Tin Cộng Đoàn
Tin Cộng Đoàn
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐓𝐮̛ 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐗 - 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐥𝐞̉
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝟐 𝐂𝐫 𝟑, 𝟒-𝟏𝟏; 𝐌𝐭 𝟓, 𝟏𝟕-𝟏𝟗.
Có một thành ngữ quen thuộc ta hay nghe: “Có mới nới cũ”, nghĩa là có mới rồi thì quên hay bỏ cái cũ đi. Đối với Lề Luật Chúa không như vậy, Lề Luật cũ đó là nền tảng, vì không có gì Chúa làm lại trở nên vô ích, đáp ứng cho dân lúc khởi đầu còn non trẻ. Như thánh Phao-lô nhận định về mình: "Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con" (I Cr 13,11). Đến thời Tân Ước, dân Chúa trưởng thành hơn, vì thế phải có Lề Luật thích hợp ghi vào tim, vào tâm hồn chứ không ghi vào đá như trước. Lề Luật mới kiện toàn Lề Luật cũ. Trong Bài Đọc I, khi thánh Phaolô bị chất vấn bởi những người Do-thái thủ cựu, Ngài so sánh cho họ thấy sự hoàn hảo của giao ước mới trên giao ước cũ, và kết luận: vì giao ước mới hoàn hảo hơn giao ước cũ; nên vinh quang có được do việc phục vụ giao ước mới cũng lớn hơn vinh quang có được do việc phục vụ giao ước cũ. Trong Tin Mừng, Đức Giê-su cho mọi người biết: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn."
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Vào đầu Tin Mừng, Đức Giê-su nói ngay với các môn đệ: “Anh em đừng tưởng”. Chứng tỏ giữa các môn đệ có những ngộ nhận. Họ ngộ nhận những gì? Có 2 ngộ nhận:
+ Thứ nhất, đầu chương 5 này, Đức Giê-su đã công bố Hiến Chương Nước Trời (8 mối phúc), các ông đã nghe và không khỏi thắc mắc: Ngày xưa, qua ông Mô-sê, Thiên Chúa đã ban 10 điều răn (Thập giới) ghi khắc trong 2 tấm bia đá rồi, giờ 8 mối phúc này thì sao? Phải chăng phải quên Thập giới đi? Như đã nói nhiều lần, trước khi vào Nước Trời phải đi đến cửa Nước Trời. Con đường từ trần gian đến cửa Nước Trời nhờ vào giữ Thập giới. Muốn bước qua cửa mà vào Nước Trời phải có chìa khóa mở, đó chính là 8 mối phúc.
+ Thứ hai, các môn đệ đã từng chứng kiến Thầy tranh luận với Biệt phái, Kinh sư thường về những vấn đề Luật: thanh sạch, giữ ngày Sa-bát, ăn chay, cầu nguyện và những việc lành phúc đức. Họ nghĩ Thầy đả phá Lể Luật cũ.
Đức Giê-su đã khẳng định rõ ràng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” Bãi bỏ và kiện toàn khác nhau hoàn toàn. Kiện toàn là dựa trên cái đã có sẵn nâng cấp lên tầm cao mới, tốt đẹp hơn; bãi bỏ là loại ra, hủy bỏ hoàn toàn, không giữ lại gì. Đức Giê-su chứng minh cho họ thấy: “Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” Dấu chấm, dấu phết chỉ là phụ thôi không phải là nội dung chính trong một thông điệp. Nhưng thiếu nó không ai có thể hiểu thông điệp nói gì. Nhờ chấm phết đúng chỗ, nội dung thông điệp sẽ sáng và rõ nghĩa hơn. Dù chấm phết là phụ trong Lề Luật, nhưng cũng được giữ cho đến ‘được hoàn thành’, nghĩa là cho đến ngày tận thế. Như thế, chúng ta đã rõ, Lề Luật mới không hủy bỏ Lề Luật cũ mà kiện toàn Lề Luật cũ mãi cho đến khi trời đất qua đi.
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Sau cùng, Đức Giê-su đưa ra thực hành: “Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.”
Luật Chúa như hành lang bảo vệ người lữ hành, giúp không đi trệch đường và đi đến nơi. Người Ki-tô hữu phải hãnh diện vì Chúa dùng những phương cách bảo vệ và hướng dẫn chúng ta. Bao lâu ta còn yêu mến Luật Chúa, bấy lâu ta còn đi trong đường lối của Ngài. Xin Chúa ban ơn khôn ngoan, để ta biết chọn con đường mà Chúa muốn ta đi.
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒙𝒊𝒏 𝒄𝒉𝒊𝒆̂́𝒖 𝒓𝒐̣𝒊 𝒂́𝒏𝒉 𝒔𝒂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀𝒐 𝒕𝒂̂𝒎 𝒉𝒐̂̀𝒏 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, đ𝒆̂̉ 𝒌𝒉𝒊 𝒎𝒊𝒆̣̂𝒕 𝒎𝒂̀𝒊 𝒃𝒖̛𝒐̛́𝒄 𝒕𝒉𝒆𝒐 𝒄𝒉𝒊́𝒏𝒉 𝒍𝒐̣̂, 𝒄𝒉𝒂̆̉𝒏𝒈 𝒃𝒂𝒐 𝒈𝒊𝒐̛̀ 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒑𝒉𝒂̉𝒊 𝒔𝒐̛̣ 𝒍𝒂̣𝒄 đ𝒖̛𝒐̛̀𝒏𝒈. 𝑪𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒂̂̀𝒖 𝒙𝒊𝒏 𝒏𝒉𝒐̛̀ Đ𝒖̛́𝒄 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖 𝑲𝒊-𝒕𝒐̂, 𝑪𝒐𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒗𝒂̀ 𝒍𝒂̀ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒔𝒖̛̣ 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒄𝒖̉𝒂 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐁𝐚 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐗 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐥𝐞̉
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝟐 𝐂𝐫 𝟏, 𝟏𝟖-𝟐𝟐; 𝐌𝐭 𝟓, 𝟏𝟑-𝟏𝟔.
Người ta thường nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn”. Nghĩa là, lời nói đi vào lòng người thuyết phục được người nghe, nhưng cần phải thực hành những gì mình nói càng thuyết phục người nghe hơn nữa. Người môn đệ của Chúa, đã được Rửa Tội, cần thực hành trong cuộc sống phù hợp với đức tin mình lãnh nhận. Trong bài đọc 1, thánh Phao-lô xác nhận rõ ràng Đức Kitô đã làm cho tất cả những lời hứa của Thiên Chúa thành hiện thực. Phaolô và các môn đệ của ông noi gương Đức Kitô để sống và làm chứng cho sự thật này. Trong Tin Mừng, Đức Giê-su mời gọi các tông đồ khi rao giảng cần trở nên như muối và ánh sáng cho trần gian.
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Thánh sử Mat-thêu gom các bài giảng trong 3 năm của Chúa Giê-su vào các chương 5, 6, 7. Những bài giảng này cho nhiều đối tượng khác nhau, có khi cho quần chúng, như bài giảng 8 mối phúc (đọc hôm qua); có khi cho các tông đồ, như Tin Mừng hôm nay. Chúa Giê-su đến trần gian nhằm mạc khải về Chúa Cha, nói về Nước Trời, thi ân giáng phúc cho mọi người, thực hiện cứu chuộc con người và thiết lập Hội Thánh. Ngài mong muồn Hội Thánh tiếp nối sứ vụ của Ngài, sau khi Ngài về trời, trong thế giới này. Vì thế, Ngài mong muố những người rao giảng, những tông đồ, phải trở nên muối và ánh sáng giữa trần gian.
1/ 𝑀𝑈𝑂̂̀𝐼 (𝑇𝑖̀𝑛ℎ 𝑦𝑒̂𝑢)
Công dụng của muối:
+ Muối tượng trưng cho trong sạch tinh tuyền.
+ Muối dùng để ngăn ngừa đồ ăn cho khỏi hư.
+ Muối dùng để thêm gia vị cho thực phẩm.
Nếu sứ mạng của muối là giữ cho thức ăn khỏi hư thối và đem lại mùi vị thơm ngon cho thức ăn, thì sứ mạng của Kitô hữu phải có nhiệm vụ ướp đời, ướp người khỏi những băng hoại của dối trá, hận thù, ganh tị, lường gạt, bất trung…
Ngoài sứ mạng ngăn chặn cuộc sống khỏi những băng hoại, chúng ta còn phải là tác nhân đem lại hương vị ngọt ngào cho cuộc sống bằng những cử chỉ, lời nói, việc làm thắm đợm tình thương nhằm mang đến niềm vui, an bình và hạnh phúc cho tha nhân.
Bản chất của muối là phải mặn. Muối không mặn thì không còn là muối nữa, chỉ còn cách quăng xuống đường cho người ta giẫm đạp lên. Cũng vậy, bản chất của Kitô hữu phải mang đậm chất mặn của tình yêu. Nếu ta không có tình yêu thì không còn là Kitô hữu nữa, bởi lẽ “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,7). Ngài đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Ngài, nên tự bản chất nơi ta phải mang chất tình yêu. Dĩ nhiên tình yêu ấy phải đặt trên nền tảng Tình Yêu như Chúa: “Yêu như Thầy đã yêu” (Ga 15,12).
2/ 𝐴́𝑁𝐻 𝑆𝐴́𝑁𝐺 (Đ𝑢̛́𝑐 𝑡𝑖𝑛)
Công dụng của ánh sáng:
+ Ánh sáng dùng để soi sáng
+ Ánh sáng dùng để sưởi ấm
+ Ánh sáng bảo vệ con người khỏi nguy hiểm.
Nếu bản chất của chiếc đèn là để thắp sáng, thì đức tin chính là bản chất của Kitô hữu, vì chúng ta được gọi là “tín hữu”. Nếu sứ mạng của chiếc đèn là chiếu giải ánh sáng cho mọi người nhìn thấy, thì sứ mạng của Kitô hữu là chiếu tỏa ánh sáng đức tin ấy cho mọi người nhìn thấy bằng những việc làm cụ thể, vì “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. (Gc 2,17), mà những việc làm cụ thể ấy chính là những việc lành: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được Chúa trao ban cho ánh sáng Đức tin và kêu mời chúng ta chiếu tỏ ánh sáng đó cho trần gian.
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Muối và ánh sáng là những hình ảnh quen thuộc trong đời sống. Chúa Giê-su dùng những hình ảnh này gợi ý cho những người có trách nhiệm rao giảng Nước Trời, qua đó cũng cho mọi Ki-tô hữu, thực hành lời rao giảng cụ thể bằng đời sống chứng nhân, chứ không nói suông, lý luận sắc bén, văn chương bóng bẩy. Có như thế, mới trở nên công cụ xứng đáng cho Thầy Chí Thánh và có hữu ích cho Giáo Hội và Xã hội.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần sáng soi cho chúng ta biết cách rao giảng và can đảm rao giảng Nước Trời cho mọi người trong mọi hoàn cảnh.
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖 𝑲𝒊-𝒕𝒐̂ 𝒍𝒂̀ 𝒂́𝒏𝒉 𝒔𝒂́𝒏𝒈 𝒄𝒉𝒂̂𝒏 𝒕𝒉𝒂̣̂𝒕 𝒔𝒐𝒊 𝒅𝒂̂̃𝒏 𝒄𝒉𝒐 𝒎𝒐̣𝒊 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒕𝒊̀𝒎 𝒕𝒉𝒂̂́𝒚 𝒐̛𝒏 𝒄𝒖̛́𝒖 đ𝒐̣̂. 𝑿𝒊𝒏 𝒃𝒂𝒏 𝒔𝒖̛́𝒄 𝒎𝒂̣𝒏𝒉 𝒈𝒊𝒖́𝒑 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒕𝒉𝒖̛̣𝒄 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒏 𝒄𝒐̂𝒏𝒈 𝒍𝒚́ 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒐𝒂̀ 𝒃𝒊̀𝒏𝒉, đ𝒆̂̉ 𝒅𝒐̣𝒏 đ𝒖̛𝒐̛̀𝒏𝒈 𝒄𝒉𝒐 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒏𝒈𝒖̛̣ đ𝒆̂́𝒏. 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑪𝒉𝒂, 𝒉𝒐̛̣𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒗𝒐̛́𝒊 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 𝒕𝒉𝒖𝒐̛̉ 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐇𝐚𝐢 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐗 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐥𝐞̉
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝟐 𝐂𝐫 𝟏, 𝟏-𝟕; 𝐌𝐭 𝟓, 𝟏-𝟏𝟐.
Đau khổ mà con người phải chịu là do hậu quả của tội. Thiên Chúa yêu thương con người, sống kiếp người và dùng đau khổ, qua chết trên thập giá, để cứu chuộc con người. Vì thế, khi sống trong đau khổ con người hiệp thông với đau khổ của Chúa. Như thánh Phao-lô, trong bài đọc 1, giải thích cho chúng ta biết: Tại sao con người đau khổ? Con người đau khổ, là thứ nhất, để được Thiên Chúa an ủi; thứ hai, để chúng ta biết an ủi những ai lâm cảnh gian khổ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su cho mọi người biết rằng, những cái sầu thương, đau khổ, nghèo… là những mối phúc dẫn con người vào Nước Trời ngày mai.
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Khi ấy, thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống,
các môn đệ đến gần bên. Người lên tiếng dạy họ rằng :
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng đã bị người ta bách hại như thế.”
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Có một điều người ta thắc mắc, tại sao đã có 10 điều răn (Thập giới) rồi lại thêm 8 mối phúc làm gì? Điều đơn giả dễ hiểu, Thập giới thuộc Cựu Ước, 8 mối phúc của Đức Giê-su, Tân Ước. Thập giới là lộ trình dẫn tới Nước Trời. Đến Nước Trời là một lẽ, vào trong cánh cửa Nước Trời là một lẽ khác. Vậy thì, 8 mối phúc là chìa khóa mở cánh cửa Nước Trời để bước vào. Điều này chúng ta hiểu ngay khi mừng lễ các Thánh Nam Nữ (1/11), Giáo hội cho đọc bài Tin Mừng này muốn nói rằng các Ngài là những người giữ 10 điều răn Chúa cách trung thành và thực hiện 8 mối phúc của Chúa Giê-su cách khôn ngoan. Ở đây xin dừng lại mối phúc thứ nhất.
Mối phúc đầu tiên nói về nghèo khó. Điều này đụng đến sự giàu có, của cải, tiền bạc. Ngày nay người ta quá đề cao vai trò tiền bạc, và coi nó như là chìa khóa để giải quyết tất cả, có tiền là có tất cả. Nhưng thật ra, tiền bạc không có nghĩa gì trước những giá trị tinh thần hay giá trị siêu nhiên. Người ta thường nói:
“Tiền có thể mua được mái nhà, nhưng không mua được mái ấm.
Tiền có thể mua được đồng hồ, nhưng không mua được thời gian.
Tiền có thể mua được trái tim, nhưng không mua được tình yêu.
Tiền có thể mua được thân xác, nhưng không mua được tâm hồn.
Tiền có thể mua được máu, nhưng không mua được sức khoẻ.
Tiền có thể mua được thuốc, nhưng không mua được sự sống.
Tiền có thể mua được đời này, nhưng không mua được đời sau.
Tiền có thể mua được con người, nhưng không mua được Thiên Chúa.”
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Thế giới ngày nay có biết bao lời mời gọi con người đi vào giàu sang phú quý và hưởng thụ. Nhiều cách làm ăn lợi nhuận hấp dẫn, bất chấp luật pháp, bất chấp sức khỏe người tiêu dùng. Những cơn cám dỗ mãnh liệt tấn công và thu hút nhiều người. Và rồi, các mối phúc của Chúa Giê-su mời gọi con người biết khôn ngoan dừng lại, kiểm điểm cách sống của một ki-tô hữu. Thay vì ham giàu có, hảy mặc lấy tình thần nghèo khó để sẵn sàng cho người túng thiếu; thay ham quyền thế ngồi trên, hãy sống khiêm nhường và hiền hậu; thay vì ham muốn dục vọng thỏa mãn thân xác, hãy sống cho trong sạch tâm hồn và yêu thương người.
Xin Tình Yêu Chúa luôn đốt cháy trong chúng ta, tẩy sạch đi những gì làm hoen ố trí khôn và tâm hồn; xin làm nóng lên lòng say mê Chúa đề mỗi ngày siêng năng luyện tập các nhân đức phát triển nhân cách của người con Chúa; xin làm nóng lên lòng say mê tha nhân để đồng cảm, chia sẻ nỗi khổ đau của họ, cùng nhau hướng về Nước Trời.
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒕𝒐𝒂̀𝒏 𝒏𝒂̆𝒏𝒈, 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒗𝒖̛̀𝒂 𝒃𝒖̛𝒐̛́𝒄 𝒔𝒂𝒏𝒈 𝒏𝒈𝒂̀𝒚 𝒎𝒐̛́𝒊. 𝑿𝒊𝒏 𝒈𝒊̀𝒏 𝒈𝒊𝒖̛̃ 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒉𝒐̂𝒎 𝒏𝒂𝒚 𝒌𝒉𝒐̉𝒊 𝒔𝒂 𝒑𝒉𝒂̣𝒎 𝒕𝒐̣̂𝒊, 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒖̛𝒐̛́𝒏𝒈 𝒅𝒂̂̃𝒏 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒍𝒖𝒐̂𝒏 𝒕𝒉𝒊 𝒉𝒂̀𝒏𝒉 𝒚́ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒎𝒐̣𝒊 𝒕𝒖̛ 𝒕𝒖̛𝒐̛̉𝒏𝒈, 𝒍𝒐̛̀𝒊 𝒏𝒐́𝒊, 𝒗𝒊𝒆̣̂𝒄 𝒍𝒂̀𝒎. 𝑪𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒂̂̀𝒖 𝒙𝒊𝒏 𝒏𝒉𝒐̛̀ Đ𝒖̛́𝒄 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖 𝑲𝒊-𝒕𝒐̂, 𝑪𝒐𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒗𝒂̀ 𝒍𝒂̀ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒔𝒖̛̣ 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒄𝒖̉𝒂 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT
Lại một cha nữa trong Dòng ra đi. Lần này là cha Giuse Trần Ngọc Thao. Một tuần mà ba cha về với Chúa là quá nhiều!
Thật là buồn! Tôi buồn ngây người ra! Những người tôi kính trọng, những người thương yêu tôi cứ lần lượt ra đi.
Tôi ngồi viết những dòng này mà nước mắt chảy dài. Vì tôi biết ngài là một trong những người yêu thương tôi nhất và nâng đỡ tôi nhiều nhất.
Vì trong Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, ngài là một trong những người tôi kính yêu nhất, là một trong những cha có đời sống tu hành mẫu mực nhất, có đóng góp nhiều nhất trong việc xây dựng Nhà Dòng và Giáo Hội.
Thánh Alfonso nói rằng nếu viết đúng thì tiểu sử của mỗi vị thánh phải dầy ít nhất gấp đôi.
Viết đúng là viết cả những giới hạn, yếu đuối và tội lỗi mà con người ai cũng có. Ai bảo mình không có thì đấy là người nói dối. Thánh Gioan nói vậy.
Nhưng thật ra với cha Giuse Trần Ngọc Thao, trong mắt tôi ngài có quá nhiều nhân đức và công trạng mà tôi khó có thể kể hết.
Tôi kể một số điều liên quan đến ngài, với tư cách là chứng nhân. Vì 6 năm ngài làm Bề trên Giám tỉnh của tôi, gần 7 năm làm Giám đốc Học viện và giáo sư của tôi, 3 năm làm Bề trên Cộng đoàn của tôi và 6 năm phòng tôi và phòng ngài ở cạnh nhau vì thế ngài và tôi thường trò chuyện và chia sẻ với nhau.
Ngài kể ngài sinh ra ở Bên Thôn, Thạch Thất, Sơn Tây, nhưng ông cố của ngài là thầy giáo và từ lúc ngài còn rất nhỏ cả nhà đã chuyển xuống sống ở ngõ nhà giáo, phố Nam Đồng, gần nhà thờ Thái Hà, tức ngõ 85 Nguyễn Lương Bằng nay, vì vậy ngài nói giọng Hà Nội chứ không nói giọng líu lo khó nghe của người Bến Thôn thời trước.
Ngài sinh hoạt Hùng Tâm Dũng Chí ở Nhà thờ Thái Hà và gia nhập Đệ Tử viện DCCT ở đây.
NGÀI LÀ MỘT NGƯỜI LỊCH SỰ, NHÃ NHẶN VÀ CHUẨN MỰC TRONG LỐI SỐNG NÓI CHUNG, ĐẶC BIỆT TRONG ĂN MẶC, TRONG ĂN NÓI, TRONG GIAO TIẾP VÀ ỨNG XỬ.
Không bao giờ thấy ngài mặc quần short hay maillot, lúc nào cũng áo sơ mi bỏ trong quần, đi giầy tây hoặc sandales, đầu tóc chải chuốt đâu vào đó.
Anh em trong Dòng nói vui đố ai biết đùi cha Thao thế nào! Vì ngay khi ra khỏi phòng tắm về phòng riêng thì đã thấy ngài ăn mặc chỉnh tề rồi.
Ngài ăn nói từ tốn. Chăm chú lắng nghe và tôn trọng người đối thoại. Dù không bằng lòng điều gì thì ngài cũng không bao giờ lớn tiếng.
Ngài gọi chúng tôi, bằng tên riêng hoặc bằng anh và xưng là mình hoặc tôi. Nhưng khi chúng tôi đã làm linh mục, thì ngài gọi là cha dù chúng tôi chỉ là học trò và bề dưới của ngài, chỉ đáng tuổi con cháu ngài.
Khi phải nhắc bảo ai cái gì thì ngài đắn đo, cẩn trọng và nhắc nhở cách tế nhị vô cùng.
Ngài duy trì một thời gian biểu rất khoa học. Giờ nào ngày nào với ai ở đâu việc gì đều rất rõ ràng và chính xác. Chính xác đến từng phút từng giây một.
Thí dụ, 6:30 sáng ngài đi dạy học, nhưng nếu dắt xe máy ra sân mà còn thiếu một hai phút thì ngài cứ ngồi đợi; ngài căn khi nào kim đồng hồ chỉ đúng 6: 30 thì ngài mới khởi hành.
Tôi chưa thấy ai ứng xử theo sát các phép nhân bản Tây và Ta chu đáo và toàn diện hơn ngài.
NGÀI LÀ NGƯỜI HIỀN LÀNH, BIẾT THÔNG CẢM VÀ LUÔN TÌM CÁCH GIÚP ĐỠ NGƯỜI KHÁC.
Thần sắc ngài trên thực tế trông tốt đẹp và phúc hậu hơn trên các ảnh chụp. Ngài không phải là người "ăn ảnh."
Dung nhan ngài, nhất là ánh mắt và cái miệng lúc nào cũng như đang mỉm cười với người khác. Chưa cần phải sống với ngài, chỉ cần nói chuyện với ngài ta thể cảm nhận được sự nhân từ và độ lượng của ngài.
Cha Trần Thế Phiệt, năm nay 74 tuổi, thuộc lớp học trò và bề dưới đầu tiên của ngài, có dịp nói với anh em trong Dòng rằng các anh em sinh viên thế hệ ngài gọi Cha Giuse Trần Ngọc Thao là “Trần Được Anh”, vì đến trình bày và xin phép ngài điều gì ngài cũng nói “Được anh!”
Đến năm 1999, khi Tuân em tôi mới xong Trung học và vào Sài Gòn, tôi xin phép ngài ngày Chúa nhật dẫn em đi công viên Đầm Sen chơi và trưa không ăn cơm ở nhà. Ngài bảo tôi làm bề trên bao nhiêu năm giờ mới lần đầu thấy có người xin phép đi công viên. Ngài phì cười và rồi cũng nói “Được Khải” và cho tôi 10 nghìn như tôi xin và chúc anh em tôi đi chơi bình an vui vẻ.
Những năm 90 chúng tôi ở Học viện, một số anh em vẫn còn hút thuốc. Có cha thấy anh em hút thuốc thì làm um lên. Mấy hôm sau, đến giờ gặp chúng tôi, ngài nói: “Tôi thông cảm với anh em! Nếu anh em chưa bỏ ngay được và nếu thèm thuốc quá, có hút thì cũng hút cách nào đó để tránh gây cớ vấp phạm cho người khác!”
Ngài khuyên anh em bỏ thuốc lá, nhưng ngài không lấy việc này để làm áp lực trên đời tu của chúng tôi.
Ngài không ác cảm người có ý kiến khác mình. Tôi là bề dưới của ngài, nhiều lần tôi có ý kiến khác ngài, thế nhưng ngài vẫn yêu thương và tôn trọng tôi, hơn nữa còn khích lệ tôi bằng lời nói và việc làm.
Ngài luôn cố gắng giúp đỡ chúng tôi hết sức và mong muốn cho chúng tôi trở nên hoàn thiện hơn trong mọi việc.
Bao nhiêu bài viết, bài dịch của tôi lúc còn trong Học viện cũng như khi đã làm linh mục và sống bên cạnh ngài đã được sửa chữa và góp ý. Dù chỉ là một mảnh giấy nhắn tin, nếu tôi viết sai chính tả hay ngữ pháp thì ngài cũng sửa bằng bút đỏ hết sức cẩn thận và gửi lại cho tôi.
Ngài quảng đại và thông cảm trong lối sống bao nhiêu thì khắt khe và đòi hỏi trong công việc chuyên môn bấy nhiêu. Tôi biết mình viết chẳng dễ dàng gì, nếu bây giờ tôi viết bớt sai, thì có hai người đã sửa tôi nhiều nhất là ngài và trước đó là cha Vũ Ngọc Bích ở Hà Nội.
Tôi đặc biệt cảm nhận được tình yêu thương và sự giúp đỡ của ngài trong cái chết của cậu tôi năm 1998 ở Biên Hòa. Ngài đã cùng các cha trong Dòng sắp xếp để tôi đưa cậu từ Biên Hòa về làm đám tang tại Học viện và chính ngài cử hành lễ an táng cho cậu tôi tại nhà thờ Kỳ Đồng.
NGÀI LÀ NGƯỜI CỞI MỞ, KHIÊM TỐN VÀ BIẾT LẮNG NGHE Ý KIẾN CỦA NGƯỜI KHÁC.
Ngài dạy chúng tôi, nhưng đọc bài viết của chúng tôi thấy có vấn đề gì hoặc không hiểu thì ngài ân cần trao đổi chứ không khẳng định ý của mình là tuyệt đối duy nhất đúng. Nếu thấy anh em có lý ngài tiếp thu.
Dù có bằng Tiến sĩ Thần học Kinh Thánh, biết 6 thứ tiếng, nói được tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Ý và tiếng Latin, nhưng không bao giờ trong câu chuyện ngài tỏ ra hiểu biết hơn người khác về bất cứ lãnh vực gì. Ngài không tranh giành hơn thua với ai. Chỉ chăm chú hoàn thành bổn phận và đào sâu lãnh vực chuyên môn của mình.
Tôi nhớ khi lần đầu in Sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ ngài có tặng chúng tôi mỗi người một bản. Cha Hiện lúc đấy còn đang làm thầy nói với chúng tôi câu 1Pr 1,8 các tác giả dịch và diễn đạt chưa đúng mấy vì thế đọc nghe trúc trắc khó hiểu.
Cha Hiện đã đi góp ý với ngài. Sau đó cha Hiện nói với chúng tôi rằng ngài lấy làm vui mừng và cám ơn cha Hiện nhiều lắm và trong những lần xuất bản tiếp theo, câu đó đã được sửa cho sáng sủa và rõ nghĩa như hiện nay.
Tôi nhớ hồi năm 1998, có anh em trong Học viện chia sẻ với tôi anh bị đau dạ dày thường xuyên. Sau khi nghe câu chuyện của anh tôi biết nguyên do là anh và người anh em cùng phòng sống không hợp nhau. Hồi đấy tu viện thiếu chỗ, mỗi phòng ngăn thành 2 ô và mỗi ô 2 anh em.
Thấy vậy tôi đã đến gặp ngài và đề nghị chuyển phòng tất cả các anh em cho khỏi ai bị tổn thương, vì cho đến lúc đấy, tôi thấy anh em Học viện chưa bao giờ chuyển phòng. Tôi nghĩ các anh em sống chung với nhau 6-7 năm trong một ô hay một phòng thì hợp nhau hay không hợp nhau đều không tốt. Ngay hôm sau ngài đã cho anh em bắt thăm để nhận phòng mới người mới.
Hồi năm 2000, trong tư cách là Trưởng Ban Đào tạo, ngài phải ra đề thi Việt văn cho anh em vào Tiền tập. Không biết trình độ Việt văn của các bạn trẻ ngày nay thế nào và các bạn được dạy những gì ở Trung học và Đại học, ngài đã hỏi chuyện tôi và cuối cùng xin tôi giúp ngài chọn mấy đề tài cùng đưa ra yêu cầu của mỗi đề tài để ngài cho anh em thi và làm căn cứ chấm bài cho phù hợp.
Tôi cảm phục thái độ khiêm tốn của ngài. Vì lợi ích của các anh em trẻ mới vào tu, ngài cất công tìm hiểu và hạ mình vậy! Không làm liều! Tất cả cũng vì yêu thương và tôn trọng những người trẻ đang bắt đầu bước vào đời tu trong Dòng.
NGÀI LÀ NGƯỜI SỐNG NGHÈO KHÓ, GIẢN DỊ VÀ LÀNH MẠNH
Ngài ở trong cái phòng bé tý của ngôi nhà ván gỗ và mái tôn thấp lẹ thẹ của Tu viện Mai Thôn. Chỉ đủ kê cái giường nhỏ, cái bàn nhỏ và cái tủ nhỏ. Gia sản đáng giá nhất của ngài là cái xe máy CD 90 và cái Radio.
Khi ở Kỳ Đồng, phòng ngài cạnh phòng tôi, tôi thấy lúc này ngài có thêm cái máy tính để bàn. Đồ đạc trong phòng ngài vào đầu những năm 2000 còn đơn giản hơn nhiều phòng của các anh em sinh viên Học viện.
Ngài rất chăm chút quần áo mặc, nhưng phòng ở thì rất bụi bặm. Tôi thấy mỗi năm ngài chỉ quét vài lần. Trong khi quần áo thì ngài tự giặt lấy và tự ủi lấy. Ngài không quan tâm đến tiện nghi, đến hưởng thụ. Không đam mê ăn uống, không đam mê âm nhạc, không đam mê thể thao.
Chỉ đọc báo và coi ti vi nhưng coi gọi là. Ngài thường coi ti vi vào giờ khuya, khi các anh em khác đã đi ngủ. Ngài bật ti vi lên và ngồi đối diện trong khi đọc sách vở hay viết gì đó. Có khi ngài ngủ lúc nào ngay tại ghế ngồi. Có khi có anh em đi qua tắt ti vi và tắt điện trêu ngài.
Ngài rất chăm chút sức khỏe. Tuy không tập thể dục thể thao hay làm việc tay chân nhưng ngài cũng đi bộ lần hạt ở hành lang. Cứ sáu tháng ngài đi khám tổng quát một lần xem sức khỏe thế nào, đường, mỡ men gan ra sao rồi về điều chỉnh bằng chế độ ăn uống.
Ngài đặc biệt cẩn thận trong việc ăn uống. Ăn vừa đủ. Uống vừa đủ. Rất điều độ! Không ai có thể mời ngài hay ép ngài ăn uống cái gì mà ngài xét là không tốt cho sức khỏe. Về điểm này ngài sánh được với thầy Placido ở Roma.
Chính vì vậy trong khi các cha khác cùng thế hệ bị đủ các chứng bệnh tiểu đường, huyết áp, tim mạch, bao tử…thì ngài vẫn khỏe mạnh và chẳng bị bất cứ bệnh gì. Đấy là điều tôi thấy ở ngài cho đến khi tôi rời Sài Gòn năm 2006.
NGÀI LÀ MỘT NHÀ ĐÀO TẠO MẪU MỰC
Ngài giảng dạy không hấp dẫn, độc đáo, nhưng tận tụy, rõ ràng, chính xác, dễ hiểu. Ngài cho thi cử nhẹ nhàng, nhưng nghiêm túc. Bài thi thường yêu cầu không quá 2 trang A5 hoặc 1 trang A4. Ai viết thêm cắt bỏ hoặc gạch bỏ phần dư và chỉ chấm nội dung trong phần giấy ngài đã quy định.
Không cha thầy nào trong DCCT tận tâm tận lực lo việc đào tạo anh em tu sĩ trẻ bằng ngài. Mấy chục năm ngài làm Giám đốc và làm Giáo sư Học viện DCCT. Phần lớn các linh mục DCCT tuổi từ cỡ trên dưới 75 trở xuống đều là những người được ngài hướng dẫn hoặc dạy dỗ ít nhiều.
Trong việc đào tạo, tôi thấy không khi nào ngài tỏ ra có tình cảm với một số anh em này hơn những anh em khác. Không khi nào ngài có ý theo dõi hay dò xét anh em nào. Không khi nào ngài có ác cảm với anh em nào. Ngài giao tiếp và ứng xử quân bình và công bằng với mọi kẻ thuộc quyền.
Ngài sống nghiêm khắc với chính mình nhưng nhân từ với các anh em. Nghiêm khắc và đòi hỏi trong lối sống và trong việc viết lách của các anh em, nhưng rất nhân từ và độ lượng trong việc đánh giá và quyết định cho các anh em khấn dòng hay tiến chức. Trừ việc giân lận thi cử!
Ngài nói các anh em khi đi học ở trong Dòng hay ngoài Dòng, cần trung thực. Không làm bài được thì thôi, đừng gian lận thi cử. Nếu không làm bài được ngài vẫn có cách “cứu” được anh em. Nhưng nếu ai cố tình gian lận thi cử ngài sẽ đề nghị loại ra khỏi Dòng.
Ngài không có những kế hoạch, những dự án tri thức và tâm linh này nọ, không can thiệp nhiều vào đời sống của các anh em. Không bám sát anh em khiến anh em ngạt thở hay sống mất tự nhiên. Anh nào cần đến trình bày ngài nghe và giúp đỡ. Còn gặp gỡ chính thức thì rất hiếm và rất ngắn.
Cả đời Học viện của tôi gần 7 năm, gặp gỡ chính thức chỉ 3 lần, mỗi lần không quá 5 phút. Lần khấn lại. Lần khấn trọn. Lần chịu chức phó tế. Lần nào ngài cũng hỏi mấy câu này: Khải sống trong Học viện có cảm thấy thoải mái không? Khải có cần giúp đỡ gì không? Khải có kinh nghiệm gì cụ thể về Chúa Thánh Thần không? Chỉ có vậy!
Tôi có cảm giác cái triết lý giáo dục của ngài chỉ cốt ở hai điểm này. Một là để cho Thánh Thần hướng dẫn và thánh hóa anh em. Hai là dùng tình thương và gương mẫu để các học trò tin tưởng, yêu mến và tự giác sống theo.
Lão Tử nói bậc thánh nhân không làm gì mà việc gì cũng thành. Cái lối đào tạo của ngài có lẽ là như là vậy. Ngài không can thiệp nhiều, không cậy sức cậy tài để ép bề dưới theo ý mình, nhưng kết quả là các anh em sống bình an, hiệp nhất, có ý thức dấn thân học tập và phục vụ rất cao.
NGÀI LÀ MỘT TRONG NHỮNG NGƯỜI LÀM VIỆC TRÍ THỨC CÁCH MẪU MỰC VÀ CHUYÊN CẦN.
Ngài học Thần học Kinh Thánh và ngoài việc bổn phận trong tư cách là Bề trên và Giám đốc, thì thời gian và tâm sức còn lại ngài đặt vào việc nghiên cứu, dịch thuật và giảng dạy Kinh Thánh.
Ngày nay người ta coi trọng và đề cao người biết làm việc chung theo đội nhóm. Ngài là người như vậy. Ngài làm việc chung theo nhóm rất giỏi. Cái điểm yếu chung của người Việt trong Đạo ngoài đời đối với ngài lại là điểm mạnh.
Ngài đã gia nhập Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ từ năm 1972 và ngài coi đó như gia đình thứ hai của mình sau Nhà Dòng. Ngài là một trong những thành viên kỳ cựu nhất của Nhóm trong suốt gần 50 năm và vì là ngời hiền hòa, dễ thương và làm việc nghiêm túc nên trong nhiều thập niên ngài được bầu làm Trưởng Nhóm.
Tôi đã từng nói rằng Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, một nhóm các nhà trí thức Công giáo tồn tại lâu nhất, làm việc khoa học nhất, tạo ra những sản phẩm tri thức có phấm chất tốt nhất trong lãnh vực Kinh Thánh và Phụng Vụ, có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong Giáo Hội Việt Nam.
Nhóm đã in và phổ biến hơn 2 triệu bản Tân ước, hàng trăm nghìn bản Kinh Thánh trọn bộ, hàng chục nghìn bản Sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ, hàng nghìn bản Sách Lễ Roma, các nghi thức Phụng Vụ, các sách chú giải Kinh Thánh... Đấy là chưa kể bản văn Kinh Thánh kèm theo chú giải được hàng trăm nghìn người sử dụng online.
Ngày nay, những ai có đọc Kinh Thánh và đọc Kinh Phụng Vụ và tham dự Thánh Lễ bằng tiếng Việt, những ai học Kinh Thánh, đều đang ít nhiều hưởng nhờ thành quả lao động trí thức của Nhóm CGKPV mà trong đó có phần đóng góp quan trọng của Cha Giuse Trần Ngọc Thao.
Cha Nguyễn Ngọc Tỉnh thường nói “Nhóm chúng tôi là một đội banh” và tôi tin cũng như các thành viên khác, Cha Giuse Trần Ngọc Thao là một cầu thủ kỳ cựu và quan trọng. Ngài là Đội trưởng của đội banh kia trong nhiều thập niên .
NGÀI LÀ VỊ BỀ TRÊN GIÁM TỈNH KHÔN NGOAN ĐÃ LÀNH ĐẠO TỈNH DÒNG TRONG GIAI ĐOẠN KHÓ KHĂN NHẤT
Ngài là một trong những Bề trên Giám tỉnh lâu nhất trong DCCT Việt Nam.
Ngài làm 4 khóa liên tiếp, từ năm 1981-1993. Đấy là một trong những giai đoạn khó khăn nhất của Nhà Dòng và Giáo Hội Việt Nam. Vì những năm cuối thập niên 1970 Miền Nam còn thừa hưởng được một chút tự do rơi rớt lại từ thời VNCH mà nhà cầm quyền cộng sản chưa kịp tước đoạt.
Các tu viện của Dòng bị nhà cầm quyền cướp đoạt nhà cửa, trường học, thư viện, đất đai, nhà máy, cơ sở chăn nuôi…Cướp một phần hay toàn bộ. Nhiều anh em bị bắt đi tù. Rất nhiều anh em bị mất chỗ ở khi tu viện bị giải tán và phải về sống với gia đình và phải tự lạo động kiếm sống.
Bản thân ngài, dù là Bề trên Giám tỉnh cũng không được sống trong Tu viện Kỳ Đồng mà vẫn phải ở trong căn nhà lụp xụp bên Tu viện Mai Thôn. Mãi đến năm 1993 khi hết làm Giám Tỉnh và nhà nước bớt căng thẳng chuyện hộ khẩu, ngài mới được chuyển về tu viện Kỳ Đồng.
Nhà cầm quyền bấy giờ còn cấm các anh em ở các tỉnh về Sài Gòn tĩnh tâm chung hằng năm. Tệ nhất là cấm thuyên chuyển, cấm bổ nhiệm, cấm nhận người đào tạo, cấm khấn dòng, cấm chịu chức linh mục, cấm dạy thần học…
Thiếu thốn, khó khăn, nguy hiểm mọi đàng. Dẫn dắt một Tỉnh Dòng mà thời điểm bấy giờ là dòng tu duy nhất hiện diện cả ba miền Bắc-Trung-Nam và duy trì được tinh thần tu trì của các anh em trong giai đoạn khắc nghiệt ấy quả thật không đơn giản. Thế mà ngài đã làm được!
Ngài đã giúp được các anh em gắn bó hiệp nhất với nhau để cùng nhau phục vụ Chúa nơi người nghèo. DCCT ở Việt Nam hiếm có giai đoạn nào anh em đoàn kết và hiệp nhất như thời kỳ 12 năm ngài làm Bề trên Giám Tỉnh.
Ngài đã thành công trong việc tìm kiếm một mô hình thích hợp để cổ vũ và nâng đỡ việc tu, việc học và việc phục vụ của từng anh em trẻ đang thuộc diện đào tạo mà không được sống trong tu viện.
Ngài đã đưa ra các quyết định bí mật nhận ơn gọi, bí mật mở Tập viện, bí mật khấn Dòng, bí mật cho các anh em học triết học và thần học với các giáo sư riêng lẻ, bí mật cho anh em truyền chức linh mục, bất chấm lệnh cấm cản và trừng phạt của nhà cầm quyền.
Năm 1990 ngài còn quyết định mở Học viện tập trung tại Tu viện Kỳ Đồng khi ngài vừa là Bề trên Giám tỉnh, vừa là giám đốc Học viện trong khi cha Vũ Khởi Phụng làm Giám học.
Vì chỉ có như vậy các anh em trẻ mới có thể có cơ may được đào tạo bài bản và mau chóng. Từ đó ban ngày anh em đến Tu viện học tập. Tối ra ngoài nhà giáo dân ngủ để tránh sự khám xét, bắt bớ của nhà cầm quyền.
Cũng từ năm 1990, ngài đã quyết định cho các anh em đã học xong thần học được chịu chức linh mục bí mật nếu muốn. Trong số đó Cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích và Vinhsơn Phạm Trung Thành là những người đầu tiên và cả hai về sau đều đã được bầu làm Bề trên Giám tỉnh như ngài.
Tôi tin rằng nếu không có đường hướng khôn ngoan và quyết định can đảm của ngài vào thời điểm đó thì DCCT đã không có nhiều ơn gọi như hôm nay, bản thân tôi chưa chắc đã được nhận vào dự tu năm 1987 ở Tu viện Thái Hà và năm 1989 ở Tu viện Kỳ Đồng.
Tôi tin ngài là một trong những vị Bề trên Giám tỉnh tuyệt vời nhất của chúng tôi. Ngài là một trong vài người đã góp đắc lực nhất và to lớn nhất trong việc làm nên một DCCT Việt Nam như chúng ta thấy hôm nay.
***
Còn nhiều chuyện để nói về ngài nhưng tôi tạm dừng ở đây.
Trong mắt tôi ngài là một con người nhân bản, một tu sĩ mẫu mực, một thừa sai nhiệt thành, một trí thức cần mẫn, một bề trên khôn ngoan , can đảm và đầy lòng bao dung.
Ngài đã theo sát Chúa Kitô và là một hình ảnh sống động của Chúa Kitô. Ngài đã đóng góp hết mình trong việc xây dựng Giáo Hội và loan báo Tin mừng cho người nghèo, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn.
Hồi nhỏ khi còn sống ở gia đình, tôi thường nghe bố mẹ hỏi các cặp vợ chồng trẻ có “tin mừng”chưa, nghĩa là đã có thai chưa. Khi ai sinh nở mẹ tròn con vuông thì bố mẹ tôi cũng nói nhà đấy có “tin mừng” rồi.
Dần dần tôi hiểu bên cạnh Tin mừng tuyệt đối là Chúa Kitô, là lời rao giảng của Ngài, thì “tin mừng” còn là sự ra đời của một con người. Tuy nhiên, mỗi người có thật sự là "tin mừng" cho thế giới hay không, chỉ khi sống và nhất là khi hoàn tất cuộc đời mới biết được.
Chiêm ngưỡng cuộc đời của Cha Giuse Trần Ngọc Thao, tôi thấy ngài thực sự là tin mừng cho tôi, cho các anh em trong DCCT Việt Nam chúng tôi và trong chừng mực nào đó nhiều người Việt Nam.
Tôi tin ngài là quà tặng, là ân huệ Chúa ban cho tôi, cho DCCT và cho Giáo hội Việt Nam.
Xin tạm biệt ngài. Xin Chúa cho ngài được nghỉ yên trong Chúa và mong ngày được gặp lại ngài trong Nước Trời.
Roma 05.06.2021
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT.CHA GIUSE TRẦN NGỌC THAO TRONG MẮT TÔI
Lại một cha nữa trong Dòng ra đi. Lần này là cha Giuse Trần Ngọc Thao. Một tuần mà ba cha về với Chúa là quá nhiều!
Thật là buồn! Tôi buồn ngây người ra! Những người tôi kính trọng, những người thương yêu tôi cứ lần lượt ra đi.
Tôi ngồi viết những dòng này mà nước mắt chảy dài. Vì tôi biết ngài là một trong những người yêu thương tôi nhất và nâng đỡ tôi nhiều nhất.
Vì trong Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, ngài là một trong những người tôi kính yêu nhất, là một trong những cha có đời sống tu hành mẫu mực nhất, có đóng góp nhiều nhất trong việc xây dựng Nhà Dòng và Giáo Hội.
Thánh Alfonso nói rằng nếu viết đúng thì tiểu sử của mỗi vị thánh phải dầy ít nhất gấp đôi.
Viết đúng là viết cả những giới hạn, yếu đuối và tội lỗi mà con người ai cũng có. Ai bảo mình không có thì đấy là người nói dối. Thánh Gioan nói vậy.
Nhưng thật ra với cha Giuse Trần Ngọc Thao, trong mắt tôi ngài có quá nhiều nhân đức và công trạng mà tôi khó có thể kể hết.
Tôi kể một số điều liên quan đến ngài, với tư cách là chứng nhân. Vì 6 năm ngài làm Bề trên Giám tỉnh của tôi, gần 7 năm làm Giám đốc Học viện và giáo sư của tôi, 3 năm làm Bề trên Cộng đoàn của tôi và 6 năm phòng tôi và phòng ngài ở cạnh nhau vì thế ngài và tôi thường trò chuyện và chia sẻ với nhau.
Ngài kể ngài sinh ra ở Bên Thôn, Thạch Thất, Sơn Tây, nhưng ông cố của ngài là thầy giáo và từ lúc ngài còn rất nhỏ cả nhà đã chuyển xuống sống ở ngõ nhà giáo, phố Nam Đồng, gần nhà thờ Thái Hà, tức ngõ 85 Nguyễn Lương Bằng nay, vì vậy ngài nói giọng Hà Nội chứ không nói giọng líu lo khó nghe của người Bến Thôn thời trước.
Ngài sinh hoạt Hùng Tâm Dũng Chí ở Nhà thờ Thái Hà và gia nhập Đệ Tử viện DCCT ở đây.
NGÀI LÀ MỘT NGƯỜI LỊCH SỰ, NHÃ NHẶN VÀ CHUẨN MỰC TRONG LỐI SỐNG NÓI CHUNG, ĐẶC BIỆT TRONG ĂN MẶC, TRONG ĂN NÓI, TRONG GIAO TIẾP VÀ ỨNG XỬ.
Không bao giờ thấy ngài mặc quần short hay maillot, lúc nào cũng áo sơ mi bỏ trong quần, đi giầy tây hoặc sandales, đầu tóc chải chuốt đâu vào đó.
Anh em trong Dòng nói vui đố ai biết đùi cha Thao thế nào! Vì ngay khi ra khỏi phòng tắm về phòng riêng thì đã thấy ngài ăn mặc chỉnh tề rồi.
Ngài ăn nói từ tốn. Chăm chú lắng nghe và tôn trọng người đối thoại. Dù không bằng lòng điều gì thì ngài cũng không bao giờ lớn tiếng.
Ngài gọi chúng tôi, bằng tên riêng hoặc bằng anh và xưng là mình hoặc tôi. Nhưng khi chúng tôi đã làm linh mục, thì ngài gọi là cha dù chúng tôi chỉ là học trò và bề dưới của ngài, chỉ đáng tuổi con cháu ngài.
Khi phải nhắc bảo ai cái gì thì ngài đắn đo, cẩn trọng và nhắc nhở cách tế nhị vô cùng.
Ngài duy trì một thời gian biểu rất khoa học. Giờ nào ngày nào với ai ở đâu việc gì đều rất rõ ràng và chính xác. Chính xác đến từng phút từng giây một.
Thí dụ, 6:30 sáng ngài đi dạy học, nhưng nếu dắt xe máy ra sân mà còn thiếu một hai phút thì ngài cứ ngồi đợi; ngài căn khi nào kim đồng hồ chỉ đúng 6: 30 thì ngài mới khởi hành.
Tôi chưa thấy ai ứng xử theo sát các phép nhân bản Tây và Ta chu đáo và toàn diện hơn ngài.
NGÀI LÀ NGƯỜI HIỀN LÀNH, BIẾT THÔNG CẢM VÀ LUÔN TÌM CÁCH GIÚP ĐỠ NGƯỜI KHÁC.
Thần sắc ngài trên thực tế trông tốt đẹp và phúc hậu hơn trên các ảnh chụp. Ngài không phải là người "ăn ảnh."
Dung nhan ngài, nhất là ánh mắt và cái miệng lúc nào cũng như đang mỉm cười với người khác. Chưa cần phải sống với ngài, chỉ cần nói chuyện với ngài ta thể cảm nhận được sự nhân từ và độ lượng của ngài.
Cha Trần Thế Phiệt, năm nay 74 tuổi, thuộc lớp học trò và bề dưới đầu tiên của ngài, có dịp nói với anh em trong Dòng rằng các anh em sinh viên thế hệ ngài gọi Cha Giuse Trần Ngọc Thao là “Trần Được Anh”, vì đến trình bày và xin phép ngài điều gì ngài cũng nói “Được anh!”
Đến năm 1999, khi Tuân em tôi mới xong Trung học và vào Sài Gòn, tôi xin phép ngài ngày Chúa nhật dẫn em đi công viên Đầm Sen chơi và trưa không ăn cơm ở nhà. Ngài bảo tôi làm bề trên bao nhiêu năm giờ mới lần đầu thấy có người xin phép đi công viên. Ngài phì cười và rồi cũng nói “Được Khải” và cho tôi 10 nghìn như tôi xin và chúc anh em tôi đi chơi bình an vui vẻ.
Những năm 90 chúng tôi ở Học viện, một số anh em vẫn còn hút thuốc. Có cha thấy anh em hút thuốc thì làm um lên. Mấy hôm sau, đến giờ gặp chúng tôi, ngài nói: “Tôi thông cảm với anh em! Nếu anh em chưa bỏ ngay được và nếu thèm thuốc quá, có hút thì cũng hút cách nào đó để tránh gây cớ vấp phạm cho người khác!”
Ngài khuyên anh em bỏ thuốc lá, nhưng ngài không lấy việc này để làm áp lực trên đời tu của chúng tôi.
Ngài không ác cảm người có ý kiến khác mình. Tôi là bề dưới của ngài, nhiều lần tôi có ý kiến khác ngài, thế nhưng ngài vẫn yêu thương và tôn trọng tôi, hơn nữa còn khích lệ tôi bằng lời nói và việc làm.
Ngài luôn cố gắng giúp đỡ chúng tôi hết sức và mong muốn cho chúng tôi trở nên hoàn thiện hơn trong mọi việc.
Bao nhiêu bài viết, bài dịch của tôi lúc còn trong Học viện cũng như khi đã làm linh mục và sống bên cạnh ngài đã được sửa chữa và góp ý. Dù chỉ là một mảnh giấy nhắn tin, nếu tôi viết sai chính tả hay ngữ pháp thì ngài cũng sửa bằng bút đỏ hết sức cẩn thận và gửi lại cho tôi.
Ngài quảng đại và thông cảm trong lối sống bao nhiêu thì khắt khe và đòi hỏi trong công việc chuyên môn bấy nhiêu. Tôi biết mình viết chẳng dễ dàng gì, nếu bây giờ tôi viết bớt sai, thì có hai người đã sửa tôi nhiều nhất là ngài và trước đó là cha Vũ Ngọc Bích ở Hà Nội.
Tôi đặc biệt cảm nhận được tình yêu thương và sự giúp đỡ của ngài trong cái chết của cậu tôi năm 1998 ở Biên Hòa. Ngài đã cùng các cha trong Dòng sắp xếp để tôi đưa cậu từ Biên Hòa về làm đám tang tại Học viện và chính ngài cử hành lễ an táng cho cậu tôi tại nhà thờ Kỳ Đồng.
NGÀI LÀ NGƯỜI CỞI MỞ, KHIÊM TỐN VÀ BIẾT LẮNG NGHE Ý KIẾN CỦA NGƯỜI KHÁC.
Ngài dạy chúng tôi, nhưng đọc bài viết của chúng tôi thấy có vấn đề gì hoặc không hiểu thì ngài ân cần trao đổi chứ không khẳng định ý của mình là tuyệt đối duy nhất đúng. Nếu thấy anh em có lý ngài tiếp thu.
Dù có bằng Tiến sĩ Thần học Kinh Thánh, biết 6 thứ tiếng, nói được tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Ý và tiếng Latin, nhưng không bao giờ trong câu chuyện ngài tỏ ra hiểu biết hơn người khác về bất cứ lãnh vực gì. Ngài không tranh giành hơn thua với ai. Chỉ chăm chú hoàn thành bổn phận và đào sâu lãnh vực chuyên môn của mình.
Tôi nhớ khi lần đầu in Sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ ngài có tặng chúng tôi mỗi người một bản. Cha Hiện lúc đấy còn đang làm thầy nói với chúng tôi câu 1Pr 1,8 các tác giả dịch và diễn đạt chưa đúng mấy vì thế đọc nghe trúc trắc khó hiểu.
Cha Hiện đã đi góp ý với ngài. Sau đó cha Hiện nói với chúng tôi rằng ngài lấy làm vui mừng và cám ơn cha Hiện nhiều lắm và trong những lần xuất bản tiếp theo, câu đó đã được sửa cho sáng sủa và rõ nghĩa như hiện nay.
Tôi nhớ hồi năm 1998, có anh em trong Học viện chia sẻ với tôi anh bị đau dạ dày thường xuyên. Sau khi nghe câu chuyện của anh tôi biết nguyên do là anh và người anh em cùng phòng sống không hợp nhau. Hồi đấy tu viện thiếu chỗ, mỗi phòng ngăn thành 2 ô và mỗi ô 2 anh em.
Thấy vậy tôi đã đến gặp ngài và đề nghị chuyển phòng tất cả các anh em cho khỏi ai bị tổn thương, vì cho đến lúc đấy, tôi thấy anh em Học viện chưa bao giờ chuyển phòng. Tôi nghĩ các anh em sống chung với nhau 6-7 năm trong một ô hay một phòng thì hợp nhau hay không hợp nhau đều không tốt. Ngay hôm sau ngài đã cho anh em bắt thăm để nhận phòng mới người mới.
Hồi năm 2000, trong tư cách là Trưởng Ban Đào tạo, ngài phải ra đề thi Việt văn cho anh em vào Tiền tập. Không biết trình độ Việt văn của các bạn trẻ ngày nay thế nào và các bạn được dạy những gì ở Trung học và Đại học, ngài đã hỏi chuyện tôi và cuối cùng xin tôi giúp ngài chọn mấy đề tài cùng đưa ra yêu cầu của mỗi đề tài để ngài cho anh em thi và làm căn cứ chấm bài cho phù hợp.
Tôi cảm phục thái độ khiêm tốn của ngài. Vì lợi ích của các anh em trẻ mới vào tu, ngài cất công tìm hiểu và hạ mình vậy! Không làm liều! Tất cả cũng vì yêu thương và tôn trọng những người trẻ đang bắt đầu bước vào đời tu trong Dòng.
NGÀI LÀ NGƯỜI SỐNG NGHÈO KHÓ, GIẢN DỊ VÀ LÀNH MẠNH
Ngài ở trong cái phòng bé tý của ngôi nhà ván gỗ và mái tôn thấp lẹ thẹ của Tu viện Mai Thôn. Chỉ đủ kê cái giường nhỏ, cái bàn nhỏ và cái tủ nhỏ. Gia sản đáng giá nhất của ngài là cái xe máy CD 90 và cái Radio.
Khi ở Kỳ Đồng, phòng ngài cạnh phòng tôi, tôi thấy lúc này ngài có thêm cái máy tính để bàn. Đồ đạc trong phòng ngài vào đầu những năm 2000 còn đơn giản hơn nhiều phòng của các anh em sinh viên Học viện.
Ngài rất chăm chút quần áo mặc, nhưng phòng ở thì rất bụi bặm. Tôi thấy mỗi năm ngài chỉ quét vài lần. Trong khi quần áo thì ngài tự giặt lấy và tự ủi lấy. Ngài không quan tâm đến tiện nghi, đến hưởng thụ. Không đam mê ăn uống, không đam mê âm nhạc, không đam mê thể thao.
Chỉ đọc báo và coi ti vi nhưng coi gọi là. Ngài thường coi ti vi vào giờ khuya, khi các anh em khác đã đi ngủ. Ngài bật ti vi lên và ngồi đối diện trong khi đọc sách vở hay viết gì đó. Có khi ngài ngủ lúc nào ngay tại ghế ngồi. Có khi có anh em đi qua tắt ti vi và tắt điện trêu ngài.
Ngài rất chăm chút sức khỏe. Tuy không tập thể dục thể thao hay làm việc tay chân nhưng ngài cũng đi bộ lần hạt ở hành lang. Cứ sáu tháng ngài đi khám tổng quát một lần xem sức khỏe thế nào, đường, mỡ men gan ra sao rồi về điều chỉnh bằng chế độ ăn uống.
Ngài đặc biệt cẩn thận trong việc ăn uống. Ăn vừa đủ. Uống vừa đủ. Rất điều độ! Không ai có thể mời ngài hay ép ngài ăn uống cái gì mà ngài xét là không tốt cho sức khỏe. Về điểm này ngài sánh được với thầy Placido ở Roma.
Chính vì vậy trong khi các cha khác cùng thế hệ bị đủ các chứng bệnh tiểu đường, huyết áp, tim mạch, bao tử…thì ngài vẫn khỏe mạnh và chẳng bị bất cứ bệnh gì. Đấy là điều tôi thấy ở ngài cho đến khi tôi rời Sài Gòn năm 2006.
NGÀI LÀ MỘT NHÀ ĐÀO TẠO MẪU MỰC
Ngài giảng dạy không hấp dẫn, độc đáo, nhưng tận tụy, rõ ràng, chính xác, dễ hiểu. Ngài cho thi cử nhẹ nhàng, nhưng nghiêm túc. Bài thi thường yêu cầu không quá 2 trang A5 hoặc 1 trang A4. Ai viết thêm cắt bỏ hoặc gạch bỏ phần dư và chỉ chấm nội dung trong phần giấy ngài đã quy định.
Không cha thầy nào trong DCCT tận tâm tận lực lo việc đào tạo anh em tu sĩ trẻ bằng ngài. Mấy chục năm ngài làm Giám đốc và làm Giáo sư Học viện DCCT. Phần lớn các linh mục DCCT tuổi từ cỡ trên dưới 75 trở xuống đều là những người được ngài hướng dẫn hoặc dạy dỗ ít nhiều.
Trong việc đào tạo, tôi thấy không khi nào ngài tỏ ra có tình cảm với một số anh em này hơn những anh em khác. Không khi nào ngài có ý theo dõi hay dò xét anh em nào. Không khi nào ngài có ác cảm với anh em nào. Ngài giao tiếp và ứng xử quân bình và công bằng với mọi kẻ thuộc quyền.
Ngài sống nghiêm khắc với chính mình nhưng nhân từ với các anh em. Nghiêm khắc và đòi hỏi trong lối sống và trong việc viết lách của các anh em, nhưng rất nhân từ và độ lượng trong việc đánh giá và quyết định cho các anh em khấn dòng hay tiến chức. Trừ việc giân lận thi cử!
Ngài nói các anh em khi đi học ở trong Dòng hay ngoài Dòng, cần trung thực. Không làm bài được thì thôi, đừng gian lận thi cử. Nếu không làm bài được ngài vẫn có cách “cứu” được anh em. Nhưng nếu ai cố tình gian lận thi cử ngài sẽ đề nghị loại ra khỏi Dòng.
Ngài không có những kế hoạch, những dự án tri thức và tâm linh này nọ, không can thiệp nhiều vào đời sống của các anh em. Không bám sát anh em khiến anh em ngạt thở hay sống mất tự nhiên. Anh nào cần đến trình bày ngài nghe và giúp đỡ. Còn gặp gỡ chính thức thì rất hiếm và rất ngắn.
Cả đời Học viện của tôi gần 7 năm, gặp gỡ chính thức chỉ 3 lần, mỗi lần không quá 5 phút. Lần khấn lại. Lần khấn trọn. Lần chịu chức phó tế. Lần nào ngài cũng hỏi mấy câu này: Khải sống trong Học viện có cảm thấy thoải mái không? Khải có cần giúp đỡ gì không? Khải có kinh nghiệm gì cụ thể về Chúa Thánh Thần không? Chỉ có vậy!
Tôi có cảm giác cái triết lý giáo dục của ngài chỉ cốt ở hai điểm này. Một là để cho Thánh Thần hướng dẫn và thánh hóa anh em. Hai là dùng tình thương và gương mẫu để các học trò tin tưởng, yêu mến và tự giác sống theo.
Lão Tử nói bậc thánh nhân không làm gì mà việc gì cũng thành. Cái lối đào tạo của ngài có lẽ là như là vậy. Ngài không can thiệp nhiều, không cậy sức cậy tài để ép bề dưới theo ý mình, nhưng kết quả là các anh em sống bình an, hiệp nhất, có ý thức dấn thân học tập và phục vụ rất cao.
NGÀI LÀ MỘT TRONG NHỮNG NGƯỜI LÀM VIỆC TRÍ THỨC CÁCH MẪU MỰC VÀ CHUYÊN CẦN.
Ngài học Thần học Kinh Thánh và ngoài việc bổn phận trong tư cách là Bề trên và Giám đốc, thì thời gian và tâm sức còn lại ngài đặt vào việc nghiên cứu, dịch thuật và giảng dạy Kinh Thánh.
Ngày nay người ta coi trọng và đề cao người biết làm việc chung theo đội nhóm. Ngài là người như vậy. Ngài làm việc chung theo nhóm rất giỏi. Cái điểm yếu chung của người Việt trong Đạo ngoài đời đối với ngài lại là điểm mạnh.
Ngài đã gia nhập Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ từ năm 1972 và ngài coi đó như gia đình thứ hai của mình sau Nhà Dòng. Ngài là một trong những thành viên kỳ cựu nhất của Nhóm trong suốt gần 50 năm và vì là ngời hiền hòa, dễ thương và làm việc nghiêm túc nên trong nhiều thập niên ngài được bầu làm Trưởng Nhóm.
Tôi đã từng nói rằng Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, một nhóm các nhà trí thức Công giáo tồn tại lâu nhất, làm việc khoa học nhất, tạo ra những sản phẩm tri thức có phấm chất tốt nhất trong lãnh vực Kinh Thánh và Phụng Vụ, có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong Giáo Hội Việt Nam.
Nhóm đã in và phổ biến hơn 2 triệu bản Tân ước, hàng trăm nghìn bản Kinh Thánh trọn bộ, hàng chục nghìn bản Sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ, hàng nghìn bản Sách Lễ Roma, các nghi thức Phụng Vụ, các sách chú giải Kinh Thánh... Đấy là chưa kể bản văn Kinh Thánh kèm theo chú giải được hàng trăm nghìn người sử dụng online.
Ngày nay, những ai có đọc Kinh Thánh và đọc Kinh Phụng Vụ và tham dự Thánh Lễ bằng tiếng Việt, những ai học Kinh Thánh, đều đang ít nhiều hưởng nhờ thành quả lao động trí thức của Nhóm CGKPV mà trong đó có phần đóng góp quan trọng của Cha Giuse Trần Ngọc Thao.
Cha Nguyễn Ngọc Tỉnh thường nói “Nhóm chúng tôi là một đội banh” và tôi tin cũng như các thành viên khác, Cha Giuse Trần Ngọc Thao là một cầu thủ kỳ cựu và quan trọng. Ngài là Đội trưởng của đội banh kia trong nhiều thập niên .
NGÀI LÀ VỊ BỀ TRÊN GIÁM TỈNH KHÔN NGOAN ĐÃ LÀNH ĐẠO TỈNH DÒNG TRONG GIAI ĐOẠN KHÓ KHĂN NHẤT
Ngài là một trong những Bề trên Giám tỉnh lâu nhất trong DCCT Việt Nam.
Ngài làm 4 khóa liên tiếp, từ năm 1981-1993. Đấy là một trong những giai đoạn khó khăn nhất của Nhà Dòng và Giáo Hội Việt Nam. Vì những năm cuối thập niên 1970 Miền Nam còn thừa hưởng được một chút tự do rơi rớt lại từ thời VNCH mà nhà cầm quyền cộng sản chưa kịp tước đoạt.
Các tu viện của Dòng bị nhà cầm quyền cướp đoạt nhà cửa, trường học, thư viện, đất đai, nhà máy, cơ sở chăn nuôi…Cướp một phần hay toàn bộ. Nhiều anh em bị bắt đi tù. Rất nhiều anh em bị mất chỗ ở khi tu viện bị giải tán và phải về sống với gia đình và phải tự lạo động kiếm sống.
Bản thân ngài, dù là Bề trên Giám tỉnh cũng không được sống trong Tu viện Kỳ Đồng mà vẫn phải ở trong căn nhà lụp xụp bên Tu viện Mai Thôn. Mãi đến năm 1993 khi hết làm Giám Tỉnh và nhà nước bớt căng thẳng chuyện hộ khẩu, ngài mới được chuyển về tu viện Kỳ Đồng.
Nhà cầm quyền bấy giờ còn cấm các anh em ở các tỉnh về Sài Gòn tĩnh tâm chung hằng năm. Tệ nhất là cấm thuyên chuyển, cấm bổ nhiệm, cấm nhận người đào tạo, cấm khấn dòng, cấm chịu chức linh mục, cấm dạy thần học…
Thiếu thốn, khó khăn, nguy hiểm mọi đàng. Dẫn dắt một Tỉnh Dòng mà thời điểm bấy giờ là dòng tu duy nhất hiện diện cả ba miền Bắc-Trung-Nam và duy trì được tinh thần tu trì của các anh em trong giai đoạn khắc nghiệt ấy quả thật không đơn giản. Thế mà ngài đã làm được!
Ngài đã giúp được các anh em gắn bó hiệp nhất với nhau để cùng nhau phục vụ Chúa nơi người nghèo. DCCT ở Việt Nam hiếm có giai đoạn nào anh em đoàn kết và hiệp nhất như thời kỳ 12 năm ngài làm Bề trên Giám Tỉnh.
Ngài đã thành công trong việc tìm kiếm một mô hình thích hợp để cổ vũ và nâng đỡ việc tu, việc học và việc phục vụ của từng anh em trẻ đang thuộc diện đào tạo mà không được sống trong tu viện.
Ngài đã đưa ra các quyết định bí mật nhận ơn gọi, bí mật mở Tập viện, bí mật khấn Dòng, bí mật cho các anh em học triết học và thần học với các giáo sư riêng lẻ, bí mật cho anh em truyền chức linh mục, bất chấm lệnh cấm cản và trừng phạt của nhà cầm quyền.
Năm 1990 ngài còn quyết định mở Học viện tập trung tại Tu viện Kỳ Đồng khi ngài vừa là Bề trên Giám tỉnh, vừa là giám đốc Học viện trong khi cha Vũ Khởi Phụng làm Giám học.
Vì chỉ có như vậy các anh em trẻ mới có thể có cơ may được đào tạo bài bản và mau chóng. Từ đó ban ngày anh em đến Tu viện học tập. Tối ra ngoài nhà giáo dân ngủ để tránh sự khám xét, bắt bớ của nhà cầm quyền.
Cũng từ năm 1990, ngài đã quyết định cho các anh em đã học xong thần học được chịu chức linh mục bí mật nếu muốn. Trong số đó Cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích và Vinhsơn Phạm Trung Thành là những người đầu tiên và cả hai về sau đều đã được bầu làm Bề trên Giám tỉnh như ngài.
Tôi tin rằng nếu không có đường hướng khôn ngoan và quyết định can đảm của ngài vào thời điểm đó thì DCCT đã không có nhiều ơn gọi như hôm nay, bản thân tôi chưa chắc đã được nhận vào dự tu năm 1987 ở Tu viện Thái Hà và năm 1989 ở Tu viện Kỳ Đồng.
Tôi tin ngài là một trong những vị Bề trên Giám tỉnh tuyệt vời nhất của chúng tôi. Ngài là một trong vài người đã góp đắc lực nhất và to lớn nhất trong việc làm nên một DCCT Việt Nam như chúng ta thấy hôm nay.
***
Còn nhiều chuyện để nói về ngài nhưng tôi tạm dừng ở đây.
Trong mắt tôi ngài là một con người nhân bản, một tu sĩ mẫu mực, một thừa sai nhiệt thành, một trí thức cần mẫn, một bề trên khôn ngoan , can đảm và đầy lòng bao dung.
Ngài đã theo sát Chúa Kitô và là một hình ảnh sống động của Chúa Kitô. Ngài đã đóng góp hết mình trong việc xây dựng Giáo Hội và loan báo Tin mừng cho người nghèo, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn.
Hồi nhỏ khi còn sống ở gia đình, tôi thường nghe bố mẹ hỏi các cặp vợ chồng trẻ có “tin mừng”chưa, nghĩa là đã có thai chưa. Khi ai sinh nở mẹ tròn con vuông thì bố mẹ tôi cũng nói nhà đấy có “tin mừng” rồi.
Dần dần tôi hiểu bên cạnh Tin mừng tuyệt đối là Chúa Kitô, là lời rao giảng của Ngài, thì “tin mừng” còn là sự ra đời của một con người. Tuy nhiên, mỗi người có thật sự là "tin mừng" cho thế giới hay không, chỉ khi sống và nhất là khi hoàn tất cuộc đời mới biết được.
Chiêm ngưỡng cuộc đời của Cha Giuse Trần Ngọc Thao, tôi thấy ngài thực sự là tin mừng cho tôi, cho các anh em trong DCCT Việt Nam chúng tôi và trong chừng mực nào đó nhiều người Việt Nam.
Tôi tin ngài là quà tặng, là ân huệ Chúa ban cho tôi, cho DCCT và cho Giáo hội Việt Nam.
Xin tạm biệt ngài. Xin Chúa cho ngài được nghỉ yên trong Chúa và mong ngày được gặp lại ngài trong Nước Trời.
Roma 05.06.2021
Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT.
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐂𝐡𝐮́𝐚 𝐍𝐡𝐚̣̂𝐭 𝐋𝐞̂̃ 𝐌𝐢̀𝐧𝐡 𝐌𝐚́𝐮 𝐂𝐡𝐮́𝐚, 𝐍𝐚̆𝐦 𝐁
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝐗𝐡 𝟐𝟒, 𝟑-𝟖; 𝐇𝐫 𝟗, 𝟏𝟏-𝟏𝟓; 𝐌𝐜 𝟏𝟒, 𝟏𝟐-𝟏𝟔. 𝟐𝟐-𝟐𝟔.
Con người là một tổng thể duy nhất có xác có hồn. Về xác, cần lương thực để thân thể phát triển lớn lên. Con người ăn để sống, sống để làm gì đó giúp ích cho tha nhân và cho xã hội; Về hồn, cần có lương thực bổ dưỡng đó là Lời Chúa và bí tích Thánh Thể, mà Giáo Hội hôm nay trọng thể tôn kính ‘Lễ Mình Máu Chúa Ki-tô’. Thánh lễ này được Đức Giáo Hoàng Urbano IV thiết lập vào 1264, cử hành vào thứ năm sau tuần bát nhật lễ Thánh Thần Hiện Xuống, nhằm xác định thứ năm ngày Chúa Giê-su lập bí tích Thánh Thể và được Thánh Thần soi dẫn các tông đồ. Sau này, thánh lễ dời vào chúa nhật để toàn thể Giáo Hội cung kính bí tích nhiệm mầu này.
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Hôm ấy, nhằm ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giê-su : “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu ?” Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ : “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà : Thầy nhắn : ‘Thầy sẽ ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở phòng nào ?’ Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng : và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta.” Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua. Đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói : “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông : “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em : chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.” Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu.
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Giờ đã đến, Đức Giê-su bắt đầu bước vào tuần Thương Khó để cứu độ nhân loại. Việc làm trước tiên, đó là chuẩn bị cho lễ Vượt Qua trong tuần lễ Bánh Không Men. Ngài đã chuẩn bị cách chu đáo cho mình và trò có phòng ăn lễ Vượt Qua. Điều này chứng tỏ Ngài tự nguyện và sẵn sàng thực hiện ý của Cha, dùng cái chết cực hình trong dịp lễ Vượt Qua đầy ý nghĩa của người do thái. Như thế, Lễ Vượt Qua của Đức Kitô nằm trong bối cảnh lịch sử từ Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Trong biến cố Vượt Qua này, Thiên Chúa giải thoát dân tộc Do-thái khỏi làm nô lệ cho người Ai-cập, và đem họ vào vùng Đất Hứa tràn trề sữa và mật. Chúa Giêsu cũng ví Cuộc Thương Khó của Người như một vượt qua: "khi biết đã đến giờ Người sắp sửa từ giã cuộc đời này để về với Thiên Chúa" (Ga 13, 1). Trong Lễ Vượt Qua cũ, bánh không men và chiên vượt qua là hai thứ không thể thiếu để mừng lễ: máu chiên dùng để bôi trên cửa nhà, để thiên thần vượt qua mà không vào sát hại như sát hại các con đầu lòng của người Ai-cập (máu súc vật chỉ cứu cho dân do thái mà thôi). Trong lễ Vượt Qua mới của Chúa Ki-tô, Ngài chính là Bánh Không Men và Máu Ngài trào ra từ cạnh sườn cứu thoát cho cả nhân loại.
Rõ ràng Chúa Giêsu thiết lập Bí-tích Thánh Thể trong Lễ Vượt Qua mới, bánh không men chính là Mình Chúa Giêsu, như trình thuật kể: "Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." Chiên Vượt qua mới là máu của Đức Kitô: "Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu giao ước, đổ ra vì muôn người."
Trong Cuộc Vượt Qua mới, Đức Kitô cũng giải thoát con người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết bằng chính Mình và Máu của Ngài. Sau khi ăn Lễ Vượt Qua, người Do-thái phải lên đường bắt đầu cuộc hành trình qua Biển Đỏ. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng thế, sau khi đã thiết lập Bí-tích Thánh Thể, Chúa Giêsu và các môn đệ hát thánh vịnh, Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ ra núi Olive để cầu nguyện và chịu thử thách.
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Cuộc sống của mỗi người cũng thế, sau khi đã lãnh nhận thần lương của Bí-tích Thánh Thể, chúng ta cũng phải vào cuộc đời để đương đầu với những khó khăn và thử thách hằng ngày của cuộc sống như: bệnh tật; học hành và công ăn việc làm; bất đồng, hiểu lầm, chia rẽ, và hận thù đến từ các mối liên hệ với tha nhân, cộng thêm vào những lo lắng tương lai... Chính sự sống thần linh nhận được từ Bí-tích Thánh Thể sẽ giúp chúng ta có đủ sức mạnh và nghị lực, để vượt qua tất cả các khó khăn này. Nếu không năng lãnh nhận thần lương, làm sao chúng ta tìm được sức mạnh để vượt qua các khó khăn của cuộc sống?
Bí tích Thánh Thể là bí tích Tình Yêu và Hiệp Nhất. Mỗi chúng ta cần yêu và được yêu, hãy lãnh nhận Thánh Thể; mỗi chúng ta cần tâm đầu ý hợp để sống hòa nhã, nân đỡ nhau, hãy lãnh nhận Thánh Thể. Thánh Thể là nguồn sức sống của Hội thánh, là món quà quý báu Thiên Chúa tặng cho nhân loại. Tạ ơn Chúa mãi và quyết tâm năng lãnh nhận Thánh Thể mỗi ngày!
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖, 𝑪𝒉𝒖́𝒂 đ𝒂̃ 𝒕𝒓𝒐̂́𝒊 𝒍𝒂̣𝒊 𝒄𝒉𝒐 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒃𝒊́ 𝒕𝒊́𝒄𝒉 𝑴𝒊̀𝒏𝒉 𝒗𝒂̀ 𝑴𝒂́𝒖 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑪𝒉𝒖́𝒂, đ𝒆̂̉ 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 đ𝒐̛̀𝒊 đ𝒐̛̀𝒊 𝒕𝒖̛𝒐̛̉𝒏𝒈 𝒏𝒉𝒐̛́ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 đ𝒂̃ 𝒄𝒉𝒊̣𝒖 𝒌𝒉𝒐̂̉ 𝒉𝒊̀𝒏𝒉 𝒗𝒂̀ 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒍𝒂̣𝒊 𝒗𝒊𝒏𝒉 𝒒𝒖𝒂𝒏𝒈. 𝑿𝒊𝒏 𝒄𝒉𝒐 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒎𝒐̣̂𝒕 𝒏𝒊𝒆̂̀𝒎 𝒔𝒖̀𝒏𝒈 𝒌𝒊́𝒏𝒉 𝒎𝒆̂́𝒏 𝒚𝒆̂𝒖 𝒃𝒊́ 𝒕𝒊́𝒄𝒉 𝒌𝒚̀ 𝒅𝒊𝒆̣̂𝒖 𝒏𝒂̀𝒚, đ𝒆̂̉ 𝒍𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒖̛𝒐̛̣𝒄 𝒏𝒈𝒉𝒊𝒆̣̂𝒎 𝒕𝒉𝒂̂́𝒚 𝒐̛𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒖̛́𝒖 𝒄𝒉𝒖𝒐̣̂𝒄 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏. 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑪𝒉𝒂, 𝒉𝒐̛̣𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒗𝒐̛́𝒊 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 𝒕𝒉𝒖𝒐̛̉ 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐁𝐚̉𝐲 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐈𝐗 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐥𝐞̉
𝐓𝐡𝐚́𝐧𝐡 𝐁𝐨̂-𝐧𝐢-𝐩𝐡𝐚́𝐭, 𝐆𝐦, 𝐭𝐮̛̉ đ𝐚̣𝐨.
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝐓𝐛 𝟏𝟐, 𝟏, 𝟓-𝟏𝟓. 𝟐𝟎; 𝐌𝐜 𝟏𝟐, 𝟑𝟖
Mối tương quan giữa người với người đòi hỏi phải là hai chiều mới cân bằng và phát triển. Giũa con người với Chúa cũng thế, Thiên Chúa ban cho con người những ân huệ dồi dào, con người phải sống theo đường lối của Chúa mới thăng hoa và hạnh phúc trong cuộc sống. Trong bài đọc 1, cuối cùng sứ thần Raphael cũng tỏ lộ căn tính của mình cho Tô-bít và Xa-ra biết. Và dạy họ phải biết ca tụng Thiên Chúa và luôn ăn ngay ở lành trong đời sống. Được như vậy, Thiên Chúa sẽ sai sứ thần đến bảo vệ và thi ân giáng phúc. Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đề cao tấm lòng yêu mến thật sự bên trong hơn là của cho bên ngoài.
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Khi ấy, trong lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói với đám đông dân chúng rằng : “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.” Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rô-ma. Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói : “Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều lấy tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó ; còn bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ vào đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân.”
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Trong mấy ngày liền, chúng ta đã đọc chương 12 của Tin Mừng Mác-cô nói về những cuộc tranh luận giữa các nhóm gây chuyện gài bẫy (Thượng tế, Biệt phái, Herode, Xa-đốc, Kinh sư…) với Đức Giê-su. Hôm nay trong lúc Đức Giê-su giảng dạy, Ngài cảnh báo dân chúng rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ.” Các Kinh sư mới là mối nguy hiểm cho những người Ki-tô hữu thuộc Giáo hội sơ khai, vì họ làm ô uế môi trường đạo đức của các Ki-tô hữu bằng đời sống đạo đức trá hình. Còn những nhóm khác chỉ liên quan với Đức Giê-su bằng cách bắt bẽ, gài bẫy Ngài mà thôi.
Đức Giê-su cảnh báo dân chúng về những việc làm nào của các Kinh sư? Có 4 việc:
+ Thích xúng xính trong bộ áo thụng.
+ Thích được người ta chào hỏi nơi công cộng.
+ Thích chiếm ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc.
+ Nuốt hết tài sản của các bà góa.
3 việc đầu thuộc loại háo danh. Thích người khác đề cao và chào hỏi mình. Việc thứ tư thuộc loại giả hình, bằng những việc đạo đức bên ngoài, như đọc kinh cho dài để lấy lễ vật, tiền và ngay cả tài sản của các bà góa nhẹ dạ.
Những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái như kinh sư và biệt phái tự cho mình là kẻ đạo đức hơn người nên họ dễ lầm lạc khi có thái độ tôn thờ Thiên Chúa theo kiểu con người. Họ cho rằng cứ đọc kinh nhiều, “nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo” là đạt rỗi. Họ nới rộng thẻ kinh và làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Họ tưởng rằng Thiên Chúa là một vị Thần mà người ta có thể hối lộ hoặc kích thích lòng quảng đại bằng những việc đạo đức của họ. Họ áp dụng cho Thiên Chúa sự tính toán hơn thiệt dựa trên sự công bình: có vay có trả, có qua có lại của con người. Chính quan niệm ấy đã khiến nhiều người xem sự giàu sang phú quý là một chúc lành của Thiên Chúa, còn tai họa rủi ro là một trừng phạt vì tội lỗi; từ đó người ta tự phụ về những công đức của mình và khinh bỉ những người nghèo hèn và những người tội lỗi.
Khi Đức Giê-su chỉ cho dân chúng thấy lòng đạo đức giả bên ngoài của các Kinh sư, thì kìa, một bà góa nghèo bỏ vào thùng tiền hai đồng tiền kẽm, không đáng giá là bao. Thế mà Đức Giê-sun khen ngợi bà, vì Ngài thấy rõ bên trong lòng của bà, bà cho tất cả những gì mình có, tài sản duy nhất của bà là bộ quần áo bà đang mặc và 2 đồng tiền kẽm đó. Trong khi những nhà giàu có hôm ấy cũng ủng hộ Đền thờ nhiều tiền gấp trăm nghìn lần số tiền của bà, nhưng đó là tiền thặng dư của cuộc làm kinh tế buôn bán.
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Sứ thần Raphael đã nói với Tô-bít và Xa-ra, trong bài đọc 1, rằng: “Bố thí phải đi đôi với công chính”. Điều đó làm trổ sinh hoa trái thiêng liêng trong đời sống. Vừa cho cái mình có, vừa sống hết tình trước mặt Chúa và mọi người. Điều quan trọng chúng ta nên nhớ: phải luôn ý thức trách trách nhiệm của mình trong đời sống công bằng. Cách nào đó, việc bố thí là bổn phận của mỗi người, vì đó là công bằng trong tình liên đới. Khi ta làm ăn thuận lợi, ta phải nghĩ đến những người bất hạnh và ra tay giúp đỡ họ.
Việc làm của bà goá trong Tin Mừng làm cho chúng ta phải giật mình. Chúng ta chỉ bố thí khi chúng ta có tiền dư. Còn khi không dư thì thật vô phúc cho ai tới xin chúng ta lúc đó. Chẳng những ta không cho, mà còn nói nặng nói nhẹ người ta nữa. Việc làm của bà góa nghèo dâng tiền trong Đền thớ còn nhắc nhở chúng ta bổn phận đóng góp cho Giáo Hội : Ta đã hưởng nhờ của Giáo Hội biết bao nhiêu thứ, thế nhưng ta có ý thức góp một phần nào về tinh thần hoặc vật chất cho Giáo Hội không ?
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝙇𝙖̣𝙮 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙣𝙝𝙤̛̀ 𝙤̛𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙩𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝘽𝙤̂-𝙣𝙞-𝙥𝙝𝙖́𝙩 𝙜𝙞𝙖́𝙢 𝙢𝙪̣𝙘 đ𝙖̃ 𝙙𝙪̀𝙣𝙜 𝙡𝙤̛̀𝙞 𝙣𝙤́𝙞 𝙢𝙖̀ 𝙧𝙖𝙤 𝙜𝙞𝙖̉𝙣𝙜 đ𝙪̛́𝙘 𝙩𝙞𝙣 𝙫𝙖̀ 𝙡𝙖̂́𝙮 𝙢𝙖́𝙪 đ𝙖̀𝙤 đ𝙚̂̉ 𝙢𝙞𝙣𝙝 𝙘𝙝𝙪̛́𝙣𝙜. 𝙑𝙞̀ 𝙡𝙤̛̀𝙞 𝙩𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙣𝙝𝙖̂𝙣 𝙘𝙝𝙪𝙮𝙚̂̉𝙣 𝙘𝙖̂̀𝙪, 𝙭𝙞𝙣 𝙘𝙝𝙤 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙜𝙞𝙪̛̃ 𝙫𝙪̛̃𝙣𝙜 𝙡𝙤̀𝙣𝙜 𝙩𝙞𝙣, 𝙫𝙖̀ 𝙡𝙖̂́𝙮 𝙘𝙖̉ 𝙘𝙪𝙤̣̂𝙘 đ𝙤̛̀𝙞 𝙢𝙖̀ 𝙘𝙖𝙣 đ𝙖̉𝙢 𝙩𝙪𝙮𝙚̂𝙣 𝙭𝙪̛𝙣𝙜 𝙡𝙤̀𝙣𝙜 𝙩𝙞𝙣 đ𝙤́. 𝘾𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣 𝙘𝙖̂̀𝙪 𝙭𝙞𝙣 𝙣𝙝𝙤̛̀ Đ𝙪̛́𝙘 𝙂𝙞𝙚̂-𝙨𝙪 𝙆𝙞-𝙩𝙤̂, 𝘾𝙤𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙡𝙖̀ 𝙏𝙝𝙞𝙚̂𝙣 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙫𝙖̀ 𝙡𝙖̀ 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙘𝙝𝙪́𝙣𝙜 𝙘𝙤𝙣, 𝙉𝙜𝙪̛𝙤̛̀𝙞 𝙝𝙖̆̀𝙣𝙜 𝙨𝙤̂́𝙣𝙜 𝙫𝙖̀ 𝙝𝙞𝙚̂̉𝙣 𝙩𝙧𝙞̣ 𝙘𝙪̀𝙣𝙜 𝘾𝙝𝙪́𝙖, 𝙩𝙧𝙤𝙣𝙜 𝙨𝙪̛̣ 𝙝𝙞𝙚̣̂𝙥 𝙣𝙝𝙖̂́𝙩 𝙘𝙪̉𝙖 𝘾𝙝𝙪́𝙖 𝙏𝙝𝙖́𝙣𝙝 𝙏𝙝𝙖̂̀𝙣 đ𝙚̂́𝙣 𝙢𝙪𝙤̂𝙣 đ𝙤̛̀𝙞. 𝘼𝙢𝙚𝙣.
@ 𝐓𝐢𝐞̂̉𝐮 𝐬𝐮̛̉
𝑇ℎ𝑎́𝑛ℎ 𝑛ℎ𝑎̂𝑛 𝑠𝑖𝑛ℎ 𝑡𝑎̣𝑖 𝐴𝑛ℎ 𝑄𝑢𝑜̂́𝑐 𝑞𝑢𝑎̃𝑛𝑔 𝑛𝑎̆𝑚 673. 𝑁𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 𝑛ℎ𝑎̣̂𝑝 đ𝑎𝑛 𝑣𝑖𝑒̣̂𝑛 𝐼-𝑥𝑜̛-𝑡𝑒 𝑣𝑎̀ đ𝑢̛𝑜̛̣𝑐 đ𝑢̛́𝑐 𝑔𝑖𝑎́𝑜 ℎ𝑜𝑎̀𝑛𝑔 𝐺ℎ𝑒̂-𝑔𝑜̂-𝑟𝑖-𝑜̂ 𝐼𝐼 đ𝑜̂̉𝑖 𝑡𝑒̂𝑛 𝑈𝑦𝑛-𝑝ℎ𝑜̛-𝑟𝑖́𝑡 𝑡ℎ𝑎̀𝑛ℎ 𝐵𝑜̂-𝑛𝑖-𝑝ℎ𝑎́𝑡. 𝑁𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 𝑙𝑎̀ 𝑡𝑜̂𝑛𝑔 đ𝑜̂̀ 𝑐𝑢̉𝑎 𝑛𝑢̛𝑜̛́𝑐 Đ𝑢̛́𝑐 𝑣𝑎̀ 𝑙𝑎̀ 𝑛𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 𝑡𝑜̂̉ 𝑐ℎ𝑢̛́𝑐 𝑙𝑎̣𝑖 𝐻𝑜̣̂𝑖 𝑇ℎ𝑎́𝑛ℎ 𝑛ℎ𝑖𝑒̂̀𝑢 𝑚𝑖𝑒̂̀𝑛. 𝑆𝑎𝑢 𝑘ℎ𝑖 đ𝑢̛𝑜̛̣𝑐 đ𝑢̛́𝑐 𝑔𝑖𝑎́𝑜 ℎ𝑜𝑎̀𝑛𝑔 𝑡𝑎̂́𝑛 𝑝ℎ𝑜𝑛𝑔 𝑔𝑖𝑎́𝑚 𝑚𝑢̣𝑐 (𝑛𝑎̆𝑚 722), 𝑛𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 𝑟𝑎̉𝑜 𝑘ℎ𝑎̆́𝑝 𝑛𝑢̛𝑜̛́𝑐 Đ𝑢̛́𝑐, 𝑙𝑎̣̂𝑝 𝑐𝑎́𝑐 𝑔𝑖𝑎́𝑜 𝑝ℎ𝑎̣̂𝑛 𝑣𝑎̀ 𝑐𝑎́𝑐 đ𝑎𝑛 𝑣𝑖𝑒̣̂𝑛 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 đ𝑜́ 𝑐𝑜́ đ𝑎𝑛 𝑣𝑖𝑒̣̂𝑛 𝑃ℎ𝑢𝑛-đ𝑎. 𝑁𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 𝑏𝑖̣ 𝑠𝑎́𝑡 ℎ𝑎̣𝑖 𝑜̛̉ Đ𝑜̂́𝑐-𝑐𝑢𝑚 (𝐻𝑎̀ 𝐿𝑎𝑛) 𝑐𝑢̀𝑛𝑔 𝑣𝑜̛́𝑖 𝑛𝑎̆𝑚 𝑚𝑢̛𝑜̛𝑖 ℎ𝑎𝑖 đ𝑜̂̀𝑛𝑔 𝑏𝑎̣𝑛 𝑛𝑎̆𝑚 754.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
Cách đây, hàng thế kỷ, tại một đất nước nọ có một họa sĩ. Anh muốn tạo ra một bức tranh thực sự tuyệt vời có thể tỏa ra sự thiêng liêng, một bức tranh về một gương mặt có ánh mắt tỏa ra sự bình yên vô hạn. Anh lên đường để tìm kiếm một người nào đó có gương mặt vượt ra khỏi giới hạn của đời sống này, một cái gì đó siêu việt.
Anh lang thang khắp đất nước, hết làng này đến làng nọ, hết cánh rừng này đến cánh rừng khác nhắm tìm một người như thế. Cuối cùng anh gặp một người chăn cừu trên núi có sự ngây thơ trong trắng trong đôi mắt sáng và gương mặt thanh tú với nét siêu linh. Chỉ cần liếc nhìn anh cũng đủ để tin rằng Thượng đế tiềm ẩn nơi nhân loại.
Người họa sĩ vẽ một bức họa về người chăn cừu trẻ tuổi này. Hàng triệu bản sao của bức họa này đã được bán sạch, thậm chí ngay cả ở những khu vực xa xôi. Mọi người cảm thấy hạnh phúc khi có thể treo bức họa này trên tường nhà mình.
Hai mươi năm sau, người họa sĩ đã già, một ý tưởng khác chợt nảy ra trong tâm trí ông. Theo kinh nghiệm sống của ông, nhân loại không hòan toàn ngoan đạo; ma quỷ vẫn tồn tại trong họ. Ý tưởng này làm nảy sinh dự định vẽ một bức tranh nhằm phản ánh hình ảnh ma qủy trong con người. Hai bức họa này, ông nghĩ, sẽ bù trừ cho nhau, đại diện cho toàn nhân loại.
Ở tuổi già, ông lại lên đường tìm kiếm. Lần này ông muốn tìm một người không phải là người mà là ma quỷ. Ông đến các khu nhà ổ chuột, các quán rượu, các nhà thương điên. Người này cần phải có ngọn lửa của địa ngục; gương mặt của anh ta phải thể hiện được nét tàn bạo, xấu xí, ác dâm. Ông tìm kiếm hình ảnh của tội lỗi. Trước đây ông đã vẽ nên hình ảnh về sự hóa thân của loài quỷ dữ.
Sau khi tìm kiếm thật lâu, cuối cùng ông tìm được một tù nhân. Người tù này phạm bảy tội giết người và bị kết án treo cổ trong vài ngày tới. Ngọn lửa địa ngục đang bùng cháy trong mắt hắn; hắn trông giống như hiện thân của tội ác. Gương mặt của hắn là gương mặt xấu xí nhất mà bạn có thể hình dung ra. Người họa sĩ bắt đầu vẽ hắn.
Khi hoàn tất bức họa, ông mang bức họa trước đây ra đặt bên cạnh để đối chiếu. Nhìn từ góc độ nghệ thuật thì thấy khó có thể xác định được bức họa nào tốt hơn bức họa nào; cả hai đều là kiệt tác. Người họa sĩ đứng đó, mắt nhìn trừng trừng vào hai bức họa. Chợt ông nghe thấy tiếng khóc thút thít. Ông quay lại và trông thấy người tù bị xiềng xích đang khóc nức nở. Người họa sĩ vô cùng bối rối. Ông hỏi: “Này chàng trai, tại sao anh lại khóc? Hai bức tranh này khiến anh buồn sao?”
Người tù đáp: “Tôi vẫn luôn cố gắng che đậy một điều trước mặt ông, nhưng hôm nay tôi không thể giấu diếm được nữa. Bức họa thứ nhất cũng là bức họa về tôi. Cả hai bức tranh này đều vẽ khuôn mặt của tôi. Tôi chính là người chăn cừu mà ông đã gặp cách đây hai mươi năm trên ngọn đồi kia. Tôi khóc vì sự suy vong của mình trong suốt hai mươi năm qua. Tôi đã rơi từ thiên đàng xuống địa ngục.”
@ 𝐒𝐮𝐲 𝐧𝐠𝐚̂̃𝐦
Cuộc sống con người đều có hai mặt. Trong mỗi con người cả thiên thần lẫn quỷ dữ tồn tại; trong mỗi con người luôn có thiên đàng lẫn địa ngục Trong mỗi con người luôn tồn tại những bông hoa xinh đẹp lẫn những đầm lầy xấu xí. Mỗi người đều liên tục dao động giữa hai thái cực này, nhưng hầu hết mọi người đều xuất hiện bên bờ địa ngục. Rất ít người có đủ can đảm để thiên đàng phát triển trong chính mình.
@ 𝐂𝐚̂̀𝐮 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝐿𝑎̣𝑦 𝑀𝑒̣ 𝑀𝑎𝑟𝑖𝑎!
𝐿𝑜̀𝑛𝑔 𝑛𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖 ℎ𝑎𝑦 𝑙𝑢𝑜̂𝑛 đ𝑜̂̉𝑖 𝑡ℎ𝑎𝑦
𝐾ℎ𝑖 𝑙𝑎̀ 𝑡ℎ𝑖𝑒̂𝑛 𝑡ℎ𝑎̂̀𝑛 𝑘ℎ𝑖 𝑡ℎ𝑎𝑦 𝑞𝑢𝑦̉ 𝑚𝑎
𝐶ℎ𝑢́𝑎 𝑚𝑢𝑜̂́𝑛 𝑐𝑜𝑛 𝑙𝑎̀ 𝑡ℎ𝑖𝑒̂𝑛 𝑡ℎ𝑎̂̀𝑛
𝑁𝑔𝑎̀𝑖 𝑙𝑢𝑜̂𝑛 𝑡𝑟𝑜̛̣ 𝑔𝑖𝑢́𝑝 𝑡𝑢̛̀𝑛𝑔 𝑛𝑔𝑎̀𝑦 𝑐ℎ𝑜 𝑐𝑜𝑛.
𝑀𝑜̂̃𝑖 𝑛𝑔𝑎̀𝑦 𝑐ℎ𝑜̣𝑛 𝑙𝑢̛̣𝑎 𝑡𝑢̛̣ 𝑑𝑜
𝑆𝑜̂́𝑛𝑔 𝑠𝑎𝑜 𝑐ℎ𝑜 𝑡𝑜̂́𝑡 𝑠𝑜̂́𝑛𝑔 𝑐ℎ𝑜 𝑡𝑖̀𝑛ℎ 𝑁𝑔𝑎̀𝑖
𝑋𝑖𝑛 𝑀𝑒̣ 𝑝ℎ𝑢̀ 𝑔𝑖𝑢́𝑝 𝑐ℎ𝑜 𝑐𝑜𝑛
𝐶ℎ𝑜̣𝑛 𝑙𝑢̛̣𝑎 𝑐𝑎́𝑐ℎ 𝑠𝑜̂́𝑛𝑔 𝑐ℎ𝑜 𝑡𝑟𝑜̣𝑛 𝑦𝑒̂𝑢 𝑡ℎ𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔. 𝐴𝑚𝑒𝑛
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐒𝐚́𝐮 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐈𝐗 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐥𝐞̉
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝐓𝐛 𝟏𝟏, 𝟓-𝟏𝟓; 𝐌𝐜 𝟏𝟐, 𝟑𝟓-𝟑
Con người lệ thuộc thời gian; Thiên Chúa làm chủ thời gian. Con người làm gì cũng mong nhanh chóng kết quả sớm; Thiên Chúa muố con người phải biết chờ đợi. Thời gian là phương cách Chúa dùng huấn luyện con người. Như câu chuyện của Tô-bít, cha của Tô-bi-a, ông đã làm việc lành tốt đẹp vậy mà gặp người đời dèm pha, bị mù mắt, bị vợ mỉa mai. Ông chịu đựng một thời gian, không than van trách móc, vẫn trung tín với Chúa. Hôm nay, bài đọc 1 cho chúng ta biết, cuối cùng ông cũng được Chúa thương cho sáng mắt, lấy lại được tiền đã gởi, cưới vợ cho con. Rong Tin Mừng, vì con người lệ thuộc thời gian, nên đa số không hiểu: làm sao Đức Kitô có thể trở thành Chúa Thượng của vua David được, vì Ngài có sau David cả 1.500 năm?
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Khi ấy, khi giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giê-su lên tiếng hỏi : “Sao các kinh sư lại nói Đấng Ki-tô là con vua Đa-vít ? Chính vua Đa-vít được Thánh Thần soi sáng đã nói : Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi : bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con. “Chính vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng, thì Đấng Ki-tô lại là con vua ấy thế nào được ?” Đám người đông đảo nghe Đức Giê-su cách thích thú.
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Sau khi các nhóm chất vấn để gài bẫy Đức Giê-su không được gì, họ ra đi, giờ Ngài tiếp tục giảng dạy và nói về gốc tích của Ngài: “Sao các Kinh sư lại nói Đấng Ki-tô là Con Vua Đa-vít?” Đức Giê-su mặc nhiên nhìn nhận các kinh sư dạy dân chúng rất đúng, vì truyến thống xa xưa của người Do thái vẫn tin rằng Đấng Mê-si-a là con vua Đa-vít. Truyền thống ấy xuất phát từ tiên tri Isaia, cách Chúa ra đời mấy trăm năm, đã loan báo: “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. (Is 11, 1 – 2). Truyền thống này cũng ăn sâu vào tâm khảm các bệnh nhân, khi họ gặp Đức Giê-su và kêu lên: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc, 10, 47).
Như thế, xét theo bản tính loài người, Đức Giê-su là con cháu ông Abraham, con vua Đa-vít. Quả là đương nhiên! Điều đó chúng ta thấy trong bảng gia phả của Ngài (Mt 1, 1-17); Xét theo bản tính Thiên Chúa, Đức Giê-su trưng dẫn thánh vịnh 110 của vua Đa-vít được Thánh Thần soi sáng: “Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi : bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con. “ Đa-vít gọi Đấng Mê-si-a (Đấng Cứu Thế, Đức Giê-su) là Chúa Thượng. Vấn đề khó hiểu là Đa-vít đã gọi là Chúa Thượng thì làm sao làm con của ông được? Điều này có thể chấp nhận được, khi chấp nhận Đức Giê-su mang hai bản tính: vừa là Chúa vừa là người trong một ngôi vị là Con.
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Khi Chúa Giê-su về trời rồi, Giáo hội bắt đầu phát triển, nhưng sau đó ở thế kỷ I và II, đã xuất hiện những lạc thuyết chối bỏ Thiên tính này của Chúa Giêsu, như lạc thuyết Ariô năm 325 và đã bị Công đồng Nicé kết án. Công đồng Nicé đã đưa ra tín điều: “Chúng tôi tin một Thiên Chúa là Cha toàn năng tạo dựng muôn vật hữu hình và vô hình. Một Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng duy nhất sinh bởi Chúa Cha, nghĩa là từ bản thể Chúa Cha, là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật ……” Đó là một đức tin vững chắc đến muôn đời.
Sống trong niềm tin vào Đấng Phục Sinh mang hai bản tính, chúng ta tuyên xưng vững vàng và sống thật lòng những gì Ngài truyền dạy. Chúng ta thờ phượng Ngài với tất cả lòng thành, vì Ngài là Chủa Tể muôn loài; chúng ta thân thiết với Ngài trong cuộc sống, vì Ngài là Anh Cả, là Người đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường. Xin Chúa Giê-su, con vua Đa-vít, thương xót chúng con!”
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝑪𝒉𝒖́𝒂 đ𝒂̃ 𝒅𝒖̀𝒏𝒈 𝒂́𝒏𝒉 𝒔𝒂́𝒏𝒈 𝑵𝒈𝒐̂𝒊 𝑳𝒐̛̀𝒊 𝒎𝒂̀ đ𝒂̂̉𝒚 𝒍𝒖𝒊 𝒔𝒖̛̣ 𝒕𝒐̂́𝒊 𝒕𝒂̆𝒎 𝒎𝒆̂ 𝒎𝒖𝒐̣̂𝒊. 𝑿𝒊𝒏 𝒄𝒉𝒐 𝒏𝒊𝒆̂̀𝒎 𝒕𝒊𝒏 𝒄𝒉𝒊́𝒏𝒉 𝑪𝒉𝒖́𝒂 đ𝒂̃ 𝒈𝒊𝒆𝒐 𝒗𝒂̀𝒐 𝒕𝒂̂𝒎 𝒕𝒓𝒊́ 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 đ𝒖̛𝒐̛̣𝒄 𝒏𝒈𝒂̀𝒚 𝒕𝒉𝒆̂𝒎 𝒗𝒖̛̃𝒏𝒈 𝒗𝒂̀𝒏𝒈, 𝒉𝒂̂̀𝒖 𝒏𝒈𝒐̣𝒏 𝒍𝒖̛̉𝒂 𝒚𝒆̂𝒖 𝒎𝒆̂́𝒏 𝒅𝒐 𝒂̂𝒏 𝒔𝒖̉𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂 đ𝒐̂́𝒕 𝒍𝒆̂𝒏 𝒌𝒉𝒐̂𝒏𝒈 𝒉𝒆̂̀ 𝒃𝒊̣ 𝒕𝒉𝒖̛̉ 𝒕𝒉𝒂́𝒄𝒉 𝒏𝒂̀𝒐 𝒅𝒂̣̂𝒑 𝒕𝒂̆́𝒕. 𝑪𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒂̂̀𝒖 𝒙𝒊𝒏 𝒏𝒉𝒐̛̀ Đ𝒖̛́𝒄 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖 𝑲𝒊-𝒕𝒐̂, 𝑪𝒐𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒗𝒂̀ 𝒍𝒂̀ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒔𝒖̛̣ 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒄𝒖̉𝒂 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐍𝐚̆𝐦 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐈𝐗 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐥𝐞̉
𝐓𝐡𝐚́𝐧𝐡 𝐂𝐚-𝐫𝐨̂-𝐥𝐨̂ 𝐋𝐨𝐚𝐧-𝐠𝐚 𝐯𝐚̀ 𝐜𝐚́𝐜 𝐛𝐚̣𝐧 𝐭𝐮̛̉ đ𝐚̣𝐨
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝐓𝐛 𝟔, 𝟏𝟏; 𝟕, 𝟏. 𝟗-𝟏𝟒; 𝟖, 𝟒-𝟕; 𝐌𝐜 𝟏𝟐, 𝟐𝟖-𝟑𝟒.
Hạnh phúc của con người là gắn kết với Thiên Chúa, nguồn gốc của hạnh phúc, bằng cách tuân giữ luật Chúa dạy: yêu Chúa và yêu tha nhân như yêu chính mình. Như các bài đọc hôm nay cho chúng ta biết. Trong bài đọc 1, Thiên Chúa sắp đặt cuộc hôn nhân giữa Tô-bi-a và Xa-ra bằng cách sai sứ Thần Raphael đến như người bạn đồng hành với Tô-bi-a để hướng dẫn đúng như ý Chúa muốn. Lời cầu nguyện của đôi tân hôn thật dễ thương, họ tin vào sự quan phòng của Chúa và xin Chúa giữ gìn tình yêu của họ đến tuổi già. Trong Tin Mừng, Đức Giê-su nhắc điều răn quan trọng “Yêu Chúa và Yêu người”.
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Khi ấy, có một người trong các kinh sư đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng : “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu ?” Đức Giê-su trả lời : “Điều răn đứng hàng đầu là : Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.” Ông kinh sư nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo : “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu !” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Tin Mừng hôm qua (Mc 12, 18-27), D(ức Giê-su tranh luận với nhóm Xa-đốc, những người không tin vào sự sống lại, Ngài đã cho họ biết: “Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao ? Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” Và Ngài còn khẵng định: Thiên Chúa không là Thiên Chúa của kẻ chết mà là Thiên Chúa của kẻ sống. Vì thế, Ngài có quyền năng cho con người sống lại.
Tin Mừng hôm nay (Mc 12, 28-34), ông Kinh sư nghe Đức Giê-su đối đáp với nhóm Xa-đốc quá hay và rõ ràng, ông liền hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?” Ông đặt câu hỏi như thế cũng phải, vì Thiên Chúa ban cho dân, qua ông Mô-sê, chỉ có 10 giới răn được ghi lên hai tấm bia đá. Nhưng không hiểu tại sao các giới lãnh đạo tôn giáo thêm thắc đến 613 điều (365 điều cấm và 248 điều phải làm). Những điều này như mớ bòng bông rối nùi, không ai nhớ được. Đức Giê-su trả lời cho ông và cho mọi người hiện diện nắm vững, chỉ nhớ hai điều thôi: Yêu Chúa trên hết mọi sự, vì Ngài là Thiên Chúa duy nhất và Yêu người thân cận như chính mình. Chúng ta có thể nói rằng, chỉ có một giới răn YÊU là quan trọng: yêu Chúa và yêu người. Không thể nào yêu Chúa mà loại bỏ con người được, vì con người mang hình ảnh Thiên Chúa, như Đức Giê-su đã từng tuyên bố: “Ai cho người bé mọn dù một chén nước lã là cho chính Ta vậy”; Ngược lại, yêu người thôi không yêu Chúa cũng không được.Vì Chúa là Đấng tác sinh muôn loài và con người, Đấng hằng yêu thương sắp đặt mọi sự tốt đẹp, Ngài là Đại ân nhân cho con người.
Ông Kinh sư nghe Đức Giê-su trình bày rất nhẹ nhàng, tóm gọn mọi điều trong chữ “Yêu”, cốt lõi của cuộc sống đạo, ông vui mừng và khen ngợi Đức Giê-su hết lời: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” Đức Giê-su thấy ông khôn ngoan, nên Ngài chúc lành cho ông: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu !”
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Có nhiều lương dân, nhìn vào đạo Công giáo chúng ta, với rất nhiều thành kiến. Họ cho rằng, đạo Công giáo là một hệ thống những giới răn và kinh kệ dài dòng, mà phải mất cả đời mới có thể học thuộc và tuân giữ được. Quả thực, cách sống đạo của một số Kitô hữu hiện nay có thể làm cho nhiều người ngộ nhận như vậy. Thực ra Đạo của Chúa rất đơn giản. Đạo dạy cho người ta biết có một Thiên Chúa. Ngài là tình yêu. Ngài yêu thương mọi người. Và vì yêu thương, Ngài đã sai Con Một Ngài xuống trần để mặc khải cho con người về tình yêu của Ngài và mời gọi con người sống yêu thương để được hạnh phúc thật. Tất cả mọi giới răn và lề luật của Chúa được tóm gọn trong hai chữ “Yêu Thương”.
Yêu thương là một bài học dài học cả đời. Có lúc ta yêu, có lúc giận hờn, ganh ghét, nhưng khi yêu lại ta cảm thấy tâm hồn mình vui vẻ, thanh thản, cảm thấy có Chúa ngự trong ta thật sự. Kinh nghiệm này, chắc ai cũng có một lần. Xin đừng chán nãn, thất vọng khi dỗi hờn, tránh né. Hãy can đảm đến nói lời xin lỗi, giao hòa, hay một cái gật đầu chào, một nụ cười… để bầu khí thánh thiệng tái tạo lại trong tâm hồn chúng ta.
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒙𝒖̛𝒂 𝒗𝒂̀𝒐 𝒈𝒊𝒐̛̀ 𝒏𝒂̀𝒚, đ𝒂𝒏𝒈 𝒌𝒉𝒊 𝒄𝒂́𝒄 𝑻𝒐̂𝒏𝒈 Đ𝒐̂̀ 𝒄𝒂̂̀𝒖 𝒏𝒈𝒖𝒚𝒆̣̂𝒏, 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒏𝒈𝒖̛̣ 𝒙𝒖𝒐̂́𝒏𝒈 𝒕𝒓𝒆̂𝒏 𝒄𝒂́𝒄 𝒏𝒈𝒂̀𝒊. 𝑮𝒊𝒐̛̀ đ𝒂̂𝒚, 𝒙𝒊𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒖̃𝒏𝒈 𝒕𝒉𝒖̛𝒐̛𝒏𝒈 𝒄𝒖̛̉ 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 đ𝒆̂́𝒏, đ𝒆̂̉ 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒉𝒖̛𝒐̛́𝒏𝒈 𝒅𝒂̂̃𝒏 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒔𝒖𝒐̂́𝒕 𝒄𝒂̉ 𝒏𝒈𝒂̀𝒚 𝒉𝒐̂𝒎 𝒏𝒂𝒚. 𝑪𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒂̂̀𝒖 𝒙𝒊𝒏 𝒏𝒉𝒐̛̀ Đ𝒖̛́𝒄 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖 𝑲𝒊-𝒕𝒐̂, 𝑪𝒐𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒗𝒂̀ 𝒍𝒂̀ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒔𝒖̛̣ 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒄𝒖̉𝒂 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
@ 𝐓𝐢𝐞̂̉𝐮 𝐬𝐮̛̉
𝐶𝑢̀𝑛𝑔 𝑣𝑜̛́𝑖 ℎ𝑎𝑖 𝑚𝑢̛𝑜̛𝑖 ℎ𝑎𝑖 𝑣𝑖̣ 𝑡𝑢̛̉ đ𝑎̣𝑜 𝑈-𝑔𝑎̆𝑛𝑔-đ𝑎 𝑛𝑎̀𝑦, 𝑡𝑟𝑎𝑛𝑔 𝑠𝑢̛̉ 𝑣𝑒̂̀ 𝑐𝑎́𝑐 𝐶ℎ𝑢̛́𝑛𝑔 𝑁ℎ𝑎̂𝑛 𝑇𝑢̛̉ Đ𝑎̣𝑜 𝑛ℎ𝑢̛̃𝑛𝑔 𝑡ℎ𝑒̂́ 𝑘𝑦̉ đ𝑎̂̀𝑢 𝑙𝑎̣𝑖 𝑡𝑎́𝑖 𝑑𝑖𝑒̂̃𝑛. 𝑅𝑎̂́𝑡 𝑛ℎ𝑖𝑒̂̀𝑢 𝑣𝑖̣ 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 𝑠𝑜̂́ đ𝑜́ 𝑐ℎ𝑖̉ 𝑚𝑜̛́𝑖 𝑙𝑎̀ 𝐾𝑖-𝑡𝑜̂ ℎ𝑢̛̃𝑢 đ𝑢̛𝑜̛̣𝑐 𝑖́𝑡 𝑙𝑎̂𝑢. 𝐵𝑜̂́𝑛 𝑣𝑖̣ 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 𝑠𝑜̂́ đ𝑜́ đ𝑢̛𝑜̛̣𝑐 𝑡ℎ𝑎́𝑛ℎ 𝐶𝑎-𝑟𝑜̂-𝑙𝑜̂ 𝐿𝑜𝑎𝑛-𝑔𝑎 𝑡ℎ𝑎𝑛ℎ 𝑡𝑎̂̉𝑦 𝑛𝑔𝑎𝑦 𝑡𝑟𝑢̛𝑜̛́𝑐 𝑙𝑢́𝑐 ℎ𝑎̀𝑛ℎ ℎ𝑖̀𝑛ℎ. 𝑃ℎ𝑎̂̀𝑛 𝑙𝑜̛́𝑛 𝑐𝑎́𝑐 𝑣𝑖̣ 𝑏𝑖̣ 𝑡ℎ𝑖𝑒̂𝑢 𝑠𝑜̂́𝑛𝑔 𝑜̛̉ 𝑁𝑢-𝑚𝑢𝑛-𝑔𝑢𝑛-𝑔𝑜̂ (𝑛𝑎̆𝑚 1886) 𝑡ℎ𝑢𝑜̣̂𝑐 𝑙𝑜̛́𝑝 𝑡𝑢𝑜̂̉𝑖 𝑡𝑢̛̀ 𝑚𝑢̛𝑜̛̀𝑖 𝑠𝑎́𝑢 đ𝑒̂́𝑛 ℎ𝑎𝑖 𝑚𝑢̛𝑜̛𝑖 𝑏𝑜̂́𝑛. 𝑉𝑖̣ 𝑡𝑟𝑒̉ 𝑛ℎ𝑎̂́𝑡 𝑡𝑒̂𝑛 𝑙𝑎̀ 𝐾𝑖-𝑑𝑖-𝑡𝑜̂ 𝑚𝑜̛́𝑖 𝑐𝑜́ 𝑚𝑢̛𝑜̛̀𝑖 𝑏𝑎 𝑡𝑢𝑜̂̉𝑖.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐓𝐮̛ 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐈𝐗 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐥𝐞̉
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝐓𝐛 𝟑, 𝟏-𝟏𝟏. 𝟏𝟔; 𝐌𝐜 𝟏𝟐, 𝟏𝟖-𝟐𝟕.
Trong thời Cựu Ước, niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời sau được mặc khải cách tiệm tiến, từ từ chưa rõ ràng. Đến thời Tân Ước, Chúa Giê-su mặc khải cách rõ ràng, Ngài đã cho người chết sống lại (con trai bà góa thành Na-im và anh La-da-rô) và chính Ngài đã chết, 3 ngày sau sống lại. Các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy, một khi con người không có niềm tin vào sự sống lại dễ bị đau khổ và nhầm lẫn trong cuộc sống. Trong bài đọc 1, hai người đau khổ đều muốn đi đến cái chết, vì họ không tin vào sự sống lại (họ chưa hiểu rõ thì đúng hơn). Người thứ nhất, Tô-bít gặp nhiều đau khổ, mù mắt, bị người đời châm biếm, bị vợ mỉa mai, nên ông chỉ biết cầu xin Chúa cho ông chết đi; người thứ hai, cô Xa-ra có 7 đời chồng đều qua đời. Cô bị người đời khinh chê là sát phụ và mỉa mai đủ lời, nên cô định tự tử, nhưng rồi nghĩ đến cha già cô cầu nguyện xin Chúa cất cô ra khỏi đời này. Thiên Chúa đoái nghe lời cầu nguyện của hai người và cho thiên thần Ra-pha-en đến cứu. Trong Tin Mừng, nhóm Sa-đốc không tin vào sự sống đời sau đến gài bẫy Chúa, nhưng được Chúa Giê-su dạy một bài học đích đáng.
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Khi ấy, có những người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Họ hỏi Người : “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta rằng : “Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ goá mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.” Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không có con nối dòng. Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không có con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. Cả bảy người đều không có con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ ? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.” Đức Giê-su nói : “Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao ? Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao ? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào ? Người phán : ‘Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp’. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to !”
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Tin Mừng hôm qua, 2 nhóm Biệt phái và Herode chất vấn gài bẫy Đức Giê-su. Hôm nay, nhóm Xa-đốc hạch hỏi cũng cố tình gài bẫy Đức Giê-su. Nhóm Xa-đốc, họ là ai và làm gì? Họ gồm giới giáo sĩ cấp cao, phần lớn các tư tế ở Giêrusalem và nhiều kỳ mục. Nét chung của họ là tính bảo thủ, họ chống lại mọi thay đổi về mặt thần học, phụng tự hay chính trị. Họ có thái độ hòa hoãn với người Rôma, có thể là để duy trì địa vị, bổng lộc. Dầu sao càng ngày họ càng xa rời dân chúng, uy tín của họ chỉ dựa trên chức vụ tư tế mà họ đảm nhận. Bởi vậy khi Đền thờ sụp đổ năm 70, nhóm này cũng biến mất khỏi lịch sử. Họ chỉ tin vào Bộ Ngũ Thư (5 sách Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân số, Đệ Nhị Luật) Họ không chấp nhận các sách về sau, tức là Các Sách Ngôn sứ và Các Thư văn khác. Vì nghĩ rằng niềm tin vào sự sống lại không được nói đến trong Bộ Ngũ Thư, nên họ cho rằng đó là một chuyện mới mẻ người ta thêm vào sau, chứ không đặt cơ sở trên mặc khải của Thiên Chúa cho ông Mô-sê.
Nhóm Xa-đốc đưa một luật trong Bộ Luật Môsê làm cơ sở cho câu truyện họ sắp kể ra. Luật đó được trích trong Sách Đệ Nhị Luật (25, 5-6): “Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng. Đứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ không bị xoá khỏi Israel.” Dựa vào điều này, họ đặt ra một câu chuyện: “Có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không có con nối dòng. Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không có con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. Cả bảy người đều không có con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ ? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.” Họ lấy làm khoái trá và tin Đức Giê-su khó mà trả lời giải thích được.
Đức Giê-su thừa hiểu các ông muốn thử thách và gài bậy, Ngài điềm tĩnh cho các ông biết các ông không hiểu Kinh Thánh mà đòi làm thầy trong dân và không biết quyền năng của Thiên Chúa ra sao. Trong Kinh Thánh, nhất là trong sách Sáng Thế đã mô tả Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Ngài đã dựng nên mọi sự từ không thành có, trong đó có con người. Đây là Công trình Sáng tạo. Như vậy, Ngài không thể cho con người sống lại sao? Thiên Chúa làm chủ cả sự sống lẫn sự chết. Người Xa-đốc quan niệm sai về sự sống lại. Họ nghĩ rằng: Sự sống lại chính là “cuộc sống này kéo dài”. Trong cuộc sống này, người ta dựng vợ gả chồng để duy trì nòi giống thế nào thì trong cuộc sống lại đó, người ta cũng phải dựng vợ gả chồng như thế. Chúa Giêsu đã hé mở cho nhóm Xađốc biết, trong cuộc sống lại đó, nó không phải là cuộc sống này kéo dài, mà người ta bước vào đời sống mới. Chúa Giêsu không nói rõ lúc đó người ta sẽ như thế nào, mà Ngài chỉ hé mở cho biết: Người ta sẽ sống như các Thiên Thần trên trời, có nghĩa đó là cuộc sống thần linh. Người ta sẽ không còn phải chết nữa. Và vì không chết nữa nên việc duy trì nòi giống không cần thiết, đời sống hôn nhân không cần phải có trong đời sau.
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu, luôn có, luôn sống, thì những kẻ thuộc về Ngài cũng phải sống chứ không thể chết. Thiên Chúa là Đấng toàn năng, người làm chủ cả sự sống lẫn sự chết. nếu Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa, vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết, thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải chết.
Tạ ơn Thiên Chúa đã dựng nên mọi sự, trong đó có chúng ta. Tạ ơn Ngài vì đã chọn chúng ta làm con Ngài qua bí tích Rửa tội. Xin cho chúng ta biết quý trọng sự sống làm người và làm con Chúa ở đời này. Quyết tâm sống trung thành trong đức tin, đặt niềm hy vọng vào sự sống lại mai sau, luôn yêu mến phụng thờ Chúa và phục vụ tha nhân hết tình.
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒖̛́𝒖 đ𝒐̣̂, 𝒙𝒊𝒏 𝒏𝒉𝒂̣̂𝒎 𝒍𝒐̛̀𝒊 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝒙𝒊𝒏 𝒃𝒊𝒆̂́𝒏 đ𝒐̂̉𝒊 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒕𝒉𝒂̀𝒏𝒉 𝒏𝒉𝒖̛̃𝒏𝒈 𝒌𝒆̉ 𝒅𝒐̃𝒊 𝒕𝒉𝒆𝒐 𝒂́𝒏𝒉 𝒔𝒂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒅𝒂́𝒎 𝒍𝒂̀𝒎 đ𝒊𝒆̂̀𝒖 𝒄𝒉𝒂̂𝒏 𝒕𝒉𝒂̣̂𝒕, 𝑪𝒉𝒖́𝒂 đ𝒂̃ 𝒔𝒊𝒏𝒉 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒓𝒂 𝒍𝒂̀𝒎 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒂́𝒊 𝒔𝒖̛̣ 𝒔𝒂́𝒏𝒈, 𝒕𝒉𝒊̀ 𝒙𝒊𝒏 𝒄𝒉𝒐 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒖̃𝒏𝒈 𝒄𝒂𝒏 đ𝒂̉𝒎 𝒍𝒂̀𝒎 𝒄𝒉𝒖̛́𝒏𝒈 𝒄𝒉𝒐 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒕𝒓𝒖̛𝒐̛́𝒄 𝒎𝒂̣̆𝒕 𝒎𝒐̣𝒊 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊. 𝑪𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒂̂̀𝒖 𝒙𝒊𝒏 𝒏𝒉𝒐̛̀ Đ𝒖̛́𝒄 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖 𝑲𝒊-𝒕𝒐̂, 𝑪𝒐𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒗𝒂̀ 𝒍𝒂̀ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒔𝒖̛̣ 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒄𝒖̉𝒂 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
Lm. Nhan Quang