Tin Cộng Đoàn
Tin Cộng Đoàn
- Viết bởi Trầm Hương Thơ
- Viết bởi Dân Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đại dịch vi trùng Corona đang hoành hành đe dọa sức khoẻ đời sống nhân loại trên toàn thế giới từ hơn hai năm nay.
Cũng từ ngày 24.02.2022, chiến tranh bùng phát xảy ra bên đất nước Ukraina. Chiến tranh gây ra thảm cảnh nhà cửa đường xá bị bom đạn phá hủy, đời sống gặp khủng hoảng dẫn đến thảm họa loạn lạc chạy trốn tìm nơi trú ẩn tránh bom đạn cho hàng trăm ngàn con người bên đất nước đó, và nhiều người tử vong... Nền hòa bình trên thế giới vì thế trở nên bấp bênh bị lâm nguy đe dọa.
Và ngày thứ bẩy 05.03.2022 cha Franz Nguyễn ngọc Thủy đã được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa vũ trụ và con người, gọi trở về quê hương trên trời, nơi là nguồn bình an, sau hơn 63 năm hành trình trên trần gian (* 30.08.1958 - + 05.03.2022), và sau gần 24 năm là linh mục trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Cha Franz Nguyễn ngọc Thủy là tu sĩ Dòng Vincenz Pallotiner. Nhưng từ 2001 cha được cắt cử làm nhiệm vụ lo việc mục vụ cho người Công giáo Việt Nam thuộc hai giáo phận Paderborn - Essen.
Cha Franz Nguyễn ngọc Thủy đã luôn sống lòng yêu mến trung thành với ơn gọi là Tu sĩ Dòng, là linh mục của Chúa, là vị Tuyên úy mẫn cán nhiệt thành lo việc mục vụ ban các Bí Tích cho giáo dân cho đến ngày cuối cùng nghe theo tiếng Chúa kêu gọi ra đi khỏi cuộc sống trần gian.
Cha Franz đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian. Nhưng những hình ảnh kỷ niệm ngày xưa với cha Thủy như cuốn phim giờ đây quay hiện ra lại trong trí khôn tâm hồn những người giáo dân Công giáo Việt Nam ở vùng Cộng Đồng mục vụ Paderborn-Essen với lòng nhớ nhung và biết ơn.
Họ trong dòng nước ngậm ngùi đau buồn tang tóc chia ly từ biệt người cha tinh thần của mình, mà từ hơn hai thập niên qua cha con đã cùng chung sống thực hành con đường sống đạo gìn giữ phát triển nếp sống đức tin vào Thiên Chúa nguồn tình yêu thương.
Vùng Cộng Đồng mục vụ Thánh Micae trên địa bàn hai giáo phận Paderborn-Essen là quê hương, là gia đình tinh thần đức tin của Cha Franz Thủy,
nơi đây cha cùng với những người giáo dân đã sống gắn bó trải qua những bước đường đời sống đạo, cũng như tình người với những buồn vui thăng trầm,
nơi đây cha con đã cùng nhau trải qua những giờ phút căng thẳng lo âu, cũng như niềm vui mừng hạnh phúc trong nụ cười tình thân ái,
nơi đây cha con đã gặt hái thu lượm được bao kinh nghiệm qúi báu cho đời sống đạo, dù có những khác biệt trong suy nghĩ, trong hành động và trong lời nói trao đổi với nhau.
Và trong không khí gia đình thiêng liêng đức tin đó, cha con trong suốt hành trình hơn 20 năm đã cùng nhau đọc kinh cầu nguyện, cử hành các nghi lễ Bí tích thờ phượng Thiên Chúa tình yêu.
Cha Franz Thủy vào những năm tháng cuối cho tới ngày qua đời sức khoẻ trở nên yếu kém dần. Vì bệnh nạn làm cho sức lực thân thể bị ảnh hưởng hao mòn. Nhưng cha luôn bình tĩnh cố gắng chịu đựng vượt qua mong chu toàn việc bổn phận với lòng nhiệt thành của một người có trách nhiệm lo việc tinh thần đạo đức mục vụ cho giáo dân.
Có lẽ trong thời gian chịu đựng bệnh nạn, cha Franz Thủy đã suy nghĩ nhớ đến những đôi bàn tay trong đời mình.
Cha nhớ đến đôi bàn tay chan chứa tình yêu thương của cha mẹ ngày xưa đã sinh thành, nuôi dưỡng săn sóc dẫn dắt cha lớn lên đi vào đời, mà giờ đây các ngài đã qúa vãng thành người thiên cổ từ lâu nay, với lòng biết ơn sâu thẳm.
Cha nhớ đến đôi bàn tay Giáo Hội đã phong chức cho trở thành linh mục của Chúa cách đây gần 24 năm. Đôi bàn tay ân đức của Chúa ban cho cha chức thánh trở thành hiện thân của Chúa Kitô để ban các Bí Tích trong Giáo Hội. Nhớ đến trong niềm vui mừng biết ơn cùng lòng khiêm nhường, vì được Chúa kêu gọi sai đi làm việc phục vụ cho dân Chúa.
Cha nhớ đến những đôi bàn tay của những người giáo dân trong Cộng Đồng Thánh Micae vùng Paderborn-Essen đã cùng hằng đồng hành cộng tác lo việc sinh hoạt mục vụ sống đạo. Nghĩ nhớ tới đó với niềm vui mừng hãnh diện cùng lòng cảm kích cám ơn. Chính nhờ có những đôi bàn tay cùng cộng tác đó, công việc nếp sống mục vụ mới trôi chảy phát triển có kết qủa tốt đẹp.
Là con người trong lúc đau bệnh phải cố gắng trong âm thầm chịu đựng, cha nhiều lúc như chới với không biết bám vào đâu, nhưng có tiếng thầm thĩ an ủi nhắn nhủ vang lên trong tâm hồn: „Con hãy nắm lấy tay Ta. Ta là Đấng sinh thành ra con, đã nuôi sống đời con, đã kêu gọi con trở thành linh mục cho Ta. Ta sẽ cứu giúp con, sẽ dẫn đưa con đến bờ bến bình an vĩnh cửu…“
Có lẽ trong tâm hồn Cha Franz Thủy nhiều khi cũng đã nghe tiếng Thiên Chúa nói điều gì đó với mình… Và cha hằng cầu khấn kêu xin Thiên Chúa tình yêu nhờ lời bầu cử của Thánh Franz, bổn mạng của cha, xin Thiên Chúa ban ơn chúc lành trợ giúp cho chính bản thân mình, cho nhà Dòng Pallotiner, cho Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Thánh Micae vùng Paderborn-Essen, cho anh chị em con cháu gia đình mình, cho bạn bè cùng những người đã làm ơn cho mình trong đời sống.
Như thuật kể lại, không thấy cha đến dâng lễ như đã hẹn ấn định, người giáo dân sốt ruột đi tìm cha. Và khi đến nhà cha, mở cửa vào thấy cha ngã gục dưới nền nhà nằm ngồi bất tỉnh từ lúc nào rồi …Họ lúng túng hối hả gọi xe y tế cấp cứu đến đưa cha vào nhà thương. Nhưng những phương pháp y tế trị liệu cấp cứu đã không giúp cho cha hồi sinh trở lại được...
Cha Franz Thủy đã yên nghỉ ra đi về đời sau. Về phần thân xác cha trở thành người thiên cổ. Nhưng linh hồn được Thiên Thần Chúa dẫn đưa vào quê hương nguồn đời sống trên trời cao, trở về với Thiên Chúa, Đấng sinh thành, nuôi dưỡng và kêu gọi cha trở thành người thợ phục vụ trong khu vườn Giáo Hội Chúa trên trần gian.
Ngày xưa cách đây gần 24 năm trong vui mừng rộn rã hân hoan, cha đã cầm ngọn nến cháy sáng bước tiến lên bàn thờ Chúa nhận lãnh chức thánh Linh mục với tâm nguyện lòng khiêm nhượng:“ Lạy Chúa, này con đây. Này con xin đến để thi hành thánh ý Cha!”
Bây giờ sau hơn 63 năm lữ hành trên trần gian cha nằm xuôi hai tay chân bất động, không còn hơi thở nhịp tim đập trên giường bệnh, rồi được bao bọc trong cỗ áo quan đóng kín... Thảm cảnh u buồn này gây ra không khí đau buồn tang tóc cho người còn đang sống trên trần gian. Nhưng lại truyền đi sứ điệp tràn đầy lòng tin tưởng cậy trông của cha “ Trong tay ngài, lạy Chúa con xin phó thác hồn con!”
Có lẽ trong lúc ngã gục, có thể cha Franz Thủy trong tâm hồn nhận biết mình đang tiến gần tới ngưỡng cửa sự sống vĩnh cửu bên Thiên Chúa, nguồn đời sống, và có thể cha cũng có tâm tình: „Lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa đã kêu gọi con trở thành linh mục cho Chúa ở trần gian. Con xin phó dâng những người thân yêu trong gia đình con, trong các nơi con được phục vụ là linh mục trong bàn tay chan chứa tình yêu thương của Chúa, những người đã làm ơn cho con trong đời sống, cho nhà Dòng Palottiner của con, cho Cộng Đồng Công giáo Việt Nam Thánh Micae ở hai giáo phận Paderborn-Essen…
Đến đây con không còn có thể tiếp tục được nữa. Xin Chúa hoàn tất những gì Chúa đã khởi sự ngày con lãnh nhận làn nước Bí Tích rửa tội đức tin vào Chúa năm xưa, ngày con được nhận chức thánh Linh mục năm xưa cách đây hơn 23 năm.
Lạy Thiên Chúa tình yêu, con xin trao gửi đời con trong đôi bàn tay nhân lành của Chúa, cùng tất cả những gì con đã lãnh nhận, những gì con có. Ngày xưa từ cung lòng mẹ con đi vào đời sống trên trần gian với hai bàn tay không. Bây giờ nghe tiếng Chúa kêu gọi, con trở về bên Chúa cũng với hai bàn tay không. Xin Chúa tha thứ những lỗi lầm khiếm khuyết tội lỗi con đã vấp phạm, và xin đón nhận con. Con là con của Chúa. Con là đứa đầy tớ vô dụng…“
Và trong thâm tâm lúc cuối cùng nằm gục ngã có lẽ Cha Thủy cũng đã có suy niệm tâm tình:
Tôi xin cám ơn sự nâng đỡ cùng tấm lòng yêu thương qúi mến, sự nâng đỡ mọi người đã dành cho tôi trong suốt dọc đời sống của tôi trên trần gian.
Tôi vui mừng hạnh phúc được phục vụ cùng sống đạo đức tin Công giáo với anh chị em giáo dân Việt Nam ở cộng đồng Thánh Micae vùng Paderborn-Essen từ hơn 20 năm qua.
Tôi cũng vui mừng từ hơn hai chục năm nay được cùng đồng hành sống tình nghĩa gia đình anh chị em linh mục tu sĩ nam nữ Việt Nam ở nước Đức. Đức tin vào Thiên Chúa, ơn kêu gọi nếp sống tu trì liên kết chúng ta lại với nhau, thật đẹp tuyệt vời và cao cả!
Tôi xin mọi người tha thứ cho tôi, vì những lỗi lầm khiếm khuyết qua lời nói cũng như qua hành động việc làm, mà tôi đã vô tình vấp phạm gây ra sự xích mích hay hiểu nhầm làm phiền lòng mọi người.
Xin mọi người cầu nguyện cho linh hồn tôi được Thiên Chúa ban ơn tha thứ, cứu chuộc cho về sống trên nước Chúa hằng sống!
Vâng, xin cám ơn Cha Franz Thủy. Xin cúi đầu trong dòng nước mắt nghẹn ngào từ gĩa chào biệt Cha, cùng dâng lời kinh vực sâu nguyện cầu nhớ về Cha.
Bên ngai Thiên Chúa xin cha là trạng sư cầu nguyện cho chúng tôi, những người còn đang trên đường lữ hành ở trần gian.
Xin thành kính phân ưu cùng thân nhân gia đình Cha qúa cố Franz Nguyễn ngọc Thủy, cùng Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Thánh Micae vùng Paderborn-Essen.
„Nhục thể ly trần lưu cát bụi
Hồn thiêng thoát tục nhập thiên cung."
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Người bạn của cha Franz Thủy
- Viết bởi Dân Chúa
Trong niềm tín thác vào Chúa Kitô đã chết và phục sinh,
gia đình chúng con xin kính báo:
Lm. Phanxicô Xaviê NGUYỄN NGỌC THỦY
Đã được Chúa thương gọi về Nhà Cha trên Trời lúc 15g Thứ bảy ngày 05 tháng 03 năm 2022
tại Bệnh viện Marien Hospital, Herne - Đức Quốc. Hưởng Thọ 64 tuổi
Chương trình thăm viếng từ 15g - 16g30 ngày thứ năm 10.03.2022
tại Nhà quàn, Am Trimbuschhof 1 - 44628 Herne
Thánh lễ an táng sẽ được cử hành lúc 15g thứ bảy ngày 12.03.2022
tại Thánh Đường St. Bonitafius - Glocken str. 7, 44623 Herne
Nghi thức hạ huyệt sẽ được cử hành tại Thánh địa nhà dòng Mẹ - Limburg vào một ngày khác.
Chúng con kính xin Quý Cha, Quý Tu sĩ Nam Nữ,
và toàn thể Quý Cộng đoàn Giáo dân, thân bằng quyến thuộc, bạn hữu xa gần cùng hiệp dâng lời cầu nguyện cho
Lm. Phanxicô Xaviê NGUYỄN NGỌC THỦY
sớm được về hưởng dung nhan Thánh Chúa.
TANG GIA ĐỒNG KÍNH BÁO
- Chị: Nguyễn Thị Ngọc Ánh, chồng và các con, cháu (Việt Nam)
- Em: Nguyễn Thị Ngọc Hồng, chồng và các con, cháu (Việt Nam)
- Em: Nguyễn Ngọc Thao, vợ và các con (Đức Quốc)
- Em: Nguyễn Thị Ngọc Tuyết, chồng và các con, cháu (Việt Nam)
- Em: Nguyễn Thị Ngọc Oanh, và các con, (Việt Nam)
- Em: Nguyễn Ngọc Thịnh, vợ và các con (Việt Nam)
- Con đỡ đầu: Lưu Hồng Ân, vợ và các con (Đức Quốc)
TÓM TẮT TIỂU SỬ
Lm. Phanxicô Xaviê NGUYỄN NGỌC THỦY
Sinh ngày 30.08.1958 tại Saigon, Việt Nam
- 1973 - 1975: Theo học chương trình bán trú tìm hiểu ơn gọi tại Tiểu Chủng Viện Thánh Giuse, Saigon
- Từ năm 1980: Định cư tại Hamburg - Đức Quốc và tiếp tục theo đuổi ơn gọi dưới sự linh hướng của
Cha Giuse Nguyễn Trung Điểm.
- 1983 - 1985: Theo học Triết Học tại Roma
- 1985: Thần Học tại Frankfurt.
- 1992 - 1998: Gia nhập dòng Pallottiner, Limburg - Đức Quốc
- 14.06.1998: Thụ Phong linh mục tại Vallendar (thuộc dòng Pallottiner)
- 1998 - 2001: Cha Phó ở Friedberg
- Từ tháng 09.2001: Nhận nhiệm vụ chăm sóc mục vụ cho người Việt Nam tại 2 Địa Phận Paderborn và Essen.
- 05.03.2022 Về nhà Cha trên trời lúc 15g tại Bệnh viện Marien Hospital, Herne - Đức Quốc.
Xin Dâng Lời Cảm Tạ và Chúc Tụng Thiên Chúa đến muôn ngàn đời, và Xin Thiên Chúa là Cha rất nhân từ trả công bội hậu cho những ai đã nâng đỡ, góp công sức và cầu nguyện cho cả một cuộc đời Dâng Hiến cho Chúa và Giáo Hội của Lm. Phanxicô Xaviê NGUYỄN NGỌC THỦY được trọn vẹn đến cùng trong Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa.
- Cáo phó này thay thế thiệp tang. Xin miễn phúng điếu cũng như vòng hoa. Chân thành đa tạ.
- Viết bởi Dân Chúa
Kính thưa :
· Quý Cha, Quý Cha Tuyên Úy, Quý Tu Sĩ Nam Nữ
· Qúy vị cố vấn, qúy vị đại biểu
· Quý ban đại diện các cộng đoàn, hội đoàn và ca đoàn
· Quý ủy viên, phụ tá, cộng tác viên và các ban
· Toàn thể quý ông bà anh chị em trong và ngoài Cộng Đồng Thánh Micae
Trong niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh,
Ban Chấp Hành Cộng Đồng Thánh Micae kính báo :
Cha Tuyên Úy Phanxico Xavier Nguyễn Ngọc Thủy
Sinh ngày 30 tháng 08 năm 1958 tại Saigon , Viêt nam
Đã được Chúa gọi về vào lúc 15g00 ngày 05 tháng 03 năm 2022
tại thành phố Herne, tổng giáo phận Paderborn, Đức Quốc
Thánh Lễ Tiễn Biệt sẽ được cử hành tại nhà thờ St. Binofatius
Glockenstr. 7 – 44623 Herne-Mitte
vào lúc 15 giờ ngày thứ bảy 12.03.2022
Sau Thánh Lễ, linh cửu của Cha Phanxico Xavier Nguyễn Ngọc Thủy sẽ được di quan, và an táng tại nghĩa trang nhà dòng Pallottiner.
Nếu có thêm thông tin mới Ban Chấp Hành sẽ cấp thời báo tin.
Thay mặt Ban Chấp Hành trân trọng kính báo
Potsdamer Str. 8
Handy : 0176 3456 9558
- Viết bởi Dân Chúa
Trong nỗi bàng hoàng và thương tiếc Ban Chấp Hành Cộng Đồng xin thông báo đến toàn thể Quý ông bà anh chị em :
Cha Tuyên uý Phanxico Xavier Nguyễn Ngọc Thủy đã đột ngột được Chúa gọi về chiều hôm nay 05.03.2022 lúc 15 giờ tại nhà thương St Marien Herne.
Chúng con phó thác linh hồn Phanxico Xavier, mà Chúa đã gọi ra khỏi thế gian này về bên Chúa. Xin cho inh hồn Phanxico Xavier mà chúng con cầu nguyện hôm nay, được bước qua sự chết bình an và được vào cõi trường sinh mà Chúa đã hứa ban cho những người trông cậy nơi Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng con.
Trong những ngày kế tiếp nếu có thông tin về Tang lễ của Cha sẽ báo đến Anh Chị Em.
Trân trọng thông báo.
- Viết bởi Nguồn: VietCatholic
Biến cố thương tâm của Cha Giuse Trần Ngọc Thanh: Hãy nâng đỡ các linh mục
Hung thủ là một kẻ bị tâm thần. Đó là cách giải thích đơn giản nhất, phủi tay mọi sự, bất kể kẻ bị cho là “tâm thần” là người biết chơi Facebook, và nhất là biết chém những cú trí mạng vào những chỗ nhược kết liễu mạng sống của một linh mục mới có 41 tuổi.
Đâu là nguyên nhân thật sự dẫn đến cái chết của Cha Giuse Trần Ngọc Thanh là câu hỏi mà nhiều người đặt ra với chúng tôi, kể cả các thông tấn xã lớn trên thế giới.
Trước mắt, chúng ta cần nhận ra điều này, đại dịch coronavirus kéo dài đang thay đổi sâu sắc điều kiện xã hội. Chúng ta bị cô lập nhiều hơn, bị tước đoạt nhiều quyền công dân chính đáng; và các nhà cầm quyền có trong tay nhiều phương tiện đàn áp hơn nhân danh cuộc chiến chống coronavirus.
Bàn về hiện trạng ngày nay của các linh mục, Đức Hồng Y Gualtiero Bassetti, tổng giám mục của Perugia-Città della Pieve và là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ý, gọi tắt là CEI /si-e-i/, đã nhận định rằng:
“Các linh mục chúng ta ngày nay đang có nhiều vấn đề, nhưng trên hết là một sự cô đơn không thể tưởng tượng nổi”.
Gần gũi với các ngài, nâng đỡ các ngài, bảo vệ các ngài, cầu nguyện cho các ngài thiết tưởng là những điều cần thiết nhất chúng ta nên làm ngay.
Nguồn: VietCatholic
- Viết bởi Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Khác biệt giữa Công giáo, Chính thống giáo và Anh giáo
Thứ Hai, 21-08-2017 | 20:15:17
Cả ba Nhánh Kitô Giáo Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành, từ đầu, đều thuộc Đạo Thánh của Chúa Kitô gọi chung là Kitô Giáo ( Christianity ). Nhưng theo dòng thời gian, đã có những biến cố gây ra tình trạng rạn nứt hay ly giáo ( schisms ) hoặc những cải cách (reformations ) đáng tiếc xảy ra khiến Kitô Giáo bị phân chia thành 3 Nhánh chính trên đây. Ngoài ra, còn một nhánh Kitô Giáo nữa là Anh Giáo ( Anglican Communion ) do vua Henri VIII ( 1491-1547 ) của nước Anh chủ xướng năm 1534 để lập một Giáo Hội riêng cho nước Anh, tách khỏi Rôma chỉ vì Tòa Thánh Rôma ( Đức Giáo Hoàng Clement VII ) không chấp nhận cho nhà vua ly dị để lấy vợ khác.
Cho đến nay, các nhóm ly khai trên vẫn chưa hiệp thông được với Giáo Hội Công Giáo vì còn nhiều trở ngại chưa vượt qua được. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng giới hạn trong câu hỏi được đặt ra, tôi chỉ xin nên sau đây những dị biệt căn bản giữa ba Nhánh Kitô Gíáo lớn trên đây mà thôi.
I. Chính Thống ( orthodoxy ) khác biệt với Công Gíáo Rôma ( Roman Catholicism ) ra sao ?
Trước hết, danh xưng Chính Thống “Orthodoxy”, theo ngữ căn (etymology) Hy Lạp “orthos doxa”, có nghĩa là “ca ngợi đúng” (right-praise), “tin tưởng đúng” (right belief). Danh xưng này được dùng trước tiên để chỉ lập trường của các Giáo Đoàn Kitô đã tham dự các Công Đồng Đại Kết (Ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và nhất là Chalcedon (451) trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân chính (sound doctrines), tinh tuyền của Kitô Gíáo để chống lại những gì bị coi là tà thuyết hay lạc giáo (heresy). Do đó, trong bối cảnh này, từ ngữ “orthodoxy” được dùng để đối nghịch với từ ngữ “heresy” có nghĩa là tà thuyết hay lạc giáo.
Nhưng sau biến cố năm 1054 khi hai Giáo Hội Kitô Giáo Hy Lạp ở Constantinople ( tượng trưng cho Đông Phương ) và Giáo Hội Công Giáo Rôma ( Tây Phương ) đã xung đột và ra vạ tuyệt thông cho nhau ( anthemas = excommunications ) ngày 16 tháng 7 năm 1054 giữa Michael Cerularius, Thượng Phụ Constantinople và Đức cố Giáo Hoàng Leo IX vì có những bất đồng lớn về tín lý, thần học và quyền bính, thì danh xưng “Chính Thống” ( orthodoxy ) lại được dùng để chỉ Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople đã tách ra khỏi hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo Rôma. Sau này, Giáo Hội “Chính Thống” Hy Lạp ở Constantinople đã lan ra các quốc gia trong vùng như Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Cyprus, Finland, Latvia, Lithuania, Rumania, Bulgaria, Serbia, Ukraine… Vì thế, ở mỗi quốc gia này cũng có Giáo Hội Chính Thống nhưng độc lập với nhau về mọi phương diện. Nghĩa là không có ai là người lãnh đạo chung của các Giáo Hội này, mặc dù họ có tên gọi chung là các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches ) tách khỏi khỏi Giáo Hội Công Giáo Rôma. ( Tây Phương )
Tuy nhiên, hiện nay Thượng Phụ ( Patriarch ) Giáo Hội Chính Thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul được coi là Thượng Phụ Đại Kết ( Ecumenical Patriarch ) của các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương. Cách nay 5 năm Đức Thánh Cha Benedict 16 ( đã về hưu năm 2012 ) đã sang thăm Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Thổ để tỏ thiện chí muốn đối thoại, đưa đến hiệp thông giữa hai Giáo Hội anh em. Riêng Giáo Hội Chính Thống Nga, cho đến nay, vẫn chưa tỏ thiện chí muốn xích gần lại với Giáo Hội Công Giáo Rôma, vì họ cho rằng Công Giáo muốn “lôi kéo” tín đồ Chính Thống Nga vào Công Giáo sau khi chế độ CS ở Nga tan rã, tạo điều kiện thuận lợi cho Giáo Hội Chính Thống Nga hành Đạo. Dầu vậy, một biến cố mới xẩy ra trong năm qua ( 2016 ) là Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp Thượng Phụ Giáo Hội Chính Thống Nga tại Mexico, nhưng kết quả của cuộc gặp gỡ lịch sử này giữa hai vị lãnh đạo Công Giáo và Chính Thống Nga không được công bố sau đó. Nhưng đây là một dấu chỉ tích cực giữa hai Giáo Hội anh em.
Trước khi xẩy ra cuộc ly giáo năm 1054, hai nhánh Kitô giáo lớn ở Đông và Tây phương (The Greek Church and the Holy See = Rôma) nói trên vẫn hiệp thông trọn vẹn với nhau về mọi phương diện vì cả hai Giáo Hội anh em này đều là kết quả truyền giáo ban đầu của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô (Peter) đã rao giảng Tin Mừng ở vùng đất nay là lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo Rôma, trong khi em ngài, Thánh Anrê (Andrew) sang phía Đông để rao giảng trước hết ở Hy Lạp và sau đó phần đất nay là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế, cả hai Giáo Hội Kitô Giáo Đông Phương Constantinople và Tây Phương Rôma đều có nguồn gốc Tông Đồ thuần túy (Apostolic succession).
Sau đây là những điểm gây bất đồng khiến đi đến ly giáo (schism) Đông Tây:
Về Tín Lý
Giáo Hội Chính Thống Đông Phương – tiêu biểu ban đầu là Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople, đã bất đồng với Giáo Hội Công Giáo Rôma về từ ngữ “Filioque” ( và Con ) thêm vào trong Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha, và Chúa Con mà ra”.
Giáo Hội Chính Thống Đông Phương cũng không công nhận các tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai ( Immaculate Conception ) và Lên Trời cả hồn xác ( Assumption ) mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa ( Theotokos ). Sở dĩ thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng công bố với ơn bất khả ngộ ( Infallibility ) mà Công Đồng Vaticanô I ( 1870 ) đã nhìn nhận.
Chính vì họ không công nhận quyền và vai trò lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma, nên đây là trở ngại lớn nhất cho sự hiệp nhất ( unity ) giữa hai Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinople khi đó là Athenagoras I năm 1966.
Giáo Hội Chính Thống có đủ bảy Bí Tích hữu hiệu như Công Giáo. Tuy nhiên, với Bí Tích Rửa Tội thì họ dùng nghi thức dìm xuống nước ( immersion ) 3 lần để nhấn mạnh ý nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi Giáo Hội Công Giáo chỉ dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để vừa chỉ sự tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân ( đối với người tân tòng ) và tái sinh vào sự sống mới, mặc lấy Chúa Kitô.
Chính vì Giáo Hội Chính Thống có đủ các Bí Tích hữu hiệu như Công Giáo, nên Giáo Dân Công Giáo được phép tham dự Thánh Lễ và lãnh các Bí Tích Hòa Giải và Xức Dầu của Chính Thống nếu không tìm được Nhà Thờ Công Giáo hay Linh Mục Công Giáo khi cần.
Về Phụng Vụ
Giáo Hội Chính Thống dùng bánh có men ( leavened bread ) và ngôn ngữ Hy Lạp khi cử hành Phung Vụ, trong khi Giáo Hội Công Giáo dùng bánh không men (unleavened bread) và tiếng Latinh trong Phụng Vụ Thánh trước Công Đồng Vaticanô II, và nay là các ngôn ngữ của mọi tín hữu thuộc mọi nền văn hóa, chủng tộc khác nhau, trong đó có tiếng Việt Nam.
Sau hết, về mặt kỷ luật Giáo Sĩ
Các Giáo Hội Chính Thống cho phép các Phó Tế và Linh Mục được kết hôn trừ Giám Mục, trong khi kỷ luật độc thân ( celibacy ) lại được áp dụng cho mọi cấp bậc trong hàng Giáo Sĩ và Tu Sĩ Công Giáo, trừ Phó Tế Vĩnh Viễn ( permanent deacons ).
Đó là những khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo Rôma cho đến nay.
Tuy nhiên, dù có những khác biệt và khó khăn trên đây, Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc Tông Đồ và về nền tảng Đức Tin, Giáo Lý, Bí Tích và Kinh thánh. Vì thế, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính Thống, sự hiệp thông này sâu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy đủ để có thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô” ( x. SGL GHCG, số 838 ).
II. Tin Lành ( Protestantism ) và những khác biệt với Công Giáo
Đúng ra chúng ta phải gọi nhánh này là Giáo Hội Cải Cách ( Reform Church ) hoặc Giáo Hội Thệ Phản ( Protestantism ). Tin Lành chỉ là một hệ phái lớn trong nhánh Kitô Giáo này, nhưng vì người Tin Lành sang Việt Nam sớm nhất, phát triển mạnh và nhanh, nên người Việt mình quen gọi chung tất cả các hệ phái ấy bằng tên gọi là Tin Lành ( ghi chú thêm của Ephata ).
Nói chung, là Nhánh Kitô Gíáo này đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo sau những cuộc cải cách tôn giáo do Martin Luther, một Linh Mục Dòng Thánh Augustinô, chủ xướng vào năm 1517 tại Đức, và lan sang Pháp với John Calvin, và Thụy Sỹ với Ulrich Zwingli và các nước Bắc Âu sau đó. Hiện nay có hàng chục ngàn giáo phái này ở Mỹ, hoạt động với nhiều danh xưng khác nhau, nhưng cùng ít nhiều có liên hệ đến nguồn gốc thệ phản ( protestantism ) nói trên. Một đặc điểm của các Giáo Phái Tin Lành là họ không có hệ thống giáo quyền ( Hierachy ) chung như Giáo Hội Công Giáo có hàng giáo phẩm tối cao từ trung ương Rôma cho đến các Giáo Hội địa phương ở mỗi quốc gia. Các nhánh Tin Lành hầu như độc lập với nhau về quyền bính, nhân sự, tài chính và phương thức hành đạo.
Ở góc độ thần học
Những người chủ trương cải cách ( reformations ) trên đã hoàn toàn bác bỏ mọi nền tảng thần học về Bí Tích và cơ cấu tổ chức Giáo Quyền ( Hierachy ) của Giáo Hội Công Giáo. Họ chống lại vai trò trung gian của Giáo Hội trong việc hòa giải con người với Thiên Chúa qua Bí Tích Tha Tội hay Hòa Giải ( reconciliation ) vì họ không nhìn nhận Bí Tích Truyền Chức Thánh ( Holy Orders ) qua đó Giám Mục, Linh Mục được truyền chức thánh và có quyền tha tội nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christi ) cũng như thi hành mọi sứ vụ ( ministry) thiêng liêng khác ( Rửa Tội, Thêm Sức, Thánh Thể, Xức Dầu Thánh, Chứng Hôn ).
Điểm căn bản trong nền thần học của Tin Lành là con người đã bị tội tổ tông phá hủy mọi khả năng hành thiện rồi ( làm việc lành ), nên mọi nỗ lực cá nhân để được cứu rỗi đều vô ích và vô giá trị. Do đó, chỉ cần tuyên xưng Đức Tin vào Chúa Kitô dựa trên Kinh Thánh là được cứu rỗi mà thôi. ( Sola fide, sola scriptura ).
Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo tin rằng con người vẫn có trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi. Nói khác đi, muốn được cứu độ, con người phải cậy nhờ trước hết vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, nhưng cũng phải có thiện chí cộng tác với ơn thánh để sống và thực thi những cam kết khi được rửa tội. Nếu không, Chúa không thể cứu ai được như Chúa Giêsu đã nói rõ: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ có ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” ( Mt 7, 21 ).
Nói khác đi, không phải rửa tội xong, rồi cứ hát Halleluia và kêu danh Chúa Kitô là được cứu độ. Điều quan trong hơn nữa là phải sống theo đường lối của Chúa, nghĩa là thực thi những cam kết khi được rửa tội: đó là mến Chúa, yêu người và xa lánh tội lỗi. Nếu không, tất cả sẽ ra vô ích.
Anh em Tin Lành không chia sẻ quan điển thần học này, nên họ chỉ chú trọng vào việc đọc và giảng Kinh Thánh nhưng không nhấn mạnh đến phần đóng góp của con người như Chúa Giêsu đòi hỏi trên đây. Ngoài Phép Báp-têm và Kinh Thánh, họ không tin và công nhận bất cứ một Bí Tích nào khác. Điển hình là Bí Tích Hòa Giải mà các Giám Mục và Linh Mục Công Giáo được phép tha tội cho các hối nhân nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christi ).
Lại nữa, vì không công nhận phép Thánh Thể, nên họ không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu, mặc dù một số Giáo Phái Tin Lành có nghi thức bẻ bánh và uống rượu nho khi họ tụ họp để nghe giảng Kinh Thánh. Nhưng đó không phải là cử hành Bí Tích Thánh Thể ( Eucharist ) như trong Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo Đông Phương. Sứ vụ quan trọng của họ chỉ là giảng Kinh Thánh vì họ chỉ tin có Kinh Thánh ( Sola Scriptura ) mà thôi.
Nhưng Kinh Thánh được cắt nghĩa theo cách hiểu riêng của họ, nên có rất nhiều mâu thuẫn hay trái ngược với cách hiểu và cắt nghĩa của Giáo Hội Công Giáo.
Thí dụ, câu Phúc Âm trong Mátthêu 22, 8-9 trong đó Chúa Giêsu dạy các Tông Đồ: “Không được gọi ai dưới đất là Cha, là Thầy…” thì anh em Tin Lành hiểu Lời Chúa trong ngữ cảnh ( context ) câu trên hoàn toàn theo nghĩa đen ( literal meaning ) nên đã chỉ trích Giáo Hội Công giáo là ‘lạc giáo = heretical” vì đã cho gọi Linh Mục là “Cha” ( Father, Père, Padre ) !
Thật ra, Giáo Hội cho phép gọi như vậy, vì căn cứ vào giáo lý của Thánh Phaolô, và dựa vào giáo lý này, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Tín lý Lumen Gentium đã dạy rằng: “Linh Mục phải chăm sóc Giáo Dân như những người cha trong Chúa Kitô vì đã sinh ra họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn” ( 1Cr 4, 15; LG số 28 ).
Một điểm khác biệt nữa trong cách đọc và hiểu Kinh Thánh của Tin Lành là câu Phúc Âm Thánh Marcô kể lại một ngày kia Chúa Giêsu đang giảng dạy cho một đám đông người thì Đức Mẹ cà các môn đệ của Chúa đến. Có người trong đám đông đã nói với Chúa rằng: “Thưa Thầy có mẹ và anh em, chị em của Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy” ( Mc 3, 32 ). Anh em Tin Lành đã căn cứ vào câu này để phủ nhận niềm tin Đức Mẹ trọn đời đồng trinh của Công Giáo và Chính Thống, vì họ cho rằng Mẹ Maria đã sinh thêm con cái sau khi sinh Chúa Giêsu. Nghĩa là họ chỉ tin Đức Mẹ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi. Thật ra cụm từ “anh chị em” trong ngữ cảnh ( context ) trên đây chỉ là anh chị em theo nghĩa thiêng liêng ( spiritual brotherhood, sisterhood ) và đây là cách hiểu và giải thích Kinh Thánh của Công Giáo và Chính Thống, khác với Tin Lành.
Sau hết, về mặt quyền bình, các Giáo Phái Tin Lành đều không công nhận Đức Giáo Hoàng là Đại Diện duy nhất của Chúa Kitô trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Người trên trần thế.
Chính vì không công nhận Đức Giáo Hoàng là Thủ Lãnh Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô nên đây là trở ngại lớn cho các nhánh Tin Lành muốn hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo.
Về Bí Tích:
Tất cả các nhóm Tin Lành và Anh Giáo đều không có các Bí Tích quan trọng như Thêm Sức, Thánh Thể, Hòa Giải, Xức Dầu bệnh nhân và Truyền Chức Thánh vì họ không có nguồn gốc Tông Đồ ( Apostolic succession ). Và quan trọng hơn nữa, người sáng lập của họ là người thường ( Martin Luther, John Calvin, Henry XIII ) chứ không phải là chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã lập Giáo Hội của Chúa trên Đá Tảng Phêrô ( Mt 16, 18-19 ) và “Giáo Hội này tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phêrô và các Giám Mục hiệp thông với ngài điều khiển” như Thánh Công Đồng Vaticanô II đã nhìn nhận ( x. LG số 8 ). Cho nên các nhánh Tin Lành và Anh Giáo đều không có chức Linh Mục và Giám Mục hữu hiệu để cử hành các Bí Tích trên.
Đa số các nhóm Tin Lành và Anh Giáo chỉ có phép rửa ( Baptism ) mà thôi. Nhưng nếu nhóm nào không rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi ( The Trinitarian Formula ) như nhóm Bahai Hullah, thì không thành sự ( invalidly ). Do đó, khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo, tín hữu Tin Lành nào không được rửa tội với nước và công thức trên thì phải được rửa tội lại như người dự tòng ( catechumens ). Nếu họ được rửa tội thành sự thì chỉ phải tuyên xưng Đức Tin khi gia nhập Công Giáo mà thôi.
Đó là những khác biệt căn bản giữa Công Giáo và Tin Lành nói chung. Tuy nhiên, Giáo Hội Công Giáo vẫn hướng về các anh em ly khai này và mong ước đạt được sự hiệp nhất với họ qua nỗ lực Đại Kết ( Ecumenism ) mà Giáo Hội đã theo đuổi và cầu nguyện trong nhiều năm qua.
Chúng ta tiếp tục cầu xin cho mục đích hiệp nhất này giữa những người có chung niềm tin vào Chúa Kitô nhưng đang không hiệp thông ( communion ) và hiệp nhất ( unity ) với Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội duy nhất Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng Tông Đồ Phêrô, do Đức Thánh Cha, cũng chính là Giám Mục Rôma coi sóc và lãnh đạo với sự cộng tác và vâng phục trọn vẹn của Giám Mục Đoàn ( College of Bishops ).
Lm. Phanxicô Xaviê NGÔ TÔN HUẤN (Nguồn: Trung tâm mục vụ dòng Chúa cứu thế)
Tags: Anh giáo, Chính thống giáo, Công giáo, Khác biệt
- Viết bởi Dân Chúa
Lịch sử ra đời ngày Tết
Tết Nguyên đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc khác. Chữ "Tết" do chữ "Tiết" mà thành. Hai chữ "Nguyên đán" có gốc chữ Hán; "nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là "Tiết Nguyên Đán" .
Vì Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
Nguyên nghĩa của từ "Tết" chính là "tiết". Văn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ cho đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho chúng tiêu xài ngày Tết. Tết ở 3 miền Bắc, Trung, Nam ở Việt Nam cũng có những điều khác nhau.Ý nghĩa ngày tết Việt Nam:Ở Việt Nam là những ngày lễ hội lớn cho cả nước. Những ngày ấy mọi xóm làng, nhà nhà, ai ai cũng nghỉ làm việc và vui vầy đoàn tụ. Ngày tết có tính thiêng liêng và là một dịp làm mới lại mọi việc.
Chính thức Tết là ngày lễ gồm ba ngày đầu tiên của năm mới âm lịch. Giây phút thiêng liêng nhất là đêm giao thừa, là lúc 0 giờ bắt đầu bước qua năm mới.
Người Việt ăn mừng Tết với niềm tin thiêng liêng Tết là ngày đoàn tụ, là ngày làm mới, là ngày tạ ơn và là ngày của hy vọng.
Ngày Đoàn Tụ - Tết luôn luôn là ngày đoàn tụ của mọi gia đình. Dù ai buôn bán, làm việc hay đi học ở xa, họ thường cố gắng dành tiền và thời giờ để về ăn Tết với gia đình. Đó là nỗi mong mỏi của tất cả mọi người, người đi xa cũng như người ở nhà đều mong dịp Tết gặp mặt và quây quần đoàn tụ.
Tết cũng là ngày đoàn tụ với cả những người đã mất. Từ bữa cơm tối đêm 30, trước giao thừa, các gia đình theo Phật giáo đã thắp hương mời hương linh ông bà và tổ tiên đã qua đời về ăn cơm vui Tết với các con các cháu.
Ngày Tết người ta cũng hay thực hiện những nghi lễ, để dâng hương lên các vị thần ban phúc cho gia đình được nhiều sức khỏe, nhiều tiền tài, nhiều may mắn và an vui hạnh phúc trong năm.
Ngày Làm Mới - Tết là ngày đầu tiên trong năm mới, mọi người có cơ hội ngồi ôn lại việc cũ và làm mới mọi việc. Việc làm mới có thể về hình thức như dọn dẹp, quét vôi, sơn sửa trang trí lại nhà cửa. Hoặc làm mới lại về phần tình cảm và tinh thần của con người, để mối liên hệ với người thân được cảm thông hơn hoặc để tinh thần mình thoải mái, thanh thản hơn. Sàn nhà được chùi rửa, chân nến và lư hương được đánh bóng. Bàn ghế tủ giường được lau chùi phủi bụi. Người lớn cũng như trẻ con đều tắm rửa gội đầu sạch sẽ, mặc quần áo mới may bảnh bao. Bao nhiêu mối nợ nần đều được thanh toán trước khi bước qua năm mới để xả xui hay để tạo một sự tín nhiệm nơi người chủ nợ. Với mỗi người, những buồn phiền, cãi vã được dẹp qua một bên. Tối thiểu ba ngày Tết, mọi người cười hòa với nhau, nói năng từ tốn, lịch sự để mong suốt năm sắp tới mối liên hệ được tốt đẹp. Người Việt tin rằng những ngày Tết vui vẻ đầu năm sẽ báo hiệu một năm mới tốt đẹp sắp tới.
Tết là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi vì thế câu nói mở miệng khi gặp nhau là mừng nhau thêm một tuổi. Người lớn có tục mừng tuổi cho trẻ nhỏ và các cụ già để chúc các cháu hay ăn chóng lớn và ngoan ngoãn, học giỏi, còn các cụ thì sống lâu và mạnh khoẻ để con cháu được nhờ phúc.
Ngày của lạc quan và hy vọng - Năm cũ đã qua mang theo mọi xui xẻo và năm tới sắp đến mang theo đầy niềm tin lạc quan. Nếu năm cũ khá may mắn, thì tin sự may mắn sẽ kéo dài qua năm sau.
Ngày Tết người ta múa rồng múa lân sư tử khắp mọi nơi, nhất là những cửa hàng buôn bán để rước may mắn thịnh vượng về.
Mùa Tết cũng là mùa cưới hỏi. Các cặp trai gái thích làm đám cưới vào dịp đầu năm, mùa xuân đất trời đang đẹp và đang mùa hy vọng. Họ hy vọng cho một cuộc đời mới vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau và sẽ có đàn con ngoan.
Ngày Tạ Ơn - Người Việt chọn ngày Tết làm cơ hội để tạ ơn ân nghĩa mình đã được hưởng năm vừa qua. Con cái tạ ơn cha mẹ, cha mẹ tạ ơn ông bà, tổ tiên, nhân viên tạ ơn cấp chỉ huy. Ngược lại, cấp chỉ huy cũng cám ơn nhân viên qua những buổi tiệc đãi hoặc quà thưởng để ăn tết.
Nhiều gia đình đi chùa lễ Phật đêm giao thừa để tạ ơn và theo truyền thống họ thường hái lộc, mang về nhà những nhánh cây có lá non nụ mới, như xin Phật được sự tươi mát cùng phúc lành mang về nhà.
Mồng Một tết - là ngày đầu trong năm, thường dành riêng cho gia đình nhỏ của mình và gia đình bố mẹ chồng. Trẻ con người lớn đều mặc quần áo đẹp quây quần bên nhau. Con cháu bắt đầu chắp tay trước ngực cung kính mừng tuổi và chúc tết, chúc sức khỏe ông bà, cha mẹ. Sau đó, ông bà cha mẹ và người lớn lì xì mừng tuổi cho trẻ con. Lì xì đây là tặng một chút tiền, thường là tiền giấy mới tinh, gọi là chút quà đem lại may mắn cho trẻ con kèm lời chúc khuyến khích trẻ con cố gắng học và sống hòa thuận với những người chung quanh.
Mùng hai tết - là ngày thứ nhì trong năm mới, thường dành để thăm viếng và chúc tết gia đình bên vợ và gia đình những người bạn thân. Đi tới đâu trẻ con cũng được lì xì và lời chúc mừng năm mới.
Mùng ba tết - là ngày thứ ba trong năm mới. Mối giây liên hệ xã giao mở rộng ra ngoài phạm vi gia đình. Trong ngày này, người Việt đi chúc tết thầy giáo, hàng xóm, bạn bè....
Tối ngày mùng ba tết là bữa cơm cúng tiễn đưa tổ tiên về lại thiên đường. Các gia đình đốt vàng mã là tiền và thỏi vàng, bạc bằng giấy để gửi tiền lộ phí cho tổ tiên về chầu trời.
Mùng bốn tết - là ngày thứ tư, là ngày chẵn tốt ngày. Mọi cơ quan, văn phòng dịch vụ, cửa hàng thường chọn ngày này để mở cửa lại. Khi xưa, các vị học giả nhà nho cũng cẩn thận chọn ngày tốt, giờ tốt đem bút giấy ra khai bút làm thơ hay viết câu đối.
Ta thường nói “Ba ngày Tết” nhưng thật ra không khí Tết kéo dài cả tháng. Những lễ hội mừng Tết lan rộng từ phạm vi gia đình, tới họ hàng, làng xã, đâu đâu cũng có hội mừng xuân. Người ta nô nức rủ nhau đi thật nhiều chùa để xin được nhiều phúc lộc. Tất cả mọi người vui đùa với nhau, sống trong sự hòa thuận và đoàn kết. Đó là những ý nghĩa tuyệt vời của ngày TẾT Việt Nam./.
Sưu tầm ( Nguốn http://conggiao.info )
- Viết bởi Dân Chúa