu một thời gian, như cha mẹ cô được qua sống với cô, rồi đến lượt họ, tất cả đã theo đạo.
Cô là tín hữu tin lành baptist mộ đạo, cô công khai nói về đức tin của cô trước công chúng. Có lần cô còn nói với ‘Bác Đồng’: “Nếu bác không tin vào Chúa Giêsu, bác sẽ có rủi ro xuống hỏa ngục!” Cô viết sách “để chia sẻ với độc giả niềm vui và sự bình tâm cô đang sống bây giờ”.
Đại sứ thiện chí tại Unesco từ năm 1997, cô sáng lập quỹ The Kim Foundation International để vận động cho hòa bình. Cô đã tha thứ mọi thứ. Và bây giờ cô hòa giải với nhãn mác “cô bé bom napalm”, nguồn gốc của quá nhiều đau khổ: “Hôm nay, tôi biết ngày hôm đó, Chúa đã để dấu ấn của Ngài trên tôi”.
Nguồn cảm hứng của cô: “Chúa Kitô là sức mạnh của tôi”
“Chúa đã truyền cảm hứng cho tôi mỗi ngày, Chúa chính là sức mạnh của tôi. Mỗi lần tôi phải học cách tha thứ – và không chỉ tha thứ cho người đã gây ra đau khổ cho tôi khi còn nhỏ – nhưng trong thế giới tràn ngập chiến tranh và bạo lực này, tôi nhận ra tôi có khả năng hoàn thành quá trình này, và quá trình tiếp theo sẽ ngày càng dễ dàng hơn. Hình ảnh Chúa Giêsu phải chịu khổ hình khôn tả trên thập giá vì loài người, đã phải kêu lên với Chúa Cha – “Xin cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm!” -, đã giúp tôi rất nhiều, và Ngài tiếp tục khuyến khích tôi mỗi ngày noi theo gương Ngài.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Kim Phúc, “cô bé napalm: Phải dùng quá khứ của mình để vươn lên”
Tên của cô có thể xa lạ với chúng ta nhưng tất cả chúng ta đều biết cô bé gào khóc trong đau đớn sau trận bom napalm dội xuống chiến tranh Việt Nam. Bức ảnh làm cô bất tử ngày hôm đó bây giờ tròn năm mươi năm. Cơ hội để “cô gái nhỏ trong ảnh”, người có một quá trình phi thường tâm sự cùng trang La Croix.
la-croix.com, Marie Boeton, 2022-06-08
Kim Phúc ngày 5 tháng 5 năm 2022, trước bức ảnh chụp cô sau vụ tấn công bằng bom napalm vào làng của cô ở Việt Nam. Pier Marco Tacca / Hình ảnh Getty
La Croix: Ngày 8 tháng 6 năm 1972, đúng 50 năm trước, bà là nạn nhân của vụ ném bom của Mỹ vào Việt Nam. Bà sống “ngày kỷ niệm” này như thế nào?
Kim Phúc: Tất nhiên tôi vẫn tiếp tục mang quá khứ của tôi nhưng theo một cách khác. Khi đó tôi là đứa trẻ vô tội, trong nỗi đau đớn tột cùng về thể xác và sau đó là tình cảm. Hôm nay, tôi không còn thấy mình là nạn nhân nữa, mà là người sống sót. Tôi đã không chọn chịu đựng chiến tranh, cũng như không chọn xuất hiện trên bức ảnh nổi tiếng này – điều mà từ lâu tôi rất ghét! -, nhưng rồi tôi chọn cuộc đời tôi. Tôi đã thành vợ, thành mẹ, thành bà và là nhà hoạt động, v.v. Tôi đã cận kề cái chết ngày hôm đó, một ngày tháng 6 năm 1972, nhưng việc tôi sống sót phải mang một ý nghĩa.
Ý nghĩa nào?
Đó là làm chứng. Để làm chứng rằng, ngay cả sau những chuyện này, hòa bình vẫn có thể được tìm thấy. Tôi là người có lòng tin sâu đậm, tôi theo đạo tin lành baptiste. Với tôi, mình không thể thay đổi được gì quá khứ, nhưng mình có thể thay đổi tương lai bằng tình yêu và tha thứ.
Vì sao bà ghét bức ảnh này?
Hồi đó tôi xấu hổ vì bức ảnh này. Phơi bày trước thế giới như thế này, la hét, trần truồng… Nhưng sau đó nó liên tục đưa tôi trở về với khoảnh khắc đau đớn nhất đời tôi: khi đó tôi 9 tuổi và chỉ trong một tích tắc, tuổi thơ của tôi dừng lại. Trong bức ảnh này, tôi hét lên “Nóng quá! Nóng quá!” Nhưng không có từ ngữ nào có thể diễn tả được cảm giác của tôi. Napalm cháy ở 3.000 độ C và tôi cảm thấy như bị nấu chín. Nấu chín tới xương. Ngay sau đó, tôi bất tỉnh. Tuy nhiên, như tôi đã nói với bà, tôi đã làm hòa với bức ảnh này. Với thời gian, bằng cách nhìn nó thì cuối cùng nó là một ân phúc. Nó làm cho tôi nổi tiếng để tôi có thể cổ động cho hòa bình.
Bây giờ bà còn bị di chứng về thể chất không?
Hoàn toàn còn! Tóm tắt, một phần ba cơ thể tôi bị cháy tận xương, vì thế tôi đã phải ghép da 17 lần, tôi vẫn còn đau khi nhiệt độ thay đổi và trong một vài cử động. May mắn trong những năm gần đây, đời tôi đã hoàn toàn thay đổi nhờ điều trị bằng laser. Trước đây, trên thang điểm từ 1 đến 10, cơn đau hàng ngày của tôi là khoảng 8 hoặc 9, bây giờ nó chỉ còn 3 hoặc 4. Vì vậy, không có gì để nói. Bây giờ tôi “quản lý” được cơn đau, như họ nói! (Cười.)
Bà có nghĩ tuổi thơ của bà bị hy sinh không?
Có. Sau khi bất tỉnh, người ta đưa tôi vào bệnh viện: họ băng bó vết thương cho tôi nhưng tình trạng của tôi càng lúc càng tệ, họ đưa tôi đến nhà xác. Nạn nhân phỏng chiến tranh hiếm khi sống sót, và bỏng nặng như vậy… Sau hai, ba ngày, cha mẹ tìm ra tôi và tôi mới được chăm sóc thực sự. Y tá bắt tôi phải tắm hàng ngày để vết thương bỏng ở lưng, cổ và cánh tay trái không bị nhiễm trùng – toàn những vết thương nóng bỏng! Và những lần tắm này là địa ngục trần gian! Đau đến nỗi lần nào tôi cũng xỉu; các cô y tá đã phải giữ đầu tôi ra khỏi nước để tôi khỏi bị trượt và chết đuối. Quá đau đớn. Sau này tôi mới biết, có lúc mẹ tôi cầu nguyện cho tôi chết, như thế tôi sẽ hết đau càng sớm càng tốt.
Trong quyển sách Được cứu từ địa ngục, Sauvée de l’enfer bà xuất bản năm 2017, bà giải thích khi còn là sinh viên, bà đã muốn “từ giã cuộc đời”. Vì sao?
Vì tôi ghét đời sống của tôi! Tôi đau đớn triền miên và với những vết sẹo gớm ghiếc này, tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ có được tình yêu. Tất cả những năm này, tôi chỉ nuôi một hy vọng duy nhất: làm bác sĩ nhi khoa để đến lượt tôi, tôi có thể giúp các em bé. Nhưng một lần ở trường đại học, tôi thấy tôi bị chính quyền Việt Nam đem ra làm công cụ, họ có ý định dùng tôi cho mục đích tuyên truyền để tôi nói tất cả những xấu xa về những người đã phá hủy tuổi thơ của tôi. Tôi phải lên tiếng hết lần này qua lần khác, các can thiệp trước công chúng, các phỏng vấn trên truyền thông. Trước các nhà báo nước ngoài, những người phiên dịch bị chính phủ bắt phải sửa đổi những lời nói của tôi để phù với những gì họ mong chờ ở tôi. Sự sách nhiễu liên tục này đã làm cho tôi không thể tiếp tục học hành. Đúng, vào thời điểm đó, tôi ở dưới đáy vực thẳm. Tôi ở bờ tự tử.
Chính trong thời gian này, tình cờ bà gặp quyển Kinh thánh và điều này đã làm thay đổi đời sống của bà như thế nào?
Đó là kế hoạch của Chúa! (Cười) Năm 1982, tôi tình cờ bắt gặp quyển Kinh thánh trong một thư viện ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi đọc lướt qua và dừng lại ở Tân Ước. Ở đó, tôi khám phá Chúa Giêsu đã đau khổ vì sứ điệp ngài loan báo. Tôi cũng khám phá ra, chúng ta có thể được Chúa yêu thương vô điều kiện. Và sự xoa dịu đó trên một trái tim bầm tím như trái tim của tôi thì thật phi thường!
Sau đó tôi trở lại. Cha mẹ tôi xem đây là sự phản bội. Cha mẹ tôi theo đạo cao đài và với họ, tôi là kẻ phản bội. Và từ đó mẹ tôi không cho tôi tiền, tôi là sinh viên không một xu dính túi. Bà nói: “Con tin vào Chúa thì Chúa của con sẽ lo cho con!” Tôi nghiến răng chịu đựng nhưng tôi khóc rất nhiều. Nhưng sau đó cha mẹ tôi trở lại, nhưng 15 năm sau.
Về cơ bản, tôi có thể nói đức tin vào Tin Mừng đã giúp tôi tìm được bình an. Niềm vui cũng vậy. Tôi dần dần học được cách không sợ hãi về tương lai, về nỗi đau, về bản thân nữa! Như thể Chúa đã đặt một khoảng cách nào đó giữa tôi và nỗi đau của tôi.
Nó có giúp bà không còn sống trong quá khứ không?
Chắc chắn. Tự nhốt mình trong quá khứ là một cái bẫy. Mình có thể chết chìm trong đó, không nên nhắc đi nhắc lại mà phải dùng nó để nâng mình lên. Sau đó, thành thật mà nói, tha thứ mà Kinh thánh đã nói đến rất nhiều, tôi không chắc mình có thể làm được! (Cười.)
Có nghĩa là?
“Yêu kẻ thù của mình”, làm thế nào để nói…? Phải đặt nó lại trong bối cảnh. Vào thời điểm đó tôi có rất nhiều kẻ thù: những phi công ném bom vào làng, cán bộ nhà nước dùng tôi để tuyên truyền. Tôi chưa sẵn sàng tha thứ. Sau đó, theo thời gian, tôi hiểu mình không thể làm một mình. Chúa phải giúp, Chúa phải cho chúng ta sức mạnh. Thêm nữa, tôi hay nói với Chúa: “Chúa làm phần Chúa, con làm phần con.” Năm mươi năm mươi! (Cười.)
Bà vừa nói bà không còn sợ chính bà, có nghĩa là?
Tôi không còn sợ bề ngoài của tôi nữa, nhưng tôi phải mất nhiều năm. Trước đây, tôi luôn che cánh tay và vai để khỏi thấy các vết sẹo của tôi. Và rồi, một ngày nọ tôi bừng tĩnh, trong một buổi lễ kỷ niệm Nữ hoàng Anh mời tôi. Tôi trang điểm công phu, tôi mặc chiếc áo rất đẹp có đính ngọc trai. Vào ngày trọng đại, Nữ hoàng đến chào tôi, bà nhìn tôi từ đầu đến chân và nói: “Cô gái nhỏ trong bức ảnh, có phải là bà không? Có thật không? Nếu thực sự là bà, tôi không thể tin được.” Chắc chắn là bà biết đó là tôi, nhưng đó là cách để nói tôi đã thay đổi rất nhiều. Và tôi suýt xắn tay áo để bà thấy vết bỏng của tôi, một điều hoàn toàn không thể được theo nghi thức! Nhưng câu chuyện này đã tác động mạnh đến tôi, tôi tự nhủ: “Những vết sẹo này là của tôi, tại sao tôi phải giấu?” Kể từ đó, tôi không còn cảm thấy ngại khi tôi thích mặc áo tay ngắn. Tôi không còn quan tâm đến những gì người khác nghĩ. Tôi đã học cách buông bỏ tất cả.
Khi bắt đầu cuộc trò chuyện, bà nói đã có lúc bà nghĩ bà sẽ không tìm được tình yêu, không thể có gia đình. Sai phải không?
Đúng, tôi đã sai. Đúng là khi còn trẻ, tôi thường so sánh mình với các cô gái khác, với làn da sần sùi như da trâu của tôi, tôi nghĩ chẳng ai thích tôi. Cuối cùng tôi tim được tình yêu. Trong hơn ba mươi năm, Toàn chia sẻ cuộc sống với tôi. Anh chấp nhận hoàn toàn con người của tôi, không điều kiện.
Còn với việc làm mẹ, suốt tuổi trẻ của tôi, các bác sĩ đều nói cơ thể của tôi đã phải chịu đựng quá nhiều để có thể sinh nở, bây giờ lại phải chịu thêm khó khăn để sinh con. Và họ đã nhầm. Chúng tôi có hai đứa con trai, Thomas và Stephen, và ba đứa cháu!
Năm 1986, bà xin chính phủ Việt Nam di cư ra nước ngoài để sống ẩn danh. Sau đó, bà được định cư ở Cuba, một “chế độ thân thiện”. Nhưng dưới thời Fidel Castro với chính sách kiểm soát đè nặng, bà đã quyết định đi trốn. Làm thế nào?
Từ nhiều năm tôi đã mơ đi trốn mà không bao giờ thực hiện được. Trên đảo, mọi hành vi cử chỉ của mọi người đều bị kiểm soát rất chặt chẽ. Năm 1992, tôi kết hôn với Toàn – người đã sống ở Cuba – và không phải là không khó khăn, chúng tôi được đi hưởng tuần trăng mật. Chỉ một nơi duy nhất được đến: Mátxcơva. Đi Mátxcơva. Trên đường về Havana, máy bay dừng ở Canada để lấy thêm nhiên liệu. Và tôi nghĩ: bây giờ hoặc không bao giờ. Tôi nói với Toàn chuyện này, anh cho đây là chuyện điên rồ. Nhưng tôi không biết điều gì đã làm cho anh đồng ý – tình yêu hay hoàn toàn điên rồ – nhưng anh đã đồng ý! (Cười.) Máy bay hạ cánh, chúng tôi chỉ có vài phút trước mắt. Tôi vẫn còn nhớ mãi trong đầu tôi sân ga lúc đó, hành lang này ở cuối hành lang, mình có thể nộp đơn xin tị nạn. Tự do ở đó, trong tầm tay. Nó rất đơn giản và đồng thời…
Và đồng thời?
Chúng tôi không có gì trong tay! Chúng tôi không quen ai ở Canada, chúng tôi không có việc làm, không tiền bạc, không gì cả. Thậm chí chúng tôi không có một đồ đạc nào, va-li ở trong bụng máy bay!
Việc hội nhập có khó khăn không?
Khởi đầu thật khó khăn, rất khó. Chúng tôi rất đơn độc. Chúng tôi không có chỗ ở cố định. Lúc đầu, chúng tôi đến nhà truyền giáo cơ đốc, nơi phục vụ bữa ăn cho người nghèo. Và sau đó những vết sẹo hành hạ tôi, tôi hoàn toàn không lường trước được khí hậu ở Canada.
Khi đã định cư, bà có thể có cuộc sống bình thường. Vì sao bà chọn dấn thân, làm chứng, vận động và thành lập một tổ chức phi chính phủ ủng hộ hòa bình?
Tôi hoàn toàn không dự trù kế hoạch này. Có một chuyện đã xảy ra: năm 1995, khi tôi đang đi dạo trên đường phố Toronto với một cô bạn, một nhà báo chụp hình tôi, ngày hôm sau bức hình đăng trên trang nhất báo Toronto Sun, chú thích “cô bé trong ảnh” như người ta vẫn thường gọi tôi, hiện sống ở Canada. Sau đó tin nhắn dồn dập đến, cả một cuộc sống của tôi đảo lộn. Chung quanh tôi, ai cũng hỏi tôi: “Bà có phải là cô gái nhỏ bị phỏng vì bom napalm không?”
Vài ngày sau tôi có một cú clik. Tôi vẫn còn nhớ như in lúc này, khi tôi vừa ôm đứa con đầu lòng trên tay trong phòng khách vừa xem trang bìa Toronto Sun và tôi nghĩ: không có chuyện con trai tôi phải chịu cảnh chiến tranh như tôi đã chịu, điều này là không thể. Và, rộng hơn, không thể chấp nhận được việc có những em bé khác, như tôi, phải trả giá bằng chiến tranh. Sau đó mọi thứ diễn ra nhanh chóng. Tôi đã tham gia, mới đầu đơn giản chỉ là làm chứng. Bằng cách giải thích sự ghê tởm của chiến tranh, bằng cách ủng hộ hòa bình. Nhưng cũng có thể tha thứ và hy vọng. Chúng ta luôn phải bám lấy hy vọng.
Có phải từ đó mà bà làm hòa, như bà nói, với bức ảnh nổi tiếng năm 1972 này không?
Theo một cách nào đó, có. Dù sao lúc đó tôi nghĩ, dù tôi làm gì, dù tôi ở đâu bức ảnh này cũng đi theo tôi… và việc chống lại sự thật này là vô ích. Đúng hơn, cần phải làm gì đó.
Năm 1996, trong một lễ kỷ niệm liên quan đến Việt Nam, bà gặp người trách nhiệm các cuộc bắn phá vào làng của bà. Bà đã nói gì với chính bà?
(Im lặng.) Ông đã lặp đi lặp lại: “Tôi rất xin lỗi. Tôi thật tình xin lỗi. Thật tình xin lỗi…” Ông khóc như đứa con nít. Ông hỏi tôi có tha thứ cho ông không, và tôi nói có. Trong suốt tất cả những năm này, tôi đã cố gắng làm việc mỗi ngày với tha thứ, và lúc đó tôi đã sẵn sàng. Tôi nghĩ thậm chí tôi có thể nói tôi rất biết ơn khi có thể nói tha thứ cho người đàn ông này.
Sau cuộc gặp này, bà quyết định thành lập The Kim Foundation International. Thiên chức của nó là gì?
Là một tổ chức phi chính phủ cam kết hỗ trợ trẻ em bị thương hoặc tàn tật nghiêm trọng do hậu quả chiến tranh. Chúng tôi gây quỹ hợp tác với các tổ chức khác để mở phòng khám, trường học, thư viện. Ý tưởng là để sửa chữa các hậu quả của chiến tranh trên các em bé này, dĩ nhiên, trong chừng mực chúng tôi có thể.
Hiện nay bà là đại sứ thiện chí của UNESCO. Bà mang thông điệp gì?
Tôi cố gắng, theo kinh nghiệm của tôi, nhắc lại sự ghê tởm của chiến tranh. Bà biết đó, chúng ta thường xem hòa bình như là chuyện hiển nhiên. Không. Nó không không hiển nhiên, nó như vậy (Bà búng tay.). Hòa bình, chúng ta phải nỗ lực liên tục, liên tục, liên tục. Chúng ta hãy nhìn những gì đang xảy ra ở Ukraine. Ai có thể tưởng tượng nó đã xảy ra vài tháng trước đây?
Một số phương tiện truyền thông từ chối đăng những bức ảnh gây “sốc” nào đó. Thường là vì luân lý. Bà nghĩ sao?
Tôi có thể hiểu rngười ta có thể đặt câu hỏi, nhưng tôi nghĩ phải đăng. Mình phải cho thấy điều tồi tệ nhất để có thể chống lại nó. Một số hình ảnh nói hiệu quả hơn là lời nói. Một bức ảnh là không khoan nhượng. Tôi hiểu, để trở lại bức ảnh nhiếp ảnh gia Nick Ut chụp tôi ngày 8 tháng 6 năm 1972, bức ảnh này đã làm cho nước Mỹ đối diện với những gì họ đang làm ở Việt Nam. Và chắc chắn sau đó nó đã đẩy nhanh việc Mỹ rút quân.
Tương quan của bà với nhiếp ảnh gia như thế nào? Bà có giận vì ông chụp bức hình này không?
Không, không bao giờ. Thứ nhất, vì chính ông cũng chịu rủi ro rất rất lớn khi làm phóng viên chiến trường, ở gần chiến trường nhất: ông rất có thể đã bị bỏng nặng vì bom napalm vào ngày hôm đó. Còn đối với tôi, ông là anh hùng của báo chí. Thêm nữa, một năm sau ông nhận giải thưởng Pulitzer cho bức ảnh này và ông hoàn toàn xứng đáng. Ngày đó, ông đã cứu mạng tôi theo đúng nghĩa đen. Vì sau khi chụp ảnh, ông lấy khăn quấn tôi và đưa tôi đến bệnh viện gần nhất. Tôi nợ ông mạng sống của tôi. Chúng tôi không bao giờ mất dấu nhau; chúng tôi gặp nhau thường xuyên. Ông trở thành người bạn, một người của gia đình. Tôi gọi ông là “chú Út!” (Cười.)
Kim, chúng tôi không nghĩ bà sẽ cười nhiều như vậy khi bà trải qua một hành trình đau khổ như bà đã trải qua. Từ đâu bà được như vậy?
Có thể khi bà, cũng như tôi, đã phải chịu đựng những thử thách khủng khiếp – khủng bố của chiến tranh, lưu đày, nghèo đói, đau đớn liên tục – thì mình phải tương đối hóa nhiều chuyện. Và mình quý cuộc sống với đúng giá trị của nó.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Linh mục Roman Krat: “Sự tàn ác của người Nga là chưa từng thấy.”
Câu chuyện của linh mục Ukraine Roman Krat về việc quân Nga chiếm Kherson: “Sự tàn ác của người Nga là chưa từng thấy”
Nhà báo Elizabeth Piqué, đặc phái viên báo La Nación ở Ukraine
Cha Roman Krat, 40 tuổi, đã sống ở thành phố bị rơi vào tay quân xâm lược xác nhận người dân ở đây là nạn nhân của nạn đói, cướp bóc và bắt bớ.
lanacion.com.ar, Elizabeth Piqué, đặc phái viên báo La Nación ở Ukraine, 2022-05-12
Odessa – Hôm qua, nhân vật số hai của chính phủ do Mátxcơva bổ nhiệm ở Kherson – thành phố lớn duy nhất của Ukraine bị Vladimir Putin chiếm đóng trong hai tháng rưỡi chiến tranh-, đã tuyên bố họ sẽ xin sáp nhập vào Liên bang Nga vì “Kherson là nước Nga”, nhưng ở Odessa người dân họ không nghĩ như vậy.
“Lời xin sát nhập là hoàn toàn tuyên truyền”, linh mục Krat nói với báo La Nación, linh mục sống cả đời ở Kherson và có liên lạc với hai linh mục công giáo khác vẫn ở lại vùng này, cách đó khoảng 200 cây số về phía đông của Odessa.
Cha Roman Krat, Giáo hội công giáo Odessa – Elisabetta Piqué
Cha giải thích: “Trong những ngày đầu chiếm đóng, khi vẫn còn một số dấu hiệu của dân chủ và tự do, khi binh lính Nga chưa được lệnh đàn áp các cuộc biểu tình, đã có những biểu hiệu rõ rệt về những gì người dân Kherson muốn. Mặc dù không có vũ khí, nhưng với lòng dũng cảm cao độ, người dân đã lao ra để hét vào mặt người Nga: “Cút đi!”
Cha nói tiếp: “Người Nga muốn tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý để thành lập một nước ‘Cộng hòa Nhân dân Kherson’ nhưng gặp nhiều phản đối nên họ loại bỏ ý tưởng này.”
Người công giáo là dân tộc thiểu số ở Ukraine, một nước cộng hòa thuộc Liên xô trước đây là chính thống giáo kitô. Ở Odessa có hai nhà thờ công giáo và ba nhà nguyện, có 2.500 tín hữu công giáo; và ở Kherson, một thành phố từng có khoảng 400.000 cư dân, nay chỉ còn ít hơn một nửa.
Trong số hàng ngàn người đã tìm cách trốn khỏi Kherson có mẹ của linh mục Krat. Cha cho biết: “Ngày chiến tranh bắt đầu, tôi lái xe đi tìm bà và bây giờ mẹ tôi đang tị nạn ở Wolfsburg, Đức. Tôi được tin căn nhà của mẹ tôi vẫn còn nguyên vẹn, trong khi nhiều nhà khác đã bị lính Nga cướp phá và phá hoại một cách dã man. Cho đến hai tuần trước người dân vẫn có thể rời thành phố nhưng bây giờ thì họ gặp nhiều khó khăn, hiện thành phố đã bị phong tỏa.”
Đối với cha Krat, tuyên truyền của Nga là hoàn toàn sai sự thật, rằng hơn một nửa người dân của Kherson là thân Nga: “Nếu nó là sự thật thì đã có những người tham gia biểu tình ủng hộ người Nga. Nhưng hầu như không bao giờ có ai đi, người Nga phải đưa người từ các vùng khác đến bằng xe buýt như người ở vùng Crimea. Và chắc chắn tuyên bố sát nhập là tuyên truyền, ở Kherson không ai muốn sát nhập.” Linh mục đặt câu hỏi: “Vậy thì với luật quốc tế nào việc sáp nhập có thể được biện minh?”.
Linh mục lặp lại: “Nước Nga có một trí nhớ rất ngắn vì lúc đầu họ nói họ không muốn chiếm các vùng lãnh thổ mới, họ nói họ không phủ nhận nền độc lập của Ukraine. Và bây giờ đã hai tháng trôi qua, lời nói này đã hoàn toàn thay đổi. Trên thực tế, họ không nói chính người Nga muốn thôn tính Kherson, họ nói chính phủ Kherson đã quyết định, rằng đó không phải là một chính phủ hợp pháp, không đại diện cho bất kỳ ai. Đó là lý do vì sao việc thôn tính này hoàn toàn là tuyên truyền”.
Cách đây vài ngày, người dân khu vực Kherson, những người tị nạn ở Mykolaiv, đã tố cáo các hành động tàn bạo với báo La Nación, linh mục Krat cũng nói về một cuộc đàn áp dã man đối với các nhà hoạt động Ukraine, những người từ chối người Nga. Ngài cáo buộc: “Không phải tất cả những người bị bắt trong các cuộc biểu tình bị trấn áp bằng hơi cay và bạo lực đều được trở về nhà. Sự tàn ác của người Nga là chưa từng có và có hơn 500 người bị giam giữ và thẩm vấn, những người mất tích và có lẽ là tù nhân trong tầng hầm của cung điện thành phố.”
Một vòng hoa trên đường phố khi các binh sĩ của Quân đội Nga đứng gần xe tải của họ trong cuộc biểu tình chống lại sự chiếm đóng của Nga ở Kherson.
Thêm nữa, những người lính Nga chiếm thành phố trong những ngày đầu tiên tháng 3 bị đói. Cha cho biết: “Họ cướp phá mọi thứ có trong các cửa hàng và siêu thị làm cho người dân không có thức ăn và bắt đầu bị đói. Họ cũng cướp máy ATM, vì vậy người dân không còn tiền để mua ngoài chợ, thẻ tín dụng không còn hoạt động và điều đáng kinh ngạc nhất là, vài tuần sau, người Nga bắt đầu phân phát viện trợ nhân đạo từ các sản phẩm của Ukraine.”
“Nhưng sự thật là người Nga đã ngừng viện trợ nhân đạo bởi vì không ai ở Kherson nhận viện trợ đó. Tôi đã xem một đoạn video với các tình nguyện viên trẻ của chúng tôi, họ rất dũng cảm đề nghị mọi người giúp đỡ, thay vì để người Nga giúp… Họ nói với tôi, có những người Nga quay phim những người lính Nga tốt bụng đã giúp đỡ người dân Kherson như thế nào, và dĩ nhiên người dân Kherson chưa bao giờ xuất hiện để cộng tác với tuyên truyền của Nga.”
Tìm giải thoát
Trong hai tháng, các lực lượng quân sự của Nga từ Kherson đã cố gắng tiến về Mykolaiv, một thành phố quan trọng để sau đó chiếm Odessa. Nhưng ở đó các lực lượng Ukraine không chỉ kháng cự mà còn cố gắng tiến về Kherson để giải phóng, trong một trận chiến tiêu hao đã gieo rắc sự tàn phá và chết chóc cho các thị trấn còn lại ở giữa.
Dù tình trạng có vẻ trì trệ này, Cha Krat vẫn lạc quan: “Tôi không nghi ngờ gì, rõ ràng binh lính chúng tôi đang chuẩn bị một cuộc tấn công lớn để chiếm lại Kherson. Theo chỗ tôi biết, Kherson sẽ được giải phóng vào cuối tháng 5, đầu tháng 6. Ukraine không muốn giải phóng Kherson bằng vũ lực, mà muốn bao vây thành phố để binh lính Nga phải đầu hàng, điều này sẽ khả thi nhờ có thêm các loại vũ khí mới và tốt hơn từ nước ngoài.”
Một binh sĩ Ukraine đứng trước trường học bị trúng tên lửa của Nga ở làng Zelenyi Hai, miền nam Ukraine, giữa Kherson và Mykolaiv. BULENT KILIC – AFP
Linh mục cho biết: “Khi bắt đầu cuộc chiến, không ai ở phương Tây muốn cung cấp vũ khí cho chúng tôi vì họ nghĩ người Nga sẽ chinh phục đất nước chúng tôi trong hai ngày, họ sợ người Nga sẽ giữ tất cả vũ khí… Và họ đã sai, họ đã không tính toán, rằng tuyên truyền Nga nói lính của họ sẽ nhận hoa ở Ukraine, chuyện này hoàn toàn khác thực tế. Bây giờ phương Tây tin tưởng chúng tôi, mọi thứ đã thay đổi, tinh thần chúng tôi lên cao và người Nga sẽ không đến được Odesa và chúng tôi sẽ chiếm lại Kherson và Mariupol.”
Và đó không phải là tất cả. Ngoài những cái chết, sự tàn phá và hàng trăm ngàn người tị nạn, theo cha Krat, cuộc chiến của Putin có hai tác động tích cực. Tác động tích cực đầu tiên là người lính Nga đến Kherson thấy những lời tuyên truyền cho rằng chúng tôi sống nghèo khổ dưới chế độ đức quốc xã, chúng tôi đang chết đói, là không đúng sự thật. Họ thấy chúng tôi có mức sống cao hơn nhiều so với người Nga. Nhiều đến mức có những người lính phát hiện ra ở Kherson chúng tôi có Internet. Thậm chí có người lính còn leo lên cột ăng-ten, anh muốn lấy Internet để đem về nhà. Họ đến để giải thoát chúng tôi khỏi cái gì? Khỏi dân chủ và hạnh phúc ư?”
Tác động tích cực thứ nhì là cuộc chiến bất ngờ này ở trung tâm châu Âu đã làm thế giới đảo lộn, “người dân Ukraine đoàn kết hơn bao giờ và Ukraine-hóa Ukraine”. Mặc dù gần như tất cả chúng tôi đều nói được hai tiếng Nga và tiếng Ukraine nhưng hiện nay nhiều người, đặc biệt là người trẻ tuổi không muốn nói tiếng Nga nữa.
Cha Krat nói tiếng Ý giỏi vì đã sống ở Rôma bảy năm, cha không thấy giải pháp ngoại giao nào trong ngắn hạn: “Kết thúc thực sự nhất cho xung đột đã thành vũng lầy này với Nga, là một cái gì giống như một Afghanistan mới, hoặc là thay đổi chế độ ở Mátxcơva, hoặc bằng cách nào đó Putin phải bị loại bỏ, như một số câu nói vẫn hay nói – cuối cùng tôi không biết… Tôi không thấy lối thoát nào khác.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Mẹ của Đức Gioan-Phaolô II chọn sự sống sau khi bác sĩ khuyên bà nên phá thai
catholicnewsagency.com, Courtney Mares, 2022-05-18
Ông bà thân sinh Đức Karol Wojtyla
Hơn một trăm năm trước, ngày 18 tháng 5 bà Emilia Wojtyla đã sinh Karol, đứa con thứ nhì sau kỳ mang thai khó khăn có thể nguy hiểm đến tính mạng. Đứa trẻ đã trở thành Thánh Gioan Phaolô II.
Trong quyển sách vừa xuất bản ở Ba Lan, Milena Kindziuk kể câu chuyện mẹ của Thánh Gioan Phaolô II được khuyên nên phá thai.
Bà Kindziuk nói trong cuộc phỏng vấn với ACI Stampa: “Mẹ của ngài phải lựa chọn giữa mạng sống của mình và đứa con bà đang mang trong bụng, nhưng đức tin sâu sắc của bà không cho phép bà lựa chọn phá thai.”
Tác giả nói thêm: “Trong sâu thẳm trái tim, bà đã sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đứa con bà đang mang trong bụng.”
Quyển sách có tựa đề “Emilia và Karol Wojtyla. Cha mẹ của Thánh Gioan Phaolô II”, tác giả trích dẫn lời khai của nữ hộ sinh Tatarowa, và các báo cáo của hai người bạn của bà, Helena Szczepańska và Maria Kaczorowa, cũng như kỷ niệm của người dân ở Wadowice. Tác giả cho thấy, bà Emilia Wojtyla đã bị trầm cảm vì bác sĩ đầu tiên Jan Moskał dứt khoát bắt bà phải phá thai.
Nhưng hai ông bà Emilia và Karol Wojtyla “đã có quyết định táo bạo, dù thế nào đi nữa, đứa trẻ mà họ đã thụ thai phải được sinh ra. Vì thế họ đi tìm một bác sĩ khác.”
Cuối cùng họ gặp bác sĩ Samuel Taub, một bác sĩ do thái ở Krakow, ông dọn về Wadowice sau Thế chiến thứ nhất.
Tác giả Kindziuk nói: “Bạn bè của Emilia giữ những kỷ niệm đẹp về chuyến thăm này. Bác sĩ xác nhận có nguy cơ biến chứng trong khi sinh kể cả bà mẹ phải chết, nhưng ông không đề nghị phá thai.”
Thai kỳ của bà Emilia khó khăn, phần lớn bà phải nghỉ ngơi và không có nhiều sức. Bác sĩ khuyên bà nên thường xuyên nằm nghỉ và ăn uống thật đầy đủ.
Ngày 18 tháng 5 năm 1920, Emilia nằm trong phòng khách căn nhà ở đường Kościelna, có một nữ hộ sinh bên cạnh. Cùng lúc đó, Ông Karol Sr. và người con trai 13 tuổi Edmund của họ đi ra ngoài vào khoảng 5 giờ chiều để dự buổi cầu nguyện tại nhà thờ giáo xứ ngay trước mặt nhà, giáo dân hát kinh cầu Loreto.
Bà Emilia xin bà nữ hộ sinh mở cửa sổ để những âm thanh đầu tiên con trai bà nghe là bài hát kính Đức Mẹ. Emilia Wojtyla đã sinh con khi đang nghe hát kinh cầu Loreto.
Thánh Gioan-Phaolô II cũng đã nói với thư ký riêng Stanislaw Dziwisz của ngài rằng, ngài sinh ra đã hát kinh cầu kính Đức Mẹ. Ngài được bầu giáo hoàng vào đúng giờ sinh của ngài.
Các án phong thánh của thân sinh Đức Gioan-Phaolô II đã chính thức mở ra tại Ba Lan vào tháng năm. Karol, một trung úy trong quân đội Ba Lan, và Emilia, một giáo viên đã kết hôn ở Krakow ngày 10 tháng 2 năm 1906. Ông bà có ba người con: Edmund năm 1906, Olga, chết ngay sau khi sinh, và Karl năm 1920 .
Trước khi qua đời vì một cơn đau tim và suy gan năm 1929, Emilia là một phần thiết yếu của đức tin gia đình. Khi mẹ qua đời, Karol Wojtyla còn một tháng thì đầy 9 tuổi.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Tòa Thượng phụ Công giáo Jerusalem yêu cầu điều tra về vị một nữ ký giả bị giết
Tòa Thượng phụ Công giáo Latinh ở Jerusalem kêu gọi điều tra vụ nữ ký giả Sheeren Abu Aqleh, người Palestine, thuộc đài truyền hình Al Jazeera của Arập, bị bắn vào đầu trong khi tường thuật cuộc tấn công của quân đội Israel tại trại tị nạn Jénine, hôm 11 tháng Năm vừa qua.
Tòa Thượng phụ kêu gọi làm sáng tỏ hoàn cảnh vụ sát nhân này và đưa thủ phạm ra trước công lý.
Hôm 12 tháng Năm vừa qua, hàng chục ngàn người tại thành Ramallah, Maqataa, phủ Tổng thống Palestine, đã tưởng niệm nữ ký giả bị sát hại, bắt đầu từ Tổng thống Mahmoud Abbas của Palestine. Vụ sát hại này đã làm cho nhiều người Palestine phẫn nộ.
Nữ ký giả Shereen mặc áo giáp chống đạn có in chữ Press, Báo chí, và một mũ an toàn. Bà sinh tại Jerusalem năm 1971 và là một tín hữu Kitô. Bà là một trong những ký giả nổi tiếng của đài Al Jazeera, nổi tiếng nhất trong thế giới Arập. Đài này cũng như chính phủ Palestine và các nước Arập đã tố cáo với Liên Hiệp Quốc rằng Israel đã sát hại ký giả Shereen. Tổng thống Mahmoud Abbas tuyên bố rằng: “Chúng tôi coi chính quyền Israel chiếm đóng phải chịu trách nhiệm về cái chết của nữ ký giả”.
Cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc bày tỏ sự ngỡ ngàng vì cái chết của bà Sheeren và yêu cầu mở một cuộc điều tra độc lập.
Về phần Tòa Thượng phụ Công giáo, trong thông cáo công bố hôm 12 tháng Năm vừa qua, đã bày tỏ ngỡ ngàng trước cái chết của nữ ký giả và yêu cầu thực hiện một cuộc điều tra sâu rộng và khẩn cấp về vụ sát nhân này, đồng thời đưa những kẻ hữu trách ra trước công lý. Thảm kịch trắng trợn này nhắc nhở cho con người rằng cần tìm ra một giải pháp đúng cho cuộc xung đột Palestine, cuộc xung đột này từ chối đi vào quên lãng, mặc dù đã trải qua 74 năm rồi”.
Thông cáo của Tòa Thượng phụ cũng nói rằng: “Chúng tôi cầu nguyện cho linh hồn bà Sheeren được an nghỉ. Bà đã nêu gương về nghĩa vụ và là tiếng nói mạnh mẽ cho dân tộc của bà, và chúng tôi cầu xin Chúa ban cho em trai cũng như những người thân của bà ơn an ủi trong đức tin. Chúng tôi cầu nguyện để dân tộc Palestine tìm được con đường dẫn đến tự do và hòa bình”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Các em bé mẫu giáo Nga hóa trang thành những chiếc xe tăng cho Ngày Chiến Thắng
Bất chấp 25,000 binh sĩ Nga chết ở chiến trường Ukraine, Putin tổ chức lễ duyệt binh khổng lồ ở Mátxcơva ngày thứ hai 9 tháng 5-2022
dailymail.co.uk, Chris Jewers, 2022-05-08
Một video trên mạng xã hội cho thấy các em bé mẫu giáo Nga mặc nhiều loại trang phục quân sự trước lễ duyệt binh Ngày Chiến Thắng.
Dẫn đầu nhóm các em là em bé mặc trang phục như chiếc xe tăng Nga với biểu tượng chữ ‘Z’ màu trắng được trang trí ở mặt trước – biểu tượng chung của các lực lượng quân sự Nga hiện đang tấn công Ukraine.
Các em bé mặc quân phục và đội mũ bảo hiểm bằng da, cờ bay phất phới trên chiếc xe tăng được ngụy trang chung quanh em.
Những em khác mặc trang phục như máy bay chiến đấu, binh lính và quân y, có hai em mặc trang phục như xe tăng, được trang trí bằng những ngôi sao Liên Xô màu đỏ
Các giáo viên cũng mặc quân phục Liên Xô khi cả lớp diễn hành trong vườn trẻ. Chúng ta không biết trường mẫu giáo này ở đâu.
Chữ ‘Z’ là biểu tượng tuyên truyền của Nga, xem như điểm tập hợp để chiến đấu kể từ đầu cuộc chiến tấn công Ukraine ngày 24 tháng 2-3022. Liệu không biết người dân Nga có thấy sự giống nhau giữa biểu tượng Z và chữ vạn của đức quốc xã trang trí các tòa nhà, quân phục, quân cụ chiến đấu trong Thế chiến thứ hai hay không.
Biểu tượng này sẽ là biểu tượng nổi bật trong các cuộc duyệt binh Ngày Chiến Thắng sẽ được tổ chức trên khắp nước Nga ngày thứ hai 9 tháng 5, trong đó cuộc diễn hành lớn nhất là ở Mátxcơva.
Ước tính có tới 25.000 binh sĩ Nga thiệt mạng trong các cuộc giao tranh vì quân đội Nga vấp phải sự kháng cự quyết liệt của Ukraine.
Một số người cho rằng Putin sẽ sử dụng sự kiện này để chính thức tuyên chiến với Ukraine, hoặc ít nhất là tuyên bố một chiến thắng nhỏ hơn ở các thành phố như Mariupol – nơi các chiến binh Ukraine cuối cùng đã chống cự được với lực lượng của Putin.
Ngày Chiến Thắng 9 tháng 5 là một trong những sự kiện quốc gia quan trọng nhất của Nga – tưởng niệm hy sinh to lớn của Liên Xô trong việc đánh bại đức quốc xã. Nước Nga Xô Viết và Ukraine thuộc Liên Xô đã chịu thiệt hại nhân mạng kinh hoàng.
Ukraine vẫn chính thức đánh dấu Ngày Chiến Thắng vào ngày 9 tháng 5, nhưng vì đã hướng về châu Âu kể từ năm 2014, nên Ukraine thành lập Ngày Tưởng nhớ và Hòa giải 8 tháng 5 khi Pháp, Anh và Hoa Kỳ đánh dấu ‘Ngày Chiến thắng ở châu Âu’.
Sự đầu hàng vô điều kiện của đức quốc xã có hiệu lực lúc 11:01 tối ngày 8 tháng 5 năm 1945, tức là ngày 9 tháng 5 tại Mátxcơva. Người Nga gọi cuộc chiến này là Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
- Em Gabriel 12 tuổi quyên được gần 300.000 âu kim cho Ukraine
- Cha David ngồi toà giải tội 73 giờ trong Tuần Thánh
- Phái đoàn cảnh vệ núi Traunstein đến thăm Đức Bênêđíctô XVI
- Bà Bridget Tan, nhà hoạt động Công giáo Singapore dấn thân cho di dân
- Một linh mục thừa sai tại Nga bị trục xuất
- Lữ đoàn trưởng thủy quân lục chiến ở Mariupol xin Đức Thánh cha giúp đỡ
- Tháng Ramadan, khi linh mục và nữ tu phục vụ iftar
- Em Gutsal 14 tuổi liều mạng đi tìm thức ăn cho gia đình trong thời gian Bucha bị chiếm đóng
- Tránh được mưu toan đặt chất nổ tại nhà thờ Chính tòa Toulouse
- Cảnh sát Anh cho phép giáo sĩ tiếp cận hiện trường vụ án để cử hành Nghi thức cuối cho nạn nhân