Hình ảnh ngôi sao giáng sinh Bethlehem
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lễ mừng Chúa giáng sinh xưa nay khắp nơi đều dựng làm hang đá Chúa giáng sinh với đèn điện chiếu sáng cùng các tượng Hài nhi Giêsu, mẹ Maria, Thánh Giuse, các Thiên Thần, các người mục đồng, các con thú vật, và không thể thiếu ngôi sao to Bethlehem.
Đâu là hình ảnh ngôi sao Chúa giáng sinh Bethlehem?
Kinh thánh thuật lại, khi hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa sinh ra ở Bethlehem, có ngôi sao lạ hiện trên nền trời soi đường dẫn lối cho các nhà bác học ngành Thiên
văn từ phương Đông tìm đến chỗ hài nhi Giêsu mới sinh ra. ( Phúc âm thánh Matheo 2, 1-12). Và ngôi sao này chỉ hiện ra soi đường cho các nhà bác học thiên văn thôi, như kinh thánh viết thuật lại. Sau đó không thấy nói tới ngôi sao lạ này nữa.
Bây giờ sang hành hương kính viếng đền thờ Chúa giáng sinh bên Bethlehem, nơi Chúa Giêsu sinh ra, có ngôi sao với 14 cánh vẽ khắc trên nền nhà đá cẩm thạch dưới hầm đền thờ.
Hình ngôi sao 14 cánh này được làm thiết kế đánh dấu nơi này năm xưa cách đây hơn hai ngàn năm, nôi máng hài nhi Giêsu nằm lúc sinh ra trên trần gian được đặt tại địa điểm này .
Không có sách vở bút tích nào ghi thuật lại hình ảnh ngôi sao Bethlehem như thế nào. Nhưng mãi sau này, có thể từ thế kỷ 04. sau Chúa giáng sinh, những tín hữu Chúa Kitô, những nhà thần học, những sử gia… đã căn cứ theo gia phả Chúa Giêsu thuật lại trong Phúc âm thánh Mattheo (1, 1-17) vẽ thiết lập hình ảnh ngôi sao này với 14 cánh.
Gia phả viết ghi lại gốc tích dòng dõi Chúa Giêsu: “ Từ tổ phụ Abraham đến vua David là 14 đời. Từ vua David đến thời lưu đầy sang Babylon có 14 đời. Và từ thời bị lưu đầy sang Babylon đến Chúa Giêsu cũng là 14 đời. (Mt 1,17).
Lịch sử hình ảnh ngôi sao Bethlehem là như thế. Nhưng ngôi sao Bethlehem còn diễn tả hình ảnh sứ điệp ẩn sâu nhiều hơn nữa về lễ Chúa giáng sinh.
Từ ngày bóng tối đêm đen tội lỗi xâm nhập vào trần gian do hệ qủa tội nguyên tổ gây ra, đời sống con người luôn hằng vướng trờ vào những khó khăn hoang mang lo âu sợ hãi. Đời sống vuì thế mất bình an không còn mức thăng bằng quân bình, bị đe dọa rơi vào tình trạng chao đảo.
Ngôi sao Chúa giáng sinh Bethlehem chiếu soi ánh sáng niểm vui niềm vào đêm tối tội lỗi trần gian, xóa tan bóng tối mang sứ điệp ánh sáng bình an cho đời sống tâm hồn con người.
Ngôi sao Chúa giáng sinh Bethlehem mang đến hình ảnh sự điệp niềm hy vọng vào trần gian: Thiên Chúa cùng đồng hành với, không bỏ rơi ai một mình trong hoang mang lo âu sợ hãi. Thiên Chúa muốn cứu độ con người khỏi bóng đêm đen tội lỗi.
Ngôi sao Chúa giáng sinh Bethlehem chiếu tỏa hình ảnh sự điệp tình liên đới giữa Trời cao với trần gian, giữa Thiên Chúa với con người.
Ngôi sao Chúa giáng sinh Bethlehem, theo các nhà thiên văn khảo cứu tìm ra rằng vào thế kỷ 7. sang thế kỷ 6. trước Chúa giáng sinh,- có thể Chúa Giêsu chào đời giáng sinh vào thời gian này – đã có hiện tượng siêu lạ lùng: ánh sáng của các hành tinh Jupiter , Saturn và Mars cùng xuất hiện một lúc chặp gặp nhau trên nền trời và chiếu ra ánh sáng rực rỡ khác lạ.
Có lẽ các nhà bác học thiên văn lúc đó đã nhìn thấy, và theo sự hiểu biết suy luận của họ thời lúc đó nhận ra đó là ngôi sao báo tin một vị Vua mới sinh ra. Nên họ theo hướng sao chỉ tìm đường đến Bethlehem tôn kính vị vua mới sinh ra, hài nhi Giêsu. ( Joseph Ratzinger, Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, , Prolog die Kindheitsgeschichten, Herder 2012, Stern, trang 106-109).
Vâng ngôi sao Chúa giáng sinh Bethlehem không thuần chỉ là, theo ngành khảo cổ thiên văn, vật thể hành tinh chiếu sáng trên nền trời, một biến cố sự lạ lùng diễn xảy ra trên bầu trời không gian vũ trụ, như màn trình diễn ngoạn mục. Nhưng ngôi sao Chúa giáng sinh còn ẩn dấu hình ảnh sứ điệp niềm vui cùng tình yêu của Thiên Chúa từ trời cao chiếu tỏa ánh sáng xóa tan bóng tối tội lỗi sự chết đe dọa tâm hồn đời sống con người.
Trong đời sống xã hội khắp nơi xưa nay trên trần gian có nhiều thứ loại ngôi sao khác nhau. Nhưng người tín hữu Chúa Kitô chỉ tin theo, yêu mến ngôi sao Chúa giáng sinh thôi: Ngôi sao ngày xưa đã soi lối chỉ đường cho các nhà bác học thiên văn tìm đến bái lạy hài nhi Giesu con Thiên Chúa đã hạ sinh làm người nơi hang chuồng thú vật giữa cánh đồng Bethlehem bên nước Do Thái.
Ngôi sao Chúa giáng sinh Bethlehem chiếu soi ánh sáng cho tâm hồn con người tìm đường tới lối sống đón nhận ơn tha thứ bình an.
Chúc mừng lễ Chúa giáng sinh 2022
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh mục đồng đêm Chúa giáng sinh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Phanxicô thành Assi, năm1123, cùng với các Anh em tu sĩ Dòng dựng hang đá Chúa giáng sinh lần đầu tiên có ánh sáng đèn nến với ba bức tượng hài nhi Giesu, mẹ Maria và Thánh Giuse, cùng với tượng những con thú vật chiên bò lừa, tượng các người mục đồng, ca hát mừng lễ Chúa gíang sinh.
Trong dòng lịch sử thời gian, tập tục văn hóa này trở thành một truyền thống đạo đức. Phải, nó gợi lên hình ảnh chất chứa sự gì vừa lung linh huyền ảo, vừa diễn tả sự khó nghèo thiếu thốn thương tâm cùng sự linh thiêng thần thánh!
Vì thế xưa nay trong hang đá Chúa giáng sinh nào cũng đều có tượng các người mục đồng.
Tượng hình ảnh các người mục đồng trong hang đá Chúa giáng sinh ẩn chứa sứ điệp gì?
Người ta thường cho các người mục đồng chăn dắt các con thú vật ngoài đồng cỏ là những người nghèo hèn, không có học vấn gì mấy. Họ là những người sống nay đây mai đó đi theo sát đàn thú vật trên các cánh đồng cỏ. Họ như thuộc vào những người sống bên lề xã hội.
Và họ cũng bị coi khinh thường là những người có lối sống không thành thật, có khi bị cho là những người hay ăn trộm cắp!
Họ bị liệt vào nấc thang cuối cùng, vào lớp những người nghèo lao động cực nhọc trong nếp sống xã hội.
Những người mục đồng đã được chứng kiến biến cố đêm Chúa giáng sinh năm xưa ở Bethlehem cũng là những người có đời sống nghèo tột cùng trong xã hội thời lúc đó. Họ vừa không có tên cùng không có mái nhà trú ngụ. Họ sống nay đây mai đó trong hang lều ngoài cánh đồng, như phúc âm thuật lại ( Luca 2,8).
Họ là những người có nếp sống đơn giản, phải vất vả đổ mồ hôi, chịu đựng nắng mưa, nóng rét chăn dắt đàn thú vật ngoài trời mưa nắng, nóng lạnh …để kiếm miếng cơm nuôi sống mình và gia đình.
Và biết đâu trong đêm nơi hang lều chuồng thú vật, họ thay phiên canh giữ chúng và nói kể chuyện cho nhau nghe những biến cố đã diễn xẩy ra cho khỏi buồn ngủ quên !
Trong lúc thức canh giữ đàn thú vật, bỗng Thiên Thần Chúa hiện đến với họ, nói cho biết ở góc bên cạnh chỗ họ ở “ một hài nhi đã sinh ra trên trần gian. Hài nhi đó là Đấng Cứu Thế, là Đức Kitô” ( Lc 2, 9-11)
Ân đức chữa lành bình an thịnh vượng cho trần gian không do Hoàng đế Roma có ảnh hưởng tới. Nhưng do Hài Nhi Giêsu sinh ra không ở Roma, cũng không ở Nazareth, nhưng ở Bethlehem.
Không phải Hoàng đế Augustô đế quốc Roma tạo mang hoà bình cho con người. Nhưng là hài nhi Giêsu.Và qua đó Thiên Chúa được vinh danh.
Tại sao các người mục đồng trên cánh đồng Bethlehem năm xưa lại là những người đầu tiên được Thiên Thần báo tin bình an vui mừng này? Tại sao hoàng đế Roma không được báo tin này, như truyền thuyết dân gian thường thuật lại là nền hòa bình do hoàng đế thiết lập công bố? Phải chăng thánh sử Luca viết thuật biến cố Chúa giáng sinh theo kiểu mô thức thần thoại huyền nhiệm hoang đường thi vị?
Tất cả không phải như thế, như nghĩ suy tưởng! Thánh sử Luca viết phúc âm Chúa Giêsu Kitô theo khía cạnh thần học đạo đức, nên Ông được gọi là “vị Thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu về người nghèo” hay phúc âm của Ông là phúc âm nhấn mạnh đến khía cạnh người nghèo.
Vì thế Luca muốn qua hình ảnh những người mục đồng nói lên: Người nghèo hèn, Đấng là Thiên Chúa sinh làm người trong hang chuồng xúc vật, tìm đến những người nghèo hèn khốn khó!
Những người mục đồng sau khi được báo tin vui, là những chứng nhân được mạc khải cho biết về sự thánh thiêng của trời cao. Dẫu vậy, họ giữ thinh lặng trong lòng, không thắc mắc tranh cãi bàn thảo. Và sau cùng họ cùng rủ nhau: Nào ta cùng đến Bethlehem.( Lc 2,15). Họ muốn chính mình xác tín nhận ra sự chân thật do Thiên Thần nói cho biết.
Họ lên đường ra đi không có ngôi sao, không ai hướng dẫn tìm đường. Nhưng họ theo “compass”của trái tim tâm hồn họ chỉ dẫn tìm đường đi tới.
Họ đã thành công tìm đến đích điểm muốn tìm tới. Vào hang chuồng xúc vật họ thấy đúng như Thiên Thần nói cho họ một hài nhi đã sinh ra. Họ trò chuyện với mẹ Maria, cùng cả với Giuse nữa. Họ ngạc nhiên về những gì đã nghe, đã tận mắt nhìn thấy biến cố quang cảnh thần thánh xảy diễn ra ngay nơi giữa họ.
Họ là những chứng nhân đầu tiên nghe, nhìn Thiên Chúa hiện thân nơi hài nhi Giesu đã sinh ra làm người trên trần gian. Họ trở thành sứ gỉa của tin mừng tình yêu đêm hài nhi Giesu giáng sinh.
Có thể họ cũng mang chút qùa gì cho hài nhi Giêsu Nhưng chắc là không có gì sang trọng, mà chỉ những vật cần thiết như quần áo cũ bằng lông thú vật, chăn đắp cho ấm, như sữa của chiên bò mà họ có, với cả nước uống cho đức mẹ nữa, ngọn đèn dầu để soi sáng…
Họ không có gì tặng bé Giêsu cả. Họ chỉ có tình yêu lòng thương cảm với bé Giêsu sinh ra trong chuồng thú vật nghèo khó thiếu thốn.
Sau khi thăm viếng hài nhi Giêsu, các người mục đồng trở về với đàn thú vật của họ. Họ vui mừng hạnh phúc với lòng biết ơn vì được nghe, được nhìn bằng đôi con mắt sự thần thiêng thánh đức như Thiên Thần nói cho biết trước đó. ( Lc 2,20)
Và họ tiếp tục đời sống chăn dắt thú vật nay đây mai đó trên các đồng cỏ tìm thức ăn cho thú vật.
Họ tiếp tục đời sống nghèo nàn cùng mãi là những người không có tên tuổi gì trong xã hội.
Tâm hồn họ nhận được tràn đầy niềm vui mừng hạnh hạnh. Điều này là lương thực, động lực cho đời sống họ.
Món qùa tặng họ mang cho bé Giesu có thể là ít, là cũ cùng thô sơ đơn giản. Nhưng lại là nhiều cùng cao qúi. Vì nó gói trọn cả tình yêu lòng thương cảm của họ cho Hài nhi Giesu, con Thiên Chúa.
Mừng lễ Chúa giáng sinh 2022
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thánh cả Giuse trong mùa Vọng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Không có hang đá Chúa giáng sinh nào xưa nay mà không có hình tượng Thánh cả Giuse. Dẫu vậy thánh nhân gần như giữ một vài trò mờ phụ ẩn khuất phía đàng sau hậu trường.
Nhưng Thánh nhân không phải là người không có nhiệm vụ ý nghĩa căn bản cho đời sống của gia đình Chúa Giêsu, mà Ông được Thiên Chúa trao cho: Giuse trở thành người chồng bạn đường của đức mẹ Maria, và cha nuôi Chúa Giêsu trên trần gian.
Vậy đâu là hình ảnh thánh Giuse trong mùa vọng?
Một vài nơi khắc tạc hình tượng Thánh Giuse đứng với lòng bàn tay chắn để sau tai.
Tư thế này không phải là hình ảnh của người nặng tai. Nhưng là tư thế người muốn lắng tai nghe. Tư thế này nói lên muốn dùng bàn tay che chắn tiếng động ồn ào gần bên, để lắng nghe cho rõ âm thanh từ xa vọng đến, và âm vang tiếng nói nhỏ nhẹ nữa.
Tư thế này diễn tả nếp sống của Giuse trong giấc mơ ngủ đã lắng nghe tiếng Thiên Thần Chúa hiện đến nói cho biết ý định của Thiên Chúa. Và theo đó Giuse đã thực hiện đúng như vậy.
Kinh thánh nói về Giuse là một người làm ăn mẫn cán có đời sống chính trực. Ông sống âm thầm lặng lẽ, nhưng để tai nghe và tầm mắt quan sát nhìn cho tỏ tường. Như thế Giuse là một con người luôn để tâm nghe theo tiếng lương tâm nhủ bảo nói thầm trong tâm hồn lòng mình cùng qua những dấu chỉ trong thiên nhiên.
Rồi hình tượng Thánh Giuse được vẽ khắc trong tư thế một người làm việc lao động chân tay với những dụng cụ của một người thợ mộc: chiếc khoan, búa, đục, cưa, thước đo…
Hình ảnh này diễn tả Giuse là người làm việc chuyên môn và cần cù lo lắng cho đúng chuẩn mực, để kiếm miếng cơm manh áo nuôi sống gia đình cho Đức mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Việc làm ăn sinh nhai xưa nay luôn là điều căn bản cần thiết cho đời sống con người, nhất là người trưởng gia đình. Đôi tay bàn tay, trí óc suy nghĩ sáng tạo là những chi thể cơ quan trọng yếu. Phải, đó là dụng cụ thần thiêng, mà Thiên Chúa tạo dựng ban cho mỗi con người trong đời sống giúp xây dựng nếp sống cho chính mình , cho gia đình cùng xã hội.
Trong mùa Vọng hình ảnh này của Thánh Giuse nhắc nhở nhớ đến những người làm việc lao động lo toan cho gia đình có no đủ cơm ăn áo mặc, nhớ đến những người sống vướng mắc trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn phải chiến đấu vật lộn để kiếm lương thực hằng ngày cho gia đình. Và trong hoàn cảnh khả năng có thể, trong tình liên đới con người với nhau cùng trợ giúp lẫn nhau.
Nơi hình tượmg Thánh Giuse chúng ta bắt gặp ngoài tư thế của người lấy tay che chắn tai để lắng nghe, và những dụng cụ làm việc lao động nơi bàn tay, còn có một cây gậy nơi tay nữa, mà trên thân phần đầu cây gậy có bông hoa nở.
Hình ảnh này phản chiếu lên biểu tượng với ý nghĩa thần thiêng đạo đức sâu xa. Một cây gậy bằng gỗ không có rễ để hút thẩm nước từ dưới lòng đất lên nuôi sống thân cây, lá bông hoa cây. Nhưng cây gậy của Thánh Giuse dù khô cũng nở hoa huệ tươi tốt.
Điều này nhắc nhớ đến hình ảnh mà Tiên tri Isaia đã tiên báo: từ gốc cây khô héo nẩy lên một chồi non, sinh hoa tươi xanh kết trái.
Cây gậy của Giuse nở sinh bông hoa diễn tả: cuộc đời của Giuse trong nhiệm vụ do Thiên Chúa ấn định là người trưởng gia đình, người cha nuôi của Chúa Giêsu trên trần gian, luôn được Thiên Chúa cùng đồng hành, mà Ông đã nhận được trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong những lúc khó khăn phức tạp tế nhị.
Cây gậy nở hoa của Thánh Giuse là hình ảnh chỉ về sự nâng đỡ của Thiên Chúa cho Giuse trong việc làm ăn nuôi sống gia đình. Dù có vất vả khó khăn, nhưng Giuse không phải chiến đấu một mình, trái lại luôn có Thiên Chúa quan phòng lo liệu giúp sức cho.
Như vậy có thể suy hiểu ra rằng cây gậy nở bông hoa của Thánh Giuse là hình ảnh biểu tượng (cây gậy) niềm hy vọng của Trời cao gieo xuống ban cho đời sống.
Mừng sinh nhật Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, nhắc nhớ đến niềm hy vọng tương lai cho đời sống con người trong hoàn cảnh con đường đời sống vật chất cũng như tinh thần hôm nay và ngày mai.
Như Giuse, con người luôn cần phải lắng nghe tiếng Chúa nói trong trái tim tâm hồn, và quan tâm chú ý đến những dấu chỉ trong thiên nhiên nhắn gửi nói về sứ điệp tình yêu cùng niềm hy vọng.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thiên Chúa mùa vọng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chúa nhật 3. Mùa Vọng là mốc điểm giữa mùa vọng và mùa mừng lễ Chúa giáng sinh ngày 25. tháng mười hai. Vì chỉ còn hai tuần lễ nữa đến ngày lễ mừng trọng thể sinh nhật hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa Đấng Cứu Thế.
Vào những ngày trong mùa vọng phẩm phục phụng vụ mang mầu tím, mầu ăn năn thống hối. Nhưng ngày chúa nhật thứ 3. giữa mùa vọng phẩm phục phụng vụ mang mầu hồng, mầu nói lên sự vui mừng hân hoan. Vì thế chúa nhật có tên Gaudete- mừng vui.
Điều này diễn tả hình ảnh gì trong mùa vọng?
Theo tập tục nếp sống văn hóa lồng khung vào lối sống đạo đức, cây nến thứ ba vòng mùa vọng được đốt thắp lên. Cũng theo tập tục nếp sống văn hóa đạo đức xưa nay, ở thánh đường cũng như nhà tư nhân, hang đá Chúa giáng sinh, những cây thông giáng sinh bắt đầu được xây dựng, nến đèn điện cũng bắt đầu được treo trưng bày, có những gia đình sửa soạn nướng bánh tỏa hương thơm mùi quế, mùi Vanille, mùi cam…dón dẹp nhà cửa sắm sửa quần áo, đồ đạc vật dụng mới…
Như thế mốc điểm giữa mùa vọng có hình ảnh dấu chỉ tai nghe, mắt xem thấy và mũi ngửi thấy niềm vui đang từ từ xuất hiện rộn ràng dậy vang lên.
Mùa vọng theo ý nghĩa đạo đức thần học là mùa sửa soạn tâm hồn đón mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh. Điều này rất đúng, rất chuẩn. Nhưng mùa Vọng còn có ý nghĩa khác nữa: Sự đến của nhân vật trọng đại!
Ngày xưa trước đây hai ngàn năm, nơi các đất nước thuộc vùng biển Địa trung hải, dân chúng có tập tục đón rước vị khách qúi cao cả long trọng hân hoan. Khi có tin thông báo vị uy quyền trong lãnh vực chính quyền, như Vua, hay lãnh chúa tỉnh vùng nào...đến thành phố thăm viếng, dân chúng nơi đó quét dọn đường xá sơn phết tô điểm cho đẹp và sạch sẽ, cờ quạt, bông hoa đèn được trưng bày nơi mặt tiền các nhà khắp dọc đường phố, để nói lên sự hân hoan vui mừng chào đón Vị khách cao qúi đến thăm viếng.
Khi Vị khách cao qúi tiến vào thành, dân chúng vui mừng kéo nhau ra đường tung hô vạn tuế. Họ hô vang: Kyrie eleison - Xin Chúa thượng thương xót chúng tôi!”.
Câu tung hô này, ngày nay trong thánh lễ Misa, người tín hữu Chúa Kitô cũng đọc hay hát lên kêu cầu: Xin Chúa thương xót chúng con!
Nhưng có sự khác biệt giữa vị khách chính quyền cai trị thời cổ xa xưa trong dân chúng và Thiên Chúa chúng ta mừng trong mùa Vọng hằng năm.
Vị hoàng đế lãnh chúa thời cổ xa xưa dùng quyền hành, sự quyền qúi sang trọng, sức mạnh của vũ khí, của luật lệ thống trị dân chúng. Người dân trong xã hội là những người phải sống tuân theo phục vụ cho nhà vua, cho vị lãnh chúa của vùng miền đất nước. Đời sống của họ trong nhung lụa lâu đài cung điện, lúc qua đời được an táng trong lăng tẩm dành riêng cùng có sử sách ghi công tôn vinh thần thánh hóa.
Nhưng (Thiên) Chúa chúng ta, hiện thân nơi hài nhi Giêsu, thì không vậy.
Hài nhi Giêsu , Con Thiên Chúa, sinh trong chuồng xúc vật ngoài cánh đồng Bethlehem. Điều này nói lên đời sống đơn giản nghèo hèn của một người không cửa nhà ngay từ lúc đầu đời.
Rồi trong suốt dọc đời sống ba mươi năc trên trần gian Vị Chúa Giêsu sống cũng không nhà cửa, nay đây mai đó dọc đường đất nước Do Thái rao giảng tình yêu nước Thiên Chúa cho con người.
Và sau cùng chết tức tưởi cô đơn bị đóng đinh trên thập gía. Nấm mồ an táng của Ngài cũng là ngôi mộ của Giuse Arimathia nhường lại cho.
Tình yêu là bản vị căn bản sứ điệp đời sống của chính Ngài cùng cho con người.
Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".( Mt 11, 4-6)
Chính vì thế, người tín hữu Chúa Kitô trong mùa Vọng mừng sự đến của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, trong trần gian cùng với sự chuẩn bị sửa soạn trong niềm vui mừng tai nghe, mắt thấy và mũi ngửi được mùi vị hương thơm.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh lễ Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Khắp nơi trong Giáo Hội Công giáo mừng kính lễ Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội hằng năm vào ngày 08. Tháng Mười Hai.
Đâu là hình ảnh nguồn gốc ngày lễ mừng kính này?
Lễ mừng kính này có nguồn gốc từ thời xa xưa từ thế kỷ 07. Từ thời điểm này bên Giáo Hội Đông phương mừng lễ vô nhiễm tội truyền của Bà Thánh Anna, người mẹ sinh thành của Đức mẹ Maria, vào ngày 09. Tháng 12. Tập tục đạo đức này dần lan rộng từ bên Ý sang nước Anh và Pháp.
Năm 1476 thời đức giáo hoàng Sixtus IV. lễ mừng kính Đức mẹ Maria không vướng mắc tội tổ tông truyền được nâng lên hàng chính thức trong Giáo hội.
Đức giáo hoàng Clemente XI. năm 1708 thành lập lễ mừng kính này lan rộng trong khắp Giáo hội.
Và Đức giáo hoàng Pio IX. ngày 08.12.1854 đã công bố tín điều Đức mẹ Maria không vướng mắc tội tổ tông truyền. Nên ngày lễ mừng kính càng củng cố có thêm ý nghĩa thần học đạo đức.
Nói đến Đức mẹ Maria không vướng mắc tội tổ tông truyền, hình ảnh Bà Eva, người phụ nữ đầu tiên của nhân loại, được liên tưởng nhớ đến ngay trong suy luận đạo đức thần học về vai trò chỗ đứng của hai mẫu người phụ nữ: Evà là mẹ chúng sinh nhân loại, và Maria là mẹ Chúa Giêsu, Đấng cứu thế nhân loai.
Xưa nay, trong dòng lịch sử đạo đức thần học của Giáo hội, hai người phụ nữ này có liên hệ khắng khít với nhau. Cho dù hai vị sống cách xa nhau về không gian, thời gian niên đại cũng như điều kiện sinh sống và tính tình cùng nếp sống luân lý, lòng đạo đức rất khác biệt nhau.
Về phương diện luân lý đạo đức, Bà Eva là người mẹ thủy tổ của nhân loaị. Nhưng sau cùng được kể là người đã sa chước ma qủi cám dỗ, và “ cám dỗ” chồng mình là Ông Adong. Và bị cho là qua bà tội lỗi đã xâm nhập vào trần gian. Vì thế bị Thiên Chúa luận phạt vì lỗi phạm luật Thiên Chúa truyền cấm cách: không được ăn qủa của cây trái cấm trong vườn địa đàng. Và tội tổ tông truyền xâm nhập từ đó cho nhân loại vào trong trần gian.
Còn Maria, sinh ra sống cách hàng ngàn năm sau Bà Eva. Maria là người phụ nữ miền quê làng Nazareth nước Do Thái, sinh ra sống vào thời kỳ tội tổ tông chiếm ngữ thống trị nhân loại, lại được cho là người được chúc phúc, là chúc lành cho nhân loại trần gian. Vì Maria, người mẹ đã hạ sinh Đấng cứu chuộc, là Con Thiên Chúa mang ơn cứu giúp giải thoát con người khỏi vòng tội lỗi do tổ tông Eva Adong truyền lại.
Evà và Adong là hình ảnh con người do Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng trong khi thành người trưởng thành đã để đánh mất sự bao che đùm bọc của Thiên Chúa, Đấng tạo thành ban cho sự sống cùng điều kiện sinh sống nguyên thủy bình an hạnh phúc trong vườn địa đàng.
Vì Ông Bà đã để mình vướng mắc vào nguy hiểm do con rắn ma qủi bày ra, muốn tâm trí sáng tỏ bằng như Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa: Tự mình có thể làm được mọi sự. Sự lầm tưởng sai lỗi đó là căn nguyên của tội lỗi làm xa lìa Thiên Chúa.
Maria sống với một khung cảnh khác của người trưởng thành. Maria sống trưởng thành trong sự tin tưởng, để cho được Thiên Chúa yêu thương che chở. Sự tin tưởng này đã giúp Maria vượt sống trải qua thử thách thành công có bình an cho đời sống mình. Qua đó tìm nhận ra được cung cách lối sống mới của người trưởng thành. Và đó cũng là nguồn cho đời sống đức tin.
Nhưng không vì tin tưởng mà Maria trở thành người không biết suy nghĩ thắc mắc. Trái lại Maria đã xử dụng sự tự do của mình. Khi Thiên Thần Gabriel hiện đến báo tin ý định Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người trong cung lòng Maria. Chị không ngần ngại nói lên suy nghĩ của mình: Làm sao có thể được. Vì tôi không biết việc vợ chồng?
Khi Thiên Thần nói cho hay chương trình hành động của Thiên Chúa sẽ làm việc tác động vào, lúc đó Maria mới chấp nhận: Xin xảy ra như lời Sứ Thần truyền .
Như thế Maria không chối từ cưỡng lại. Nhưng tin tưởng vào quyền năng thần thánh chương trình của Thiên Chúa, và đồng thời ý thức rõ ràng về sự tự do của mình, và chịu trách nhiệm về sự quyết định của mình.
Maria sống tin tưởng vào Thiên Chúa, chấp nhận chương trình ý muốn của Ngài là sống trong vòng sự che chở yêu thương của Thiên Chúa.
Maria đã không tự sức mình tạo làm ra “ nếp sống vườn địa đàng” có ân đức phúc lành bình an cho mình cùng cho người khác, nhưng chấp nhận do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, ban cho.
Nếp sống vườn điạ đàng là ơn cứu chuộc được thể hiện nơi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xuống làm người trong cung lòng mẹ Maria.
Thiên Chúa đã đề xuất một khởi đầu mới, một công trình sáng tạo mới nơi Chúa Giêsu, Ngôi hai con Thiên Chúa. Maria là người đầu tiên cùng cộng tác vào khởi đầu sáng tạo mới này.
Vì thế Maria trở thành hình ảnh nguyên thủy của Giáo hội Chúa ở trần gian.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh giấc mơ thần thánh.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Giấc mơ suy tưởng thường bị cho là không thật, viển vông không đúng với thực tế đời sống.
Nhưng trong đời sống xưa nay luôn có những giấc mơ, và luôn có những người sống với những giấc mơ.
Đành rằng giấc mơ (tưởng) nhiều khi không đi đôi đúng với thực tế diễn xảy ra, hay chỉ là những mong muốn thôi. Nhưng xưa nay có ai là không có giấc mơ tưởng, và không cần sống có giấc mơ tưởng đâu!
Giấc mơ có thể có khía cạnh tiêu cực tựa như chuyện thần thoại hoang đường. Nhưng giấc mơ cũng có khía cạnh tích cực. Nó như hình ảnh phác họa thúc đẩy tâm trí có suy nghĩ sáng tạo vươn lên.
Trong niềm tin đạo giáo có giấc mơ tưởng không? Và mang đến hình ảnh gì?
Trong dòng thời gian xưa nay luôn vẫn có những giấc mơ giúp làm nên lịch sử đời sống riêng tư cùng cho tập thể xã hội.
Tổ phụ Giacop, như trong kinh thánh thuật lại (Sáng Thế 28,11) đã có giấc mơ thấy một cái thang từ mặt đất bắc lên tới trời cao. Trên những bậc thang đó có các Thiên Thần Chúa lên xuống. Và trên đỉnh cao của thang Ông đã nhìn thấy Thiên Chúa, Đấng hứa ban cho dòng dõi ông trở nên một dân tộc lớn mạnh. Thức tỉnh dậy, Giacop cho lập bàn tôn thờ kính Thiên Chúa ngay nơi đó có tên là Bethel.
Rồi Ông Giuse con của Tổ phụ Giacop cũng có giấc mơ ( Sáng Thế 37,8). Ông thuật cho anh em mình thấy những bó lúa của các anh em qùi cúi đầu chung quanh bó lúa của mình. Và trong giấc mơ thứ hai Giuse thấy mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao cũng phủ phục chung quanh mình. Như thế với các anh em ông là điều sỉ nhục họ qúa đáng. Nên họ tìm cách ám hại trả thù ông. Nhưng sau cùng họ đã bán Giuse cho những lái buôn sang làm nô lệ bên Ai Cập.
Sau đó Giuse lại bị bắt giam giữ trong tù ( Sách Sáng Thế 41,1..). Trong lao tù Giuse đã được triệu đến giải thích hai giấc mơ khác thường của nhà Vua Pharao, mà trước đó các nhà chiêm bói triều đình không sao lý giải cắt nghĩa cho nhà vua được ý nghĩa giấc mơ của ông: Vua mơ thấy bảy con bò no béo bị bẩy con bò đói khát ăn trọn nuốt trửng, và bẩy bông lúa khô héo lấn át phủ lấp bẩy bông lúa no mẩy.
Giấc mơ nhà khiến nhà Vua lo lắng bối rối sợ hãi. Nhưng người tù tội Giuse bỗng đã được đưa đến để cắt nghĩa hình ảnh hai giấc mơ cho nhà Vua: Nước Ai Cập sẽ có bẩy năm bội thu được mùa, và sau đó bẩy năm liền xẩy ra nạn mất mùa đói khát.
Sự cắt nghĩa những giấc mơ nầy của Giuse cho Vua Pharao không do tâm trí của chính mình. Nhưng do Thiên Chúa ban cho. Và đó là chương trình của Thiên Chúa sắp đặt định liệu. Vì thế, Giuse được nhà Vua Pharao ân xá trọng dụng phong làm quan tể tướng lo việc kinh bang tế thế lo cho dân nước trong toàn Ai cập.
Và khi nạn đó mất mùa xảy ra không chỉ ở nước Ai cập, mà còn cả toàn vùng xứ Canaan quê hương của Giuse. Tể tướng Giuse đã mở kho lúa cứu gíup mọi người có thóc lúa ăn no đủ, kể cả gia đình anh em sang cầu xin mua lúa, mà ngày xưa họ vì ghen ghét “giấc mơ bó lúa” đã bán ông sang Aicập. Và vì thế gia đình cha con anh em được hội ngộ gặp lại nhau.
Bàn tay Thiên Chúa đã quan phòng sắp đặt thành chương trình biến những giấc mơ thành hiện thực tích cực cho con người.
Kinh thánh thuật lại Ông Giuse đang trong khủng hoảng hoang mang bối rối vì danh dự chuyện gia đinh về luật đời cũng như luật lệ luân lý đạo đức… Trong giấc ngủ, Thiên Thần Chúa hiện đến nói cho biết: Giuse đừng sợ, hãy nhận Maria làm vợ. Vì bào thai trong cung lòng Maria là do quyền năng Chúa Thánh Thần tác động. Maria sẽ hạ sinh một người con, anh hãy đặt tên con trẻ là Giêsu.. Em bé Giêsu là Đấng cứu thế cho con người khỏi tội lỗi.
Tỉnh dậy nhận ra ý Chúa nói trong giấc mơ, Giuse bỏ ý định âm thầm đi trốn mà ở lại nhận là cha nuôi Chúa Giêsu, cùng với Maria đi xuống Bethlehem khai tên vào sổ bộ như lệnh hoàng đế ban truyền ra. ( Mt. 1,9).
Rồi ở Bethlehem, sau khi hài nhi Giesu sinh ra, gia đình Giuse lại gặp sự cố nguy hiểm nữa. Vua Herode đại đế cho truy lùng tìm bắt giết hài nhi Giesu. Trong lo âu sợ hãi, Thiên Thần Chúa lại hiện ra với Giuse trong giấc mơ báo tín hãy đem con trẻ Giesu và mẹ Maria đi tỵ nạn trốn sang Ai cập. Giuse cũng làm như Thiên Thần báo cho biết trong giấc mơ.
Sau thời gian tỵ nạn bên Ai cập, Thiên Thấn Chúa lại hiện ra với Giuse trong giấc mơ bảo vua Herode đã qua đời hãy đem gia đình trở về quê hương Nazareth sinh sống. ( Mt 2,19).Giuse lần nữa thực hiện như ý Thiên Chúa: đem gia đình thánh gia trở về quê nhà Nazareth bên nước Do Thái
Cả ba lần được báo tin trong giấc mơ, Giuse đã thực hiện đúng như ý Thiên Chúa qua lời báo tin của Thiên Thần Chúa.
Hoàng Đế Constantino của đế quốc Roma, vào thế kỷ thứ 4., theo sử sách thuật kể lại, đã có giấc mơ nhìn thấy thập gía Chúa Giêsu Kitô như hình ảnh dấu chỉ sự chiến thắng, hiện ra trên bầu trời ở thành Roma và nghe một tiếng nói với mình. Hoàng đế căn cứ theo hình ảnh dấu chỉ và lời nói đó cho là chương trình của Thiên Chúa nói cho. Ông tin vào thập gía Chúa Giêsu Kitô và đã thắng trận. Và giấc mơ đó là mốc điểm giờ khai sinh của nền văn hóa đạo Kitô giáo trong đế quốc Roma, được hoàng đế công nhận sau những thế kỷ bị theo dõi cấm cách bắt bớ.
Đức giáo hoàng Innocente III. Vào đầu thế kỷ 13. trong một giấc mơ đã nhìn thấy Phanxicô thành Assisi là người nâng đỡ xây dựng ngôi nhà Giáo Hội đang suy sụp. Nên ngài đã tin tưởng cho phép Phanxicô lập Dòng theo tinh thần phúc âm.
Mục sư Martin Luther King, bên Hoa Kỳ, ngày 28.08.1963 đã nói lên sự suy tưởng mong ước về sự bình đẳng, luật pháp cùng nhân phẩm cho mọi người trong xã hội Hoa Kỳ qua bài phát biểu thiên phú thần thoại “ I have a dream - Tôi có một giấc mơ”. Giấc mơ “ Ihave a dream “ của vị mục sư Martin Luther King đã đốt sáng lên ngọn đuốc phong đòi trào nhân quyền cho mọi người trong xã hội Hoakỳ được bình đẳng trong đời sống, và nạn kỳ thị chủng tộc mầu da trong đời sống xã hội được dần xóa bỏ.
Đức cố giáo hoàng Gioan 23. , bây giờ là vị Thánh, đã có giấc mơ về một Giáo Hội do Đức Chúa Thánh Thần hướng dẫn điều khiển. Ví thế, ngài đã thiết lập Công đồng chung Vatican II, năm 1962 để tìm cách đổi mới đời sống Giáo hội
Vào mùa Vọng, mùa chuẩn bị tâm hồn đớn mừng lễ Chúa giáng sinh, bài thánh thư sách Tiên Tri Isaia ( Is 11,1-10) về hình ảnh như “giấc mơ thần thánh” diễn tả khung cảnh hòa bình của triều đại Thiên Chúa.
Những hình ảnh Tiên tri Isaia nói về chồi non bật nẩy ra hoa từ thân cây khô héo, vể khung cảnh chó sói và chiên, bò non và sư tử, trẻ con và rắn lục cùng ăn chung, cùng chơi chung nhau, diễn tả mơ ước khát vọng của con người về sự bình an cho đời sống thịnh vượng, về một nếp sống hoà bình.
Mong ước này nằm sâu trong tận thâm tâm con người xưa nay. Nhưng thực tế đời sống lại khác. Phải, nó tàn bạo vũ phu kinh hoàng, như đã cùng đang diễn xảy ra trong chiến tranh bên đất nước Ukraina cùng các nơi khác trên thế giới.
Trong hoàn cảnh bi thương hoang mang, con người xưa nay đều hướng về tinh thần niềm tin đạo gíao tìm sự an ủi cứu giúp chữa lành. Và nơi đó tìm nhận được ánh sáng niềm hy vọng cho mơ ước đang trông mong chờ đợi.
Hình ảnh giấc mơ mùa vọng của Tiên tri Isaia là một mời gọi : xin đừng vội vàng cho là mọi sự không có thể. Với Thiên Chúa không có sự gì là không có thể.
“Ngày ấy gốc Giêsê đứng lên như cờ hiệu cho muôn dân. Các dân sẽ khẩn cầu Ngài, và mộ Ngài sẽ được vinh quang.” ( Tiên tri Isaia).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cây nến mùa Vọng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm lịch phụng vụ Công giáo không bắt đầu vào đầu năm mới. Nhưng với chúa nhật thứ nhất mùa Vọng, thường vào cuối tháng 11.
Mùa Vọng có bốn tuần lễ, mùa chuẩn bị tâm hồn đón mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người vào ngày 25. Tháng 12.
Theo tập tục văn hóa bốn tuần lễ mùa Vọng, trong các thánh đường, và cả nhà tư nhân, thường có trang hoàng một vòng tròn hay dài bện bằng những lá cây xanh tươi. Và trên vòng có bốn cây nến to mầu trắng, hoặc mầu tím hay hoặc mầu đỏ. Bốn cây nến này được lần lượt đốt thắp sáng lên vào bốn ngày Chúa nhật trong mùa vọng.
Những cây nến vòng mùa Vọng diễn tả hình ảnh gì trong nếp sống đạo gíao niềm tin?
Chiếc vòng tròn mùa Vọng được bện xếp bằng những nhánh lá còn xanh tươi. Mầu xanh tươi lá cây nói lên sự phát triển của sự sống.Vào mùa đông bên xứ lạnh, lá các cây thường héo tàn rơi rụng, cây chỉ còn trơ trọi thân cây cùng cành nhánh khô cứng trần trụi. Vì thế vòng mùa Vọng với những lá cây còn xanh tươi nói lên niềm hy vọng, sự sống vẫn phát triển.
Điều này nói với con người chúng ta, nơi Thiên Chúa sự sống luôn luôn là điều có thể. Thiên Chúa, dù trong hoàn cảnh nào cũng không bao giờ tránh xa, hay đi lui ra khỏi đời sống con người. Ngài luôn hằng hiện diện trong mọi thời gian vui buồn, hạnh thông hay khó khăn thất bại của con người, lúc thời tiết lạnh gía rét hay nắng ấm ngoài thiên nhiên.
Những cây nến được thắp sáng lên trong mùa Vọng chiếu tỏa ánh sáng, hơi nóng nồng ấm cho thời tiết tối trời mùa Đông giá rét. Và đồng thời cũng phác họa nên hình ảnh chiếu ánh sáng niềm hy vọng, hơi nồng ấm vào đêm tối tâm hồn con người đang trải qua gía lạnh. Vì bị tội lỗi đè nặng đời sống tâm linh tinh thần.
Bốn cây nến mùa Vọng được dần thứ tự bốn tuần lễ đốt thắp sáng lên đến ngày lễ mừng Chúa Giêsu giáng sinh, Đấng mang ánh sáng sự sống, ánh sáng tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa đến trong đêm tối tội lỗi cho tâm hồn con người trần gian.
Mùa Vọng theo ý nghĩa đạo đức hướng thượng lên trời cao là mùa thức tỉnh chờ đón ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa do hài nhi Giêsu, con Thiên Chúa, mang chiếu soi vào trần gian.
Mùa Vọng trong nếp sống hàng ngang đường chân trời cũng mời gọi cùng sống tình liên đới bác ái với con người gặp hoàn cảnh khó khăn trong đời sống. Vì những hậu qủa tiêu cực do chiến tranh đang gây ra cho nhân loại về giá cả sinh hoạt, về khủng hoảng năng lượng.
Mừng lễ Chúa giáng sinh không chỉ có Đức mẹ Maria và Thánh Giuse, nhưng còn có Đức Chúa Thánh Thần nữa. Chúa Giêsui, conThiên Chúa, xuống trần gian làm ngưười trong cung lòng mẹ Maria do quyền năng Đức Chúa Thánh Thần tác động. Vì thế mùa Vọng là thời gian đặc biệt về ơn Đức Chúa Thánh Thần.
Cầu xin Đức Chúa Thánh Thần đốt thắp sáng ánh lửa tình yêu trong tâm hồn con người qua những cây nến trong mùa Vọng chuẩn bị tâm hồn đón mừng lễ Chúa giáng sinh làm người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh tấm thẻ căn cước ngày phán xét
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tấm thể căn cước trong đời sống là giấy tờ tùy thân căn bản cần thiết của mọi người công dân các nước trên thế giới. Thẻ căn cước được cơ quan hành chính của chính phủ mỗi nước cấp phát cho mỗi công dân nước mình.
Tấm thẻ căn cước căn cứ dựa trên tấm giấy khai sinh của mỗi người đã được cấp phát từ ngày mở mắt chào đời. Khi đã thành người trưởng thành, tấm thẻ căn cước xác định người công dân đó là ai, thuộc về quốc gia đất nước nào, với hình ảnh cùng những lý lịch cá nhân của người đó.
Căn cứ theo tấm thẻ này những dịch vụ giấy tờ công dân khác trong đời sống hằng ngày là giấy chứng minh chỉ dẫn được thực hiện tiếp theo.
Đó là trong đời sống xã hội con người. Nhưng trong đời sống đạo giáo tinh thần có tấm thẻ căn cước không, và hình ảnh tấm thể căn cước đạo giáo tinh thần như thế nào?
Người tín hữu Công giáo từ khi nhận lãnh làn nước Bí tích Rửa tội, được ghi tên trong sổ rửa tội của giáo xứ nơi được rửa tội. Cùng được cấp cho giấy chứng nhận rửa tội với tên ngày tháng năm sinh, cùng ngày tháng năm rửa tội ở nơi nhà thờ nào.
Giấy chứng nhận này tựa như tấm giấy khai sinh chứng minh người đó là người tín hữu Công giáo. Và căn cứ theo giấy chứng minh thư đó, họ sẽ được tiếp tục nhận lãnh các Bí tích khác trong Giáo hội, như Bí tích Giải tội, Mình Thánh Chúa, Thêm xức, Hôn phối, Chức thánh linh mục, Khấn Dòng, Xức dầu bệnh nhân, an táng theo nghi lễ Công giáo.
Giấy chứng minh thư là người đã được rửa tội Công giáo này, như thế có thể cũng được gọi là “ tấm giấy thẻ căn cước”
Ngoài ra các vị linh mục, từ ngày nhận lãnh bí tích sứ vụ chức linh mục, họ cũng được cấp phát cho “tấm thẻ căn cước linh mục” với hình và những chi tiết cá nhân của vị đó. Theo luật lệ, khi đến dâng thánh lễ nơi đâu xa lạ, như các nơi hành hương, vị linh mục cần phải xuất trình thẻ căn cước linh mục cho những người hữu trách nơi đó kiểm soát.
Cần có giấy thẻ căn cước chứng minh thư. Vì đời sống văn hóa trong xã hội đòi hỏi như thế. Và điều này càng ngày càng cần thiết cho đời sống có trật tự cùng minh bạch rõ ràng.
Nhưng trong thực hành nếp sống đạo đức, như đọc kinh, dâng thánh lễ, làm việc bác ái… không cần phải có giấy hay thẻ căn cước chứng minh là đã làm việc này. Người tín hữu Chúa Kitô thực hiện nếp sống đạo đức trên căn bản nhu cầu lòng tin yêu cậy trông vào Thiên Chúa. Chỉ Thiên Chúa biết đời sống đạo đức của họ là đủ.
Từ khi mở mắt chào đời, đời sống con người trong nếp sống xã hội cần phải có giấp khai sinh rồi tấm thẻ căn cước chứng mỉnh mình là ai, thuộc về đâu. Nhưng chưa phải là tất cả. Vì ngoài đời sống trong nếp sống văn hóa xã hội, con người còn có đời sống tinh thần đạo giáo nữa. Nếp sống đạo giáo tinh thần này không cần phải có thể căn cước giấy chứng minh thư.
Ngày sau cùng đời sống, theo niềm tin Công giáo, thân xác tan rã trở về bụi đất. Nhưng linh hồn con người trở về với Thiên Chúa, Đấng là nguồn đời sống cùng là Đấng Thẩm Phán chí công cho mỗi người.
Trước Ngài, con người không ai mang theo được giấp tờ khai sinh hay thẻ căn cước của mình. Ngài không cần đến những thứ giấy tờ đó. Nhưng Ngài chỉ căn cứ theo nếp sống lòng bác ái khi xưa mỗi người đã sống thực hành mà xét xử luận phạt.
“Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.
Bấy giờ, Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.
Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước;Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.”
Bấy giờ, những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?”
Đức Vua sẽ đáp lại rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” ( Mattheo 25, 31-40).
Tấm thẻ căn cước của mỗi người trước Thiên Chúa là cung cách nếp sống lòng bác ái với tha nhân đồng loại khi xưa trên trần gian.
Cung cách nếp sống tình yêu bác ái của mỗi người chứng minh bản chất con người của mỗi người, cùng có gía trị cao cả tuyệt đối trước Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và tình yêu thương.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh tiếng chuông thánh đường
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Các thánh đường Công giáo đều có một hay nhiều qủa chuông to hay nhỏ được đặt tên và có độ dầy mỏng nặng nhẹ khác nhau. Như nhà thờ chính tòa Cologne có 10 qủa chuông to nhỏ âm thanh phát ra khác nhau theo cung điệu âm nhạc, nhà thờ chính tòa Đức Bà Paris ngày xưa có tới 20 qủa chuông treo trên các cây tháp thánh đường phát tỏa những âm thanh tiếng nhạc uy phong.
Đâu là hình ảnh tiếng chuông giáo đường?
Chất liệu chuông được đúc bằng chất đồng có pha hợp chất hóa học vàng hay sắt kẽm…để phát ra những âm thanh cung điệu to nhỏ khác nhau. Nên khi những qủa chuông được giật kéo lên, chúng phát ra những cung giọng âm thanh tạo thành một bài hòa tấu như một dàn nhạc réo rắt trầm bổng.
Trong dòng lịch sử thời Giáo hội thuở ban đầu chuông là hình ảnh biểu tượng việc loan báo tin mừng. Giáo phụ Justin (100 – 165 sau Chúa giáng sinh) đã cho rằng 12 qủa chuông nhỏ thêu gắn nơi phẩm phục lễ nghi của các Thầy cả thượng phẩm trong đền thờ là hình ảnh chỉ dẫn về 12 Vị Tông đồ của Chúa Giêsu Kitô, như những người loan báo rao giảng sự vinh quang và ân đức phúc lộc của Chúa Giêsu Kitô.
Đầu tiên nơi các Tu viện lớn có những qủa chuông lớn dùng vào việc báo giờ giấc, kêu gọi cầu nguyện chung và báo những thời điểm thực hành đời sống tu trì trong tu viện.
Nếp sống văn hóa tu viện với những qủa chuông chỉ thu gọn trong phạm vi tu viện. Nhưng từ thời đức giáo hoàng Gregor cả (540-604) nếp sống văn hóa này được phổ thông lan truyền rộng rãi ra bên ngoài các tu viện.
Các Tu sỹ người Ái nhĩ lan đã du nhập nếp sống văn hóa này sang các nước vùng lục điạ bên Âu châu. Và từ thời vua Carolo thứ nhất ( 748-814) đã cho xây dựng treo gắn các qủa chuông nơi các thánh đường xứ đạo bên Âu châu.
Những qủa chuông to nhỏ được lắp đặt thiết kế treo trên tháp cao nhà thờ vững chắc, để tiếng chuông vang dội đi xa khắp vùng xung quanh. Vì thế, những tháp chuông trở thành hình ảnh biểu tượng như nơi chốn loan báo sứ điệp từ trời cao.
Song song bên cạnh những qủa chuông to lớn, còn có những qủa chuông nhỏ đặt nơi bàn thờ trong các thánh đường, được rung lên trong lễ nghi phụng vụ loan báo niềm vui khi linh mục chủ tế truyền phép Bí Tích Thánh Thể.
Những qủa chuông to trên tháp thánh đường hay qủa chuông nhỏ nơi bàn thờ, khi được kéo giật rung vang lên âm thanh như tiếng của trời cao vọng lan tỏa ra khắp vùng không gian.
Có suy tư nghĩ rằng khi tiếng chuông vang nổi lên, là hình ảnh biểu tượng cho sự tương quan nối liền giữa trời cao và đất thấp.
Chuông thánh đường được giật kéo lên theo chương trình quy định của Giáo hội.
Hằng ngày tiếng chuông vang lên 3 lần vào buổi sáng lúc sáu hay bẩy giờ , vào buổi trưa lúc 12.00 giờ và lúc chiều tà sáu hay bẩy giờ, để báo tin và tưởng nhớ biến cố Thiên Thần Gabriel từ trời cao hiện xuống truyền tin cho đức mẹ Maria ở Nazareth: Chúa Giêsu con Thiên Chúa xuống thế gian làm người trong cung lòng mẹ Maria, khai mở con đường ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho con người trần gian.
Mỗi khi có thánh lễ Misa, chuông được kéo giật lên khoảng 15 phút hay nửa tiếng trước giờ lễ, báo tin kêu gọi giáo dân đến tham dự thánh lễ.
Vào những ngày Chúa nhật, ngày lễ trọng, dịp lễ mừng Chúa giáng sinh, ngày lễ mừng Chúa Giêsu Kitô phục sinh, những quả chuông to nhỏ được giật kéo lên vang ra những âm thanh cung nhạc hòa tấu réo rắt rộn rã loan báo tin vui mừng.
Có những xứ đạo có tập tục ngày em bé nhận lãnh làn nước Bí Tích Rửa tội, chuông thánh đường cũng đổ lên loan báo niềm vui mừng, chào đón em bé cùng gia đình em.
Ngày đôi bạn trẻ thành hôn trước bàn thờ Thiên Chúa, tiếng chuông cũng được kéo lên trong hân hoan vui mừng chào đón như chúc phúc lành cho họ.
Cũng vậy ngày các vị nhận lãnh thánh chức, ngày khấn Dòng của các Tu sỹ, giàn chuông thánh đường, tu viện, nơi sự thể diễn xảy ra, được giật kéo lên loan truyền niềm vui mừng cùng chào đón họ.
Có những nơi còn có tập tục kéo đổ hồi giàn chuông to nhỏ vào dịp mừng đầu năm mới, vào ngày kỷ niệm khánh thành thánh đường, hay dịp kết thúc tuần cấm phòng tĩnh tâm, báo tin có Đức giáo hoàng mới, hay chào đón Đức giám mục giáo phận về thăm viếng, hay ngày cha xứ mới nhậm chức cha sở.
Và ngày sau cùng đời sống, khi quan tài người qua đời được đưa rước từ thánh đường, hay từ nhà tiễn biệt đi ra phần mộ ở nghĩa trang, hồi chuông trầm buồn ngân vang tiễn đưa người qúa cố nơi an nghỉ cuối cùng.
Những qủa chuông thánh đường không chỉ là khí cụ để đánh thức báo giờ, cảnh tỉnh và cùng đồng hành với đời sống con người chúng ta. Nhưng tiếng chuông đồng thời còn là hình ảnh biểu tượng cho đời sống tinh thần đức tin người tín hữu Chúa Kitô.
Khi tiếng chuông thánh đường ngân vang lên, báo tin về đời sống từ đâu phát xuất và đức tin của chúng ta hướng về đâu.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh nấm mồ ở nghĩa trang
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Khách hành hương sang đất thánh bên Do Thái ngoài đi thăm viếng những địa điềm khác nhau nơi ngày xưa Chúa Giêsu Kitô đã sinh sống, đã đặt chân đi qua Bethlehem ở Nazareth ở vùng Samaria, còn đến thăm viếng đền thờ có ngôi mộ Chúa Giêsu ở thành phố thánh địa Jerusalem.
Trong ngôi đền thờ cổ kính này căn phòng mộ Chúa Giêsu là trung tâm điểm của ngôi đền thờ. Khách hành hương cung kính cúi mình chui đi vào căn phòng nhỏ, gặp cỗ áo quan trống rỗng không cò xác người qua đời, như trong các phúc âm thuật viết lại ngôi mộ trống không có xác Chúa Giêsu nữa.
Ngôi mộ trống đó nói lên hình ảnh dấu chỉ Chúa Giesu Kitô đã sống lại, và đây không còn là địa điểm tưởng nhớ người qua đời nữa. Vì thế ngôi đền thờ này có danh xưng Đền thờ phục sinh, hay như phụng vụ văn hóa Chính Thống Bysantin gọi là Anastasis.
Hằng năm tháng Mười Một, theo nếp sống đạo đức trong Hội Thánh Công giáo tưởng nhớ cầu nguyện cho các người đã qua đời.
Vào những ngày trong tháng này, thân nhân gia đình người đã qua đời ra viếng thăm phần mộ người thân yêu. Họ quyét dọn sạch sẽ , cùng mang theo bông hoa, thắp đèn nến cắm trên phần mộ, và ngậm ngùi đọc kinh cầu nguyện tưởng nhớ người đã qua đời nằm sâu trong lòng đất.
Đó là nghĩa cử lòng đạo đức, lòng hiếu thảo. Con người ai cũng biết chu kỳ trong thiên nhiên nơi cây cối thảo mộc luôn hằng diễn xảy ra có khởi đầu mọc lớn lên xanh tươi, và cũng có tận cùng tàn héo chết lụi. Cũng vậy con người có ngày sinh ra sống trên trần gian, và cũng có ngày đời sống chấm dứt với sự chết.
Nhưng dẫu vậy, sự ly biệt vĩnh viễn, sự chết luôn làm cho con người sợ hãi. Vì phải bước đi vào cảnh hư vô trống rỗng, cảnh đi vào không gian vô danh vô định tối tăm nơi lòng đất, hoặc được thiêu ra tro bụi, mà không ai xưa nay có thể biết được…Sự chết là một mầu nhiệm bí ẩn với con người.
Như thế có ý nghĩa gì khi đến thăm viếng nấm mồ người qua đời mà không có niềm tin tưởng vào sự sống lại?
Trước phần mộ người qua đời gợi lên trong tâm hồn lòng ngậm ngùi buồn thảm cùng nhớ nhung. Người thân nhớ lại với lòng hiếu thảo biết ơn người đã qua đời. Họ nhớ lại những biến cố, những kỷ niệm ngày xưa đã cùng chung sống trải qua với nhau. Nhưng đó chỉ là hướng về qúa khứ đã trôi qua thôi.
Còn có hình ảnh nào hướng về tương lai cho người đã qua đời không?
Sự chết ngăn cách giữa hai thế giới người còn sống trên trần gian và người đã vĩnh biệt ra đi thành người thiên cổ. Họ không còn có thể giao thương hay hoạch định gì cho ngày mai với nhau được nữa.
Người còn đang sống trên trần gian với niềm hy vọng hướng về tương lai của người đã qua đời qua đức tin vào Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống, Đấng đã phục sinh sống lại, Đấng là nguồn ơn cứu chuộc, cho linh hồn con người đã qua đời được cùng sống lại với Chúa Kitô Giêsu.
Đức tin vào Thiên Chúa nói cho biết chết không phải là hết, là tận cùng. Nhưng linh hồn người qua đời bước sang một đời sống mới bên Đấng là nguồn sự sống. Như Thánh Phaolô với lòng xác tín nhắn nhủ: “ Nếu chúng ta tin rằng Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc ngàn thu trong Chúa Giêsu Kitô, sẽ được Thiên Chúa dẫn đưa về cùng Chúa Giêsu Kitô.” ( Thư 1. gửi giáo đoàn Thessalonica 4, 14).
Người đã qua đời không còn nói với người thân còn đang trên đường trần gian điều gì bằng âm thanh tiếng nói. Nhưng khi ra thăm viếng phần mộ người đã qua đời, người thân như nghe được bài giảng từ nơi nấm mồ vọng lên:
“ Thời gian đời sống con người ở trên trần gian có giới hạn. Mỗi người chịu trách nhiệm về chính đời sống mình. Sự sống là món qùa tặng ân đức của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch sự sống, ban cho mỗi người. Mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa sinh thành tạo dựng nên, ban cho những khả năng, ơn kêu gọi, thời giờ cơ hội kiến tạo đời sống. Nhưng ngày sau cùng trở về cội nguồn nơi Thiên Chúa với hai bàn tay không.
Và trước Thiên Chúa chỉ còn biết thân thưa: Lạy Thiên Chúa nguồn sự sống con là người đầy tớ vô dụng chỉ biết làm việc bổn phận Chúa trao cho. Xin Chúa đón nhận và tha thứ những tội lỗi thiếu sót trong đời sống con khi xưa trên trần gian. Con là con của Chúa do Chúa tạo dựng nên…”
Tháng tưởng nhớ các linh hồn
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long