Hình ảnh tấm thẻ căn cước ngày phán xét
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tấm thể căn cước trong đời sống là giấy tờ tùy thân căn bản cần thiết của mọi người công dân các nước trên thế giới. Thẻ căn cước được cơ quan hành chính của chính phủ mỗi nước cấp phát cho mỗi công dân nước mình.
Tấm thẻ căn cước căn cứ dựa trên tấm giấy khai sinh của mỗi người đã được cấp phát từ ngày mở mắt chào đời. Khi đã thành người trưởng thành, tấm thẻ căn cước xác định người công dân đó là ai, thuộc về quốc gia đất nước nào, với hình ảnh cùng những lý lịch cá nhân của người đó.
Căn cứ theo tấm thẻ này những dịch vụ giấy tờ công dân khác trong đời sống hằng ngày là giấy chứng minh chỉ dẫn được thực hiện tiếp theo.
Đó là trong đời sống xã hội con người. Nhưng trong đời sống đạo giáo tinh thần có tấm thẻ căn cước không, và hình ảnh tấm thể căn cước đạo giáo tinh thần như thế nào?
Người tín hữu Công giáo từ khi nhận lãnh làn nước Bí tích Rửa tội, được ghi tên trong sổ rửa tội của giáo xứ nơi được rửa tội. Cùng được cấp cho giấy chứng nhận rửa tội với tên ngày tháng năm sinh, cùng ngày tháng năm rửa tội ở nơi nhà thờ nào.
Giấy chứng nhận này tựa như tấm giấy khai sinh chứng minh người đó là người tín hữu Công giáo. Và căn cứ theo giấy chứng minh thư đó, họ sẽ được tiếp tục nhận lãnh các Bí tích khác trong Giáo hội, như Bí tích Giải tội, Mình Thánh Chúa, Thêm xức, Hôn phối, Chức thánh linh mục, Khấn Dòng, Xức dầu bệnh nhân, an táng theo nghi lễ Công giáo.
Giấy chứng minh thư là người đã được rửa tội Công giáo này, như thế có thể cũng được gọi là “ tấm giấy thẻ căn cước”
Ngoài ra các vị linh mục, từ ngày nhận lãnh bí tích sứ vụ chức linh mục, họ cũng được cấp phát cho “tấm thẻ căn cước linh mục” với hình và những chi tiết cá nhân của vị đó. Theo luật lệ, khi đến dâng thánh lễ nơi đâu xa lạ, như các nơi hành hương, vị linh mục cần phải xuất trình thẻ căn cước linh mục cho những người hữu trách nơi đó kiểm soát.
Cần có giấy thẻ căn cước chứng minh thư. Vì đời sống văn hóa trong xã hội đòi hỏi như thế. Và điều này càng ngày càng cần thiết cho đời sống có trật tự cùng minh bạch rõ ràng.
Nhưng trong thực hành nếp sống đạo đức, như đọc kinh, dâng thánh lễ, làm việc bác ái… không cần phải có giấy hay thẻ căn cước chứng minh là đã làm việc này. Người tín hữu Chúa Kitô thực hiện nếp sống đạo đức trên căn bản nhu cầu lòng tin yêu cậy trông vào Thiên Chúa. Chỉ Thiên Chúa biết đời sống đạo đức của họ là đủ.
Từ khi mở mắt chào đời, đời sống con người trong nếp sống xã hội cần phải có giấp khai sinh rồi tấm thẻ căn cước chứng mỉnh mình là ai, thuộc về đâu. Nhưng chưa phải là tất cả. Vì ngoài đời sống trong nếp sống văn hóa xã hội, con người còn có đời sống tinh thần đạo giáo nữa. Nếp sống đạo giáo tinh thần này không cần phải có thể căn cước giấy chứng minh thư.
Ngày sau cùng đời sống, theo niềm tin Công giáo, thân xác tan rã trở về bụi đất. Nhưng linh hồn con người trở về với Thiên Chúa, Đấng là nguồn đời sống cùng là Đấng Thẩm Phán chí công cho mỗi người.
Trước Ngài, con người không ai mang theo được giấp tờ khai sinh hay thẻ căn cước của mình. Ngài không cần đến những thứ giấy tờ đó. Nhưng Ngài chỉ căn cứ theo nếp sống lòng bác ái khi xưa mỗi người đã sống thực hành mà xét xử luận phạt.
“Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.
Bấy giờ, Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.
Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước;Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.”
Bấy giờ, những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?”
Đức Vua sẽ đáp lại rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” ( Mattheo 25, 31-40).
Tấm thẻ căn cước của mỗi người trước Thiên Chúa là cung cách nếp sống lòng bác ái với tha nhân đồng loại khi xưa trên trần gian.
Cung cách nếp sống tình yêu bác ái của mỗi người chứng minh bản chất con người của mỗi người, cùng có gía trị cao cả tuyệt đối trước Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và tình yêu thương.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh tiếng chuông thánh đường
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Các thánh đường Công giáo đều có một hay nhiều qủa chuông to hay nhỏ được đặt tên và có độ dầy mỏng nặng nhẹ khác nhau. Như nhà thờ chính tòa Cologne có 10 qủa chuông to nhỏ âm thanh phát ra khác nhau theo cung điệu âm nhạc, nhà thờ chính tòa Đức Bà Paris ngày xưa có tới 20 qủa chuông treo trên các cây tháp thánh đường phát tỏa những âm thanh tiếng nhạc uy phong.
Đâu là hình ảnh tiếng chuông giáo đường?
Chất liệu chuông được đúc bằng chất đồng có pha hợp chất hóa học vàng hay sắt kẽm…để phát ra những âm thanh cung điệu to nhỏ khác nhau. Nên khi những qủa chuông được giật kéo lên, chúng phát ra những cung giọng âm thanh tạo thành một bài hòa tấu như một dàn nhạc réo rắt trầm bổng.
Trong dòng lịch sử thời Giáo hội thuở ban đầu chuông là hình ảnh biểu tượng việc loan báo tin mừng. Giáo phụ Justin (100 – 165 sau Chúa giáng sinh) đã cho rằng 12 qủa chuông nhỏ thêu gắn nơi phẩm phục lễ nghi của các Thầy cả thượng phẩm trong đền thờ là hình ảnh chỉ dẫn về 12 Vị Tông đồ của Chúa Giêsu Kitô, như những người loan báo rao giảng sự vinh quang và ân đức phúc lộc của Chúa Giêsu Kitô.
Đầu tiên nơi các Tu viện lớn có những qủa chuông lớn dùng vào việc báo giờ giấc, kêu gọi cầu nguyện chung và báo những thời điểm thực hành đời sống tu trì trong tu viện.
Nếp sống văn hóa tu viện với những qủa chuông chỉ thu gọn trong phạm vi tu viện. Nhưng từ thời đức giáo hoàng Gregor cả (540-604) nếp sống văn hóa này được phổ thông lan truyền rộng rãi ra bên ngoài các tu viện.
Các Tu sỹ người Ái nhĩ lan đã du nhập nếp sống văn hóa này sang các nước vùng lục điạ bên Âu châu. Và từ thời vua Carolo thứ nhất ( 748-814) đã cho xây dựng treo gắn các qủa chuông nơi các thánh đường xứ đạo bên Âu châu.
Những qủa chuông to nhỏ được lắp đặt thiết kế treo trên tháp cao nhà thờ vững chắc, để tiếng chuông vang dội đi xa khắp vùng xung quanh. Vì thế, những tháp chuông trở thành hình ảnh biểu tượng như nơi chốn loan báo sứ điệp từ trời cao.
Song song bên cạnh những qủa chuông to lớn, còn có những qủa chuông nhỏ đặt nơi bàn thờ trong các thánh đường, được rung lên trong lễ nghi phụng vụ loan báo niềm vui khi linh mục chủ tế truyền phép Bí Tích Thánh Thể.
Những qủa chuông to trên tháp thánh đường hay qủa chuông nhỏ nơi bàn thờ, khi được kéo giật rung vang lên âm thanh như tiếng của trời cao vọng lan tỏa ra khắp vùng không gian.
Có suy tư nghĩ rằng khi tiếng chuông vang nổi lên, là hình ảnh biểu tượng cho sự tương quan nối liền giữa trời cao và đất thấp.
Chuông thánh đường được giật kéo lên theo chương trình quy định của Giáo hội.
Hằng ngày tiếng chuông vang lên 3 lần vào buổi sáng lúc sáu hay bẩy giờ , vào buổi trưa lúc 12.00 giờ và lúc chiều tà sáu hay bẩy giờ, để báo tin và tưởng nhớ biến cố Thiên Thần Gabriel từ trời cao hiện xuống truyền tin cho đức mẹ Maria ở Nazareth: Chúa Giêsu con Thiên Chúa xuống thế gian làm người trong cung lòng mẹ Maria, khai mở con đường ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho con người trần gian.
Mỗi khi có thánh lễ Misa, chuông được kéo giật lên khoảng 15 phút hay nửa tiếng trước giờ lễ, báo tin kêu gọi giáo dân đến tham dự thánh lễ.
Vào những ngày Chúa nhật, ngày lễ trọng, dịp lễ mừng Chúa giáng sinh, ngày lễ mừng Chúa Giêsu Kitô phục sinh, những quả chuông to nhỏ được giật kéo lên vang ra những âm thanh cung nhạc hòa tấu réo rắt rộn rã loan báo tin vui mừng.
Có những xứ đạo có tập tục ngày em bé nhận lãnh làn nước Bí Tích Rửa tội, chuông thánh đường cũng đổ lên loan báo niềm vui mừng, chào đón em bé cùng gia đình em.
Ngày đôi bạn trẻ thành hôn trước bàn thờ Thiên Chúa, tiếng chuông cũng được kéo lên trong hân hoan vui mừng chào đón như chúc phúc lành cho họ.
Cũng vậy ngày các vị nhận lãnh thánh chức, ngày khấn Dòng của các Tu sỹ, giàn chuông thánh đường, tu viện, nơi sự thể diễn xảy ra, được giật kéo lên loan truyền niềm vui mừng cùng chào đón họ.
Có những nơi còn có tập tục kéo đổ hồi giàn chuông to nhỏ vào dịp mừng đầu năm mới, vào ngày kỷ niệm khánh thành thánh đường, hay dịp kết thúc tuần cấm phòng tĩnh tâm, báo tin có Đức giáo hoàng mới, hay chào đón Đức giám mục giáo phận về thăm viếng, hay ngày cha xứ mới nhậm chức cha sở.
Và ngày sau cùng đời sống, khi quan tài người qua đời được đưa rước từ thánh đường, hay từ nhà tiễn biệt đi ra phần mộ ở nghĩa trang, hồi chuông trầm buồn ngân vang tiễn đưa người qúa cố nơi an nghỉ cuối cùng.
Những qủa chuông thánh đường không chỉ là khí cụ để đánh thức báo giờ, cảnh tỉnh và cùng đồng hành với đời sống con người chúng ta. Nhưng tiếng chuông đồng thời còn là hình ảnh biểu tượng cho đời sống tinh thần đức tin người tín hữu Chúa Kitô.
Khi tiếng chuông thánh đường ngân vang lên, báo tin về đời sống từ đâu phát xuất và đức tin của chúng ta hướng về đâu.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh nấm mồ ở nghĩa trang
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Khách hành hương sang đất thánh bên Do Thái ngoài đi thăm viếng những địa điềm khác nhau nơi ngày xưa Chúa Giêsu Kitô đã sinh sống, đã đặt chân đi qua Bethlehem ở Nazareth ở vùng Samaria, còn đến thăm viếng đền thờ có ngôi mộ Chúa Giêsu ở thành phố thánh địa Jerusalem.
Trong ngôi đền thờ cổ kính này căn phòng mộ Chúa Giêsu là trung tâm điểm của ngôi đền thờ. Khách hành hương cung kính cúi mình chui đi vào căn phòng nhỏ, gặp cỗ áo quan trống rỗng không cò xác người qua đời, như trong các phúc âm thuật viết lại ngôi mộ trống không có xác Chúa Giêsu nữa.
Ngôi mộ trống đó nói lên hình ảnh dấu chỉ Chúa Giesu Kitô đã sống lại, và đây không còn là địa điểm tưởng nhớ người qua đời nữa. Vì thế ngôi đền thờ này có danh xưng Đền thờ phục sinh, hay như phụng vụ văn hóa Chính Thống Bysantin gọi là Anastasis.
Hằng năm tháng Mười Một, theo nếp sống đạo đức trong Hội Thánh Công giáo tưởng nhớ cầu nguyện cho các người đã qua đời.
Vào những ngày trong tháng này, thân nhân gia đình người đã qua đời ra viếng thăm phần mộ người thân yêu. Họ quyét dọn sạch sẽ , cùng mang theo bông hoa, thắp đèn nến cắm trên phần mộ, và ngậm ngùi đọc kinh cầu nguyện tưởng nhớ người đã qua đời nằm sâu trong lòng đất.
Đó là nghĩa cử lòng đạo đức, lòng hiếu thảo. Con người ai cũng biết chu kỳ trong thiên nhiên nơi cây cối thảo mộc luôn hằng diễn xảy ra có khởi đầu mọc lớn lên xanh tươi, và cũng có tận cùng tàn héo chết lụi. Cũng vậy con người có ngày sinh ra sống trên trần gian, và cũng có ngày đời sống chấm dứt với sự chết.
Nhưng dẫu vậy, sự ly biệt vĩnh viễn, sự chết luôn làm cho con người sợ hãi. Vì phải bước đi vào cảnh hư vô trống rỗng, cảnh đi vào không gian vô danh vô định tối tăm nơi lòng đất, hoặc được thiêu ra tro bụi, mà không ai xưa nay có thể biết được…Sự chết là một mầu nhiệm bí ẩn với con người.
Như thế có ý nghĩa gì khi đến thăm viếng nấm mồ người qua đời mà không có niềm tin tưởng vào sự sống lại?
Trước phần mộ người qua đời gợi lên trong tâm hồn lòng ngậm ngùi buồn thảm cùng nhớ nhung. Người thân nhớ lại với lòng hiếu thảo biết ơn người đã qua đời. Họ nhớ lại những biến cố, những kỷ niệm ngày xưa đã cùng chung sống trải qua với nhau. Nhưng đó chỉ là hướng về qúa khứ đã trôi qua thôi.
Còn có hình ảnh nào hướng về tương lai cho người đã qua đời không?
Sự chết ngăn cách giữa hai thế giới người còn sống trên trần gian và người đã vĩnh biệt ra đi thành người thiên cổ. Họ không còn có thể giao thương hay hoạch định gì cho ngày mai với nhau được nữa.
Người còn đang sống trên trần gian với niềm hy vọng hướng về tương lai của người đã qua đời qua đức tin vào Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống, Đấng đã phục sinh sống lại, Đấng là nguồn ơn cứu chuộc, cho linh hồn con người đã qua đời được cùng sống lại với Chúa Kitô Giêsu.
Đức tin vào Thiên Chúa nói cho biết chết không phải là hết, là tận cùng. Nhưng linh hồn người qua đời bước sang một đời sống mới bên Đấng là nguồn sự sống. Như Thánh Phaolô với lòng xác tín nhắn nhủ: “ Nếu chúng ta tin rằng Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc ngàn thu trong Chúa Giêsu Kitô, sẽ được Thiên Chúa dẫn đưa về cùng Chúa Giêsu Kitô.” ( Thư 1. gửi giáo đoàn Thessalonica 4, 14).
Người đã qua đời không còn nói với người thân còn đang trên đường trần gian điều gì bằng âm thanh tiếng nói. Nhưng khi ra thăm viếng phần mộ người đã qua đời, người thân như nghe được bài giảng từ nơi nấm mồ vọng lên:
“ Thời gian đời sống con người ở trên trần gian có giới hạn. Mỗi người chịu trách nhiệm về chính đời sống mình. Sự sống là món qùa tặng ân đức của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch sự sống, ban cho mỗi người. Mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa sinh thành tạo dựng nên, ban cho những khả năng, ơn kêu gọi, thời giờ cơ hội kiến tạo đời sống. Nhưng ngày sau cùng trở về cội nguồn nơi Thiên Chúa với hai bàn tay không.
Và trước Thiên Chúa chỉ còn biết thân thưa: Lạy Thiên Chúa nguồn sự sống con là người đầy tớ vô dụng chỉ biết làm việc bổn phận Chúa trao cho. Xin Chúa đón nhận và tha thứ những tội lỗi thiếu sót trong đời sống con khi xưa trên trần gian. Con là con của Chúa do Chúa tạo dựng nên…”
Tháng tưởng nhớ các linh hồn
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh nhìn và được nhìn
- Viết bởi Dân Chúa
Con người hầu như ai cũng có tâm trạng từ khi còn nhỏ thơ bé, muốn nhìn và muốn được nhìn.
Em bé sơ sinh, dù tầm nhìn không xa cùng rõ, nhưng cũng đã có nhu cầu bản năng nhìn cha mẹ, người thân mình, và được họ nhìn mình. Đó là niềm vui hạnh phúc cho em. Trong bầu khí đó em bé khoẻ mạnh lớn dần lên.
Càng sống lâu ở trường đời, nhu cầu nhìn xem người khác và được nhìn cũng càng lớn thêm lên, nhất là nơi những người có chức vị vọng đời đạo trong xã hội. Và người công dân thường nào cũng có mong ước được gặp gỡ qua nhìn thấy người có danh tiếng chức vị trong xã hội, cùng trong đạo giáo nữa.
Có hình ảnh như thế trong nếp sống đạo giáo tinh thần không?
Thánh sử Luca viết thuật lại cảnh Ông Giakêu leo lên cay cao để tận mắt thấy Chúa Giesu Kitô, khi Người đi ngang qua thành phố Jericho. ( Lc 19, 1-10).
Jericho là một thành phố cổ xưa lâu đời nhất trên thế giới, nằm dưới lòng nước biển khoảng 250 mét. Khoa khảo cổ chứng minh cho biết thành phố này có từ thế kỷ 10. trước Chúa giáng sinh.
Kinh thánh cựu ước nói đến thành phố Jericho khi dân Do Thái hồi hương từ đất nước Ai Cập trở về nước Do Thái hàng ngàn năm trước Chúa giáng sinh, họ đã tiến chiếm thành phố Jericho. ( Sách Josua 6, 1-27).
Chúa Giesu Kitô cũng đã vào vùng sa mạc bên ngoài thành phố Jericho ăn chay cầu nguyện tĩnh tâm 40 ngày đêm, như phúc âm Thánh sử Mattheo thuật lại ( Mt 4,1-4).
Chúa Giêsu Kitô trên đường rao giảng giáo lý tình yêu nước Thiên Chúa đã đến thành phố này chữa cho người bị mù bên vệ đường kêu xin “Lạy Ngài, xin cho tôi được nhìn thấy.”, cho đôi con mắt lành mạnh sáng trở lại nhìn thấy vạn vật thiên nhiên trong vũ trụ. ( Lc 18,35-43).
Người làm nghề thu thuế tên là Giakeu ở Jericho, khi nghe tin Chúa Giêsu Kitô đi ngang qua thành phố cũng muốn nhìn thấy Chúa Giêsu.
Ông Giakeu làm nghề thu thuế cho chính phủ đế quốc Roma thời lúc đó xâm chiếm cai trị nước Do Thái. Nên ông bị dân chúng kỳ thị khinh ghét, liệt vào loại hạng người tội lỗi hà hiếp bóc lột dân chúng.
Biết thân phận mình như vậy thuộc vào lớp sống bên lề xã hội. Nhưng ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu Kitô, mà ông đã nghe biết về uy tín của Vị nầy rong ruổi khắp nơi rao giảng giáo lý tình yêu nước Thiên Chúa cho con người.
Vì đám đông đi theo cản trở tầm nhìn và ông lại thấp bé. Nên ông tìm cách leo lên cao của cây vả bên vệ đường nơi Chúa Jesus đi qua, mong nhìn tận mắt Vị nổi tiếng này. Đó là hy vọng duy nhất của ông.
Ẩn mình trên cây cao chỉ mong muốn nhìn thấy Chúa Giêsu thôi. Nhưng không ngờ ông lại được nhìn thấy. Chúa Giêsu đến đó nhìn lên cây khám phá ra ông ở trên đó, và gọi ông xuống, cùng còn muốn đến nhà ông dùng ăn bữa.
Ông Giakeu một người bị liệt vào hạng tội lỗi phản bội phải sống như người bên lề xã hội Do Thái thời lúc đó, bỗng chốc bất ngờ được Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhìn thấy gọi kéo từ trên cây cao xuống đứng ở giữa đám đông. Như thế ông được chính Chúa Giêsu kéo vào sống nơi trung tâm giữa lòng xã hội.
Cung cách nhìn lên cao khám phá và kêu mời gọi của Chúa Giêsu Kitô mang đến cho ông Giakeu sự chữa lành thúc đẩy tiến trình trong tâm hồn ông thay đổi nếp sống bất chính cũ. Ông đã được nhìn thấy, và chắc cảm thấy gía trị đời mình được công nhận không còn bị khinh khi nữa.
Chưa hết, không chỉ kêu gọi, nhưng Chúa Giêsu còn muốn vào nhà ông cùng dùng bữa ăn nữa. Cung cách hành động này nói lên thiện cảm sâu xa, cùng ý muốn tìm hiểu biết của Chúa Giêsu về ông. Với người Do Thái thời lúc đó và cả trong nếp sống ngày nay nữa, cùng ăn chung bàn với nhau là một dấu chỉ đặc biệt diễn tả không chỉ sự vui mừng, nhưng còn hơn thế nữa. Đó là sự công nhận tình thân thiết bằng hữu.
Ngoài ra ngôi nhà, căn phòng riêng là không gian có bầu khí thân mật tin tưởng cùng được bảo vệ cho cuộc trao đổi nói chuyện hàn huyên.
Chúa Giêsu, như phúc âm thuật viết lại, không giảng luân lý, không trách mắng ông, không giảng giải cắt nghĩa lề luật xho ông nghe. Nhưng Giakeu một người bé nhỏ thấp hèn bị xã hội dân chúng khinh khi miệt thị, đã qua cung cách hành động đầy tình người của Chúa Giêsu, nhận được cơ hội tận trong thâm tâm nhận ra lỗi lầm đời sống qúa khứ và ăn năn trở lại. Ông không còn sống trong cô đơn tách biệt bị kỳ thị nữa. Trái lại nơi giữa lòng xã hội con người.
Ông không chỉ bị khám phá đang ẩn mình trên cây cao. Nhưng ông đã khám phá ra chính đời sống mình là con cái Abraham.
Nhìn thấy và được nhìn thấy là con đường dẫn đến thay đổi nếp sống.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh ngày thế giới truyền giáo
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Hằng năm Hội Thánh Công giáo dành một ngày Chúa nhật trong tháng 10. là Ngày thế giới truyền giáo, họăc vào giữa tháng hoặc vào cuối tháng 10 dương lịch.
Đâu là hình ảnh nguồn gốc và sự phát triển thành hình ngày thế giới truyền giáo trong dòng thời gian lịch sử Hội Thánh Chúa Kitô ở trần gian?
Hội Thánh Chúa do Chúa Giêsu Kitô thiết lập không chỉ giới hạn trong nước Do Thái, nhưng có bổn phận phải loan truyền lan rộng ra cho mọi dân tộc khắp nơi trong công trình vũ trụ trên trần gian, hiểu biết về giáo lý tình yêu nước Thiên Chúa.
Sứ mệnh bổn phận đó Chúa Giêsu trao ủy thác cho các Tông đồ. Những vị nầy là cột trụ nền tảng của Hội Thánh Chúa ở trần gian:
“ Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,18-20).
Dựa trên lời Chúa trao lại cùng lòng tin vào Chúa, các Vị Tông đồ, sau khi Chúa Giêsu trở về trời, đã chia nhau ra đi khắp các nơi, trước hết đến các nước vùng đế quốc Roma thời lúc đó cách đây hai ngàn năm, làm nhiệm vụ truyền giáo đã lãnh nhận trực tiếp từ nơi Chúa.
Và trong dòng thời gian lịch sử, Hội Thánh kế tiếp do các Tông đồ trao truyền lại, đã nối tiếp công việc truyền giáo đó suốt dọc từ hai ngàn năm nay trên khắp thế giới.
Công việc truyền giáo phát triển tùy theo mỗi hoàn cảnh thời đại, hoàn cảnh địa phương mỗi đất nước, mỗi nền văn hóa dân tộc khác nhau. Nhưng cùng chung một nguồn gốc đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, như Thánh Phaolo đã có suy niệm” Cùng vào một Chúa, một đức tin, một phép rửa.(Thư Epheso 4,5).
Cùng với đà phát triển việc truyền giáo trên khắp thế giới, cách đây 400 năm Giáo hội Công giáo ngày 06.01.1622 đã thiết lập một thánh Bộ lo việc truyền giáo chung có hệ thống, chất lượng nội dung cùng liên kết với nhau trong toàn thể Giáo hội khắp hoàn cầu. Nhưng Giáo hội cũng vẫn công nhận khuyến khích những nỗ lực hoạt động sáng kiến truyền giáo của mỗi dân tộc đất nước địa phương.
Đầu thế kỷ 19. phát sinh sáng kiến từ người Giáo dân một đường lối mới đầu tiên về việc truyền giáo. Phong trào truyền giáo mới này lan tỏa rộng gây bầu khí phấn khởi tích cự tham gia của người giáo dân trong lòng Hội Thánh.
Người đưa ra ý tưởng sáng lập đường lối mới là một chị Pauline-Marie Jaricot người Pháp. Năm 1819 chị khởi đầu kêu gọi quyên góp trợ giúp cho việc truyền giáo bên Trung Hoa.
Sáng kiến này mở ra con đường thành lập Hiệp Hội truyền giáo đầu tiên rộng rãi khắp nơi trên thế giới vào ngày 03.05.1822 ở thành phố Lyon bên nước Pháp ( Societe pour la Propagation de la foi). Đây là mầm cơ bản sau này cho Hội giáo hoàng truyền giáo như hiện đang có.
Để tuyên dương ghi nhớ tinh thần dấn thân đạo đức cùng gương sáng đức tính anh hùng nhiệt thành vịệc truyền giáo, ngày 22.05.2022 Chị Jaricot đã được Đức Hồng Y Tagle, đương kim Bộ trưởng bộ truyền bá phúc âm cho các dân tộc của Giáo hội, tuyên phong lên hàng Á Thánh ở Lyon.
Sáng kiến thành lập phong trào truyền giáo của chị Jaricot nhanh chóng lan tỏa dư âm tích cực khắp Âu châu. Năm 1832 vị Y sĩ Heinrich Hahn ở thành phố Aachen đã dựa trên gương mẫu đó thành lập Hội truyền giáo ở nước Đức.
Năm 1922 Hội truyền giáo Franz Xavier do Heinrich Hahn thành lập được Đức thánh cha Pio XI. công nhận là chi nhánh bên nước Đức của Hội giáo hoàng truyền giáo.
Từ ngày 01.01.1972 trở thành Hội Missio mang tính cách một Hội Công giáo trợ giúp quốc tế bên nước Đức. Hội Missio kế tục công việc của Hội giáo hoàng truyền giáo ở nước Đức.
Từ ngày đó Hội Missio luôn đề ra những chương trình chủ đề kêu gọi quyên góp trợ giúp việc truyền giáo trên tinh thần liên đới cùng giúp đỡ cho các Giáo Hội địa phương ở các nước khác trên thế giới. Missio bên Đức có hai văn phòng một ở Aachen, và một ở Muenchen kêu gọi quyên góp, phối hợp và điều hành công việc trợ giúp truyền giáo cho Giáo Hội các nước bên Phi Châu, Á châu, Nam Mỹ.
Ngoài ra, trong Giáo Hội, xưa nay ở các nước Âu Châu, Mỹ Châu cũng có những Dòng Tu, những hiệp Hội tư nhân khác sống theo đường hướng truyền giáo qua việc cầu nguyện, cùng trợ giúp về nhân sự cũng như tài chính cho những nơi cần thiết để xây dựng mở mang củng cố về cơ sở nhà cửa xứ đạo, trợ giúp đào tạo ơn kêu gọi chi nhánh Dòng tu…
Đức Thánh Cha Phanxicô đã lấy lời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ ngày xưa trước khi trở về trời làm chủ đề ngày thế giới truyền giáo năm 2022: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari cho đến tận cùng trái đất” (Sách công vụ các Tông đồ 1, 8).
Lời nhắn nhủ sai đi này của Chúa Giesu không giới hạn trong phạm vi biên giới địa lý đất nước ở vùng châu lục nào, cũng không giới hạn trong một thời gian thiên niên kỷ, năm tháng ngày giờ nào, cũng không giới hạn nơi một dân tộc chủng loại con người, cũng không giới hạn vào một hoàn cảnh văn hóa xã hội hay tâm lý con người nào.
Nhưng trải rộng ra khắp mọi không gian biên giới nơi chốn hình thể địa lý, cho khắp mọi thời gian, mọi thời đại, mọi nền văn hóa, mọi hoàn cảnh đời sống xã hội cùng tâm lý của hết mọi dân tộc chủng loại con người.
Tin mừng tình yêu của Chúa phổ biến lan tỏa cho hết mọi tạo vật trong công trình vũ trụ thiên nhiên hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh kinh mân côi
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong nếp sống đạo đức của hội Thánh Công giáo tháng 10 hằng năm là tháng dành riêng về lòng sùng kính Đức Mẹ mân côi.
Theo dòng lịch sử, Thánh Daminh, vị sáng lập Dòng Daminh chuyên vể giảng thuyết, đã nhận trực tiếp từ Đức Mẹ, trong một phép lạ Đức mẹ hiện ra với ngài, kinh nguyện Mân Côi vào năm 1208. Và từ thời điểm đó thánh nhân đã truyền bá sâu rộng việc lần chuỗi mân côi kính Đức Mẹ trong Dòng của mình, và rồi dần dần lan truyền ra cho mọi người trong Hội Thánh Chúa Kitô.
Cũng theo truyền thuyết đạo đức kể lại, Đức mẹ đã truyền cho Thánh Daminh phải quảng bá việc lần chuỗi mân côi như vũ khí chống lại bè rối Albigenser lúc đó đang hòanh hành chống lại Hội Thánh Chúa Kito.
Và từ khởi điểm đó, chuỗi kinh mân côi trở nên linh đạo của Dòng Daminh.
Còn lịch sử ngày lễ kính Đức mẹ mân côi, ngày 07.10. hằng năm có sau này vào thế kỷ thứ 18. trong toàn thể Hội Thánh Công giáo.
Ngày 07.10.1571 trong trận hải chiến giữa quân đội của đế quốc Osman Thổ nhĩ Kỳ và đạo binh thánh dưới thời đức giáo hoàng Pio V., ở vùng biển Lepanto bên Hy Lạp, đạo binh Thánh của Hội Thánh đã dành được chiến thắng cùng chặn đường tiến xâm lăng của đội quân hùng hậu Thổ nhĩ Kỳ.
Chiến thắng này có được là nhờ lời cầu nguyện lần chuỗi đọc kinh mân côi trong toàn Hội Thánh lúc đó. Qua đó Đức Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa ban cho sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Để nhớ ơn này, Đức giáo hoàng Pio V. đã lập ra ngày lễ kính Đức Mẹ mân côi vào ngày 07.10. 1572 một năm sau để kỷ niệm chiến thắng này.
Và từ thế kỷ 18. ngày lễ này vào ngày 07.10. hằng năm lan rộng trong khắp Hội Thánh là ngày lễ kính trong lịch Phụng vụ.
Việc lần chuỗi đọc kinh mân côi xưa nay là cung cách nếp sống đức tin phổ thông bình dân trong khắp Hội Thánh Chúa Kitô.
Khi đọc kinh mân côi, cùng với kinh Kính Lạy Cha, kinh kính mừng Maria chúng ta lần theo dõi cuộc đời Chúa Giêsu và Đức Mẹ qua những chặng đường suy niệm:
- 1. Năm ngắm suy niệm mùa Vui: Thiên Thần truyền tin, Đức mẹ đi viếng thăm Bà Eisabeth, Đức mẹ sinh Chúa Giêsu nơi hang đá, Đức Mẹ đem Chúa Giêsu vào đền thờ, và Đức mẹ Thánh Giuse tìm gặp lại được Chúa Giêsu đi lạc trong đền thờ.
Năm ngắm mùa Vui này gợi nhắc đến đời sống gia đình con người. Hai vợ chồng từ lúc thành lập gia đình với nhau ngày lễ thành hôn, mối liên hệ với gia đình họ hàng của hai bên, tiếng khóc nụ cười niềm vui mừng hạnh phúc có người con chào đời trong gia đình, bồng ẵm con đến thánh đường xin tiếp nhận làn nước bí tích rửa tội, và việc dạy dỗ uốn nắn con cái trong gia đình.
- 2. Năm ngắm suy niệm mùa Thương: Chúa Giêsu lo buồn, Chúa Giesu bị bắt chịu hành hạ bị đánh đập, Chúa Giêsu bị nhạo báng cho đội triều thiên có gai nhọn đâm vào da đầu, Chúa Giêsu phải vác thập gía đi đến pháp trường, và sau cùng Chúa Giêsu bị đóng đinh treo trên thập gía.
Những chặng đường đau thương này nhắc nhớ đến những đau khổ trong đời sống con người chúng ta. Lẽ dĩ nhiên ngày nay không còn cảnh bị xử dã man tàn ác thập gía như thế vào thời Chúa Giêsu nữa. Nhưng những đau khổ do chiến tranh gây ra, do khủng bố, do bị bệnh tật, do bị đối xửa bất công, bị kỳ thị, bị đe dọa bóc lột, lừa dối chèn ép, bị tuyên truyền đầu độc dưới nhiều hình thức…vẫn hằng luôn xảy ra trên thế giới vào mọi thời điểm.
- 3. Năm ngắm suy niệm mùa mừng thuật lạ việc Chúa Giêsu phục sinh sống lại sau khi chết, việc Chúa Giêsu trở về trời, Đức Chúa Thánh Thần, Đấng là nguồn an ủi, hiện xuống, Đức mẹ Maria được Chúa đưa về trời, Đức Mẹ Maria được đưa về trời là sự thưởng công của Chúa cho Đức mẹ.
Năm sự mừng đời Chúa Giêsu nói lên niềm vui mừng hy vọng cho con người chúng ta rồi cũng sẽ được cùng Chúa sống lại, như Đức Mẹ được Chúa thưởng công cho về trời sống bên Ngài, khi quãng đời đau thương khổ ải ở trần gian qua đi.
Đây không phải là sự an ủi xuông xa vời thực tế đời sống. Nhưng nói lên gía trị linh thiêng cho đời sống. Gía trị đó là niềm hy vọng. Gía trị đó là đời sống không chỉ có thân xác chết là hết là rơi vào hư vô. Nhưng con người còn có phần tâm linh linh hồn linh thiêng nữa, và được Thiên Chúa cứu chuộc, cho được cùng sống lại phục sinh với Chúa Giêsu Kitô.
- 4. Thánh giáo hoàng Gioan Phaolo II., khi còn sinh tiền , đã thiết lập „năm lần chuỗi mân côi", và đồng thời ngài cũng đã lập thêm năm sự sáng vào việc suy niệm lần chuỗi mân côi.
Năm chặng đường sự sáng lần theo những bước đường đời giảng đạo của Chúa Giêsu từ lúc Ngài chịu phép Rửa ở sông Jordan, Chúa Giêsu làm phép lạ cho nước hóa thành rượu ở tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu rao giảng nước trời và ơn thống hối, Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor và Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể.
Năm chặng của năm sự sáng suy niệm những rao giảng nước trời của Chúa Giêsu giúp ta nhớ đến nhân đức Chúa Giêsu đã thực hiện cho đời sống thiêng liêng con người, nhất là bí tích Thánh Thể, một nguồn ơn nuôi sống đức tin tâm hồn người tín hữu Chúa Kitô.
Lần chuỗi đọc kinh mân côi là lời cầu nguyện xin ơn bằng an cho đời sống mỗi người, cho gia đình mình và cho hòa bình trên thế giới. Trong mọi hoàn cảnh đời sống cùng ở mọi nơi, lúc nào cũng có thể cầu nguyện bằng đọc kinh mân côi đọc một mình, hoặc chung với những người khác cùng đọc .
Người tín hữu Công giáo có tập tục nếp sống đạo đức tốt lành mỗi khi có người qua đời, hay ngày lễ giỗ tưởng nhớ người đã qua đời, thường lần chuỗi mân côi năm ngắm mùa thương khó Chúa Giêsu cầu nguyện cho người qúa cố.
Nhiều người có kinh nghiệm khi lần chuỗi đọc kinh mân côi giúp cho dễ dàng ngủ thiếp đi, nhất là những khi trằn trọc không sao nhắm mắt ngủ đi được.
Như thế, có thể nghiệm ra được rằng, khi đọc kinh lần chuỗi mân côi không chỉ giúp phần thiêng linh hồn sống đức tin, nhưng cũng có thể còn là phương dược cho tinh thần được thanh thản nhẹ nhàng tìm được sức khoẻ cho thể xác trong giấc ngủ thiếp đi.
Những ngắm suy niệm kinh mân côi cùng với dấu thập giá, kinh lạy Cha, kinh kính mừng Maria, kinh sáng danh Thiên Chúa là những lời có nguồn gốc trong phúc âm kinh thánh về Chúa Giêsu Kitô. Và như thế kinh mân côi có thể nói đó là những bài giáo lý sống động cùng căn bản cho nếp sống đức tin vào Chúa.
Tháng kính Đức Mẹ Mân côi
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh các Thiên thần.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Trong đời sống hằng ngày có những điều trông thấy được bằng mắt thường.
Nhưng cũng có những vật thể không thể dùng mắt thường dù là có đeo kính có độ vào cũng không thể nhận ra rõ được. Những vật thể đó hoặc quá nhỏ như vi khuẩn, hoặc mang mầu sắc quá tối hay ở cách xa khỏi tầm nhìn của mắt, khiến con mắt thường không thể nhìn ra, nhất là vào ban đêm. Muốn nhìn ra những vật thể này, người ta phải dùng kính hiển vi, viễn vọng kính để nhân to ra hay phải dùng máy có tia hồng ngoại để nhìn vào ban đêm.
Nhưng cũng có những vật thể dù là kính viễn vọng hay kính hiển vi, máy có tia hồng ngoại cũng không thể nhận ra nhân to ra được. Đó là tình yêu, là tình cảm là không khí. Không thể nhìn thấy, nhưng những sự thể này có đó và là điều cần thiết gắn liền với đời sống.
Trong niềm tin đạo giáo cũng có những điều này. Thiên Chúa, Thiên Thần là những nhân vật có đó. Nhưng lại không có chút gì gọi là hình ảnh hay mầu sắc cụ thể, khiến ta có thể dùng các phương cách khoa học tối tân hòng mong nhìn ra các ngài.
Không thể nhìn ra bằng mắt thường các ngài, nhưng ta vẫn có thể nhận ra họ, cảm nghiệm thấy họ nơi những dấu chỉ trong cuộc sống.
Ai là con người cũng có nhu cầu cần được bảo vệ chăm sóc. Từ khi mới thành hình sự sống trong bào thai mỗi người đã được mẹ mình săn sóc bảo vệ rồi. Rồi khi mở mắt chào đời, họ lại cần sự săn sóc bảo vệ của những người khác hơn khi nào hết cho đến khi họ có thể tự đứng lên đi lại, tay cầm mang, miệng nói năng diễn tả được điều mình mong muốn, hoặc tự làm lấy được…
Cả khi đã khôn lớn trưởng thành, ai cũng cần sự bảo vệ săn sóc trong đời sống. Trong gia đình, ngoài đường xá, trong trường học, trong xưởng thợ nơi làm việc có những luật lệ trật tự đặt ra nhằm giúp bảo vệ nhu cầu sự sống của con người. Những luật lệ này nhằm giúp bảo vệ tất cả mọi người, nhất là những người yếu kém, bệnh nạn, người già cả, người bị cô đơn bỏ rơi.
Và có những bảo vệ tuy không có luật lệ gì viết thành văn bản và cũng không thể bàn cãi mổ xẻ được, nhưng những bảo vệ săn sóc đó hằng có đó cho mỗi con người. Đó là nhu cầu được bảo vệ săn sóc về phần tinh thần tâm linh.
Ai có thể cho chúng ta sự bảo vệ săn sóc này ?
Niềm tin tôn giáo giúp mang laị cho con người câu trả lời này. Trong sách Xuất hành Thiên Chúa bảo đảm: Ta sẽ sai Thiên Thần đi trước dẫn đường cho con. Thiên Thần ta sẽ bảo vệ con đi đến nơi, về đến chốn. ( Xh 23, 20).
Và Chúa Giêsu đã khẳng định: Đừng bao giờ khinh dể các trẻ con, vì các Thiên Thần của chúng hằng ở bên ngai Thiên Chúa ( Mt 18,10).
Thiên Thần là những sứ giả của Thiên Chúa được gửi đến cho mỗi người. Thiên Thần đồng hành với ta trong đời sống như Tổng lãnh Thiên Thần Raphael cùng đồng hành bảo vệ dẫn đường cho Tobias đi tìm thuốc chữa bệnh mù lòa cho cha mình.
Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel mang sứ địệp Thiên Chúa cho đức mẹ Maria, cho ông Zacharias trong đền thờ, Thiên Thần hiện trong trong giấc mộng báo tin cho Thánh Giuse phải đem con trẻ Giêsu và mẹ người sang tỵ nan bên xứ Ai Cập, rồi sau lại hiện ra báo tin thúc giục Giuse đưa gia đình thánh gia trở về quê hương Nazareth sinh sống.
Tổng lãnh Thiên thần Michael có tên là sức mạnh của Thiên Chúa chiến thắng thần dữ ma quỉ. Vị tổng lãnh Thiên Thần Michael này được Thiên Chúa cắt đặt sai canh giữ cửa vườn địa đàng sau khi hai Ông Bà nguyển tổ Adong Evà phạm tội bị đuổi ra khỏi vườn. Vị tổng lãnh Thiên Thần Michael này cũng được cho là n gày xưa đã dẫn đường cho dân Do Thái đi băng quay sa mạc, vượt qua biển đỏ trở về quê hương đất nước Thiên Chúa hứa ban từ nước Ai Cập.
Ca đoàn các thiên Thần hiện ra báo tin Chúa Giêsu sinh ra cho các mục đồng nơi hang đá Bethlehem. Hai thiên thần hiện ra canh mồ Chúa Giêsu đã báo tin Chúa Giêsu đã sống lại cho Magdalena.
Khi một em bé ngoan hiền dễ thương, chúng ta hay nói: Em giống như một thiên thần! Hay khi em bé chạy ngã té nằm xoài ra, em khóc kêu la gọi ba má, nhưng không có gì xảy ra thương tích cho em, chúng ta cũng nói ngay: Thiên Thần bản mệnh em gìn giữ che chở em!
Trong đời sống bản thân mỗi người, ai nấy cũng đều có kinh nghiệm về sự bảo vệ này của Thiên Thần bản mệnh, khi bị tai nạn mà thân xác được bình an không bị thương tích gì, hay khi bất ngờ nhận được niềm an ủi từ một người xa lạ.
Và ngay cả mỗi người chúng ta cũng có thể là thiên thần cho nguời khác, khi rộng tay giúp đỡ lẫn nhau, an ủi nhau, trao tặng nhau niềm vui tình người, như Mẹ Terexa thành Calcutta là thiên thần cho những trẻ em, cho những người già yếu bệnh nạn bị bỏ rơi.
Thiên Thần của Chúa là những sứ giả, là sự bảo vệ săn sóc của Chúa cho mồi con người. Nhưng các Thiên Thần là những nhân vật vô hình, vô sắc, vô thanh, không có cánh bay lượn như thấy trong các tranh vẽ.
Chúng ta cảm nhận thấy có Thiên Thần trong tâm hồn, trong mọi biến cố của đời sống.
Thấy mà xem chẳng thấy!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Hình ảnh Thánh sử Mattheo
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cuộc đời Chúa Giêsu ngày xưa trên trần gian được ghi chép thuật lại trong bốn cuốn sách phúc âm.
Cuốn phúc âm thứ nhất do Thánh sử Mattheo viết. Phúc âm của ông viết vào khoảng giữa những năm 80 và 90 sau Chúa giáng sinh, và được Hội Thánh Công giáo xếp vào danh sách là cuốn sách phúc âm thứ nhất tường thuật về cuộc đời Chúa Giêsu.
Đâu là hình ảnh con người Mattheo và sách phúc âm của Ông?
Mattheo là một trong 12 vị Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu và là người làm nghề thu thuế ( Mt 10, 2-4). Ông đang ngồi bàn viết giấy thu thuế cho chính quyền khi Chúa đi ngang qua gọi “ hãy theo tôi”, Mattheo liền đứng dậy đi theo Chúa Giêsu liền ( Mt 9,9).
Ngoài ra ông còn có tên khác nữa là Levi như Thánh sử Marcô cho biết( Mc 2,14). Ông rời bỏ bàn giấy thu tiền viết giấy chứng nhận thuế theo Chúa Giêsu làm môn đệ, và sau khi Chúa Giêsu trở về trời đã ra đi giảng đạo viết sách phúc âm giáo lý về cuộc đời Chúa Giêsu, những gì ông đã trực tiếp nghe cùng nhìn xem trong cuộc đời 3 năm giảng đạo của Chúa Giêsu ở nước Do Thái.
Tên của Ông theo tiếng Do Thái có nghĩa là “ Qùa tặng của Thiên Chúa”.
Phúc âm của Thánh Mattheo ngay chương mở đầu ( Mt 1,1-17) tường thuật về nguồn gốc gia phả dòng dõi Chúa Giêsu từ Tổ phụ Abraham.
Theo trình thuật này con số 14 ( Mt 1,17) và con số 3 là những con số nổi bật đặc điểm của Thánh sử Mattheo.
Gia phả Chúa Giêsu Kitô được tường thuật trải qua 3 thế hệ, mỗi thế hệ có 14 đời. Theo chỉ dẫn tường thuật đó, ngôi sao Chúa Giêsu giáng sinh có 14 cánh được khắc vẽ trênh nền đền thờ Chúa Giáng sinh bên thành Bethlehem, nơi ngày xưa hài nhi Giesu sau khi sinh ra được đặt nằm trong máng cho xúc vật ăn.
Và Thánh sử cũng còn tường thuật những Nhà Chiêm Tinh – còn gọi là Ba Vua- từ Phương Đông tìm đến Bethlehem thờ lạy Hài nhi Giêsu. Họ mang 3 món qùa tặng “vàng, nhũ hương và mộc dược” kính biếu dâng tiến ( Mt 2, 11). Căn cứ theo ba món qùa tặng đó, xưa nay có truyền thống trong Hội Thánh cho là có ba vị, rồi có cả phụng vụ lễ mừng Ba Vị Vu vào ngày 06.01. hằng năm sau lễ mừng Chúa giáng sinh. Và trong dòng lịch sử thời gian người ta đã lần tìm ra tên của Ba Vị: Caspar, Melchior và Balthasar
Con số 7 cũng là con số đặc điểm của phúc âm Thánh Mattheo. Nơi toàn thể chương 13 Ông thuật lại n hững bài giảng của Chúa Giesu về nước trời qua 07 hình ảnh dụ ngôn: Người gieo giống ( 3-9), Cỏ lùng ( 24-30), Hạt cải (31-32), Men trong bột (33), Kho báu (44), Viên ngọc qúy ( 46) và Chiếc lưới đánh cá ( 47-50).
Nơi chương 23 về những lời khiển trách răn đe các vị Kinh Sư và người Phariseo qua 07 lời “Khốn cho các người là những người gỉa hình” ( 23, 13-32).
Con số 10 cũng là con số đặc điểm trong phúc âm Thánh Mattheo. Nơi toàn thể hai chương 8 và 9 Thánh sử viết thuật lại 10 phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho:
1.Người bị phong cùi (8,1-4)
2.Đầy tớ của viến Đại đội trưởng (8,5-13)
3.Bà nhạc phụ Thánh Phero ( 8,14-15)
4.Mọi kẻ đau bệnh ốm ( 16-17)
5.Hai người bị qủy ám( 28-34)
6.Người bị bại liệt ( 9,1-7)
7.Người phụ nữ bị bệnh băng huyết kinh niên ( 9,18-22)
8.Con gái một vị thủ lãnh sống lại Talitha Kumi( 9,23-26)
9.Hai người mù ( 9,27-30)
10.Người câm bị qủy ám ( 9,32-34).
Con số 10 được Thánh sử Mattheo trình bày nổi bật rõ nét trong dụ ngôn về hình ảnh 10 cô trinh nữ cầm đèn đi đón chú rể. ( 25,1-13).
Và trong dụ ngôn khen thưởng nói về người được trao phó ban cho những khả năng như những nén bạc và đã đi làm ăn sinh lời ra thành 10 nén. (25, 20).
Thánh sử Mattheo viết phúc âm về cuộc đời Chúa Giêsu thường hay có câu ” để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ” như bằng chứng đã có từ thời xưa mà Chúa đã định liệu sắp đặt từ trước rồi.
Thánh sử Mattheo là người làm nghề thu thuế, ngày xưa bị dân chúng cho là những người tội lỗi toa rập với người Roma hà hiếp dân chúng. Nhưng ông đã nghe theo tiếng Chúa kêu gọi” Hãy theo Ta” bỏ bàn giấy thu tiền bạc đi theo Chúa Giêsu.
Là người thu thuế có kiến thức học vấn và biết cách thức làm sổ sách thứ tự rõ ràng. Nên ông đã nghiên cứu truy tầm nguồn gốc tổ tiên dòng tộc Chúa Giêsu , và sắp xếp thứ tự viết thành gia phả dòng tộc Chúa Giêsu ngay nơi chương đầu tiên của phúc âm. Trình bày Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa từ trời xuống trần gian làm người có nguồn gốc dòng dõi như tất cả những con người trong công trình vũ trụ của Thiên Chúa.
Căn cứ theo hình ảnh đó, phúc âm của Ông được trình bày với một biểu tượng hình ảnh một người có hai cánh như một Thiên Thần tay cầm bút viết.
Phúc âm của Theo Thánh Mattheo là cuốn dài nhất trong bốn sách phúc âm với 28 chương , và kết thúc với lời Chúa Giesu đoan hứa bảo đảm:
“ Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28,20).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh suy tôn Thập gía Chúa Giesu
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nhân loại từ hơn hai năm nay sống trong khủng hoảng chao đảo. Vì bệnh đại dịch Covid 19 lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người.
Thời sự lúc này cảnh chiến tranh bên Ukraina đang xảy ra đe đạo khốc liệt đời sống con người, nền hoà bình thế giới trở nên mong manh, đời sống kinh tế khủng hoảng đình trệ…
Và còn thêm tình trạng biến đổi khí hậu, làm cho trái đất nóng lên, hạn hán lũ lụt…khiến đời sống bị đe dọa thêm nữa.
Những cảnh tiêu cực chao đao đảo, khốn khó đau khổ đó là những bước đường “thập gía giăng ngang lối cuộc đời” con người.
Trong đời sống mỗi người đều có thập gía đau khổ. Nhưng không mấy ai muốn nói về thập gía đau khổ. Con người ai cũng mến chuộng mong muốn sự bình an xuôi chẩy hạnh thông cho đời sống mình.
Hầu như nơi mỗi người, từ khi biết nhìn nhận suy nghĩ, đều đã có lần thắc mắc về ý nghĩa của thập gía. Thập gía ẩn hiện trong đời sống. Thập gía có nhiều bộ mặt khác nhau. Thập gía gắn liền trong đời sống dưới nhiều hình thức trong nhiều giai đoạn đời sống.
Người Công giáo tôn thờ suy tôn thập gía Chúa Giêsu. Thập gía Chúa Giêsu là Logo biểu hiệu của đức tin người Công giáo.
Thánh Phaolô đã viết nói lên tâm tư của mình về thập gía với niềm xác tín: “ Thật thế, lời rao giảng về thập gía là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại lại sức mạnh của Thiên Chúa.” ( 1 cr 1, 18)
Nhưng đâu là hình ảnh ý nghĩa thập gía Chúa Giêsu?
Trong dòng lịch sử Giáo Hội Công giáo, ngày 13.09.335 ngôi đền thờ ở Giêrusalem xây trên phần mộ an táng Chúa Giêsu ngày xưa, được khánh thành để suy tôn Thập gía Chúa Giêsu.
Ngày 13.09. cũng là ngày tìm thấy Thập gía Chúa Giêsu đã vác ra pháp trường chịu tử hình. Và ngày 14.09. cây Thập gía Chúa Giêsu Kitô được dựng dương cao trong ngôi đền thờ ở Jerusalem để cho toàn dân chiêm ngưỡng suy tôn.
Từ thế kỷ thứ 05. bên Konstantinopel, rồi thế kỷ thứ 07. bên Roma mừng ngày lễ suy tôn Thập gía Chúa Giêsu.
Khi nói đến dâng nâng một vật gì lên cao, ta nghĩ ngay đến vật đó đã bị hạ nằm xuống dưới mặt đất, và được cất dựng lên khỏi mặt đất.
Kinh nghiệm cảm nghiệm này, con người chúng ta hầu như cũng đều đã có, khi tinh thần hay thân xác mệt mỏi yếu đau, ta ngồi nằm xuống ghế, xuống tận mặt đất nền nhà. Và lúc bừng tỉnh khoan khoái trong người ngồi bật đứng dậy lên cao.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng trước khi được Thiên Chúa Cha nâng lên cao, ngài đã bị hạ xuống từ trời cao xuống trần gian làm người với những đau khổ yếu hèn của một con người. Và sau cùng bị vật nằm đóng đinh trên thập gía cho tới chết. Vào thời Chúa Giêsu cách đây hai ngàn năm thập gía là nhục hình cho người bị kết án, như người Do Thái “ coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ.”( 1 cor 1, 23)
Chúa Giêsu đã bằng lòng chấp nhận khổ hình thập gía thay cho mọi tội lỗi. Vì thế ngài đã có thể giaỉ thoát con người tội lỗi khỏi hình phạt sự chết.
Sự chết của Chúa Giêsu trên thập gía trở thành nơi chốn của vinh quang. Thập gía là dấu chỉ của chết chóc đã trở thành biểu tượng của sự sống.
Thập gía trong đời sống con người chúng ta không vì được Chúa Giêsu cứu độ khỏi hình phạt sự chết mà không còn nữa. Trái lại, thập gía gắn liền trong đời sống mỗi người. Vì thế, trong dân gian có câu nói: “Mỗi người đều có thập gía riêng phải vác!”. Nhưng niềm tin nói cho biết, đàng sau những đau khổ thập gía đó có niềm hy vọng sự sống mới vươn lên.
Phải, hầu như ai cũng đều có kinh nghiệm, đời sống con người chúng ta không dừng lại nơi chặng đau khổ, khó khăn thập gía. Nhưng trái lại con đường đời sống tiếp tục đi tới phía trước.
Thiên Chúa, Đấng tạo thành sự sống, nuôi dưỡng đời sống con người, không để cho đời sống bị lún xuống chìm sâu. Nhưng Ngài muốn cứu độ giải thoát khỏi tội lỗi hình phạt. Điều này thể hiện nơi Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa, đã vác thập gía và chịu chết trên đó mang trao tặng sức lực và niềm hy vọng cho con người sống trong đau khổ bệnh tật yếu hèn, trong bơ vơ chao đảo…phải vác thập gía lần bước đi trong đời sống.
Mừng kính suy tôn thập giá Chúa Giêsu cùng suy tư về ý nghĩa thập gía muốn nói lên tâm tình Chúa Giêsu ở giữa chúng ta trong đời sống.
Qua cảm nghiệm cùng kinh nghiệm về thập gía Chúa Giêsu cùng của mỗi người, chúng ta nhận ra đời sống con người có hai chiều mặt khác nhau, cũng tựa như một tấm huy chương có hai mặt. Hai chiều mặt khắc ghi trong đời sống. Con người chúng ta không thể chỉ mừng vui, và cũng không thể chỉ vác thập gía chịu đựng đau khổ .
Chính vì thế, hằng ngày hay vào ngày Chúa Nhật chúng ta tụ họp dâng thánh lễ mừng kính mầu nhiệm đức tin vào Đấng đã cùng với con người vác thập gía, và không để con người cô đơn lạc lõng trong lúc vui cũng như khi gặp đau khổ vác thập gía.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh giá trị đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ai cũng đề cao qúi trọng gía trị.
Nơi một đồ vật thể gía trị được nhanh chóng đánh gía bằng tiền bạc, như chiếc xe hơi gía vài chục ngàn, hay vài ngàn… Điều này nói lên gía trị của chiếc xe. Và bằng tiền có thể mua tậu được chiếc xe đó.
Nhưng có những đồ đạc vật thể yêu mến qúi trọng không thể thay thế, hay mua được bằng tiền bạc. Không phải gía trị của vật thể gía mua bán nhiều ít bao nhiêu. Nhưng là gía trị tinh thần gói ẩn trong đó.
Cô Vân đi hành hương, lúc về quên chiếc nhẫn nhỏ bằng vàng ở khách sạn. Về đến nhà thấy không còn chiếc nhẫn, cô thẫn thờ tiếc xót. Sốt ruột cô gọi điện thoại nhờ hỏi bên khách sạn nơi phòng đã trú ngụ, để mong tìm kiếm xin lại chiếc nhẫn bỏ quên bằng mọi gía.
May cho cô. Khách sạn theo chỉ dẫn đã tìm lại được đúng chiếc nhẫn cô để quên trong phòng. Nhận lại được, cô rỡ mừng rỡ hạnh phúc khôn tả. Vì tìm lại được chiếc nhẫn gía trị qúy báu. Cô cho biết chiếc nhẫn theo thời gía không bao nhiêu tiền. Điều này cô không màng tới.
Nhưng điều cô quan tâm gắn bó tới gía trị chiếc nhẫn, vì đó là món qùa tặng của mẹ cho cô, mà bây giờ bà đã qua đời. Đó là chiếc nhẫn kỷ niệm, chiếc nhẫn tình yêu mến mẹ cô dành cho đời cô. Mỗi khi nhìn, đeo chiếc nhẫn đó, cô nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ mình, đến tình mẫu tử.
Cô yêu mến qúi trọng giá trị chiếc nhẫn. Vì món qùa tặng này ẩn hiện hình ảnh người mẹ.
Còn con người có giá trị thế nào? Có thể đánh giá bằng tiền bạc mua bán được không?
Xưa nay không thể mua con người bằng tiền bạc được, dù vẫn có những trường hợp người khác muốn nhận một em bé làm con nuôi,và thỏa thuận trả cho gia đình ruột thịt của em một số tiền... Nhưng thân thể hình hài sự sống em bé không là gía trị hệ tại nơi số tiền trả đó. Em là một con người,. Thân xác sự sống của em có gía trị linh thiêng qúi báu cao cả klhông có gì có thể so sánh được, mà Đấng Tạo Hóa ban cho đời em. Không có gì có thể thay thế cho sự sống linh thiêng của em được.
Người con trai thứ hai bỏ nhà ra đi sống đời tội lỗi ăn chơi phung phí hoang đàng, như dụ ngôn Chúa Giêu Kitô kể trong phúc âm thuật lại ( Lc 15,1-32). Hết tiền sinh sống, anh ta lâm cảnh đói khát bơ vơ hoang mang. Anh thấy mình không còn gì, như không có gía trị gì nữa! Qúa mắc ở xấu hổ. Nhưng hoàn cảnh bó buộc, nên đành trở về nhà để cầu xin sao có miếng ăn no đủ cho khỏi bị chết đói giữa đường…
Nhưng người cha sinh thành ra anh không nhìn qúa khứ hoang đàng đưa đến cảnh nghèo túng đói khát, thân thể tiều tụy của con mình, hầu như làm cho bị mất gía trị nhân phẩm con người. Trái lại, ông vẫn nhìn nhận gía trị của con mình. Với ông giá trị con mình vẫn luôn tồn tại, cho dù cuộc sống bề ngoài sa đoạ tội lỗi, đói rách nghèo khổ của con mình thế nào đi chăng nữa.
Người cha không nói lời gì. Nhưng tâm hồn ông xúc động thổn thức. Ông chạy đến ôm hôn người con mình, sai cho người đi lấy quần áo tốt đẹp mặc cho, trao vào tay chiếc nhẫn tình yêu niềm vui mừng cha con, và còn tổ chức bữa ăn thịnh soạn ăn mừng.
Những cử chỉ này của người cha nhân hậu là hình ảnh không chỉ nói lên niềm vui hạnh phúc, cùng lòng nhân hậu thương xót. Nhưng còn sâu xa hơn nữa: Ông nhìn nhận ra gía trị cao đẹp qúi báu của người con là tài sản linh thiêng cao qúi. Không có gì có thể thay thế, hay đánh đổ tàn phá làm mất đi giá trị cao qúi linh thiêng đó được.
Người cha giầu lòng nhân hậu thương cảm với con mình là hình ảnh tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Ngài không chối từ bỏ rơi ai. Ngài luôn công nhận bảo vệ gía trị của con người, cho dù họ có nếp sống tội lỗi xa lìa hay chối bỏ Ngài, và hằng mong chờ họ trở về với Ngài.
Con người có kinh nghiệm sống sâu xa, vật chất là phương tiện sinh sống. Nó không là tất cả. Nó không làm nên giá trị con người. Nhưng chính con người làm ra nó, và khoác cho nó một gía trị tương đối trong đổi chác mua bán để phục vụ đời sống.
Thánh Phaolô nói lên niềm tin tưởng xác tín: “ Không phải của ăn vật chất làm cho chúng ta có gía trị trước mặt Thiên Chúa.” ( 1 cr 8,8).
Giá trị của con người không thể đem ra so sánh được bằng tiền bạc, hay vật thể đổ chác được. Giá trị con người linh thiêng cao qúi bao la sâu thẳm không có cùng tận.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh chương trình của Thiên Chúa
- Hình ảnh cung cách sống lòng khiêm nhượng
- Hình ảnh cửa hẹp
- Hình ảnh niềm hy vọng ủi an.
- Hình ảnh ngọn đèn cháy sáng
- Hình ảnh Thánh lễ Misa
- Hình ảnh hành trang trong đời sống
- Hình ảnh sai đi tới con người
- Hình ảnh „Năm xưa cây sồi làng Fatima“
- Hình ảnh với trái tim và linh hồn.